CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_C
Lời Chúa: Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-9
——-
1. Nhận ra người lúc bẻ bánh (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
2. Tình thương Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)
3. Mẻ cá (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
4. Yêu Chúa (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
5. Chúa Phục sinh đang đứng đó (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
6. Thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa Phục sinh (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
7. Tình mẹ trong tim Chúa Giêsu (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
8. Thủ lãnh Phêrô (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
9. Suy niệm Chúa Nhật 3 Phục sinh_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
10. Hãy chăn dắt chiên của Thầy (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
11. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 3 Phục sinh (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
12. Lời thề (Trầm Thiên Thu)
13. Niềm vui gặp Chúa (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
14. Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm (Lm. Giuse Nguyễn văn Nghĩa)
15. Gắn bó cá vị với Chúa Kitô (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
16. Tâm phục khẩu phục (JM. Lam Thy, ĐVD)
1. Gặp gỡ Đấng Phục sinh (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Mầu nhiệm Giáo hội (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Cơ hội chuộc lỗi cho Phê-rô (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Giáo hội là quà tặng và là trung gian lòng thương xót (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
5. Mẻ lưới của lòng thương xót (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Tình yêu – Phương thức điều quản Giáo hội (Lm. JB. Văn Hào, SDB)
7. Yêu mến Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Con cá và con người (Trầm Thiên Thu)
9. Trước khi truyền giáo, phải biết “YÊU” (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
10. Chúa Phục sinh để ý đến các Tông đồ (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
11. Có Chúa đồng hành (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
12. Hãy theo Thầy (AM. Trần Bình An)
13. Chúa Nhật 3 Phục sinh_C (Lm. Antôn)
14. Con có yêu mến Thầy không? (Lm. John Nguyễn)
15. Lòng mến, điều kiện để được tha tội và được trao quyền mục tử (Lm. Đan Vinh)
16. Khởi hành sứ mạng với Chúa Kitô Phục sinh (Dã Quỳ)
17. Hãy vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Lm. Nguyễn Văn Nghĩa)
18. Giáo hội của lòng thương xót (Lm. Giuse Trực)
19. Chúa đó (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
20. Sự phục sinh của Phê-rô (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Trong cuộc sống để nhận ra được Chúa hiện diện, không thể nào bỏ qua những cuộc gặp gỡ Chúa trong Thánh lễ và Thánh Thể. Các tông đồ nhận ra Chúa Phục Sinh qua các lần bẻ bánh là một minh chứng.
Hiện diện đích thật.
Công đồng Vat II nhấn mạnh về bí tích là biến cố gặp gỡ giữa Đấng đang sống và những người đang sống, giữa Đấng Phục sinh và những được tái sinh. Là một cuộc gặp gỡ, giữa Chúa Giê su và Chúa Cha, giữa chúng ta với Chúa Giê su nhờ việc thánh hoá của Chúa Thánh Thần.
Như lời kinh nguyện hiến tế của Chúa Giê su với Chúa Cha: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong Chúng Ta” (Ga 17, 20 – 21).
Thánh Lễ là nơi Chúa Giê su thực hiện công trình gặp gỡ với dân của Người, Chính Chúa Thánh Thần quy tụ, thánh hoá, đưa con người vào trong Chúa Giê su. Chúa Giê su là Đấng đón nhận tất cả ở trong Người, dâng lên Chúa Cha. Không chỉ dâng lên như cách hiểu từ dưới thế dâng lên Chúa Cha, mà chính Chúa Giê su đã về trời, trình bày lễ vật của con người trước nhan Chúa Cha.
Hiện diện trong nỗi khổ đau của nhân loại.
Chúa Giê su vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng là một Thiên Chúa làm người ở giữa nhân loại. Một con người đích thật, hiểu và cảm thông và chính Người cũng mang nhiều đau khổ do nhiều yếu tố, hoàn cảnh, và của con người gây ra. Người mang lấy để biết thế nào là con người với sự khốn cùng: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4, 15 – 16).
Được mời gọi đến dâng lễ vật cuộc đời mình trong Thánh lễ. Người đến dâng lễ mang lấy lễ vật cuộc đời mình: Tội lỗi, hoa trái hống ân, những đau thương hồn xác, xin được tháp nhập trong Chúa Giê su, và để được biến đổi.. Tại bờ hồ Tiberia, những môn đệ Chúa tưởng là lấy bánh và cá của mình để thết đãi Chúa, nhưng chính Chúa đã dùng bánh và cá của Người để thết đãi các môn đệ. Điều này chỉ ra trong bí tích Thánh Thể chính Chúa đã lấy thân mình và máu Người là của lễ, là của ăn dưỡng nuôi con người chúng ta.
Trong đau thương, con người một lần nữa kết hợp trong Chúa Giê su, được bổ túc, làm lễ tế thánh hoá chính bản thân mình, cho người anh chị em, cho tất cả những ai nhớ đến và cầu nguyện cho họ. “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.” (Cl 1, 24). “Con tự hiến thánh Con, để họ cũng đước thánh hiến” (Ga 17, 18).
Nhận ra Chúa trong lúc Người bẻ bánh, có một ý nghĩa rất đặc biệt. Chính Chúa là Thượng tế duy nhất, là Của Lễ tinh tuyền, là Bàn Thờ dâng lên Chúa Cha, nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta được kết hợp trong Chúa. Chính Người là Đấng bẻ bánh thân mình Người để ban sự sống, như lời Người đã nói: “Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).
Nhận ra được Chúa để sống niềm vui Chúa Phục sinh. Xin cho chúng con như Thánh Phêrô nhảy xuống thuyền bơi vào bờ trước để mau chóng gặp gỡ Chúa, dành ưu tiên trước mọi việc để đến tham dự Thánh Lễ.
.
Lm Vũđình Tường
Cuộc khổ nạn và Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô vừa là sự phá huỷ vừa là nguồn sống thật. Phá huỷ gì? Đức Kitô Phục Sinh đập tan xiềng xích của sự chết, chế ngự ma quỷ, phá tan quỉ kế bè lũ chúng và những âm mưu đen tối do chúng tạo dựng lên. Sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài mang lại niềm vui, tràn đầy hy vọng và tương lai huy hoàng cho các môn đệ và những ai tin theo Ngài. Đức Kitô Phục Sinh lần đầu tiên hiện ra với các môn đệ, không phải để hạch tội bất trung, chối bỏ, trốn chạy khi Ngài gặp nạn. Không phải thế, Đức Kitô hiện ra với các ông và lời nói đầu tiên chính là ban cho các ông ơn bình an. Bởi các ông đang sống trong lo sợ, bất an, sợ sệt. Điều các ông đang cần chính là ơn bình an và Đức Kitô Phục Sinh ban cho các ông điều các ông đang cần. Bình anh cho anh em Gn 20,20. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn để các ông nhận ra Đức Kitô chịu đóng đinh và Đức Kitô Phục Sinh, không phải là hai con người khác nhau, mà chính là một Đấng.
Lần hiện ra thứ hai Đức Kitô Phục Sinh ban cho các ông sức mạnh và sự sống Phục Sinh của chính Ngài. Đức Kitô thổi hơi vào các ông phán bảo: Hãy nhận lấy Thánh Thần Gn 20,22. Sau khi trốn chạy Thầy, các tông đồ sống như kẻ không hồn bởi sợ bị bắt, sợ khổ đau, tương lai mù mịt. Các ông lẩn trốn, bám víu lấy nhau trong sợ hãi. Thánh Thần Chúa mang lại cho các ông sự sống mới, tinh thần mới, tương lai tươi sáng mới. Bình minh mới rực sáng trong tâm hồn các ông và các ông mạnh dạn ra khỏi cửa cài then, làm công việc thường ngày của mình. Hầu như con người không đủ khả năng đón nhận tất cả ân sủng Chúa cùng lúc, nhưng phải đón nhận từ từ. Đức Kitô biết rõ hữu hạn của nhân loại vì thế Ngài sẽ ban Thánh Thần xuống hướng dẫn Kitô hữu, bởi sự giới hạn lãnh nhận của họ Gn 16,12.
Lần thứ ba hiện ra với các môn đệ, không phải sau cửa cài then mà bên bờ biển, nơi chài lưới quen thuộc của các ông. Lần hiện ra này Đức Kitô biến đổi các ông, kẻ chài lưới cá thành kẻ chài lưới các linh hồn. Thiên Chúa biết rõ tâm hồn, con tim của từng người. Tuy nhiên Đức Kitô muốn Phêrô tuyên xưng đức tin của ông. Điều này không mang lợi ích gì cho Đức Kitô nhưng cần thiết và quan trọng cho chính Phêrô và cho các đồng nghiệp của Phêrô. Ba lần Đức Kitô hỏi Phêrô ông có yêu mến Ngài không và cả ba lần Phêrô tuyên xưng ông yêu mến Đức Kitô hết cả tấm lòng Gn 21:15-17. Sau mỗi lần tuyên xưng đức tin, Đức Kitô lại trao cho Phêrô một trách nhiệm. Cả ba trách nhiệm đều qui về một điều duy nhất là chăm sóc các linh hồn với tình thương đi chung với lòng mến. Sứ mạng rao giảng Tin Đức Kitô Phục Sinh cho muôn dân luôn có va chạm và thách đố. Kẻ không tin mãnh liệt chống lại Tin Mừng Phục Sinh. Người tin theo muốn rao giảng Tin Mừng Phục Sinh theo phong cách riêng của họ, vì thế đưa đến va chạm, bất mãn. Phúc Âm ghi rõ Phêrô sẽ phải đương đầu với những thách đố đến độ phải đổ hết máu trong tim ra làm nhân chứng sống động cho Tin Mừng Phục Sinh (Gn 21, 19).
Kitô hữu, tin theo Đức Kitô Phục Sinh, sống tinh thần phục vụ với lòng yêu mến. Nuôi nấng, chăm sóc đàn chiên, và bảo bọc chúng sẽ không tránh khỏi chống đối, thách đố tư bề. Tuy nhiên họ không cô đơn, Đức Kitô Phục Sinh sẽ cùng đồng hành với họ. Tình yêu Ngài ban phát. Chúng ta đón nhận, không phải cho riêng mình, nhưng để chia sẻ cho anh em. Tình yêu Chúa luôn sống động và đồng hành cùng chúng ta trong cánh đồng truyền giáo. Đức Kitô Phục Sinh không hướng dẫn các tông đồ thêm về việc truyền giáo mới bởi đã có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành với họ. Thánh Thần sẽ hướng dẫn, chỉ bảo công cuộc chứng nhân. Ngài cũng không còn đồng hành bằng xương, bằng thịt như trước ngày về trời, bởi đã có Phêrô thay thế Ngài nơi trần gian.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ra khơi đánh cá thâu đêm,
Tông đồ thả lưới, chẳng thêm được gì.
Rạng đông giặt lưới tháo chì,
Đón chào ngày mới, đợi khi nước ròng.
Bên bờ khách lạ thong dong,
Yêu cầu thả lưới, bên dòng nước trôi.
Vâng lời hạ lưới một hồi,
Cá vào trúng lưới, kéo lôi đầy thuyền.
Tuân theo vâng lệnh lời khuyên,
Môn đồ nhận biết, Thầy truyền đến bên.
Phê-rô sửng sốt ngó lên,
Là Thầy đứng đó, trên nền cát xa.
Lửa than đốt cháy thổi phà,
Sẵn sàng bánh cá, cả nhà cùng xơi.
Mang thêm cá mới tới nơi,
Cùng nhau trui nướng, gọi mời ăn chung.
Lưới đầy cá lớn trong thùng,
Chúa làm phép lạ, bao dung tấm lòng.
Quây quần bên Chúa xoay vòng,
Không ai dám hỏi, trong lòng vững tin.
Chứng kiến cuộc khổ nạn đau thương của Chúa, các Tông đồ tỏ ra chán nản và cảm thấy hụt hẫng. Các ngài chưa hiểu rõ về sứ mệnh rao truyền sự Chúa sống lại. Các ngài trở lại với cuộc sống thường nhật. Cả đời các ngài đã quen với sông nước và chài lưới. Các ngài lại rủ nhau đi đánh cá. Cực nhọc thâu đêm mà các ngài chẳng bắt được con cá nào. Đột nhiên một người lạ xuất hiện với lệnh truyền: Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được. Vâng lời, các ngài đã thả luới và một mẻ cá đầy chưa từng thấy.
Hiểu rõ tâm trạng yếu đuối của các tông đồ, Chúa Giêsu đã từ từ huấn luyện và chỉ dạy các Tông đồ trở thành những thợ đánh cá người. Các ngài đi từ những đau buồn, nghi ngờ, lo âu đến sự vui mừng gặp lại Chúa. Hình ảnh mẻ cá là viễn tượng sứ mệnh cuộc đời của các ngài. Kinh nghiệm của các Tông đồ cũng là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng phải lo toan vất vả và cực nhọc lo lắng trong cuộc sống hằng ngày nào là gia đình, con cái và rồi công ăn việc làm. Chúng ta tính toán đủ cách nhưng rồi chẳng có kết quả bao nhiêu. Hãy lắng nghe lời mời gọi của Chúa: Hãy thả lưới, hãy cố thêm một lần nữa.
Một điều rất lạ mà ít người lấy làm lạ, đó là ai theo đạo Chúa cũng tin rằng Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng lại ít khi thấy Chúa trong lúc này và ở đây ngay bên cạnh mình. Chúng ta thấy, hầu như lần nào Chúa hiện đến, các Tông đồ cũng chẳng nhận ra Ngài. Ngày thứ nhất trong tuần, Chúa hiện ra với bà Maria Mađalêna, thì bà tưởng là người làm vườn. Chúa hiện ra với hai môn đệ về quê, các ông tưởng là khách đi đường. Hôm nay lần Chúa hiện ra ở bờ biển, các Tông đồ cũng không biết là ai.
Chúa hiện ra mọi nơi và mọi lúc, nhưng Chúa muốn tỏ cho ai, người đó mới có thể thấy Chúa. Kinh Thánh thuật lại một số trường hợp điển hình như trong phòng hội của các môn đệ, hiện ra trên đường đi và ngoài bãi biển. Ngài hiện ra trong những cảnh thông thường nhất nơi cuộc sống. Chúng ta cũng cần có con mắt đức tin để nhận biết Ngài. Hãy tập nhìn mọi tạo vật chung quanh vì nó đang biểu lộ vinh quang của Chúa.
Bà Sue Bender, trong cuốn Every Sacred, kể rằng một nhà giáo dạy vẽ tên là Gale. Trong lớp hội họa, bà yêu cầu các học viên phải vẽ thực tập. Mỗi người chọn một vật quen thuộc, đơn sơ và vẽ đủ 100 lần. Chính bà cũng bị học sinh yêu cầu vẽ hay chụp 100 lần chỉ một vật. Hãy tập nhìn, chúng ta sẽ nhận ra sự kỳ diệu của vạn vật.
Mẻ cá lạ lùng đã đưa các Tông đồ trở lại với sứ mệnh làm nhân chứng. Chúa không cho mẻ cá dư đầy để bán kiếm nhiều tiền hay ăn uống dư thừa. Chúa dùng mẻ cá đặc biệt để dạy các Tông đồ về quyền năng của Chúa. Chúa muốn các ông cộng tác ra đi tung lưới khắp nơi để thu hoạch mẻ cá nước trời.
.
Anna Cỏ May
Để xây dựng được một ngôi nhà vững chắc và đẹp, chúng ta không chỉ chuẩn bị sẵn kinh phí, vật liệu xây dựng tốt nhưng trước hết chúng ta phải thuê được thợ có tâm với nghề. Đức Giêsu cũng là ông chủ, Ngài cần những thợ lành nghề và tận tâm để lãnh nhận sứ mạng mà Ngài trao phó trước khi về trời. Những người thợ ấy là ai?
Sau khi được tràn đầy Thánh Thần, các môn đệ không còn sợ hãi và quen dần với sự xuất hiện và biến mất của Thầy. Trong cuộc hiện ra lần thứ ba, Đức Giêsu mời gọi các ông bước vào một cuộc sống mới, cuộc sống cho đi cách nhưng không. Cuộc sống mới này đòi buộc các ông có một tình yêu, một lòng tin mạnh hơn. Vì thế, Đức Giêsu đã hỏi ông Phêrô, người sẽ đứng đầu Hội Thánh: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”. Đức Giêsu hỏi ông Phêrô về lòng yêu mến đến ba lần. Đáp lại lời Thầy, ông Phêrô lần lượt xác tín: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ông đã buồn vì Thầy hỏi tới ba lần. Nhưng lần thứ ba câu trả lời càng thêm dứt khoát: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu mời gọi và trao cho ông sứ mạng là “hãy chăn dắt chiên của Thầy”. Đó là một lời mời gọi và một sứ mạng thật cao cả tuyệt vời (x.Ga 21,15-18). Đức Giêsu không hỏi ông về khả năng, kinh nghiệm, Ngài chỉ hỏi tình yêu ông dành cho Ngài. Vì yêu Chúa, ông sẽ chấp nhận mọi khốn khó của cuộc sống. Ông sẽ dấn thân, phục vụ cho đoàn chiên Chúa; yêu Chúa, ông sẽ thấy Chúa nơi đoàn chiên; yêu Chúa, ông yêu những gì là của Chúa, chịu sự cô đơn sỉ vả và đón nhận tất cả mọi sự cho đến cùng. Nhờ tình yêu ấy mà ông đã trở nên vị Tông đồ trụ cột cho Hội Thánh.
Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu qua các tông đồ. Đức Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta sống với một con tim biết yêu. Ai có một trái tim chưa biết yêu, hãy tập yêu; ai yêu rồi thì hãy yêu nhiều hơn nữa. Vì tình yêu là một cử chỉ đẹp và tuyệt hảo nhất mà Đức Giêsu đã biểu lộ cho mọi người. Tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa được biểu lộ ngay chính trong công việc chúng ta đang làm. Làm việc với trái tim vì yêu Chúa thì chúng ta không trở nên nô lệ nhưng trở nên con cái Thiên Chúa và thừa hưởng Nước Trời. Mẹ Têrêsa thành Calcutta nói: “Thiên Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta tiếp xúc phục vụ, nơi mỗi công việc chúng ta làm”.
Lạy Chúa, làm công việc mình thích, chúng con dễ đặt tình yêu vào hơn. Còn những công việc chúng con không thích, chúng con rất khó đặt tình yêu vào đó, bởi tình yêu của chúng con chỉ là yêu vị kỷ. Xin cho mỗi người chúng con bắt đầu lại tình yêu với Chúa ngay trong những công việc thường ngày. Nhờ đó, chúng con mới xứng đáng với tình yêu mà Chúa đã ban cho. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Các môn đệ của Chúa sau khi Thầy Giêsu bị bắt, bị kết án tử, chịu đóng đinh vào Thập giá, người ta táng xác Người trong mồ, nhưng Người đã phục si nh khải hoàn ra khỏi mồ…Các môn lúc đó như rắn mất đầu, tâm trí bị lu mờ, đức tin hoảng loạn, họ không còn nhớ lời Thầy đã loan báo tới ba lần trước khi Người nộp mình theo ý Chúa Cha rằng :” Người sẽ chiến thắng tử thần và sống lại vinh quang “…Do đó, khi Thầy bị giết, rồi Thầy được an táng trong huyệt đá mới, các môn đệ đã tán loạn trở về làng để làm nghề cũ của mình.
Các môn đệ là những người đã sống với nhau thời gian Chúa Giêsu mời gọi họ…Họ đã được Thầy Giêsu đào tạo, huấn luyện…Các môn đệ đã được sống bên cạnh Chúa, học hỏi và chứng kiến nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Chết chết, tất cả đều sụp đổ vì các môn đệ đâu đã hiểu được ý của Thầy Giêsu. Phêrô dù bộc trực cản đường cứu thế của Thầy, rồi chối Thầy ba lần, nhưng các môn đệ vẫn nể nang, kính trọng Ông vì Ông là thủ lãnh các môn đệ. Hôm nay, Ông không ra lệnh cho các bạn bè của Ông ra khơi đánh cá, nhưng Ông gợi ý :” Tôi đi đánh cá đây “. Các bạn khác vì mến Phêrô, nên họ xin Phêrô cho họ đi đánh cá với Ông. Thật thân tình! Thật hạnh phúc ! khi các môn đệ những giờ phút này đang ở bên nhau. Biển Hồ là nơi lý tưởng để các Ông đánh bắt cá ! Gioan, vị tông đồ được Chúa Giêsu thương mến đã nhận ra Chúa Phục Sinh đang đứng trên bờ. Tuy nhiên, Gioan vẫn điềm nhiên ngồi yên trong thuyền. Phêrô nghe Gioan hô Chúa đó ! Ông hồ hởi, phấn khởi, nồng nhiệt, vội khoác áo vào vì Ông đang ở trời và nhảy xuống biển để đi tới gặp Chúa Giêsu sống lại. Chúa Phục Sinh đang đứng trên bờ nhìn xem đám môn đệ thân yêu của mình đã mất ngủ, mệt mỏi và vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Phêrô và Gioan, hình ảnh của hai con người tâm tính khác nhau, nhưng tất cả đều phát xuất vì lòng mến, vì tình thương.Đây cũng là đặc tính của Giáo Hội. Hội Thánh của Chúa Kitô tuy nhiều thành phần nhưng tất cả đêu hiệp nhất, tôn trọng sự khác biệt của nhau.
Tin vào lời của Chúa phục sinh, các môn đệ đã thả lưới theo lệnh Chúa truyền, mặc dù cả đêm vất vả không được một con cá nào. Mẻ cá ngoài sức tưởng tượng đã nói lên quyền năng của Chúa sống lại. Người đã củng cố đức tin của các môn đệ, làm cho tâm trí của các Ông trở nên mới. rồi Người sai các Ông đi vào thế giới để lưới người ta bởi vì “ Không có Thầy các con không thể làm được gì cả “ ( Ga 15,5 ). Hội Thánh ngày hôm nay vẫn tiếp tục làm công việc của Chúa trao phó, nhờ Chúa hiện diện việc truyền giáo luôn mang lại kết quả tốt đẹp.
Chúa sống lại vẫn luôn hiện diện với Hội Thánh qua Bí tích Thánh Thể. Chúa nuôi dưỡng con cái của Ngài bằng chính thịt máu của Ngài. Bao lâu còn các Linh mục bấy lâu còn Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là Bí tích nuôi sống dân Chúa. Giáo Hội luôn tồn tại nhờ sự có mặt của Chúa phục sinh và sự tác động hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Simon Phêrô trở nên vị lãnh đạo của Hội Thánh khi Ông tuyên tín ba lần “ yêu mến Chúa “. Chúa cất nhắc Phêrô làm đầu Hội Thánh và bắt đầu từ Phêrô các Đức Giáo Hoàng là những Đấng kế vị thánh Phêrô lãnh đạo Giáo Hội của Chúa.
Phêrô thật sự theo Chúa, theo chính con đường của Chúa khi Chúa nói :” Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý.Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh không muốn “ ( Ga 21,18-19 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa đang hiện diện giữa chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao Chúa sống lại,lại tỏ mình cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria ?
2.Tại sao Gioan lại nhận ra Chúa phục sinh liền ?
3.Thái độ của Simon Phêrô khi nghe Gioan nói :” Chúa đó “ ?
4.Tại sao Chúa phục sinh lại hỏi 03 lần về lòng yêu mến của Phêrô đối với Ngài ?
5.Chúa nói với Phêrô thế nào về sứ mạng của Phêrô ?
.
THI HÀNH SỨ VỤ LÀM CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Cv 5:27b-32, 40b-41; Kh 5:11-14; Ga 21:1-19)
Nhờ mắt thấy tai nghe và những lần Chúa hiện ra sau khi Người sống lại, các môn đệ Chúa đã vững niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Giờ đây là lúc họ lên đường với sứ mệnh làm chứng nhân cho Người. Bài đọc trích sách Công vụ kể lại các tông đồ bắt đầu “nếm mùi” bách hại vì sứ mệnh. Bài đọc 2 vẫn tiếp tục chia sẻ với chúng ta cảm nghiệm của tông đồ Gio-an gặp gỡ Chúa Phục Sinh qua thị kiến thiêng liêng và cầu nguyện. Đặc biệt bài Tin Mừng kể thêm lần thứ ba Chúa hiện ra với các môn đệ tại Ga-li-lê như Người đã hứa. Tuy nhiên lần hiện ra này, qua mẻ lưới đầy cá, Chúa Giê-su đã dẫn các môn đệ tới mẻ lưới thiêng liêng bắt các linh hồn và trao cho họ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Đáng kể nhất là việc Chúa Giê-su ban cho Phê-rô nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội trần gian để ông tiếp tục con đường theo Chúa.
Trước hết cùng với các môn đệ Chúa Giê-su, chúng ta hãy trở lại Ga-li-lê để gặp Chúa. Thành Ca-phác-na-um thuộc Ga-li-lê là nơi vô cùng ý nghĩa đối với Chúa Giê-su và các môn đệ. Nơi đây thầy trò đã có duyên gặp gỡ nhau. Sau mẻ lưới lạ đầu tiên, Chúa Giê-su đã gọi anh em ông Phê-rô và hai anh em khác làm môn đệ đầu tiên của Người. Nơi này cũng là trung tâm truyền giáo phát xuất những cuộc đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi, qua Sa-ma-ri xuống tận Giu-đê. Ba năm sau, sau khi Chúa phục sinh, mẻ lưới cá thứ hai đã giúp các môn đệ nhớ lại tiếng gọi truyền giáo ban đầu “từ nay anh em sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá”, đồng thời mở ra một chân trời mới để các ông thực sự gánh vác công việc mở mang Nước Thiên Chúa. Theo khoa học cổ đại Hy-lạp, người ta tin có tất cả một trăm năm mươi ba loại cá khác nhau. Một trăm năm mươi ba con cá lớn bắt được trong phép lạ này là con số tượng trưng cho toàn thể nhân loại. Cũng tựa như lời Chúa Giê-su truyền trước khi Người lên trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Chúa Giê-su về trời, nhưng Người không mang theo uy quyền của Người, mà Người trao lại cho ông Phê-rô và những người kế vị để “chăn dắt chiên của Thầy”. Trong tâm tình chia sẻ khổ đau, Chúa Giê-su còn báo trước những bách hại sẽ đến với Phê-rô và các bạn khi họ lên đường truyền giáo. “Anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Cái chết làm chứng cho đức tin đang chờ đợi Phê-rô và các bạn đấy!
Lời tiên báo đó đã ứng nghiệm mau chóng. Bài trích sách Công vụ Tông Đồ thuật lại việc các tông đồ bị các nhà lãnh đạo tôn giáo bách hại như thế nào. Các ông hăng hái rao giảng về Chúa Giê-su Na-da-rét. Rồi thượng tế và đám lâu la Xa-đốc “ra tay hành động”, bắt các tông đồ tống vào ngục. Được thiên thần cứu ra, các ông chẳng chút sợ hãi, lại tiếp tục rao giảng nữa. Biết là chưa thể hành động quyết liệt hơn, họ tạm tha cho các ông, nhưng nghiêm ngặt răn đe các ông không được tiếp tục rao giảng nữa. Chẳng đe dọa nào ngăn cản được các ông, vì các ông lý luận chắc như đinh đóng cột rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”! Đe dọa không làm các ông sợ hãi, trái lại, các ông còn “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su” nữa. Quả là một nhắc nhở và gương mẫu cho chúng ta ngày nay, vì chúng ta cần nhiều can đảm hơn để dám đi ngược lối sống “không tin vào Phục Sinh” của rất nhiều người hôm nay. Thái độ làm chứng nhân của các tông đồ là một cuộc xét lương tâm cho tất cả chúng ta. Quả thực nhiều khi chúng ta thấy mình hèn nhát, không dám can đảm làm chứng cho Chúa và lối sống Ki-tô. Chúng ta dễ trở nên “đồng lõa” với thế gian này để mong được sống yên thân. Chúng ta không muốn “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”, mà chỉ cho là bị thiệt thòi vì danh Người, hay nói khác đi bị thua thiệt vì là Ki-tô hữu.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Nói đến “xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”, chúng ta phải chiêm ngưỡng chính Chúa Giê-su để biết Người được coi là xứng đáng chịu chết nhục nhã vì làm Con Thiên Chúa như thế nào. Người được Chúa Cha trao phó sứ mệnh làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Người đã lấy chính mạng sống mình để chứng tỏ rằng Thiên Chúa vô cùng yêu thương thế gian là tất cả chúng ta. Chết như thế đối với Chúa Giê-su là một vinh dự chứ không phải một sự áp đặt. Theo gương Thầy, thánh Phao-lô cũng xác tín rằng vinh dự của ngài là thập giá Chúa Ki-tô. Riêng thánh Gio-an, trong bài đọc hôm nay, ngài đã được diễm phúc nghe triều thần thiên quốc tung hô Chúa Phục Sinh: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”. Chúng ta được mời gọi hãy sẵn sàng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su bằng cách quay lưng lại với lối sống tội lỗi của thế gian, để bước đi theo đường lối của Chúa. Ngay ở cuộc sống trần gian này, ta vẫn có thể cùng với các thiên thần và mọi loài thọ tạo trên trời, cất tiếng tung hô Chúa bằng những lời nói yêu thương và những việc bác ái giúp đỡ nhau, bằng những việc thờ phượng trong các buổi tụ họp dâng Thánh lễ hay cầu nguyện, để tất cả những việc này trở thành “lời chúc tụng, danh dự, vinh quang và quyền năng” dâng lên Chúa! A-men!
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thánh Gioan tông đồ giới thiệu cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu và qua bốn sách Tin Mừng, Chúa Giê-su mặc khải cho biết Thiên Chúa là Cha yêu thương. Người dạy chúng ta gọi Thiên Chúa Cha bằng tiếng “Áp-ba” rất thân thương, đó là tiếng bập bẹ của đứa con thơ gọi cha mình.
Tuy nhiên, điều đặc biệt là Thiên Chúa không chỉ yêu thương chúng ta bằng tấm lòng bao la của một người cha mà còn bằng trái tim dịu hiền của một người mẹ nữa. Chính Thiên Chúa đã hé mở cho chúng ta thấy khối tình từ mẫu của Người qua miệng ngôn sứ I-sa-i-a:
“Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” (Is 66,13) và sau nầy, qua thánh sử Mát-thêu, Chúa Giê-su phán:
“Giê-ru-sa-lem… đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Mát-thêu 23,37)
Trích đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay phác họa rõ nét hơn mối tình từ ái của người mẹ được biểu lộ qua tấm lòng của Chúa Giê-su.
Khi biết các môn đệ phải thức thâu đêm chài lưới giữa biển khơi, vừa phải chịu đói lạnh, vừa mệt nhoài, mối tình từ mẫu nơi Chúa Giê-su đã khiến Người dấn bước đến với đàn con để chia sẻ sự nhọc nhằn vất vả của họ, ngay lúc trời vừa hừng sáng.
Sở dĩ Chúa Giê-su đến sớm như vậy vì Người không muốn để cho các môn đệ phải chịu đói lạnh lâu hơn. Như người mẹ hiền, Chúa Giê-su mang đến cho họ sự chăm sóc giúp đỡ ngay khi họ đang cần.
Biết rằng các môn đệ vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào, Người dạy họ thả lưới đúng nơi để bắt được nhiều cá.
Đối với người đi biển vừa mới lên bờ còn đang đói và lạnh thì không gì sung sướng bằng được thưởng thức ngay những miếng bánh và những con cá nướng còn nóng hổi và thơm ngon. Chính vì thế, khi đến với các môn đệ, ngoài những thực phẩm khô, Chúa Giê-su còn mang theo than để nướng bánh và cá.
Rồi Chúa Giê-su ngồi trên bãi biển như một người mẹ gia đình, nhóm lửa lên, đem cá và bánh nướng trên than hồng cho sẵn, để khi các môn đệ vừa bước lên bờ là có ngay bữa ăn sáng còn đang nóng.
Sau đó, Chúa Giê-su còn gọi các môn đệ mang thêm cá mới bắt được, để Người tiếp tục phục vụ như người mẹ gia đình, tiếp tục nướng những con cá còn tươi rồi trao cho từng đứa con đang đói. Thật đầm ấm như người mẹ hiền giữa đàn con ngoan, dạt dào tình mẫu tử.
***
Sự chăm sóc ân cần mà Chúa Giê-su dành cho các môn đệ hôm xưa, nay cũng được dành cho chúng ta. Hôm nay, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục chăm sóc và dọn bữa hằng ngày cho chúng ta.
Nơi bàn tiệc thánh, Chúa Giê-su đem Lời hằng sống của Thiên Chúa để ban tặng chúng ta. Nhờ Lương Thực tuyệt vời nầy, tâm hồn chúng ta được dưỡng nuôi và được dồi dào sức sống. Cũng nơi bàn tiệc yêu thương nầy, Chúa Giê-su phục sinh trao chính thân mình Người làm bánh nuôi dưỡng chúng ta, để chúng ta được hiệp thông nên một với Người, và qua đó, Người thông ban sự sống thần linh của Người cho chúng ta.
Hôm nay, Thiên Chúa còn tiếp tục nhờ Mẹ Maria để trao ban tình từ mẫu của Người cho chúng ta. Như mặt trăng đón nhận ánh sáng mặt trời rồi phản chiếu xuống mặt đất làm cho trái đất được chiếu sáng, thì Mẹ Maria cũng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và trao lại cho chúng ta. Qua Mẹ Maria, Thiên Chúa yêu thương ấp ủ chúng ta bằng một tình mẹ rất dịu dàng, dìu dắt chúng ta như đứa con thơ bé, vượt qua biển đời sóng gió về bến an bình.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình Cha bao la lẫn tình Mẹ dịu dàng. Ước gì chúng ta cũng biết đền đáp lại mối tình cao cả ấy với tất cả tấm lòng hiếu thảo của một người con ngoan.
.
Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Cả bốn tác giả Tin Mừng và sách Tông đồ công vụ ghi lại, sau khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ngài hiện ra có đến 18 lần dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như: Ngài hiện ra với bà Maria Mađalenna như một người làm vườn, bà không nhận ra Chúa. Ngài hiện ra với hai môn đệ đi làng Emmaus, như khách bộ hành chưa từng quen biết. Ngài hiện ra với bảy tông đồ trên biển hồ Tibêria, đang lúc các ông đi đánh cá, xem ra như một người xa lạ.
Bà Mađalenna nhận ra Chúa sống lại, khi Chúa gọi đúng tên bà. Hai môn đệ đi làng Emmaus nhận ra Chúa phục sinh qua cử chỉ quen thuộc, lúc Ngài bẻ bánh trao cho họ. Các Tông đồ nhận ra Thầy Giêsu sống lại, khi Ngài ăn điểm tâm với các ông.
Tin Tibêria. Sau một đêm thất bại ê chề vì không bắt được con cá nào, nhưng vâng Thầy, Phêrô chèo thuyền ra chỗ nước sâu thả lưới, nên bắt được hai thuyền đầy cá. Lúc bấy giờ, Đức Giêsu lên tiếng gọi: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những tay chài lưới người ta” (Lc 5,10).
Hôm nay, tại biển hồ Tibêria, cũng sau một đêm vất vả thả lưới mà không bắt được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, các ông thả lưới bên hữu thuyền, và kìa, đã bắt được 153 con cá lớn. Theo các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng: con số 153, là số tượng trưng tất cả mọi thứ cá trong biển. Hàm ý nói rằng: Giáo hội mang tính phổ quát, rồi đây trên hành trình truyền giáo, các tông đồ sẽ quy tụ muôn dân, làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội Công Giáo.
Ở đây chúng ta nghiệm thấy rằng, Đức Kitô hiện ra không phải lúc các tông đồ chìm đắm cầu nguyện trong đền thờ, nhưng là lúc các ông đang làm việc ở ngoài biển cả.
Đức Kitô Phục Sinh đến với các tông đồ giữa những công việc thường ngày, và Ngài thể hiện bằng cử chỉ trao ban, là dọn điểm tâm cho các ông. Đồng thời, cùng ăn uống với họ, đó là niềm hạnh phúc lớn lao mà Chúa dành cho các môn sinh của mình.
Sau khi điểm tâm, là phần Chúa trao quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trước khi trao sứ vụ, Đức Giêsu không đòi Phêrô học vị bằng cấp hay đã tốt nghiệp trường đại học nào, mà chỉ hỏi “Con có yêu mến Thầy không?”.
Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng, Đức Giêsu thiết lập Hội thánh trên nền tảng yêu thương. Người đứng đầu Hội thánh không phải là người ra lệnh chỉ huy, nhưng là người phục vụ. Sức mạnh của Giáo Hội không dựa trên quyền hành thống trị, nhưng trên tình yêu thương. Cho nên, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất.
Chính vì thế, trước khi trao quyền thủ lãnh cho Phêrô. Đức Giêsu hỏi tới 3 lần: “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?”. Vì có lòng yêu mến Chúa, thì mới có khả năng yêu thương anh em đồng loại. Như vậy, tình yêu là cốt lõi của đạo Công giáo. Bao lâu còn tình yêu, Giáo Hội còn hiệp nhất và phát triển, khi nào tình yêu suy giảm, Giáo Hội sẽ suy tàn.
Thế thì, tại sao Đức Giêsu không trao quyền thủ lãnh cho một người thông thái, có tài lãnh đạo, mà lại trao cho Phêrô, một Tông đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen thưởng, như vậy, chắc chắn Phêrô có lòng mến Chúa thiết tha lắm.
Và sau ba lần Phêrô xác định tình yêu đối với Thầy, Đức Giêsu bảo “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy”. Kể từ đó, Phêrô vâng lời Thầy về Giêrusalem, bài giảng đầu tiên hùng hồn đầy sức thuyết phục, đã có 3.000 người xin rửa tội. Rồi Ngài đi đến thành đô Rôma, một cánh đồng truyền giáo bao la, là. Nơi đây, Ngài đối diện với biết bao gian nan, bắt bớ, tù đày, nhưng thánh nhân đã can đảm làm chứng cho Chúa đến cùng. Ngài lấy máu đào để minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết lên trang sử vàng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.
Anh chị em thân mến,
Ngày nay, Giáo Hội được thừa hưởng đức tin do các tông đồ để lại. Các ngài đã can đảm làm chứng cho Chúa bằng cái chết đẫm máu của mình. Như vậy, muốn sống làm chứng cho Tin mừng phục sinh, chúng ta không được an phận, mà phải lên đường, phải ra đi đến những vùng ngoại biên, phải nỗ lực tìm kiếm các linh hồn. Có nghĩa là phải chèo thuyền ra chỗ nước sâu, đôi lúc phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng.
Bởi vì Giáo Hội của Chúa chỉ có thể phát triển qua những vất vả, khó khăn, cấm cách trăm bề như các Tông đồ năm xưa, nhưng chúng ta hãy vững tin rằng, Đức Kitô Phục sinh vẫn luôn đồng hành thiêng liêng với chúng ta trên mọi nẻo đường.
Ngày nay, mỗi lần cử hành Thánh lễ, Đức Kitô Phục sinh vẫn tiếp tục dọn cho chúng ta những bữa ăn nơi bàn Tiệc Thánh, một bữa ăn hiệp nhất đong đầy tình yêu thương.
Cử chỉ bẻ bánh và cá nướng trao cho các tông đồ năm xưa, gợi lên cho chúng ta thấy Thánh lễ cũng là một bữa ăn. Ngày nay, Đức Kitô phục sinh vẫn tiếp tục dùng đôi tay linh mục bẻ tấm bánh, là Mình và Máu thánh Ngài trao cho chúng ta. Và phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.
Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai vẫn là một. Ngày nay, Ngài vẫn đến với chúng ta qua cử chỉ trao ban ấy.
Xin Đức Kitô mở ánh mắt đức tin, để chúng ta nhận ra dung mạo của Chúa trong mọi biến cố thường ngày. Xin cho chúng ta biết sống quảng đại đối với tha nhân, như Chúa đã từng quảng đại đối với chúng ta. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_C
Lm Giuse Đinh tất Quý
“Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”(Ga 21,19).
Những bài đọc hôm nay có thể hướng những suy tư chúng ta về vận mạng tương lai của Giáo Hội. Vận mạng tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc, là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người và trên sự dấn thân của mỗi người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng và thông truyền cho anh chị em những sự thật có sức mạnh cứu rỗi.
Bài đọc thứ nhất được trích từ sách Tông đồ Công vụ, cho chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ trên như thế nào. Các ngài dù bị những vị lãnh đạo tôn giáo đầy uy quyền ngăn cấm, không cho phép được lên tiếng làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật về Chúa, nhưng tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”. Thiên Chúa Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại, đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài bên hữu Người và làm cho Ngài trở thành thủ lãnh và là đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tùng phục Chúa. Chúng tôi và Chúa Thanh Thần cùng làm chứng”(CVTD 5,29-35). Thật là can đảm! Khó tìm thấy những lời tuyên xưng rõ rệt, dứt khoát như thế!.
Vâng! Vận mạng tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên những thái độ can đảm như vậy. “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người”. Đây là một câu trả lời rõ ràng dứt khoát cho những hành động lạm dụng quyền hành của mình để xen vào việc của Chúa. Hoàn toàn không phải là một lời kêu gọi dân chúng nổi loạn, chống lại quyền bính chính trị lúc đó.
Và đây cũng là câu trả lời của một con người mà trước đó không lâu đã phạm những lỗi lầm thật nghiêm trọng. Chúng ta hãy nhớ lại bối cảnh lúc đó một chút.
Chỉ cách biến cố này không bao xa, vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh, Phêrô đã yếu đuối, hèn nhát, như thế nào. Ba lần ông đã chối Thầy chí thánh của mình!
Giả như Chúa có loại trừ ông, thì hầu chắc mọi người sẽ nói rằng Người đã không còn sự lựa chọn nào khác. Phêrô là thủ lãnh của các tông đồ, vậy mà ông đã làm gương xấu cho người khác. Nếu Chúa có cất chức ông thì việc đó cũng chẳng có gì là lạ!
Nhưng Chúa Giêsu đã không làm thế, Người không loại trừ ông. Thậm chí Người không giáng chức ông. Và cũng chẳng có sự buộc tội nào. Sự phản bội của Giuđa là một việc có hoạch định trước, và được thực hiện với thái độ lạnh lùng, có đắn đo suy nghĩ. Còn hành động chối Thầy của Phêrô không hoạch định trước. Đây chỉ là hậu quả của sự yếu đuối hơn là ác tâm. Chúa Giêsu, Người thấu suốt mọi tâm hồn, đã biết điều này.
Và sáng hôm nay, sau buổi điểm tâm, Chúa Giêsu đã quay nhìn Phêrô và nói : “Này Simon con Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”
Thật là một câu hỏi kỳ lạ, khi hỏi: “Anh có mến Thầy không ?” Phải chăng Phêrô không còn yêu mến Thầy nữa. Và chúng ta nghe ông thưa lại:
– Lạy Thầy, Thầy biết con mến Thầy.
Ông đã thành thật nói lên những lời này. Đó là sự thật. Thật sự lúc nào ông cũng yêu mến Chúa. Chúa Giêsu còn biết Phêrô nhiều hơn chính ông biết về mình. Người biết ông lúc nào ông cũng đặt Người là số 1. Sự mạnh mẽ và yếu đuối có thể cùng hiện hữu nơi một con người. Và bây giờ Chúa mời gọi Phêrô tiến bước. Người yêu cầu ông phải công khai tuyên bố tình yêu của mình với Thầy, vì lẽ ông đã công khai chối Thầy.
Chúa Giêsu đã không ghi tội của Phêrô. Nhưng Người mời gọi ông chăn dắt đoàn chiên của Người, tức là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Đây là dịp để ông ăn năn hối lỗi. Đó là cách tốt nhất để chuộc tội. Sau này chính Phêrô đã viết: lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (I Pr 4,8).
Chắc Phêrô không bao giờ quên được biến cố ông đã chối Thầy Giêsu. Không biết biến cố ấy có ám ảnh ông theo cách mà mọi người thường bị ám ảnh bởi tội lỗi của họ hay không, nhưng chắc chắn là ông đã rút ra được một bài học lớn từ sự vấp ngã này. Ông biết ông đã không can đảm như ông nghĩ. Và ông cũng biết mặc dù ông đã chối Thầy, nhưng Thầy Giêsu vẫn yêu ông. Đó là tình yêu đưa Phêrô trở lại với cuộc sống. Đó là kinh nghiệm đáng kinh ngạc vì được yêu cả khi mình yếu đuối và tội lỗi. Yêu một người vì sự tốt đẹp của họ là lẽ thường tình. Nhưng yêu một người với cả những cái xấu của họ – đó mới thật phi thường. Điều đó cho biết ân sủng là như thế nào.
Phêrô đã can đảm đứng dậy sau lần vấp ngã. Kinh nghiệm đã giải thoát ông khỏi sự kiêu ngạo và sự tin tưởng mù quáng vào tài xoay sở của mình. Kinh nghiệm đó cũng có thể giúp ông hiểu được sự yếu đuối nơi người khác.
Phêrô đã trở nên tốt. Qua bài đọc của sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy ông đã đứng dậy trước công nghị và đã làm chứng cho Chúa Giêsu như thế nào. Ông là nguồn an ủi rất lớn và cũng là một tấm gương thật sáng ngời cho chúng ta.
Tháng 3 năm 1983, nhà thơ Nga – Irina Ratushinskaya, bị kết án 7 năm lao động khổ sai và 5 năm lưu đày. Tội của bà là – sáng tác những bài thơ mà chính quyền không chấp nhận. Trong tù, bà chịu đựng sự đánh đập, bị biệt giam trong điều kiện khí hậu lạnh cứng, rất khắc nghiệt.
Thân xác còn tệ hơn. Tim, gan, cật, đều có vấn đề. Hơn nữa bà còn bị viêm phế quản kinh niên. Dù phải sống trong điều kiện như vậy, bà vẫn tiếp tục viết, rồi chuyển những bài thơ được viết trên những mảnh giấy vụn ra bên ngoài qua những người gác ngục, những người lính và những khách đến thăm. Vào tháng 10 năm 1986 Bà được phóng thích.
Làm sao bà có thể sống được như thế? Thưa đó là niềm tin Kitô Giáo.
Niềm tin Kitô giáo đã quyết định sự sống còn của bà. Bà nói:
– Khi bạn đang phiền muộn, hay trong cơn quẫn bách, dường như Chúa luôn luôn gần bên bạn hơn. Chúa bên tôi trong những ngày tôi ở trong tù, như cánh tay liền sát vai.
Một điều quan trọng khác nữa giúp cho sự tồn tại của Irina trong những ngày lao tù là mối tương quan tốt đẹp bền vững thật khó tin mà bà đã có với những nữ tù nhân. Gian nguy đã nối kết mọi người lại với nhau và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm với nhau.
Irina và những bạn bè của bà thường biểu tình tuyệt thực nếu một trong số họ bị ngược đãi. Bà nói:
– Tôi cảm thấy hạnh phúc khi tất cả chúng tôi vẫn còn sống. Trong thời gian tôi ở tù, một phần ba nam tù nhân trong trại đã chết. Tất cả phụ nữ đã từng ở trong trại giờ đây đều là các Kitô hữu. Trong số đó có người nay là nữ tu công giáo. Niềm tin cũng giúp cho đời sống tâm lý của tôi tránh khỏi bị huỷ hoại bởi lòng căm thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vô song của tinh thần con người để có hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Người trông mong chúng ta làm chứng cho Người trong thế giới hôm nay. Một số người trong chúng ta đã được kêu gọi đón nhận những đau khổ như những đau khổ mà các tông đồ hay những người như Irina và bạn bè của bà đã trải qua. Chúng ta có thể không phải đối diện với những việc tồi tệ và thái độ hết sức dửng dưng của người đương thời như thế, nhưng con đường làm chứng của chúng ta là con đường lúc nào cũng rộng mở thênh thang. Hãy sống như Chúa đã sống! Hãng làm như Chúa đã làm! Hãy đối xử với những người khác như là chính Chúa đối xử với họ! Bằng cách ấy chúng ta đang làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh đang sống giữa loài người. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Sau khi sống lại, Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ. Việc hiện ra với các môn đệ đều nhằm một mục đích nào đó chứ không phải cứ hiện ra khơi khơi, thích hiện ra thì hiện. Theo bài Tin mừng hôm nay, đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ sau ngày Phục sinh. Trong khi các môn đệ còn ở trong tâm trạng hoang mang, vui buồn lẫn lộn thì Chúa hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông, trao ban cho các ông một sứ vụ mới : trao quyền lãnh đạo cho Phêrô và trao cho các ông sứ mạng đi truyền giáo.
Qua phép lạ mẻ lưới lạ lùng, Đức Giêsu muốn báo cho các ông biết trước Giáo hội của Ngài sẽ được phổ biến khắp nơi dưới quyền lãnh đạo của Phêrô và không quyền lực nào có thể làm cho tan rã vì Giáo hội của Ngài được xây trên nền tảng vững chắc. Vì danh Chúa, các ông phải mạnh dạn tuyên xưng đức tin và bảo vệ Giáo hội :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”(Cv 5,29).
Bài học mà Chúa dạy các môn đệ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài, chứ không dựa vào khả năng chuyên môn của mình. Trong việc thi hành chương trình cứu dộ, Chúa dùng các ông như những dụng cụ tầm thường nhưng dụng cụ ấy lại hữu hiệu khi biết vâng theo ý Chúa và nhiệt tình cộng tác dưới sự hướng dẫn của Ngài.
Ngoài ra, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã trở nên những thành viên trong Giáo hội, mỗi người đều được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, xóm làng và cộng đồng, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của từng người. Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhậïn thức rằng Chúa hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù chúng ta không cảm thấy.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cv 5,27-32.40-41.
Sau khi chữa lành mộât số bệnh nhân, các Tông đồ bị các vị thượng tế và hội đồng cố vấn bắt giam, nhưng được giải thoát một cách lạ lùng. Phêrô cùng các Tông đồ khác lại xuất hiện và rao giảng cho dân chúng trong Đền thờ. Các ngài lại bị điệu đến Thượng hội đồng để hạch hỏi và xét xử. Phêrô trả lời cách quả quyết :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Lời biện hộ của Phêrô có thể làm cho ngài bị kết án tử hình, nhưng Gamaliel, một tiến sĩ luật, đã can thiệp và các ngài được tha sau khi bị đánh đòn.
Nhưng vị thủ lãnh các tông đồ luôn kiên quyết bảo vệ quyền tự do của các Kitô hữu đối với quyền bính đời này, không gì có thể ngăn cản các ngài giảng dạy và loan báo Tin mừng về Đức Giêsu ; các ngài vui mừng vì được coi là xứng đáng bị khổ nhục vì danh Đức Kitô, xác tín về đời sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở với các ngài.
+ Bài đọc 2 : Kh 5,11-14.
Thánh Gioan kết thúc thị kiến thứ nhất về Con Chiên Thiên Chúa, tượng trưng cho Đức Giêsu, bằng một nghi lễ phụng vụ, trong đó vũ trụ hiệp cùng các thiên thần ngợi khen tung hô quyền năng vô hạn của Con Chiên đã bị sát tế. Hình ảnh Con Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông. Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô như vị vua và Thiên Chúa : “Xin chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Đấng ngự trên ngai và Con Chiên đến muôn thở muôn đời”.
+ Bài Tin mừng : Ga 21,1-19.
Đoạn cuối của Tin mừng Gioan tập trung kể lại câu chuyện thánh Phêrô nhận lãnh chức vụ thủ lãnh tối cao của các Tông đồ. Lúc đó các môn đệ gồm 7 người sinh sống tại Galilê, nơi lao động thường xuyên của các ông…. Sau mẻ cá lạ lùng, Đức Giêsu Phục sinh trao cho thánh Phêrô chức vụ chủ chăn. Vì thánh Phêrô đã ba lần chối Thầy nên Đức Giêsu cũng ba lần đòi ông tuyên xưng lòng yêu thương. Ba lần hỏi như thế để khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát (bù lại ba lần chối) để Đức Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề :”Lãnh đạo toàn thể Giáo hội” mà vị lãnh tụ tiên khởi vềà sau đã phảiõ trả giá bằng cuộc tử đạo (+64) thời Néron để nên giống Thầy mình.
Địa vị tối thượng trao cho Phêrô là một thể chế chứng tỏ tình yêu của Đức Kitô đối với loài người, và nếu vị chủ chăn thật sự yêu thương đoàn chiên của mình thì dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối vớ nhân loại sẽ được bầy tỏ cho thế giới.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. MỘT MẺ LƯỚI LẠ LÙNG.
- Tâm trạng của các môn đệ.
Sau khi Đức Giêsu chịu tử nạn, các môn đệ tỏ ra hoang mang lúng túng, có ông tỏ ra thất vọng trước ý đồ của mình như hai môn đệ đi làng Emmau. Nhưng sau khi Đức Giêsu hiện ra với họ thì tâm trạng của họ lúc này trở nên khó tả : buồn vì cuộc tử nạn của Thầy mình, vui vì thấy Thầy mình đã sống lại, nhưng vẫn còn hoang mang vì sự hiện diện của Thầy sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khỏa và để kiếm gì để ăn chứ ! Các ông theo Phêrô, xuống thuyền đánh cá, nhưng suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Kinh nghiệm đánh cá của Phêrô cũng chẳng giải quyết được gì.
- Đức Giêsu hiện ra lần thứ ba.
Trong lúc hiện ra lần thứ nhất với các môn đệ (Ga 19,23) các ông đều nhận lấy từ nơi Thầy những ơn là : sự bình an, sứ mạng, ơn Thánh Thần, ơn “tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha”(Ga 19,23). Phêrô và Gioan không có vai trò gì trổi vượt. Lần hiện ra thứ hai với các môn đệ (Ga 19,24-29), Tôma chứ không phải là Phêrô hoặc Gioan nhận được sự chú ý của Thầy. Chính Tôma, tuyên xưng :”Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”! mà Thầy Giêsu đã chúc lành cho những người không thấy mà tin”(Ga 19,29). Rồi đến lần hiện ra thứ ba với các môn đệ (Ga 21,1-19), xem ra hai ông Phêrô và Gioan tìm kiếm điều hai ông đã đạt được. Các ông được thấy Thầy các ông trong sự sống và hoạt động hoàn toàn mới : tất cả qui về tập thể mà các ông là thành viên và các ông chính là người đứng đầu điều khiển mọi sự trong hậu trường.
- Một mẻ lưới kỷ lục.
Sáng sớm, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, các ông từ thuyền trông thấy, nhưng không nhận ra Ngài. Ngài hỏi các ông câu hỏi thường thức như người ta quen hỏi các người đi đánh cá : Có kiếm được gì ăn không ? Các ông đồng thanh trả lời :”Thưa không”. Ngài bảo họ :”Cứ thả lưới bên phải thuyền thì sẽ có cá đấy”. Họ thả lưới, và kết quả là mẻ lưới của các ông đầy cá. Lúc đó các ông mới nhận ra Ngài. Và do đó, các ông nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng của Chúa, chứ không do sự chuyên nghiệp của các ông vì các ông đã thất bại suốt một đêm trắng.
Các ông kéo lưới vào bờ và đếm được 153 con cá lớn mà lưới vẫn không rách. Lưới không rách là hình ảnh Giáo hội, sự hiệp nhất không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,47-50), những con cá là hình ảnh giáo hữu đã chinh phục cho Chúa bằng lời giảng dạy của các Tông đồ.
Còn về vấn đề 153 con cá lớn, theo thánh Giêrônimô, một học giả Thánh Kinh, thì con số 153 có nghĩa là các nhà chuyên khảo cứu về cá lúc bấy giờ biết được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất nhiều cá chứ không nhất thiết là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩ như vậy, thì Chúa muốn các Tông đồ phải đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho cả thế giới và như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người lãnh nhận đức tin sau này.
II. PHÊRÔ LÀM THỦ LÃNH GIÁO HỘI.
- Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh.
Để qui tụ mọi dân tộc, mọi giống nòi về một Giáo hội duy nhất, điều Đức Giêsu muốn là phải có một người dẫn dắt đoàn chiên như lòng Chúa ước mong, người đó không ai khác, lại chính là Phêrô – vị Tông đồ có không ít những lỗi lầm. Chúng ta thấy là, để được Đấng Phục sinh long trọng xác nhận tư cách là thủ lãnh để lãnh nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt thì tiên quyết không phải là “văn hay chữ tốt”, “tài đức vẹn toàn” mà chỉ được gói gọn trong hai chữ “yêu mến” mà thôi :”Phêrô, con có yêu mến Thầy không” ? Thật ra đây chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó, bởi không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử cũng như của tất cả chúng ta dù thành công cũng chỉ điểm tô, đánh bóng cho cá nhân của mình; trái lại, với lòng yêu mến, chúng ta sẽ thấy bất cứ công việc nào cũng mang đến một giá trị cao cả không chỉ cho chính đương sự mà còn mưu ích cho nhiều người.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã phải hỏi Phêrô đến ba lần – có thể là sự gợi nhớ ba lần ông chối Thầy mà cũng có thể theo thói quen thời đó, để chính thức ủy thác cho ông nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên. Với nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn. Phêrô đã đi theo Thầy của mình trong quãng đời còn lại và đã lấy cái chết của mình để làm chứng về Thầy. Phêrô đã tham dự vào sứ mệnh của Thầy tức là tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa, đồng thời hiến dâng mạng sống mình cho anh em, cho đoàn chiên mà hôm nay chính Đức Giêsu – Đấng Phục sinh, đã trao phó cho ngài.
- Con người thủ lãnh Phêrô.
* Yêu Chúa tận tình.
Ai cũng biết tính tình của Phêrô là nóng nảy, vụt chạc, nghĩ sao nói vậy. Liên hệ đến tính tình nóng nảy của ông là sự cứng đầu của ông. Trong bài đọc 1 trích từ sách Công vụ tông đồ, chúng ta thấy rõ một hình ảnh khác của Phêrô, không phải chỉ là một Phêrô đã ăn năn hối cải, nhưng còn là một con người mới, một tạo vật mới, rất can trường. Ôâng rất cứng đầu vì tình yêu Chúa Kitô. Khi Phêrô bị điệu ra trước thầy cả thượng phẩm để bị tra hỏi vì đã rao giảng nhân danh Đức Giêsu, Phêrô không chút sợ hãi mà tuyên xưng rằng:”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cv 5,29). Sau này Phêrô đã xin được đóng đinh vào thập giá, nhưng để khác với Thầy vì cảm thấy mình không xứng đáng, Phêrô đã xin treo ngược đầu xuống. Có tình yêu nào sánh được với ngọn lửa tình yêu của Phêrô dành cho Đức Giêsu không ?
* Yếu đuối và gan dạ.
Chúng ta thấy trong con người Phêrô có pha trộn sự yếu đuối và can đảm, gan dạ. Ôâng yếu đuối vì đã chối Chúa nhưng ông trở nên gan dạ sau khi đã chỗi dậy.Tôi tin chắc rằng Phêrô không bao giờ quên sự kiện ông đã chối Đức Giêsu. Tuy nhiên, tôi hồ nghi không biết lỗi lầm này có ảnh hưởng ông hay không, giống như một số người đã bị ám ảnh vì những tội lỗi của họ.Ôâng đã học được một bài học vĩ đại từ sự vấp ngã của mình. Ôâng nhận ra rằng ông không được can đảm giống như ông đã nghĩ về mình. Khi học được một bài học, thì đó là một điều tốt đẹp và bổ ích hơn, so với khi được dạy một bài học. Một khi chúng ta rút ra được kinh nghiệm từ một lần vấp ngã, thì lúc nhắc lại sự vấp ngã này, thì chắc chắn càng khơi gợi lòng biết ơn, hơn là tự buộc tội bản thân mình.
Và Phêrô cũng học hỏi được một sự thật tuyệt vời về Đức Giêsu. Ôâng nhận ra rằng bất chấp những lần ông chối Ngài, Ngài vẫn cứ yêu thương ông. Chính tình yêu đó đã dẫn đưa Phêrô quay trở lại với cuộc đời. Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời, khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng yếu đuối và tội lỗi. Khi người ta đươc yêu thương vì sự tốt lành của mình, thì điều đó không có gì là vĩ đại cả. Nhưng khi được yêu thương trong tình trạng xấu xa, đó mới quả thật là một tình yêu bao la. Và đó là một ân sủng
Phêrô có sự gan dạ, để lại chỗi dậy sau khi vấp ngã. Chúng ta có thể hình dung ra rằng ông là một nhà lãnh đạo rất tốt, một nhà lãnh đạo có ý thức về sự yếu đuối của bản thân mình. Kinh nghiệm này đã loại trừ nơi ông thói tự hào và tin tưởng một cách mù quáng vào những năng lực riêng của bản thân, đồng thời, làm cho ông có khả năng thấu hiểu được sự yếu đuối của người khác (McCarthy).
- Phêrô can đảm thi hành sứ mệnh.
Sau khi Đức Giêsu về trời, Phêrô sang Rôma lãnh đạo giáo đoàn và thiết lập tòa thánh ở đó. Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Néron đang ra tay bách hại các tín hữu Chúa Kitô. Ôâng vua này sai thủ hạ đi đốt nhà dân chúng sống trong các khu ổ chuột tồi tàn để xây dựng nhà mới cho khang trang hơn. Khi dân chúng nổi lên chống đối, thì Néron đổ tội đốt nhà ấy cho các Kitô hữu và ra lệnh bắr bớ những ai theo đạo, kết án tử hình và xử tử tại khu hí trường ở thủ đô Rôma. Một số khá đông tín hữu đã trở thành miếng mồi ngon cho lũ sư tử đói khát vồ xé, một số khác thì bị chết trong các cuộc thi giác đấu, số còn lại thì bị lên giàn hỏa thiêu hay bị đóng đinh chân tay vào thập giá… Trước tình thế nguy hiểm ấy, công đoàn ở Rôma đã khuyên Phêrô cấp thời cải trang chạy trốn khỏi thành.
Nhưng khi ra được ngoài thành, Phêrô gặp thấy một người mặc áo trắng đang đi ngược chiều vào thành. Ôâng nhận ra đó là Đức Giêsu, ông lên tiếng hỏi :”Thầy đi đâu” (Quo vadis) ? Đức Giêsu đáp :”Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng đinh thêm một lần nữa”. Sau đó, Ngài biến mất. Phêrô hiểu ý Chúa muốn ông quay vào thành để chịu chết vì danh Chúa, và ông đã làm theo lời Chúa. Ôâng bị bắt, bị kết án tử hình và bị giam chung với các tín hữu sắp bị hành hình. Ông đã động viên an ủi họ và giúp họ giữ vững đức tin. Sau cùng, ông đã lãnh nhận lấy cái chết trên thập giá theo gương Thầy mình.
III. SỨ MỆNH LÀM CHỨNG CHO CHÚA.
- Phải biết nhận ra Chúa.
Thật là mâu thuẫn đến độ khó hiểu vì cùng một Con Người Giêsu đã đến trong thế gian, đã sinh sống trên đất Galilê, đã chịu khổ hình đến chết và nay đã sống lại, hiện ra nhiều lần với nhiều người đương thời, thế thì tại sao xưa cũng như nay có kẻ tin người không, kẻ phục người chối bỏ ? Dĩ nhiên, có sự trái ngược này không do Chúa không hiện diện khắp mọi nơi, nhưng do nơi cách thức mà con người sử dụng để tìm kiếm sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nói khác đi, ai biết tìm Chúa đúng cách thì dù Ngài có khuất dạng họ vẫn nhận ra, trái lại kẻ không biết cách tìm Chúa dù Ngài có hiện ra một bên cũng chẳng thấy được Ngài…
Muốn nhận ra được Chúa hiện diện trong đời mình, phải có một quả tim nhạy cảm trong tình yêu, một tâm hồn muốn thao thức tìm Chúa. Nhưng trong thực tế, rất nhiều người rất hững hờ với sự hiện diện của Chúa. Họ không tìm thấy sự hiện diện của Chúa là vì họ hững hờ, không muốn tìm ra Chúa.
Truyện : Chỉ vì vô tình.
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ Aán giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bầy về tình trạng bi đát của tu viện ông : Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi ẩn sĩ Aán giáo cho biết nguyên do nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng hiện nay. Tu sĩ Aán giáo ôn tồn bảo :”Các tội đã và đang xẩy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích :”Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ôâng tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứùu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (Trích trong Món quà Giáng sinh).
- Làm cho nhiều người trở lại với Chúa.
Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phêrô đứng lên cùng với mười một Tông đồ giảng cho dân chúng một bài rất hùng hồn (x. Cv 2,14t). Nghe xong bài đó, dân chúng bị cảm kích đến cực độ nhao nhao hỏi :”Chúng tôi phải làm gì” ? Phêrô bảo :”Hãy hối cải và mỗi người hãy chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các ngươi sẽ được ơn Chúa Thánh Thần”.
Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng Tin mừng… Thiên Chúa hằng hiện diện giữa chúng ta. Chính những khi các Tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thầy mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường đi Emmau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Chúng ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.
Truyện : gương bày lôi kéo.
Một cô xướng ngôn viên đài phát thanh ở tỉnh kia tự nhiên đến xin học đạo với một Linh mục. Nguyên nhân thúc đẩy cô theo đạo, như cô kể, là nhờ sống gần gia đình công giáo tốt mà cô thấy hấp dẫn và đánh động : họ sống đầm ấm yên vui, giữ đạo chân thành, thân thiện với hàng xóm. Gia đình này không những đã tìm được hạnh phúc cho chính họ, cho vợ chồng con cái an vui, mà còn làm chan hòa hạnh phúc đó sang người lối xóm. Không giảng đạo mà cụ thể đã lôi kéo người khác đến với Chúa.
- Phải dựa vào quyền năng Chúa.
Bài học mà Chúa muốn dạy các Tông đồ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành công cuộc cứu độ không tùy thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của con người, nhưng tùy thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa Phục sinh đã biến đổi các Tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Là chứng nhân, các Tông đồø phải nói lên sứ điệp đã lãnh nhận dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe dọa đến tính mạng.
Trong việc chọn Phêrô làm thủ lãnh các Tông đồ, thủ lãnh Giáo hội, Đứùc Giêsu không dựa vào những điều kiện như “văn hay chữ tốt” hoặc “tài đức vẹn toàn” mà chỉ dựa theo con người biết “yêu mến” và tuân theo ý Chúa như những dụng cụ hữu hiệu. Do đó, trong khi tham gia vào trong công cuộc rao giảng Tin mừng, chúng ta đừng cậy dựa vào sức mình mà chỉ cậy dựa vào ơn Chúa như những dụng cụ trung thành.
Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân : số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ : 000.0001.
Tuy nhiên nếu số một đứng đầu thì sau đó càng có nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí dụ : 1.000.000.
Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại, Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy (Frank Mihalic).
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh hôm nay dâng hiến cho chúng ta những chứng từ mới về biến cố Phục Sinh.
Cv 5: 27b-32, 40b-41
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật lời chứng của các Tông Đồ trước Thượng Hội Đồng. Các Tông Đồ khẳng định đầy xác tín rằng Đức Giê-su, mà các ông đã đóng đinh, đã sống lại và được tôn vinh.
Kh 5: 11-14
Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan mô tả thị kiến về phụng vụ thiên quốc tôn vinh Con Chiên chịu sát tế, được cả triều thần thánh thiên quốc cũng như muôn loài thụ tạo chúc tụng tôn vinh.
Ga 21: 1-19
Tin Mừng tường thuật Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ Ngài trên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Đây là giây phút Chúa Giê-su trao gởi con thuyền Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô và tấn phong thánh nhân làm Mục Tử tối cao trên toàn thể đoàn chiên Ngài, căn cứ trên tình yêu của thánh nhân đối với Ngài.
BÀI ĐỌC I (Cv 5: 27b-32, 40b-41)
Sự kiện các Tông Đồ bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, tức là tòa án tối cao ở Giê-ru-sa-lem, được đặt vào trong hoàn cảnh rất đặc thù. Trước đó, thánh Phê-rô và thánh Gioan đã bị bắt sau khi đã chữa lành một người bại liệt ở cửa Đền Thờ và đã ngỏ lời với đám đông tụ tập chung quanh các ngài. Sau khi tra hỏi các ngài, các thành viên Thượng Hội Đồng ngăm đe và nghiêm cấm các ông không được rao giảng Đức Giê-su nữa, rồi thả các ông về “vì họ sợ dân chúng” (4: 21).
Thánh Phê-rô, thánh Gioan cũng như các Tông Đồ khác, chẳng những đã không nín lặng, lại càng lớn tiếng rao giảng Đức Giê-su. Thánh Lu-ca xác định: “Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng” (5: 18). Vào ban đêm, thiên sứ mở cửa ngục, đưa hai ông ra ngoài. Ngay từ sáng sớm, các ông lại xuất hiện trong Đền Thờ để giảng dạy đám đông. Các thượng tế càng nỗi giận và bắt các ngài một lần nữa. Chính đây là đoạn trích dẫn hôm nay: các Tông Đồ lại bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng.
- Vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người
Vì thế, vị thượng tế hỏi những kẻ tái phạm ngoan cố này: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!” (5: 28)
Nhân danh nhóm Mười Hai, thánh Phê-rô khôn khéo trả lời. Thánh nhân giải thích cho các tư tế được thánh hiến để phụng sự Thiên Chúa trong Đền Thờ rằng chính “vị Thiên Chúa của cha ông chúng ta” này đã cho Đức Giê-su sống lại, tôn vinh Ngài và đặt Ngài làm Thủ Lãnh và Đấng Cứu Độ. Vì thế, nếu thánh nhân cũng như các bạn đồng môn đã không thể nào nín lặng, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người.
- Chúng tôi cùng Chúa Thánh Thần xin làm chứng
Thánh Phê-rô biết rằng lời chứng của mình có thể bị bác bỏ. Luật Do thái đòi hỏi việc xét xử chỉ có giá trị nếu căn cứ ít nhất trên hai nhân chứng (Đnl 17: 6). Chứng nhân thứ hai mà vị Tông Đồ viện dẫn, quả thật bất ngờ, là Chúa Thánh Thần: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người” (5: 33).
Cũng vẫn ở nơi Thiên Chúa mà thánh Phê-rô quy giá trị những lời nói được Thánh Thần linh hứng cho mình. Như vậy, thánh nhân kết thúc bài diễn từ của mình với cùng viễn cảnh như thánh nhân đã bắt đầu: “Vâng phục Thiên Chúa” (5: 29 và 32).
Qua bài diễn từ này và những bài diễn từ khác nữa của thánh Phê-rô (tổng cộng là năm bài diễn từ), thánh Lu-ca cho chúng ta biết những đề tài cốt yếu của giáo lý tiên khởi; vào lúc đó, giáo lý này chỉ ngỏ lời với các thính giả Do thái.
Thượng Hội Đồng lại miển cưỡng thả các Tông Đồ. Quả thật, vào gần cuối của đoạn trích này, thánh Lu-ca đặt ông Ga-ma-li-ên, một người Pha-ri-sêu, đồng thời một kinh sư đáng kính có khuynh hướng cởi mở, lên tiếng bênh vực cho các Tông Đồ. Như vậy, ngay ở giữa lòng Thượng Hội Đồng xảy ra những căng thẳng nội bộ. Những đối thủ hung dữ nhất của các Tông Đồ không là những người Pha-ri-sêu (thánh Lu-ca đã không nêu tên họ trong suốt bài tường thuật Thương Khó), nhưng giới giáo sĩ, đặc biệt nhà Kha-nan (“vị thượng tế cùng những người thân cận”).
Tuy nhiên, các Tông Đồ, trước khi được thả ra, phải bị đánh đòn theo luật Mô-sê cho là có tội, và chỉ được phép đánh không quá bốn mươi đòn, “sợ rằng đánh thêm sẽ bị trọng thương, và người anh em của anh em sẽ bị nhục trước mặt anh em” (Đnl 25: 2-3).
- Niềm vui của những người bị khổ nhục vì danh Đức Giê-su
Dù bị đánh đòn, “các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”. Chúa Giê-su đã nói trước với các ông: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5: 11-12). Thánh Phê-rô, khi viết cho các cộng đoàn Ki-tô hữu bị bách hại, cũng phát biểu như vậy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu” (1Pr 4: 13).
BÀI ĐỌC II (Kh 5: 11-14)
Sách Khải Huyền được chi phối bởi hai thị kiến khai mạc. Chúng ta đã đọc thị kiến thứ nhất vào Chúa Nhật trước. Thị kiến thứ hai giới thiệu phần chính yếu thứ hai sách Khải Huyền. Thị kiến này bao gồm các chương 4 và 5 và được chia thành hai phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất mô tả một lễ nghi hùng vĩ tôn thờ Thiên Chúa cực thánh, Đấng Sáng Tạo muôn loài muôn vật, và phân đoạn thứ hai là một phụng vụ trang trọng tôn vinh Con Chiên chịu sát tế. Bản văn của chúng ta được trích dẫn từ phân đoạn thứ hai này.
- Đức Ki-tô, Con Chiên chịu sát tế
Trong sách Khải Huyền, đây là lần đầu tiên Đức Ki-tô được gọi là Con Chiên và Con Chiên chịu sát tế. Danh xưng này từ nay sẽ ngự trị toàn bộ sách Khải Huyền. Tước hiệu này mang đậm nét truyền thống Gioan. Trong Tin Mừng Thứ Tư, thánh Gioan Tẩy Giả chứng nhận Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 36); cũng trong Tin Mừng Thứ Tư, Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho người Do thái đóng đinh vào thập giá “hôm ấy vào ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 18: 14), đúng vào giờ trong sân Đền Thờ người ta sát tế những con chiên dành cho bữa ăn Vượt Qua.
Hình ảnh con chiên ẩn hiện trong tư tưởng của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, khi ông gợi lên Người Tôi Trung bị đem đi giết “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53). Ngược dòng lịch sử, sách Xuất Hành tường thuật máu chiên vượt qua đã bảo vệ dân Do thái khỏi chết như thế nào khi họ bôi máu con chiên trên khung cửa nhà mình (Xh 12: 7-13).
Trong thị kiến của mình, tác giả sách Khải Huyền xác định rằng ông thấy “con chiên đã bị sát tế”, nghĩa là được ghi dấu bởi những vết thương hy tế. Trong vinh quang của mình, Chúa Ki-tô muôn đời mang lấy những dấu tích cuộc Tử Nạn của mình mà giá trị của chúng không bao giờ phai nhạt. Chính ở nơi Con Chiên này mà muôn vàn thiên thần và muôn vị chư thánh dâng lời tôn vinh chúc tụng.
- Lời chúc tụng của các thiên thần và con số 7
Muôn vàn thiên thần đứng chầu chung quanh ngai. Ngai chỉ Thiên Chúa, Đấng không bao giờ được miêu tả, ngoại trừ qua những ám chỉ đến ánh sáng huy hoàng nhiệm mầu của Ngài, được sánh ví với những viên đá quý lung linh rực rỡ. Ấy vậy, ở đây, ngai cũng chỉ Con Chiên, cách thức công bố thần tính của Chúa Giê-su.
Các thiên thần tán dương Con Chiên qua bảy phẩm tính: “Con Chiên đã bị giết quả xứng đáng lãnh nhận phú quý và quyền năng, khôn ngoan và uy lực, danh dự với vinh quang, cùng muôn lời chúc tụng!”. Bảy là con số chỉ sự viên mãn. Xa hơn một chút, chúng ta gặp lại lời chúc tụng khác cũng về bảy phẩm tính, mà cộng đoàn được tuyển chọn dâng lên cho chính Thiên Chúa: “A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!” (7: 12). Nếu Con Chiên đón nhận cùng một phụng thờ như thế, đó là một cách thức mới khẳng định thần tính của Ngài.
Cả triều thần thánh trên trời đều tán dương Con Chiên, như thế khẳng định thần học của thánh Phao-lô và thần học của tác giả thư gởi tín hữu Do thái: Chúa Ki-tô đã được đặt trên các thiên thần (x. Ep 1: 21; Dt 1: 4-14).
- Lời chúc tụng của các Con Vật, các Kỳ Mục và con số 4
Chung quanh ngai có các Con Vật và các Kỳ Mục. Các Con Vật và các Kỳ Mục này đã được nêu lên và đã được mô tả trước đây. Các Con Vật được biểu tượng bởi con số bốn, con số có nghĩa hoàn vũ (“bốn phương”). Chúng được mô tả có cánh, giống như con vật hay con người (4: 7), gần với bốn con vật có hình thù kỳ lạ nâng đỡ ngai Thiên Chúa trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 1: 18). Ở đây, chúng đại diện vũ trụ.
Các Kỳ Mục có tất cả là hai mươi bốn vị. Họ biểu thị mười hai chi tộc Ít-ra-en và mười hai Tông Đồ, tức là vừa Giao Ước Cũ vừa Giao Ước Mới; như vậy, hai mươi bốn Kỳ Mục ngụ ý rằng chỉ có một Giao Ước duy nhất. Dù thế nào, họ thuộc về nhân loại và đã đóng vài trò của những người thờ phượng trong phụng vụ trước đó: mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên (4: 10-11). Họ cũng tôn thờ Con Chiên: “Các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy”.
- Lời chúc tụng của muôn loài thọ tạo và con số 4
Muôn loài thọ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tung hô Con Chiên. Vũ trụ được chỉ rõ bởi bốn miền. Bài thánh thi tung hô Con Chiên với bốn phẩm tính: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!”.
- Mầu nhiệm vượt qua
Con Chiên được tôn thờ, tán dương, chúc tụng vì nó đã được sát tế. Tất cả mầu nhiệm Vượt Qua được tiềm ẩn ở nơi khía cạnh hy tế và cứu chuộc, rồi đến vinh quang, vinh quang mà Chúa Giê-su đã xin Cha Ngài trong lời cầu nguyện hiến tế của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha : xin ban cho Con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).
- Sứ điệp
Ngoài phụng vụ tôn vinh Con Chiên – phản ảnh nào đó cuộc sống phụng vụ Giáo Hội – nổi bật sứ điệp then chốt của sách Khải Huyền: những người Ki-tô hữu bị bách hại, dẫn đến cuộc tử đạo, chính họ là những con chiên bị sát tế, “bị đem đi làm thịt”; họ theo bước chân của Chúa Ki-tô; họ dự phần vào vận mệnh và vinh quang của Ngài. Lời hứa đã được ban cho họ một cách long trọng: “Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngự bên Cha Ta trên ngai của Người” (3: 21).
TIN MỪNG (Ga 21: 1-19)
Chương 21 Tin Mừng Gioan là phần phụ chương. Tác phẩm đã đóng lại rồi ở 20: 30-31: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người”. Chung chung, người ta nghĩ rằng phần phụ chương này đã được thêm vào, hoặc bởi chính tác giả hay bởi một trong các môn đệ của ông.
Dù thế nào, người ta nhận ra ở đây văn phong của Gioan: những thực tại được mô tả chất nặng những dấu chỉ đến mức chúng ban cho câu chuyện nghĩa thứ hai, tròn đầy hơn nghĩa của từ ngữ. Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài trình thuật, nhưng có chung một đề tài: quyền lãnh đạo tối thượng của thánh Phê-rô trên Giáo Hội truyền giáo (21: 1-14) và quyền mục tử tối cao của thánh nhân trên toàn thể đoàn chiên của Chúa Giê-su (21: 15-19).
- Quyền lãnh đạo tối thượng của thánh Phê-rô trên Giáo Hội truyền giáo (21: 1-14)
A- Cuộc hội ngộ bên biển hồ Ti-bê-ri-a miền Ga-li-lê
Sau những cuộc gặp gỡ ban đầu với Đấng Phục Sinh ở Giê-ru-sa-lem, các Tông Đồ trở về Ga-li-lê. Về điểm này, thánh Gioan đồng thuận với thánh Mát-thêu. Theo thánh Mát-thêu, vào lúc trên đường đến đồi Ô-liu, sau Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mt 26: 31-32). Thiên sứ đã lập lại sứ điệp này cho những người phụ nữ đến mồ: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (Mt 28: 6-7).
Theo Tin Mừng Gioan, không phải tất cả các Tông Đồ đều có mặt ở đó, nhưng chỉ có bảy người, con số chỉ sự viên mãn, và tất cả họ đều lên thuyền, thuyền của thánh Phê-rô. Người ta nhận ra rồi ở nơi tình tiết này ý nghĩa Giáo Hội. Cũng giống như mẻ lưới cá lạ lùng thứ nhất được thánh Lu-ca tường thuật (Lc 5: 1-11), “Đêm ấy không bắt được gì cả”. Ấy vậy, những mẻ lưới ban đêm, theo kinh nghiệm nghề nghiệp, được xem là những mẻ lưới đánh nhiều cá hơn những mẻ lưới ban ngày.
B- Chúa Giê-su Phục Sinh ở trên bờ
“Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển” như một khách vãng lai vui miệng hỏi thăm công việc của các ngư phủ như thế nào. Họ trả lời là chẳng bắt được gì cả. Vâng theo lời chỉ dẫn của Ngài “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được nhiều cá”, họ đánh bắt được một mẻ lưới đầy những cá. “Người môn đệ Chúa yêu” nhận ra ngay chính Chúa đó. Trong Tin Mừng Gioan, độ nhạy bén của con tim luôn luôn trổi vượt hơn sự suy luận của lý trí. Tuy nhiên, thánh Phê-rô là người phản ứng trước tiên: không đợi thuyền cập bến, thánh nhân lao mình xuống nước đến gặp Thầy.
Thánh Lu-ca tường thuật mẻ lưới cá lạ lùng được định vị vào lúc Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ đầu tiên, theo đó Đức Giê-su đã ở trong thuyền với các môn đệ của Ngài (Lc 5: 1-7). Thánh Gioan cũng tường thuật mẻ lưới cá lạ lùng, nhưng được định vị sau biến cố Phục Sinh, theo đó Đức Giê-su Phục Sinh không còn ở trên thuyền với các môn đệ, nhưng ở bên bờ cuộc sống đời đời của Ngài. Chỉ một mình các môn đệ của Ngài trên biển, theo truyền thống được xem như nơi trú ngụ của những quyền lực sự dữ. Tuy nhiên, Đức Giê-su vẫn tiếp tục quan tâm đến công việc của họ và hướng dẫn họ. Chính nhờ sự can thiệp của Ngài mà công việc của họ đâm hoa kết trái. Rõ ràng, con thuyền giữa sóng nước mênh mông là biểu tượng của Giáo Hội giữa trần thế. Và công việc đánh cá của các ông được Chúa Giê-su xác định với thánh Phê-rô ngay từ mẻ lưới cá lạ lùng đầu tiên: “Từ nay anh sẽ là người chài lưới người” (Lc 5: 10).
C- Riêng một mình thánh Phê-rô
Thánh Phê-rô một mình bơi vào bờ, trong khi các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá. Khi Chúa Giê-su bảo các ông đem ít cá mới vừa mới đánh bắt được đến đây, thì chỉ mình thánh Phê-rô lại xuống thuyền, rồi kéo lưới đầy cá lớn lên bờ, công việc vượt quá sức của một người, và lưới dù đầy cá đến thế mà không bị rách (21: 11). Chính nơi thánh Phê-rô mà Chúa Giê-su trao phó trách nhiệm hàng đầu đối với Giáo Hội truyền giáo của Ngài; chính thánh nhân phải dẫn đến với Chúa những ai mà sứ mạng truyền giáo đã thu phục được và chính ở nơi thánh nhân mà Ngài ủy nhiệm bổn phận ân cần săn sóc để không có bất kỳ một ai phải bị mất đi. Thời điểm được xác định ngay từ đầu câu chuyện: “trời đã sáng”, hình ảnh rất tâm đắc của thánh Gioan, đây là thời điểm ánh sáng, thời điểm cứu độ.
Còn con số “một trăm năm mươi ba con” được thánh Giê-rô-ni-mô giải thích theo đó vào thời của thánh nhân, các nhà động vật học liệt kê được một trăm năm mươi ba loài cá. Như vậy, qua con số biểu tượng này, tác giả ám chỉ đến công việc truyền giáo các Tông Đồ sẽ thực hiện theo lệnh của Đức Ki-tô dưới sự hướng dẫn của thánh Phê-rô, đồng thời tác giả cũng tiên báo công trình ấy sẽ đem muôn dân muôn nước về với Đức Ki-tô.
D- Bữa ăn của Chúa
Biết các môn đệ vất vả suốt đêm trong cái lạnh của nước và gió, Đức Giê-su chuẩn bị sẵn cho các ông một bếp than hồng để sưởi ấm và một bữa ăn để no lòng. Tất cả đã sẵn sàng: “Anh em đến mà ăn”. Bữa ăn gồm bánh và cá, hai yếu tố này xem ra không phù hợp với bàn tiệc Thánh Thể, tuy nhiên biểu thức: “Đức Giê-su cầm lấy bánh và trao cho các môn đệ ăn” rõ ràng là biểu thức của bàn tiệc Thánh Thể. Hơn nữa vào thời Giáo Hội tiên khởi “bánh” và “cá” biểu tượng Thánh Thể, như được thấy trong phép lạ “Bánh và Cá hóa nhiều” được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại như tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể.
“Mẻ cá lạ lùng” và “bữa ăn của Chúa” diễn tả hai khía cạnh bất khả phân của thực tại Giáo Hội: hoạt động truyền giáo và bàn tiệc Thánh Thể. Giáo Hội được mời gọi nối tiếp sứ mạng của Đức Giê-su, loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Đây là một công việc đòi hỏi nhiều gian nan vất vả như cuộc đời cứu thế của Đức Giê-su đã cho thấy. Chính vì thế, Chúa Giê-su đã dọn sẵn cho các môn đệ của Ngài bữa ăn của Ngài để sưởi ấm lòng mến của các ông và nuôi dưỡng đức tin kiên vững của các ông trong sứ mạng.
2- Quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô trên toàn thể đoàn chiên của Chúa Giê-su (21: 15-19)
A- Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su Phục Sinh với thánh Phê-rô
Sau đó diễn ra một cuộc đối thoại thật cảm động giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô. Chúa Giê-su long trọng hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Này anh Si-mon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”, và cả ba lần thánh nhân đều khẳng định là mình yêu mến Thầy.
Ngoài ra, có một sắc thái ngữ nghĩa rất tinh tế giữa hai động từ Hy lạp: “agapaô”: diễn tả một tình yêu cho đến mức sẵn sàng chết cho người mình yêu, và “phileô”: diễn tả tình bằng hữu. Trong hai lần đầu, Chúa Giê-su hỏi thánh nhân với động từ “agapaô”, nghĩa là Ngài đòi hỏi thánh nhân yêu mến Ngài đến mức dám chết cho Ngài. Tuy nhiên, cả ba lần thánh nhân điều trả lời cho Thầy với cùng một động từ “phileô”, nghĩa là, từ kinh nghiệm mình đã chối Thầy ba lần, thánh nhân không dám hứa với Thầy rằng thánh nhân yêu mến Thầy theo cùng mức độ tình yêu tận mức mà động từ “agapaô” đòi hỏi, nhưng chỉ theo tầm mức mà động từ “phileô” diễn tả. Vì thế, đến lần thứ ba, một cách tế nhị, Chúa Giê-su hạ mức độ lòng yêu mến của thánh nhân đối với Ngài xuống cho ngang tầm với yêu cầu của thánh nhân khi hỏi thánh nhân với động từ “phileô”. Chính với câu hỏi lần thứ ba này, thánh nhân buồn vì mình không thể đáp trả lòng mến của mình đối với Thầy trên cùng mức độ “agapaô” như Chúa muốn: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”.
B- Các bản văn Tin Mừng nói đến quyền tối thượng của thánh Phê-rô
Trong các sách Tin Mừng, chúng ta có đến ba bản văn thiết lập quyền tối thượng của thánh Phê-rô: Mt 16: 13-19, Lc 22: 31-34 và Ga 21: 15-17. Không là một nhưng cả ba bản văn bổ túc cho nhau thắp sáng dung mạo tuyệt đẹp của vị lãnh đạo Giáo Hội của Chúa Giê-su.
Theo bản văn Mt 16: 13-19, Đức Giê-su đã long trọng tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo tối thượng của Giáo Hội Ngài căn cứ trên niềm tin của thánh Tông Đồ. Sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô ở Xê-da-rê: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, Chúa Giê-su đã long trọng công bố thánh nhân là đá tảng trên đó Ngài sẽ xây Giáo Hội của Ngài cách vững chắc, ngay cả thế lực sự dữ cũng không thể nào làm lay chuyển được.
Theo bản văn Lc 22: 31-34, sau khi báo trước thánh nhân sẽ chối Thầy và các ông sẽ bỏ rơi Thầy trong cuộc thương khó của Thầy, Chúa Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Thầy cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em mình nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Thánh Phê-rô ý thức hơn ai hết về sự yếu đuối ngay chính trong bản thân mình: đã ba lần mình đã chối Thầy, và thánh nhân có kinh nghiệm sâu xa hơn ai hết về sự yêu thương tha thứ vô bờ của Thầy. Từ đó, thánh nhân phải thông cảm những yếu đuối của anh em mình và ra sức nâng đỡ niềm tin của anh em mình.
Theo bản văn Ga 21: 15-17, Đức Giê-su Phục Sinh thiết lập quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô căn cứ trên “tình yêu”. Cho đến lúc đó, Chúa Giê-su đã cho thánh nhân thấy rằng Ngài đã yêu mến Giáo Hội Ngài và toàn thể nhân loại đến mức hy sinh mạng sống mình. Chính trên cùng mức độ tình yêu như thế mà Ngài đòi hỏi thánh Phê-rô phải có khi đặt thánh nhân làm “mục tử chăm sóc đoàn chiên của Ngài”, như Ngài đã phác họa ở nơi dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành”: quyết tâm bảo vệ đoàn chiên cho dù phải hy sinh mạng sống mình để “chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10). Chính đó cũng là tiêu chuẩn để nhận dạng người mục tử đích thật với kẻ chăn chiên thuê (Ga 10: 11-15).
Như vậy, trong bản văn Gioan này, điều quan trọng không chỉ ghi nhận quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô, nhưng còn cả tấm lòng yêu thương của Chúa Giê-su dành cho đoàn chiên của Ngài nữa. Trước khi trao gởi đến ba lần đoàn chiên của Ngài cho thánh Phê-rô chăn dắt, Chúa Giê-su đã hỏi thánh nhân cũng đến ba lần có yêu mến Ngài không. Như vậy, tấm lòng của thánh nhân dành cho Đức Giê-su như thế nào, thì tấm lòng của thánh nhân đối với đoàn chiên của Ngài cũng phải như vậy. Nói cách khác, chính qua cách thức người mục tử cư xử với đoàn chiên của Đức Giê-su như thế nào, người ta đo lường được lòng yêu mến của người mục tử ấy đối với Đức Ki-tô cũng như vậy.
Vì thế, trong phần kết (21: 18-19), Chúa Giê-su cho thánh nhân hiểu rằng với tư cách Mục Tử tối cao, thánh nhân sẽ hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên như Ngài: “Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào đẻ tôn vinh Thiên Chúa”. Cuối cùng, Chúa Giê-su mời gọi thánh nhân “Hãy theo Thầy” trên cùng một con đường yêu thương vô bờ dành cho đoàn chiên như Ngài. Như vậy, trong cuộc đối thoại, khi ý thức thân phận yếu đuối của mình, thánh nhân không dám đáp trả bằng một tình yêu tròn đầy như Chúa muốn; nhưng trong khi thi hành sứ vụ mục tử, thánh nhân đã đi cho đến cùng tình yêu bằng cuộc tử đạo của mình.
Trước khi chấm dứt bài suy niệm này, chúng ta đừng quên rằng chính Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đương nhiệm đã chọn đoạn Tin Mừng Gioan này trong ngày lễ đăng quang của mình nhân dịp lễ thánh Giu-se. Trong bài giảng vào ngày lễ đăng quang của ngài, được xem như định hướng toàn bộ hoạt động mục vụ của tân Giáo Hoàng, chính dựa trên đoạn Tin Mừng Gioan này mà Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã phác họa chân dung thật đẹp của vị Mục Tử tối cao như sau: “Ngày nay, cùng với lễ Thánh Giuse, chúng ta cử hành khởi đầu sứ vụ của tân Giám Mục Roma, người Kế Vị Thánh Phêrô, cũng bao gồm cả quyền bính. Dĩ nhiên Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì thế? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có ba lời mời gọi: hãy chăn dắt các chiên con, hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải nhìn đến sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, đầy đức tin, của thánh Giuse và như thánh nhân, mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và yêu thương, dịu dàng, đón nhận toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Matthêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức ái: những người đói, khát, ngoại kiều, người trần trụi, bệnh nhân, tù nhân (x. Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết giữ gìn!”.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mời gọi tất cả mọi người: “Giữ gìn Chúa Giêsu với Mẹ Maria, giữ gìn toàn thể công trình sáng tạo, giữ gìn mỗi người, đặc biệt là người nghèo nhất, giữ gìn chính chúng ta; đó là một công tác phục vụ mà Giám Mục Roma được kêu gọi chu toàn, nhưng đó cũng là ơn gọi mà tất cả chúng ta được mời gọi làm cho ngôi sao hy vọng được chiếu sáng rạng ngời: Chúng ta hãy gìn giữ với lòng yêu mến những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!”.
.
Trầm Thiên Thu
Lời thề là lời nói nghiêm túc để cam kết điều quan trọng nào đó. Cụ Nguyễn Du viết: “Chỉ non thề biển nặng gieo đến lời”. Có nhiều lĩnh vực cần thề hứa, đơn giản và phổ biến là tình yêu, cụ thể là lời thề hứa trong hôn nhân. Tình yêu trừu tượng và bao la, chưa ai có thể đưa ra một định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất. Người ta định-nghĩa-mà-không-định-nghĩa, và chỉ “mơ hồ” nói: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Thế nào là ít hay nhiều? Mức độ cũng vẫn trừu tượng lắm!
Trong tình yêu (nói chung, theo nghĩa rộng), người ta có thể cảm thấy hạnh phúc hoặc đau khổ, mà thường thì khổ nhiều hơn, nhưng người ta vẫn phải có trách nhiệm – dù ít hay nhiều, nhẹ hay nặng. Tình yêu thuộc lĩnh vực tình cảm, của trái tim, nhưng vẫn cần có lý trí, dù đôi khi chính lý trí cũng không thể hiểu lý lẽ của trái tim. Thế mới là tình yêu. Nhiêu khê lắm!
Cứ nói đến tình yêu là mặc nhiên đề cập trái tim, và trái tim được coi là biểu tượng của tình yêu. Trái tim là trung tâm yêu thương, nơi phân phối máu giúp cơ thể sống, trung tâm này phân phối máu, và máu liên quan tình yêu. Tình yêu đa dạng, riêng tình yêu Công giáo được mệnh danh là đức mến hoặc đức ái. Thánh Hirônimô phân tích: “Nếu ai không có đức ái thì dù có đức tin chính xác, đều không tài nào có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các đức thì đức ái chiếm hàng thứ nhất. Linh hồn không có tình yêu thì tuyệt đối không thể sống nổi, linh hồn cần có tình yêu”. Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” (1 Cr 13:13). Tất cả đều liên quan với nhau rất lô-gích.
Tình yêu có vẻ bình thường mà lại mạnh hơn Tử Thần. Sự chết so với tình yêu chân thật thì chỉ là… “chuyện nhỏ”. Mối tình “lịch sử” nổi tiếng thế giới là mối tình của Romeo và Juliet mà đại văn hào Shakespeare đã phác họa. Việt Nam cũng có chuyện tình Lan và Điệp, chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ, hoặc chuyện tình Mộng Thường. Thảo nào đại văn hào Victor Hugo đã kết luận: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Thật lạ lùng!
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các tông đồ bị bắt và bị điệu đến giữa Thượng Hội Đồng. Vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!” (Cv 5:28). Rất thản nhiên, ông Phêrô và các tông đồ khác mạnh mẽ xác định: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5:29). Một câu nói can đảm và tuyệt vời, Phêrô hôm nay chứ không còn là Phêrô hôm qua nữa. Một con người nhưng hai phong cách khác nhau hoàn toàn. Mới khác cũ – mới lạ chứ không cũ rích nữa.
Còn hơn thế, hôm đó ông Phêrô đã hùng hồn nói thẳng thắn: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 5:30-32). Một Phêrô mạnh mẽ của ngày hôm nay chứ không còn là một Phêrô yếu đuối của ngày hôm qua nữa. Tuyệt vời!
Họ cấm nói tới danh Giêsu mà cứ nói thì họ chẳng để yên. Y như rằng, các tông đồ bị họ đánh đòn rồi được thả. Tuy nhiên, khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5:41). Yêu như điếu đổ, yêu hết cỡ thợ mọc, yêu như điên, càng khổ càng thú vị. Trong xã hội đời thường, người ta gọi đó là “thú đau thương”. Lĩnh vực tâm linh cũng tương tự, vì cảm nhận được lòng thương xót của Chúa rồi nên các ông không thể làm trái với tiếng gọi của con tim – mãnh lực tình yêu đâu dễ gì cưỡng lại.
Biết là đúng thì không thể không tin, tin rồi thì không thể im lặng. Thánh Vịnh gia tuyên xưng: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2). Không sợ bị thua thiệt.
Quả thật là thế, rạch ròi là “từ âm phủ Ngài đã kéo lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30:4). Do đó, Thánh Vịnh gia muốn chia sẻ bằng cách mời gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 5:5-6). Có quan tâm mới góp ý chân thành, dù lời thật làm mất lòng, như tục ngữ Việt Nam nói: “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi”. Yêu thương thật khác với yêu thương giả tạo, thời gian sẽ cho biết thật – giả.
Chân thành tin mến, chúng ta hãy thành tâm cầu nguyện và tuyên xưng: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30:11-13).
Kể lại thị kiến, Thánh Gioan cho biết: Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh 5:12). Con Chiên Giêsu đã chịu đau khổ đến tột cùng nên Ngài xứng đáng lãnh nhận những gì xứng đáng nhất. Ai yêu nhiều thì được thương nhiều, ai khổ luyện thì thành tài, ai lao nhọc thì được thưởng công. Đó là công lý, công minh và chính trực. Thiên Chúa luôn công bằng, chẳng thiên vị bất kỳ ai (Đnl 10:17-18; Hc 35:12; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9).
Và rồi Thánh Gioan cho biết thêm: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5:13). Cả bốn Con Vật thưa: “Amen”. Và rồi các Kỳ Mục cùng phủ phục xuống thờ lạy. Mọi loài đều tâm phục khẩu phục mà thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, vì mọi loài tin thật và yêu mến.
Trình thuật Ga 21:1-19 đề cập hai điều quan trọng: mẻ cá kỳ lạ và việc trao quyền cho “ngư phủ” Phêrô – giáo hoàng tiên khởi.
Một hôm, tại Biển Hồ Tibêria, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ. Cách Ngài tỏ mình ra như thế này: Ông Simôn Phêrô, ông Tôma – Điđymô, ông Nathanaen – người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Vốn năng động và bộc trực, ông Simôn Phêrô không thể ngồi yên nên nói: “Tôi đi đánh cá đây”. Có lẽ ngồi không cũng buồn, thế nên các ông khác muốn đi cùng. Rồi mọi người cùng lên thuyền, nhưng suốt đêm hôm đó họ không bắt được gì cả. Mệt mỏi mà lưới trống, thuyền không.
Đến sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?”. Các ông trả lời: “Thưa không”. Ngài bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Dù chưa nhận ra đó là Sư Phụ Giêsu, nhưng các ông vẫn thả lưới xuống, và rồi họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Lạ thật, Phêrô kinh nghiệm đánh cá bao năm mà cũng phải khâm phục.
Ngay lúc đó, người-môn-đệ-được-Đức-Giêsu-thương-mến nói nhỏ với ông Phêrô: “Chúa đó!”. Ôi chao! Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Simôn Phêrô giật mình và vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi ông liền nhảy ùm xuống biển. Ngại quá đi! Nhưng bản tính Phêrô là thế, nóng nảy mà thật thà, có gì nói thẳng, chẳng úp mở chi cả, và muốn làm gì thì làm ngay, làm cho bằng được. Thấy anh Hai Phêrô làm vậy, các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. Quá đã luôn!
Vừa lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo họ đem ít cá mới bắt được tới. Ông Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!”. Trong lúc các ông gom cá thì Thầy Giêsu nướng cá, xong việc là có cái ăn ngay. Thầy chu đáo quá. Bữa điểm tâm sáng hôm đó chắc chắn ngon hơn mọi ngày khác. Lúc này các ông biết rõ đích thực là Thầy Giêsu rồi. Ngài đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy. Và đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Mọi người đã ăn xong, giây phút quan trọng bắt đầu. Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Có lẽ ánh mắt Chúa Giêsu lúc đó âu yếm lắm. Ông đáp ngay: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ngài nói với ông: “Hãy chăm sóc CHIÊN CON của Thầy”. Rồi Ngài lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”. Ông cũng nói ngay: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ngài nói: “Hãy chăn dắt CHIÊN của Thầy”.
Sau đó, Ngài hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”. Ông Phêrô… gãi đầu. Hôm nay sao Thầy kỳ ghê, hỏi hoài! Ông buồn vì Ngài hỏi tới ba lần. Và ông vẫn xác quyết: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc CHIÊN của Thầy”. Rồi Ngài nói thêm với ông: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”.
Theo Thánh Gioan, ý Ngài nói vậy là ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Nghĩa là Thánh Phêrô cũng bị đóng đinh vào thập giá y như Thầy, nhưng cảm thấy bất xứng nên ông xin được đóng đinh ngược đầu xuống đất. Vậy là ông đã trung tín với lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy theo Thầy” (Ga 21:19). Ba lần chối bỏ được “đền tội” bằng ba lần tuyên tín, và Phêrô đã trung thành thới hơi thở cuối cùng, trọn lời thề với Đức Giêsu Kitô.
Theo cách nói của Người Việt là “quá tam ba bận”. Có sự trùng hợp thú vị: Chúa Giêsu cũng muốn ông Phêrô xác nhận ba lần, không phải Ngài ép buộc, mà Ngài muốn người ta hoàn toàn tự do mà tình nguyện theo Ngài. Đó cũng là lời Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta hằng ngày, và Ngài muốn chúng ta trả lời thật lòng chứ không khiên cưỡng. Hoàn toàn tự do. Tự bản chất, tình yêu có sức mạnh phi thường, một khi đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thì khó có ai khả dĩ cưỡng lại mãnh lực này. Và khi đó, người ta không ngần ngại thề nguyền và cố gắng giữ trọn.
Lời thề có thể là công khai hoặc thầm kín, chung hoặc riêng. Mỗi Kitô hữu cũng đã thề hứa với Thiên Chúa khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy: tin kính một Thiên Chúa, và từ bỏ mọi hoạt động của ma quỷ.
Nói về tình yêu có nhiều cách, mỗi vị thánh cũng có cách cảm nhận khác nhau: “Yêu là chiến thắng Thiên Chúa” (Thánh Bênađô), “Thiên Chúa dùng tình yêu thánh thiện để cứu chuộc loài người chúng ta, đến nỗi vì chúng ta mà hy sinh mạng sống của mình. Như vậy, mặc dù chúng ta hết lòng yêu Ngài thì cũng không đủ để báo đáp tình yêu của Ngài” (Thánh Phanxicô Salê), “Chúa Giêsu là nguyên nhân của tình yêu đến cuồng nhiệt” (Thánh Madeleine Barat), “Có tình yêu thì không có nhọc nhằn; cho dù có nhọc nhằn thì nhọc nhằn này cũng bị tình yêu hóa lỏng” (Thánh Augustinô), “Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” (Thánh Phanxicô Assisi), “Ái tình là đao kiếm của chúng ta, dùng nó để trừ ma giết địch, để cho Vua Giêsu ngự trị trong lòng mọi người” (Thánh Terese Hài Đồng Giêsu), “Tình yêu là sợi dây đoàn kết mọi chi thể của Giáo Hội, không chỉ là đối với người hàng xóm còn sống, mà còn mở rộng ra đến cả những người chết trong ân sủng và tình yêu” (Thánh Tôma Aquinô), “Không có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy” (Thánh Inhaxiô Lôyôla). Mỗi người mỗi vẻ, như hoa muôn sắc màu, cách diễn tả tình yêu cũng rất đa dạng… Nhưng tất cả đều đồng quy về một lời thề hứa: mến Chúa và yêu người suốt đời.
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu Vĩnh Hằng, Đấng giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết chân thành thể hiện yêu thương như Đấng Phục Sinh. Nguyện xin Tình Yêu Đức Kitô thúc bách và biến đổi tất cả chúng con hành động nhờ tác động của Thánh Thần Thiên Chúa, và giúp chúng con trung thành giữ lời hứa với Ngài cho đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Ra biển khơi đánh bắt cá, ra biển để thư giãn vào dịp lễ nghỉ, mùa hè oi bức, nhưng chắc không ai ra biển chỉ nhằm đốt thời gian, hy vọng gặp người thân quen chia vui giải sầu ! Đồng ý rằng, hành trình đời người ai cũng vất vả, phải nhẫn nại, cố gắng, để mong có cuộc sống ổn định nhất. Việc ra khơi bắt cá của các môn đệ có phải là giải toả căng thẳng, là muốn sống lại “cái nghiệp” chài lưới ? Vất vả cả đêm không bắt được cá, là thiếu may mắn, hay lụt nghề vì đã lâu ngày theo Thầy Giêsu học chuyên môn khác ? Đấng phục sinh dõi theo các học trò đi biển bắt cá, phải chăng Ngài đã cho các ông hiểu: không nên ra khơi trong tâm trạng vui buồn, các ông không thể mang lại thành quả nếu chỉ cậy vào tài sức của mình. Ra khơi có phải là bước khởi đầu cho hành trình đời người không ? Sứ mạng tông đồ là “lưới người” hay lưới cá, dù phía trước còn nhiều ngao ngán khiếp sợ, hãy tin Thầy, chớ thấy sóng mà ngã tay chèo.
Xét theo phương diện chuyên môn, dân chài lưới mà vất vả cả đêm không bắt được con cá nào, quả là khó hiểu, đã vậy, người khách lạ trên bờ là ai, vì cớ gì ông hỏi: “anh em có gì ăn không ? Nói theo ngôn ngữ “thể thao”, những con người đầy ưu tư hôm đó đã gặt hái được niềm vui chiến thắng ở phút 89, khi nhận tín hiệu: “hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Vì chưng, sống ở đời thiếu chí khí trong công việc, suy sụp khi gặp thất bại, buông thả, mặc kệ ai có thân người ấy lo, đâu phải là chuyện khó hiểu ! Hành trình ra khơi bắt cá của những kẻ chài lưới hôm đó có tình anh em huynh đệ theo cùng ; đúng, người ta chỉ có thể lấy tình yêu thương để đo chiều dài, chiều rộng, và độ nông sâu khi tin theo Đức Kitô là Thầy là Chúa.
Mẻ cá lạ lùng, hẳn đã mở ra cho các học trò và cho chúng ta hôm nay: hành trình ra khơi của người môn đệ chỉ có kết quả khi Đấng phục sinh ở cùng. Ngày hôm nay, có phải ai cũng có cơ hội ra khơi thả lưới ? Thưa, hiểu theo nghĩa đen, mọi người đều phải lao động, làm việc, không thể sống dựa, sống bám vào người khác. Hiểu theo nghĩa bóng, tất cả dù là linh mục tu sĩ, dù là tín hữu bình thường, đều có cơ hội ra khơi thả lưới, có nghĩa vụ làm chứng nhân đức tin về Đấng phục sinh. Hành trình ra khơi của mỗi chúng ta có thể khác nhau, nhiều năng lực hay bất tài, nhất định phải ở trong tình yêu của Đấng phục sinh, mới sinh hoa kết quả tốt đẹp. Mẻ cá lạ lùng, cũng là lúc các môn đệ nhận biết Chúa, hiểu biết Chúa luôn đồng hành, và phép lạ của Chúa có thể can thiệp bất cứ lúc nào, nếu đặt tình yêu vào Chúa, sống niềm tin tuyệt đối vào Chúa.
Tin Chúa phục sinh luôn ở cùng giáo hội, ở cùng tâm hồn mỗi người là cần thiết, nhưng tin Chúa đang ở trong anh chị em mình, và chúng ta có bổn phận giúp đỡ nhau gặp Chúa, đó là một hành trình dài. Yêu Chúa, gặp Chúa, hiểu biết ý Chúa, nhận ra Chúa nơi anh chị em mình không hề dễ, nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào sức mình, kết quả có được chỉ là cực nhọc, vất vả vô ích mà thôi. Đồng ý rằng, gian nan thất bại, nơi cuộc sống là bình thường như tiền nhân chúng ta có nói: cơm sôi cả lửa thì khê, việc làm hay hỏng là lề thế gian. Thiếu niềm tin, thiếu tình yêu, cuộc sống còn có ý nghĩa gì, khi mà nhiều tiền lắm của không biết sử dụng, khi mà cuộc sống chỉ là nghi ngờ, cô đơn ! Mỗi chúng ta được Đấng phục sinh xác thực một lần qua Bí-tích rửa tội là đủ, tình yêu của Đấng phục sinh có ở mãi trong ta, mẻ cá lạ lùng và ơn ban có sống động, phát triển, là tuỳ thuộc khi ta sống niềm tin thế nào.
Niềm vui tới do công thành danh toại, niềm vui do lắm tiền nhiều của, niềm vui vì đông con nhiều cháu, tất cả đều gọi chung là niềm vui, nhưng chắc chắn sẽ mang một giá trị hạnh phúc khác nhau. Niềm vui theo Thầy Giêsu bởi Thầy giảng giải hay, được tung hô, Thầy chữa lành được nhiều bệnh nan y, niềm vui vì mẻ cá lạ lùng, niềm vui do nhận ra Vị khách lạ chính là Chúa ; niềm vui do ý thức Đấng phục sinh sẽ ở cùng người tin Chúa, luôn cần đến sự kết hiệp cầu nguyện. Chăm chỉ lao động làm việc, sống nghiêm túc kỷ luật với bản thân đã đẹp lòng Chúa rồi, nhưng làm sao chúng ta đủ ý thức lời nói, việc làm có tình yêu Chúa và có niềm vui của Chúa, bao giờ cũng là một sứ mạng cao cả. Gặp Chúa Phục sinh, gặp anh chị em hàng ngày, luôn là một hành trình ra khơi, thành quả tốt xấu, nhiều ít, tuỳ thuộc lòng mến yêu và hiệp thông gắn bó trong tin yêu của mỗi chúng ta. Amen.
.
HƠN LÀ VÂNG LỜI NGƯỜI PHÀM
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Bị điệu ra giữa Thượng Hội Đồng, bị chất vấn rằng vì sao không chấp hành lệnh nghiêm cấm không được giảng dạy nhân danh Giêsu nữa, Phêrô và các Tông đồ đã khẳng khái trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cvtđ 5,32). Câu trả lời thật tuyệt vời. Hầu như tất cả những ai đã tin vào Thiên Chúa đều phải “tâm phục, khẩu phục” trước câu nói này.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để phân biệt đâu là lời của Thiên Chúa và đâu là lời của người phàm? Kitô hữu chúng ta vốn nhìn nhận tiếng Chúa phán qua thiên nhiên vũ trụ, qua các biến cố lịch sử, qua tiếng lương tâm. Nhưng cần thú nhận rằng các phương thức phán dạy ấy của Thiên Chúa dường như không minh nhiên rõ ràng với nhiều người. Chúng ta vốn tin nhận Lời Chúa qua Thánh Kinh, đặc biệt qua lời của Con Một Thiên Chúa nhập thể, Giêsu Kitô. Tuy nhiên cũng không dễ phân biệt đâu là cách thế trình bày của tác giả nhân loại và đâu là ý lời Thiên Chúa muốn truyền. Ngay đến các tông đồ là những người trực tiếp tai nghe lời Đấng Cứu Thế mà vẫn còn nhiều điều các ngài chưa thể hiểu (x.Ga 16,12-13). Trong lịch sử đã không thiếu nhiều trường hợp lời của Thiên Chúa đã bị cắt xén hoặc bị đưa khỏi ngữ cảnh, để phục vụ cho ý, lời của phàm nhân. Ngoài ra còn cần phải kể đến nhiều lời giảng dạy của Đấng Cứu độ mà không được ghi chép trong Kinh Thánh (x.Ga 20,30-31;21,25). Đó là một trong những nội hàm mà Giáo Hội Công Giáo gọi là Thánh Truyền.
Căn cứ bài Tin Mừng thánh Gioan (Ga 21,1-19) mà Giáo Hội cho trích đọc trong Chúa Nhật III mùa Phục Sinh năm C, xin cùng nghe và có đôi suy nghĩ về những lời từ miệng của Đấng Phục Sinh. Xin được ghép những lời của Chúa Kitô trong lần tỏ mình ra trên biển hồ Tibêria thành bốn cặp lời hữu quan, mang tính biện chứng như sau:
1. “Này các anh, có gì ăn không?” – “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”.
Các anh có gì ăn không? Một lời cầu xin ư? Đúng vậy. Rất nhiều nhu cầu của tha nhân đang vọng vang bên tai chúng ta. Đó không chỉ là nhu cầu lương thực vật chất mà còn nhiều nhu cầu thiết yếu khác về tinh thần, tâm linh. Người ta không chỉ sống đúng nhân phẩm bằng cơm bánh mà còn bằng nhu cầu học hành, đi lại, nói năng, suy nghĩ, kết hội… Chắc hẳn thế nào các môn đệ cũng nhớ lại lời Thầy Chí Thánh trước đây: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9,13). Có người thầm thỉ, nói đúng hơn là than thở: “Chúa ơi, Chúa dựng nên mọi sự đều tốt đẹp, thế mà sao còn quá nhiều người đói khổ như ở Sômali, ở Haiti…còn quá nhiều người bị áp bức, chịu cảnh bất công nơi này nơi kia trên thế giới và ngay cả chung quanh con?” Chắc hẳn Chúa sẽ trả lời rằng: “Con ơi, Ta đã làm rồi đó. Ta đã dựng nên con. Đó là điều rất tốt đẹp” (x.St 1,31).
Chúng ta cũng đã từng phân trần: “Tài mọn, sức yếu như con làm sao kham nỗi? Hoàn cảnh thế sự lại quá khó khăn, Chúa biết đấy “một con én không làm nên mùa xuân”. Thế nhưng Chúa vẫn cứ gợi ý, ra lệnh hay mời gọi: “Cứ thả lưới!” Các ngư phủ lành nghề ngày xưa đã làm điều nghịch thường: thả lưới giữa ban ngày! Trước đây trên dưới ba năm Simon đã được một mẻ cá lạ lùng chất đầy hai thuyền nặng gần chìm và hôm nay ngài cùng với các bạn lại được một mẻ cá không kém: 153 con cá lớn, nghĩa là bắt gần hết cá dưới biển vì theo quan niệm thời bấy giờ thì dưới biển chỉ có 153 loại cá. Ngạn ngữ Tây: “Les paresseurs sont ceux qui toujours veulent faire quelque chose”(Những người lười biếng là những người luôn muốn làm một sự gì đó). Xin đừng mộng mơ! Xin chớ ngồi mà ước muốn suông hoặc chỉ biết chấp tay cầu nguyện! Hãy thả lưới dù trời đã sáng, nghĩa là cả lúc thế thời xem ra không thuận lợi.
2. “Anh em hãy đến mà ăn!” – “Đem ít cá mới bắt được tới đây!”
“Hãy đến mà ăn!” Lời mời gọi của Chúa Cứu Thế nhắc nhớ chúng ta rằng mọi người đều cần đến lương thực bởi trời. Mọi hiện hữu ở đời đều do bởi Thiên Chúa. Không có ơn Chúa thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt đẹp (x.Ga 15,5). Đến với Chúa để kín múc nguồn sống, để nhận lấy năng lực yêu thương, phục vụ, trao ban. Đấng Cứu Độ không muốn chúng ta đến với Người với đôi bàn tay trắng. Dù có thể làm được mọi sự, nhưng Người cũng đã từng muốn cần đến năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ (x.Mt 14,17). Hằng ngày đến với Người qua bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta đã mang gì để dâng cho Người?
3. “Con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” – “Hãy chăn dắt chiên (chiên con và chiên mẹ) của Thầy!”
Vì yêu Chúa Kitô nên chúng ta sẵn sàng đảm nhận phần việc của Người. Nhờ yêu Chúa Kitô nên chúng ta mới có khả năng chăn dắt các chiên lớn bé của Người. Không ai dại dột giao trứng cho ác. Người ta chỉ ký thác người thân yêu cho kẻ đáng tin cậy. Và người đáng tin, đáng cậy nhất đó là người yêu mến mình hết sức, hết lòng. Biết chăn dắt đàn chiên với cả tấm lòng yêu mến thì mới xứng là mục tử. Không có tình yêu thì không thể chuyên chăm dẫn đàn chiên đến đồng cỏ xanh và dòng suối mát. Không có tình yêu thì không thế can đảm chống trả sói dữ và liều mạng sống vì đàn chiên. Không có tình yêu thì chẳng thể quan tâm chăm sóc chiên gầy, chiên bệnh tật hoặc vất vả đi tìm con lạc và cả những chiên đang ở ngoài đàn.
4. “Anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” – “Hãy theo Thầy!”
Dưới đóa hoa hồng thường lấp ló những cành gai. Thập giá là hệ quả như tất yếu của tình yêu. Đường tình yêu là đường thập giá. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.”(Lc 9,23). Vấn đề đặt ra là bạn, tôi, chúng ta muốn theo ai? Đã quyết đinh theo Chúa Kitô thì không có con đường nào khác, ngoài con đường Người đã đi. Xin đừng quá chăm chú đến khúc gỗ sần sù. Đường Chúa đi là đường yêu thương. Khi đã lao mình vào biển tình yêu, hết lòng vì người mình yêu, hết tình vì người yêu mình, thì những khúc gỗ sần sù kia dù có ê vai nhưng rồi sẽ trở thành ách êm ái, gánh nhẹ nhàng. (x.Mt 11,29-30)
Có ai yêu thương chúng ta như Đấng đã phó ban Người Con Một, vì hạnh phúc chúng ta? Có ai đầy quyền uy cao cả cho bằng Đấng đã dựng nên cả đất trời và đưa chúng ta từ chốn hư vô đến hiện hữu ở đời này? Vì thế, thái độ vừa chính đáng vừa khôn ngoan và phải đạo là: “Phải vâng lời Chúa hơn là vâng lời người ta.”
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Chấp nhận tin không có nghĩa chỉ đơn thuần là chấp nhận một giáo lý, giáo điều, một mớ luật lệ, hay những nghi thức nào đó là đủ. Ngay cả khi ta chấp nhận Hội Thánh và đi theo đường lối của Hội Thánh, thì đó cũng chưa phải là điểm mấu chốt của đức tin.
Tin trước hết là hiệp thông với Chúa Kitô, là gắn bó cá nhân cách mật thiết với Chúa Kitô.
Bởi vậy, những gì ta từng sống, từng hành động cho cái gọi là con người của tôn giáo Kitô, nhưng chưa có chiều sâu bằng cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô, mà chỉ là giữ và buộc mình phải chấp nhận luật lệ, chấp nhận giáo lý, thì giờ đây, ta hãy chỉnh đốn lại, hãy làm cho tất cả những gì ta phải giữ từ trước tới nay nằm trong tương quan tình yêu Chúa Kitô.
Thánh Gioan tông đồ là người luôn có cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô dành cho mình. Chỉ một mình thánh nhân nói lên nỗi tự hào vì được Chúa yêu trong danh xưng mà thánh nhân tự nhận: “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu”.
Chính nhờ cảm nghiệm vừa cá nhân, vừa nội tâm về tình yêu của Chúa, thánh Gioan đã nhiều lần phát hiện Đấng Phục Sinh đến với mình. Chẳng hạn, ngay trong lễ Phục sinh đầu tiên, nhìn ngôi mộ trống, trước cả những phụ nữ là những người phát hiện mộ trống, trước cả thánh Phêrô, người đã vào thăm mộ trước, thánh Gioan đã tin.
Hôm nay, cũng bằng chính cảm nghiệm nội tâm về Chúa Kitô, một lần nữa, thánh Gioan cũng lại là người phát hiện ra Chúa Phục Sinh trước các anh em mình. Sau mẻ cá đầy ắp như muốn rách tung chiếc lưới, “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu” hãnh diện mà cả quyết: “Chúa đó”.
Cũng thế, không ai trong bạn và tôi lại cho rằng mình không có đức tin, không có lòng yêu mến Chúa.
Nhưng nói là nói như vậy. Hiểu là hiểu như thế. Trong thực tế của cuộc đời, không ít lần, bạn và tôi dường như chao đảo, dường như mất sức sống. Đức tin vào Chúa, lòng yêu mến Chúa của mình có lúc như bị đánh gục, như tuyệt vọng
Để khởi đầu cho việc cảm nhận cách cá vị về tình yêu của Chúa, mỗi người hãy chiêm ngắm Chúa Kitô trước đã. Hãy gắn bó với Chúa bằng những suy niệm về đời sống của chính Chúa, bằng lời dạy mà Chúa đã giảng dạy. Hãy học lấy tấm gương yêu mến Chúa của thánh Gioan tông đồ: yêu một cách cá vị bằng cảm nghiệm nội tâm và thâm sâu với Chúa Kitô.
Chỉ có thể cảm nghiệm tận hồn về tình yêu mà Chúa dành cho mình, và mình dành cho Chúa, thì từ nay tôi giữ đạo, tôi chấp nhận lề luật, tôi thực hiện các hành vi đạo đức, tôi sống tốt trong tương quan với mọi người… không chỉ vì luật của Chúa, của Hội Thánh dạy như thế, mà vì tình yêu của Chúa Kitô dành cho tôi, và của tôi đáp trả tình yêu ấy.
Vì tình yêu của Chúa Kitô và vì yêu mến Người, tôi thực hiện nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa, tôi sống lẽ sống mà đạo dạy tôi, tôi quan tâm đến nguời xung quanh… Vì Chúa Kitô, tôi chấp nhận lề luật của Thiên chúa, và chấp nhận đường lối Hội Thánh hằng chỉ dạy tôi…
Chỉ khi nào sống trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, việc giữ đạo của ta mới nhẹ nhàng. Cũng giống hai người đàn ông cùng cuốc một thửa đất, nhưng một người là tù binh bị ép buộc phải lao động, còn người kia là người cha trong gia đình.
Người cha trong gia đình vì thương vợ, thương con, ông miệt mài làm việc, dù mệt nhọc nhưng ông cảm thấy vui, cảm thấy lòng thanh thản và an ủi vì nhờ bàn tay lao động của ông, gia đình ông có thể sinh sống. Ông luôn sống trong hy vọng về một kết quả tốt sẽ đến cho tương lai của gia đình ông. Càng hy vọng, ông càng vui…
Người đàng ông là tù binh chắc chắn không bao giờ có được cảm nghiệm về niềm vui mà người cha trong gia đình có được. Bởi việc ông làm không phải là tình yêu, không phát xuất từ động cơ của lòng yêu thương mà chỉ là ép buộc, là hình phạt, là đền tội, hoàn toàn không có tự do trong lao động của ông.
Cách nào đó, giữ đạo cũng gần giống như chuyện hai người đàn ông cuốc đất. Nếu tôi yêu mến Chúa, việc thực hành đạo của tôi là niềm hạnh phúc, là nhu cầu cần đáp ứng của tình yêu, do tình yêu, phát xuất từ tình yêu đối với Thiên Chúa. Nếu không có lòng yêu mến Chúa, đức tin chỉ là một gánh nặng vô cùng.
Ta cần thay đổi tương quan giữa mình với Chúa, để đức tin của ta có một tương quan cá vị với tình yêu của Chúa. Chỉ có đức tin trong tương quan tình yêu, việc giữ đạo của ta mới là việc làm tự do, mang lại hạnh phúc, thấm đẫm yêu thương và ngày càng đi vào chiều sâu nội tâm.
Nếu ta thay đổi tương quan tình yêu với Chúa Kitô, cuộc đời ta sẽ được nâng đỡ, được ủi an. Có đức tin trong tương quan cá vị với Chúa Kitô, ta sẽ cảm nhận một điều lớn lao: Gánh nặng của sự sống mà ta phải mang gánh trong đời có Chúa cùng sớt chia với ta…, điều mà trước đây ta chưa từng nhận ra, vì trước đây, ta đã không có tương quan cá vị với Chúa…
.
JM. Lam Thy
Khi đặt tiêu đề cho bài viết (TÂM PHỤC KHẨU PHỤC), kẻ viết bài này liên tưởng tới câu nói của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” (Rm 10, 9-10). Đúng vậy, khi người ta mới chỉ nói “tin” ngoài miệng thì “lời nói theo gió bay đi mất”, mà sự tIn phục ấy cần phải xuất phát tự trong lòng, đó mới thực sự là “Tâm phục khẩu phục” ( 心 服 口 服 : phục tự đáy lòng, chứ không phải chỉ nói ngoài miệng – Từ nguyên). Chính Đức Giê-su cũng dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7, 21)
Có hai lần Đức Giê-su làm phép lạ lưới cá vào 2 dịp đặc biệt: lần thứ nhất Người làm vào thời điểm khai mạc sứ vụ, khi thu nhận 4 môn đệ đầu tiên (ông Phê-rô và người anh là ông An-rê, ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an). Vì cả 4 người đều là dân chài lưới, nên Người muốn dùng chính những dụng cụ và việc làm quen thuộc hàng ngày của các môn đệ, để các ngài được chứng kiến tận mắt Người Thầy mà mình sắp đi theo chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Đó là một cách thu phục nhân tâm cụ thể nhất, hữu hiệu nhất.
Sau bài giảng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, Đức Giê-su Ki-tô bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm” (Lc 5, 4-7). Cả 4 môn đệ và đám đông được chứng kiến tận mắt phép lạ, đều kinh ngạc và thán phục. Người bộc trực Phê-rô đã thể hiện sự tín phục như vậy khi “sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5, 8). Và vì thế, Đức Ki-tô trấn an và chính thức thu nhận các ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (trở thành những kẻ “lưới người như lưới cá” – Mt 4, 20). Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người (Lc 5, 10-11). Quả thật là “có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ” (Rm 10, 10).
Lần thứ hai sau Phục Sinh, Đức Giê-su Ki-tô lại làm phép lạ lưới cá (Bài Tin Mừng hôm nay – CN III.PS-C – Ga 21, 1-19). Lần này cũng giống như lần ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, “Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6). Cả 2 lần, các tông đồ đều có được mẻ cá lớn đến không thể tưởng tượng. Hai lần làm phép lạ với 2 mẻ cá lớn (là những con cá thực sự), Đức Giê-su Ki-tô đã làm cho các môn đệ – kể cả đám đông chứng kiến phép lạ – tâm phục khẩu phục. Và một lần nữa, thánh Phê-rô biểu lộ lòng tin phục bằng hành động (“ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển” – Ga 21, 7). Cũng chính hành động dũng cảm khi nhảy xuống biển để bơi vào bờ mong gặp Thầy ngay lập tức (chớ không chờ “Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá” – Ga 21, 8), đã biểu hiện đức tín phục của Phê-rô là “Đức tin và hành động luôn đi đôi với nhau”. Thật vậy, “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi… Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24-26)
Khách quan mà nói, với phép lạ ở biển hồ Ti-bê-ri-a, Đức Ki-tô đã củng cố đức tin cho các Tông đồ một cách chắc chắn. Tuy nhiên, hơn ai hết, Đức Giê-su Thiên Chúa vẫn còn nghi ngại các Tông đồ với bản chất loài người cũng rất có thể không chu toàn được sứ vụ mà Người đã trao (“lưới người như lưới cá”). Vì thế, sau phép lạ, Người hỏi thánh Phê-rô ba lần liền: “Si-môn, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy không?” Ba lần chỉ với một câu hỏi, khiến người môn đệ bản tính bộc trực tỏ ra buồn rầu, vì nghĩ là Thầy vẫn chưa thực sự tin tưởng vào tấm lòng chân thực của mình. Để ý kỹ một chút, sẽ thấy có lẽ tại khi bước vào cuộc khổ nạn, Phê-rô đã chối Thầy ba lần trong một buổi tối, nên lần này Đức Ki-tô cũng gặng hỏi Phê-rô tới 3 lần chỉ với một câu hỏi.
Cũng lại là con số 3. Ba lần Phê-rô chối Chúa chứng tỏ đức tin của Phê-rô chưa kiên định. Vậy tại sao Đức Ki-tô không hỏi lại ba lần “Si-mon, con ông Gio-an, con có tin Thầy không?” mà lại là “Si-mon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy không?” Vấn đề mấu chốt chính ở điểm này: Để củng cố đức tin thì cần – rất cần – phải có đức ái, vì “chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5, 6). Các môn đệ đã củng cố đức tin vững mạnh chính là nhờ các ngài đã yêu mến Thầy hết lòng hết sức. Vâng, tất cả mọi sự, mọi hành động “phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình.” (1Tm 1, 5). Cũng bởi vì “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).
Với 2 lần làm phép lạ, Đức Giê-su đã ban cho các môn đệ hai mẻ cá lớn không chỉ là những con cá thực sự nằm trong lưới, mà còn là những con cá đức tin và đức mến, khiến cho các ngài tâm phục khẩu phục; để từ đó “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.” (Cv 1, 14). Chính vì thế, kết quả tất yếu là mẻ cá lớn thứ ba (là những con-cá-tín-hữu) các tông đồ thu lượm được tới con số 3.000, đáp ứng được sự mong mỏi của Đức Ki-tô Phục Sinh (“Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.” – Cv 2, 40-41).
Riêng con người bộc trực Phê-rô đã chính thức trở thành người đứng đầu cộng-đồng-lưới-người là Giáo Hội tiên khởi, đúng như Lời hứa của Thầy Chí Thánh (“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” – Mt 16, 18). Với vô vàn vô số những mẻ cá lớn thu lượm được trong quá trình hơn 2.000 năm “lưới người”, Giáo Hội Công Giáo ngày hôm nay đã chứng minh một cách hùng hồn rằng: Tất cả những môn đệ thừa kế sự nghiệp của các môn đệ tiên khởi đã biết sống đức tin trong đức mến và triệt để áp dụng – áp dụng rất hiệu quả – công cuộc mà các tông đồ thủa xưa đã thể hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần: Đó chính là “ĐỨC TIN + ĐỨC MẾN => CẦU NGUYỆN => HÀNH ĐỘNG”. Và phải chăng đó chính là châm ngôn sống cho tôi, cho anh, cho tất cả chúng ta – những dân chài trong làng chài lưới Giáo Hội hiện đại?
Tóm lại, Thiên Chúa là Tình Yêu, nên người Ki-tô hữu cần phải “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình”. Và khi đã yêu như thế, thì còn chờ đợi gì mà không đến với Lời Phục Sinh. Ấy cũng bởi vì “Lời này cũng được gửi đến chúng ta, như đã được nói với các phụ nữ chạy đến mộ Chúa: ”Tại sao các bà tìm người sống nơi những người chết? Người không ở đây, Người đã sống lại rồi!” (Lc 24, 5-6). Sự chết, cô đơn và sợ hãi không còn là tiếng nói cuối cùng nữa. Có một lời đi xa hơn và chỉ có Thiên Chúa mới có thể nói lên: đó là Lời Phục Sinh.
Xin hiệp ý với Đức Thánh Cha Phan-xi-cô dâng lời cầu nguyện lên Đấng Phục Sinh: “Xin Đấng Phục Sinh, Đấng đã mở toang cánh cửa của những ngôi mộ, cũng mở con tim của chúng ta trước những nhu cầu của những người thiếu thốn, người không được bảo vệ, người nghèo đói, người thất nghiệp, người vô gia cư, những người gõ cửa ngôi nhà chúng ta để xin đồ ăn, xin một nơi ẩn náu, và xin được nhìn nhận phẩm giá của mình.” (Sứ điệp Phục Sinh 2019). Ước được như vậy. Amen.
.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan ghi lại cuộc gặp gỡ lần thứ ba, cũng là lần cuối cùng giữa Chúa Giêsu Phục sinh và các môn đệ. Việc đánh cá được nói đến trước và sau khi Đức Giêsu tỏ mình, mang ý nghĩa đặc biệt. Trước đó, các ông vất vả mà không được con cá nào. Sau khi nghe lệnh của Đức Giêsu và thả lưới, các ông kéo được một mẻ cá lạ lùng, đếm được 153 con. Gặp gỡ với Đấng Phục sinh là điều kiện cần thiết để mang lại những hiệu quả ngoạn mục trong sứ mạng tông đồ.
Qua hình ảnh mẻ cá lạ, Thánh Gioan muốn nói với chúng ta về một cộng đoàn tín hữu đang phát triển nhanh chóng đầy hứa hẹn vào tương lai. Sách Công vụ Tông đồ kể lại, nhờ lời giảng dạy của các tông đồ, số người tin theo Chúa ngày một gia tăng. Những người mới gia nhập Đạo, vừa là người Do Thái, vừa là người gốc dân ngoại. Cộng đoàn tín hữu đoàn kết hiệp nhất với nhau đến nỗi họ chỉ có một tâm hồn. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, 153 là con số tượng trưng, vì thời bấy giờ, khoa nghiên cứu thủy sản hệ thống các loài cá dưới biển và liệt kê được 153 loài cá lớn nhỏ khác nhau. Khi nói đến một mẻ lưới bắt được 153 con cá, tác giả muốn nói với chúng ta về hình ảnh Giáo Hội của Chúa Kitô. Nhờ có Chúa Phục sinh hiện diện, cả nhân loại được mời gọi gia nhập Giáo Hội, làm thành gia đình của Thiên Chúa. Hơn nữa, tác giả cũng muốn khẳng định với chúng ta, ơn cứu độ của Thiên Chúa nhờ máu của Đức Kitô có giá trị cứu thoát mọi dân tộc, mọi quốc gia trên toàn thế giới này.
Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình trên thế gian, nhưng Người vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Người là sức sống và nguồn nghị lực truyền giáo của Giáo Hội. Chính Chúa Giêsu Phục sinh trao phó cho các tông đồ, mà cụ thể là Phêrô, vị Tông đồ trưởng, nhiệm vụ hướng dẫn đàn chiên của Người. Tin Mừng Thánh Gioan, vào lúc kết thúc, lại mở ra một thời đại mới, thời đại của Giáo Hội. Tông đồ Phêrô đã ba lần tuyên thệ yêu mến Thày, như một tình yêu mến trọn hảo. Dựa trên tình yêu mến được tuyên xưng đó, Chúa trao phó cho ông thay Người cai quản Giáo Hội. Giáo Hội Công giáo kể từ Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên cho đến nay, luôn có người kế thừa lãnh đạo. Trong lịch sử, có những giai đoạn khó khăn thử thách khốc liệt, nhưng vẫn có người kế vị Thánh Phêrô để chèo lái con thuyền Giáo Hội lướt qua sóng gió phong ba của biển đời.
Sau khi tuyên thệ một lòng yêu mến, Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy theo Thày”. Chúa cũng đã nói lời này với Phêrô, khi lần đầu gặp ông đang vá lưới ở bờ hồ Galilêa, và ông mau mắn từ bỏ mọi sự đi theo Người. Hôm nay, Chúa lại nói với ông một lần nữa, như thể đây là khởi đầu của một hành trình mới để làm môn đệ của Người. Nếu trước đây, ông đi theo Chúa để được thụ giáo với Người, thì bây giờ, ông theo Chúa để trở thành hiện thân của Người giữa thế gian. Có Chúa ở với ông, nên ông trở nên mạnh mẽ và can đảm. Đứng trước thày Thượng tế, Phêrô và các tông đồ đã khẳng khái tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Đấng mà các ông đã giết và treo Người trên thập giá”. Khi bị đánh đòn, các ông lại “hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” Bài đọc I). Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đã giúp các ông có thêm nghị lực và nhiệt huyết để làm chứng về Người.
Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Có những lúc chúng ta không nhận ra Người, nhưng Người vẫn đồng hành với chúng ta, vì Người là Thiên Chúa quyền năng và nhân ái. Khi cử hành phụng vụ mùa Phục sinh, Giáo Hội muốn cho chúng ta được gặp gỡ Đấng đã từ cõi chết sống lại. Chúa Phục Sinh cũng đang đặt ra cho mỗi người chúng ta câu hỏi về tình yêu mến: “Con có yêu mến Thày không?”. Câu trả lời của chúng ta thể hiện mức độ dấn thân theo Chúa và thiện chí trở thành môn đệ của Người.
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.
Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.
Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.
Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
- Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?
- Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống luôn cho chúng ta những cơ hội để làm việc, để thăng tiến. Có những khi thất bại hay yếu đuối, cuộc sống lại cho chúng ta những cơ hội để sửa đổi, để chuộc lỗi. Cơ hội để làm lại, để chuộc lỗi luôn cần thiết nơi chúng ta. Ai nên khôn mà không từng thất bại. Ai bước đi mà không từng vấp té. Thế nên, cần lắm những cơ hội để đứng dậy sau những lần vấp ngã.
Có những vấp ngã thể xác. Có những vấp ngã tâm hồn. Vấp ngã nào cũng cần đứng dậy. Vấp ngã nào cũng cần một bàn tay ai đó trợ giúp. Vấp ngã nào cũng cần cơ hội để đứng dậy chuộc lại lỗi lầm.
Ông Mahatma Gandhi đã kể rằng: “Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ.
Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, khiến tôi luôn mất bình an. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn”.
Chúa Giê-su cũng cho Phê-rô cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Khi Chúa thử thá ch lòng tin của Phê-rô. Chúa bảo Phê-rô hãy ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Phê-rô đã mệt sau một đêm vất vả chẳng được gì! Thế mà, ông vẫn tin, vẫn thả lưới. Lưới đã đầy. Lòng tin của ông cũng đầy tràn sau mẻ cá kỳ diệu.
Lòng tin ấy đã giúp Phê-rô mạnh dạn 3 lần cam kết với Chúa rằng “con sẽ yêu mến Thầy hơn những người này”. Lời cam kết này sẽ đi trọn cuộc đời của thánh nhân. Ngài đã trung thành đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ niềm tin của mình vào Thầy chí Thánh Giê-su là Thiên Chúa Đấng cứu độ trần gian.
Cuộc đời thánh Phê-rô tưởng chừng đã kết thúc sau 3 lần chối Chúa. Thế nhưng, Chúa đã phục sinh. Cuộc đời ông cũng phục sinh nhờ lòng thương xót của Chúa. Chúa đã tìm đến với ông. Chúa không oán trách. Chúa còn cho ông cơ hội minh chứng cho tình yêu của mình. Lòng thương xót của Chúa đã cải lão hoàn sinh cho con người cũ của Phê-rô. Con người của hèn nhát, của chối Chúa, bỏ Thầy thành con người mới can trường, mạnh mẽ ra đi loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.
Cuộc đời cần lắm những lần tha thứ cho nhau. Cuộc đời càng cần hơn khi ta bỏ qua tính tự ái để cho anh em cơ hội chuộc lỗi lầm. Vợ chồng hãy tha cho nhau không chỉ một lần mà cần nhiều lần để giúp nhau cơ hội sửa đổi sai lầm. Cha mẹ hãy tin tưởng con cái hơn khi cho chúng cơ hội đứng dậy sau những lần vấp ngã. Bạn bè vẫn cần cơ hội để thể hiện lòng chân thành dành cho nhau.
Ước gì chúng ta biết học nơi Chúa lòng bao dung và tính nhẫn nại để luôn cho nhau cơ hội chuộc lỗi lầm. Xin cho chúng ta luôn ý thức là người luôn có yếu đuối, luôn lớn lên trong tình thương tha thứ của mọi người thì cũng cảm thông tha thứ cho nhau. Amen.
.
GIÁO HỘI LÀ QUÀ TẶNG VÀ LÀ TRUNG GIAN LÒNG THƯƠNG XÓT
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Vào ngày lễ Thánh Giuse vừa qua, Đức Thánh Cha Francis kỷ niệm ba năm nhận lãnh sứ vụ chăm sóc Giáo Hội trên ngai tòa của Simon Phêrô. Cũng dịp này, báo chí đánh giá rằng, ba năm qua, Đức Thánh Cha đã làm được nhiều việc cho Giáo Hội. Ngài thúc đẩy mọi thành phần của Giáo Hội phải đi ra đến với những vùng ven, với những người nghèo. Ngài dẫn dắt Giáo Hội bằng trực giác của con tim, vì thế, đời sống và hoạt động của Ngài đã chạm đến được trái tim của nhiều người. Báo chí cũng nhận định rằng, tình yêu thương của Đức Thánh Cha dành cho người nghèo, người đau khổ bệnh tật và các trẻ em là một tình yêu hết sức tự nhiên, phát xuất từ một tâm hồn cảm thông. Đặc biệt ngay từ đầu triều đại Giáo Hoàng, Ngài đã cho thế giới thấy rằng, Giáo Hội không phải là thành trì, cũng không phải là một tiểu thư đài các, nhưng Giáo Hội dám chấp nhận sự lấm lem vì bước đến với những người bị bỏ rơi. Qua đó, Đức Thánh Cha cũng cho thấy, Giáo Hội thực sự là quà tặng của lòng thương xót của Chúa và đồng thời là trung gian của lòng thương xót Chúa cho thế giới.
Chúa Giêsu Phục sinh đã hết lòng tin tưởng Simon Phêrô, đã trao cho ông và các tông đồ nhiệm vụ yêu thương, chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Câu chuyện Thánh Gioan kể hôm nay mang những ý nghĩa đặc biệt. Các tông đồ đã lấy lại được bình an sau lần gặp Chúa Phục sinh. Hình ảnh các ông sống với nhau và làm việc cùng với Simon cho thấy một Giáo Hội gắn bó mật thiết với Simon là thủ lãnh. Simon cũng là người khởi xướng mọi hoạt động của Giáo Hội. Ông nói với anh em : Tôi đi đánh cá đây. Các tông đồ khác đã đồng thanh đáp lại : Chúng tôi cùng đi với anh. Chi tiết này cho thấy sự hiệp nhất đồng tâm của Giáo Hội, đặc biệt là các tông đồ quanh thủ lãnh Phêrô. Việc khởi xướng của Simon : Tôi đi đánh cá, không chỉ là đi ra Biển Hồ, nhưng còn là mệnh lệnh của vị thủ lãnh, mời gọi mọi thành viên của Giáo Hội lên đường ra khơi loan báo Tin Mừng và tình yêu thương của Chúa, đem các linh hồn về cho Chúa.
Tuy nhiên, với cố gắng riêng mình, cả đêm các ông không bắt được gì, đến độ không còn gì để ăn. Lúc đó, Chúa Giêsu Phục sinh đã đứng trên bãi biển mà các ông không nhận ra. Ngài truyền cho các tông đồ : Cứ thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Các ông đã thả lưới và bắt được một mẻ cá thật lớn. Điều đó cho thấy rằng, dù không nhìn thấy Chúa, nhưng nếu các ông cứ vâng theo Lời Chúa, các ông sẽ đạt được kết quả vượt sức mong đợi của các ông. Người môn đệ được thương mến đã nhờ trực giác tình yêu nhận ra Chúa Phục sinh và nói cho Simon : Chúa đó. Chúa vẫn hiện diện, theo dõi và trợ giúp mọi hoạt động của các tông đồ, nhưng chỉ với tâm hồn của những người biết mình được yêu, thì mới nhận ra Chúa mà thôi.
Tin Mừng kể tiếp : Bước lên bờ, các ông thấy đã có sẵn than hồng và cá đang nướng ở trên và có cả bánh nữa. Điều đó cho thấy, Chúa Phục sinh hằng lo lắng cho Giáo Hội và các môn đệ của Ngài. Không phải các ông dọn bữa cho Chúa, nhưng sau một đêm vất vả, vật lộn với công việc, thì chính Chúa sẽ chuẩn bị bữa ăn cho các ông. Ngài không bao giờ để cho Giáo Hội của Ngài phải thiếu thốn khi họ làm việc cho Chúa. Sau đó, Chúa nói các ông đem cá mới lên. Chính Simon lên thuyền đưa lưới vào bờ. Lưới đầy cá lớn mà không hề rách. Giáo Hội của Chúa như chiếc lưới mở ra để thâu nhận tất cả mọi người, mọi dân tộc vào Giáo Hội. Giáo Hội luôn có dư, đủ chỗ cho hết mọi người. Chiếc lưới là Giáo Hội dù có đầy đến mấy cũng không hề rách. Đức Giêsu lại bước đến, cầm bánh trao cho các ông. Cử chỉ này chính là cử chỉ thân quen Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly khi Ngài lập Bí tích Thánh Thể. Khi lặp lại cử chỉ này, Tin Mừng cho thấy, Giáo Hội được thiết lập, được nuôi dưỡng bằng lòng thương xót và bằng chính Thánh Thể của Chúa Giêsu.
Sau khi ăn xong, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề với Simon Phêrô : Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn các anh em này không ? Thật hết sức bất ngờ, khi Chúa Giêsu không đặt một điều kiện nào với Simon, Ngài cũng không hề nhắc lại quá khứ của ông. Ngài muốn mời ông bước thêm một bước dài hơn, cao hơn trong hành trình theo Chúa, mà điều kiện duy nhất là lòng yêu mến. Simon đã trả lời : Thưa thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chỉ khi có lòng yêu mến thực sự, thì người ta mới có thể đem lòng yêu mến đến cho người khác. Chúa trả lời Simon : Anh hãy chăm sóc các chiên con của Thầy. Như thế, sứ mạng của Phêrô là nhân danh Chúa Giêsu, thay mặt Chúa Giêsu để chăm sóc đoàn chiên của Chúa Giêsu, tiếp tục nối dài lòng thương xót của Chúa cho đoàn chiên.
Chúa lại hỏi Simon lần thứ hai và đến lần thứ ba : Con có yêu mến Thầy không ? Lần thứ ba được hỏi, Phêrô có vẻ buồn. Ông buồn không phải vì nghĩ rằng Thầy không tin ông, cũng không vì quá khứ của ông, nhưng vì ông nhìn thấy một sứ mạng hết sức lớn lao mà con người của ông thật giới hạn, yếu đuối. Vì vậy, ông đã hết sức khiêm tốn, không mạnh dạn như hai lần trước, ông thưa : Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Với câu trả lời này, Phêrô đã trải lòng mình ra trước mặt Chúa, mở cả tâm hồn để cho Chúa thấy một Simon yêu Chúa thật nhiều, nhưng cũng gây đau khổ cho Chúa thật nhiều, nhiệt thành nhưng cũng lại hay vấp váp. Ông tin rằng Chúa biết, Chúa thấu tỏ con người ông, Chúa biết ông cần lòng xót thương và sự nâng đỡ của Chúa.
Trước thái độ chân thành, khiêm tốn của Simon, Chúa đã đổ tràn tình yêu xuống tâm hồn ông và trao cho ông quyền : Con hãy chăm sóc các chiên của Thầy. Chúa muốn ông thay Chúa, nhân danh Chúa để yêu thương, chăm sóc cho hết mọi người. Chúa muốn mượn con người, đôi tay của ông để có thể tiếp tục đụng chạm, yêu thương, vỗ về những con chiên của Chúa. Như vậy, sứ mạng của Phêrô và của Giáo Hội rõ ràng là sứ mạnh yêu thương, là chuyển tải lòng thương xót của Chúa đến cho thế giới.
Chúa Giêsu cũng nói cho Phêrô biết về tương lai của ông. Chúa muốn Simon theo Chúa đến cùng, không chỉ khi còn trẻ mà cả khi về già, không chỉ khi còn sức lực, nhưng cả khi tóc bạc da mồi vẫn phải trung thành theo Chúa. Ông cũng phải giang tay ra như Chúa để có thể ôm hết mọi người vào lòng để yêu thương, để phục vụ.
Trước một tương lai và sứ mạng quá lớn lao, có lẽ đã làm Phêrô có phần lo sợ. Chúa Giêsu đã mời gọi ông : Hãy theo Thầy. Lời mời gọi lần này chắc chắn khác với lời mời gọi ngày xưa ở bờ hồ Tiberia. Lúc đó, các ông trẻ trung, theo Chúa, các ông mong đợi và nuôi trong mình bao nhiêu dự định theo kiểu trần gian. Lần này, trước sứ mạng thật lớn lao, ông sẽ phải giang rộng tay để yêu thương, để trao ban, chứ không còn tìm kiếm cho mình nữa. Lời mời gọi lần này đòi Phêrô phải đáp trả một cách quyết liệt và vĩnh viễn không đổi thay. Ông sẽ phải tiếp nối sứ mạng của Thầy là yêu thương không thể trì hoãn, xót thương không còn giới hạn, là bước vào con đường thập giá với Thầy.
Suy niệm Tin Mừng hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã thiết lập Giáo Hội, cho chúng ta được làm con, làm thành viên của Giáo Hội. Thiên Chúa đã không muốn để công trình yêu thương cứu chuộc của Chúa bị dừng lại, Ngài đã thiết lập nên Giáo Hội và muốn Giáo Hội trở thành quà tặng lòng thương xót của Chúa. Lòng thương xót Chúa được trao ban cho nhân loại như mưa trời tuôn đổ, nhưng Chúa muốn Giáo Hội trở thành dòng chảy đem lòng thương xót Chúa cho thế giới.
Là con của Giáo Hội, chúng ta được đón nhận lòng thương xót của Chúa qua sự chăm sóc của mẹ Giáo Hội, được sự dẫn dắt của Giáo Hội như người Thầy. Qua quyền cử hành Bí tích, Giáo Hội tiếp tục yêu thương và chuyển tải ân sủng của Chúa cho các con mình. Đặc biệt qua Bí tích Giải tội, Thiên Chúa đã muốn dùng Giáo Hội để nói lời yêu thương tha thứ, chỉ bảo và chữa lành tâm hồn các tín hữu, ban lòng thương xót Chúa cho con cái mình.
Là thành viên của Giáo Hội, chúng ta cùng mang sứ mạng của Giáo Hội, là sứ mạng yêu thương và phục vụ, chuyển tải lòng thương xót của Chúa đến cho người chung quanh. Bắt đầu từ gia đình, chúng ta biến gia đình thành cộng đoàn của lòng thương xót Chúa qua sự yêu thương, phục vụ, cảm thông. Chúng ta còn phải thông chuyển lòng Chúa xót thương đến những người chung quanh, những người dù tin Chúa hay chưa tin, những người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị ức hiếp. Chúng ta phải bước đến với họ, đưa tay ra để nâng họ dậy, an ủi, xoa dịu đau khổ của họ, để qua việc tiếp xúc với mỗi thành viên của Giáo Hội, họ có thể đụng chạm và gặp được gương mặt xót thương của Chúa. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống thường ngày. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui, vui vì Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô Tông Đồ cho chúng ta kinh nghiệm sống động về cuộc gặp gỡ này, ông hân hoan vui mừng cả khi người Do Thái đánh đòn, cấm không được rao tin Chúa Kitô Phục Sinh (x.Cv 5,40b). Vì thế lời Ca nhập lễ bảo ta ca vang : “Cả trái đất, nào tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên, mừng danh thánh rạng ngời, hãy dâng Người lời ca tụng tôn vinh. Hallêluia“.
Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại ; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, này có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (x. Ga 21,4).
Một chi tiết rất hay đáng chúng ta lưu ý là : “Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển” (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và những vòng xoáy của ba thù? Và bờ biển ở đây là gì, hả chẳng tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao ? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì : Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng : “Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa”. Đó chính là ý nghĩa Chúa muốn nói với các môn đệ sau khi sống lại: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em” (Lc 24,44). Người không nói điều này bởi vì Người không còn ở với họ. Thân xác vĩnh hằng lúc ẩn lúc hiện rất xa vời với thân xác hay chết của các môn đệ. Người nói, Người không còn ở giữa họ nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l’Évangile, n°24)
Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.
Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, không hướng về Thiên Chúa, nhưng lại đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói : “Tôi đi đánh cá đây“(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: “Bây giờ họ không có gì khác để làm“.
Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này : Sau “khổ đau” của Thánh Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này cho thấy bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới trống rỗng.
Chúng ta cũng vậy, có lúc thấy mình với mẻ lưới trống rỗng. Đi bộ, kiệt sức, trên đường Emmaus của chúng ta, Chúa tiến lại gần để giúp chúng ta thực hiện những bước nhảy vọt về sự khiêm nhường và tin tưởng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Chúa Kitô, họ thả lưới ở “phía bên kia” thuyền. Tại sao lại ‘bên kia ? Bên kia là bên của lòng thương xót của Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của lòng thương xót Chúa. Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa là rất cần thiết trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy vâng nghe Lời Chúa, tin tưởng làm theo những gì Chúa truyền dạy để xứng đáng được kể là dân của lòng Chúa xót thương.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.
.
TÌNH YÊU – PHƯƠNG THỨC ĐIỀU QUẢN GIÁO HỘI
Lm. Văn Hào
Mầu nhiệm Phục Sinh là điểm quy chiếu căn bản của đời sống đức tin nơi các Kitô hữu. Giáo hội được khai sinh từ biến cố quan trọng này. Vì thế, trong những Chúa Nhật mùa Phục sinh, Giáo hội chọn những bài học trong phụng vụ để mời gọi chúng ta nhìn lại Giáo hội thuở sơ khai, nhất là học hỏi cảm thức đức tin nơi các Tông đồ sau khi các Ngài đã tiếp cận với Đấng Phục sinh. Đức tin của các Tông đồ có một nền tảng chắc chắn, dựa vào kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa, Đấng đã từ cõi chết chỗi dậy, và đức tin đó được thông truyền cho chúng ta ngày hôm nay.
Mẻ cá lạ lùng, hình ảnh Giáo hội phổ quát
“Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Đó là những tín điều căn bản về Hội Thánh mà chúng ta vẫn tuyên tín. Hình ảnh mẻ cá lạ thường mà thánh Gioan thuật lại hôm nay giúp chúng ta tái khẳng định những xác tín quan trọng ấy.
Phêrô đã gặp Chúa sau khi Chúa sống lại. Các Tông đồ khác cũng vậy. Chúa Giêsu vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện giữa họ, nhưng không phải với cách thức như trước đây khi Ngài chưa đi thụ nạn. Vì vậy, Phêrô và các bạn khác vẫn chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Phục sinh một cách tròn đầy. Họ đã trở về cuộc sống đời thường với nghề đánh cá : “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21,3), và “Chúng tôi cùng đi với anh”. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được con cá nào. Sau đó, Chúa hiện ra và chỉ dẫn các ông : “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”. Phêrô đã vâng theo và phép lạ đã xảy ra qua một mẻ cá đầy ắp.
Thánh ký Gioan là một thần học gia uyên thâm. Ngài không mô tả sự kiện như một biến cố bình thường. Những chi tiết thánh ký thuật lại đều mang chở một ý nghĩa thần học sâu sắc. Các tác giả Tin mừng nhất lãm, như Lc 5, 1-11, cũng thuật lại sự kiện trên, nhưng đặt trong một bối cảnh khác và với một hướng đích khác. Còn thánh Gioan đã lồng câu chuyện vào trong kinh nghiệm của các Tông đồ khi gặp gỡ Đấng Sống lại.
Mẻ cá 153 con là hình ảnh biểu trưng tính phổ quát của ơn cứu độ. Con số đó cũng gợi lên tính viên mãn của ân sủng mà Chúa Giêsu đã hiển thị qua sự Phục sinh của Ngài. Thời bấy giờ, theo cái nhìn hải dương học, tất cả chỉ có 153 loại cá. Thánh Gioan đã vay mượn ý niệm đó để quảng diễn mầu nhiệm Giáo hội. Giáo hội mà Đức Kitô Phục sinh khai mở sẽ đem lại ơn cứu độ phổ quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, và đây cũng chính là đặc nét ‘công giáo’ của Hội thánh Chúa Kitô.
Sức mạnh của Lời
Lời khuyến mời của Chúa Giêsu “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”, quả là một thách đố đối với Phêrô. Ngài đã từng là dân thuyền chài chuyên nghiệp, đã cực nhọc thâu đêm mà không kết quả gì. Ông thực sự nản lòng và toan tính gác lưới. Nhưng Phêrô đã gặp Chúa và đã nghe Lời của Ngài. Theo bản năng tự nhiên, chẳng ai dại gì mà làm điều xuẩn ngốc đến như vậy, vì có cá đâu mà bắt, và đó là dựa vào kinh nghiệm của đời thường. Tuy nhiên, Phêrô đã không hành xử theo khuynh hướng tự nhiên. Ông hoàn toàn quy thuận lời của Chúa. Đây chính là hình ảnh biểu thị thái độ đức tin khi đứng trước những nghịch lý của Lời. Chúa Giêsu đã huấn luyện Phêrô để biến đổi ông trở nên người rao giảng Tin mừng, nhất là chuẩn bị để Phêrô trở thành người chăn dắt ‘chiên con lẫn chiên mẹ của Thầy’. Chúa Giêsu đã giúp Phêrô nhận ra rằng, chỉ khi nào chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo lời chỉ hướng của Ngài, chúng ta mới có thể thành công. Chính kinh nghiệm này đã biến đổi con người Phêrô cách tận căn. Trong Tin mừng Luca, kết quả cuối cùng là Phêrô đã hối hận và bước theo Chúa Giêsu. Còn trong Tin mừng Gioan, Phêrô đã dần dần đi sâu vào cảm thức đức tin để trở thành người lãnh đạo, chăn dắt đoàn chiên của Chúa, Đấng Phục sinh.
Tình yêu, phương thức điều quản Giáo hội
Sau khi kéo cá lên bờ, Thầy trò cùng ngồi với nhau ăn cá nướng. Đây là thời điểm để các Tông đồ, đặc biệt Thánh Phêrô trải nghiệm giây phút quan trọng nhất liên quan đến Giáo hội của Chúa Giêsu. Chúa đã chính thức cắt đặt Phêrô làm thủ lĩnh và làm người cai quản. Chúa huấn luyện đức tin của Phêrô qua mẻ cá lạ thường, và bây giờ Chúa lại đặt ra một điều kiện tối quan trọng cuối cùng để trao quyền bính cho ông : Đó chính là tình yêu. Tình yêu là điều kiện ‘sine qua non’, không có không được. Chúa hỏi Phêrô 3 lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần Chúa Giêsu hỏi và 3 lần Phêrô trả lời, tương thích với 3 lần Phêrô đã chối Chúa vì yếu đuối. Điều đó cho thấy rằng, tội lỗi hay sự yếu đuối của con người sẽ không là gì cả so với sức mạnh của tình yêu và ân sủng. Nếu chúng ta nghiên cứu bản văn theo nguyên ngữ Hy Lạp, chúng ta sẽ thấy Thánh Gioan có một dụng ý sâu xa. Hai lần đầu, Chúa Giêsu hỏi Phêrô về tình yêu với hạn từ ‘agapao’ và Phêrô trả lời với xác quyết: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” với hạn từ ‘phileo’. ‘Agapao’ là yêu mến theo lẽ tự nhiên khi chúng ta biểu tỏ tình cảm đối với người khác. Còn ‘Phileo’ nói về sự tương giao thân tình và thắm thiết giữa 2 người như những người bạn tri kỷ, suốt đời cùng nhau gắn bó.
Trong lần hỏi thứ 3, Chúa thay đổi và dùng từ ngữ ‘phileo’ và Phêrô đã trả lời cũng với hạn từ ấy. Thánh Gioan cho ta thấy, Chúa đã từ từ huấn luyện Phêrô, biến đổi ông, để ông không phải chỉ là người lãnh đạo theo phong thái xã hội bình thường, nhưng biến đổi để ông trở nên một người bạn nghĩa thiết, giúp Phêrô đi dần vào sự kết hiệp thâm sâu với Ngài.
Đó là điều kiện Chúa đặt ra cho Phêrô, cũng như cho các mục tử, những người lãnh đạo đàn chiên mà Chúa trao phó ngày hôm nay.
Trong câu kết của bài Tin mừng, Chúa nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”. Như vậy, để trở nên những con người theo sát gót chân Đức Kitô, trở nên những học trò và môn đệ của Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết tuân theo lời Ngài. Đồng thời Chúa cũng đặt ra điều kiện rất căn bản là phải thực hành tình yêu cách triệt để. Quả thật, tình yêu chính là phương thức để điều quản Giáo hội, không phải chỉ là ngày xưa, nhưng đó là nguyên tắc cho chính chúng ta ngày hôm nay. Nguyên tắc căn bản đó còn phải được áp dụng mãi mãi.
Kết luận
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”. Phêrô đã khẳng khái trả lời trước mặt vị thượng tế. Bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ hôm nay đã thuật lại giai thoại ấy. Phêrô đã vâng lời Đức Giêsu, đã thả lưới xuống bên phải mạn thuyền và phép lạ đã xảy ra. Cũng vậy, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và vâng nghe lời của Chúa. Đây là chìa khóa để giúp chúng ta tăng trưởng trong đời sống đức tin, đức tin đặt để nơi Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, đồng thời đức tin đó dẫn đưa chúng ta đến chân trời rộng mở của tình yêu. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy mau mắn trả lời Chúa Giêsu như Thánh Phêrô năm xưa : “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Phục Sinh hiện ra với Maria Mađalêna và Ngài nhắn gởi là sẽ gặp các môn đệ ở Galilê (Mt 28,10). Trong khi chờ đợi, các tông đồ trở về với nghề xưa, trở về biển hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm tình thầy trò.
Phêrô kêu gọi anh em đi đánh cá. Tối hôm ấy, họ thức trắng đêm mà vẫn trắng tay, chẳng được con cá nào. Họ sửa soạn giũ lưới đi nghỉ, Chúa hiện đến trên bờ. Trời vừa tảng sáng để có thể nhận biết người và thuyền. Nhưng họ vẫn không nhận ra Chúa Giêsu đứng đó, cũng giống như trường hợp của Maria Mađalêna bên ngôi mộ (Ga 20,14), cũng như hai môn đệ Emmau (Lc 14,13).
Từ xa xa, Chúa Giêsu gọi các môn đệ một cách thân mật: “Các chú có gì ăn không?”. Một câu hỏi đối với dân miền biển nên phải hiểu là: đánh cá có được gì không? Các môn đệ trả lời một tiếng vắn vỏi: “Thưa không” xem ra mệt mỏi chán chường. Chúa bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền”. Họ vâng lời và họ kéo được quá nhiều cá hơn sức họ mong tưởng. Thấy thế hẵn là các môn đệ nhớ lại phép lạ ngày nào bên bờ biển hồ Galilê, Chúa cũng bảo Phêrô ra khơi và họ đã bắt cá nhiều đến nỗi phải nhờ thuyền bạn bè chở giúp (Lc 5,1-11).
Gioan là người đầu tiên nhận ra Thầy: “Chúa đó”. Lúc ấy Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Ngài. Phêrô thật nồng nhiệt, hăng hái. Các môn đệ cho thuyền vào bờ. Chúa phục sinh đã chuẩn bị sẵn “than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa”. Bữa ăn sáng thật “thơ mộng” ngay tại bãi biển này, bữa ăn Chúa dọn sẵn và cũng có phần đóng góp của các môn đệ: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!”. Cho đến lúc này các môn đệ mới nhận ra là Chúa và không ai dám hỏi gì nữa, không còn ai hồ nghi gì nữa. Sau bữa ăn thân mật ấy, Chúa tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, Chúa muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Phêrô đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng : Hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy cũng là ba lần Phêrô được giao phó trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần:”Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát” (1Pr5,2-4). Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng, mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là ân sủng.
Nhiều vị thánh gọi đoạn Tin mừng hôm nay là cuộc đối thoại tình yêu. Chúa Giêsu hỏi ba lần : “Con có yêu mến Thầy không ?”, đáp lại ba lần “Có” cũng là để bù lại ba lần chối Thầy. Trước thái độ ba lần từ chối của Phêrô, Chúa không đòi hỏi Phêrô ba lần xin lỗi hay để trừng phạt, song ba lần Chúa muốn được nghe Phêrô nói : “Con yêu mến Thầy”. Như trước đây với Madalena, lần này là Phêrô và sau này là mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu muốn nói : “Con yêu nhiều thì sẽ được tha thứ nhiều và ngược lại, con được tha thứ nhiều vậy con hãy yêu nhiều”. Tiếng gọi lãnh đạo của Chúa là tiếng tình yêu, Chúa Giêsu cũng không hỏi Phêrô con đã có chìa khóa lãnh đạo cao cấp chưa ? Hay có bằng cấp gì ? Tốt nghiệp đại học nào chưa ? Song như có lần Chúa Giêsu nói : “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lề luật của Ta” thì bây giờ Ngài nói : “Con yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. Chúa Giêsu quan niệm về lãnh đạo là yêu thương, là phục vụ, rửa chân cho những người mình lãnh đạo, Chúa Giêsu không quan niệm nền tảng và phương pháp lãnh đạo là thao tác thôi. Đối với những người lãnh đạo không phải là thao tác bắt người ta làm theo ý mình, song bằng tình yêu giúp nhau thực hiện ý Chúa. Như trong trường hợp của Phêrô, tình thương của Chúa đối với Phêrô và của Phêrô đối với Chúa, tình thương ấy xóa bỏ hận thù, xóa bỏ lỗi lầm xưa và đưa người yêú kém kia trở lại sống trong tình yêu của Chúa. “Anh em yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Lời mời gọi ấy nhằm vào hàng giáo sĩ. Dĩ nhiên, sau cùng là lời mời gọi đối với mỗi người tín hữu, ai cũng có trách nhiệm liên đới đối với vận mệnh phần rỗi của mỗi anh em mình, về phận sự chăn dắt, nuôi nấng và đưa anh em về đoàn chiên và gìn giữ họ an toàn trong Đức tin. Hãy vì yêu mến Chúa mà làm phận sự chăn dắt và yêu người, tức là làm việc Tông đồ truyền bá Tin mừng và làm cho anh em mình nhận biết và phụng thờ Thiên Chúa (dmhcg.org).
Nhìn lại cuộc đời của Thánh Phêrô, chúng ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim vị Tông đồ lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì ông cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng đá.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu không trao Giáo hội cho một người trí thức thông thái, có tài lãnh đạo, có uy tín, mà Chúa lại trao Giáo hội cho Phêrô, một Tông đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen ngợi? Chắc chắn nơi Phêrô có một lòng mến Chúa thiết tha. Sau ba lần hỏi: Con có yêu mến Thầy không? Và sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa Giêsu trao Giáo Hội cho Ngài. Ngài vâng lời Chúa về Giêrusalem, bài giảng đầu tiên hùng hồn mang về cho Chúa 3.000 người xin rửa tội. Kể từ đó, Ngài đi vào cánh đồng truyền giáo bao la, là thành đô Roma. Đối diện với gian nguy bắt bớ tù đày, Thánh Nhân đã can trường làm chứng cho Đức Giêsu Phục sinh. Ngài đã lấy máu đào tử đạo minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết nên trang sử vàng, hào hùng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.
Lòng khiêm nhường, lòng yêu mến Chúa của Thánh Phêrô, kinh nghiệm về ơn tha thứ của Chúa, tất cả đều dẫn đưa Thánh Nhân đến với tình yêu của Chúa. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối mà Ngài đã đi bất cứ nơi nào Chúa muốn, cho dẫu nơi đó là ngục tù, là cái chết, bởi lẽ vì tình yêu của Chúa lớn hơn tất cả.
Lòng mến Chúa sẽ mở cửa cho người tín hữu chúng ta đi vào Nước trời. Chúa không đòi hỏi nơi mỗi người sự khôn ngoan, tài năng. Chúa chỉ cần lòng mến “con có yêu mến Thầy hơn những người này không?”. Lòng mến Chúa chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình. Khi nói yêu mến Chúa là chúng ta sẵn sàng chấp nhận mọi đau thương, thử thách, và hy sinh. Và khi nói yêu mến hơn những người này, thì cũng có nghĩa là phải hy sinh, chịu khó, và chấp nhận hơn nếu Chúa muốn, để làm chứng nhân cho Ngài trong chính cuộc đời mình.
Khi yêu mến Chúa, chúng ta sẽ làm mọi sự đẹp lòng Chúa. Lòng mến là thước đo cho mọi giá trị đạo đời.
.
Trầm Thiên Thu
Con cá và con người có điểm giống nhau là động vật, nhưng lại có điểm khác nhau là con cá chỉ có giác hồn, còn con người có linh hồn.
Người ta thường dùng con cá để ví von. Như khi nói về tình quân và dân: Quân và dân như cá với nước; khi so sánh về giáo dục: Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư. Và khi kêu gọi Phêrô và Anrê đi truyền giáo, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh con cá để nói về con người: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4:19; Mc 1:18; x. Lc 5:10).
Cá là loài chứa nhiều dưỡng chất tốt cho cơ thể, đặc biệt là khi ăn chay theo Kitô giáo, người ta không phải kiêng cá. Quả thật, cá là loài có gì đó rất đặc biệt.
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các Tông Đồ không còn nhút nhát như trước, vì họ đã xác tín và được Thầy Giêsu ban Chúa Thánh Thần khi Ngài hiện ra và thổi hơi vào họ (Ga 20:22). Trình thuật Cv 5:27b-32. 40b-41 cho biết về lòng can đảm của các Tông Đồ.
Khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng, vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”.
Nói về Ông Giêsu thì mắc mớ chi tới họ mà họ cấm? Ngày nay cũng vậy, người ta vẫn tìm mọi cách bách hại những người tin vào Đức Kitô. Cả xưa và nay, tại sao người ta tìm bắt Chúa Giêsu và những người tuyên xưng Đức Kitô? Nếu không là ghen tức thì là lý do gì? Những người tin vào Đức Kitô thì chỉ làm điều tốt chứ có hại ai mà họ lại ghét thế? Thật là vô lý hết sức!
Tuy nhiên, họ nói gì thì cứ nói, ông Phêrô và các Tông Đồ khác vẫn hiên ngang đáp lại thẳng thắn: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người”.
Nghe nói vậy, họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu. Và tất nhiên các Tông Đồ không thể im lặng theo lệnh của những người có quyền lực kia.
Thật vậy, họ vẫn rao giảng về Đức Kitô dù biết khó yên thân. Và hàng ngày, cả trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu – Đấng chịu đóng đinh, chịu chết nhưng đã phục sinh.
Vì “vô tri” mà “bất mộ”. Nhưng một khi đã biết rồi thì người ta càng thêm lòng yêu mến và không thể lặng im: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2). Ai cũng có kinh nghiệm sống, đặc biệt là sống thật về phần linh hồn. Chỉ những người cố chấp và vô ơn mới không chịu nhận ra hồng ân của Thiên Chúa trao ban hàng ngày, từng phút và từng giây.
Chúa Giêsu phục sinh vinh hiển, nhưng người ta không muốn tin; chính người ta cũng đã và đang được cứu thoát, nhưng người ta vẫn không muốn công nhận. Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật minh nhiên, không thể phủ nhận: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:4-6).
Chuỗi vui-buồn-sướng-khổ hoặc chuỗi sinh-lão-bệnh-khổ – mà người ta gọi chung là “bể khổ” – chính là chuỗi cuộc đời nhân thế. Buồn khổ nhiều hơn vui sướng, nhưng người có đức tin vẫn thấy thanh thản, ngay cả khi đối diện với cái chết. Họ tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót nên họ vẫn cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng” (Tv 30:11-13).
Đúng như Thánh Phaolô đã xác định: “Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô” (x. Rm 8:35).
Trong trình thuật Kh 5:11-14, Thánh Gioan cho biết thị kiến về sự tôn thờ Con Chiên: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”. Vô số các sinh vật tôn vinh và xưng tụng Con Chiên, không thể đếm nổi. Dù ngày nay con số đó chưa nhiều, chỉ là số ít so với dân số thế giới, nhưng ngày cuối cùng sẽ là đa số, có hằng hà sa số những người tin vào Đức Kitô. Con số đó đang gia tăng hàng năm, hàng tháng, và hàng ngày. Một sự thật minh nhiên!
Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’. Bốn Con Vật thưa: ‘Amen’. Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy”. Con số những người tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót đã và đang tăng lên theo cấp số cộng, rồi theo cấp số nhân. Và chúng ta đang chứng kiến sự lạ lùng này.
Trình thuật Ga 21:1-14 cho biết về cuộc hiện ra lần thứ ba của Chúa Giêsu ở Biển Hồ Tibêria, sau khi Ngài sống lại.
Hôm đó, ông Simôn Phêrô, ông Tôma (Điđymô), ông Nathanaen (người Cana miền Galilê), các con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, họ đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói đi đánh cá. Các ông kia cũng muốn cùng đi. Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Này các chú, không có gì ăn ư?”. Các ông nói là “không”. Ngài bảo các ông cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Ông Gioan nói với ông Phêrô: “Chúa đó!”. Vừa nghe nói vậy, ông Simôn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông đem ít cá mới bắt được tới nướng. Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Rồi Đức Giêsu bảo mọi người đến ăn. Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy. Như vậy là Ngài dâng Thánh Lễ ngay tại bờ biển, Chúa Giêsu thật tuyệt vời và vô cùng bình dân!
Tiếp theo, trình thuât Ga 21:1-19 cho biết mối liên kết giữa Chúa Giêsu và Giáo hội.
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô có mến Ngài hơn các anh em không. Ông thưa là “có”, và nói rõ: “Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chối Thầy mấy hôm trước nên ông hối hận lắm. Tội to mà được Thầy tha thì còn gì bằng, thế nên ông yâu Thầy lắm. Đức Giêsu bảo ông chăm sóc chiên của Ngài. Rồi Ngài lại hỏi lại như trước, ông cũng thưa như trước. Nhưng Ngài lại hỏi ông lần thứ ba, thế nên ông hơi buồn. Lần này ông thưa rạch ròi: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu cũng bảo ông chăm sóc chiên của Ngài. Ôi, thật kỳ diệu, vì buổi đăng quang giáo hoàng của Phêrô rất giản dị trong khung cảnh thân mật tình Thầy trò, cũng ngay tại bờ biển. Hay quá chừng! Rõ ràng Thiên Chúa không câu nệ nghi thức chi cả. Từ nay, ngư phủ Phêrô không còn lưới cá nữa, mà chuyên lưới người.
ĐƯỢC nhiều thì ắt bị ĐÒI nhiều. Đó là sự công bằng. Và Chúa Giêsu nói với giáo hoàng tiên khởi: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Rồi Ngài bảo ông: “Hãy theo Thầy”. Và Phêrô đã theo Thầy Giêsu đến cùng, chứng minh bằng cái chết là bị đóng đinh ngược trên thập giá!
Con cá sống nhờ nước, con người sống nhờ không khí. Nước và không khí có được là nhờ hồng ân thương xót của Thiên Chúa. Thiếu nước thì cá chết, thiếu không khí thì người cũng chết. Nhưng có nước và có không khí mà cá và người cũng vẫn chết. Sinh – tử là quy luật muôn thuở. Sinh là để chết. Chết là để sống lại. Chết là ngưỡng chuyển tiếp từ cõi chết qua cõi sống. Một cuộc vượt qua ngoạn mục. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa Giêsu bảo đảm cho cuộc vượt qua kiếp người của chúng ta. Thật là mầu nhiệm về sự chết và sự sống của những người tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.
Tiên tri Muhammad không sống lại. Khổng Tử không sống lại. Lão Tử không sống lại. Phật Thích Ca không sống lại. Chẳng thấy có bất kỳ ai sống lại. Nhưng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI, dù bị người ta giết chết, và đúng như Ngài đã BÁO TRƯỚC. Cũng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ đi trên nước, tuyên bố là Thiên Chúa, và làm cho người khác sống lại. Chính Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, chiến thắng Tử Thần, chiến thắng vĩnh viễn.
Thật là hạnh phúc, vì chỉ có trong Kitô giáo của chúng ta mới có Đức Kitô là Thiên Chúa, làm nhiều phép lạ chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, và chỉ có một mình Chúa Giêsu tuyên bố Ngài “là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” và chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô (Ga 14:6). Thật hạnh phúc biết bao, vì niềm tin của chúng ta là chính đáng, không hề mơ hồ!
Cuộc đời giống như một sân khấu lớn, và ai cũng là diễn viên trên “sàn diễn cuộc đời”. Sau mỗi màn diễn, dù là phim hay kịch, chúng ta thường nhận xét về cách diễn của diễn viên có đạt hay không, chứ chúng ta không cần biết vai diễn của người đó là chính diện hay phản diện, là hoàng đế hay tướng cướp, là chủ nhân hay đầy tớ,…
Tương tự, Thiên Chúa không xét VAI DIỄN của chúng ta – là giáo sĩ, tu sĩ, hay giáo dân, giàu hay nghèo, mà Ngài chỉ xét CÁCH DIỄN của chúng ta – tức là chúng ta có sống đúng cương vị của mình và thể hiện đức ái theo Thánh Ý Chúa hay không.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con luôn duy trì sự sống trong ơn nghĩa với Ngài, được ngụp lặn trong Dòng Tình Thương Xót của Ngài. Vâng, lạy Ngài, xin giữ gìn con như thể con ngươi, và dưới bóng Ngài, xin thương che chở (Tv 17:8). Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
TRƯỚC KHI TRUYỀN GIÁO, PHẢI BIẾT “YÊU”
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các Tông đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Lệnh truyền này mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, truyền giáo chính là bản chất của Giáo Hội. Hay nói cách khác, Giáo Hội của Đức Giêsu phải truyền giáo. Bao lâu Giáo Hội không còn truyền giáo, thì bấy lâu Giáo Hội đánh mất căn tính của mình. Hình ảnh mẻ cá lạ với 153 con nhưng lưới không bị rách mà Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay trình thuật chính là một lời mời gọi ra đi để quy tụ muôn dân và hướng tới một Giáo Hội phổ quát.
Tuy nhiên, Giáo Hội mà Đức Giêsu thiết lập và trao phó cho các Tông đồ chăm sóc, loan truyền, phải là một Giáo Hội mang trong mình tình yêu. Chính vì thế, trước khi trao cho Phêrô quyền lãnh đạo Giáo Hội, cũng như mặc khải cho các Tông đồ về sứ mạng truyền giáo qua mẻ cá lạ, Đức Giêsu đã trắc nghiệm Phêrô về lòng yêu mến của ông.
- Con có yêu mến Thầy không?
Sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các Tông đồ trên biển hồ Tibêria và truyền lệnh cho các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sau một đêm vất vả mà không được gì (x. Ga 21, 6). Họ đã nghe theo vị khách lạ xem ra có vẻ dày dạn về kinh nghiệm đánh bắt cá truyền bảo. Kết quả thật mỹ mãn: đó là một mẻ lưới đầy cá. Khi thấy những sự kiện lạ như vậy, Gioan đã hô lên: “Chúa đó!”. Phải chăng vì lòng mến Chúa cách đặc biệt mà ông đã nhận ra Chúa trước anh em? (x. Ga 20, 1-9).
Khi nghe Gioan nói: “Chúa đó!” các ông vào bờ và Đức Giêsu trực tiếp phục vụ các ông. Một bữa ăn tràn đầy lòng thương xót của Đấng Phục Sinh.
Sau bữa ăn, chính là phần trao ban sứ vụ lãnh đạo cho Phêrô. Nhưng trước khi trao, Đức Giêsu cất tiếng hỏi vị Tông đồ trưởng tới ba lần: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21, 15a). Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15b). Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21, 15c). Đức Giêsu hỏi Phêrô tới ba lần như vậy là vì muốn phục hồi địa vị môn đệ của ông sau khi ông đã yếu đuối và sa ngã tới ba lần khi trối Thầy trong cuộc thương khó. Hơn nữa, Đức Giêsu muốn cho chính Phêrô hiểu rằng: lòng mến là nền tảng căn bản, quan trọng phải có của người môn đệ, bởi lẽ: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” (1 Cr 13,13). Vì thế, Đức Giêsu nói tiếp với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21,18). Cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu loan báo cho Phêrô có nghĩa là: ông không còn làm chủ đời mình nữa, mà là một đời môn đệ đích thực. Ông phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu chịu đóng đinh. Bị kẻ khác thắt lưng còn có nghĩa là bị bắt, chịu trói và bị giết chết. Thật vậy, phải tin yêu hết lòng thì mới có sức chịu đựng được những cực hình ấy.
Phêrô đã xác tín mạnh mẽ và tin theo Đức Giêsu cách tuyệt đối, nên sau những lần trả lời đầy khiên tốn và yêu mến, Đức Giêsu đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho ông. Như thế: mầu nhiệm phục sinh chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thì đồng thời khai mở sứ vụ truyền giáo.
- Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội
Hình ảnh mẻ cá lạ và có tới một 153 con mà lưới không bị rách, diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội phổ quát.
Theo các nhà động vật học của Hylạp thời bấy giờ, trên thế giới có tất cả là 153 loại cá. Mẻ cá lạ này, Thầy Giêsu mặc khải cho các ông thấy rằng: công cuộc loan báo Tin Mừng dưới quyền lãnh đạo của Phêrô phải được các ông loan đi tới tận cùng trái đất, cho hết mọi người, để mọi người được ơn cứu chuộc.
Nếu hình ảnh 153 con cá tượng trưng cho sứ mạng của người môn đệ, thì hình ảnh chiếc lưới lành lặn không bị rách mặc dù cá nhiều đến như vậy là tượng trưng cho một Giáo Hội của Đức Giêsu luôn đứng vững trước mọi cạm bẫy của “ba thù”. Mặt khác, dù nhiều chủng loại, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thì vẫn là cộng đồng duy nhất trong một chiếc lưới của Thiên Chúa dưới vị lãnh đạo của Phêrô; vẫn là một Chủ Chăn và một đoàn chiên duy nhất.
Khi truyền lệnh cho Phêrô thả lưới bên phải thuyền, ông đã vâng lời và kết quả đã thành công. Sự kiện này cho thấy, viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội có thành công hay không nhờ vào việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với lời hứa của Ngài. Chính thánh nhân cũng đã quả quyết cách khẳng khái khi bị quan tòa tra hỏi: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Khi vâng lời trong lòng mến, các ngài đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Đây cũng chính là nền tảng sứ mạng tông đồ của chúng ta sau khi được Chúa gọi vào làm “vườn nho của Ngài”.
- Sứ điệp cho chúng ta ngày hôm nay
Đức Giêsu đã trao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài vì ông đã vâng lời, khiêm tốn, tin tưởng và yêu hết lòng. Chúa trao cho ông vì chính Ngài cũng tin tưởng và yêu mến ông tha thiết.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Gẫm lại lịch sử đời chúng ta: hẳn ai cũng thấy có biết bao lần mình sa ngã phạm tội, nhưng có khi không hề nói lên lời sám hối, hoặc sám hối hời hợt cho qua! Phải chăng lòng mến của chúng ta chưa đủ mạnh như Phêrô để một lần cho cả đời?
Hôm nay, Chúa cũng trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Hãy loan tin ấy tới tận cùng trái đất. Đây là trách nhiệm của mỗi chúng ta khi đã lãnh nhận và cảm nghiệm được tình yêu ấy trong cuộc đời, để rồi sứ vụ loan báo Tin Mừng của người môn đệ luôn gắn liền với Thập Giá và những hy sinh, vất vả, cô đơn, hiểu lầm, và, ngay cả cái chết như Phêrô để làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu. Hình ảnh 153 loài cá là lời mời gọi ra đi truyền giáo cách tha thiết tới mỗi người chúng ta.
Như vậy, sứ mạng truyền giáo đòi hỏi mỗi người chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những bon chen, cố chấp, hẹp hòi, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh như văn hóa, truyền thống, thiếu thốn, bệnh tật trong khi loan báo Tin Mừng…
Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta và các thừa sai của Chúa trên cách đồng truyền giáo bao la ngàn trùng, để các ngài ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh đến tận cùng trái đất. Xin cũng cho chúng ta đón nhận tất cả mọi thử thách trước, trong và sau khi loan báo Tin Mừng với tâm niệm rằng: vì lòng mến Chúa, xin cho con đón nhận tất cả, bởi vì tần số của tình yêu là yêu không giới hạn.
Nếu được như thế, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho Phêrô khi xưa: “hãy theo Thầy” và cùng Thầy lên đường…?
Đây chính là sứ điệp mà Đức Giêsu muốn gửi đến cho các Tông đồ trong lần thứ 3 Ngài tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết và cũng là sứ vụ được trao phó cho chúng ta hôm nay. Amen.
.
CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ
Lm. Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.
Hành vi không bình thường
Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.
Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.
Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?
Cách hành xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.
“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.
Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.
Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.
Số phận và thái độ cần có của con người
Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.
“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!
- Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
- Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?
.
Lm. Jos. DĐH
Con người thời đại vẫn chuộng bằng cấp, đề cao tính chuyên nghiệp, họ có thể loại bỏ những tay thợ lười biếng, thiếu khả năng bất cứ lúc nào. Những người chăm chỉ nhiệt thành, cùng với năng lực dồi dào, xã hội luôn cho đó sự vững chắc như “kiềng 3 chân”, làm việc gì cũng thành công. Thực ra không phải vô tình, vô cớ, mà thi sĩ Bùi giáng cho rằng : đừng tưởng cứ nghèo là hèn, cứ sang thì trọng, cứ tiền là xong. Chung quanh ta, biết bao gia đình túng thiếu, nhưng họ lại mỉm cười với kết quả thu được từ con cái : chẳng ai giầu ba họ, chẳng ai khó ba đời. Cũng không thiếu những gia đình giầu sang phú quý, họ phải khóc vì con hư hỏng : nuôi con chẳng dạy chẳng răn, chẳng thà nuôi lợn lấy lòng mà ăn.
Trở lại với biển khơi thả lưới đánh bắt cá, tưởng đó là chuyên môn của các học trò Đức Giêsu, vậy mà cả đêm các ông không tóm được con cá nào ! Không biết là do có ai trong số họ xui, hay vì quãng thời gian theo Thầy, các ông đã lụt nghề ? Không biết có phải quá tự tin vào khả năng lưới cá của mình, nên các ông đã hụt hẫng khi đối diện với thất bại ê chề ? Nếu xét theo nghĩa vật chất, các môn đệ Đức Giêsu đúng là vô duyên bất tài. Hiểu theo nghĩa tích cực, vất vả suốt đêm mà không thu được kết quả nào, là dấu hiệu các ông không thể làm gì, nếu thiếu Thầy.
Vị khách lạ ở bờ biển từ sáng sớm hôm đó đã giải thoát cho những bế tắc đang rối loạn tâm trí các ông, đưa các ông về đúng vị trí huấn luyện của tình thầy-trò. Các ông không thể sống mà thiếu tình yêu thương, các ông cần vị chỉ huy, hướng dẫn, ít là biết nhớ đến Vị Thầy đã từng cho họ chứng kiến thành quả. Khi nghe tín hiệu “hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”, hẳn là các ông đã có linh cảm vị khách lạ phải là người tốt, yêu quí họ. Mẻ cá lạ lùng đã để lại cho số các môn đệ nhiều cảm giác khác nhau, và cho các ông một niềm vui từ Vị khách lạ mang tới.
Đấng phục sinh, hẳn đã thức tỉnh các ông từ niềm vui lưới cá bên ngoài đi sâu vào hạnh phúc tâm linh, khai mở cho các ông cảm nhận tình yêu cứu độ luôn ở gần sát con người. Không có Đấng phục sinh, hành trình ra khơi của Phêrô, của các tông đồ, của chúng ta cũng chỉ là quá trình vất vả, tốn công, uổng sức. Thiếu tình yêu của Đấng phục sinh, ai có thể mở trí mở lòng, giúp chúng ta phân biệt được đúng sai, thật giả, mà tiếp tục thả lưới bên hữu mạn thuyền bắt cá ?
Ngày hôm nay, sứ mạng người tông đồ không thể tránh khỏi những thất bại, những chống đối, nếu chỉ cậy dựa vào tài năng của mình, cùng lắm là ta chỉ nhìn thấy bóng dáng người bên cạnh ta là vị khách lạ mà thôi. Trong công việc làm ăn, nhiều người chủ trương phải kiên nhẫn, thua keo này bày keo khác, hay tự an ủi mình : thất bại là mẹ thành công. Nếu tai mắt ta không thể nhìn, không thể nghe được tiếng nói của Đấng phục sinh, ít ra ta cũng đủ khiêm tốn để tin tưởng người anh chị em mình trước lời chân tình : “chính Chúa đó”. Cuộc đời có Chúa, việc làm có Chúa, bao giờ cũng thú vị, đầy cảm xúc vì tình yêu và niềm vui dù thành công hay thất bại.
Chỉ khi nhớ tới Thầy Giêsu, nghe được tiếng nói của Đấng phục sinh, và mau mắn hành động tin yêu, các tông đồ mới có được mẻ cá bội thu. Từ nay Thầy Giêsu không còn hiện diện cách hữu hình để huấn luyện, để trợ giúp ta lưới cá, nhưng Đấng phục sinh đang đồng hành với ta, Ngài vẫn là Vị thuyền trưởng, là quân sư, chỉ đường dẫn lối ta đến hạnh phúc thật. Sống trên đời này, nếu ta không yêu mến, hay yêu mến quá ít, việc cầu nguyện của ta sẽ chán ngán, đến nhà thờ cũng sẽ là gánh nặng, mang vác đau khổ thập giá là cực hình.
Con thuyền chở các tông đồ ra khơi bắt cá hôm đó thiếu sự hiện diện của Thầy Giêsu, nhưng có Đấng phục sinh cùng đồng hành, và rồi các ông đã thành công với mẻ cá lạ kỳ, nhận ra “chính Chúa đó”. Hành trình vượt biển trần gian, giông tố có thể ập tới bất cứ lúc nào, nhưng người môn đệ sẽ không nao núng, vì ánh sáng Đức Kitô luôn tỏa chiếu giúp ta nhận ra con đường phải đi. Biển trần không sóng gió thì không phải là biển, ra khơi thả lưới về không, thất bại, vì cậy dựa vào sức riêng của mình, tự mãn, kiêng căng, là điều dễ hiểu. Trước mẻ cá lạ lùng, đầy ắp vui mừng, Chúa phục sinh nhắc nhớ người môn đệ về sứ mạng lưới người như lưới cá, luôn cần đến đức tin vâng phục, qua đó ta sẽ thấy sự hiện diện liên tục của Chúa phục sinh, hầu ta có mãi niềm vui hạnh phúc trong thành quả tốt đẹp của Chúa. Amen.
.
Trần Bình An
Từ thuở có trí khôn đến nay, tôi xác định mình là con của một gia đình đạo gốc. Tôi được học từ bé ở một trường Công giáo do các Sơ phụ trách. Tất cả các chị em tôi cũng đều được học như tôi. Cuộc sống đức tin của mình cứ xuôi chèo như thế lâu dài: đi lễ ngày Chúa Nhật, xưng tội mùa chay. Cùng với niềm say mê hát xướng, tôi đã gia nhập vào ca đoàn nhiều năm, hát vì thích nhạc đạo và vì thích được hát, chưa ý thức rằng hát là để ca tụng Chúa.
Tôi đã lập gia đình với một người cũng có đạo gốc như tôi và còn là con nhà một “Ông Trùm“ có nhiều con đi tu. Cuộc sống cứ trôi đi tự nhiên, như dòng nước chảy. Rồi dần dần sự mai một đức tin cứ lớn dần theo thời gian. Tôi còn bị tác động thêm bởi các bất bình, bất mãn cuộc đời xảy đến. Cái ung nhọt mất niềm tin vào Chúa lớn dần, đến mức độ tôi tự thấy xa hẳn Hội Thánh. Tôi đã bỏ đạo trong suốt 15 năm, thưa thớt dần dần bỏ lễ Chúa Nhật, không xưng tôi, rước lễ và cả không tham gia sinh họat giáo xứ! Cuộc sống không có Chúa cứ thế diễn ra, khiến cho mẹ ruột tôi và bố mẹ chồng rất buồn. Các cụ nói xa rồi lại nói gần về sự bất hạnh nếu xa rời Chúa, tôi bất cần ! Tôi lại càng cảm thấy mình đúng khi đã cắt tỉa đi những rườm ra hình thức tôn giáo, mà tôi cho là giả tạo, mê hoặc con người. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng tôn giáo là liều thuốc an thần cho nhân loại. Cũng như tôi đã thầm trách nền giáo dục Công giáo, đã làm cho tôi cảm thấy mất tự do. Thọát ra khỏi vòng kềm toả tôn giáo, tôi cảm thấy rất vui sướng, vì khung trời tự do thoải mái sống hưởng thụ. Hơn nữa, tôi còn tự biện hộ rằng mình vẫn sống đạo làm người, yêu thương đồng lọại, giúp đỡ tha nhân chung quanh. Tôi đã khóc cười với những người anh em và tự mãn mình đã làm đúng, làm đủ bổn phận con người.
Bất ngờ, con gái tôi bỏ nhà ra đi. Tôi đau khổ khóc thầm. Trải qua bao đêm mất ngủ, tôi hóa ra ngây dại, mất hết mọi cảm giác. Tôi vẫn đến cơ quan làm việc, nhưng không còn một chút hăng hái nào, mà máy móc như con rô bô. Tôi hụt hẫng tột độ. Tôi đã muốn chết vì thương nhớ con. Tôi thất vọng cái kiếp người tràn đầy bi kịch! Gia đình tôi trở thành bãi chiến trường không đổ máu, nhưng lại đổ lệ đầy thương đau! Tôi lại càng thêm oán giận cuộc đời. Điên cuồng chống lại tất cả. Chưa bao giờ gia đình tôi lại sóng gió đến thế! Chính lúc đau khổ đó, Chúa đã đến với tôi, ban lại niềm tin. Ngoài Chúa ra, chẳng còn ai cứu nổi gia đình tôi! Tôi bỗng nhiên nhớ ra, vững tin rằng: “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.“ (Lc 18, 27)
Từ sự cố con gái, Chúa đã dẫn tôi trở về. Hơn nữa, Ngài còn dẫn cả gia đình tôi thật sự trở về. Cứ lần theo con đường để trở về, chúng tôi đã gặp Chúa. Thì ra bấy lâu này, Ngài thầm lặng chờ đợi tôi. Ngài vẫn hằng yêu thương tôi, Ngài đã cho tôi một thể nghiệm của Người Cha mất con đau đớn như thế nào. Tôi đã thật sự khổ sở và sâu xa hối hận. Tôi bước qua nhiều chặng đường trong sự trở về, như một khám phá mới. Tôi cứ phải lột dần những rào cản của cuộc sống đi hoang đã thành nếp. Chúa đã lôi kéo tôi, chồng tôi, con tôi, trên bước đường trở về, vội vã cứ y như là chạy vậy! Hiện nay gia đình tôi bỗng đổi khác tận gốc rễ. Từ ngày Chúa “chạm” tôi, Chúa “chạm” chồng con tôi, chúng tôi liền thấy mình được thoát ra khỏi vòng vây hãm của khổ đau và những mâu thuẫn, như không thể khắc phục được. Nay chúng tôi được dễ dàng thương yêu nhau, vì có Chúa ở trong và ở bên tôi.
Từ khi hai vợ chồng tôi cùng đến cầu nguyện và gia nhập nhóm Thánh Kinh Cầu Nguyện. Chúa đã “chạm” mạnh vào gia đình tôi và hiện nay vợ chồng tôi đã được nhận chìm trong Đức Kitô. Cả gia đình tôi đã cảm nhận được hạnh phúc thật sự. (theo Maria Vũ Kim Hồi, Chúa Giêsu đã biến đổi đời con, Thanhlinh.net)
Sau bao năm xa rời đức tin, chị Maria đã tìm lại Chúa, nhờ sự cố con gái bỏ nhà đi. Chị không ngờ Chúa Giêsu vẫn liên lỉ quan tâm, chờ đón gia đình chị trở về đoàn tụ trong Lòng Thương Xót. Cũng như xưa các môn đệ đâu thể nào ngờ Chúa Phục Sinh, vẫn còn chờ đón vỗ về họ, sau một đêm chài lưới hoàn toàn vô vọng.
Tim Mừng hôm nay, thánh sử Gioan tường thuật Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tébériade, với bữa sáng sẵn sàng phục vụ. Sau một đêm vất vả, trắng tay, Chúa Giêsu hiện ra hỏi thăm, chỉ chỗ thả lưới hiệu quả, mà không một ai nhận ra Người.
Nhận ra Chúa
Ông Phêrô và các bạn chài đều nhìn thấy, đều nghe thấy Người đang đứng trên bờ Biển Hồ lúc tảng sáng, hỏi thăm họ đánh cá. Vâng lời Người, họ thả lưới bên hữu thuyền, liền bội thu. Thế mà chỉ có ông Gioan, ngạc nhiên khám phá ra Người, chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, liền thầm thì tiết lộ cho ông Phêrô: “Chúa đó!”
Tương tự tại “ngôi mộ trống,”cũng chỉ duy nhất một mình ông Gioan thấu đáo hiểu dấu chỉ Người đã sống lại, qua khăn che đầu và băng vải xếp gọn ghẽ. Chắc chắn chân dung, vóc dáng, lời nói của Người hẳn đã hằn sâu, in đậm nét trong lòng, cũng như trí nhớ Người môn đệ Chúa yêu, chẳng thể nào phai nhoà đi. Như vậy, một lần nữa, nhờ con tim mách bảo, linh cảm, nhờ lửa mến nóng bỏng, môn đệ Gioan đã kịp thời nhận ra Thầy Chí Thánh.
Lửa mến xua tan màn đêm tăm tối, tội lỗi, u mê, đốt cháy chướng ngại vật che chắn, vật chất, tiền tài, danh vọng, vượt qua cám dỗ vị kỷ, chia rẽ, dao động, nghi kỵ, phân hoá. “Chúa đó!” một khám phá tuyệt diệu chỉ dành cho một tình yêu bén nhạy, bền bỉ, sâu đậm, trung thành và viên mãn. “Chúa đó!”một lời giới thiệu tràn trề vui mừng và hy vọng! “Chúa đó!” một tiếng reo khải hoàn, vì được cứu thoát khỏi khốn khổ, thử thách, thất bại, lẫn thất vọng.
Đến với Chúa
Lần này, môn đệ Gioan ắt hẳn kính lão đắc thọ, không dám xớn xác, tuỳ tiện, như hôm chạy đua marathon ra ngôi mộ trống, bỏ xa lắc ông Phêrô tội nghiệp, lẹt đẹt theo sau. Mặc dầu ông Gioan rất phấn khích, sốt ruột, mong mau được gặp lại Chúa Phục Sinh, nhưng cũng phải dằn lòng, dành ưu tiên cho vị tiên chỉ Simon Phêrô nhảy xuống nước, bơi vào diện kiến Đấng Phục Sinh trước.
“Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.” Không ngần ngại bỏ tất tần tật, bạn chài, thuyền lưới, cá mú, ông Phêrô tức khắc nhảy ra khỏi thuyền, bơi vào gặp Chúa ngay. Một hành động tích cực cao độ biểu lộ tâm hồn khao khát Chúa, tâm hồn từ bỏ chức tước, danh vọng, tiền tài, của cải, tâm hồn sẵn sàng, tỉnh thức, chạy đến với Chúa. Nhất là sau một đêm hì hục, miệt mài, vất vả chài lưới trắng tay. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30)
Đi theo Chúa
Dù trên bếp hồng, đã sẵn sàng cá nướng thơm nồng, hoà quyện mùi bánh mới hấp dẫn, Đức Giêsu vẫn yêu cầu các môn đệ đóng góp thành quả vừa đánh bắt được: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Rồi Người tiếp tục phục vụ các môn đệ: “Anh em đến mà ăn!” Sau khi ăn xong, Người mới trang trọng phỏng vấn ông Simon Phêrô về tình yêu tối thượng dành cho Người.
Ba câu hỏi lập đi lập lại:“Này anh Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Gọi ngay tên cúng cơm, chính xác con ai, Đức Giêsu thân mật đòi hỏi một tình yêu tận hiến agapé trọn hảo, chứ không dừng lại tình yêu huynh đệ philia thường tình. Bởi vì, “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi!” Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” (Mc 12, 29-31)
Sau ba lần xác nhận tình yêu dâng hiến, ông Simon Phêrô được Chúa mời gọi: “Hãy theo Thầy!” Đồng thời giao cho ông trọng trách phục vụ đoàn chiên: “chăn dắt” và “chăm sóc.”Vừa hướng dẫn vừa nuôi dưỡng như vị mục tử nhân lành,“thấm đẫm mùi chiên,” chứ không phải cất nhắc lên ngôi cai trị, hay chiếm hữu.
Như vậy, ai muốn đi theo Chúa thì nghe và thực hành Lời Chúa: Mến Chúa, yêu người và phục vụ tha nhân. Không riêng gì các đấng bản quyền, mà tất cả con chiên, giáo hữu muốn theo Chúa, cũng đều phải tuân giữ nghiêm nhặt hai điều này.
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)
Lạy Chúa Phục Sinh, xin mở mắt, mở tai, mở lòng chúng con luôn nhận ra Chúa trong từng anh chị em chung quanh, để yêu thương và phục vụ. Xin thúc đẩy chúng con năng hạnh ngộ cùng Chúa trong bí tích Thánh Thể, để luôn được Chúa hâm nóng lửa mến, hầu luôn được sống kết hiệp cùng Người trong mọi lúc, mọi nơi.
Lạy Mẹ Maria, chúng con khấn xin Mẹ giúp chúng con thấu hiểu những dấu chỉ của Chúa gửi đến, để vâng theo Thánh Ý Chúa trong suốt cuộc đời ba đào, gian lao, vất vả, hầu gặt hái được thành quả đáng mừng, như mẻ cả bội thu của các môn đệ. Amen.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với một số người khác, để minh chứng Người là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, đã sống lại thật như lời Người đã tiên báo. Sự hiện ra của Chúa đem vui mừng và bình an đến trong tâm hồn các ông, và củng cố đức tin làm cho các tông đồ trở nên vững mạnh, can đảm thi hành sứ mệnh làm chứng và rao giảng Tin mừng cho Chúa. Đây là một sứ mệnh, như chúng ta biết, có tầm rất quan trọng, và Chúa biết trước rằng các ông sẽ phải đối diện với những khó khăn, thử thách, gian lao và đau khổ.
Bài tin mừng hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu hiện ra với 7 tông đồ là Phêrô, Tôma, Natanaen, Giacôbê, Gioan và 2 người khác không rõ tên, ở bờ biển Ti-bê-ri-a, nơi mà các ông đã từng sống trước khi theo Chúa. Đêm hôm đầu tiên, các ông rủ nhau đi đánh cá, nhưng hoàn toàn thất bại, không bắt được gì. Khi thuyền về gần đến bờ, thì Chúa Giêsu hiện ra, nhưng các ông không nhận ra Chúa, có lẽ vì mệt mỏi, chán chường và thất vọng. Sau vài câu chào hỏi, Chúa bảo các ông trở ra biển thả lưới. Chúng ta thấy, các ông đã thả lưới suốt cả đêm mà không bắt được gì, bây giờ đang mệt mỏi, buồn ngủ và chán nản lại bảo thả lưới ở gần bờ, chỗ mà theo kinh nghiệm lão luyện của các ông, chẳng bao giờ có cá thì hy vọng gì! Nhưng không biết tại sao các ông đã vâng lời làm theo lời chỉ bảo đó và đã được một mẻ cá lớn.
Tôi xin chia sẻ với ông bà anh chị em 3 ý nghĩa chứa đựng trong bài Tin mừng hôm nay. Ý nghĩ thứ nhất chú trọng trong câu Chúa Giê-su hỏi Phê-rô được lập lại 3 lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” 3 câu hỏi của Chúa Giê-su với Phê-rô liên quan đến 3 câu chối Chúa của Phê-rô trong ngày Chúa bị bắt. Ba câu trả lời của Phê-rô với Chúa là ba câu xác quyết lòng yêu mến để xóa bỏ và đền bù lại ba câu chối Chúa. Hay nói một cách khác, ba câu hỏi và trả lời này đã cho Phê-rô một cơ hội chuộc lỗi và tái xác định lòng trung thành của mình với Chúa.
Ý nghĩa thứ hai là chủ đích của bài Tin mừng. Chúng ta tự hỏi: tại sao thánh Gioan ghi chép lại câu chuyện này? Thánh Gioan muốn nói gì với chúng ta qua câu chuyện trong bài Tin mừng? Công Đồng Va-ti-can II đã trích dẫn ba câu nhắn nhủ của Chúa với Phê-rô “Hãy chăn dắt chiên Ta” là một bằng chứng hiển nhiên về việc Chúa trao ban sứ vụ, quyền năng và trách nhiệm cho tông đồ Phê-rô, trở thành chủ chăn và chăn dắt đoàn chiên của Người. Hay nói một cách khác, Chúa tái xác quyết ý định mà Chúa đã nói trước đây “Phê-rô, con là Đá, và trên đá này Ta sẽ xây giáo hội… Ta sẽ trao ban cho con chìa khóa Nước Trời.”
Chúng ta thấy trong dịp này vì sự yếu đuối và lỗi lầm của Phê-rô, Chúa có thể đổi ý định và rút lại quyết định chọn Phê-rô và nói với ông rằng “Vì con đã chối Ta ba lần, nên Ta quyết định rút lại ý định, và trao ban cho người khác.” Nhưng Chúa Giê-su Ki-tô đã không làm như vậy, Người còn tái xác nhận ý định của chính mình chọn Phê-rô làm chủ chiên.
Ý nghĩa quan trọng thứ ba là Chúa muốn dạy, Chúa muốn nói, Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta, những người lắng nghe lời Chúa hôm nay điều gì? Trước khi chúng ta vào điểm chính này, chúng ta trở về bài Tin mừng. Khi Chúa Giê-su bảo Phê-rô, một người lão luyện, đầy kinh nghiệm và đã thả lưới bắt cá cả đêm nhưng không được con cá nào, hãy trở ra biển và thả lưới. Chúng ta thấy Phê-rô đã bỏ sự tự cao và kiêu căng, để khiêm nhường nghe và thực hành lời Chúa phán bảo, kết quả thật lạ lùng, bắt được một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng. Vậy Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta điều gì? Chúng ta thấy trước đó, Phê-rô và các tông đồ tự ý đi đánh cá và thất bại, nhưng sau đó vì có sự hiện diện của Chúa Phục sinh, và biết khiêm nhường lắng nghe lời Chúa thì thành công một cách lạ lùng. Như Phê-rô và các tông đồ xưa, có lẽ chúng ta hằng cầu nguyện, nhiệt tình hy sinh phục vụ, làm việc tốt lành hay bác ái và quảng đại theo ý chúng ta, nhưng vì không có sự hiện diện của Chúa, cho nên việc làm của chúng ta không đem lại kết quả hay kết quả ít, không như lòng chúng ta mong ước, hay không có kết quả gì, làm cho chúng ta chán nản, thất bại hay cảm thấy vô vọng. Hay chúng ta vẫn cảm thấy sầu khổ và âu lo, vì Chúa vẫn còn chết tang trong mồ chưa sống lại. Có lẽ chúng ta đã quên lời Chúa nói với các môn đệ “Thầy là cây nho, chúng con là ngành. Ngành nào lìa cây sẽ khô héo. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì.” (John 15:5)
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta thấy sau khi đã xác quyết lòng yêu mến của mình với Chúa Giê-su ba lần “Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”, tông đồ Phê-rô và các tông đồ khác, qua sự hiện diện và lòng yêu mến Chúa chân thành, đã không quản ngại khó khăn và đau khổ, quyết tâm hy sinh và trung thành với Chúa để trở thành chứng nhân và rao giảng lời Chúa cho mọi người, Phê-rô đã trở thành chủ chăn của một giáo hội rộng lớn và tồn tại đến ngày nay. Đối với chúng ta, những Ki-tô hữu, hôm nay cũng thế, nếu chúng ta không có Chúa Phục sinh trong đời sống, không có lòng yêu mến Chúa chân thành, thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, phục vụ và hy sinh thì khó khăn, vác thập giá là một cực hình, bác ái và quảng đại là thiệt thòi. Vì sao? Vì chúng ta làm theo ý chúng ta, chúng ta hành động theo ý chúng ta, hay không có sự hiện diện của Chúa trong đời sống, không có lòng yêu mến Chúa chân thành. Còn nếu chúng ta có Chúa, có lòng yêu Chúa chân thành thì cầu nguyện là một việc thích thú và sốt sắng, chúng ta cảm thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ, vui mừng khi hy sinh phục vụ, bác ái và quảng đại vì tha nhân và vì Chúa.
Cho nên, ông bà anh chị em thân mến, ý nghĩa chính và bài học quan trọng Chúa muốn dạy chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay là: điều cần thiết trong đời sống Ki-tô hữu là phải bỏ sự tự cao, tự kiêu lắng nghe lời Chúa nói, phải có sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục sinh, và phải có lòng yêu mến Chúa chân thành, thì chúng ta mới có sự bình an và vui mừng, và đời sống Ki-tô hữu mới sinh kết quả tốt lành.
Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh đã hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Đó cũng là câu hỏi Chúa hỏi chúng ta hôm nay. Nếu thành thật nhìn vào đời sống, chúng ta trả lời Chúa như thế nào? Chúng ta thật sự có Chúa trong đời sống hay không? Có Chúa hiện diện và vâng lời Chúa, Phê-rô đã bắt được một mẻ cá lạ lùng. Chúng ta cầu xin, đời sống Ki-tô hữu của chúng ta cũng sinh nhiều hoa trái tốt lành đời này và đời sau, luôn luôn sống trong an bình, vui mừng và hạnh phúc vì có Chúa Guê-su Ki-tô Phục sinh hiện diện.
.
Lm. John Nguyễn
Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Một câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng không phải ai cũng có đủ can đảm để trả lời một cách dễ dàng như Thánh Phêrô đã thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Một buổi sáng Chủ Nhật, người mẹ bảo người con trai rằng, hôm nay mẹ muốn con chở mẹ đi tham dự Thánh lễ, vì lâu nay anh ta không đến nhà thờ. Trong lúc đang buồn ngủ và mệt mỏi, vì đêm qua anh ta đi chơi về rất khuya. Vả lại, anh ta cũng chẳng tha thiết gì với đạo nghĩa. Trong lúc bực tức vì mất giấc ngủ, anh ta trả lời với người mẹ rằng: “Mẹ đi theo Chúa của mẹ đi. Nếu mẹ có thấy Chúa thì hãy chỉ cho con. Con có thấy Chúa đâu.” Người mẹ đau buồn và lặng lẽ đi. Phải chăng câu nói của chàng thanh niên ấy cũng là câu nói của nhiều người trong chúng ta hôm nay? Chúng ta cũng đang hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa trong thế giới này? Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta hãy trở lại với trang Tin Mừng hôm nay qua biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ tại bờ biển Tibêria.
Sau một đêm dài vất vả mệt nhọc, các Tông đồ đã thất vọng vì không bắt được con cá nào, thì lúc trời rạng sáng, Chúa Giêsu hiện đến với các ông trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết đó là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và được đầy cá. Sau khi các ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ sau khi từ cõi chết sống lại.
Cái Chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu là nền tảng cho đời sống của đức tin chúng ta, vì Ngài chiến thắng sự chết và đã mở ra cho chúng ta con đường hướng đến cuộc sống mới. Chúng ta được tái sinh bởi nước và máu của Ngài. Ngài là Cha yêu thương và tha thứ cho chúng ta ngay cả khi chúng ta là tội nhân. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói trong bài giáo lý về Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin: “Giờ đây, chúng ta xem xét lại ý nghĩa sự phục sinh của Chúa Kitô đối với chúng ta và đối với ơn cứu độ dành cho chúng ta…” Thật vậy, chúng ta đang sống trong niềm vui mừng Chúa phục sinh. Nếu trong lòng của chúng ta không có niềm tin thì cũng trở nên vô ích. Hơn nữa, lòng yêu mến của chúng ta không chỉ dừng lại ở việc giữ các giới răn, mà là sự sống mới với niềm vui Chúa phục sinh. Chúng ta cần thay đổi cách nhìn Thiên Chúa. Niềm tin và hy vọng của chúng ta đặt trên nền tảng chứng thực của các Tông đồ, và niềm tin đó được nuôi dưỡng hằng ngày bằng cách nghe Lời Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực hành các công việc bác ái. Để nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta cần có thái độ cộng tác và cảm nghiệm đức tin qua biến cố trong cuộc đời của chúng ta.
Nếu bạn hỏi: Có thấy Thiên Chúa không? Bạn từ đâu đến? Bạn sẽ đi về đâu? Nếu bạn trả lời thắc mắc này, thì tôi sẽ chỉ cho bạn thấy Thiên Chúa ở đâu. Trong lớp giáo lý, cô giáo hỏi một bé gái: “Con tin có Thiên Chúa không?” – Cô bé mở tròn đôi mắt và trả lời: “Thưa cô, có chứ! Con luôn tin có Thiên Chúa.” – Sao con biết có Thiên Chúa mà tin? – Cô bé vô tư trả lời: “Hãy nhìn bầu trời, cảnh vật núi rừng, biển khơi, thì chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên những thứ đó. Qua đó, con tin có Thiên Chúa.” – “Con chỉ cho cô biết Thiên Chúa của con ở đâu?” – Cô bé tiếp tục trả lời: “Thưa cô, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, không có chỗ nào mà không có Thiên Chúa, và Chúa ở trong tâm hồn của con nữa.”
Với thân phận yếu đuối và giới hạn của con người, chúng ta tìm kiếm Chúa trong đức tin và lòng yêu mến của chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được tái diễn trên bàn thờ. Ngài đang hiện diện và chờ đợi chúng ta đến với Ngài. Ngài là người Cha yêu thương đang mong chờ chúng ta trở về với Ngài. Vì nơi Ngài, chúng ta được sống trong nguồn yêu thương, niềm vui và được đổi mới trong Chúa Phục Sinh.
Lạy Chúa, chúng con luôn yêu mến Ngài vì Ngài là nguồn ơn cứu độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng con. Amen.
.
LÒNG MẾN, ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC THA TỘI
VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 21,1-19
(1) Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này: (2) Ông Simon Phêrô, Ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. (3) Ông Simon Phêrô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Rồi mọi người ra đi, lên thuyền. Nhưng đêm hôm ấy họ không bắt được gì cả. (4) Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. (5) Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không”. (6) Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. (7) Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó”. Vừa nghe nói “chúa đó”, ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. (8) Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần trăm thước. (9) Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. (10) Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!”. (11) ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. (12) Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!” Không ai trong đám môn đệ dám hỏi: “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. (13) Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông. Rồi cá, Người cũng làm như vậy. (14) Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết. (15) Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. (16) Người lại hỏi” “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không? “Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”. (17) Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy. Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. (18) Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng, và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. (19) Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào, để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”.
- Ý CHÍNH: Đây là đoạn cuối của Tin mừng thứ tư, được chia làm 4 phân đoạn sau:
1- Các Tông đồ tập trung tại miền Galilê rủ nhau đi đánh cá và kết quả các ông không bắt được con cá nào! (C 1-3).
2- Chúa Phục Sinh xuất hiện chỉ cho các ông nơi thả lưới. Các ông vâng lời và đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Nhờ đó các ông đã nhận ra Người (C 4-8).
3- Trong bữa ăn sáng đã được dọn sẵn, Chúa Phục Sinh đã truyền lấy thêm cá mới bắt được và đã cử hành Lễ Bẻ Bánh giống như đã từng làm trước đó (C 9-14).
4- Cuối cùng Chúa Phục Sinh đã sát hạch Phêrô về lòng yêu mến trước khi trao quyền mục tử cho ông. Người cũng tiên báo cái chết đau thương sẽ đến với ông lúc cuối đời (C 15-19).
- CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Biển hồ Tibêria: Tìn mừng Mátthêu cho biết khi hiện ra với Maria Mácđala và một bà khác tên là Maria, Chúa Giêsu đã yêu cầu các bà báo tin cho các môn đệ để họ đến Galilê gặp Người (Mt 28,1.10). + Ông Simon Phêrô…: Tin mừng kể ra số các môn đệ đang ở chung khi ấy là 7 ông: Simon Phêrô, Tôma, Nathanaen, hai anh em Giacôbê Gioan và hai môn đệ khác. Simon quyết định sẽ đi đánh cá và được các ông kia hưởng ứng.- Đêm hôm ấy họ không bắt được gì: Người ta thường đi đánh cá vào ban đêm. Nhưng hôm ấy các ông đã luống công vô ích!
– C 4-8: + Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó!”: Gioan luôn phát hiện ra Chúa Giêsu trước các anh em nhờ lòng yêu mếnThầy. + Phêrô khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển: Phêrô tính vốn nóng nảy, nên khi nghe “Chúa đó!”, thì ông đã vội khoác áo vào và nhảy xuống biển bơi nhanh vào bờ để mau gặp Người.
– C 9-11: + Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên: Chúa Giêsu đã nêu gương phục vụ dọn sẵn bữa ăn sáng cho môn đệ. Các ông đã được Người mời ăn và tăng cường thêm bằng cá mới bắt được. + Simon Phêrô lên thuyền rồi kéo lưới vào bờ: Nếu Gioan là người suy tư chiêm niệm nên sớm nhận ra Chúa trước mọi người, thì Simon Phêrô lại là người mau mắn hành động để biểu lộ lòng yêu mến Thầy. Điều này cho thấy suy niệm và họat động cần luôn đi đôi với nhau trong việc xây dựng Hội thánh. + Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con: Theo thánh Hi-ê-rô-ni-mô thì các nhà vạn vật học thời xưa đã khám phá ra được 153 loại cá. Con số 153 ở đây tượng trưng mọi dân tộc, và tất cả đều được mời gọi gia nhập vào Hội thánh: “Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển gom được mọi thứ cá” (x. Mt 13,47). + Lưới không bị rách: tượng trưng cho sự hiệp nhất trong Hội thánh.
– C 12-14: + “Anh em hãy đến mà ăn!”: Lời Chúa mời gọi các môn đệ đến ăn, giống như Người đã mời các ông dự tiệc Thánh thể (x. Mt 26,26). Bánh được trao cho môn đệ giống như Đức Giêsu đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,11). + “Con cá”: tiếng Hy-lạp gọi là IK-TUS. Đây là năm chữ đầu của một lời tuyên xưng đức tin: “Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa” (Ièsous Kristos Théou Unios Sôter). Khi chia sẻ Cá, Chúa Giêsu ngụ ý sẽ chia sẻ Thánh Thể Người là “Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa” cho các môn đệ. + Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ: theo Gioan thì lần thứ nhất Chúa Phục Sinh hiện ra vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần không có Tôma (x. Ga 20,19-23); Lần hai 8 ngày sau đó và có Tôma (x. Ga 20,26-31). Đây là lần thứ ba Người hiện với 7 môn đệ tại biển hồ Galilê.
– C 15-17: + “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”: Sau ba lần sát hạch về lòng mến, Đức Giêsu đã từng bước biến đổi Phêrô đang từ một người đánh cá trở thành một mục tử có quyền chăn chiên (x. Ga 10,11). Tuy nhiên đàn chiên kia vẫn thuộc về Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”. + Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?: Phêrô đau lòng vì việc bị hỏi ba lần làm ông liên tưởng đến ba lần ông đã chối Thầy (x. Ga 13,38 ; 18,17.25-27). Đức Giêsu đã tế nhị khi không trực tiếp đề cập đến tội của Phêrô, mà chỉ yêu cầu ông xác định tình yêu dành cho Người. Mỗi lần Phêrô khẳng định lòng mến, lĐức Giêsu lại tha tội và trao thêm quyền: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy…”(C 5-17).
– C 18-19: + Lúc còn trẻ… Nhưng khi đã về già….: Tuổi trẻ có đặc tính là tự do hành động (“Đi đâu tùy ý”). Tuổi già có đặc điểm là gò bó thụ động (“Anh sẽ phải dang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn: ). + Người nói như vậy có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào: Quả thật, lời tiên báo này đã được ứng nghiệm vào lúc cuối đời của Phêrô trong cơn bách hại đạo tại Rôma thời hoàng đế Nêrông. Phêrô đã phải chịu khổ hình thập giá nhưng lại xin treo đầu ngược xuống đât, vì ông cảm thấy mình không xứng đáng được chịu cùng hình khổ giống như Thầy.
- CÂU HỎI: 1) Tại sao các môn đệ lại cùng hiện diện tại Biển hồ Tibêria thuộc xứ Galilê vào thời điểm sau khi Chúa phục sinh ? 2) Có mấy môn đệ cùng đi đánh cá với Simon Phêrô ? 3) Do đâu mà Gioan luôn nhận ra Chúa Giêsu trước các anh em khác ? 4) Chúa Giêsu đã tiên báo thế nào về số phận cuối đời của Tông đồ Phêrô ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì sẽ bắt được cá”(Ga 21,6).
- CÂU CHUYỆN:
1) THẦY ĐI ĐÂU?
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của thánh Phêrô với cái chết đã được Chúa Giêsu tiên báo: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, để ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”. Câu chuyện truyền kỳ đã được dựng thành phim “Quo vadis” nghĩa là: “Thầy đi đâu?” như sau:
Bấy giờ tông đồ Phêrô đã đến Thủ đô của Đế quốc Rôma, giữa lúc hoàng đế Nêrông đang ra tay bách hại đạo Công giáo. Một số tín hữu đã chịu chết vì đạo. Trước tình thế nguy hiểm, các tín hữu đã khuyên Phêrô hãy mau chạy trốn khỏi thành, để tiếp tục sứ vụ lãnh đạo Hội Thánh.
Nhờ khéo cải trang và thoát được sự rà soát kỹ lưỡng của bọn lính canh cổng, Phêrô đã ra được bên ngoài. Nhưng rồi ông đã gặp Chúa Giêsu mặc áo trắng đang đi ngược vào trong thành, ông liền hỏi Người rằng: “Quo vadis?” nghĩa là “Thầy đi đâu?” Chúa Phục Sinh đã trả lời: “Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa”. Nói xong Chúa biến mất. Phêrô hiểu được ý Chúa, nên ông lại quay trở lại vào thành Rôma. Ít ngày sau, ông đã bị quân Rôma bắt giam chung phòng với các tín hữu sắp chịu hành hình. Tai đây, ông đã an ủi động viên họ hãy can đảm và kiên trì trung thành tin vào Chúa Giêsu. Rồi ông đã bị tòa kết án tử hình. Đến ngày bị đưa ra vận động trường chịu hành hình, Phêrô đã được chứng kiến cảnh các tín hữu: kẻ thì bị quăng ra để làm mồi cho thú dữ cắn xé ăn thịt, kẻ thì bị cháy thành than trên dàn hoả thiêu. Khi đến lượt chịu đóng đinh trên thập giá, Phêrô đã đề nghị quân lính treo thập giá ngược để đầu ông quay xuống đất và chân giơ lên trời, vì ông nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh cùng một cách thức giống như Thầy Giêsu.
2) CÁI CHẾT ANH DŨNG CỦA ĐỨC CHA ROMERO NƯỚC EL SANVADOR:
Trong số các Giám Mục nổi tiếng can đảm của Giáo Hội Châu Mỹ La tinh, phải kể đến Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô San Sanvador. Ngày Đức Cha còn sống, Chúa nhật nào nhà thờ chính tòa cũng chật ních tín hữu đến tham dự thánh lễ và nghe ngài giảng. Đức Cha thường cho giáo dân biết tin tức liên quan đến Giáo Hội, đến tình trạng trong nước và mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực, bất công và nghèo đói do chính quyền cũng như phe du kích gây ra cho dân chúng. Đức tổng giám mục Romero cũng dùng đài phát thanh để gây ý thức nơi dân chúng và thẳng thắn tố cáo các vụ vi phạm quyền con người do các lực lượng nói trên chủ mưu. Nhưng tiếng nói của Đức cha không làm cho chính quyền quân đội El Sanvador cũng như lực lượng du kích hài lòng. Sau nhiều lần hăm dọa mà không có kết quả, những kẻ thù ghét Đức Cha đã quyết định giết ngài.
Sáng ngày 24/03/1980 họ đã sai người ám sát Đức tổng Giám mục Romero ngay trong nhà nguyện của bệnh việc thủ đô, nơi Đức tổng Giám mục hằng ngày vẫn đến dâng thánh lễ cho các nữ tu, nhân viên y tế và bệnh nhân. Kẻ sát nhân ngồi trà trộn trong số các tín hữu hiện diện. Không hiểu Đức cha có linh cảm mình sắp sửa phải đổ máu ra như hiến tế mưu cầu hòa bình cho một dân tộc El Sanvador hay không, nhưng trong vài lời suy tư ngắn trong Phúc Âm, Đức cha nói: “Như chủ chăn sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên, Ngài cũng sẵn sàng chết miễn là nước nhà được hòa bình tươi sáng, nhân dân El Sanvador được sống trong ấm no thịnh vượng”. Đức Cha rời tòa giảng tiến lên bàn thờ, thì chính lúc đó kẻ sát nhân tiến lên rút súng bắn Ngài. Đức Tổng Giám mục Romero gục ngã trước bàn thờ máu lênh láng chảy và thánh lễ cuối cùng của vị chủ chăn hôm đó đã dang dở, nhưng đã thành Thánh lễ trọn vẹn. Vì vị chủ tế đã trở thành con chiên hiến tế y như Chúa Giêsu trên Thập giá ngày xưa.
Đức tổng Giám mục Romero đã chết vì đã trung thành với sứ mệnh chủ chăn của Ngài: “Thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời người ta”.- (Trích đài phát thanh Veritas)
3) CẬU ĐÃ LÀM ĐƯỢC GÌ CHO CHÚA GIÊSU?
Một buổi tối nọ, viên sĩ quan trẻ tuổi người Pháp SÁC ĐỜ PHUCÔ (Charles de Foucauld) đang say sưa kể cho mọi người trong gia đình nghe về những chiến công hiển hách trong nhiều trận chiến cùng những cuộc thám hiểm của anh ở nước Ma-rốc xa xăm. Người chăm chú lắng nghe kể chuyện nhất lại là cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kết thúc câu chuyện, thì bất ngờ cô bé đã hỏi như sau: “Thưa cậu, cháu rất hãnh diện khi thấy cậu làm được những việc lớn lao cho nước Pháp. Thế nhưng cháu thắc mắc điều này là: “Cậu đã làm đựơc gì cho Chúa Giêsu chưa?”
Câu hỏi ấy như một luồng điện khiến anh giật mình. Từ trước đến nay, chưa bao giờ anh gặp câu hỏi nào bắt phải suy nghĩ nhiều như thế. Phải, “Anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?” Khi đối diện với Chúa, anh đã nhận ra rằng: từ trước đến nay anh đã phí phạm thì giờ ăn chơi xa xỉ, đã chạy theo bả vinh hoa phú quí vô ích. Giờ đây anh đã ý thức được sự nghèo hèn của mình. Sau đó vài ngày, anh xin nhập vào một dòng tu và xin bề trên cho đến ở miền Nadarét nước Ítraen quê hương Chúa Giêsu, để tận hiến trọn đời phụng sự Người.
Một ngày nọ, đang lúc cầu nguyện trong nhà, anh bỗng nghe thấy có tiếng than van rên rỉ của một người Hồi giáo nhưng không biết tiếng nói đó phát ra từ đâu. Anh liên tưởng đến Lời Chúa Giêsu về thái độ phải có đối với những kẻ thù ghét mình, và quyết định sẽ đi làm bạn với người Hồi giáo. Anh dời đến sống ở giữa sa mạc Sahara bên Phi châu, nơi có nhiều người Hồi giáo nghèo khổ. Thế rồi “điều phải đến đã đến”: Vào đầu tháng 12 năm 1916 khi đang cầu nguyện trong nhà, anh đã bị một toán người Hồi giáo cực đoan kéo đến sát hại. Ngày nay các tiểu đệ và tiểu muội tiếp tục sống theo lý tưởng của anh là tự nguyện sống giữa người nghèo để lao động và chia sẻ nỗi khốn cùng của họ, và giúp họ thăng tiến để được ơn cứu độ.
- THẢO LUẬN: 1) Những khó khăn mà Hội thánh, đặc biệt là Đức Giáo Hoàng phải đương đầu hiện nay là gì? 2)Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì cụ thể để cảm thông với những khó khăn của các chủ chăn, để có thể cộng tác với các ngài trong sứ vụ loan báo Tin Mừng và phục vụ đoàn chiên Hội thánh?
- SUY NIỆM:
1) Mẻ cá lạ lùng là hình ảnh của sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh:
Đoạn Tin Mừng CN hôm nay thuật lại câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade hay là Ghennêsarét thuộc xứ Galiêa, nơi các môn đệ Đức Giêsu đã từng hành nghề đánh cá trước khi theo làm môn đệ Người. Đây cũng là nơi mà Chúa Phục Sinh đã nhắn tin cho các môn đệ phải trở về Galilê để gặp Người. Trong lúc rảnh rỗi, các ông đã rủ nhau đánh bắt cá trong biển hồ. Nhưng sau một đêm vất vả cực nhọc vô ích, vào lúc tảng sáng, các ông đã gặp được Chúa Phục Sinh đứng trên bờ hồ mà các ông không nhận ra. Người đã hướng dẫn các ông đánh bắt cá và kết quả là một mẻ cá lạ lùng. Môn đệ Gioan đã nhận ra Thầy Giêsu trước hết. Còn Phêrô khi biết là Chúa Phục Sinh, liền khoác áo vào rồi nhảy xuống nước bơi vào bờ để gặp Thầy cho nhanh.
Về con số 153 con cá lớn theo các nhà chú giải Kinh Thánh là tượng trưng cho mọi loại cá thời bấy giờ. Như vậy, dưới ánh sáng của Lời Chúa, mẻ lưới lạ lùng của các tông đồ chính là hình ảnh sứ vụ loan Tin Mừng của Hội Thánh. Chính nhờ Thần Khí của Chúa Phục Sinh mà Hội Thánh sẽ chu toàn được sứ vụ loan báo Tin Mừng, đưa muôn dân tộc vào đoàn chiên của Chúa Giêsu.
2) Những khó khăn trên bước đường loan báo Tin Mừng:
Việc thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng không phải là điều dễ dàng: Bài đọc I trong sách Công vụ Tông đồ cho thấy các môn đệ của Chúa đã bị các đầu mục Do thái cấm rao giảng về danh Chúa Giêsu. Nhưng các ngài đã sẵn sàng chịu hình phạt để chu toàn sứ vụ này. Tông đồ Phaolô nhiều lần bị ném đá, bị đánh đòn, bị cùm trong ngục tù, bị đắm tàu, đói khát, mình trần… vì danh Chúa Giêsu. Cuối cùng hầu hết các tông đồ đều chịu chết để làm chứng cho Chúa.
Thực ra, sứ vụ rao giảng Tin Mừng không dành riêng cho các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ… mà chung cho mọi tín hữu đã chịu phép rửa tội và Thêm Sức. Ở mọi nơi mọi lúc, người làm tông đồ rao giảng Tin Mừng đều có thể gặp phải những khó khăn bách hại … Nếu chỉ dựa vào sức riêng, chắc chắn chúng ta sẽ dễ thất bại và nản chí buông xuôi. Nhưng nếu biết cậy nhờ ơn Thánh Thần của Chúa Phục Sinh hướng dẫn trợ lực, chúng ta sẽ luôn hăng hay chu toàn sứ vụ này và đạt được nhiều thành quả to lớn. Bởi vì “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Điều quan trọng là chuyên cần lắng nghe Lời Chúa, suy niệm để tìm hiểu ý Chúa và quyết tâm thực hành với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, thì chắc chắn sẽ đạt được kết quả lạ lùng.
3) Tin yêu: điều kiện để được tha tội và được trao quyền chăn dắt đoàn chiên:
Sau bữa ăn thân mật trên bãi biển, Chúa Phục Sinh đã tâm sự riêng với ông Phêrô. Trước khi trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh, Chúa Phục Sinh đã đòi Phêrô tuyên xưng ba lần yêu mến như sau: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Qua đó Người đòi các mục tử phải có lòng mến Người hơn những người khác. Đồng thời qua việc tuyên xưng này, Người gián tiếp tha tội chối Thầy cho Phêrô.
Đáp lại câu hỏi của Chúa, ông Phêrô đã ba lần thưa như sau: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Trên cơ sở lòng mến này, Chúa Giêsu đã lần lượt trao ban quyền chăn dắt chiên con và chiên mẹ cho ông. Người cũng tiên báo sau này ông sẽ bị bắt bớ và giết hại để làm chứng cho Người.
4) Cảm thông và cộng tác với các mục tử trong Hội Thánh hôm nay:
Ngày nay, có biết bao các vị mục tử đang âm thầm chịu thiệt thòi đau khổ, để chu toàn sứ vụ loan báo Tin mừng. Các ngài đã can đảm trung thành với nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên, giống như các tông đồ xưa khi bị điệu ra Thượng Hội Đồng Do thái, đã trả lời rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
Ngày nay, các tín hữu chúng ta cần biết cảm thông với những khó khăn gian khổ của các vị mục tử đang phải chịu để năng cầu nguyện cho các ngài. Nhất là mỗi người chúng ta phải trở thành những cánh tay nối dài của các vị chủ chăn bằng cách quảng đại góp phần xây dựng cơ sở vật chất và sẵn sàng đảm nhận việc phục vụ cộng đoàn theo sự phân công của các ngài.
Để làm được điều này, chúng ta cần hăng hái gia nhập vào các hội đoàn Tông Đồ Giáo Dân để được bồi dưỡng đức tin qua các sinh hoạt học sống Lời Chúa hằng tuần, chu toàn các công tác tông đồ bác ái được cấp trên phân công. Ngoài ra, còn phải năng dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa, hầu có thể chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng như các tông đồ khi xưa.
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊSU PHỤC SINH.
Lúc chúng con đi tìm Chúa trong nước mắt sầu thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con, như Chúa đã gọi tên chị Maria Mácđala khi chị đang đứng khóc bên cạnh ngôi mồ trống.
Lúc chúng con chán nản muốn bỏ Chúa để trở về cuộc sống đời thường, xin hãy cùng đi với chúng con trên những nẻo đường dài, như Chúa đã đồng hành với hai môn đệ về làng Emmau.
Lúc chúng con đang đóng kín cửa lòng vì sợ hãi, xin Chúa hãy ngự đến chúc bình an, như Chúa đã hiện đến trấn an các tông đồ đang khiếp nhược sợ hãi.
Lúc chúng con đang cố chấp muốn làm theo ý riêng và ngày một xa cách anh em, xin hãy biến đổi lòng trí chúng con, như Chúa đã không bỏ mặc tông đồ Tôma cứng tin, nhưng đã giúp ông cảm nghiệm mầu nhiệm Phục Sinh và tuyên xưng đức tin vào Chúa.
Lúc chúng con đã vất vả thâu đêm mà không đạt tới kết quả nào, xin hãy dùng Lời Chúa dẫn đường chỉ lối cho chúng con và bổ dưỡng chúng con bằng bữa tiệc Thánh như Chúa đã phục vụ các Tông đồ tại bờ hồ Galilê.
– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin hãy tỏ cho chúng con thấy Chúa đang hiện diện trong Hội thánh và nơi tha nhân nhất là nơi những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi. Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa vẫn đang hiện diện, đang đến với chúng con mỗi ngày qua các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể; Chúa vẫn luôn đi bên và ở trong lòng chúng con, thổi hơi ban Thần Khí để tái tạo đức tin của chúng con, hầu giúp chúng con chu toàn được sứ vụ “được sai đi loan báo Tin mừng đến cho mọi người”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
KHỞI HÀNH SỨ MẠNG VỚI CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Dã Quỳ
Sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô thiết lập Hội Thánh và trao quyền cho Phêrô chăn dắt đoàn chiên của Chúa nơi trần thế. Người cũng trao cho các môn đệ sứ mệnh ra đi làm chứng cho Chúa. Qua những sự kiện đời thường trong lần hiện ra này, Chúa muốn dạy các ông cần khởi hành thực hiện sứ mạng mới với Chúa, trong quyền năng và ý muốn của Người.
+Thả lưới theo hướng dẫn của Chúa. Lúc bình minh, khi môn đệ đang buồn rầu vì suốt đêm vất vả, đã đem hết khả năng kinh nghiệm để đánh cá mà vẫn thất bại. Chúa đến, Người yêu cầu các ông thả lưới bên phải thuyền. Một mẻ cá lạ lùng đạt được hôm nay nhắc nhớ đến một lần thuở ban đầu theo Thầy, Phêrô và các bạn cũng đã nhọc nhằn cả đêm không bắt được gì, nhưng khi Chúa bảo họ thả lưới bên phải thuyền, họ làm theo và bắt được rất nhiều cá.( x. Lc 5, 1-11)
Sau mẻ cá không ngờ này, “Tông đồ được Chúa thương mến” nhận ra đó chính là Chúa của mình và nói cho Phêrô. Quyền năng của Đấng Phục Sinh làm cho mắt ông mở ra và tình yêu giúp ông nhận ra Chúa. Có lẽ lúc này các ông nhớ lại lời Chúa đã nói “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.”(Ga 15,5b) Vâng lời Thầy, thực hiện theo sự hướng dẫn của Thầy, tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Thầy và cùng làm với Thầy; thành công hay bất cứ hoàn cảnh nào, môn đệ vẫn luôn bình an, sẽ sáng suốt nhận ra “Chúa đó!” Chúa vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành sẻ chia cùng.
Chính vì thế mà sau này khi đi rao giảng, các ngài cũng chỉ một lòng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.”(Cv 5, 29) Phêrô không còn cậy dựa vào sự hiểu biết của mình, nhưng ông xác tín lời chứng của ông là: “cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.” (Cv 5, 32) Vì tình yêu mãnh liệt vào Chúa, các Tông đồ dù bị đánh đòn và cấm cách, lòng vẫn hân hoan được chịu đau khổ vì danh Chúa Giêsu.
Hôm nay, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy thả tấm lưới yêu thương, công bằng, sự thật và bình an ngay trong cuộc sống đời thường của mình. Đời người Kitô hữu sống giữa trần gian và những thực tế của xã hội đôi khi làm ta nản lòng chẳng muốn ra khơi hay thả lưới dù ta cũng có chút tài năng hay kinh nghiệm nhưng vẫn cứ thất bại và thiệt thân. Ta đã cố gắng sống ngay lành, yêu thương để làm chứng cho Chúa nhưng vẫn chả đi đến đâu. Vậy hãy quay về với Chúa Giêsu, trong kinh nguyện ta lắng nghe tiếng Chúa và dù có vất vả, ta vẫn tiếp tục “Vâng lời Thầy.” Tin tưởng vào Chúa Phục Sinh và quyền năng của Người.
+ Trở về bên Chúa để được bồi dưỡng. Đấng Phục Sinh đang ở bên bếp than hồng. Chúa chờ để chia sẻ với họ bữa ăn thân mật và đoàn tụ. Tình yêu Chúa dành cho các môn đệ thật chu đáo và nồng ấm. Chúa đã chuẩn bị tất cả “Có sẵn than hồng với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa.” (Ga 21, 9) Thế mà, trước đó Chúa đã hỏi các ông “Này các chú, không có gì ăn ư?”(Ga 21,5) Chúa biết rõ các ông và dường như Chúa muốn các ông chân nhận tình trạng của mình để rồi càng biết vâng lời Chúa, tin tưởng vào Chúa hơn.
Lối giáo huấn của Chúa thật tuyệt! Dù đã dọn sẵn cá và bánh, nhưng Chúa vẫn mời các ông “đem ít cá mới bắt được tới đây.”(Ga 21,10) Đó là thành quả, là công sức của các ông và họ có quyền tự hào vì đã thi hành theo ý Chúa. Chắc hẳn các môn đệ nhớ lại nhiều lần sau khi rao giảng, Chúa cũng thường nhắc nhở các ông nghỉ ngơi hay những lần hóa bánh, Người mời các ông cộng tác. Thật hạnh phúc vì lời mời chan chứa yêu thương “Anh em đến mà ăn” (Ga 21, 12) Và cũng thật vui vì được góp phần vào bữa tiệc. Sự chăm sóc ân cần này chỉ có Chúa dành cho các ông, nên tất cả đã biết đó là Chúa. Hơn thế nữa, cử chỉ bẻ bánh và cá trao cho từng người chỉ là cử chỉ của Chúa. Qua cử chỉ duy nhất này thì bất cứ môn đệ nào cũng nhận biết rõ đó là Chúa Giêsu.
Bữa ăn của Chúa và các môn đệ bên bờ biển tượng trưng cho Bữa Tiệc Thánh Thể hôm nay. Không thể có ra khơi tung lưới mà không có trở về bên Chúa. Trong Cử Hành Thánh Thể, mỗi Kitô hữu kín múc được nguồn sức sống từ Chúa. Thánh Lễ là đỉnh cao của Giáo Hội. Trong Thánh Lễ, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa dạy, được chính Chúa trao ban Bánh là Thịt Máu Người. Cũng chính trong Thánh Lễ, chúng ta được mời gọi trao chúc bình an cho nhau, tha thứ và hòa giải vì ta được cùng ăn một Tấm Bánh, ta cố gắng làm như Chúa, chăm sóc anh chị em như Chúa đã chăm sóc ta, sống tình cộng đoàn yêu thương nhau như Chúa mời gọi. Chính Thánh Lễ bảo đảm rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta sẽ không chấm dứt.
+ Sống và chết với Chúa. Chúng ta thấy mặc dù Phêrô đã chối Chúa, thế nhưng hôm nay Chúa trao cho ông làm đầu Hội Thánh. Theo cái nhìn bình thường thì ta thấy điều này hơi bất thường, nhưng đặt trong ánh sáng của lòng thương xót và tha thứ thể hiện trong Chúa Giêsu, ta sẽ nhận ra quả là điều kỳ diệu của tình yêu. Lỗi lầm không phải là không thể xóa được. Nhấn mạnh đến ba lần hỏi Phêrô “anh có mến Thầy không?”, Chúa Giêsu như muốn làm vọng lại và thỏa ý với ba lần chối Chúa của ông. Lời giáo huấn và thái độ của Chúa đối với người môn đệ luôn rất dứt khoát, chỉ dựa vào tình yêu. Tình yêu của Chúa đụng chạm vào con tim của con người và mở ra với hành động tha thứ. Tình yêu nảy mầm sống mới trong trái tim.
Sự sống mới đã vươn mầm trong Tông đồ Phêrô. Từ nay ông không còn khoác lác tự phụ nữa. Trước đây ông đã nói:”Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.”(Mc 14, 29) Giờ đây ông không dám khẳng định mình yêu Thầy hơn những người khác. Ông biết rằng ông yêu Chúa và đón nhận điều đó với lòng khiêm nhường “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.”(Ga 21,17) Gần như trong ngại ngùng ông đã cảm thấy tất cả là ân huệ nhưng không mà ông được lãnh nhận thế mà ông đã không giữ lại trong sâu thẳm hồn mình.
Chúa Giêsu không muốn Phêrô nhìn về quá khứ nhưng là hướng về tương lai. Nếu Chúa đã chất vấn ông về tình yêu, đó là để chuẩn bị cho ông một trách nhiệm mà Người sẽ tin tưởng trao cho ông. Và nếu những câu hỏi của Chúa là sự nhấn mạnh đó là để cho ông hiểu một điểm tuyệt đối cần thiết cho ông đó là Yêu Thương. Ông không thể nối dài sự hiện diện và hoạt động của Thầy mà không yêu Thầy cách say mê và không yêu như Thầy. Chỉ có tình mến Thầy mới giúp ông chăn dắt đoàn chiên Thầy trao. Chăm sóc chiên bằng tình yêu mà ông yêu Thầy, thông truyền cho chiên tình yêu của Thầy dành cho ông và tình yêu, lòng tin của ông đối với Thầy. Chỉ bằng cách này, ông mới giúp chiên cảm nhận được sự hiện diện thực của Chúa Giêsu và tình yêu của Người dành cho ông, cho chiên. Đây chính là ý nghĩa cuộc sống tông đồ chứ không phải là những thành công rực rỡ bên ngoài.
Trước đây Phêrô đã bỏ chài lưới, bỏ nhà cửa để theo Chúa. Nhưng hôm nay, Chúa mời gọi ông trao phó chính mình để chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh và để được “dẫn anh đến nơi mà anh chẳng muốn.”(Ga 21, 18) Chúa muốn Phêrô sống như Thầy, làm những gì Thầy làm và hiến mạng sống như Thầy đã hiến trao. Mỗi Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi sống trọn cuộc sống của mình và noi gương các Tông đồ, hăng say gieo tấm lưới cuộc đời mình “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới.” Dám can đảm sống chứng nhân cho Chúa giữa lòng đời hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương chăm sóc chúng con. Xin giúp chúng con biết sống xứng đáng là con cái Chúa và hăng say làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.
.
HÃY VÂNG LỜI THIÊN CHÚA HƠN VÂNG LỜI NGƯỜI PHÀM
.
Lm. Giuse Trực
Đặt trang Tin Mừng hôm nay dưới ánh sáng của Lòng Thương Xót, tôi thấy được một Giáo hội của Lòng Thương Xót.
- Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Trước hết, Lòng Thương Xót của Chúa được biểu lộ rõ ràng qua cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Đối với loài người, sự hy sinh cho người khác là một công ơn không gì đền đáp được. Những liệt sĩ hy sinh vì tổ quốc sẽ được tổ quốc “đời đời nhớ ơn”. Những người vợ, những người mẹ hy sinh cho chồng, cho con được thơ văn ca ngợi như: “con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, hay: “Cái cò là cái cò con, mẹ đi xúc tép để con ở nhà, mẹ đến chỗ cánh đồng xa, mẹ sà chân xuống phải mà con lươn”… Tuy nhiên sự hy sinh của con người dành cho nhau chỉ dừng lại ở cái chết, và cái chết đó là cái chết đẹp vô cùng. Dù người đời có đời đời nhớ ơn, có ca ngợi thì cũng thế thôi, hoàn cảnh của người ở lại cũng không thể thay đổi được.
Đức Giêsu cũng đã hy sính tính mạng vì loài người. Đó là tình yêu thể hiện Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở cái chết, mà Ngài còn Phục Sinh để làm cho thân phận phải chết của con người cũng được sống lại với Ngài. Vì vậy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở việc hy sinh mạng sống, mà còn có khả năng đưa nhân loại đến hạnh phúc vô tận.
- Đấng Phục Sinh chuẩn bị mọi sự sẵn sàng
Khi các môn đệ đang trong tâm trạng buồn sầu vì Thầy mình đã chết, sợ hãi vì có nguy cơ mình cũng sẽ bị bắt và giết chết, thất vọng vì “3 năm vất vả chỉ bằng không”… Quá chán nản nên họ tìm cách thoát khỏi hoàn cảnh đó. Phêrô là người chủ động khởi xướng: “Tôi đi đánh cá đây!” Vai trò lãnh đạo của Phêrô dường như đã được chuẩn bị từ trước. Mọi người đều cùng chung tâm trạng, nhưng chỉ khi Phêrô muốn rời khỏi nơi đó thì những người còn lại mới nói: “Chúng tôi cùng đi với ông”.
Đánh cá ban đêm là kinh nghiệm của ngư dân chuyên nghiệp như Phêrô và các anh em của ông. Nhưng ở đây tác giả Tin Mừng dường như muốn “thê thảm hóa” hoàn cảnh của các ông. Các ông ra đi trong đêm tối, nghĩa là lúc cuộc đời “tối đen như mực”. Mọi thứ chung quanh không còn lối thoát, chẳng biết đường biết hướng về đâu… Và quả thật, kết quả: “Đêm ấy họ không bắt được gì cả”.
“Khi trời cả sáng”. Đây không chỉ là quy luật của vũ trụ, mà còn nói lên sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Ngài đã lẽo đẽo theo các ông trên bãi biển suốt đêm. Ngài nhìn các ông vất vả trong đêm tối… Không phải chỉ đi theo, chỉ nhìn thấy hoàn cảnh “trong đêm tối” của các môn đệ, mà Ngài đã chuẩn bị sẵn “than hồng với cá đặt ở trên, và cả bánh nữa”.
Sau mẻ cá lạ lùng mà người lạ mặt đã chỉ cho, chắc chắn các ông vui lắm. Nhưng chỉ có một người vượt qua niềm vui tự nhiên đó để nhận ra hành động này là sự can thiệp của một con người rất thân thương: “Chúa đó!”. Người nhận ra Chúa chính là “môn đệ được Đức Giêsu thương mến”. Công sức con người chẳng là gì cả, nhưng Chúa luôn luôn ban thưởng cho những cố gắng của họ.
Sau khi tất cả đã lên bờ, một cảnh tượng hạnh phúc vì họ được quây quần bên Đấng Phục Sinh. Chắc chắn chưa bao giờ các ông vui như vậy vì mọi tâm trạng, mọi cảm xúc trong con người các ông đã được thay đổi nhờ sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Than hồng, cá, bánh… tất cả đều nói lên tình yêu của một người Thầy không bao giờ bỏ rơi đệ tử của mình.
- Giáo Hội của Lòng Thương Xót
Khi đang ăn uống với Đấng Phục Sinh trên bãi biển, chắc có lẽ các môn đệ không mong muốn gì hơn nữa. Hay nói cách khác, cuộc đời của các ông chỉ mong có thế thôi. Nhưng Đấng Phục Sinh nhìn đến một tương lai xa hơn, vì Ngài biết rằng Ngài phải trở về cùng Cha. Ngài muốn tình yêu thương Ngài dành cho tập thể nhỏ bé này phải được nhân lên, lan rộng đến tận cùng trái đất. Và cảnh tượng trên bãi biển này phải là mô hình cho Giáo hội đó. Mọi người quây quần hạnh phúc bên Đấng Phục Sinh.
Để có được hạnh phúc đó, Đấng Phục Sinh thể hiện Lòng Thương Xót của Ngài một cách rõ nét.
Lòng Thương Xót khi chọn Phêrô làm người lãnh đạo mặc dù trước đó mấy hôm ông đã chối thầy 3 lần. Điều kiện để Đức Giêsu trao đoàn chiên lại cho ông là: “Con có mến Thầy không?” Điều đó nhắc nhở cho bản thân ông biết rằng chỉ vì tình yêu mà Đức Giêsu đã chọn ông, thì ông cũng phải dùng tình yêu mà đối xử với đoàn chiên này. Chính vì vậy mà Giáo hội của Chúa được mời gọi không ngừng thể hiện Lòng Thương Xót.
- Giáo hội thể hiện Lòng Thương xót
Sau khi đọc trang Tin mừng này tôi mạnh mẽ trả lời cho câu hỏi: “Giáo hội là gì?” Thưa Giáo hội là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Nhiều cuộc tấn công nhắm vào Giáo hội với nhiều hình thức khác nhau, nhưng tôi luôn luôn xác quyết lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp Phục Sinh 2016: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không bao giờ chết”.
Tuy nhiên Lòng Thương Xót đó bị chính những con người trong Giáo hội ngăn chặn lại nếu họ không khơi thông trái tim của mình, nghĩa là không biết thực thi lòng thương xót của Chúa.
Những cơ cấu quá nặng nề, quá rườm rà… Những mục tử không quảng đại, không biết hy sinh, quên mình… Những con chiên tranh giành, đấu đá lẫn nhau…
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở cho mọi người trong Giáo hội biết rằng: “Tất cả chúng ta đều là đối tượng của Lòng Thương Xót”. Nghĩa là chúng ta đều là những con người tội lỗi nhưng Chúa sẵn sàng tha thứ và mở một cánh cửa khác cho chúng ta. Lòng Thương Xót của Chúa sẽ bị tổn thương khi con người không biết trân trọng điều đó để kết án người khác.
Hình ảnh các môn đệ ra đi trong đêm tối, vất vả, cực nhọc mà không được gì; chỉ khi ánh sáng bừng lên, Đấng Phục Sinh hiện diện thì các ông mới được sưởi ấm, mới được ăn uống no nê… cho chúng ta thấy Giáo hội của Chúa cứ việc lên đường dù là đêm tối, vì chúng ta tin rằng ánh sáng sẽ bừng lên.
Chúng ta lên đường bằng một con tim quảng đại, biết yêu thương, thông cảm, tha thứ cho người khác giống như Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta; biết hạ mình xuống đi bên cạnh cuộc đời của những người cô đơn, bất hạnh, khốn khổ, nghèo hèn giống như “người lạ” trong bài Tin mừng hôm nay.
Lạy Chúa, con luôn tin tưởng vào Lòng Thương Xót của Chúa. Xin cho Giáo hội mà Chúa đã thiết lập cũng thể hiện Lòng Thương Xót cho nhân loại đang rất cần được xót thương.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Bảy môn đệ trở về với nghề xưa,
trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.
Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:
“Tôi đi đánh cá đây.”
Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:
“Chúng tôi cùng đi với anh.”
Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.
Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.
Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,
và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.
Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến
thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.
Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.
Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,
nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.
Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.
Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
Ðây không phải là một nhóm bạn khép kín,
nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài
là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.
“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ,
được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.
Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.
Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn.
qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.
Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.
Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.
Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô.
Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy,
nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo.
Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu:
“Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”
Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng:
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy.”
Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh,
cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên.
Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến.
Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chản nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không đươc gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Chương 21 Phúc Âm Gio-an được các học giả Kinh Thánh cho là đã được các môn đồ của tông đồ Gio-an thêm vào sau này; vì tự nó kết luận toàn cuốn Tin Mừng thứ tư đã trọn vẹn ở ngay cuối chương 20 rồi. Dầu vậy thì tôi vẫn thấy rằng: thêm chương 21 này không những hợp lý, mà còn rất cần thiết nữa là đàng khác; cần phải đề cập tới Phê-rô – thủ lãnh đã phục sinh như thế nào, sau khi đã gục ngã trong tội chối bỏ Thầy mình; cần phải biết: một Phê-rô – tuyên tín ‘đã trở lại’ như thế nào, sau khi ‘bị Sa-tan sàng như người ta sàng gạo’ (Lc 22:31-32). Và nếu đây là suy tư của nhóm môn đồ của tông đồ Gio-an… thì tôi lại càng thấy Hội Thánh thời sơ khai đã có một tầm hiểu biết sâu sắc và cụ thể như thế nào về biến cố Phục Sinh.
Lần hiện hình của Đấng Phục Sinh trên bờ hồ Ti-bê-ri-a diễn ra trong một khung cảnh rất ư là đời thường! Hình như tác giả vẫn muốn lưu tâm độc giả mình tới vai trò lãnh đạo của Phê-rô, kể cả trong các công việc vặt vãnh: các môn đệ khác vẫn tôn trọng vai trò làm đầu của ông, thậm chí cả trong việc đi đánh cá. Thế rồi Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra đứng trên bờ hồ trong một hình dạng rất đời thường, tầm thường tới độ: ‘các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su”. Và như một gợi ý để nhận ra mình, Đức Giê-su đã dùng tới sự kiện đánh cá, một công việc không những thiết thân với bốn môn đệ đầu tiên, mà còn liên quan tới niềm tin của các ông – cách riêng Phê-rô, vì nó gợi nhớ mẻ cá lạ ngày nào đã làm cho ông nhận ra con người tội lỗi thấp hèn của mình (Lc 5:4-11). Lần này thì môn đệ Gio-an là người đã phát hiện ra điều đó, nhưng trong một nội dung mới mẻ và sâu sắc hơn nhiều.
Nhờ cũng một mẻ cá lạ trên mặt hồ này, Phê-rô năm nào đã khởi đầu ơn gọi môn đệ của mình bằng lời tuyên xưng đầy khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” nhưng rồi dần dà ông hầu như quên bẵng đi điều ấy. Những lần tuyên xưng sau này của ông lại sặc mùi tự mãn, nặng tính chủ quan với những lời quyết đoán chắc nịch; ông cam đoan mình sẽ trung thành bảo vệ Thầy đến cùng… Tông đồ Phê-rô hùng hổ ngăn cản Thầy ra đi chịu chết; ông sắm gươm để chiến đấu vì Thầy; ông nặng lời tuyên thệ: “dầu có phải vào tù hay phải chết với Thầy đi nữa, con cũng sẵn sàng”. Đúng là Sa-tan đang sàng sẩy ông! Cạm bẫy ‘mất lòng tin’ lớn nhất mà ông đang rơi vào, chính là để mình bị cuốn trôi xa khỏi lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa, vì thái độ tự cao tự đại…; và hậu quả là: ông đã bị chìm ngập, đã chết trong sự phản bội chối bỏ Thầy.
Đức Ki-tô Phục Sinh hiện hình trên bờ hồ, cũng với một mẻ cá lạ khác, chính là lời mời gọi Phê-rô (và các tông đồ khác) hãy chỗi dậy, tức là: hãy quay trở về từ thái độ tự phụ ‘cam đoan sẽ trung kiên…’ để rồi dẫn đến ngã quị trong cái chết chối bỏ Thầy, để rồi họ khiêm cung chỗi dậy đón nhận tình yêu tha thứ đầy nhân ái của Thầy Chí Thánh. May mắn thay, Phê-rô đã chỗi dậy và đã thực sự phục sinh! Gio-an cho thấy: cuối cùng thì Phê-rô đã nhận ra điều này cách sâu xa hơn hết thảy các môn đệ khác. Cái tánh bộc trực của một Simon, con ông Gioan (nghĩa là một Phê-rô trần tục) vẫn còn đó: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Nhưng tới lần thứ ba thì ông chỉ dám đáp lại câu hỏi: “Anh có yêu mến thầy hơn các anh em này không?” bằng lời khiêm tốn: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”; có nghĩa là: Thầy biết con yếu đuối như thế nào nhưng vẫn cố yêu mến, Thầy biết con có một tình yêu khác trước nhiều lắm rồi. Cũng chính lúc đó, phải chỉ lúc đó mà thôi, vai trò lãnh đạo tối cao của Phê-rô mới chính thức được chuẩn nhận: “Hãy chăm sóc các cừu mẹ của Thầy”; nói cách khác: “hãy làm cho (lòng tin của) anh em của anh nên vững mạnh”. Quyền lãnh đạo Hội Thánh Phục Sinh được trao cho một Phê-rô phục sinh, từ vị trí tự mãn trao ban tới thâm tín khiêm tốn đón nhận, quả là điều đáng cho ta lưu tâm!
Thế mới rõ: phục sinh phải là cuộc trở lại tận căn của mọi môn đệ Đức Ki-tô, bắt đầu từ các thủ lãnh trong Hội Thánh…, kể cả các đấng nắm giữ vai trò kế vị Phê-rô ‘chăm sóc các cừu mẹ’. Tất cả mọi Ki-tô hữu chúng ta đều cần phải được phục sinh ngay từ bây giờ, bởi vì phục sinh chính là nhận biết tội chết của mình, để được quyền năng Chúa cho ‘vượt qua’ tới sự sống trọn hảo trong lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Hết thảy Ki-tô hữu chúng ta đều phải là đoàn dân phục sinh ngay từ bây giờ!
Và những người dẫn đầu đoàn dân phục sinh này, như Phê-rô, các Giám Mục và Linh Mục, trong đó có tôi… cũng phải là những con người phục sinh, cũng như chính mình đã từng trải nghiệm cách sâu xa về tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa ngày nào, trong cái chết lâm sàn…: một tình yêu đã vực mình chỗi dậy từ cõi chết.
Lạy Thiên Chúa giầu lòng xót thương, cảm tạ Chúa đã cho con học biết bài học phục sinh của Phê-rô, bài học làm con thấm thía, trong tư cách linh mục. Con biết: tuyên xưng đức tin thực sự hệ tại ở điều gì, và làm thế nào củng cố niềm tin của các anh em con. Nếu việc sa ngã của Phê-rô đã trở thành một đại phúc cho ông, thì xin Chúa cũng đưa những khuyết điểm, sa ngã và lỗi phạm của con vào trong Phục Sinh của Chúa; để chính con, và nhiều anh em linh mục khác nữa, sẽ thâm tín hơn về lòng thương xót cứu độ Chúa hằng trao ban. A-men.
.