Lời Chúa Năm B Các bài suy niệm Chúa Nhật 31 Thường niên Năm B

Các bài suy niệm Chúa Nhật 31 Thường niên Năm B

CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Đnl 6, 2-6;  Dt 7, 23-28;  Mc 12, 28b-34

——-

Mục lục

1. .Mến Chúa yêu người (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Giới luật và Bí tích (Jorathe Nắng Tím)

3. Điều răn trọng nhất (Lm. Thái Nguyên)

4. Đừng đẩy Chúa vào một góc trong trái tim (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.TĐ)

5. Điều cốt lõi  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Mến Chúa yêu người- (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Tóm về hai điều này mà nhớ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Chúa duy nhất, Luật bất biến  (Trầm Thiên Thu)

9. Yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa  (Giuse Hoàng Thanh Phong, SJ)

10. Hết cả trí khôn  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

11. Điều răn mới  (Lm. Vũ Đình Tường)

12. Yêu mến  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

13. Mùa nào cũng yêu (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

14. “Mình với ta” tuy hai mà một (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

15. Sống giới răn yêu thương  (Lm. Ngọc Dũng, SDB)

16. Chỉ một đô-la (Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

 

Mục lục

1. Lời nói và việc làm (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Luật tối thượng  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Sống yêu thương giữa thế giới hận thù (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Luyện lòng nhân  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Mến Chúa yêu người (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

6. Thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa qua việc phục vụ tha nhân (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

7. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

8. Yêu thương  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

9. Suy niệm Chúa Nhật 31 Thường niên_B  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Tin mừng Chúa Nhật 31 (Jorathe Nắng Tím)

11. Việc làm của đức tin là đức ái  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Thực hành mến Chúa yêu người trong cuộc sống (Lm. Đan Vinh)

13. Giới răn mến Chúa yêu người  (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

14. Mến Chúa yêu người. (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

15. Đạo yêu thương  (PM. Cao Huy Hoàng)

16. Giới răn hàng đầu (JM. Lam Thy, ĐVD)

17. Tình yêu Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)

18. Điệu lý yêu thương (Trầm Thiên Thu)

19. Sống tốt sống đẹp  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

20. Giới răn trọng nhất  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

21. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 31 TN_B  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

22. Mến Chúa yêu người có dễ không? (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

23. Điều răn đứng hàng đầu trong Nước Thiên Chúa (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

24. Quán quân (Lm. Thái Sơn)

25. Mến Chúa yêu người, giới răn quan trọng nhất (Lm. Phê rô Nguyễn Văn Hương)

26. Chúa Nhật 31 Thường Niên_B (Lm. Antôn)

.

.MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi nói đến giới răn hay huấn lệnh là nói đến sự bó buộc. Quả vậy, một huấn lệnh thường mang nội dung yêu cầu phải làm hoặc cấm làm một điều gì đó. Như thế, phải chăng kính mến Chúa là một điều buộc? Nếu coi việc kính mến Chúa là một điều buộc, thì chẳng còn phải là một tình yêu tự nguyện, mà khi không xuất phát từ tự nguyện, thì chẳng còn phải là tình yêu, hay có chăng thì đó chỉ là tình yêu gượng ép.

Bài đọc thứ nhất (sách Đệ nhị Luật) và bài Tin Mừng theo thánh Máccô hôm nay nói với chúng ta về các huấn lệnh. Trong số các huấn lệnh của Thiên Chúa thời Cựu ước, ông Môisen đã nhấn mạnh tới một lệnh truyền căn bản: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái, cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài”. Những lời trên đây thực ra không phải là một điều áp đặt. Đây là những lời đề nghị hay một lời mời gọi, kèm theo lời hứa cho một tương lai tốt lành. Người tin Chúa không bị ép buộc, nhưng khôn ngoan suy nghĩ để lựa chọn và quyết định: nếu yêu mến Chúa và tôn kính Ngài, thì họ sẽ được Chúa chúc lành cho trong mọi ngày của đời sống dương thế, được trường thọ và hạnh phúc. Tác giả Thánh vịnh 17 (Phần Đáp ca) cũng diễn tả lý do yêu mến Chúa, là vì Ngài là sơn động cho ta trú ẩn. Ngài là đá tảng, là chiến luỹ và là vị cứu tinh đối với những ai cậy trông phó thác nơi Ngài.

Hỡi Israen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy, anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em”. Qua những lời này, ông Môisen muốn khẳng định với những người Do Thái: những mệnh lệnh Chúa truyền dạy không thể chỉ được lắng nghe, nhưng phải được thực hành. Một số người Do Thái đạo đức quá chú trọng đến tuân giữ Lề luật một cách tỉ mỉ, mà lại lãng quên việc thực thi tinh thần của Lề luật. Vì vậy, Chúa đã khiển trách họ: “Dân này chỉ tôn kính Ta bằng môi bằng mép, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6). Thực hành lời Chúa dạy là bảo đảm cho chúng ta được hạnh phúc đời này và đời sau. Lời hứa miền đất tràn trề sữa và mật, trong truyền thống Do Thái, là niềm hy vọng nuôi dưỡng niềm tin của dân riêng Chúa đã chọn. Đối với người Kitô hữu, đó chính là hạnh phúc đời đời Thiên Chúa ban cho những ai thực thi lòng mến Chúa yêu người.

Thực ra mến Chúa yêu người không phải là hai giới răn tách biệt, nhưng là một giới răn duy nhất, như hai mặt của một tấm huy chương. Lòng mến Chúa phải được chứng minh bằng việc yêu người. Tình mến mọi người phải được dựa trên nền tảng lòng mến Chúa, vì đó là lòng mến vô vị lợi, không dựa trên những tiêu chuẩn trần gian, không phân biệt và không biên giới. Thánh Gioan đã khẳng định với chúng ta: ai nói mến Chúa mà không thực hành đức thương yêu với tha nhân thì là kẻ nói dối, vì tha nhân là những người nhìn thấy mà họ không thương yêu, thì làm sao họ mến Đấng mà họ không nhìn thấy?  (x. 1 Ga 4,20).

Người tín hữu có một mẫu gương về lòng mến hoàn hảo, đó là Đức Giêsu Kitô. Người là vị tư tế thánh thiện, vô tội tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Trên cây thập giá Đức Giêsu đã minh chứng tình mến đối với Chúa Cha và tình mến đối với nhân loại. Tác giả thư gửi tín hữu Hípri đã chứng minh Chúa Giêsu là vị tư tế tối cao. Ngày hôm nay, vị Tư tế đó vẫn đang chuyển cầu cho chúng ta (Bài đọc II).

 “Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng”. Đây là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức phải tụng mỗi ngày, để rồi lời ấy vang lên trong mọi giây phút của cuộc sống. Lời ấy cũng là động lực chi phối mọi lời nói, hành vi và ý tưởng của những ai muốn tuân giữ lề luật. Đây cũng là câu Lời Chúa được chọn để đọc trong giờ Kinh Phụng vụ vào tối thứ Bảy hằng tuần. Xin cho lời kinh ấy luôn vang vọng trong tâm trí và cuộc đời chúng ta, để khởi đi từ lòng mến Chúa, chúng ta sẽ thực thi đức yêu người.

Hôm nay là ngày vọng lễ Các Thánh. Các thánh là những người mến Chúa yêu người. Các ngài đã trải qua nhiều gian nan thử thách, nhưng vẫn một lòng tín trung. Có nhiều vị thà hy sinh mạng sống còn hơn là bỏ Đạo. Có nhiều vị chấp nhận một cuộc sống trầm lặng trong suy tư cầu nguyện. Có nhiều vị thánh đã trải qua một cuộc sống rất đơn sơ bình dị, như một người cha, một người mẹ trong gia đình, một công dân của xã hội, một người phong lưu hoặc một người nghèo khó. Tất cả các thánh đều có một điểm chung: đó là lòng mến Chúa yêu người. Thánh Phaolô đã khẳng định: Ai yêu thương, thì đã chu toàn lề luật (Rm 13,8b). Nên thánh chính là thực thi giới răn mến Chúa yêu người.

Lạy Chúa là nguồn mạch sự thánh thiện, xin che chở nâng đỡ chúng con trong hành trình cuộc đời, cũng là hành trình nên thánh. Amen.

Về mục lục

GIỚI LUẬT VÀ BÍ TÍCH

Jorathe Nắng Tím

Khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu không chỉ ban một lệnh truyền mang tính luân lý khi phán: Dạy bảo họ  “tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền” nhưng còn ban chính mình như Bí Tích Tình Yêu khi dặn dò: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…  Và Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19.20).

Lệnh truyền Đức Giêsu ban là “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”, và “yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,29.30).

Thánh Gioan quảng diễn giới luật yêu thương này trong thư của Ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa”, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”. Vậy “ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 20.21).

Nhưng nếu dừng lại ở phạm trù giới luật, thì Tình Yêu sẽ chỉ là đòi hỏi của luân lý, và thuần túy là nghĩa vụ của con người tự nhiên, như chúng ta thường nói: “làm người thì phải ăn ngay ở lành”. Và vì là đòi hỏi nền tảng của con người tự nhiên, nên các tôn giáo đều có chung đòi hỏi tín đồ, giáo hữu phải sống giới luật “làm người ngay lành, lương thiện”. Đây là lý do đã dẫn đến kết luận : đạo nào cũng như đạo nào, vì tất cả đều dậy ăn ngay ở lành.

Đức Giêsu đã truyền dạy giới luật tình yêu, nhưng giới luật Ngài ban không bắt nguồn từ bản tính con người, nhưng từ Ngài; không lớn lên nhờ có gắng sống tốt của con người, nhưng nhờ sức sống của chính Ngài. Và để thực hiện điều này, nghiã là “nâng tầm” giới luật lên hàng bí tích, nâng đòi hỏi luân lý lên hàng siêu nhiên, nâng việc làm tự nhiên lên hàng thánh thiêng, Đức Giêsu đã sai các môn đệ “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19).

Làm phép rửa cho muôn dân là làm cho muôn dân đi vào đời sống bí tích, nghĩa là làm cho mọi người đi vào hiệp thông, hiệp nhất với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, như Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân – Lumen Gentium của Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định về yếu tính của Giáo Hội: “Giáo Hội ở trong Đức Kitô như bí tích hoặc dấu chí và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể” (LG 1) – Bản dịch Việt ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X).

Tại sao Phép Rửa như bí tích của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và với nhân loại?

Thưa, vì Bí Tích Rửa Tội ban cho chúng ta ơn trở nên con Thiên Chúa. Được rửa tội trong Đức Giêsu, tức là “được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giêsu”. Và được dìm vào nước thanh tẩy chính là “được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đuợc sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6, 3-4). Đời sống mới ấy là  đời sống làm con Thiên Chúa, nên khi chịu phép rửa,  Chúa Cha cũng  nói với mỗi người chúng ta như đã nói với Đức Giêsu, khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).

Bí tích Rửa Tội như thế đã làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa, mà đã là con thì yêu mến, hiếu thảo với Cha không còn là bổn phận nhưng là niềm hạnh phúc, nỗi khát khao.

Bí tích Rửa Tội không chỉ làm cho chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, nhưng cùng lúc cho chúng ta trở nên anh em với mọi người. Đây là điểm chúng ta dễ lãng quên, vì không mấy quan tâm, trong khi lại là điều Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh và nhắc nhở trong Tin Mừng. Do đó, tình yêu dành cho Thiên Chúa sẽ chỉ có giá trị và ý nghĩa nếu chúng ta cũng yêu thương anh chị em mình, như hạnh phúc chúng ta khao khát tìm kiếm, mà không như một lề luật nặng nề, trói buộc.

Như kinh sư trong Tin Mừng hôm nay đã được Đức Giêsu  khuyến khích: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12,34),  xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để yêu mến Chúa và yêu mến mọi người, mà hành động yêu mến cao quý, đẹp lòng Chúa hơn cả chính là “dâng lễ tế hy sinh, trước là đền tội của mình”, để tỏ lòng yêu mến Chúa, và “sau là để đền thay cho người khác” (Dt 7,27), để thực hiện ước muốn yêu thương, phục vụ tha nhân như Chúa dạy.

Về mục lục

ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Trước tiên là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực, vì Ngài là căn cội và cùng đích của đời sống con người. Tình yêu không thể nài ép mà là nhận ra và đáp trả. Chính sự đáp trả này làm cho con người là người, là con cái của Thiên Chúa và là anh em với nhau. Vì vậy, điều răn đứng đầu gắn liền với điều răn thứ hai:“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Chính trong Chúa, ta nhận ra phẩm giá đích thực của một con người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí. Chỉ trong Chúa, ta mới yêu thương đến cùng, vì nhận ra mỗi người là hình ảnh của Ðức Kitô đang sống.

Có một người kia sau khi ăn chay 70 tuần, thì xin Chúa cho mình hiểu ý nghĩa vài câu trong Kinh Thánh, nhưng Chúa không trả lời. Cuối cùng, người đó phải tìm đến với người anh em để xin giải thích. Khi người đó lên đường, Chúa gửi một thiên thần xuống nhắn nhủ rằng:“Bảy mươi tuần ăn chay của con cũng không làm cho con đến gần Chúa. Nhưng bây giờ con có lòng khiêm tốn đến với người anh em, nên ta được Chúa gởi đến để nói cho con ý nghĩa các lời thánh”.

Nhân danh lòng tin vào Chúa mà không mở lòng mình ra với tha nhân, phải chăng là một thứ kiêu ngạo thiêng liêng? Đó không phải là tin vào Chúa mà là tin vào sự thánh thiện của mình. Tiếng nói của Chúa trong ta không phải là tiếng nói duy nhất của Ngài, mà Ngài còn nói với ta qua sự khôn ngoan và nhãn quan thiêng liêng của người khác. Ta cần mở lòng ra để đón nhận những tư duy mới, các khả năng mới như một cách thức của Lời Chúa. Khép kín với bất cứ một cái gì, hay bất cứ ai, là khép kín khả năng có thể tái sinh chính mình.

Luật thánh Bênêđictô dạy, khi có ai gõ cửa thì phải nói: “Benedicite”, có nghĩa sâu xa rằng: cảm tạ Chúa vì có người đến làm phong phú lương tri của con, chỉ dẫn con cách suy nghĩ, cách sống, và làm cho con vượt ra khỏi thế giới chật hẹp của mình. Mỗi ngày ta cần mở lòng để đón tiếp một kinh nghiệm mới, một tư duy mới, một cái gì đó nơi người khác để khai sáng trí não mình.

Cũng có một giai thoại khác kể rằng, đêm nọ xuyên qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy thiên thần đang ngồi ghi tên những ai yêu mến Chúa vào cuốn sách vàng. Ông hỏi thử xem có tên mình không. Thiên thần giở ra nhưng không thấy. Ông nài nỉ thiên thần: “Xin Ngài ghi tên tôi là người lúc nào cũng yêu mến tha nhân”. Thiên thần cũng chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng. Tối hôm sau, giữa ánh trăng sáng, thiên thần lại hiện ra và mở cuốn sổ vàng cho vị tu sĩ xem. Lần này, ông thấy tên của mình dẫn đầu trong danh sách những người yêu mến Chúa. Sau khi vị tu sĩ già qua đời, các anh em trong tu viện xem lại nhật ký của ông, thấy câu đầu tiên là câu trích dẫn từ thư 1Ga 4, 20: “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”. Tiếp theo, ông ghi chú như sau: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi đã gặp Chúa và linh hồn tôi”.

Ta không thể gặp gỡ và yêu mến Thiên Chúa trong tâm tưởng hay trong ước muốn, mà là nơi chính tha nhân, nơi những hành động cụ thể trong những tương quan hằng ngày. Thiên Chúa và tha nhân hòa hợp làm một trong cõi lòng ta. Ta yêu tha nhân trong Chúa, và yêu Chúa nơi tha nhân. Cầu nguyện là đặt mình trong Chúa để có thể yêu tha nhân như chính mình. Tình yêu với Thiên Chúa đưa ta vào cuộc sống với anh em. Tình yêu thương anh em đòi ta chìm sâu trong Thiên Chúa, để kín múc nguồn sinh lực hầu tiếp tục hiến trao. Cuối cùng tình yêu ấy lại quay trở về với Thiên Chúa như cùng đích tối hậu của nó, và như vậy phát sinh sự “hợp nhất” toàn hảo, mà Đức Kitô đã ao ước thực hiện giữa Thiên Chúa với chính Ngài và các kẻ tin (Ga 17, 21). Đẹp biết bao vương quốc của Thiên Chúa, nơi chỉ có tình yêu chiếu rạng ngời, dành cho tất cả những ai đã một đời phấn đấu để hiến dâng.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Yêu Chúa lúc bình thường thì không khó,
nhưng yêu khi đời sóng gió thì không dễ,
nhất là khi gặp khốn khó ê chề,
khi sa cơ thất thế trở về tay không.

Nhưng con vẫn cứ cậy trông và hy vọng,
vì tin Chúa hằng khơi sâu mở rộng,
bằng ân ban và sự sống của Ngài.

Yêu mến Chúa xem ra là điều dễ,
vì dù sao Ngài cũng vẫn là tình yêu,
yêu tha nhân như chính mình mới khó,
nhất là khi bị phủ nhận khinh chê,
khi bị xử bất công, loại trừ và thay thế,
đó là những lúc con đau buồn vô kể,
nỗi thù hằn như khống chế tim con.

Nhưng khi bình tâm suy nghĩ lại,
con thấy những tổn thương cũng rất cần,
để con có kinh nghiệm sống tình thân,
vì nhiều lần con cũng xử vô nhân.

Tình yêu luôn mang tính hỗ tương,
cả trong đau thương và hạnh phúc,
nên yêu thương mà không chịu đau thương,
thì cuộc đời con quả là ảo tưởng.

Chúa đã sống tất cả mọi tình trường,
muốn cho con nhìn ngắm để noi gương,
trong an vui khiêm nhường mà tiến bước,
vì đời con là nhân chứng của tình thương.

Xin cho con sống con người mới,
bằng tình yêu mà Chúa đã gọi mời,
để bừng lên ánh sáng ở mọi nơi,
là tình yêu hợp nhất đến muôn đời. Amen.

Về mục lục

ĐỪNG ĐẨY CHÚA VÀO MỘT GÓC TRONG TRÁI TIM

Bông hồng nhỏ

Để vào được Nước Thiên Chúa, chúng ta cần phải làm gì? Hôm nay, Thầy Giêsu dạy chúng ta cần phải sống hai điều cốt yếu, đó là sống hai điều răn đứng đầu: Mến Chúa và yêu người. Khi có một người kinh sư lên tiếng hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12, 29), Người đã dõng dạc tuyên bố: “Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12,30-31). Người kinh sư đã tấm tắc khen điều Thầy dạy thật hay và chí lý. Người bảo ông ta: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34).

Trên một chuyến xe, một nhà thơ hỏi các anh chị em đi cùng: “Theo các bạn, để tốt nghiệp trường của Thầy Giêsu, chúng ta cần đạt mấy điểm? Mỗi người trả lời theo cách hiểu của mình. Bấy giờ, nhà thơ trả lời: “Chúng ta chỉ cần đạt hai điểm thôi, đó là mến Chúa và yêu người”. Cả xe bỗng rơi vào thinh lặng trước câu trả lời của nhà thơ. Có lẽ ai cũng đang trở về lòng mình, lắng nghe tiếng vọng của trái tim.

Từ tấm bé, ta đã được học kinh Mười Điều Răn, và Mười Điều Răn ấy tóm về hai điều này là mến Chúa và yêu người. Ta đọc lời kinh đọc trên môi miệng hằng ngày, tâm trí hiểu điều Chúa dạy nhưng nhìn thật sâu vào lòng, ta nhận ra mình chưa yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; chưa yêu người thân cận như chính mình. Sống lời Chúa là một thách đố, bởi Lời Chúa luôn đặt ta trong những chọn lựa: chọn chấp nhận bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa hay chọn chiều theo ý muốn của bản thân; nghĩa là chọn đi trên con đường hẹp dẫn đến sự sống hay chọn đi trên con đường thênh thang, đường đưa tới chỗ diệt vong. Mỗi lần chọn bước đi trên đường hẹp, ta thấy mình được lớn lên trong tình yêu, trái tim của ta được triển nở và mở rộng hơn để đến với người khác. Mỗi lần ta vượt qua được một chướng ngại, bỏ đi được một rào cản trong suy nghĩ, thay đổi cách hành xử với người khác, ta đã biết dùng tình yêu thương để đến với họ. Thế nhưng, cũng không ít lần, ta không yêu người khác như Chúa mời gọi, bởi vì ta chưa để Chúa làm chủ đời sống và con người mình. Thánh nữ Têrêsa Giêsu đã từng nói rằng, ta không thể chắc chắn việc mình yêu Chúa nhưng ta có thể biết chắc mình có yêu anh chị em hay không. Thánh Gioan Tông đồ cũng khẳng định rằng, ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu thương người anh chị em bên cạnh mình, đó là kẻ nói dối. Hiểu lời Chúa dạy là một hồng ân Chúa ban, ta hãy xin ơn biết sống lời Chúa dạy trong từng ngày. Bởi, việc sống lời kinh ấy cần phải được diễn tả từ trong suy nghĩ đến hành động. Nếu ta luôn để cho lời của Chúa vang lên trong lòng, ta sẽ nuôi dưỡng ước muốn sống lời của Chúa. Khi ta suy nghĩ tích cực về người khác, ta sẽ dễ yêu thương họ hơn. Khi tâm trí ta luôn quy hướng về Chúa, ta sẽ sống trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Người sẽ ban ơn trợ lực giúp ta có đủ sức mạnh để sống yêu thương.

Mỗi lần tham dự thánh lễ, ta được đón Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào lòng, ta mang Chúa đến với những người khác, ta trở nên một món quà tuyệt vời cho người khác, vì món quà ấy là chính Chúa Giêsu đang sống trong ta. Hãy nhìn lại nhé, lần đầu được rước lễ, ta đã làm gì? Ta đã rất hạnh phúc và bằng sự đơn sơ, ta trở về nhà với ý nghĩ tôi đang mang theo Chúa Giêsu trong lòng. Gặp ai ta cũng thấy họ thật dễ thương, ta cố gắng sống thật hiếu thảo, thật dễ thương với tất cả mọi người. Nhìn ai, ta cũng thấy nụ cười của Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đang ở cùng ta. Người làm cho ánh mắt ta nên trong sáng hơn, để ta sống với mọi người bằng cả trái tim. Thời gian dần trôi, tâm trí ta đã dành chỗ cho nhiều điều khác ngoài Chúa: học vấn, của cải, danh vọng, … Cái tôi của ta cũng được nuôi lớn tự bao giờ! Ta cũng đón rước Chúa nhưng dường như ta loay hoay bận tâm đến chính bản thân ta thật nhiều và quên mất Chúa đã ở trong ta. Đức Thánh cha Phanxicô đã từng nói trong một bài giảng của mình rằng: chúng ta đã đẩy Chúa vào một góc của trái tim. Thật đúng như thế, đã bao lần ta đã đẩy Chúa vào một góc của trái tim và chỉ sống điều mình muốn và rồi ta đau đớn. Cuộc sống của ta không phải để sống theo bản năng là làm điều mình muốn và muốn điều tốt nhất cho mình theo lẽ tự nhiên nhưng là dành điều tốt nhất cho Chúa, chỗ duy nhất cho Chúa: “Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Hãy quay lại con đường hẹp, trở về với Chúa để thấy mình cần Chúa biết bao. Sống Lời Chúa thật khó nếu như ta không đủ khiêm tốn bỏ mình để trở về bên Chúa, nhưng bằng sự khiêm tốn và với sức mạnh tình yêu của Chúa, mọi sự ta làm trong tình yêu lại trở nên thật đơn giản.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã yêu con và không ngừng dạy con biết sống mến Chúa và yêu người. Chúa đã chỉ cho con thấy tình trạng tội lỗi của mình. Chúa vẫn yêu con, dù con đã bao lần đẩy Chúa vào một góc của trái tim và quên lãng Chúa. Xin Chúa thứ tha và xót thương con, cùng khơi lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa và giúp con sống lời Chúa dạy. Amen.

Về mục lục

ĐIỀU CỐT LÕI

Thiên San

“Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây, hỡi Itraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31). Đó là câu trả lời của Đức Giêsu dành cho ông kinh sư cũng như cho mỗi người chúng ta. Hai điều răn ấy làm nên điều cốt lõi của đạo Chúa – đạo yêu thương.

Muôn vàn lề luật được đặt ra nhằm phục vụ lợi ích, hạnh phúc cho con người. Có những lề luật giúp con người hướng đến Thiên Chúa, cũng có những lề luật giúp con người hướng đến tha nhân, đến chính mình và đến tạo vật, môi trường. Trong muôn vàn lề luật ấy, có một thứ luật được gọi là cốt lõi, là tâm điểm, là điều quan trọng nhất: mến Chúa yêu người. Thật vậy, luật được đặt ra là để cho con người, nhắm đến con người. Trong điều răn mến Chúa, con người được mời gọi dành cho Thiên Chúa một chỗ đứng quan trọng nhất, cao cả nhất trong cuộc đời mình đến độ ta phải yêu mến Người hết lòng, hết cả linh hồn, trí khôn, và sức lực của ta. Thực ra, Thiên Chúa không cần đến lời ca tụng của chúng ta nhưng chính việc yêu mến, tôn thờ, ca tụng của ta mang lại ích lớn lao cho chúng ta như lời kinh tiền tụng trong Thánh lễ có nói.

Đức Giêsu không dừng lại ở chính mình nhưng Ngài còn mời gọi chúng ta hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Đây là điều răn không kém phần quan trọng. Có thể nói, điều răn này là cửa ngõ giúp chúng ta tiến vào tương quan với Thiên Chúa cách cụ thể và sâu sắc hơn. Như thánh Gioan Tông đồ đã từng khẳng định: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4, 20). Lại nữa, vì mỗi người là hình ảnh sống động của Thiên Chúa. Khi yêu mến tha nhân là ta đang yêu mến Thiên Chúa. Đức Giêsu mời gọi chúng ta “yêu người thân cận như chính mình”. “Như chính mình” nghĩ là yêu mình thế nào thì yêu tha nhân làm vậy. Nhưng có một bài toán tương đối khó đó là chúng ta phải biết yêu thương mình đúng cách để có thể yêu thương tha nhân đúng cách.

Để giải quyết bài toán “yêu tha nhân như chính mình”, chúng ta hãy hướng tình yêu của mình về Thiên Chúa. Nghĩa là ta yêu mến Thiên Chúa như Thiên Chúa dạy và nhất là yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương chúng ta. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34 ). Chỉ khi nào thực sự cảm nhận, đụng chạm đến tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, thấy Ngài yêu ta như thế nào thì ta mới có thể họa lại cách yêu của Chúa. Khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta học được cách để yêu thương chính mình và yêu thương tha nhân. Bởi đó, không thể nói yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu mến tha nhân. Mến Chúa yêu người luôn đi đôi, không tách rời. Đó là hai bàn chân của ta trong cuộc đời. Để bước đi trọn vẹn trên đường đời, ta cần cả hai chân, nhấc từng chân một, chân này làm điểm tựa cho chân kia. “Chân mến Chúa” và “chân yêu người” giúp ta nên con cái Chúa. Nếu muốn bước đi, chúng ta hãy sống hai giới răn trọng nhất này. Đó là điều cốt lõi của đạo Chúa – đạo yêu thương.

Về mục lục

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI-

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Người Do thái có 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kể các điều luật phụ nữa. Vị tiến sĩ luật này đã biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình. Vì là tiến sĩ luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất ?”

1. Hai Điều răn

Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi  là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bẫy của họ.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị tiến sĩ luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta có được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi” (Mc 12). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.

Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: “ Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.

2. Ba đối tượng yêu thương

Chúa Giêsu kết luận: “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.

Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” (Mt 22, 37-38).

Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi “yêu mến là chu toàn cả Lề luật” (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác… Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; nhưng “yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa “là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta “ (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết, mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: “Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Mt 22, 38).

Đối tượng thứ hai là “kẻ khác” Chúa phán: “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22, 39).

Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì “tha nhân” là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18).  Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật “hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi“, Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? “Yêu như chính mình ngươi”.

Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình. Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.

3. Yêu kẻ khác như chính mình

Khi truyền dạy “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”, Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu “kẻ khác” hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu ” kẻ khác ” như “mệnh lệnh của Người,” mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. “Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.

Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của sự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những “việc làm” như bác ái, hay “phải làm” cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là kết quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.

Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là “không giả vờ,” tức là, phải chân thật, nghĩa đen, “không giả hình,” (Rm 12, 9); người ta phải yêu “với một con tim trong sạch” (1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính líu gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.

“Như chính mình” Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

Về mục lục

TÓM VỀ HAI ĐIỀU NÀY MÀ NHỚ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Kinh Mười Điều Răn có câu kết: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự; Sau lại yêu người như mình ta vậy.Amen“.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc trao đổi giữa nhóm tiến sĩ luật và Chúa Giêsu về hai điều răn trong Cựu Ước như sau:

Khi một người thông luật hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Chúa Giêsu trả lời: “Giới răn quan trọng nhất chính là: Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn ấy”. Ông kinh sư hoàn toàn đồng ý với Người và còn thêm lời bình: “Đó là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúa Giêsu được một lần sảng khoái vì gặp một ông kinh sư thân thiện với mình, Người khích lệ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”. Tại sao lại không còn xa? Bởi vì, Nước Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu đang ở trước mặt ông!

Chúa Giêsu kết hợp hai điều răn trong Cựu Ước (Đnl 6,4-5 và Lv 19,18) thành một điều răn duy nhất là Yêu Thương. Chúa Giêsu đã nối kết giới răn mến Chúa trong kinh Shema ở sách Đệ nhị luật với giới răn yêu thương người thân cận trong sách Lêvi.Cái độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giêsu chính là sự liên kết chặt chẽ hai giới luật này với nhau.

“Mến Chúa, yêu người” là nét độc đáo nhất của Kitô giáo. Hai giới luật tạo thành một toàn thể bất khả phân ly và là hai nguyên lý nền tảng của tất cả đạo đức học. Tin Mừng của Chúa Giêsu muốn loan truyền đến mọi người là tình yêu thương. Khi công bố giới luật yêu thương, Chúa Giêsu cũng nêu gương thực hiện giới luật ấy để chúng ta thấy sáng lên tình yêu cứu độ và gặp được những điểm nhấn mà bắt chước thực hành.

  1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.

Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái. Cho nên người tín hữu yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.

Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.

Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.

Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.

Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.

Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.

Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.

  1. Yêu tha nhân như chính mình.

Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1Ga 2,9).

Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.

Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).

  1. Việc làm của Đức tinlà Đức ái.

Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).

Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.

Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40) : những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1). (x.Porta Fidei, Số 14).

Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).

Dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu, tình yêu là mực thước đức tin, và đức tin là linh hồn của tình yêu. Chúng ta không còn có thể tách biệt đời sống tôn giáo ra khỏi việc phục vụ anh em, những người anh em cụ thể mà chúng ta gặp. Chúng ta không còn có thể tách biệt kinh nguyện, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong các bí tích, khỏi sự lắng nghe tha nhân, gần gũi cuộc sống của họ, nhất là những vết thương của họ.

Luật mới của Chúa Giêsu chính là mức độ hoàn hảo nhất của Mười Điều Răn. Đoạn cuối của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai nầy mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.”

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con: mến Chúa yêu người là điều răn quan trọng nhất, xin cho con biết sống và liên lỉ thực hành giới răn này trong đời sống thường ngày của con.

Về mục lục

CHÚA DUY NHẤT, LUẬT BẤT BIẾN

Trầm Thiên Thu

Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Đnl 6:4; Nkm 9:6; Xh 20:3; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 45:6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4) và là Đấng Cứu Độ duy nhất: “Chính Ta, chính Ta đây là Đức Chúa, ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11) Muôn đời Ngài vẫn là Ngài. (Is 43:13) Vì thế, luật yêu thương của Ngài cũng bất biến và vĩnh tồn.

Sau khi bất tuân và phạm tội, gây xáo trộn, con người bị đuổi ra khỏi Địa Đàng, thế nên bắt đầu cần có luật để duy trì trật tự trần gian. Chưa hết, gia đình cũng rắc rối khi Cain giết chính em ruột của mình là Abel vì ghen thét. Do đó, luật càng cần thiết hơn, cần thiết ngay từ trong gia đình nhỏ bé.

Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, tu viện có tu luật. Có nhiều loại luật – cả đạo và đời, ngay trong một nhóm nhỏ, thậm chí chỉ hai người, cũng vẫn có những quy ước nhất định để tránh lạm dụng vì tùy tiện hoặc tùy hứng. Trong mọi mối quan hệ, muốn hợp tác lâu dài với nhau, người ta phải tôn trọng hợp đồng với nhau – dù đó là thỏa thuận bằng miệng hoặc hợp đồng bằng văn bản.

Xét theo luật học, luật pháp được hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế. Thường thì luật pháp được thực thi thông qua hệ thống tòa án. Trong đó, quan tòa sẽ nghe tranh tụng từ các bên và áp dụng các quy định để đưa ra phán quyết công bằng và hợp lý. Cách thực thi luật pháp được coi là hệ thống pháp lý, thường phát triển trên cơ sở tập quán của mỗi quốc gia.

Luật có ở khắp nơi, mọi lĩnh vực, với nhiều mức độ: kinh tế, kinh doanh, chính trị, xã hội, môi trường, giao thông (đường thủy, đường bộ, đường hàng không) học tập, hôn nhân,… Nhưng tất cả các loại luật đều phải dựa trên Thiên Luật. Chỉ có Luật Chúa là Đệ Nhất Thánh Luật, là luật quan trọng nhất, dựa trên nền tảng yêu thương: mến Chúa và yêu người.

Thật ngán ngẩm với luật hội đường Do Thái ngày xưa. Có tới 613 điều khoản, bao gồm 365 điều CẤM làm và 248 điều PHẢI làm. Nếu chia đều một năm thì mỗi ngày có một khoản luật cấm. Điều cấm làm nhiều hơn điều phải làm, mà “cấm làm” với “phải làm” cũng đâu khác gì nhau. Mệt mỏi thật!

Ông Môsê nhận lệnh của Thiên Chúa và truyền cho dân chúng: “Đây là mệnh lệnh, là những thánh chỉ và quyết định mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền phải dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành trong đất anh em sắp sang chiếm hữu. Như vậy anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em MỌI NGÀY TRONG SUỐT CUỘC ĐỜI, tuân giữ tất cả những CHỈ THỊ và MỆNH LỆNH của Người mà tôi truyền cho anh em và anh em sẽ được sống lâu.” (Ðnl 6:1-2) Chỉ thị và mệnh lệnh là điều phải tuân giữ, xã hội trần gian còn như vậy, huống chi huấn lệnh của Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta phải ưu tiên số một, không sợ khi phải chọn lựa, chấp nhận bỏ luật đời.

Giữ Luật Chúa là điều tuyệt đối phải làm, không phải vì miễn cưỡng mà vì yêu mến, và có lợi cho chính chúng ta. Thánh Catarina Genoa (1447-1510) cho biết: “Thiên Chúa Toàn Năng tinh khiết đến nỗi nếu người ta ý thức được dấu vết của sự bất toàn và cũng hiểu rằng luyện ngục được ấn định để loại bỏ sự khiếm khuyết đó, thì linh hồn vào nơi thanh tẩy này vui mừng đón nhận Lòng Thương Xót cao cả của Thiên Chúa. Nỗi đau khổ tồi tệ nhất của các linh hồn nơi luyện ngục là đã phạm tội chống lại Sự Tốt Lành của Thiên Chúa và CHƯA HOÀN THIỆN ở đời này.” Tình trạng bất toàn vì “chưa hoàn thiện” là chưa giữ trọn Luật Chúa. Điều đó chứng tỏ rằng giữ trọn Luật Chúa là điều vô cùng cần thiết và thực sự hữu ích cho người giữ luật.

Chắc chắn rất khó giữ luật, khó thì khổ, nhưng khó mà giữ được mới đáng công. Thật vậy, Thiên Chúa không “đày đọa” ai, vì Ngài hứa ban những điều bất ngờ mà chúng ta không biết: “Hỡi Israel, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA DUY NHẤT. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em PHẢI ghi tạc vào lòng.” (Ðnl 6:3-6)

Chính lời hứa của Thiên Chúa nhắc nhở một điều quan trọng liên quan đức tin: Chỉ có MỘT Thiên Chúa duy nhất mà thôi. (Đnl 6:4; Mc 12:29) Ngoài Ngài, không có bất cứ một vị thần nào khác đáng để chúng ta tin kính và tôn thờ. Đó là điều chắc chắn.

Thiên Chúa duy nhất mà chúng ta tôn thờ chỉ là MỘT nhưng có BA NGÔI. Ngài là Đấng nhân hậu, vô thủy và vô chung, Ngài có nụ cười hiền hậu chứ không nhăn nhó khó chịu. Vì thế, Thánh Vịnh gia đã luôn tôn thờ và kính mến Ngài tuyệt đối: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” (Tv 18:2-3) Không thể kiềm chế niềm hạnh phúc đó, Thánh Vịnh gia đã xác nhận và muốn chia sẻ với mỗi chúng ta: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.” (Tv 18:4) Lời xác nhận này giúp củng cố đức tin của chúng ta, những kẻ hậu sinh hèn yếu.

Không thể im lặng, Thánh Vịnh gia tiếp tục tuyên xưng: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi. Lạy Chúa, Ngài giải thoát con khỏi thù địch cho thắng cả đối phương, cứu khỏi người tàn bạo. Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa. Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Người đã lập.” (Tv 18:47-51ab) Thiên Chúa là “đèn trời soi xét,” (Tv 4:2) Ngài “biết thừa mọi bí ẩn tâm can,” (Tv 44:22) và Ngài biết ai chân thật hay lọc lừa. Ngài thấu suốt mọi sự.

Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4:4b) Ước gì mỗi chúng ta đều có thể thanh thản thân thưa: “Lạy Chúa, xin dò xét và thử thách con, tâm can này, xin đem thử lửa.” (Tv 26:2) Đó là điều không dễ thực hiện, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát, cùng với tình mến chân thành. Luật Chúa là Lời Chúa, là Ý Chúa, là lương thực của các Kitô hữu.

Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa không thích tế phẩm và lễ vật, Ngài cũng chẳng đòi lễ toàn thiêu và lễ xá tội. (Tv 40:7) Ngài muốn chúng ta tuân giữ luật Ngài truyền, nghĩa là vâng lời Ngài. Ngài mở tai chúng ta để chúng ta lắng nghe Ngài, và Ngài muốn chúng ta mau mắn thân thưa: “Này con xin đến!” (Tv 40:8) Ước gì chúng ta luôn chân thành nói với Ngài: “Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:9) Giữ Luật Chúa thì có lợi, không giữ thì thiệt thòi. Ngài không bắt ép, mà là sự công bằng.

Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta dù chúng ta bất xứng, Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân kia mà, nghĩa là chúng ta còn dơ bẩn chứ đâu phải đã “tắm rửa” cho bớt hôi thối. (x. Rm 5:8) Đó là bằng chứng minh nhiên về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô cho biết: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.” (Dt 7:23-25) Nếu chúng ta yêu ai đó mà không được đáp lại, thậm chí bị phản bội và bị gièm pha, chắc chắn chúng ta nói họ là dại dột, ngu xuẩn, si tình hoặc lụy tình. Thế mà Thiên Chúa là người yêu cuồng si những kẻ phản bội Ngài. Quả thật, chúng ta quá đáng, có trái tim bằng sắt nung chứ không chỉ là gỗ hoặc đá.

Bởi vì chúng ta bất xứng đến nỗi không thể tự đền tội, mà phải nhờ đến Vị Thượng Tế Thập Toàn là Đức Kitô Giêsu, Con Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để ĐỀN TỘI CỦA MÌNH, sau là để ĐỀN THAY CHO DÂN; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.” (Dt 7:26-28)

Điều răn đứng hàng đầu là điều răn quan trọng nhất, được nói tới trong trình thuật Mc 12:28b-34 (≈ Mt 23:34-40; Lc 10:25-28) và cũng đề cập “MỘT Thiên Chúa duy nhất” như Cựu Ước đã nói.

Thánh sử Máccô cho biết rằng có một kinh sư đã nghe nhóm Sađốc tranh luận với Đức Giêsu. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông kinh sư đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Ông kinh sư này ra vẻ thế thôi chứ không hề tâm phục khẩu phục. Kinh sư là ai? Đó là chuyên gia nghiên cứu, khai triển, dạy dỗ và áp dụng luật Cựu Ước. Nhưng khi áp dụng luật thì giá trị của lời dạy được coi trọng hơn chính văn bản luật. Vì thế mà họ hống hách và gây nhiều rắc rối, nhất là khi họ gặp Chúa Giêsu.

Họ hỏi không do lòng thành mà chỉ muốn gài bẫy Chúa Giêsu mà thôi. Ngài không nói điều nào trọng nhất, mà Ngài điềm nhiên trả lời bằng một mệnh lệnh: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA DUY NHẤT. Ngươi PHẢI yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” Đó là luật hai-trong-một, một điều to và một điều lớn, điều nào cũng quan trọng. Thật kỳ diệu và độc đáo!

Sau khi nghe Đức Giêsu nói vậy, ông kinh sư thực sự tâm đắc, tâm phục và khẩu phục, và ông nói: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là ĐẤNG DUY NHẤT, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.”

Phục thiện là bắt đầu khôn ngoan. Biết mình sai là bắt đầu sáng mắt. Ngược lại, kẻ cố chấp sẽ mù vĩnh viễn. Còn hơn thế nữa, bởi vì “đứa ngu đần tuy sống mà tệ hơn là chết.” (Hc 22:11) Chúa Giêsu thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan nên Ngài nói: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Tất cả im lặng, không ai dám chất vấn Ngài hoặc nói ra nói vào lời nào nữa. Trứng không thể chọi với đá!

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan, thông minh, sáng suốt phân định vấn đề, và biết  ưu tiên việc tuân giữ luật Ngài. Xin thanh tẩy và đổi mới chúng con theo đúng Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

YÊU MẾN VÀ PHỤNG THỜ THIÊN CHÚA

Giuse Hoàng Thanh Phong

Kính thưa quý ông bà và anh chị em, các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay dường như nhắc nhớ mỗi người chúng ta về đời sống phụng thờ Thiên Chúa của mình. Lòng yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa là cách diễn tả rõ nét nhất lòng tin của mỗi người chúng ta.

Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”

Đoạn trích trong sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta nghe trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chứa đựng kho tàng quan trọng bậc nhất, mà bất cứ người tin theo đạo Do-thái nào, cũng không bao giờ được quên: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em.  (Đnl 6,4-5). Thật vậy, chân lý ‘Thiên Chúa duy nhất’ là nền tảng căn cốt nhất của đạo Do-thái. Lời nhắn nhủ này được gọi là Shema, là lời kinh mà tất cả những ai theo đạo Do-thái phải thuộc nằm lòng ngay từ thuở nhỏ. Họ thường lập lại lời kinh này nhiều lần trong ngày để nhắc nhớ bản thân về chân lý ‘Thiên Chúa duy nhất’, cũng như bổn phận phải yêu mến và phụng sự Thiên Chúa.

Để trả lời cho một người trong nhóm kinh sư về câu hỏi ‘điều răn nào quan trọng nhất’, Chúa Giê-su cũng đã dùng chính lời Kinh Thánh trên để trả lời. Thế nên, lời nhắc nhớ về ‘Thiên Chúa duy nhất’ không chỉ dành cho người theo đạo Do-thái, nhưng còn dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Điều này làm cho chúng ta xác tín rằng, không phải ai khác, hay thần nào khác, nhưng chính Thiên Chúa duy nhất đã vì yêu thương mà đã tác sinh muôn vật muôn loài. Cũng chính Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta biết về kế hoạch cứu độ, hầu mang lại niềm hy vọng cho chúng ta được tham dự vào đời sống vĩnh cửu. Cũng chính vì lòng yêu thương quảng đại của vị Thiên Chúa duy nhất ấy, mà chúng ta vẫn được sống, được hoạt động, được hạnh phúc trong cuộc sống này.

Lời nhắc nhớ chúng ta về ‘Thiên Chúa duy nhất’ đồng thời khơi dậy trong tâm hồn chúng ta tâm tình yêu mến Người: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5). Cần biết rằng, Thiên Chúa là Đấng toàn hảo tự tại, nên lòng yêu mến của chúng ta sẽ chẳng khiến cho Thiên Chúa thêm hoàn hảo thêm chút nào. Đúng hơn, chúng ta tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa trước hết vì những điều thiện hảo mà Thiên Chúa vẫn hằng ban cho chúng ta. Chúng ta diễn tả lòng yêu mến Thiên Chúa với hết cả tâm hồn vì tình yêu vô điều kiện mà Người đã tặng ban cho mỗi người trong chúng ta. Thiên Chúa mong ước chúng ta yêu mến Thiên Chúa không phải vì bản thân Người, nhưng vì chính mỗi người chúng ta. Đúng hơn, chúng ta sẽ chỉ được sống và hạnh phúc khi chúng ta ở với Thiên Chúa mà thôi, vì duy chỉ có Người là nguồn sống duy nhất cho muôn vật muôn loài.

Trong Linh Thao, Thánh Inhaxio Loyola đã cụ thể hóa lời nhắn nhủ này trong ‘Nguyên Lý Và Nền Tảng’:“Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình. Mọi loài khác dưới đất cũng được tạo dựng cho con người, để giúp họ đạt tới cùng đích Đấng Tạo Hóa đặt cho họ. Bởi thế người ta chỉ được sử dụng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ khi chúng làm cản trở….” (Linh Thao, số 23)

Nguyên lý và Nền Tảng trên đây giúp cho chúng ta thấy mục đích của đời sống con người là để “ngợi khen, tôn kính, và phụng sự Thiên Chúa”. Thế nên, việc sắp đặt trật tự trong đời sống chúng ta thật quan trọng biết bao: Thiên Chúa phải là trước hết và trên hết mọi loài thụ tạo. Khi chúng ta đảo lộn trật tự này, chẳng hạn khi đặt bản thân mình hay các thụ tạo khác lên hàng đầu, chúng ta đang đặt lòng tin của mình ở sai chỗ.

Trong cuộc sống hôm nay, có lẽ chúng ta ít đề cập đến các ngoại thần cho bằng những ‘vị thần’ do chính chúng ta tạo ra. Mỗi người trong chúng ta thử dành ra ít giây phút tĩnh lặng để xem Thiên Chúa đang có vị trí nào trong cuộc đời của mình. Thiên Chúa có phải là quan trọng nhất đối với tôi lúc này hay chăng? Nếu Thiên Chúa không còn ở vị trí số một trong tâm hồn tôi thì ‘vị thần’ nào đã được đặt vào vị trí ấy của Thiên Chúa?

Cần biết rằng, dù chúng ta đang chẳng ưu tiên vị trí quan trọng nhất cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương chúng ta cách vô điều kiện. Thiên Chúa vẫn mong ước chúng ta biết sắp đặt lại trật tự cuộc sống của mình, chẳng phải vì ích lợi gì cho Ngài, cho bằng vì phần rỗi của chính chúng ta. Đúng hơn, chỉ nơi Thiên Chúa duy nhất, chúng ta mới được hiện hữu và hạnh phúc viên mãn mà thôi.

Yêu mến và phụng  thờ Thiên Chúa

Kính thưa quý ông bà và anh chị em, niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa duy nhất có thể được diễn tả bằng nhiều cách thế khác nhau, nhưng sống động nhất vẫn là trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Bài trích thư gửi tín hữu Híp-ri cho chúng ta biết về vai trò duy nhất của vị tư tế hằng hữu là Đức Kitô, trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Vị thượng tế hằng hữu có vai trò chuyển cầu cho chúng ta tới Thiên Chúa, vì tự bản thân mỗi người chúng ta chẳng thể trực tiếp đến với Người (Hr 7,25). Vì vậy, Đức Giêsu Kitô vẫn hằng hiện diện cách sống động trong mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Khi chúng ta nghe công bố Tin Mừng thì chúng ta thực sự đang lắng nghe Lời của Chúa Giêsu đang nói với chúng ta. Khi vị linh mục truyền phép thì bánh và rượu nhờ quyền năng của Chúa Thần, đã trở nên Mình và Máu thánh Đức Giêsu Kitô, trở nên thần lương nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Đức Giêsu cũng chính là người sai chúng ta ra đi loan báo Tin mừng khi buổi cử hành phụng vụ kết thúc.

Thế nên, việc tham dự vào đời sống phụng vụ của Giáo Hội, đòi hỏi chúng ta tham dự với lòng sốt sáng kính tin của mình. Qua đời sống phụng vụ, chúng ta đang diễn tả đức tin của mình nơi Thiên Chúa, cụ thể qua việc: xám hối lỗi lầm, ca tụng Thiên Chúa, tuyên xưng đức tin, lãnh nhận ơn lành… Thế nên, chúng ta không phải đến ‘xem thánh lễ’ cho xong bổn phận mà Giáo Hội đòi buộc. Đúng hơn, chúng ta được mời gọi để tham dự thánh lễ và cùng hiệp dâng của lễ là đời sống của mình, kết hiệp với của lễ duy nhất của Đức Giêsu xưa kia trên thập giá, mà dâng lên Thiên Chúa Cha (Hr 7,27).

Thực ra, khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta đồng thời cũng đã được lãnh nhận chức vụ tư tế phổ quát. Điều này có nghĩa, cuộc đời mỗi người chúng ta đã được thánh hiến để trở nên của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa. Thế nên, chẳng có của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng của lễ sống động là đời sống của mỗi người. Qua vị tư tế hằng hữu là Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy mạnh dạn dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn của cuộc sống này. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương chúng ta vô điều kiện chắc chắn sẽ nhậm lời nguyện xin, cũng như đón nhận của lễ mà chúng ta dâng tiến lên Người. Ngoài việc yêu mến phụng thờ Thiên Chúa duy nhất, Chúa Giêsu đưa ra một điều răn khác không thể tách rời, đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,31). Chẳng có của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng việc chúng ta yêu mến và hiến dâng đời sống của mình cho Thiên Chúa và mở lòng đón nhận tha nhân.

Thế nên, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể được hiểu như một cử hành phụng vụ hay một thánh lễ kéo dài. Cuộc đời chúng ta vì vậy là một chuỗi những diễn tả lòng tin của chúng ta nơi Thiên Chúa duy nhất. Lòng tin ấy được diễn tả cách cụ thể bằng cả đời sống của mình, như của lễ toàn thiêu, được hiệp với lễ hy sinh của Đức Giêsu mà dâng lên Thiên Chúa. Amen!

Về mục lục

HẾT CẢ TRÍ KHÔN

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Mến Chúa và yêu người là một điệp khúc quá quen thuộc với Kitô hữu. Từ em bé đã qua tuổi “xưng tội rước lễ lần đầu” đến các cụ già mà chưa lẩn trí thì đều nằm lòng câu kết trong kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời: “Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy – Amen”. Là người con cái Chúa trong Giáo Hội Công Giáo, có thể khẳng định rằng, hiếm có ai tự nhận mình không yêu mến Thiên Chúa. Dù minh nhiên hay mặc nhiên, chúng ta đều xác nhận rằng mình phải yêu mến Thiên Chúa. Tuy nhiên mức độ của lòng yêu mến ấy đến đâu cũng như cái cách thức yêu mến ấy có đúng hay không thì cần phải xem xét.

Trước câu hỏi của vị luật sĩ về giới răn trọng nhất, Chúa Giêsu đã lấy lại đoạn sách Đệ Nhị Luật đồng thời có thêm một chút để trả lời: “Nghe đây, hỡi Israel! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất! Người phải yêu mến Đức Chúa, Chúa các ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi…” (x.Mc 12,28-34; x.Đnl 6,2-6). Xin mạn bàn về yếu tố Chúa Giêsu thêm đó là “hết trí khôn”, cụm từ không có trong sách Đệ Nhị Luật.

Trí khôn là một trong hai cơ năng của linh hồn mà Thiên Chúa tặng ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài thụ tạo hữu hình. Đã là người thì ai cũng chân nhận rằng nhờ trí khôn mà con người trỗi vượt các loài vật bậc thấp. Chuyện tích về bác nông phu mưu trí đánh thắng con hỗ là một ví dụ. Cũng là làm việc nhưng nhờ trí khôn, con người ý thức mình làm việc gì với động cơ và mục đích gì. Chính vì thế cung cách làm việc của con người mỗi ngày mỗi mới, phát triển và hoàn thiện không ngừng. Trong khi đó loài vật vì thiếu khả năng này nên cách hoạt động của chúng hầu như không đổi thay mà nếu có thì cũng rất nhỏ và qua một thời gian rất dài chịu điều kiện hóa bởi các yếu tố của giới tự nhiên mà thôi.

Khi thêm vào yếu tố “trí khôn” chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ đề cập đến một nét cao quý của con người mà còn lưu ý đến cung cách “giữ đạo”, “sống đức tin” của dân Chúa xưa và chúng ta mọi thời, mọi nơi. Chúa Giêsu đã từng nhiều lần hữu ý vi phạm luật sạch nhơ và luật ngày hưu lễ của Do Thái giáo thời bấy giờ. Người cố tình làm như vậy, vì người ta đã giữ luật cách máy móc, vụ hình thức mà quên mất mục đích và ý nghĩa của luật. Chẳng hạn luật sạch nhơ có ra là để dân Chúa biết giữ gìn tâm hồn trong sáng và làm thanh sạch cõi lòng khỏi các vết nhơ của tội lỗi, khỏi những tham lam và đam mê bất chính. Do đó cách thế giữ luật phải chú trọng đến tâm hồn hơn là quá tỉ mỉ, chi li với những nghi thức bên ngoài như rửa chén bát, rửa chân tay… Muốn tâm hồn được thanh sạch là phải loại khỏi tâm trí những ý định bất chính, xấu xa và Người đan cử một số điều như: “Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”(Mc 7,21). Bên cạnh đó để làm cho tâm hồn mình trinh trong thì Người dạy phải sống đức ái qua việc liên đới chia sẻ với tha nhân: “Hãy đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho các ngươi (Lc 11,41).

Với trí khôn thì khi thực hiện các hành vi đạo đức của tôn giáo, chúng ta phải biết rõ hành vi ấy là gì (What?) Vì sao phải thực hiện điều ấy là làm việc ấy để nhằm mục đích gì (Why?). Và rồi chúng ta sẽ biết làm việc ấy như thế nào (How?), ở đâu và trong hoàn cảnh nào (Where? When?). Khi một số biệt phái trách cứ rằng các môn đệ mình không ăn chay thì Chúa Giêsu nhân đó đã dạy họ phải sống đạo với cả trí khôn. Trước hết hãy ý thức ăn chay nghĩa là gì và vì sao ăn chay để rồi biết cách ăn chay đúng đẹp thánh ý Thiên Chúa. Ăn chay là một hình thức sám hối, thú nhận tội lỗi, nhất là tội nghiêm trọng.

Xưa vua quan dân thành Ninivê đã dùng sự ăn chay để bày tỏ sự ăn năn sám hối về tội lỗi tày trời họ đã phạm khiến Chúa đe phạt hủy diệt cả thành. Trong khi đó nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời Chúa Giêsu không chỉ lầm mà còn giảng dạy sai lạc. Họ lầm tường rằng ăn chay là một trong những cách thế thu tích công đức trước mặt thiên hạ và cả trước mặt Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng kể câu chuyện có người biệt phái vào đền thờ ngửa mặt kể lễ công trạng ăn chay với cả Thiên Chúa. Để khẳng định điều này thì Người nói rõ: “Không lẽ thực khách hay các phù rể có thể ăn chay khi tân lang đang còn ở với họ. Khi nào tân lang bị đem đì thì bấy giờ họ mới ăn chay” (x.Lc 5,33-39). Khi đang còn ở với Thầy Giêsu thì cách nào đó các tông đồ đang còn ở trong ân sủng. Khi phạm trọng tội là lúc chúng ta xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình và lúc đó mới thực sự cần phải ăn chay.

Không dám hồ đồ nhưng có vẻ đến hôm nay còn không ít Kitô hữu từ giáo dân đến tu sĩ, giáo sĩ vẫn sống đạo một cách máy móc, nếu không muốn nói là thiếu ý thức đúng và đủ những gì mình thực hành. Vừa qua Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ra lệnh Kitô Hữu Công Giáo ăn chay một ngày (22/10) và mời gọi đoàn tính hữu sống mùa dịch bệnh trong tinh thần chay tịnh. Nếu không được hướng dẫn thì đoàn tín hữu dễ lầm tưởng rằng vì nhân loại tội lỗi nên bị dịch bệnh, khiến cho một số người hiểu lầm như nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu. Và cũng có thể có nhiều người nghĩ rằng ăn chay hãm mình hy sinh như lễ vật dâng lên Thiên Chúa hầu mong Người đoái thương khử trừ dịch bệnh. Thế mà đã gần hai năm nay biết bao lễ vật hy sinh trên khắp thế giới cùng với lời cầu nguyện dâng lên mà như chưa thấu đến Đấng Toàn Năng. Tình cảnh này có thể làm cớ cho nhiều người hoài nghi và than thở như cố nhạc sĩ họ Trịnh là “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người…”.

Chuyện chay tịnh, hãm mình, hy sinh thì ai ai cũng mến phục. Tuy nhiên việc sống khắc khổ, kiêng khem trong tình cảnh mà người dân, nhất là người nghèo, người đang thiếu thốn lương thực cần phải có đủ sức đề kháng để chống dịch thì xem ra cần được giải thích và hướng dẫn cho thấu tình đạt lý dưới ánh sáng đức tin. Truyền thống là tốt. Thế nhưng nhiều khi nó cũng có thể kìm giữ chúng ta trong lối mòn của thứ rượu cũ. Rượu mới phải đổ vào bầu da mới, nhưng người ta lại thích rượu cũ và giữ mãi cái bầu cũ hơn. Đức Phanxicô đã từng cảnh giác về kiểu biện bạch để khỏi canh tân, đổi mới đó là: “xưa đã là như vậy rồi”. Với cả trí khôn thì việc sống đức tin đòi hỏi chúng ta phải trưởng thành mỗi ngày. Chắc hẳn có đó nhiều cơ chế, luật lệ và hình thức sống đạo trong Giáo hội cần đổi thay khi đoàn con cái Chúa biết sử dụng trí năng để sống đức tin cách ý thức trong tình liên đới và tinh thần trách nhiệm.

Về mục lục

ĐIỀU RĂN MỚI

Lm Vũđình Tường

Một Kinh Sư hỏi Đức Kitô,
‘Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào quan trọng hơn cả’ Mc 12,28.

Ông ta hỏi Đức Kitô vì vấn đề này nhóm Kinh Sư từ lâu tranh luận với nhau, và không đồng nhất điều răn nào quan trọng hơn cả. Đức Kitô tóm gọn tất cả các điều răn dậy trong sách Dân Số 6:4-5 và sách Lêvi 19:18 trong một câu vắn gọn, đó là ‘Mến Chúa và yêu tha nhân’. Nhóm Kinh sư giải thích luật bằng cách theo sát từng câu, từng chữ; trong khi Đức Kitô chú trọng đến bản chất, tinh thần của luật lệ. Ngài nói với họ,

‘Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình’ Mc 12: 30-31

Quan hệ tình cảm con người dành cho nhau rất đơn giản và cũng rất phức tạp. Đơn giản, nhẹ nhàng khi tình cảm đầy tràn thân thiện. Phức tạp khi tình thân biến mất, cãi cọ, tranh biện, ăn thua đủ liên tục xảy ra. Trong trường hợp này, thay vì dùng tình cảm, cảm xúc của con tim, con người đối xử với nhau bằng lí trí, lí luận, tranh biện, hơn thiệt, phải trái. Đức Kitô dậy để giải quyết vấn đề cách nhẹ nhàng, cần đối xử với nhau như chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ai cũng có kinh nghiệm đuợc Thiên Chúa yêu thương, tha thứ. Hãy dùng kinh nghiệm trên để giải quyết mọi tranh chấp, bất hoà. Yêu Thiên Chúa, mến những gì Thiên Chúa tạo dựng là giữ trọn luật yêu thương. Yêu tha nhân như chính Thiên Chúa yêu chúng ta là điều luôn đúng trong mọi trường hợp. Đặt Thiên Chúa là trọng tâm trong đời; mọi lời nói, hành động phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa chính là làm Sáng Danh Chúa trong cuộc sống của ta.

Nhóm Kinh sư trước đây vẫn nghĩ sát tế lễ vật dâng Thiên Chúa là quan trọng hơn cả. Đức Kitô dậy dâng hiến toàn thể con người cho Thiên Chúa quan trọng hơn. Giáo huấn trên đưa cho anh cái nhìn mới. Anh rất thán phục điều Đức Kitô phán dậy. Đức Kitô nói với anh,

‘Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu’. Mc. 12: 35.
Phúc Âm thuật lại, sau đó không còn ai dám hỏi Ngài nữa. Người ta không dám hỏi nữa có lẽ họ sợ biết sự thật về chính mình. Bởi càng hỏi, càng để lộ ra cái thiếu sót, thiếu hiểu biết về tình yêu Thiên Chúa. Như thế họ sẽ bị mất uy tín trong việc giảng dậy. Đức Kitô nói vị Kinh Sư đến gần Nước Thiên Chúa, nhưng chưa thuộc về Đức Kitô. Ông đến gần Ngài hơn hết trong số bạn cùng ngành.

Kinh Sư là nhóm kịch liệt chống đối Đức Kitô. Họ chất vấn Ngài ai cho phép Ngài trừ quỉ. Họ đặt vấn đề Ngài ngồi cùng bàn ăn với kẻ tội lỗi. Họ trách môn đệ ngài ăn mà không rửa tay. Họ kết án Ngài chữa bệnh trong ngày hưu lễ. Vì thái độ chống đối đó mà hầu hết học giả Kinh Thánh cho là vị Kinh Sư khâm phục ơn khôn ngoan nơi Đức Kitô nhưng không thành tâm yêu mến, tin theo Ngài. Giải thích như trên có nghĩ là vị Kinh Sư này cũng như những vị khác. Trong khi những vị khác đến chất vấn, gài bãy, tìm cách bắt bẻ. Thực tế cho thấy, vị Kinh Sư này hành xử rất khác. Ông đến hỏi Đức Kitô, vừa thán phục vừa ca tụng Ngài. Ông thành tâm trong việc đến gần Đức Kitô. Rất có thể đây là bước đầu, đặt nền tảng cho bước tiếp theo.

Có kiến thức về Kinh Thánh và tin Kinh Thánh là hai sự việc hoàn toàn khác biệt. Dùng Kinh Thánh để biện hộ cho hành động, lời nói, mong thắng thế khi bàn thảo, lí luận, không sinh ích gì cho đức tin. Rất có thể người đó không có niềm tin, dùng Kinh Thánh cho lợi ích cá nhân. Tìm hiểu để hiểu biết thêm về Kinh Thánh với mục đích tăng niềm tin, thực thi đúng điều Kinh Thánh hướng dẫn là điều quan trọng. Như thế mới đúng là sống đời sống đức tin.

Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu dâng hiến trọn vẹn, toàn thể con người cho Thiên Chúa, không phải chỉ một phần mà toàn phần: Khối óc, con tim, linh hồn, trí khôn và toàn thể sức lực. Như thế mới là dâng hiến trọn vẹn.

Về mục lục

YÊU MẾN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thiên Chúa là tình yêu: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8). Yêu là cốt lõi của cuộc sống. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài. Tình yêu của Đấng Tạo Hóa được thông ban tới mọi loại thụ tạo. Mỗi loài thụ tạo đều có dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Con người có linh hồn, trí khôn, tự do và tình yêu. Mọi sinh vật đều chìm đắm trong biển tình liên đới với nhau. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Đấng Vô Hình, chúng ta có thể nhận biết Người qua muôn hình vạn trạng của vũ trụ vạn vật và con người. Người là Thiên Chúa hằng hiện hữu và là Chúa của kẻ sống.

Những chỉ thị và huấn lệnh được tóm kết trong Mười Điều Răn và mười điều này thu gọn thành hai điều quan trọng là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Như thế, tất cả luật lệ và các giới răn đều xoay quanh chữ ‘Yêu’. Yêu là ái, bác ái, đức ái, nhân ái và tâm ái. Yêu là nền tảng của mọi sinh hoạt. Yêu phát khởi từ tâm. Tâm thiện làm thăng hoa cuộc đời nên cao thượng và thành tựu.

Chúng ta có thể suy về trái tim yêu thương qua bốn điều: Từ, Bi, Hỉ và Xả. Tâm từ là lòng thương xót. Thương tất cả mọi loài. Thương yêu không chỉ những người trong gia đình mà tình yêu lan trải ra mọi người chung quanh. Yêu cả người ân, kẻ oán. Yêu cả người gây thù dù chuốc oán. Tâm bi là xót thương trước những khổ đau của người khác. Biết cảm thông và xoa dịu những nỗi đau và sầu khổ của tha nhân. Tâm hỉ là vui vẻ trước sự hạnh phúc và thành công của người khác. Biết chung vui và chúc mừng những thành đạt và sự may mắn của người. Người có tâm hỉ thì không ích kỷ, hạn hẹp, ghen tương và đố kỵ. Tâm xả là không luyến ái hay chấp nhất. Giữ thái độ thanh thản và an vui tự tại trong tâm hồn. Từ bi hỉ xả sẽ giúp cho tình yêu tha nhân được triển nở và hoan lạc.

Trong bài phúc âm, Chúa Giêsu lập lại hai giới răn nồng cốt của đạo: Yêu Chúa và yêu người. Thiên Chúa hiện diện nhưng con người không thể diện kiến và đụng chạm bằng giác quan trần tục. Để biểu hiện tình yêu, Chúa mở một cửa ngõ để chúng ta cùng cảm thông: Yêu tha nhân như chính mình. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại được gắn liền với nhau như đồng tiền hai mặt. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà ghét đồng loại. Vì mỗi con người được tác tạo đều mang hình ảnh của Thiên Chúa. Yêu người cũng như yêu chính mình.

Thánh Marcô so sánh tình yêu cao quí hơn của lễ dâng. Đối với chúng ta, yêu người thân cận như chính mình là một đòi hỏi quá khó. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng thấy tình yêu có mức độ. Trong cuộc sống dân gian, trái tim yêu thương được diễn tả theo hình trôn ốc, từ trong cốt lõi ra ngoài. Yêu vợ chồng, con cái, gia đình, họ hàng thân tộc, đồng môn, bạn bè, người thân, kẻ nghĩa, yêu người cùng nhóm hội, cùng chí hướng, cùng tôn giáo, yêu đồng bào cùng quê hương xứ sở và yêu đồng loại… Chúng ta có thể cảm nhận thế nào là tình yêu khi chúng ta xa vắng, tam biệt, ly biệt hay vĩnh biệt người mình yêu. Càng yêu nhiều càng nhớ thương nhiều. Chỉ có những tâm hồn đại ái biết quên mình mới có thể yêu người thân cận như chính mình một cách vô điều kiện.

Trong thơ gởi tín hữu Do-thái, tác giả đã diễn tả hình ảnh hiến tế của Chúa Giêsu linh mục thượng phẩm. Ngài đã dâng hy lễ đền tội cho dân bằng chính sự sống của mình. Tình yêu dâng hiến trọn vẹn để đền tội thay cho dân. Các linh mục thay mặt Chúa dâng lễ tế hy sinh là một việc cử hành thánh thiện, nhưng có nhiều khi bị lợi dụng và lạm dụng. Có nhiều linh mục đã cử hành thánh lễ rất nghiêm trang sốt sáng, nhưng cũng có linh mục cử hành theo thói quen chỉ để chu toàn bổn phận hoặc vì thọ ơn trả nghĩa cho ai đó tại tư gia. Linh mục không chịu đau khổ và không đổ máu, vậy mà đôi khi còn nóng nảy và bực bội chỉ vì vài sơ xót nho nhỏ trong khi cử hành. Các linh mục hãy hòa trộn tình yêu trong việc cử hành thánh lễ để sinh ích lợi cho mình, cho mọi người và cho các linh hồn đang chờ mong ân phúc.

Đức mến là nòng cốt. Mọi sự trên trần gian sẽ qua đi, chỉ có tình yêu tồn tại mãi. Xin cho chúng con biết chia sẻ và sống dấn thân trong tình yêu. Để khi mãn cuộc đời dưới thế, chúng con sẽ được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa, vì Chúa là tình yêu.

Về mục lục

MÙA NÀO CŨNG YÊU

Lm. Jos DĐH.

Dù có ăn khoẻ mấy, bạn cũng chỉ ăn tới mức no bụng. Khôn hay khờ, địa vị hay bần cùng, bạn vẫn tuân theo quy luật, sinh tử. Bốn mùa xuân hạ thu đông, tự bản chất đã phảng phất tính lãng mạn đầy yêu thương của tháng năm, dù điều kiện, phong cách, địa vị, mỗi người mỗi khác. Nói đến yêu và thương, thật dễ nghe, ngay cả lão gia đến trẻ nhỏ, gợi lên hai từ ghét và thù, đúng là chẳng ai hào hứng làm chi ! Đại đa số chúng ta rất chuẩn khi nói ăn để sống, có chăng hành động của ta mơ hồ đến độ không còn biết mình sống ở đời này để làm gì ? Không ai khôn tới mức bất cần đến thầy dạy, chẳng ai ngớ ngẩn để mặc thời gian trôi qua, rồi thở ngắn than dài tại sao mình phận bạc duyên đen ? Không ngừng học hỏi là hành vi giúp ta ngộ ra mình được yêu ngay từ thuở nhỏ, là nguồn gốc của đức hạnh thúc giục ta nói lời yêu thương.

Thời tiết bốn mùa nồng ấm đáng yêu khác nhau, được cao sang quyền quý hay vô duyên bất tài, có phải bạn vẫn muốn trải lòng cho mọi đối tượng, tôi luôn cần được mọi người mến yêu ? “Thưa Thầy, trong giới luật, đâu là điều quan trọng nhất” ? Điều muốn biết của người luật sĩ vô tình hay cố ý thử tài Đức Giêsu, đúng là có chút tự nhiên vương vấn nơi tâm tư mỗi người từ khi có trí khôn. Đức Giêsu không từ chối, không lòng vòng, trước thao thức của ông tiến sĩ luật, của tâm tư mỗi người, Ngài đã cho thấy hai từ mến – yêu không thể tách nhau. Thời khắc nào người ta cũng có nhu cầu ăn ngon ngủ yên, bình an hạnh phúc, được yêu để biết yêu, quan trọng ở chỗ yêu người và mến Chúa sao cho đúng, đẹp. Là đừng mến Chúa yêu người trên môi miệng, lý thuyết.

Mùa nào cũng yêu, mùa nào cũng say, là quá cường điệu trong tình yêu đôi lứa, nhưng sẽ không thừa, không dư, nếu ta hiểu và sống tinh thần người môn đệ Đức Giêsu: mến Chúa yêu người. Mùa nào cũng yêu, ngày nào cũng yêu, tuổi nào cũng yêu, sẽ không bao giờ là sai, là trệch, khi chúng ta tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, và tất cả mọi người có cùng Một Cha trên trời. Đức Phật dạy các học trò: hãy sống tốt, sống đẹp, đừng quan tâm đến người khác nghĩ về mình. Đức Giêsu trả lời cho những ai ưu tư đến cụm từ đâu là hạnh phúc: “hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn; hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Trọng tâm của đời người không phải chỉ là tiền, mà còn phải có tình. Hạnh phúc ở đời người, không phải là tình yêu đôi lứa, tình yêu gia đình, đúng, đủ, phải có mến Chúa yêu người.

Nhạc sĩ Phạm Duy đã thổi hồn vào nhạc phẩm “Phượng Yêu”, đã làm ngây ngất biết bao con tim đang rạo rực “vì yêu”. Yêu người, yêu Phượng, yêu hoa đầu mùa, yêu mầu rực rỡ, yêu em mù loà, yêu bằng tiếng nói đơn sơ. … Yêu người, yêu có một lần thôi, xin yêu dù gian dối, xin yêu tôi, dẫu nghi ngờ, trong bơ vơ còn nhiều, thì đâu chối bỏ tình yêu. Người tiến sĩ luật trong tin mừng hôm nay, quả đã “thấm đậm” khi được Đức Giêsu gói gọn giới luật bởi cụm từ “mến Chúa yêu người”. Kinh nghiệm của các bậc khôn ngoan, chỉ rằng: ăn có thể ăn nửa bữa, ngủ có thể lúc nửa đêm, nhưng không ai có thể đi nửa đường chân lý, yêu bằng nửa con tim. (Ngạn ngữ Anh). Người luật sĩ đã hiểu phần nào trong tình Chúa phải có tình người, mới trọn vẹn đúng, đủ, đẹp. Đức Giêsu vô cùng hạnh phúc, khi bộc lộ niềm vui: “anh không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

Mùa nào cũng yêu, tình nào chẳng là tình đẹp, yêu mến tha nhân cũng là lời gọi mến yêu đồng loại, là điều quan trọng trước giới luật yêu thương mà Thiên Chúa đặt để vào tâm tư mỗi người nhân thế. Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con người. Đức Giêsu là mặt trời công chính đã soi chiếu vào thế gian, song Ngài chính là Vị Thầy thuốc tài giỏi, chữa khỏi tật bệnh mọi tâm hồn, đủ khả năng định hướng cho từng người đạt tới đỉnh cao yêu thương. Mến Chúa yêu người là căn bản trong toàn thể lề luật, Đức Giêsu cô đọng lại giúp tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài, chỉ cần sống trọn vẹn với Chúa và tha nhân: mùa nào cũng yêu, người nào cũng dễ mến, dễ thương.

Dù nắng hay mưa, mùa đông hay mùa xuân, tình yêu vẫn cứ đong đầy kỷ niệm. Già hay trẻ, thông thái hay chậm hiểu, vẫn được yêu thương, nếu biết chọn sống theo nhịp đập rất linh thiêng của trái tim mình. Cả một quá trình dài, người tiến sĩ luật mới gặp được Vị Thầy mà anh hết sức nể phục, anh sung sướng nhận ra “đích đến thành công” của đời người trong bốn chữ: mến Chúa – yêu người. Thấy người luật sĩ khôn ngoan trước sự thông sáng của mình, Đức Giêsu tỏ cho anh biết: “anh không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Quả thực, điều tốt nhất, tuyệt vời nhất, trên thế giới này không thể nhìn hay nghe, mà phải cảm nhận bằng trái tim. (Helen Keller). Đức Giêsu ghi nhận thế nào là mến Chúa yêu người của người thông luật, của mỗi chúng ta, nhạy cảm hơn một chút, Ngài sẽ kiểm đếm hành vi yêu thương của nhân loại bằng lòng thương xót của Thiên Chúa nhân từ. Amen.

Về mục lục

“MÌNH VỚI TA” TUY HAI MÀ MỘT

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Bình thường thì ít thấy; nhưng mỗi khi “hữu sự” thì Người Việt Nam chúng ta cũng thuộc “dân tộc có hạng” trong thể hiện “nghĩa tình huynh đệ”, chia sẻ bác ái; hay gọi nôm na là “văn hóa bí bầu” hay “văn minh lá lành đùm lá rách” ! Trong thời cao điểm đại dịch vừa qua, hay trong biết bao cơn bão lũ thiên tai xé nát thôn làng khắp miền đất nước, nhất là Miền Trung dấu yêu, người ta dễ dàng nhận ra những chứng minh hùng hồn và cụ thể cái “văn hóa ứng xử” đặc biệt trên, một “loại hình văn hóa, văn minh” mà người ta đang lo lắng sẽ dần bị mai một, khan hiếm bởi sự lên ngôi của “chủ nghĩa cá nhân”, của “văn minh ích kỷ”, của “văn hóa vô cảm”

Hèn chi, đã là người Việt Nam, lớn bé trẻ già, giàu sang trí thức hay mạt rệp cùng đinh, ai mà không thuộc câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; hay câu tục ngữ mang âm hưởng của lời Sách Thánh Lêvi trong tín ngưỡng Do Thái: “Thương người như thể thương thân” = “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” (Lv 19,18).

Thật ra, đối với phần đông người Do Thái, ít ra cho tới thời Chúa Giêsu cách đây 2000 năm, câu Sách Thánh Lêvi trên chỉ là “điều răn thứ hai”, “điều luật phụ”, mà có thể họ ít lưu tâm và dấn thân thể hiện. Với họ, điều răn quan trọng nhất phải là lời của sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn người” (Đnl 6,5)Theo truyền thống tín ngưỡng của họ, họ đã chép nguyên đoạn sách Đệ Nhị Luật (6,4-6) làm thành Kinh SHEMA để đeo trên trán, nơi cườm tay, trước cửa nhà… để nhắc nhớ niềm tin kính và việc phượng thờ Chúa mọi phút giây trong đời sống của họ: “Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng” (Bđ 1). Vâng, đối với tâm thức tín ngưỡng của họ: nội dung cốt lõi của việc thể hiện niềm tin chính là quy chiếu và thực hiện giới răn nầy: Mến Chúa bằng lễ lạc, phụng tự, luật lệ… sao cho nghiêm túc, và bất cần đến những nỗi đắng cay, lầm than của anh em đồng loại xung quanh.

Khi thoáng thấy cách ứng xử “khá bất thường” của Thầy Giêsu, và cũng có thể, để dằn mặt và “trắc nghiệm bản lãnh đức tin” của anh chàng thợ mộc đến từ Nadarét, như Tin Mừng hôm nay vừa kể, những người Biệt phái muốn Chúa Giêsu bày tỏ thái độ có “mến Chúa trên hết mọi sự” như họ không; và họ đã dàn dựng một màn phỏng vấn: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?”. Ngoài dự đoán của họ dành cho một kẻ “hạ tiện” dốt nát Lề Luật, Chúa Giêsu, như một người đạo đức bình thường trong truyền thống đức tin của cha ông, đã trả lời đúng phóc bằng chính câu Lời Chúa của sách Đệ Nhị Luật: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.

Và câu chuyện đã mang họ đi xa hơn điều họ mong đợi ! Ngài đã “móc” lại một điều luật được ghi trong một sách Thánh Kinh khác, sách Lêvi, mà có lẽ, những ông biệt phái, những thầy ký lục ít khi đọc đến hoặc xem thường, như chính cách sống của họ đã “bỏ rơi hay xem thường con người”“Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” (Lv 19,18). Và có lẽ câu phán quyết “xanh rờn” tiếp liền sau đó đã làm họ ngỡ ngàng và chưng hửng: “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Vâng “Hai” chứ không chỉ có “một”; hay nói cách khác, hai khoản luật trên quy về cùng một đích điểm duy nhất, một giới răn duy nhất: YÊU MẾN.

Như vậy đã quá rõ ràng, với lập trường sống đạo và quan niệm đức tin của Chúa Giêsu, trong giới răn “mến Chúa trên hết mọi sự” phải bao hàm “yêu thương anh em như chính mình”; và bằng chính cuộc sống và cả cái chết của đời mình, Tin Mừng đã thuyết minh cụ thể lập trường và quan niệm đó của Ngài:
– Chen chân giữa đám dân đen để cùng họ lội xuống dòng sông Giođan cho ông Gioan làm phép rửa, chọn kẻ thu thuế làm môn sinh và ăn uống với họ…, một điều xem ra quá xa vời và lố lăng đối với những người “Biệt Phái”, những kẻ vẫn tự hào là những người “mến Chúa trên hết mọi sự”.
– Đụng chạm, đón tiếp những người cùi hủi đáng thương, để người phụ nữ tội lỗi hôn chân, xức dầu; chữa các bệnh nhân trong ngày Sabat, ăn uống mà chẳng cần rửa tay… những việc bác ái yêu thương mà những người tự xưng mình vỗ ngực tự xưng là “công chính” sẽ kết án là gương mù, gương xấu.
– Tỏ thái độ cảm thông và kính trọng người phụ nữ ngoại tình bị bắt tại trận để cuối cùng trao ban một phán quyết đầy nhân ái yêu thương: “Phần Ta, Ta cũng không kết án chị đâu”; hay nói với người bất toại bằng lời mang tính thẩm quyền của Thiên Chúa “Tội con đã được tha”… những hành động và lời nói mà những người vẫn tự hào về niềm tin “trung thành với Thập Điều Sinai” sẽ kết án là phá luật cha ông, là ngược dòng truyền thống, là “lộng ngôn phạm thượng”…
– Sẵn sàng quỳ xuống rửa chân cho các môn sinh để dạy họ bài học cụ thể yêu thương phục vụ, một hành vi xem ra không thích hợp chút nào đối với tác phong ăn trên ngồi trước của các vị tư tế đương thời, những người luôn miệng giảng rao về luật “mến Chúa trên hết mọi sự”
– Và sau cùng, Ngài đã sẵn sàng chịu chết giữa hai tên trộm cướp để hoàn thành lời chứng cuối cùng: chết vì yêu thương anh em chính là của lễ đẹp nhất để tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa; và chính đây lại là kết quả của một bản án mà những người Do Thái có chức quyền và sùng đạo đã nhân danh luật “mến Chúa” mà kết án Ngài: “Nó đã nói lộng ngôn !”

Và xem ra sứ điệp về giới răn “Mến Chúa Yêu người” mà Lời Chúa hôm nay khơi gợi lại là câu chuyện miên viễn của loài người chúng ta; câu chuyện xoay quanh mối tương quan giữa con người với Thượng Đế và con người với nhau. Và lịch sử nhân loại luôn minh chứng rằng: hai mối tương quan nầy luôn đan quyện, khăng khít với nhau và tác dụng hổ tương gần như tuyệt đối: phủ nhận Thiên Chúa thì cũng đánh mất con người; cuồng tín với Thượng Đế hay đặt con người lên bệ thờ đều dẫn đến đại họa. Chúng ta biết đó, sau chủ trương “giết chết Thượng Đế của Nietzch” là những cuộc đại chiến kinh hoàng giết chết hàng bao nhiêu triệu người; cũng vậy, sau chủ trương “vô thần” để con người không còn nô lệ cho “thuốc phiện tôn giáo” của Marx-Engel-Lenin-Mao Trạch Đông-Stalin-Polpốt…, con người trở nên đao phủ để chém giết nhau không thương tiếc ! Cũng vậy, đức tin cuồng tín với Đấng Alah đã khiến những chiến binh IS Hồi Giáo cực đoan trở thành “máu lạnh” sẵn sàng “đánh bom tự sát” mặc kệ những người dân vô tội phải chết chóc đau thương. Trong khi đó, với trào lưu “nhân bản cực đoan” (Humanisme) đang dẫn dắt nhân loại tới con đường tự do phóng túng, phá bỏ những giềng mối luân lý nền tảng mà Thiên Chúa đã thiết lập để tự tung tự tác thỏa mãn những dục vọng đớn hèn…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn trình bày cho chúng ta một Tin Mừng trọn hảo để thể hiện niềm tin qua chân dung và lời dạy của chính Đức Kitô, “một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời”(Bđ 2); nhưng cũng là một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,17-18). Vì là “Người Con vẹn toàn của Thiên Chúa” nên Đức Kitô đã trở thành “Người Anh Cả của muôn vạn người em” !

Là môn sinh của Đức Kitô, những con người như linh mục Maximilien Kolbe, như Mẹ Têrêsa Calcutta hay bao nhiêu vị Đại thánh khác trong lịch sử hai ngàn năm của Giáo Hội…, để có được sức mạnh và lòng can đảm yêu thương con người đến cùng, đã phải nhờ đến sự đắm chìm cầu nguyện kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa.

Vâng, bao lâu còn ngưỡng vọng lên trời, bấy lâu còn trung thành với trái đất ! Đó lài hai điều bất khả phả phân ly: MẾN CHÚA – YÊU NGƯỜI; hay nói một cách dí dỏm: “mình với ta” tuy hai mà một; một TÌNH YÊU, một ĐỨC MẾN. Amen.

Về mục lục

SỐNG GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG

Lm. Ngọc Dũng

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta trung tâm của niềm tin Do Thái Giáo, đó là Shema Israel. Một cách cụ thể, Môsê nhắc nhở con cái Israel phải có thái độ nào trước Thiên Chúa: “Anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh em, và anh em sẽ được sống lâu” (Đnl 6:2). Môsê nói những lời này cho những người Israel đã chứng kiến kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện khi đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập. Để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, con cái Israel phải có lòng kính sợ Ngài và tuân giữ các mệnh lệnh của Ngài. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta đến tâm tình cần phải có khi nhìn lại cuộc sống của mình với những ơn lành Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời chúng ta. Đi trong đường lối của Thiên Chúa mang lại sự sống muôn đời và được hưởng niềm vui trong đất hứa. Bên cạnh đó, Môsê còn nhắc nhở dân Israel về niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, bên cạnh Ngài không có thần nào khác: “Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất” (Đnl 6:4). Những lời này khẳng định vị trí tối thượng và duy nhất của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất được tôn thờ, nên con cái Israel “hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6:5). Là Đấng tối thượng duy nhất nên Đức Chúa phải được yêu mến trên hết mọi sự và với trọn con người của chúng ta. Chúng ta đã ghi lòng tạc dạ điều này như Môsê đã nhắc nhở con cái Israel chưa? – “Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ” (Đnl 6:6).

Đề tài về sự khác biệt giữa chức vụ thượng tế của Chúa Giêsu và các thượng tế khác được tác giả thư Do Thái tiếp tục trong bài đọc 2 ngày hôm nay: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình, và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28). Theo tác giả thư Do Thái, Chúa Giêsu là mẫu gương thánh thiện và thập toàn cho chúng ta. Ngài không phạm tội như các thượng tế phàm nhân, nhưng Ngài chấp nhận hiến thân mình làm của lễ đền tội cho mọi người. Con chúng ta thì sao? Chúng ta có đủ can đảm để hiến thân làm của lễ đền tội cho những người làm chúng ta đau khổ, những người xúc phạm chúng ta không? Những ai nói “xin lỗi” sau khi phạm lỗi là những người sống theo bổn phận và đức công bằng. Những người nói “xin lỗi” khi người khác xúc phạm đến mình vì không muốn đánh mất mối tương quan đã được xây dựng là những người sống theo tình yêu và con tim của Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục khẳng định vị trí cao trọng của tình yêu trung thành và vô điều kiện qua việc Chúa Giêsu cho biết tình yêu là điều răn đứng đầu. Bài Tin Mừng nói lên cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với một kinh sư. Đây chính là cuộc tranh luận thứ tư của Chúa Giêsu với các kinh sư. Tuy nhiên, thái độ chân thành và khao khát học hỏi của vị kinh sư biến sự kiện đó thành một cuộc trao đổi để học hỏi hơn là một cuộc tranh luận như thường xảy ra giữa Chúa Giêsu và các kinh sư. Chúng ta thấy có một sự tương đồng và hợp lý trong bài Tin Mừng. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng ra làm hai phần: phần 1 (Mc 12:28b-31) là câu hỏi thưa – đáp giữa vị kinh sư và Chúa Giêsu, phần 2 (Mc 12:32-34) là phần nhận định hay phản ứng của vị kinh sư và Chúa Giêsu trên câu trả lời của người kia.

Phần 1 là câu hỏi-đáp về sự cao trọng của điều răn yêu thương: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?” (Mc 12:28b). Chúa Giêsu trích Đnl 6:4-5 để trả lời cho câu hỏi trên: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Câu này đứng vị trí đầu tiên trong ba bản văn Kinh Thánh mà người Do Thái phải đọc hai lần mỗi ngày. Điều răn yêu Chúa có nguồn gốc trong chính bản chất của Ngài như là Thiên Chúa duy nhất. Bốn danh từ “lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực” không ám chỉ những phần khác nhau của con người, những nói lên tính toàn bộ của con người. Nói cách khác, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa với trọn con người của chúng ta. Chúng ta có đang yêu Chúa với trọn con người của chúng ta không hay tình yêu của chúng ta đã bị phân mảnh cho những tạo vật khác? Chúa Giêsu không dừng lại ở việc yêu Chúa, Ngài thêm vào tình yêu dành cho người thân cận: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:31). Tuy nhiên, chúng ta cần cẩn trọng trong việc đồng hoá hoặc gắn hai điều răn này với nhau. Hai điều răn được nối kết với từ “yêu” và chúng được đặt song song với nhau chính là “hành động mang tính thần học” của chính Chúa Giêsu. Khi phân tích câu trả lời của Chúa Giêsu từ khía cạnh Kitô học, chúng ta nhận ra nét đặc biệt sau: Trong câu trả lời của Ngài, Chúa Giêsu không chỉ nói đến vị trí tối thượng của tình yêu dành cho Thiên Chúa, của Shema Israel, nhưng Ngài còn khẳng định vị trí cao trọng của tình yêu dành cho người khác. Hai điều răn này đi với nhau không thể tách rời. Điều này xảy ra vì sự nhập thể của Ngài. Nói cách khác, qua mầu nhiệm nhập thể, Chúa Giêsu đã mang tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người lại với nhau trong Ngôi Vị của Ngài: Ngài là Thiên Chúa thật [tình yêu dành cho Thiên Chúa] và là người thật [tình yêu dành cho người thân cận]. Chỉ có trong Chúa Giêsu, hai giới răn yêu Chúa và yêu người trở nên một. Ngài đã mang trời hoà giải với đất, giới hạn với vô hạn, tương đối với tuyệt đối, thời gian với vĩnh cửu. Như vậy, chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới có thể yêu Chúa và yêu người khác cách trọn vẹn.

Phần thứ hai trình bày cho chúng ta sự nhận định của vị kinh sư về câu trả lời của Chúa Giêsu và sau đó là nhận định của Chúa Giêsu về nhận định của vị kinh sư. Trong nhận định của mình, vị kinh sư đồng ý với những gì Chúa Giêsu trình bày mà không tỏ thái độ chống đối bằng cách nhắc lại những gì Chúa Giêsu nói. Nhưng như Chúa Giêsu thêm giới răn yêu người thân cận vào giới răn yêu Chúa, vị kinh sư cũng thêm “hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Lc 12:33). Lời này của vị kinh sư vọng lại lời của Ngôn sứ Hôsê (6:6) và lời trong sách Samuen quyển thứ nhất (15:22). Trong câu trả lời của vị kinh sư, chúng ta nhận ra nguyên lý nằm sau mọi lễ toàn thiêu và hy lễ là tình yêu dành cho Thiên Chúa và người thân cận. Có phải tình yêu Thiên Chúa và người thân cận là động lực thúc đẩy tất cả những lời nói và việc làm của chúng ta không?

Đứng trước câu trả lời khôn ngoan của vị kinh sư, Chúa Giêsu “khen” ông ta và khẳng định rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Câu nói của Chúa Giêsu không mang tính “tương lai,” nhưng là hiện tại. Nước Thiên Chúa là một thực tại mà vị kinh sư đang đứng rất gần, ngay bên cạnh. Chính tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân sẽ chuẩn bị cho ông đón nhận Nước Thiên Chúa. Đây cũng chính là điều Chúa Giêsu nhắc nhở mỗi người chúng ta: chúng ta chỉ có thể vào Nước Thiên Chúa khi tình yêu dành cho Chúa và cho tha nhân là động lực duy nhất của đời sống chúng ta.

Về mục lục

CHỈ MỘT ĐÔ-LA

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Hôm nay Chúa Giêsu không chỉ dạy ta về lòng yêu mến đối vời Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”, mà còn đòi phải yêu thương đồng loại: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.

1. Về tình yêu đối với Thiên Chúa, Câu trả lời của Chúa Giêsu không mới, bởi đây là giới răn trong kinh Shema mà một người Do Thái đạo đức phải đọc hai lần sáng tối mỗi ngày để cầu nguyện (x.Đnl 4, 5-9).

Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giêsu lấy lại lề luật Cựu Ước vừa để tái khẳng định điều chính yếu vừa để kiện toàn lề luật. Vì khi lặp đi lặp lại từ “hết” nhiều lần, Chúa đòi từng người phải yêu mến Thiên Chúa bằng trọn vẹn con người mình, trọn vẹn cả thân xác và trọn vẹn linh hồn mình.

Đúng hơn, tình yêu dành cho Thiên Chúa đòi sự dấn thân toàn bộ con người: Cả con tim, tâm hồn và tư tưởng. Nghĩa là tình yêu đó không chỉ trên bình diện lý trí, hay tình cảm, nhưng còn bao gồm cả thân xác, sức lực, các giác quan, đam mê, thậm chí chính sự sống và mạng sống của con người.

Đàng khác, từ “hết” đặt trước những cơ quan cao quý được xem là thượng đẳng của con người: cõi lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực còn muốn nói rằng, tình yêu dành cho Thiên Chúa khiến con người phải từ chối mọi ngẫu tượng: tiền bạc, tính dục, quyền lực, tư lợi và danh vọng… Bởi chỉ có Thiên Chúa là Chúa mọi sự, trên tất cả mọi sự.

Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nơi Ngài, tình yêu luôn tràn đầy, luôn trao ban, luôn sẵn sàng nên chốn yên bình để ta tìm về. Bởi Thiên Chúa yêu ta trước, Ngài muốn ta đáp lại tình yêu của Ngài bằng chính tình yêu của ta, không phải để Thiên Chúa thêm gì, nhưng là để ta được chiếm ngự chính sự sống và hạnh phúc viên mãn nơi lòng Chúa êm ái và dịu ngọt.

Nhưng chỉ yêu một mình Chúa thôi chưa đủ. Chúa đòi ta phải cụ thể tình yêu mà ta dành cho Chúa bằng cách yêu thương anh chị em. Không phải yêu anh chị em bằng lời nói suông chung chung, nhưng phải yêu họ như yêu chính bản thân ta vậy.

2. Thực hành tình yêu anh chị em, là thể hiện tình yêu của ta dành cho Chúa. Nói cách khác, ta yêu Chúa nơi anh chị em. Trao dâng tình yêu của mình dành cho anh chị em là cách ta chứng minh cụ thể lòng yêu mến Chúa. BỞI YÊU CHÚA THÌ PHẢI YÊU ANH CHỊ EM. YÊU ANH CHỊ EM LÀ BIỂU HIỆN CỦA LÒNG YÊU MẾN CHÚA.

Câu chuyện sau đây giúp ta hiểu và sống tình yêu đối với anh chị em, qua đó, thể hiện lòng yêu mến dành cho Thiên Chúa. Câu chuyện như sau:

Trong túi một cậu bé chỉ còn đúng một đô-la. Cậu đến cửa hàng bên đường hỏi: “Thưa bác, bác có bán Thượng Đế không ạ?”. Người chủ cửa hàng không nói gì, lo ngại cậu bé quấy rối nên mời cậu ra khỏi cửa hàng.

Trời lại sắp tối, cậu bé lần lượt đi hết cửa hàng này đến cửa hàng khác. Cuối cùng, nơi cửa hàng thứ 29, cậu được người chủ tiếp đón nhiệt tình. Đó là một ông lão hơn 60 tuổi, tóc bạc phơ, gương mặt hiền từ. Ông lấy làm lạ vì cậu bé không ra dáng một đứa bé hư hỏng, quậy phá, đồng thời cũng tò mò về “món hàng Thượng Đế” mà cậu muốn mua, nên hỏi lại: “Hãy nói cho ông biết, cháu mua Thượng Đế để làm gì?”.

Cậu khẽ khóc rồi nói: “Cháu là Tony. Cha mẹ cháu mất từ khi cháu còn rất bé. Chú Leo của cháu nuôi dưỡng cháu từ nhỏ đến giờ. Chú của cháu là công nhân xây dựng. Mới đây, chú ngã từ trên cao xuống và đang hôn mê. Cháu nghe được lời của một trong các bác sĩ nói, chỉ có Thượng Đế mới cứu được chú của cháu. Như vậy Thượng Đế chắc phải là một thứ vô cùng kỳ diệu nên cháu muốn mua về để cho chú của cháu ăn. Cháu rất mong chú Leo của cháu nhanh chóng khỏi bệnh ạ!”.
Ông lão đỏ hoe mắt hỏi: “Vậy cháu có bao nhiêu tiền nào?”.
Cậu bé nhanh nhảu đáp: “Cháu có một đô-la ạ!”.
Ông lão vội nói: “Thật may! Giá của Thượng Đế đúng một đô-la cháu ạ!”.
Nói xong, ông vào lấy một chai nước có nhãn hiệu “Nụ hôn của Thượng Đế” và đưa cho Tony. Ông nói: “Cầm lấy đi cháu! Chú của cháu uống hết chai này là sẽ khỏi bệnh!”.
Tony vô cùng mừng rỡ, ôm chai nước vào ngực tức tốc chạy nhanh về bệnh viện. Vừa bước vào phòng bệnh, cậu vui vẻ la to: “Chú ơi! Cháu đem Thượng Đế đến rồi đây! Chú sẽ chóng khỏe lại thôi!”.
Vài ngày sau, một nhóm chuyên gia y học trình độ cao nhất đã đến bệnh viện tiến hành hội chẩn cho chú Leo của cậu bé Tony.
Họ sử dụng kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới để chữa bệnh. Cuối cùng, điều kỳ diệu đã xảy ra, chú Leo của cậu bé hoàn toàn hồi phục. Ngày chú của Tony ra viện, nhìn số tiền viện phí quá lớn ghi trên hóa đơn, anh như suýt ngất xỉu.
Nhưng bệnh viện cho chú của Tony biết: “Mấy hôm trước, có ông lão đến thanh toán hết tiền viện phí cho anh. Ông là một tỷ phú. Trước đây, ông làm chủ tịch một tập đoàn đa quốc gia nhưng bây giờ đã về nghỉ ngơi và ẩn cư bằng cách mở một cửa hàng tạp hóa bán qua ngày. Nhóm chuyên gia y học kia cũng là do ông lão bỏ ra một số tiền lớn để mời đến chữa trị cho anh”.
Sau khi nghe xong câu chuyện, Leo cảm kích vô cùng. Anh mang ơn ông lão vì chính ông đã hoàn lại cho anh sự sống. Lập tức anh cùng cháu trai của mình đến tạ ơn ông.
Nhưng ông lão lại chỉ vào Tony, khẽ nói: “Trước hết, tất cả chúng ta đều phải cám ơn Thượng Đế. Ngài ban cho anh cháu Tony. Chính tình yêu đơn sơ nhưng cháy bỏng của cháu đã kéo Thượng Đế vào cuộc, và Ngài đã trao quyền năng, lòng xót thương của Ngài trên sự sống của anh và cuộc đời chúng ta.
Kế đến, chúng ta cám ơn cháu Tony. Chính sự hiền lành và tình cảm dạt dào của cháu đã khiến tất cả những ai nghe biết đều phải mềm lòng trước nỗi đau của đồng loại.

Chúng ta cám ơn những người đã được Thượng Đế dùng như dụng cụ của Ngài để cứu sống anh.

Chúng ta cám ơn nhau, vì mỗi chúng ta đều cần đến nhau. Tôi tặng anh chút tiền trong khối tài sản của mình, nhưng anh đã cho tôi niềm vui trọn đời. Vì từ nay, chỉ cần nhìn thấy anh hạnh phúc bên cháu Tony nhỏ bé là tôi hạnh phúc vô cùng. Chắc chắn sẽ không còn nỗi buồn nào xâm chiếm tâm hồn tôi.

Tôi cám ơn anh. Căn bệnh của anh càng lúc càng khiến tôi tin mãnh liệt vào Thượng Đế. Nơi cái chết mà anh trải qua và sự sống kỳ diệu của anh hôm nay là bằng chứng của tình yêu mà Thượng Đế ưu ái dành cho chúng ta.

Cuối cùng, tôi tin rằng, trong cuộc sống này, NẾU TÌNH NGƯỜI ĐỦ LỚN, thì dù chỉ một đô-la, vẫn đủ sức cứu sống một con người, anh ạ…”.

Về mục lục

 

LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Có người đã nhận định một cách khôi hài: từ miệng đến bàn tay, khoảng cách không bao xa, mà phải mất nhiều thời gian đến thế! Cũng từ miệng đến bàn tay, chẳng bao xa, mà lời nói đã phôi phai nhạt nhòa. Điều đó có nghĩa, việc làm cụ thể phù hợp với lời nói thật khó biết bao. Người ta thường nhắc đến những mỹ từ, những công thức văn chương, như những câu thuộc lòng, nhưng ít khi người ta chú trọng đến việc thực hiện những ngôn từ ấy trong cuộc sống cá nhân của mình. Trung tín và làm theo những gì đã nói, quả thật là một điều thật khó khăn. Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta suy tư về điều này, đồng thời nhắc ta hãy cố gắng làm cho lời nói đi đôi với việc làm.

Lâu nay, trong quan niệm truyền thống, các ngành nghề như bác sĩ, giáo viên luôn được tôn trọng, vì họ là những người làm việc theo lương tâm nhà nghề. Tuy vậy, nhiều sự kiện xảy ra gần đây cho thấy, những người mang danh hiệu cao quý này cũng đánh mất niềm tin, có nghĩa là lời nói của họ không đi đôi với việc làm. Đáng buồn hơn nữa, giữa những cộng đoàn đức tin hoặc những người lãnh đạo tinh thần của các cộng đoàn, việc làm của họ cũng không phản ánh trung thực như những gì họ thường tuyên xưng. Đó chính là một rào cản lớn cho sự phát triển của Giáo Hội và cho công cuộc truyền giáo. Làm sao mà chứng từ của chúng ta có tính khả tín, khi giữa cộng đoàn đức tin còn nhiều tranh chấp, chia rẽ, khi lối sống của chúng ta hoàn toàn đi ngược với những gì chúng ta nói và rao truyền?

“Hỡi Israen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy, anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em”. Qua những lời này, ông Môi-sen muốn khẳng định với những người Do Thái: những mệnh lệnh Chúa truyền dạy không thể chỉ được lắng nghe, nhưng phải được thực hành. Một số người Do Thái đạo đức quá chú trọng đến tuân giữ Lề luật một cách tỉ mỉ, mà lại lãng quên việc thực thi tinh thần của Lề luật. Vì vậy, Chúa đã khiển trách họ: “Dân này chỉ tôn kính Ta bằng môi bằng mép, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6). Thực hành lời Chúa dạy là bảo đảm cho chúng ta được hạnh phúc đời này và đời sau. Lời hứa miền đất tràn trề sữa và mật, trong truyền thống Do Thái, là niềm hy vọng nuôi dưỡng niềm tin của dân riêng Chúa đã chọn. Đối với người Ki-tô hữu, đó chính là hạnh phúc đời đời Thiên Chúa ban cho những ai thực thi lòng mến Chúa yêu người.

Mến Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Có thể nói, hai vế của giới luật này bao gồm lý thuyết và thực hành. Bởi lẽ, yêu mến Chúa chỉ được thể hiện qua những công thức hoặc qua những lời cầu nguyện tôn vinh, còn yêu tha nhân thì phải được thực hành bằng những việc làm cụ thể. Nói mến Chúa xem ra không khó, nhưng yêu người thực sự là vô cùng khó khăn. Những ai chỉ khẳng định mình mến Chúa, mà trong thực tế, không thực hiện đức yêu người, xem ra họ chỉ dừng lại ở lời nói, mà chưa thể hiện qua việc làm.

Trước câu hỏi của ông kinh sư: “Đâu là giới răn hàng đầu?”, Chúa Giê-su muốn nhắc lại giới răn quan trọng của Cựu ước, là giới răn mến Chúa yêu người. Theo nội dung Tin Mừng, dường như Chúa Giê-su muốn kết hợp hai giới răn này thành một, khi Người gọi vế thứ nhất là “điều răn đứng hàng đầu, và sau đó Người tuyên bố: “Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều đó”. Như thế, giáo huấn của Chúa thâm sâu hơn giáo huấn của Cựu ước. Lời kinh được ghi trong sách Đệ nhị luật (Bài đọc I) được gọi là “Shema Israel – Nghe đây, Israel” được coi như kinh Lạy Cha của các Ki-tô hữu hôm nay. Đó là lời kêu gọi hãy mến Chúa một cách trọn vẹn. Giáo huấn của Chúa Giê-su không chỉ dừng lại ở tâm tình mến Chúa, mặc dù đó là tình mến “hết lòng, hết dạ, hết sức”, nhưng thúc đẩy mọi người chứng tỏ tình mến ấy qua những hành động cụ thể với những con người bằng xương bằng thịt đang sống xung quanh.

“Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu!”. Đây vừa là lời tán thưởng, và cũng là lời cảnh báo. Chúng ta không biết rõ ông kinh sư có thực thi những gì Chúa dạy, hay ông chỉ học thuộc lòng như một cái máy. Tác giả Mác-cô kết luận: “Không ai dám chất vấn Người nữa”. Đây là cách diễn tả rất độc đáo của Thánh Mác-cô, vì dưới ngòi bút của tác giả, lời giảng dạy của Chúa Giê-su luôn có sức thuyết phục ngay cả những đối phương của Người, vì Người là vị Ngôn sứ cao cả và uy quyền.

Lời nói phải đi đôi với việc làm, mến Chúa phải được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân. Đó là thông điệp quan trọng mà Lời Chúa muốn nhắn gửi chúng ta. Thành tâm đón nhận và chuyên cần thực thi Lời Chúa sẽ giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc trong tâm hồn, và hân hoan tin tưởng hướng về đời sau.

Về mục lục

.

LUẬT TỐI THƯỢNG

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:

Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.

Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.

Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?

2) Tại sao ta phải yêu mến tha nhân?

3) Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?

Về mục lục

.

SỐNG YÊU THƯƠNG GIỮA THẾ GIỚI HẬN THÙ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Hàng ngày đọc tin tức ta sẽ thấy chán ngán thế sự mà thốt lên như Nguyễn Du đã từng than rằng:

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

Vâng”, mạng xã hội chúng ta sẽ thấy gì?

Tôi đã thấy mộtbác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.

Tôi cũng thấy những nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt, những sinh viên ra trường phải trao thân mới có việc làm. Tôi còn thấy bộ trưởng gíao dục mặc nhiên cho phép sinh viên bán dân 3 lần, nếu lần thứ tư mới bị đuổi học!

Tôi còn thấy những bảo mẫu đánh trẻ không chút nương tay. Những nghịch tử bất hiếu ra tay độc ác với đấng sinh thành.

Tôi không chỉ thấy một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc,màcả người vợ ân ái lại chặt chồng thành nhiều khúc vất vương vãi trên đường.

Tôi thấy người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp… Còn rất nhiều tin.

Đây là những hình ảnh đáng buồn của con người Việt Nam hôm nay.  Sự hoà khí, hoà hợp giữa con người với nhau đang mất dần mà thay vào đó là bạo động, là tranh chấp, thù hận. . . Ngày nay, người ta có thể đánh nhau, thậm chí giết người vì những nguyên nhân nhỏ nhặt. Chuyện đi đường va chạm giao thông, va chạm không xin lỗi, nhìn đểu, nói lớn tiếng, nặng lời,…đều dẫn đến ẩu đảgây thương tích cho nhau.

Không chỉ bạo lực trong sinhhoạt thường ngày mà ngay cả những nơi thánh thiêng của lễ hội Chùa chiền vẫn có những thảm án đẫm máu bởichen lấn, giành giựt . . . như ở Đền Trần hay Đền Gióng  , . . .

Các chuyên gia tội phạm cho rằng đây là hệ lụy của sự vô cảm, thái độ sống ích kỷ, chỉ biết mình, tâm lý chụp giật, tôn thờ vật chất, sống thực dụng… dẫn đến thái độ sống thơ ơ trước nỗi đau đồng loại, vô cảm trước việc làm sai trái xảy ra hàng ngày.

Xã hội là vậy nhưng còn người Công giáo thì sao? Liệu chúng ta có thể sống làm chứng cho tình yêu như Thiên Chúa mời gọi hay không?

Trong những dịp bác ái cứu trợ tôi thấy người Công giáo ít ra không vô cảm với khổ đau của tha nhân. Ai cũng rộng lòng của ít lòng nhiều cùng chia sẻ với những người bị thiên tai. Tôi cũng thấy rất nhiều những cá nhân tự nguyện dấn thân để đem tình thương đến cho người nghèo, người tâm thần, người bất hạnh qua những chén cơm, chén cháo đầy tình nghĩa. Tôi cũng thấy nhiều giáo xứ, nhiều đoàn hội bao bọc cho một cô nhi viện hay một nhà dưỡng lão dành cho người vô gia cư.

Đây là nét đẹp của người Công giáo. Đây là điểm son mà chúng ta cần phát huy hơn nữa. Vi chưng “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta là người ky-tô hữu phải biết sống yêu thương. Yêu thương là lẽ sống của người tín hữu. Yêu thương cũng là nét đẹp của người tín hữu. Yêu thương là trở nên giống Thầy Giê-su. Vì Thầy đã từng làm gương về một đời sống yêu thương.

Cuộc đời Chúa Giê-su luôn yêu thương. Ngài yêu thương nhân loại nên luôn xả thân cứu người. Từng hơi thở. Từng bước chân của Ngài luôn là những nhịp cầuyêu thương. Ngài đã trở nên khuôn mẫu cho mọi tình yêu, vì “không có tình yêu nào cao quý hơn, tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”.

Hôm nay Chúa bảo người biệt phái: “ông không còn xa Nước Trời bao nhiêu”. Từ ngữ không còn xa như muốn nói tình trạng của ông hiểubiết luật nhưng chưa thực sự sống yêu thương. Ông hiểu luật. Ông biết luật mến Chúa yêu người. Nhưng cái biết còn phải đi đến thực hành mới vào được Nước Trời.

Là người ky-tô hữu Chúa cũng bảo “không phải ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu”. Điều quan yếu là thực hành những điều Chúa dạy mới được ở bên Chúa trong Nước Trời.

Ước gì chúng ta hãy noigương ThầyGiê-su để trở thành con người đẹp, con người có nhân cách, có nghĩa khí trước mặt mọi người. Xin cho chúng ta được vào Nước Trời khi sống những điều mình tin bằng việc mang ra thực hành lời Chúa dạy. Amen

Về mục lục

.

LUYỆN LÒNG NHÂN

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Lòng nhân ái liên quan đến lòng mến Chúa, như là thước đo của lòng mến. Nhân ái là một thành phần quan trọng của con người vốn có và có thể mất đi nếu không chuyên lo bồi dưỡng và thực luyện. Chúa Giê su dạy: Mến Chúa hết lòng hết sức và tha nhân cũng yêu mến như vậy. Luyện lòng nhân ái thế nào như Chúa muốn?

Nuôi dưỡng tâm tình tạ ơn từ buổi sớm:

Lòng nhân không ở bên ngoài mà ở bên trong tâm hồn của chính mình. Thế nên, nuôi dưỡng lòng nhân trước tiên là nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng cách nhìn ra những hồng ân Chúa ban. Tạ ơn vì một ngày mới, một sự sống mới của ngày bắt đầu, những bạn bè, những công việc, biết bao điều tốt lành Chúa ban. Nuôi dưỡng là bơm vào tâm hồn mình những điều tích cực để sống ngày vui tươi. Chúa Giê su cũng đã thực hiện như thế mỗi buổi sớm lên núi cầu nguyện và dâng lên tâm tình tạ ơn: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Mt 11, 25)

Nuôi dưỡng tâm hồn cảm thông.

“Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36). Ai trong chúng ta đều cần có sự cảm thông, vì mỗi người đều có những nỗi niềm riêng và cả những lúc bồng bột trong lời nói, việc làm làm phiền lòng người khác. Lắm lúc chẳng hiểu về chính mình tại sao lại như thế! Cảm thông là một điều cần thiết tạo nên tính hiệp thông, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn, san sẻ những lo âu, buồn phiền, giúp nhau sống tốt hơn qua những thăng trầm.

Thực hành cảm thông

Cảm thông xuất phát từ lòng nhân ái và từ trong lòng sẽ xuất hiện cần làm gì cho người khác vơi bớt đau khổ. Trong nhiều trường hợp, Chúa Giêsu chữa người què, cho người mù được thấy, chữa những tâm hồn tan nát bằng lòng thương xót… Chính lòng nhân sẽ chỉ làm gì tốt nhất, từ lời nói, việc làm. Khi thực hành lòng nhân, chính mình sẽ thấy nhu cầu chung của mọi người, dù giàu sang hay thấp hèn là đi tìm hạnh phúc và hạnh phúc chỉ tìm thấy được khi sống niềm vui với người khác.

Tình yêu cao quý là tình yêu chết cho người mình yêu, mang lấy thập giá cuộc đời của nhau. “Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1Pt 2, 21 – 24)

Nguyên Tắc Vàng

“Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12)

Một điều rất đơn giản trong cuộc sống tương quan, thế nhưng cũng đã bao lần làm cho những người khác điều không thích cho mình. Có nhiều nguyên nhân:

Biết nghĩ cho mình mà không biết nghĩ cho người. Biết tốt cho mình mà không biết tốt cho người… Chung quy cũng vì cái tôi ích kỷ mà đánh mất người khác trong trái tim mình. Bao nhiêu điều sống phiền lòng anh chị em cũng vì cái tôi ích kỷ.

Để sống như Chúa dạy, đôi khi làm ơn mắc oán, đôi khi bị hiểu lầm, hoặc mình hiểu lầm người khác…

Nuôi dưỡng đức ái.

Bằng những thực hành cụ thể, Thánh Phaolô phác họa con đường đức ái: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1 Cor 13, 4 – 7)

Dành buổi tối kiểm lại đời sống.

Những gì đã làm được và chưa làm được. “Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4, 26). Quyết tâm hơn mỗi ngày “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48)

Xin Chúa dạy chúng con có lòng thương cảm như Chúa, biết đem ra thực hành Lời Chúa mỗi ngày và sửa lại những lỗi lầm với anh chi em mà chúng con đã vấp phạm.

Về mục lục

.

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đạo Công giáo có mười giới răn. Những giới răn này do ông Môsê nhận từ  Thiên Chúa trên núi Sinai, để dạy dỗ dân chúng sống theo luật Chúa. Do Thái giáo khi xưa cũng dựa trên Thập giới để răn bảo dân chúng sống theo đường lối của Chúa. Tuy nhiên, qua nhiều thế hệ, họ đã chú giải thêm thành 613 điều luật.Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm không được làm. Họ không đồng ý với nhau được điều răn nào là điều răn trọng nhất, nên hôm nay mới có câu chuyện một luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu :” Trong các giới răn, điều nào trọng nhất ? “.

Vâng, người luật sĩ là người rất thông luật trong Đạo Do Thái, tuy nhiên đứng trước nhiều luật lệ khuyên làm và cấm làm. người  luật sĩ này cũng phân vân không biết đâu là điều luật quan trọng và đâu là điều con người phải hết sức trân trọng, giữ gìn. Chúa Giêsu đã không trả lời úp mở với người này. Ngài nói ngay:”Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi.Còn giới răn thứ hai : Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi “ ( Mc 12,30-31 ). Chúa Giêsu trích dẫn đoạn văn Shema của dân Ít-ra-en : Sách Đệ Nhị Luật đoạn 6,4-5 :” Nghe đây hỡi Ít-ra-en …”. Đây chính là đoạn văn tóm kết tất cả nội dung và giáo huấn quan trọng trong Sách Luật :” Mến Chúa và Yêu người”. Thực vậy, Đức Giêsu đã nâng giới răn yêu người ngang tầm với mến Chúa. Ngài đã đưa luật yêu người lên tầm cao mới, chiều sâu mới nghĩa là “Nếu ai nói mến Chúa mà không yêu người, đó là người nói láo như thánh Gioan đã quả quyết dứt khoát, mãnh liệt :” Nếu ai nói : “ Tôi yêu mến Chúa “ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy,thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy “ ( 1Ga 4, 20 ).

Thiên Chúa không hiện ra như đã trực tiếp ở với các môn đệ khi xưa để dạy dỗ, uốn nắn các ngài và minh chứng cho các ngài Lòng Thương Xót của Ngài. Ngài dạy các môn đệ thờ lạy một Thiên Chúa duy nhất và yêu mến tha nhân như chính mình. Ngày nay, Chúa cho chúng ta sống bên cạnh những người xung quanh, họ là hiện thân của Chúa. Chính vì thế, khi chúng ta giúp đỡ,chia sẻ và yêu thương họ là chúng ta cũng đang yêu thương Chúa.Thiên Chúa thật rộng lượng bởi vì qua Đức Giêsu, Ngài đã đồng hóa minh với người đói, người khát, người rách rưới, người nghèo, người tù tội vv…và mỗi lần chúng ta giúp đỡ một trong những người này là gchúng ta đang giúp chính Chúa.

Chúng ta dành cho Chúa những tình cảm sâu xa,trái tim tinh tuyền của mỗi người chúng ta bởi vì Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, chậm bất bình và hết mực yêu thương. Đàng khác với những cử chỉ chân thành, một nụ cười, một lời nói dịu dàng, yêu thương, chúng ta có thể sưởi ấm tâm hồn của những người đang gặp thử thách, những tâm hồn băng giá cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự giới hạn của tình yêu bình thường của con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo của tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa cũng là thước đo tình yêu của chúng ta đối với nhau.  Yêu như Chúa yêu :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời nói của thánh Augustinô :” Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo.Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn.Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân”.Xin cho chúng con luôn xác tín : Chúng con chỉ thực sự mến

Chúa khi chúng con hết lòng yêu mến tha nhân.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Người luật sĩ Do Thai đã hỏi Chúa Giêsu điều gì ?

2.Chúa Giêsu đã đáp lại làm sao ?

3.Tại sao nói mến Chúa mà không yêu anh em là người nói dối ?

4.Thánh Gioan đã nói sao về việc này ?

5.Tại sao không yêu thương nhau, chúng ta không thể mến Chúa ?

Về mục lục

.

THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA

QUA VIỆC PHỤC VỤ THA NHÂN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Trong đạo Do-Thái, từ “Mười Điều Răn” Đức Chúa Trời ban cho ông Mô-sê trên núi Xi-nai, các thầy Ráp-bi diễn giải thêm thắt thành 613 điều khoản, trong đó có 248 điều buộc và 365 điều cấm.

Khi có người thông luật đến hỏi xem điều răn nào trọng nhất trong số 613 khoản luật ấy, Chúa Giê-su trả lời ngay: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi (Đnl 6,5); Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mác-cô 12, 29-31)

Chúa Giê-su nhập hai giới răn thành một

Điều răn mến Chúa được ghi trong sách Đệ Nhị Luật, điều răn yêu người được chép ở sách Lê-vi, thuộc về hai bộ sách khác nhau đã được Chúa Giê-su liên kết thành một điều răn duy nhất là mến Chúa yêu người.

Thế nhưng, có nhiều tín hữu vẫn xem việc mến Chúa và yêu người là hai điều riêng biệt, chẳng liên hệ gì đến nhau. Người ta tưởng có thể hết lòng tôn kính phụng thờ Thiên Chúa nhưng đồng thời vẫn ghét bỏ, bạc đãi con người.

Chúa Giê-su phá bỏ quan điểm sai lầm đó khi nối kết giới răn mến Chúa và yêu người thành một và Người nhấn mạnh rằng chính khi yêu người cũng là lúc mến Chúa và tình yêu đối với Thiên Chúa phải được thể hiện qua tình yêu thương anh chị em chung quanh và những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa.

Tại sao lại như thế?

Thiên Chúa và con người chỉ là một

Khi Sao-lê bắt bớ các tín hữu đầu tiên theo Chúa Giê-su, ông bị Chúa Giê-su quật ngã trên đường Đa-mát và Người lên tiếng quở trách: “Sao-lê! Tại sao ngươi bắt bớ Ta?”

Thực ra, lúc bấy giờ, Sao-lê chỉ lùng bắt các tín hữu của Chúa Giê-su thôi, còn Chúa Giê-su thì đã phục sinh và lên trời rồi thì làm sao có thể bắt bớ Người được. Vậy mà Chúa Giê-su không hạch ông: “Tại sao ngươi bắt bớ các tín hữu của Ta”, mà lại nói: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta” (Cv 9, 4).

Sở dĩ Chúa nói như vậy là vì các ki-tô hữu là hiện thân của Chúa, là những chi thể trong thân mình Người, nên ai bắt bớ họ là bắt bớ Chúa.

Đặc biệt qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su dạy cho ta biết Người đồng hóa mình với những anh chị em chung quanh khi phán rằng: “Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” và “những gì các ngươi đã không làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. (Mt 25, 40.45)

Dựa vào lời dạy trên đây của Chúa Giê-su, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI, qua sứ điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” cũng xác nhận rằng Thiên Chúa và con người chỉ là một. Ngài viết:

“Chúa Giê-su đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. Người phán: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25:40) Như thế, mến Chúa và yêu người đã trở thành một: Trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu… (sđd số 15)

Việc phụng thờ Thiên Chúa phải đi đôi với việc phục vụ con người.

Phát xuất từ sự thật Thiên Chúa đồng hóa với con người và những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa Giê-su, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI dạy rằng việc phụng thờ Thiên Chúa phải đi đôi với việc phục vụ con người, không được phép xao lãng một trong  hai. Ngài viết: chúng ta “không thể tách rời tình yêu mến Thiên Chúa và tha nhân vì cả hai chỉ là một giới răn duy nhất.” (sđd số 18)

Qua số 22 trong sứ điệp nầy, Ngài viết tiếp:

Vì thế, “tình yêu đối với các quả phụ, kẻ mồ côi, người bị tù đày, người bệnh tật và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thì cũng thiết yếu đối với Hội Thánh như là cử hành các bí tích và rao giảng Tin Mừng. Hội Thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là việc ban các bí tích và rao giảng Lời Chúa.” (sđd số 22)

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa tự đồng hóa mình với con người và mỗi người thật sự là một phần thân thể của Chúa là một sự thật lớn lao cao cả trước mắt mọi người; thế mà tiếc thay, không mấy ai nhìn thấy, không mấy người nhận ra; mà vì không nhận ra sự thật cao cả nầy nên con người liên tục gây ra vô vàn đau thương, bất hạnh cho nhau trên cõi đời nầy.

Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con và cho toàn thể nhân loại, để Người khai mở tâm hồn mọi người nhận ra sự thật vĩ đại nầy; nhờ đó, nhân loại sẽ luôn được sống trong hòa bình và yêu thương.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU LÀ SỰ HOÀN THIỆN CỦA CON NGƯỜI

Lm. GB. Trần Văn Hào

Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời này có thể sống mà không yêu một người nào hay yêu một cái gì. Bao giờ trái tim còn rung lên những nhịp đập, bao giờ đôi mắt còn nhìn thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn bên kia đồi, bao giờ còn khoảng cách mênh mông của những vì tinh tú trên bầu trời cao, con người còn phải yêu để sống”.

Tư tưởng của nhà văn ngụ ý nói rằng tình yêu là một nhu cầu thiêng liêng và cao quý của kiếp sống hiện sinh nơi mỗi người chúng ta. Chỉ có gỗ đá và thú vật mới không biết rung cảm và yêu thương, còn đã là người, chúng ta cần phải yêu để có thể tồn tại. Đó là quy luật thiết yếu mà Thiên Chúa đã đặt để nơi cuộc sống mọi người.

Nhưng thật trớ trêu, người ta đã và đang lợi dụng cũng như bóp méo ý niệm thân quen này. Có những tình yêu đáng lẽ rất trong sáng, lại bị đánh đổi bằng chút ít tiền bạc. Có những tình yêu thoi thóp nơi những trái tim chỉ biết đợi, biết chờ mà không bao giờ được đáp trả. Có những bạn trẻ lao đầu vào những cuộc tình quái gở, vội trao ban những gì quý giá nhất của đời con gái để suốt đời phải ôm một nỗi sầu mênh mang. Có những con người điên điên khùng khùng rao bán tình yêu chỉ với vài ba chỉ vàng, hoặc dùng vốn tự có để đổi lấy một mảnh tình rách. Biết bao phũ phàng và xót xa vẫn đang xảy ra đặc biệt nơi các bạn trẻ, khi họ muốn vươn tới một tình yêu trong sáng nhưng không thể nào có được. Ai cũng biết và cảm thấu sự cao quý của tình yêu, nhưng tình yêu thực sự là gì?

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay vạch dẫn cho ta câu giải đáp. Những môn đệ của Đức Giêsu phải thâm tín rằng không thể có một tình yêu chân chính nếu không quy tập về chính Thiên Chúa, bởi lý do giản đơn như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nói cách khác, Thiên Chúa vốn tự bản chất là Tình yêu, đã thiết định một lề luật căn bản nơi nội tâm mỗi người, đó là luật yêu thương. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, con người càng trở nên hoàn hảo, và trở nên giống Thiên Chúa.

Giới răn quan trọng nhất

Mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư mà Tin mừng hôm nay thuật lại xoay quanh chủ đề ‘Đâu là giới răn quan trọng nhất’. Chủ đề này đã được Đức Giêsu lập đi lập lại khá nhiều lần, ví dụ qua bài giảng trên núi, hoặc khi Ngài nói chuyện với chàng thanh niên muốn nên trọn lành, và đặc biệt trong diễn từ Chúa nói với các học trò trước khi đi thụ nạn. Quả thật, Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo, nhưng để công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Ngài chính là bí tích biểu thị tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3, 16). Đức Giêsu chính là nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, đồng thời cái chết của Ngài trên Thập giá chính là câu định nghĩa hoàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho ta. Tình yêu mà Ngài nói tới không phải là những biểu hiện tình cảm ngốc nghếch mà rất nhiều bạn trẻ thường hay nghĩ tưởng. Chúa nói với các môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta phải học, phải hiểu và phải sao chép lại chính tình yêu mà Đức Giêsu đã diễn bày.

Tình yêu mà Chúa Giêsu khai mở và giải thích cho vị kinh sư khi ông ta đến hỏi Ngài gồm hai chiều kích: đối nhân và đối thần, tức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại. Thực sự đây là hai cách diễn bày, nhưng tình yêu chỉ là một thực tại duy nhất. Thánh Giacôbê đã viết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là người nói dối” Cụ thể, chúng ta không thể nào mở miệng thưa với Chúa: “Lạy Chúa con yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự”, mà lại không thể nở một nụ cười thân thiện với người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta vẫn mở miệng đọc kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”, nhưng lắm khi chúng ta vẫn ôm nơi mình biết bao dao găm và lựu đạn khi đến nhà thờ cầu nguyện với Chúa. Những lời cầu nguyện như thế rất giả dối, nhằm đánh lừa Thiên Chúa và rốt cục chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.

Tình yêu là sự hoàn thiện của con người.

Thánh Phanxicô Salê, tiến sĩ về đức ái, đã viết: “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu”. Vì thế, càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng vươn đạt đến sự hoàn thiện theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành.” Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đến trần gian để khải thị cho ta Tin mừng về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói chuyện với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã vén mở cho ông điều này. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là câu tóm kết toàn bộ sách Tin mừng, diễn tả sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Ngài đi vào trần gian để loan báo cho ta về tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là tột đỉnh diễn bày tình yêu tuyệt vời này. Trong 3 năm rao giảng, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, ngôi trường đó mang tên Trường học Tình yêu. Ngài quy tập những người học trò để truyền thụ cho họ một môn học duy nhất, đó cũng chính là môn học về tình yêu. Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu để lại cho các môn sinh bản di chúc tối hậu: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”; “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau.”

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay cha nó ôm đón khi nó trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi tâm sự sát kề bên Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí một tên cướp khét tiếng, với một quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được chính Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, là một nghịch lý vĩ đại và tình yêu ấy trở thành khuôn mẫu nội tâm để tất cả chúng ta noi theo.

Yêu như Chúa yêu

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn căn bản về tình yêu. Tình yêu mà Đức Giêsu mời gọi không mang dáng vẻ lãng mạn và ủy mị như nhiều bạn trẻ thường hay mơ nghĩ. Chúa Giêsu đã sống tận căn mầu nhiệm tình yêu và Ngài mời gọi các học trò hãy sao chép lại tình yêu ấy. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái chết trên Thập giá là câu định nghĩa tuyệt vời nhất về tình yêu mà Đức Giêsu diễn bày, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta dần dần tiến sâu vào quỹ đạo yêu thương độc đáo này.

Thánh Gioan Tông đồ là chuyên gia về tình yêu. Khi tự giới thiệu về mình, vị tông đồ đã không theo kiểu cách thế gian. Ngài không khoe khoang chức vụ hay học vị của mình như người đời vẫn hay làm, ví dụ: ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc, Tiến sĩ này, thạc sỹ nọ v..v. Thánh Gioan chỉ nói đơn giản về bản thân mình là ‘Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến’. Trong bữa tiệc ly, Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa, lắng nghe những nhịp đập từ con tim thổn thức của người Thầy quý mến. Đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria, Gioan cũng chứng kiến trái tim Chúa mở toang, vọt trào cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng, biểu tượng tình yêu dạt dào như một dòng chảy bất tận. Cảm nghiệm được tình yêu sâu xa này, nên trong Tin Mừng thứ tư và đặc biệt trong cả 3 lá thư Ngài viết, Thánh Gioan hầu như chỉ nói đi nói lại một chủ đề duy nhất, đó là tình yêu “ Hãy yêu như Thầy đã yêu.” Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái cũng nhắc đến hiến tế Thập giá của Đức Giêsu, như là nguyên mẫu cho tình yêu mà chúng ta được mời gọi sao chép lại.

Kết luận

Để kết luận, tôi xin trích dẫn một câu chuyện ngắn của tác giả Trường Long. “Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ nó: Sao mẹ lại đuổi bố? Mẹ trả lời “Tại bố hư.” Để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, Người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chộp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên bắt đền. Mẹ nó dỗ: “Anh này hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần”. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố? Bà mẹ trẻ nhìn xa xăm rồi thở dài: “Ừ, thì ra mẹ cũng hư.”

Chúng ta cũng dễ thường hay ‘hư’ như thế vì đã không sống triệt để mầu nhiệm tình yêu, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tình yêu đó đòi hỏi chúng ta phải biết sẵn sàng cho đi và biết quảng đại tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy lập lại tâm tình trong kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha….”. Chúng ta cũng nhớ lại lời dạy của Thánh Augustinô: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis).

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Các thầy Luật Sĩ hỏi rằng:
Điều nào trọng nhất, giới răn luật truyền.
Hỡi Is-ra-él nghe khuyên,
Hãy yêu Thiên Chúa, tinh tuyền trí khôn.
Hết lòng, hết sức linh hồn,
Giới răn tiếp nối, kính tôn mọi người.
Yêu thương như chính mình ngươi,
Hai điều trọng nhất, gọi mời thực thi.
Thưa Thầy, đúng lẽ ai bì,
Ba Ngôi duy nhất, từ bi vô ngần.
Mến yêu Thiên Chúa, tha nhân,
Thì hơn lễ vật, ân cần dâng lên.
Toàn thiêu hy lễ trong đền,
Quan tâm nghi thức, để trên bàn thờ.
Lòng thành tâm thiện mong chờ,
Thương yêu bác ái, đơn sơ chân thành.

Giới răn trọng nhất chính là: Yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh chị em như chính mình. Hai giới răn gồm tóm tất cả điều luật Chúa truyền. Chúng ta có thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, nhưng khó mà yêu anh chị em. Thiên Chúa vô hình làm sao chúng ta có thể đo lường được tình yêu của chúng ta dành cho Chúa. Nếu chúng ta nói chúng ta yêu Chúa mà ghét anh em mình, chúng ta là những kẻ nói dối.

Anh chị em là những người ngay bên mà chúng ta không yêu thương được, thì làm sao chúng ta có thể yêu thương Đấng mà chúng ta không thấy và không cảm được. Chúa mời gọi chúng ta không những yêu thương anh chị em mà còn yêu cả kẻ thù. Yêu anh chị em không dễ đâu, vì ngay cả những người trong gia đình đôi khi còn khó thương.

Yêu tha nhân bao gồm mọi thành phần và không phân biệt. Không chỉ yêu những người chúng ta quen biết hay giầu sang phú qúi hoặc có danh vọng. Yêu mọi người không trừ một ai. Chúa đã yêu thương nhân loại. Chúa yêu thương chúng ta trước. Ngài hạ thân làm người cũng chỉ vì yêu. Chúa đã yêu đến nỗi đã hy sinh mạng sống vì người yêu. Một tình yêu vô điều kiện. Chỉ có tình yêu mới có thể làm những việc vĩ đại như thế. Đôi khi người ta nói yêu như điên rồ.

Tại sao mẹ Têrêxa và các Nữ tử Bác Ái dám ôm những kẻ cùi hủi, bệnh hoạn, vết thương hôi thối vào trong lòng ? Các Dì đã nhìn thấy gì nơi những người hấp hối, nếu không phải là hình ảnh của Chúa Kitô. Làm sao các Dì dám động sờ vào vết thương lở loét hôi thối và bẩn thỉu đó? Tình yêu của Chúa phủ trùm tất cả.

Tình yêu dẫn chúng ta đến việc hy sinh và phục vụ tha nhân. Chúa ẩn náu nơi những kẻ nghèo hèn và nơi những mảnh đời bất hạnh. Mỗi lần chúng ta bày tỏ tình yêu thương với họ là chúng ta đang bày tỏ tình yêu thương chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đồng hóa chính mình với những kẻ bần cùng nhất. Phục vụ tha nhân là phục vụ chính Chúa

Yêu Chúa, yêu người sẽ hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh. Lạy Chúa, chúng con yêu mến Chúa. Xin cho chúng con biết chia xẻ tình yêu Chúa nơi anh chị em chúng con.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN_B

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em,

Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Những gì Chúa muốn nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta cũng dư biết. Ở đây tôi chỉ xin được đưa ra một vài nhận định để rồi sau đó chúng ta cố rút ra một vài bài học thực tế cho chúng ta.

  1. Trước hết là vấn đề được đặt ra với Chúa hôm nay.

Đây là vấn đề vốn được bàn cãi rất nhiều trong giới Rabbit Do thái.

Vào thời của Chúa Giêsu thì Luật được coi là chính thức gồm 613 điều trong đó có 248 điều buộc phải làm và 365 điều cấm không được làm.

Vấn đề mà người luật sĩ đặt ra với Chúa hôm nay không phải là vấn đề con số nhưng là giá trị. Trong số những khoản luật đó, khoản nào là quan trọng nhất?

Để trả lời, Chúa Giêsu đã trưng ra hai điều luật tương đối được nhiều người cho là quan trọng. Điều thứ nhất như sau:

“Hỡi Israel, hãy nghe đây, Giavê Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất

Đây là điều mà người Do thái coi là hết sức quan trọng. Chính vì thế mà

+ họ phải được đọc câu này lên mỗi khi khởi sự giờ thờ phượng trong nhà hội,

+ những người Do thái ngoan đạo còn ghép câu này lại trong các thẻ bài bằng da rồi đeo trên trán và trên cườm tay để đọc mỗi khi cầu nguyện

+ Rồi còn được chép lên một tấm bảng đặt vào trong một hộp nhỏ hình trụ gọi là Mezuzah để treo lên trước cửa nhà cũng như trên cửa các phòng trong nhà, để nhắc cho người ta nhớ đến Chúa lúc đi ra cũng như đi vào.

Khi Chúa Giêsu trích dẫn câu này và coi như một điều răn quan trọng, thì ai cũng thấy điều đó là quá đúng rồi, không còn phải bàn cãi chi nữa.

Tiếp đến Chúa trưng ra một câu thứ hai. Câu này được trích từ sách Lêvi 19,18.”Hãy yêu thương người lân cận như chính mình” Trong câu này, Chúa Giêsu có sửa đổi lại một chút. Sách Lêvi xác định rất rõ kẻ lân cận là người Do thái, chứ không bao giờ bao hàm cả những người ngoại bang, là kẻ mà dân Do thái được phép thù ghét. Còn Chúa khi trích dẫn câu này thì Ngài không xác định, cũng không giới hạn đối tượng của nó. Như vậy Ngài đã lấy một điều luật cũ rồi đổ vào đó một ý nghĩa mới.

Và sau đây mới là điều hoàn toàn mới: Chúa ghép chung hai điều răn này lại với nhau. Trước đó chưa hề có một rabbit nào dám làm như vậy. Với việc ghép chung lại như thế, Chúa muốn xác định một cách dứt khoát đạo của Chúa là đạo Tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Và Ngài cũng ngụ ý dạy rằng phương pháp duy nhất để người ta chứng minh được mình yêu mến Thiên Chúa  yêu thương người khác.

Ông kinh sư hôm nay quả là một người rất thông minh. Ông nắm bắt được ý của Chúa một cách rất nhanh. Ông cũng là người biết tôn trọng sự thật, dám công khai nhìn nhận những điều Chúa dạy là đúng là phải trước mặt mọi người.

  1. Nội dung câu chuyện đơn sơ như vậy, nhưng nó cho chúng ta thấy cốt lõi đạo của Chúa nằm ở chỗ nào: Nằm trong hai tiếng yêu thương.

Thánh Gioan Tông đồ viết: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu. (1Ga 1, 7- 8).

Albert Camus một nhà văn lớn của Pháp tuy không có cảm tình gì mấy với Chúa Giêsu nhưng ông cũng đã nói một cách rất chân thành: “Nếu tôi phải viết một cuốn sách về luân lý, thì cuốn sách ấy sẽ dài 100 trang, mà 99 trang để trống, trên trang cuối cùng, tôi sẽ viết: tôi chỉ  biết có một nghĩa vụ, và nghĩa vụ đó là yêu thương.”

Pascal cũng đã từng nói: “Tất cả những gì không dẫn đến yêu thương đều là giả tạo.”

Léon Bloy Bạn sống như thế nào đối với người bạn thân của bạn mỗi ngày: kính trọng hay khinh khi? Nào bạn không biết rằng Đức Kitô ở giữa mọi người, Ngài đảm nhiệm tất cả, gánh chịu tất cả, đau khổ vì tất cả. Bởi thế, xúc phạm đến một người là xúc phạm đến Ngài, hạ nhục một người là hạ nhục chính Ngài, nguyền rủa một người là nguyền rủa chính Ngài, giết hại một người là giết hại chính Ngài.”

Mục tiêu của toàn bộ Kinh thánh cũng chính là lòng bác ái yêu thương.

Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô viết: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, trừ phi là tình mến, vì kẻ yêu người là chu toàn lề luật.”

Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, mà là để kiện toàn. Và Ngài kiện toàn lề luật bằng cách qui mọi giới răn và lệnh truyền vào giới răn: mến Chúa yêu người. Luân lý Kitô-giáo do đó không phải là một hệ thống gồm những điều phải làm và những điều không được làm, mà thiết yếu là con đường dẫn đến sự sống và hạnh phúc thật.

  1. Không có tình yêu cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa nhưng sống yêu thương điều đó mới đẹp làm sao!

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:

– Bằng vào dấu chỉ nào người khác nhận ra các con là người Công giáo?

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất chợt một ứng viên trả lời:

– Đó là “Tình yêu”.

Hãy nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con thương yêu nhau”.

Tại đất nước Bangladesh, một trong những nước nghèo nhất thế giới, có một người đàn ông nọ đi bộ về nhà sau một ngày làm việc cực nhọc tại xưởng thợ.

Vì quá mệt mỏi, ông dừng lại ngồi nghỉ dưới bóng cây ven đường và ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Khuôn mặt tiều tụy của ông khiến người đi đường tưởng ông là một người hành khất kiệt sức và ngất xỉu. Và người ta chạnh lòng thương, ai đi qua cũng bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu.

Khi thức giấc người công nhân già hết sức ngạc nhiên thấy chiếc mũ cũ kỹ của mình đầy những đồng xu. Số tiền đếm được còn nhiều hơn một ngày công thợ của ông. Ông mỉm cười tự nghĩ mình đã là một người hành khất bất đắc dĩ.

Trên đường về nhà, ông nhìn thấy nhiều người ăn mày đui mù tàn tật, ông lặng lẽ chia đều cho họ số tiền vừa mới nhận được. Và hơn ai hết, người công nhân nghèo ấy hiểu được: được nhận lãnh và được chia sẻ cũng đều là một niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng.

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách,

những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,

công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng cả trong tinh thần,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“ Điều các con làm cho

người bé mọn nhất trong anh em

là các con làm cho chính Ta”.

                                         Mẹ Têrêxa Calcutta

Về mục lục

.

TIN MỪNG CHÚA NHẬT 31

Jorathe Nắng Tím

Do Thái giáo là đạo có rất nhiều lề luật, nhiều đến độ đi đâu, ở đâu, tín đồ cũng bị luật xâm xoi, xét nét; làm gì cũng bị luật trói buộc, đe loi, ngăm nghe trừng phạt. Người Do Thái giáo nói về luật như thực thể thần thiêng và chu chắm giữ từng đòi hỏi rất chi tiết của mọi điều luật. Chính vì tinh thần vị luật và trong bầu khí nặng nề, ngột ngạt vị luật này, câu hỏi đã được đặt ra cho Đức Giêsu hôm nay trong Tin Mừng Máccô : “Giới răn nào là giới răn trọng nhất ?” (Mc 12, 28).

Nhiều người đã muốn hỏi Đức Giêsu câu hỏi này, vì tận thâm tâm, tất cả đều mong đợi một cải cách để đời sống đạo nhẹ nhàng, dễ thở hơn; để gánh lề luật từ nay sẽ bớt trì nặng đôi vai, nên khi  nghe viên ký lục đặt câu hỏi, ai nấy đều vui mừng, thở phào nhẹ nhõm.

Trả lời trước đám đông, Đức Giêsu đã rất vắn gọn trình bầy  Luật mới của Ngài:  “Giới răn thứ nhất là : Hãy lắng tai nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa của chúng ta là  Chúa độc nhất và ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi và hết cả sức lực ngươi. Thứ đến là ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Hẳn không có giới răn nào khác lớn hơn các điều ấy”  (Mc 12, 29-31).

Đức Giêsu đã chính thức công bố đạo mới của Ngài là Đạo yêu thương : Yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất và thương mến anh em đồng loại như chính mình.

  1. Yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất:

Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng độc nhất, là Đấng Cứu Độ độc nhất, là Đấng Quan Phòng độc nhất luôn gìn giữ, chăm nom các thụ tạo của Ngài, trong số đó, con người là thụ tạo được Thiên Chúa dấu yêu đặc biệt.

Tính độc nhất nơi Thiên Chúa nói lên Thiên Chúa là Đấng toàn năng và tất cả chúng ta đến từ Ngài, thuộc về Ngài, quy chiếu về Ngài, và sẽ trở lại với Ngài. “Thuộc về Thiên Chúa” là căn tính và  hạnh phúc của con người. Thuộc về một Đấng toàn năng, chúng ta còn sợ ai, sợ gì ? Thuộc về một Đấng yêu thương, chúng ta còn lo lắng chi, xao xuyến  nỗi gì ? Thuộc về một Đấng nắm toàn quyền sinh tử của mọi thụ tạo, chúng ta còn băn khoăn, hoang mang gì trước tương lai ?

Sở dĩ chúng ta chưa “toàn tâm, toàn ý, toàn thân” yêu mến Thiên Chúa, chưa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực yêu mến Chúa; chưa  yêu mến Chúa hết mình, yêu mến Chúa bằng cả đời sống, yêu mến Chúa bằng hết con người, là vì chúng ta chưa xác tín: Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất.

Vì chưa đủ tin Thiên Chúa là Đấng tạo dựng độc nhất, nên chúng ta vẫn chờ ở đâu đó một sức mạnh dự phòng, để giúp chúng ta, nếu Thiên Chúa chơi không đẹp , khi không nghe lời ta cầu xin. Vì chưa đủ tin Thiên Chúa là Đấng cứu độ độc nhất, nên chúng ta vẫn giấu giếm ở ngõ ngách nào đó trong cuộc sống một hình bóng thần linh khác với Thiên Chúa độc nhất, để hy vọng được cứu mạng, nếu chẳng may Thiên Chúa nổi giận bỏ rơi ta. Vì không dám đặt để trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa là Tình Yêu độc nhất tuyệt đối, nên phiá sau con tim, ta vẫn giữ những dáng dấp khác Thiên Chúa, với chút hy vọng sẽ được ủi an, vỗ về ngày Chúa nổi cơn lôi đình xua đuổi ta xa khỏi mặt Ngài.

Tóm lại, trong tương quan với Thiên Chúa, ta vẫn muốn đi nước đôi, vừa thân thiết với Thiên Chúa độc nhất, vừa thân thiện với những đối tượng không thân thiết, thân thiện với Thiên Chúa. Và tâm hồn ta sẽ ở trong tình trạng bị giằng co, căng thẳng, mâu thuẫn, cho đến khi ta thực sự và quyết tâm thuộc trọn về Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất.

Như thế, điều kiện để có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, nghiã là yêu một mình Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất của đời ta từng giây phút của cuộc sống, yêu Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm , yêu Thiên Chúa mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, tình huống, thì tiên vàn chúng ta phải xác tín Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất, và  tuyên xưng:  ngoài Ngài ra, không còn một thiên chúa nào khác.

  1. Thương mến anh em đồng loại như chính mình:

Giới răn thứ hai chỉ là mặt sau của giới răn thứ nhất: Yêu mến Thiên Chúa, bởi một khi đã “toàn tâm toàn ý, toàn thân” yêu mến Thiên Chúa độc nhất rồi, chúng ta sẽ tự động nhận ra hạnh phúc được thương mến anh em đồng loại như mình, bởi chính tình yêu Thiên Chúa thúc bách, lôi cuốn, hướng dẫn chúng ta đến với anh em, đi vào trái tim người khác bằng chính con đường tình yêu của Chúa.

Như chúng ta biết, định luật tự nhiên và căn bản của tình yêu là thông ban hạnh phúc của mình cho người khác, do căn tính của tình yêu là : ước mơ và làm cho người khác được hạnh phúc. Vì thế, khi đã thuộc trọn về Thiên Chúa là Tình Yêu rồi, khi đã hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực yêu mến Thiên Chúa rồi, chúng ta không thể không thương mến anh em mình, bởi Tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa thúc bách chúng ta trao ban hạnh phúc mình đang có trong tình yêu với Thiên Chúa cho mọi người chung quanh, bởi mọi người đều là đối tượng của một Tình Yêu độc nhất tuyệt đối là Thiên Chúa.

Kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy: tình yêu rất năng động  và không bao giờ chịu ngưng nghỉ. Chẳng thế mà khi đã thực sự yêu ai, ta yêu đến cùng, yêu đến chết, yêu bất chấp mọi chống đối, rào cản, hoàn cảnh khó khăn. Tình yêu dâng hiến cho Thiên Chúa cũng vậy, sẽ không nằm yên hưởng thụ, không đóng cửa gài then, nhưng bung ra xa, mở rộng mãi, phóng  tới những đối tượng mới, những đối tượng không chỉ của tình yêu trong ta, mà còn là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa . Nói cách khác, khi đã yêu Thiên Chúa rồi, ta không thể không yêu anh em đồng loại, vì lúc đó, ta không còn yêu anh em bằng tình yêu nhỏ bé, bất toàn của mình, nhưng bằng tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, Đấng sẽ  dìu ta đến gặp tha nhân, bởi Ngài cũng yêu thương họ như yêu thương chúng ta.

Hơn thế nữa, khi yêu ai, ta muốn họ hạnh phúc, bằng  làm vui lòng họ, nên ta sẽ qúy người họ yêu, thương người họ mến. Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi người yêu mến Thiên Chúa sẽ mến thương anh em mình, bởi đó là ý muốn của Thiên Chúa, bởi đó là điều làm vui lòng Thiên Chúa hơn cả. Sở dĩ Ngài muốn chúng ta yêu anh em đồng loại như chính mình, vì Ngài đã tạo dựng mọi người,  yêu thương mọi người, muốn cứu độ  mọi người, trao ban hạnh phúc cho mọi người , bằng cớ là Ngài đã chết cho mọi người được sống, cũng như làm mưa nắng trên cả người lành, kẻ dữ, không loại bỏ, ruồng rẫy một ai.

Vâng, Đức Giêsu đã đến trong thế giới, không  để loan báo khơi khơi một sứ điệp, và lập ra một tôn giáo mới với  giáo lý và lề luật nặng nề, gò bó;  nhưng vạch rõ con đường Tình Yêu  Chúa đã đến với con người và  hành trình Tình Yêu con người đến với Thiên Chúa. Trên con đường tình này, Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau cách sống động, cụ thể, trong mọi sinh hoạt của đời sống con người.

Tóm lại, Thiên Chúa của Kitô giáo không  xa vời, huyền hoặc  nhưng  ở giữa con người để yêu thương. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu không còn là tình yêu chỉ để súyt xoa chiêm ngưỡng, nhưng là tình yêu  hiện diện, chia sẻ cứu sống về phiá Thiên Chúa, đồng thời về phiá con người, tình yêu ấy  làm rạo rực  tim người, làm phấn khởi đời người, và mang về hạnh phúc cho con người biết yêu mến Thiên Chúa và mến thương anh em mình.

Tin Mừng là Lời Thiên Chúa, và Lời Thiên Chúa là chân lý vĩnh cửu, nên chúng ta sẽ không còn thắc mắc như những người Do Thái xưa : Giới răn nào là giới răn trọng nhất ?  Bởi chỉ có một giới răn duy nhất dành cho những người đi theo Đức Giêsu, đó là yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất, và  thể hiện tình yêu ấy bằng làm theo ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, ý muốn vừa đẹp lòng Ngài, vừa đem lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta là thương yêu anh em như chính  mình.

Về mục lục

.

VIỆC LÀM CỦA ĐỨC TIN LÀ ĐỨC ÁI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất?

Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay.Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường.

Ðạo Do Thái dựa trên 10 điều răn. Trải qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một luật sĩ đã đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Chúa Giêsu, trích dẫn sách Đệ nhị luật, đáp: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và tâm trí của ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Chúa Giêsu nói thêm điều mà vị tiến sĩ Luật không hỏi: “Giới răn thứ hai giống như giới răn thứ nhất: ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình”. Cả giới răn thứ hai này Chúa Giêsu không sáng chế ra, nhưng ngài lấy lại từ sách Lêvi. Sự mới mẻ của Ngài hệ tại đặt hai giới răn này chung với nhau – mến Chúa và yêu người – qua đó Ngài tỏ lộ rằng hai giới răn ấy không thể tách biệt, nhưng bổ túc cho nhau. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã bình giải rất hay về vấn đề này trong Thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu”.

Cũng đặt vấn nạn về điều răn lớn nhất, nhưng Tin Mừng Luca cho ta một câu hỏi lý thú và sâu sắc: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10,25). Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy điều răn quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất trong toàn bộ cuộc sống con người là điều răn yêu thương: yêu thương Thiên Chúa trước hết và trên hết, rồi đến yêu thương người lân cận như Chúa Giêsu đã yêu thương ta. Yêu mến Chúa nên yêu thương người lân cận, và yêu thương người lân cận chứng tỏ ta có lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu thương Chúa và tha nhân ấy làm ta trở nên giống Chúa, được chia sẻ phẩm chất của Ngài, nghĩa là có sự sống đời đời như Ngài.

Chúa Giêsu đã nâng luật yêu người ngang với luật mến Chúa. Ngài đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”.

1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.

Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái. Cho nên người tín hữu yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.

Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.
Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.

Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.

Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.

Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.

Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.

2. Yêu tha nhân như chính mình.

Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1Ga 2,9).

Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.

Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).

3. Việc làm của Đức tin là Đức ái.

Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).

Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.

Trong Tông thư “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở : “Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng : “Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì ? Đức tin ấy có thể cứu họ được không ? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói : “Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no” nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì ? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói : “Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi” (Gc 2,14-18).

Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô.

Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40) : những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1). (Porta Fidei, Số 14).

Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công Giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).

Dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu, tình yêu là mực thước đức tin, và đức tin là linh hồn của tình yêu. Chúng ta không còn có thể tách biệt đời sống tôn giáo ra khỏi việc phục vụ anh em, những người anh em cụ thể mà chúng ta gặp. Chúng ta không còn có thể tách biệt kinh nguyện, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong các bí tích, khỏi sự lắng nghe tha nhân, gần gũi cuộc sống của họ, nhất là những vết thương của họ.

Luật mới của Chúa Giêsu chính là mức độ hoàn hảo nhất của Mười Điều Răn. Đoạn cuối của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai nầy mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.”

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con: mến Chúa yêu người là điều răn quan trọng nhất, xin cho con biết sống và liên lỉ thực hành giới răn này trong đời sống thường ngày của con.

Về mục lục

.

THỰC HÀNH MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI TRONG CUỘC SỐNG

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG:  Mc 12, 28b-34

(28b) Khi ấy, có người trong nhóm kinh sư đến gần Đức Giê-su và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (29) Đức Giê-su trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. (30) Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. (31) Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”.(32) Ông kinh sư nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, hay lắm. Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Ngòai Người ra không có Đấng nào khác. (33) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ tòan thiêu và hy lễ. (34) Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy thì bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho vị kinh sư Do Thái khi ông chất vấn Người về điều răn nào là quan  trọng nhất trong tòan bộ Luật pháp Mô-sê. Người đã nêu ra hai điều răn quan trọng nhất là mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu chính mình. Ông kinh sư cũng nhất trí như vậy và còn cho rằng hai điều này có giá trị hơn mọi của lễ tòan thiêu và hy lễ dâng lên Đức Chúa tại đền thờ.

3. CHÚ THÍCH:

-C 28b-30: +Có người trong nhóm kinh sư: Kinh sư hay Luật sĩ là những nhà chuyên môn về Thánh kinh vì nghiên cứu Thánh kinh kỹ lưỡng và lâu dài. Số ít trong nhóm kinh sư là tư tế, nhưng phần lớn là thường dân ủng hộ lập trường của nhóm Pha-ri-sêu. Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân. Các kinh sư là người giải thích và áp dụng Luật Mô-sê vào đời sống của dân chúng. Các kinh sư cùng với thượng tế và kỳ mục là ba thành phần trong Thượng hội đồng Do thái tại Giê-ra-sa-lem (x. Cv 23,6). +trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?: Trong Tin Mừng Mát-thêu viết cho Kitô hữu gốc Do Thái, câu hỏi là “điều răn nào lớn nhất ?” (Mt 22,35). Còn ở đây Tin Mừng Mác-cô viết cho Kitô hữu gốc lương dân, đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa ưu tiên:”điều răn đứng đầu?. Thực ra các nhà kinh sư thời đó thường tranh cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trong Thánh Kinh, gồm 248 điều buộc và 365 điều cấm, đâu là điều luật quan trọng nhất. Cho tới lúc ấy các kinh sư vẫn chưa thống nhất ý kiến. Ông kinh sư tin Đức Giê-su là “Đấng rao giảng có uy quyền” sẽ cho câu trả lời chính xác. +Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.: Đức Giê-su đã trích khỏan Luật Mô-sê được những người Do Thái đọc mỗi ngày 2 lần (Đnl 6,5). +“Nguơi phải yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết  sức lực ngươi”: Thiên Chúa là chủ tể muôn loài, là Đấng duy nhất cao cả. Chính Ngài đã dựng nên muôn vật, là nguồn sự sống và là cùng đích mọi loài. Vũ trụ chỉ tồn tại được nhờ Ngài và trong Ngài. Vì thế người ta có bổn phận phải biết ơn và yêu mến Ngài trên hết mọi sự.

-C 31-33: +Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình: Người Do Thái vẫn mang nặng khuynh hướng bài ngọai theo Luật Mô-sê: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Ở đây Đức Giê-su thêm “Điều răn thứ hai trích trong Luật Mô-sê (Lv 19,18): Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận là bản tóm lược mười điều răn ghi khắc trên hai bia đá là “mến Chúa và yêu người”. +Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Ngòai Người ra không có Đấng nào khác: Vị kinh sư biểu lộ thái độ đồng ý với quan điểm của Đức Giê-su và nhắc lại câu trả lời của Người để nhấn mạnh tính duy nhất của Thiên Chúa (Đnl 4,35; Xh 8,6; Is 45,21), Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân có liên hệ mật thiết với nhau. +Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình: Ông kinh sư nhắc lại khía cạnh tri thức của tình yêu. + là điều quý hơn mọi lễ tòan thiêu và hy lễ: Khi nhận định như vậy, ông kinh sư không phủ nhận nghi lễ phụng tự tại Đền Thờ, mà cho thấy nghi lễ phụng tự bị hạ thấp giá trị so với việc thực thi lòng mến Chúa và yêu tha nhân.

-C 34: +Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu: Ông kinh sư đã hiểu biết và đánh giá đúng điều răn quan trọng trong Luật Mô-sê. Điều này cho thấy ông đã suy nghĩ giống Đức Giê-su và có khả năng trở thành thành viên trong Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập (x. 10,13-16).

  1. CÂU HỎI:

1) Kinh sư hay luật sĩ là ai? Phân biệt với người Pha-ri-sêu thế nào?

2) Luật Mô-sê gồm bao nhiêu điều khỏan buộc và cấm? Tại sao ông kinh sư lại hỏi Đức Giê-su về điều luật nào quan trọng và đứng đầu trong bộ Luật Mô-sê?

3) Đức Giê-su đã trả lời cho ông kinh sư khỏan luật quan trọng nhất thế nào? Ngừơi Do thái mỗi ngày phải đọc lại khỏan luật này mấy lần?

4) Đức Giê-su cũng cho biết điều luật thứ hai cũng quan trọng không kém là khỏan luật nào? Hai điều luật này tóm lược Mười điều răn do ai trao cho ông Mô-sê và được ghi khắc trên hai tấm bia đá?

5)Thái độ của ông kinh sư trước câu trả lời của Đức Giê-su thế nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. (30) Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. (31) Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”(Mc 12,29-31).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) LÀM SAO CÓ THỂ YÊU CHÚA ĐƯỢC KHI CHƯA GẶP CHƯA THẤY CHÚA?

Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé tỏ ra bối rối thưa với mẹ: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa được? Con chưa bao giờ gặp Người”. Ít ngày sau, cô bé nhận được một món quà gửi qua đường bưu điện, trong đó có một con búp-bê có thể chớp mắt rất đẹp. Bên cạnh có tấm cart Noel ghi hàng chữ: “Chúc mừng Giáng Sinh vui vẻ. Tặng Maria thân yêu con búp bê, Dì Rosa”. Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa vì sống cách nhau hàng ngàn cây số. Khi bé Maria ôm con búp bê vào lòng, em nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì đã cho con búp bê rất dễ thương này”  Bấy giờ mẹ bé Maria hỏi rằng: “Làm sao con có thể yêu dì Rosa khi chưa bao giờ gặp dì ?”. Maria liền trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì đã gởi cho con con búo bê này”.

2) THƯƠNG NGƯỜI, NHƯNG LẠI SỢ NGƯỜI:

Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ lâu đời, trên bia mộ có khắc dòng chữ như sau: “Tôi thương người, nhưng lại khiếp sợ người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong ngôi mộ. Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh học cách tìm mạch nước ngầm nơi một ông thầy giỏi nghề. Bạn bè nói với anh rằng: “Dưới đất lúc nào mà chẳng có nước. Mày học làm chi cái nghề vô tích sự ấy”. Cha mẹ anh em trong nhà cũng mắng anh: “Nếu mày cứ muốn học nghề đó thì ra khỏi nhà và đừng bao giờ vác mặt về nhà này nữa!” Hy Thanh đành phải bỏ nhà ra đi. Ban ngày anh vừa đi học vừa kiếm chỗ làm phu khuân vác để kiếm ăn. Tối đến xin vào ngủ trong nhà chùa. Anh cứ kiên trì theo học nghề tìm mạch nước ngầm ấy nhiều năm. Hai mươi năm sau, gặp lúc trời hạn hán, các giếng trong làng đều khô cạn hết. Nhiều người bị chết khát vì không kiếm đâu ra nước uống. Bấy giờ, người ta mới chợt nhớ đến Hy Thanh và cử người đến yêu cầu anh tìm mạch nước giúp dân làng. Hy Thanh đã sớm tìm ra mạch nước ngầm và khơi được nguồn nước chảy ra lênh láng. Dân các nơi khác nghe tin kéo đến xin nước uống râ71t đông. Họ vui mừng ca tụng về tài năng xuất chúng của anh. Nhưng rồi có kẻ do khát lâu ngày, đã uống quá nhiều nước bị ngã ra chết. Thế là nhiều người thay vì tỏ lòng biết ơn lại quay ra chửi bới mạt sát Hy Thanh thậm tệ. Lũ người nhà của kẻ bị chết còn hè nhau xông vào đánh đập anh đến chết. Trước khi nhắm mắt lìa đời, Hy Thanh thều thào nói: “Tôi thương người, nhưng lại sợ người”.

  1. SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu Đức Giê-su trả lời cho ông kinh sư Do Thái khi ông chất vấn Người về điều răn nào là quan  trọng nhất trong Luật pháp Mô-sê. Người đã nêu ra hai điều răn quan trọng nhất là mến Chúa yêu người. Ông kinh sư cũng nhất trí như vậy và còn cho rằng hai điều này có giá trị hơn mọi của lễ tòan thiêu và hy lễ dâng tiến Đức Chúa trong Đền thờ.

1) MẾN CHÚA HẾT LÒNG VÀ YÊU THA NHÂN NHƯ YÊU MÌNH:

Ai trong chúng ta cũng đều ý thức về hai bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân.  Tin mừng hôm nay đã ghi lại lời Đức Giê-su dạy hai điều răn trọng nhất là “mến Chúa hết lòng hết sức và yêu thương tha nhân như yêu mình”. Hai điều răn này tóm lược tòan thể bộ Luật Tô-ra của Mô-sê. Tuy nhiên Đức Giê-su còn nhấn mạnh điều răn thương người chính là điều kiện để biểu lộ lòng mến Chúa và xứng đáng được Chúa vui nhận lễ vật như sau: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Thế nhưng, cụ thể chúng ta phải yêu thương anh em thế nào?

2) KỶ SỞ BẤT DỤC, VẬT THI Ư NHÂN:

– Truyền thống Do Thái có câu chuyện như sau: Ngày kia một người tìm đến với thầy SA-MAI, thuộc phái giải thích luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi: “Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giê-ru-sa-lem lâu được”. Nghe nói thế, thầy Sa-mai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy GIL-LEN, một người vừa thông thái, vừa cởi mở lại vừa phóng khoáng. Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gil-len đã trả lời ngay:  “Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ là để giải thích cho giới luật này mà thôi”.

– Trong Cưu Ước, Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con như sau: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a). Điều không thích còn bao hàm các việc cụ thể như: không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và rất nhiều những điều khác nữa. Nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ được an vui hạnh phúc. Đức Khổng Tử cũng khuyên đồ đệ tương tự: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Còn trong Tân Ước Đức Giê-su dạy các môn đệ thực hành yêu thương theo hướng tích cực: ”Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

3) THỰC HÀNH ĐIỀU RĂN YÊU NGƯỜI CỤ THỂ:

Yêu thương không chỉ bằng lời nói suông, hay bằng tình cảm nhất thời chóng qua, nhưng bằng các việc cụ thể như kinh Thương Người có mười bốn mối, trong đó thương xác bảy mối và thương linh hồn bảy mối. Thánh Gia-cô-bê cũng đòi các tín hữu phải yêu thương cụ thể như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ?” (Gc 2, 15-16). “Nhờ hành động mà con người nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin” (Gc 2,24).

4) YÊU THƯƠNG CỤ THỂ THEO LINH ĐẠO CỦA MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA:

Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã dạy các nữ tu thực hành yêu thương tha nhân cụ thể như sau:

Hãy bắt đầu yêu thương các người thân trong gia đình: “Tôi luôn luôn nói rằng, tình yêu phải khởi sự từ gia đình trước đã, rồi sau đó mới đến thành phố hay đô thị. Yêu thương những người ở xa chúng ta thì dễ, nhưng yêu thương những người sống với chúng ta hay ở ngay bên cạnh chúng ta thì lại không dễ chút nào.”

Đừng xét đoán hay nói xấu tha nhân: “Nếu bạn xét đoán, bạn sẽ không còn giờ để yêu họ”.

Hãy quảng đại cho đi: “Bạn phải cho đi những gì làm bạn bị thiệt thòi. Như thế, không chỉ cho đi những gì dư thừa, nhưng cho cả những gì bạn không thể sống nếu không có nó, những gì bạn thật sự yêu thích. Như thế, món quà của bạn trở thành lễ hy sinh, có giá trị trước mặt Chúa”.

4. THẢO LUẬN:

Để thực hành lối sống yêu thương cụ thể nói trên, bạn cần tập sống tình mến Chúa yêu người theo phương cách nào hữu hiệu nhất?

  1. LỜI CẦU: Phục vụ trong yêu thương:

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn sống phục vụ trong yêu thương:

Nơi cộng đoàn, biết tâm đầu ý hợp.

Trong gia đình, biết mặn mà dễ thương.

Ngoài xã hội, biết đối xử tốt và thương xót.

Với mọi người, biết nhân nhượng và tôn kính nhau.

Khi làm việc, biết siêng năng và tận tình.

Trong mọi sự, biết tha thứ, chịu đựng và tin tưởng.

Ở mọi nơi, luôn chiếu tỏa lòng Chúa hiền hậu và khiêm nhường.

Trước cám dỗ, luôn chiến thắng để bền đỗ trong ơn thánh.

Nhờ đó, chúng con trở nên tông đồ được Chúa sai đi,

Mà làm chứng về Chúa cho mọi ngươi.- AMEN.

(Lời cầu của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta).

Về mục lục

.

GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Khi nói tới điều răn mến Chúa yêu người thì ai cũng cho là một đề tài quá quen và cũ kỹ rồi, nhưng nếu biết cầu nguyện, suy gẫm, tìm hiểu và nghiên cứu thì đây là một đề tài phong phú, nó sẽ gợi mở ra một chân trời rộng rãi và còn nhiều điều mới lạ. Hầu hết chúng ta mới học thuộc lòng điều răn ấy chứ chưa hiểu hết nội dung, nên chưa thực hành đầy đủ  điều răn ấy.

Cốt yếu của đạo Công giáo của chúng ta là Đức ái “Mến Chúa yêu người” vì Đức Giêsu đã khẳng định : “Ngoài ra không còn điều răn nào khác quan trọng hơn hai điều răn đó” (Mc 12,31).

Thánh Phaolô nói :”Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,13). Thánh Tông Đồ còn khẳng định thêm :”Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người… được ơn nói tiên tri… đem hết gia tài ra bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1Cr 13,1-3). Thế mới biết tầm quan trọng của Đức Ái.

 Điểm đặc biệt trong đạo chúng ta là Đức Giêsu đã nâng giới răn yêu người lên ngang tầm với giới răn mến Chúa và gắn liền hai giới răn đó chặt chẽ với nhau đến nỗi mến Chúa mà không yêu người thì chưa giữ trọn luật Chúa, và ngược lại cũng vậy. Hôm nay chúng ta suy niệm về luật mến Chúa yêu người nhưng chúng ta chú trọng hơn đến luật yêu người để thúc giục chúng ta thi hành luật Chúa cho đầy đủ.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

          + Bài đọc 1 : Đnl 6,2-6

Ông Maisen nhắc nhở cho dân Do thái phải thi hành luật cao trọng nhất là :”Kính mến Thiên Chúa hết lòng hết sức”. Lòng yêu mến Chúa trong Đệ nhị luật truyền dạy bao hàm trong sự trung thành thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ các giáo huấn của Ngài.

Dân Do thái tuân giữ giới răn này qua bao thế hệ. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Cựu ước còn thiếu sót vì chỉ chú trọng tới việc yêu mến Giavê, Thiên Chúa duy nhất, mà chưa nói đến việc yêu thương tha nhân.

Sự thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc trong bài Tin mừng hôm nay.

          + Bài đọc 2 : Dt 7,23-28

 Thư gửi tín hữu Do thái ca ngợi chức Tư Tế của Đức Giêsu. Chứùc Tư tế của Đức Giêsu Kitô ưu việt trên chức tư tế của dòng họ Lêvi. Nếu so sánh hai chức tư tế ấy chúng ta sẽ thấy :

– Chức tư tế của Do thái chỉ có một đời người, khi chết thì hết; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu thì vĩnh viễn.

– Các tư tế Do thái là những người phàm, vướng mắc nhiều tội lỗi; còn Đức Giêsu là vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn.

– Các tư tế Do thái phải dâng lễ nhiều lần; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.

          + Bài Tin mừng : Mc 12,28b-34

Một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất. Câu hỏi xem ra bình thường nhưng là câu hỏi hóc búa. Lý do vì trong 613 khoản luật không nói đến điều răn nào trọng nhất, tùy theo ý chủ quan của mỗi luật sĩ, thích điều răn nào thì cho là điều răn ấy trọng nhất.

Nhưng Đức Giêsu đã nối kết hai khoản luật ở Đệ nhị luật và ở sách Lêvi trả lời rõ ràng cho luật sĩ  đó là hãy yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Hai giới răn trọng nhất

I. GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.

  1. Giới răn trong Cựu ước.

Ông Maisen là nhà lập quốc và lập pháp đã truyền lại cho dân Do thái mười điều răn của Thiên Chúa. Qua bao thế hệ người ta vẫn trung thành giữ các điều răn ấy.

Hằng ngày người Do thái sốt sắng cầu nguyện với kinh Shema tựa như kinh Lạy Cha của chúng ta. Trong đó có câu :”Hãy nghe, hỡi Israel, Giavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lặp lại cho con cái ngươi”.

Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Tuy mọi người tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất nhưng chưa đồng ý với nhau trong một rừng luật như vậy, giới răn nào là quan trọng nhất. Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ trong Tân ước.

Nhân dịp này chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào là sách Đệ nhị luật hay Thứ luật.  Ôâng Maisen đã ra luật cho dân nhưng còn tổng quát và ngắn gọn, sau này luật được diễn dịch rồi  tổng hợp thành bộ luật Thorab. Sách Đệ nhị luật không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó cũng không phải là tác phẩm trong thời Maisen. Nó lấy lại luật Maisen, suy đi nghĩ lại và cùng với lịch sử của dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của sách này. Thế nên nó được gọi là Đệ nhị luật hay Thứ luật, tức là luật đến sau luật trước, luật bổ khuyết và diễn giải luật pháp Sinai.

  1. Giới răn trong Tân ước.

Trong thời Đức Giêsu, các luật sĩ là những chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh và luật pháp. Chắc chắn họ phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh vì đó là lãnh vực chuyên môn của họ. Thế mà có một luật sĩ nêu ra cho Đức Giêsu một câu hỏi kể cũng hơi lạ !

Nhưng thực ra, vào thời ấy, các luật sĩ đều sôi nổi tranh luận xem giới răn này hay giới răn nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê ra một rừng giới răn, cả một cánh rừng mù mịt đối với người Do thái. Như vậy, luật Do thái có 613 khoản luật, chia ra 248 việc phải làm và 365 việc không được làm.  Xét về sự quan trọng, người ta lại chia các điều luật đó ra nhiều hạng : khinh giới và trọng giới, đại giới và tiểu giới.  Nhưng các người biệt phái lại không đồng ý với nhau về giới răn nào trọng nhất.  Vì thế, người luật sĩ mới đến dò xem Chúa cho biết điều răn nào là trọng nhất.

 Đức Giêsu đã trả lời cho ông bằng cách đọc lại những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do thái. Đó là kinh Shema “Hỡi Isrel, hãy lắng nghe” trích trong Đệ nhị luật 6,4-5 :”Hỡi Israel, hãy nghe đây : Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.

Nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai là phải yêu mến anh em :”Còn đây là giới răn thứ hai : ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”(Lv 19,18-34).

Trong văn chương Do thái thời ấy, người ta thường thấy  thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu quả là bậc thầy tuyệt diệu : Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Marcô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều :”Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó”(J. Hervieux)

* Hãy yêu tha nhân.   Tha nhân là ai ? Trong Cựu ước chỉ có nghĩa là người gần gũi với người Do thái về huyết thống và chủng tộc.  Nhưng “tha nhân”  mà Đức Giêsu dùng ở đây có ý hiểu về hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, người nghĩa thiết hay kẻ thù.

* Như chính mình ngươi.   Không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải đối xử với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi.  Đó là một nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, thứ tình yêu đạp đổ mọi hàng rào ngăn cách chủng tộc, mầu da, vượt lên trên óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi hiềm khích hay những thành kiến cá nhân hoặc cổ truyền.

II. NÓI VỀ HAI GIỚI RĂN ĐÓ

  1. Liên hệ giữa hai giới răn.

Điều mới lạ mà Đức Giêsu làm là ghép chung hai giới răn này lại với nhau. Từ trước cho đến thời Đức Giêsu chưa có ai nhập chung hai giới răn ấy thành một.  Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này chúng ta cũng chẳng gặp được người kia.

Nhưng cần phải phân biệt rõ hai giới răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai giới răn này làm một, như thể “yêu Thiên Chúa là đủ” hay “yêu thương anh em” cũng đủ. Giới răn thứ hai không thể thay thế cho giới răn thứ nhất được. Hai giới răn này chỉ là hợp nhất và song hành thôi, chứ giới răn thứ hai không đồng nhất với giới răn thứ nhất được.

Nếu so sánh tình yêu đối với Chúa và anh em thì có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm cho chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.

Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục, hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai (Phạm văn Phượng).

  1. Tình yêu và hành động.

Nếu thánh Giacôbê nói :”Đức tin không có hành động là đức tin chết”, thì chúng ta cũng có thể nói :”Tình yêu không được thể hiện bằng hành động là thứ tình yêu giả dối, chỉ có trên đầu môi chót lưỡi như người ta nói :

Thương thương nhớ nhớ thương thương,

Nước kia muốn chảy mà mương không đào

a) Mến yêu Chúa.

Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Chúng ta hãy nghe những  lời Chúa dạy :

 “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy… Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23).

b) Yêu tha nhân.

Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này :”Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy”(Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn :”Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa; vậy yêu người thì cũng phải làm như vậy cho người.

Có lần một người mới gia nhập Do thái giáo yêu cầu thầy Hillel dạy ông ta toàn thể thông điệp của luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân.  Câu trả lời của thầy Hillel là “Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích, hãy đi và học lấy”.

Ngay bên  Đông phương, trước Đức Giêsu, Đức Khổng Tử đã để lại một câu nói để đời:”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Sau này ngài cũng nói một câu khác tương tự nhưng với khía cạnh tích cực :”Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Tư tưởng của ngài cũng giống như ở trên.

c) Tình yêu tha nhân bắt đầu từ đâu ?

Tình yêu tha nhân phải bắt đầu từ gần đến xa. Nhưng bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế. Khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.

Chúng ta hãy đặt một câu hỏi cho mình : Chúng ta đã dành tình thương  cho những người trong gia đình mình thế nào ? Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể  yêu mến Chúa nồng nạn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quí mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quí người hàng xóm, và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.

Trong ý nghĩa đó, Thomas Merton đã nói :”Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”.

  1. Thành quả của hai giới răn đó.

Nhờ hai tình yêu đó mà con người có thể tìm lại được chính mình. Các tác giả  tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Ngài đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa. Hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta  không thương yêu anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn  yêu mến Thiên Chúa nữa. Có một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau :

Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu,

Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu.

Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài,

Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi,

Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba.

Chúng ta có thể quả quyết : Bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.

III. THỰC HÀNH GIỚI RĂN CHÚA.

Chúng ta không còn thắc mắc gì nữa. Lệnh truyền của Chúa thật rõ ràng. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng đồng thời  cũng phải thương yêu anh em như chính mình.  Yêu anh em như mình là chuyện khó vì anh em là những con người cụ thể với biết bao những khuyết điểm, dễ va chạm, nhiều khi tha nhân bị coi như kẻ thù của ta.

Nhìn rõ thực tế đó nên thánh Gioan Tông đồ đã viết :”Nếu anh em cụ thể mà không yêu được thì làm sao có thể yêu  mến Chúa được”(1Ga 4,20)..

Theo lời thánh Giêrônimô khi Thánh Tông Đồ về già, ngài nguyên giảng về bác ái :”Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”. Giáo hữu thưa với thánh nhân :”Sao cha giảng điều ấy hoài” ? Thánh Tông Đồ đã trả lời :”Vì đó là điều luật Chúa dạy, và nếu thi hành được  duy một điều đó là đủ rồi”.

Đức Giêsu đã phán :”Các con muốn được người ta  làm cho các con thế nào thì các con hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31). Ngài còn phán thêm :”Hãy cho đi thì các con sẽ được người ta cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc đầy tràn tóe ra mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào thì cũng sẽ đong trả bằng đấu ấy”.

Napoléon tuyên bố không thèm thân với ai, thì ông đã chết đơn độc trong đảo Sainte Hélène

Hitler, con hùm xám Đức quốc xã, chủ trương dùng bạo lực thì đã chết trong khói lửa đúng theo lời Thánh Kinh “cái ác giết ác nhân”(Tv 33,22).

Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, nghe Đức Giêsu trả lời, vị luật sĩ rất tâm đắc với ý kiến rất khôn ngoan của Ngài và diễn tả tâm tình thiện cảm và xác tín của ông đối với tuyên phán của Đức Giêsu về giới răn trọng nhất :”Mến Chúa và yêu người thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và lễ vật hy sinh”. Việc mến Chúa yêu người có giá trị làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn những lễ hiến dâng có tính cách hy lễ và vật chất.

Lời phát biểu của vị luật sĩ phát xuất từ sách 1 Samuel 15,22 (bản văn này kêu gọi sự vâng lời).  Lời ấy được lấy lại trong Ôâsê 6,6 (Ta thích lòng nhân từ chứ không thích lễ tế). Người ta có thể nhận biết trong lời đó sự quở trách mà Thiên Chúa, qua các tiên tri, đã ngỏ với dân Ngài : dân chỉ thực hiện những nghi thức nhưng kèm theo bóc lột và những bất công.

Truyện : Bỏ tội thiếu tình thương

Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ  cái gì làm hại đến người khác mới là tội.

Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói :”Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm” ? Anh đáp lại :”Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó” ?

Một nguy hiểm lớn cho tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần. Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người sống chung với mình… Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau (Theo Flor McCarthy).

Mở đầu sách giáo lý Tân Định có một câu hỏi rất hay : Hỏi :”Ta sống ở đời này để làm gì” ? Thưa: “Ta sống ở đời này để nhận biết thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta  và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời”.

Như vậy, cuộc đời con người là phải mến Chúa và yêu người thì mới mong được hưởng hạnh phúc đời đời.  Chính vì thế nữ tu Rosalie mới nói :”Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.

Về mục lục

.

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.

Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Dân Do thái được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn giữa bao dân tộc khác. Ngoài việc thiết lập Giao ước, Thiên Chúa còn ban cho họ Mười Điều Răn được khắc trong hai Bia Đá, qua đại diện ông Môisê trên núi Sinai. Đó là luật căn bản, nhưng với thời gian, trải qua nhiều thế hệ, giới lãnh đạo Do thái đã giải thích thêm thành 613 điều, chia ra 248 điều tích cực phải làm, và 365 điều cấm làm. Khi đặt ra nhiều luật lệ như thế, thì họ không biết điều nào quan trọng hơn cả.

Chính vì thế, có một nhà luật sĩ tìm đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?”. Đức Giêsu đưa ra hai điều: một trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Đnl 6,5). Và một trong sách Lêvi: “Ngươi hãy yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv 19,18). Đó là hai điều căn bản, quan trọng nhất , thật rõ ràng và đầy đủ. Chỗ khác Chúa nói: toàn bộ Thánh kinh và các lời ngôn sứ đều qui tóm lại hai điều đó là: Mến Chúa yêu người thôi.

Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Thánh Gioan tông đồ nói rằng: nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét tha nhân là kẻ nói dối, vì tha nhân là những người cùng chung sống mà chúng ta không yêu thương, thì làm sao yêu mến Đấng vô hình được .

Thật vậy, Đức Chúa Trời ban 10 điều răn, nhưng chỉ dành 3 giới đầu trong việc thờ phượng kính mến Chúa, còn lại 7 giới răn sau, Chúa dành cho việc đối xử với tha nhân. Như vậy, Chúa coi việc đối xử với tha nhân là thước đo lòng yêu mến Chúa. Thế thì, tại sao ta phải thương yêu tha nhân? Thưa vì :

Tha nhân là hình ảnh của Chúa (St 1, 26). Ta yêu Chúa thì phải yêu những gì thuộc về Chúa.

Tha nhân là chi thể của Chúa. Nói theo tư tưởng của thánh Phaolô về mầu nhiệm hiệp thông. Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể, còn tất cả chúng ta là chi thể của nhau (1Cr 6,15).

Tha nhân là giá máu cứu chuộc của Đức Kitô. Đức Kitô đã trả giá rất cao để cứu độ từng người chúng ta, nên chúng ta cũng phải biết kính trọng tha nhân.

Tha nhân là đền thờ Chúa Thánh Thần. Ngày chúng ta lãnh Bí tích rửa tội, đã trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi ngự trị, vậy ta phải tôn kính đền thờ sống động này (1Cr 6, 19).

Ấy thế mà thưa anh chị em, thế giới càng văn minh thì dường như phần đông nhân loại trái tim lại hẹp hòi ích kỷ hơn, do chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ. Vì thế, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận định: “Đó là nền văn minh của sự chết “.

Mặc dầu thế giới văn minh, nhưng vẫn còn rất nhiều nơi thiếu thốn lương thực. Đức Chúa Trời tạo dựng nên vũ trụ này tốt đẹp và ban cho con người trí óc thông minh. Thế mà tại sao vẫn còn tình trạng thiếu thốn đói khát như vậy?. Thưa bởi vì con người thiếu tình liên đới quan tâm đến nhau.

Phần lớn của cải được cất giữ trong ngân hàng, trong két sắt, tủ áo của những nhà tỉ phú, của những đại gia kếch sù.

Người ta bỏ ra hàng bao nhiêu tiền của để đầu tư vào những vũ khí tối tân, những thiết bị y tế, nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống con người, nhưng trong khi đó người ta sẵn sàng giết chết những đứa con ngay từ trong dạ mẹ.

Người ta bỏ bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu tiền bạc, thời giờ đi du lịch nước này nước nọ chơi được, nhưng lại khó lòng dành ra một chút thời giờ đi thăm viếng những người đau yếu, bệnh tật, những người neo đơn bị con cháu bỏ rơi trong những khu ổ chuột ngay trong làng xóm ngỏ chúng ta.

 Có khi người ta không chết vì chén cơm manh áo, nhưng người ta chết vì đói lòng thương xót, đói tình người, đói sự quan tâm chia sẻ với nhau. Cho nên, thế giới ngày nay con người rất cần những tấm lòng yêu thương, đồng cảm, chia cơm xẻ áo cho nhau.

Xin anh chị em nhớ cho rằng: Ngày nhắm mắt lìa đời, khi đối diện trước mặt Thiên Chúa là người Cha nhân lành. Chúa không hỏi chúng ta mỗi ngày con đi mấy lễ, con vào mấy hội đoàn, con đọc mỗi ngày bao nhiều kinh…. Nhưng chỉ hỏi một điều duy nhất là con có yêu mến Ta không?. Mà thước đo lòng yêu mến Chúa được căn cứ vào đức bác ái đối với tha nhân mà thôi.

Cầu mong cho mỗi chúng ta, ngày sau hết được nghe những lời Chúa mời gọi: “Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp là sự sống đời đời mà Cha Ta đã dành sẵn cho các ngươi, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta bệnh tật các ngươi viếng thăm… hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”(Mt 25, 34-35). Amen.

Về mục lục

.

ĐẠO YÊU THƯƠNG

PM. Cao Huy Hoàng

Nhớ lại, chiều ngày 23-11-2009, Tại Sở Kiện, trong dịp khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 350 năm Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, tôi đặc biệt tâm đắc lời phát biểu bằng cung giọng miền Nam rất đơn sơ chân chất của Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, chủ tịch Ủy Ban Năm Thánh Toàn Quốc: “Người Công giáo Việt Nam hãy viết lại định nghĩa Đạo Công Giáo vào trong cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình và cộng đoàn nơi chúng ta sống. Ước mong sử sách sẽ ghi nhận lại định nghĩa này vào trong văn hóa và tiềm thức của mỗi người: Đạo Công giáo – Đạo Yêu Thương, người Công giáo là người luôn ý thức rằng Chúa yêu thương mình và do đó ý thức được bổn phận phải yêu thương tất cả mọi người”.

Có thể có nhiều triết gia, nhà thần học, nhà ngôn ngữ học, hoặc những người thông thái cho rằng câu nói tầm thường ấy có gì mà đáng tâm đắc. Nhưng với tôi, tâm đắc chính chỗ tầm thường ấy, giản dị ấy mà chất chứa cả một mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.

Có người cho rằng việc yêu thương nhau là chuyện hẳn nhiên như “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”  hoặc “thương người như thể thương thân”, “máu chảy ruột mềm” … theo cách văn hóa của người Việt vốn có từ ngàn xưa trong cái xã hội đình làng, lũy tre, bờ xe, bến nước…

Nét đẹp văn hóa ấy ở đâu ra? Tự nhiên mà có hay là có cùng thời với Tiếng Việt, cùng thời với việc loan báoTin Mừng cho người Việt bằng Tiếng Việt? Thiết nghĩ, câu trả lời dành cho các nhà sử học.

Phần chúng ta, có thể hiểu rằng, Tin Mừng đến quê hương này là đã có ngay luật điều căn bản cho người công giáo:

 “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.

Những người công giáo đầu tiên trên đất nước nầy đã sống và giữ luật điều quan trọng ấy đến nỗi người lương có thể nhận thấy và chúc tụng: Đạo Công Giáo chính là Đạo Yêu Thương.

Bởi cách thể hiện tình yêu thương của người công giáo không giống như của người chưa thấm nhập Tin Mừng. Người công giáo yêu thương người vì kính mến Chúa. Người chưa phải công giáo thì yêu thương người để được người khác yêu thương lại, để tạo một tương quan thuận lợi trong cuộc sống. Vì kính mến Chúa, vì lề luật tích cực của Chúa trở thành một bổn phận của lẽ công bằng: yêu người vì Chúa đã yêu ta, yêu người như Chúa đã yêu ta, cho nên, người công giáo yêu thương cả người thân, kẻ sơ, cả người giàu có lẫn kẻ nghèo khó, cả người thương lẫn kẻ ghét, cả người tôn trọng tự do tín ngưỡng lẫn người bức bách cấm cách, bắt bỏ tù, tra tấn, ngục hình chém giết dã man…Nếu không phải yêu người như Chúa dạy, hẳn là người Công Giáo đã nổi loạn lên rồi, thay vì âm thầm chấp nhận làm chứng cho Đức Tin vào sự sống lại và cầu nguyện cho người dám đưa chân đạp mũi nhọn biết đàng ăn ăn trở lại.

Nhìn lại Đạo Yêu Thương của những người Công Giáo Việt Nam đi trước chúng ta, là cha ông chúng ta, hẳn mỗi chúng ta phải đặt lại cách sống đúng với Tin Mừng như Chúa muốn, như cha ông ta đã nêu.

Đạo Yêu Thương bắt đầu nơi các gia đình: vì yêu Chúa, kính sợ lề luật của Thiên Chúa, cha mẹ sốt sắng thờ phượng Chúa qua các giờ kinh chung tối sáng, giờ cầu nguyện chung trong gia đình, nhắc nhớ nhau đời sống bí tích, đời sống giáo hội. Nhờ đó, kín múc ân sủng của Thiên Chúa mà trung thành với nhau trong tình yêu hôn nhân để làm gương sáng cho con bằng một tình yêu tận hiến. Gương sáng Đạo Yêu Thương của gia đình này sẽ là ngọn đèn soi cho gia đình kia, tạo nên một xóm làng sống Đạo Yêu Thương, không kể là lương hay giáo.

Đạo Yêu Thương từ gia đình đến Giáo Xứ. Uy tín của Chúa Giê-su mỗi ngày mỗi lớn lao, được mọi người tôn kính khi họ nhìn thấy cộng đoàn giáo xứ sống chan hòa yêu thương từ mục tử đến đoàn chiên, từ những người giúp việc giáo xứ đến những người nghèo khổ nhất. Không có gì đau khổ cho Chúa Giê-su bằng việc chính những người có Đạo Yêu Thương lại không yêu thương nhau, không đoàn kết với nhau, lại còn hơn thua nhau, ganh tị với nhau, tố cáo lẫn nhau, và tồi tệ hơn nữa là tranh giành nhau có chức có quyền hơn là tranh giành nhau mà phục vụ mọi người.

Đạo Yêu Thương của Cộng Đoàn Giáo Hội Địa Phương, cấp Giáo Phận, hẳn là bằng chứng hùng hồn nhất của Giáo Hội Chúa Ki-tô Toàn Cầu. Nếu các Giáo Xứ chân thành nêu gương đời sống yêu thương, hẳn là Giáo Hội Địa Phương của Chúa Giê-su đang có một sức mạnh thẩm thấu thế giới này, cho dẫu là thế giới của những kẻ không muốn tin vào Thiên Chúa. Sự Hiệp Nhất, Nên Một trong Chúa Ki-tô nguồn mạch Tình Yêu, nguồn mạch Sự Sống, không cho phép các Ki-tô Hữu, các cộng đoàn Giáo Xứ tách lìa nhau cách tự trị, nhưng ngược lại, luôn tương trợ nhau trong đời sống Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.

Dường như Ông Môi-sê cũng đang nói với các gia đình, các giáo xứ, các giáo phận, với tất cả chúng ta “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài”. (x.Đnl 6, 2-6)

Và Chúa Giê-su đang nhắc lại:

“Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. (Mc 12, 29-31)

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết sống Đạo Yêu Thương để dạy cho con cháu, hậu duệ bằng gương sống “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.

Về mục lục

.

GIỚI RĂN HÀNG ĐẦU

JM. Lam Thy

Trong Thánh lễ sáng Thứ Năm (23/3/2018), Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã nói về Tình Yêu Thiên Chúa: “Tình yêu của Thiên Chúa thì giống như tình yêu của một người mẹ. Ngài không bao giờ lãng quên chúng ta. Không bao giờ. Ngài trung thành với giao ước của Ngài. Điều này mang lại cho chúng ta sự an toàn và ngay cả trong những thời khắc khó khăn thì chúng ta cũng có thể chắc chắn rằng Ngài đã không lãng quên chúng ta.” (nguồn: Đài Vatican).

Tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Vì tình yêu, Người đã dựng nên loài người có nam có nữ; cũng vì tình yêu, Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn dạy: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.” (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 15).

Quả thật tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người là vô cùng vô tận. Ngay khi dựng nên vũ trụ, Đấng Sáng Tạo đã vì tình yêu bao la (tình bác ái) mà dựng nên con người theo hình ảnh Người, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất (St 1, 28). Tuy vậy, nhưng Thiên Chúa vẫn không quên con người là vật thụ tạo (được dựng nên), để tồn tại và phát triển thì vẫn rất cần đến một thứ tình yêu giới tính (tình ái), và vì thế nên “Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.” Và rồi Thiên Chúa phán với con người có nam có nữ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất” (St 1, 27-28).

Trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Đức Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI đã lý giải rất rõ ràng về Tình Yêu Thiên Chúa. Luận điểm của ĐGH đã đi từ Cựu Ước tới Tân Ước theo “nhãn quan tôn giáo” (thần học – triết lý siêu nhiên) để nhận định và lý giải Tình Yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Tuy nhiên, ĐGH vẫn không quên “nhãn quan triết học” (triết lý nhân sinh), khi ngài viết: “Chiều kích triết học đáng nêu ra trong hình ảnh Thánh Kinh này, và tầm quan trọng từ quan điểm lịch sử các tôn giáo, là một mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng Thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. “Eros” (tình ái) vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với “agape” (bác ái).” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est”, số 19).

Thời Cựu Ước, Luật Mô-sê đuợc ban bố cho dân thi hành có tới 613 điều (trong đó có 365 điều xấu cấm làm và 248 điều tốt dạy phải làm). Tuy nhiên, giới luật của Thiên Chúa được ghi trên bia đá và trao cho ngôn sứ Mô-sê trên núi Si-nai (Xh 20, 1-21) chỉ có 10 điều, trong đó bao gồm 3 điều về yêu mến Thiên Chúa và 7 điều còn lại là yêu thương đồng loại. Như vậy, rút gọn lại, chỉ còn 2 điều cơ bản: Mến Chúa + yêu người. Và để tìm ra 2 giới luật căn bản này thì lại thấy ở 2 sách khác nhau trong Cựu Ước: Điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng, hết dạ, hết sức của anh (em)”  (Đnl 6, 5); điều răn sau trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Đến thời Tân Ước thì chính Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu – giảng dạy: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31).

Tuy rằng Đức Ki-tô vẫn nói đó là 2 điều răn, nhưng thực chất giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là “Tình Yêu” được thể hiện bằng 2 chiều kích: Mến Chúa + yêu người. Hai chiều kích đó vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau, đan quyện vào nhau, không thể tách rời. Thật vậy, không thể yêu Thiên Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại, không thể yêu tha nhân mà lại không yêu Thiên Chúa được. Vì thế ngay sau Lời dạy của Đức Ki-tô, thì chính kẻ đã thắc mắc – một kinh sư – cũng phải thốt lên: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12, 32-33); và được Thầy Chí Thánh chúc  phúc: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34).

Thánh Gio-an đã xác quyết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20). Và thánh Phao-lô cũng đã viết: “Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5, 14); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2). Ấy là chưa kể chính Đức Ki-tô trong lời dạy về ngày cánh chung cũng khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Muốn yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức lực, thì phải yêu tha nhân như yêu chính mình. Và chỉ có yêu tha nhân như yêu chính bản thân mình mới thực sự là yêu mến Thiên Chúa.

Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Cúi xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU CHÚA

Lm Vũdình Tường

Nhờ có tình yêu Chúa ban mà chúng ta có thể sống trọn vẹn hạnh phúc, tạo được mối giây liên kết mật thiết với Chúa, với tạo vật và với tha nhân. Tình yêu con người thường ích kỉ và có điều kiện. Chúng ta yêu mến thân nhân, thân thuộc và thân hữu và những ai yêu mến ta. Ngoài những người đó ra người khác ta hoặc không có cảm tình hoặc làm ngơ, coi như họ không tồn tại. Tình yêu Chúa giúp ta nhìn thấy Đức Kitô trong mọi người và như thế yêu mến Đức Kitô một cách chân thành là yêu mến tất cả mọi người, không phân biệt ai. Chính sự phân biệt này khiến người Kinh Sư gặp khó khăn làm thế nào để yêu tất cả, nên ông đến hỏi Đức Kitô

Điều răn nào quan trọng hơn cả c.28

Ông hỏi thế bởi phong tục của ông hướng dẫn là có những điều răn tối quan trọng và có những điều cấm kị vì thế họ chia lề luật ra thành nhóm bắt buộc phải tuân thủ và nhóm cần thực hành trong cuộc sống. Điều này gây tranh cãi trong lịch sử dân tộc và đưa ra nhiều giải thích, luật buộc khác nhau. Người Kinh Sư mất nhiều giờ nghiên cứu, tìm hiểu và ông không đồng thuận với những khác biệt kia vì thế ông đến gặp Đức Kitô xin sự khôn ngoan nơi Ngài.

Sau khi nghe Đức Kitô giảng giải ông hiểu rõ điều các tiên tri dậy, điều ông từng nghiên cứu nhưng không hiểu thấu đáo, nay được Đức Kitô khai sáng.

Điều Ta muốn là tình yêu chứ không phải hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là của lễ toàn thiêu Hs 6,6
Chúa yêu mến công bình, nhân nghĩa và tâm hồn khiêm nhường Mk 6,6-8

Đức Kitô nói với người Kinh Sư

Đức Chúa,Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình c.32

Đức Kitô đã dùng những điều dậy trong Cựu Ước để giải thích cho người Kinh Sư hiểu rõ hơn về giáo huấn của Chúa. Câu trả lời của Đức Kitô tóm tắt tinh thần giáo huấn của sách Deuteronomy 6,4-5 và sách Levi 19,18. Trong đó hướng dẫn yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân luôn đi chung với nhau. Điều này không thể tách biệt. Tình yêu phải thể hiện qua hành động cụ thể. Chính hành động cụ thể biến tình yêu thành hiện thực. Không ai chứng minh được tình yêu nhưng qua hành động cụ thể con người có thể cảm nhận, nhận biết hành động yêu thương. Nếu chỉ yêu mến người khác bằng cảm nghiệm thì tình yêu đó vừa mông lung vừa trống rỗng bởi nó không có hành động giúp đỡ kèm theo. Yêu người khác bằng hành động cụ thể như giúp đỡ, che chở, bảo bọc trong khả năng của mình chính là làm cho tình yêu Chúa trong ta trở nên thực tế hơn với người cần ta giúp đỡ.

Điều Đức Kitô hướng dẫn người Kinh Sư là giải thích mới mẻ, thực tế và mang tính cách đổi mới. Thời đó người ta tin việc hiến tế súc vật là dấu chỉ lòng yêu mến thần thánh vì thế người ta không thể nào hiểu được làm thế nào không hiến tế súc vật mà có thể lòng yêu mến. Điều này hiện nay vẫn còn xảy ra qua hình thức dâng cúng gia súc, đốt vàng mã. Đức Kitô dậy Ngài muốn tình yêu chứ không phải hy lễ. Ngài muốn nhân nghĩa và khiêm nhường. Chính nhữn giáo huấn mới mẻ này làm cho người Kinh Sư kinh ngạc và nhận ra giáo lí mới của Đức Kitô. Mặc dù rất khâm phục giáo lí và sự khôn ngoan của Đức Kitô nhưng không thấy bằng chứng nào cho biết người Kinh Sư trở thành môn đệ Đức Kitô. Kính trọng và thán phục chỉ là bước đầu dẫn đến tin theo. Để có thể dấn thân, tin theo cần con tim yêu mến chân thành. Chính tình yêu chân thành phát xuất tự tim thúc đẩy chúng ta bước theo Đức Kitô. Tin theo được thể hiện bằng hành động phục vụ Giáo Hội Chúa và phục vụ tha nhân. Thiếu dấn thân phục vụ chỉ là tin nửa vời.

Về mục lục

.

ĐIỆU LÝ YÊU THƯƠNG

Trầm Thiên Thu

Điệu lý là thể loại âm nhạc liên quan quê hương – gọi là dân ca. Các điệu lý có khi rất đơn giản nhưng luôn có sức hút kỳ lạ. Tuy nhiên, trong tất cả các điệu lý hẳn là chẳng có điệu lý nào hấp dẫn và cần thiết bằng Điệu Lý Yêu Thương – đặc biệt là trong lĩnh vực tâm linh.

MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI là toát yếu của Thập Giới – tóm lược Thánh Luật của Thiên Chúa. Chỉ có hai điều và bốn chữ (theo Việt ngữ), nhưng có thể rút gọn thành Yêu Thương (hai chữ), và cũng có thể cô đọng thành Yêu (một chữ) – gọi là Luật Yêu. Nghe chừng rất đơn giản, và cũng quá quen thuộc, thế mà sao khó thể hiện quá chừng. Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

Có một sự trùng hợp rất kỳ lạ: Luật Chúa gồm hai điều – liên quan chiều dọc (mến Chúa) và chiều ngang (yêu người), Thập Giá cũng gồm hai nhánh – nhánh dọc (hướng tới Thiên Chúa) và nhánh ngang (hướng tới tha nhân). Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai KHÔNG yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì KHÔNG THỂ yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.

Chính Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, và nói thẳng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật và rất thẳng thắn: “Dân này tôn kính Ta BẰNG MÔI BẰNG MIỆNG, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng VÔ ÍCH, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là GIỚI LUẬT PHÀM NHÂN” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng liên quan “luật yêu”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21). Ôi, nghe mà “nhột” quá chừng, chắc hẳn ai cũng thấy giật mình vì ai cũng thấy mình… “có tật”!

Chúa có cách nói nghe chừng “nhẹ nhàng” thế mà “nặng nề” lắm, giản dị mà phức tạp, nhẹ như “xoa” mà “đau” thấm thía! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”. Thường là thế, vì cái quyền (hành) luôn gây phiền (toái)!

Kinh Thánh cho biết rằng Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một THẦN KHÍ SIÊU PHÀM, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách BẮT LỖI ông Đanien về việc triều chính. Bới lông tìm vết, bới bèo ra bọ. Vì ghen ghét mà con người thường nhỏ nhen và hèn hạ như thế đấy.

Tương tự, người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “ngứa” tai và “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong cách nhìn của người khác. Những người ghen ghét cũng chẳng ai xa lạ vì đó là chính những người thân thiết nhất của mình, như Chúa Giêsu đã nói thẳng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4 ≈ Mt 13:57; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, CHỈ CÓ NGƯỜI GIỎI MỚI KHẢ DĨ CÔNG NHẬN TÀI NĂNG CỦA NGƯỜI GIỎI. Thật đáng sợ, bởi vì “người ta có thể phạm tội chỉ vì một mẩu bánh” (Cn 28:21).

Không ưa dưa cũng có giòi. Ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét. Quái gở thật! Ông Đanien bị ghét chỉ vì ông “trổi vượt” hơn người khác, âu cũng là lẽ thường. Ngày xưa, trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế thôi. NGƯỜI ĐỜI “KÈN CỰA” NHAU ĐÃ ĐÀNH, NGƯỜI THEO ĐẠO CHÚA CŨNG CHẲNG HƠN GÌ, thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều. Vậy làm sao có thể truyền giáo?

Họ ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cái cớ nào hoặc một sai sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Do đó, những người ấy mới cùng nhau bày mưu lập kế: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Ác nhân quá thâm độc, thật đáng sợ tà tâm!

Ngày nay, con người cũng vẫn đã và đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo cách thức tân kỳ hơn, kỹ xảo hơn, vậy mà vẫn “hãnh diện” về cái mưu thâm kế độc của mình, rồi biện hộ là “đúng quy trình”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo Hội biết phải khuyến khích việc Tân Phúc Âm hóa, xem xét lại đức tin của chính mình trước rồi mới nói chuyện liên quan người khác. Cứ ảo tưởng và ảo giác thì không thể thay đổi được gì. Nguy hiểm lắm!

Rõ ràng ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”, sống nghiêm túc. Dù hoàn cảnh có thế nào, những con người ấy vẫn một lòng kiên cường tín thác vào Thiên Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và không ngừng tin cậy Thiên Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4). Chắc chắn rằng “người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Gl 3:11).

Trong con mắt của người đời, họ là những kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm tin tưởng cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ không ngần ngại xác định: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn hiên ngang tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như Thánh Vịnh gia đã chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51). Đích thực là người của Chúa mới đáng tin, chứ “đừng mong gì nhiều nơi những người quyền thế của thế gian này – vì hầu hết họ đều bỏ mặc những người nghèo khó trong cảnh bần hàn, họ vừa hèn hạ vừa thiếu quảng đại, giả điếc làm ngơ trước tiếng kêu than của những người yếu đuối và bất lực” (Chân phước Placid Riccardi, 1844-1915).

Vừa phân tích vừa xác định, Thánh Phaolô cho biết: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến, với các đặc tính cần thiết: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).

Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái có những điều xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Thế nhưng lại vẫn “ăn nhập” lắm đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên thôi! Vì thế, Chúa Giêsu đã hỏi ngư phủ Phêrô không chỉ một lần mà ba lần: “Anh có mến Thầy HƠN các anh em này không?” (Ga 21:15). Và đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn đặt ra cho mỗi chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thật lòng trả lời và nghiêm túc thực hiện, để chứng tỏ đức tin của chính mình – và cũng chia sẻ niềm tin đó cho tha nhân.

Chắc hẳn là rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Thế nhưng vấn đề không chỉ là “thuộc lòng” và “đọc như vẹt”, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Ôi chao, chẳng hề dễ dàng chút nào!

Như để giải thích, Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).

Chính Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta không thể làm khác – nghĩa là cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành “tấm bánh” để nuôi sống chúng ta, thế thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho tha nhân, nhất là đối với những con người bé mọn, yếu đuối, nghèo khổ, lạc loài, cô độc,…

Một hôm, có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu ôn tồn: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi PHẢI yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi PHẢI yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31). Hai điều răn quan trọng nhất với hai động từ PHẢI mạnh mẽ và dứt khoát – không thể không thi hành.

Nghe Đức Giêsu nói vậy, ông kinh sư thấy “đã tai” nên liền nói với Ngài: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là ĐẤNG DUY NHẤT, ngoài Ngài ra KHÔNG CÓ ĐẤNG NÀO KHÁC. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trạng như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa, vừa hẹp vừa rộng. Trách nhiệm mỗi chúng ta là “lấp đầy” khoảng cách đó.

Có lẽ Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên khi thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, và Ngài xác nhận: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Quả thật, không khó gì khi nói “mến Chúa” và “yêu người”. Chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi. Nhưng vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN một cách cụ thể. Tại sao? Bởi vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Nói được – đó chỉ là “chuyện nhỏ”. Làm được – đó mới là “chuyện lớn”, và là điều cần thiết mà Thiên Chúa muốn thấy nơi mỗi chúng ta.

Lạy Thiên Chúa toàn năng chí thánh, thật hạnh phúc khi chúng con được nhận biết và tin vào Ngài nhờ Đức Kitô mặc khải, xin cảm tạ Ngài và xin giúp chúng con sống đức tin qua từng động thái hằng ngày, xin giúp chúng con biết chạnh lòng thương trước nỗi đau của tha nhân và dân tộc, nhất là những con người nhỏ bé và yếu đuối vì bất công xã hội. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG TỐT SỐNG ĐẸP

Lm. Jos. DĐH.

Tiền nhân chúng ta có nhiều suy tư hết sức khúc triết: vàng thời thử lửa thử than, chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời. Đúng, muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Không thể có chuyện sinh ra là làm thầy thiên hạ, là được quyền giám sát, ra lệnh. Không phải hết tất cả mọi người dám tự hào về sự sáng suốt của mình, cũng như chẳng ai lại vô duyên đến độ tự vạch áo cho người xem lưng. Cuộc sống ồn ào, nhiều người lạc quan cho rằng, đó là sự hỗn loạn cần thiết cho sự phát triển. Tâm lý bất ổn, ít nhiều cũng gây đến phiền phức cho cách ứng xử nơi gia đình, người thân. Thao thức chung, hạnh phúc cụ thể là người ta tìm được một nơi cư ngụ mà ở đó người người ý thức sống tốt, sống đẹp, xem nhau như anh chị em và có nghĩa vụ nâng đỡ nhau.

Trải qua nhiều vướng mắc cho việc chọn lựa, một Luật sĩ đến gặp Đức Giêsu để trình bày về thao thức của ông: “trong giới răn, điều nào trọng nhất” ? Và chúng ta cũng có quyền đặt vấn đề, có phải vì muốn hiểu biết để các ông sống tốt, sống đẹp, trước bổn phận làm cha, làm chồng, làm một chức sắc lo cho các tín đồ, hay vì ông hỏi cho vui ? Sự cầu tiến hay mưu mô tính toán vụ lợi trước ưu tiên 1, ưu tiên 2, thường không có kết quả đối với những tâm hồn thiếu quảng đại. Bậc làm cha mẹ, bình thường sẽ không dạy dỗ con cháu: sống ở đời này là để ăn, để hưởng thụ. Những người làm con sẽ chẳng ai đặt vấn đề: cần phải sống đức thảo hiếu bao lâu thì công bằng với các ngài.

“Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và người hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết sức ngươi”. Lời nhắc nhớ đó không có gì mới lạ, cũng chẳng phải là một tổng hợp số lý thuyết được rút gọn, so với niềm tin Thiên Chúa của dân tộc Israel. Sống tốt với cha mẹ, sống đẹp trong các tương quan với Chúa và tha nhân, không thể được công nhận nếu con tim, khối óc của chúng ta hẹp hòi, tính toán. Kẻ “yêu cha, ghét mẹ”, không ai gọi là con thảo con hiếu. Người đã từng đầu tư tiền của xây chùa, xây nhà thờ, nhưng luôn khép kín, đóng cửa lòng với anh chị em đói nghèo ở xung quanh, ai dám trao tặng cho họ danh hiệu: đây là người có lòng từ bi nhân hậu ?

“Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Đức Giêsu đã nối kết mọi liên hệ bằng tình yêu thương, Ngài gián tiếp phủ nhận các lý do: “mắt thịt xác phàm” không nhìn thấy Chúa ở đâu làm sao yêu mến, tư tưởng phàm nhân, ai có thể hiểu Chúa đang hiện nơi anh chị em mình mà yêu với mến ! Sống tốt sống đẹp, mến Chúa yêu người, sẽ không trừu tượng lý thuyết, khi hàng ngày chúng ta có thời giờ suy xét giữa lời nói việc làm của chúng ta đang mẫu thuẫn hay phù hợp ? Cách nói của xã hội hôm nay là cha mẹ hãy “truyền cảm hứng” cho con cháu, thầy cô hãy “truyền lửa” cho học trò, nhưng thực tế nhất vẫn là “gương sáng về đức ái” phải được gia đình, nhà trường quan tâm, ý thức sống.

Ca dao có câu: chim khôn cốt ở tiếng hót, người khôn cân nhắc nói cười đúng nơi. Khả năng, điều kiện hoàn cảnh mỗi người mỗi thời rất khác nhau, nhưng nơi mỗi người: nét đậm, nét mờ, thành hay bại, đều tuỳ thuộc vào tự do và ý chí quyết tâm sống của họ. Một người có tư duy ổn định, biết mình là ai, họ sẽ đủ tự tin để sống đẹp, sống đúng, với điều kiện của họ mà không thế lực nào có thể làm lung lay lập trường sống của họ. Ít nhiều gì chúng ta cũng đã nghe lời người xưa day: ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai. Chúa Giêsu qua cuộc đối thoại với người Luật sĩ, Ngài cũng lưu ý đến sự cần thiết của lập trường sống mến yêu: “ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

Mến Chúa yêu người, sống tốt sống đẹp, sẽ không cũ xưa, nhất định không phải chỉ thích hợp cho một số đối tượng cấp cao: hàng giáo sĩ, tu sĩ, hay giới tri thức, đại gia. Giới luật yêu thương, đối nhân xử thế đúng, đẹp, đã có nơi tâm hồn mỗi người, đó là hạt giống đức tin Thiên Chúa đã gieo trồng, nay Đức Giêsu vẫn đang là chuẩn mực, làm sống động chân lý đức tin đó trổ sinh bông hạt. Nếu thầy thuốc ý thức mình là người chữa bệnh, thì bệnh nhân lại luôn cần thầy thuốc giỏi, biết lắng nghe, biết nhiệt tình quan tâm đến nhu cầu sống đúng, sống đẹp, sống hết tình với niềm tin của cộng đồng xã hội. Mến Chúa yêu người, sống đúng sống đẹp, không phải chỉ là lời mời gọi của chúa nhật 31 hôm nay ; phần thưởng nước trời rộng lớn, nhưng cơ hội, thời gian, không chờ đợi ai bao giờ cả. Không nên nói ra những lời khó nghe khi tâm trạng bạn không tốt, đừng hành động khi “trí lòng” bạn mách bảo điều đó là do ghen ghét, ngược với đức ái Thiên Chúa dạy. Xin tình Chúa yêu thương, chúc lành cho tất cả nhân loại chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Dân tộc Israel được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Thiên Chúa giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ nhà Ai cập, dẫn đưa họ vào hoang địa đến núi Sinai gần chóp đỉnh của một bán đảo, một nơi vắng vẻ và kinh hoàng. Chính nơi đây đã diễn ra một biến cố, một sự kiện làm nên tính tôn giáo, hơn nữa nó là trung tâm của lịch sử cứu độ mà muôn đời dân Israel phải ghi nhớ, đó là Giao Ước Sinai. Thiên Chúa đã ký kết với họ một giao ước do Môsê làm trung gian. Giao ước này được ký kết vào khoảng thế kỷ 13 trước công nguyên có nội dung như sau: Thiên Chúa là Đấng nhận Israel làm dân riêng của Ngài và luôn yêu thương phù trợ họ; Israel nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất họ phải tôn thờ. Chính trong bối cảnh đó, ông Môsê kêu gọi họ: các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Ngài để được sống lâu, được hạnh phúc trong miền đất chảy sữa và mật.

Thưa anh chị em, trang Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu nhắc lại một lần nữa tính ưu việt của lề luật khi trả lời người Luật sĩ: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng; ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình”. Đó là giới răn quan trọng nhất làm nền tảng cho cuộc sống tôn giáo đã được ghi chép cẩn thẩn với 613 khoản luật Do thái, và Chúa Giêsu  xác định: “không giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Nói cách khác, yêu mến là giới răn lớn nhất: yêu mến Thiên Chúa và yêu mến đồng loại. Cựu ước cũng đã đòi hỏi dân chúng yêu thương đồng loại. Nay Chúa Giêsu tái xác nhận. Điều này không có gì mới. Tính mới mẻ của giáo huấn Chúa Giêsu chính là nối kết hai giới răn đó nên một luật lớn nhất, một giới răn duy nhất nhờ tình yêu không chỉ bằng lời nói suông, nhưng bằng hành động thực sự. Đây là một kết luận tuy đơn sơ nhưng rất sắc bén của thánh Gioan: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?”. Một tình yêu chân thật đối với Thiên Chúa thôi thúc chúng ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác.

Có một câu chuyện kể rằng, người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với người  bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ tôi đọc một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”. Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại Kinh Lạy Cha.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua Kinh Lạy Cha. Hãy sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái. Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân này còn được Chúa Giêsu đẩy xa hơn nữa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Chúa Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em”. Chính trong khung cảnh này mà tính mới mẻ của giáo huấn Chúa Giêsu đạt tới đỉnh cao: “như Thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng hãy yêu mến nhau. Chính nơi điều này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau”. Tựu trung, tình yêu làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô: yêu mến Thiên Chúa thì phải yêu mến tha nhân và muốn yêu mến tha nhân thì cũng phải tôn thờ Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa xin giúp chúng ta biết yêu mến Chúa bằng chính cuộc sống thương yêu chia sẻ của chúng ta đến với anh chị em đồng loại, để chúng ta luôn thi hành lệnh Chúa truyền cách trọn hảo trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 31 TN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI năm B này thắp sáng luật yêu thương: Cựu Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa”, trong khi Tân Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa và yêu người”.

Đnl 6: 2-6

Bài Đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, chứa đựng lời tuyên tín nổi tiếng của Ít-ra-en:“Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”.

Dt 7: 23-28

Thư gởi tín hữu Do thái khẳng định chức tư tế của Đức Ki-tô cao vời khôn ví hơn chức tư tế của Cựu Ước.

Mc 12: 28-34

Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su với một kinh sư trong đó Đức Giê-su hiệp nhất “Mến Chúa” với “yêu người”.

BÀI ĐỌC I (Đnl 6: 2-6)

Bản văn này, đỉnh cao sứ điệp của sách Đệ Nhị Luật, giải thích giới răn thứ nhất của Thập Giới, được đặt trên môi miệng của ông Mô-sê.

  1. Mến Chúa đối với Ít-ra-en:

Đức Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa duy nhất mà con người không chỉ kính sợ nhưng còn phải yêu mến hết lòng hết dạ và hết sức nữa. Đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã bảy tỏ cho dân Ngài, mỗi người phải trọn tình vẹn nghĩa với Thiên Chúa của mình.

Dân Chúa chọn đã hiểu sự mới mẽ tận mức của giới răn này đem lại cho tôn giáo của họ một tính chất đặc thù. Họ đã tuyên xưng giới răn này và đặt giới răn này vào trung tâm của kinh nguyện được gọi kinh Shê-ma (“Nghe đây”), mà suốt nhiều thế kỷ qua những tín hữu đạo hạnh của Ít-ra-en thường ngày đọc vào ban sáng và ban chiều. Vào thời đó, lời tuyên tín này được tôn kính đến mức người ta ghi trên những mảnh vải và cuộn vào hộp kinh để mang trên cánh tay hay trên trán. “Mến Chúa” phải được bày tỏ qua thái độ “kính sợ Chúa”, tuân giữ các giới răn của Ngài và bận lòng thông truyền đức tin.

  1. Kính sợ Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài:

Kiểu nói Kinh Thánh: “Kinh sợ Chúa”, không có nghĩa sự sợ hãi; đây là thái độ tôn kính đầy niềm tin, khi ý thức về sự cao cả của Thiên Chúa. Tuân giữ các giới răn là bổn phận xuất phát từ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Sách Đệ Nhị Luật được trình bày như bài giáo lý về Giao Ước. Để đáp trả sự trung thành của Thiên Chúa đối với những lời hứa của Ngài, dân Ít-ra-en phải trung thành với Thập Giới, nền tảng của Giao Ước. Thiên Chúa đã hứa cho dân du mục này một miền đất trong đó họ sẽ được an cư lạc nghiệp và trở thành một quốc gia vĩ đại. Thay vì sa mạc khô cằn nắng cháy, Thiên Chúa đã hứa cho họ “một miền đất tràn đầy sữa và mật ong” với điều kiện là tuân giữ các giới răn của Ngài.

  1. Thông truyền đức tin:

Tầm quan trọng của việc giáo dục tôn giáo trong gia đình là lời kêu gọi khẩn thiết của tác giả sách Đệ Nhị Luật. Lời kêu gọi này được lập đi lập lại nhiều lần (Đnl 4: 9; 6: 20; 32: 7). Tác phẩm của ông là lời cảnh giác thường hằng coi chừng những nguy hiểm của môi trường ngoại giáo chung quanh. Việc gìn giữ các truyền thống và bận lòng thông truyền đức tin thuộc vào những đòi hỏi căn bản tất yếu đối với sự tồn vong của dân Ít-ra-en.

Sách Đệ Nhị Luật thấm đẫm tính nhân bản cũng như tính siêu việt. Thiên Chúa mà sách trình bày là một Thiên Chúa gần gũi với dân Ngài, dân mà Ngài bày tỏ lòng trìu mến và xót thương. Sách Đên Nhị Luật mang dấu ấn giáo huấn của các ngôn sứ lớn như A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, đồng thời sách chuẩn bị sứ điệp của Tin Mừng.

BÀI ĐỌC II (Dt 7: 23-28)

Sau khi đã chứng minh Đức Ki-tô đã sở hữu những phẩm trật tư tế – liên đới với loài người và được Thiên Chúa đặt làm tư tế – tác giả sẽ cho thấy những nét khác biệt giữa chức tư tế của Đức Ki-tô và chức tư tế của Cựu Ước. Tác giả nhắm đến tác vụ trung gian của Đức Ki-tô phục sinh.

  1. Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời:

Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời; Ngài là Đấng trung gian hoàn hảo vì “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến gần Thiên Chúa”. Vị thượng tế Do thái mỗi năm một lần bước vào nơi cực thánh để cầu bầu cho dân vào ngày lễ Xá Tội, còn Đức Giê-su, “thật ra, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ”.

  1. Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn:

Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn. Nếu trong cuộc sống tại thế, Ngài đã tự mình liên đới với những người tội lỗi, từ nay Ngài “được nâng cao vượt các tầng trời”, nghĩa là dự phần vào tính siêu việt của chính Thiên Chúa. Trái lại, các tư tế theo luật Mô-sê, những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, phải dâng lễ tế hy sinh, “trước là để đền tội của mình, sau là để đền tội thay cho dân”.

  1. Đức Giê-su được đặt làm tư tế với lời thề:

Cuối cùng, một lần nữa tác giả trích dẫn Tv 110 để nhấn mạnh phẩm trật tư tế đặc biệt của Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thượng Tế với lời thề, còn các tư tế theo luật Mô-sê thì không có lời thề. Quả thật, Thánh Vịnh nói: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê”. Bản văn này đã đến sau này, nghĩa là sau ông Mô-sê, hàm chứa một giai đoạn cao cả trong Mặc Khai và loan báo một mức độ hoàn hảo, mà Đức Giê-su thực hiện với tư cách là Con Thiên Chúa. Tác giả ngỏ lời cách tinh tế với các Ki-tô hữu gốc Do thái trong số họ chắc chắn có những tư tế của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

TIN MỪNG (Mc 12: 28-34)

Thánh Mác-cô cũng như thánh Mát-thêu đặt cuộc đối thoại của Đức Giê-su với một kinh sư này vào những ngày Đức Giê-su giảng dạy tại Giê-ru-sa-lem. Cuộc đối thoại này liên quan đến điều răn nào là quan trọng nhất trong số 613 giới luật Cựu Ước (365 điều cấm và 248 điều buộc), một đề tài thường được đặt ra cho các kinh sư Do thái. Câu trả lời của Đức Giê-su phối hợp hai câu trích dẫn Cựu Ước: Đnl 6: 4-5 và Lv 19: 18, quả thật nhấn mạnh tính chính thống lời dạy của Ngài như một kinh sư Do thái và minh chứng Ngài đi cho đến tận ngọn nguồn của sự việc. Cuộc đối thoại này quan trọng không chỉ vì sự độc đáo của nó mà còn vì điểm nhấn của nó trên những tư thế nội tâm.

Bản văn này có thể chia làm bốn phần được cấu trúc theo hình thức “đối xứng xen kẻ” như sau:

A – Vị kinh sư hỏi (12: 28).

       B – Đức Giê-su trả lời (12: 29-31).

A’ – Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33).

       B’-Đức Giê-su khen ngợi (12: 34).

A – Vị kinh sư hỏi (12: 28):

  1. “Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau”: Câu này được dùng để nối kết cuộc tranh luận trước đó với cuộc đối thoại theo sau. Ông kinh sư này là một trong những người chứng kiến cuộc tranh luận của Đức Giê-su với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại.

 “Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi”: Khi thấy Đức Giê-su đối đáp với nhóm Xa-đốc về cuộc sống mai hậu cách khúc chiết, mạch lạc dựa trên nền tảng Kinh Thánh, vì thế ông chân thành muốn hỏi Đức Giê-su để mong gặp thấy một giải đáp. Thái độ thành tâm thiện chí muốn hiểu biết của ông khiến cuộc nói chuyện thành một cuộc học hỏi chân thành và cởi mở hơn là một cuộc tranh luận (khác với Mt 22: 35 và Lc 10: 25).

 “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”: Vị kinh sư nêu câu hỏi nầy không có bất kỳ ác ý nào. Câu hỏi của ông thật sự phản ảnh nỗi bận lòng của trường phái kinh sư vào thuở đó.

Các kinh sư đều xem lề luật là ý muốn của Thiên Chúa, vì thế, thực thi lề luật chính là trung thành với Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Tuy nhiên, có hai khuynh hướng. Một khuynh hướng tìm cách cách mở rộng lề luật cách vô hạn định ra thành muôn vàn điều luật và quy tắc để làm thế nào lề luật có thể được thực thi trong mọi cảnh huống cuộc sống của dân Chúa chọn. Còn khuynh hướng thứ hai thì cố tìm cách thu gọn lề luật vào trong một câu cô động cái tinh thần cốt yếu của lề luật.

Thật ra, cả hai khuynh hướng: mở rộng cũng như thu gọn lề luật, vẫn thường hằng hiện diện trong những cuộc tranh luận giữa các kinh sư với nhau. Có những người tin trong luật có những vấn đề nặng nhẹ khác nhau, có nhiều nguyên tắc đáng xem là quan trọng hơn mà người ta phải lãnh hội và thi hành trước nhất. Nhưng có nhiều người khác cực lực chống lại, họ chủ trương rằng một nguyên tắc nhỏ nhặt cũng có tính bắt buộc y như một nguyên tắc quan trọng nhất, vì thế cố phân biệt chỗ khác nhau tương đối giữa chúng, là điều vô cùng nguy hiểm.

Khi hỏi Đức Giê-su như thế, vị kinh sư chân thành muốn biết trong số 613 điều luật Cựu Ước (gồm 365 điều cấm và 248 điều buộc) điều răn nào Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước và làm cách triệt để.

B – Đức Giê-su trả lời (12: 29-31)

  1. “Điều răn đứng hàng đầu là: ‘Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất…’”: Đức Giê-su trích dẫn Đnl 6: 4-5, đây là bản văn đầu tiên trong số ba bản văn (Đnl 6: 4-9; 11: 13-21; Ds 15: 37-41) đã trở thành kinh“Shê-ma”(“Nghe đây”) được xem như kinh “Tin Kính” của Do thái giáo và được những người Do thái mộ đạo đọc mỗi ngày hai lần. Giới răn mến Chúa phát xuất từ bản tính của Người là Thiên Chúa duy nhất. Bổn phận mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” không nhằm quy chiếu đến những phần riêng biệt của con người, nhưng nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Chúa tận mức, một cách tuyệt đối. Kinh Shê-ma được chép lại trên một tấm vải nhỏ cuộn vào một hộp nhỏ bằng da mà người Do thái ngoan đạo đeo trên trán và trên cườm tay khi cầu nguyện như nhắc nhở tín điều của tôn giáo mình.
  2. “Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”: Dù chỉ được hỏi một điều răn, Đức Giê-su nói thêm điều răn thứ hai khi trích dẫn Lv 19: 18b (x. Rm 13: 9; Gl 5: 14; Gc 2: 8). Khi trích dẫn câu này, Chúa Giê-su sửa đổi một điểm. Trong nguyên văn,“người thân cận”được giới hạn chỉ trong vòng người Do thái chứ không bao gồm dân ngoại như câu mở đầu của huấn lệnh này cho thấy: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi” (Lv 19: 18a). Nhưng trong câu trích dẫn của Chúa Giê-su, yêu “người thân cận” phải bao gồm với hết mọi người và đạt tới mức độ cao nhất như yêu chính mình: “thương người như thể thương thân”, vì theo lẽ tự nhiên, ai nấy đều quý trọng, yêu thương bản thân hơn người khác.

Giáo Huấn của Đức Giê-su mang tính mới mẽ khi Người ghép chung hai điều răn“Mến Chúa” và “Yêu người” vào với nhau. Trước đó, chưa có một kinh sư nào làm như vậy. Trong bản văn của thánh Mát-thêu, điều răn “Yêu người” đồng nhất với điều răn “Mến Chúa”: “Còn điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy” (Mt 22: 39); còn trong bản văn của thánh Mác-cô, hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người”được đặt bên cạnh để chuẩn bị cho việc lượng giá chúng ngang bằng giá trị:“Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12: 31). Trong Tân Ước, lời giải thích về “Mến Chúa” và “Yêu người” của thánh Gioan là hay nhất:“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy’” (1Ga 4: 20).

A’ – Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33):

  1. “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng”: Vị kinh sư này tán đồng câu trả lời của Đức Giê-su và bình phẩm câu trả lời của Người mà không có bất kỳ hậu ý nào về sự thù ghét hay châm biếm. Thật ra, vị kinh sư chỉ lập lại hai câu Kinh Thánh Chúa Giê-su đã trích dẫn, với từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn.

 “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác”: Trước hết, ông nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa.

  1. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu mến người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”: Rồi, ông kết luận rằng“mến Chúa và yêu người”phải được coi trọng hơn mọi hy lễ. Lời này của vị kinh sư khiến chúng ta liên tưởng đến Hs 6: 6 và 1Sm 15: 22.

Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không cố ý khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị hủy bỏ, nhưng đã trở nên tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê phán nền phụng tự Đền Thờ như thế (1Sm 15: 22; Tv 51: 20t; 40: 7; Cn 21: 3), đặc biệt với các ngôn sứ như ngôn sứ Hô-sê: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được người nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (Hs 6: 6; x. Is 1: 11-17).

Vì thế, không cần phải giải thích lời của ông như lên án nền phụng tự Đền Thờ. Trong trật tự của ông, mến Chúa và yêu người là những nguyên tắc hàng đầu của nền phụng tự Đền Thờ, là linh hồn của mọi hy lễ dâng tiến Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây, một nhà thần học Do thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.

B’ – Đức Giê-su khen ngợi (12: 34):

  1. “Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy”: Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su thường có cái nhìn về giai cấp lãnh đạo Do thái rất tiêu cực, nhưng ở đây Người nhận định câu trả lời của vị kinh sư này rất tích cực.

 “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”: Còn hơn tương lai, ở đây Nước Thiên Chúa đang ở trong tầm tay và xem ra có một chiều kích không gian. Việc ông hiểu đúng điều gì là quan trọng trong lề luật Cựu Ước đặt ông gần với Nước Thiên Chúa đang đến và chuẩn bị ông đón nhận nước đó một cách thích đáng (x. 10: 13-16).Ẩn sau những hỏi đáp này, chính là cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giê-su với một người kinh sư chân thành cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào.

 “Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa”: Câu này chuẩn bị cho câu chuyện tiếp theo sau, trong đó Đức Giê-su chất vấn các kinh sư về chân tính của Đấng Mê-si-a.

Về mục lục

.

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI CÓ DỄ KHÔNG?

Lm.Jos Đỗ Đức Trí

 Nhiều người cho rằng xã hội tiêu thụ, hưởng thụ ngày nay được cộng thêm với chủ nghĩa duy vật vô thần đang hủy hoại trầm trọng tâm hồn con người. Đời sống đạo của nhiều người chỉ còn là hình thức, họ tính toán với Chúa trong việc dâng lễ, cầu nguyện, dâng cúng như tính toán làm ăn. Nhiều người chỉ đến với Chúa mỗi khi cần giống như đi xin giấy tờ vậy. Trong xã hội Việt Nam: Lòng tốt của con người bị lợi dụng, lừa dối, khiến cho nhiều người không dám tốt với người khác. Trong công việc nhiều người vì lợi nhuận, sẵn sàng đầu độc người tiêu dùng bằng các loại hóa chất. Trong cuộc sống thường ngày người ta dễ dàng cư xử với nhau bằng bạo lực, côn đồ, ăn nói với nhau bằng những lời thô tục. Tình trạng này xảy ra hầu hết nơi mọi lứa tuổi, từ người lớn đến học sinh, trẻ em, từ dân thường cho đến quan chức. Trầm trọng hơn nữa là con người đánh mất niềm tin vào nhau, sống với nhau bằng sự ngờ vực; các thành viên trong gia đình cư xử với nhau không bằng tình yêu mà thay vào đó là bằng tiền… vv.

Vào những ngày cuối năm, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại hai giới răn quan trọng nhất của Chúa: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình, để chúng ta có dịp rà soát lại đời sống của ta với Chúa và cách cư xử của ta với anh chị em. Mến Chúa – Yêu người là hai giới răn chúng ta đã thuộc lòng. Tuy nhiên, từ việc thuộc lòng đi đến việc thực hiện vẫn là một khoảng cách thật xa. Mến Chúa, yêu người có dễ không?

Phải mến Chúa như thế nào? Đã nói đến tình yêu thì không bao giờ có giới hạn, vì thế việc yêu mến Chúa sẽ không bao giờ có tận cùng. Tin Mừng kể lại: “Một thầy thông luật đến hỏi Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong các điều răn, điều nào đứng hàng đầu?”Là một người thông luật, chắc chắn người này thông thạo các giới răn và lề luật. Sau một thời gian, Mười Điều răn của Chúa đã bị các thầy thông luật và biệt phái giải thích và thêm quá nhiều chi tiết, khiến cho nhiều người không biết đâu là điều chính yếu. Hơn nữa, vì chỉ lo giữ luật để khỏi vi phạm luật, nên người Do thái đã giữ luật theo hình thức bên ngoài mà không có tâm tình yêu mến bên trong. Vì vậy, đời sống đạo của họ trở thành như một cái máy được lập trình, như một con rô-bốt vô hồn. Do đó, khi trả lời cho người thông luật, Chúa Giêsu khẳng định: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức mình người”.

Với câu trả lời này, Chúa Giêsu cho thấy giới răn yêu mến Thiên Chúa là giới răn quan trọng nhất, và Ngài còn cho thấy phải yêu mếu Chúa như thế nào cho tương xứng. Chúa Giêsu trả lời thầy thông luật bằng việc trích lời kinh Shema trong sách Đệ Nhị Luật chúng ta nghe trong bài đọc một, để đưa ông về với thuở ban đầu thời ông Môsê. Lúc đó, dân vừa được giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, ông Môsê đòi họ phải yêu mến Thiên Chúa với lòng biết ơn. Môsê cũng cho dân Israel thấy, họ yêu mến, biết ơn Thiên Chúa thì sẽ được trường thọ, hạnh phúc và được vào đất hứa.

Yêu mến với lòng biết ơn, không phải là một cảm xúc nhất thời, hoặc theo hứng, mà phải là trọn vẹn cả con người với hết khả năng, sức lực, trí tuệ và tình cảm. Đòi hỏi đó được diễn tả qua kiểu nói: “Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức mình”.Việc yêu Chúa vừa là một đòi hỏi của Chúa vừa là thái độ đáp trả của con người với Thiên Chúa; của một người biết mình được yêu đối với đấng yêu mình, là ân nhân cứu mạng. Yêu hết lòng, hết linh hồn, là dành trọn vẹn cho Chúa tất cả trái tim, đặt Chúa vào vị trí thứ nhất trên tất cả tiền bạc, công việc, kể cả gia đình, không so đo tính toán thiệt hơn với Chúa. Yêu Chúa hết trí khôn và hết sức mình là dành cho Chúa hết mọi khả năng sức lực, mọi toan tính. Yêu hết lòng là yêu với một sự tự nguyện tự do và ý thức, tự giác đón nhận và thực hành những gì Chúa muốn vì biết mình được Chúa yêu. Khi dám yêu và dành trọn vẹn cho Chúa, Chúa không lấy đi những gì của chúng ta, nhưng trái lại Chúa thánh hóa, biến đổi và ban tặng lại cho chúng ta bằng tình yêu thương và phúc lành của Chúa. Tuy nhiên, nơi nhiều người lòng yêu mến Chúa đã vơi cạn, chỉ còn là một bổn phận bắt buộc. Vì thế họ đến với Chúa cho qua lần để đánh lừa lương tâm. Họ sống đạo chỉ theo thói quen hoặc hình thức bên ngoài mà không có tâm tình thảo hiếu biết ơn.

Cùng với đòi hỏi dành ưu tiên tuyệt đối cho Chúa, Chúa Giêsu còn chỉ cho người thông luật điều răn thứ hai: “Ngươi hãy yêu mến anh em như chính mình ngươi”.Ai cũng yêu mến bản thân, không ai ghét bản thân mình bao giờ. Ai cũng mong mình đạt được những điều tốt nhất, thoải mái nhất, ai cũng muốn mình hạnh phúc. Chúa muốn chúng ta cũng phải yêu người khác như vậy. Mỗi khi chúng ta làm gì sai, chúng ta thường tìm cách biện hộ cho bản thân, dễ thông cảm tha thứ cho mình, nhưng ta lại quá khắt khe, thiếu bao dung thông cảm với anh chị em. Trong cuộc sống, ai cũng muốn mình được nhìn nhận và tôn trọng, thế nhưng nhiều khi chúng ta đã không tôn trọng anh chị em, nhiều người còn sẵn sàng dìm anh chị em mình xuống để mình được leo cao trong bậc thang xã hội.

Thư Do Thái cho thấy, Chúa Giêsu chu toàn cách vuông tròn hai giới răn này và còn chu toàn một cách trọn vẹn, tuyệt vời, trở nên gương mẫu cho chúng ta. Vì yêu mến và vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa, Chúa Giêsu mang phẩm vị của một Thượng tế, chu toàn việc thờ phượng tế tự Thiên Chúa. Trong vai trò là Thượng tế, Chúa Giêsu đã hiến tế chính thân mình làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ vĩnh viễn cho toàn thể nhân loại. Khi còn sống ở trần gian, mang thân xác con người, Chúa Giêsu đã hết lòng yêu thương và phục vụ nhân loại tội lỗi, như những người anh em ruột thịt. Ngài ôm lấy những người đau khổ vào lòng, chữa lành bệnh tật thể xác và tâm hồn con người; cảm thông và an ủi những người đau khổ, những người bị xã hội loại trừ, không một người nào bị rơi ra ngoài sự quan tâm và tình yêu thương của Chúa.

Chúa Giêsu khi tóm gọn giới răn lề luật của Thiên Chúa vào hai điều Mến Chúa – Yêu người, Ngài muốn mỗi người chúng ta học nơi Ngài để biết yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo làm con và yêu mến, phục vụ anh chị em cho trọn tình vẹn nghĩa. Mỗi người được mời gọi làm mới lại tương quan của mình đối với Chúa. Chúa muốn chúng ta yêu Chúa một cách cụ thể từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài. Cho dù xã hội có nhiều lôi kéo, cho dù cuộc sống thường ngày trong gia đình, trong công việc có nhiều thứ chúng ta phải quan tâm, thế nhưng, giữa những sự lôi kéo và các mối bận tâm ấy, chúng ta vẫn phải dành cho Chúa chỗ ưu tiên trước hết và trên hết. Hãy để cho mình bận tâm vào việc chu toàn trước tiên bổn phận làm con cái của Chúa với lòng thảo hiếu, tôn kính và biết ơn. Cần phải bận tâm, lo lắng cho mình và các thành viên trong gia đình có được một đời sống đạo đức trưởng thành, một đức tin vững chắc. Trong mọi hoàn cảnh dám đặt Chúa và đời sống đức tin là quan trọng nhất.

Đồng thời chúng ta cũng phải chu toàn giới răn yêu thương đối với anh chị em. Chúng ta cần bắt đầu sống và thực hành yêu thương từ trong gia đình; dành sự kính trọng, thảo hiếu, biết ơn đối với cha mẹ, chăm sóc an ủi các ngài khi đau yếu, tuổi già. Cha mẹ, vợ chồng cần làm mới lại tình yêu thương với nhau, có thể sau thời gian sống chung tình nghĩa đã bị mai một, phai nhạt. Có nhiều người vợ đang bị hắt hủi ghẻ lạnh trong gia đình, có nhiều người chồng đang bị coi thường, ghét bỏ, họ đang cần được sự thăm hỏi quan tâm nhiều hơn. Hãy thể hiện giới răn yêu thương với con cái, những đứa ngoan và cả những đứa ngỗ nghịch. Nhờ việc cảm nhận được tình yêu, chúng sẽ được biến đổi. Điều khó, là thực hiện giới răn yêu thương đối với xóm giềng và những người chung quanh. Như đã nói ở trên, xã hội đang làm cho nhiều người mất đi sự nhạy bén của trái tim, khiến họ không còn biết nghĩ điều tốt, nói điều tốt và làm điều tốt cho anh chị em, mà chỉ biết nghĩ đến bản thân. Nhiều khi chúng ta vô tình hay cố ý gieo điều ác, điều xấu, điều gian dối cho người khác, mà lương tâm không chút áy náy.

Xin Chúa cho chúng ta không chỉ thuộc, mà còn biết thực hiện hai giới răn mến Chúa và yêu người này mỗi ngày trong đời sống, để mọi người nhìn vào những việc làm yêu thương của ta, biết ta thuộc về Chúa Kitô. Amen.

Về mục lục

.

ĐIỀU RĂN ĐỨNG HÀNG ĐẦU TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Đnl 6:2-6;  Dt 7:23-28;  Mc 12:28-34)

          Cứ mỗi lần nghe bài Tin Mừng hôm nay, câu hỏi đến trong đầu óc tôi vẫn là tại sao Chúa Giê-su lại bảo ông kinh sư rằng ông ta không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.  Câu truyện bắt đầu từ việc ông hỏi Chúa điều răn nào đứng hàng đầu trong mọi điều răn.  Trả lời ông, Chúa Giê-su không chỉ kể ra một “điều răn đứng hàng đầu”, mà Người còn kể ra thêm một điều răn khác cũng đứng hàng đầu!  Ông kinh sư không phản đối câu trả lời của Chúa, trái lại ông hoàn toàn đồng ý với Chúa.  Hơn thế nữa, ông còn giải thích thêm lý do tại sao cả hai giới răn mến Chúa và yêu tha nhân lại chiếm vị trí hàng đầu:  bởi vì hai giới răn này “quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”.  Đây là cách hiểu hoàn toàn đi ngược lại với lối suy nghĩ và thực hành của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư.  Như thế, ông đã bước ra khỏi thế giới của nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư, để đón nhận lối suy nghĩ của Chúa Giê-su.  Nói khác đi, ông bắt đầu bước vào Nước Thiên Chúa do Chúa Giê-su rao giảng và thiết lập!

          Chúng ta hãy trở lại với câu chuyện Tin Mừng để hiểu diễn tiến thay đổi lối suy nghĩ của ông kinh sư.  Trước hết là câu hỏi của ông: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Khi hỏi “điều răn nào”, tức là chỉ có một điều răn thôi, ông vẫn theo cách suy nghĩ của các kinh sư là chủ trương rằng chỉ có điều răn mến Chúa mới là điều răn đứng hàng đầu.  Chúa Giê-su đồng ý với ông về vị trí “đứng hàng đầu” của điều răn này, như chúng ta đọc thấy trong bài đọc 1 về vị trí của điều răn ấy. Tuy nhiên Chúa đã làm cho ông quá bất ngờ khi Người kể thêm một điều răn hàng đầu nữa, là điều răn yêu thương tha nhân;  cuối cùng Người kết luận:  Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó. Đối với Chúa Giê-su, không có điều răn “đứng hàng đầu”, mà chỉ có những điều răn “quan trọng nhất”. Nếu Chúa Giê-su làm cho ông kinh sư phải ngạc nhiên thì đến lượt ông lại làm cho Chúa Giê-su vô cùng bỡ ngỡ khi ông trích dẫn Kinh Thánh để giải thích tại sao hai điều răn ấy là quan trọng nhất:  vì chúng quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ. Đây là điều cả hai người, Chúa và ông kinh sư, đồng quan điểm với nhau.  Như chúng ta biết, nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư quá câu nệ Lề Luật đến độ coi thường cả việc thực thi bác ái và yêu thương.  Dụ ngôn Chúa Giê-su kể về người Sa-ma-ri nhân hậu cho thấy điều ấy.  Vì muốn giữ luật thanh tẩy, thầy tư tế và thầy Lê-vi không muốn dừng lại cứu giúp người bị cướp đánh và bỏ nằm bên lề đường.  Cả hai người đã quý trọng việc dâng lễ toàn thiêu và hy lễ hơn cả việc băng bó vết thương cho người bị nạn.  Đối với họ, phải lên thẳng Giê-ru-sa-lem để dâng lễ tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa là “điều răn đứng hàng đầu”, còn việc tỏ lòng yêu thương tha nhân bằng cách dừng lại cứu giúp người khác chỉ là hàng thứ yếu.  Nhưng ông kinh sư này khác hẳn với những kinh sư khác.  Nếu ông là người trên đường lên Giê-ru-sa-lem gặp người bị nạn thì chắc chắn ông sẽ dừng lại giống như người Sa-ma-ri nhân hậu và sẽ làm cùng những điều người này làm rồi!  Đây cũng là điều Chúa Giê-su đã từng giảng dạy và hôm nay Người xác nhận lại một lần nữa:  mến Thiên Chúa và yêu tha nhân là hai điều không thể tách rời, có tầm quan trọng như nhau và cùng “đứng hàng đầu” như nhau.

          Chúa Giê-su đã chu toàn cả hai điều răn đứng hàng đầu này như thế nào?  Người là Con Một được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ nhân loại. Giả như Chúa Giê-su hành động theo lối suy nghĩ của nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư, thì Người sẽ coi việc yêu mến Chúa Cha là “hàng đầu”, còn việc cứu nhân loại là “hàng thứ”. Nhưng không phải vậy đâu, vì Người yêu thương chúng ta giống như Người yêu mến Chúa Cha.  Chính vì yêu thương chúng ta, Người đã chấp nhận làm “một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời”, chịu chết trên thập giá để “đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa” (bài đọc 2). Với Chúa Giê-su, vâng lời Chúa Cha vì yêu mến Người và chịu chết để cứu chuộc nhân loại đều là những hành vi quan trọng, là hai “điều răn đứng hàng đầu”!  Người đã lấy hai điều răn này để đặt nền móng cho Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng và thiết lập vậy.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Chúa Giê-su là gương mẫu sống hai điều răn quan trọng nhất mến Chúa yêu người. Chính vì thế, thánh Phao-lô, vị tông đồ của Chúa và cũng là người rất am hiểu mầu nhiệm Chúa Ki-tô, đã cầu xin cho chúng ta và mời gọi chúng ta hãy mang lấy những tâm tình của Chúa Ki-tô, hoặc hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô. Lời cầu nguyện của ngài là: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ê-phê-xô 3:17-19).

          Ước chi lời cầu nguyện này cũng là lời khích lệ chúng ta hãy tiến sâu hơn mãi vào trong Nước Thiên Chúa, mang lấy não trạng của Vua Giê-su mà yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh chị em “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” chúng ta.

Về mục lục

.

QUÁN QUÂN

Lm. Thái Sơn

Gần đây, trên các báo thế giới, các khoa học gia phát hiện điều gì mới mẻ nhất?

Đầu tiên, người Nhật đăng tin: “Họ đã đào sâu 100m xuống lòng đất và phát hiện sợi cáp đồng 1000 năm tuổi, chứng tỏ 1000 năm trước người Nhật đã xài điện thoại để bàn ???!!!”.

Vài ngày sau, người Mỹ lại đăng: “Họ đã đào sâu 200m xuống lòng đất và phát hiện sợi cáp quang 2000 năm tuổi, chứng tỏ 2000 năm trước người Mỹ đã xài truyền hình cáp !!!???”.

Chỉ sau đó một ngày, người Việt Nam cũng đăng tin: “Họ đã đào sâu 500m xuống lòng đất và chẳng phát hiện ra gì cả, nhưng tuyên bố 5000 năm trước Việt Nam đã xài mạng wifi!!!”.

Một mẩu chuyện khác hấp dẫn hơn.

Có ba người: Pháp, Anh và Việt ngồi nói về công nghệ của nước mình, ai cũng cho rằng công nghệ của mình là chuẩn nhất thế giới.

Người Pháp nói: “Ở nước tôi có thể làm đường ray xe lửa chạy dưới đáy biển”. Người Anh liền nói: “Dưới đáy biển gồ ghề thế sao làm đường ray được”. Người Pháp trả lời: “Sai số 20cm”.

Đến lượt người Anh nói: “Nước tôi có thể làm đường ray xe lửa trên mặt trăng”. Người Pháp cãi: “Trên mặt trăng gồ ghề thế sao làm đường ray được”. Người Anh liền nói: “Sai số 20cm”.

Người Việt ngồi im lặng nãy giờ nghe hai người kia nói vậy liền lên tiếng: “Như vậy thì nhằm nhò gì, ở nước tôi người phụ nữ có thể sinh con bằng lỗ rốn”.

Hai người kia nghe vậy thật ngỡ ngàng và ngạc nhiên vội kêu lên: “Sao lại sinh con bằng lỗ rốn được”. Người Việt tủm tỉm và nói rằng: “Sai số 20cm”.

Thưa các bạn!

Phải chăng, hạng nhất, số một, number one, đứng đầu, hảo hạng, vô địch hay quán quân là mơ ước của từng người, hay dân tộc mình?

Thiết tưởng, để đạt được thành tích cao nhất và nhận giải quán quân, đòi hỏi “bạn & tôi” phải nỗ lực, cố gắng, trau dồi, học hỏi, không ngừng luyện tập và cọ sát.

Tin Mừng Chúa Nhật 31 thường Niên B, Đức Giêsu cũng yêu cầu ông kinh sư về điều răn quan trọng nhất, với bốn chữ “hết”: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực.

Điều răn thứ nhất đó là yêu mến Đức Chúa và điều răn thứ hai là yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn hai điều răn đó (Mc 12,30-31).

Có lẽ, “mến Chúa” thì dễ hơn “yêu người”. Vì Chúa thì vô hình, vô hạn, không thấy được, không sờ tới… còn người thì hữu hình, giới hạn, xem thấy, chạm được, lại yếu đuối, mỏng giòn, tội lỗi…

Có thể nói, tuân giữ những điều răn Chúa dạy, được xem là mến Chúa. Như thánh Gioan tông đồ đã xác định bằng chứng việc yêu Chúa là giữ các giới răn của Ngài (x. 1Ga 5,3).

Chân thật mà nói, yêu người mà mình thích thì đơn giản, còn yêu người mà mình ghét, hoặc yêu người mà ghét mình thì quả là khó khăn và nhiêu khê vô cùng.

Thưa các bạn!

Người Hoa đã dùng hình ảnh “quỷ & chó” để diễn tả sự phức tạp này. Họ cho rằng: “Vẽ quỷ thì dễ, vẽ chó thì khó”.

Thật vậy, quỷ thì khó thấy hoặc chẳng thấy, nên vẽ sao cũng được, chẳng ai trách là vẽ không giống quỷ; còn chó ai cũng biết, nếu vẽ không đẹp sẽ bị chê là xấu.

Nếu dùng từ Hán – Việt để nói lên mức độ “mến Chúa” và “yêu người”, thì gói gọn trong bốn chữ “toàn”. Đó là “toàn tâm, toàn linh, toàn ý, toàn lực”. Xem ra, “toàn” và “hết” là hai lãnh vực chỉ dành cho Thiên Chúa thôi.

Thiết nghĩ, nếu không có ơn Chúa, không có sức sống của Chúa, và không có quyền năng của Chúa…, thì con người chẳng làm được gì, mà chỉ xem “mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” quý hơn tình yêu.

Ước gì, chỉ có tình yêu là động lực cao nhất sẽ giúp “bạn & tôi” xích lại gần nhau và không còn xa Nước Thiên Chúa nữa. Amen

Về mục lục

.

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI, GIỚI RĂN QUAN TRỌNG NHẤT

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong luật Môsê, có rất nhiều điều luật, trong 613 điều luật, có 248 điều buộc làm và có 365 điều cấm làm. Giữa một “rừng luật” như thế, nhiều lúc người ta không biết điều răn nào là quan trọng nhất. Đây là lý do tại sao người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”

Để hiểu được bối cảnh bài Tin Mừng, trước hết chúng ta cần biết rằng vào thời Chúa Giêsu, trong Do Thái giáo, có hai khuynh hướng đối nghịch nhau. Một khuynh hướng muốn nhân rộng các khoản luật và quy định tỉ mỉ mọi chi tiết của đời sống. Khuynh hướng khác lại muốn rút ra từ “đống luật” điều chính yếu và quan trọng mà Thiên Chúa muốn hơn là quá chú trọng đến các chi tiết luật và những điều thứ yếu. Người thông luật này thuộc khuynh hướng thứ hai.
Chúa Giêsu dùng cơ hội này để cống hiến một sự mới mẻ khi tóm tắt mọi lề luật vào trong hai giới răn: “Mến Chúa, yêu người, như là cốt lõi của lề luật.”

1- Mến Chúa, giới răn quan trọng nhất

Trước hết, Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của người thông luật: “Nghe đây, hỡi Ítraen, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12,29-30).

Đối với người Do Thái, câu trả lời này không có gì mới mẻ cả, bởi lẽ, những điều này được nói ở trong Cựu Ước mà họ rất quen thuộc. Cụ thể, trong sách Đệ Nhị Luật mà bài đọc I trích dẫn nói về giới răn này: “Nghe đây, hỡi Ítraen! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4). Ở đây, Chúa Giêsu vừa kế thừa vừa kiện toàn luật Cựu Ước khi nhắc lại điều quan trọng và chính yếu của lề luật.

Vậy thì “người phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” có nghĩa là gì?

Trong Mátthêu, từ có từ “hết” được lặp lại ba lần, còn trong Máccô, từ “hết” được lặp lại bốn lần để nhấn mạnh rằng con người phải yêu mến Thiên Chúa với toàn vẹn và trọn vẹn con người mình. Nghĩa là yêu mến Thiên Chúa đòi hỏi một sự dấn thân toàn bộ và trọn vẹn con người: cả con tim, tâm hồn, lý trí và cả thể lý chúng ta. Đây là giới răn quan trọng nhất. Điều này có nghĩa Thiên Chúa phải ở chỗ quan trọng nhất, vị trí số một trong cuộc đời tôi. Vì thế, mọi chọn lựa, suy nghĩ, tâm tư tình cảm và hành động của tôi phải được chi phối từ hệ giá trị này.

Như thế, Chúa Giêsu muốn thiết lập lại tương quan nền tảng thứ nhất của con người với Thiên Chúa. Theo đó, con người hiện hữu nhờ Thiên Chúa. Con người được tạo dựng để yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Con người chỉ tìm được ý nghĩa và hạnh phúc cuộc sống khi sống kết hợp và yêu mến Người. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi đó là điều răn quan trọng nhất.

2- Yêu người, giới răn thứ hai

Kitô giáo không phải là một tôn giáo “duy thiên” hay “duy linh” mà là một tôn giáo nhập thể và nhập thế. Con người không chỉ có tương quan chiều dọc với Thiên Chúa, nhưng còn có tương quan chiều ngang với tha nhân. Con người sống là sống bởi, sống với, sống vì tha nhân.

Chúa Giêsu tóm tắt đạo lý này trong giới răn thứ hai: “Người phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác trọng hơn các điều răn đó” (Mc 12,31). Đây chính là sự mới mẻ mà Chúa Giêsu mang đến. Người tóm tắt mọi lề luật vào trong hai giới răn. Người liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai lại với nhau. Theo Chúa, người ta không thể đối lập Thiên Chúa với con người, cũng không thể đối lập con người với Thiên Chúa. Cũng không có sự mâu thuẫn giữa hai tình yêu. Yêu mến Thiên Chúa thì phải yêu thương tha nhân. Yêu thương tha nhân là bằng chứng yêu mến Thiên Chúa, và hơn thế nữa, yêu thương tha nhân là yêu mến Thiên Chúa (x. Mt 25,45; 1 Ga 4,20). Và mọi tội chống lại con người là chống lại Thiên Chúa.

Nhưng chúng ta cần phải phân tích giới răn thứ hai với cụm từ “yêu người thân cận như chính mình.” Ở đây, chúng ta để ý chữ “như chính mình” làm tiêu chuẩn đo lường cho tình yêu đối với tha nhân. Theo tiêu chuẩn này, nơi khác Chúa Giêsu nói: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12). Bởi lẽ, ai cũng mong muốn và làm điều tốt, điều lành cho mình; không ai muốn làm những điều xấu cho mình (trừ người điên)… Chẳng hạn, không ai trong chúng ta lại muốn mình đau khổ, thất bại và gặp tai họa, nhưng ai cũng muốn mình được bình an, thành công và hạnh phúc; ai cũng muốn được người khác tôn trọng, đối xử công bằng và quý mến mình. Từ đó, chúng ta hãy mong muốn và làm cho người khác những điều tương tự như thế.

Như vậy, yêu mến Thiên Chúa hướng chúng ta tới việc yêu mến tha nhân như chính mình và ai yêu thương là chu toàn lề luật.

3- Những mẫu gương mến Chúa yêu người

Tuy nhiên, mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình là hai điều rất khó khăn. Để thực thi điều đó, chúng ta cần ơn Chúa giúp. Vì với ơn Chúa giúp, mọi sự đều có thể. Chúng ta còn phải cố gắng không ngừng để vượt lên những rào cản là tính ích kỷ, kiêu ngạo và quy ngã. Vì thế, nhiều lúc chúng ta cảm thấy mến Chúa thì dễ hơn yêu người; nhiều lúc mến Chúa và yêu người là điều không thể. Khó khăn lắm!

Chúng ta tìm thấy những mẫu gương sáng chói soi sáng và giúp chúng ta sống. Xin kể ra đây một số gương mặt nổi bật.

Trước hết, phải kể đến mẫu gương Chúa Giêsu. Người đã sống trọn lý tưởng mến Chúa và yêu người một cách hoàn hảo. Người hoàn toàn vâng phục Chúa Cha và đã hiến thân chịu chết vì loài người. Người không chỉ yêu những kẻ yêu thương mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù địch với mình.

Thứ đến là mẫu gương của cha Maximilianô Maria Kolbe, ngài là một sĩ dòng Phanxicô, người Ba Lan. Ngài bị bắt và bị nhốt ở trại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã. Cuối tháng 7 năm 1941, có ba tù nhân trốn khỏi trại, khiến phó chỉ huy trại bắt 10 người đàn ông chết thay bằng cách bỏ đói trong hầm ngầm để răn đe việc trốn trại. Một trong những người bị chọn có Franciszek Gajowniczek, anh này kêu lên: “Tôi còn vợ tôi! con tôi nữa!” Kolbe động lòng thương và tình nguyện chết thay cho anh này. Đó là nghĩa cử thể hiện cách tuyệt hảo về lòng mến Chúa và yêu người.

Mẫu gương cuối cùng có thể kể ra đây đó là Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ là một nữ tu người gốc Albani, nhưng vì được thúc đẩy bởi tình yêu Chúa và lý tưởng phục vụ tha nhân, Mẹ đã sang Ấn Độ để hiến trọn cuộc đời phục vụ người nghèo, đặc biệt là người bất hạnh nhất. Mẹ đã lập dòng Thừa Sai Bác Ái để cùng với các nữ tu chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối ở Ấn Độ và nay khắp nơi trên thế giới đều có sự hiện diện của dòng này. Sứ mạng của Mẹ và dòng này là phục vụ Chúa trong người nghèo. Mẹ đã được cả thế giới biết đến với lòng kính trọng như là biểu tượng của lòng bác ái Kitô giáo đương thời. Mẹ đã sống trọn vẹn hai giới răn mến Chúa và yêu người cách tuyệt hảo noi gương Chúa Giêsu.

Và trong lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều vị thánh khác, nhiều con người và các tổ chức, dòng tu đã dân thân phục vụ con người theo tinh thần của Phúc Âm. Đó chính là những mẫu gương sáng chói của việc thực thi giới răn mến Chúa yêu người.

Noi gương các ngài, chúng ta được mời gọi sống triệt để hơn hai giới răn quan trọng và chính yếu này trong đời sống hằng ngày, là mến Chúa và yêu người. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận, thì đó là bằng chứng chúng ta đang sống theo giáo huấn của Chúa Giêsu. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta chỉ chọn một trong hai, hoặc đối lập chúng, thì chúng ta đã quên điều chính yếu mà Chúa Giêsu hôm nay giới thiệu và nối kết, vì mến Chúa và yêu người là cốt lõi của Kitô giáo chúng ta. Amen!

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Tin mừng cho chúng ta biết có nhiều cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với những người chống đối thù nghịch với Ngài.  Cuộc tranh luận trong bài Tin mừng hôm nay do nhóm kinh sư, luật sĩ đặt ra về điều luật nào trong Kinh thánh quan trọng nhất.  Chủ đích của nhóm luật sĩ này không phải để học hỏi hay trao đổi, mà họ muốn gài bẫy để kết án Chúa Giêsu. Và cũng nhờ cuộc tranh luận này mà Chúa đã mạc khải cho chúng ta một chân lý.  Chúa Giêsu đã tóm tắt tất cả luật cũ vào một giới răn, đó là giới răn: Mến Chúa Yêu Người.

Có một giáo lý viên đang dạy giáo lý cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi: “Cốt lõi, điểm đặc biệt nhất của Ðạo Công Giáo là gì?”  Giáo lý viên đáp: “Là Yêu Thương.”  Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói.  Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau, những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương, và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau.”  Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ.  Thứ nhất, đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo.  Thứ hai, chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương.”  Thế là giáo lý viên bí!

Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim, trong tâm hồn của mọi người. Vì thế không cần đạo Công giáo dạy, không cần Chúa Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết và trân trọng tình cảm yêu thương.  Nhưng câu hỏi là: chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác sao?  Chẳng lẽ Chúa Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao?  Vì thế chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.

Trước hết, tình thương của con người có nhiều cấp bực khác nhau. Thương một người bạn hay hàng xóm thì không bằng thương anh chị em ruột. Thương anh chị em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Thương mình chứ không thể nào thương kẻ thù.  Và thứ hai, đối với một người có đạo thì họ nghĩ phải yêu Chúa trên hết, kế đó mới yêu thương những người khác.  Còn Chúa Giêsu thì dạy phải mến Chúa yêu người đồng hành và khắng khít với nhau.  Phải đặt yêu người và mến Chúa ngang nhau.  Có nghĩa là không thể mến Chúa mà lại thù ghét anh chị em hay ngược lại.  Nghĩa là chúng ta mến Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, chúng ta phải coi người khác như Chúa vậy, và phải thương người khác như yêu mến Chúa. Ðó chính là điểm độc đáo của giới răn Yêu Thương Công Giáo.

Thành thật mà nói thì yêu Chúa dễ hơn.  Vì sao?  Vì Chúa dễ yêu lắm, ai cũng có thể nói yêu Chúa được. Thế nhưng chúng ta hãy thành tâm tự hỏi: Chúng ta có chân thành yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức chúng ta không?   Chúng ta có thể cho mình là yêu mến Chúa nhưng nhiều khi chỉ yêu ngoài môi miệng, hay bằng đọc dăm ba câu kinh, hay đến nhà thờ xem lễ một tuần một lần nhưng tâm trí thì lại để ở đâu đó. Yêu Chúa rất dễ vì Chúa chẳng phản ứng gì cả với thái độ yêu bề ngoài của chúng ta.

Còn yêu người thì sao?  Chắc chắn là khó hơn và chúng ta cũng đã nghe nhiều về vấn đề này, nhưng có thể nói chẳng bao giờ nghe đủ. Vì thế ở đây tôi xin được chia sẻ một vài điều.  Điều thứ nhất, yêu người là một giới luật, một mệnh lệnh của Chúa, không phải là một đề nghị hay một lời kêu gọi. Và cũng là thước hay tiêu chuẩn thực tế để đo lường và đánh giá tình yêu của chúng ta đối với Chúa.  Nghĩa là nếu chúng ta nói chúng ta yêu Chúa mà chúng ta sống ích kỷ, thu hẹp, sống không công bằng, gian dối hay lừa dối người khác, bất kể người đó là ai, thì chúng ta là người nói dối. Thánh Gioan khẳng định rằng: “Nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình, người ấy là kẻ nói dối.”

Điều thứ nhì, yêu người không phải chỉ là yêu thương theo tình cảm, có nghĩa là chỉ yêu thương những người thương mến chúng ta, còn đối với những người khác thì không. Nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu thương chúng ta đó là chuyện bình thường và thường tình vì ai cũng làm điều đó, không cần phải đề cập tới và không có gì để nói.  Yêu người theo giới luật của Chúa là yêu thương cả những người không có liên hệ gì với chúng ta, kể cả người thù ghét, làm hại chúng ta.  Điều thứ ba, yêu người không phải chỉ ngoài môi miệng mà bằng hành động cụ thể như sẵn sàng, hy sinh, có lòng bác ái, quảng đại giúp đỡ bằng việc làm tinh thần hay vật chất. Và điều sau hết rất quan trọng mà chúng ta phải ghi nhớ: tới ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét thưởng phạt về giới răn yêu thương: yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn và linh hồn và yêu thương người khác như chính mình.

Đạo của Chúa và của chúng ta là đạo tình yêu, vì chính Thiên Chúa là tình yêu.  Vì thế, Ngài mời gọi tất cả mọi người sống trong tình yêu của Ngài.  Ngài đã hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta những người không xứng đáng, những người tội lỗi, vô điều kiện và ban cho chúng ta ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu đời sau. Chúa Giê-su vì yêu thương đã chịu chết trên thập giá cho chúng ta, và Chúa còn hiện diện trong Bí tích Thánh Thể để trở thành của ăn nuôi linh hồn chúng ta.  Khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu cao cả của Chúa cho chúng ta.  Như vậy, nếu sống giới răn Yêu Thương của Chúa thì sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa.

Xin cho tình yêu của Chúa trong Thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nhận lãnh ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, đến cộng đoàn và đến những người sống chung quanh chúng ta.

Về mục lục

.

Exit mobile version