Các bài suy niệm Chúa Nhật 30 Thường niên Năm B

866

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52

——-

Mục lục

1. Xin thương xót tôi (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Con đường vui  (Jorathe Nắng Tím)

3. Câu hỏi của Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

4. Một lệnh truyền  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

5. Quyền van xin  (Trầm Thiên Thu)

6. Sáng mắt, sáng cuộc đời (Lm. Nguyễn Xuân Trường)

 

Năm 2018

Mục lục

1. Xin cho con được thấy  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

3. Người hành  khất mù Báctimê  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Nhìn và thấy được  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Tin Mừng Chúa Nhật 30 Thường niên_B  (Jorathe Nắng Tím)

6. Muốn tôi làm gì?  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

7. Khát khao được sáng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

8. Đấng Cứu Thế chữa lành bệnh tật của chúng ta  (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

9. Mắt đức tin  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Suy niệm Chúa Nhật 30 Thường niên_B  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

11. Thị lực  (Trầm Thiên Thu)

12. Chúa Nhật 30 Thường niên_B (Giuse Vũ Trọng Nghĩa, SSS)

13. Ai mới là kẻ mù lòa  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

14. Mù lòa  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

15. Có mắt cũng như mù  (JM. Lam Thy, ĐVD)

16. Lòng tin của anh đã cứu chữa anh  (Fx. Đỗ Công Minh)

17. Đến với Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

18. Xin cho con được thấy.  (Lm. Simon Trân Văn Đức)

19. Hai mặt  (Lm. Vũ Đình Tường)

20. Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

21. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 30 TN_B  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

22. Sáng niềm tin  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

23. Xin cho con nhìn đượcc  (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

24. Chúa Giêsu, Đấng khai sáng  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

25. Chúa Nhật 30 Thường niên_B. (Lm. Antôn)

26. Bi đát  (Lm. Thái Sơn)

 

Năm 2015

Mục lục

1. Ánh sáng đức tin  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Chúa chữa anh mù Bactimê (Gm. Phêrô Nguyễn Khảm)

3. Tới nguồn sự sáng  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

4. “Tầm nhìn” là gì? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền) 

5. Lòng thương  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

6. Khi cầu nguyện ta phải xin gì trước hết  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7. Người mù thành Giêrrikhô (Lm. Văn Hào)

8. Hòa điệu xót thương  (Trầm Thiên Thu) 

9. Đôi mắt của chị Nữ tu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Chúa Nhật 30 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

11. Mù loà (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

12. Thấy và không thấy được  Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

13. Cần được yêu thương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc) 

14. Xin cho con sáng mắt để được sáng lòng mà đi theo Chúa  (Lm. Đan Vinh)

15. Xin thương xót con  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

16. Lòng tin của anh đã cứu anh  Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ)

17. Ôi lạy Chúa xin mở cho con đôi mắt (Huệ Minh) 

.

XIN THƯƠNG XÓT TÔI

Lm. Jos DĐH.

Trên mạng xã hội, người ta kể câu chuyện vắn gọn, không kém phần sâu sắc như sau: một ông đại gia tới thăm anh bạn nhà giầu nhất vùng. Vừa bước vào cổng, con chó sủa ầm ĩ vụt nhanh về phía ông đại gia, ông ta vô cùng hoảng sợ trước sự can thiệp kịp thời của ông chủ nhà giầu. Ông nhà giầu trấn an người bạn bằng một câu thành ngữ quen thuộc: chó sủa là chó không cắn, hãy an tâm ông bạn quý của tôi. Nhưng ở đâu đó có tiếng nói rõ to: không phải tất cả mọi chú chó đều hiểu, và nhớ câu thành ngữ đó đâu ạ. Thật tình mà nói, người sống có tình có nghĩa, đi đến đâu cũng có bạn hiền. Con chó khôn ở chỗ biết nghe theo sự điều khiển của chủ, nhưng không có nghĩa là không biết tấn công kẻ xấu. Ông nhà giầu có thể sẽ không còn bạn đến thăm, nếu tình trạng chó nhà ông làm khách hoảng sợ. Không biết bạn là người tốt, hay xấu, nhưng nếu đi trong đêm tối, bạn không thể ngăn cản chó đừng sủa.

Không ai nghĩ truyền giáo là sứ mạng của các linh mục tu sĩ tài giỏi, cũng chẳng ai nói truyền giáo là bổn phận, của các đại gia giầu có. Tất cả những ai ý thức mình là kitô hữu, đều có thể nghe, hiểu, biết, và sống ơn gọi của mình cách đúng và đẹp nhất. Nhà giầu hay nhà nghèo, mắt tinh tai thính, mắt kém tai lùng bùng, đều có thể gặp nguy hiểm, nếu họ lầm tưởng, tôi tự đi đến thành công bằng thực lực của tôi. Người mù ngồi ăn xin ở vệ đường, tưởng không có gì để nói, vậy mà anh đã trở thành công, chỉ đơn giản, khi anh mở miệng nói lời “xin thương xót tôi”, hỡi Thầy Giêsu. Cứ tưởng truyền giáo là của các đấng có chuyên môn, cứ tưởng tuyên xưng Đức Giêsu là con vua Đavít, phải phát xuất từ hành động đẹp nơi các luật sĩ biệt phái ? Nhưng lạ thay, từ môi miệng anh mù, từ các hoạt động bác ái âm thầm ở khắp đó đây.

Cứ bình thường, kẻ đói khát, cần được ăn uống, người ăn xin, muốn được tiền, được gạo, người đau khổ tinh thần, cần được an ủi, cảm thông, kẻ túng thiếu vật chất tiền của, họ cần sức khoẻ, việc làm ổn định. Anh Bartimê ngồi ăn xin ở vệ đường, mù loà mà anh ta nghe được, hiểu được, Đấng sắp đi qua chỗ anh là Ông Giêsu con vua Đavít, thật lạ lùng. Anh Bartimê không xin tiền, không xin thực phẩm, cũng không xin địa vị, anh ta xin được sáng mắt, đúng hơn, là xin Ông Giêsu cho anh được tình yêu thương của Chúa. Khách quan mà nói, anh Bartimê có trăm ngàn nỗi khổ đau vì đôi mắt không nhìn thấy, nhưng anh vẫn đủ nghị lực để sống và trình bày với Đấng anh tin yêu.

Tục ngữ có câu: cú xấu mà cú lắm lông, có phải ý muốn nói rằng, đừng khinh thường ai cả, vì mỗi người đều có những điểm tốt. Cha ông ta thì nói: xanh vỏ đỏ lòng. Người trẻ thì dùng từ ngữ đặc thù hơn: nhỏ mà có võ. Các vị đạo đức lại nói, đôi mắt anh Bartimê không nhìn thấy, ấy vậy, trí lòng anh ta thì sáng hơn bình thường. Chúng ta có thể tự tin, nhưng đừng tự cao tự đại. Chúng ta khoẻ mạnh, tiếng tốt hơn anh Bartimê, thiết thực hơn một chút, chúng ta có tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng bằng lời nói việc làm không ? Nếu anh Bartimê sinh ra trong tối tăm mù mịt, không phải do lỗi của anh, tuy nhiên, ở bên Thầy Giêsu quyền năng, anh không biết mở trí, mở lòng, thân thưa với Thầy: xin cho con được xem thấy, quả là thiếu sót.

Hãy chân thành và mạnh dạn lên: sự táo bạo làm tăng thêm can đảm, do dự lại kéo dài sợ hãi. Đức Giêsu chữa được các dị tật, thay đổi được đường đi nước bước của ta, như Ngài đã biến đổi biết bao tâm hồn tội lỗi trở nên xứng hợp với tình yêu của Thiên Chúa. Anh mù không nhìn thấy, thế mà trí lòng anh sáng lạ kỳ, trong khi đó nhiều người học cao hiểu rộng, nhìn mà không thấy, biết nhưng biết không đúng về tình yêu của Thầy Giêsu. Trong niềm tin có cả khiêm tốn cần thiết, chúng ta đủ khả năng để tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, đủ sự nhạy bén để mở miệng xin lòng thương xót của Chúa. Vâng, Đức Giêsu đã hỏi anh Bartimê, Ngài cũng sẽ hỏi chúng ta: các bạn muốn Tôi làm gì cho các bạn ? Bệnh nhân gặp Thầy thuốc giỏi, quả là hạnh phúc, Thầy thuốc thấy “tội nhân” thật lòng thật tình sám hối, Thầy sẽ vui biết bao …

Nếu chỉ nói: lạy Đức Giêsu, xin thương xót con, hẳn không khó tí nào, nếu truyền giáo là mang tiền của dư thừa, cho những nơi đói nghèo, có lẽ chỉ các đại gia mới truyền giáo được. Khó khăn của người kitô hữu hôm nay không phải là tìm kiếm thầy thuốc tài giỏi, trở ngại lớn của các hoạt động truyền giáo là người ta cậy dựa vào khả năng của mình, hơn là cậy trông vào Chúa. Đối tượng mà Đức Giêsu hằng quan tâm xưa nay: dù tội lỗi hay thánh thiện, cuộc sống sung túc hay hoàn cảnh hẩm hiu, Thiên Chúa vẫn muốn ta tự trả lời: bạn muốn tôi làm gì cho bạn ? Chúng ta không mù loà thể lý, nhưng không vì thế mà ta bỏ qua cơ hội tuyên xưng niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể gọi là sáng mắt, sáng tâm hồn, khi biết khiêm tốn để tình yêu Chúa, biến đổi ta nên cùng một nhịp đập yêu thương. Amen.

Về mục lục

CON ĐƯỜNG VUI

Jorathe Nắng Tím   

Nhiều người lầm tưởng: con đường đến với Chúa, đi với Chúa là con đường sầu thảm, buồn thương, nặng lo âu, phiền não.

Tin Mừng hôm nay làm chứng ngược lại: con đường ấy là con đường vui, con đường tràn đầy niềm hoan lạc, phấn khởi, vì là đường của Thiên Chúa, và trên đường có Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ cùng đi với con người.

Là đường của Thiên Chúa đưa dân Người “trở về” từ miền đất lưu đầy, như ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm: “Ta quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo. Chúng trở về nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ítraen, Ta là một người Cha” (Gr 31,8-9).

Là đường có Thiên Chúa, như đoàn tù nhân Xion trên đường trở về cứ tưởng mình “như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng”. Họ như người “nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, reo vui  hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125, 1-2. 5-6).

Là đường Đức Giêsu đã bước đi: con đường Thánh Giá đau khổ và chết chóc đã dẫn đến buổi sáng Phục Sinh khải hoàn khi Sự Sống chiến thắng thần chết, và Thập Giá chiến thắng địa ngục; con đường khiêm hạ, vâng phục của Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã không tự gán cho mình vinh quang, vinh dự, cũng không tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Chúa Cha,“Đấng đã nói với Ngài: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Dt 5, 6).

Con đường của Thiên Chúa, có những bước chân cứu độ của  Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người  cũng là con đường Thiên Chúa mời gọi con người bước đi với Ngài, con đường con người tìm gặp Thiên Chúa, và Thiên Chúa đến gặp con người.

Trên con đường ấy, có “người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê” nài xin lòng thương xót của Đức Giêsu khi anh lớn tiếng kêu van Ngài, bất chấp “nhiều người qúat nạt, bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi!” (Mc 10, 46. 48); trên con đường ấy, anh mù Batimê, khi nghe Đức Giêsu gọi đã “vất bỏ áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu” (Mc 10, 50); trên con đường ấy, anh mù đã xin Đức Giêsu cho mình được thấy, khi Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10, 51); và cũng chính trên con đường ấy, Đức Giêsu cho anh được nhìn thấy, khi nói với anh: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 52).

Thực vậy, con đường người môn đệ được mời gọi bước đi với Đức Giêsu là con đường vui vì chất ngất lòng thương xót và nguồn ơn cứu độ, trên đó Thiên Chúa biểu lộ tình Cha toàn năng và nhân hậu đối với con người.

Đường ấy vui, vì là đường tín thác, trên đó chúng ta như anh Batimê, người ăn xin mù loà  phấn khởi trong niềm hy vọng được thương xót đã mạnh dạn đến gần Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ để xin Ngài cho  sáng mắt.

Đường ấy vui vì là  đường sứ vụ,  trên đó, Đức Giêsu sai chúng ta lên đường loan   báo cho muôn dân Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương họ”, bằng làm chứng: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 125,3), như Ngài đã sai anh mù  Batimê: “Anh hãy đi!” và làm chứng cho mọi người: “Lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 62).

Và tuyệt vời trên cả tuyệt vời, vui trên mọi niềm vui, vì đường ấy là đường chúng ta được Đức Giêsu kêu gọi đi theo Ngài như anh mù, sau khi được nhìn thấy đã “đi theo Người trên con đường Người đi ” (Mc 10, 52).

Về mục lục

CÂU HỎI CỦA CHÚA

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, Thầy Giêsu cùng với các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Thầy trò ra khỏi thành thì có cả một đám đông cùng đi theo. Trong đám đông ồn ào ấy, có ai nhìn thấy một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường không? Họ là những người sống trong thành chắc hẳn phải biết anh mù Bartimê này. Họ biết anh nhưng chẳng ai quan tâm đến anh, không ai muốn biết anh cần gì. Chỉ có Thầy Giêsu để ý đến anh, nghe tiếng kêu của anh và muốn biết anh cần gì.

Đám đông vừa đi vừa bàn tán với nhau về Thầy Giêsu, vì thế, anh mù cũng nghe thấy. “Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 47). Anh đã nghe biết về Thầy, về những phép lạ Thầy đã làm, về cách Thầy yêu thương những người như anh. Đám đông đi theo Thầy, bị lôi cuốn bởi lời giảng dạy và các việc Thầy làm nhưng họ chưa để cho Thầy chạm vào cõi lòng mình. Vì thế, họ hờ hững với một người mù như anh Bartimê, trong khi Thầy Giêsu dừng chân để tìm kiếm anh. Chẳng ai quan tâm anh mù tội nghiệp Bartimê ấy. Cuộc đời đã đẩy anh vào lề đường làm kiếp ăn xin. Nghe anh kêu gào cầu cứu, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 48). Anh mù lòa, không nhìn thấy nét mặt giận dữ của những người trách mắng anh nhưng anh hiểu những gì họ diễn tả qua giọng nói, qua sự quát nạt. Nhưng anh tin vào Đấng mà anh gửi gắm niềm hy vọng, gửi gắm số phận và cuộc đời, vì thế anh dám chống lại cả một đám đông đang bắt nạt mình, dám vượt qua nỗi sợ hãi và mặc cảm, vượt qua khỏi cái lề đường mà anh đã bị đẩy vào để tìm kiếm Chúa. Anh đã dám sống khác với đám đông, không phải vì anh bị mù nhưng vì anh dám nói lên điều con tim thúc đẩy, dám kêu gào để cầu xin Đấng sẽ ban cho anh điều anh khao khát.

 Thầy Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10,49). Nghe lời yêu cầu của Thầy, người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” (Mc 10, 49). Phải chăng, chỉ đến khi nghe được mong muốn của Thầy, người ta mới biết sự hiện diện của anh mù, mới tỏ lòng quan tâm anh, mới trao cho anh sự tử tế. Nghe lời Người gọi, anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Thầy Giêsu gọi anh, vì Người thực sự quan tâm đến điều anh mong muốn: Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúa biết rõ điều anh đang cần nhưng vẫn muốn anh nói lên niềm tin tưởng của mình. Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 51-52). Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi. Bao năm ngồi bên vệ đường ăn xin, anh đã nhận của bố thí từ đủ hạng người: có kẻ ném cho anh mấy đồng xu vì thương hại, có người đặt vào tay anh mẩu bánh vì lòng cảm thương, và cũng có kẻ cho anh những đồng dư bạc thừa vì muốn tỏ ra mình là người tốt, … Chỉ đến hôm nay, khi nghe được tiếng gọi của Thầy, cuộc đời anh mới được đổi khác. Anh không còn phải bám trụ vào lề đường đầy rác rưởi và bụi bặm, không còn phải chịu nắng nôi thiêu đốt hay những cơn mưa chợt đến. Anh sẽ đi trên đôi chân của mình, không phải là những bước chân mò mẫm, quờ quạng nhưng là những bước chân vững vàng trong ánh sáng của đôi mắt, và hơn thế nữa, anh bước đi trong hân hoan khi đi theo Người trên con đường Người đi.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con nhận ra tình thương yêu của Chúa dành cho con. Con như người mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường, từng bước đi trong đêm tối của đức tin. Con đã tìm kiếm tình thương nơi những người đã bước qua cuộc đời con. Cuộc đời dạy con nhiều bài học về giá trị của cuộc sống, nhưng chỉ đến khi được Chúa chạm vào cõi lòng mình, con mới nhận thấy khuôn mặt tràn đầy tình yêu của Chúa nơi những người anh chị em con. Chỉ đến khi con dám bỏ lại đằng sau tấm áo choàng là những an toàn con đã cậy dựa để chạy đến với Chúa, lắng nghe câu hỏi của Chúa và đáp lại bằng cả lòng khao khát, con mới nhận ra được đâu là điều Chúa muốn dành cho con. Từ nay, con xin cất bước theo Chúa để làm môn đệ, xin Chúa lấy tình thương mà dạy dỗ con theo như ý Người muốn. Amen.

Về mục lục

MỘT LỆNH TRUYỀN

Thiên San

Là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng có sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đó là lệnh truyền Đức Giêsu đã ban cho chúng ta, khởi đi từ các Tông đồ đầu tiên. Trước khi lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Giêsu đã ban cho các Tông đồ lệnh truyền này: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Chúng ta biết rằng, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được tha tội nguyên tổ và mọi tội riêng ta phạm trước khi rửa tội, cùng mọi hình phạt do tội gây ra; được sinh lại vào đời sống mới, trở thành con cái Thiên Chúa; được gia nhập vào Hội Thánh là thân thể Chúa Kitô; được ghi vào trong linh hồn một dấu ấn thiêng liêng vĩnh viễn, để dự phần vào chức tư tế của Chúa Kitô. Vậy chúng ta hãy cùng nhau đến với muôn dân, để họ cũng được trở thành môn đệ của Người. Để họ cũng được hưởng các đặc ân kể trên. Nhưng chúng ta đến với muôn dân bằng cách nào?

Tin mừng thánh Mátthêu kể lại, Đức Giêsu đã từng cảnh cáo các Pharisêu về thái độ sống của họ khi nói: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo ; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người” (Mt 23, 15). Sở dĩ Đức Giêsu lên án những người Pharisêu như thế là vì họ sống giả hình, lời giảng dạy không đi đôi với việc làm. Chúng ta được mời gọi rút chân ra khỏi “vũng lầy” của các kinh sư. Mỗi người sẽ là một lời rao giảng chân thật, sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa khi chúng ta biết thống nhất giữa hành động và lời rao giảng. Chỉ cần người khác nhìn thấy chúng ta có một đời sống bác ái, yêu thương cụ thể cũng đủ để dẫn họ đến với Thiên Chúa.

Hiến Chương của các Hội dòng Mến Thánh Giá có viết: “Hình thức tông đồ căn bản nhất của chị em là sống đời thánh hiến trong cộng đoàn” (HC 71). Nếu như hình thức tông đồ căn bản nhất của các nữ tu Mến Thánh Giá là sống đời thánh hiến trong cộng đoàn thì hình thức tông đồ căn bản của các linh mục, tu sĩ hay giáo dân là gì? Thiết nghĩ, mỗi chúng ta có một ơn gọi và bậc sống riêng, mỗi người hãy dùng chính ơn gọi và bậc sống của mình để có thể thực thi lệnh truyền của Chúa. Người sống bậc vợ chồng hãy sống hòa thuận, thương yêu nhau, cùng nhau chăm sóc, dạy dỗ con cái. Người sống tu trì hãy sống theo tinh thần và đặc sủng của Dòng… Chung quy lại, chúng ta đều được mời gọi cùng nhau sống giới răn yêu thương mà Thầy Giêsu đã dạy, yêu như Thầy yêu.

Lệnh truyền của Thầy Giêsu là anh em hãy ra đi, làm cho họ trở thành môn đệ, dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em (x. Mt 28, ). Sau khi ra đi, làm phép rửa cho họ, chúng ta cần lưu ý đến việc dạy bảo họ tuân giữ mọi giới răn. Bởi nếu chúng ta cố gắng thuyết phục ai đó theo đạo và khi họ đã theo rồi, chúng ta lại không hướng dẫn họ cẩn thận thì họ sẽ bị rơi vào hỏa ngục như lời Thầy Giêsu đã nói với các kinh sư. Đọc các thư của thánh Phaolô tông đồ, chúng ta thấy rõ hành trình rao giảng Tin Mừng của ngài. Ngài là mẫu gương và là người thầy cho chúng ta trong việc rao giảng Tin Mừng. Khi đến một vùng đất mới, ngài mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu và thiết lập các cộng đoàn tín hữu. Sau khi thiết lập các cộng đoàn và ngay cả khi đang ở trong cảnh tù đầy, ngài vẫn thao thức, lo lắng cho những người con tinh thần của ngài. Quả thực, không chỉ trở lại thăm hỏi các cộng đoàn mình đã thiết lập, ngài còn viết thư thăm hỏi, khích lệ, dạy dỗ họ về Tin Mừng Đức Kitô.

Mỗi ngày sống mở ra là một ngày để chúng ta thực thi lệnh truyền của Thầy Giêsu. Chúng ta hãy cùng nhau lên đường để mở mang và xây dựng nước Chúa để không chỉ chúng ta mà ngày càng có thêm nhiều người tin yêu Chúa. Hãy cùng nhau sống lệnh truyền ấy như lời Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng kêu gọi trong tông huấn Niềm vui Tin Mừng là “đi ra vùng ngoại biên”. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có lửa nhiệt huyết, tin yêu để hăng say trên cánh đồng truyền giáo. Cách đặc biệt, chúng ta cũng nhớ đến các nhà truyền giáo đang gặp khó khăn, thử thách. Xin Chúa đồng hành cùng mỗi ngời chúng ta.

Về mục lục

QUYỀN VAN XIN

Trầm Thiên Thu

Thiên Chúa yêu thương con người và ban cho nhiều loại quyền. Trước tiên là quyền sống – quyền làm người, gọi là nhân quyền. Trong đó mặc nhiên có những hệ lụy khác là nhân vị và nhân phẩm.

Ngài Thomas Jefferson (1743-1826) là tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1801-1809, khi đó ông mới 38 tuổi. Ông không chỉ là chính khách mà còn là nhà ngoại giao, kiến trúc sư, luật sư, nhạc sĩ, triết gia, đặc biệt là cha đẻ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ – United States Declaration of Independence.

Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ông đề cập BA QUYỀN CƠ BẢN KHÔNG THỂ BỊ TƯỚC ĐOẠT của con người là Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền Sở Hữu. Trong bản tuyên ngôn, quyền sở hữu gọi là “quyền được mưu cầu hạnh phúc.” Bản tuyên ngôn này được cả thế giới phỏng theo, thậm chí có kẻ còn mạo nhận là của mình. Ngài Thomas Jefferson xác định: “Nếu pháp luật bất công, người ta không chỉ phải bất tuân mà còn bắt buộc phải làm như vậy. Khi chính phủ sợ người dân, khi đó có tự do; khi người dân sợ chính phủ, khi đó có bạo quyền.” Như vậy không là phản động mà là thi hành quyền sống làm người chân chính và lương thiện đúng nghĩa.

Mọi thứ đều bởi Thiên Chúa: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Về quyền hành, Thánh Phaolô xác nhận: “Không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13:1) Có quyền không phải để áp bức, đàn áp, đè nén người khác, mà là để yêu thương và nâng đỡ người khác. Biết tôn trọng Quyền Sống của người khác là biết thương xót họ – Mối Phúc thứ năm trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5:7)

Về quyền van xin, thần học gia vĩ đại là Thánh TS Tôma Aquinô cho biết: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ.” Ngài cho biết phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình là “nhận ra những ai là người phải tránh.” Đúng như tiền nhân minh định: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.”

Được quyền van xin cũng có nghĩa là có quyền tự do: “Từ nguyên thuỷ, chính Chúa đã làm nên con người, và để nó tự quyết định lấy.” (Hc 15:14) Sự tự do cần thiết và tốt cho con người, nhưng chính quyền tự do vẫn có thể tác hại con người, tùy người ta tự do làm điều tốt hay xấu. Sự tự do dễ dẫn tới thói kiêu căng, ngạo mạn. Ông bà Nguyên Tổ đã “dạy” chúng ta về điều đó. Ngược lại, ông Gióp cũng có quyền tự do, nhưng ông không phạm tội và trung tín với Thiên Chúa mặc dù ông chịu đau khổ đến tận cùng. (x. G 1:1-22; G 33:9; G 34:5-6)

Công tâm mà nói, chúng ta rất vui vì được Thiên Chúa ban quyền tự do và cầu xin Ngài. Ngôn sứ Giêrêmia loan báo: “Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Giacóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: ĐỨC CHÚA ĐÃ CỨU DÂN NGƯỜI, số còn sót lại của Israel! Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo.” (Gr 31:7-8) Hành động của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, hành động phát xuất từ lòng thương xót vô biên của Ngài. Điều này không là chế độ “xin – cho” kiểu ban phát, mà là hành động của sự động lòng trắc ẩn, cũng không phải là lòng thương hại mà là tình thương xót vô điều kiện mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Đầu óc “bã đậu” của chúng ta không thể nào suy thấu!

Trong thời gian đại dịch Cúm Tàu Cộng như sóng thần dâng cao, chắc hẳn mỗi chúng ta thực sự nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự tự do sau thời gian bị phong tỏa, cách ly, giãn cách. Đó cũng là bài học cho con người về việc lạm dụng quyền tự do, khiến chúng ta phải trả giá quá đắt về quyền sống. Loại coronavirus độc ác hơn các loại virus khác, vì nó “đánh” thẳng vào phổi – trung tâm sự sống. Thật tang thương vì hàng chục ngàn người mất quyền sống – chết oan nghiệt. Rồi hàng ngàn trẻ em phải mồ côi, bơ vơ giữa chợ đời.

Liên quan tự do, những ai đã từng bị tù rồi mới biết thế nào là hạnh phúc khi được ra tù, được trả lại quyền tự do. Niềm vui đó khó tả vì nó quá lớn lao. Dân Israel đã từng có cảm giác kỳ lạ đó, họ thực sự vui sướng đến nỗi phải bật khóc. Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Épraim chính là con trưởng.” (Gr 31:9) Và tất nhiên, điều tiên báo đó cũng đã được ứng nghiệm chính xác.

Thánh Vịnh gia mô tả cảnh tượng kỳ diệu đó: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:1-2) Chắc chắn không ai có thể trì hoãn niềm vui sướng như vậy, thế nên chính họ hân hoan thốt lên: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126:3) Và Thánh Vịnh gia cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:4-6)

Luật công bằng có vẻ giống như luật nhân quả vậy: Ai cười rồi sẽ khóc, ai sướng trước sẽ khổ sau. Ngược lại, ai khóc trước sẽ cười sau, ai vất vả rồi sẽ được hưởng kết quả. Một trong Bát Phúc cũng đề cập vấn đề này: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5:5) Thiên Chúa là Đấng chí minh, chí công, chí thiện, chí thánh!

Còn chúng ta là phàm nhân yếu đuối, đầy tội lỗi, hứa lắm quên nhiều, cứ hối rồi phạm, đứng rồi lại ngã. Cứ thế và cứ thế,… Chu kỳ của chúng ta là những chuỗi ngày tháng sám hối và đền tội. Tuy nhiên, vì bất xứng nên Thiên Chúa tuyển chọn một số người thay chúng ta dâng của lễ đền tội. Người đó được chọn không phải vì xứng đáng, mà vì Thiên Chúa muốn hành động theo kế hoạch thương xót của Ngài. Thánh Phaolô cho biết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người PHẢI dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng PHẢI dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy.” (Dt 5:1-5) Thiên Chúa quá nhân hậu.

Rất rõ ràng với lời giải thích của Thánh Phaolô: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aharon đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: ‘Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con,’ như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác:Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê’.” (Dt 5:4-6) Được CHỌN thì cũng NHẬN trọng trách, vì không phải được chọn để ung dung sung sướng, tìm an nhàn cá nhân mà “vô tư” bỏ quên tha nhân, mà phải quên mình, dấn thân, hy sinh vì người khác. Đó là hệ lụy tất yếu về trọng trách.

Cách đây vài năm, trong một buổi tiếp kiến chung ngày thứ Tư, ĐGH Phanxicô nhắc nhở giáo sĩ phải cố gắng tránh xa cám dỗ để có thể trở nên mục tử hữu hiệu, và phải bảo vệ đàn chiên khỏi nguy hiểm. ĐGH Phanxicô dùng từ ngữ mạnh mẽ, ví von thực tế, thậm chí có thể gây “sốc” với một số người: “Nếu chúng ta ĐI VỚI NGƯỜI GIÀU, là chúng ta đang ĐI VỀ PHÍA HƯ VÔ, chúng ta sẽ trở thành CHÓ SÓI, chứ không phải người chăn chiên. Ngài cũng thúc giục tín hữu Công giáo cầu nguyện cho giám mục và linh mục.”

Thật Thà thì Thẳng Thắn, Giả Dối thì Cong Queo. Ngày xưa chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo mà không sợ đụng chạm bất cứ ai: “Hãy coi chừng các NGÔN SỨ GIẢ, họ ĐỘI LỐT CHIÊN mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là SÓI DỮ THAM MỒI. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45) Ngài cảnh báo để thức tỉnh những người “tai to, mặt lớn” – đại diện.

Chuyện anh mù Batimê ở Giêrikhô là vấn đề có liên quan quyền của con người, đực đề cập trong trình thuật Mc 10:46-52 (≈ Mt 20:29-34; Lc 18:35-43).

Khi Chúa Giêsu và các môn đệ cùng với một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường tên là Batimê. Vừa nghe nói đến Đức Giêsu Nadarét, anh ta liều kêu to: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Có thể anh đã quá khổ sở vì bị mù lòa, cuộc đời như bóng đêm dày đặc, nên anh khao khát được thoát khỏi cảnh tối tăm, nhưng anh không “cầu may” theo kiểu “vái tứ phương,” mà chắc chắn anh thực sự có lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu. Chỉ nghe người khác nói về Ngài chứ anh không biết gì khác, vậy mà anh đã thực sự tin, không chút mơ hồ hoặc nghi ngờ.

Nghe anh kêu réo om sòm, dai như đỉa đói, nhiều người đã quát nạt bắt anh im, nhưng anh càng kêu lớn tiếng với điệp khúc van xin: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Có thể những người quát nạt anh là những người xấu bụng, không hề biết thương xót khi thấy người khác đau khổ. Đã không thương thì thôi, họ lại còn đâm bị thóc, chọc bị gạo. Chảnh chọe quá chừng!

Mặc kệ người ta. Anh vẫn vững tin và kiên trì van xin. Mắt anh mù nhưng hồn anh sáng. Còn chúng ta, mắt không chỉ sáng mà còn có thể đẹp nữa, thế mà hồn có thể lại đang mù lòa. Đã vậy thì chớ, đôi khi chúng ta cầu xin mà cứ như “ra lệnh” cho Chúa vậy. Thật thế, van hoài xin mãi không được thì nản lòng, bỏ cuộc, chứng tỏ đức tin chúng ta quá hời hợt, nông cạn. Đó là ích kỷ chứ không là cầu nguyện hoặc cầu xin.

Chúa Giêsu đứng lại và bảo gọi anh lại, vì Ngài không thể làm ngơ khi nghe lời van xin chân thành của anh. Có người ta gọi anh và động viên: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Và chỉ chờ thế thôi, anh liền vất áo choàng, đứng dậy và đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh thì anh nói: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Ngay lập tức, anh nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Anh mù XIN và ĐƯỢC, Chúa Giêsu LẮNG NGHE và ĐÁP LẠI. Ngài và anh Ba-ti-mê đã cùng chung nhịp đập yêu thương. Chính đức tin của anh đã chạm vào Thánh Tâm thương xót của Đấng chữa lành. Thật tuyệt vời!

Bản chất Thiên Chúa là tình yêu. Ai càng yếu, Ngài càng thương. Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa thấy họ truân chuyên ngàn nỗi, nghe thấy lời cầu cứu van xin.” (Tv 106:44) Thiên Chúa là Đấng chạnh lòng thương xót và cũng động lòng trắc ẩn, chắc chắn Ngài luôn lắng nghe chúng ta van xin.

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin chữa lành con mắt đức tin của chúng con để, xin ngăn chặn mọi bụi bặm trần tục bay vào mắt chúng con, để chúng con luôn sáng mắt nhận ra Ngài hiện hữu trong thiên nhiên, trong tha nhân, và trong mọi biến cố cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SÁNG MẮT, SÁNG CUỘC ĐỜI

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Các cụ thường bảo “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay.” Thế nên, đời buồn lắm khi mắt bị mù không nhìn thấy. Và đời vui biết bao khi được chữa lành sáng mắt, sáng cuộc đời.

1. Sáng mắt. Phúc Âm kể chuyện anh Ba-ti-mê bị mù phải ngồi ăn xin bên vệ đường. Khổ thật. Khi chúng ta mới bị đau mắt hay bị mất điện tối mù một chút thôi đã thấy khổ sở rồi, đằng này anh mù suốt đời mắt chẳng thấy gì, ngày này qua ngày khác chỉ thấy cả vũ trụ là một màu đen tối. Khổ ơi là khổ. May thay, Chúa Giêsu đã tới dủ lòng thương chữa lành cho anh sáng mắt, anh thấy đời tươi sáng.

2. Sáng cuộc đời. Nếu Chúa Giêsu chỉ chữa cho anh mù được sáng mắt thì Ngài cũng giống như một bác sĩ mà thôi. Nhưng Chúa là Đấng cứu độ, nên Tin Mừng ở chỗ: Chúa đã biến đổi cuộc đời, chứ không chỉ chữa lành 1 căn bệnh. Từ thân phận là một kẻ mù lòa ngồi lê lết bên vệ đường xin ăn, nay anh đã đứng phắt dậy và lập tức trở thành người môn đệ bước theo Chúa trên con đường Chúa đi.

Chúa đã làm cho anh mù sáng mắt, sáng cả cuộc đời, khiến anh phơi phới niềm vui. Và lời Đáp ca như muốn bật lên lời anh mù muốn nói: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.”

Xin mượn lời Thánh Thi của Giờ kinh Phụng vụ như lời nguyện cầu của mỗi chúng ta dâng lên Chúa:

Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt
Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi,
Con mù lòa, bên vệ đường hành khất,
Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài. – Amen.

Về mục lục

XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Ai trong chúng ta cũng dễ dàng cảm nhận được những thiệt thòi của người mù. Họ không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Họ cũng không cảm nhận được niềm vui nỗi buồn nơi khuôn mặt những người thân. Thế giới đối với họ là đêm tối trường kỳ. Tin Mừng hôm nay nói đến một người mù đứng ăn xin tại cổng thành Giêricô. Trong lúc Chúa Giêsu và các môn đệ từ trong thành đi ra, Người đã trông thấy, và, trước lời van xin của anh, Chúa đã chữa lành, cho anh được nhìn thấy như bao người khác.

“Xin cho tôi được thấy!”. Đó là lời van xin của anh mù, đang ngồi ăn xin bên vệ đường, lối vào thành Giêricô. Khát vọng của anh mù là được nhìn thấy. Bởi lẽ, mù con mắt là sự thiệt thòi rất lớn, như người ta thường nói: giàu hai con mắt, khó hai bàn tay. Đôi mắt được sánh như gia tài, giúp cho con người trở nên giàu có và thịnh vượng. Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”, anh mù lập tức thưa: “Thưa Thày, xin cho tôi được thấy!”. Đây là nỗi khát vọng anh ôm ấp trong lòng, nay được cơ hội để diễn tả với hy vọng mãnh liệt sẽ được nhìn thấy như bao người khác trong cuộc đời.

“Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Mặc dù bị người ta ngăn cản, anh mù không nản lòng và vẫn hăng hái tiến về phía trước. Việc lao về phía trước đối với một người mù, là chấp nhận nguy hiểm, vì anh không nhìn thấy gì. Lời kêu van này, vừa diễn đạt quyền năng của vị ngôn sứ đang đi ngang qua, vừa gửi gắm niềm tín thác, chắc chắn vị ngôn sứ ấy sẽ chữa cho mình được lành. Lời van xin ấy đã đến tai Chúa, và mặc dù đám đông ồn ào vây quanh, Người vẫn gọi anh và chữa anh lành.

Trong hành trình cuộc đời, mỗi người chúng ta cũng giống như anh mù đang đứng bên cổng thành Giêricô. Bởi lẽ chúng ta – dù có con mắt sáng – cũng chỉ nhìn thấy một phần những gì đang tồn tại, kể cả những vật hữu hình. Cả một thế giới vô hình mênh mông trước mắt chúng ta, nhưng chúng ta không có khả năng cảm nhận. Vì vậy, mỗi người cần khát vọng tiến cao tiến xa hơn trong lãnh vực siêu hình thiêng liêng. Tùy theo quan niệm văn hóa và tôn giáo mà định nghĩa lãnh vực thiêng liêng này là gì. Đối với người tin Chúa, mỗi ngày sống trên trần gian phải là những bước tiến tới gần Chúa hơn để gặp Ngài, vì đích điểm của cuộc đời là cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa, mặt đối mặt, không còn như trong gương. Trong cuộc sống trần gian, chúng ta chỉ cảm nhận Chúa một cách tương đối, mờ nhạt và phiến diện.

“Xin cho con được thấy!”. Xung quanh ta còn biết bao điều ta không có khả năng thấy, hoặc cố tình không thấy. Đó có thể là những kỳ công của Chúa, qua đó, Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài và chứng minh Ngài đang hiện diện. Đó cũng có thể là những người nghèo nàn bất hạnh đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Con người trong xã hội hiện đại ngày càng vô cảm với tha nhân, vì thế, đây đó, vẫn còn những người bị bỏ rơi quên lãng. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô đã viết: “Những ai chỉ tin vào những gì mình thấy bằng con mắt thể lý, thì họ vẫn là những người mù

“Xin cho con được thấy!”. Đó là lời cầu xin của chúng ta để nhận ra tình thương của Ngài đang ấp ủ đồng hành chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Ngôn sứ Giêrêmia diễn tả niềm vui lớn lao, như một tiếng thét vui mừng trước những điều kỳ diệu Thiên Chúa sẽ thực hiện vì yêu thương dân Ngài. Ông loan báo cuộc hồi hương của dân Israen, sau những năm tháng lưu đầy đau khổ nhục nhằn. Thiên Chúa sẽ giải phòng dân Ngài. Người Do Thái sẽ được về với quê cha đất tổ. Trong số đó, có cả những người đui mù, què quặt và bệnh tật. Trong quan niệm thông thường, những người này bị khinh bỉ và coi thường, không được kể đến trong các buổi hội họp. Nay họ cũng được Chúa yêu thương. Họ sẽ không bị bỏ rơi và quên lãng nơi đất khách quê người vào lúc Thiên Chúa giải phóng dân Ngài. Ngài là Đấng giàu lòng thương xót.

Thiên Chúa không dừng lại ở việc chúc lành, ban ơn che chở dân Ngài. Ngài còn sai Con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian để ở với chúng ta. Tác giả thư Do Thái đã diễn tả vị Thượng tế siêu phàm, đã mặc lấy thân phận tôi tớ của chúng ta. Vị tư tế này, không giống như các tư tế của Cựu ước. Người đã dâng chính mình làm của lễ trên thập giá để đem lại ơn cứu rỗi cho nhân loại mọi thời mọi nơi. Ngày hôm nay, qua Giáo Hội, Người vẫn tiếp tục dâng hy tế để giao hòa thế gian với Thiên Chúa và giao hòa con người với nhau, xây đắp tình huynh đệ giữa gia đình nhân loại.

“Xin cho con được thấy!” Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta để chiêm ngưỡng những kỳ công Ngài đang thực hiện hằng ngày xung quanh chúng ta, và để nhận ra mỗi người đang cùng chung sống là một quà tặng do chính Chúa ban. Amen.

“Đời người giống như việc đi đường vậy, một bên là gian khổ, một bên là cảnh đẹp. Ánh mắt bạn phóng được đến đâu, đó chính là cảnh giới của cuộc đời bạn. Nếu thường xuyên nhìn thấy những người ưu tú hơn mình, điều đó cho thấy bạn đang trên đường lên dốc; Còn nếu thường xuyên nhìn thấy những người không bằng mình, điều đó cho thấy bạn đang xuống dốc và người khác đang phải cố gắng để lên dốc. Thay vì oán thán, thà thay đổi cách nghĩ, mọi chuyện sẽ bớt nặng nề đi rất nhiều!” (Sưu tầm)

Về mục lục

.

GẶP ĐƯỢC CHÚA SẼ CÓ NIỀM VUI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Dõi theo hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu, với những làm phép lạ Chúa làm, lời Chúa dạy, người môn đệ được dạy về phẩm chất tông đồ. Cùng với các môn đệ Chúa Giêsu tiếp tục hành trình lên về Giêrusalem. Nếu dọc đường có chàng thanh niên đến quỳ gối xin Chúa chỉ cho biết việc phải làm để được sống đời đời (x. Mc 10, 17), thì giữa các môn đệ cũng có sự năn nỉ nài van cho được ngồi ‘bên tả’ hay ‘bên hữu’ Chúa (x. Mc 10, 35-45).

Hôm nay vẫn trong hành trình trước khi vào thành thánh, có chàng thanh niên mù loà con ông Timê tên là Bartimê kêu xin gặp Chúa để được sáng mắt (x. Mc 10, 46-52). Thật lý thú và kỳ diệu biết bao cho những ai khát mong tìm gặp Chúa, họ sẽ rạng rỡ mừng vui, vì có được điều họ tha thiết nài xin.

Chúa là niềm vui của Israel

Khi dân Israel bị bắt đi lưu đày ở Babylon trở về, người trung thành với Chúa chỉ còn là số ít, họ quá yếu đuối, nghèo nàn và dễ bị tổn thương, đến nỗi không có phương tiện trở về, từ phương Bắc không thể tự giải thoát. Họ là những kẻ trở về để xây dựng đất nước : “trong chúng có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ”. Bàn tay xây dựng lại Israel là những kẻ đui mù, chứ không phải các thanh niên cường tráng! Làm thế nào họ có được khả năng xây dựng lại quốc gia? Thanh niên, người khoẻ mạnh đã bị đế quốc tiêu diệt trong các lao động khổ sai. Họ phải cáng đáng công việc xây dựng lại quê hương.

Trong lúc cùng đường bế tắc như thế Giêrêmia tuyên sấm : Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! ” (Gr 31, 7). Không thể vui mừng sao được khi mình đang đui mù, què quăt, mang thai nay có được Thiên Chúa toàn năng trợ giúp dẫn dắt trở về : “Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây” (Gr 31, 8). Theo Dianne Bergant: “Phụ nữ mang thai và các bà mẹ tuy yếu ớt, dễ bị tổn thương nhưng cũng là biểu tượng của phong phú và hy vọng. Họ nắm giữ tương lai trong bản thân mình. Khi họ rời bỏ chốn lưu đày về đất hứa, họ mang theo khả năng sinh sản và khởi sự một tương lai mới”.

Đúng là người công chính, đạo đức thực thi công bình, bác ái, sống thánh thiện siêu nhiên, mặc cho thế giới này sa đoạ đến đâu, mặc cho gièm pha độc ác của kẻ giả hình, những vẫn khao khát tìm gặp và cậy dựa vào Chúa, người ấy sẽ có được niềm vui lớn lao. Anh mù thành Giêricô, tên là Bartimê trong Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng.

Chúa Giêsu là niềm vui của anh Bartimê

Chúng ta chiêm ngắm một anh chàng mù, nghèo khổ, gặp được hạnh phúc thật nhờ Chúa Giêsu. Anh thiếu hai điều : cái nhìn thể lý và khả năng tìm kiếm công ăn việc làm để kiếm sống, nên buộc anh phải đi ăn xin. Anh cần sự giúp đỡ và anh ngồi bên vệ đường lối vào thành Giêricô, nơi có nhiều người qua lại.

May mắn cho anh, một hôm chính Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một số người khác đã đi ngang qua đó. Chắc chắn anh mù đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, là Đấng đã làm nhiều phép lạ, Đấng ấy đang đến gần anh ta, chớp thời cơ, anh kêu lên : “Hỡi Con vua Davít, xin thương xót tôi!” (Mc 10, 47). Đối với những người đang đi theo Chúa thì tiếng kêu của anh mù thật khó chịu, họ ích kỷ, không chịu thấu hiểu hoàn cảnh của anh. Nhưng lời kêu xin lớn tiếng của anh chứng tỏ anh khao khát gặp Chúa lắm. Lời ấy vang tới tai Chúa và động đến tâm hồn Chúa Giêsu. Người muốn đáp ứng lời van xin của anh mù ăn mày này, nên truyền gọi anh đến đến và chữa lành anh ta.

Lập tức anh mù được đối diện với Con vua Đavít. Giây phút quyết định là sự khát khao gặp gỡ cá nhân, trực tiếp, giữa Chúa với người đang đau khổ. Hai người đối diện nhau : Thiên Chúa với ý muốn chữa lành và con người với ước ao được chữa lành. Hai sự tự do và hai ý chí đều huớng về một điểm. Cuộc đối thoại bắt đầu kẻ hỏi người thưa, “Chúa Giêsu nói với anh: ” Anh muốn Ta làm gì cho anh? “Người mù đáp : “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy” Chúa ra lệnh: “Con hãy đi! Ðức Tin con đã cứu chữa con!” (Mc 10,51) Lập tức Chúa Giêsu cho anh thấy, anh hết sức vui mừng và đi theo Chúa.

Chúa là nguồn vui của chúng ta

Niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui của con người. Theo Phúc âm kể tiếp như sau : Bước vào ánh sáng, anh mù Bartimê bắt đầu theo Chúa khắp nơi! Ðiều này có nghĩa là anh mù trở thành môn đệ Chúa và theo Người lên Giêrusalem, để cùng với Chúa tham dự vào mầu nhiệm cao cả của ơn cứu rỗi.

Cái nhìn thể lý thật quan trọng, cái nhìn từ bên trong của Thiên Chúa. Thánh Clêmentê Alexandria nói, “Chúng ta hãy chấm dứt việc lơ là sự thật, hãy ra khỏi bóng tối và sự vô minh, như một áng mây, hãy ra khỏi đám mây che lấp chúng ta để chiêm ngưỡng Thiên Chúa thật”.

Chúng ta thường hay than phiền và nói rằng, tôi không biết cầu nguyện. Hãy noi gương anh chàng Bartimê mù trong Tin Mừng : Anh không ngần ngại kêu lên cùng Chúa Giêsu tất cả những gì anh ta cần. Phải chăng chúng ta thiếu đức tin? Nếu thiếu, hãy thưa cùng Chúa : “Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con”. Phải chăng chúng ta có người thân bằng hay trong gia đình có người bỏ bê việc sống đạo ? Vậy, hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho họ được nhìn thấy”. Liệu đức tin có quan trọng như vậy không? Nếu chúng ta so sánh cái nhìn thế lý, chúng ta sẽ nói gì đây?

Ðức Tin là cuộc hành trình của sự soi sáng: đức tin khởi sự từ thái độ khiêm tốn nhìn nhận mình cần đến ơn cứu rỗi và đạt đến cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, Ðấng là nguồn vui và là ơn cứu độ. Tình trạng của anh mù thật là buồn, nhưng nhiều người còn chưa tin vào Chúa còn buồn hơn. Chúng ta hãy nói với họ : Thầy gọi anh và hỏi anh cần gì, Chúa Giêsu sẽ đáp trả bạn cách hào phóng.

Lạy Mẹ Maria, xin dẫn chúng con đến gặp Chúa, để chúng con được no thỏa niềm vui ân tình của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI HÀNH KHẤT MÙ BÁCTIMÊ

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Câu chuyện người hành khất bị mù từ thuở bình sinh tên Báctimê mà Tin mừng của thánh Máccô thuật lại trong Chúa nhật 30 năm B hôm nay, đã gây xúc động và cảm phục cho rất nhiều người qua nhiều thế hệ vì Lòng Thương Xót và quyền năng tuyệt đối của Chúa đối với nhân loại, đối với con người…Báctimê đã không xin giầu sang, danh vọng, địa vị, anh ta chỉ xin Chúa :” Lạy Thầy, xin cho con được sáng “ ( Mc 10,52 ).

Vâng, mù là một điều thiệt thòi lớn cho người bị mắc bệnh. Họ không nhìn thấy vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, tinh tú. Họ không thấy được cây cối, biển, núi, sông ngòi, suối khe vv…Họ không thấy được cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những người thân thương. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn.Một cách nào đó họ bị mặc cảm vì lệ thuộc người khác, bị coi là sống bên lề xã hội. Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu chữa người mù Báctimê. Vì bị mù từ lúc mới sinh, anh lớn lên làm nghề hành khất để độ thân. Mù nên anh ngồi yên một chỗ bên vệ đường, ngày này qua tháng nọ, đợi xem có ai đi qua ngang đó, để anh còn cất giọng xin…Một hôm, nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua đó, vì mù nên không thể thấy được Ngài, tuy nhiên anh đã nghe nhiều người nói với anh về Đức Giêsu,và thật đây là cơ hội ngàn vàng, do đó, khi Đức Giêsu đi ngang qua, anh khẩn thiết kêu van:” Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con “ ( Mc 10, 47 ).Rất nhiều người lúc đó đã quở mắng và bảo anh câm miệng.Thay vì nắm tay anh mù dẫn tới Chúa Giêsu, họ đã túm cổ lôi anh ra xa Chúa Giêsu. Chỉ có một người giúp đỡ anh ta. Người đó là chính Đức Giêsu. Khi nghe tiếng la mắng anh mù. Chúa Giêsu đã dừng lại, truyền cho người ta dẫn anh mù đến với Người. Chỉ lúc đó, dân chúng mới thay đổi thái độ.Chỉ lúc đó, họ mới chịu giúp đỡ anh ta.

“ Lạy Thầy xin cho được sáng “ ( Mc 10, 51 ). Khuôn mặt đầu tiên anh mù được thấy là Đức Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã thắp sáng cho anh, cho cuộc đời bất hạnh, cuộc đời như tuyệt vọng của anh. Người phán :” Đức tin của anh đã chữa anh “ ( Mc 10, 52 ).

Đúng thật anh Báctimê đã bị mù đôi mắt thể xác, nhưng anh lại có con mắt đức tin, vì anh đã nhận ra Đấng cứu Thế khi gọi Chúa là “Con vua Đavít “.  Báctimê tuy mù đôi mắt nhưng anh lại có đôi mắt tâm hồn, anh tin Chúa là Đấng uy quyền tuyệt đối, chỉ mình Người mới có thể chữa lành đôi mắt của anh.

Với đôi mắt đức tin, tin tuyệt đối vào Đức Giêsu, anh đã không sợ sẹt dù bị người ta ngăn cản, la mắng, càng cấm, anh càng la to, kêu van. Càng ngăn cản, anh đã quăng cả cái áo choàng dùng che ấm cuộc đời, ngồi ăn xin ở vệ đường để từ bỏ kiếp ăn xin, thân phận mù lòa, quyết bước vào một cuộc đời mới, tới miền ánh sáng, tới chỗ vinh quang của tình yêu mà Chúa Giêsu, Con vua Đavít đã tặng ban cho anh.

Bài Tin mừng của thánh Máccô khuyên nhủ chúng ta tự vấn lương tâm xem đã có biết bao người hành khất mù như anh Báctimê muốn gặp Đức Giêsu mà chúng ta cố tình cản ngăn không cho họ tới gặp Đức Giêsu? Đã có lần nào chúng ta gặp một người mù xin giúp đỡ mà chúng ta làm ngơ không giúp họ ? Chúng ta có xác tín mạnh mẽ :” Thiên Chúa dựng nên chúng ta để chúng ta làm việc thiện và mang niêm vui đến cho người khác hay không  ? “.Mù lòa thể xác thì ai cũng thấy, nhưng mù lòa tâm hồn khó lòng chúng ta mới có thể nhận ra.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đôi mắt đức tin để chúng con luôn luôn tín thác nơi Chúa. Xin cho chúng con đôi mắt tâm hồn để chúng con nhận ra quyền năng vô biên của Chúa. Xin cho chúng con đôi mắt trinh trong để chúng con thấy Chúa và nhận ra anh em.Thấy Chúa là thấy tất cả vì “ Chỉ trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng “. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Tại sao người hành khất Báctimê lại phải ngồi bên vệ đường ?

2. Làm sao anh Báctimê lại biết Đức Giêsu đi ngang qua đó ?

3. Dân chúng đã làm gì đối với Báctimê ?

4. Tại sao dân chúng lại thay đổi thái độ và giúp đỡ anh ?

5. Chúa Giêsu đã làm gì cho anh Báctimê ?

Về mục lục

.

NHÌN VÀ THẤY ĐƯỢC

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Cuộc đời biết bao nhiêu lần nhìn mà không thấy, hoặc thấy mà không chịu nhìn. Đầy những trớ trêu, nhưng đấy là cái trớ trêu của lòng người đấy ích kỷ, gian tham, kiêu căng. Những nỗi đau từ dân oan, những nỗi thống khổ của người dân nghèo, những món nợ bi ai, thống khổ, có nhìn mà không thấy hoặc có thấy mà không chịu nhìn. “Làng tôi quanh co, quanh co, quanh co” (lời bài hát Bà tôi). Xin Chúa mở cho đôi mắt để họ thấy nỗi thống khổ của dân oan, những người nghèo cô thế, cô thân, những phận người bi ai, thấp hèn, những mùa màng đang bị đố bỏ…

Người mù có tên Ba ti mê

Sau đoạn Tin Mừng Chúa kêu gọi các nhà lãnh đạo hãy: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 44), Tin Mừng liền đưa câu chuyện người mù thành Giê ri cô. Không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện người mù được đưa ra vào lúc này, nhưng muốn nhấn mạnh đến những người lãnh đạo cần có con mắt để nhìn, để thấy, để hiểu, để làm vơi đi những đau khổ của những người dân nghèo.

Những người dân nghèo ở đây, họ có tên, có tuổi, có địa chỉ rõ rệt trên đường phố. Nghĩa là họ có danh tính, họ không có nhà hoặc bị cướp mất nhà, hoặc vì nghèo đói phải tha hương… Họ có tên tuổi, nhưng họ thiếu những ngày tươi sáng. Họ sống trong tăm tối của thân phận.

Chính vì họ có danh tính nên những người nghèo không phải là những người bỏ đi. Những người lãnh đạo không tên tuổi, là những tập thể lãnh đạo, những người có quyền hành, là những người đang cầm cân nảy mực, là một khối đông không thể gọi hết danh xưng, là những người đang chịu trách nhiệm trước những người nghèo tên tuổi kia, cần được mở đôi mắt để nhìn và để thấy, để hành động.

Nhà lãnh đạo cần được mở tai để mở tấm lòng.

Cần một lời cầu xin của kẻ có mắt nhìn mà không thấy, thấy mà không chịu nhìn. Như người mù thành Giê ri cô, đã được nghe chân lý, sự thiện, được nghe những điều lẽ phải. Những con người đang mù, câm, điếc trước nỗi khổ của người khác, họ cần được nghe những nỗi thống khổ của người dân, cần nghe những tiếng nói từ lương tâm ngay thẳng. Đôi khi, những tiếng ồn ào của những yến tiệc, của những nhạc khí, những lời xu nịnh, những bản giao hưởng từ nhà hát lớn, những tiếng thét gào lòng tham, át đi tiếng lương tâm mách bảo, để lòng chai, dạ cứng, bị câm điếc trước lẽ phải và hành động theo những bản năng thấp hèn.

Tiếng kêu người nghèo thấu đến tai Chúa.

Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhân Ngày Quốc Tế Vì Người Nghèo, 18 -11 – 2018 nhắc lại điều đó. Trong bài giảng lễ sáng Thứ Năm (19/05) tại Nguyện Đường Santa Marta, Đức Giáo Hoàng nói : “Khi của cải được tạo nên bởi việc khai thác con người, bởi những người giàu có này khai khác người khác, họ lợi dụng sức lao động của con người, và những người nghèo này trở thành nô lệ. Chúng ta suy nghĩ ở đây và bây giờ, điều tương tự đang diễn ra, trên khắp thế giới”. Không thể mù, câm, điếc mãi được vì tiếng kêu người nghèo thấu đến tai Thiên Chúa mà những người đang truc lợi trên họ phải chịu trách nhiệm.

Là ai và cần làm gì ?

Ba ti mê là những ai? “Trong thời đại hôm nay cũng đang có biết bao nhiêu là những con đường dẫn tới những hình thức thiếu an toàn! Đó là việc thiếu thốn những phương tiện căn bản của kiếp sống, việc bị loại trừ khi người ta không còn đủ khả năng hay đủ sức để làm việc nữa, và những hình thức nô lệ xã hội khác nhau, bất chấp những tiến bộ mà nhân loại đã đạt được… Trong thời đại hôm nay cũng vẫn đang có biết bao nhiêu là những người nghèo ngồi bên vệ đường như Bác-ti-mê, và tìm kiếm một sự cảm thông cho hoàn cảnh của mình! Biết bao nhiêu là con người đang tự hỏi, tại sao mình lại rơi vào đáy vực thẳm này, và làm thế nào để có thế thoát ra được khỏi đó! Họ mong chờ một ai đó sẽ đến gần họ và nói với họ: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10,49). (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018).

“Trước những người nghèo, vấn đề không nằm ở chỗ coi sự can thiệp là điều ưu tiên, đúng hơn, chúng ta có thể nhìn nhận một cách khiêm tốn rằng, Chúa Thánh Thần chính là Đấng khơi lên những hành động mà chúng nên trở thành những dấu chỉ cho câu trả lời và cho sự gần gũi của Thiên Chúa. Ngay sau khi chúng ta tìm ra được một cách thức để gần gũi với những người nghèo, thì chúng ta sẽ biết rằng, quyền ưu tiên thuộc về Đấng đã mở cặp mắt và con tim của chúng ta ra cho sự hoán cải. Người nghèo không cần tới sự háo danh, nhưng cần tới Đức Ái biết ẩn mình và quên đi những điều tốt đẹp mình đã làm. Những nhân vật chính thực sự chính là Thiên Chúa và những người nghèo. Ai đặt mình vào trong sự phục vụ, người ấy sẽ trở thành khí cụ trong đôi tay của Thiên Chúa để làm cho sự hiện diện và ơn cứu độ của Ngài được nhận biết.” (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018).

Xin mở đôi mắt: “Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm! Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân“ (Is 58, 6-7). Hành động theo cách đó sẽ tạo điều kiện để tội lỗi được thứ tha (1Pr 4, 8), và tạo điều kiện để công lý được hoạt động, cũng như để Thiên Chúa trả lời và nói: “Này, Ta đây!“ (Is 58,9), khi chúng ta kêu cầu lên Ngài.” (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018).

Về mục lục

.

TIN MỪNG CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B

Jorathe Nắng Tím

Trình thuật người mù thành Giêricô rất gần gũi hành trình đi tìm Thiên Chúa của mỗi người chúng ta. Đó là hành trình có nhiều giai đọan, nhiều chông gai, nhiều cản trở, nên đòi nhiều cố gắng, hy sinh, nhưng trước hết vẫn là lòng tín thác, trông cậy và trên hết vẫn là trái tim hay “chạnh lòng”  của Thiên Chúa giầu lòng xót thương.

  1. Lời cầu xin thương xót:

Hành trình tìm gặp gỡ  Đức Giêsu của người hành khất  mù tên Bartimê bắt đầu bằng lời cầu : “ Xin thương xót  con !”

Anh mù Bartimê chắc tiếng to và già hàm lắm, nên mới bị nhiều người quát tháo bảo im đi (Mc 10, 48), vì anh không mệt mỏi kêu gào : “Lậy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con ! ”. Tiếng kêu của anh đã làm nhiều người nhức óc, sốt ruột, khó chịu, bực bội. Họ bực anh làm át tiếng họ; họ khó chịu vì anh cắt ngang câu chuyện giữa họ và Đức Giêsu; họ sốt ruột vì cái giọng bi ai, thảm thiết, não nề của anh.  Nhưng hầu hết đều nhức óc, nhức đầu bởi tiếng kêu của anh mù này đã không can dự gì đến đời họ, khi họ mặc nhiên đồng ý với nhau: đã trót  mù rồi thì mù luôn đến chết cũng có sao đâu. Chẳng thế mà nhiều người đã  ngăn cản không cho anh đến gần Đức Giêsu đang khi anh rát họng nài xin lòng thương xót và quờ qụang, mò mẫm lại gần Đấng mà anh nghĩ sẽ chạnh lòng thương và cho anh được sáng mắt.

Đường đến Thiên Chúa của ta có thể cũng đã bị ngăn cản cách này cách khác bởi nhiều người,  và cũng có thể chính ta đã quát tháo bảo im đi nhiều người đang tha thiết van xin lòng từ bi của Thiên Chúa. Nhưng bên cạnh những người quát tháo, nạt nộ, cấm cản ta đến với Chúa, khóc  với Chúa, kêu cầu Chúa, vẫn có những người đồng hành với ta trên đường tìm gặp Chúa đang thì thầm, nhắc nhở, động viên: “ Hãy vững lòng ! Dậy đi ! Ngài gọi anh đó ”(Mac 10, 49).

Đám đông cùng đi có lòng tốt ấy chính là Giáo Hội, là đoàn thể những người cùng đi theo Đức Giêsu và làm chứng Đức Giêsu cho mọi người. Chúng ta hãy tin vào Giáo Hội, tin vào mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội để đừng bao giờ thất vọng nghĩ mình đơn  độc trên đường tìm gặp Chúa.

  1. Đáp trả của Thiên Chúa:

Đám đông hôm ấy đã đơn sơ nghĩ rằng: Đức Giêsu không chú ý, quan tâm gì đến tiếng kêu “xin thương xót” của người mù hành khất, và tất cả đã ngỡ ngàng khi “Ngài đứng lại và nói : “Gọi người ấy cho tôi! ” (Mc 10, 49). “Người ấy” tức người hành khất mù nãy giờ không ngớt kêu la : “Lậy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con! ”.

Sự đáp trả của Thiên Chúa chính là gặp được chính Ngài là Nguồn Sống đích thực, Bình An viên mãn và ơn Cứu Độ đời đời. Người mù từ lâu khao khát được gặp Ngài, nay anh không chỉ được gặp, mà còn được chiêm ngưỡng dung  nhan thánh thiện, nhân từ của Ngài, khi Ngài mở mắt cho anh được thấy. Anh thấy Thiên Chúa trong Đức Giêsu và  hạnh phúc ngất ngây, khôn tả đã khiến anh “vất áo choàng một bên, nhẩy chồm dậy mà đến cùng Đức Giêsu” (Mc 10,54).

Như thế, Thiên Chúa luôn cần  thiện chí và cố gắng của chúng ta như bước  chân thứ nhất trên hành trình đến gặp Ngài. Người mù đã làm bước chân thứ nhất khi khao khát gặp Ngài biểu lộ qua tiếng kêu thống thiết : “Xin thương xót con ! ”. Anh đã kêu nhiều lần, rất nhiều lần, kêu to đến rát cổ, lạc giọng; kêu lớn đến độ làm phiền đám đông  và bị nhiều người đe loi, cấm cản. Nhưng khi bước chân thứ nhất của người mù hoàn thành, thì chính Đức Giêsu đi về phiá anh, bước tới tìm anh và lên tiếng gọi anh đến gần Ngài.

Tuyệt vời thay hành trình của con người đi tìm Thiên Chúa bỗng chốc trở thành hành trình của Thiên Chúa đến với con người. Đức Giêsu đã tìm đến người mù khi bất ngờ đứng lại, gọi anh, nói với anh: “Con muốn Ta làm gì cho con ?” (Mc 10,51), rồi bảo anh : “Hãy đi, lòng tin của con đã cứu con” (Mc 10,52). Chỉ trong một vài phút ngắn ngủi, Ngài đã đi hết những bước chân dài còn lại trên hành trình của người mù đi gặp Ngài; chỉ một khoảnh khắc rất vắn vỏi Ngài đã làm thỏa mãn tất cả  ước mơ  và đáp trả trọn vẹn lời cầu xin của anh mù, khi cho anh được sáng mắt, được  thấy Ngài và được “theo Ngài  lên đường” (Mc 10,52).

Qủa thực, Thiên Chúa không bỏ ngoài tai lời cầu xin của bất cứ ai, dù là những lời cầu xin đơn sơ, thô kệch,mộc mạc, kể cả nhức đầu, nhức óc, vì Ngài là Cha nhân hậu luôn thương xót con cái mình. Chân lý này cho phép chúng ta tín thác tuyệt đối ở Thiên Chúa khi cầu nguyện, dù lắm lúc tưởng  Chúa ngủ quên hay đã chết  thật rồi.

Lậy Chúa, xin cho chúng con đức tin của anh Bartimê, người hành khất mù loà  thành Giêricô năm xưa, và giúp chúng con noi gương anh trên đường đi tìm Chúa, bởi ít nhiều chúng con đã cảm thấy thích giọng anh với điệp khúc cầu nguyện bất hủ : “ Lậy Chúa, xin thương xót con ! ”; thích cái lì của anh khi bất chấp đám đông “quát tháo bảo im đi” cứ kêu to hơn nữa;  thích phản ứng tràn đầy niềm vui phục sinh của anh khi “vất áo, nhảy chồm dậy mà đến với Đức Giêsu”; và điều chúng con thích nhất ở anh, chính là anh đã “theo Đức Giêsu lên đường”, sau khi được Ngài chữa lành đôi  mắt.

Về mục lục

.

MUỐN TÔI LÀM GÌ?

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Trên hành trình lên Giêrusalem lần cuối, Đức Giêsu có dịp đi ngang qua thành Giêrikhô, một thành phố lớn, đông đảo kẻ qua người lại. Khi vừa ra khỏi cổng thành, thì có một người mù tên là Ba-ti-mê ngồi ăn xin bên vệ đường lớn tiếng kêu xin: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.

Theo truyền thống thánh kinh Cựu Ước, tước hiệu “Con vua Đavít” là tước hiệu chỉ tên Đấng Thiên sai. Sang thời Tân Ước cũng vậy, dân Do thái  dùng tước hiệu này để ca tụng, khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem “Hoan hô, Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mt 21,9).

Vậy khi anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “Con vua Đavít”, nghĩa là anh nhận ra đúng sứ mạng của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, Đấng mà tổ tiên người Do thái hằng đợi trông. Anh mù này đã tin Đức Giêsu là Đấng cứu thế. Đấng quyền năng làm được mọi sự sẽ chữa lành cho anh.

Thật lạ lùng thay! Người khiếm thị này chưa bao giờ nghe biết Đức Giêsu, thế mà hôm nay khi nghe Đức Giêsu đi ngang qua, thì anh lập tức kêu xin: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.

 Trong khi đó các môn đệ và dân chúng đã từng nghe lời Chúa giảng, từng thấy phép lạ Chúa làm, ấy thế mà dường như vẫn còn mù mờ chưa nhận đúng ra sứ mạng của Đức Giêsu.

Anh Ba-ti-mê tuy mù con mắt thể lý, nhưng ánh mắt lòng tin đã giúp anh thấy được sứ mạng của Đấng Thiên sai, khi Ngài đến: Sẽ loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, mở mắt cho người mù được sáng, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Vì thế, Anh mù không xin Chúa tha tội cho anh, cũng chẳng xin cơm áo gạo tiền như thường ngày, mà chỉ xin một điều duy nhất đó là: “Xin Chúa dủ lòng thương”. Anh tin nên anh xin, nên Chúa đã chữa lành cho anh, đúng như lời Chúa nói: “Đức tin của anh đã cứu chữa anh”.

Anh chị em thân mến,

Lời Chúa năm xưa nói với anh mù: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Hỏi một bệnh nhân muốn gì trong lúc này quả là một câu hỏi xem ra thừa thãi, nhưng kỳ thực đây là một mặc khải, làm nổi bậc lên tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Có nghĩa là bản tính của Thiên Chúa là tình thương. Tình thương tha thứ, tình thương muốn cứu giúp và chữa lành.

Ngày hôm nay, Chúa cũng muốn ngỏ lời với mỗi người chúng ta: “Con muốn Cha làm gì cho con?”. Nếu chúng ta cảm nhận được lời này, chắc chắn sẽ vô cùng hạnh phúc, vì Chúa rất gần gũi và rất mực yêu thương chúng ta.

Trong đời sống chung, đời sống gia đình và xã hội. Chúng ta cũng nên nói lời này với nhau, giữa vợ chồng và con cái. Hay giữa những mối tương quan “Anh muốn tôi làm gì cho anh? Chị muốn tôi làm gì cho chị?.

 Thế nhưng, Chúa nói: “Những gì các con muốn người khác làm cho mình, thì mình hãy làm cho người khác trước đi” (Mt 7,12).

Bởi lẽ, ai cũng muốn người khác giúp đỡ mình. Ai cũng muốn người khác tôn trọng và yêu mến, cảm thông và chia sẻ, tha thứ và cầu nguyện cho mình. Thì  mình hãy làm những điều đó cho người khác trước đi.

Nếu chúng ta mặc lấy tâm tình như đã có trong Đức Giêsu Kitô, thì chúng ta sẽ làm  những điều tốt đẹp đó cho nhau, như Chúa đã làm cho chúng ta.

Thánh Phanxicô đã dạy: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Để con dọi ánh sáng vào noi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.

Lời kinh này không chỉ là lời cầu nguyện, nhưng còn diễn tả đời sống chứng nhân của người tín hữu Kitô. Có nghĩa là, không những chúng ta đem yêu thương vào nơi oán thù, nhưng còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm nữa.

Xin Chúa thương mở đôi mắt đức tin, để chúng ta thấy được Đức Giêsu, là Đấng cứu độ duy nhất. Vì chúng ta như người hành khất mù lòa bên vệ đường.

Xin Chúa thương chữa lành con mắt mù lòa ích kỷ, để chúng ta nhìn thấy dung nhan Ngài nơi mỗi tha nhân, đặc biệt những người nghèo khổ ăn xin nơi đầu đường xó chợ.

Xin đừng để chúng ta vô cảm trước sự bất hạnh của anh em đồng loại, nhưng biết chạnh lòng thương muốn cứu giúp, bằng đôi tay nâng đỡ, với trái tim rộng mở, và nói những lời xây dựng yêu thương, để mang lại ánh sáng tình thương của Chúa, đến cho những người còn ở trong bóng tối sự chết. Amen.

Về mục lục

.

KHÁT KHAO ĐƯỢC SÁNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Rất nhiều người may mắn không bị mù loà, nhưng hầu như ai cũng có lúc bị mù quáng.  Người mù quáng có thể thấy rõ những sai phạm của người khác nhưng mù tối về những lầm lỗi của mình, nên người ta thường nói: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.”

Bệnh mù quáng nghiêm trọng của Vua Đa-vít

Đa-vít là vị vua khôn ngoan, dũng cảm và đức độ; thế nhưng nhà vua cũng có lúc bị mù quáng nghiêm trọng. Dù đã có nhiều thê thiếp nhưng vua lại mê đắm bà Bát-sa-bê là vợ của U-ri-a và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết U-ri-a ngoài mặt trận, để rồi chính thức cưới lấy bà Bát-sa-bê làm vợ.

Thế là cùng một lúc vua đã phạm hai tội ác tầy đình: tội ngoại tình và tội giết người. Ấy thế mà vì mù quáng, vua vẫn ung dung như không có gì xảy ra.

Sau đó, Thiên Chúa sai ngôn sứ Na-tan đến cảnh tỉnh nhà vua. Vị ngôn sứ tâu vua rằng: Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà.

Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình thiết tiệc; trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách.

Nghe đến đây, vua Đa-vít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: “Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại mà nó đã gây ra.”

Bấy giờ ngôn sứ Na-tan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua: vua đã có nhiều vợ con, thê thiếp lại đang tâm sát hại U-ri-a và cướp lấy vợ ông ta!

Bấy giờ vua Đa-vít mới bừng sáng mắt, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11, 1-12,12)

Bất kỳ ở thời đại nào, xã hội nào cũng có đầy dẫy những con người mù quáng.

Nhiều người mù tối lương tri, không nhận thấy mình đang bị lòng tham lam thống trị và xui khiến họ làm đủ mọi thủ đoạn đê hèn, bất chấp luân thường đạo lý, sẵn sàng giết hại người khác, làm cho người ta khuynh gia bại sản… miễn sao thu được nhiều lợi lộc cho mình.

Nhiều người để cho ích kỷ, kiêu căng, giận hờn, ganh tỵ, cố chấp, chia rẽ, bè phái… bén rễ sâu trong tâm hồn mình mà không tự biết, nên trở thành nô lệ cho những thói xấu này, để chúng chi phối mọi hoạt động của mình, mà không thể tự giải thoát mình khỏi sự thống trị của những thế lực đen tối này.

Chỉ đến khi thấu biết sự thiệt hại lớn lao do cảnh mù quáng gây ra, người ta mới cố gắng thoát khỏi sự thống trị nó.

Khao khát được khỏi mù quáng

Người mù trong Tin Mừng hôm nay (Mc 10, 46-52) có lòng khao khát thoát cảnh mù loà cách mãnh liệt. Khi nghe biết có Chúa Giê-su đi ngang qua, anh liền cất tiếng kêu to: “Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi.” Dù người qua kẻ lại quát mắng anh im đi nhưng không gì có thể dập tắt được ngọn lửa khao khát bừng lên mãnh liệt trong lòng, nên anh càng la to hơn: “Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi!”

Thế rồi, khi được biết Chúa Giê-su cho vời mình đến, anh vui mừng đến độ vứt cả áo choàng, vứt cả bị, gậy để đến với Chúa Giê-su. Chúa Giê-su hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mau mắn thưa ngay: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy.”

Cầu được ước thấy, ánh sáng đã bừng lên cho anh. Anh thấy được Đức Giê-su, thấy mọi người chung quanh, thấy thế giới rực rỡ muôn màu.

Muốn được chữa lành bệnh mù quáng, chúng ta phải có lòng khao khát mãnh liệt được sáng như anh mù Ba-ti-mê. Lòng khao khát đó sẽ thúc đẩy chúng ta đến với Đức Giê-su là Ánh Sáng đích thật và Ánh Sáng của Ngài sẽ xoá tan sự mù quáng đang vây phủ lòng trí chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ thoát khỏi nhiều sai lầm tai hại.

Lạy Chúa Giê-su là Ánh Sáng thế gian,

Người mù quáng sinh hoạt giữa đời cũng giống như tài xế chạy xe giữa đêm đen mà không có đèn chiếu sáng, chắc chắn sẽ gặp phải nhiều nguy hại xảy đến bất ngờ. Nguyện xin ánh sáng của Chúa soi dẫn cho chúng con thấy được nẻo chính đường ngay.

Hôm xưa Chúa đã từng mở mắt cho những kẻ mù loà được xem thấy thì nay xin Chúa xót thương giải thoát chúng con khỏi tình trạng mù quáng khiến chúng con sống trong mê muội, sai lầm.

Về mục lục

.

ĐẤNG CỨU THẾ CHỮA LÀNH BỆNH TẬT CỦA CHÚNG TA

Lm. Phêrô Lê văn Chính

          Mù lòa là một bất hạnh lớn trong cuộc đời. Do bởi tận nguyền, người mù không có đủ khả năng để phát triển bình thường và đầy đủ như những người khác. Câu chuyện của Tin mừng hôm nay nói đến người mù tên là Bartimê vốn ngồi ăn xin ở vệ đường. Dù phải chịu đựng một thân phận thấp kém hơn những người khác, sống nhờ vào lòng thương xót của bá tánh, nhưng người mù này đã có một sự hiểu biết hơn những người khác và trở nên như một nhân chứng của việc con người gặp gỡ Đấng cứu thế. Khi Đức Giêsu đi ra khỏi thành Giêrikhô cùng với các môn đệ và một đám đông dân chúng, người mù này đã lớn tiếng cầu xin Đức Giêsu chữa lành cho anh. Anh có một sự nhạy bén lạ thường vào một thời điểm quyết định là lúc Đức Giêsu đi qua nơi anh đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Tin mừng nói rõ là anh đã kêu lên: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Lời cầu xin của anh diễn tả thân phận đau khổ của anh cùng với lòng tin tưởng mạnh mẽ đáng kinh ngạc. Trong thân phận mù lòa, anh không bị chôn chặt vào định mệnh khắc nghiệt oan trái của mình, nhưng đã biết vươn lên để có thể kêu xin lòng thương xót của Đức Giêsu. Điều đáng ngạc nhiên là tuy không có đầy đủ mọi điều kiện như những người bình thường khác, anh lại có sự hiểu biết chính xác về Đức Giêsu, anh gọi người là “Con vua Đavít”. Theo truyền thống Thánh kinh, Đấng cứu thế dân tộc do thái đang mong đợi là người con thuộc dòng tộc Đavít, chúng ta hãy nhớ lại lời tiên tri Nathan nói với vua Đavít trong sách 2 Samuel 7,14. Khi vua Đavít đã an vị, ông ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, ông nhớ lại hòm bia Thiên Chúa vẫn còn ở trong lều tạm, nên đã quyết định muốn xây dựng cho Chúa một căn nhà. Vì thế, Thiên Chúa đã sai tiên tri Nathan đến nói với vua Đavít: Không phải nhà vua sẽ xây dựng cho Chúa một căn nhà, nhưng chính Chúa sẽ xây dựng cho nhà vua một căn nhà. Căn nhà chính là triều đại của nhà Đavít được trường tồn, và qua đó Thiên Chúa cũng hứa ban một vị vua cứu thế xuất thân từ dòng tộc Đavít.

          Câu chuyện Tin mừng còn cho chúng ta biết thêm chi tiết là trong khi đám đông đi theo Đức Giêsu tìm cách để làm cho người mù phải câm miệng thì anh lại càng kêu to hơn. Người mù là hạng người bị loại trừ, bị gạt ra bên lề cuộc sống xã hội, nên đám đông đi theo Đức Giêsu thấy rằng không nên để cho anh cản đường Đức Giêsu. Nhưng thái độ ngăn cản của đám đông không làm cho người nản chí, anh càng kêu to hơn: “Lạy ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Lời cầu xin thống thiết này sau cùng đã đến với Đức Giêsu, người dừng lại và truyền cho anh đến với người. Thái độ của Đức Giêsu thật khác thái độ của đám đông, người lắng nghe lời cầu xin của người mù, người động lòng trắc ẩn, người để người mù đến với mình và hỏi thăm anh cần gì. Thái độ của người mù thực đáng kinh ngạc và ý nghĩa khi được Chúa Giêsu cho phép anh đến với người, anh trỗi dậy, vất bỏ chiếc áo choàng anh vẫn mang trên mình và đến với Đức Giêsu. Thái độ của anh rõ ràng và dứt khoát. Theo Thánh kinh, chiếc áo choàng thực là ý nghĩa. Đây là vật bất ly thân của con người, là tài sản của người nghèo đồng thời nó cũng mặc ý nghĩa như là nhân cách của con người. Cử chỉ anh vất bỏ chiếc áo để chạy đến với Đức Giêsu muốn nói từ đây anh bỏ lại thân phận mù lòa bị loại trừ của mình để vui mừng đến với Đức Giêsu là Đấng mời gọi anh và ban tặng cho anh quà tặng cứu độ của Đấng cứu thế. Anh không chỉ đi mà là chạy và nhảy đến với Chúa Giêsu. Bước nhảy của anh là bước nhảy reo vui của người tin tưởng xác tín vào quyền năng chữa lành của Đấng cứu thế Con vua Đavít mà anh chờ đợi và tin tưởng. Một con người mà bệnh tật và những loại trừ của xã hội không thể nào ngăn cản anh cố gắng vượt qua hố ngăn cách. Đức Giêsu đã hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Câu hỏi của Đức Giêsu có thể gây ngạc nhiên, bởi vì chắc hẳn người đã biết anh mù này muốn xin người chữa cho anh được thấy. Thế nhưng, người vẫn luôn tôn trọng và chờ đợi sự tự do của anh. Chúa Giêsu muốn anh nói lên lời cầu xin của mình mặc dù người vốn biết điều người mù muốn xin với người. Người mù đã thẳng thắn và chân thành nói lên lời cầu xin của mình: xin cho tôi được thấy. Và Đức Giêsu đã nói với anh: “Hãy đi, đức tin của con đã chữa con”. Ơn chữa lành của Đức Giêsu đối với người mù không chỉ dừng lại ở việc chữa trị bệnh tật thế lý, mà còn xa hơn nữa, đây là ơn cứu độ để cứu chữa con người toàn vẹn. Người mù không chỉ xin để được sáng mắt, mà điều quan trọng hơn là anh đã tin vào người, anh đã gặp và trở nên môn đệ của người và đi theo người.

          Câu chuyện người mù cho thấy thân phận bi đát của con người. Không những người mù mà tất cả mọi người đều đang ở trong tình trạng cần đến Thiên Chúa cứu độ giải thoát. Thân phận của dân Chúa phải ly hương, sống đau khổ nơi đất khách, làm thân nô lệ là những hình ảnh của một thân phận bi đát hơn nữa của con người là nô lệ tội lỗi và sự chết. Tiên tri Giêrêmia tiên báo giờ Thiên Chúa cứu độ sẽ đến để an ủi và giải thoát dân người để họ được đoàn tụ trong tình thương yêu chăm sóc và hạnh phúc của Thiên Chúa là Cha của mình. Thư Do thái trình bày cho chúng ta Đức Giêsu là vị thượng tế thông cảm và hay thương xót, bởi vì chính người cũng yếu đuối tư bề. Người vừa dâng lễ đền tội thay cho dân, người cũng dâng lễ cho chính mình. Người là vị thượng tế được tuyển chọn vì người chính là Con một của Chúa Cha đời đời. Như người mù trong câu chuyện, mỗi người cần mạnh mẽ khẩn cầu Chúa Giêsu thương xót thân phận của mình, cần nhận thấy tình trạng đau khổ bi đát của mình để van xin lòng thương xót của Đấng cứu thế chữa lành bệnh tật và tội lỗi của mình để được chữa lành và tiến bước trên con đường theo Chúa Giêsu.

Về mục lục

.

MẮT ĐỨC TIN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

  1. “Đôi mắt xanh của chị Nữ Tu”

Trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận kể câu chuyện “Đôi mắt xanh của chị Nữ Tu” thật cảm động.

Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân phát xít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phát xít đến một nhà dòng kia, yêu cầu kêu Mẹ Bề trên cho ông ta gặp… Khi vừa dốc cạn ly nước từ tay Mẹ Bề trên, viên tướng Phát xít lập tức vào đề:

– Xin bà cho tôi gặp chị Maria. Bà Bề trên bấm chuôn gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sổ sàng: “Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị”.

Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng. Chị Maria vội đỡ lời: “Tôi là một nữ tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy…”.

– Không! Không! Tôi yêu chị vì chị có đôi mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá!

– Không! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy.

– Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả Nhà Dòng này!

Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: “Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát, nếu không tôi sẽ…”.

Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyệt sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: “Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt? Không, không thể được! hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ Tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết? Không, không bao giờ như thế!”.

Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phát xít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột.

Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng… bên cạnh lại cómột người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạt đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: “Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi… nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy… trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa”.

Viên tướng Phát xít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đá động gì đến Nhà Dòng nữa. (trang 175-177).

Nữ tu Maria hy sinh đôi mắt xanh tuyệt đẹp để “dọi ánh sáng vào nơi tối tăm” của cõi lòng viên tướng, nhờ vậy ông ta được sáng đôi mắt và nhìn thấy sự cao quý của một tâm hồn thanh khiết.

  1. Đôi mắt mù

Đọc câu chuyện, liên tưởng đến chuyện vua Đavít được tiên tri Natan “mở mắt”. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bátsabê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy Bátsabê làm vợ. Thế là vua đã phạm hai tội ác tày đình: ngoại tình và giết người. Vậy mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua: Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách. Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: “Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra.”. Bấy giờ tiên tri Natan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra.Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11,1-12,12).

Câu chuyện cũng gợi nhớ về đôi mắt mù của Nguyên Tổ trong sách Sáng Thế: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4-7).

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

–   Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

–   Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

–   Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam – Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x.Nước mắt và hạnh phúc, trg 69-71, Lm Nguyễn Tầm Thường).

  1. Mắt đức tin

Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.

Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không ?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.

Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Giakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bartimê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Messia “Con Vua Ðavít“. Anh kêu xin : “Rabbuni, xin cho tôi được thấy“, và Chúa Giê-su trả lời : “Hãy đi ! Niềm tin của con đã cứu chữa con“. Bartimê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người ; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giêrusalem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bartimê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu đựng những bàn tay cắt tỉa” (ĐHV 431). Lạy Chúa Giêsu, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt; để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên; để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhường. Con cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con” (ĐHV 427); xin cho con được thấy bản thân con với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa cho một người mù.

A. Hoàn cảnh của người mù:

Người mù trong bài Tin Mừng hôm nay có tên là Bartimê: Con của Timê. Như vậy người ta chỉ biết anh là con của Timê chứ người ta không biết tên thật của anh là gì.

Hoàn cảnh nghèo đã khiến anh phải sống bằng nghề ăn xin. Nói một cách văn chương thì ta bảo là khất thực.

Tin Mừng không cho chúng ta biết anh ta bị mù từ bao giờ nhưng xác định thật rõ chỗ anh ta chọn để hành nghề của mình. Đó là vệ đường, chỗ có nhiều người qua lại. Chọn cho mình một chỗ để ngồi khất thực bên vệ đường nơi có nhiều người qua lại là một chọn lựa có một ý đồ rõ rệt: Tỷ lệ những người mà anh ta hy vọng sẽ giúp đỡ anh sẽ cao hơn.

Tin Mừng không cho chúng ta biết làm sao mà anh đã biết Chúa thế nhưng chúng ta có thể phỏng đoán rằng anh ta đã được người ta nói cho anh về nhân vật đặc biệt này.

Hôm đó anh đang ngồi ở vệ đường để khất thực như thường lệ, một công việc được lặp đi lặp lại… nhiều khi đến nhàm chán, thì bỗng dưng như có một cái gì khác thường sắp sửa xẩy ra: những người qua lại có vẻ nhiều hơn. Có lẽ có ai đó đã báo cho anh ta biết về việc Chúa Giêsu sắp đi ngang qua cho nên ngay khi Chúa còn cách xa, anh đã kêu thật lớn tiếng: “Lạy ông Giêsu con Vua Đavid, xin thương xót tôi”.

Nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu đã nghe thấy những lời đó. Đáng lý ra thì họ phải thương anh, tìm cách cho anh được tiếp cận với Chúa. Thế nhưng không hiểu lý do gì mà không những họ không giúp đỡ mà ngược lại họ còn ngăn cấm anh nữa.

Bất chấp sự ngăn cấm của mọi người anh càng la to hơn và sự việc này đã đến tai Chúa. Chúa dừng lại và cho gọi anh tới. Thái độ của Chúa khác hẳn với thái độ của nhiều người và lập tức thái độ của những người đi theo Chúa cũng thay đổi theo. Bây giờ không còn phải là những lời ngăn cấm mà là những lời đầy an ủi: “Hãy an tâm đứng dậy. Ngài cho gọi anh”.

Thật là cơ hội ngàn vàng đã tới. Quá vui sướng và tràn trề hy vọng, anh vứt bỏ chiếc áo choàng cũ kỹ anh vẫn mang trên mình để được nhẹ nhàng đến với Chúa.

Bây giờ Chúa đã đối diện với anh nhưng anh chưa nhận ra Người. Người thừa biết anh muốn gì thế nhưng để cho anh cảm thấy anh đang được gần Chúa, Chúa đã sử dụng ngôn ngữ có âm thanh để giúp anh nhận ra Ngài. Ngài hỏi anh:

“Anh muốn Tôi làm gì cho anh?”

Không cần phải suy nghĩ anh thưa ngay: “Lạy Thầy, xin cho con được xem thấy”. Cách anh sử dụng để xưng hô với Chúa “Rabboni: Lạy Thầy” là cách biểu lộ lòng kính trọng.

Và bằng một cử chỉ và thái độ đầy tình yêu thương Chúa nói với anh:

“Được đức tin của anh đã cứu anh”.

B. Bài học

Điều mà anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay xin với Chúa cũng chính là điều mà mỗi người chúng ta cần xin: Xin cho con thấy được.

Thấy là một sinh hoạt tâm lý rất quan trọng trong sinh hoạt tri thức của con người. Chúa đã gọi “con mắt là cửa linh hồn”. Chúng ta cũng vẫn thường nói: “Trăm nghe không bằng mắt thấy”.

Mù không phải là không có mắt nhưng cặp mắt không còn khả năng thị giác. Người mù xin với Chúa: Xin cho con thấy được có nghĩa là xin Chúa phục hồi lại khả năng thị giác cho anh: (Restore my sigth). Không có khả năng thị giác người ta sẽ bị thiếu xót rất nhiều trong nhận thức. Thiếu sự nhận thức, con người sẽ dễ bị rơi vào tình trạng sai lầm.

Nói tới đây tôi nhớ tới một giai thoại có liên hệ đến một nhà bác học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 này. Đó là nhà bác học Albert Einstein.

Một hôm có một sinh viên không hiểu được thuyết “Tương đối” của ông cho nên mạnh miệng xin ông cắt nghĩa cho. Thay vì trả lời theo kiểu một bài học thì ông lại trả lời bằng một câu chuyện. Ông bảo: “Một hôm tôi đi đường, tôi gặp một người mù, tôi hỏi anh ta: Anh có muốn uống một ly sữa không?”

Người mù hỏi lại tôi:

– Sữa là gì?

 Tôi cắt nghĩa:

– Sữa là một thứ nước trăng trắng.

Người mù hỏi lại:

– Nước thì tôi biết nhưng trắng là thế nào?

– Trắng là cái mầu giống như lông con ngỗng.

– Lông thì tôi biết rồi nhưng con ngỗng là con như thế nào?

– Ngỗng là một loại chim có cái cổ dài và cong được.

– Cái cổ thì tôi biết nhưng cong là gì?

Nhà bác học Einstein liền nắm cánh tay của người mù dang thẳng ra và bảo:

– Thế này gọi là ngay. Rồi ông bẻ cánh tay lại và bảo: Thế này thì gọi là cong.

Vừa nói đến đây thì người mù vui sướng như đã khám phá ra được một chân lý bí mật… Anh ta nói với nhà bác học:

– Bây giờ thì tôi hiểu rồi… Sữa là cái cánh tay cong lại giống cái cổ của con ngỗng.

Chúng ta có mắt. Mắt chúng ta sáng. Từ chỗ chúng ta thấy đến chỗ nhận biết, con đường chẳng có bao xa. Nhưng vấn đề là trong cuộc sống chúng ta có thực sự thấy được tất cả hay không?

“Lạy Chúa xin cho con thấy được”.

Lời cầu xin xem ra có vẻ rất đơn sơ, nhưng xét cho thấu tình đạt lý thì chẳng phải là một điều dễ. Tại sao? Tại vì tầm nhìn của cặp mắt chúng ta quá bị hạn chế.

Một tác giả Ấn Độ có kể câu truyện ngụ ngôn được Thu Giang Nguyễn Duy Cần ghi lại trong tác Phẩm “Cái cười của thánh nhân” như sau :

Có một người kia sinh ra đã bị mù. Sống trong một căn phòng nhưng bởi không thấy gì cả, nên anh phủ nhận tất cả những gì người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin vì tôi không thấy'”

Một vị lương y đem lòng thương hại đi tìm một thứ linh dược trên dẫy Hy-mã-lạp-sơn về chữa anh ta lành bệnh. Anh ta sung sướng tự phụ bảo:

– Giờ đây tôi thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi.

Nhưng có kẻ nói với anh:

– Bạn ơi, bạn chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này. Như thế thì có là bao. Ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, còn biết bao vẻ đẹp lộng lẫy và màu sắc mà bạn chưa thấy.

Nhưng anh ta không tin.

– Làm gì có được những cái đó: tôi chưa thấy những cái đó, những gì có thể thấy được tôi đã thấy tất cả rồi.

Một y sĩ khác liền leo lên tận núi cao, được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác đem về giúp cho anh ta có được cặp mắt nhìn xa hơn những vật chung quanh căn phòng. Bấy giờ thì anh ta thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú. Mừng quá! Rồi lòng tự phụ dâng lên, anh thốt lên:

– Trước đây tôi không thấy, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế bây giờ chẳng còn cái gì mà tôi không thấy không biết, đâu còn ai hơn tôi được.

Nhưng có một hiền giả có cặp mắt thần nói với ánh ta:

– Cậu ơi. Cậu vừa hết mù nhưng cậu vẫn còn chưa biết gì cả. Tại sao lại quá tự phụ như thế. Cũng như khi cậu ở trong căn phòng. Tầm con mắt cậu không vượt khỏi bốn bức tường, cậu không tin có vật gì ngoài căn phòng của cậu. Giờ đây tầm mắt cậu vượt khỏi bốn bức tường và thấy được nhiều vật xa hơn. Nhưng với chừng mực của tầm mắt và lỗ tai, cậu làm gì biết được những vật ngoài ngàn dặm mà tai mắt cậu không làm sao nghe được, thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu không? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống, còn biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không thể kể như cát sông Hằng. Tại sao cậu dám tự phụ rằng tôi đã thấy cả, tôi biết cả? Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng và lấy sáng làm tối.

Lạy Chúa xin cho chúng con thấy được. Mãi mãi chúng ta phải xin như thế.

Thấy những gì? Thấy những điều Chúa muốn cho chúng ta thấy để chúng ta được biết bước đi dưới sự dẫn dắt của Chúa, thấy được tình thương của Người để chúng ta cảm nghiệm được niềm vui khi được làm con cái của Người. Hạnh phúc hay bất hạnh ở trong cuộc sống tùy thuộc rất nhiều vào sự việc này. Thấy được tình thương của Chúa chúng ta sẽ có hạnh phúc. Không thấy được tình thương của Chúa chúng ta sẽ bất hạnh. Amen.

Về mục lục

.

THỊ LỰC

Trầm Thiên Thu

Thị lực liên quan con mắt. Con mắt là một cơ phận nhỏ nhưng quan trọng. Người Việt nhận xét: “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”. Nữ diễn viên Audrey Hepburn (1929-1993, người Anh) có cách nhận định khác: “Mắt đẹp là đôi mắt nhìn thấy nét đẹp từ người khác. Đôi môi xinh là đôi môi chỉ nói lời hay ý đẹp, với đôi chân vững chắc luôn dạo bước trong khu rừng của kiến thức”. Văn sĩ Nikos Kazantzakis (1883-1957, người Hy Lạp) nói: “Khi chúng ta không thể thay đổi thực tế, chúng ta hãy thay đổi cái nhìn của chính chúng ta về thực tế đó”.

Tác giả sách Giảng Viên xác định: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. KHÔNG có gì để THÊM, CHẲNG có gì để BỚT. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân BIẾT KÍNH SỢ NGƯỜI” (Gv 3:14). Tương tự, các cơ phận trên thân thể con người cũng chẳng phần nào thừa hoặc thiếu, dù đó là… “ruột thừa”. Thiếu phần nào thì khổ lắm, thừa phần nào cũng mệt lắm, chỉ hoạt động kém một chút là thấy “oải” lắm rồi.

Người ta ví von: “Con mắt là cửa sổ tâm hồn”. Thật chí lý, bởi vì khi nhìn vào mắt người đối diện, người ta có thể “thấy” được những thứ trong tâm hồn người đó. Ánh mắt cũng có một “dòng điện” đặc trưng, người nào “yếu” sẽ chuyển ánh mắt nhìn sang hướng khác – nghĩa là “yếu vía” hơn người kia. Vì thế mà cũng là ánh mắt nhưng có nhiều cách nhìn khác nhau: Nhìn thẳng, nhìn xiên, nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lấm lét, nhìn trộm, nhìn kín đáo, nhìn lộ liễu, nhìn thán phục, nhìn khinh bỉ, nhìn chân thật, nhìn đểu cáng, nhìn thô lỗ, nhìn hiền từ,… Ôi, cũng vẫn chỉ là con mắt nhưng cách nhìn lại đa dạng quá chừng!

Và cũng chỉ với một vấn đề, một sự vật hoặc một con người, thế mà mỗi người lại có cách nhìn hoàn toàn khác nhau. Cố NS Trịnh Công Sơn có cách nhìn thế này: “Còn hai con mắt, khóc người một con. Còn hai con mắt, một con khóc người” (Con Mắt Còn Lại), và ông còn diễn tả con mắt bằng nhiều kiểu: “Những con mắt tình nhân, Nuôi ta biết nồng nàn, Những con mắt thù hận, Cho ta đời lạnh căm. Những mắt biếc cỏ non, Xanh cây trái địa đàng, Những con mắt bạc tình, Cháy tan ngày thần tiên. Những con mắt trần gian, Xin nguôi vết nhục nhằn, Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin, Những con mắt quầng thâm, Xin tươi sáng một lần…” (Những Con Mắt Trần Gian).

Theo quan niệm của người Đông phương cổ đại, người ta còn có “con mắt thứ ba” – gọi là “thiên nhãn” (*). Với người có niềm tin tôn giáo nói chung, và với người Công giáo nói riêng, còn có “con mắt đức tin” – một loại “thiên nhãn” đặc biệt. Quả thật, chỉ với con mắt mà cũng có thiên hình vạn trạng. Về tâm linh, con mắt đức tin thực sự quan trọng lắm!

Chúa Giêsu nói: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng thì toàn thân anh sẽ sáng” (Mt 6:22). Cuộc đời chúng ta “tối” hay “sáng” là bởi con mắt. Cách nhìn của con mắt có thể khiến lòng tham trỗi dậy. Lòng tham có thể ẩn núp tinh vi: Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh. Chưa có “cơ hội” chưa biết ai thật thà hay tham lam. Có những tài xế taxi phát hiện khách bỏ quên trên xe vài chục triệu mà vẫn trả lại khổ chủ, đó mới là người trong sạch – sạch từ ánh mắt. Sách Huấn Ca xác định: “Bạc tiền khiến cho bao người sa ngã, thế nào cũng đưa họ đến hư vong. Nó là cái bẫy cho ai say mê nó, hết mọi kẻ ngu si sẽ sa vào” (Hc 31:6-7). Ai cũng cần tiền, nhưng tiền không là tất cả, cần mức nào và có “nặng lòng” với nó hay không lại là chuyện khác. Tiền bạc chỉ là phương tiện chứ không là mục đích. Người Pháp phân biệt rạch ròi: “Tiền là ĐẦY TỚ TỐT nhưng là ÔNG CHỦ XẤU”. Hãy làm chủ nó, đừng lệ thuộc nó!

Giàu hay Nghèo có thể là Phúc hay Tội còn tùy ở mỗi người, chưa chắc giàu là có tội và nghèo là có phúc. Sách Huấn Ca nói: “Phúc thay ai giàu có mà vô tội, không chạy theo của cải, tiền tài” (Hc 31:6). Đó là “mối phúc lạ” và đó mới là vấn đề. Đừng tưởng nghèo thì được chúc phúc. Nghèo mà lòng không sạch thì cũng vô ích: Nghèo KHÔNG sạch, rách KHÔNG thơm! Nghèo mà vẫn tham thì không thể vô tội, và tất nhiên không thể biện hộ. Quả thật, không hề đơn giản! Đừng nói hay, đừng nói trước mà bước không qua, có cơ hội tham mà không tham đó mới là thực sự trong sạch. Người đó (dù giàu hay nghèo) được khen là có phúc, vì trong dân, người đó khiến cho bao người phải tâm phục khẩu phục qua cách sống. Phải tự thẳng thắn và khó với chính mình, đó mới là nghiêm túc thực sự.

Những người có tâm hồn trong sạch như vậy chắc hẳn là người sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa, dù trong nghèo khổ hoặc cơ cực thì họ vẫn một lòng tín trung với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Thấy vậy, ngay cả dân ngoại cũng không thể lặng im: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2). Quả thật, việc Chúa làm thật vĩ đại và vô song. Và chính con người đó thấy mình chan chứa một niềm vui – vui vì sống thanh thản trong Ơn Thánh của Thiên Chúa. Tuyệt!

Người ta thường ví von rằng “đời là bể khổ”. Kinh nghiệm sống cho chúng ta biết như vậy. Không ai lại không khổ. Khổ nhiều cách. Khổ nhiều mức. Sinh ra là bắt đầu khổ. Đôi khi có người còn khổ chồng chất, khổ tới chết vẫn không được một ngày sung sướng. Nhưng vấn đề là ở lòng kiên trung trong niềm tin vào Thiên Chúa ngay trong những nỗi cơ cực nhất, chắc chắn Chúa sẽ thương: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126:5). Muốn tín trung thì phải dùng đến con mắt đức tin và với thị lực tâm linh mạnh mẽ, tầm nhìn xa rộng. Có như vậy mới khả dĩ giữ vững đức tin trong lúc khốn khổ cùng cực, chắc chắn chẳng ai bằng Thánh Gióp. Trước mặt Satan, Thiên Chúa xác nhận bốn điểm son nơi Thánh Gióp: “Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người VẸN TOÀN và NGAY THẲNG, KÍNH SỢ THIÊN CHÚA và LÁNH XA ĐIỀU ÁC!” (G 1:8).

Tin là chấp nhận hoặc từ chối. Bài học đức tin đơn giản mà phức tạp. Thầy dạy đức tin là Đại sư phụ Giêsu. Chúng ta có đức tin là nhờ Ngài. Vì thế, chúng ta sống đức tin là minh chứng cho Thiên Chúa, không được giữ đức tin đó cho riêng mình mà phải truyền đức tin sang cho người khác. Đó là một nhiệm vụ chung. Truyền đức tin sang người khác cũng là một cách truyền giáo mới trong thế giới ngày nay, vì người ta càng ngày càng không muốn sống đức tin nữa! Thánh nữ Bernadette nói: “Đối với người tin thì không cần giải thích, đối với người không tin thì giải thích cũng vô ích”.

Thông truyền đức tin là nhiệm vụ chung của các tín nhân Kitô giáo, nhưng những người được tuyển trạch để lãnh nhận chức tư tế thừa tác thì trách nhiệm càng nặng nề hơn. Thánh Phaolô cho biết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5:1). Đúng vậy, trước khi làm tư tế thì vẫn phải làm con người, với mọi thứ của một con người bình thường. Người đó phải “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:2-3). Và vì thế, “không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi” (Dt 5:4).

Thế nhưng trong thực tế lại khác, đúng như người Việt thường nói: “Cờ đến tay ai người đó phất”. Câu nói giản dị và nhẹ nhàng nhưng vô cùng thâm thúy! Nhưng thật buồn bởi vì có khi người ta sống ngược với lời Đức Kitô: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Thực hành đúng ý Chúa phải nỗ lực rất nhiều, không thể cứ tà tà mà được!

Rõ ràng và rạch ròi, Thánh Phaolô cho biết: “Không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:5-6). Đức Kitô còn chưa tự xưng mình là “ông kia, ông nọ” thì huống gì chúng ta, những phàm nhân đầy tội lỗi, bất trác, bất túc, và yếu đuối lắm.

Và rồi một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Thầy trò cùng một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường – tên anh ta là Batimê, con ông Timê. Vừa nghe nói có Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:47). Thấy vậy, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:48). Con mắt thể lý của anh ta mù lòa, nhưng con mắt tâm linh của anh ta lại rất sáng, bởi vì anh nhận ra người mà anh ta kêu xin là Con vua Đavít.

Qua đó, chúng ta thấy có hai thái cực rõ ràng: Những người quát nạt Batimê là những người NGĂN CẢN người khác đến với Chúa Giêsu, còn anh mù Batimê đại diện cho những người TIN TƯỞNG mãnh liệt. Có nhiều khi chúng ta cũng đã từng ngăn cản người khác đến với Chúa bằng nhiều cách, dù không nói trực tiếp. Chẳng hạn, khi chúng ta mỉa mai hoặc chê bai khiến người ta ngại đến với Chúa. Chúng ta phải học tập anh Batimê trong việc tín thác vào Chúa, như ca dao Việt Nam nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Và “chiếc kiềng” đó là: Thỉnh cầu, Tín thác, Thực hành. (Để dễ nhớ, có thể gọi tắt là 3T).

Tiếng kêu cứu của Batimê gào to khiến Đức Giêsu chạnh lòng thương, Ngài đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10:49a). Người ta gọi anh và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10:49b). Nghe nói vậy, anh ta quá phấn khởi nên liền vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10:51a). Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10:51b). Ngài nói: “Anh hãy đi, LÒNG TIN của anh đã CỨU anh!” (Mc 10:52). Chính Chúa Giêsu đã xác định đức tin vô cùng quan trọng!

Sự việc diễn ra rất mau chóng và nhanh gọn. Điều đáng lưu ý là Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến LÒNG TIN, nghĩa là “đức tin quan trọng hơn phép lạ” vì “người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Gl 3:11), nhưng người ta lại thường “khoái” phép lạ hơn tầm nhìn của đức tin. Nếu vậy, đó là chứng “kém thị lực tâm linh” hoặc “mù đức tin”. Kém thị lực hoặc mù tâm linh nguy hiểm hơn chứng mù thể lý. Bởi vì không hiểu rõ, không biết nhiều hay không chịu hiểu? Đó là điều cần tự suy xét về cách tin và mức độ tin vào Chúa Giêsu, như Ngài đã từng nói: “Quý vị tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin chữa lành chứng bệnh về con mắt tâm linh nơi chúng con, xin củng cố đức tin cho chúng con để chúng con vững tin trong mọi hoàn cảnh, xin gia tăng thị lực đức tin để chúng con nhận biết Thánh Ý Ngài và sẵn sàng chia sẻ nỗi đời với mọi người. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

 (*) Hình ảnh con mắt thứ ba được thể hiện trên trán của các vị thần trong các tác phẩm điêu khắc cổ đại ở các đền chùa Phật giáo. Người ta tin rằng, con mắt nhìn thấu mọi điều đã được Thượng đế ban tặng cho các vị thần để họ có những năng lực siêu phàm nhìn thấu những vật vô hình. Theo đạo Cao Đài, người tu hành khi đạt được “đạo pháp” sẽ có thêm con mắt thứ ba – gọi là “huệ nhãn”, có thể nhìn thấu cõi vô hình. Trong Yoga, việc luyện tập Marantha để có được một vài năng lực tâm linh thần bí như khai sáng được “con mắt thứ ba” mà người khác không có.

Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, đó là “thần nhãn”, có thể thấy những gì mà người trần mắt thịt vẫn nhìn mà không thể thấy được. Nhiều giả thuyết khác cho rằng, ngày xưa Adam và Eva đã phạm “thiên luật” nên tuyến yên (pituitary) và tuyến hạch (pineal, hình trái thông) nằ  ở khoảng giữa hai con mắt đã dần bị hạn chế khả năng nhìn nhận ánh sáng.

Theo một số nghiên cứu khoa học, thông thường mỗi sinh vật đều có một “con mắt thứ ba” nằm ở trung tâm não, gọi là “tuyến tùng”. Nó cảm nhận giống như một con mắt vì tuyến tùng phản ứng lại với những thay đổi của ánh sáng. Mới đây người ta khám phá thấy mắt thường cũng có thể sản xuất được chất melatonin, làm cho tuyến tùng càng ít quan trọng hơn.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B

Giuse Vũ Trọng Nghĩa

Tin mừng hôm nay, Thánh Máccô đã miêu tả cho chúng ta một đôi mắt “người mù ngồi ăn xin bên vệ đường”. Cái hay trong cách trình thuật của Máccô nằm ở chỗ, tuy người hành khất bị mù nhưng cái mù ấy vẫn chưa phải là một chấm hết, chưa phải là một vận mệnh chung cuộc cho cuộc đời của anh. Mà từ đây, một ánh sáng mới lại bừng lên trong đêm tối khi người mù bắt gặp được Đấng đầy ánh sáng “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”.

Người hành khất này biết chắc rằng, tự sức mình, anh không thể làm gì cho anh cả. Vì thế khi nghe tin Đức Giêsu Nazaret đi ngang qua nơi anh đang ngồi ăn xin, anh đặt hết lòng tin tưởng và phó thác vào Người. Đó chính là phép lạ xảy ra cho đôi mắt tâm linh của anh trước khi một phép lạ xảy ra cho đôi mắt thể lý. Quả thế, trước đó vì mù nên anh không nhìn thấy, nhưng anh nghe được tiếng của Người. Anh là người thính tai trước tiếng gọi của Đấng Cứu Thế và đặt hết mọi hy vọng vào Người, vì anh biết chắc rằng chỉ có một mình Đức Giêsu mới có thể giải thoát anh khỏi bóng đêm đen tối của sự mù loà, chỉ một mình Đức Giêsu là ánh sáng chân thật có thể chữa lành và làm sáng đôi mắt mù loà của anh. Đôi mắt người hành khất này bị mù, nhưng đôi mắt tâm hồn của anh lại lành lặn, trong sáng và đầy lòng tin.

Như thế cách mô tả của Máccô về đôi mắt tuy có khác với nhiều người, nhưng qua đó thánh nhân dạy cho chúng ta phải biết ý thức về thân phận của mình; vì chỉ khi nào ta nhìn nhận tình trạng đui mù tâm linh của ta thì lúc đó Chúa mới có thể chữa lành cho ta được. “Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Đó là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta, vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Mù loà thể xác, ai cũng nhìn ra được nhưng mù loà tâm hồn, con tim thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xoá cảnh mù loà nơi thể xác và tâm hồn chúng ta. Vì chỉ có “trong ánh sáng của Chúa, chúng con mới nhìn thấy ánh sáng”.

Chúng ta tin rằng, Đức Giêsu không những chữa lành đôi mắt thể xác cho người hành khất Báctimê mà Người còn mở rộng đôi mắt tâm hồn cho anh nữa, để anh có thể nhìn thấy ánh sáng chân lý trường cửu. Quả thế, Báctimê không chỉ nhìn thấy được người, cây cối, mọi vật, nhưng còn hơn thế nữa: qua các sự vật trước mắt, anh đã nhìn thấy được mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng hằng dìu dắt những ai thiện tâm bước theo Người, làm môn đệ Người. Trước kia, Báctimê là một người hoàn toàn lặn lội trong bóng đêm mù loà, trong sự cô đơn buồn tủi, nhưng nay đã nhận ra một ý nghĩa mới cho đời mình, và đã khám phá ra một tương lai mới.

Sau khi nhận biết ánh sáng qua việc chũa lành của Đức Giêsu, anh mù Báctimê đã trở nên một mẫu môn đệ lý tưởng. Điều gì đã khiến anh được đề cao như thế? Anh chỉ làm có hai điều, và hai điều này là đủ để trở nên người môn đệ đích thật của Chúa Giêsu. Hai điều đó là: anh bỏ hết mọi sự, ngay cả chiếc áo choàng là tài sản quý giá nhất của một kẻ ăn xin bên vệ đường, để đến với Thầy, và điều thứ hai là đi theo Thầy trên con đường Người đi. Anh từ bỏ mọi sự để đến với Chúa và theo Chúa trên con đường của Chúa, chứ không phải theo Chúa trên con đường riêng của mình.

Cầu nguyện:

Lạy chúa! Chúa đã không ngần ngại đến với chúng con, với ước mong chúng con được bình an, hạnh phúc, để chúng con được trở nên môn đệ của Chúa với lòng hiền hậu và khiêm nhường. Xin cho chúng con biết đưa Chúa vào cuộc đời mình, dám thay đổi bản thân để hoàn thiện hơn, và được làm bạn với Chúa.

Xin cho đôi mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả gia nghiệp của đời mình, thấy anh chị em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình còn nhỏ bé trong vòng tay yêu thương của Chúa. Amen

Về mục lục

.

AI MỚI LÀ KẺ MÙ LÒA

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có thể nói,chưa bao giờ “phong trào” xây dựng cơ sở vật chất lại nở rộ như hiện nay. Các giáo xứ, các dòng tu thi nhau xây dựng. Các trung tâm mục vụ, trung tâm hành hương cũng mọc ra như nấm với những quy mô hoành tránh và hiện đại.

Theo lý thì việc xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh là đúng. Nhưng theo tình thì chúng ta thấy chưa ổn cho lắm? Liệu có cần không khi xây dựng cả hàng ngàn tỉ ở giữa những mảnh đời nghèo đói đang bữa no bữa đói? Liệu có quá vô tâm khi vẫn gửi những bì thư xin tiền đến những gia đình túng thiếu chồng ốm vợ đau hay không? Liệu đó có phải là vấn đề đẹp lòng dân hay chỉ là ý thích của cha hay của lãnh đạo. Có giáo dân nói rằng: xứ con nghèo lắm mà cha lại thích xây dựng, chúng con góp ý cha từ từ rồi xây nhưng cha bảo tiền của tôi chứ tôi có lấy tiền quý vị đâu? Không biết cha lấy tiền ở đâu mà phung phí?

Chúa Giê-su khi rao giảng tin mừng thì Ngài cũng luôn nhắm tới phục vụ nhu cầu cuộc sống con người. Ai đói Ngài cho ăn. Ai bệnh hoạn Ngài chữa trị. Ai cô đơn bất hạnh Ngài an vủi vỗ về. Suốt cuộc đời rao giảng Tin mừng Ngài chưa xây một Hội đường nào! Ngài cũng không ủy thác cho các môn đệ sứ vụ xây dựng những cơ sở vật chất. Ngài chỉ ủy thác chăm sóc người nghèo là tìm cách nâng cao đời sống cho họ, vì “anh em luôn có người nghèo bên cạnh”.

Mới đây khi mà HĐND thành phố Saigon vừa thông qua quyết định lấy đất của dân để xây dựng nhà hát giao hưởng Thủ Thiêm, có người đã hét lên rằng chỉ có HÁT TRÊN NHỮNG XÁC NGƯỜI !

Và facebook đó viết tiếp: Khi cái nhà hát đó mọc lên trên nền đất của nhân dân hôm qua. Có người chết tức, có người sống không bằng chết. Có những giọt nước mắt đoạn trường, những thân phận rách nát chưa thấy ánh sáng.

Trong một bầu oán khí ngút trời như vậy, thành phố kiên quyết làm nhà hát giao hưởng là nhảy múa trên nước mắt của nhân dân. Là hoan ca trên những xác người !”

Bài Phúc âm hôm nay nói về anh mù ngồi bên vệ đường tên là Bartime. Vì đôi mắy mù lòa, nên anh ta đành ở bên lề cuộc sống, anh ngồi bên lề đường, không thể hòa cùng mọi người để có những bước chân thong dong trên đường. Anh ta còn phải trông chờ vào những của bố thí dư thừa để nuôi sống bản thân. Anh cũng muốn hòa vàodòng đời trong những nhộn nhịp củacuộc sống, nhưng con mắt mù lòa khiến anh tách ra khỏi đám đông nhân loại.

Nếu những lãnh đạo cả đời lẫn đạo chỉ nhìn thấy công trình vĩ đại của mình mà không nhìn thấy số đông người nghèo là những vị ấy cũng tự mình tách ra khỏi đám đông nhân loại. Ở xã hội nào cũng thế, người nghèo vẫn là số đông, thế nên, các nhà lãnh đạo cần phải nhìn đến số đông nhân loại đang cần gì và mình có thể làm gì cho họ?Đừng chỉ nhìn vào nhu cầu của số ít người giầu có, quyền thế mà tách ra khỏi số đông nhân loại!

Nhưng tiếcthay,vì nhiều người trong chúng ta muốn ngồi bên lề cuộc sống để hưởng thụ, bất chấp những tiếng xôn xao của cuộc đời, bất chấp những bước chân của sự thật, bất chấp lời mời gọi đứng lên của Thiên Chúa. Chúng ta cố bám lấy chiếc áo choàng của sự ích kỷ để tìm tư lợi bản thân, để không thể bước chân trên con đường yêu thương cùngđồng hànhvới người nghèo khó.Nhiều lãnh đạo đã ngồi bên lề cuộc đời người nghèo nên không thấy nỗi khổ hằn lên trên khuôn mặt luôn già trước tuổi, và xanh xao vì thiếu ăn.Chúng ta vẫn mở mắt nhìn nhưng không thấy gì, vì chỉ thấy chiếc áo choàng của bản thân và những lợi lộc dư thừa đang chứa trong đó. Nếu như thế thì chính chúng ta là những con người mù lòa cần phải để Chúa chữa lành!

Vâng, lạy Chúa, chính con đang chờ một phép lạ thay đổi cái nhìn của con. Con đã mù lòa khi không nhìn thấy những mảnh đời khổ đau. Con muốn giũ bỏ cái áo choàng là tham vọng tìm vinh quang cho bản thân khi cố xây dựng cơ sở  trên nỗi đau của đồng loại, cốlàm những công trình hoành tráng trên sự nuối tiếc của người nghèo, vì giá mà số tiền ấy lạc quyên cho những ngôi nhà tình thương thì đã mang lại mái ấm cho biết bao gia đình! Như người mù thànhGiêricô, xin cho con bước ra ánh sáng để nhìn thấy sốđông nhân loại đang lầm than. Và con bắt đầu biết cảm nhận mọi sự thăng tiến của nhân loại đều phải bắt đầu từ con người chứ không phải cơ sở vật chất vô hồn. Amen

Về mục lục

.

MÙ LÒA

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Người mù dong duổi mỗi ngày,
Vệ đường hành khất, đắng cay cuộc đời.
Đoán nghe Chúa sắp tới nơi,
Vội vàng cất tiếng, xin Người xót thương
Bar-ti-mê đứng bên đường,
Thành tâm nhận biết, tựa nương bên Ngài.
Con vua Đa-vít thiên sai,
Chữa lành mắt sáng, con nài Chúa ban.
Vững tâm đứng dậy kêu van,
Áo choàng anh liệng, ngập tràn tin yêu.
Xin Thầy thương xót con nhiều,
Cho con được thấy, cao siêu tình Ngài.
Con mù từ thuở tượng thai,
Ban cho ánh sáng, mở khai xác hồn.
Tạ ơn Chúa Tể càn khôn,
Mắt con mở sáng, linh hồn tinh thông.

Con người có các giác quan để thông tri với thế giới bên ngoài. Bất cứ một khuyết tật nào trong thân thể cũng làm cho con người bị khổ đau. Có nhiều thắc mắc chúng ta khó trả lời. Hỏi rằng: Tại sao Chúa lại để cho người này mù lòa, người kia câm điếc hay bất toại? Nếu chỉ nhìn vào cuộc sống tự nhiên, chúng ta không tìm được câu trả lời thích đáng. Chính vì thế, nhiều người cảm thấy bất hạnh. Chúa Giêsu đã đến như một nguồn ánh sáng làm cho chúng ta nhận biết được giá trị của những bất toàn trong đời sống.

Phúc âm hôm nay tả cảnh Chúa chữa lành cho người mù ăn xin vệ đường. Anh mù đến van xin Chúa rằng: Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu đáp: Được, đức tin của anh đã chữa anh. Anh đã được thấy và thấy rõ hơn cả những người nghĩ mình có mắt sáng. Biết bao người có mắt sáng chung quanh anh. Họ trông thấy Chúa nhưng họ không nhìn biết Chúa. Họ đâu có nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ đâu có tin Chúa có quyền phép vô cùng. Anh mù đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, Đấng có thể chữa anh. Chúa đã chữa mắt thể xác và cả mắt tinh thần cho anh.

Chúng ta có mắt sáng nhưng không phải chúng ta nhìn thấy mọi sự. Có nhiều điều xảy ra chung quanh mà chúng ta không thấy. Đôi khi mắt chúng ta bị che khuất bởi sự ích kỷ, lòng hẹp hòi, ghen tương, lòng hận thù, chúng ta không nhận ra được sự tốt lành nơi người khác. Chúng ta có những điểm mù trong cuộc sống. Điểm mù của con mắt tinh thần làm chúng ta không nhận ra nhân phẩm xứng đáng của anh chị em.

Truyện kể người ta thấy một em bé gái mù lòa, mặt mày hốc hác, quần áo rách rưới đứng co ro ở một góc đường để xin ăn. Cô bé trông bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, ốm o bệnh hoạn. Lúc ấy, một ông ăn mặc sang trọng lái xe ngang qua đó trông thấy cô bé nhưng ông chẳng thèm nhìn đến lần thứ hai. Khi lái xe về đến nhà, thoải mái trong căn hộ ấm cúng với vợ con. Trước mâm cơm thịnh soạn, hình ảnh cô bé bỗng hiện ra rõ rệt trong đầu ông. Ông thở dài và phàn nàn cùng Chúa: Tại sao Chúa để cho những hoàn cảnh đáng thương như thế xảy ra trên cõi đời này? Hình ảnh cô bé cứ ám ảnh ông, không chịu được sự dằn vặt nên ông trách Chúa: Chúa phép tắc vô cùng, tại sao Chúa không làm cái gì để giúp cô bé nghèo khổ đáng thương ấy. Lúc ấy, tự thâm tâm ông nghe tiếng Chúa phán cùng ông rằng: Ta đã làm rồi chứ sao lại không. Điều này Ta dành cho con đó. Ta đã dựng nên con mà.

Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con quan chiêm những kỳ công của Chúa. Xin cho con mắt đức tin của chúng con mở sáng để chúng con nhìn được hình ảnh Chúa nơi anh chị em của chúng con.

Về mục lục

.

CÓ MẮT CŨNG NHƯ MÙ

JM. Lam Thy 

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXX.TN-B – Mc 10, 46-52) trình thuật phép lạ Đức Giê-su chữa lành một người mù ở Giê-ri-khô. Anh tên là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Thánh sử Mac-cô ghi nhận phép lạ chữa lành cho anh mù Ba-ti-mê tiếp liền với những câu chuyện được Đức Giê-su Ki-tô báo trước cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người. Tại sao lại thế? Chuyện cũng đơn giản: Qua những tiên báo ấy, Chúa Giê-su muốn các môn đệ nhận biết Người là Đấng Mê-si-a đến thế gian để chịu chết chuộc tội cho nhân loại. Tuy nhiên, tham vọng đã khiến cho các môn đệ không muốn chấp nhận một Đấng Ki-tô chịu thân phận ô nhục như vậy. Quả thực họ có mắt mà không thấy! Ngược lại, anh mù bẩm sinh Ba-ti-mê tuy không thấy Chúa Giê-su bằng con mắt bình thường, nhưng lại thấy Chúa qua con mắt đức tin, để rồi anh tuyên xưng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”

Có một điều rất đáng lưu ý là khi anh kêu to lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” thì liền bị đám người Pha-ri-sêu quát nạt, bảo anh ta im đi. Đám người Pha-ri-sêu này là ai mà hống hách vậy? Họ chính là nhóm người cùng với nhóm Xa-đốc bị thánh Gio-an Tẩy giả gọi là “rắn độc” (“Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” – Mt 3, 7). Họ sợ Đức Giê-su có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Người nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền chiếm lĩnh cảm tình của cộng đồng. Hành động đó nào có khác chi nòi rắn độc!

Đáng lẽ đám người Pha-ri-sêu này (cùng với nhóm Xa-đốc) phải hiểu được rằng họ “là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính vị ấy cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên vị ấy phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy.” (Dt 5, 1-3). Tuy nhiên đám người Pha-ri-sêu đã không làm thế – không muốn Đức Giê-su có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Người – mà còn muốn truyền nọc độc từ nơi họ sang người khác. Gọi họ là rắn độc là quá đúng.

Trước những con rắn độc ấy, đáng lẽ anh mù phải sợ, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể – nói theo kiểu hiện đại – “dứt phép thông công” anh ngay lập tức, khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo và đời anh đã khốn khổ sẽ càng thêm khốn khổ. Nhưng anh đã không sợ hãi và càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Sự can đảm ấy của anh đã được Đức Giê-su chúc lành: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Và thế là “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.” Viết tới đây, kẻ viết bài này chợt nhớ tới một lần khác, Đức Giê-su chữa lành cho một người mù bẩm sinh (Ga 9, 1-41):

Cũng lại là đám người Pha-ri-sêu tra vấn, vặn hỏi bệnh nhân (kể cả cha mẹ anh ta nữa) đủ điều, và cuối cùng trục xuất anh ra khỏi hội đường (“dứt phép thông công” đấy!). Nghe tin ấy, Đức Giê-su gặp lại anh mù, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh hỏi lại: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9, 35-38). Căn cứ trên sự kiện hiển nhiên đó, Đức Ki-tô khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9, 39). Lời nói này “chạm nọc” đám người Pha-ri-sêu, khiến họ “có tật thì giật mình”, liền ngớ người ra và hỏi lại: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” khiến “Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9, 40-41).

Rõ ràng Đức Ki-tô muốn cho đám người Pha-ri-sêu biết rằng nếu phạm tội vì không biết đó là tội – phạm tội do vô tình (vì bị mù, không xem thấy) thì không cấu thành tội; còn nếu đã biết đó là tội, đã dám tư xưng là “chúng tôi thấy”, mà còn cố ý phạm, thì mới thực sự là có tội. Như thế thì cũng chẳng khác nào nói: Anh mù vì tin mà được sáng mắt, nhưng nhóm người Pha-ri-sêu mắt vẫn sáng, nhưng không tin, nên cũng chẳng khác kẻ đui mù. “Thấy mà không thấy – không thấy mà thấy”, đó là một nghịch lý trong cuộc sống, nhưng lại là “chuyện thường ngày ở huỵện”. Trường hợp thánh Phao-lô với biến cố Đa-mát là một minh hoạ sống động: Khi còn sáng mắt (thể lý) nhưng vì nhiễm phải giáo lý sai lầm của Pha-ri-sêu nên Sao-lô cũng chẳng khác chi người mù (mù nội tâm). Đến khi bị ánh sáng chói loà làm mù mắt (mù thể lý) ở Đa-mát thì lại là lúc được sáng mắt sáng lòng (tâm linh). Cuối cùng, cả mù thể lý lẫn mù nội tâm đều được chữa lành và trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất Phao-lô.

Thật là thú vị! Những người “sáng mắt” thuộc Kinh Thánh làu làu, từng đứng trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy, lúc nào cũng huênh hoang “chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê”, thì lại không biết gì về Con Người đã được ông Mô-sê (nhờ được Thiên Chúa mạc khải) tiên báo (“Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” – Ga 9, 28-29). Trong khi đó, một anh mù từ lúc mới sinh (chắc chắn không được học hành và giả thử có được học thì cũng chẳng tới đâu) lại biết về Thiên Chúa còn hơn cả đám người sáng mắt (“Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” – Ga 9, 30-33). Chẳng cần lý luận đanh thép, lý thuyết sâu xa, mà chỉ căn cứ vào thực tế (anh được chữa khỏi bệnh mù), mà anh mù đã khiến đám Pha-ri-sêu lâm vào thế bí, phát khùng (“Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” – Ga 9, 34), và đành giở chiêu quyền lực trục xuất anh khỏi hội đường! Thế đấy! Như vậy thì ai sáng, ai mù thực sự đây?

Chung quy thì cũng chỉ vì vấn đề cốt tuỷ: đức tin. Anh mù được chữa lành bởi anh tin vào Con Người; mà cũng không phải chỉ riêng anh, tất cả những người bệnh hoạn, tật nguyền đến với Đức Ki-tô đều được chữa lành vì “Đức tin của con đã chữa lành con” (Mc 5, 34). Còn đám người Pha-ri-sêu thì mù vẫn hoàn mù, bởi họ không tin vào Con Nguời, mà chỉ tin vào những giáo lý sai lầm như thánh Phao-lô trước biến cố Đa-mát vậy. Nói đi nói lại không gì bằng mượn chính ngay lời người mắc bệnh “mù nội tâm“  và được chữa lành, để minh hoạ: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!”  (Ep 5, 8-14).

Ôi! Lạy Chúa! Cảnh người mù kêu cầu Chúa chữa lành, bị bọn người Pha-ri-sêu quát nạt, tra vấn vặn hỏi đủ điều, vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Chúa, nhưng chúng con vẫn còn mê ngủ, vẫn luôn “cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối” (Ep 5, 11), mà chẳng thấy được ánh sáng của Lời Chúa. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, bệnh tật, những kẻ bị áp bức bất công, mà chỉ thích bắt chước những người Pha-ri-sêu chú trọng đến những hình thức hào nhoáng bên ngoài (những cái áo loè loẹt, những bộ vó sặc sỡ…), và nhất là bo bo thủ cựu với những quan niệm hủ hoá lỗi thời… Phải chăng chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương? Và cũng chính vì thế mà chúng con mắt vẫn sáng, tai vẫn thính, miệng vẫn nói năng lưu loát, nhưng lại thực sự là những kẻ đui mù câm điếc tâm linh.

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa muốn cho mọi người nhận biết Chúa chính là lẽ sống của mình, và Chúa không hề bỏ rơi con cái Chúa. Xin ban cho các anh chị em yếu đau bệnh tật và đang gặp hoạn nạn có thêm nghị lực để phấn đấu. Giữa cơn đau khổ, xin cho họ nghiệm thấy rằng có Chúa luôn luôn ở kề bên, nhờ những anh chị em hết tình nâng đỡ và nhờ niềm trông cậy họ đặt nơi Đức Ki-tô. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.” (Lời nguyện Nhập lễ, lễ cầu cho bệnh nhân).

Về mục lục

.

LÒNG TIN CỦA ANH ĐÃ CỨU CHỮA ANH

      Fx Đỗ Công Minh

          Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại việc Chúa chữa cho một người mù được sáng mắt. Người ăn mày  bên vệ đường. Anh chưa từng nhìn thấy Chúa, chưa có dịp nào được gặp Người, nhưng cũng đã từng nghe biết về Người, Đấng đã từng làm phép lạ chữa lành cho những ai biết kêu cầu, tin tưởng vào Người. Anh nghe nói Đức Giêsu Na- Gia- Rét đang di chuyển trên  đường ra khỏi thành Giê-Ri-Cô, anh lớn tiếng kêu :”  Lạy Ông Giêsu, con vua ĐaVít, xin dủ lòng thương tôi” . Nhưng những người  bên cạnh anh quát nạt anh. Họ có thể là những người biết Đức Kitô nhưng ngăn cản anh đến với Người vì mong muốn được Người ưu ái, càng ít càng tốt, một thái độ theo Chúa vụ lợi. Cũng có thể họ là những người không tin Chúa  nên không muốn có thêm một người chạy đến với Người. Anh mù Bartimê không những không im theo lời những người chung quanh dọa dẫm, quát nạt mà còn lớn tiếng :”Lạy con vua Đa Vít, xin dủ lòng thương tôi “. Đức Kitô từ xa  vẫn nhận ra lời kêu cầu của anh. Người gọi anh đến. Mừng quá khi nghe có người nào đó nói:” Cứ yên tâm, đứng dậy. Người gọi anh đấy “. Thật thế, anh đã đứng ngay dậy, vứt bỏ tấm áo chòang, chạy đến cùng Chúa. Một thái độ thật dứt khóat khi được Chúa gọi . Khi được hỏi : ” Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” , người hành khất mù  thưa :” Xin cho tôi  nhìn thấy được “. Chúa đã chữa cho anh. Người nói “ Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh “. Và anh bước đi theo Người trên con đường Người đi .

        Những người đi bên cạnh Chúa hôm ấy hẳn phải rất ngạc nhiên, thậm chí bực tức xen lẫn sợ hãi. Bởi trước đó họ không tin Người có quyền năng như thế. Họ ganh ghét, đố kỵ vì họ không thể nào tin rằng một người ở cùng quê Na-Gia-Rét  với họ, lại có thể làm những việc lạ lùng như vậy. Đối với những người lãnh đạo trong dân Do Thái thì họ sợ mất ảnh hưởng. Họ sợ dân chúng không còn chấp nhận họ, vì chính cuộc sống bê bối của họ. Họ còn sợ Đức Kitô đến không chỉ chữa lành bệnh tật thể xác mà còn làm cho mọi người khác được mở mắt, mở tai, mở trí, mở lòng về phương diện tâm linh, trí hiểu. Khi đó mọi người sẽ nhận ra những điều tiêu cực, tội lỗi, những điều  xấu xa họ đã từng làm. Không còn kiêng nể, tuân phục họ.

      Con đã từng nghe đọan Tin Mừng này, và trong trao đổi, học hỏi, có lúc con đã lên án những kẻ ngăn cản anh mù đến với Chúa là cứng lòng, là vị lề luật, là kém lòng tin.  Không như anh mù, chưa từng gặp Chúa, nhưng vẫn tin và mong ước được Người chữa lành,  anh tin như thế nên đã mạnh dạn “Xin cho tôi nhìn thấy được “. Nhìn lại mình, con cũng nhận ra, con cũng không  có được lòng tin như anh mù. Bản thân con cũng lại đã từng có lúc ngăn cản anh chị em con đến với Chúa, bằng cuộc sống thiếu gương mẫu trong đời sống đạo. Những lần rủ rê nhau thay vì đến nhà Chúa để đón nhận Lời Người, lại lao vào những thú vui trần thế. Có những lần, thay vì tham gia các sinh họat đạo đức, học hỏi Lời Chúa hay làm việc từ thiện bác ái lại phung phí thời gian vào những việc vô bổ. Trong gia đình, không nhắc nhở khuyến khích con cái đi đến với Chúa qua việc dâng Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích. Không biết hy sinh thời giờ để theo Chúa.

       Lạy Chúa,

      Xin cho con, khi nhận ra thiếu sót của mình, con phải thay đổi đời sống đạo, nhờ đó con nhận ra lòng  nhân từ của Chúa, nhận ra con đường Chúa đi hầu con được kết hiệp với Chúa. Chắc chắn khi ấy, nếu con kêu cầu, Chúa sẽ nhận lời chữa lành bệnh tật thân xác lẫn linh hồn con. Chúa sẽ mở mắt, mở tai, mở trí, mở lòng cho con, hầu con xứng đáng bước theo chân Người trên cuộc đời trần gian này . AMEN .

Về mục lục

.

ĐẾN VỚI CHÚA

Bông hồng nhỏ

Hai anh bạn khiếm thị ngồi trò chuyện vui vẻ. Một anh hớn hở khoe:

  • Tớ mới quen nhỏ kia dễ thương lắm.
  • Đẹp nữa?
  • Ừ, đẹp.
  • Sao cậu biết?
  • Nghe giọng nói dịu dàng của nhỏ là tớ biết.

Người khiếm thị cảm nhận bằng đôi tay và thính giác của họ rất tốt.

Hôm nay, anh mù Bartimê vẫn ngồi ăn xin bên vệ đường ngoài thành Giêrikhô như mọi ngày. Từ lâu anh đã nghe danh tiếng của Thầy Giê-su và những khao khát mong mỏi được gặp. Bởi thế, vừa nghe nói Đức Giê-su Nadarét đang đi qua, anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,47). Tiếng kêu của anh không át được tiếng đám đông ồn ào. Nghe anh kêu, đám đông chẳng động lòng thương giúp đỡ lại còn quát nạt bắt anh im đi. Càng bị cấm cản, khao khát trong anh càng mãnh liệt, anh tin rằng chỉ có Thầy Giê-su mới cho anh nhìn thấy ánh sáng, vì thế anh càng kêu lớn tiếng hơn. Đám đông thờ ơ với nỗi bất hạnh của anh nhưng Thầy Giê-su thì lưu tâm đến anh. Thầy nghe anh kêu xin tha thiết, Thầy hiểu khát khao cháy bỏng trong anh. Và Thầy đáp lại khát mong của con người đáng thương này. Thầy Giê-su đã đứng lại và nói với đám đông: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10,49). Thầy đã để cho đám đông gọi anh. Đó có phải là những người mới đây thôi đã quát nạt, ngăn cản anh đến với Thầymà nay lại đến với anh mù mà bảo: “Cứ yên tâm đứng dậy, Thầy gọi anh đấy!”. Ở đây ta thấy có một sự thay đổi và đón nhận. Nếu như hằng ngày ta nhìn thấy anh mù cầm gậy mò mẫm trên con đường để đi ăn xin, hẳn ta sẽ phải hết sức kinh ngạc trước phản ứng của anh khi Thầy gọi và “Anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su” (Mc 10,50). Có bao giờ ta dứt khoát vứt bỏ tất cả những gì ta có để đến với Chúa? Khi nghe Tình Yêu gọi mời tha thiết, ta có đứng phắt dậy, rời bỏ lề đường quen thuộc để đến cùng Chúa?

Thầy Giê-su gọi anh mù đến với Thầy. Anh đã đến với Thầy và để cho Thầy thấy tất cả những bất toàn, yếu đuối nơi mình. Anh làm cho Thầy rung động với tất cả con tim. Tâm hồn Thầy cảm thấu nỗi đau, sự bất hạnh mà anh đã gánh chịu suốt bao nhiêu năm qua. Thầy hiểu anh cần điều gì nhưng vẫn hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (x.Mc 10,51). Nỗi khát khao vỡ òa thành lời cầu xin tha thiết. Thầy Giê-su đã chữa lành cho anh không chỉ bằng tình thương và quyền năng mà còn vì lòng tin mãnh liệt nơi anh. Đám đông đã không nhận ra một con người đáng thương đang ở giữa họ nhưng trái tim của Thầy Giê-su đã yêu thương anh từ rất lâu rồi. Thầy đã cho anh được sáng mắt lại còn cho anh đi theo. Có ai hạnh phúc hơn anh? Bây giờ, anh càng xác tín hơn niềm tin vào Thầy Giê-su và “đi theo Người trên con đường Người đi”.

Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Con xin đến với Chúa với tất cả những yếu đuối và bất toàn nơi con: mù lòa, câm điếc, bại tay,… Con để cho Chúa nhìn thấy con đáng thương mà không ngại ngùng xấu hổ. Bởi con tin vào trái tim đầy thương cảm của Chúa, ánh mắt yêu thương của Chúa nhìn con, đón nhận con và chữa lành con. Xin Chúa giúp con sau khi được Chúa xót thương cũng biết yêu thương anh chị em mình, để từng ngày con vui say trên con đường theo Chúa. Amen.

Về mục lục

.

XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY

Lm. Simon Trần Văn Đức

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Sự bất hạnh đáng thương của con người chính là mù lòa. Bởi mù, nên họ không thể nhìn thấy những vẻ đẹp của thiên nhiên, nhất là vẻ đẹp của những người thân yêu… Thế nhưng, cái đáng thương hơn mù lòa thể xác đó là cái mù lòa nơi tâm hồn. Người mù tâm hồn là họ mù nhưng họ không chấp nhận mình mù. Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của nhưng đam mê thể xác mà không nhận ra cái sai trái của mình để mà sửa đổi. Họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình để rồi gây nên biết bao nhiêu là đau khổ cho những người chung quanh.

Thực tế cho thấy, trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,… chúng ta có thấy thủ phạm là người mù không? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường nghiện ngập ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, chúng ta có bắt gặp bóng dáng những người khiếm thị nào không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham ô, có lẽ chúng ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người có cả hai mắt sáng tỏ!!! Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai đây? Người mù hay người sáng?

Hôm nay, Thánh sử Marcô thuật lại cho chúng ta thấy một người mù tên là Bartimê đang ngồi ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Không biết anh có thuộc nhóm “Hội Người Mù” hay không! Song thiết tưởng anh là một con người chân thành khiêm tốn. Anh biết rõ thân phận của mình, nên anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời của anh thanh thoát an lành. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cuộc đời của anh, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính từ bên trong ra bên ngoài.

Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, ánh sáng niềm tin. Vì thiếu ánh sáng niềm tin nên cả đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu suốt cuộc hành trình đời mình mà không nhận ra Chúa Giêsu là ai. Chỉ có anh mù Bartimê lại “thấy tỏ tường” Chúa Giêsu là ai. Bởi anh biết, cho nên khi anh van xin Chúa không phải danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” – một danh xưng mà cả dân Do Thái đều hiểu đó là tước hiệu Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế. Đám đông càng ngăn cản thì anh càng can đảm kêu to hơn: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”, anh tin chắc rằng chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mới phục hồi sự sáng mắt cho anh. Do đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu cho anh đúng mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu anh không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, thì anh đã không xin Ngài điều này.

Dẫu biết rằng, anh chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được diễm phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta bàn tán nói về con người của Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật “Phúc cho những ai không thấy mà tin“. Cũng vì lẽ đó mà anh được phục hồi sự sáng mắt thể lý, quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn. Điều đã được Chúa Giêsu khẳng định: “Đức tin của anh đã chữa anh”.

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Chúng ta điều có đôi mắt thể lý sáng, đó là hồng ân Chúa ban cho chúng ta nên chúng ta phải biết quý trọng và cảm tạ Chúa. Thế nhưng, nhìn lại cuộc đời của mình, chúng ta thấy hổ thẹn trước anh mù Bartimê,đôi mắt tâm hồn của chúng ta nhiều khi trở nên mù lòa thực sự.

Vì mù lòa mà nhiều người trong chúng ta, nhất là các bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá tự do về giới tính, quan hệ nam nữ cách bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác.

Vì mù lòa mà nhiều người đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen đã hủy hoại thanh danh không chỉ cho bản thân mình, mà còn ảnh hưởng xấu đến gia đình, bạn bè.

Vì mù lòa một chút bổng lộc ở thế gian, mà nhiều người đã bán mình làm tôi cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại tha nhân.

Vì mù lòa cố chấp mà nhiều người sống bất khoan nhượng với gia đình, với sớm làng gây ra biết bao nhiêu là chia rẽ….

Xem ra anh mù Bartimê thật có phúc vì anh ý thức được sự mù lòa của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn năn đích thực, chứ không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy nuối tiếc về sự mù lòa tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình.

Ước gì chúng ta luôn khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng Tin Mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.

Về mục lục

.

HAI MẶT

Lm Vũdình Tường

Cuộc sống thường có hai mặt, phải và trái. Điều này không có nghĩa là phải trái luôn trái nghịch nhau. Trong nhiều trường hợp phải trái bổ túc nhau làm cho sự kiện hoặc vật thể trở nên trọn vẹn hơn. Hai mặt phải trái của lá cây, hai mặt phải trái của xấp vải, hai mặt phải trái của tờ giấy. Phúc Âm hôm nay đưa ra nhiều hình ảnh phải trái xem ra có vẻ trái nghịch nhau. Cảnh trái nghịch rõ nhất là ánh sáng và bóng tối, hình ảnh người mù ngồi vệ đường và hình ảnh người sáng mắt theo Đức Kitô, hình ảnh đám đông ngăn cản anh đến gặp Đức Kitô và hình ảnh một mình anh cô đơn giữa đám đông ồn ào. Hình ảnh đám đông coi thường anh và hình ảnh Đức Kitô tỏ lòng xót thương anh. Đa số chúng ta thích chọn theo í kiến của đa số, í kiến của đám đông và bị ảnh hưởng đám đông lôi kéo. Người mù chọn đứng riêng bởi anh biết rõ anh muốn gì. Anh chọn theo thiểu số, thực ra một mình anh một í và điều đó khiến anh tách biệt khỏi đám đông. Đám đông dùng sức mạnh đa số lấn át anh, cấm anh lên tiếng. Anh đã không im tiếng, trái lại, anh còn la to hơn trước. Bị xã hội chê cười, chối bỏ và anh đã sống cảnh đó trong bao năm. Anh nhất quyết gặp Đức Kitô để có đời sống mới tốt lành hơn. Anh biết đám đông không giúp anh, mình anh không đủ khả năng thay đổi kiếp sống đoạ đầy nên anh quyết tâm gặp Đức Kitô xin Ngài giúp. Nghe người ta ồn ào nói về Đức Kitô, anh biết Ngài sắp đi ngang qua và anh lên tiếng nài van: ‘Lậy Đức Kitô, con Vua Đavít, xin thương đến con’ c.47.

Chúng ta không biết bởi đâu anh mù biết Đức Kitô thuộc dòng dõi vua Đavít nhưng vương hiệu hoàng tộc đó đóng vai trò quan trọng vào cuối đời của Đức Kitô. Đám đông đón Ngài vào thành thánh Jerusalem như một quân vương thắng trận trở về. Philatô đối chất Đức Kitô là Vua dân Do Thái và tấm bảng ghi phía trên đầu thập tự ‘Vua Dân Do Thái’. Chúng ta cũng không rõ từ đâu anh mù nhận biết danh tánh Đức Kitô và tin chắc Đức Kitô có thể làm cho anh sáng mắt. Có lẽ anh nghe người ta nói nhiều về Đức Kitô và lòng anh ao ước được gặp Ngài và mong Ngài chữa mắt cho. Anh bị mù mắt, mù thể lí nhưng tâm linh anh không mù, mắt tâm linh anh sáng, nhận biết Đức Kitô, con vua Đavít, tâm anh tỏ bởi anh nhận biết sự thật. Xã hội coi khinh anh nhưng không thể cấm anh đến gặp Đức Kitô, nghe tiếng anh kêu gào Đức Kitô lên tiếng cứu anh. Đám đông trước là rào cản cấm anh lên tiếng, giờ họ lại hỗ trợ khuyến khích anh. Nghe tiếng Đức Kitô mời gọi anh vui mừng nhảy như sáo đến gặp Ngài. ‘Anh muốn ta làm gì cho anh?’ Đức Kitô hỏi thế. Anh biết rõ điều anh cần, anh xin cho được sáng mắt. Lời xin thật rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc. Có người xin được quyền thế, kẻ xin được giầu sang, kẻ xin được chức tước. Anh xin rất thực tế. Xin được sáng mắt và Đức Kitô đã thoả mãn lòng anh mong ước. Hành động vất áo choàng là dấu chỉ từ nay anh sống cuộc sống mới, trong sáng, thanh tao, không còn lệ thuộc vào chiếc áo choàng che nắng, chắn mưa nhưng anh có Đức Kitô dẫn đường, có bầu trời trong xanh bao bọc và đồng hành với môn đệ Đức Kitô. Đức Kitô trên đường vào thành thánh và cũng nơi đây Ngài trải qua đau khổ, cứu độ nhân trần. Người mù giờ sáng mắt chứng kiến những đau khổ Đức Kitô trải qua vì Ngài đến ban hy vọng, ủi an, xoá tan bóng tối. Chính anh cảm nhận điều đó trong đời và tiếp tục chứng kiến lòng nhân từ Đức Kitô qua đau khổ Ngài tự nguyện lãnh nhận.

Chúng ta tự xét mình xem mình là người dẫn người khác đến Đức Kitô hay là rào cản ngăn người khác đến nhận ơn lành Chúa.

Về mục lục

.

LÒNG TIN CỦA ANH ĐÃ CỨU CHỮA ANH.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Các đề tài liên quan đến các khuyết tật như câm, điếc, mù lòa… xem ra dễ trình bày và hình như cấu trúc xưa nay ít đổi thay. Trước hết đề cập đến các nổi khổ đau của những người mang khuyết tật về thể lý.

Nào là chuyện câm thì không thể, đúng hơn là rất khó giao tiếp với tha nhân, rồi chuyện mù thì không được diễm phúc nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không thấy được vẻ đẹp của hạt sương long lanh trên cành hoa, không thấy được khuôn mặt của người đối diện, vân vân và vân vân. Rồi sau đó lại triển khai nổi khốn khổ của những người mắc các khuyết tật tinh thần hay tâm linh như chuyện có mắt mà như mù, có tai mà chẳng biết nghe hay không thèm nghe…và dĩ nhiên sẽ kéo theo những mối nguy hại cho bản thân họ hay cho xã hội.

Trong văn thơ có thể loại được gọi là “huề vốn” nghĩa là có nói cũng không thêm gì. Một ví dụ: “Đứng bên này sông thấy bờ bên kia sông. Bơi qua bờ bên kia thì thấy bờ sông bên này. Bơi ra giữa sông, hụp đầu xuống thì không thấy bờ sông nào.” Đã là người thì không một ai đành cam chịu cảnh mù lòa khi còn khả năng làm sáng đôi mắt. Cũng chẳng một ai thấy dễ chịu khi đang sáng mắt mà bị chê trách là đui mù. Xin cũng được dùng kiểu nói “huề vốn” để vào thẳng vấn đề, đúng hơn là để luận bàn đôi điều về điều gọi là “thấy”. Ai là người đang bị mù? Thưa đó là những người không thấy.

Đó là những ai không thấy người anh chị em mình đang túng cực, nghèo khổ mong kiếm cho được ba chục ngàn mỗi ngày để sinh sống, chưa kể nếu có người thân phải cưu mang. Đó là những ai không thấy người anh chị em của mình đang bị bóc lột sức lao công do bởi những người lắm tiền, nhiều quyền trong xã hội. Đó là những ai không thấy anh chị em của mình đang bị đối xử bất công do bởi những người nắm quyền bất nhân hay do bởi các luật lệ bất minh. Đó là những ai không thấy nền giáo dục nước nhà đang loay hoay trong ngõ cụt vì những cơ chế phi lý, lạc hậu, lỗi thời…Đó là những ai không thấy con thuyền của một vài Giáo Hội địa phương xem ra đang vất vả lướt sóng không nguyên chỉ vì bão tố thế gian mà còn có thể vì quá nặng nề với các “lễ hội” bên ngoài, để rồi dù không phải là xao lãng, nhưng chưa xem trọng nghĩa vụ sống yêu thương, làm chứng cho sự thật, bảo vệ công lý, loan truyền Tin mừng… Đó là…

Thế nhưng căn cứ vào đâu để xác định rằng ai đó đã và đang không thấy? “Phản ứng hay hiệu ứng” là một trong những biểu hiện cho biết là ai đó đang còn thấy. Với người hấp hối hay người gặp một sự cố nặng về thể lý thì người ta thường lấy đèn soi vào mắt hay một kiểu cách vẩy ngón tay sát mắt nạn nhân để xem phản ứng đôi mắt của họ. Khi thấy được vẻ đẹp một cánh hoa, hay một quang cảnh kỳ lạ thì người ta không thể không có phản ứng cho dù có thể mỗi người một cách khác nhau. Một cái thấy được gọi là thấy, khi và chỉ khi đối tượng được thấy gây được một hiệu ứng nào đó nơi người thấy nó. Cũng thế, chúng ta chỉ có thể gọi là thấy, khi những điều đập vào mắt chúng ta làm phát sinh trong chúng ta những tâm tình như vui, buồn, hoan hỷ, giận dữ, đồng cảm, đồng thuận hay bất bình, phẫn nộ…

Nếu làm thống kê thì con số người không thấy có lẽ là rất ít. Dù không thể đòi hỏi cách tuyệt đối, nhưng thử hỏi trong số những người được gọi là có thấy thì được bao nhiêu phần trăm là thấy đúng sự vật hiện tượng, thấy đúng bản chất của đối tượng như nó là? Mỗi khi đã thấy rõ, thấy đúng thì người ta sẽ dễ có phản ứng chính xác, hợp lý và cả hợp tình. Một nguy hiểm và cũng là vấn đề cần đặt ra, đó là chúng ta chỉ thấy cách phiếm diện, một chiều mà cứ tưởng rằng mình thấy đúng, thấy rõ. Vì thế các phản ứng của chúng ta nhiều khi vừa thiếu chính xác, lại vừa thiếu lý, thiếu tình. Dĩ nhiên với phận phàm hèn, không một ai dám to gan cho rằng mình có thể thấy đúng, chính xác cách hoàn toàn. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể lơ là việc tìm cách để thấy các sự vật, hiện tượng ngày một đúng đắn và chính xác hơn, vì đây là một tiền đề không thể thiếu để có được những phản ứng hợp lý, hợp tình.

“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Câu nói của Chúa Giêsu với anh mù Bactimê trong ngữ cảnh bài Tin mừng đề cập trực tiếp đến thái độ cậy trông của anh Bactimê vào tình yêu và quyền năng của Người. Và thái độ cậy trông ấy được thể hiện bằng việc anh ta cương quyết gặp Chúa Giêsu bất chấp mọi trở ngại. Tuy nhiên câu nói ấy cũng cho chúng ta chiếc chìa khóa giải quyết vấn nạn thấy. Để có thể thấy và thấy đúng thì cần có lòng tin. Chúng ta dễ đồng thuận với nhau về sự thật này nếu chấp nhận rằng tin là nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa. Thế nhưng lại phải tự hỏi với nhau rằng khi nào thì chúng ta đang nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa? Quả thật, để tìm được câu trả lời khả dĩ có tính thuyết phục thì không mấy dễ. Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta biết rằng những ai ở trong ân sủng, tức là có sự kết hiệp mật thiết với Chúa thì sẽ biết cách nhìn như Chúa nhìn. Trong vấn đề này, các nhà tu đức chỉ dạy chúng ta kế sách tuyệt với đó là hãy chuyên chăm cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh này của con, Chúa sẽ thấy sự kiện, vấn đề này ra sao?”. Qua đời sống câu nguyện, nỗ lực kết hiệp với Chúa thì ta sẽ biết nhìn như Chúa nhìn.

Một kinh nghiệm dân gian có thể nói là khá chính xác: “Con chim sắp chết hót tiếng bi ai. Con người sắp chết nói lời lẽ phải”. Để nói được lời lẽ phải, thì người cận kề với cõi đời sau hẳn đã thấy được chân tướng các sự vật hiện tượng cách nào đó. Tin Mừng cho ta hay trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu luôn hướng về cái giờ của Người, đó là giờ mà Người sẽ bỏ thế gian này mà về cùng Cha bằng cái chết trên thập giá. Và đây chính là một trong những chìa khóa giúp Chúa Giêsu nhìn thấy các sự vật hiện tượng theo cái nhìn của Cha trên trời, để rồi có được những cách thế phản ứng thuận ý Cha, đẹp lòng Cha (x.Mt 3,17; Mc 1,11).

Vì sao còn có những phản ứng chưa thấu lý và đạt tình nơi Kitô hữu, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ? Một trong những nguyên nhân đó là vì ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng. Vì sao ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng? Vì ta chưa biết nhìn như Chúa nhìn. Chưa biết nhìn như Chúa nhìn, ngoài những lý do khách quan thì rất có thể vì ta chưa thực sự gắn bó thiết thân với Chúa và cũng ít nghĩ đến cái giờ ta rời bỏ thế gian.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 30 TN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX này có chung một chủ đề: tấm lòng của Thiên Chúa đối với nỗi khốn cùng của nhân loại.

Gr 31: 7-9

Bài Đọc I được trích từ sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vị ngôn sứ ca ngợi tấm lòng ưu ái của Đức Chúa. Ngài đã bày tỏ tấm lòng phụ tử đối với những người lưu đày khi đích thân dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.

Dt 5: 1-6

Thư gởi tín hữu Do thái so sánh Đức Giê-su với vị thượng tế Cựu Ước. Đức Giê-su là vị Thượng Tế Tân Ước thập toàn biết cảm thông những yếu đuối của con người.

Mc 10: 46-52

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã lắng nghe lời khẩn cầu đầy lòng tin của anh mù thành Giê-ri-cô và đã đáp trả ước nguyện của anh.

BÀI ĐỌC I (Gr 31: 7-9)

Bản văn nầy được trích từ chương 31 sách Giê-rê-mi-a. Chương 31 nầy liên kết với chương 30 trước đó để hình thành nên một đơn vị. Đây là một trong những bản văn cảm động nhất mà vị ngôn sứ viết để ca ngợi tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa.

  1. Bối cảnh:

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào khoảng những năm 626-587 trước Công Nguyên. Ông đã chứng kiến những năm tháng bi thương của đồng bào ông dưới gót dày xâm lược của đế quốc Ba-by-lon, nào cảnh nước mất nhà tan, cảnh thành thánh đổ nát và cảnh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoang phế. Đây là thảm họa mà ông có sứ mạng báo trước, nhưng đồng bào ông đã để ngoài tai những lời cảnh báo của ông.

Trước khi những biến cố bi thảm nầy xảy đến, ông đã trải qua một thời kỳ hạnh phúc dưới triều đại của vua Giô-si-gia-hu (522-509 tCn.). Chính vào thời kỳ nầy mà bản văn hân hoan nầy được viết, chủ yếu liên quan đến những dân cư Ga-li-lê và Sa-ma-ri. Vào thế kỷ trước đó, hai miền này đã bị đế quốc Át-sua xâm chiếm và một phần dân cư đã bị dẫn đi lưu đày. Ấy vậy, đế quốc Át-sua trở nên suy yếu và không còn đủ sức bành trướng. Nhờ đó, vua Giô-si-gia-hu mới có thể thực hiện công cuộc canh tân cải tổ toàn diện của mình trên toàn cõi đất nước.

  1. Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a tràn đầy hy vọng. Phải chăng giờ phục hưng Ít-ra-en và thống nhất dân Thiên Chúa đã điểm? Ông mơ ước, ít ra một sấm ngôn bày tỏ niềm mơ ước này được gặp thấy ở chương 30-31. Cùng chung nhịp với tấm lòng của Thiên Chúa, vị ngôn sứ phác họa niềm cảm xúc của Đức Chúa trước cảnh khốn cùng của con cái Ngài (30: 1-11). Chắc chắn Ngài đã trừng trị họ vì những lỗi phạm của họ (30: 11, 15), nhưng Ngài không bao giờ ngừng yêu thương họ “bằng mối tình muôn thuở” (31: 3). Và Giê-rê-mi-a hình dung Đức Chúa kêu mời muôn dân: “Reo lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân tộc đứng đầu chư dân!”. Ít-ra-en được gọi “dân tộc đứng đầu chư dân”, vì dân này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tách riêng ra giữa muôn dân và được Ngài rất mực yêu thương.

“Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn lại của Ít-ra-en”“Số còn lại của Ít-ra-en” là những người đã kinh qua gian khổ của cuộc lưu đày, họ sẽ là chất xúc tác đối với toàn dân Chúa chọn. Cũng danh xưng nầy sẽ được dùng để gọi những người lưu đày ở Ba-by-lon vào thế kỷ sau đó.

  1. Ngày trở về:

“Nầy Ta đưa chúng từ phương Bắc trở về”: Đây là cách nói kinh điển để chỉ ách thống trị của ngoại bang, dù đế quốc Át-sua hay đế quốc Ba-by-lon. “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”. Ngay cả những kẻ yếu nhược nhất, thông thường không thể tự mình trở về, Đức Chúa sẽ an ủi và nâng đỡ để không một ai vấp ngã trên đường, vì Đức Chúa là Người Cha tận tình săn sóc: “Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng”. Tên “Ép-ra-im” được dùng để chỉ toàn bộ các chi tộc phương Bắc và tước hiệu “con trưởng” để chỉ đứa con rất mực yêu dấu.

Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không được thực hiện. Đế quốc Ba-by-lon đã thay thế đế quốc Át-sua. Dân Ít-ra-en phải chịu cảnh đời nô dịch này thay thế cảnh đời nô dịch khác. Vì thế, những viễn cảnh tươi đẹp mà vị ngôn sứ phác họa chỉ được ứng nghiệm sáu mươi năm sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Chính từ những viễn cảnh tươi đẹp này sẽ được ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon, lấy lại và khai triển những đề tài chứa chan hy vọng cho những người lưu đày Ba-by-lon. Tuy nhiên, trong trực giác sâu xa của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị đánh lừa. Khi mô tả tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa: cảm thương thân phận con cái của Ngài, nhân loại vừa tội lỗi vừa đau khổ, vị ngôn sứ đã đem lại cho niềm ước mơ của mình một tầm mức mà chính ông không thể ngờ được, một tầm mức Mê-si-a.

BÀI ĐỌC II (Dt 5: 1-6)

Trọng tâm của Thư gởi tín hữu Do thái là sứ vụ của Đức Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn và trổi vượt vô vàn so với vị Thượng Tế Cựu Ước.

Hai khía cạnh chủ yếu tiêu biểu chức tư tế: một mặt, vị Thượng Tế nào cũng là người được chọn trong số phàm nhân; mặt khác, ông là người của Thiên Chúa, người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của hai khía cạnh nầy, tác giả đối chiếu tấm lòng biết cảm thông với con người yếu đuối và tội lỗi giữa vị thượng tế Cựu Ước và Đức Ki tô, vị thượng tế Tân Ước.

  1. Vị thượng tế Cựu Ước:

Tác giả nhấn mạnh những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế Cựu Ước: là một con người như bao nhiêu người khác, ông chia sẻ những yếu đuối của con người; ông lại càng cảm thông hơn nữa với những tội lỗi của họ bởi vì chính ông cũng là một tội nhân: “Mà vì yếu đuối, nên ông phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy”. Không ai có thể tự phong cho mình là người của Thiên Chúa, nhưng phải lãnh nhận chức vị nầy từ chính Thiên Chúa. Thật ra, chức thượng tế Cựu Ước là một chức vụ cha truyền con nối. Thiên Chúa đã chọn ông A-ha-ron một lần cho tất cả, bao gồm hậu duệ của ông (Xh 28: 1 và Lv 18: 1-13).

  1. Đức Ki tô, vị Thượng Tế Tân Ước:

Tác giả sẽ đối lập vị Thượng Tế biết cảm thông của Cựu Ước với Đức Ki tô, vị Thượng Tế biết cảm thương của Tân Ước. Ông tiến hành theo trật tự đảo ngược khi bắt đầu gợi lên lễ tấn phong của Đức Ki-tô với hai đặc tính biệt phân: trước hết, Đức Ki-tô là một vị Thượng Tế có phẩm chất khôn sánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa; thứ nữa, Đức Ki-tô là vị Thượng Tế không theo phẩm trật A-ha-ron, nhưng theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.

Khi bắt đầu gợi lên tính siêu việt của chức tư tế Đức Ki-tô, tác giả thư gởi tín hữu Do thái lưu ý rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế biết cảm thông tuyệt vời vì Ngài là Đấng Trung Gian trực tiếp lòng xót thương của Thiên Chúa. Chức tư tế độc nhất vô nhị của Đức Ki-tô diễn tả một chuyển động từ trên xuống: tấm lòng Phụ Tử của Thiên Chúa đối với con người.

Quả thật, chính từ sáng kiến của Chúa Cha mà Chúa Con nhận được lễ tấn phong của mình. Tác giả trích dẫn Tv 2 để làm chứng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Thánh Vịnh nầy là một trong những Thánh Vịnh phong vương. Thời quân chủ Đa-vít, vào ngày lễ phong vương, vị tân vương được công bố là Thiên Tử. Tước hiệu Thiên Tử của vị tân vương là biểu tượng, còn tước hiệu Thiên Tử của Đức Ki-tô mới là đích thực. Tước hiệu Thiên Tử của Chúa Giê-su không chỉ hàm chứa biến cố Nhập Thể (“Cha đã sinh ra con”) nhưng còn tính cách vương đế của Ngài. Đức Ki-tô vừa là vương đế vừa là thượng tế, như vậy làm trọn niềm ước mơ Mê-si-a.

  1. Vị Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê:

Đức Giê-su không thuộc chi tộc Lê-vi, vì thế, Ngài không thể tự nhận mình là thượng tế theo luật Mô-sê. Chức tư tế của Ngài thuộc phẩm trật khác, phẩm trật Men-ki-xê-đê. Men-ki-xê-đê là một nhân vật huyền nhiệm mà sách Sáng Thế nói về ông (14: 18-20). Ông vừa là “vua thành Sa-lem” (thành Giê-ru-sa-lem tương lai) vừa là “tư tế của Thiên Chúa Tối Cao”. Chính ông đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và đại diện vị tổ phụ, tiến dâng bánh và rượu lên Thiên Chúa. Còn ông Áp-ra-ham thì biếu tặng cho “con người của Thiên Chúa” nầy một phần mười chiến lợi phẩm của mình.

Truyền thống đối lập chức thượng tế A-ha-ron với chức thượng tế Men-ki-xê-đê. Chức thượng tế Men-ki-xê-đê thì không giới hạn, không lai lịch, muôn đời, có nguồn gốc thiên giới. Chính ở nơi mẫu thức chức thượng tế Men-ki-xê-đê nầy mà Tv 110 quy chiếu đến: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110: 4). Thánh Vịnh này, cũng là một Thánh Vịnh phong vương, loan báo vị thượng tế lý tưởng trong tương lai, vì thế, Thánh Vịnh nầy cũng mang một cung giọng Mê-si-a. Những sấm ngôn nầy được ứng nghiệm nơi Đức Ki-tô, Ngài là vị Thượng Tế biết cảm thông với những yếu đuối và tội lỗi của con người và Ngài là Đấng Trung Gian muôn đời bên cạnh Chúa Cha.

TIN MỪNG (Mc 10: 46-52)

Việc chữa lành anh mù thành Giê-ri-cô được cả ba sách Tin Mừng nhất lãm thuật lại (tại Mát-thêu, có đến hai người mù được chữa lành). Câu chuyện nầy có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì nó đóng chức năng như bản lề giữa lời loan báo thứ ba về cuộc Thương Khó và cuộc khải hoàn của Đức Giê-su vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.

  1. Bối cảnh:

Chúa Giê-su rời thung lũng sông Gio-đan và trực chỉ tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem, băng qua thành Giê-ri-cô. Chính ở thành Giê-ri-cô nầy mà vào thời điểm lễ Vượt Qua những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại trước khi cùng nhau lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng hai mươi sáu cây số. Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài cùng với đám đông đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Vì thế, việc thánh ký ghi nhận “Đức Giê-su cùng với đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-cô” phù hợp với khung cảnh của khách hành hương trước đại lễ Vượt Qua.

  1. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô:

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô được mô tả rất sinh động và ngoạn mục. Mọi người đang lũ lượt kéo nhau đi trong khi anh ngồi mà lại ngồi một mình bên vệ đường. Tư thế này diễn tả cảnh ngộ của anh, anh hoàn toàn bị gạt ra ngoài cuộc sống, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang nhộn nhịp lên đường lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, anh không cam chịu số phận bị khai trừ của mình. Anh lắng nghe dư luận quần chúng, nhờ đó biết rằng Đức Giê-su đang đi qua đây; vì thế, lòng anh tràn đầy hy vọng. Chắc chắn anh đã nghe nói về việc ông Giê-su Na-da-rét nầy đã mở mắt cho nhiều người mù. Vì thế, anh kêu to và bạo dạn gọi Đức Giê-su là “Con vua Đa-vít”, tước hiệu của Đấng Mê-si-a mà dân chúng từ lâu mong đợi (2Sm 7: 1-17). Nhiều người quát nạt bảo anh im đi. Đám đông trở nên chướng ngại ngăn cản anh đến với Đức Giê-su. Nhưng mặc kệ, không chịu thua cuộc, anh mù lại càng kêu gào hơn nữa át cả những lời quát tháo ngăm đe của đám đông để làm thế nào lời kêu cứu của anh đến được với Đức Giê-su.

Đức Giê-su cứ để mặc anh mù kêu to tước hiệu Mê-si-a mà không đòi buộc anh phải im lặng như trước đây nữa. Thời kỳ nầy đã qua, thời Ngài đã cố giữ mầu nhiệm chung quanh con người của Ngài để tránh những giải thích sai lạc về sứ vụ Mê-si-a của Ngài. Giờ đây, Ngài đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường mặc khải tuyệt mức sứ vụ Mê-si-a của Ngài ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh. Giờ của sự thật đã điểm. Chẳng bao lâu nữa dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô Ngài dưới tước hiệu nầy.

  1. Đức tin của anh mù thành Giê-ri-cô:

Đức Giê-su không thể nào làm ngơ trước những tiếng kêu đầy niềm tin của anh mù thành Giê-ri-cô nầy được, vì thế, Ngài dừng bước và ra lệnh: “Gọi anh ta lại đây!”. Một lần nữa, Đức Giê-su biểu lộ cho thấy Ngài muốn liên lụy đến những kẻ mà người ta khăng khăng muốn khai trừ, loại bỏ. Đám đông tức khắc thay đổi thái độ từ ác cảm sang thiện cảm khi khuyến khích anh mù: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.

Khi được Đức Giê-su gọi, “anh mù liền vất áo choàng lại”. Trong Kinh Thánh, y phục không chỉ để che thân nhưng nhất là tượng trưng cho nhân cách người mặc nó. Khi “vất áo choàng”, anh vất thân phận bị khai trừ của mình. “Áo choàng” cũng là của cải duy nhất mà người nghèo có (Xh 22: 25-26); đối với anh hành khuất mù này, áo choàng còn là phương tiện sinh sống, bởi vì người mù thường trải chiếc áo choàng ra trước mình để đón nhận của bố thí. Khi vất áo choàng, anh đã bỏ tất cả những gì anh có mà đến với Đức Giê-su. Đây đúng là lời đáp trả mà Đức Giê-su đã mong đợi nhưng không gặp thấy ở nơi chàng thanh niên giàu có. Anh “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” trong khi mắt vẫn mù, thì đúng là thái độ của đức tin.

Khi diện đối diện với anh mù, Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Dĩ nhiên, Đức Giê-su biết rõ ước muốn của anh, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng sự tự do của những người đến gặp Ngài, vì thế Ngài muốn anh phải tự mình nói lên ước nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Tác giả sách “Hạt Giống Nẩy Mầm” viết: “Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu trong cộng đồng của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con đường mà họ phải sống và đi theo Người. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải sống như thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh Ba-ti-mê để cầu xin với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin cho con được thấy’”.

  1. Anh mù đón nhận nhiều hơn điều anh mong chờ:

 “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Lời của Đức Giê-su mặc lấy một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với đám đông vây quanh. Lệnh truyền “Anh hãy đi” hàm chứa một sứ mạng. Thay vì “lòng tin của anh đã chữa lành anh”, Đức Giê-su lại nói với anh: “lòng tin của anh đã cứu anh!”, nghĩa là, nhờ đức tin, Đức Giê-su không chỉ cứu chữa anh khỏi đôi mắt mù lòa của thể xác, mà còn ban cho anh ơn cứu độ mà Ngài đem đến nữa.  Như vậy, anh mù không chỉ được sáng mắt mà còn sáng cả cõi lòng trước sứ điệp Tin Mừng.

Câu chuyện kết thúc với lời đáp trả tích cực của anh: “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Con đường mà Đức Giê-su đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường dẫn Đức Giê-su đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh. Đó cũng là con đường mà anh mù Ba-ti-mê vừa được sáng mắt đi theo Ngài để được dự phần vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Như vậy, câu chuyện kết thúc với việc ghi nhận rằng anh mù Ba-ti-mê được sáng mắt trở thành người môn đệ lý tưởng của Ngài, và chắc chắn vì lý do đó mà tên anh vẫn được truyền trong ký ức của các Ki-tô hữu tiên khởi.

Như vậy, câu chuyện anh mù thành Giê-ri-cô là dịp làm chứng về một đức tin năng động và kiên vững tương phản với tâm trí u mê mù tối của các Tông Đồ trước ba lần loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy. Câu chuyện nầy cũng đã đánh dấu việc vén mở bí mật Mê-si-a, chuẩn bị cho việc dân chúng hân hoan đón tiếp Ngài vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Một lần nữa, chúng ta thấy nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của thánh Mác-cô. Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Mác-cô là người kể chuyện với nhiều chi tiết sinh động nhất và phong phú nhất.

Về mục lục

.

SÁNG NIỀM TIN

Lm. Jos. DĐH.

Cầu được ước thấy, xin một cho mười, xin vật chất, cho cả tinh thần, xin được yêu thương, cho cả hạnh phúc, thoáng nghe, không khác gì chuyện giả tưởng. Khuynh hướng tự nhiên, nghe chuyện tiếu lâm, chuyện phiếm, người ta dễ vui cười hơn chuyện bi ai. Thực tế lại cho thấy nếu tâm trạng thoải mái, gia đình bình an, hạnh phúc, là người ta vui, và có thể tự tin cười nhỏ cười to được rồi. Không phải đợi đến lúc đói lả, người ta mới cần ăn, cần uống. Chẳng ai áp đặt phải có đèn cao áp, có mặt trời toả rạng, mới xua tan được bóng đêm sợ hãi. Tương quan giữa cha mẹ con cái, không ai quy định phải có bao nhiều tài sản, mới cần báo đáp ơn nghĩa cha mẹ, hay phải trung thành phụng dưỡng mấy năm mới được gọi là con thảo con hiếu.

Cổ nhân có câu: người đã biết nuôi chí thì không nghĩ tới hình. Một trong những nét đẹp của lòng nhân ái là tự do sống lý thật tình ngay, ý thức mình phải chung tay góp sức xây dựng gia đình giầu mạnh. Người mù tên Bartimê đã minh chứng anh không hề ở trong tăm tối mù mịt, dù ngày ngày ngồi bên vệ đường chờ của bố thí nuôi thân, anh vẫn đủ sáng suốt tuyên xưng Đức Giêsu là con vua Đavít, Đấng thiên hạ hằng trông đợi. Cũng như biết bao người bình thường khác, chúng ta hôm nay đang ước mơ hay đang tìm kiếm hạnh phúc ? Lúc này Đức Giêsu xuất hiện, chúng ta sẽ xin ơn thông sáng, xin lòng thương xót, hay chúng ta chưa nghĩ ra nhu cầu cần thiết để xin ?

Tiền nhân chúng ta gợi lên một lý lẽ vô cùng khúc triết: Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên. Niềm tin là một động lực giúp người ta sống giây phút hiện tại, chuẩn bị bước tiếp những bước kế tiếp ở tương lai. Niềm tin chính là sức mạnh nội tại, khai thông mọi bế tắc, hoà hợp giữa lý và tình trong tương quan tin yêu. Tại thành Giêricô năm xưa, cơ hội cho dân thành, cho từng hoàn cảnh, nhưng niềm vui rõ nhất, phép lạ đặc biệt nhất, cũng là niềm tin sáng rõ nhất nơi anh mù Bartimê, được Đức Giêsu thực hiện. Ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn điện, là thứ ánh sáng phổ thông, nhằm giúp người ta bước đi không sợ vấp té. Thứ ánh sáng kỳ diệu và cần thiết mà nơi anh mù Bartimê, Đức Giêsu đã khai mở, đã cho chúng ta biết chính Ngài là sự sáng niềm tin ban ơn cứu độ.

Sở hữu được ánh sáng ban ngày, ban đêm, cảm nhận được nhiều khuôn mặt xinh đẹp, thấu biết được người tài trí, giầu sang, chức quyền, cả người xưa và người hôm nay vẫn chưa thể coi đó là hạnh phúc thật ! Ánh sáng tự nhiên là thứ ánh sáng giúp người ta phân biệt đẹp xấu, cũ mới, dơ bẩn, sạch sẽ. Ánh sáng niềm tin chất chứa sự bình an tâm hồn, giúp ta cảm nhận mình được yêu, thôi thúc ta biết thực thi đức ái, và hướng ta tới hạnh phúc thật trong Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót. Đối tượng của Đức Giêsu tại trần thế này không phải là người mù, người què, câm điếc hay kẻ nghèo đói, Ngài chiếu sáng niềm tin cho cả thành phần thông thái, tội lỗi, đạo đức. Mỗi người cần nghiêm túc nhận biết mình là ai, đang cần gì, chính nhờ ánh sáng niềm tin, chúng ta mới đủ mạnh dạn thưa: “hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót con”.

Danh hoạ Leonardo da Vinci có câu: khi tâm hồn không hợp tác với đôi tay, không thể có nghệ thuật. Khi người kitô hữu không sống niềm tin, việc mến Chúa yêu người và đến nhà thờ cũng chỉ là lý thuyết, giả tạo. Nếu chỉ lập lại lời thưa: “xin Thầy cho con được sáng”, nhiều người sẽ nói tôi đã thưa, tôi đã xin điều đó từ khi còn trẻ. Đức Giêsu không hỏi anh mù có thật lòng muốn được sáng, hay muốn được tiền của, Ngài đã nói cho đám đông hôm đó cùng nghe: “được, đức tin của anh đã cứu chữa anh”. Nói theo ngôn từ hôm nay, anh Bartimê được “cả chì lẫn chài”, dù anh ta chỉ mơ ước được xem thấy, Đức Giêsu đã cho anh ta sáng cả niềm tin, và anh ta đã sống tin yêu theo Ngài làm môn đệ.

Câu hỏi và câu trả lời giữa Chúa Giêsu và anh Bartimê không có gì phức tạp, nhu cầu được xem thấy của bệnh nhân và khả năng chữa trị của thầy thuốc, theo công bằng là tiền trao cháo múc, hoặc ăn có mời làm có khiến. Tình yêu và ơn cứu độ là sứ mạng Chúa Giêsu mời gọi tất cả cùng hiệp thông, nhận lãnh ; nén bạc, hoàn cảnh, mỗi người tuy khác nhau, phần vinh phúc có Chúa làm gia nghiệp sẽ không thay đổi. Người ta không thể trồng cây ở nơi thiếu ánh sáng, thì cũng chẳng ai nuôi dạy trẻ chỉ một chút ít nhiệt tình. Ánh sáng mở mắt người mù tối là nhu cầu thiết thực, thì sự sáng niềm tin là điều kiện không thể thiếu giúp ta tự giác trở nên nhỏ bé, biết thân thưa: “lạy Đức Giêsu Kitô xin thương xót con”. Đức Giêsu vẫn đang hỏi từng người chúng ta: “anh muốn Tôi làm gì cho anh” ? Ngài cần chúng ta minh chứng bằng ánh sáng của niềm tin, cho dù ta không câm điếc thể lý, niềm tin chúng ta vẫn cần lớn lên và rạng rỡ trong tình mến yêu cậy trông. Amen.

Về mục lục

.

XIN CHO CON NHÌN ĐƯỢC

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Chuyện chúa Giêsu chữa sáng mắt người mù thành Bethsaida (Mc 8:22-26), và người ăn mày Bartimaeus (Mc 10:46-52) trên đường rời Jericho là những chuyện quá rõ ràng ở thời Giáo Hội sơ khai ai cũng biết. Nhưng trong Giáo Hội ngày nay, câu chuyện lại có những ý nghĩa đặc biệt khác.

Mù bẩm sinh hay vì bệnh tật, chấn thương không cần chữa trị mà người bệnh vẫn có lại được thị giác, nhìn được sự vật một cách bình thường thì đúng là phép lạ, y khoa hiện đại không thể hiểu nổi.

 THEO CHÚA ĐI VÀO JERUSALEM ĐẾN TẬN CHÂN THÁNH GIÁ

Tên người ăn mày mù được chúa Giesu chữa lành mắt (Mc 10:46-52) thực ra không phải là Bartimaeus, mà chỉ là ám hiệu anh ta là “con trai  ông Timaeus”. Câu chuyện Bartimaeus là trọng điểm Tin Mừng Mac cô (Mc 8:22-10:52). Chúa Giêsu bắt đầu hành động ở thành Bethsaida và chữa sáng mắt một người mù khác (Mc 8:22-26). Cả hai chuyện này cho thấy phép lạ chúa làm, không chỉ liên quan đến việc phục hồi thị giác  mà còn nói lên lý tưởng cao cả của người môn đệ. Bartimaeus đến không phải chỉ để nhìn và tin vào chúa Giêsu, nhưng còn “đi theo Người trên đường về Jerusalem,….đến tận chân Thập Giá(Mc 10:52).

Câu chuyên Mac Cô kể cũng tương tự như chuyện hai người mù trong Tin Mừng Mathiêu (Mt.20:29-34) và Luca (Lc 18:35-43) lúc chúa Giêsu vào thành Jericho, nhưng hai thánh sử  này không nêu tên của người mù.

Qua câu chuyện Mac cô kể, ta thấy Chúa Giêsu đã làm một cuộc hành trình dài và gian khổ từ Bắc Galilée đổ xuống thung lũng phì nhiêu của sa mạc rồi lại trèo lên vùng đồi núi hiểm trở Judea để vào Jerusalem.

 TIN THÌ SẼ ĐƯỢC

Khi Chúa Giêsu vừa ra khỏi Jericho, Bartimaeus nghe thấy tiếng xôn xao của đám đông, thì cảm thấy cơ may của mình đã gần. Anh quyết không để mất cơ hội hiếm có này! Từ  lề đường, anh kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giêsu, con Vua David, xin thương đến tôi !” Một vài người đang vây quanh Chúa lúc đó cảm thấy bực mình, vì tên ăn mày dơ dáy đã quấy rầy thầy mình, bèn quát anh ta, biểu ‘câm miệng lại’.

Tên ăn mày này đã quấy rầy, làm bực mình gì nhỉ?  Bartimaeus đơn giản chỉ muốn mọi người hiểu là anh ta có quyền được nhìn thấy Chúa và tham gia vào cảnh chung vui cùng Chúa. Nếu những người trong đám đông đó đã nghe tiếng đồn về quyền năng làm phép lạ của Chúa thì tại sao họ lại không tử tế với tên ăn mày kém may mắn này là đem hắn lại với Chúa để Chúa chữa lành mắt cho hắn?

Cuối cùng Bartimaeus đã được toại nguyện. Khi nghe thấy lời kêu cầu của tên ăn mày, chúa Giêsu đã không từ chối lời cầu của anh, phá vòng vây các môn đệ và gọi người ăn mày, thì anh ta liền vất bỏ áo ngoài, bước lại gần Chúa.

– Anh muốn tôi làm gì cho anh? Chúa hỏi người ăn mày mù.

– Thưa Thầy, xin Thầy cho tôi được nhìn thấy. Anh ta trả lời.

Ngay lúc đó anh ta liền nhìn thấy được mọi sự. Cái nhìn của anh lúc này không phải chỉ bằng con mắt trần, nhưng với tất cả tâm hồn. Đây là điều rất quan trọng. Dù Bartimaeus mù, không nhìn thấy nhiều điều, nhưng nay anh đã thấy và đã biết chúa Giêsu là ai. Việc “Nhìn biết chúa Giêsu là ai” chính là chủ đích của niềm tin. Nó dẫn chúng ta đến với Chúa và trở thành tín hữu, môn đệ của Chúa. Kết thúc câu chuyện, Bartimaeus -sau khi có lại thị giác- đã lên đường theo Chúa Giêsu. Thánh Mac cô chỉ kể lại là anh ta theo Chúa đi vào Jerusalem, nhưng chúng ta có thể hiểu chắc chắn là Bartimaeus đã theo Chúa tới tận chân Thánh Giá.

 Ý NGHĨA NGỤ NGÔN NGƯỜI MÙ: THẤY VÀ TIN

Cảm thông  nỗi cô đơn của những kẻ bị người đời hất hủi chính là đặc thù của công tác mục vụ của chúa Giêsu. Những câu chuyện về phép lạ, chữa lành bệnh được kể lại trong Phúc Âm không đơn giản chỉ là lật ngược lại một bất toàn về thể xác. Trong câu chuyện “người mù nhìn được”, chúng ta thấy có một liên đới rõ ràng giữa hai tác động “Nhìn Thấy và Tin”.  Phép lạ Chúa làm đã giúp người được khỏi bệnh tăng niềm tin của mình hơn cả mức độ lành bệnh thể xác.

Các môn đệ của Chúa đã không có được một viễn kiến đúng mức. Chúng ta cũng vậy. Qua những câu chuyện ngụ ngôn người mù, chúng ta mới thấy chúng ta thiếu sót  trong việc tìm hiểu ý nghĩa những đau khổ mà chúng ta phải chịu. Chúng ta nhìn nhưng như mù không còn khả năng nhận thức sự việc một cách chính xác, giống như  nhìn cánh rừng mà không để ý đến cây để hiểu rằng chính cây đã làm nên cánh rừng. Đây chỉ là một cách phân tích đơn giản mà thôi. Sâu xa hơn là chúng ta coi tật mù của chúng ta là tất nhiên, và không cần tìm hiểu gì hơn nữa. Tính kiêu căng, tự cao tự đại chính là nguồn gốc của mọi mù lòa. Chúng ta cần có phép lạ để điều chỉnh lại nhãn quan của chúng ta.

Vậy thì, những khía cạnh nào của Giáo Hội, của xã hội và của vền văn hóa  trong thời đại chúng ta hiện nay cần phải điều chỉnh, sửa đổi và canh tân? Đâu là điểm mù lòa của chúng ta? Đâu là những bất toàn chính yếu của những cái nhìn thiển cận và  xa vời? Chúng ta có ưa độc thoại hơn là đối thoại, thích phản đối hơn học hỏi nơi người khác dù họ đối nghịch hoặc bất đồng với  ta? Chúng ta có thích tẩy chay hơn là tham gia vào những sinh hoạt ở chung quanh ta không?  Chúng ta có thường xuyên bực bội, tức giận, ngoan cố và hẹp hòi như hiện nay không? Chúng ta có thường nói chẳng ai có nhận xét, phán đoán và xác định  bằng chúng ta? Chỉ có ta là đúng!

Chúng ta có hành sử như những người đã ngăn cản tên ăn mày không cho hắn gặp Chúa không? Vì ngạo mạn, hỗn xược, độc tài, thích chỉ trích của chúng ta, chúng ta có dám đem bạn bè, đồng nghiệp và những người chúng ta không ưa hay ghét bỏ đến trước mặt Chúa không? Tại sao chúng ta không làm được như vậy, khi chúng ta biết đời chúng ta sẽ thế nào nếu không có Chúa Kitô ?

 LỜI KẾT: HÀN GẮN, SỬA ĐỔI VÀ CÁCH NHÌN

Lấy một thí dụ, phá thai là một vết thương trầm trọng nhất, ảnh hưởng không những cá nhân người phụ nữ / người mẹ và gia đình họ là nguồn cung cấp nơi trú ngụ cho thai nhi, mà còn ảnh hưởng đến cả một xã hội và nền văn hóa họ đang sống, bởi vì chính người dân  là những người tạo dựng  nên xã hội và bảo vệ  xã hội. Đức thánh cha Biển Đức XVI, dịp khai mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế giới tại Sydney, Úc Châu ngày 17-7-2008 đã nói về việc bảo vệ sự sống như sau:

“…Và vì vậy, chúng ta cần phải suy nghĩ xem những người nghèo và người già, người di dân và những người không có tiếng nói, họ đứng ở vị thế nào trong xã hội chúng ta.  Phải chăng là những bạo động trong gia đình đang hành hạ những người vợ, người mẹ và con cái ? Phải chăng bụng người mẹ là vùng không gian thánh nhưng đầy kinh dị của con người đã trở thành nơi bạo hành ghê gớm nhất, không giấy mực nào diễn tả hết được?”

Giáo Huấn Công Giáo đã dạy: “con người và nhân phẩm là thánh thiêng không ai có quyền xâm phạm”. Chúng ta phải có cái nhìn hoàn hảo về điều mà chúng ta phải cố gắng làm hàng ngày nếu chúng ta tuyên nhận chúng ta là người “Phò Sự Sống”.

Chống đối phá thai và rút ống thở cũng như chúng ta không được thờ ơ trước cảnh thống khổ của người nghèo, cảnh bạo động và bất công trong xã hội. Chúng ta phải nhìn tổng quát vấn đề rồi phân tích, không thể hời hợt và khiếm diện được.

Phò sự sống là chống lại bất cứ cái gì đi ngược lại sự sống con người, như giết người, ám sát, hủy giệt sự sống, phá thai, rút ống thở hoặc tự hủy hoại mình…Chúng ta thẳng thắn chống lại bất cứ cái gì gọi là vi phạm phẩm giá con người như phá hủy một phần thân thể, làm tổn thương/hành hạ thể xác hoặc tinh thần, cố tình tuyên truyền ảnh hưởng ý muốn của người khác, bất cứ cái gì xúc phạm đến nhân phẩm, chẳng hạn như  điều kiện sống dưới tiêu chuẩn, bắt bớ giam cầm người trái phép, trục xuất người, bắt làm nô lệ, làm gái mãi dâm, buôn người, buôn đàn bà trẻ nít, và những điều kiện làm việc ô nhục trong đó con người chỉ là dụng cụ sản xuất, không phải là con người tự do và có trách nhiệm. Tất cả những điều đó và còn nhiều hơn nữa đang hủy hoại sự sống và đầu độc xã hội loài người.

Đức Hồng Y Tổng Giám mục Boston Sean O’Malley mới đây đã viết: “Khả năng thay đổi lòng người của chúng ta và giúp cho họ hiểu biết phẩm giá mạng sống con người từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết có liên hệ trực tiếp đến khả năng thăng tiến tình yêu và hiệp nhất trong Giáo Hội, bởi vì việc tuyên xưng Sự Thật của chúng ta bị cản trở khi mà chúng ta chia rẽ và đánh phá lẫn nhau.”

Phò sự sống là một trong những phương cách biểu lộ xâu đậm nhất của Bí Tích Thanh Tẩy: Chúng ta dám đứng lên vì chúng ta là con cái sự sáng, chúng ta có lòng bác ái, lại khiêm nhường và đầy xác tín, dám nói sự thật một cách mạnh mẽ và  cương quyết trước cường quyền mà không bao giờ để mất niềm vui và hy vọng.

Phò sự sống không phải là hoạt động vì đảng phái chính trị hay một khía cạnh đặc biệt nào đó của một trào lưu. Nó là bổn phận của tất cả mọi người, dù ở bên tả, hay bên hữu hoặc trung lập. Nếu chúng ta phò sự sống, chúng ta phải tham gia tích cực vào nền văn hóa sự sống ở chung quanh ta, không nên coi thường và chê bai nó. Chúng ta nhìn tha nhân như Chúa Giêsu nhìn và, chúng ta phải yêu mến sự sống của mọi người, ngay cả sự sống của những người đối nghịch với ta.

Khi chúng ta ý thức được những vấn đề làm cho ta bị mù quáng, không nhận biết ra Chúa, đồng thời làm tê liệt khả năng hành động hữu hiệu của chúng ta, thì hãy cầu khẩn Chúa xin Người chữa lành chúng ta !  -“Lạy Chúa, xin cho con  được nhìn thấy.”  Và, khi thị giác của chúng ta đã được điều chỉnh, chúng ta hãy đứng dậy và vui vẻ bước theo Chúa trên bước đường hướng về Vương Quốc Nước Trời.

KINH CẦU CHO ĐƯỢC SÁNG MẮT

Origen (185-253) NTC chuyển ngữ.

 

Lạy Chúa Giêsu,

Xin hãy chạm mắt tôi tớ Chúa,

Như Chúa đụng mắt người mù.

Chúng con sẽ thấy tỏ rõ…

  … mọi sự hữu hình và vô hình.

Xin Chúa hãy mở rộng mắt tôi tớ Chúa,

Để chúng con ngắm nhìn…

…Không phải thực tế bây giờ,

Nhưng là ơn phúc Chúa ban sắp tới.

Xin Chúa hãy mở mắt tâm hồn tôi tớ Chúa

Để chúng con chiêm ngưỡng Chúa…

Trong Chúa Thánh Linh,

Qua Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa

Đầy quyền năng và vinh hiển muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU, ĐẤNG KHAI SÁNG

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Người ta thường nói “đôi mắt” là cửa sổ của tâm hồn. Nếu chúng ta nhìn đời bằng đôi mắt màu hồng thì tràn đầy hạnh phúc, bằng ngược lại thì trước mắt ta là cả một bầu trời đen tối. Theo một thống kê đầu năm 2018, ước tính vào năm 2020 thế giới sẽ có khoảng 11,2 triệu người có đôi mắt mù loà do bệnh. Mù đôi mắt nói lên tình trạng khổ cực, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bên cạnh cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của sự mù loà tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh mà trang Tin Mừng hôm nay đề cập tới.

Thưa anh chị em, trong quan niệm của người Do thái thời bấy giờ, bệnh tật và mù loà là hậu quả của tội. Quan niệm này đã xua đuổi người mù ra ngoài lề xã hội. Chính vì thế,  khát vọng thâm sâu của anh mù Bartimê được bộc lộ ngay trong lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Anh không xin tiền, không xin bánh, nhưng xin sáng mắt để được thấy. Anh xác tín rằng, mù mắt đưa con người vào tình trạng đau khổ tột cùng không chỉ dừng lại trên thân xác nhưng còn xoáy sâu vào trong tâm hồn. Chúa Giêsu, Đấng khai sáng cho anh. Người nói: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn nhìn ra con đường phải đi, công việc phải làm và có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Còn một thứ mù loà khác đáng thương hơn mà Chúa Giêsu đã có lần mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Đây là tai họa của trí năng, của tâm hồn: thứ mù loà này làm cho con người nhìn thấy cái rơm, cái rác của người khác, còn cái xà trong mắt mình lại không thấy. Những người bị mù loà thể xác còn có hy vọng chữa trị được, họ thường được người khác yêu thương, giúp đỡ. Còn những người mù tâm hồn, họ mù nhưng không chấp nhận mình mù, không những khó chữa mà hậu quả của nó là huỷ diệt chính mình và bị người khác tránh xa ghét bỏ.

Có một câu chuyện kể rằng, một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Câu chuyện trên cho thấy thân phận bi đát của người mù. Mù thể xác đã thế, mù tâm hồn còn đáng thương hơn. Ngày nay trước những khám phá kỳ diệu của khoa học kỹ thuật, con người hiện đại lại đang bị mù tối trong tâm hồn vì kiêu căng, tự mãn, không chấp nhận sự hiện hữu của Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng: khoa học càng khám phá ra những điều kỳ diệu lại càng chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa trong vũ trụ, vạn vật. Vì thế, chúng ta hãy bắt chước anh mù Bartimê đặt niềm tin vào Chúa và vào lòng thương xót của Người. Xin Người khai sáng và mở mắt tâm hồn chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tình yêu và bình an của Người.

“Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt. Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi. Con mù lòa, bên vệ đường hành khất. Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài”. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm. Antôn

Phải nói rằng trong chuyến hành hương Đất thánh vừa qua, tôi đã nhớ đến và cầu nguyện cho tất cả mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ. Tôi cám ơn Chúa đã cho tôi có cơ hội đến viếng thăm nơi Chúa đã sinh ra, sống, chết và sống lại, và Giáo triều Rô-ma. Cuộc hành hương này làm cho đức tin của tôi vững mạnh thêm. Cuộc hành hương Đất thánh có 2 phần.  Phần thứ nhất ở khu vực Giê-ru-sa-lem và tôi có dịp viếng thăm và dâng Thánh lễ ở những nơi như hang động nơi Chúa sinh ra, nơi Chúa chịu thương khó và chết cho nhân loại.  Tôi có dịp đi đàng Thánh giá trên con đường năm xưa mà chính Chúa đã vác thập giá trên con đường dốc đến đồi Can vê để chịu chết. Như chúng ta đã biết, Chúa đã bị đánh đòn và ngã xuống đất nhiều lần vì đau đớn và khó nhọc. Ngày nay, họ đã xây và lót gạch, nhưng vào thời xưa đây là con đường sỏi đá. Thật sự tôi cảm nghiệm được vì yêu thương và muốn cứu rỗi chúng ta, cho nên Chúa đã hy sinh vác thập giá là tội lỗi của nhân loại chúng ta. Tôi được đến thăm nơi Chúa thương khóc dân thành Giê-ru-sa-lem vì cứng đầu và từ chối ân sủng của Chúa đem đến, nơi Tông đồ Phê-rô đã chối Chúa ba lần, cũng như nơi Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh thể và Chức Thánh, và sau đó chiêm ngưỡng con đường Chúa đã bị lôi đi đến dinh Cai-pha và Hê-rô-đê. Rồi tôi được đến tắm tại Biển Chết.

Phần thứ hai tại Đất Thánh, tôi được viếng thăm Na-za-rét nơi Chúa được sống trong tình yêu thương của Thánh Cả Giu-se và Mẹ Maria, cũng như hội trường nơi Chúa thường đến để thờ phương và giảng dạy.  Trong những ngày kế tiếp, tôi đi thăm biển hồ Tiberia nơi Chúa sống với các Tông đồ và làm nhiều phép lạ, cũng như đến hang động Chúa đã cầu nguyện.  Tiếp đến, tôi đi thăm viếng đề thờ Thánh Giu-se, dâng giáo xứ và mọi gia đình lên cho Thánh Cả để Ngài gìn giữ che chở như Ngài đã gìn giữ che chở Đức Maria và Chúa Giê-su.  Tôi đã đến thăm nơi Chúa làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu để giúp cho đôi tân hôn qua khỏi sự khó khăn, và cũng nơi đây tôi cầu nguyện xin Chúa ban ơn lành cho các gia đình trong giáo xứ luôn yêu thương, hòa thuận và trung thành với giao ước hôn nhân.

Sau đó, tôi đáp máy bay đến thăm Giáo đô Rô-ma nơi có rất nhiều nhà thờ, trong đó có nhà thờ của Đấng đáng kính Hồng y Phan-xi-cô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.  Chúng ta biết, tại Rô-ma này có rất nhiều dấu tích của những vị thánh, những người như chúng ta, đã sống Lời Chúa và làm chứng cho Chúa.  Nhiều người đã chịu bắt bớ, giam cầm, hành hạ cho đến chết vì Chúa Ki-tô.  Vì thế, đã sinh ra hoa trái tốt là những người tin vào Chúa, những người có lòng bác ái và quảng đại.  Họ đã giúp Giáo hội xây những nhà thờ to lớn và kiên cố để thờ phượng, nhất là làm sáng danh Chúa, và để lại những bằng chứng về lòng xác tín của họ cho chúng ta ngày nay.  Và cũng nơi đây, tôi cảm nghiệm được lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội của họ, và lòng hy sinh, bác ái và quảng đại, cũng như công sức và lòng hy sinh phục vụ của họ.

Đây là vài dòng vắn tắt kể lại cho ông bà anh chị em về cuộc hành hương Đất Thánh và Giáo đô của Giáo hội Công giáo chúng ta, với niềm hy vọng nhỏ nhoi là tăng thêm lòng xác tín của chúng ta vào Chúa, để chúng ta can đảm sống Lời Chúa dạy và có lòng bác ái, quảng đại như những tín hữu xưa.  Họ đã trở thành những chứng nhân anh dũng cho chúng ta ngày nay noi theo.

Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết về phép lạ Chúa chữa người mù Ba-ti-mê tại Giê-ri-cô.  Thật đáng tiếc vì tôi không được viếng thăm nơi này trong cuộc hành hương.  Bình thường thì chúng ta ít để ý tới sự quan trọng và cần thiết của đôi mắt, nhưng khi bị đau mắt hay mờ mắt chúng ta mới thấy sự cần thiết to lớn của đôi mắt. Anh Bartimê là một thanh niên bị mù, bị xã hội ruồng bỏ và ngồi ăn xin ở cổng thành Giêricô. Anh ao ước được nhìn thấy. Thế nhưng năm tháng đi qua, không ai có thể giúp anh được, anh phải lang thang đi xin ăn để sống qua ngày.

Hôm nay nghe biết Chúa Giêsu đi qua, anh mạnh dạn kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh đã nghe được từ những người chung quanh quyền năng của Chúa và anh tin Chúa sẽ cứu chữa anh. / Hôm nay, anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, anh chỉ ao ước một điều là xin Chúa chữa anh được nhìn thấy.  Cho nên, khi nghe được tiếng Chúa gọi, anh đã vội vã chạy đến Chúa.  Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ lòng tin sâu xa và mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, và chính vì niền tin này Chúa Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.

Còn chúng ta ngày nay thì sao?  Không có người nào hiện diện trong nhà thờ này mù lòa thể xác, thế nhưng chúng ta hãy thành tâm tự hỏi có bị mù về tinh thần không?  Trong xã hội hôm nay có rất nhiều cám dỗ lôi cuốn có thể làm cho chúng ta mù, hay có mắt mà không nhìn thấy như cờ bạc, rượu chè, gian lam, ích kỷ, tự cao, lười biếng, cứng lòng, và những điều này có sức tàn phá cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn.  Do đó, muốn được chữa lành, phải mau mắn, như người mù trong bài Tin mừng, chạy đến Chúa Giêsu kêu cầu Người thương cứu chữa.  Chúng ta tin Chúa Giêsu muốn giúp và chữa lành cho chúng ta như Chúa đã giúp người mù. Không ai có thể cứu giúp chúng ta, ngoại trừ Chúa Giêsu.

Có một câu chuyện về người đàn ông cứng lòng và rất khó tính, luôn phê bình, chỉ trích người khác.  Vì ích kỷ, ông không bao giờ giúp đỡ hay quảng đại, và vì tự cao, cho nên ông không bao giờ nhìn thấy điều gì tốt nơi người khác, nhất là những người không đồng ý hay làm theo ý của ông. Bất cứ họ làm một việc gì kể cả việc tốt, thì ông cũng phải cố tìm cho ra một lý do để chỉ trích, phê bình, hay cố tìm một khía cạnh, một nguyên do để chống đối. Ông thường khinh thường và hay bắt lỗi những ý kiến, những công việc của người khác, và tệ hơn nữa còn thường hay rỉ tai nói xấu người khác. Thế rồi một ngày kia, được người vợ thúc đẩy dự buổi tĩnh tâm, và được nghe linh mục cắt nghĩa về đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, ông bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp, không nhận ra được những công việc tốt lành, không nhận ra được tấm lòng của những người khác, và ông đã không sống trong ân sủng của Chúa.

Xin Chúa ban cho chúng ta sự can đảm và niềm tin của người mù, thành tâm và nhất quyết tìm đến Chúa để Người hoàn lại ánh sáng, hoàn lại hạnh phúc, hòa thuận cho cá nhân, gia đình và ban cho mọi người trong giáo xứ chúng ta tình yêu thương hiệp nhất, để chúng ta trở thành những nhân chứng của Chúa, có tấm lòng hy sinh, bác ái và quảng đại chân thật xây dựng giáo xứ và làm sáng danh Chúa.  Đó là Tin mừng chứa đựng trong Lời Chúa mà chúng cử hành hôm nay.

Về mục lục

.

BI ĐÁT

Lm. Thái Sơn

Thiết tưởng, diễn tả sự đau thương, buồn khổ, phũ phàng…, có xu hướng tiêu cực. Chuyện vui kể rằng:

Việt Nam và Lào là hai nước anh em, thế nhưng một sự thật bi đát là: Cái gì tệ nhất ở Việt Nam cũng gán cho cái mác Lào. Xin đơn cử một vài ví dụ:

Đôi dép mang xấu nhất là đôi dép Lào. Bệnh thì có bệnh lang ben, hắc Lào. Thứ thuốc hút gớm nhất cũng là thuốc Lào. Cơn gió khắc nghiệt nhất cũng gọi là gió Lào…

Có một người Lào sang Việt Nam làm việc, trong chuyến công tác tại “Hà Lội”. Tại trạm dừng xe buýt, người Hà Lội kia phát hiện là đôi dép mình không cánh mà bay. Ông ta la lên: “Thằng lào, thằng lào lấy dép tao?”.

Thưa các bạn!

Lời Chúa Chúa Nhật 30 Thường Niên B mô tả một nhân vật với hoàn cảnh thật bi đát, đó là người ăn xin mù bên vệ đường thành Giêrikhô.

Như diều gặp gió, chỉ nghe nói Đức Giêsu đi ngang qua đây, người ăn xin mù liền kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10,47).

Dân gian có câu: “Khó hai bàn tay, giàu đôi con mắt”. Thật vậy, đôi mắt quý giá và quan trọng vô cùng đối với cuộc sống con người ở mọi thời đại và mọi nơi mọi lúc.

Đối với người khiếm thị cuộc sống của họ thật sự khó khăn, thiệt thòi và bi đát. Đến nỗi tác giả Lâm Bình đã ngậm ngùi và xót xa khi diễn tả bài thơ “HOA TÂM”:

Sinh ra con vốn thua người
Nhìn đời chỉ với trái tim dẫn đường
Quanh con là bốn bức tường
Cuộc đời thong thả giọt vương giọt sầu.

Những ngày cha mẹ buồn rầu
Thuốc thang cũng cạn ruột đau thắt hầu
Con đành câm lặng chôn sâu
Nỗi buồn thăm thẳm mưa Ngâu chờ thời.

Thưa các bạn!

Thế nhưng, rất nhiều người trong số người mù đã không chịu khuất phục trước số phận, mà vẫn vươn lên làm chủ cuộc sống của mình, trở thành người có ích cho Giáo Hội hay xã hội.

Người mù ăn xin đã “vươn lên” bất chấp mọi rào cản, như bị đám đông quát nạt bảo anh ta im đi, và khi Chúa gọi anh thì anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.

Áo choàng” đối với người ăn xin là tài sản quan trọng nhất, ban ngày làm áo che thân, ban đêm làm mềm đắp, vậy mà “vất đi” nói lên niềm tin vững chắc vào Thầy Giêsu sẽ cho cái mới tốt hơn.

Đứng phắt dậy” đối với người khiếm thị quả là hiếm có, diễn tả hành vi mau chóng, lanh lẹ và gấp gáp. Tin tưởng sẽ tìm thấy lối đi trong sáng và yên vui nơi Đức Giêsu, vốn là đường, là sự thật, và là sự sống.

Vua Đavít đã mờ mắt với bà Batseva, và được tiên tri Nathan mở mắt cho ông, để rồi vua Đavít thật bi đát ca khen: “Chúa làm cho ngọn đèn của con sáng tỏ, Ngài soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù” (Tv 18,29).

Dù là mù thể lý hay mù tâm trí, xin cho “bạn & tôi” biết “vươn lên” tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, mạnh mẽ vất bỏ “áo choàng” của những gì làm cản trở đến với Chúa, và can đảm “đứng phắt dậy” thoát khỏi con đường tội lỗi, nhất là cái nhìn của đôi mắt khiến con sa ngã, đi vào lối tối tăm mù mịt và bi đát. Amen.

Về mục lục

.

.

ÁNH SÁNG ĐỨC TIN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Sống trên trần gian, mỗi chúng ta đang là những người mò mẫm đi tìm Chân lý. Cuộc tìm kiếm này kéo dài liên lỉ suốt đời. Để đạt được Chân lý, cần phải nhờ Đức tin soi sáng dẫn đường. Nếu không có ánh sáng Đức tin, chúng ta khó nhận ra đâu là con đường giúp ta đạt được đích điểm của cuộc đời. Thiếu Đức tin, cuộc sống này sẽ trở thành tối tăm, vô nghĩa.
 
Anh Bartimê, người thanh niên mù ở thành Giêricô đại diện cho những người đang đi tìm kiếm Chân lý. Dù khiếm thị về thể lý, anh lại tỏ ra sáng suốt khi nhận định người đang đi ngang qua là Đấng có thể giúp anh nhìn thấy: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh đã kêu cầu Đức Giêsu với tước hiệu “con vua Đavít”, là tước hiệu được các ngôn sứ  loan báo và muôn dân mong đợi. Đây vừa là lời van xin, vừa là lời cầu nguyện với tâm tình tín thác cậy trông. Người mù thành Giêricô nài xin lòng thương xót của Chúa, vì anh chắc chắn Chúa Giêsu có quyền năng chữa lành và ban cho anh những điều anh đang mong đợi. Là một người ăn xin, hôm nay, khi gặp Đức Giêsu, anh không cầu xin tiền bạc như mọi ngày, mà cầu xin được sáng mắt.
 
Cuộc tìm kiến Chân lý của anh Timê gặp nhiều khó khăn cản trở. Một trong những cản trở đó là đám đông. Anh muốn đến với Chúa, nhưng dư luận quần chúng ngăn cản. Họ nghĩ rằng, người thanh niên mù này không xứng đáng đến gần Chúa. Ước vọng đến với Chúa có nguy cơ bị bóp nghẹt và nhấn chìm bởi đám đông. Anh bị đám đông coi thường vì thân phận của anh là một người mù ăn xin. Dư luận đám đông cũng rất đa chiều và bất ổn định. Họ vừa ngăn cản anh đến với Chúa, nhưng vừa nghe lời Chúa gọi anh mù, họ lại động viên anh hãy vững tin, vì Người gọi anh. Để đến được với Chúa, chúng ta phải thận trọng tỉnh táo trước những trào lưu khác nhau của môi trường xung quanh. Anh Bartimê đã vượt lên những rào cản của đám đông và cuối cùng, anh đã đạt được những điều anh xin. Không chỉ được chữa lành về thể xác, anh còn được cảm hóa và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu và đi theo Người.
 
Chúa Giêsu đến trần gian để đem ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ này được diễn tả như sự khai sáng tâm hồn để chiêm ngưỡng vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia diễn tả ơn cứu độ bằng hình cảnh một cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ lầm than và trở về cố hương. Trên con đường trở về này, mọi người đều tưng bừng ca hát và nhảy múa để tôn vinh Thiên Chúa và thể hiện niềm vui. Họ gồm đủ các thành phần, kể cả những người bị bỏ rơi và khinh thường trong xã hội (Bài đọc I). Tâm tình vui mừng vì được giải phóng, phải là tâm tình của mỗi tín hữu chúng ta, mặc dù đang phải trải qua nhiều mất mát, gian truân của gánh nặng cuộc đời. Thiên Chúa quyền năng đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài là nguồn mạch hạnh phúc và bình an. Lòng tín thác vào Chúa sẽ đem lại cho chúng ta niềm hân hoan phấn khởi.
 
Cuộc sống trần gian là một cuộc kiếm tìm Chân Lý. Mỗi ngày sống ở đời giúp ta gần Chúa hơn. Tuy vậy, nếu thiếu kiên định, chúng ta sẽ bị dao động bởi đám đông cuộc đời, giống như cây sậy phất phơ trước gió, nghiêng ngả trước những dư luận và tin đồn, chao đảo niềm tin.
 
Xung quanh chúng ta, có nhiều anh Bartimê đang mù lòa thể lý và tâm linh, rất cần được chúng ta nâng đỡ và chỉ cho biết con đường kiếm tìm Chân lý. Mỗi Kitô hữu đều có bổn phận nói về Chúa cho những ai đang đi tìm kiếm Ngài.
 
Xin Chúa mở con mắt tâm hồn chúng ta, để nhờ đó, chúng ta nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài giữa cuộc đời. Xin Ngài ban cho chúng ta ánh sáng Đức tin. Amen.

Về mục lục

 

CHÚA CHỮA ANH MÙ BACTIMÊ

Gm. Phêrô Nguyễn Khảm

Trong bài hát Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta hát lên: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục…” Chúng ta lại hát tiếp: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.

Lời kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời kinh diễn tả lối sống đích thực của mỗi người Kitô hữu. Như vậy bổn phận của mình không phải chỉ là đem yêu thương vào nơi oán thù mà còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm.

Có một câu chuyện kể như thế này:

Một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng như thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.

Coi chừng chúng ta lại rơi vào tình trạng như thế. Nếu mình rơi vào tình trạng đấy thì rất nguy hiểm. Làm sao có thể dọi ánh sáng vào nơi tối tăm khi mà chúng ta không có ánh sáng, hoặc ánh sáng chúng ta đã bị tắt ngấm từ lâu.

Đặt câu hỏi như thế thì chúng ta thấy anh mù Bactimê sẽ trở thành gần gũi với mình hơn. Anh ta không còn là khuôn mặt xa lạ của 20 thế kỷ trước, mà giờ đọc lại mình có cảm tưởng như là đọc truyện cổ tích. Anh ta giờ trở thành một khuôn mặt mời gọi mình suy nghĩ về vấn đề của chính cuộc đời mình.

Ngày nay người ta nói đến mù chữ, vài năm nay lại thêm mù vi tính. Một thứ mù về mặt trí tuệ. Phúc Âm kể cũng có lần Chúa Giêsu mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh.

Khi kể câu chuyện này tôi không nhắm đến mù thân xác, vì thời đó có rất nhiều người mù, nhưng Chúa Giêsu không chữa cho tất cả. Ngài chỉ chữa cho một số người mang tính biểu tượng. Cũng không phải thánh Maccô nói đến mù chữ, vì chúng ta không nghe kể Chúa Giêsu mở lớp tình thương để dạy học. Như vậy chắc chắn là thánh Macco nhấn mạnh mù về mặt tâm linh, mù về mặt tinh thần. Ta có thể hiểu như thế nào về tình trạng mù này?

Có một câu chuyện kể về các người mù rủ nhau đi xem voi. Xem xong thì cùng nhau ngồi lại bàn tán, mô tả xem con voi nó giống như cái gì?

Anh sờ được cái chân thì dõng dạc tuyên bố: con voi nó giống như cái cột nhà.

Anh khác thì oang oang: con voi nó giống như cái quạt. Vì anh này rờ được ngay cái tai của nó.

Còn các anh sờ cái bụng, cái vòi. Ta không biết họ sẽ mô tả con voi giống như cái gì.

Suy nghĩ kỹ chuyện này thì thấy cũng thấm thía lắm. Tôi muốn chia sẻ với anh chị em là: chúng ta có thể rơi vào tình trạng mù về mặt tinh thần, có nghĩa là ta không nhìn thấy được chân lý toàn diện về cuộc sống. Ta chỉ nhìn thấy chân lý phiến diện như anh mù mô tả con voi “nó giống như cái cột nhà”, như thế là rất phiến diện.

Từ 30 năm về trước, một nhà xã hội học Mỹ… đã lên tiếng về con người thời đại. Ông gọi: “Con người một chiều kích”. Tôi thấy nhận xét ấy vẫn đúng cho đến ngày nay và chắc có lẽ càng ngày sẽ càng đúng hơn.

Cuộc sống con người chúng ta được đan kết bằng nhiều chiều kích. Có một chiều kích hướng thượng, mình gọi là chiều dọc trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Có một chiều kích ngang nữa, trong quan hệ bình đẳng yêu thương đối với mọi người, và có một chiều quan hệ đối với thế giới vật chất.

Càng ngày con người ta càng quên mất cái chiều hướng thượng, quên mất mối quan hệ hàng ngang với anh em trong tình yêu thương, mà chỉ quan tâm đến quan hệ tình bạn với thế giới vật chất.

“Con người một chiều kích”. Chúng mình không khám phá, không sống được cái chân lý toàn diện về cuộc sống của con người. Nguyên nhân nào có thể dẫn đến tình trạng đó.

Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng. Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.

Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa đều ban tặng cho mọi người khả năng nhận biết chân lý.

Ta có thể rơi vào tình trạng mù tâm linh là do nguyên nhân thứ 2, thứ 3. Nghĩa là mình thiếu ánh sáng. Do những hoàn cảnh và những môi trường sống.

Hiểu như vậy, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời. Con đường đó là con đường Chúa Giêsu đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến sự sống vinh quang và vĩnh cửu. Amen.

Về mục lục

.

TỚI NGUỒN SỰ SÁNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.

Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thủơ.

Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.

Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.

Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.

Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.

Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.

Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.

2) Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh

3) Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?

4) Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?

5) Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?

Về mục lục

.

“TẦM NHÌN” LÀ GÌ?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Ngày nay, người ta hay nói đến hai chữ “tầm nhìn”. “Tầm nhìn” hình như nó đã trở thành mốt của những người thích ăn to nói lớn, muốn chứng tỏ mình là người nhìn xa trông rộng.

Thực ra, người xưa cũng đã có khái niệm về hai chữ tầm nhìn, nhưng dùng đơn giản là từ “lo xa”. Một người nông dân biết dự trữ lương thực cho tháng ba ngày tám, biết dành tiền tới tháng 9 để cho con cái đến trường, biết tiết kiệm phòng lúc ốm đau, biết lo chuyện cưới vợ gả chồng cho con cái sau này… chính là người biết lo xa mà ngày nay gọi là có tầm nhìn.

Không lo xa thì nước tới chân chạy chẳng kịp. Người biết lo xa là người khôn ngoan. Người biết nhìn xa trông rộng là người không bao giờ thất bại. Nhưng lo xa hay tầm nhìn đôi khi cũng sai lầm, cũng thất bại. Biết lo xa, hay có tầm nhìn đúng phải là người có lý trí sáng suốt, có mưu lược khôn ngoan thì mới định liệu trước sự việc. Điều nào cần làm và điều nào không nên làm.

Cuộc đời con người thành công hay thất bại đều dựa trên “tầm nhìn” đúng hay sai. Điều quan yếu phải có tầm nhìn trong sáng để không bị tham sân si làm mờ con mắt. Đừng thấy cái lợi trước mắt mà không thấy cái hại liền sau. Nhiều người làm ăn gian dối thì có lợi trước mắt nhưng công việc lại chẳng bền lâu. Nhiều người chỉ biết nghĩ cho mình nên chẳng có bạn bè trợ giúp khi gặp hoạn nạn. Con người cần phải có cái nhìn đắc nhân tâm để sống có ích cho cuộc đời.

Chúa Giê-su luôn có tầm nhìn vì ích lợi của con người. Cuộc đời Ngài luôn nhìn thấy nhu cầu khốn khổ của tha nhân để chạnh lòng thương xót và làm xoa dịu nỗi đau cho con người. Phúc âm nhiều lần nhắc đến 2 từ “Ngài nhìn” thấy và chạnh lòng thương. Từ cái nhìn chạnh lòng đầy thương cảm ấy mà Ngài đã làm tất cả để xoa dịu nỗi đau cho những ai mà Ngài gặp gỡ trên đường.

Bài phúc âm hôm nay tường thuật về việc làm đầy tình thương của Chúa Giê-su. Ngài chạnh lòng thương và ban lại ánh sáng cho đôi mắt mù lòa của người thanh niên tên là Bartime. Chúa đã nhìn thấy thiện chí của anh, hay có thể nói Chúa đã nhìn thấy đức tin của anh, nên Chúa đã chữa khỏi bệnh mù lòa cho anh. Từ nay anh có thể thấy mọi sự, nhất là anh thấy cả quyền năng của một vì Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn con người.

Con người mù lòa thể xác thì khổ cho bản thân, nhưng mù lòa tâm hồn thì gây thiệt thòi không chỉ cho bản thân mà còn cho tha nhân. Lãnh đạo mà mù quáng thì làm nghèo đất nước. Cha mẹ không lo xa thì con cái lầm than. Bản thân thiếu tầm nhìn thì không có tương lai.

Thế nên, chúng ta cần xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng của chân lý, của sự thiện để chúng ta sống với cái nhìn trong sáng, chân thật về cuộc đời. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Nỗi khổ của con người

Anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con người. Nếu ai đã từng bị sống trong tăm tối hay quan sát người mù, sẽ thấy bị mù cực khổ như thế nào! Phải ăn xin cũng là một nỗi khổ, và hơn nữa phải tùy thuộc người khác trong nhiều lãnh vực: đi lại và những nhu cầu tối thiểu của con người. Hiểu được như vậy, sẽ dễ dàng cảm thông tiếng kêu của anh mù hơn: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”.

Không phải chỉ có bệnh mù về thể lý, nhưng còn có mù về thiêng liêng nữa. Mù thể lý ngăn cản người ta thấy những gì là vật chất, còn mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật. Mù làm khổ mình và khổ cả người khác nữa.

Được sáng, thật hạnh phúc dường bao!

Đức Giêsu thương cảm trước nỗi khổ của con người

 Những người đang hiện diện ở đó đòi người mù im lặng, nhưng anh ta lại càng la to hơn. Tại sao những người ở đó đòi anh mù im lặng? Có thể họ nghĩ tiếng kêu của anh mù vô ích, vì chẳng ích lợi gì? Đức Giêsu làm gì có tiền mà bố thí cho anh mù! Và hơn nữa, làm sao Đức Giêsu có thể chữa cho anh mù thấy được? Có lẽ không phải họ không thương anh mù cho bằng họ nghĩ Đức Giêsu chẳng giúp gì được cho anh mù. Anh ta nên im đi thì tốt hơn.

Dù bị ngăn cản và phản đối, anh mù vẫn la, và càng la to hơn. Anh ta hy vọng tiếng kêu của anh ta tới tai Đức Giêsu và được Ngài thương xót: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Anh ta là người tin vào Đức Giêsu, chờ đợi và hy vọng nơi Đức Giêsu hơn bất cứ ai trong trường hợp này. Và tiếng kêu của anh ta đã lọt vào tai Đức Giêsu, và Ngài đã bị “đáng động” bởi tiếng kêu này. Đức Giêsu rung động trước nỗi khổ của con người.

Thiên Chúa vẫn thương cảm trước nỗi khổ của con người. Ngày xưa dân Do Thái khi bị nô lệ cực khổ bên Ai-cập, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã thương giải phóng họ khỏi Ai-cập. “Những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt.11, 28): Đức Giêsu cũng luôn thương cảm trước nỗi khổ của con người.

Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, và kêu cầu Ngài, Ngài sẽ đáp cứu.

Hãy thương cảm trước nỗi khổ của con người như Đức Giêsu

Thương cảm trước nỗi khổ của con người, là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng muốn con người thương cảm trước nỗi khổ của anh em mình như Ngài. Người đầy tớ “không biết thương xót” anh em mình, sẽ không được thương xót (Mt.18, 23-35).

Rung động trước nỗi khổ của anh em mình, là trở nên người hơn, trở nên con Thiên Chúa hơn. Ước gì con người biết thương cảm và yêu thương người khác trong hoàn cảnh khốn khổ của họ. Ngay cả khi không có gì để cho, hoặc có rất nhiều điều để cho người khác, thì tình yêu thương vẫn là món qùa qúy nhất.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Bạn đã rung động trước nỗi khổ của con người chưa? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm.
  2. Điểm nào đáng động bạn nhất khi nghe đọc đoạn Tin Mừng Mc.10, 46-52 trên?
  3. Đức Giêsu đã bao giờ chữa bệnh mù cho bạn chưa? (Đức Giêsu có giúp bạn thấy rõ một điều gì mà trước đó bạn bị nô lệ bao giờ chưa? Nếu có xin chia sẻ.)

Về mục lục

.

KHI CẦU NGUYỆN TA PHẢI XIN GÌ TRƯỚC HẾT

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Anh chàng mù Ba-ti-mê ngồi bên vệ đường thành Giê-ri-cô đã xin Đức Giê-su điều gì, câu hỏi thật ngớ ngẩn! Vì rõ ràng anh ta xin được sáng mắt chứ còn điều gì nữa: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”! Thế nhưng ta cũng nên lưu ý: trước cả khi mở miệng xin được nhìn thấy, anh đã khẩn khoản kêu xin một điều khác còn quan trọng hơn nhiều: “Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vit, xin rủ lòng thương tôi!” Được nhìn thấy là ngọn, là kết quả của được xót thương là gốc, là nguyên nhân!; chỉ vì tranh thủ được lòng trắc ẩn của thầy Giê-su mà anh mù mới đạt được điều anh hằng mơ ước là được nhìn thấy. Vì cho tới lúc đó, anh thực sự chưa biết nhiều về ông thầy Giê-su đang đi qua; thiên hạ đồn rằng: ông rất đáng kính và hay làm phép lạ, tuy nhiên, cho dầu có là bậc thầy đáng kính tới mấy, nhưng nếu ông không đoái hoài, không xót thương mình thì cũng kể bằng không! Anh chưa hề có bất cứ một bằng chứng nào về đức độ từ nhân của thầy; nếu Ngài không rủ thương thì mọi sự đâu vẫn hoàn đó, và ước vọng cháy bỏng của anh sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực; chính vì lẽ đó mà anh kêu gào cho bằng được lòng thương xót, bất chấp nhiều người “quát nạt bảo anh im đi”.

Tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa là điều căn bản nhất của niềm tin Ki-tô hữu, chứ không phải tin vào sự hiện hữu của Ngài (điều này không may đã trở thành nỗi ám ảnh trước trào lưu vô thần của một số người). Biết bao lần chúng ta được Giáo Hội dạy cho biết: Thiên Chúa yêu thương nhân loại nói chung, yêu từng người nói riêng vô ngần; Người yêu từ ngàn xưa, yêu bất chấp các yếu đuối tội lỗi của con người. Về phần mình, Ki-tô hữu có trong tay bằng chứng không thể chối cãi về tình yêu tuyệt đối đó: cái chết Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. Lý thuyết là như thế, nhưng ta vẫn cần tra vấn mình như sau: Ki-tô hữu chúng ta thường có thái độ nào trong cầu nguyện?

Nhiều người xưng mình là Ki-tô hữu, nhưng lại thường xuyên hoài nghi, ngờ vực tình yêu nhân ái vô bờ bến của Thiên Chúa! Điều này đôi khi được diễn tả qua việc bề ngoài xem ra rất ư là đạo đức: họ cầu khẩn van xin Đức Mẹ và các Thánh cầu bầu cho, với hậu ý là: chưa chắc Chúa đã thật sự hết lòng xót thương mình. Tiến trình cầu nguyện của nhiều ‘người có đạo’ thông thường vẫn theo trình tự như sau: tới trước mặt Chúa qua trung gian một vị quan thầy quyền thế nào đó, nếu dọn trước được một số lễ vật lót đường thì càng tốt, hay ít nhất cũng sửa sang lại trong ngoài sao cho xứng đáng hơn, rồi khẩn khoản trình bày chi tiết điều mình muốn xin… Trong trình tự này, ít có ai dành thời giờ để gợi nhớ cho mình điều Đức Giê-su đã từng khảng định: “Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước cả khi anh em cầu xin” (Mt 6:8). Nói cách khác, nếu có một tiền đề nào cần phải làm trước khi quì gối cầu nguyện thì đó chính là: xin được con gia tăng tin tưởng tín thác vào Thiên Chúa nhân ái và hay xót thương! Hãy dành cho việc này nhiều thời giờ và nỗ lực hơn để chính mình xác tín, rồi loan báo cho mọi người biết về lòng nhân lành và hay thương xót của Chúa Cha; nhất là khi những gì đang xảy ra quanh ta hầu như muốn bịt miệng không cho phép ta gào lên điều đó! Nói cách khác, noi gương chàng Ba-ti-mê mù lòa, hãy can đảm và kiên định kêu gào cho bằng được điều căn bản nhất của niềm tin chúng ta: ‘Xin cho con thấu hiểu và xác tín được lòng Chúa từ nhân, bất chấp những tang thương đang tràn ngập quanh con’.

Trong cùng triền tư tưởng đó, lời cầu xin “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được…” sẽ còn mang một nội dung khác nữa: xin cho được thấy, được nhận ra ‘lòng nhân lành của Chúa’ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong những biến cố rất là phi lý và bất công, nơi mà ta không thể nhận thấy bất cứ một biểu hiện nào của từ nhân và yêu thương.

Sau hết câu nói của Đức Giê-su “lòng tin của anh đã cứu anh” cũng hé cho thấy niềm tin đó hệ tại điều gì: tin Đức Giê-su là mạc khải về Chúa Cha từ nhân, và tin Thiên Chúa hay xót thương đứng đàng sau mọi biến cố cuộc đời. Tin đây phải hiểu là tin tưởng phó thác; cầu nguyện với lòng tin tưởng như thế thật có sức mạnh biết bao!

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy con biết cầu nguyện trong Người, vì con “không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng rên siết khôn tả! Và Thiên Chúa, đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8:26-27). Vâng! Con xin Người biến mọi lời cầu nguyện của con thành diễn đạt một niềm tín thác tuyệt đối vào Chúa Cha từ nhân và hay xót thương. Xin cho con mãi duy trì được thái độ này, bất chấp mọi nghịch cảnh có thể xảy đến. A-men.

Về mục lục

.

NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ

Lm. Văn Hào

Năm 1945, khi cuộc chiến thế giới kết thúc, những người lính trẻ từ chiến trường phương xa lần lượt trở về cố hương. Tại nhà ga Verona bên Ý, một đám người đang tụ tập để nóng lòng chờ mong những cuộc hội ngộ. Giữa đám đông, có một bà cụ đứng đó một mình. Bà cũng đang ngong ngóng đợi chờ người con thân yêu sau nhiều năm tháng biền biệt đi xa. Lúc đoàn tầu cập bến, người ta thấy có một chàng thanh niên mù cũng đang quờ quạng kiếm tìm một ai đó. Cuối cùng người lính mù cũng lần mò tìm được người mẹ thân yêu, đang đứng co ro ngóng đợi. Chàng trai ôm chầm lấy bà cụ òa khóc nức nở và nói: “ Mẹ ơi, đôi mắt con đã bị mù hoàn toàn rồi. Con không còn thấy gì nữa, nhưng con đã tìm thấy mẹ bằng trái tim của con”. Người mù thành Giêrikhô mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại cũng đã tìm đến với Đức Giêsu không phải bằng đôi mắt của thân xác, nhưng với đôi mắt của cõi lòng.

Giêrikhô, chặng đường tiến vào đất hứa

Giêrikhô được mệnh danh là thành phố mặt trăng, nơi tôn thờ một vị thần của đêm đen. Trong thuật ngữ thánh kinh, Giêrikhô còn là biểu tượng của cuộc hành trình sa mạc tiến vào đất hứa. Ngày xưa, Giôsuê đã đánh chiếm Giêrikhô để mở đường đưa dân Do Thái đi vào miền đất mà Đức Chúa Giavê đã hứa ban. Đức Giêsu chữa lành anh chàng mù thành Giêrikhô hôm nay cũng diễn bày quyền năng và lòng thương xót của Ngài trước khi đi thụ nạn, khai mở cho chúng ta một vùng đất hứa mới, đó là ơn cứu độ và ánh sáng vĩnh cửu. Ngài sẽ đẩy lùi bóng tối tội lỗi của đêm đen để đưa dẫn chúng ta tiến vào bình minh của một ngày mới, đó là ngày ‘Thiên Chúa viếng thăm dân Người’. Đức Giêsu là nguồn sáng vĩnh hằng. Ngài đến để giải cứu chúng ta thoát khỏi sự mù lòa trong tội lỗi và sự chết. Đây là sứ điệp mà trình thuật phép lạ hôm nay gợi mở.

Sau những lần được loan báo về viễn ảnh Thập giá cùng với những bài học về sự từ bỏ và về tinh thần khiêm tốn phục vụ, các học trò của Đức Giêsu dường như vẫn chưa hiểu. Con mắt đức tin của họ vẫn còn đóng khép lại khi đối diện trước Thập giá và cái chết. Chúa Giêsu hôm nay muốn khải thị sâu xa hơn về chân dung cứu thế của Ngài qua việc chữa lành anh mù. Ngài muốn vạch dẫn con đường rộng mở để các môn sinh có thể trở nên những môn đệ Ngài cách đích thực và tiếp tục dấn bước theo Ngài.

Bóng tối và sự mù lòa

Có một bài thơ được khắc trên ngôi mộ của một người mù xấu số. Bài thơ viết như sau : “Đôi mắt tôi mù lòa tựa đêm đen. Thế giới ánh sáng đã vĩnh viễn khép lại. Chung quanh tôi chỉ còn bóng tối đầy kinh khiếp. Tôi như một phế nhân bị vất bỏ hoàn toàn. Hằng ngày tôi chẳng còn làm được gì, ngoài việc ngồi xếp chân trên đất với đôi tay giang rộng để van nài sự bố thí của những người qua lại. Cuộc sống tôi như một chuỗi đêm đen bất tận. Thật khốn khổ thân tôi.” Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng có dịp đến thăm những mảnh đời bất hạnh tại các mái ấm dành cho người khiếm thị, như mái ấm Nhật Hồng ở Thủ Đức, mái ấm Thiên Ân ở quận Bình Tân… Thế giới của người mù là cả một thế giới huyền bí, nhưng đầy ắp bi thương và xót xa. Thầy Nguyễn Quốc Phong là một cựu tu sĩ dòng Don Bosco cũng bị mù từ năm ba mươi tuổi và đã lập mái ấm Thiên Ân để đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thầy chia sẻ: “Tôi bị tai nạn và trở nên mù lòa hoàn toàn, giữa tuổi xuân đang hừng hực sức sống. Tôi đã từng rơi vào tuyệt vọng chán chường và khá nhiều lần bị cám dỗ toan tính tự tử. Nhưng giữa đêm đen kinh hoàng, tôi đã nghe được tiếng Chúa gọi, giống như Ngài đã gọi anh mù năm xưa ở Giêrikhô. Hằng ngày, tôi vẫn lập đi lập lại lời thánh thi giờ kinh tối để diễn bày niềm tin vào Chúa: ‘Khi ánh sáng chìm vào đêm tối, lời kinh dâng tiến Chúa càn khôn’. Thầy đã mở mái ấm Thiên Ân để sẻ chia bất hạnh với những con người sống trong nghiệt ngã giống như Thầy. Quả thật, sự mù lòa luôn gắn liền với bóng tối và sự khốn cùng.

Đó là sự mù lòa thể lý. Nhưng còn nhiều dạng thức mù lòa khác còn khiếp sợ hơn rất nhiều. Chúa Giêsu từng cảnh báo: “ Người mù mà dắt người mù sao được, cả hai sẽ rơi xuống hố” (Mt 15, 14), hoặc “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi, để ngươi thấy rõ, mới có thể thấy cái rác trong mắt người anh em ” (Mt 7, 3-4 ). Đây là những dạng mù lòa thiêng liêng mà chúng ta dễ thường hay mắc phải.

Có một anh chàng bị mù từ nhỏ. Mắt anh không thấy gì. Người ta kể cho anh những chuyện xảy ra ở trong xóm hay ngoài phố, anh không tin vì anh không thấy. Một vị lương y thương tình chữa cho anh. Anh dần dần thấy được lờ mờ những cảnh vật chung quanh, thấy con đường làng nho nhỏ trước mắt, thấy được cánh đồng bát ngát xa xa. Người ta nói với anh còn nhiều cảnh tượng hùng vĩ khác, còn có cả những rặng núi trùng trùng cao ngất, còn có cả biển rộng mênh mông xa tít chân trời… anh vẫn nhất định không tin, vì anh chưa thấy. Vị lương y buồn bã và thở dài nói với anh: “Này anh bạn, con mắt thân xác anh đang từ từ mở ra, nhưng con mắt tâm hồn của anh vẫn còn khép chặt lại, do sự kiêu ngạo và cố chấp nơi anh.”

Đây là dạng thức mù lòa của những người biệt phái năm xưa mà Chúa nói khá nhiều lần khi Ngài gọi họ là ‘những kẻ dẫn đường mù quáng’ (Mt 23, 16; 17; 19; 24). Sự mù quáng tăm tối nơi đầu óc họ chính là con đẻ của tính kiêu ngạo, luôn coi mình là nhất, luôn lấy mình làm thước đo để định giá người khác. Tính phê bình chỉ trích và hay kết án người này người nọ, nhất là qua những xì xầm to nhỏ chẳng khác gì thái độ của năm chàng mù đi xem voi mà chắc hẳn chúng ta đều biết. Đức Thánh Cha Phanxicô từng nói trong đại hội tu sỹ trẻ thế giới tháng Chín vừa qua rằng, việc chỉ trích và xầm xì (gossip) như thế chẳng khác gì khủng bố, khi người ta đang âm thầm thả những trái bom để tàn phá danh dự lẫn nhau. Người Pharisiêu ngày xưa cũng hay làm thế. Anh chàng biệt phái lên đền thờ cầu nguyện chỉ để khoe những thành tích đạo đức cá nhân mình và chê bai mọi người: “Lạy Chúa, con không như người thu thuế tội lỗi kia, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con đóng góp một phần mười huê lợi của con…” Sự mù lòa được thể hiện rất rõ nơi thói kiêu ngạo và thích kết án tha nhân giống như vậy. Có lần một phóng viên trên máy bay hỏi Đức Thánh Cha về quan điểm của Ngài đối với những người đồng tính, Ngài trả lời rất khôn ngoan: “Tôi là ai mà dám phán xét họ”. Mù lòa tâm linh chính là tự đóng khung mình trong pháo đài kiêu ngạo để phán xét mọi người. Thiên hạ vẫn thường nói “Điếc hay ngóng, ngọng hay nói. Người dốt lại thích khoe chữ”. Càng nói nhiều khoe khoang nhiều, càng lộ cái dốt của mình ra cho người ta thấy. Tính kiêu ngạo và sự mù lòa tâm hồn đi đôi với nhau.

Cần được chữa lành

Chúng ta hãy học thái độ của anh chàng mù trong bài Tin mừng hôm nay. Tiến trình được chữa lành nơi anh gồm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là anh ý thức sự mù lòa nơi bản thân. Anh chàng đã cảm nhận rất sâu thân phận bi thương của mình nên đã nhiều lần gào thét thật to giữa đám đông: “Lạy ông Giêsu, xin thương xót tôi – Kyrie eleison”. Cũng vậy, chúng ta cần phải ý thức về tình trạng tội lỗi và sự mù lòa nơi tâm hồn chúng ta. Người mù hôm nay đã kiên nhẫn la to lên khá nhiều lần đến độ dân chúng bực bội và quát nạt bảo anh ta câm mồm lại. Nhưng không, lời kêu cứu đó được lặp đi lặp lại và đã chạm đến cõi lòng của Đức Giêsu. Nỗi bất hạnh lớn nhất của người mù là mình bị mù nhưng cứ tưởng người khác cũng mù giống như mình. Cần phải biết và ý thức sâu xa sự mù lòa nơi chính bản thân chúng ta. Giai đoạn thứ hai, Chúa Giêsu gọi anh ta lại. Anh đã đứng lên và vất bỏ áo choàng anh đang mặc. Đây là một hình tượng tuyệt đẹp nói lên quyết tâm của chúng ta trong cuộc hành trình đức tin, một thái độ cương quyết dứt bỏ quá khứ tội lỗi. Chúng ta sẽ không được chữa lành nếu chúng ta vẫn còn đeo bám vào những gì cũ kỹ, như chiếc áo choàng của anh mù năm xưa, làm cản che tầm nhìn chúng ta hướng về Đức Giêsu. Giai đoạn cuối cùng là anh mù đã đến với Chúa và mở lòng ra với Ngài: “Thưa Thầy, xin cho tôi được nhìn thấy.” Chúa Giêsu đã chạm đến anh và chữa lành cho anh. Đây là mô thức cho cuộc hành trình đức tin của chúng ta đến với Đức Giêsu. Chúng ta nghe tiếng Ngài gọi. Chúng ta hãy can đảm đứng dậy vứt bỏ đi tấm áo choàng sờn cũ. Chúng ta mạnh dạn đi đến để tiếp cận Ngài, để gặp gỡ Ngài. Ngài sẽ sờ chạm đến và chữa lành cho chúng ta.

Kết luận: Sự ghê sợ của gương mù

Trong một buổi hội thảo về gia đình, vị linh mục nọ đã chia sẻ một kinh nghiệm quý báu. Ngài nói với cử tọa rằng Ngài được mời đi xức dầu cho một em bé ở cô nhi viện. Sau khi lãnh nhận bí tích, em đã tâm sự với Ngài như sau: “Thưa Cha, xin Cha gửi tới mẹ con những lời trăn trối sau cùng của con. Con không nguyền rủa mẹ con cho dù con chỉ có một người mẹ trác táng và hư hỏng. Con cũng không biết bố con là ai. Con ra đời chỉ là kết quả những phút giây truy hoan tội lỗi của mẹ con với một người đàn ông nào đó. Mẹ con thay tình nhân như thay áo. Bà đã gượng gạo nuôi con đến khi con được 8 tuổi và vất con vào đây như một cục nợ. Những năm tháng ở với mẹ, con chỉ thấy nơi bà một con người độc ác, ích kỷ, thích ăn chơi và hưởng thụ, luôn nói những lời đay nghiến, nhiều khi còn muốn con chết quách đi cho xong. Giờ đây con sống cô đơn ở cô nhi viện. Con không oán trách bà ấy, cũng không nguyền rủa cha con. Con chỉ tiếc là con không có được những người cha người mẹ tốt lành và có được một mái ấm gia đình đơn sơ như bao đứa trẻ khác”.

Đứa bé thều thào trong sự nghẹn ngào đau xót. Vị linh mục nhìn thấy những giọt nước mắt vọt trào từ đôi mắt đẫm lệ của đứa trẻ thơ, và vài giọt máu từ từ bắt đầu rỉ ra. Thằng bé lịm chết dần, mang theo bao nỗi xót xa còn vương đọng nơi tâm hồn của một đứa bé thơ vô tội nhưng cuộc đời đầy ắp những bất hạnh.

Cả hội trường thổn thức và xúc động lắng nghe. Vị linh mục kết luận: “Hỡi các bậc làm cha làm mẹ, mỗi ngày quý vị hãy quỳ gối xuống trước mặt Chúa để sám hối và thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin Chúa trợ giúp để chúng con đừng bao giờ trở nên gương mù cho con cái mình.”

Ai làm cớ cho một người bé mọn đây phải sa ngã, thà cột cối đá vào cổ nó mà xô xuống biển còn hơn”. Mù lòa thân xác đã là ghê sợ, nhưng trở nên gương mù cho người khác phạm tội còn kinh tởm hơn rất nhiều. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ nói như thế. Ước gì lời Chúa hôm nay lay động con tim mọi người, nhất là những người làm cha làm mẹ trong các gia đình, để chúng ta đừng bao giờ trở thành người mù dẫn đường cho những người mù khác, đặc biệt cho con cái chúng ta.

Về mục lục

.

HÒA ĐIỆU XÓT THƯƠNG

Trầm Thiên Thu

Trong âm nhạc có những giai điệu đẹp khiến lòng người mê say. Điệu thức là hệ thống âm thanh kết hợp với nhau theo một quy luật nhất định, trong đó có âm thanh ổn định và không ổn định, âm thanh ổn định nhất gọi là chủ âm. Có hai loại điệu thức: điệu thức trưởng và điệu thức thứ, với “màu sắc” khác nhau. Chỉ bảy nốt, nhưng liên kết khéo léo sẽ có giai điệu đẹp, điều này tùy vào tài năng âm nhạc của nhạc sĩ.

Như đã nói, có những giai điệu đẹp, nghe hoài không chán; ngược lại, có những giai điệu không muốn nghe lại lần thứ hai. Giai điệu có thể đẹp hơn nếu được hòa âm khéo léo, tính tế.

Tuy nhiên, giai điệu đẹp nhất và tuyệt vời nhất chắc chắn chỉ có giai điệu yêu thương, giai điệu của lòng thương xót. Giai điệu đó sẽ đẹp hơn khi nó trở nên hòa điệu, và nó còn là Mối Phúc thứ năm trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương ” (Mt 5:7).

Ngôn sứ Giêrêmia loan báo: “Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Israel! Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo” (Gr 31:7-8). Hành động của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, hành động phát xuất từ lòng thương xót vô biên của Ngài. Điều này không là chế độ “xin – cho”, mà là hành động của sự động lòng trắc ẩn, cũng không phải là lòng thương hại mà là tình thương xót vô điều kiện mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Đầu óc “bã đậu” của chúng ta không thể nào suy thấu!

Ai có đi tù rồi mới biết thế nào là hạnh phúc khi được ra tù, được trả tự do. Niềm vui đó khó tả vì nó quá lớn lao. Dân Israel cũng không thoát khỏi cảm giác kỳ lạ đó, họ sung sướng đến nỗi phải bật khóc. Ngôn sứ Giêrêmia nói trước: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng” (Gr 31:9). Và tất nhiên, điều tiên báo đó đã được ứng nghiệm chính xác.

Tác giả Thánh Vịnh cũng mô tả cảnh tượng kỳ diệu đó: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:1-2). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó được, thế nên chính họ đã hân hoan thốt lên: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3)

Tác giả Thánh Vịnh cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:4-6). Giống như “luật nhân quả” vậy, ai cười rồi sẽ khóc, ai sướng trước sẽ khổ sau. Ngược lại, ai khóc trước sẽ cười sau, ai vất vả rồi sẽ được hưởng kết quả. Một trong Bát Phúc cũng đề cập vấn đề này: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Vâng, Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí minh và chí công!

Còn chúng ta là phàm nhân đầy tội lỗi vì quá yếu đuối, hứa rồi quên, hối rồi phạm, đứng rồi lại ngã. Cứ thế, cứ thế,… Chu kỳ của chúng ta là những chuỗi sám hối và đền tội. Tuy nhiên, vì bất xứng nên Thiên Chúa tuyển chọn một số người thay chúng ta dâng của lễ đền tội. Người đó được chọn không phải vì xứng đáng, mà vì Thiên Chúa muốn hành động theo kế hoạch thương xót của Ngài. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:1-5).

Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:4-6). Được CHỌN thì cũng được TRAO trọng trách, vì không phải được chọn để ung dung tự tại, tìm sự an nhàn cá nhân mà “vô tư” bỏ quên những người khác, nhưng phải quên mình, dấn thân, hy sinh vì những người khác. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!

Với tinh thần đó, trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ Tư theo thông lệ vào ngày 15-5-2013, ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở các giáo sĩ mục phải cẩn thận tránh xa cám dỗ để có thể trở nên mục tử hữu hiệu, và phải bảo vệ đàn chiên khỏi nguy hiểm. Sử dụng từ ngữ rất “mạnh”, ví von thực tế, thậm chí có thể gây “sốc” với một số người, ĐGH Phanxicô nói: “Nếu chúng ta đi với người giàu, là chúng ta đang đi về phía hư vô, chúng ta sẽ trở thành chó sói, chứ không phải người chăn chiên. Ngài cũng thúc giục tín hữu Công giáo cầu nguyện cho giám mục và linh mục”.

Phải vậy thôi, bởi vì ngày xưa chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo mà không sợ “đụng chạm” bất cứ ai: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Ngài cảnh báo để thức tỉnh những người “tai to, mặt lớn” (đại diện mà!), và đặc biệt là để thương xót những “con chiên”, không muốn chúng bị sập bẫy của lũ sói hoặc cáo!

Trình thuật Mc 10:46-52 (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43) nói về anh mù Ba-ti-mê ở Giê-ri-khô, liên quan hệ lụy thương xót với Đức Kitô.

Hôm đó, Chúa Giêsu và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Thầy với trò và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Có thể vì anh ta quá khổ sở vì mù lào, cuộc đời chỉ là đêm đen dày đặc, nên anh ta muốn thoát khỏi cảnh khổ đó, nhưng không phải anh ta “cầu may” theo kiểu “có bệnh thì vái tứ phương”, mà chắc chắn anh ta thực sự có lòng tin thật lớn đối với Chúa Giêsu. Anh ta chỉ nghe người khác nói về Ngài chứ anh ta có biết gì đâu. Vậy mà anh đã tin, tin thật, không chút hồ nghi.

Thấy anh ta la lối om sòm, kêu gào nhức tai quá, nhiều người đã quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng với điệp khúc van xin: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Những người quát nạt anh ta chỉ là những người chảnh, xấu bụng, không hề biết chạnh lòng thương trước cảnh khổ của người khác. Họ đã không thương anh ta thì thôi, lại còn đâm bị thóc, chọc bị gạo. Quá chảnh!

Nhưng mặc kệ, anh ta vẫn tin tưởng và van nài. Anh ta mù mắt mà sáng hồn, kiên trì cầu nguyện. Còn chúng ta, tuy mắt sáng (và còn đẹp nữa), thế mà lại mù hồn. Đã vậy thì chớ, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà như “ra lệnh” cho Chúa vậy. Thật thế, cầu xin mãi không được thì nản lòng, bỏ cuộc, chứng tỏ đức tin chúng ta quá mong manh. Cầu nguyện kiểu như vậy chỉ là ích kỷ!

Nghe tiếng cầu xin chân thành, Chúa Giêsu đứng lại và bảo gọi anh ta lại. Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”. Chỉ chờ có thế thôi, anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh. Anh ta nói ngay: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Thế là ngay lập tức, anh ta nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Anh ta XIN và ĐƯỢC, Chúa Giêsu LẮNG NGHE và ĐÁP LẠI. Chúa Giêsu và anh mù Ba-ti-mê đã cùng hòa điệu thương xót. Thật tuyệt vời biết bao!

Mỗi người trong chúng ta đều là một nốt trong bản tổng phổ thương xót. Một nốt nhỏ đó không là gì, nhưng thiếu nốt đó thì không thể hòa điệu trọn vẹn. Tương tự, mỗi nhạc công trong một dàn nhạc cũng chẳng là gì nếu tách riêng, nhưng họ vẫn thực sự quan trọng khi hoàn tất nhiệm vụ của mình trong dàn nhạc. Cuộc sống thật kỳ lạ, có những điều bé nhỏ, xem chừng quá đỗi bình thường, nhưng chính những điều bé nhỏ đó lại chứng tỏ một tình yêu thương lớn lao.

Lạy Thiên Chúa, xin mở mắt đức tin cho con để con nhìn thấy Ngài trong tha nhân, nhất là những con người hèn mọn và đau khổ. Xin giúp con biết thể hiện lòng thương xót để con làm trọn bổn phận của một nốt nhỏ trong bài Trường Ca Yêu Thương của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

ĐÔI MẮT CỦA CHỊ NỮ TU

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận kể câu chuyện “Đôi mắt xanh của chị Nữ Tu” thật cảm động.

Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân phát xít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phát xít đến một nhà dòng kia, yêu cầu kêu Mẹ Bề trên cho ông ta gặp… Khi vừa dốc cạn ly nước từ tay Mẹ Bề trên, viên tướng Phát xít lập tức vào đề:

– Xin bà cho tôi gặp chị Maria.

Bà Bề trên bấm chuông gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sổ sàng: “Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị”.

Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng. Chị Maria vội đỡ lời: “Tôi là một nữ tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy…”.

– Không! Không! Tôi yêu chị vì chị có đôi mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá!

– Không! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy.

– Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả Nhà Dòng này!

Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: “Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát, nếu không tôi sẽ…”.

Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyệt sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: “Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt? Không, không thể được! Hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ Tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết? Không, không bao giờ như thế!”.

Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phát xít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột.

Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng… bên cạnh lại có một người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạt đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: “Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi… nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy… trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa”.

Viên tướng Phát xít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đá động gì đến Nhà Dòng nữa. (trang 175-177).

Nữ tu Maria hy sinh đôi mắt xanh tuyệt đẹp để “dọi ánh sáng vào nơi tối tăm” của cõi lòng viên tướng, nhờ vậy ông ta được sáng đôi mắt và nhìn thấy sự cao quý của một tâm hồn thanh khiết.

Đọc câu chuyện, liên tưởng đến chuyện vua Đavít được tiên tri Natan “mở mắt”. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bátsabê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy Bátsabê làm vợ. Thế là vua đã phạm hai tội ác tày đình: ngoại tình và giết người. Vậy mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua: Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách. Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: “Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra.” Bấy giờ tiên tri Natan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra. Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11,1-12,12).

Câu chuyện cũng gợi nhớ về đôi mắt mù của Nguyên Tổ trong sách Sáng Thế: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4-7).

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

– Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam – Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x.Nước mắt và hạnh phúc, trg 69-71, Lm Nguyễn Tầm Thường).

Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.

“Mù từ thuở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không ?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.

Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài. Chúa

Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Giakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bartimê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Messia “Con Vua Ðavít”. Anh kêu xin : “Rabbuni, xin cho tôi được thấy”, và Chúa Giê-su trả lời : “Hãy đi ! Niềm tin của con đã cứu chữa con”. Bartimê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người ; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giêrusalem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bartimê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

“Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu đựng những bàn tay cắt tỉa” (ĐHV 431). Lạy Chúa Giêsu, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt; để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên; để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, “Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhường. Con cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con” (ĐHV 427); xin cho con được thấy bản thân con với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta và mong muốn chúng ta luôn sống bình an, vui mừng, hạnh phúc và trong ân sủng của Chúa mãi mãi. Nhưng chúng ta thành tâm thú nhận rằng nhiều khi chúng ta mù quáng chạy theo những cám dỗ của vật chất, thú vui thế gian, sống trong sự lầm lạc, tội lỗi theo ý của chính con người chúng ta. Để đưa con người chúng ta quay trở về, hay để mở con mắt tâm hồn chúng ta, Chúa muốn chúng ta hãy thành tâm lắng nghe lời kêu mời của Chúa, nhận ra sự bất an và đau khổ mà chúng ta tự tạo cho mình, thành tâm đến với Chúa để được Chúa chữa lành. Các Bài Đọc lời Chúa hôm nay biểu lộ quyền năng, và tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người chúng ta, qua những trường hợp và hoàn cảnh khác nhau, để chúng ta nhận được ơn sủng và chữa lành của Chúa.

Trong Bài Đọc I, khi dân Do thái mù quáng sống trong lầm lạc, và không chịu nghe lời các ngôn sứ dạy bảo, quay trở về sống trong tình yêu và ân sủng của Chúa, họ đã bị ngoại bang xâm lăng và giày xéo. Kết quả là dân Do thái đã bị mất nước và bị đưa đi lưu đày nô lệ. Nhưng tình yêu thương của Thiên Chúa không bao giờ cạn cho dân Do thái, dân riêng của Chúa, cho dù họ phản bội và tội lỗi đến đâu, Chúa đã sai các ngôn sứ tới để khuyên bảo và kêu gọi họ giữ vững niềm tin và trông cậy, và Ngài sẽ giải thoát, đưa họ về quê hương làm lại cuộc đời. Là những Ki-tô hữu, chúng ta tin một cách vững chắc vào tình yêu thương và lòng nhân từ của Chúa cũng sẽ không bao giờ cạn cho chúng ta, dù chúng ta sống trong hoàn cảnh và tình trạng nào.

Trong bài đọc 2, chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Ngài chọn và gởi các thượng tế đến để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Các thượng tế thay Thiên Chúa lo lắng và chăm sóc phần hồn cho dân qua mọi thời đại. Nhưng vị Thượng Tế cao cả nhất là chính Người Con Một của Ngài, là Chúa Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người, và sứ mạng của Chúa Giê-su Ki-tô là mang ánh sáng và tình yêu thương của Thiên Chúa Cha đến cho con người trần gian chúng ta đang sống trong tội lỗi và tối tăm. Và qua Người Con Một này, Thiên Chúa muốn con người chúng ta đón nhận tình yêu của Chúa, để sống trong an mạnh, vui mừng và hạnh phúc hồn và xác.    

Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giê-su Kitô đã chữa lành cho một người mù thành Giê-ri-cô. Với một niềm tin mạnh mẽ, anh mạnh dạn vượt qua mọi trở ngại, đến xin Chúa chữa lành cho anh được thấy. Tin mừng còn cho chúng ta biết anh bị mù chứ không điếc, cho nên anh đã được nghe người ta nói về Chúa Giêsu và quyền năng của Ngài, và anh có lòng tin mạnh mẽ Ngài là Đấng có thể cứu chữa anh. Chúng ta thấy anh đã không chút ngần ngại và biết nắm lấy cơ hội để lên tiếng cầu xin với Chúa: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”

Ông bà anh chị em thân mến. Qua câu chuyện chữa lành sự đui mù thể xác, Chúa Giê-su cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta biết Ngài cũng có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn.

Có một câu chuyện về người đàn ông cứng lòng và rất khó tính, luôn phê bình, chỉ trích người khác. Vì ích kỷ, ông không bao giờ giúp đỡ hay quảng đại, và vì tự cao, cho nên ông không bao giờ nhìn thấy điều gì tốt nơi người khác, nhất là những người không đồng ý hay làm theo ý của ông. Bất cứ họ làm một việc gì kể cả việc tốt, thì ông cũng phải cố tìm cho ra một lý do để chỉ trích, phê bình, hay cố tìm một khía cạnh, một nguyên do để chống đối. Ông thường đưa ra những lý lẽ: Người đó phải có ý đồ đen tối hay dấu diếm gì, hay được cái gì lợi trong đó. Và ông thường khinh thường và hay bắt lỗi những ý kiến, những công việc của người khác, và tệ hơn nữa còn thường hay rỉ tai nói xấu người khác.

Thế rồi một ngày kia, được người vợ thúc đẩy dự buổi tĩnh tâm, và được nghe linh mục cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, ông bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp, không nhận ra được những công việc tốt lành, không nhận ra được tấm lòng của những người khác, và ông không sống trong ân sủng của Chúa.

Ông bà anh chị em thân mến. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác, vì sự đui mù tâm hồn này ngăn cản chúng ta không nhìn thấy sự thật, không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy những điều tốt đẹp của những người chung quanh, và không nhận ra tình yêu, ơn sủng của Chúa. Tật đui mù này lại thường hay lây lan. Chính vì thế là những Ki-tô hữu, mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: “Tôi có bị đui mù về tâm hồn hay không?” Nếu có, thì chúng ta hãy thành khẩn kêu cầu Chúa cứu chữa chúng ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúng ta nhận thấy người mù có một sự ao ước, khát vọng mãnh liệt và mong chờ được đối diện với Chúa để được Chúa chữa lành. Sự khát vọng này đã giúp anh vượt qua mọi trở ngại để được gặp Ngài. Chúng ta cũng tự hỏi “Chúng ta có một sự ao ước, một khát vọng mãnh liệt được gặp Chúa Giêsu như anh không?” “Chúng ta có sẵn sàng vượt mọi trở ngại trong cuộc sống để được đối diện và gặp Chúa không?”

Qua cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và anh mù, chúng ta cũng còn thấy được quyết tâm và niềm tin vững mạnh của anh. Anh không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa. Khi Chúa Giêsu đứng lại và nói với người ta gọi anh mù đến. Phản ứng của anh mù ra sao? Chúng ta thấy phản ứng của anh rất rõ ràng và quyết liệt: “Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.” Và khi nghe Chúa Giêsu hỏi: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Anh mù đáp không một chút do dự và mạnh mẽ thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy.” Tức khắc, anh nhìn thấy được, cũng như nhìn thấy con đường Chúa đang đi, và cũng từ lúc đó, anh quyết định đi theo con đường Chúa đi.

Chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy được con đường Chúa đi, và nhất là thấy được tình yêu thương bao la của Chúa cho chúng ta, để chúng ta có một niềm tin vững chắc vào Chúa, và can đảm đi theo con đường con đường Chúa chỉ bào, để chúng ta trở thành ánh sáng Chúa Ki-tô, dẫn dắt người khác đến với Chúa, và luôn sống trong an mạnh, hạnh phúc và trong ân sủng tình yêu thương của Chúa.

Về mục lục

.

MÙ LÒA

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Có nhiều thắc mắc chúng ta khó trả lời. Tại sao Chúa lại để cho người này, người kia mù lòa, câm điếc hay bất toại? Nếu chỉ nhìn vào cuộc sống tự nhiên, chúng ta không tìm được câu trả lời thích đáng. Chính vì thế, nhiều người cảm thấy bất hạnh. Chúa Giêsu đã đến như một nguồn ánh sáng làm cho chúng ta nhận biết được giá trị của những bất toàn trong đời sống.

Phúc âm hôm nay tả cảnh Chúa chữa lành cho người mù ăn xin vệ đường. Anh mù đến van xin Chúa rằng: Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu đáp: Được, đức tin của anh đã chữa anh. Anh đã được thấy và thấy rõ hơn cả những người nghĩ mình có mắt sáng. Biết bao người có mắt sáng chung quanh anh. Họ trông thấy Chúa nhưng họ không nhìn biết Chúa. Họ đâu có nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ đâu có tin Chúa có quyền phép vô cùng. Anh mù đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, Đấng có thể chữa anh. Chúa đã chữa mắt thể xác và cả mắt tinh thần cho anh.

Chúng ta có mắt sáng nhưng không phải chúng ta nhìn thấy mọi sự. Có nhiều điều xảy ra chung quanh mà chúng ta không thấy. Đôi khi mắt chúng ta bị che khuất bởi sự ích kỷ, lòng hẹp hòi, sự ghen tương, lòng hận thù, chúng ta không nhận ra được sự tốt lành nơi người khác. Chúng ta có những điểm mù trong cuộc sống. Điểm mù của con mắt tinh thần làm chúng ta không nhận ra nhân phẩm xứng đáng của anh chị em.

Truyện kể người ta thấy một em bé gái mù lòa, mặt mày hốc hác, quần áo rách rưới đứng co ro ở một góc đường để xin ăn. Cô bé trông bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, ốm o bệnh hoạn. Lúc ấy, một ông ăn mặc sang trọng lái xe ngang qua đó trông thấy cô bé nhưng ông chẳng thèm nhìn đến lần thứ hai. Khi lái xe về đến nhà, thoải mái trong căn hộ ấm cúng với vợ con. Trước mâm cơm thịnh soạn, hình ảnh cô bé bỗng hiện ra rõ rệt trong đầu ông. Ông thở dài và phàn nàn cùng Chúa: Tại sao Chúa để cho những hoàn cảnh đáng thương như thế xảy ra trên cõi đời này?  Hình ảnh cô bé cứ ám ảnh ông, không chịu được sự dằn vặt ông trách Chúa: Chúa phép tắc vô cùng, tại sao Chúa không làm cái gì để giúp cô bé nghèo khổ đáng thương ấy. Lúc ấy, tự thâm tâm ông nghe tiếng Chúa phán cùng ông rằng: Ta đã làm rồi chứ sao lại không.  Điều này  Ta dành cho con đó. Ta đã dựng nên con mà.

Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con quan chiêm những kỳ công của Chúa. Xin cho con mắt đức tin của chúng con mở sáng để chúng con nhìn được hình ảnh Chúa nơi anh chị em của chúng con.

Về mục lục

.

 

THẤY VÀ KHÔNG THẤY ĐƯỢC

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Hôm thứ bảy, ngày 3/10/2015, trước ngày khai mạc Thương Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, Toà thánh đã sa thải một Đức Ông người Balan tên Charamsa, là nhân viên trong Bộ Giáo Lý Đức Tin. Ông đã công khai nhận mình chung sống với một người bạn trai đồng tính. Ông tổ chức họp báo lên tiếng chống đối quan điểm của Giáo hội về vấn đề đồng tính, đồng thời gây sức ép lên Thượng Hội Đồng đang họp bàn về gia đình. Sự việc một linh mục phá giới vẫn thường xảy ra, tuy nhiên sự kiện linh mục Charamsa lại được báo chí thế giới và Việt nam khai thác triệt để. Các báo chí đã chạy những tựa bài giật gân để đánh lạc hướng sự kiện kiểu như: “linh mục bị cắt chức vì đồng tính”. Giáo hội chưa bao giờ kỳ thị người đồng tính, nhưng luôn thông cảm và tìm ra đường hướng mục vụ để giúp đỡ họ sống tốt, sống thánh ngay trong tình trạng của mình.

Sự thật của việc Toà thánh sa thải vị linh mục Chamasa không phải vì quan điểm của ông, cũng không phải vì ông đồng tính, nhưng là vì ông đã vi phạm lời hứa sống độc thân khiết tịnh, ông hãnh diện giới thiệu bạn tình của mình với báo chí. Ông lớn tiếng cáo buộc Vatican “dối trá” nhưng thực ra chính ông là kẻ dối trá. Ông đã không sống theo lời cam kết khi thụ phong linh mục, ông vừa muốn nổi danh trong giáo hội, vừa muốn sống như một người ngoài Công giáo, vừa muốn là linh mục lại vừa muốn có bạn tình. Vì thế ông đã biến mình trở thành con cờ của truyền thông.

Sống trong một xã hội thật giả lẫn lộn cùng với truyền thông vô lương tâm, thiếu trách nhiệm, nhiều người như bị lạc lối, bị hoang mang, chúng ta cần tỉnh táo sáng suốt để nhìn thấy sự thật.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, thì có một người mù tên là Bartimê đến xin với Chúa Giêsu: Lậy Thầy, xin cho tôi được nhìn thấy. Câu chuyện trên mang nhiều ý nghĩa. Trước hết, Giêricô là một thành phố được nhắc đến như một chốn tối tăm tội ác, là hang ổ của gian dối và tội phạm. Chúa Giêsu là ánh sáng, là chân lý và sự thật đã đi ngang qua nơi ấy để đem ánh sáng đến cho vùng này.

Anh mù ngồi bên vệ đường là hình ảnh của những con người bị mù thể xác và bị mù tối cả trong tâm hồn. Tình trạng của anh hết sức tồi tệ: rách rưới bẩn thỉu, ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng dường như không ai quan tâm. Khi nghe biết Đức Giêsu Nazareth đi ngang qua, anh đã kêu lên: Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Lời kêu xin này cho thấy con mắt đức tin của anh đã bắt đầu hé mở. Anh gọi Đức Giêsu là con vua Đavít, tức là anh đã tin Ngài chính là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo, là Đấng cứu thế. Đức tin của anh vừa hé mở thì đã bị bóng tối của những người chung quanh lấn lướt. Họ quát nạt anh, cấm không cho anh nói, nhưng anh vẫn kiên trì kêu to hơn: Lạy con vua Đavít xin dủ lòng thương tôi.

Dù những người khác cố tình dập tắt đức tin của anh, nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy anh, ánh sáng của tình thương và ơn cứu độ đã dừng lại trên anh. Chúa Giêsu đã đứng lại và truyền gọi anh đến với Ngài. Anh vất chiếc áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Vất lại đàng sau chiếc áo choàng, có nghĩa là anh đã chấp nhận vứt bỏ lại đang sau quá khứ mù tối của mình, vứt bỏ chiếc áo hôi hám bẩn thỉu là con người cũ để bước đến với Chúa Giêsu là ánh sáng và chân lý.

Mặc dù biết được sự thiện chí, sự khao khát trong tâm hồn của anh, nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn để anh phải công khai nói lên ước nguyện của mình, khi Ngài hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Người mù đáp lại: Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được. Anh không xin được thấy một cách chung chung, nhưng anh xin cho tôi thấy được, và Chúa đã cho anh được thấy. Anh thấy Chúa Giêsu và anh tin vào quyền năng của Ngài. Chúa đã mở mắt thể lý để anh có thể thấy mọi vật mọi loài, nhưng quan trong hơn, Chúa đã mở mắt tâm hồn để anh nhận biết Ngài không chỉ là con vua Đavít mà còn là chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban lại cho anh không chỉ ánh sáng cho đôi mắt, nhưng Ngài còn cho anh ánh sáng chân lý đức tin. Tác giả kết luận câu chuyên bằng lời nhận xét: Anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Con đường Chúa Giêsu đi là con đường sự thật và chân lý: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Anh Bartimê đã bước theo con đường và giáo huấn của Ngài là bước theo sự thật và sống theo cách sống của Ngài, trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Con đường Chúa Giêsu đi là con đường lên Gierusalem để hoàn tất thánh ý của Thiên Chúa Cha muốn. Thiên Chúa muốn Ngài yêu thương tới cùng, phục vụ cho tới cùng và đón nhận thập giá với tình yêu mến và vâng phục Chúa Cha trọn vẹn, để quy tụ và đưa mọi người về với Thiên Chúa.

Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc một đã nói trước về niềm vui hân hoan khi Đấng Cứu thế con vua Đavít sẽ đến, nay đã ứng nghiệm. Ngài là đấng quy tụ mọi kẻ tản mác trở về, đem lại niềm vui hân hoan cho họ. Ngài sẽ cứu họ khỏi cảnh tối tăm cùng cực của nô lệ và giải thoát họ khỏi sự ràng buộc bởi đau khổ bệnh tật xác hồn: Ngày ấy kẻ đui mù què quặt, kẻ mang thai, người ở cữ đều được Thiên Chúa quy tụ về, Ngài sẽ dẫn họ trên đường ngay nẻo chính họ sẽ không còn bị vấp ngã nữa.

Ngày hôm nay chúng ta đang sống trong thời đại của ánh sáng văn minh, sự tiến bộ của khoa học, nhưng có rất nhiều người vẫn đang bị mù loà. Không chỉ mù mắt, mà người ta còn nói đến nhiều tình trạng mù khác: mù chữ, mù thông tin. Nhưng điều đáng nói hơn là mù chân lý, mù sự thật và mù tối trong đức tin. Noi gương anh Bartimê, chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin Ngài: Lậy Thầy, xin cho con thấy được.

Xin, để thấy được con người thật của mình- Vì nhiều người ngày này đang sống với cái mặt nạ tốt đẹp bên ngoài, nhưng bộ mặt thật thì lem luốc. Họ hào nhoáng rộng rãi vui vẻ với bạn bè nhưng lại hẹp hòi với cha mẹ, vợ con trong gia đình. Xã hội ngày nay trọng hình thức thì cũng đồng thời tạo ra những con người sống hình thức bên ngoài nhưng giả dối bên trong. Nhận ra con người thật của mình để biết mình đang đi con đường nào, đúng hay sai, để cùng với ơn Chúa mỗi người tự điểu chỉnh bản thân cho đúng hướng hơn.

Xin thấy được tình trạng của gia đình mình, thấy những nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Nhiều người vì bận rộn với cuộc sống với cơm áo gạo tiền, khiến họ bỏ rơi việc chăm sóc cho các thành viên của gia đình. Nhiều gia đình đang bị bóng tối của bạo lực, của bất trung bao trùm khiến cho gia đình không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Nhiều bậc cha mẹ đã để gia đình mình sống trong bóng tối của gian dối, qua những kiểu làm ăn thiếu lương thiện.

Noi gương anh Bartimê, xin Chúa mở mắt để mỗi người nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa trong cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện và chờ đợi chúng ta mở cửa lòng để cho Ngài bước vào. Ngài vẫn kề bên mỗi người để giúp chúng ta giải gỡ những khó khăn và giúp chúng ta thành công. Vì thế đừng bao giờ tỏ ra vô ơn trước ân huệ của Thiên Chúa.

Sống trong một xã hội bị ảnh hưởng bởi truyền thông xấu, bị tuyên truyền nhồi nhét sai lạc, gian dối, khiến cho nhiều người lầm lẫn, hồ nghi về chân lý đức tin, về giáo hội của mình. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để nhìn thấy sự thật và dám lên tiếng bênh vực cho sự thật. Xin mở mắt đức tin để chúng ta nhận ra chân lý và giáo huấn của Chúa, giúp chúng ta biết dùng Lời Chúa và giáo huấn của Ngài để đánh giá mọi sư việc xảy đến trong xã hội cũng như cho bản thân.

Tiền bạc của cải và sự ích kỷ cũng đang làm cho nhiều người trong chúng ta trở nên mù loà, khiến nhiều người không còn nhìn thấy sự hiện diện và những nhu cầu của anh em đang cần chúng ta giúp đỡ. Xin Chúa mở mắt để chúng ta có thể nhìn thấy những nỗi thống khổ của anh em để biết chia sẻ và trao tặng. Xin đừng bao giờ để chúng ta mù loà làm ngơ trước nỗi bất hạnh của họ.

Sau cùng xin Chúa mở mắt tất cả chúng ta để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Lời Chúa và bước đi theo Chúa trên con đường thập giá, nhờ đó chúng ta có thể trở nên môn đệ đích thật của Chúa Giêsu. Amen.

Về mục lục

.

CẦN ĐƯỢC YÊU THƯƠNG

Lm. Jos. DĐH

Truyện dân gian “Mù xem voi”, miêu tả 5 ông mù đi xem voi thật đáng thương. Ông mù nào cũng muốn khẳng định khả năng tiên đoán của mình ! Dù mắt không sáng, mỗi ông thầy bói ấy, nhất quyết giữ lập trường của mình về hình ảnh chú voi, vì thế mà đã xảy ra xung đột cãi vã, đánh nhau…. Truyện “mù xem voi” gợi lên giá trị sâu sắc về việc đánh giá sự vật, hiện tượng, không nên chủ quan, cứng ngắc. Tính sâu sắc của ngụ ngôn còn cho thấy : con người luôn giới hạn, cần được yêu thương hơn là oán trách, mọi người hãy đón nhận nhau, giúp nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề hơn là độc tài, bảo thủ ý kiến riêng của mình.

Sáng mắt mà sống như mù lòa, không nhìn thấy gì nhưng lại cho mọi người cảm nhận “anh ta” thật sáng suốt, đúng là nghịch lý mà Tin mừng hôm nay nói tới. Sống trên đời, ai cũng vận dụng đôi tai để nghe, đôi mắt để nhìn, nhằm giúp tâm trí phân biệt tốt xấu, phải trái. Nhờ nghe, nhìn, hiểu, người ta phát hiện ra ai cũng cần được yêu thương. Giữa đám đông đầy xáo trộn, nhiều người sáng mắt nhưng họ chỉ nhận biết Đức Giêsu là Vị Thầy thỉnh thoảng làm phép lạ. Anh mù Bartimê tuy không có lợi thế nhìn, nhưng nhờ nghe, anh ta tin, và anh tuyên xưng “Đức Giêsu là Con Vua Đavit” !

Người xưa nói rằng : người ta bà con vì tình vì nghĩa, không ai bà con vì tiền vì bạc. Trong khi ai cũng muốn bà con với Thầy Giêsu, chẳng thấy ai bà con tình nghĩa gì với người mù bên vệ đường, còn có nhiều người la mắng “hãy im đi”. Kinh nghiệm cho thấy : già cần sức khỏe, trẻ cần kiến thức, đói nghèo cần cơm bánh để sống, anh mù Bartimê cần được sáng mắt, chứ không tiền của. Thực tế thì hôm nay ai trong chúng ta đây cũng là bà con của Chúa Giêsu rồi. Chúng ta đầy tình nghĩa, đầy tình yêu thương, mỗi chúng ta còn đang thiếu một thứ, có thể là hạnh phúc, là bình an, là Nước Thiên Chúa.

Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu đến trần gian để thực thi sứ mạng yêu thương cứu độ, Ngài muốn là bà con, là anh chị em với mọi người không phân biệt sang hèn, đau ốm khỏe mạnh, tội lỗi thánh thiện. Đám đông dân chúng ở Giêricô hôm nay không thể hiện được mơ ước họ đang cần Đức Giêsu đáp ứng điều gì ! cũng trong những con người tội nghiệp ấy, anh mù là đại diện kẻ cần được yêu thương kêu xin Chúa ban cho ơn được sáng, được thấy.

Ngày hôm nay, có thể người ta từng cười châm biếm những ông mù diễn tả hình thù con voi, từng coi thường đám đông Do-thái cản đường cản lối anh mù Bartinê ! Thực ra, mù không nhìn thấy là đau khổ, mắt tinh tai thính mà không thấy, không biết, Đức Giêsu là ai có gì là phúc đâu ? Nhưng để thế hệ sau không cười, không khinh thường chúng ta là những kẻ “mờ mờ ảo ảo”, trước hết mỗi chúng ta phải chứng minh được con người ai cũng cần được tình yêu thương. Dù không mù lòa câm điếc, không ích kỷ hồ đồ với anh chị em sống bên cạnh mình, không giả điếc làm ngơ trước sự hiện diện của tình yêu, Ngài cũng không thể chấp nhận ta lấp lửng với hạnh phúc chân thật được rộng rãi ban.

Hiện tại Đức Giêsu không vào thành Giêricô, nhưng môn đệ của Ngài vẫn vào thành, vào từng giáo xứ, từng gia đình, từng tâm hồn. Đức Giêsu không thích chúng ta ngốc nghếch kiểu “hỏi sư mượn lược, vào chùa xin thịt chó” ! Đức Giêsu hôm nay chúng ta có thể gặp ở mọi nơi, điều đáng quan tâm là ta có nghe, có biết, có nhìn thấy Chúa Giêsu vẫn là Thầy là Chúa, như anh mù Bartimê tuyên xưng không ? Đúng hơn, Đức Giêsu vẫn đang hỏi từng người chúng ta : “anh muốn Ta làm gì cho anh” ? Vì Ngài biết, tuy ta không mù, không điếc, không câm, nhưng ta vẫn cần được chăm sóc yêu thương!

Triết lý cuộc đời vẫn gợi lên nhiều bài học : bạn có thể tìm được sức mạnh ngay cả trong những khiếm khuyết của bạn. Anh mù Bartimê đã khiến đám đông bừng tỉnh, khi mắt tâm hồn anh không hề mù tối, tai anh ta thính đến độ biết Đức Giêsu là ai, miệng anh ta hoàn toàn tự do tuyên xưng niềm tin của mình. Có một ước mơ gặp Đức Giêsu không khó, giữ được mơ ước Đức Giêsu sẽ chữa lành cho những khiếm khuyết của ta, và quyết tâm thực hiện mơ ước của mình như anh mù Bartimê quan trọng hơn nhiều.

Thành ngữ có câu : khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giầu nghèo ba mươi tết mới hay. Mỗi chúng ta nên chứng minh cho mọi người biết mình là con cái Chúa, không thể sống mà thiếu tình yêu thương, không thể im lặng khi tai mắt và tâm hồn ta hoàn hảo không khiếm khuyết. Anh mù được sáng mắt không phải vì anh ta giầu, hay gặp may, mà chính là do anh ta biết thưa với Đức Giêsu điều cần thưa : “hỡi Ông Giêsu Con Vua Đa-vít, xin thương xót tôi”. Và Chúa đã trả lời cho anh bằng một ngôn ngữ cụ thể : “được, đức tin của anh đã cứu chữa anh”. Các bạn hãy cùng tôi gặp Đức Giêsu, hãy thể hiện niềm tin, hãy thực hành khao khát của mình đi, Ngài sẵn lòng đáp ứng điều ta kêu cầu đó. Amen.

Về mục lục

.

XIN CHO CON SÁNG MẮT

ĐỂ ĐƯỢC SÁNG LÒNG MÀ ĐI THEO CHÚA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 10,46-52

(46) Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêricô. khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành khất mù, tên là Báctimê, con ông Timê, đang ngồi ở vệ đường. (47) Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (48) Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi. Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. (49) Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm đứng dậy, Người gọi anh đấy!” (50) Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy, mà đến gần Đức Giêsu. (51) Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. (52) Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

  1. Ý CHÍNH:

Trên bước đường đi về Giêrusalem để chịu tử nạn và phục sinh, thì tại thành Giêricô, Đức Giêsu đã chữa cho một người mù tên là Báctimê, đang ngồi ăn xin bên vệ đường, vì anh đã tin cậy nơi Người. Qua phép lạ mở mắt người mù này, Người muốn mở mắt đức tin cho các môn đệ, để họ thấy được ý nghĩa cao cả của sứ mạng cứu thế mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem là: “Qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh”.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 46: + thành Giêricô: Giêricô có nghĩa là “mặt trăng”, một thành ở thung lũng sông Gio-đan, cách biển Chết 5 cây số và cách Giêrusalem khoảng 25 cây số. Thời Xuất hành, Giêricô là thành đầu tiên mà con cháu Gia-cóp, dưới sự lãnh đạo của Giosuê tiến chiếm được (x. Gs 5,13tt). Dụ ngôn người Samari tốt lành cũng nhắc đến đoạn đường từ Giêrusalem xuống Giêricô (x. Lc 10,30). + có một người hành khất mù: Hành khất là người ăn xin. Đây là một người đói khổ về vật chất, đang cần được giúp đỡ. Anh ta còn bị mù, tượng trưng cho người đang đi trong tăm tối vì chưa nhận biết và tin Đức Giêsu. Có thể Đức Giêsu chữa một lúc hai người mù (x Mt 20,30), nhưng ở đây Máccô chỉ ghi lại một người và nêu rõ tên là Báctimê. + ở vệ đường: đồng nghĩa với “đầu đường xó chợ”, nói lên hoàn cảnh bơ vơ không nơi nương tựa của ngươi mù. anh ta tượng trưng cho số phận đau khổ của “Người nghèo của Đức Giavê”, đối tượng được Đức Giêsu ưu tiên mời gia nhập vào Nước Trời của Người.    

C 47-48: + Đức Giêsu Nadarét: Giêsu nghĩa là “Giavê cứu độ”. trong Thánh Kinh có một số người cũng tên là Giêsu (x.Hc 50,27; Lc 3,29; Cl 4,11). Để phân biệt, người ta thường thêm tên quê hương vào sau tên gọi. Giêsu nói đây chính là Đức Giêsu quê làng Nadarét. + Con Vua Đavít: Anh mù gọi Đức Giêsu kèm tước hiệu “Con Vua Đavít” cho thấy nhiều người Do thái đã tin Đức Giêsu là “Đấng Thiên Sai”, nhưng họ lại đang mong đợi một Đấng Thiên Sai trần thế, đến giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma (x. Mt 22,42; Ga 7,42). + “Xin dủ lòng thương tôi”: Lời cầu xin này nói lên sự khiêm hạ và lòng tin mạnh mẽ của anh mù vào quyền năng Đức Giêsu. Anh trông cậy Người sẽ làm cho anh được sáng mắt như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm về sứ mệnh của Đấng Thiên Sai: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” (Is 35,5-6). + Nhiều người quát nạt bảo anh im đi: Một số người ở gần anh mù tỏ vẻ bực tức trước việc anh ta kêu la lớn tiếng. Họ bắt anh mù phải im lặng để họ nghe được lời Đức Giêsu lúc đó đang vừa đi đường vừa giảng dạy. + Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con Vua Đavít! Xin dủ lòng thương tôi”: Vì tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu Thiên Sai, nên anh mù bất chấp mọi rào cản: Người ta càng cấm, thì anh lại càng kêu la thống thiết hơn: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”.

C 49-50: + Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy! Người gọi anh đấy”: Thái độ của đám đông đối với anh mù đã thay đổi: Từ khinh thường nạt nộ đến tôn trọng và nhỏ nhẹ hơn với anh. + Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu: Áo choàng là một vật thiết thân đối với khách bộ hành và người ăn xin. Nó thường được dùng làm dù che cơn nắng gắt ban ngày và làm mền đắp cho ấm ban đêm. Vậy mà khi nghe nói “Người gọi anh đấy”, anh ta liền vất áo choàng lại, đứng bật dậy mà chạy mau về phía Đức Giêsu, như thể anh đã được sáng mắt rồi vậy.

C 51-52: + “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”: Dù đã biết rõ anh mù muốn xin gì rồi, nhưng Đức Giêsu vẫn tạo cơ hội để anh ta biểu lộ đức tin. + “Xin cho tôi nhìn thấy được”: Anh mù không xin tiền bạc hay đồ ăn thức uống như mọi khi, mà chỉ xin được sáng mắt, được nhìn thấy mọi sự như bao người khác. + “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”: Điều kiện để được Đức Giêsu cứu chữa là phải có đức tin, như khi Người chữa lành cho hai người mù (x. Mt 9,29), chữa người phong cùi (x. Lc 17,9)… + Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi: Anh mù chỉ xin được sáng mắt thể xác, nhưng Đức Giêsu lại ban cho anh được sáng cả mắt linh hồn, để anh có đức tin trọn vẹn, nhìn thấy được con đường Người sắp đi và can đảm bước theo Người lên Giêrusalem, trải qua mầu nhiệm “qua đau khổ vào vinh quang” để sau này được hưởng ơn cứu độ muôn đời.

  1. CÂU HỎI:

1- Thành Giêricô là thành nào? Sách Xuất hành đề cập tới tên thành này trong trường hợp nào? Đức Giêsu cũng nói tới tên thành này trong dụ ngôn nào?

2- Số người mù được Đức Giêsu chữa lành trong 2 Tin Mừng Matthêu và Máccô có giống nhau không? Tại sao?

3- “ngồi ở vệ đường” nói lên hòan cảnh của người mù này ra sao?

4- Tên gọi Giêsu nghĩa là gì? Tại sao Đức Giêsu được người mù gọi là Giêsu Nadarét?

5- Qua việc kêu cầu Đức Giêsu với danh hiệu “Con Vua Đavít”, người mù biểu lộ đức tin thế nào về Người? Còn dân Do Thái lại đang trông mong một Đấng Thiên Sai theo nghĩa nào?

6-Lời kêu xin của người mù cho thấy đức tin của anh vào Đức Giêsu ra sao?

7- Tại sao dân chúng lại cấm anh mù kêu lớn tiếng? Lý do nào khiến anh mù càng kêu la thống thiết hơn?

8- Anh mù đã phản ứng thế nào với chiếc áo chòang thiết thân khi nghe biết Đức Giêsu đang gọi anh đến với Người?

9- Tại sao Đức Giêsu lại hỏi anh mù muốn được Người làm gì dù đã nghe rõ lời kêu xin của anh?

10- Trong Tin Mừng, Đức Giêsu luôn đòi người ta phải có điều kiện gì để được Người làm phép lạ? 11-Ngòai việc được sáng mắt thể xác, anh mù còn được Người ban ơn gì về linh hồn?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng bật dậy mà đến gần Đức Giêsu (Mc 10,50):
  2. CÂU CHUYỆN:

1) TÌM THẤY MẸ NHỜ CON MẮT TÌNH YÊU:

Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có khá đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác và kêu lên vậy?”. Anh lính trẻ liền đáp: “Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp lại được mẹ như mẹ đã thấy đó”.

2) AI MỚI LÀ NGƯỜI BỊ MÙ ?

Một anh mù kia đến nhà bạn chơi. Lâu rồi không gặp nên hai người nói chuyện mãi đến quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới từ giã bạn ra về. Thấy đường làng tối thui, người bạn liền bảo anh mù: “Này anh bạn, hãy để tôi thắp cho anh một cây đèn dầu, vì bên ngoài trời đã tối quá rồi”. Anh mù nghĩ bạn muốn trêu đùa nên trả lời: “Anh nói gì vậy? Tôi bị mù thì có cầm đèn sáng trên tay hay không đâu có khác gì nhau?”. Anh bạn kia liền nói: “Ý tôi là anh nên cầm cái đèn cháy sáng để người khác nhìn thấy ánh đèn sẽ tránh không đụng vào bạn”. Anh mù nghe ra liền cám ơn bạn và vui vẻ cầm đèn ra về. Nhưng mới đi được một đoạn thì bỗng anh mù bị một người đi ngược chiều đụng phải và bị té. Quá tức giận, anh lồm cồm bò dậy và chửi đổng: “Mù hay sao mà không thấy cây đèn ta cầm trên tay?”. Người kia liền đáp lại: “Mi mới thật là kẻ mù ! Đèn trên tay mi đã tắt lâu rồi mà sao còn dám mắng ta ?”.

  1. THẢO LUẬN:

1)Làm thế nào để nhận ra ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta?

2)Khi gặp phải tai nạn hay một điều rủi ro trái ý, bạn cần làm gì để theo đúng con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” của Đức Giêsu?

  1. SUY NIỆM:

1) Anh mù gặp Chúa đã được sáng mắt và được sáng lòng: 

– Tin mừng hôm nay ghi nhận câu chuyện về người mù thành Giêricô đã chạy đến với Đức Giêsu không nhờ con mắt thể xác nhưng nhờ con mắt đức tin của anh. Tuy mắt anh không nhìn thấy Đức Giêsu, nhưng chính con mắt đức tin đã mách bảo và dẫn đường để anh chạy đến với Người. Trước đó anh đã nghe đồn Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và anh đã ao ước gặp Người để xin Người chữa anh khỏi bị mù. Vì thế khi nghe thấy một đám đông đang tiến đến gần chỗ anh đang ngồi ăn xin bên vệ đường và anh nghe tiếng của một ráp-bi đang vừa đi đường vừa giảng, thì anh liền dò hỏi người chung quanh. Khi biết vị tôn sư kia chinh là Đức Giêsu Nadarét, là người mà anh đã nghe biết và mong sớm được gặp mặt.

– Bấy giờ anh mù liền kêu to: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Dù bị nhiều người đi trước cấm nói to, nhưng anh mù lại càng la to hơn với hy vọng được Đức Giêsu nghe thấy. Quả thật Đức Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu cứu của anh và Người cho gọi anh đến gặp Người. Nghe vậy anh mù liền quăng chiếc áo choàng đang khoác trên mình lại, để nhảy chồm dậy chạy mau đến gặp Người như trước đó anh chưa hề bị mù. Sau khi nghe biết lòng tin và lòng mong ước của anh, Đức Giêsu liền tuyên bố: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”.

– Lập tức anh mù đã được sáng mắt để thấy được đường đi, mà anh còn được sáng lòng để tin Đức Giêsu và tình nguyện theo Người lên Giêrusalem để cùng Người đi con đường “qua đau khổ thập giá vào vinh quang phục sinh”.

2) Xin Chúa mở mắt đức tin cho chúng ta:

– Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh mù thể xác, và Người cũng chữa lành bệnh mù tâm linh. Chính sự mù tối tâm linh này còn tác hại hơn bệnh mù thể xác. Nó biểu hiện ra bằng thái độ  không chấp nhận sự thật của đức Tin, không nhận ra tình thương và những sự thiện hảo nơi người khác. Vậy mỗi người chúng ta cần tự hỏi mình vào buổi tối trước khi đi ngủ: Hiện giờ tôi có bị bệnh mù tối tâm linh nói trên hay không? Nếu có, hãy xin Chúa chữa lành như người mù trong Tin Mừng hôm nay bằng lời cầu như sau: “Lạy Chúa. Xin hãy mở mắt linh hồn con ra để con biết nghĩ đến người khác và biết cảm thông để chia sẻ tình yêu thương phục vụ cho họ”.

– Trong gia đình, vợ chồng cần sáng mắt tâm linh khi biết quan tâm cảm thông với nhau và động viên nhau chu toàn nhiệm vụ lo cho gia đình được hòa hợp hạnh phúc…

– Trong khi giao tiếp xã hội, mỗi người chúng ta thay vì chỉ nhìn thấy khuyết điểm lầm lỗi của kẻ khác, chúng ta hãy quan tầm tìm ra mặt tốt của họ. Cần ý thức rằng: Dù là một kẻ xấu xa phạm tội cướp của giết người không gớm tay thì trong lòng họ vẫn còn ít nhất 5 phần trăm tốt. Điều quan trọng là chúng ta phải khám phá ra và nhân rộng những điều tốt này để giúp họ loại trừ dần 95 phần trăm điều xấu tội lỗi kia. Bởi đó, cùng với anh mù trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội và ban cho con được sáng mắt đức tin để con nhận biết Chúa đang hiện thân trong anh chị em con và giúp họ ngày càng nên tốt giống Chúa hơn”.

3) Đừng ngăn cản lương dân và những người tội lỗi đến với Chúa:

– Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy thái độ không tốt của những người đang đi trước Đức Giêsu, khi nghe anh mù la to: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” thì họ đã quát nạt bắt anh phải im lặng. Khi lời kêu cầu của anh mù đã được Đức Giêsu nghe và truyền dẫn anh đến gặp thì những người kia mới dịu giọng và giúp đỡ anh gặp được Người. Những người này đã trở thành rào cản anh mù đến với Đức Giêsu. Họ giống như những đầu mục Do thái đã bị Đức Giêsu quở trách: “Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt 23,13).

– Còn chúng ta cũng trở thành rào cản đáng trách, khi chúng ta ngăn chặn anh em tội nhân đến với Chúa bằng những câu nói nghi kỵ và khinh dể tội nhân… Chẳng hạn: Khi thấy một người đã từng nghiện rượu, cờ bạc, hút sách, trộm cắp giờ muốn hoàn lương… Lẽ ra phải khích lệ thì chúng ta lại nghi ngờ và nói những lời không tin họ thành tâm đến với Chúa.

– Ngoài ra, các tín hữu chúng ta còn gián tiếp ngăn cản người lương đến với Chúa khi sống bê tha tội lỗi hơn người lương, khiến nhiều người đang muốn theo đạo bị khựng lại khi họ chứng kiến sự gian tham, ăn ở bất công độc ác và hà hiếp bóc lột người dưới, hoặc khi thấy có vị mục tử bị đưa ra tòa xét xử vì những tội ác xấu xa… Bấy giờ chúng ta đã trở thành người phản chứng, thành rào cản khiến cho anh em lương dân khó lòng tin theo Chúa.

4) Cần làm gì để đi theo Chúa noi gương người mù hôm nay ? : 

– Mỗi ngày chúng ta hãy xin Chúa mở mắt linh hồn để nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong những kỳ công Người đã làm trong vũ trụ thiên nhiên, nơi bản thân ta và nơi tha nhân… rồi dâng lời ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa.

– Mỗi khi gặp tình huống khó giải quyết, không biết phải chọn đi đường nào, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu mở mắt đức tin bằng việc lắng nghe Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng theo ý Chúa. Khi gặp rủi ro thất bại, chúng ta hãy tín thác cậy trông vào Chúa quan phòng và sẵn sàng chấp nhận đi con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” noi gương người mù trong Tin Mừng hôm nay đã làm.

– Trong mọi giây phút cuộc đời, chúng ta hãy luôn biết khiêm tốn chạy đến xin Chúa Giêsu mở con mắt đức tin để thấy được sự thật toàn vẹn. Bấy giờ Người sẽ chỉ cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Cha và nhận ra mọi người đều là anh chị em con một Cha chung trên trời là Thiên Chúa. Người sẽ dẫn đường cho chúng ta về trời qua con đường hẹp, leo dốc nhiều gai chông sỏi đá, vác thập giá hằng ngày, con đường yêu thương hy sinh phục vụ: cùng chết với Chúa Giêsu để cùng được phục sinh với Người sau này.

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong lòng con, để con biết năng đến tâm sự với Chúa. Xin cũng mở mắt đức tin giúp con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thiên nhiên, để con dâng lời ngợi khen Chúa. Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thánh lễ và nơi Nhà Tạm để con năng đến nghe Lời Chúa dạy và được kết hiệp mật thiết với Chúa nhờ việc rước lễ và biết chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho tha nhân. Xin cho con sáng mắt đức tin để nhìn thấy Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo hèn, khuyết tật hay đang bị bỏ rơi và tuyệt vọng… để con động viên an ủi và ân cần phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, hầu con nên chứng nhân cho tình thương của Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

XIN THƯƠNG XÓT CON

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh,
dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,
nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,
chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.
Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai
hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.
Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.
Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,
ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.
Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.
Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.
Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.
Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,
anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,
tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,
nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh,
nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.
Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.
Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.
Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,
vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.
Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng
vất bỏ cái áo choàng vướng víu,
nhẩy cẩng lên mà đến với Ðức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt,
bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.
Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.
Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.

“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại.”
Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.
Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.
Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.
Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.
Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.
Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.

Cầu Nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Về mục lục

.

LÒNG TIN CỦA ANH ĐÃ CỨU ANH

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXX Thường Niên, năm B hôm nay kể lại cho chúng ta câu chuyện người mù ăn xin được sáng mắt. Trước hết, chúng ta được mời gọi tạ ơn Chúa, vì đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng, và cùng cầu xin Chúa cho đôi mắt của chúng ta, nhờ lòng tin, không chỉ nhìn mọi sự như những sự vật « tự nhiên », chẳng hạn thế giới sáng tạo, hay chỉ nhìn mọi sự có trong cuộc sống như những sự vật để hưởng thụ tùy thích, nhưng còn như những dấu chỉ nói cho chúng ta về những kì công của Thiên Chúa, về sự hiện diện của Thiên Chúa, về tình yêu và lòng thương xót của Chúa, như lời Thánh Vịnh diễn tả :

Chỉ có Người làm nên những kỳ công vĩ đại,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

(Tv 136, 4)

  1. Một người mù đang ngồi ăn xin

Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô tương đối ngắn, nhưng lại có nhiều chi tiết về lí lịch và hoàn cảnh của người mù ăn xin :

  • Anh tên là Ba-ti-mê
  • Anh là con ông Ti-mê.
  • Anh ngồi bên vệ đường, gần thành Giê-ri-cô

Người mù ăn xin ở bên vệ đường, gần thành Giê-ri-cô có một tên riêng, anh có cha có mẹ, anh thuộc về một gia đình. Như thế, nỗi bất hạnh và khốn khổ của anh liên quan đến nhiều người, nhất là của những người thân yêu. Và chúng ta có thể nói, nỗi bất hạnh và khốn khổ của anh cũng là nỗi bất hạnh và khốn khổ của những người thân nữa, bởi vì cuộc sống của chúng ta tất yếu có sự liên đới.

Nơi phép lạ chữa lành dành cho anh mù Ba-ti-mê, chúng ta hãy nhận ra, để cho mình được đánh động và được cuốn hút bởi sự liên đới của Thiên Chúa dành cho loài người bệnh tật và đau khổ, trong đó có chính chúng ta và những người thân yêu của chúng ta, nơi trong Đức Giê-su Ki-tô và nhất là nơi Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh.

* * *

Bài Tin Mừng còn nêu bật lên lòng khao khát được sáng mắt, và chắc chắn đó cũng là lòng khao khát của bất cứ người mù nào trong cuộc đời này. Và cùng với lòng khao khát, là lòng tin, lòng tin nơi Đức Giê-su, là Đấng có thể làm cho anh sáng mắt, vì Người là Ánh Sáng, là Đường Đi và là Sự Sống, như sau này anh sẽ nhận ra Chân Lý toàn vẹn về Người.

  • Khi nghe nói, Đức Giê-su đang đi tới, anh kêu lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”
  • Và anh càng kêu lớn tiếng bất chấp bị người ta quát nạt bảo im đi: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”
  • Lòng khao của anh đã làm cho Đức Giê-su chạnh lòng: “Gọi anh ta lại đây!” và cũng làm cho nhiều người cảm thương: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến với Đức Giê-su. Và khi nghe Người hỏi đích thân: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.

Anh mù Ba-ti-mê đã trở nên sáng mắt, nhờ lời sau đây của Đức Giê-su: « Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh ». Về phương diện thể lí, đây là một biến cố lạ lùng, gây ấn tượng. Nhưng lời của Đức Giê-su mời gọi chúng ta vượt qua sự lạ lùng thể lí ở bên ngoài, để hiểu và cảm nếm ơn chữa lành của Chúa ở mức độ đức tin và ơn cứu độ. Xin Chúa Thánh Thần cũng khơi dậy nơi chúng ta lòng khao khát được chữa lành và lòng tin mạnh mẽ nơi Ngôi Vị của Đức Giê-su và thưa với Người :

Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con ! Lạy Chúa, xin cho con thấy được !

  1. Ơn gọi của đôi mắt

Sáng mắt là điều quan trọng, nhưng để sống bình an và hạnh phúc với người khác, và nhất là với những người thân yêu và với Chúa, anh còn phải sáng lòng nữa, để nhìn ra nhận ra ân huệ, tình bạn và tình yêu của người khác và của Chúa, nhận ra sự hiện diện của người khác và của Chúa. Bởi vì, chúng ta sống không chỉ bằng những vẻ đẹp bên ngoài, nhưng còn bằng sự hiện diện của nhau, bằng vẻ đẹp của tâm hồn, bằng vẻ đẹp và những điều cao quí đến từ Thiên Chúa nữa và của chính Chúa nữa. Sáng mắt rồi, nhưng đôi mắt sáng của anh Ba-ti-mê có đi tìm Chân, Thiện, Mỹ là chính Chúa hay không, hay lại đi tìm những điều gì khác chóng qua, gian dối, sự dữ, sự xấu, làm cho mình trở nên mù quáng. Hơn nữa, con người đâu có nhìn thấy mãi, vì anh mù được sáng mắt trở lại, một ngày kia, mắt anh sẽ khép lại mãi mãi. Và đôi mắt của chúng ta cũng sẽ như thế. Bằng chứng là, từ tuổi trung niên trở đi, mắt chúng ta không còn sáng như xưa !

Ngoài ra, anh mù Ba-ti-mê được Chúa chữa cho sáng mắt, nhưng đâu phải để đứng đó mà nhìn, nhưng còn phải bước đi nữa, còn phải lựa chọn đường đi nữa. Và anh sẽ phải lựa chọn và bước đi trên con đường nào : con đường của Chúa dẫn đến sự sống hay những con đường khác, dẫn đến đau khổ cho mình và cho người khác, và cuối cùng là sự chết đời đời ?

Đức Giê-su nói với anh : « Anh hãy đi. Lòng tin của anh đã cứu anh ». Như thế, lòng tin làm cho anh thấy được và bước đi, không phải chi thấy được mọi sự như những sự vật để thụ hưởng hay loại bỏ, nhưng như là quà tặng, là kỉ niệm nói lên sự hiện diện của ai đó, là ơn huệ của Thiên Chúa, là dấu chỉ nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa. Lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy được những con người ở vẻ bề ngoài và như đối tượng để thỏa mãn nhu cầu của lòng ham muốn, nhưng như là những ngôi vị tự do, như là hình ảnh của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa, là anh chị em của mình, có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng. Và lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy sự thật trần trụi ở bình diện hành vi, nhưng còn nhìn ra sự thật về ngôi vị, sự thật về một con người bất hạnh đang đau khổ. Bởi vì, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có ơn gọi không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng là nhận ra những thực tại vô hình.

  1. Đi theo Đức Ki-tô

Chính vì thế mà, ngay sau khi được chữa lành, nhìn thấy được, anh Ba-ti-mê liền đi theo Đức Giê-su:

Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

(c. 52)

Điều này cho thấy, đức tin không chỉ làm cho anh nhận được chữa lành đôi mắt, để thấy sự vật, nhưng còn làm cho anh « thấy được » những điều vô hình ; vì nhờ đức tin, anh nhận ra Đức Ki-tô là ánh sáng, là đường, là sự thật và là sự sống, là ơn cứu độ.

Và ở bình diện này, mọi người chúng ta được mời gọi đón nhận ngay hôm nay hiệu quả chữa lành và cứu độ của đức tin : nhờ tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, và nhất là nơi Đức Ki-tô chịu đóng đinh, chúng ta được giải thoát khỏi sự nghi ngờ tình thương và lòng bao dung của Thiên Chúa, mặc cảm tội lỗi, gây chết chóc và hay bị ma quỉ lợi dụng để nhận chìm chúng ta trong bóng tối của tuyệt vọng.

* * *

Xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, để lòng chúng ta cũng được chữa lành bởi Lời Chúa, khỏi những sự nghi ngờ, ray rứt, và khỏi bệnh mù quáng, không nhận ra Chúa là ánh sáng, và là đường dẫn đến sự sống, không nhận ra anh em, chị em của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, là người thân của Đức Ki-tô, là người anh chị em của mình trong Gia Đình Mới, nơi đó chúng ta đã được ơn sinh ra, lớn lên và được ban ơn kêu gọi dâng hiến cuộc đời để xây dựng.

Về mục lục

.

ÔI LẠY CHÚA XIN MỞ CHO CON ĐÔI MẮT

Huệ Minh

Vài ngày trước đây, thức giấc là mắt trái mở không lên vì ướt và ghèn ! Khó chịu vô cùng và hỏi thăm bác sĩ quen về mắt để bác sĩ cho thuốc nhỏ đỡ vì chưa có dịp về thành phố. Có công có việc gì mới đi để kèm theo chứ chẳng lẽ con mắt đau một tí là chạy về. Chạy đi chạy về vừa mệt vừa tốn tiền xe nữa.

Con mắt có vẻ thốn và khó chịu vô cùng. Có lẽ, cảm nghiệm này không phải của riêng người bệnh này nhưng là cảm nghiệm của những ai đã hơn một lần đau mắt.

Đau mắt thôi đã thấy khó chịu như vậy mà nếu như khi ta khiếm thị, ta không nhìn thấy đường, không nhìn thấy vật thể trước mặt ta nữa thì khó chịu biết bao.

Mẹ cho đôi mắt sáng ngời, để nhìn đời và để làm duyên

Trời cho em con mắt màu đen để thương để nhớ để ghen để hờn

Đôi mắt em là cửa sổ tâm hồn,  là bài ca hay nhất, là tuyệt tác của thiên thu.

Con mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là cửa sổ để thu tất cả những hình ảnh, những cảnh vật vào tâm hồn con người. Và vì thế, con mắt phải nói đóng vai trò rất quan trọng trong cơ thể của con người. Con mắt đui mù quả là khiếm khuyết lớn cũng như làm cho con người bị giới hạn và thiệt thòi nhiều.

Ngày hôm nay, ta bắt gặp hình ảnh anh chàng mù thành Giêricô con ông Timê tên là Bartimê. Anh ta mù nhưng may mắn là anh còn nghe được. Vì mù, chẳng biết làm gì và cũng chẳng làm gì nên chỉ còn cách duy nhất là ăn xin. Đang ngồi ăn xin nhưng anh nghe biết đó là  Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”.

Thấy anh kêu như vậy và vì anh là người khuyết tật nên người ta ăn hiếp anh và ta bắt gặp nhiều người mắng anh bảo im đi. Trước thái độ
của những người sáng mắt ngăn cản, anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua
Đavít, xin thương xót tôi”.

Hẳn nhiên là lời kêu của anh đã đến tai Chúa Giêsu, không chỉ tai mà còn đập vào mắt Chúa Giêsu hình ảnh của một con người khuyết tật để rồi Chúa Giêsu không đi nữa mà đã dừng lại và truyền mọi người gọi anh đến. Đơn giản, Chúa Giêsu nói với anh : “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”.

Nghe Chúa Giêsu nói và anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.

Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Quá tuyệt vời ! Anh mù đã thấy và đã đi theo Ngài.

Dừng lại một chút vì ta choáng. Ta phải đưa ta trở về với thực tại Tin Mừng ngày hôm đó ta mới cảm nhận được sức mạnh của Lời Chúa, của phép lạ mà Chúa Giêsu làm.

Quá sức tưởng tượng với niềm tin của anh chàng Bartimê.

Và, ta cũng có dịp nhìn lại niềm tin của ta.

Niềm tin của ta dường như nó sao sao í ! Và nhất là khi ta đủ hai con mắt sáng và rất sáng nữa. Giản đơn là Chúa ban cho ta đôi mắt sáng đó nhưng ta có cảm nhận được đó là quà tặng, là ơn của Chúa đâu. Nếu có thì ta đã cảm nhận và cảm tạ chứ đâu có ai oán là sao Chúa để cho con thế này thế kia ? Chúa cho sáng mắt, đó phải chăng là một hồng ân, một quà tặng quá lớn của Chúa không ?

Sáng con mắt nhưng mù tâm hồn. Chính vì mù tâm hồn nên đâu có nhìn thấy được ơn Chúa.

Bài hát mà Cha Bạch Văn Lộc khi còn sống rất thích hát và mời mọi người cùng hát. Khi đó, còn bé, nghe thì nghe, hát thì hát đó nhưng
cũng chưa hiểu tâm tình của Cha cố Henry :

Lạy Chúa, xin mở mắt con

Biết nhìn kỳ công của Ngài

Trời xanh, tinh tú long lanh

Hoa ngàn cùng muôn muông thú

Ðồi kia ai đắp nên non

Sông dài, trùng dương mênh mông

Biết rằng Ngài đã thương con

Thế mà con đâu có hay!

EPHATA Hãy mở! Mở ra!

EPHATA Hãy mở ra!

EPHATA, EPHATA

Ta phải xin Chúa mở con mắt ta để ta thấy kỳ công của Chúa, kỳ diệu của Chúa ít là ngay bên đời ta thôi.

Thử nhìn lại đi, cách đây 10 năm, 20 năm, 30 năm … cuộc sống của ta như thế nào ? Ngày nay ta có nhiều lắm đó chứ ! Nhìn lên ta không bằng ai nhưng khi nhìn xuống ta lại chợt thấy có nhiều người không may mắn như mình.

Ở gần Mẹ, mỗi tuần lại được nhìn thấy những lời khấn, những lời xin của con cái Mẹ từ khắp nơi về lại thấy có điều gì đó man mác buồn.
Mẹ ơi ! Xin Mẹ cho con được ơn, được tiền để trả nợ Mẹ ơi ! Chồng của con vướng vào ma túy, xin Mẹ cho anh ơn hoán cải.Mẹ ơi ! Con của con mê chơi game, xin Mẹ cho con của con đừng mê game nữa.  Mẹ ơi ! Mẹ ơi …

Nhìn lại mình, dĩ nhiên vẫn còn đó những chứng bệnh như rối loạn tiền đình, như viêm tai … nhưng, vẫn may mắn là còn tiền và có tiền để đi khám và chữa bệnh. Cũng như may mắn hơn nữa là có người này người kia là nhân viên ở các bệnh viện thấy khờ khờ từ quê lên tỉnh nên chỉ vẽ, hướng dẫn cho để khỏi bị la. Vào bệnh viện, dễ bị người này người kia ăn hiếp vì khờ khạo lắm vì nhà quê lên tỉnh.

Nhìn lại thì thấy sao Chúa thương mình và không xin cho mình hết bệnh mà xin cho mình đủ sức để gánh bệnh và gánh bệnh cho biết với người ta.

Nói đến đây lại nhớ có vài lần vào bệnh viện, người quen dù biết mình bận rộn, dù cũng thương và lo cho mình đó nhưng lại bảo là cứ chờ để cho biết người người nghèo !

Hay ! Đúng ! Có khi phải chờ, phải đợi như thế mới có cái cảm của người nghèo chứ không thì không có cơ hội để cảm cái khó khăn của người nghèo khi vào bệnh viện.

Và cũng vui là có lần vào viện, tưởng là được khám ngay nhưng không, bị vịn lại vì huyết áp cao quá. Nhân viên bảo là nhiều khi được thương chưa hẳn là tốt, mấy em nó đưa đi vội vội và lên cầu thang nên huyết áp cao mà cái huyết áp này là huyết áp giả nên rất khó để khám bệnh.

Thế đó, phải chờ, phải đợi để có cái cảm với người nghèo, người khác.

Đời ta, ta may mắn, ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng đôi mắt của ta vẫn không thấy, vẫn chưa thấy. Ngày nào mang nỗi đau tôi mới hổi nỗi đau là gì, ngày nào trong khát khô tôi mới hiểu phận người ăn xin, chỉ cần một ly nước thôi, chỉ cần bát cơm vơi …

Ta còn may mắn, ta con hạnh phúc hơn nhiều người nhưng con mắt đức tin của ta khép lại, mù quáng vì ta chạy theo vất, của thế gian và phù hoa. Khi ta để cho tiền của, quyền lực, danh vọng lâp đầy lòng ta, lấp đầy mắt ta thì khi đó ta không còn thấy Chúa nữa. Và khi đó, ta lại
thủ thỉ, thỏ thẻ với Chúa :

Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,

Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.

Con mù lòa, bên vệ đường hành khất,

Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.

Về mục lục

.