CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN. NĂM C_2019

236

CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN_C

Lời Chúa: Nkm 8,2-4a.5-6.8-10; 1Cr 12,12-30; Lc 1,1-4; 4,14-21

——-

Mục lục

1. Loan báo Lời Chúa  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Chúa Giêsu đến để yêu thương  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Niềm vui là đặt hy vọng vào Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Thần Khí Chúa thúc đẩy (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Trở về quê hương  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Xức dầu  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Tin mừng hôm nay  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

8. Lời tiên tri đã ứng nghiệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

9. Suy niệm Chúa Nhật 3 Thường niên_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Tuyệt đối  (Trầm Thiên Thu)

11. Canh tân đời sống đạo  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

12. Sống và thực hành  (Lm. Giuse Trần Thanh Vượng)

13. Thêm sách sử thánh  (Lm. Vũ Đình Tường)

14. Công khai rao giảng Tin mừng (JM. Lam Thy, ĐVD)

15. Lời quyền năng là Thần Trí và là Sự Sống  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

16. Tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

17. Sứ mạng Đấng Cứu Độ  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

18. Sống trong hồng ân của Chúa (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

19. Tầm quan trọng của Lời Chúa  (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

20. Lá số của Chúa – Lá số của ta  (Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)

21. Và con tim đã vui trở lại  (Lm. Trương Đình Hiền)

22. Thần khí Chúa ngự trên tôi (P.Trần Đình Phan Tiến)

23. Cơ thể  (Lm. Thái Sơn)

24. Chúa Nhật 3 Thường niên_C  (Lm. Antôn)

 

 

LOAN BÁO LỜI CHÚA

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Nhờ được xức dầu trong Bí tích Thanh tẩy, chúng ta mang danh Kitô hữu. Chúa Giêsu là Đấng được xức dầu, vì vậy mà Người là Đấng Kitô. Kitô hữu là người đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, trở nên một với Người và tham dự sứ mạng loan báo Tin Mừng của Người. Nhờ Bí tích Thánh tẩy, Chúa ban cho chúng ta ba chức năng: Ngôn sứ; Tư tế và Quản trị. Loan báo Lời Chúa là thực hành chức năng ngôn sứ. Ngôn sứ là người được Chúa sai đi để chuyển tải giáo huấn của Ngài.

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Đó là lời ngôn sứ Isaia từ bảy thế kỷ trước, được Chúa Giêsu tuyên đọc trong Hội đường ở Nagiarét. Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu muốn khẳng định Người là Thiên Chúa quyền năng, là Đấng Thiên sai, nhập thể làm người để loan báo và xây dựng Nước Trời. Người là nhà truyền giáo vĩ đại và đúng nghĩa nhất, là mẫu mực cho tất cả các nhà thừa sai.

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Đó cũng là điều tâm niệm của mỗi chúng ta, với tư cách là người Kitô hữu. Trong công cuộc loan báo và xây dựng Nước Trời, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác với Người. Chúng ta cũng là những người được Chúa sai đi. Người san sẻ cho chúng ta một phần Thánh Thần và quyền năng của Người, để chúng ta làm được những việc Người đã làm. Vào thời ban đầu, các tông đồ cảm thấy ngỡ ngàng, vì các ông có thể chữa lành các bệnh tật cho dân chúng, thậm chí truyền lệnh cho ma quỷ phải buông tha những người chúng cầm giữ. Các ông làm được những điều đó, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.

Sứ vụ loan báo Lời Chúa gắn liền với cuộc sống chúng ta. Để có thể làm được điều ấy, trước hết chúng ta phải lắng nghe lời của Ngài và sống lời ấy. Nhờ ơn tác động của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa giúp chúng ta sống thánh thiện hoàn hảo và hài hòa với anh chị em mình. Thánh Phaolô, trong thư gửi giáo dân Côrintô, đã dùng hình ảnh một thân thể để so sánh với cộng đoàn tín hữu. Tuy có nhiều bộ phận, nhưng chỉ có một thân thể duy nhất. Tác giả đã liệt kê những ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần: Ơn tông đồ, Ơn ngôn sứ, Ơn thày dạy, Ơn làm phép lạ, Ơn chữa bệnh, Ơn quản trị, Ơn ngôn ngữ... Trong cộng đoàn đức tin, mọi người, tuy khác nhau, nhưng cùng chung một mục đích là góp phần thăng tiến cộng đoàn. Nếu nhận ra điều này, chúng ta không khoe khoang kiêu ngạo về những khả năng Chúa ban, như thể đó là tài cán riêng của mình, nhưng khiêm tốn và sử dụng ơn Chúa một cách có hiệu quả, hầu giúp anh chị em mình trưởng thành trong đức tin. Hình ảnh thân thể cũng nhắc bảo chúng ta, mỗi hành động cá nhân đều gây ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến tập thể. Một hành động hoặc lời nói, có thể làm cho người ta hiểu biết và yêu mến Chúa, nhưng cũng có thể là dịp để người khác chê cười và nhạo báng Giáo Hội. Ý thức mình là một chi thể của thân thể Giáo Hội, chúng ta sẽ thận trọng và khôn ngoan trong ứng xử.

Là người loan báo Lời Chúa, chúng ta cũng phải là người đón nhận và làm cho Lời Chúa sinh hoa kết trái trong đời sống cá nhân. Tác giả sách Nê-hê-mi-a đã kể lại một sự kiện quan trọng. Sự kiện này ghi đậm dấu ấn trong lịch sử dân Do Thái. Đó là việc tìm thấy Sách Luật trong Đền thờ Giêrusalem. Sau khi tìm thấy Sách Luật, nhà vua truyền cho các tư tế phải đọc cho dân nghe từng phần để khám phá và đón nhận giáo huấn của Chúa, là giáo huấn đã bị quên lãng nhiều thế hệ. Dân chúng chăm chú lắng nghe Sách Luật, vừa với tâm tình sám hối ăn năn, vừa với tâm hình hân hoan vui mừng. Bài đọc Cựu ước được trong Thánh lễ hôm nay (Bài đọc I), kể lại việc tư tế Esdras tuyên đọc Sách Luật từ sáng tới trưa, và mọi người lắng nghe chăm chú, đồng thời ôn lại lịch sử của dân tộc cũng như lịch sử của cá nhân mình. Lời ấy đã thấm nhập nơi tâm hồn mỗi người, giúp họ thăng tiến và nhận ra những điều kỳ diệu Chúa đã thực hiện.

Việc loan báo Lời Chúa không chỉ được thực hiện bằng ngôn từ, nhưng còn bằng những nghĩa cử cụ thể. Cũng như Đấng được xức dầu (Kitô) được sai đi để “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”, mỗi chúng ta (Kitô hữu), cũng được sai lên đường để đem niềm vui vào cuộc sống đang còn nhiều tranh chấp xung đột, giúp những người bị giam cầm bởi thành kiến được giải thoát để sống thanh thản an vui; mở tầm nhìn cho những người bị giới hạn do hận thù. Nói tóm lại, Thiên Chúa muốn qua chính cuộc sống của chúng ta để tình thương lan tỏa và thắp sáng tại mọi nẻo đường của cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU ĐẾN ĐỂ YÊU THƯƠNG

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Sau khi giúp đội tuyển Việt Nam vô địch AFF Cup 2018” huấn luyện viên Park Hang-seo nhận được phần thưởng 100 ngàn USD từ Thaco Trường Hải. Tuy nhiên, ông đã dành tặng toàn bộ số tiền này để góp phần phát triển bóng đá Việt Nam và cho người nghèo.

Đây thực sự là hành động đẹp sau khi ông vừa là người hùng giúp đội tuyển Việt Nam vô địch AFF Cup 2018” và với hành động bác ái này ông còn là người đẹp trong lòng người Việt Nam.

Nếu trong dòng đời hôm nay những người thành đạt đều nghĩ tới người kém may mắn hơn mình, họ sẽ góp phần làm cho xã hội thăng tiến hơn! Nếu trong dòng đời hôm nay những người làm ăn gặp thời, biết chia sẻ cho những người lam lũ một đời nhưng vẫn nghèo khó , thì xã hội sẽ giảm bớt người nghèo, bớt kẻ khó khăn . . .

Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Không phải là Chúa Giêsu khinh bỉ người giầu, người quyền thế mà có thể nói Ngài đến để giúp cho những con người thấp hèn kia được nâng cao, được tôn trọng như bao con người khác. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối “không có nơi gối đầu”. Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. “Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai”. Tất cả những điều đó đều đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu thành Nagiaret. Thiên Chúa đã nhập thể làm người để nâng con người nên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở lại luôn mãi với nhân loại chúng ta. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người để yêu thương và ban phát ơn lành.

Đây chính là sứ điệp mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ con người hôm nay. Giữa một xã hội quá chênh lệch giầu nghèo, địa vị sang hèn. Mức sống của từng giai cấp, địa vị đều khác nhau. Có những người ăn tiêu một bữa bằng tiền lương cả một tháng của người lao động vất vả.  Ở Việt Nam hôm nay có những trường học phổ thông dành cho con nhà giầu, mỗi tháng thu lệ phí mỗi em cả hàng chục triệu đồng, trong khi đó nhiều gia đình phải chật vật để kiếm vài trăm ngàn cho con có cơ hội đến trường, đến lớp.  . . Có những người ốm đau bệnh tật kéo dài cả cuộc đời vì không có tiền trang trải cho viện phí nên đành chấp nhận đau đớn mỗi khi trái gió trở trời, đang khi đó có biết bao người giầu có dư tiền dư của đến nỗi bỏ ra hàng chục triệu đồng để lột da cho tươi trẻ, và còn khoét thêm má lún đồng tiền để thêm phần duyên dáng thanh cao. Có những người cơm không đủ no, áo mặc không đủ ấm, đang khi đó có biết bao người áo chỉ mặc một lần và đồ ăn thức uống vất ngổn ngang quanh nhà.  . .

Mùa Xuân Kỷ Hợi đang về trên quê hương cũng là dịp để chúng ta tỏ lòng trắc ẩn với những hoàn cảnh khó khăn. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy cúi xuống với những mái nhà khó khăn để cho họ một hương vị mùa xuân qua tấm lòng chia sẻbác ái của chúng ta. Bởi vì, giữa một xã hội quá nhiều những mảnh đời bất hạnh khổ đau, Chúa đang cần chúng ta hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.

Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen

Về mục lục

.

NIỀM VUI LÀ ĐẶT HY VỌNG VÀO THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Nhiều người sống trên trần gian, sống trên thế giới không tìm được niềm vui, dường như cuộc đời của họ luôn gặp đầy rẫy đau khổ, gian nan, thử thách, vất vả. Họ hầu như không bao giờ tìm được hạnh phúc. Vậy đâu là chỗ dựa, đâu là Tin Mừng cho những người đang gặp thử thách, khắc khoải, gian nan, đau khổ ?

Đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cho chúng ta lời giải đáp ấy! Tin Mừng ở đây nói lên niềm vui, sự hy vọng của con người bởi vì qua đoạn Phúc Âm này Chúa đã áp dụng lời tiên tri Isaia để nói về chính mình. Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đến trần gian để mang lại hạnh phúc, đem niềm vui, sự hy vọng và ơn cứu độ cho con người. Cuộc đời này theo Đức Giêsu luôn có ý nghĩa, luôn có giá trị. Bởi vì, cuộc đời, con người rồi có lúc phải qua đi.Đó là định luật, là sự công bằng tuyệt đối của Thiên Chúa. Đời con người không phải chỉ lệ thuộc vào của cải, địa vị, thành công, lợi lộc của trần gian, nhưng con người được dựng nên giống hình ảnh của Chúa. Chúng ta được dựng nên vì tình yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu như thánh Gioan định nghĩa. Nên, Chúa yêu thương chúng ta, yêu thương con người, nhân loại vv…Đây là niềm hy vọng và là niềm tin của người tín hữu. Niềm hy vọng được đặt trên nền tảng là Đức Kitô. Người được xức dầu, được tràn đầy Thánh Thần và được sai đi rao giảng Tin Mừng. Người đã hoàn tất sứ mạng của một vị đại tiên tri. Chính vì vậy, Người đã đem Tin Mừng cho người nghèo khó. Người đã chữa lành cho người mù,làm cho người điếc nghe được, kẻ câm nói được, trả lại tự do cho những người tù tội, những kẻ bị ức hiếp, công bố Năm Hồng Ân vv…vv…Người là Đấng giầu Lòng Thương Xót.

Người Kitô cũng được xức dầu, được tràn đầy Thánh Thần, và cũng được sai đi để rao giảng Tin Mừng. Nếu Đức Kitô đã được xức dầu, được tràn đầy hồng ân của Chúa Thánh Thần, được Thiên Chúa Cha sai đi khai mở Năm Toàn Xá, Năm Hồng Ân. Nếu Chúa Thánh Thần đã chi phối lời nói, việc làm của Chúa Giêsu thì Chúa Thánh Thần cũng làm cho người tín hữu như vậy, vì người Kitô hữu thuộc về Chúa, là hình ảnh của Chúa, nên người tín hữu phải hoàn tất sứ mạng của mình bằng việc tích cực cộng tác với Chúa trong đời sống chứng nhân của mình. Nếu thế giới đang sống trong cảnh lo âu, buồn phiền, người Kitô hữu phải là chứng nhân cho tình yêu và là nhân chứng cho niềm hy vọng của con người. Nếu thế giới đang ngụp lặn trong bóng tối, trong văn minh sự chết, người tín hữu phải là ánh sáng, là chứng nhân cho niềm tin. Do đó, chúng ta là môn đệ của Chúa, là nhân chứng cho sứ điệp Tin Mừng của Tình Yêu, của Ơn Cứu Độ, nếu chúng ta không có Lòng Xót Thương, không biết tỏ lòng nhân từ mà bịt tai trước những sự lầm than, vất vả của người khác, làm ngơ trước những người nghèo, không biết chia sẻ, không quảng đại thì quả thực Lời Chúa không sinh hoa kết quả, không ứng nghiệm trong đời sống chúng ta. Nếu chúng ta không bám chặt lấy Chúa, không để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tác động thì cuộc đời của chúng ta không thể trôi chảy,không suôn sẻ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống quảng đại, biết cảm thông, chia sẻ hầu làm chứng cho Ngài là Đấng giầu Lòng Thương xót.Amen.

 

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao con người lại sống lầm than, vất vả ?

2.Chúa Giêsu đã áp dụng lời tiên tri Isaia để nói về ai trong đoạn Tin Mừng này ?

3.Niềm hy vọng của người tín hữu đặt ở đâu ?

4.Ai sai Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng ?

5.Vai trò của Chúa THánh Thần trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng ?

Về mục lục

.

THẦN KHÍ CHÚA THÚC ĐẨY

Bông hồng nhỏ

“Lạy Chúa con đây! Xin đến đem con đi vào đời

Lạy Chúa, cho con làm nhân chứng ở khắp mọi nơi

Xin dẫn dắt con đi qua muôn ngàn gian khó

Hành trang con mang theo Lời Chúa”

                          (Bài hát “Đưa con đi” – Phan Mạnh Quỳnh).

Người môn đệ của Chúa khao khát được Chúa sai đi, vào đời để mang Tin Mừng của Chúa cho muôn dân. Lời nguyện xin thật đẹp và đầy lòng yêu mến.

Hôm nay theo chân Thầy Giê-su trở về Nadarét là quê hương thân yêu của Thầy, lòng ta cũng rạo rực và bồi hồi. Thầy Giê-su đã khởi sự rao giảng ngay chính tại quê hương mình. Bước chân Thầy đi được thúc đẩy và dẫn dắt bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là lửa tình yêu thúc bách Thầy Giê-su. Ta cũng khao khát được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Thầy Giê-su được đầy Thánh Thần đã từ sông Giođan trở về, Người cầu nguyện suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ (x. Lc 4, 1-2). Sau khi đánh bại được mọi cám dỗ của quỷ, Người trở về quê.

Quê hương là nơi người ta muốn trở về nhất, bởi quê hương là tình thân, là nơi ta gắn bó nhất. Tại sao Thầy Giê-su lại chọn quê hương là nơi đầu tiên được đón nhận Tin Mừng? Chẳng phải vì tình yêu quê hương, và sự gắn bó của Thầy dành cho nơi chôn rau cắt rốn sao! Thầy đã muốn dành phần tốt nhất cho những người đồng hương. Điều căn bản nhất để rao giảng Tin Mừng là sống gắn bó với những người thân cận. Giả như nơi chính gia đình mình, họ hàng mình mà ta không trở nên muối nên men của Tin Mừng thì làm sao ta có thể rao giảng Tin Mừng cho những nơi xa lạ. Ta đã sống cảm thức thuộc về như thế nào? Ai được sinh ra cũng sẽ thuộc về một gia đình, một quê hương, một đất nước cụ thể. Hơn hết, ta thuộc về Chúa Ki-tô và thuộc về dân thánh của Người. Hãy gắn bó với Chúa Thánh Thần và đón nhận ân sủng của Người, ta mới trở nên cánh tay hữu hình của Chúa.

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi loan báo cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Lc 4, 18-19). Đọc xong đoạn sách này, Thầy Giê-su nói với tất cả những người trong hội đường đang chăm chú nhìn Người: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21). Lời ấy, Chúa cũng nói với ta, lời đem lại bình an, niềm vui cho ta. Bước vào đời ta hãy mang hành trang là Lời Chúa, lời có sức biến đổi lòng người vì “Lời Chúa phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”, như vậy, “ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được thương xót và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (x. Dt 4, 12.16).

Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Chúa đã chọn quê hương Nadarét để khởi đầu rao giảng Tin Mừng. Chúa dạy con yêu mến quê hương, gắn bó với những người thân cận, những người đồng hương. Xin ban Thánh Thần Chúa để Người dạy con sống và làm chứng cho Tin Mừng Chúa nơi con hiện diện để Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang. Amen.

Về mục lục

.

TRỞ VỀ QUÊ HƯƠNG

Anna Cỏ May

Mùa xuân đến, những người đi làm ăn xa cũng như các bạn sinh viên lần lượt trở về quê hương. Gia đình xum họp, làng xóm thêm tiếng cười, trẻ em ríu rít đi mua quần áo mới. Mùa xuân quê hương trở nên ấm áp tình người.

Hôm nay, sau những ngày xa quê, Đức Giê-su trở về Nadarét, nơi Ngài đã được dưỡng dục. Ngài làm những việc quen làm trong ngày Sabát. Trong ngày ấy, Ngài đứng lên đọc Sách Thánh cho mọi người nghe. Ngài mở ra và gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kể nghèo hèn. Người đã sai tôi đi loan báo cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Lc 4, 18-19). Đọc xong, Ngài nói với mọi người trong hội đường: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21). Lời của Ngài như vén mở cho mọi người biết chính Ngài là Đấng được Thần Khí ngự đến, được xức dầu và được sai đi loan báo Tin Mừng. Ngài sẽ làm mọi sự như sách Isaia đã chép (x. Lc 4, 18-19). Lời vén mở của Ngài đã thu hút mọi người trong hội đường và họ hồi hộp chăm chú lắng nghe. Đức Giê-su trở về quê để đem niềm vui, ơn cứu độ cho mọi người, nhất là những người đồng hương, Ngài hằng thao thức cho mọi người sống trong hạnh phúc của Thiên Chúa. Dù đã rời quê lâu ngày, Đức Giê-su vẫn trung thành và gìn giữ những tập tục quê hương vào ngày Sabát, Ngài vẫn mang một tâm tình thân thương với mọi người và gần gũi nói chuyện với họ. Dù đi xa, Ngài vẫn có một sự nhớ thương về quê hương, nơi mà Ngài được dưỡng dục và luôn có một sự khắc khoải trong lòng.

Mùa xuân đã về, những người đi xa có mong trở về quê hương? Chúng ta có còn nhớ tập tục hay kỷ niệm nào về quê hương mình? Lòng chúng ta có khắc khoải mong ước gì khi trở về quê?… Là sinh viên, có lúc nào chúng ta nghĩ về quê hương và mong muốn trở về xây dựng quê hương? Hay chúng ta đang có hoài bão ở nơi khác?

Tục ngữ có câu: “Quê hương là chùm khế ngọt”, dầu có đi xa bao nhiêu năm, nơi mỗi người vẫn còn mang một nét nào đó của quê hương hay có những kỷ niệm đẹp không thể quên. Đó là điều tuyệt vời cho mọi người. Cao đẹp hơn nếu mỗi người chúng ta có sự khao khát muốn xây dựng quê hương mỗi ngày một thăng tiến, mọi người sống hòa thuận, đùm bọc lẫn nhau. Cách riêng làm cho đời sống đạo mỗi ngày lan tỏa và bền vững trong tình yêu Thiên Chúa thì chúng ta đang trở nên giống Đức Giê-su, sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Những người ở xa hay đã lập nghiệp ở một nơi khác, chúng ta vẫn có thể giúp quê hương bằng lời cầu nguyện, việc làm tình thương,… Quê hương có trở nên tốt đẹp hay không là chính nơi bản thân mỗi người chúng ta. Không có gì là chúng ta không thể làm được, chỉ sợ lòng không bền.

Lạy Chúa Nhân Từ, Chúa hằng làm việc tốt đẹp nhất dành cho Chúa Cha và cho mọi người khi trở về quê hương. Xin cho mỗi người cúng con khi trở vè quê hương cũng mang tình yêu Chúa đến cho mọi người và biết xây dựng quê hương bằng niềm vui, lời cầu nguyện và yêu thương nhau, nhờ đó, Danh Chúa được vinh quang đến muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

XỨC DẦU

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Khởi công chép lại hành trình,
Biết bao biến cố, ánh minh cao vời.
Giê-su Chúa Cả mọi thời,
Hạ thân giáng thế, làm người như ta.
Rao truyền khắp chốn gần xa,
Tin mừng cứu rỗi, mưa sa ơn trời.
Khắp miền danh tiếng rạng ngời,
Giê-su từ ái, đôi lời bảo ban.
Trở về quê cũ yên hàn,
Nơi thành sinh trưởng, sẻ san đôi điều.
Đọc lời sách Thánh cao siêu,
Xức Dầu linh ứng, thiên triều giáng ân
Thánh Thần ân sủng biện phân,
Tin vui rao giảng, thế nhân mong chờ.
Ăn năn sám hối hưởng nhờ,
Giam cầm giải thoát, bóng mờ xóa tan.
Mù què rạng sáng ủi an,
Tù đầy áp bức, than van giãi bày.
Hồng ân Năm Thánh lạ thay,
Mọi điều ứng nghiệm, nơi Thầy chí nhân.

Theo thói quen vào ngày lễ nghỉ, Chúa Giêsu vào Hội Đường để cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Hôm nay, người ta trao cho Ngài sách tiên tri Isaia, Ngài mở sách và đọc: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi. Với thái độ khiêm nhu, Chúa đã đọc xong, gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người chăm chú nhìn Ngài. Chúa Giêsu nói với họ: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe. Chúa không tự giới thiệu mình hay tự tìm cho mình một chỗ đứng. Có các tiên tri và lời Kinh Thánh làm chứng cho Ngài.

Chúa Giêsu không xuất hiện như một Thiên Chúa cao sang hay ở xa cách trên không. Chúa hạ thân làm người và mang thân phận con người để gần gũi chúng ta nhưng chúng ta lại khó chấp nhận Ngài. Chúng ta biết chương trình cứu độ nhân loại trải qua hằng ngàn năm. Thiên Chúa kiên nhẫn đợi chờ và chuẩn bị tâm hồn con người đón nhận ơn cứu rỗi. Thiên Chúa đã chọn một dân riêng là dân Do Thái. Thiên Chúa đã dẫn dắt, hướng dẫn dân riêng từng bước trải qua biết bao dòng dõi. Chúa sai gởi các tiên tri để loan báo ngày giờ Đấng Cứu Thế đến và khơi dậy niềm hy vọng cứu độ.

Thời giờ đã mãn, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đến để hoàn tất mọi sự mà các tiên tri đã loan báo về Ngài. Kinh Thánh đã diễn tả về Đấng Được Xức Dầu như sau: Ngài sẽ rao giảng tin mừng, chữa tâm hồn sám hối, giải thoát kẻ bị giam cầm, người mù được thấy và công bố năm hồng ân. Chúa Giêsu đã ra đi rao giảng tin mừng cứu độ và đã chữa lành bệnh tật cả hồn cả xác. Chúa khai mở năm hồng ân giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của ma qủi.

Chúa Giêsu đến mang ơn cứu độ. Sứ mệnh của Chúa là tìm kiếm chiên lạc trở về. Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi chứ không phải người công chính. Truyện cổ kể rằng có một ông bị lạc khi du hành vào vùng cát xoáy. Khổng Tử đi qua thấy ông, thì nói: Rõ ràng ông phải xa tránh những chỗ như thế. Phật Quan Âm quan sát và nói với ông: Để sự khó khăn của ông nên như bài học cho mọi người. Mahômét cũng trông thấy liền nói: Ô, đó là ý Đấng Allah. Chúa Giêsu đi ngang qua thấy thế đã nói với ông: Cầm lấy tay Thầy, Thầy sẽ cứu con.

Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài. Ngài đã đến cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Lời của Ngài và các phép lạ Ngài làm là dấu chỉ ơn cứu độ đang ở giữa chúng ta. Hãy tin tưởng vào Chúa, hãy nắm lấy tay Chúa, Chúa sẽ cứu chúng ta.

Về mục lục

.

TIN MỪNG HÔM NAY

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng, với biết bao chiến tích vẻ vang, đặc biệt nơi các vùng dân ngoại miền thập tỉnh…. Danh tiếng Đức Giêsu vang dội khắp nơi, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và kèm theo các phép lạ. Tất cả những điều ấy minh chứng Đức Giêsu đem đến cho nhân loại một mùa xuân mới, mùa xuân hồng ân cứu độ.

 Hôm nay, có dịp trở về thăm quê nhà, Đức Giêsu vào hội đường theo thói quen của ngày Sabat. Người ta trao cho Ngài cuốn sách Thánh, mở ra gặp ngay đoạn sách tiên tri Isaia. Chúa Giêsu xác định lời của vị ngôn sứ nói về sứ mạng của Ngài thật chính xác “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai quí vị vừa nghe”.

Chúng ta để ý đến cặp từ “hôm nay”. Chúa Giêsu không nói hôm qua, hay ngày mai, mà là “hôm nay”. Đặc tính thần học của Tin mừng Luca có nói tới 12 lần “hôm nay”. Lời đầu tiên các thiên thần báo tin cho các mục đồng trong đêm giáng sinh: “Hôm nay, Đấng cứu độ đã sinh ra cho chúng ta” (Lc 2,11). Cho đến lời cuối cùng Đức Giêsu nói với người trộm lành: “ Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta” (Lc 23, 43).

Cho nên Lời Chúa mà chúng ta đọc, chúng ta suy gẫm không phải là Tin Mừng của ngày hôm qua, cũng không phải là Tin Mừng của ngày tận thế, mà là Tin Mừng của ngày hôm nay.

 Thế thì Tin Mừng hôm nay, đó là Tin Mừng nào? Thưa, đó là Tin Mừng dành cho những người nghèo khó. Tin mừng làm cho bệnh nhân được ơn chữa lành. Tin mừng thuyên chữa những tâm hồn sám hối, và loan truyền ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm….hay nói cách khác, đây là Tin mừng của một Thiên Chúa đến ở cùng ở với nhân loại chúng ta.

Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Vì thương xót nhân loại lỗi lầm, mà Đức Giêsu từ bỏ trời cao xuống đất thấp để hòa nhập vào thế giới con người. Như lời thánh Gioan nói: “Ngôi lời đã làm người và ở giữa chúng ta”(Ga.1,14).

Thật vậy, chính vì lòng thương xót thúc đẩy, nên Ngài ra đi không biết mệt mỏi khắp nẻo đường đất nước Do thái, để thi ân giáng phúc và mặc khải cho con người biết có một Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương.

Anh chị em thân mến,

Lời ngôn sứ Isaia nói về sứ mạng của Đức Giêsu “Thánh Thần Chúa ngự trên Tôi, Ngài sai Tôi đi rao giảng Tin mừng”. Mỗi người Kitô hữu khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, cũng được mời gọi tham dự vào chức ngôn sứ của Đức Kitô, nghĩa là được Chúa sai đi sống chứng nhân Tin mừng.

Chúa muốn chúng ta sống chứng nhân Tin mừng với những người nghèo: Người nghèo được Chúa ưu tiên hàng đầu trong sứ vụ rao giảng Tin mừng. Ở Việt Nam người nghèo ngày mỗi gia tăng. Thế nhưng, khi gặp một người nghèo chúng ta có chạnh lòng thương và tìm cách giúp đỡ họ không? Trong kinh “Thương người có 14 mối” dường như ai trong chúng ta cũng thuộc, nhưng thử hỏi chúng ta đã thực hiện được mấy mối rồi?

Chúa sai chúng ta đi đến những người đau khổ bệnh tật. Những người này ở trong các bệnh viện, trong những mái ấm tình thương, hay những người ăn xin đói khổ khắp các nẻo đường phố chợ. Họ đang cần một chút tình thương, một chút chia sẻ làm cho ấm áp tình người.

Ngày nay, người ta sẵn sàng bỏ ra nhiều tiền của, bao nhiêu thời giờ đi hành hương, hay đi du lịch nước này nước nọ tham quan được, nhưng không mấy người dành chút thời giờ để bước sang nhà bên cạnh, viếng thăm an ủi một người đang đau khổ, hay đọc một lời kinh cho bệnh nhân trong giờ sau hết.

Chúa mời gọi chúng ta đi đến với những người bỏ xưng tội rước lễ lâu năm. Những người này không thiếu trong gia đình hay trong xứ đạo của chúng ta. Chúng ta đừng quên Lời Chúa dạy: “Sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi!”. Chính khi chúng ta động viên khích lệ, cảm thông những yếu đuối của người khác, đến lúc chúng ta yếu đuối lầm lỡ, Chúa cũng dễ dàng bao dung tha thứ bỏ qua cho chúng ta.

Cuối cùng, Chúa sai chúng ta đi đến với những người chưa biết Chúa. Đất nước Việt nam chúng ta hiện nay hơn 90 triệu dân, nhưng chỉ có hơn kém 7 triệu người biết Chúa, còn lại rất nhiều người chưa biết Chúa là ai, chưa biết Tin mừng là gì, đó là bổn phận của chúng ta. Thế thì, chúng ta có thao thức gì trong vấn đề này. Chúng ta có đóng góp gì trong lãnh vực làm cho người khác nhận biết Chúa không?

 Những người lương dân này có khi làm cùng công ty, cùng buôn bán, hay ở cùng làng xóm với chúng ta. Nếu chúng ta ngại ngùng không mạnh dạn nói về Chúa cho họ hay về đạo của mình, thì ít ra trong đời sống, qua cung cách ứng xử với lương tâm ngay thẳng, sống chan hòa tình thương, chia cơm xẻ áo cho những người kém may mắn, sống bao dung tha thứ….. những hành vi đó là bằng chứng hùng hồn cho đạo thánh Chúa, hơn là những lời nói suông, được như thế, đó là Tin mừng của ngày hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

LỜI TIÊN TRI ĐÃ ỨNG NGHIỆM

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP 

Trong cuộc lưu đầy ở Babylon, dân Do thái bị quân thù hành hạ áp bức, nhiều người đã tuyệt vọng vì tương lai rất mịt mờ, nhưng tiên tri Isaia đã báo cho họ biết là họ sẽ được giải phóng.  Khi trở về quê hương, họ đã qui tụ lại làm việc thờ phượng Chúa, ghi lại các hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ suốt dòng lịch sử và nhớ lại Giao ước bị bỏ quên (Bài đọc 1).

Từ nhiều thế kỷ trước, tiên tri Isaia đã báo cho họ biết sẽ có Đấng Messia đến giải thoát họ và họ nóng lòng chờ đợi.  Nhân dịp về thăm quê hương Nazareth, ngày sabat, Đức Giêsu vào giảng ở hội đường, đọc nhằêm đoạn sách tiên tri Isaia mô tả về Đấng Messia và Ngài xác nhận chính Ngài là Đấng Messia ấy, khi Ngài nói:”Hôm nay ứng nghiệm lời Sách thánh mà quí vị vừa nghe”(Lc 4,21). Nhân dịp này Ngài đọc bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và chương trình hành động của Ngài, chính yếu là Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ…Và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Ngày nay, Hội thánh và mọi Kitô hữu, theo căn tính, phải tiếp tục sứ mạng mà Đức Giêsu đã làm:”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ra đi”(Ga 17,18). Sứ mạng của Kitô hữu được sai đi là làm tông đồ cho Chúa, loan báo Tin mừng Đức Kitô cho mọi người bằng đời sống chứng tá, yêu thương và hiệp nhất.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 

          Bài đọc 1 : Nhm 8,2-6.8-10.

Lần đầu tiên khi từ chốn lưu đầy trở về, dân Do thái đã tụ họp lại để làm việc thờ phượng, được tiên tri Nêhêmia trình bầy như một lễ hội, nhắc lại Giao ước. Tư tế Esdras tập họp mọi người lại tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Esdras đọc và giải thích cho họ hiểu, và khi đã thông suốt thì họ đồng thanh thưa :”Amen”.

Khi nghe đọc Sách Thánh, họ cảm động đến muốn khóc. Họ khóc một phần vì nhớ đến những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ qua dòng lịch sử, phần khác vì họ hối tiếc vì sự bất trung của họ đối với tình thương bao lao của Thiên Chúa.

Vì thế, tư tế Esdras yên ủi họ :”Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã vì niềm vui của Chúa là thành trì bảo vệ anh em”(Nhm 8,10). 

          Bài đọc 2 : 1Cr 12,12-30. 

Thánh Phaolô gửi thư cho tín hữu Côrintô để tiếp tục việc giáo huấn cho họ bằng một ví dụ cụ thể, dễ hiểu:”một thân thể có nhiều chi thể”. Cũng giống như một thân thể có nhiều chi thể, Giáo hội dù bao gồm nhiều thành viên với những ơn gọi khác nhau tạo thành một sự thống nhất trong Đức Kitô.

Qua đoạn thư này, chúng ta có thể rút ra được 3 ý chính :

          – Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, trong đó Đức Giêsu là đầu, và các Kitô hữu là chi thể.

          – Các chi thể khác nhau nên cũng có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng không chống đối nhau mà còn bổ túc cho nhau.

          – Mọi chi thể phải đoàn kết với nhau và phải dùng những đặc ân Chúa ban cho mình để phục vụ ích lợi chung của Hội thánh.

          Bài Tin mừng : Lc 1,11-4 ; 4,14-21. 

Trong lời mở đầu sách Tin mừng của mình (Lc 1,1-4), thánh Luca nói lên mục đích của sách Tin mừng Luca là điểm qua lịch sử đời Chúa Giêsu, để giáo hữu thêm lòng tin. Truyện về Chúa được truyền qua lời kể của các môn đệ của Chúa, là những người đã tận mắt chứng kiến việc Chúa làm và tận tai nghe lời Chúa nói.

Trong đoạn sau (Lc 4,14-21) thánh Luca cho biết Đức Giêsu sau một thời gian hoạt động, đã trở về Nazareth và giảng dạy trong hội đường. Ngài đọc một đoạn sách về lời sấm của tiên tri Isaia (61,1-2) và Ngài kết luận :”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh mà quí vị vừa nghe”(Lc 4,21). Theo đó, Ngài xác nhận mình chính là Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo từ lâu. Với tư cách là Messia vừa được xức dầu tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.  Sứ vụ của Ngài là mở ra một kỷ nguyên hồng ân, tức là kỷ nguyên của Tin mừng.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. 

         Loan báo Tin mừng cho mọi ngươi

I. SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU.

  1. Đức Giêsu là ai ?

Xét về nguồn gốc, ai cũng biết Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth xứ Galilê, con bác thợ mộc Giuse và bà nội trợ Maria. Còn người đồng hương thì quá biết Ngài vì đã sinh sống với họ gần 30 năm, và xét theo bề ngoài, Đức Giêsu không có gì đặc biệt, chưa hề làm một phép lạ nào, chỉ là một thanh niên lam lũ, kiếm sống bằng nghề thợ mộc.

Rời khỏi Nazareth một thời gian, tự nhiên danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi qua việc rao giảng Tin mừng và làm nhiều phép lạ chữa mọi bệnh tật, trừ quỉ và làm cho kẻ chết sống lại. Tuy thế, đối với dân làng thì họ vẫn còn  nhửng nhưng, hoặc  bán tín bán nghi. Nói chung, đối với dân làng Nazareth, Ngài vẫn chỉ là một thanh niên xuất thân từ Nazareth không hơn không kém. Nay trở về quê hương, dân làng cũng chỉ coi Ngài bình thường như các thanh niên khác, chưa tỏ ra thái độ kính trọng hay kiêng nể gì.

  1. Quang cảnh làng Nazareth.

Nazareth có lẽ không phải là một thôn làng, nó được gọi là “Polis” nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nazareth tọa lạc trong vùng đất của sườn đồi của Galliê, có ba con đường lớn vòng quanh, tiện lợi cho việc thông thương và kinh doanh.

Có lẽ người ta sai lầm nếu nghĩ rằng Đức Giêsu lớn lên tại một làng quê hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ. Chính nơi đây Đức Giêsu đã giảng một bài quan trọng trình bầy nội dung chương trình hành động của Ngài, hay cũng có thể được gọi là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.

  1. Đức Giêsu giảng ở hội đường. 

Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng khắp nơi, Ngài trở về thăm quê hương Nazareth. Vào một ngày sabat, Ngài vào hội đường cùng với bà con cô bác để ca tụng Chúa và nghe đọc Sách Thánh, tất cả mọi người nóng lòng muốn nghe một người mà họ quen biết nhiều, thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu, hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa.

Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đầy từ Babylon. Hay nói đúng hơn đoạn sách nói về Đấng Cứu thế :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”(Lc 4,18-19).   Đọc xong, gấp sách lại, ngồi xuống như các diễn giả thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, xem Ngài cắt nghĩa đoạn sách này như thế nào. Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài tuyên bố chính Ngài là Messia (Cứu thế) đã được hứa, khi trịnh trọng nói:”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các vị vừa nghe”(Lc 4,18-19).

Chúng ta nhận thấy trong các buổi nhậm chức của tân Tổng thống, bao giờ cũng đọc một bài diễn văn quan trọng đầu tiên, trong đó ông vạch ra đường hướng, chính sách và chương trình hành động  trong nhiệm kỳ mới.  Bài Tin mừng hôm nay miêu tả bài diễn văn đầu tiên của một vị tân Lãnh đạo tôn giáo. Đó là bài nói chuyện đầu tiên của Đức Giêsu Kitô tại Nazareth, quê quán của Ngài. Ngài đưa ra một phác thảo về đường hướng và sứ mạng của Ngài, Đấng Thiên Sai, qua lời tiên tri Isaia :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…”(Lc 4,14-21) 

So sánh lời công bố của Đức Giêsu Kitô và các diễn văn của các tân tổng thống trong ngày nhậm chức, chúng ta thấy có sự khác biệt rõ ràng. Quí vị tổng thống nói rất nhiều, hứa đủ thứ, nhưng sau cùng chẳng thực hiện được bao nhiêu trong thời gian tại chức. Trái lại, Đức Giêsu đã nói rất ít nhưng đã thực hiện tất cả những điều Ngài đã tuyên bố.

  1. Chương trình hành động của Ngài.

Nếu ngày xưa tác giả sách tiên tri Isaia loan báo một thời kỳ cứu độ chỉ để cho dân Chúa được bình an mà sống những ngày tháng sau lưu đầy, thì đây, với lời tuyên bố:”Hôm nay ứngnghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các vị vừa nghe”(Lc 4,21),Đức Kitô đã chính thức công bố thời kỳ cứu độ ấy đã đến. Ngài không chỉ ban bình an trong cuộc đời mà còn là bình an vĩnh cửu.

Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo : chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết:”Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta”(Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất:”Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 7,24-25). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế , trong đó mọi người đối xử với nhau bằêng chân lý, công lý và tình thương.

Truyện : Xóa nợ.

Ngày xưa có một lãnh chúa, và các tá điền của ông thì nợ ông tiền thuê đất. Chẳng bao lâu họ thấy mình nợ nần chồng chất. Họ thấy mình không tài nào thoát ra tình cảnh khó khăn ấy, tuy ông lãnh chúa là người nhân ái và nhẫn nại. Nhưng các tá điền tự hỏi, ông cho họ thêm bao nhiêu thời gian để trả hết nợ. Điều đáng sợ là cả khi ông cho họ đến ngày họ chết, họ cũng không thể trả hết nợ.

Kế đó một quản lý mới của lãnh chúa xuất hiện và bắt đầu làm một cuộc kinh lý. Trong suốt cuộc kinh lý ấy, quản lý đã hỏi mỗi tá điền mắc nợ bao nhiêu. Nhưng thật đáng kinh ngạc, quản lý không dừng ở đó. Ông đi thăm từng nhà, ông hỏi người ta ăn uống ra sao. Ông hỏi thăm người già, người bệnh, người khó ở. Chính ông thấu hiểu những vấn đề và những lo lắng của họ.

Rồi một ngày kia, ông tập họp họ lại, nói rằng ông có một sứ điệp quan trọng mà lãnh chúa tức chủ đất gởi cho họ. Các tá điền họp lại trong sợ hãi và run rẩy, tưởng rằng cái ngày thanh toán khủng khiếp sau cùng đã đến. Các tá điền đã biết hoặc nghĩ rằng mình đã biết những lời mà ông quản lý sắp nói. Hẳn ông sẽ nói rằng:”Trong suốt cuộc kinh lý, tôi đã khám phá rằng không một người nào trong các anh lo lắng việc trả nợ. Các anh chỉ nên tự trách mình. Các anh chỉ là một đám lười biếng, chẳng làm được việc gì. Chủ đất đã chán ngấy các anh. Ông ấy đã cho các anh vô số cơ hội, nhưng các anh vẫn không làm ra của cải. Các anh khiến ông ấy  không còn chọn lựa nào khác là lấy lại đất đai khỏi tay các anh và đưa nó cho những người khác và họ sẽ trả được nợ của họ”. 

Đó là những gì họ chờ đợi ông quản lý nói, dù rằng trong lòng họ, họ mong mỏi một điều gì khác. Rồi người quản lý bắt đầu nói:”Chủ đất biết rằng tất cả các anh đều mắc nợ số tiền lớn. Ông ấy nhờ tôi nói với các anh những điều sau đây”. Quản lý ngừng nói. Họ chờ đợi cơn bão ập tới và gắng hết sức mình để chống lại nó. “Thế thì”, quản lý nói tiếp “Tôi có một tin mừng cho các anh”. Một lần nữa ông ngừng lại. Tin mừng ! Họ không thể tin điều họ nghe.”Chủ đất nhờ tôi nói với các anh rằng các anh có thể quên hết nợ nần. Ong ấy xóa hết nợ nần cho các anh. Từ hôm nay, các anh có thể bắt đầu lại từ đầu”. 

Họ reo hò mừng rỡ. Các tá điền ôm hôn nhau. Một số người bắt đầu nhảy múa, đã lâu rồi họ không  nhảy múa. Khi họ trở về nhà mình với tâm hồn thanh thản, lần đầu tiên trong nhiều năm, họ nhận thấy mặt trời chiếu sáng, chim hát ca và những bông hoa rực rỡ nở rộ trong các cánh đồng.

Tin mừng Đức Giêsu loan báo trong hội đường Nazareth cũng như thế. Ngài là người quản lý mới mà Thiên Chúa sai đến với dân mắc nợ Người. Theo người Pharisêu, ngày của Chúa phải là ngày phán xét. Và ở đây, Đức Giêsu tuyên bố rằng đó là ngày của ân huệ Thiên Chúa, không chỉ dành cho những người đáng khen mà dành cho tất cả mọi người.

      (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 365-366).

II. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA.

  1. Sứ mạng của Giáo hội.

Sứ mạng của Đức Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua  Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, Khi Đức Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện  sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ tuần phải tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách tiên tri Isaia thâu tóm sứ mạng của Đức Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.

  1. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu

a) Mỗi người được sai đi.

Qua bài Tin mừng này, thánh Luca trình bầy Đức Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi. Tất cả chúng ta là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta cũng được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi, rồi đến phiên Đức Giêsu lại sai chúng ta đi. Đức Giêsu đã phán:”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi”(Ga 17,18). Bởi vậy lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã áp dụng cho bản thân Ngài “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.

Sai đi để làm gì ? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vatican II còn nói mạnh hơn:”Làm tông đồ là bản tính chủa người Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.

b) Phải mộ mến Lời Chú

Muốn đi loan báo Tin mừng thì phải biết Tin mừng, muốn biết Tin mừng mà không mộ mến Lời Chúa thì làm thế nào mà biết rao giảng Lời Chúa, nhất là biết sống theo lời Chúa dạy. Dĩ nhiên, nếu chỉ tin rằng những gì được nói trong Thánh kinh, nhất là Tin mừng, đều là sự thật mà thôi thì chưa đủ, vì đó là thái độ luôn phải có đối với bất cứ cuốn sách phàm tục nào mà chúng ta cho là đúng đắn.  Trái lại, khi đọc Tin mừng là phải đọc với tất cả niềm tin cao độ và lòng mến thiết tha nghĩa là tin tưởng tất cả những gì trong đó đang được thực hiện. Thánh Giêrônimô nói:”Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Khi đọc Kinh thánh, chúng ta hẵy lắng nghe những điều Chúa nói với chúng ta qua ân sủng, với tất cả con tim nồng cháy của mình.

Truyện : Chẳng nghe được gì hết.

Trong vở kịch “The Royal Hunt of the sun” (Hoàng gia đi săn mặt trời) có kểû lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của  người Tây ban nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và bảo ông ta :”Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ôâng cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất.

 Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ:”Vậy chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa như thế nào” ?  Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức : bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn…(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 166-167).

Chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.

III. CÁCH THI HÀNH SỨ MẠNG.

  1. Sống đời chứng tá

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói :”Người thời nay thích những chứng tá hơn là thầy dạy”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói:”Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Nếu thầy dạy mà thực hành điều mình dạy thì lời ấy càng có tính thuyết phục; nếu ngược lại, những lời giảng dạy ấy hoàn toàn trở nên vô ích, có khi còn phản tác dụng : không làm cho người ta đến với Chúa mà còn làm cho người ta lìa xa Chúa nữa. Muốn cho lời rao giảng của mình có tác dụng, người truyền giáo nên thực hành lời Đức Giám mục chủ phong trong thánh lễ truyền chức Linh mục khuyên tân Linh mục :

                             “Hãy tin vào điều con đọc,

                             Hãy giảng điều con tin,

                             Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.

Về vấn đề làm chứng này, chúng ta hãy trở lại thời Giáo hội sơ khai, các tín hũu đầu tiên đãõ sống với nhau như thế nào  theo một tác giả thế kỷ thứ ba :

“Người Kitô hữu không khác với những kẻ khác về cư trú, về ngôn ngữ hay lối sống. Bởi vì họ  không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ… 

Họ ở trong xác thịt nhưng chẳng theo xác thịt. Họ cư ngụ trên mặt đất nhưng có thành trì ở trên thiên đàng. Họ tuân theo mọi lề luật đã được đặt ra, nhưng lối sống của họ còn hơn cả lề luật. Họ yêu mến mọi người mà mọi người bách hại họ. Họ bị giết nhưng nhờ vậy mà được tái sinh. Họ thật nghèo nhưng lại làm cho bao người trở nên giầu có. Thiếu thốn mọi sự nhưng họ được tràn đầy mọi sự. Người ta khinh khi họ, nhưng trong sự khinh dể đó họ tìm được vinh quang. Danh giá họ bị nhục mạ nhưng nhờ đó họ được minh chứng là công chính. Bị chửi bới, họ chúc lành cho người ta, người khác hành hạ họ nhưng họ một niềm kính trọng. Khi làm lành họ bị trừng phạt như những kẻ bất lương, và chính lúc bị trừng phạt như vậy họ lại vui mừng, dường như được sống. Người Do thái khai chiến với họ như với những kẻ ngoại, đang khi đó dân ngoại bắt bớ họ, nhưng chẳng ai có thể nói tại sao lại thù ghét người Kitô hữu như vậy” (Trích Các bài đọc 2, mùa Phục sinh, tr 84-85).

  1. Sống đời yêu thương

Đức Giêsu đã phán:”Người ta cứ dấu này mà biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”(Ga 13,35). Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái bởi vì chỉ có một lề luật là mến Chúa yêu người. Nếu người ta chỉ yêu Chúa mà không thương yêu tha nhân là một điều khó hiểu vì như thánh Gioan nói, những người chung quanh sờ sờ ra trước mắt mà người ta không yêu thương được, thì làm sao người ta có thể yêu thương Thiên Chúa là Đấng vô hình ?  Vậy nếu muốn giới thiệu cho người khác Đấng mà thánh Gioan gọi “Thiên Chúa là tình yêu” thì phải có một hình ảnh nào, để qua đó người ta biết Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Hình ảnh đó chính là tha nhân và nếu yêu tha nhân là hình ảnh của Chúa thì người ta sẽ dễ nhận ra Chúa hơn.

Truyện : Bà có họ hàng với Chúa.

Dan Clack kể lại một câu chuyện rất ngắn nhưng cũng rất ấn tượng : Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một em bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần trước một siêu thị sang trọng. Đứa bé đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ, tơi tả, trông như miếng giẻ rách.  Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh đó. Bà cầm tay đứa trẻû, dẫn vào tiệm  và mua cho em đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.

          Sau đó, họ bước ra phố, và thiếu phụ nói với cậu bé :

          – Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.

          Đứa bé trố mắt nhìn thiếu phụ, rụt rè hỏi :

          – Thưa bà, bà có phải là Chúa không ?

          Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé, vỗ nhẹ vào vai cậu trả lời :

          – Con ơi, không phải đâu, bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi !

          Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ :

          – Cháu đã biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.

                   (Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 3-4).

Sống đời bác ái yêu thương là dấu chỉ con cái Chúa và là dấu chỉ anh em với nhau. Đức Giêsu đã xác nhận:”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”(Lc 6,21). Quả thật,  thiếu phụ trong câu chuyện trên đã nghe và thi hành lời gọi yêu thương của Chúa:”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”(Lc 6,38). Được làm anh em, họ hàng của Chúa không là một vinh dự  vô cùng lớn lao cho con người sao ?

  1. Đời sống hiệp nhất.

Trong thân thể con người có rất nhiều chi thể. Thân thể tạo nên một thể thống nhất dù bao gồm nhiềâu chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau : dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.

Giáo hội cũng như thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Nhận thấy trong giáo đoàn Corintô có sự chia rẽ, thánh Phaolô đã viết thư khuyên nhủ các tín hữu tránh sự chia rẽ mà phải hợp nhất trong Chúa Kitô:”Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận”(Bài đọc 2).

Gia đình là Hội thánh tại gia. Hội thánh tại gia cũng phải có những đặc tính như Hội thánh toàn cầu : duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Một trong các đặc tính là sự hiệp nhất. Thánh Phaolô cũng trưng Sách Thánh ra để nói lên sự hiệp nhất vợ chồng là cần thiết:”Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”(Ep 5,32). Nếu trong gia đình Kitô hữu, mọi người hiệp nhất với nhau, nhất là vợ chồng không ly dị, thì đây là chứng tá hùng hồn để giới thiệu cho người ta một Chúa Ba Ngôi duy nhất, nguyên lý của mọi tạo vật, và mọi loài thọ sinh phải tùng phục thờ lạy Ngài.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh Tất Quý

A. Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê, Ðức Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng.

Làm sao Người quên được mảnh đất làng quê nơi đã đã ấp ủ mình, nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn.

Hơn nữa Người cũng không cắt đứt hẳn với tôn giáo của cha ông. Người vẫn tôn trọng những luật lệ, tập tục và truyền thống của cha ông.

Người vẫn là một người Do Thái ngoan đạo, quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sa-bát, để thờ phượng Thiên Chúa mà Người âu yếm gọi là Cha.

Chúng ta hãy chiêm ngắm Ðức Giêsu đứng đọc Sách Thánh rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người.

Tin Mừng hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”.

Người vẫn quen nghĩa là Người thường xuyên đọc sách Thánh.

Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh họat với mọi người trong hội đường.

Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh.

Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người.

Đó là nếp sinh họat bình thường của Người. Nếp sinh họat này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong đền thờ Giêrusalem.

Chúng ta hãy nhìn xem Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh như thế nào. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn.

Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”.

Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người đều chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.

Khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại,  cử chỉ của Người thật trang trọng, đĩnh đạc, Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.

Mọi người đều chăm chú nghe lời Người giảng.

Ðoạn sách Người đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia.

Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình. Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày.

Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.

Ðức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này.

Người thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình.

Ðây là một hướng đi mà Người phải theo đuổi, một chương trình hành động mà Người muốn hoàn thành.

Khi nói với mọi người: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói hai điều.

Điều thứ nhất : Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đọan Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình.

Và điều thứ hai : Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đọan sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.

Chúa Giêsu được sai đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần

Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Người.

Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.

Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.

Người cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.

Người trả lại tự do cho cả người bị áp bức lẫn người gây áp bức bóc lột.

Người mời gọi cả hai sống thanh thoát như Người, sống như con của Cha và anh em của nhau.

Người khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.

B. Còn chúng ta, khi nghe Chúa Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” hỏi chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Ðức Giêsu hay không?

Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.

Ngày nọ, Dwight Moody thuyết giảng trước một đám đông. Ông để hết tâm hồn vào bài giảng và chỉ nghĩ tới nội đung cũng như hiệu quả Lời Chúa nơi các tâm hồn hơn là quan tâm đến văn chương bóng bẩy. Khi giảng xong, một văn nhân đến gặp Moody và nói:

– Tôi phải thành thực nói rằng trong bài giảng tối nay, ngài đã phạm ít là 11 lỗi văn phạm.

Moody đáp:

– Rất biết ơn ông: Điều ông nói tôi không nghi ngờ gì. Khi còn bé, tôi học kém lắm. Tôi vẫn muốn có giờ học thêm. Nhưng tôi đã dùng tất cả vốn liếng văn phạm của mình để phục vụ Đức Kitô. Vì vậy Lời Chúa có tác động gì đối với ông không?

Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do, nhưng ít người chịu tin vào Ðức Kitô

chỉ vì cuộc đời đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ, thậm chí có khi còn trở thành người áp bức anh em, bịt mắt và giam hãm anh em nhân trong ngục tù.

Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Ðức Giêsu.

Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi, để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.

Một công nhân hầm mỏ được một anh bạn hỏi:

– Anh làm gì trong Hội Thánh Kinh Hải Ngoại?

– Tôi làm việc dịch thuật.

– Anh mà đòi dịch thuật? .

– Đúng, tôi lo dịch Lời Chúa trong Thánh Kinh vào đời sống hằng ngày của tôi.

Lạy Chúa Thánh Thần,

Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người

giữa lòng thế giới,

trong lòng mọi người.

Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối,

nhưng vẫn có những đóm sáng rực rỡ:

khi con người ngồi lại gần nhau

để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình;

khi cả thế giới lo chung một mối lo:

bảo vệ trái đất, ngăn chận sida,

tận diệt ma tuý;

khi có những người nghèo

quan tâm đến những người nghèo hơn;

khi trẻ thơ và người già được chăm sóc;

khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ;

khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da;

khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật

làm cho con người sống hạnh phúc;

khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau,

liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau,

sống trên cùng một hành tinh,

dưới mái nhà bầu trời.

Lạy Chúa Thánh Thần,

xin cho chúng con thấy Người

nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố,

nơi những hy sinh vô vị lợi,

và cả nơi những thao thức của ai đó,

muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.

Về mục lục

.

TUYỆT ĐỐI

Trầm Thiên Thu

Chỉ một mình Thiên Chúa tuyệt đối, chứ chẳng có gì tuyệt đối trên thế gian này. Cũng hợp lý, bởi vì thế gian là “cõi tạm” – nơi để trú ngụ, tạm trú, chứ không phải “nhà” của mình, thế nên không thể có gì bền vững, nếu có thì làm sao tồn tại mãi?

Tuyệt đối là hơn hết, toàn vẹn, không lệ thuộc người khác hoặc cái khác, và không gì có thể đối lại. Vị đó chỉ có thể là Thiên Chúa, đúng như lời mời gọi của Thánh Vịnh gia: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2).

Ngoại trừ Thiên Chúa, mọi thứ đều là “tuyệt đối tương đối” và chỉ “tương đối tuyệt đối” mà thôi. Và cũng chỉ có Lời Chúa là tuyệt đối, bất cứ điều gì Ngài tiên báo đều xảy ra đúng từng chi tiết, chúng ta gọi đó là ứng nghiệm. Trong Kinh Thánh, từ ngữ “ứng nghiệm” được nhắc tới rất nhiều lần (Đnl 18:22, Gs 21:45, Gs 23:14, Gs 23:15, Tl 9:57, 2 S 22:31, 1 V 22:27, 1 V 12:15, 1 V 13:32, 2 V15:12, 2 Sbn 1:9, 2 Sbn 10:15, 2 Sbn 36:22, Et 1:1, Tb 14:4, Tb Tv 105:19, Tv 119:140, Mt 1:22, Mt 2:15, Mt 2:17, Mt 2:23. Mt 4:14, 8:17, Mt 12:17, Mt 13:14, Mt 13:35, Mt 21:4, Mt 26:54, Mt 26:56, Mt 27:9, Mc 14:49, Mc 15:28, Lc 1:20, Lc 4:21, Lc 21:22, Lc 22:37, Lc 24:44). Các Kitô hữu – nói chung, và các tín hữu Công giáo – nói riêng, chẳng còn xa lạ gì với hai từ “ứng nghiệm” – vì thường xuyên nghe nói tới, đặc biệt là khi đọc Kinh Thánh hoặc sách đạo đức.

Có những người nói là vô thần, không tin chi cả, thế nhưng lại thắp nhang khấn vái, thế thì duy tâm chứ đâu có duy vật. Tự đánh lừa chính mình hay có dụng ý gì? Xưa nay có nhiều người được gọi là tiên tri vì họ có khả năng biết trước nhiều điều, nhưng thật ra họ cũng chỉ là dạng “hên xui” – cái đúng cái không, chẳng qua chỉ là ngẫu nhiên mà thôi. Vài năm trước đây, cụ thể là ngày 21-12-2012, người ta dao động vì được dự báo là “ngày tận thế”, nhưng rồi chẳng có gì xảy ra, chẳng khác gì chuyện dự báo thời tiết hằng ngày. Hên xui! Người được thiên hạ tin rần rần như Nostradamus (1503-1566, Pháp) hoặc người mù Baba Vanga (1911-1996, Ottoman), nhưng cũng chẳng dám chắc như đinh đóng cột. Hên xui!

Tuy nhiên, Thiên Chúa nói hoặc báo trước điều gì thì y như rằng là tuyệt đối chính xác, mọi thứ đều xảy ra đúng từng chi tiết. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18), và “tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất” (Lc 18:31). Tất cả đều hoàn toàn chính xác tới mức tuyệt đối!

Luật Chúa là luật thánh, là chân lý (Tv 119:142), và là đường lối của Ngài. Đường lối đó luôn đầy ắp “yêu thương và thành tín” (Tv 25:10). Liên quan vấn đề luật, ngôn sứ Nơ-khe-mi-a cho biết: “Hôm ấy là ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này. Bên cạnh ông, phía tay mặt, có các ông: Mát-tít-gia, Se-ma, A-na-gia, U-ri-gia, Khin-ki-gia và Ma-a-xê-gia; phía tay trái, có các ông: Pơ-đa-gia, Mi-sa-ên, Man-ki-gia, Kha-sum, Khát-bát-đa-na, Dơ-khác-gia và Mơ-su-lam. Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy” (Nkm 8:2-5). “Đứng dậy” là động thái bày tỏ lòng kính trọng, vì đó là nghe đọc Thánh Luật của Thiên Chúa.

Ai yêu mến luật Chúa sẽ được “hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào” (Tv 119:165). Sau đó, ông Ét-ra chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” (Nkm 8:6). Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa. Một cảnh tượng tạo cảm giác kỳ lạ, xúc động và tôn nghiêm biết bao!

Có những điều có thể tự hiểu, nhưng có những điều cần lời giải thích. Luật Chúa và Kinh Thánh không thể hiểu hoặc giải thích theo ý riêng để tự biện hộ hoặc làm lợi cho mình. Thời kỳ cuối là giai đoạn đáng quan ngại, bởi vì xuất hiện nhiều tiên tri giả – Kinh Thánh gọi họ là những tên phản-Kitô. Vì thế, càng phải cảnh giác cao độ hơn bao giờ hết – chẳng hạn như cái gọi là Sứ Điệp Từ Trời, Sách Sự Thật, Giáo Hội Mẹ Đức Chúa Trời,… Internet như con dao hai lưỡi, tốt cho người cẩn trọng và khôn ngoan, nhưng nguy hiểm cho người nhẹ dạ cả tin.

Sau đó, ngôn sứ Nơ-khe-mi-a cho biết thêm: Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc” (Nkm 8:9). Sở dĩ ông nói vậy bởi vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. Rồi ông Ét-ra còn nói với dân chúng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nkm 8:10). Sức mạnh cần cho cả thể lý và tinh thần, nhưng phải “mạnh mẽ trong ân sủng của Đức Kitô Giêsu” (2 Tm 2:1). Để làm gì? Mạnh mẽ và kiên cường (1 Pr 5:10) để kiên trì chịu đựng tất cả (Cl 1:11).

Là con người, là Kitô hữu, được tuân giữ Thánh Luật là niềm hạnh phúc, vì Thánh Vịnh gia đã xác định: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:8-9). Bất cứ quốc gia nào cũng có luật pháp – gọi là quốc pháp, gia đình nhỏ cũng có quy luật – gọi là gia phong, và dù chỉ một nhóm nhỏ cũng cần có nội quy nghiêm túc. Nhưng đôi khi các luật đó không phù hợp lòng người, khiến dân chúng khổ sở. Nhưng Thánh Luật của Chúa lại làm cho người ta hoan lạc: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” (Tv 19:10). Luật đời có thể thay đổi tùy hoàn cảnh để hợp lòng dân – đừng quên rằng “quan nhất thời, dân vạn đại”, kể cả Giáo Luật cũng có thể thay đổi (ví dụ: sáu điều luật của Giáo Hội nay là năm – 5 điều mà nhiều hơn 6, vì rút gọn mà lại thêm một chút), nhưng Luật Chúa thường tồn bất biến, không hề thay đổi: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).

Thật là hạnh phúc khi tuân giữ Thánh Luật, và cũng thật hạnh phúc nếu biết thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn, là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa, và bao tiếng lòng con thầm thĩ mong được thấu đến Ngài” (Tv 19:15). Ngài luôn mong chúng ta như thế để Ngài đại lượng thi ân giáng phúc. Ngài không muốn ai đau khổ, có đau khổ là tại chúng ta – do tự mình hoặc người khác làm khổ mình (tính liên đới).

Rất cụ thể và dễ hiểu với lối so sánh của Thánh Phaolô: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất. Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi” (1 Cr 12:12-14). Tất cả chúng ta đều bất trác và bất túc, tương đối mà thôi, chỉ có Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối.

Có lẽ đây là một trong các đoạn Kinh Thánh thú vị đề cập Nhiệm Thể Đức Kitô. Thánh Phaolô nói chi tiết hơn: “Giả như chân có nói: ‘Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: ‘Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi?” (1 Cr 12:15-17). Quá rõ ràng, không gì khó hiểu. Và như vậy, không có lý do gì để chúng ta dám coi thường người khác và tự đề cao mình.

Xong mà chưa hết. Có lẽ Thánh Phaolô cảm thấy chưa an tâm nên lại tiếp tục “dài hơi” giải thích thêm chút nữa: “Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không có thể bảo tay: ‘Tao không cần đến mày’, đầu cũng không thể bảo hai chân: ‘Tao không cần chúng mày’. Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1 Cr 12:18-25). Tính liên đới rất rõ ràng, mọi vấn đề đều có tính liên đới – kể cả tội lỗi và sự ác.

Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?” (1 Cr 12:27-30).

Một hình khối có nhiều mặt, nhiều góc và nhiều cạnh, mỗi người như một phần trong khối tổng thể đó. Ai cũng có “biệt tài” về một hay vài lĩnh vực nào đó, ai cũng là khí cụ được Thiên Chúa dùng để thực hiện một sứ vụ nào đó để tôn vinh Ngài. Ai được ơn riêng nào thì cũng đều là hồng ân, là để phục vụ vì công ích, không ai có quyền “chảnh” hoặc “ngộ nhận” là mình giỏi hơn người. Tất cả chúng ta chỉ là những chi thể nhỏ bé trong Nhiệm Thể Đức Kitô vĩ đại. Và tất cả đều là hồng ân và tặng phẩm từ Thiên Chúa, còn chúng ta chỉ là số-không-to-lớn-rỗng-tuếch. Dại mới chảnh, ngu mới kiêu sa!

Trình thuật Lc 4:14-21 có vẻ ngắn gọn với lời tường thuật của Thánh sử Luca: Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Ngài giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh. Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày Sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Ngài cuốn sách ngôn sứ Isaia.

Hôm đó, Chúa Giêsu mở Sách Thánh ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19). Đây là đoạn Tin Mừng quan trọng, đề cập sứ vụ công khai của Đức Kitô. Ít chữ, ít câu, ngắn gọn mà súc tích.

Tình trạng hiện thực (nên trọn hoặc ứng nghiệm) là điều quan trọng trong cuộc đời, đặc biệt là những điều tốt lành. Muốn hiện thực thì phải thực hiện. Cụ thể trong xã hội đời thường, có lẽ điều ứng nghiệm tuyệt vời là ứng nghiệm về công lý và hòa bình – nhất là trong xã hội ngày nay: “Tin Mừng đến với người nghèo hèn, các tù nhân được phóng thích, người mù được sáng, người bị áp bức được tự do”. Không gì hạnh phúc hơn khi chúng ta được Đức Kitô giải thoát, đó là hồng ân cao cả và tuyệt vời biết bao!

Sau đó, Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21). Và mỗi chúng ta cũng có nhiệm vụ phải “loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, ân xá cho kẻ bị giam cầm, phóng thích cho những tù nhân” (x. Is 61:1). Thực hiện những điều đó là thương xót tha nhân, và Thiên Chúa sẽ ân thưởng.

Chuyện kể rằng Thiên Chúa muốn thưởng công cho Thánh Lm Ts Thomas Aquino (1225-1279, lễ ngày 28-1) – vì công trạng của thánh nhân to lớn, đặc biệt là bộ Tổng Luận Thần Học, nên Ngài hỏi muốn được thưởng gì, và thánh nhân trả lời: “Non nisi Te, Domine – Chỉ Ngài thôi, lạy Chúa”. Đó là tiêu chuẩn tuyệt đối, và ước gì đó cũng là tâm nguyện tuyệt đối của mỗi chúng ta – các Kitô hữu Công giáo, vì chỉ có Thiên Chúa là tặng phẩm tuyệt đối.

Và cũng hãy ghi nhớ lời khuyên của Thánh Gioan Vianney (Jean-Baptiste-Marie Vianney, 1786-1859, lễ ngày 4-8): “Chúng ta đừng bao giờ quên mất điều này: chúng ta sẽ là những vị thánh hoặc là những kẻ bị loại bỏ; chúng ta phải sống vì nước trời hoặc sống vì hỏa ngục. Không có con đường trung lập. Anh em thuộc trọn về thế gian hoặc thuộc trọn về Thiên Chúa. Giả như người ta cũng làm được cho Thiên Chúa những gì họ đã làm cho thế gian, thì số các tín hữu lên thiên đàng sẽ đông đảo biết mấy”.

Lạy Thiên Chúa toàn năng và tuyệt đối, xin liên kết chúng con trong Ngài, trong tình huynh nghĩa đệ với tha nhân, và sống hiệp nhất yêu thương trong Đại Gia Đình Quốc Tế – đa đại đồng đường. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CANH TÂN ĐỜI SỐNG ĐẠO

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Chỉ còn ít ngày nữa chúng ta cùng với cả dân tộc đón năm mới Kỷ Hợi. Những ngày cuối năm này, mọi người đều chú ý đến việc dọn dẹp, sơn phết, sửa sang nhà cửa. Nhiều người thiết kế căn nhà thật gọn gàng, ngăn nắp, màu sắc hài hoà, từ phòng khách, phòng ngủ cho đến phòng ăn và nhà bếp; họ dám loại bỏ những đồ cũ kỹ vô dụng để thay vào đó những đồ mới, đẹp hơn, nhìn ngôi nhà dễ thương hơn. Tuy nhiên, có những người sửa nhà nhưng không muốn bỏ thứ gì trong nhà, tất cả đồ cũ, dù không sử dụng, vẫn được chất vào ngôi nhà mới, khiến căn nhà tuy mới nhưng chật chội, luôm thuộm, xấu xí.

Có thể căn nhà linh hồn và đời sống đạo của ta đã quá cũ kỹ, xuống cấp hoặc đã chất chứa nhiều thói quen vô hồn cùng những hình thức bên ngoài, khiến cho đời sống đạo của chúng ta trở nên ỳ ạch, căn nhà linh hồn trở nên cũ kỹ xấu xí. Có thể chúng ta tin thờ Chúa, nhưng không biết Chúa là ai? Chúng ta giữ giới răn lề luật của Chúa mà không biết tại sao hoặc giữ vì lý do gì? Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người làm mới lại căn nhà tâm hồn, canh tân đổi mới lại đời sống đạo của mình theo lời mời gọi của Tin Mừng.

Bài đọc một hôm nay kể về cuộc canh tân đời sống đức tin của dân Do Thái. Thời lưu đày tại Babylon, người Do Thái không có nơi để tế tự, không được học hỏi về lề luật, đời sống đạo trở nên sa sút. Sau khi được trở về tái thiết quốc gia, đời sống đạo vẫn giống như thời còn bị lưu đày, các thế hệ trẻ không được học biết về Chúa và lề luật. Tình cờ, khi đào bới lại trong đống đổ nát của đền thờ, tư tế Etdra đã tìm lại được bộ sách luật của Chúa. Ông coi đây là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đòi hỏi dân Israel phải sống sát với lề luật hơn. Vì thế, ông đã quy tụ toàn dân tề tựu trước đền thờ và bằng một nghi thức long trọng, ông đứng lên, công bố lại luật cho toàn dân nghe. Dân chúng đồng thanh đáp Amen, Amen và sấp mình thờ lạy Thiên Chúa. Kế đó, tư tế Etdra cùng các thầy Lêvi giải thích cho họ cặn kẽ từng điều Thiên Chúa truyền dạy. Toàn dân nghe đọc và giải thích lề luật thì hối hận khóc lóc vì quá khứ sai lầm của mình. Biến cố này được coi như một cuộc canh tân đời sống đức tin của dân Do Thái. Vì thế tư tế Etdra đã tuyên bố với mọi người: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Thiên Chúa là Đức Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc. Hôm nay phải là ngày hân hoan vui mừng, vì Thiên Chúa đã trở lại với anh em và là thành trì bảo vệ anh em”.Câu chuyện này là lời mời gọi mỗi chúng ta phải không ngừng nhìn lại đời sống của mình để canh tân, làm cho đời sống ngày càng đi sát với giới răn lề luật của Thiên Chúa hơn.

Khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài kêu gọi sự canh tân triệt để hơn nữa. Cuộc canh tân mà Chúa Giêsu đòi hỏi đó là một sự thay đổi thực sự trong niềm tin và trong thực hành. Tin vào chính con người và sứ mạng của Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa thật và là Đấng Cứu Độ trần gian. Tin vào Đức Giêsu có nghĩa là thực hành theo giới răn lề luật của Tin Mừng mà Ngài công bố. Sứ điệp của Chúa Giêsu được ghi chép lại trong các sách Tin Mừng và được truyền lại cho Giáo Hội. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu, gìn giữ, lưu truyền, giải thích Tin Mừng và loan báo cho mọi dân tộc Tin Mừng của Chúa. Tất cả những ai tin và đón nhận Chúa Giêsu qua lời rao giảng của Giáo Hội thì đón nhận được một đức tin vững chắc và bảo đảm cho hạnh phúc đời đời. Lời mở đầu của Tin Mừng theo thánh Luca đã khẳng định điều đó.

Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng gì? Đó là Tin Mừng giải thoát và là Tin Mừng cứu độ. Thánh Luca thuật lại, Chúa Giêsu trong những ngày đầu tiên hoạt động công khai, Ngài đã khẳng định cách rõ ràng về sứ mạng của Ngài: “Khi ấy, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giêsu trở về miền Galilêa…Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh”.Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu thi hành sứ mệnh của Thiên Chúa Cha, Ngài không hoạt động cách riêng lẻ, nhưng trong sự kết hợp với Chúa Cha và dưới sự trợ lực của Chúa Thánh Thần. Như thế, sứ mạng của chúa Giêsu thực sự là sứ mạng của Thiên Chúa, có sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa trong mọi hoạt động của Ngài.

Ngày Sabat, Chúa Giêsu vào hội đường tại Nazareth. Trong một bầu khí phụng vụ trang trọng, người ta trao cho Ngài sách tiên tri Isaia. Ngài mở ra và công bố đoạn sách được chép: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…”Tin Mừng ghi lại nhận xét: “Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe”.Câu chuyện cho thấy, dân thành Nazareth tỏ ra rất kính trọng vị Thầy Giêsu và cũng kỳ vọng rất nhiều nơi Người. Họ dành cho Người việc công bố và giải thích sách ngôn sứ, là việc thông thường phải do những thầy thông luật hoặc những người thế giá trong dân. Không những thế, mọi người trong hội đường đưa mắt nhìn Ngài như chờ đợi những lời giảng dạy từ nơi Ngài. Trong bầu khí trang trọng đó, Chúa Giêsu đã dùng lời của tiên tri Isaia để công bố về sứ mạng của Ngài: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà anh em vừa nghe”.Lời này khẳng định cho biết: “Hôm nay” là thời điểm Thiên Chúa ra tay thực hiện những điều Ngài đã hứa từ ngàn xưa. Thiên Chúa sẽ đem đến niềm vui giải thoát và ơn cứu độ cho nhân loại.

Tin Mừng của Chúa trước hết được đem đến với những người nghèo hèn, là những người không có quyền lực để tự bảo vệ, cũng không có của cải vật chất để cây dựa. Người nghèo là những người khiêm nhường, chỉ biết đặt niềm hy vọng vào nơi quyền năng của Thiên Chúa. Kế đến là những người tuy có tiền bạc của cải, nhưng vẫn giữ được một tâm hồn nghèo khó, không để mình bị nô lệ cho vật chất, biết tín thác vào Chúa, cũng sẽ đón nhận được Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng có sức mạnh giải thoát con người khỏi các hình thức nô lệ và sự trói buộc: Những người bị giam cầm trong tội lỗi, bị tù ngục trong dục vọng, bị xiềng xích bởi ma quỷ. Chúa Giêsu sẽ dùng quyền năng Thiên Chúa của Ngài để phá vỡ mọi hình thức nô lệ đó, trả lại cho con người được tự do sống làm con Thiên Chúa.

Tin Mừng của Chúa Giêsu mở ra một tương lai mới, một viễn cảnh mới, hy vọng mới cho nhân loại và cho những người đang bị mù lòa thể xác và tâm hồn. Tin Mừng sẽ chỉ ra hướng đi mới, con đường mới bảo đảm chắc chắn đạt đến hạnh phúc đời đời; Tin Mừng sẽ soi sáng cho những người đang bị u mê lầm lẫn trong suy nghĩ, trong các quan điểm, học thuyết, đang bị lừa dối trong những hứa hẹn của thế gian, để họ tìm về với chính Thiên Chúa là chân lý, là sự thật. Quan trọng hơn nữa là Chúa Giêsu: “Công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, tức là công bố cho mọi người biết họ có một Thiên Chúa là cha yêu thương, hết lòng bao dung, tha thứ và tất cả mọi người được Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa sẽ mở ra một năm không theo nghĩa thời gian, mà là một thời kỳ mới, thời kỳ mọi người, mọi loài được đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã công bố Tin Mừng của Ngài và mời gọi chúng ta đón nhận và để cho Tin Mừng canh tân biến đổi nếp sống và con người mình. Có thể chúng ta theo đạo theo truyền thống, không chú tâm đến việc đọc và suy gẫm Tin Mừng, nên không biết về Chúa Giêsu và giáo huấn của Người. Vì thế đời sống đạo của nhiều người chỉ là hình thức bên ngoài. Chúng ta cố chấp trong sự nô lệ, không chấp nhận để Chúa Giêsu giải tỏa và giải thoát khỏi sự ràng buộc và những thói xấu, khiến cho đời sống đạo của chúng ta còn bận vướng rất nhiều thứ theo kiểu thế gian. Vì không chú tâm học hỏi giáo lý của Tin Mừng nên nhiều người có đạo, nhưng đời sống không khác gì dân ngoại, không chịu mở mắt đón nhận ánh sáng sự thật của Chúa, để mình sống trong sự gian dối, u mê, lầm lạc.

Xin Chúa giúp mỗi người không ngừng canh tân, làm mới lại đời sống đạo của bản thân, của gia đình, để sống đức tin một cách trưởng thành, hiểu biết hơn và nhờ đó có thể sống trọn vẹn tư cách làm con của Chúa. Xin cho chúng ta biết để cho Tin Mừng tình yêu của Chúa biến đổi và giúp chúng ta trở thành những người đem Tin Mừng của Chúa đến cho anh em chung quanh. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG VÀ THỰC HÀNH

Lm. Giuse Trần Thanh Vượng

Sứ điệp Lời Chúa CN III TN C hôm nay được trích bởi hai chương của tin Mừng thánh Luca, đoạn đầu nói đến giá trị thực của những lời viết ra, chứ không phải những thông tin đồn đãi, thêu dệt. Bởi thế, khởi đầu nghe những giọng trịnh trọng gửi đến ngài Thê-ô-phi-lô (người bạn của Thiên Chúa) đáng kính, mong được nhận thức giáo huấn ngài đã học thật là vững chắc. Tiếp đến những lời Chúa Giêsu công bố, vừa an ủi, vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng ngôn sứ và cách thức loan báo Tin Mừng!

Sứ mạng ngôn sứ được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, và rước Mình Máu Thánh Chúa.

Kế đến, thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng. Nghĩa là người Kitô hữu “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).

1. Sứ mạng:

Động lực sâu xa của sứ vụ Giáo Hội phát xuất từ lệnh truyền của Đấng Phục sinh, không phải là một mệnh lệnh ngoại tại, nhưng là một sự tuôn đổ uy quyền tối thượng của Đức Kitô trên thế giới và xuyên qua những người đã đón nhận. “Anh em hãy đi khắp thế gian, công bố Tin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc 16, 15).

Trong các văn kiện của Giáo hội, đặc biệt sắc lệnh Ad Gentes, Tông huấn hậu thượng hội đồng Giám mục Verbum Domini luôn khẳng định và là lời mời gọi “Lời Chúa đời đời bền vững. Đó chính là Lời Tin Mừng đã được loan báo cho anh em” (1Pr 1, 25; Is 40,8). Lời ấy vừa được cả thế giới mừng cách đây vài tuần: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cắm lều giữa chúng ta” (Ga 1, 14); Ngôi Lời ấy báo cho các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân” (x.Lc 2, 10). Vui vì “Người công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4, 18-19). Qua đây ta thấy được sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những người đau khổ, vừa đòi hỏi sự hoán cải đối với những ai đón nhận.[1]

Sứ mạng của chúng ta là gì và làm gì? Có đồng cảm với vị Tông đồ Phaolô hay không? Cuộc đời của thánh nhân hoàn toàn ghi dấu lòng nhiệt thành rao giảng Lời Chúa. Làm sao mà không bị đánh động bởi những lời đầy rung cảm của thánh nhân khi người nói về sứ vụ của mình là rao giảng Lời Chúa: “Tất cả những điều đó, tôi làm vì Tin Mừng” (1Cr 9, 23); hay trong thư gửi tín hữu Rôma, ngài viết: “Tôi không xấu hổ vì Tin Mừng, vì Tin Mừng là quyền năng của Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin” (Rm 1, 16). Có như thế, chúng ta mới cảm nhận được Lời Chúa: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21).

2. Thi hành sứ mạng Lời. 

Trong lịch sử cứu độ, không có tách biệt giữa điều Thiên Chúa nói và làm; chính Lời của Ngài luôn sống động và hữu hiệu (x. Dt 4, 12). Trong Tông huấn: Lời Thiên Chúa trong đời sống và sứ mạng của Hội Thánh, Đức GH Bênêdictô XVI đã nói “Giáo Hội đã không bao giờ ngừng cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người bằng cách họp nhau để đọc trong tất cả Sách Thánh những gì liên quan đến Người”. Bởi thế, Thượng Hội Đồng Giám mục đã quan tâm về việc công bố Lời[2]. Nên những người được giao việc phục vụ này thì phải thực sự là người thích hợp và được chuẩn bị chu đáo.

Người tín hữu đều có bổn phận và nhiệm vụ liên quan tới Lời Chúa: các tín hữu phải lắng nghe và suy niệm; còn những ai đã nhận được nhiệm vụ Giáo huấn do bí tích Truyền chức thánh hoặc những đã được giao phó cho thi hành thừa tác vụ này.[3]

Thưa cộng đoàn!
Phải thừa nhận một điều là, những Kitô hữu chúng ta nói chung và thừa tác viên chuyên biệt nói riêng, vẫn chưa tích cực trong cách đọc, suy gẫm, cầu nguyện và chiêm niệm Lời Chúa. Vì vậy, trong giáo trình giảng lễ của LM Giuse Nguyễn Thế Thoại, Giáo sư ĐCV Sao Biển, cha đã khiêm tốn xin lỗi và hứa lưu ý anh em Chủng sinh, ngài viết trong Lời Vào: “Tôi xin quý Linh hướng và giáo sư phụng vụ cùng lưu tâm đào tạo. Giảng viên không cảm nghiệm được Lời Chúa và Tình Chúa thì không thể giảng hay. Giảng viên không khiêm tốn và đơn sơ như trẻ thơ của Chúa thì bài giảng lễ nhất định không sao minh bạch và đi vào tâm hồn được [4].

Với Lời Chúa của CN III TNC hôm nay, mời gọi tôi, cũng như mọi thành phần dân Chúa:

  • Tác viên chuyên biệt của Lời, luôn ý thức sứ mạng mà Giáo hội trao cho, hầu chuyển tải sứ điệp Lời Chúa đến cho mọi người.
  • Đối với Kitô hữu, luôn siêng năng học hỏi, trau dồi và áp dụng trong đời sống gia đình, cộng đoàn, giáo xứ… của mình. (x. Bài đọc 2)
  • Hãy để Lời Chúa uốn nắn mình, chứ mình đừng uốn nắn Lời Chúa.
  • Khắp đây đó, còn nhiều người chưa biết “TIN” này, xin Thần Khí hướng dẫn, sai con đi, loan Tin Mừng cho người nghèo khó…

Cùng chung tay rao giảng và thực hành Lời Chúa, để đem lại cho Giáo hội một mùa xuân mới. Xin Chúa chúc lành cho sứ mạng của chúng con. Amen.
———–

[1] X. ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Tân Phúc Âm hóa tại Việt Nam, tr. 18.

[2] X. Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum caritatis, tr 140-141.

[3] Sách lễ Rôma, trình bày tổng quát sách Bài đọc trong thánh lễ, s. 66.

[4] X. LM Giuse Nguyễn Thế Thoại, Chuẩn bị giảng lễ, ĐCV Sao Biển Nha Trang, 1999, tr. 2.

Về mục lục

.

THÊM SÁCH SỬ THÁNH

Lm Vũdình Tường

Thánh Luca thánh sử xác nhận có nhiều tác giả viết về cuộc đời Chúa Cứu Thế. Những vị tiền nhiệm đó tường thuật sự việc; chứng nhân, những người đã nghe thuật lại cuộc đời rao giảng công khai của Đức Kitô và cuộc khổ nạn của Ngài. Thánh Luca xem xét nguồn tài liệu đó cẩn thận, và đúc kết thành nguồn tư liệu cho riêng Ngài. Điểm khác biệt chính trong sách của Ngài là Ngài sắp xếp sự việc theo lớp lang, thứ tự.

‘Sau khi đã tra cứu đầu đuôi mọi sự,thiết tưởng cũng tuần tự viết ra’ Lk 1,2.

Khi có nhiều nguồn tài liệu khác nhau, người đọc có nhiều tự do trong việc chọn lựa nhưng chọn lựa tự nó cũng có vấn đề vì không biết chọn thứ nào, bỏ thứ nào. Thánh Luca sắp xếp sự việc góp phần vào việc giúp chọn lựa.

Thánh Luca xác nhận những bài viết về Đức Kitô rất chính xác và Ngài làm công việc sắp xếp giúp Kitô hữu nhìn rõ hơn, mạch lạc hơn về con người Đức Kitô và công trình cứu chuộc của Ngài.

Đức Kitô nhận phép rửa từ thánh Gioan và Thánh Thần Chúa xuống ngự trên Ngài. Điều này cho biết Ngài là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, đóng Ấn Tín. Đức Kitô về quê và thường sinh hoạt trong hội đường. Người ta đưa cho Ngài sách. Mở sách ra Ngài đọc đoạn tiên tri Isaiah viết: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi’. Đức Kitô nhận Thần Khí Chúa trong ngày Ngài chịu phép rửa vì thế không còn nghi ngờ gì nữa đoạn sách tiên tri Isaiah tiên đoán trên chính là tiên đoán về sứ mạng công khai rao giảng của Đức Kitô. Cách nào đó chính Đức Kitô xác định điều đó khi Ngài nói: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe’ Lk 4,21.

Sứ mạng trần thế của Đức Kitô là mang Tin Mừng đến cho mọi người, bắt đầu từ người nghèo khó. Nghèo khó đây không nhất thiết là thiếu ăn, thiếu mặc. Nghèo khó còn mang í nghĩa tinh thần như đói khát sự công chính, nghèo lòng bác ái, từ bi, tha thứ. Với sức mạnh của Thánh Thần, Đức Kitô giải thoát kẻ bị áp bức, giam cầm do tội lỗi gây ra. Giải thoát họ khỏi xiềng xích tội lỗi và chết phần tâm linh. Ngài là sự sáng chiếu dọi vào cõi u tối cuộc đời con người để mang ánh sáng chân lí cho muôn dân. Tất cả những điều trên tóm gọn trong ‘Năm Hồng Ân’ của Thiên Chúa. Không giống như ‘Năm Hồng Ân’ dân Do thái công bố mỗi 50 năm. Trong ‘Năm Hồng Ân’ món nợ vật chất, của cải được tha, xoá bỏ; ‘Năm Hồng Ân’ của Thiên Chúa có nghĩa Thiên Chúa đến cứu dân Người khỏi xiềng xích tội lỗi, xoá bỏ tội họ đã phạm và cho họ tái sinh trở thành con cái Chúa. Một khi người đó nhận ơn tái sinh, ân sủng Chúa luôn gần bên giúp họ thay đổi lối sống trở thành con cái của sự sống. Thay đổi bắt đầu từ trong tâm hồn và thể hiện cụ thể qua hành động, lời nói đi đôi với việc làm là dấu chỉ của thay đổi trong tâm hồn.

Đức Kitô nhận Thánh Thần Thiên Chúa khi Ngài nhận phép rửa của Gioan, nơi sông Giođan. Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy được chia sẻ Thánh Thần của Đức Kitô. Điều này cũng cùng nghĩa Kitô hữu cùng chia sẻ sứ mạng của Đức Kitô, có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Đấng Cứu thế giữa trần gian. Ba sứ mạng của Đức Kitô là tư tế, tiên tri và vương quyền. Kitô cũng chia sẻ ba sứ mạng đó của Đức Kitô. Chúng ta xin ơn luôn làm tròn sứ mạng- tư tế, tiên tri và vương quyền, hứa khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy.

Về mục lục

.

CÔNG KHAI RAO GIẢNG TIN MỪNG

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN III.TN-C – Lc 1, 1-4; 4, 14-21) trình thuật sự kiện Đức Giê-su trở về thăm nơi sinh quán của mình. Vì là Con Thiên Chúa, nên Đức Giê-su rất yêu mến, quý trọng Hội Đường là nơi tôn thờ Chúa Cha. Bởi vậy, Người thường xuất hiện ở nơi đây vào những ngày Sa-bát để tham dự giờ đọc và suy niệm Kinh Thánh. Tuy nhiên, lần này Đức Giê-su trở về quê hương, Người vào Hội Đường với tư cách là Đấng Mê-si-a và chính thức công bố chương trình hoạt động, những lựa chọn ưu tiên cũng như đối tượng mà Người nhắm đến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Kết thúc thời gian sống ẩn dật 30 năm tại làng quê Na-da-rét, Đức Giê-su được Thần Khí đưa vào hoang địa chay tịnh 40 đêm ngày và chịu để ma quỷ cám dỗ. Sau đó, Người trở về miền Ga-li-lê và bằng phép lạ tỏ mình ra tại tiệc cưới Cana, Đức Giê-su bắt đầu thực hiện sứ mạng công khai rao giảng Tin Mừng “trong các hội đường và được mọi người tôn vinh” (Lc 4, 15). Rồi Người trở về Na-da-ret nơi Người sinh trưởng, vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Đoạn Kinh Thánh Người đọc nằm trong cuốn sách của ngôn sứ Isaia: “Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA.” (Is 61, 1-2).

Có lẽ khi viết những lời này, ngôn sứ Isaia chỉ muốn ghi nhận quan niệm của các tiên tri về ơn gọi và sứ mạng của những người được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ. Đại từ nhân xưng “tôi” đã chứng tỏ ngôn sứ Isaia viết về chính ngài vì ngài là ngôn sứ. Hết mọi người được trao phó sứ mạng rao truyền Lời Chúa đều được Thiên Chúa đổ Thần Khí của Người trong nghi lễ xức dầu mà sách Các Vua (cuốn I) còn kể lại (“ĐỨC CHÚA phán với ông: “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sa mạc cho tới Đa-mát mà về. Tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi.” – 1V 19, 15-16). Và sứ điệp mà các ngôn sứ phải công bố chính là Tin Mừng cứu độ dành cho người khó nghèo, đau khổ, tù đày, để mọi nơi được hân hoan cử hành năm hồng ân đại xá mà nhân dân hằng mong ước.

Đoạn sách Thánh mà Đức Giê-su đọc tuy là lời tự sự của ngôn sứ Isaia (“Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi…”), nhưng lại rất phù hợp với sứ vụ của Đức Giê-su (“loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA.”), nên có thể nói đó chính là những lời tiên tri về Đấng Cứu Độ. Và vì thế, khi đọc xong bài Thánh Thư, Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” (Lc 4, 22-24).

Đức Ki-tô đã không tự nhận Người chính là nhân vật được “xức dầu tấn phong” trong đoạn sách Thánh, mà chỉ khéo léo cho mọi người biết lời ngôn sứ Isaia đã trở thành hiện thực và người “được xức dầu và sai đi loan báo Tin Mừng” chính là người đọc sách Thánh đang hiện diện trước mặt mọi người. Có lẽ cũng vì thế, thánh sử Lu-ca không ghi lại chi tiết về bài giảng của Đức Ki-tô, mà chỉ ghi nhận thái độ của khán thính giả trong nguyện đường (“Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.”  – Lc 4, 24). Quả thật, chính Đức Giê-su đã được xức dầu phong vương và được tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa sau khi chịu phép rửa ở sông Gio-đan. Cũng chính Người đã giảng dạy và tạo được niềm vui cứu độ như Người đã làm khi rời hoang địa trở về Ga-li-lê.

Những sự kiện xảy ra liên tục “ứng nghiệm lời Kinh Thánh” trong suốt quá trình thực hiện sứ vụ của Đức Giê-su: Biết bao nhiêu bệnh nhân đã được chữa khỏi (kẻ mù được trông thấy, kẻ què được đi, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, thậm chí cả những kẻ đã chết được sống lại). Rồi biết bao con người khó nghèo, tù đày trong cảnh lầm than, hoạn nạn được giải thoát. Và khắp nơi đang nổi lên bầu khí hân hoan như mừng đón năm hồng ân đại xá đã tới. Tất cả đã minh chứng những lời tiên tri của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực. Tất cả đang được thực hiện và được thực hiện nhờ Đức GIê-su, do chính Người hành động.

Duy có điều người ta chưa hiểu được đầy đủ là Ðức Giê-su còn muốn chứng minh rằng Người không chỉ là ngôn sứ, mà còn hơn thế nữa, vì Người đến không phải chỉ để công bố năm hồng ân, nhưng còn để thực hiện sứ vụ đem hồng ân cứu độ đến cho loài người. Đám đông tuy lúc đầu có “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, nhưng về sau họ lại không bằng lòng khi nghe Người khẳng định Người là Ðấng Thiên Chúa sai đến. Cũng bởi vì trong thâm tâm, họ chỉ muốn được hưởng thụ ngay những phép lạ mà Isaia đã loan báo, kể cả việc mà họ nghe rằng Đức Giê-su đã làm ở những nơi khác. Đó cũng là tâm lý thông thường của con người, không riêng gì ở làng quê Na-da-rét, hay cả miền Ga-li-lê hoặc cả nước Do Thái; mà là trên khắp mặt địa cầu.

Quả thật ngay từ ngày khai mạc sứ vụ “đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh”. Không chỉ ứng nghiệm việc Thiên Chúa đã xức dầu tấn phong Đức Giê-su mà còn ứng nghiệm cả thái độ của dân Do Thái kể từ giới thượng lưu trí thức đến đám đông thường dân. Họ đã không nhận ra chính con người và sứ vụ của Đức Giê-su. Những người đồng hương Na-da-ret xem thường và từ chối Người; những nhà lãnh đạo tôn giáo kết án Người; còn đám đông dân chúng thì tìm kiếm Người chỉ vì những nhu cầu thực dụng. Vâng, họ đúng là đám người mà ngôn sứ Isaia tiên báo từ 5 thế kỷ trước đó (“Đúng vậy, ngươi đâu đã nghe, đúng vậy, ngươi đâu đã hiểu, đúng vậy, trước đây ngươi đâu đã mở tai nghe! Vì Ta biết ngươi là tên phản bội, đáng gọi là phản phúc tự bẩm sinh.” – Is 48, 8).

Ngày hôm nay, người Ki-tô hữu không chỉ là “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, mà phải là dốc một lòng tin tưởng vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua chính Con Một Người là Người Tôi Trung duy nhất, thánh thiện. Ngày hôm nay, anh đang là “kẻ nghèo hèn” ư? Bác đang “bị giam cầm” ư? Ông đang là “tù nhân” ư?  Còn bà và chị đang là những kẻ có “tấm lòng tan nát” ư? Tất cả, tất cả hãy “Quẳng gánh lo đi mà vui sống” (*) vì “Năm Hồng Ân” vĩnh cửu đã gần kề. Vâng, xin đừng mới nghe thì “tán thành và thán phục”, nhưng sau đó lại thắc mắc “chẳng phải ông Giê-su là con bác thợ mộc trầm lặng Giu-se và bà nội trơ hiền lành Maria sao?” Ấy cũng bởi vì “Đối với Thiiên Chúa thì điều không thể sẽ thành có thể”, nên đừng đem “tư tưởng loài người” ra mà “suy sự Đức Chúa Trời”.

Ôi! Lạy Chúa Giê-su, xin ban thêm lòng tin và nhất là đức mến cho chúng con, để chúng con biết nhận ra Chúa nơi mọi người và biết nhận ra những dấu chỉ tình thương của Chúa, ngõ hầu giúp chúng con luôn biết sẵn sàng “Quẳng gánh lo đi mà vui sống” trong Tin Mừng Cứu Độ Chúa đã, đang và sẽ mang đến cho chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

————————-

Chú thích: (*) Trong khoảng thập niên 60 thế kỷ XX ở Saigon, học giả Nguyễn Hiến Lê có viết một tác phẩm và được độc giả rất mộ mến, đó là tác phẩm “Quẳng gánh lo đi và vui sống” (trong tủ sách “Học làm người”).

Về mục lục

.

LỜI QUYỀN NĂNG LÀ THẦN TRÍ VÀ LÀ SỰ SỐNG

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng…” (x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).

Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo Hội Công Giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo Hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x. MK số 21). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh Vịnh đáp ca và bài Tin Mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.

Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo Hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). “Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống” (Đáp ca). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).

Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: “công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19).

Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do …(x. Xh 21,2; Lv 25,1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25,8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư…như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố… Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.

Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đỗi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1,1).

Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố Lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố Lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật” (Ga 18,37).

Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.

Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy Giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy Giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7,18-23).

“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do”(Ga 8,34-36). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời. Sau lời tuyên phán “Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà” đôi chân của người bất toại được giải phóng. Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: “ Tội lỗi anh được tha” mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm (x. Mc 2,1-12).

Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có “quyền năng” vì là thần trí và là sự sống.

Về mục lục

.

TIẾP NỐI SỨ MẠNG CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Sau khi nghe bài giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Đấng đầy lòng thương xót, một tín hữu không đồng tình với vị giảng thuyết. Đầu óc ông quay cuồng bởi những câu hỏi như:

Làm sao người ta có thể tin Thiên Chúa là Đấng nhân lành khi Chúa nhắm mắt làm ngơ trước biết bao nhiêu người đau khổ, tuyệt vọng mà không ban cho họ chút ủi an hay một niềm hy vọng?

Làm sao người ta tin được Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót khi có biết bao người phải chịu cảnh giam cầm trong ngục tù, trong sự trói buộc của các đam mê mà không được giải thoát?

Thật khó tin có Thiên Chúa là Đấng tốt lành khi Ngài để cho những người mù, nhất là mù tối trong tâm hồn, không được nhìn thấy ánh sáng chân lý.

Và bao nhiêu người bị áp bức, bị gông cùm, tại sao không được Thiên Chúa ra tay giải thoát?

Đêm hôm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những câu hỏi như thế lởn vởn trong đầu, ông ta chợt nhận ra câu đáp của Thiên Chúa từ trong vắng lặng của màn đêm:

– Con tưởng là Ta không ra tay giải thoát ư? Ta đã ra tay rồi đó, sao con còn trách Ta?

– Chúa ra tay lúc nào đâu? Chúa đã làm gì để cứu vớt những người tuyệt vọng, những người bị giam cầm, những người mù tối, những người bị áp bức?

– Ta đã dựng nên con và đặt con hiện diện giữa lòng đời để con thay Ta mà hành động. Thế sao còn trách Ta?

Có một điều quan trọng nhưng thường bị lãng quên, đó là chúng ta là những cánh tay, là những bàn tay của Thiên Chúa và Thiên Chúa thực hiện công việc của Ngài qua chúng ta.

Thiên Chúa có làm gia tăng số người trên mặt đất thì Ngài cũng thực hiện việc đó qua trung gian một người cha và một người mẹ trong gia đình.

Thiên Chúa muốn nuôi dạy cho thế hệ trẻ nên tốt thì Ngài cũng thực hiện điều đó qua cha mẹ thầy cô.

Xưa kia Thiên Chúa Cha đã sai Chúa Giê-su đem Tin mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù tối, trả tự do cho người bị áp bức… thế nào, thì hôm nay, Chúa Giê-su cũng sai chúng ta nối gót Ngài thực hiện những công việc đó. Chúa Giê-su vẫn đêm ngày nhắc nhở chúng ta: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Gioan 20, 21).

Thế là chúng ta phải lựa chọn: Hoặc là chấp nhận ở lại trong Nhiệm thể Chúa Giê-su, trở thành cánh tay nối dài của Chúa Giê-su để tiếp tục sứ mạng của Ngài nơi chúng ta, hoặc là chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su để khỏi bị Ngài sử dụng như một phần thân thể của Ngài để phục vụ tha nhân. Nhưng phải nhớ rằng, nếu tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa, số phận chúng ta chẳng khác gì số phận của cành lìa cây.

Mong sao mỗi người chúng ta hãy tiếp tục làm chi thể của Chúa, làm khí cụ cứu rỗi của Ngài và hãy để Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ xây dựng hoà bình, yêu thương của Chúa.

Lời ngôn sứ Isaia tiên báo về Chúa Giê-su hôm xưa cũng là lời nhắn gửi đến mỗi người chúng ta: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4, 18-19).

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con là những chi thể của Chúa, luôn kết hợp mật thiết với Chúa để thực hiện từng câu từng chữ lời ngôn sứ Isaia đã tiên báo về Chúa hôm xưa, để mai đây, chúng con có thể nói với mọi người như Chúa tại hội đường Na-da-rét: “Hôm nay, đã ứng nghiệm nơi tôi đoạn sách mà quý vị vừa nghe.”

Về mục lục

.

SỨ MẠNG ĐẤNG CỨU ĐỘ

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Với Chúa Nhật III thường niên năm C, phụng vụ Lời Chúa giới thiệu với chúng ta về sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Sứ mạng đó được Chúa giao phó cho Giáo Hội để chuyển thông ơn cứu độ của Chúa cho mọi người qua mọi thời đại. Chúng ta lần lượt tìm hiểu ý nghĩa Lời Chúa hôm nay qua từng bài đọc.

1- Sứ mạng Đấng Cứu Độ

Trong bài Tin Mừng, chúng ta nghe thánh Luca tường thuật sự kiện Chúa Giêsu trở về quê hương. Trong ngày Sabát, như thường lệ, Người vào hội đường và đọc Sách Thánh. Người mở sách tiên tri Isaia và gặp đoạn này: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đọc xong, Người ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,16-21). Những lời này có ý nghĩa gì? Chúa Giêsu muốn nói gì khi nhắc lại lời hứa của Cựu Ước?

Trước hết, chúng ta chú ý đến thành ngữ mà Chúa Giêsu dùng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Điều này muốn diễn tả Chúa Giêsu mang lại sự viên mãn của ơn cứu độ. Tất cả lời hứa về ơn cứu độ nay đã được thực hiện nhờ Chúa Giêsu bởi vì Người là Đấng Mêsia được chờ đợi từ lâu trong Cựu Ước, được Chúa Cha sai đến để hoàn tất lời hứa. Vì thế, thánh Luca rất thích dùng từ “hôm nay”: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta” (Lc 2,11; x. 19,9).

Trong lời công bố này, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng của Đấng Cứu Thế: Người đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia loan báo trong Cựu Ước. Người được Chúa Cha xức dầu và được đổ tràn đầy Thánh Thần để đi loan bao Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, giải thoát những kẻ bị giam cầm, chữa lành người bị mù lòa, trả lại tự do cho người bị áp bức. Người tái lập trật tự xã hội trong đó, công lý, hòa bình và yêu thương phải ngự trị. Quả thật, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của mình, Đức Giêsu Nazarét thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa và sức mạnh cứu độ con người. Bởi thế, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Người có phải là Đấng Cứu Thế không, Người đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Người đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm nói được v.v… đúng như lời tiên tri Isaia tiên báo (x. Lc 7,20-22).

Nhưng tại sao ngày hôm nay vẫn còn người nghèo, vẫn còn người bị áp bức, vẫn còn nhiều nhà tù, vẫn còn đó nhiều người mù lòa? Như thế, phải chăng điều Chúa công bố ngày hôm nay vẫn còn chưa được thực hiện?

Để hiểu được ý nghĩa của những lời trên, chúng ta cần phải tiếp cận theo cái nhìn tâm linh. Theo đó, Đức Giêsu loan báo về Nước Thiên Chúa đã hiện diện trên trái đất này. Nước Thiên Chúa đã đến với sự hiện diện của Người. Những ai tin vào Người thì thuộc về Nước Trời. Những ai tin vào Người thì được ơn giải thoát khỏi sự mù lòa tâm linh. Người khai sáng và ban cho họ có khả năng nhìn thấy đường đi, sự thật và sự sống. Những ai bị cầm giữ bởi tội lỗi, nô lệ cho Satan, thì được Người giải thoát nhờ Lời và các phép lạ của Người làm, đặc biệt là nhờ các bí tích mà Người thiết lập, nhất là bí tích Rửa Tội và Giải Tội, giải phóng chúng ta khỏi mọi sự nô lệ của tội lỗi. Nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Chúa, được gia nhập Giáo Hội và được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Hiểu như thế, ngày hôm nay Chúa Kitô đang thực hiện sứ mạng cứu độ này trong thế giới qua Giáo Hội.

2- Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô

Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần đã thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sứ mạng cứu độ con người trên trần gian. Giáo Hội bao gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng hiệp nhất nên một với nhau nhờ một Thánh Thần. Bởi vì, Giáo Hội là Nhiệm Thể Đức Kitô.

Trong bài đọc II, thánh Phaolô ví Giáo Hội như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau. Mỗi chi thể có một vai trò khác nhau nhưng bổ túc cho nhau và phục vụ cho lợi ích chung: Như chân không thể nói với tay: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể,” hay các bộ phận khác cũng thế. Mỗi bộ phận có sự lớn nhỏ, mạnh yếu khác nhau nhưng để giúp đỡ nhau.

Trong thân thể Giáo Hội cũng vậy, Thiên Chúa đặt người làm Tông Đồ, người làm ngôn sứ, kẻ làm thầy dạy, người được ơn làm phép lạ, người được ơn chữa bệnh để giúp kẻ khác, để quản trị, để nói tiếng lạ… Tất cả đều đến từ một Chúa Thánh Thần. Đó là những đặc sủng khác nhau nhưng đều có một mục đích chung là phục vụ lợi ích của Giáo Hội (x. 1 Cr 12,12-30).

Như trong một giáo xứ, có linh mục, có thừa tác viên, có hội đồng mục vụ, có giúp lễ, có ca đoàn, có nam nữ tu sĩ, có giáo dân… Đây là những chi thể làm nên một thân thể Giáo Hội của Chúa Kitô. Mỗi người có một vai trò, một sứ mạng riêng nhưng chúng ta đều có chung mục đích là để phục vụ Chúa và Giáo Hội.

Như một vườn hoa với đủ loại hoa màu khác nhau, mỗi loài hoa làm nên vẻ đẹp phong phú của vườn hoa, trong cộng đoàn Giáo Hội có nhiều ơn gọi và chức vụ khác nhau để làm cho Giáo Hội muôn sắc muôn màu. Hay như một dàn hợp xướng, có nhiều ca viên, người đánh đàn, người thổi sáo, người đánh trống, người kéo violon v.v… Mỗi người phải theo sự hướng dẫn của người điều khiển, và mỗi người làm tốt vai trò của mình, thì sẽ tạo ra một bản hòa tấu tuyệt diệu. Cũng thế, trong Giáo Hội, mỗi người có một vị trí khác nhau nhưng hiệp nhất với nhau và cộng tác với nhau để tạo nên một bản nhạc tuyệt vời ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa.

Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta thường có cám dỗ không chấp nhận sự khác biệt của người khác và muốn bắt người khác phải giống mình. Vì thế, chúng ta được mời gọi biết tôn trọng sự khác biệt, đặc sủng và tài năng của người khác, đồng thời phải biết nhìn nhận rằng sự khác biệt là sự giàu có và mỗi đặc sủng Chúa ban là để phục vụ thiện ích chung.

3- Sứ mạng của mỗi Kitô hữu

Những gì Chúa Giêsu công bố và đã được ứng nghiệm nhờ sự hiện diện, lời nói và việc làm của Người. Đó cũng là những gì mà ngày hôm nay chúng ta được mời gọi để sống và thực hiện cho những người xung quanh. Chúa Kitô trao sứ mạng của Người cho mỗi người thực hiện.

Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô là loan báo Tin Mừng cho mọi người. Trên thế giới, Giáo Hội đã khai sinh biết bao nhiêu bệnh viện, trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão… Giáo Hội đã không ngừng dấn thân trong công tác từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa để mang lại cho biết bao nhiêu con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Đặc biệt, Giáo Hội thực thi sứ vụ cứu độ con người qua việc cử hành các bí tích do Chúa Kitô ủy thác.

Với sứ vụ này, hôm nay mỗi người Kitô hữu được mời gọi dành những nghĩa cử, lời nói, thăm hỏi người nghèo khổ, loan báo tự do cho những ai bị trói buộc bởi các hình thức nô lệ mới trong xã hội hiện đại, phục hồi phẩm giá cho tất cả những ai bị đánh mất nhân phẩm. Nếu chúng ta thực hiện được những điều này, thì lời công bố của Chúa trở thành hiện thực và ứng nghiệm nhờ chứng tá đời sống chúng ta. Ước gì những lời của thánh Phaolô hướng dẫn chúng ta: “Ai làm những việc bác ái, thì hãy làm những điều ấy trong hân hoan” (Rm 12,8).

Lạy Chúa, Chúa đến khai mở Nước Thiên Chúa giữa trần gian và thực hiện lời hứa cứu độ cho con người. Xin cho chúng con luôn ý thức và trân quý những hồng ân Chúa ban, đồng thời biết cộng tác với Chúa và với nhau trong việc cứu rỗi các linh hồn. Amen!

Về mục lục

.

SỐNG TRONG HỒNG ÂN CỦA CHÚA

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Luật lệ là thứ cần thiết cho cuộc sống xã hội nơi trần thế. Luật giúp cho con người gắn kết với nhau trong trật tự và cùng nhau hướng tới đời sống trọn hảo. Với sự xuất hiện của Chúa Giê-su trong cuộc đời, con người được mời gọi sống luật tối cao của Trời là yêu thương tha thứ. Lời Chúa trong Chúa nhật III Thường niên năm C đưa tâm hồn người đến gặp gỡ Chúa Giê-su để được sống và sống an hòa trong tình thương của Ngài.

Lề luật và cuộc sống

Bài đọc thứ nhất nói về thời kỳ dân Do Thái trở về Giu-đa sau thời lưu đày ở Babylon. Ngôn sứ Nơ-khe-mia và thầy tư tế Ed-ra cùng giúp dân tái lập lại thành Giê-ru-sa-lem và đời sống đạo. Trong đoạn trích sách Nơ-khe-mia, thầy tư tế Ed-ra đã trịnh trọng công bố luật trước toàn dân. Ông đã cặn kẽ giải thích những điều luật cho dân hầu để họ giữ sao cho trọn. Nếu như vị ngôn sứ  Nơ-khe-mia tận tâm giúp dân dựng xây lại thành Giê-ru-sa-lem từ đống hoang tàn đất đá, thì thầy tư tế Ed-ra đã nỗ lực giúp dân xây dựng lại cuộc đời từ trong sự hoang mang, hoảng loạn sau thời lưu đày.

Những năm tháng lưu đày, dân Do Thái đã cảm nghiệm rõ nét về một đời sống xa rời luật Chúa. Bao lời nhắc nhở của các ngôn sứ đã vẳng lại bên tai họ là những lời chất vấn lương tâm về một thời họ sống buông thả, chạy theo thần ngoại, bê chễ giữ luật. Họ thấm thía được cái giá phải trả do chính đời sống bất tuân luật lệ của mình.

Giữa lúc hoang tàn và xáo trộn, luật đã đem lại cho dân Do Thái sự ổn định và vững bước củng cố, tái thiết lại cuộc sống. Họ đã được đánh thức và kéo về với con đường ngay chính, con đường với những bản chỉ dẫn rõ ràng của luật. Họ đã đồng lòng nghe luật, học luật, sống theo luật, nương mình bước theo đường luật chỉ vẽ.

Sự hiện diện của Chúa

Thánh sử Luca đã khởi đầu trình thuật Tin mừng với câu trích từ sách Isaia. Ngôn sứ Isaia đệ tam đã viết nên tâm tình ấy cũng chính trong thời kỳ dân đã trở về Giu-đa sau thời lưu đày ở Babylon. Ngôn sứ Isaia tiên báo về một thời sẽ đến, thời giải thoát, thời tha thứ, thời “năm hồng ân” sẽ được mở ra. Thánh Luca đã giới thiệu Chúa Giê-su với nhân loại, giới thiệu một thông điệp cao cả trong khung cảnh bình dị và lắng đọng: “Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: ‘Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe’”.

Trong Hội đường, nơi mà dân thường xuyên tập họp để nghe luật, để tìm hiểu luật, Chúa Giê-su đã xuất hiện về bắt đầu trình bày về luật tối thượng cho dân. Họ đã chăm chú đợi chờ Chúa Giê-su cắt nghĩa về những điều giúp họ sống giữa cuộc đời này, Chúa Giê-su đã kéo họ lên một thời kỳ mới, thời của yêu thương, thời của tha thứ, thời sống trong luật tối thượng của Trời, thời của hồng ân.

Lời của ngôn sứ Isaia gồm tóm nỗi khát khao của con người bao đời, nay đã được trở nên hiện thực, “hôm nay đã ứng nghiệm”. Hiện thực ấy không được diễn tả bằng lời nói, nhưng nó được trình bày bằng cả con người của Chúa Giê-su. Sự hiện diện của Chúa Giê-su không chỉ trình bày về cung cách sống luật mới, mà chính Ngài đem lại nguồn sức sống của Trời, sự yêu thương chăm sóc của Trời, sự tha thứ của Trời cho tất cả những ai đón nhận Ngài. Năm hồng ân được mở ra với sự hiện diện của Chúa Giê-su.

Chúa đã đến với những con người đau khổ; Chúa đã nhìn con người đau khổ với ánh mắt yêu thương; Chúa đã cúi xuống nâng con người yếu đuối đứng dậy; Chúa đã đụng đến con người bệnh tật để chữa lành những vết thương; Chúa đã bẻ bánh ra mà nuôi dưỡng người đói khát; Chúa đã tha thứ tất cả cho người tội lỗi, cho kẻ phản bội mình; Chúa đã ôm lấy cả nhân loại này trong vòng tay âu yếm. Chính sự hiện diện của Chúa Giê-su đem lại thời hồng phúc trường cửu cho con người.

Thân thể mầu nhiệm

Thánh Phaolo đã trình bày sự sống mới trong Chúa Giê-su ấy bằng một hình ảnh thật gần gũi: “như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy.”, “anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người”.

Mỗi người là một chi thể trong thân mình Chúa Giê-su. Sống theo luật là để Chúa Giê-su chi phối cuộc đời mình. Mọi hành động của tôi đều được uốn nắn bởi Chúa Giê-su. “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Giê-su sống trong tôi”, thánh Phaolo đã có thể thốt lên như thế với cộng đoàn Galata năm xưa.

Sống trong thân thể của Chúa Giê-su, tôi được nuôi dưỡng bởi chính Ngài. Sự sống tươi mới mỗi ngày được mở ra và trao ban trong Thần Khí của Ngài. Tôi không còn phải chạy đua dập khuôn đời mình theo những con người được ca tụng thành công, nhưng tôi để cho Chúa khuôn đúc tôi nên chính tôi, nên chính chi thể trong thân thể nhiệm mầu của Ngài.

Lạy Chúa là nguồn sức sống của con, con tín thác nơi Chúa. Con xin được ở trong Ngài, xin Ngài uốn nắn con.

Về mục lục

.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA LỜI CHÚA

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Nk 8:2-4a, 5-6,8-10;  1 Cr 12:12-30;  Lc 1:1-4;  4:14-21)

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta hình ảnh hai người tuyên đọc Lời Chúa:  ông Ét-ra đọc sách Luật trước toàn dân Ít-ra-en và Chúa Giê-su đọc sách ngôn sứ I-sai-a tại hội đường Na-da-rét.  Cả hai khung cảnh đều rất trang nghiêm và cảm động, cho thấy Lời Chúa đóng một vai trò quan trọng nơi cả người đọc lẫn người nghe.  Tư tế Ét-ra “đọc và giải thích sách Luật” và nhờ thế mà toàn dân hiểu được những điều đã nghe.  Còn Chúa Giê-su thì đọc đoạn sách ngôn sứ I-sai-a, rồi Người nói với dân chúng:  “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.  Tuy nhiên sứ điệp Lời Chúa mà người nghe lãnh nhận lại đưa họ tới những kết quả khác biệt và đây cũng là điểm cốt lõi Phụng vụ Lời Chúa muốn trình bày.

Trước hết chúng ta hãy hiện diện trong khung cảnh Cựu Ước khi tư tế Ét-ra đọc sách Luật.  Phải nói rằng sự kiện tư tế Ét-ra đọc Sách Luật trước mặt cộng đồng là lần đầu tiên trong lịch sử dân Chúa.  Trước đó Sách Thánh được giữ trong Đền Thờ hoặc cung điện nhà vua, còn dân Ít-ra-en thì sống đức tin bằng cách cầu nguyện và tham dự các nghi lễ của Đền Thờ , do đó họ không cảm thấy nhu cầu đọc Kinh Thánh.  Giờ đây, ông Ét-ra ý thức được rằng cộng đồng Do-thái sẽ phát triển là nhờ đọc, suy niệm và giải thích Kinh Thánh.  Vì tầm quan trọng của Kinh Thánh, buổi tuyên đọc Sách Thánh được tổ chức hết sức trang trọng.  Dân chúng tụ tập ở quảng trường, ông Ét-ra đứng trên bục gỗ cao.  Mọi người đứng dậy khi sách được mở ra.  Sau phần chúc tụng Đức Chúa, ông Ét-ra và các thầy Lê-vi “đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc”.  Lời Chúa đã đánh động tâm hồn dân chúng khiến họ khóc lóc.  Nhưng ông Ét-ra bảo họ:  “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em”.

So sánh với buổi tuyên đọc Sách Thánh thời tổng đốc Nơ-khe-mi-a và tư tế Ét-ra, thì buổi tuyên đọc Sách Thánh của Chúa Giê-su tại hội đường Na-da-rét mang một sắc thái khác.  Sự kiện xảy ra trong phạm vi hội đường nhỏ bé của dân thành Na-da-rét.  Tuy nhiên bầu không khí vẫn đầy trang nghiêm.  Chúa Giê-su đứng lên đọc Sách Thánh.  Đứng là tư thế tỏ lòng kính trọng.  Rồi người ta trao sách ngôn sứ I-sai-a cho Chúa.  Chúng ta có thể tưởng tượng cảnh Chúa Giê-su kính cẩn nhận Sách Thánh từ tay ông trưởng hội đường.  Chúng ta cũng nghĩ đến những tâm tình của Chúa Giê-su khi Người đọc đoạn sách I-sai-a 61:1-2 nói về sứ mệnh của vị ngôn sứ.  Nhưng đây cũng chính là sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Người hiểu sứ mệnh cao cả mà Người sẽ phải chu toàn bao gồm những công việc gì.  Rồi Người “ngồi xuống” để suy niệm.  Thái độ của Người lúc này hẳn phải vô cùng sốt sắng đến nỗi “ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người”.  Tiếp theo là phần giải thích và chia sẻ.  Chúa nói:  “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.  Chưa bao giờ có một buổi suy niệm và chia sẻ vắn tắt như vậy!  Lời ngôn sứ I-sai-a không còn là lời viết trên giấy da và cuộn lại thành cuốn nữa, nhưng là lời bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước mặt mọi người trong hội đường Na-da-rét.  Vậy dân chúng đã phản ứng thế nào trước sứ điệp Lời Chúa là chính con người Chúa Giê-su?  Thật đáng buồn!  Đối với Lời Chúa được Ét-ra tuyên đọc, thì dân chúng động lòng, khóc lóc.  Còn đối với Chúa Giê-su là Đấng “ứng nghiệm lời Kinh Thánh”, thì dân thành Na-da-rét lại chối bỏ, vì họ kiêu ngạo chỉ coi Chúa là “con ông Giu-se” và họ kích kỷ không chấp nhận thấy những người ngoài Na-da-rét được hưởng ơn lộc của Thiên Chúa.

Trở lại với cách sắp đặt của Phụng vụ Lời Chúa mùa Thường niên, chúng ta thấy chủ đề của Lời Chúa hôm nay thật là quan trọng.  Chúa Giê-su đã kêu gọi các môn đệ, đã làm phép lạ đầu tiên tại Ca-na, rao giảng Tin Mừng và ơn sám hối để khởi đầu sứ vụ.  Giờ đây với nội dung sứ mệnh được phác họa qua lời ngôn sứ I-sai-a, Chúa Giê-su sẽ cùng với các môn đệ ra đi và thực hiện những lời ngôn sứ tiên báo.  Tuy nhiên Chúa Giê-su không tự ý làm theo ý riêng mình, mà Người sẽ chu toàn sứ mệnh ấy do “quyền năng Thần Khí thúc đẩy”.  Đó cũng chính là Thần Khí làm cho tất cả chúng ta trở nên một thân thể, như thánh Phao-lô diễn tả:  “Anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận”. Chúa Giê-su là Đầu và chúng ta là chi thể.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đã chiêm ngưỡng Chúa Giê-su với tính cách là người tuyên đọc Lời Chúa.  Chúa đã khẳng định những lời ngôn sứ I-sai-a cũng là những lời nói về chính Chúa và sứ mệnh của Người.  Chúng ta biết tại sao dân thành Na-da-rét đã không tiếp nhận Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người.  Những gì đã xảy ra tại hội đường Na-da-rét ngày xưa vẫn có thể xảy ra ngay trong ngôi thánh đường của giáo xứ hoặc cộng đoàn chúng ta ngày nay.  Thái độ của chúng ta khi lắng nghe Lời Chúa trong Thánh lễ và thực hành lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày cho chúng ta thấy rõ mình thực sự tiếp nhận Chúa Giê-su hay chối bỏ Người.  Khi Chúa nói:  “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, thời điểm hôm nay chính là hiện tại, là bây giờ và ở đây của chúng ta.  Lời Chúa và Chúa Giê-su hiện diện với chúng ta mọi lúc, để trở nên “ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119:105).

Về mục lục

.

LÁ SỐ CỦA CHÚA – LÁ SỐ CỦA TA

Anphong Nguyễn Công Minh

Quanh năm đã có, nhưng nhất là những ngày giáp tết, trong tết, nhiều người thường đi xem bói, nhất là nơi bạn gái trẻ, muốn biết tương lai tình duyên của mình ra sao. Chỉ cần làm quen một cô là có một lô địa chỉ của chục ông thầy môn “tương lai học.” Báo chí có mục tử vi, đài cũng đưa tin về những lời tiên báo của nhà tiên tri Dixon – Nostra Damus nào đó về tương lai năm… 2019

Tôi không cố ý cổ vũ hay kết án đi xem bói ở đây. Cuối bài chúng ta sẽ thấy, nhưng hôm nay nhân bài Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thử xem lá số của Chúa Giêsu thế nào và từ đó xem tử vi của mỗi người chúng ta ra sao ?

1- Lá số của Giêsu

Đức Giêsu vào hội đường mở trúng một đoạn sách của tiên tri – đúng là tiên tri, người biết trước – may sao đoạn này lại chính là lá số của Chúa : “Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng : Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.

Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”

Đây chỉ là một phần trong lá số, hay sổ tử vi của Chúa Giêsu. Toàn bộ lá số của Chúa được ghi trong Kinh-Thánh –đúng hơn ghi trong sách Cựu ước, nhất là các sách Tiên Tri. Ta thử rảo thêm vài lá số :

Is. 9, 6-7 : thuộc Dòng dõi Vua Đavit

Is. 7,14 : Sinh bởi nữ đồng trinh

Mica 5, 2 : Sinh tại Belem

Ose 11, 1 : Trốn qua Ai Câp

Is 11, 1 : Về lại Nazaret

Is 61, 1 : Loan báo năm hồng ân

Is 6, 9 : Dạy bằng dụ ngôn

Za 9,9 : Vào thành long trọng

Za 11,1 : bị bán với giá 30 đồng

Is 53, 9 : Chết chung với trộmcướp

Tv 69, 22 : uống Dấm chua mật đắng

Tv 22 : Áo bị bắt thăm

Tv 22, 31 : Nói lời gì khi treo trên thập giá

Za 12, 10 : bị Đâm cạnh nương long

Os 6, 2 : Sống lại ngày thứ ba

Zona 1, 17 : Trỗi dậy ngày thứ ba

Ta thấy toàn là “số” không thôi. Đúng là “lá số.”

Còn nhiều nữa, nhưng từng đó cũng cho ta thấy Lá số của Chúa đúng từng chữ …. Chính Chúa sau khi sống lại đã chê trách các tông đồ, môn đệ kém trí và chậm tin. Trong cuộc hiện ra với hai môn đệ Emmaus, Tin Mừng thánh Luca ghi : Hỡi những người kém trí và chậm tin các lời tiên tri… rồi Chúa giải thích cho họ những lời liên quan tới Người. Và Chúa kết : “Phải nên trọn (ứng nghiệm) điều đã viết về Thầy trong luật Môse, trong các sách Tiên tri và trong Thánh vịnh” (Lc 24,44).

Thánh Phaolô chỉ bằng mấy chữ thôi, mà đã nói rất rõ niềm tin căn bản : Tôi truyền lại cho anh em điều tôi đã nhận… Đức Kitô chết vì tội chúng ta – đúng như lời Kinh-thánh. Người được táng trong mồ và ngày thứ ba sống lại, đúng như lời Kinh Thánh (ta có thể nói theo dân gian : đúng như lời Sách Tướng nói). Kinh Thánh (Sách Thánh) mà Phaolô nói, chính là Cựu Ước, vì làm gì đã có Tân Ước.

Bác sĩ Daniel Rose là khoa trưởng Phân khoa Do thái trong Học viện Thánh Kinh ở Los Angeles. Một bữa kia ông đố người bạn thế này: Tôi sẽ đọc cho ông một đoạn Kinh-thánh ; ông cho tôi biết đoạn đó trích ở đâu ? Rồi bác sĩ đọc. Đọc xong, ông bạn trả lời ngay: Đoạn vừa rồi trích từ Tân Ước và nói về Đức Giêsu. Bác sĩ Rose mới giải cho : tôi vừa đọc Sách tiên tri Isaia. Như vậy đó ! Những việc làm lời nói của Chúa Giêsu trong Tân Ước rất khớp với Cựu ước đến nỗi người ta lẫn lộn, nhưng là cái lẫn lộn ý nghĩa: mọi việc Chúa Giêsu làm ứng nghiệm với lời Kinh-thánh cũ tức Lá số của Giêsu. Vậy Kinh-thánh Cựu ước là lá số của Chúa Giêsu, là sổ tử vi của Ngài.

2. Còn Tử vi của ta thì sao ?

Trong Truyện cổ Hy lạp có thuật rằng một danh nhân kia được thần linh báo cho biết sẽ chết vì bị mái nhà đè lên đầu. Ông muốn tránh cái định mệnh, cái lá số xấu ấy, nên nhất định không chịu ở trong nhà, chỉ sống lang thang ngoài đồng ngoài ruộng. Một ngày kia ông đang ở ngoài trời, một con diều hâu cặp con rùa bay ngang qua, không hiểu tại sao khi đi tới nơi vị danh nhân này thì lại để rơi mất con rùa, và con rùa rơi đúng đầu vị danh nhân làm ông ta chết. Mu con rùa một cách nào đó là mái nhà của rùa. Vậy là ứng nghiệm lời thần linh !

Vì đây là câu truyện cổ Hi lạp, nặng về triết lý, nhưng nó cho ta thấy mỗi người có một lá số, có một định mệnh.(1)

Định mệnh của Giêsu được ghi trong Cựu ước. Còn định mệnh của ta – tử vi của mỗi người được ghi trong Kinh-thánh Tân Ước. Tử vi, lá số của ta dài lắm. Nhưng tôi xin rút, xin lắc ra 4 quẻ (4 xăm) này: 2 quẻ đầu liên hệ đến định mệnh của con người nói chung, 2 quẻ sau liên quan tới từng người nói riêng.

Quẻ 1 : Ep 1, 5 : Thiên Chúa đã tiền định cho ta được phúc làm nghĩa tử (con của Chúa) nhờ Đức Giêsu Kitô.

Quẻ 2 : 1Tm 2, 4 : Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu : mọi người chứ không phải một số nhỏ như Pascal nghĩ.

Số của ta, loài người, đã được định như vậy đó. Nhưng làm sao để lá số đó nghiệm vào từng người. 2 quẻ sau đây dạy ta :

Quẻ 3 : Ga 1,12 : Những ai tiếp rước Người – Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa : ấy là những kẻ tin vào Danh Người.

Những kiểu nói thế này đầy dẫy trong Tân Ước là lá số của mỗi người chúng ta. Ai tin và chịu Phép Rửa – sẽ cứu. Ai không tin sẽ bị phạt. Tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng : sẽ được cứu.

Tôi sẽ thiếu sót, sẽ giống như một số anh em Tin Lành phái tự do: tin là đủ, không cần làm gì thêm, vì thế tôi phải lắc thêm một xăm, một quẻ tử vi nữa.

Quẻ 4 : 1 Cr 6, 9-10 : Tôi nói cho anh em biết : những ai dâm đãng, thờ thần, ngoại tình, phóng túng, nghịch luân, trộm cướp, mê tiền, say sưa, vu cáo, bóc lột… đều sẽ không được vào Nước Trời.

Tức là muốn quẻ của ta linh, ta phải tránh xa những thứ đó, khác nào những người luyện cái này cái kia phải kiêng chuyện này chuyện nọ (luyện chưởng, luyện bùa) ……

Tóm lại : Lá số của chúng ta –cách riêng– người đang ngồi trong nhà thờ này có số làm con Chúa. Muốn làm cho lá số này linh, nghiệm : Phải tin điều đó, không tin số không linh. Và còn phải sống xứng đáng địa vị người con Chúa nữa (như số làm vua thì cũng phải tập đi đứng sao cho ra hoàng tử, chứ đâu thể suốt ngày quần xàloỏn áo may-ô đi ra đi vô ! Số làm sư sãi nhà chùa thì cũng phải tập dần cách quét lá đa).

Lá số tử vi chính yếu của chúng ta đã có trong tay rồi : Chúng ta có số làm CON CHÚA. Quan trọng là làm cho lá số đó linh, lá số đó nghiệm nơi bản thân mình. Cần gì phải đi xem chùa này, đền nọ, thầy kia, cô ấy… để biết tương lai, mà có biết được đâu ! Thật đáng ngại làm sao có những bạn trẻ không tin ở chính mình , ở Lời Chúa, mà lại đi tin những điều gì đâu đâu.

Hãy trở về với Thánh lễ này. Mỗi thánh lễ là mỗi lần Chúa làm ứng nghiệm lá số chết và sống lại của Ngài : “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.” Và mỗi Thánh lễ là mỗi lần chúng ta làm ứng nghiệm lá số tử vi đời đời chúng ta: Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Amen
_____________

(1) theo báo Paris Match 12/91, người ta chụp ảnh bàn tay ông Boris Enxin và đưa cho thầy Axel Le-Mec mà không hề cho thầy bói biết bàn tay của ai. Nhìn hình bàn tay, thầy phán : “Bàn tay của người ham địa vị, nhiều thủ đoạn, sẵn sàng đạp đổ người khác để đạt mục đích của mình mà lúc nào cũng tỏ ra rất mềm mỏng ; con người say mê quyền lực đến cực độ… con người di động nhiều… ông này có thể cho nhiều chừng nào thì cũng lấy lại chừng ấy… “

Đó là lá số của Enxin … (khá đúng !)

Về mục lục

.

VÀ CON TIM ĐÃ VUI TRỞ LẠI

Trương Đình Hiền

Có lẽ, trên trái đất nầy, chỉ có dân tộc Israel là một dân tộc đã nếm trải nhiều cuộc mất nước, lưu đày, hồi hương, tái thiết…; và chắc cũng duy nhất có một quốc gia đã từng bị xoá tên trên bản đồ thế giới suốt gần 20 thế kỷ mà lại phục dựng và hôm nay đã trở thành một cường quốc, sánh vai với các quốc gia giàu mạnh nhất trên thế giới.

“Lưu đày, hồi hương, tái thiết…” đã trở thành, không phải chỉ là những “kỷ niệm của lịch sử”, mà chính là những “kho tàng khôn ngoan”, những “kinh nghiệm để đời”, những “bài học máu xương” mà dân tộc Ít-ra-en vẫn thường xuyên vận dụng vào công cuộc xây dựng đất nước, củng cố niềm tin trong hiện tại và niềm hy vọng cho tương lai”.

Bài đọc 1 của phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay trích đọc đoạn sách Nê-hê-mi, kể lại câu chuyện về một buổi cử hành Lời Chúa của dân Ít-ra-en trong đợt hồi hương lần thứ 3 vào thế kỷ thứ tư trước Công nguyên (khoảng năm – 445), khi họ vừa hoàn thành việc xây dựng vách tường thành Giêrusalem.

Sau bao nhiêu năm lưu đày, bon chen tất bật với cuộc sống đầy nhiểu nhương nơi đất khách quê người, cùng với bao nhiêu cám dỗ của các nhu cầu “cơm áo gạo tiền”, những thói hư tật xấu của dân ngoại…dân Do Thái gần như quên lãng Lời Chúa và hiếm khi được cùng nhau cử hành và lắng nghe Lời Chúa cách long trọng.

Hôm nay, trên mảnh đất của quê nhà, bên những bức tường thành Thánh Giêrusalem vừa được tái thiết, cộng đoàn hồi hương Do Thái được thầy tư tế Es-dras công bố Lời Chúa. Họ hết sức cảm động đến bật khóc; họ trân trọng lắng nghe với thái độ cung kính thẳm sâu “cúi mình phủ phục sát đất…”.

Chính sức mạnh của Lời Chúa đã quy tụ dân, phục hồi sức mạnh và niềm tin cho dân và đã làm cho dân vượt qua mọi gian nan thử thách để luôn vươn mình đứng vững trong hiện tại và mạnh mẽ, tin yêu hướng tới tương lại.

Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ với truyền thống đặc biệt nầy của dân Do Thái : mỗi ngày, trẻ em Do Thái đều được cha mẹ hướng dẫn chạm ngón tay vào Kinh Thánh, sau đó nhúng vào mật ong và nút lấy ngón tay với mật ong để ngụ ý rằng : Lời Chúa là mật ngọt, bồi bổ cho tâm hồn.

Trong số các trẻ em Do Thái được cha mẹ dạy dỗ về việc đọc, học hỏi Kinh Thánh có em bé Giêsu, một người mà hôm nay, Tin Mừng Luca đã long trọng giới thiệu Ngài trong buổi đầu truyền giảng Tin Mừng, đã “theo thói quen, vào ngày hưu lễ, vào hội đường…đọc Sách Thánh…”.

Từ việc cử hành Lời Chúa thời Nê-hê-mia của cộng đồng Do Thái hồi hương, dến cuộc cử hành Lời Chúa của chính Chúa Kitô nơi hội đường trong ngày Sabat, chúng ta nhận ra dụng ý đầu tiên của sứ điệp Phụng Vụ hôm nay đó chính là : PHẢI TRÂN TRỌNG LỜI CHÚA. LỜI CHÚA CHÍNH LÀ NGUỒN SỐNG.

Thật vậy, cũng như dân Do Thái, sau những tháng năm bon chen miệt mài với đời sống tha phương cầu thực nơi đất khách quê người, đã sốt sắng và nghiêm cẩn lắng nghe Lời Chúa trong ngày về lại quê hương, cộng đoàn chúng ta hôm nay cũng trở về với Lời Chúa và để Lời Chúa đánh động con tim và lý trí của chính mình.

Cũng như Chúa Giêsu trung thành với việc đọc Lời Chúa trong ngày Hưu lễ, hôm nay, cộng đoàn chúng ta cũng hãy trung thành họp nhau Ngày Chúa Nhật để cùng cử hành Lời Chúa. Giáo Lý đã dạy rằng : Lời Chúa trong cử hành Phụng vụ, nhất là trong Bàn Tiệc Thánh Thể, chính là lương thực nuôi sống đức tin. Thánh Công Đồng Vatican đã khẳng định chân lý đó trong Hiến chế Mặc Khải :

“Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Kitô để trao ban cho các tín hữu” (MK 21).

Nhưng ngoài việc phải trân trọng Lời Chúa, tiếp cận thường xuyên với Lời Chúa, cử hành Lời Chúa cho sốt sắng…sứ điệp phụng vụ hôm nay còn muốn chuyển tải điều gì ?

Cứ theo như Tin mừng Luca tường thuật : Chúa Giêsu đã long trọng xác nhận đoan sách Isaia mà Ngài vừa công bố đã “ứng nghiệm”, tức là đã hiện thực hoá qua những sự việc đang xảy ra mà chính Ngài là tác nhân, là chủ thể; đó là những việc : “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.

Vâng, kể từ biến cố “Chịu Phép Rửa” tại dòng sông Gio-đan, khi Thánh Thần lấy hình chim câu đổ xuống, cũng chính Thánh Thần đó đã đưa Đức Kitô vào đời với một trái tim chạnh lòng thương và với đôi bàn tay thi ân giáng phúc : từ Cana tới Ti-bê-ri-át, từ Mag-đa-la tới Giê-nê-za-rét, từ Capharnaum, tới Bet-sai-đa, xuyên qua Cô-rô-za-in…và thu hút cả những vùng xa xăm tận phía bắc với Ty-rô, Si-đon, rồi làm vang dậy xuống cả miền nam đến tận Thủ đô Giê-ru-sa-lem…Đâu đâu cũng nghe : mù thấy, điếc nghe, què nhảy nhót, câm ca hát…; cả phung cùi cũng bỏ hoang mạc kéo về, dân chài rủ nhau đi làm đồ đệ…Cả một đoàn lũ dân nghèo mở cờ trong bụng, hạnh phúc tuyệt vời, vì từ nay được tuyên phong “Nước Trời là của họ” !

Và cũng chính trong “quyền năng của Thánh Thần”, hôm nay chàng Thợ Mộc Giêsu bắt đầu vinh quy bái tổ, trở về quê hương để một lần chính thức thông báo một Tin Vui : “Lời Ngôn sứ ngàn xưa giờ đã ứng nghiệm” !

Thì ra, sứ điệp phụng vụ hôm nay còn muốn nói với chúng ta một điều nữa rằng : Cũng như Đức Ki-tô đã làm cho Lời Chúa được “ứng nghiệm” trên chính cuộc đời và hành động cứu Thế của mình, thì hôm nay, chúng ta cũng phải làm cho Lời Chúa được ứng nghiệm trên chính cuộc sống của chúng ta ; đó là sự “ứng nghiệm” bằng đời sống bác ái, huynh đệ, bằng sự cảm thông chia sẻ, bằng sự phục vụ quên mình, bằng sự khiêm hạ khó nghèo và hoán cải…

Đứng trước một thế giới quá nghèo nàn về chân lý và những giá trị của Phúc Âm, nhưng lại quá tất bật và bon chen trước các nhu cầu vật chất và hưởng thụ, người Ki-tô hữu cần phải làm chứng bằng sự chiến thắng của Chúa Ki-tô với tâm niệm “người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.

Còn một điều nữa chúng ta cũng cần ghi nhận : nếu cuộc cử hành Lời Chúa thời Nê-hê-mia đã diễn ra cách sốt sắng của một cuộc “tập họp đông đảo” của cộng đồng hồi hương, một dấu chỉ sống động của cuộc “tập họp cộng đoàn Dân Mới là Hội Thánh”, thì cuộc cử hành Lời Chúa của Chúa Giêsu nơi Hội đường lại là hình ảnh của “cộng đoàn phụng vụ” hôm nay trong Thánh đường, chung quanh bàn Tiệc Thánh Thể.

Đó chính là cuộc tập họp của một Hội Thánh duy nhất, hiệp thông và liên đới, một Hội Thánh mà trong thư gởi giáo đoàn Cô-rin-tô trong Bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh : “trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do Thái hay Hy Lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần…”

Như vậy, chính từ bàn tiệc Lời Chúa, tình hiệp nhất cộng đoàn, giây liên kết yêu thương, tinh thần phục vụ, trách nhiệm sẽ được củng cố. Gia đình nào, cộng đoàn giáo xứ nào, dòng tu nào, hiệp hội truyền giáo nào…thường xuyên sống Lời Chúa, cầu nguyện với Lời Chúa, thực hành Lời Chúa…chắc chắn sẽ vững mạnh, năng động, hiệp nhất; trái lại…sẽ dẫn tới đổ vỡ như một “ngôi nhà xây trên cát”.

Sau hết, việc cử hành Lời Chúa sẽ dẫn tới niềm vui : Nê-hê-mia và các vị chủ sự Lời Chúa đã nói với đám dân hồi hương đang khóc rằng : “Vì ngày nầy là ngày thánh dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh chị em”; trong khi đó, tại hội đường Na-da-rét, Chúa Giêsu đã công bố tin mừng của Isaia và thông báo “Tin mừng đó đang ứng nghiệm”.

Ước gì mỗi người chúng ta hôm nay khi được cử hành và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta cũng nhận được niềm vui của Chúa Thánh Thần, niềm vui từ sâu thẳm bên trong tâm hồn; niềm vui được Chúa chữa lành những vết thương lòng, niềm vui được Chúa yêu thương tha thứ, niềm vui được sống trong gia đình Hội Thánh, niềm vui được phục vụ và tiếp nối sứ mệnh tông đồ…

Giống như những người dân Do Thái lưu đầy trở về nghe lại Lời Chúa, họ đã vui trở lại, thì mỗi người chúng ta, cộng đoàn chúng ta, cũng có thể hát lên như điệp khúc của một bài ca nổi tiếng một thời của nhạc sĩ Đức Huy : “và con tim đã vui trở lại”. Vâng, Lời Chúa hôm nay đã làm cho “con tim chúng ta đã vui trở lại”. Amen.

Về mục lục

.

THẦN KHÍ CHÚA NGỰ TRÊN TÔI

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Tin Mừng Chúa Nhật III TN ( C ) hôm nay, qua thánh Luca chúng ta biết được sứ vụ cao cả của Chúa Giêsu được loan báo từ ngàn xưa qua ngôn sứ Isaia. Điều nầy có nghĩa là có trước Đức Phật Thích Ca, cho thấy rằng : Dẫu Chúa Cứu Thế Giáng Sinh làm Người sau Đức Phật Thích Ca gần 500 năm, nhưng lời tiên tri của ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế trước khi Đức Phật Thích Ca ra đời là khoảng 3.500 năm.

Rõ ràng , Lời Thánh Kinh mà Chúa Giêsu vào hội đường đọc hôm nay, theo Tin Mừng thánh Luca, là Đoạn sách Thánh của Isaia nói về chính Đấng Cứu Thế.

Như vậy, rõ ràng , Đấng Cứu Thế chính là Vị Thiên Sai đến từ Thiên Chúa. Đọan Tin Mừng ( Luca 4, 18 -19) nói lên “ Sứ Vụ Đấng Cứu Thế”, vâng,  Đấng Cứu Thế có nghĩa là ” Đấng Thiên Sai”.

Và từ Ngôn Sứ Isaia đến ngày mà chính Chúa Giêsu đọc Đoạn Sách Thánh nầy và tuyên bố :” Hôm nay đã ứng nghiệm Lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe? ( C 21)

Điều nầy xác tín, Lời Rao giảng của Chúa Giêsu chính là “Thần Khí”, vâng, là Lời của Thần Khí đã được ngôn sứ Isaia xác định từ bốn ngàn năm trước Đấng Cứu Thế ra đời. Vâng , là Lời của Thần Khí, nghĩa là Lời Hằng Sống, Lời từ nguồn của sự sống, tức là Lời từ Thiên Chúa, vì “ Thần Khí” là sự sống từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu được “ mặc “ lấy Lời ấy, và thực thi “Lời Hằng Sống” ấy, thì Người chính là Đấng Cứu Thế, vâng, Đấng Cứu Thế hay là Đấng Thiên Sai  chính là ở hai câu Lời Chúa ấy . Vì , Thần Khí Chúa ngự trên ai , thì Người ấy chính là Đấng Cứu Thế, Thần Khí Chúa ngự trên “GIÊSU, NAZARET”, vâng , Chính Người là Đấng Cứu Thế.

Vì thế, có lần Chúa Giêsu đã nói :” Tội xúc phạm đến Con Người thì được tha, nhưng tội phạm đến Thần Khí thì không được tha”. Điều nầy có nghĩa là khi xúc phạm đến “Lời Chúa“ là xúc phạm đến Thần Khí, thì không được tha.

Như vậy, Đấng Thiên Sai, hay là Đấng Cứu Thế chính là lở hai câu lời Chúa ấy ( Lc 4, 18- 19).

: “ Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,

 để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.

Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,

 cho người mù biết họ được sáng mắt,

trả lại tự do cho người bị áp bức,

công bố một năm hồng ân của Chúa”.

Như vậy, có mấy “đối tượng” được đón nhận “Ơn Cứu Độ” ? Rõ ràng là có 04 đối tượng :

  • 1/ Kẻ nghèo hèn
  • 2/ Người bị giam cầm
  • 3/Kẻ mù lòa
  • 4/ Người bị áp bức
  • Và công bố “ Năm Hồng Ân” của Chúa

Theo đó, người nghèo là đối tượng ưu tiên của “ Ơn Cứu Độ”, như vậy, người nghèo không phải “ được cho tiền”, mà là được nghe Tin Mừng. Từ đó, suy ra “ đối tượng “ nghèo  hèn ở đây không phải là “ nghèo vật chất”, mà là “ nghèo tâm linh”. Nghèo tâm linh là người giàu của cải vật chất, nhưng bị “ xói mòn “ tâm linh, nghĩa là “ vô cảm “ “ sống ích kỳ” “ ganh ghét “ thù hận, “đố kỵ” “ ghen tương “, “xấu xa “, “ ác độc”, “ mưu mô xảo quyệt”.v..v…

Nếu một người nghèo vật chất, mà không “ sở hữu” những đức tính ấy, thì họ là những người “ giàu có tâm linh”. Như thế, đối tượng nghèo nầy mà được đón nhận Tin Mừng thì càng tốt,, đó là những người có “ tâm bồ tát”, như Đức Phật chẳng hạn.

Như vậy, mở rộng ra, nếu những người hiền lương, có tâm bồ tát,mà không cần đón nhận Tin Mừng, thì mặc nhiên họ không “ bước theo “ Chúa Giêsu. từ đó, chúng ta thấy, có lần Chúa Giêsu nói : “ Nước Trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại, hơn là chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn”.

Theo đó, đối tượng số một là “ kẻ nghèo hèn” như trên đã nói. Như vậy đối tương số một được đón nhận ơn cứu độ, là người tội lỗi được nghe Tin Mừng mà biết sám hối.

Đối tượng thứ hai : Người bị giam cầm được tha

Người bị giam cầm ở đây, không hẳn nhiên là “ kẻ phạm pháp”, “ kẻ vi phạm hình sự”, người bị giam cầm có nghĩa là “ kẻ tội lỗi” dưới sự khống chế của ma quỷ, satan và bè lũ của nó.

Người bị giam cầm ở đây cũng có thể hiểu là “ người bị bách hại vì công chính”, “ tù nhân lương tâm “, “ tù chính trị không bản án” , như trường hợp Đức Hồng y Phanxico  Xavie Nguyễn Văn Thuận chẳng hạn, ở tù không bản án 13 năm. Cuối cùng Thiên Chúa đã giải thoát cho ngài.

Cũng như hững trường hợp được minh chứng ở sách Tông Đồ Công Vụ, sau khi Đức Kitô về Trời, các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, thì bị bách hại bắt bớ , tù đày, nhiều lần các ngài được giải thoát cách kỳ diệu.

Đối tượng thứ ba : Kẻ mù lòa được sáng mắt.

Kẻ mù lòa ở đây là “ mù lòa “ về Đức Tin, không phải về thể lý, nhưng có lần trên đường rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng chữa sáng con mắt thể lý cho người mù Bartime. Nhưng, chính yếu là “ con mắt đức tin”, tức “ nhãn quan Nước Trời”, vì , Chúa Giêsu chính là “ Ánh sáng “ cho trần gian .Cho kẻ mù được sáng mắt có nghĩa là làm cho họ nhận ra ánh sáng chân lý là Thiên Chúa. Như, chúng ta thường nghe nói “ người mù chữ “ chẳng hạn, mắt họ vẫn sáng , nhưng họ không đọc được chữ nên gọi là bị mù. Người mù tâm linh cũng vậy, họ không thể nhìn thấy những “ giá trị tâm linh “ mang lại cho họ sự bền vững Nước Trời , nơi mà chỉ có Thiên Chúa mới là “ sự vỗ về” tâm can bị thương tổn bởi gian trần. Như vậy, sự mù lòa về Thiên Chúa làm cho họ thiệt thòi  “ mò mẫm” như người không có ánh sáng đi trong bóng  đêm vậy.

Người chưa đón nhận được Lời Tin Mừng, thì mù lòa về nhận thức trong cuộc sống với tha nhân, họ chưa nhận thức được Tin Mừng, mà cho những “ơn thánh” thì thật nguy hiểm, như có lần Chúa Giêsu nói :” Đừng ném của thánh cho chó, đừng ném ngọc trai trước mặt con heo, kẻo chúng giày xéo, rồi quay lại cắn xé các con “. Điều nầy ám chỉ những kẻ “ mù lòa” chưa nhận ra ánh sáng Tin Mừng. Theo đó, đối tượng mù lòa tâm linh thật cũng khổ không kém người mù thể lý, nếu người mù lòa thể lý mà biết nhìn nhận sự “tật nguyền “ của họ mà biết kêu cầu Lòng xót thương của Chúa , thì phúc cho họ, cũng giống như anh mù Bartime. Vì, những kẻ sáng mắt kenh kênh tự đắc rằng họ không mù, thì Chúa Giêsu bảo họ :” Nếu các người nói các người mù thì các người được sáng. Còn đằng nầy các người bảo các người sáng, thì mắt các người vẫn bị mù”.

Đối tượng sau cùng : Người bị áp bức được tự do

Không gì hạnh phúc bằng tự do, vâng, sự tự do đích thực chỉ có từ Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người và ban cho họ quyền tự do. Vâng, tự do trong ân sủng, trong bình an, trong tình thương, trong sự thật, đó là sự tự do mà con người được đón nhận, sự tự do trong sự phụng sự Thiên Chúa. Sự tự do là quyền cá thể của mỗi cá nhân mà Thiên Chúa ban cho, nhưng tự do trong chức vị làm con Thiên Chúa, nghĩa là sự tự do trong ân nghĩa với Thiên Chúa, nghĩa là biết làm lành, lánh dữ, tôn thờ Thiên Chúa, tôn trọng tha nhân.

Như vậy, sự tự do là “quyền “  của Thiên Chúa ban cho thế nhân, chứ không phải là do nhà cầm quyền ban tặng. Tự do là quyền sống, quyền tự nhiên cũng như siêu nhiên của con người đáng được hưởng bởi Thiên Chúa, chứ không phải “cơ chế” của nhà cầm quyền.

Như thế, nếu trái với điều nầy, theo nghĩa tâm linh cũng như nghĩa tự nhiên đều được Thiên Chúa  “ giải thoát”. Vì, từ ngữ “ Cứu Độ “ có nghĩa là giải thoát, Chúa GIÊSU có nghĩa là “ Đấng Giải Thoát” hay “ Cứu Thoát”. Tóm lại, nếu chúng ta “TIN” vào Chúa Giêsu, mặc nhiên chúng ta được giải thoát là như vậy.

Vì thế, Giáo Hội Công giáo tiếp bước sứ mạng của Chúa Giêsu, luôn lo cho người bị áp bức về mọi hoàn cảnh, nếu cần, có thể  hy sinh tính mạng của mình. Theo đó, Giáo Hội đã thiết lập “ Uỷ Ban Công lý và Hòa Bình’ trên toàn cầu, nhằm giúp cho mọi người “thấp cổ bé miệng” , có tiếng nói vì công lý, để trả lại tự do cho người bị đàn áp. Diều đó , chính là tiếp bước Sứ Mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu, vì, nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, cùng với Chúa Giêsu, tất cả các Kitô hữu, nhất là hàng giáo sĩ, đều mang sứ mạng Thiên Sai bởi Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc nhân loại.

Như vậy, Sứ Mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu chính là đem ơn “ giải thoát” cho bốn đối tượng nêu trên, ngõ hầu công bố “ Năm Ân Xá”, hay là “ Năm Thánh Ân “ của Thiên Chúa.

Vì theo Lời Thánh Vinh 18 hôm nay nói rằng : “ Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can.. Luật pháp Ngài công minh làm rạng ngời chân lý”.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng hằng hữu, Cha đã muốn cứu chuộc loài sa ngã, vì thế Cha đã ban Con Một là Đức Giêsu – Kitô, Đấng được xức dầu tấn phong và Thần Khí ngự xuống trên Người, hầu Người chu toàn sứ mạng Thiên Sai trên nhân loại, để mở ra một năm hồng ân Cứu Độ. Nhờ Người mà chúng con cũng được nhận lãnh Thần Khí, hầu được sai đi, bước theo Người mà thi hành Thánh Ý Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con . Amen

Về mục lục

.

CƠ THỂ

Lm. Thái Sơn

Sau 50 năm các bộ phận trong cơ thể con người họp lại với nhau. Mỗi bộ phận lần lượt lên phát biểu việc làm của mình trong 50 năm qua. Anh chàng Bộ Não lên phát biểu trước:

– Rất hân hạnh. Tôi có mặt trên đất này từ khi con người vừa sinh ra, tôi làm việc rất gần gũi với con người. Con người ngu dốt hay thông minh, suy nghĩ nhiều hay ít, chậm hay mau, đều do tôi cả và tôi rất hãnh diện với công việc của tôi, và xin hứa sẽ cúng hiến việc làm của tôi cho đến hết cuộc đời này.

Các bộ phận khác vỗ tay cổ vũ rất nồng nhiệt… Kế tiếp là anh chàng Trái Tim lên nói:

– Tôi cũng có mặt trên đời này cùng lúc với con người sinh ra. Tôi làm việc gần gũi với con người, công việc tôi hoạt động những mạch máu trong cơ thể… Các bộ phận khác không thể tồn tại nếu chẳng có tôi. Khi con người biết yêu tôi cũng vui, khi con người bị phụ tình tôi cũng buồn. Nay, tôi xin tuyên bố, sẽ tiếp tục phục vụ đến cùng.

Các bộ phận khác nồng nhiệt vỗ tay cổ vũ… Đến lượt bộ phận tiếp theo từ từ lên tiếng:

– Tôi cũng có mặt trên đời này, nhưng tôi không được hưởng niềm vui cho đến khi năm 20. Tôi rất khổ sở với cái tên gọi của tôi, luôn sống trong đen tối ướt át. Khi tôi làm việc, thì làm liên hồi, làm đuối sức, làm chết bỏ. Bởi vậy đến hôm nay là 50 năm rồi, tôi thấy tôi không còn sức nữa, xin phép các bộ phận khác cho tôi về hưu sớm…

Các bộ phận khác nhìn nhau và la lên:

– Thằng nào! Thằng nào đòi về hưu sớm hả… Có ngon thì giỏi đứng lên coi…

– Mèn đéc ơi… Nếu tôi đứng lên nổi, thì tôi đâu có cần xin về hưu sớm chi cho uổng…

Thưa các bạn!

Trong cơ thể con người gồm nhiều chi thể, mỗi chi thể đều có nhiệm vụ và chức năng bổ túc và gắn bó khắng khít với nhau, đến nỗi không thể tách rời nhau được…

Như hình với bóng, mọi bộ phận đều cần nhau và nhờ nhau để phát triển và nâng đỡ cho nhau, nên không có chuyện “tạm nghỉ” hay “về hưu” sớm hay muộn…

Bài đọc 2 Tuần 3 Thường Niên C, Phaolo cho ta thấy hình ảnh đẹp về chân lý này: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể” (1Cr 12,12).

Đi xa một bước, chân lý này nhằm diễn tả một mầu nhiệm tuyệt vời giữa Đức Kitô và Giáo Hội, nên dạy rằng: “Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận…” (1Cr 12,27).

Thưa các bạn!

Mỗi người, mỗi cá nhân, mỗi thành phần đều là nhân tố quan trọng trong lòng Giáo Hội, và cũng là hình ảnh sống động của Đức Kitô giữa trần gian. Không ai là khí cụ vô dụng hay một hòn đảo.

Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với anh em tôi! Đâu phải ai xa lạ mà là người đang sống bên tôi! Thế giới này không ai là một hòn đảo! Vườn hoa này không có loài hoa lạc loài!”…

Thánh Phaolo đã dạy: “TC đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn” (1Cr 12,18).

Ước gì, mỗi thành phần trong Giáo Hội, mỗi chi thể trong cơ thể biết trân trọng và tương trợ nhau trong cuộc sống, khi vui cũng như lúc buồn để giúp đỡ nhau thăng tiến và đến gần Chúa mỗi ngày một hơn. Amen

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Tại quốc gia Hoa kỳ mà chúng ta đang sống, có một ngày lễ đặc biệt lớn và long trọng được cử hành 4 năm một lần, đó là ngày lễ nhậm chức của vị tân tổng thống mới được bầu hay được tái bầu cử vào chức vị tổng thống. Sau khi giơ tay tuyên thệ, vị tân tổng thống đọc bài diễn văn chào mừng toàn dân.

Lịch sử của quốc gia Hoa kỳ còn ghi lại một câu nói bất hủ trong diễn văn nhậm chức của Tổng thống Franklin Roosevelt, ngày 4 tháng 3, năm 1933, khi quốc gia đang phải đối phó với tình trạng kinh tế khủng hoảng trầm trọng: “The only thing we have to fear is fear itself.” Xin tạm dịch: “Một điều làm chúng ta phải sợ, đó là chính sự sợ hãi.”  Tôi nghĩ nhiều người còn nhớ câu nói bất hủ của Tổng thống John Kennedy năm 1961: “And so my fellow Americans, ask not what your country can do for you.  Ask what you can do for your country.”  Xin tạm dịch: “Vì vậy, thưa toàn thể công dân Hoa kỳ thân mến!  Xin đừng đòi hỏi quốc gia sẽ làm gì cho quí vị, mà hãy hỏi, mình sẽ làm gì cho quốc gia.” Gần đây, ngày 21 tháng 1, 2017, trong diễn văn nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã nói: “Together we will make America great again.” Xin cũng tạm dịch: “Liên kết với nhau, chúng ta sẽ làm cho đất nước Hoa kỳ lớn mạnh lại.”

Bài Tin mừng hôm nay cũng chứa đựng bài diễn văn của Chúa Giêsu, khi Người khởi đầu sứ mệnh nơi trần gian.   Bài Tin mừng cho chúng ta biết được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giê-su trở về miền Ga-li-lê.  Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh.  Rồi sau đó, Chúa Giê-su đến Na-da-rét là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh.  Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sa-i-a.  Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:  “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân.”

Hôm nay tất cả mọi người chúng ta đều là những người được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi.”  Bởi vậy lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản thân Người, “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được áp dụng cho chính chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi.” Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi người Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vaticanô 2 còn nói mạnh hơn: “Làm Tông đồ là bản tính của người Kitô hữu.” Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.

Quả thực trong suốt thời gian được sai đi, Chúa Giê-su đã thực hiện và chu toàn sứ vụ Chúa Cha trao phó.  Người đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Người đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn, đau khổ. Người đã giải phóng đời sống của những người bị ma quỉ chiếm ngự. Người chữa lành những người bị bệnh tât. Người đã dạy dỗ, khuyên bảo và kêu gọi những người lầm lỗi trở về, cũng như tha thứ cho những người tội lỗi. Người sống hòa đồng với những người hèn hạ, nghèo khó. Người không hề xua đuổi bất cứ ai, và dạy mọi người có lòng quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán một cách bất công. Người muốn các môn đệ và những người tin theo và yếu mến Người sống trong tình yêu thương hiệp nhất và nhắc nhở họ về những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho, sống khiêm nhường, hy sinh phục vụ xây dựng Nước Chúa.  Như thế Chúa Giê-su đã thi hành trọn vẹn sứ vụ của Người như những lời ngôn sứ I-sa-i-a đã loan báo trước.

Chúng ta biết sứ vụ sai đi của Chúa vẫn tiếp tục trong đời sống của các Kitô hữu ở mọi nơi và trong mọi thời đại.  Thế nhưng những mơ ước của Chúa không thể nào xảy ra, không thể nào thực hiện được bằng một cá nhân, một người, một vị tổng thống, một Giáo hoàng, một Giám mục, một linh mục, nhưng bằng sự hy sinh tham gia của tất cả mọi Kitô hữu. Tất cả mọi người chúng ta được Chúa sai đi để thi hành và chu toàn sứ vụ của Người.

Sau Thánh lễ Chúa nhật tuần trước, một em học sinh nhỏ đến hỏi tôi: “Con có thể làm được gì để giúp chương trình làm bánh của giáo xứ tuần tới?”  Tôi biết ý của em muốn nói là còn nhỏ thì có thể giúp được gì.  Tôi nói với em có thể đến giúp lau bánh và dán nhãn hiệu.  Sáng Thứ Bảy hôm nay em và nhiều em học sinh khác đã hy sinh đến giúp một cách tốt đẹp.  Như tất cả mọi người đều biết không ai có thể làm được tất cả mọi việc trong chương trình gói bánh được.  Mỗi người làm một công việc.  Người rửa lau lá, người ngâm nấu đậu và gạo, người thái thịt, người cắt lá, người gói và nấu bánh, người lau và cột giây, người thì sắp bàn ghế và quét nhà, người thì giao và bán bánh. Không ai một mình có thể chu toàn công việc làm bánh được, nhưng cần rất nhiều người. Cần đến tấm lòng hy sinh và quảng đại của nhiều người.

Tất cả mọi người chúng ta được hiệp nhất trong cùng một Thân Thể Chúa Ki-tô.  Mỗi người đều có một sứ vụ là xây dựng Thân Thể Chúa và chu toàn bổn phận Ki-tô hữu của mình.  Chúng ta tự hỏi: “Bổn phận của tôi là gì?” “Tôi chu toàn bổn phận của tôi ra sao?”  “Tôi có sẵn lòng hy sinh và quảng đại để làm hay giúp công việc gì không?”

Chúng ta biết còn có những công việc to lớn, cần nhiều sức lực, sự hy sinh và quảng đại của chúng ta.  Chúng ta hãy nhớ đến sự hy sinh nhỏ bé của em học sinh đến giúp công việc gói bánh, làm những gì có thể làm, có thể giúp. Và nếu chúng ta hy sinh phục vụ, giúp đỡ và quảng đại một cách chân thành và sốt sắng, Chúa sẽ tìm cách nhân lên, như Chúa đã làm phép lạ biến hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi sống hàng ngàn người, và giúp chúng ta chu toàn bổn phận Ki-tô hữu, sứ vụ sai đi của chúng ta. Xin Thiên Chúa soi sáng cho chúng ta nhận biết những ơn lành Chúa đã ban để chúng ta can đảm chu toàn sứ vụ Chúa trao ban để làm sáng danh Chúa.

Về mục lục

.