CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm B
Lời Chúa: Cv 3,13-15.17-19; 1Ga 2,1-5a; Lc 24,35-48
——–
- Đừng sợ. (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Người Mở Trí Cho Các Ông (Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Đừng sợ- (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Nhân chứng phục sinh (Lm. Thái Nguyên)
- Chứng nhân Tin mừng (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
- Chứng nhân (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
- Giác quan (Lm. Vũ Đình Tường)
- Có Chúa trong cuộc đời là có bình an (Lm. Trần Bình Trọng)
- Chiến thắng vinh quang (Lm. Phêrô Nguyễn văn Hương)
- Nhận ra Chúa nơi người đời (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
- Anh em hãy là chứng nhân (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
- Thân quen vẫn lạ (Trầm Thiên Thu)
- Bình an của Chúa Phục sinh (Lm. Quang Nguyễn)
1. Chứng nhân của Đấng Phục sinh (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Những bóng ma tưởng tượng (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Làm chứng cho Chúa Phục sinh (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Có Thiên Chúa sẽ không còn sợ hãi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Từ người bỏ cuộc trở nên sứ giả Tin mừng (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Niềm vui gặp Chúa (Bông Hồng Nhỏ,Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Hãy tin (Anna Cỏ May,Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)
8. Đừng sợ (Lm. Trần Việt Hùng)
9. Gặp Chúa giữa lòng đời (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
10. Tin Chúa đang sống (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
11. Vui mừng và ngỡ ngàng (Lm. Nguyễn Thái)
12. Làm chứng cho Chúa Phục sinh. (Lm. Đinh Lập Liễm)
13. Hãy sám hối (Micae Bùi Phúc Hòa, SDB)
14. Tình yêu mạnh hơn sự chết (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
15. Lời mời gọi sám hối (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
16. Suy niệm Chúa Nhật 3 Phục sinh (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
17. Suy niệm Chúa Nhật 3 Phục sinh. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
18. Emmau – Đamas (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
19. Mục sở thị (Trầm Thiên Thu)
20. Cùng Thầy tiến bước (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
21. Chính anh em là chứng nhân (Lm. Giuse Nguyễn Bá Trung)
22. Chúng ta rao giảng điều gì về Chúa Kitô Phục sinh (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
23. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 3 Phục sinh (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
24. “Bình an cho các con” (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
25. Chính anh em là chứng nhân. (JM. Lam Thy, ĐVD)
26. Canh tân (Lm. Vũ Đình Tường)
27. Đổi thay cuộc sống (Lm. Giuse Nguyễn)
28. Nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục sinh (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
29. Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi mới phục sinh (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
30. Chính anh em là chứng nhân về những điều này (Fx. Đỗ Công Minh)
31. Bản hòa tấu phục sinh của Luca (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
32. Suy niệm Chúa Nhật 3 Phục sinh_B (Lm. Anthony Trung Thành)
33. Làm chứng nhân (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
34. Làm chứng về mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu (Lm. Đan Vinh)
35. Chúa Nhật 3 Phục sinh_B (Lm. Antôn)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Việc Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết tưởng chừng như đã rõ ràng và hết tranh cãi sau câu chuyện liên quan đến ông Tôma Điđimô, lại tiếp tục “bùng nổ” ngay trong nội bộ các tông đồ. Quả vậy, đang khi các tông đồ đang hồ hởi kể cho nhau nghe về việc gặp lại Chúa sau khi Người đã từ cõi chết sống lại, thì khi chính Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đứng giữa họ, các ông lại hết sức hoảng sợ. Có ông lại nghĩ đó là ma. Chúa Giêsu đọc được ý tưởng của các ông và Người đưa ra những dẫn chứng xác thực để chứng minh: “Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. Người đã trấn an các ông: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?. Người cũng muốn các ông tin vào việc Người phục sinh, với một niêm xác tín, chứ không phải lý thuyết suông hay những công thức trống rỗng. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang nói với chúng ta: “Sao lại hoảng hốt? Đừng sợ!”.
Đừng sợ, vì Chúa đã sống lại thật! Trong thời đại hôm nay, nhiều người coi sự kiện Chúa Giêsu sống lại như một câu chuyện cổ tích xa vời trong quá khứ. Nhân vật Giêsu có lúc bị coi như một bóng ma. Những gì liên quan đến Người, có chăng chỉ là lễ nghi Tuần Thánh được cử hành một lần, rồi nhẹ nhàng lắng xuống và đi vào quên lãng. Khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu đã trách các ông là những người chậm tin. Ngày hôm nay, Đấng Phục sinh đang nói với chúng ta: đừng sợ và đừng ngại ngần khi tin vào Người. Sự kiện phục sinh là một sự kiện lịch sử. Sự kiện này đã xảy ra trong quá khứ, và hôm nay vẫn đang mang tính hiện tại. Vì vậy, mỗi khi dâng lễ, khi Linh mục tuyên bố: Đây là màu nhiệm Đức tin, cộng đoàn tín hữu thưa: Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa đến. Như thế, mỗi khi cử hành hy lễ tạ ơn, tức là Thánh lễ, là chúng ta tuyên xưng Chúa đã chết và đã sống lại. Như vậy, Đấng Phục sinh vẫn đang hiện diện giữa chúng ta, và câu chuyện Chúa sống lại là câu chuyện của hiện tại. Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh mà Giáo Hội đứng vững trước biết bao bão tố của thời gian. Đức Kitô Phục sinh không phải một bóng ma trong cuộc đời này. Người đang sống giữa chúng ta và truyền cho chúng ta sức sống mới của Người.
Đừng sợ, hãy can đảm lên đường làm chứng cho Đấng Phục sinh! Chúa Giêsu sai các ông đi để kể lại những gì tai nghe mắt thấy, khởi đầu từ Giêrusalem. Giêrusalem là nơi chứng kiến biến cố thập giá. Giêrusalem cũng là nơi được gặp gỡ Đấng sống lại. Đó cũng là nơi Chúa Thánh Thần ngự xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thành phố này cũng là điểm xuất phát để các tông đồ đem Tin Mừng đến với muôn dân. Được trang bị nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ lên đường để loan báo Đấng Phục sinh.
Đừng sợ đón nhận những điều mới mẻ mà Đấng Phục sinh ban tặng cho chúng ta. Thánh Luca đã viết trong Bài Tin Mừng: Đấng Phục sinh mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh. Nhờ hiểu biết Kinh Thánh, các môn đệ có một cái nhìn tổng quát và sâu xa về sứ mạng thiên sai của Chúa. Sau này, ông Phêrô đã hệ thống và minh chứng: những gì đã xảy ra với Đấng Kitô, là phù hợp với Thánh Kinh, tức là trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa. Mỗi chúng ta cần phải luôn khám phá những điều mới mẻ, khởi đi từ kinh nghiệm Phục sinh. Nói cách khác, người Kitô hữu phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa để lớn lên mỗi ngày trong ân sủng và trưởng thành mỗi ngày trong đời sống Đức tin. Hành trình theo Chúa Giêsu không phải là biến cố bất ngờ theo kiểu từ trời rơi xuống, cũng không phải dựa trên những điều không thể lý giải dưới cái nhìn nhân loại, nhưng đó là hoa trái từ một kế hoạch lâu dài của Thiên Chúa đối với Dân Ngài. Kế hoạch này được kể lại trong Kinh Thánh. Vì thế Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”.
Đừng sợ nhìn nhận lỗi lầm để canh tân trở lại. Bằng một giọng văn cứng rắn, nhưng xác tín và hùng hồn, Thánh Phêrô đã mạnh mẽ gán cho những người Do Thái trách nhiệm qua việc giết Chúa, đồng thời kêu mời họ hãy sám hối để được ơn tha thứ (Bài đọc I). Khi nghe Phêrô hùng hồn nói: “Các ông đã giết chết Hoàng tử ban sự sống. Các ông đã từ chối Đấng thánh và công chính”, chúng ta nghĩ ngay đến việc chối Thày của ông vào giờ Chúa Giêsu bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị. Tuy vậy, nếu Phêrô đã chối Chúa thì ông cũng đã sám hối ăn năn và trở thành người loan báo Đức Giêsu Phục sinh.
Đừng sợ sống theo sự thật, vì Sự thật sẽ giải phóng chúng ta. Sự thật chính là Chúa Giêsu. Cuộc sống hôm nay ảnh hưởng bởi lối sống hưởng thụ, khiến con người không ngại sống dối trá. Sự dối trá đã gây nên biết bao hệ luỵ, từ gia đình đến xã hội. Thánh Gioan Tông đồ (Bài đọc II) khuyên các tín hữu sống trung thực. Bí quyết để sống theo Sự thật rất đơn giản, theo Thánh Gioan: đó là tuân giữ giáo huấn của Chúa Giêsu. Người là Đấng bảo vệ chúng ta trước toà Chúa.
Cuộc sống hôm nay có biết bao điều làm chúng ta sợ hãi. Đấng Phục sinh khích lệ chúng ta: Đừng sợ!. Khi xác tín vào sự hiện diện quyền năng và đầy yêu thương của Người, mọi sợ hãi sẽ bị xua tan. Chính mỗi chúng ta, vì được mang danh Chúa Kitô, cũng hãy trở nên khí cụ của bình an, xua tan sợ hãi, lan toả yêu thương và chiếu sáng niềm hy vọng trong cuộc đời.
Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc
Người tài giỏi bậc nhất thiên hạ, cũng phải bắt đầu từ đứa trẻ, theo quy luật tự nhiên phải qua giai đoạn: biết bò, biết đứng biết đi, rồi mới biết chạy. Cha ông chúng ta cũng tán thành quan điểm cần phải: học ăn, học nói, học gói, học mở, mới mong trở thành người có ích cho gia đình, xã hội. Chẳng có ai sinh ra đã là “anh hùng”, làm gì có con đường nào dẫn đến nổi tiếng mà không có trông gai, mồ hôi và nước mắt ? Các đấng bậc là cha mẹ, thầy dạy, dù hoàn hảo, tầm cỡ, vẫn không thể “bách chiến bách thắng”, cụ thể hơn, để được thiện toàn, hẳn các ngài đã kiên nhẫn rút kinh nghiệm: thất bại là mẹ thành công. Khó khăn chung, làm sao thầy có thể truyền kiến thức cho trò, bằng cách nào cha mẹ chia sẻ được sự thật cho con cháu hiểu: cha mẹ thương con biển hồ lai láng ?
Câu chuyện gặp và thấy Thầy sống lại, vô cùng ly kỳ, vừa vui vừa sợ, đối với các môn đệ, với những ai liên quan đến việc đóng đinh và táng xác Thầy nơi huyệt đá. Tại sao mừng vui không xoá tan được sợ hãi, lời nói ngọt ngào không làm cho người ta bình tĩnh, lẽ nào lời ấm áp yêu thương: “Thầy đây, đừng sợ”, không đủ trấn an các học trò ? Vâng, Đấng phục sinh còn cho các môn đệ xem tay chân và cạnh sườn Thầy: “hãy sờ mà xem, ma đâu có xương có thịt như các con thấy đây” ! Ở đời người ta cho rằng: thứ đắt giá hơn vàng, kim cương, đó chính là niềm tin, vì những thứ khác có thể mua được, còn niềm tin thì không, chính là thế. Nhất định phải trải qua kinh nghiệm, các đấng bậc mới có thể nói: hãy tin vào ngày mai, hãy nhìn vào thực tại để cảm nhận điều tốt đẹp, cho dù bạn đang phải đối phó với nhiều điều khó khăn phức tạp.
Để nói lên sự thân thiện tình Thầy-trò, Đấng phục sinh hỏi các để tử: “ở đây các con có gì ăn không” ? Để khai trí mở lòng cho các môn đệ, Đấng phục sinh nhắc nhớ cho các ông những liên hệ về Thầy đã được ghi chép trong sách Môisê và các tiên tri, cũng như thánh vịnh. Đấng phục sinh đánh thức giấc mơ, lay động các học trò, giúp các ông hiểu về thân phận giới hạn của mình và chỉ khi tin vào tình yêu, các ông mới đón nhận được bình an và niềm vui của Đấng là Thầy là Chúa. Trong tình yêu, chân thành và thật lòng có sức tẩy xoá được mọi nghi ngờ, làm sáng rõ nét đẹp của tình liên đới hiệp thông. Đấng phục sinh đã ban bình an, đã diễn tả bằng hành động nhằm giúp các ông hiểu: yêu là ấp ủ hình ảnh người mình yêu, để người yêu mãi trong tim cho đến trọn đời. Đấng phục sinh đã thể hiện chữ tình, đã cho các môn đệ vết thương, đã xin mẩu cá nướng và chút mật ong và ăn trước mặt các ông.
Cuộc đời rất sòng phẳng, công bằng, khi cửa phòng đóng chặt vì sợ người Do-thái, cánh cửa tâm hồn nơi các ông dễ dàng mở ra nối kết chữ tình bền chặt hơn. Khái niệm sống lại làm gì ai có, trong khi nỗi sợ hãi bủa vây tư bề, nào là mặc cảm tự ti, muốn buông xuôi tất cả ! Đúng như cha ông chúng ta nói: càng trưởng thành càng nhiều đau khổ, càng khôn lớn càng nhiều nỗi niềm ! Đấng phục sinh khai trí mở lòng, cho các ông cảm nhận: vì yếu đuối tội lỗi mà Con Thiên Chúa đến thế gian, vì yêu nên Con Chúa không xuống khỏi thập giá, vì yêu nên sau khi sống lại Chúa vẫn tìm kiếm những đồ đệ đã từng bỏ Thầy, chối Thầy. Đấng phục sinh không hứa hẹn sẽ khôi phục, báo thù, nhưng gián tiếp cho thấy: sức mạnh của tình yêu sẽ làm cho niềm tin của các ông sống động. Sức mạnh của tình nghĩa Thầy-trò sẽ giúp các ông hiểu: chẳng ai thay đổi được quá khứ, nhưng ai cũng có cơ hội để xây dựng một tương lai tốt đẹp.
Đấng phục sinh mở trí khai lòng cho các học trò thế nào ? Đấng phục sinh mở tai mắt tâm hồn cho thế giới ra sao ? Đấng phục sinh sẽ còn minh chứng: yêu đến cùng là yêu như thế nào ? Hẳn mỗi người sẽ có đáp án, có những cảm nhận riêng, bởi lời Thầy năm xưa sẽ còn sống động mãi: “không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. (Ga, 15, 5). Nếu thế gian nói rằng: tất cả rồi sẽ qua đi, duy tình yêu thì ở lại, có phải tình yêu của Đấng phục sinh sẽ hoá giải được tâm tính các học trò ? Cuộc sống cho chúng ta nhiều kinh nghiệm: không tài giỏi, bạn có có thao thức gì ? không vấp ngã bao giờ, mấy khi bạn nghĩ đến cẩn thận, chẳng cô đơn, liệu ta có nghĩ đế sự đầm ấm yêu thương ? Vâng, ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống, ở đâu có tình yêu ở đó người ta sẽ nghe, sẽ hiểu: “Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại”.
Đấng phục sinh mở trí lòng cho các học trò bằng niềm vui có Chúa: bình an thật, vết sẹo nơi lỗ đinh và cạnh sườn, tính chất mới mẻ nơi các môn đệ là hết hoài nghi về đau khổ thập giá tới vinh quang, không còn mơ hồ ảo tưởng theo Thầy để hưởng bổng lộc. Đấng phục sinh soi trí lòng giúp các ông hiểu tường tận về thánh kinh, Đấng phục sinh còn sai các ông rao giảng làm chứng về những điều các ông đã nghe, đã thấy. Bằng mắt phàm trần, các môn đệ quá hạnh phúc khi được chiêm ngắm Thầy sống lại, bằng mắt đức tin, các ông hiểu không thể gọi là môn đệ, không thể có hạnh phúc thật, nếu chưa vượt qua đau khổ thập giá ! Từ cảm nhận niềm vui phục sinh, các ông phám phá ra nét đẹp thật sự: trong tình yêu không có đúng sai, chỉ có ai yêu nhiều hơn thôi.
Lm. Jos DĐH.
Đừng Sợ, cố lên, hãy bình tĩnh, hãy tự tin, đó thường là những lời động viên khích lệ từ nơi bậc sinh thành, nơi thầy dạy, hoặc từ bạn bè thân thiết. Nói sao cho con cháu hiểu, làm thế nào mà thầy có thể truyền kiến thức, truyền lửa nhiệt huyết cho các trò gặt hái những thành tựu to lớn ở phía trước ? Vâng, sợ người nói phải, hãi người cho ăn ; có ơn phải sợ, có nợ phải trả. Sống ở đời, nợ và sợ, hai từ không ai muốn gặp, có chăng mỗi người vẫn tuân theo quy luật chung: nợ ơn cha mẹ, sợ mất uy tín. Kinh nghiệm cho thấy, nói ngon nói ngọt đã khó rồi, sống đúng, sống đẹp, còn khó hơn. Nợ tình, nợ tiền, nợ đời, đều khủng khiếp, bao lâu trái tim và khối óc của ta còn đập nhịp đập yêu thương, khao khát bình an và niềm vui hạnh phúc thật.
Cứ theo suy nghĩ tự nhiên, muốn không sợ, ta cần phải có sức mạnh, cần phải sống nghiêm túc với bản thân, sống có kỷ luật, sống có trách nhiệm với gia đình, xã hội. Nếu không phản Thầy, không bỏ Thầy, có thể các môn đệ đã chết cùng Thầy, hoặc các ông đã sớm chứng minh được cho nhân loại: “chúng tôi” rất tự hào vì đã hoàn thành sứ vụ là đệ tử của Thầy Giêsu. Nếu không sợ chết, không sợ bị liên luỵ, làm gì các ông phải đóng cửa then cài ? Lại nữa, nếu không phải là con người giới hạn bất toàn, những môn đệ ấy làm chi phải sợ ma, sợ bóng vía, như trẻ con vậy ? Chúng ta cũng có thể nói, nếu không phải “vì yêu”, vì muốn cứu nhân loại khỏi chết đời đời, làm gì có đau khổ thập giá, hoặc sẽ không ai nói đến chuyện kẻ chết sống lại !
“Sao các con hoảng sợ như thế, sao các con nghĩ trong lòng như vậy, ma đâu có xương thịt như các con thấy đây” ? Đúng như tiền nhân nói: thuốc duy nhất chữa được “bệnh tình” vẫn là tình yêu. Đúng như quy luật, nước mắt chảy xuôi: tình yêu của Thầy Giêsu, ơn bình an của Đấng phục sinh, mới giúp được các học trò, mới cứu được nhân loại thoát vòng tội lỗi. Nỗi đau càng to thì hạnh phúc càng lớn, sợ hãi, mất mát, nơi các học trò càng nhiều, niềm vui Chúa sống lại trong các ông càng vĩ đại. Mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay đang sống trong tình trạng nào, ta có ưu tư lo lắng về sự giới hạn của mình, có sợ hãi vì tội lỗi của mình, có thành tâm ăn năn thống hối về lối sống của mình không ? Nếu có, lời trấn an: “đừng sợ”, “bình an cho các con”, chắc chắn phải là niềm vui, là hạnh phúc lớn nhất nơi tâm hồn người theo Đức Kitô.
“Đừng sợ”, sẽ còn cần thiết cho những ai khiêm tốn, nhận ra con người quả là bất xứng trước “hồng ân” Đấng phục sinh ban tặng, khích lệ. Các học trò Đức Kitô không thể tự trau dồi kiến thức, không thể hiểu tại sao Đấng Kitô sẽ chịu đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, và rôi các ông lại thực sự hạnh phúc khi được Chúa phục sinh mở trí mở lòng để các ông hiểu thánh kinh. “Đừng sợ” có phải vừa là lời trấn an, vừa là lời nhắc bạn tin Thầy Giêsu thế nào, bạn có tin Thiên Chúa vẫn đang mang vác tội lỗi của từng người lên cây thập giá, hầu cứu nhân loại khỏi chết không ? Dấu hiệu của Thiên Chúa yêu thương, tình yêu của Đấng phục sinh, chúng ta hôm nay sẽ cảm nhận, gặp gỡ Ngài bằng niềm tin, bằng hành động của sám hối cầu nguyện ?
Đấng phục sinh năm xưa cho các học trò xem tay chân, ăn uống trước mặt các ông, mở trí mở lòng, giúp các học trò hiểu tất cả vì yêu, tất cả vì hồng ân cứu độ, và đừng sợ thế gian, đừng sợ bản thân mình giới hạn yếu đuối. Tục ngữ có câu: thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ anh hùng cố thây. Khi Đức Giêsu chịu khổ nạn, không ai gọi các học trò Đức Giêsu là anh hùng, cũng chẳng ai gọi người theo Đức Kitô là kẻ anh hùng cố thây đâu, dù tất đang theo Thầy Giêsu, đang tin Đấng phục sinh bằng một niềm tin nhỏ bé. Hẳn Chúa phục sinh rất vui khi các học trò biết xấu hổ, biết nhận ra mình hèn nhát, mơ hồ khi theo Thầy Giêsu, và biết để Chúa trợ giúp bằng sức mạnh của niềm tin, chứ không phải là danh hiệu anh hùng rơm, hay liều mình cố thây.
Tất cả vì tình yêu Đức Kitô, tất cả khởi đầu từ lời trấn an: đừng sợ, mỗi người kitô hữu theo Chúa hôm nay, sẽ tin Chúa bằng một tình yêu tín thác, chúng ta được mời gọi để nhận ra lòng thương xót Chúa, hạnh phúc vì được làm chứng nhân Chúa phục sinh. Nghe, hiểu và tin lời trấn an: đừng sợ, chính là lúc ta có Đấng phục sinh ở cùng, có sức mạnh, có ơn bình an, có sức biến đổi tâm tính khi tin theo Ngài. Đấng phục sinh sẽ còn gọi chọn các môn đệ, sẽ còn trấn an các học trò đừng sợ, Chúa không ưa thích môn đệ khôn ngoan kiểu thế gian, cũng chẳng thích các học trò khờ dại như con “thiêu thân”. Chúa sẽ rất vui khi ta khiêm tốn, đầy nhiệt huyết tông đồ. Xuân Diệu nói: đố ai sống được mà không yêu, Chúa phục sinh vẫn đang nói qua giáo hội: đố ai tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, mà tâm hồn còn đầy sợ hãi, chưa bình an. Amen.
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Đang khi các môn đệ hội họp và nghe kể lại chuyện về Thầy Giêsu đã hiện ra trên đường Emmau, thì Thầy lại xuất hiện giữa các ông. Ngài trao ban bình an cho các ông, nhưng “các ông hoảng sợ tưởng là thấy ma”. Chúa lại cho các ông xem chân tay và sờ chạm đến Ngài. Thấy các ông còn ngờ vực, nên Ngài liền ăn uống trước mặt các ông. Cũng như trên đường Emmau, một lần nữa Chúa giải thích cho các môn đệ: cuộc khổ nạn của Ngài không phải là một thất bại, mà để những gì tiên báo về Ngài phải được ứng nghiệm, đó là “Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”.
Các tông đồ đã hoảng loạn trước cái chết của Thầy. Giờ đây việc Ngài phục sinh lại làm cho các ông“kinh hồn bạt vía”, vì họ vẫn nghĩ đó là điều không thể, cũng như trước đây các ông nghĩ việc Thầy tử nạn cũng là điều không thể. Nhưng mọi việc đều có thể và xảy ra như thế. Chúa Giêsu đã báo trước ba lần việc tử nạn và phục sinh, nhưng các ông vẫn không để ý tới, vì thấy Thầy đầy quyền năng nên đang háo hức trước một tương lai huy hoàng, một vương quốc mới mà họ nghĩ Chúa Giêsu sắp đứng lên thành lập. Chẳng lạ gì mà mẹ Giacôbê và Gioan mới xin cho hai con mình “một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” (Mt 20, 21).
Việc Chúa Giêsu phục sinh không phải là một thứ kinh nghiệm tôn giáo nào đó, mà rõ ràng là chuyện thực tế trước mắt, vì các tông đồ đã chứng kiến tận mắt. Có thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các tông đồ như cũng đã chết: tinh thần các ông hoàn toàn suy sụp, nhóm mười hai tan tác, còn lại vài người thì co cụm với nhau trong căn phòng đóng kín cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng. Nhưng sau khi Đức Giêsu sống lại, Ngài đã làm cho họ sống lại: họ không còn sợ hãi, nghi ngờ; không còn mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng. Con người cũ của các ông đã thay đổi, các ông sống lại trong con người mới, sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người.
Việc Đức Kitô phục sinh không chỉ là một sự kiện lịch sử hay một biến cố đã qua, mà còn là một thực tại luôn sống động, nghĩa là Đức Kitô đang sống, đang hiện diện, đang hành động trong đời sống con người, qua mọi biển chuyển và trong mọi thời đại. Giáo hội chính là nhiệm thể của Đức Kitô đang lớn lên từng ngày giữa lòng thế giới. Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình và mời gọi chúng ta hãy chứng kiến việc Chúa phục sinh bằng đức tin, bằng việc sống với Chúa hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa, qua mọi biến cố trong đời… Mọi sự xảy ra trong đời ta đều mang bóng dáng và dấu vết của Chúa phục sinh, Đấng đang đồng hành, đang âm thầm tỏ mình, đang ngỏ lời, và không ngừng mở ra sự sống mới cho chúng ta trong mọi thời điểm, nhất là những lúc thất bại, đau thương, chán chường và thất vọng.
Không đặt niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đang sống với ta, trong ta, thì ta vẫn sống trong cô đơn, lạc loài, buồn thảm, và cuộc đời là sự trống rỗng mênh mông. Có bao nhiêu thành công hay lợi lộc cũng chẳng có nghĩa lý gì, nếu cuộc sống con người còn nằm trong bóng tối, không lối thoát. Đau khổ và cả cái chết nữa không phải là điều đáng kinh hãi, mà là điều làm ta không dám dấn thân cho một niềm tin: niềm tin Giêsu, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta. Chính vì niềm tin đó mà chúng ta hân hoan tiếp nhận sứ mạng“phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”, nghĩa là trở thành chứng nhân cho sự sống mới của Đức Kitô nơi chính mình. Điều đó thể hiện qua một cuộc sống đơn sơ, hồn nhiên, trong sáng, âm thầm lan tỏa yêu thương và bình an.
Ðức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin, nhưng lại là điều mà người khác luôn có thể cảm nhận được từ một Kitô hữu biết sống quên mình để dấn thân xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Sau khi phục sinh, Chúa đã tỏ mình ra,
nhưng các tông đồ lại tưởng ma,
vì Chúa hiện ra quá bất ngờ,
khiến các ông càng hoang mang lo sợ.
Đúng là các tông đồ không thể ngờ,
vì đã xây dựng đời mình trên giấc mơ,
mơ sống trong danh vọng và quyền hành,
nên có lần các ông đã phân tranh,
xem ai ngồi ghế nhất trong thiên hạ,
được vinh quang mà không qua thập giá.
Nhưng rồi mơ ước đã tiêu tan,
biến cố tử nạn làm các ông hoảng loạn,
Chúa chết đi khiến các ông bàng hoàng,
Chúa xuất hiện, các ông càng choáng váng,
có ngờ đâu vui sướng lại dâng tràn,
niềm hân hoan thật quá đỗi ngỡ ngàng.
Để rồi từ đó Chúa trao ban sứ vụ,
là những người thực thụ giảng Tin Mừng,
đem mạng mình làm chứng cho trần gian,
về sự sống mới được ân ban cho thế giới.
Xin cho con đừng ngây ngô tiếc nuối,
bám víu vào những danh lợi đời này,
vì biết rằng mọi sự sẽ đổi thay,
để từ nay không lo sống cho mình nữa.
Xin cho con niềm phấn khởi giữa đời,
đem an bình của Chúa đến mọi nơi,
cho u buồn và sầu khổ lắng vơi,
để thế giới quanh con được tươi mới,
nhờ nhận ra tình yêu Chúa sáng ngời,
là ân phúc của cõi Trời vinh hiển. Amen.
Thiên San
Sau khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu phục sinh hiện ra với bà Maria Macđala, hai môn đệ trên đường Emmau, các Tông đồ… Người không hiện ra với toàn dân nhưng chỉ với một số người do Người tuyển chọn. Họ là chứng nhân được tuyển chọn: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).
Khi còn đi rao giảng khắp đó đây, Đức Giêsu đã từng nhiều lần loan báo về cuộc Thương khó của Người cho các môn đệ. “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy (Mt 17,22-23); “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20,17-19). Lúc bấy giờ, các môn đệ chưa thể hiểu và đón nhận điều ấy (x. Mc 9,32). Bởi đó, ngay cả khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các ông, các ông còn ngờ vực, kinh hồn bạt vía, tưởng thấy ma (x. Lc 24,37).
Các ông còn đang ngỡ ngàng vì mừng quá thì Đức Giêsu tiến đến, hỏi các ông có gì ăn không và chính Người đã ăn trước mắt các ông. Những lần hiện ra với các môn đệ, Người đều ban bình an cho các ông. Đức Giêsu phục sinh vẫn là một Đức Giêsu yêu cho đến cùng, cúi mình phục vụ trong khiêm tôn, rất bình dị và gần gũi. Tại biển hồ Tibêria, chính Người đã chuẩn bị sẵn bếp than hồng cùng cá nướng và bánh để đón chờ các học trò yêu quý. Người chẳng hề nhắc lại các lỗi lầm, yếu đuối của các học trò.
“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24, 45-48). Các Tông đồ là những người diễm phúc được sống cùng Đức Giêsu suốt ba năm trời, được cùng Thầy “nay đây mai đó” và nhất là được Đức Giêsu phục sinh tỏ mình cách riêng. Các ông được chọn làm chứng nhân cho Tin Mừng.
Sách Công vụ Tông đồ thuật lại cho chúng ta về công việc loan báo Tin Mừng, làm chứng nhân của các Tông đồ thời kỳ đầu. Sau khi nhận lãnh Thánh Thần, các ngài hăng say loan báo và làm chứng nhân về tất cả những điều ấy. Bởi các ngài xác tín: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Phêrô, Tông đồ trưởng đã mạnh dạn làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh, chỉ cho dân thấy tội lỗi của họ, kêu mời họ trở về cùng Thiên Chúa. “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em … Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3, 17-19).
Theo chân các Tông đồ, chúng ta được mời gọi trở nên những chứng nhân Tin Mừng bằng chính cuộc sống của mình. Tuy không được diễm phúc như các Tông đồ nhưng chúng ta là thế hệ của những kẻ mà Đức Giêsu nói đến: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 21,29). Bởi đó, chúng ta cũng được mời gọi làm chứng về những điều chúng ta không thấy mà tin. Đức tin của chúng ta hoàn toàn có nền tảng. Thiết nghĩ, một đời sống tin yêu, tuân giữ mọi giới răn của Chúa, sống sự sám hối và tha thứ mỗi ngày là lời chứng hùng hồn nhất ta cần có. Vì “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người” (1Ga 2,3). Nếu sống như vậy, chẳng ai dám nghi ngờ lời chứng của chúng ta.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nỗi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm hân hoan vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Vui Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.
Tin mừng hôm nay kể chuyện, hai môn đệ nhận ra Chúa cho nên như mọc thêm cánh bay về Giêrusalem, loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, khi đó chính Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (c 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (c 40). Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (c 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng, Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).
Chúa Phục Sinh xuất hiện như người mục tử đứng giữa đàn chiên vừa gom về. “Bình an cho anh em”.Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Chúa phải ổn định tinh thần các ông, ban bình an để làm cho tâm trí các ông bình tĩnh mà sáng suốt nhận định rõ ràng. Rồi Chúa các ông thấy vết đinh ở tay, chân của Chúa, cho các ông sờ để thấy đúng là Chúa,Đấng có xương có thịt vẫn ở giữa các ông. Chúa còn cho thêm một dấu hiệu khác nữa là ăn trước mặt các ông. Ăn cho thấy để chứng minh Chúa sống lại có thân xác như người thật. Chúa ăn là để cho các môn đệ yên lòng và thấy rằng Ngài sống lại thật rồi. Một hành động tức thời và rất tâm lý của Chúa là ăn để đảm bảo rằng mình đang sống. Chúa ăn để minh chứng rằng Chúa sống và Ngài vẫn là “một” trước khổ nạn cũng như sau sống lại…Ma thì không có thân xác nên không thể ăn được. Chỉ những ai còn sống mới biết đói biết khát. Chỉ những ai đói mới đòi ăn và khát mới đòi uống. Chúa Phục Sinh không phải vì đói mà xin ăn, nhưng chính là để chứng minh cho các môn đệ biết rằng Ngài đã sống lại.Một người sống thì đứng được, đi được, nói được, ăn được. Chúa cho các ông tất cả các bằng chứng ấy để nhận biết chính là Chúa đang sống và đứng giữa các ông.
Sau khi các môn đệ vững tin, Chúa dạy dỗ các ông. Ngài nhắc lại những lời đã nói khi còn ở giữa các ông liên quan tới sự ứng nghiệm mọi lời chép về Chúa trong Cựu ước. Trên đường Emmau, Chúa giải thích cho hai môn đệ “tất cả những gì liên quan đến Người trong Sách Thánh”, bây giờ Chúa tóm tắt nội dung gồm hai phần:sứ mạng của Chúa và sứ mạng của các môn đệ. Chúa đã hoàn thành sứ mạng của Chúa. Bây giờ đến phiên các môn đệ phải thi hành sứ mạng của mình. Chúa đã chết và phục sinh đem lại ơn tha tội. Đến phiên các môn đệ phải rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Họ phải rao giảng với tư cách là chứng nhân. Để thực thi sứ vụ này, các môn đệ phải lãnh nhận Thánh Thần là quyền năng từ trên cao ban xuống.
Trong bài đọc 1, thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv 2,41).
Bài đọc 2, thánh Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi hãy làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống, đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa còn là yếu tố quyết định để xác định tính chân thực của người môn đệ Chúa Kitô.
Đức Giêsu Phục Sinh đã làm nhiều cách để chứng minh rằng Ngài đã sống lại thật. Thánh Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu thế hệ tín hữ nối tiếp đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Các ngài làm chứng nhân bằng việc từ bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quảng đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính mạng sống.
Ngày nay, chúng ta làm chứng về Chúa Phục Sinh bằng cách thuật lại cho người khác về cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu; bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua môi miệng chúng ta; bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái; bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin…
Xin Chúa cho chúng con biết chuyên chăm năng học hỏi Lời Chúa hằng ngày, biết lắng nghe Lời Chúa khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con ngày càng lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con biết chu toàn sứ mệnh Chúa trao cho Hội Thánh: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”. Amen.
Lm Vũđình Tường
Ngũ giác giúp ta nhận biết sự việc quanh ta. Chúng được tạo dựng để giúp ta sống, sinh hoạt, nhận xét, và thưởng thức cuộc sống. Mắt giúp nhận biết, tai giúp nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm mùi vị và cảm xúc xung quanh. Chúng rất bén nhậy và chính xác khi cần nhận biết sự việc hữu hình. Khi gặp vấn đề vô hình, không hình ảnh nhất định, màu sắc luôn đổi thay, mùi vị không thuần nhất, giác quan rất bất định trong việc phán đoán. Vì thế cần phải rất cẩn thận để đưa đến phán quyết nên tin theo, hay nên tránh. Giác quan tự chúng không đủ khả năng giúp ta nhận biết vấn đề liên quan đến nước trời, đặc biệt vấn đề liên quan đến sự sống lại của Đức Kitô. Phải cần có thêm những yếu tố khác giúp nhận ra Đức Kitô Phục Sinh. Môn đệ Đức Kitô biết rõ giờ Ngài bị bắt, bị xử án chết trên thập tự. Từ lúc bị bắt cho đến khi Ngài sống lại cách biệt có ba ngày. Sau ba ngày, môn đệ gặp lại Đức Kitô Phục Sinh, họ không nhận ra Ngài. Họ nhìn thấy Ngài, nghe được tiếng của Ngài, và cùng đồng hành với Ngài trên đường đi, nhưng không nhận ra Ngài. Bà Maria Magdala gặp Ngài, nghe tiếng Ngài nhưng lầm tưởng Ngài là người làm vườn. Bà nhận ra Đức Kitô Phục Sinh khi Ngài gọi tên bà Gn.20,17. Hai môn đệ trên đường về quê Emmaus gặp Ngài dọc đường, nghe Ngài giảng giải. Họ không nhận ra Ngài. Gần tối,
‘Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các ông’. Lc.24, 30.
Các ông nhớ lại hình ảnh bữa Tiệc Li và nhận ra Ngài. Đức Kitô hiện ra với các môn đệ khác, và chúc bình anh cho các ông,
‘Các ông kinh hồn, bạt vía, tưởng là thấy ma’ Lc 24,38.
Kinh Thánh giải thích sự kiện huyền bí trên bằng một câu vắn gọn,
‘Mắt họ bị ngăn cản, không nhận ra Người’. Lc 24,16.
Điều ngăn cản ngũ quan môn đệ nhận biết Đức Kitô Phục Sinh chính là sức mạnh mầu nhiệm Phục Sinh. Không vật nào có thể ngăn cản sức mạnh mầu nhiệm Phục Sinh. Đức Kitô đi qua cửa đóng kín, cài then dễ dàng. Bình thường, người ta phải mất cả ngày đường mới đến được nơi muốn đến. Đức Kitô đến nơi đó trong nháy mắt. Ngài vượt lên trên không gian và thời gian nên có thể xuất hiện bất cứ nơi đâu mà không sức mạnh nào có thể ngăn cản. Như thế yếu tố chính để nhận ra Đức Kitô Phục Sinh chính là ơn Chúa ban. Ngài chọn ban riêng cho ai người đó hân hạnh, may lành được đón nhận, hưởng ơn riêng.
Ngũ quan thường bị cảm xúc chi phối. Lúc vui, lúc buồn, khi hờn, khi hận đều ảnh hưởng đến ngũ quan. Khi cần tìm gấp thứ gì, tìm hoài không thấy. Dù biết rõ vật đó đang ở đâu mà không nhìn ra. Khi lo lắng, sợ sệt, người ta làm những quyết định sai lầm, mà lúc bình thường điều đó không thể xảy ra. Bà Maria gặp Đức Kitô trong khi tâm hồn bà thổn thức, tâm trí bà bất an, tinh thần bà căng thẳng. Hai môn đệ trên đường gặp Đức Kitô Phục Sinh trong lúc các ông tâm tư buồn vời vợi, tương lai mù tối. Chính hai ông tự nhận, không nhận biết Đức Kitô Phục sinh vì
‘Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?’ Lc.24,32.
Lòng các ông không bừng cháy chính là lúc con tim các ông đóng kín. Nếu con tim các ông rộng mở đón chào người khách lạ, có lẽ các ông đã nhận ra Ngài từ sớm. Con tim đóng kín che phủ ánh sáng Phục Sinh. Điều này chính tiên tri Isaiah có lần nghe Đức Chúa phán,
‘Cứ nghe cho rõ, nhưng đừng hiểu, cứ nhìn thật kĩ, nhưng đừng nhận ra…. vì lòng dân này ra đần độn’ Is.6,9.
Giác quan cần đi chung với tâm hồn thanh thản, an bình, mới hy vọng nhận biết Đức Kitô Phục Sinh. Con đường dẫn đến, nhận ra Đức Kitô Phục Sinh cần có một con tim chân thành, cộng tác chung với giác quan, mới hy vọng nhận ra ơn Phục Sinh. Hy vọng bởi Đức Kitô Phục Sinh cho biết yếu tố quan trọng nữa là đức tin. Thiếu điều này thì cả giác quan lẫn con tim đều không giúp nhận ra Đức Kitô Phục Sinh. Người ta từ chối đón nhận tin Đức Kitô Phục Sinh vì
‘Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ’. Lc 24,25.
Gặp Đức Kitô Phục Sinh, con tim các môn đệ tràn ngập niềm vui nhưng lòng các ông vẫn chưa hoàn toàn mở, chưa hoàn hồn. Các ông cần thời gian để cảm nghiệm mầu nhiệm sống lại của Đức Kitô.
Trước khi chết, ba lần Đức Kitô tiên báo về việc Ngài sẽ bị bắt, chịu đóng đanh và sau ba ngày sẽ sống lại vinh quang. Các ông nhớ rõ điều đó, còn hiểu thì phải chờ cho đến khi Đức Kitô khai sáng tâm trí các ông.
Đức tin giúp con tim rộng mở cùng cộng tác với ngũ quan để nhận ra Đức Kitô hoạt động trong cuộc sống Kitô hữu.
CÓ CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI LÀ CÓ BÌNH AN
Lm Trần Bình Trọng
Mặc dầu Ðức Giêsu đã tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người ba lần, các môn đệ vẫn chưa hiểu đường lối của Ðấng Cứu thế.
Biến cố của ngày Thứ Sáu Chịu nạn đã làm tiêu tan những mối hi vọng của các ông, như hi vọng Thầy mình sẽ thiết lập một vương quốc trần thế, hi vọng được một chỗ đứng trong vương quốc của nước Người. Thảm cảnh thập giá vẫn còn làm các ông hoang mang và sợ hãi. Hai môn đệ đi làng Em-mau quyết định bỏ cuộc về quê. Đột nhiên có người khách xuất hiện giải thích cho các ông hiểu lời Thánh kinh liên quan đến Đấng Cứu thế, mà lúc đầu các ông không nhận ra đó là chính Thầy mình.
Kế đó hai môn đệ vội vã trở về Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và hai ông được bảo là Chúa đã sống lại và hiện ra với ông Simon (Lc 24:33-34). Hai môn đệ làng Em-mau cũng thuật lại cho Nhóm Mười Một và các bạn đồng chí đang tụ họp về việc Chúa hiện ra với hai ông và các ông đã nhận ra Người lúc Người bẻ bánh. Lúc này Chúa lại hiện ra đứng giữa các ông và chúc: Bình an an cho các con (Lc 24:36). Tuy nhiên các tông đồ vẫn: Kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma (Lc 24:37). Ðức Giêsu liền trấn an các ông bằng cách chứng minh bản thể nhân loại của Người, chỉ cho họ tay chân của Người có xương thịt, chứ không phải là ma. Trước cảnh tượng đó, lòng các ông mừng rỡ, nhưng trí lại hoang mang ngỡ ngàng (Lc 24:41). Rồi Chúa giải thích lời Thánh kinh cho các ông hiểu về cuộc khổ hình và phục sinh của Ðấng Cứu thế để đem lại bình an cho các ông.
Trường hợp các tông đồ lúc đầu không nhận ra Chúa trong Phúc âm hôm nay cũng giống trường hợp bà Maria Mácđala, hai môn đệ đi làng Em-mau và các tông đồ lúc đầu cũng không nhận ra Chúa (Ga 20:14; Lc 24:16; Ga 21:4). Tại sao lại có chuyện như vậy? Lí do thứ nhất là vì các tông đồ không mong đợi với lòng tin tưởng việc Chúa sống lại như là Chúa đã tiên báo. Lí do thứ hai theo thánh Mác-cô là khi hiện ra với các môn đệ và tông đồ: Chúa tỏ mình dưới một hình dạng khác (Mc 16:12), nghĩa là hình dạng đã biến đổi. Hình dạng khác không phải là hình dong tiều tuỵ của một người đã bị tra tấn và nằm trong mộ ba ngày, không ăn uống nên Chúa bị xuống kí và yếu sức. Thánh Phaolô giải thích thân xác phục sinh của Chúa khác thân xác trước kia như sau: Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: ..gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1Cr 15:44).
Trước đó Ðức Giêsu cũng đã hiện ra với bà Maria Mácđala và mấy bà khác để trấn an các bà (Mt 28:1-10; Lc 24:1-11; Mc 16:1-11; Ga 20:1-18). Ðức Giêsu còn hiện ra với các tông đồ để củng cố đức tin của các ông và ban bình an cho các ông và trao sứ mệnh cho các ông (Mt 28:16-20; Mc 16:12-15; Ga 20:19-23). Ðặc biệt Chúa còn hiện ra với ông Tôma để ông có dịp phục hồi đức tin đã bị dập tắt và lấy lại bình an cho tâm hồn (Ga 20:24-29).
Lời chúc bình an của Chúa mang ý nghĩa đặc biệt cho người môn đệ của Chúa. Không những cho các tông đồ khôi phục lại sự bình an, Chúa truyền cho họ rao giảng sứ điệp sám hối để được ơn tha tội (Lc 24:47) vì không thể có bình an nội tâm nếu người ta sống trong tình trạng tội lỗi. Do đó mà thánh Phêrô rao giảng sự sám hối và trở lại cùng Chúa để được ơn tha tội (Cv 3:19) và được bình an. Còn thánh Gioan bảo tín hữu phải xa tránh tội lỗi (1Ga 2:1) để duy trì sự bình an.
Ða số người tín hữu cũng có những lần mang những tâm trạng hoang mang, bối rối, lo lắng và sợ hãi khác nhau trong cuộc sống. Người thì lo sợ mất công ăn việc làm, sợ mắc bệnh nan trị, sợ mất sức khoẻ. Người khác lo sợ phải sống cảnh chia ly xa cách vì gia đình đổ vỡ. Người khác lo sợ những ngày giờ khủng hoảng, đen tối đè nặng trên tâm hồn. Nếu vậy thì Chúa muốn ta trút tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi vào lòng từ ái của Chúa. Chúa muốn ta đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Việc tín thác vào Chúa là điều mà ta có thể học được bằng kinh nghiệm. Sau khi người ta đã thử đặt tin tưởng vào tiền của, thế lực, địa vị, và rồi cuối cùng người ta thấy không đi đến đâu, có khi còn khổ hơn nữa. Từ đó họ mới tìm đến Chúa.
Ngày nay người ta nghe nhiều về những khao khát, ước vọng hoà bình. Nếu đi du lịch bên Do thái vào thập niên tám mươi, chín mươi của thế kỉ hai mươi mà gọi điện thoại, người ta sẽ nghe thấy người ở đầu giây nói bên kia trả lời shalom, có nghĩa là bình an. Sự kiện đó nói lên người Do thái khao khát hoà bình như thế nào! Trên bình diện quốc gia và quốc tế, hoà bình theo nghĩa từ điển Webster có nghĩa là tình trạng, hay thời kỳ hoà hoãn, thời kỳ đình chiến giữa các quốc gia, hoặc phe nhóm. Tuy nhiên hoà bình có nghĩa gì đối với cá nhân mỗi người? Cũng theo từ điển Webster, hoà bình có nghĩa là trạng thái tĩnh, không bị tư tưởng xung khắc đè nén, nhưng là một sự hoà hợp trong mối tương quan và liên hệ của mỗi ngưòi.
Hoà bình, mà Thánh kinh quen gọi là bình an bình an, là một ân huệ Chúa ban. Do đó bình an phải phát xuất từ tâm hồn mỗi người, phải được ăn rễ và phát triển trong tâm hồn. Bình an sẽ ngự trị trong tâm hồn ta, và xung quanh ta, nếu ta có được bình an trong tâm hồn. Ðể có được sự bình an nội tâm, người ta cần làm hoà với Chúa qua Bí tích Cáo giải. Ðể có được sự bình an trong tâm hồn, người ta cần sống theo đường lối của Chúa và tuân giữ giới răn Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được sự bình an nhờ lòng tin vào Chúa phục sinh:
Lậy Ðức Kitô phục sinh!
Sao có những điều trong đạo, con còn hoải nghi?
Con đã được chịu Phép Thánh tẩy:
cũng học đạo, đọc kinh và dự thánh lễ,
nhưng lòng thì không mấy xác tín.
Xin Chúa đánh động tâm tồn con, uốn mềm lòng trí con,
ban cho con một dấu chỉ nào đó,
như xưa Chúa đã ban cho các tông đồ và môn đệ,
để tâm hồn con được nghỉ an trong Chúa. Amen.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Chúng ta có thể tóm tắt sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật III này bằng một câu: “Đấng Phục Sinh đã chiến thắng sự chết một cách vinh quang.” Trong bài đọc I, chúng ta nghe thánh Phêrô tuyên bố trước đám đông về Chúa Giêsu:
“Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3,15).
Tin Mừng tiếp tục kể lại cho chúng ta một cuộc hiện ra nữa của Đấng Phục Sinh. Khi hai môn đệ Emmau vội vã trở về Giêrusalem và đang kể lại những gì vừa xảy ra dọc đường thì Chúa Giêsu hiện ra với họ và nói rằng: “Bình an cho anh em!” Quả thật, các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, rồi họ ngờ vực, chưa tin và cuối cùng họ vui mừng. Sự ngờ vực và niềm vui đi liền với nhau: “Các ông còn chưa tin vì mừng quá và còn đang ngỡ ngàng.” Sự nghi ngờ của họ là một sự nghi ngờ đặc biệt. Đó là thái độ của người đã tin, nhưng không hiểu lý do thế nào, dường như họ không dám tin vào mắt mình nữa. Như người ta hay nói: quá đẹp đến mức không thể tin nổi! Chúng ta có thể gọi đây là một sự nghịch lý, niềm tin ngờ vực! Để làm cho họ tin, Chúa Giêsu hỏi họ có gì ăn không, bởi lẽ, không có gì có thể củng cố và tạo nên sự hiệp thông cho bằng việc ăn uống với nhau. Tất cả những điều trên đây muốn nói với chúng ta về điều gì đó rất quan trọng liên quan đến sự phục sinh. Nó không phải đơn thuần là một phép lạ, một ý tưởng, hay một chứng cớ liên quan đến chân lý về Chúa Kitô. Nó chứa đựng điều gì đó sâu xa hơn. Phục sinh mở ra một thế giới mới mà trong đó con người đi vào nhờ đức tin cùng với sự ngạc nhiên và niềm vui. Sự phục sinh của Đức Kitô là cuộc “sáng tạo mới.” Bởi thế, chúng ta không chỉ đề cập đến niềm tin vào Chúa Phục Sinh, nhưng còn là sự hiểu biết và kinh nghiệm về “Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh” (Pl 3,10).
1. Ý nghĩa sự phục sinh
Để đón nhận ý nghĩa sâu xa nhất của biến cố phục sinh, trong lần này, chúng ta tìm hiểu về kho tàng đức tin của những anh em Chính Thống Giáo liên quan đến mầu nhiệm phục sinh. Đối với các Kitô hữu Chính Thống Giáo, sự phục sinh của Đức Kitô là tất cả. Cả chúng ta, những người Công Giáo, tự bản chất chúng ta tin tất cả những gì họ tin, nhưng mỗi Giáo Hội có đặc sủng riêng, quà tặng riêng để chia sẻ với các Giáo Hội khác. Quà tặng riêng của Giáo Hội Chính Thống là cảm thức mãnh liệt nhất mà họ có về Đấng Phục Sinh. Chỗ trung tâm điểm trong nhà thờ và thánh đường Công Giáo là cây thập giá, thì đối với họ, là hình ảnh Đấng Phục Sinh, được gọi là Pantocrator (Đấng Toàn Năng) luôn ở vị trí trung tâm.
Trong Mùa Phục Sinh, khi gặp nhau, họ chào nhau: “Chúa Kitô đã sống lại rồi!” và người kia trả lời: “Người đã sống lại thật, Alleluia.” Tập tục tốt lành này được bắt rễ sâu trong dân chúng, đến nỗi người ta kể giai thoại này xảy ra vào thời kỳ đầu cuộc cách mạng Xô Viết. Người ta tổ chức một cuộc tranh luận công cộng về sự phục sinh của Chúa Kitô. Người đầu tiên lên tiếng là một người vô thần, ông quả quyết: niềm tin của các Kitô hữu vào sự phục sinh sẽ sụp đổ. Ông đi xuống, rồi một linh mục Chính Thống lên bục phát biểu bảo vệ niềm tin. Ngài khiêm tốn nhìn đám đông và chỉ đơn giản nói: “Chúa Kitô đã phục sinh!” Bỗng nhiên tất cả đồng thanh đáp: “Người đã sống lại thật!” Rồi vị linh mục đi xuống trong thing lặng. Vào thời đó, Cộng Sản Đông Âu gặp khó khăn nhất đó là niềm tin phục sinh đã ăn sâu vào tâm khảm của tín hữu. Đại tướng Ceaucescu nước Romania đã dọn sạch quảng trường, nhưng ông không dám đụng đến những nghi lễ và truyền thống phục sinh. Vì ông biết rằng nếu đụng vào, cuộc chiến sẽ bùng nổ. Người Chính Thống có truyền thống rất tốt lành. Vào chiều ngày áp lễ, tất cả tập trung xung quanh nhà thờ Chính Tòa để nghe giám mục loan báo tin Chúa sống lại. Trong khi đó, mỗi người cầm nến cháy trong tay và bắt đầu hát một bài thánh ca mà người ta lặp đi lặp lại trong suốt mùa Phục Sinh: “Chúa Kitô đã sống lại rồi, Người đã chiến thắng tử thần và ban sự sống cho mọi kẻ chết trong mồ.”
Có một ca khúc khác được lặp đi lặp lại trong phụng vụ phục sinh Chính Thống làm chúng ta nghĩ tới bản hòa tấu số 9 của Beethoven với những ca từ: “Đây là ngày phục sinh! Chúng ta hãy chia sẻ niềm vui vì đại lễ này, chúng ta hãy yêu thương nhau. Chúng ta hãy nói với anh chị em và những ai thù địch với chúng ta. Hãy tha thứ cho nhau vì tình yêu Chúa Phục
Sinh.”
2. Chiến thắng của Đấng Phục Sinh
Thế giới không chỉ cần tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô, nhưng còn cần sống và kinh nghiệm về sự phục sinh. Điều này là rất có thể bởi vì, nhờ Chúa Kitô, chúng ta sẽ được sống lại, nếu thân xác chưa sống lại, thì ít ra tâm hồn sống lại trong đức tin và hy vọng. Như thánh Phaolô viết:
“Dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2,5-6).
“Người đã cho chúng ta được sống lại” và “được sống lại với Đức Kitô” (x. Cl 3,1)! Chúng ta đề cập đến điều này. Chúng ta cũng được giúp đỡ từ nền tu đức của Chính Thống Giáo. Chúng ta biết truyền thống Tây Phương trình bày về sự phục sinh. Chúng ta lấy tranh phục sinh của Piero thành Francesca là một bức tranh có lẽ nổi tiếng nhất. Chúng ta thấy gì? Chúa Giêsu đứng dậy, tay cầm cây thập giá như là lá cờ chiến thắng. Khuôn mặt phản chiếu một niềm tin vững vàng, chắc chắn và chiến thắng. Đây quả là một tuyệt phẩm! Sự chiến thắng của Người trên những kẻ thù bên ngoài và trần gian. Người chiến thắng những thế lực đã niêm phong mộ và còn lính gác thì đang thiếp ngủ. Con người được trình bày chỉ như những chứng nhân trơ trọi và thụ động, không tham dự tích cực gì vào sự phục sinh.
Giờ đây, chúng ta trở lại với sự trình bày sự phục sinh bằng Icône của Đông Phương. Cảnh tượng hoàn toàn khác. Chúng ta không nhìn lên trời, nhưng hướng xuống lòng đất. Khi phục sinh, Chúa Giêsu không lên trời, nhưng xuống âm phủ. Với sức mạnh lạ thường, Đấng Phục Sinh tới nắm lấy Ađam và Evà đang chờ đợi Người trong vương quốc kẻ chết và Người lôi kéo họ về với mình để tiến về sự sống và sự phục sinh. Đằng sau nguyên tổ là một đám đông vô số người đang chờ đợi ơn cứu chuộc. Chúa Giêsu đạp đổ các cửa âm phủ và bẻ gãy hết mọi xiềng xích tội lỗi và sự chết. Ở phần bóng tối, nơi những thần dữ hoạt động, hai thiên thần giao chiến với Xatan. Như thế, chiến thắng của Chúa Kitô không phải là chiến thắng trên kẻ thù hữu hình, nhưng là kẻ thù vô hình, đó là kè thù nguy hiểm nhất: cái chết, bóng tối, đau khổ và quỷ dữ.
3. Niềm vui của tôi là Chúa Phục Sinh
Chúng ta thực sự say mê với sự trình bày này. Sự phục sinh của Đức Giêsu cũng là sự phục sinh của chúng ta. Mỗi người chúng ta có liên hệ và được mời gọi giống như Ađam và Evà, là hãy chìa tay ra để cho Chúa Kitô lôi kéo và đưa ra khỏi âm phủ. Đó là một cuộc xuất hành mới mang tính hoàn vũ và phục sinh. Nghĩa là chúng ta được Chúa Phục Sinh giải thoát khỏi mọi tội lỗi khi ban ơn bình an, ơn tha tội và Thánh Thần cho chúng ta. Bởi thế, chúng ta được mời gọi đừng phạm tội, nhưng nếu lỡ phạm tội, hãy chạy đến với Đức Kitô, Đấng Bảo Trợ của chúng ta (bài đọc II) để được tha tội.
Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã đưa “cánh tay quyền lực” để giải thoát dân Người khỏi sự nô lệ tội lỗi, cái chết nguy hiểm và lớn lao hơn sự nô lệ Ai Cập. Khi chiêm ngắm và cầu nguyện bằng Icône này, chúng ta hãy để cho mầu nhiệm đức tin in vào trong tâm trí, như đã gợi hứng cho họa sĩ. Bức icône như là cửa sổ mở ra với thế giới vô hình.
Chúng ta cảm ơn anh em Chính Thống đã giúp chúng ta đón nhận điều gì đó rất ý nghĩa từ biến cố Chúa phục sinh và chúng ta hãy chào nhau như vị thánh của họ đã dạy, thánh Serafino thành Sarov: “Niềm vui của tôi là Chúa Phục Sinh!” Amen!
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hôm ấy, đang khi các môn đệ họp nhau trong phòng, Chúa phục sinh bất thần hiện ra giữa các ông. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là ma!
Chúa Giê-su phải dùng đủ cách để tỏ cho họ biết Ngài đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma.
Trước hết, Ngài cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Ngài đã thực sự bị đóng đinh vào thập giá, nay sống lại.
Vì họ vẫn còn nghi ngờ không tin nên Ngài đề nghị họ sờ tay chân Ngài để biết chắc Ngài có xương có thịt chứ chẳng phải là ma.
Thế nhưng họ vẫn còn hoài nghi, nên Ngài lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vầy.
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn vận dụng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Ngài là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Nhờ đó, các môn đệ mới tin là Chúa Giê-su đã sống lại thật.
Rất khó nhận ra Chúa đang hiện diện nơi người chung quanh
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì dù được giáp mặt Chúa Giê-su mà vẫn không nhận ra Ngài. Nhưng xét lại, chúng ta cũng đáng trách không kém vì hằng ngày Chúa Giê-su phục sinh vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng biết.
Qua thánh Phao-lô, Chúa Giê-su dạy chúng ta biết rằng Ngài đang sống, đang làm việc, đang hiện diện nơi những người chung quanh, vì họ là chi thể, là tay chân Ngài. Thánh Phao-lô viết:
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15).
Chúng ta nghĩ rằng Chúa là đấng rất cao cả, còn bao người chung quanh chỉ là người phàm yếu hèn mang đầy tội lỗi, nên thật khó chấp nhận họ là thân mình của Chúa.
Vì thế, thánh Phao-lô nhấn mạnh lần nữa: “Anh em là thân thể Đức Ki-tô và mỗi người là một bộ phận” trong thân mình Ngài (I Cr 12, 27).
Vì chúng ta là một phần trong thân mình Chúa Giê-su, nên Chúa Giê-su thật sự hiện diện nơi mỗi người chúng ta.
Chính Chúa Giê-su cũng khẳng định rằng Ngài đang hiện diện nơi người đói khát bần cùng, ai cho người đói miếng cơm manh áo là cho Ngài ăn, cho Ngài mặc; Ngài hiện diện nơi những người đau yếu nên ai thương xót cứu giúp người đau yếu là giúp đỡ chính Ngài… và khi ta làm gì cho những người chung quanh là làm cho chính Chúa Giê-su vì Ngài đang ở trong họ (Mt 25, 40).
Chúng ta đã nghe Chúa dạy điều nầy nhiều lần, nhưng dường như ít người chấp nhận sự thật Chúa truyền.
Vì thế, khi nghe tin có Chúa hay Đức Mẹ hiện ra ở đâu đó thì rất nhiều người đổ xô tìm đến để bái lạy, tôn thờ; vậy mà khi nghe chính Chúa Giê-su nói rằng Ngài đang hiện diện thực sự nơi người ăn xin nghèo đói đang cần cơm cháo, đang hiện diện nơi những bệnh nhân đau khổ đang cần chăm sóc… thì chẳng mấy ai đoái hoài. Sở dĩ không đoái hoài là vì người ta chưa tin vào lời Chúa dạy, chưa đón nhận sự thật khó hiểu này.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã sống lại và đang hiện diện nơi những người chung quanh chúng con, nơi người cha người mẹ, nơi người bạn trăm năm, nơi người cùng lối xóm… Chúa đang đồng hành với chúng con, cùng làm việc, cùng sinh hoạt trong một mái nhà, một xưởng máy… với chúng con. Vậy mà chúng con không nhận ra Ngài nên tỏ ra thờ ơ hờ hững với Ngài.
Xin khai mở con mắt tâm hồn để chúng con nhận ra Chúa nơi người chung quanh và tận tình yêu thương, phục vụ Chúa nơi những người đó. Amen.
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
Mahatma Gandi, người được coi là một vị thánh của dân tộc Ấn Độ, trong cuốn tự thuật của mình ông đã thú nhận rằng: ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là bài giảng trên núi…ông thật sự nuôi ý định trở thành một Kitô hữu. Một ngày kia, ông bước vào một nhà thờ Công Giáo để dự lễ và nghe giảng, người ta đã chặn ông lại và nói với ông, nếu ông muốn dự lễ xin mời ông đến một nhà thờ dành cho người da đen. Ông đã ra đi và không bao giờ trở lại.
Người ta thường nói rằng “tin đạo nhưng không tin người có đạo”. Câu nói đó có thực sự làm chúng ta suy nghĩ không? Câu chuyện của Mahatma Gandi ở trên như là hồi chuông cảnh báo mỗi người chúng ta về đời sống đạo hôm nay. Phải chăng chúng ta đang sống đạo theo kiểu hai mặt trái ngược giữa đời sống nhà thờ và đời sống xã hội? Chúng ta đang trở nên bức tường ngăn cách hay trở nên chiếc cầu nối kết mọi người? Đời sống chúng ta có thật sự là chứng nhân để mọi người nhận ra Đức Giê-su Ki-tô không? Như thế, làm chứng nhân hay nhân chứng về đời sống đức tin của mình trong thế giới ngày hôm nay là điều cần thiết và tối quan trọng.
I/ Chứng nhân hay nhân chứng là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt:chứng nhân là người đứng ra nhận thực về việc gì. Người làm chứng. Theo từ điển Hán Việt: 1.Người làm chứng. § Cũng gọi là “bảo kiến nhân”. 2.Trên pháp luật, ngoài các người đương sự, những người thứ ba, ra trước tòa án tường thuật kinh nghiệm, sự thật đều gọi là “chứng nhân”. Theo đó, chứng nhân là người làm chứng cho sự thật và những điều mắt thấy tai nghe. Như vậy, chứng nhân của Chúa Ki-tô là những người đã cảm nhận được tình yêu, ân sủng và lòng thương xót để sống chứng tá bằng cuộc sống thường ngày nơi môi trường chung quanh nhằm lan toả đức tin sống động cho mọi người, nhất là những ai chưa nhận biết Chúa.
II/ Tại sao chúng ta cần là chứng nhân cho thế giới hôm nay?
Giữa một thế giới hỗn loạn bởi nhiều tranh chấp về kinh tế, chính trị và các vấn đề khác, chúng ta không thể không gặp những khó khăn và thử thách, nhất là đời sống đức tin. Sự giả dối lên ngôi, chưa muốn nói là bành trướng khắp nơi với nhiều người. Hận thù ghen ghét giữa các quốc gia, giữa con người với nhau cũng đã len lỏi và bùng phát hằng ngày. Sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng làm nảy sinh ra nhiều hệ luỹ là chết chóc, cướp bóc, tham lam, bóc lột, đau khổ và bất hạnh. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã và đang hoành hành lây nhiễm, giết chết hàng triệu triệu người trêp khắp thế giới làm cho mọi người rất hoang mang lo sợ,…Đứng trước những vấn đề nhức nhối và cam go đó, là những ki-tô hữu, chúng ta được mời gọi kiến tạo nên nền văn minh tình thương bằng những việc làm cụ thể trong đời sống thường ngày. Giữa những giả dối sai lầm, chúng ta hãy sống sự thật và công chính. Giữa những nghi ngại và lo sợ, chúng ta hãy trở nên những chứng nhân của lòng tin và can đảm. Giữa những thất vọng và chán chường, chúng ta được mời gọi trở nên những chứng nhân của niềm hy vọng và niềm vui. Thật vậy, chúng ta phải trở nên chứng nhân vì đây là mệnh lệnh của Đức Giê-su Ki-tô mà Tin Mừng của thánh Luca trình thuật hôm nay: “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24, 45-48). Vậy,
III/ Chúng ta phải trở nên chứng nhân như thế nào?
Là những người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa (x.St 1, 26-31), chúng ta được mời gọi hướng về Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất để tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài hầu tin yêu và phó thác mọi sự cho Ngài. Tuy nhiên, làm sao gặp gỡ được một Thiên Chúa cao vời khôn sánh và vô hình nếu không có sự hiện diện của Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể. Ngài là Thiên Chúa hữu hình ở với nhân loại chúng ta bằng cách làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã sống ẩn dật 30 năm tại làng Nazaret và 3 năm rao giảng công khai để nhằm“ Nước Cha trị đến, Danh Cha cả sáng và Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Ngài thi ân giáng phúc nơi Ngài hiện diện. Ngài là chứng nhân mạnh liệt về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại tội lỗi ngang qua việc chạnh lòng thương dân không có người chăn dắt, qua việc làm cho người mù được sáng, kẻ điếc nghe được, kẻ câm được nói, kè què được đi được, người bại liệt được chữa lành, người tội lỗi được đón gặp và ăn chung cùng bàn, ngay cả kẻ chết cũng được hoàn sinh,…Như vậy, để trở nên chứng nhân cho người khác, tiên vàn chúng ta phải có được sự gặp gỡ với Đức Giê-su một cách sâu thẳm. Vì không có Đức Giê-su, chúng ta không làm được gì. Muốn trở nên chứng nhân của Chúa cho mọi người, chúng ta phải cố gắng tìm kiếm và gặp cho được Đức Giê-su Phục Sinh để kín múc sự bình an đích thực cũng như sức mạnh của Ngài. Chính Đức Giê-su Phục sinh đã hiện ra nhằm trấn an, củng cố đức tin và ban bình an cho các môn đệ nói riêng và mỗi chúng ta nói chung. (x.Ga 20, 19-31)
Quả thật, không ai gặp gỡ Đức Giê-su mà không được biến đổi và trở nên người thừa sai. Trong Tin mừng, chúng ta bắt gặp nhiều con người đã được biến đổi cuộc đời mình sau khi gặp Đức Giê-su như ông Mathêu, như ông Gia-kêu, như bà Maria Madalena, như Phê-rô Tông Đồ, như Phaolô Tông đồ dân ngoại cũng như các tông đồ khác…Chính các ngài đã trở nên chứng nhân mạnh mẽ qua việc giảng dạy và thậm chí chấp nhận hy sinh tính mạng của mình để minh chứng cho niềm tin sắt son của mình. Thánh Gioan Tông Đồ đã khẳng quyết: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người.” (1 Ga 1, 3). Nơi khác, các Tông đồ cũng nói:“Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy”.(Cv 2,32). Quả thật, không ai được biến đổi chính mình nếu không có sự gặp gỡ Đức Giê-su, Đấng Phục sinh của Thiên Chúa. Cũng vậy, không ai gặp Đức Giê-su Phục sinh mà lại không phải đòi buộc ra đi làm chứng cho anh em – tìm gặp gỡ tha nhân nơi môi trường sống của mình. Như vậy, chúng ta phải sống như thế nào để trở nên chứng nhân đích thực của Chúa Giê-su trong thế giới hôm nay?
Thật vậy, chúng ta không thể mang danh ki-tô hữu mà đời sống chúng ta tồn tại sự buồn bã, thất vọng, đầy hận thù, đầy hiềm khích, đầy lỗi đức công bằng và bác ái, đầy sợ hãi và nhát đảm. Vì đạo của chúng ta là đạo của niềm vui, đạo của yêu thương. Đạo của chúng ta là đạo của Thiên Chúa Tình Yêu ngang qua Đức Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể. Là người thuộc về Chúa Ki-tô và tin vào Ngài, chúng ta được mời gọi: “…phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi… phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. (Mc 12, 30-31). Như vậy, chúng ta không thể yêu mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình. Hơn nữa, một khi đã tin – yêu Chúa thì ắt hẳn chúng ta phải yêu thương anh chị em đồng loại. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2,27). Đời sống ki-tô sẽ là chứng nhân đích thực cho anh chị em đồng loại nếu chúng ta thực hành điều răn mến Chúa yêu người liên lỉ và nên một với nhau trong đời sống thường ngày. Khi nói về điều này, Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã không ngần ngại nói “con người ngày nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy” là vậy. Vì thế, chúng ta sống đạo và thực hành các giới răn, các lời kinh chúng ta đọc trong nhà thờ ngang qua những lời nói, hành vi cử chỉ chúng ta sống và làm nơi đời sống xã hội là chúng ta đang giới thiệu Chúa Giê-su cách thực tế cho tha nhân, nhất là những người chưa cùng niềm tin Công Giáo.
Bên cạnh đó, thánh Phê-rô Tông đồ đã nhắn gửi với chúng ta về cách thức làm chứng nhân như sau: “tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc. Thật thế, ai là người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; người ấy phải làm lành lánh dữ, tìm kiếm và theo đuổi bình an, vì Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu xin, nhưng Người ngoảnh mặt đi, không nhìn kẻ làm điều ác. Ai làm hại được anh em, nếu anh em nhiệt thành làm điều thiện? (1 Pr 3, 8-13). Quả thật, đúng như vậy, ‘lời nói lung lay gương bày lôi kéo’ hay ‘hữu xạ tự nhiên hương’, qua cách sống tốt của chúng ta, mọi người sẽ nhận được niềm vui, sự bình an và hương hoa yêu thương của đạo, của người Công Giáo. Chính Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh điều đó, khi ngài nói: “…trong Đức Kitô Giêsu, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái.”(Gl 5, 6). Hành động bác ái, quan tâm và giúp đỡ những hoàn cảnh khổ đau, bệnh hoạn tật nguyện là dấu chỉ làm chứng cách rõ ràng của người môn đệ Chúa Ki-tô cho mọi người chung quanh. Mặt khác, trong cuốn “Chỉ nam về Huấn giáo” được ĐTC Phanxico phê chuẩn ngày 23/03/2020, ngài nhấn mạnh “Giáo hội phát triển không phải là chiêu dụ, nhưng bằng sự hấp dẫn”. Phải chăng, đời sống thực hành đạo của chúng ta ngang qua lối sống bao dung, tha thứ, yêu thương, quan tâm và hiệp nhất với nhau sẽ dễ dàng trở nên bằng chứng thiết thực để thu hút nhiều người, nhất là những đồng bào chưa cùng niềm tin với chúng ta?
Thật vậy, Tin mừng Phục Sinh hôm nay như một sự trấn an cho mỗi chúng ta khi có sự hiện diện của Chúa Giê-su, Đấng Phục Sinh của Thiên Chúa. Khi các môn đệ đang ở trong tinh thần sợ sệt và hãi hùng vì Thầy Giê-su đã chết, thì chính Đấng Phục sinh đã hiện ra với họ để củng cố niềm tin, thổi thêm sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là nguồn mạch của sự tình yêu và bình an để từ đó các môn đệ trở nên những nhân chứng mạnh mẽ thay vì sợ hãi, can đảm dấn thân thay vì khép kín co ro,…Phải chăng giữa một xã hội đầy dẫy những sợ hãi và chết chóc do dịch bệnh, bạo lực, đói nghèo, vô cảm và thiên tai, chúng ta cũng rất cần sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, là Đức Giê-su nơi Lời Chúa, nơi Mình Máu Thánh Ngài để chúng ta mạnh mẽ và can đảm trở nên chứng nhân của niềm vui và niềm hy vọng? Mong ước rằng lời Kinh Hoà Bình “Ðể con đem yêu thưong vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.” luôn luôn khắc ghi nơi tâm khảm mỗi người và được thực hành liên lỉ trong suốt cuộc lữ hành trần thế để nhiều người ở mọi nơi tìm gặp được Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất.
Trầm Thiên Thu
Nỗi lo làm co niềm tin, khiến hai môn đệ trên đường Emmau gặp Thầy Giêsu mà cứ tưởng người lạ. Và đó mới là điều rất khác lạ, rất đặc biệt.
Về địa danh Emmau có ý nghĩa khá thú vị. Tiếng Latin là Emmaus, tiếng Hy Lạp là Ἐμμαούς, tiếng Ả Rập là عِمواس (Imwas), tiếng Do Thái là חמת (Hammat), và có nghĩa là “mùa xuân ấm áp.” Emmaus cách Giêrusalem 7 dặm, khoảng 11 km.
Đã từng ở bên Chúa suốt 3 năm, vậy tại sao hai ông đồng hành và trò chuyện với Ngài mà không nhận ra người thân quen như thế? Chắc là không phải họ quá lo sợ mà quên hết trơn. Tình huống “gặp người quen mà thấy lạ” không phải là chuyện bình thường như chúng ta cố ý làm ngơ, mà có sự khác biệt giữa người-bình-thường và người-phục-sinh. Vẫn thân xác đó với tiếng nói đó nhưng có gì đó rất khác, bây giờ chúng ta không thể hiểu được.
Thật vậy, sự khác biệt đó đã khiến bà Maria Mácđala không nhận ra Chúa Giêsu mà cứ tưởng người làm vườn. Vẫn xác thể đó nhưng Chúa Giêsu không còn lệ thuộc không gian, không bị ngăn cản bởi bất cứ thứ gì nữa: Cửa phòng vẫn đóng kín mà Ngài bất ngờ đứng ở giữa khi các môn đệ đang ở trong phòng, họ tưởng ma nhưng Ngài chứng minh bằng cách ăn cá nướng; ở bờ biển cũng vậy, Ngài gọi các ông tới ăn cá rồi bất ngờ Ngài biến mất.
Chúa Giêsu phục sinh là động lực thúc đẩy chúng ta cố gắng “nằm gai” đời này để có thể “nếm mật” với Ngài đời sau. Khi Kinh Thánh nhắc lại Người Tôi Tớ Đau Khổ thì như “chạm” vào ký-ức-buồn của chúng ta, tức là sự ngu muội của chúng ta: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã NỘP và CHỐI BỎ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã CHỐI BỎ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại XIN ÂN XÁ cho một tên sát nhân. Anh em đã GIẾT Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi XIN LÀM CHỨNG.” (Cv 3:13-15)
Không còn nhát đảm như khi ở sân dinh Philatô, bây giờ ông Phêrô mạnh mẽ làm chứng về Đức Giêsu Kitô, đồng thời ông cũng thông cảm với người khác: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động VÌ KHÔNG HIỂU BIẾT, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em HÃY SÁM HỐI và TRỞ LẠI cùng Thiên Chúa, để Người XOÁ BỎ TỘI LỖI cho anh em.” (Cv 3:17-19) Là Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót, Thiên Chúa chỉ cần chúng ta chân thành ăn năn sám hối thì Ngài tha thứ ngay.
Chính Thiên Chúa đã hứa điều từ ngàn xưa: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.” (Is 1:18) Ngài thực sự muốn cứu chúng ta nên vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta quay về. Thật vậy, tướng cướp Dismas cả đời sống ngang ngược, nhưng vì biết sám hối nên được hưởng lời hứa đó ngay trên Núi Sọ: Theo Chúa Giêsu vào thẳng Thiên Đàng, (Lc 23:43) mặc dù người này chưa biết về Chúa Giêsu và cũng chưa được rửa tội trước đó. Thật kỳ diệu!
Rõ ràng Thiên Chúa vô cùng nhân lành, nhất là với những ai thành tâm sám hối: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn.” (Tv 4:2) Ngoài Thiên Chúa, chắc chắn chẳng có thần linh nào hoặc phàm nhân nào khả dĩ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc đích thực. Vì thế, tín nhân phải thiết tha cầu nguyện liên lỉ, van nài không ngừng: “Lạy Chúa, xin toả ánh tôn nhan Ngài trên chúng con.” (Tv 4:7)
Con người luôn cần Thiên Chúa, khi có Ngài rồi thì an tâm, chẳng lo lắng chi. Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã chia sẻ kinh nghiệm quý giá này: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn.” (Tv 4:9) Ôi, thế thì thật vui sướng biết bao!
Chân thành mong muốn chúng ta tỉnh ngộ nên Thánh Gioan nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em ĐỪNG PHẠM TỘI. Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính.” (1 Ga 2:1) Không nên phạm tội, đó là điều chính đáng, nhưng tay lỡ “nhúng chàm” thì lại được Luật Sư uy tín biện hộ cho chúng ta, đó là chính Chúa Giêsu. Thật diễm phúc cho chúng ta, nhưng đừng vì thế mà lạm dụng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Và Thánh Gioan cho biết: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa.” (1 Ga 2:2) Thật là trên cả tuyệt vời, và Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới.” (Nhật Ký, #1485) Mọi diễn biến từ Cựu Ước tới Tân Ước đều lô-gích, chính xác, không chút sai lệch. Thật là mầu nhiệm đối với sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Có hai điều kiện: Đừng phạm tội, và tuân giữ các điều răn – nhất là luật yêu. Đức ái (đức mến) là một trong ba nhân đức đối thần, nhưng là nhân đức quan trọng nhất. Bởi vì đức mến còn mãi mãi, trên Thiên Đàng không còn đức tin và đức cậy (hy vọng) mà chỉ còn đức mến.
Bằng cách phân tích, Thánh Gioan xác định: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.” (1 Ga 2:3-5) Tương tự, Thánh Phaolô nói: “Anh em ĐỪNG mắc nợ gì ai, NGOÀI món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13:8-10) Người biết yêu mến là người chu toàn lề luật của Thiên Chúa, đó là cách mặc lấy con người mới, sống niềm vui phục sinh.
Trên đường Emmaus, Chúa Giêsu gặp hai môn đệ và giải thích cho họ những gì đề cập trong Sách Thánh và liên quan Ngài, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Họ không hề biết đó là Chúa-Giêsu-phục-sinh, mãi đến khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ, mắt họ mới mở ra và nhận ra Ngài, thế nhưng Ngài lại biến mất. (Lc 24:27-30)
Một lần khác, khi các môn đệ ở trong phòng và đang nói, chính Đức Giêsu đứng giữa họ và chúc bình an cho họ. Các ông kinh hồn bạt vía, tá hỏa tam tinh, vì tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài vừa cười vừa nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39) Rồi Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Đúng rồi, ma đâu có thế này. Tại thần hồn nhát thần tính thôi mà!
Tuy nhiên, các ông vẫn bán tín bán nghi, chưa dám chắc, phần vì mừng quá, phần vì bỡ ngỡ. Thấy vậy, Ngài hỏi họ có đồ gì ăn thì đem ra cho Ngài. Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn ngon trước mặt họ. Thế thì thật rồi, không phải mơ. Thầy thực sự sống lại rồi.
Chúa Giêsu giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” (Lc 24:44) Rồi Ngài mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh, và Ngài nhấn mạnh: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là CHỨNG NHÂN về những điều này.” (Lc 24:46-48)
Làm chứng nhân là bổn phận và trách nhiệm của mọi tín nhân, mang danh Kitô hữu. Không cần phải làm công to việc lớn, mà chỉ cần những điều bình thường theo hoàn cảnh của mình, quan trọng là sự kiên trì. Chúng ta cứ hành động, kết quả do Chúa quyết định. Thánh Seraphim Sarov có bí quyết độc đáo thế này: “Hãy duy trì tinh thần hòa bình và anh em sẽ cứu được hằng ngàn linh hồn.”
Lạy Thiên Chúa toàn trí và toàn tri, xin soi lòng mở trí để chúng con có thể hiểu đúng và hiểu rõ Kinh Thánh, luôn biết thể hiện tình thương xót, nhiệt tâm loan báo Tin Mừng Phục Sinh, và xin cho chúng con nhận ra Ngài nơi mọi người. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ đến độ làm cho con người luôn bất an và lo sợ. Chẳng hạn, thất bại, rủi ro, mất an ninh, nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp hay thất tình…
Những nỗi lo sợ này làm ta “ăn không ngon, ngủ không yên” và cũng có thể làm ta tuyệt vọng, thậm chí đánh mất niềm tin nơi bản thân hay tha nhân, thậm chí Thiên Chúa nữa.
Tâm trạng của các tông đồ hôm nay cũng buồn sầu và lo sợ sau cái chết của Thầy Giêsu. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ”, nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma. Cho nên, điều đầu tiên Chúa phục sinh hiện đến với các ông là chúc bình an cho các ông và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với các ông. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Từ đó, các ông trở thành những chứng nhân về niềm tin bình an của Chúa Phục sinh cho thế giới một cách kiên cường và bất khuất.
Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, sự bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn ở lại trong chúng ta mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ và Rước Mình Thánh Ngài. Như vậy, sự bình an của Chúa luôn ngự trị nơi tâm hồn chúng ta, có nghĩa rằng chúng ta luôn có Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Cho nên, khi ngỏ lời với các tín hữu trong Sứ điệp Phục sinh năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở rằng sức mạnh của người Kitô hữu đến từ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và kêu gọi họ trở thành chứng nhân của hoà bình và công lý, nhất là cho những người ngày nay đang phải đau khổ tại những khu vực xảy ra bạo lực và khủng bố khốc liệt. Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha kêu gọi hướng đến những người đang đau khổ: “những người thiệt thòi, người bị giam cầm, người nghèo và những người di dân thường bị từ chối, ngược đãi và loại trừ, người bệnh tật và người đau khổ, các trẻ em, đặc biệt những người là nạn nhân của bạo lực”. Ngài kêu gọi họ hãy lắng nghe những lời đầy an ủi của Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy đã sống lại và sẽ luôn ở với anh em”. Và trong sứ điệp, Đức Thánh Cha quả quyết rằng: “Người Kitô hữu, nhờ ân sủng của Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, là những hạt giống của một nhân loại khác, trong đó chúng ta tìm cách sống phục vụ lẫn nhau, không ngạo mạn, nhưng tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ nhau. Ân sủng ấy là sức mạnh, chứ không phải sự yếu đuối. Nhưng, “những ai mang trong mình quyền năng của Thiên Chúa, tình yêu và công lý của Người thì không cần dùng đến bạo lực; họ nói và làm bằng sức mạnh của chân lý, của vẻ đẹp và tình yêu”.
Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có sự dữ nhưng hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Nếu chúng ta hôm nay được hồng phúc lãnh nhận đức tin Kitô giáo, đó là nhờ những chứng nhân Phục sinh đầu tiên, tức là các môn đệ của Chúa Giêsu. Hành trình chứng nhân của họ không đơn giản, vì lúc đầu, chính họ cũng không tin Chúa đã sống lại. Nhiều nơi trong Tân ước, cụ thể là bài Tin Mừng Thánh Luca hôm nay cho thấy điều đó. Khi Chúa Giêsu từ cõi chết đến với họ, họ tưởng Người là một bóng ma. Bằng việc ăn uống trước mặt họ và cho họ rờ tận tay để thấy đây là một thân xác thực sự, Chúa đã chứng minh, Người đã sống lại. Với những bằng chứng ấy, các môn đệ đã tin tưởng và vui mừng. Không những thế, họ còn trở nên những chứng nhân của Đấng Phục sinh.
Đối với khá nhiều Kitô hữu, ý nghĩa và thông điệp của lễ Phục sinh cũng chấm dứt cùng với những lễ nghi được cử hành ồn ào. Tệ hại hơn, có người chỉ coi ngày lễ này như một cuộc tưởng niệm đơn thuần, giống như tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hay một vị anh hùng dân tộc nào đó. Đối với họ, Đức Giêsu Phục sinh cũng chỉ như một “bóng ma”, một ảo ảnh hay một vĩ nhân của lịch sử đã qua. Lời Chúa hôm nay muốn giúp chúng ta xác tín vào sự phục sinh của Chúa. Thánh Phêrô đã làm cho cả cử tọa tâm phục khẩu phục, vì chứng minh Thiên Chúa của Đức Giêsu cũng là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, tức là Thiên Chúa của lịch sử, Đấng đã can thiệp và dẫn dắt các Tổ phụ của dân tộc Do Thái. Phụng vụ cũng muốn khẳng định với chúng ta, Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta hãy làm chứng nhân cho Người.
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này!“. Đây là một lệnh truyền của Đấng Phục sinh. Lệnh truyền này cũng là một trong những sứ mạng cốt lõi của đời sống Kitô hữu, là sứ mạng gắn liền với Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ, Bí tích này trao cho người được thanh tẩy ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vua. Chuyên tâm thực thi ba sứ mạng này, chính là làm chứng cho Đấng Phục sinh trong cuộc đời.
Hãy trở lại với những chứng nhân đầu tiên của Đấng Phục sinh, đó là Thánh Phêrô và các tông đồ. Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, Phêrô đã lược lại lịch sử cứu độ để chứng minh Đức Giêsu chính là Tôi trung của Thiên Chúa. Người đã chịu đau khổ và đã sống lại từ cõi chết. Lời giảng của ông kèm theo lời cam kết chắc chắn: “Về điều này, chúng tôi xin làm chứng”. Ông cũng bạo dạn quả quyết rằng, những người đang hiện diện trước mặt ông cũng có một phần trách nhiệm trong cái chết của Chúa Giêsu, nhưng vì thiếu hiểu biết, nên trách nhiệm ấy cũng nhẹ hơn. Từ đó, Ông kêu gọi họ hãy sám hối ăn năn để xin ơn tha thứ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục vác thánh giá và chịu khổ hình nơi gương mặt của những người bất hạnh, bệnh tật, nghèo đói. Mỗi chúng ta đề có bổn phận quan tâm đến họ. Và thật lạ lùng, khi quan tâm giúp đỡ những người trên đây là quan tâm giúp đỡ chính Chúa Giêsu. Xóa bỏ hận thù, thực thi bác ái, cổ võ hiệp nhất, đó là những việc cần thực thi để xứng đáng là chứng nhân của Đấng Phục sinh.
Làm sao có thể làm chứng cho Đấng Phục sinh, nếu chúng ta không thực sự xác tín vào Người? Vì vậy, Lời Chúa mời gọi chúng ta: Hãy sám hối và cố gắng sống thánh thiện. Thánh Gioan đã cho chúng ta những lời khuyên cụ thể và chi tiết: sống trong sạch, không dối trá, trung thành với các giới răn (Bài đọc II). Chỉ khi nào tuân giữ những điều này, chúng ta mới có khả năng làm chứng cho Đấng Phục sinh đang hiện diện trong đời sống hôm nay.
Nếu lúc ban đầu, các tông đồ nghi ngờ sự kiện Phục Sinh, thì sau này, các ông lại sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự kiện ấy. Cuộc gặp gỡ với Đấng Sống lại đã tiếp sức cho các môn đệ. Từ những người sợ hãi nhút nhát đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, các ông trở nên những chứng nhân can đảm, sẵn sàng loan báo Chúa đã sống lại, và còn hân hoan vì được xứng đáng chịu đau khổ vì Chúa (x. Cv 5,41). Sau này, tất cả các tông đồ đã chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng về điều họ đã được gặp gỡ, tức là Đấng đã từ cõi chết sống lại.
Xã hội hôm nay rất đang cần những chứng nhân của Đấng Phục sinh. Giữa đêm đen của thù hận, bạo lực, gian dối và mưu mô mánh lới, cần lắm những ánh sáng đến từ cuộc sống lương thiện, bao dung, trung thực. Để có thể trở nên một nhân chứng của Đấng Phục sinh, chúng ta phải gặp gỡ Người, phải xác tín nơi Người và phải cảm nhận niềm vui của Đấng đã sống lại. Như thế, mặc dù không nhìn thấy Đấng Phục sinh bằng con mắt thể lý, những người đương thời có thể nhận ra Người nơi chính cuộc sống của chúng ta.
“Hướng ngược gió, càng hợp để bay, tôi không sợ ngàn vạn người ngăn cản, mà chỉ sợ chính bản thân mình đầu hàng” (Sưu tầm).
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA (Lc 24:35–48)
Hai môn đệ được Chúa Giêsu hiện ra trên đường Emmau thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Các ông còn đang nói, thì chính Chúa Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em !” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này.”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có truyện kể rằng trước khi dâng mình cho Chúa, thánh An-phong-sô là một luật sư lỗi lạc. Người rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, Người đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho Người phải thất bại. Trong một vụ án mà Người thấy là đơn giản, dễ dàng, Người đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, Người thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời. Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, Người quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, Người tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, Người nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, Người hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, Người đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dong Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, Người hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa Người về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện Người trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ Người xuống trong danh vọng trần thế để nâng Người lên trong vinh quang Thiên đàng.
Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Chúa Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an.
Có lần Chúa Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế. Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giê- su phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe doạ đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.
Khi đức tin các Tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Chúa Giêsu là có thực. Đức tin của các Tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Chúa Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh.
Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các Tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Chúa Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày.
Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
- Có khi nào bạn đã gặp những đau buồn quá sức, tưởng như đã bị Chúa bỏ rơi không ?
- Qua đau khổ đến bình an, bạn đã bao giờ cảm nghiệm được điều này chưa ?
- Thánh Kinh giúp ta hiểu biết Chúa và biết sống theo thánh ý Chúa. Bạn có siêng năng đọc và học hỏi Thánh Kinh không ?
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đức Giêsu sống lại chia sẻ quyền năng phục sinh của Ngài cho nhân loại, cho thế giới, cho mỗi người chúng ta, và cho nhiều người khác nữa qua mỗi người chúng ta.Các bài đọc Chúa nhật thứ 3 Phục Sinh vẫn tiếp tục giới thiệu cho chúng ta về Chúa Phục Sinh và quá trình các môn đệ đến với Chúa Phục Sinh.
Thánh Luca trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay và đoạn Phúc Âm Chúa nhật Phục Sinh tường thuật lại việc Chúa sống lại theo nhãn giới Thánh Kinh và dưới sự tác động, soi sáng của Chúa Thánh Thần. Các môn đệ của Chúa thực sự đã sống với Chúa Giêsu, đã được Ngài loan báo trước về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Tuy nhiên sự việc xẩy ra, Chúa Giêsu bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh trên cây Thập giá. Rồi Ngài được táng xác trong mộ, sau ba ngày Ngài đã sống lại đúng như lời Ngài đã nói. Bà Maria Mađalêna đã được Chúa Phục Sinh hiện ra và bà được diễm phúc nhận ra Chúa sống lại, khi Ngài gọi tên bà…Simon Phêrô và Gioan đã nhận ra Chúa, đã tin vào Chúa Phục Sinh. Tuy nhiên khi bà Maria Mađalêna, Simon Phêrô, Gioan và hai môn đệ trên đường Emmaus tường thuật lại sự việc của Chúa Phục Sinh, các môn đệ vẫn cứng lòng không muốn tin vì tưởng Chúa là ma :” Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ?…”.Các môn đệ sợ sệt, lo âu vv…Chúa Phục Sinh đã mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh và Người nói :” Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại…”.Chúa Phục Sinh cho các môn đệ thấy vinh quang Phục Sinh của Ngài. Bởi vì, trước đó các môn đệ vẫn còn mù mờ, sợ hãi và chưa hoàn toàn tin tưởng vào Chúa sống lại. Đức Kitô Phục Sinh đến với các môn đệ, nâng đỡ, ủi an và củng cố đức tin cho các ông. Và rồi Chúa Phục Sinh cho các thấy, hiểu về sứ vụ của các ông là làm chứng cho Chúa sống lại và cho các ông thấy vinh quang Phục Sinh thật vĩ đại, thắp sáng niềm tin, niềm hy vọng cho các ông để các ông can đảm bước theo chân Người.
Khi các môn đệ nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, các ông vui mừng và với sự tác động của Chúa Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Chúa Phục Sinh cũng mời gọi chúng ta làm chứng cho Người, trở nên những chứng nhân cho tình yêu của Người giữa dòng đời, giữa lòng thế giới. Giữa cuộc đời đầy tâm tối, u sầu, chán chường, thử thách, thất vọng có khi đi đến tuyệt vọng, Chúa sống lại vẫn cho chúng ta ánh sáng hy vọng để dọi chiếu vào thế gian tăm tối. Do đó, làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh là dùng chính đời sống mình để chứng tỏ cho mọi người, cho thế giới biết quyền năng Đức Kitô Phục Sinh đã tác động và biến đổi chúng ta. Đó chính là để cho Đức Kitô nói với tha nhân qua con người chúng ta. Đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cho chúng ta bắt gặp sự ăn ý giữa Tin Mừng của thánh Gioan:” Chúa ban bình an và minh chứng Chúa đã sống lại thật; đồng thời cho chúng ta hiểu vinh quang của Thập giá “. Thực vậy, có đau khổ mới có vinh quang. Có cái chết chiều Thứ Sáu Tuần Thánh mới có buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu là trao ban ánh sáng phục sinh cho người khác, cho nhân loại còn đang sống trong âm u, tối tăm và tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi chúng con, xin ban cho chúng con một quả tim mới, cái nhìn mới, sự suy nghĩ mới để chúng con biết phân định đâu là chân lý, đâu là sự giả trá, để chúng con trở thành những chứng nhân cho Chúa Phục Sinh giữa lòng thế giới hôm nay. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao Chúa Phục Sinh lại ban bình an cho các môn đệ ?
2.Ánh sáng phục sinh là gì ?
3.Làm chứng cho Chúa sống lại là làm sao ?
4.Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên gì ?
.
CÓ THIÊN CHÚA SẼ KHÔNG CÒN SỢ HÃI
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Ma không ai thấy nhưng người ta lại tưởng tượng nó với nhiều hình thù thật đáng sợ nhất. Thế nên mới có tích chuyện xưa kể rằng:
Có người thợ được vua mời vào vẽ tranh cho vua. Vua hỏi: “Vẽ cái gì khó?”
Thưa: “Vẽ chó, vẽ ngựa khó”.
– Vẽ cái gì dễ?
– Vẽ ma, vẽ quỉ dễ.
– Sao lại thế?
– “Chó ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống thì người ta chê cười, cho nên khó vẽ. Ma quỉ là giống vô hình, không ai trông thấy, tuỳ ý muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ”.
Điểm chung của con ma thường là không đầu. Chân không chạm đất. Nó không xương không thịt nên có thể xuyên tường, xuyên nhà và tự do đi lại ở khắp nơi. Đôi khi thần hồn nhát thần tính khiến người ta nhìn người ra ma, “nhìn cò ra quạ” đến khiếp nhược rụng rời tay chân.
Các tông đồ cũng chưa bao giờ chứng kiến người chết sống lại. Niềm tin các ông chưa đủ để hiểu những gì đang diễn ra. Thế nên, khi thấy Chúa Giê-su phục sinh các ông vẫn ngỡ là ma, các ông hoài nghi xen lẫn sợ hãi. Chắc là phải sợ hãi lắm nên Chúa mới phải trấn an: Đồ nhát ”Ma làm gì có thịt có xương như Thầy”.
Dù sao đi nữa thì niềm tin người chết sống lại vẫn vượt quá trí tưởng tượng của con người. Các ông chưa đủ niềm tin vào sự phục sinh của Chúa nên các ông vẫn mơ hồ tưởng Thầy là ma. Chưa đủ niềm tin vào sự phục sinh nên các ông vẫn sợ những bóng tối che phủ chung quanh. Lòng các ông nặng trĩu lo âu. Tâm trạng hoang mang sợ hãi trước cái chết của Thầy Giê-su.
Hôm nay Chúa Phục sinh đã mang lại bình an cho các tông đồ. Sự sợ hãi đã bị đẩu lùi. Bóng ma không còn nữa chỉ còn Thầy với thân xác phục sinh cùng ăn, cùng uống, cùng đồng hành với các môn sinh. Niềm vui của sự sum vầy dâng cao. Tình thầy trò lại sống lại. Chúa phục sinh đã nối họ lại trong một gia đình để cùng ra đi loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Có người sợ cho tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của dòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.
Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của dòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù dòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen
.
TỪ NGƯỜI BỎ CUỘC TRỞ NÊN SỨ GIẢ TIN MỪNG
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tin Mừng Chúa nhật III Phục sinh tập trung vào hai môn đệ rời Giêrusalem mang theo sự buồn sầu thất vọng về làng Emmaus. Quả thật, chính tại Giêrusalem hai ông đã chứng kiến các biến cố dẫn đến cái chết của Chúa Kitô như lời hai ông kể cho vị khách (Không Hay Biết) : “Có một người tên là Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi” (Lc 24, 19 – 21). Đúng là mấy phụ nữ rằng thuật lại rằng Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng đó là một tin lạ lùng không thể tin được, các bà chẳng những không củng cố được lòng tin cho các ông mà còn làm các ông “khiếp sợ” (x. Lc 24, 22), sợ đến nỗi bỏ cuộc, rời Giêrusalem, nơi mà “giấc mơ” của họ bị vỡ tan vì Thập Giá.
Và dĩ nhiên, dưới dáng dấp của người đồng hành, Chúa Giêsu đã hiện ra cùng đi với họ. Trên đường, với hai ông, Chúa chỉ là Vị Khách lạ, “người không hay biết“. Nhưng chính “người không hay biết” ấy đã làm cho các ông vơi đi nỗi buồn. Sự thất vọng mà họ có không cho phép họ tin rằng Thập Giá của Chúa Kitô là chìa khóa để mở cửa bước vào nhà Cha.
Với sự thẳng thắn và yêu thương, “người không hay biết” than : “Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người” (Lc 24, 25-27).
Vị Khách đã mở lòng mở trí cho hai ông, hai ông lắng nghe và cảm thấy có một sức thu hút ngoại thường khiến các ông cất lơi : “Mời ông ở lại với chúng tôi“, lý do “vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn” ( Lc 24, 29 ). Với lời mời thịnh tình ấy, Chúa Giêsu đáp lại bằng một cử chỉ chia sẻ khi đồng bàn với họ : “Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông” (Lc 24, 30). Cử chỉ Thánh Thể này giúp cho “hai kẻ bỏ cuộc” nhận ra Chúa.
“Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào” (Lc 24, 13-35). Câu này kết thúc trình thuật kinh nghiệm phục sinh của hai môn đên trên đường Emmaus, tổng hợp cách kỳ diệu ý nghĩa về sự hiện hữu Kitô của người môn đệ Chúa Kitô. Đâu là tính mới lạ của Kitô giáo nếu không phải là sống cái chuẩn mực của đời sống, với niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và thất vọng? Cuộc hành trình của hai môn đệ trên đường Emmaus với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống của họ cũng như chúng ta : “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” (Lc 24, 32)
Trên con đường đến Emmaus, chúng ta có thể nhận ra con đường đức tin của chính mình, thay vì quán trọ, thì có Giáo Hội. Thánh Lễ cung cấp cho chúng ta Lời Chúa và Thánh Thể, những yếu tố không thể thiếu cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Nếu chúng ta ra khỏi nhà với những khó khăn, lo toan, với tinh thần của hai môn đệ làng Emmaus, chúng ta hay đến nhà thờ, ít là Chúa nhật, nơi Thiên Chúa ở với chúng ta, nơi mà Lời Chúa được giải thích ban cho chúng ta sự an ủi, Bánh Hằng Sống được trao ban để phục hồi, chữa lành, chăm sóc chúng ta và ban cho chúng ta niềm vui.
Con đường của hai môn đệ của Emmaus là con đường của tất cả chúng ta. Nếu trên đường đi, lòng chúng ta không còn bị khép kín vì buồn bã, chúng ta có thể gặp Đấng Phục Sinh trong Ngôi Lời làm cho lòng chúng ta nóng lên, và trong Bánh Thánh làm cho mắt chúng ta sáng lên. Trong Lời Chúa và Thánh Thể, chính chúng ta đang đi từ cõi chết đến cõi sống và chúng ta nhận ra sự thật về điều mà các nhân chứng đầu tiên đã truyền cho chúng ta: chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã sống lại vì chúng ta cũng đã gặp Người. Chúng ta được sống lại với cuộc sống mới trong tình yêu.
Chúa Kitô loan báo Tin Mừng về sự sống lại của Người cho chúng ta trên đường đi, như các môn đệ. Người nói với chúng ta về câu chuyện tình của Thiên Chúa với dân Ngài, Người nhắc nhở chúng ta về sự trung tín không ngừng của Thiên Chúa, Đấng đã ký kết giao ước đời đời với chúng ta. Chúa Kitô nói với chúng ta và mở lòng chúng ta hiểu Kinh Thánh. Như thế, Người mạc khải cho chúng ta sự sâu thẳm của Trái Tim đầy yêu thương, Người “phải” chịu đau phiền và phải chết. Người không thể làm gì khác ngoài yêu chúng ta cách tuyệt đối và vô hạn vượt qua mọi rào cản của cái chết và thân xác.
Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống, khiến họ đang là kẻ bỏ cuộc trở nên người loan báo Tin Mừng về Đức Kitô tử nạn và phục sinh.
Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về “làng Emmaus“, rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus. Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh, niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và khẩn cầu Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, ngõ hầu trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng Chúa sống lại cho mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Có những khi ta mong mỏi một điều gì đó nhưng khi đạt được rồi ta lại trở nên bối rối và phản ứng cách kỳ cục. Sau khi Thầy Giêsu bị kết án, chết nhục nhã trên cây thập giá, các môn đệ rơi vào trạng thái sợ hãi và bơ vơ. Các ông buồn bã vì Thầy đã không còn. Có lẽ các ông cũng từng ước Thầy còn bên cạnh để sống những tháng ngày bình yên và êm ấm. Rồi khi Thầy trỗi dậy, các ông đã kể cho nhau nghe về biến cố lạ lùng ấy.
Niềm vui tràn ngập tâm hồn, hai môn đệ từ làng Emmau khấp khởi trở về Giêrusalem, gặp các anh em để báo tin mừng vì chính các ông đã được gặp Chúa, và kể lại cách tường tận về việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. (x. Lc 24, 33-35). Niềm vui được chia sẻ sẽ lan rộng và tăng lên gấp bội phần. Họ kể cho nhau nghe về biến cố Chúa trỗi dậy mà lòng như chẳng còn sợ hãi. Thế nhưng lạ thay, chính khi ấy, Chúa đứng giữa các ông mà ban bình an thì các ông lại kinh hồn bạt ví, còn tưởng là thấy ma. (x. Lc 24, 36-37). Các ông vẫn chưa quen với cách hiện diện bất ngờ của Chúa. Thánh sử Luca bảo rằng “các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng”. (Lc 24, 41). Nếu ta ở trong hoàn cảnh của các môn đệ lúc ấy, ta sẽ phản ứng thế nào? Ta thử lắng nghe xem Chúa nói gì nhé. “Ở đây anh em có gì ăn không?” ( Lc 24, 41 b). Các ông đã chia sẻ một khúc cá và Chúa đã ăn trước mặt các môn đệ. Thầy Giêsu đã phục sinh và “thân thể ấy là thân thể vinh hiển, có những đặc tính mới: không còn bị ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa, Người tự do hiện diện nơi nào và lúc nào Người muốn, cũng như Người có thể hiện diện dưới nhiều hình dạng.” (GLTK – bài 10). Lời của Chúa cũng đang mời gọi ta ngay hôm nay: Tôi có gì để cho Chúa và cho anh em? Chúa đã phục sinh và Người có thể hiện diện nơi những người bên cạnh ta. Họ là những người lỡ đường, đói khát, nhưng người nghèo mà ta có thể trao ban chút thức ăn mình có. Chúa đã mở trí lòng cho các ông hiểu Kinh Thánh và mời gọi các ông: “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này.” (Lc 24, 47- 48).
Lạy Chúa! Chúa đã hiện diện và ban niềm vui cho tâm hồn con. Xin cho con khám phá ra sự hiện diện của Chúa nơi từng người con gặp gỡ và lắng nghe được lời Chúa vẫn mời gọi con: “Chính anh em hãy cho họ ăn.”Amen.
.
Anna Cỏ May
Chúa đã sống lại, trên trời các triều thần hân hoan cất tiếng ngợi ca. Thế nhưng các cửa phòng của các môn đệ vẫn còn đóng kín.
Với phép ẩn dụ, các cửa phòng đóng kín chính là tâm hồn của các môn đệ không thể mở ra được. Tâm hồn và trái tim họ đã bị khép chặt lại trong sự sợ hãi, đau buồn và mất niềm tin. Các ông đã nhận thấy thái độ của mình khi Thầy đứng trước cái chết, các ông hối hận trong lòng, tâm hồn chìm ngập trống vắng, khô khan, chán nản. Bên ngoài, các ông sợ không dám đối diện với sự thật, với những người dân Do Thái vì các ông đã từng có một cuộc sống sung túc, đầy đủ, được yêu thương, bao bọc, nâng đỡ dạy dỗ mỗi ngày. Bây giờ Thầy không còn, các ông cảm thấy mất tất cả rồi, không còn chút gì là hy vọng. Họ cũng chẳng nhớ lời Thầy nói. Các ông như đang té ngã cả thể xác, tâm hồn, còn đức tin có lẽ cũng đang bị lung lay. Đầu tiên là hai môn đệ trên đường Em-mau đã trở về thuật lại cho các ông biết về những gì đã gặp đã thấy về Thầy. Cũng ngay lúc ấy, Chúa Giêsu đã hiện ra đứng giữa các môn đệ và nói “ Bình an cho anh em. Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” ( Lc 24, 36). Thấy vậy, Chúa Giêsu liền cho các ông thấy chân tay và sờ xem xương có thịt thật.
Tuy nhiên, theo tâm lý, các môn đệ vẫn chưa tin vì quá vui mừng, và còn đang ngỡ ngàng hết sức về sự sống vinh quang của Thầy. Biết làm sao đây? Chúa Giêsu tiếp tục dùng hành động gần gũi quen thuộc hằng ngày khi ở chung với các môn đệ. Ngài đã hỏi “ Ở đây các anh có gì ăn không ? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” ( Lc 24,41- 43). Cũng như hai môn đệ trên đường Em-mau đã nhận ra Chúa ngay lúc “các ông ngồi đồng bàn với Thầy” thì các môn đệ cũng vậy. Và chính hành động ngồi ăn trước mặt các ông đã xua đuổi tư tưởng Chúa Giêsu là ma và thức tỉnh tâm hồn, củng cố niềm tin nơi các môn đệ. Khi nhận ra Thầy, tâm hồn các ông cũng đã mở ra và Chúa Giêsu bắt đầu mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và nói “Chính anh em là chứng nân về những điều này” (Lc 24, 48). Các ông sẽ làm chứng về việc Chúa chịu khổ hình, chịu chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Ngài mời gọi các ông đừng sợ hãi nữa mà hãy vui lên và chuẩn bị hành trang lên đường làm chứng nhân cho Ngài cũng như tiếp nối công trình mang tình yêu ơn cứu độ đến cho mọi người.
Lời mời gọi ấy vẫn còn vang vọng mãi trong Giáo Hội, nơi mỗi người Kitô hữu. Chúng ta là những người được tiếp nối từ nơi các môn đệ. Vậy trong thời đại này, chúng ta sẽ làm gì để thực hiện lời Chúa mời gọi? Lời mời gọi ấy có quá khó với chúng ta không? Thực sự mỗi người có những khả năng riêng. Chúng ta hãy dùng những khả năng ấy để làm và sống với lời Chúa. Chúa không đòi những gì quá sức chúng ta, nhưng sẽ ban đủ sức cho chúng ta thực hiện như lời Ngài đã nói “ Ơn Ta đủ cho con”. Chúng ta hãy thử sức mình, đừng nhụt chí, nản lòng, nhưng hãy tin tưởng, tín thác vào Chúa mỗi ngày.
Lạy Chúa, Chúa biết rõ từng người chúng con. Xin Chúa tiếp tục nâng đỡ chúng con mỗi ngày như Chúa đã làm với các môn đệ. Quả thật, không có Chúa chúng con có cố gắng đến bao nhiêu cũng không thành công được. Bởi đó, chúng con luôn cần ơn Chúa trong từng mỗi phút giây của ngày sống. Xin hãy ở lại với chúng con. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Khi hai môn đệ trở về,
Tâm hồn thanh thản, cận kề bên nhau.
Các ông kể sự trước sau,
Giê-su bẻ bánh, biến mau khỏi bàn.
Nhận ra Chúa đã khải hoàn,
Tâm tư thổn thức, hân hoan trong hồn.
Thầy đây, đừng sợ, lời đồn,
Phục sinh cõi chết, cao tôn vĩnh hằng.
Đừng lo bối rối nghĩ sằng,
Chân tay xương thịt, rõ ràng Thầy đây.
Chia phần ăn uống cùng Thầy,
Chứng minh sự thật, khởi xây Nước Trời.
Chu toàn ứng nghiệm tuyệt vời,
Mọi lời Kinh Thánh, trong đời Ngôi Hai.
Thi hành thánh ý thiên sai,
Chết đi sống lại, ngự ngai Vua trời.
Các Tông đồ cùng tụ họp chia xẻ niềm vui với nhau. Những ngày hoảng sợ và đau buồn đã dần qua. Các Tông đồ đã từ từ lấy lại niềm tin nơi Chúa. Trong khi các ngài đang thuật lại những lần Chúa đã hiện ra, Chúa Giêsu xuất hiện giữa các ông một lần nữa và xác tín rằng: Thầy đây, đừng sợ!
Tuy Chúa hiện ra nhiều lần nhưng các Tông đồ không hoàn toàn xác tín. Vì sau khi sống lại, Chúa không mang thân xác nặng nề như con người, mà là thân xác phục sinh như thiên thần. Lúc ẩn, lúc hiện, Chúa hiện ra dưới nhiều hình ảnh khác nhau. Lúc thì như người làm vườn, khi thì như người bạn đồng hành, khi thì như người chài lưới bên bờ hồ và các tông đồ không nắm bắt được một cách cụ thể. Đôi khi các ngài nửa ngờ, nửa tin. Các Tông đồ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng nhưng không thể hiểu thấu vì sự chết và sự sống lại là một mầu nhiệm.
Sự sống lại của Chúa Giêsu đã hoàn toàn vượt trên mọi kinh nghiệm. Chúa sống đời sống mới và vượt ngoài khung cảnh vật chất. Chúa muốn chứng minh sự khác biệt giữa hồn ma và sự sống lại vinh hiển của Chúa. Ma làm gì có xương thịt như các con thấy Thầy có đây.
Chúa đã tiếp tục dùng Kinh Thánh để dạy dỗ các ông. Chúa phải bước qua đau khổ và phải chết đi mới bước qua sự sống mới. Hạt miến cần chôn vùi và tan rữa mới biến thành bông hạt. Đau khổ là một mầu nhiệm. Phục sinh vinh quang là một mầu nhiệm. Đau khổ chỉ hiểu được khi có sự vinh quang. Vinh quang chỉ hiểu được khi những đau khổ đã qua đi. Chúng ta không thể đi ra ngoài con đường mà Chúa đã đi qua. Qua thứ Sáu Tuần Thánh mới tới Chúa Nhật Phục Sinh. Phải qua đau khổ mới vào vinh quang.
Chúng ta không thể đi đường tắt tới vinh quang được. Nếu không có thánh giá và đau khổ sẽ không có vương miện chiến thắng. Chúa Kitô là đầu nhiệm thể, Ngài đã đi trọn con đường và hoàn tất hành trình về cõi sống. Ngài kêu mời chúng ta vác thập giá và bước theo Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đến cùng đích là sự sống vĩnh cửu bên Ngài.
Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng nơi Chúa Phục Sinh. Làm nhân chứng, không chỉ nói về sự kiện lịch sử Chúa đã sống lại. nếu chỉ nói, ai cũng nói được. Làm nhân chứng cho Chúa ở giữa dòng đời bằng chính cuộc sống và niềm tin. Chúng ta hãy là nhân chứng cho sự Phục Sinh qua cách sống, qua việc cư xử, qua lời nói và việc làm hằng ngày để mọi người chung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô Phục Sinh.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Sau cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về Em-mau, lòng đầy sầu muộn. Đức Giêsu, Đấng mà họ tin tưởng là vị lãnh tụ vĩ đại sẽ giải thoát Ít-ra-en, đã gục chết trong đau thương và mang niềm hy vọng của họ xuống mồ.
Đang lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện như một lữ khách cùng đi đường với họ, lấy lời Kinh thánh hâm nóng cõi lòng băng giá của họ, minh chứng cho họ biết Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ như thế rồi mới tiến vào vinh quang. Thế mà suốt cả hành trình đó, hai môn đệ vẫn không nhận ra người bạn đồng hành với mình là Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa phục sinh lại bất thần có mặt giữa các môn đệ trong một căn phòng tại Giêrusalem. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là oan hồn của Chúa Giêsu hiện về!
Chúa Giêsu phải dùng nhiều cách tỏ cho họ biết Người đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma. Người cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Người có xương có thịt chứ chẳng phải là vong hồn. Vì họ vẫn còn nghi ngờ nên Người lại đề nghị họ sờ tay chân Người để kiểm chứng. Thấy họ vẫn còn hoài nghi, Người lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vầy.
Rồi tiếp đó, Chúa Giêsu dùng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Người là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Bấy giờ mắt các môn đệ mới sáng ra và tin Người đã sống lại.
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì được phúc đối diện với Chúa Giêsu mà không nhận ra Người. Nhưng xét lại, chúng ta cũng chẳng khá hơn vì hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng nhận ra Người.
Chúa Giêsu đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng: Người đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh là chi thể của Người ( 1 Cor. 12:27; 6:15; 10:17), Người tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Người (Mt 25:40)… [xem 1]. Vậy mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh, đang đồng hành với chúng ta.
Để diễn tả thực trạng đó, Cha Anthony de Mello, có ngụ ngôn sau đây:
Một con cá sống ở đại dương hỏi một con cá khác:
– Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu được. Xin bác hãy nói cho cháu biết: cháu có thể tìm thấy ở đâu điều mà người đời thường gọi là đại dương? Cháu đã tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá già nói:
-Đại dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
-Đây ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi con cá non dại đó đã rất thất vọng ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi khác.
(Anthony de Mello trong tác phẩm: “Như tiếng chim hót”)
Con cá bơi lội trong đại dương mà chẳng thấy đại dương đâu, chỉ thấy chung quanh toàn là nước. Thế rồi, con cá tội nghiệp đó vẫn thơ thẩn bơi lội đi tìm đại dương.
Chúng ta cũng như con cá bé bỏng đáng thương kia. Chúng ta đang kiếm tìm Thiên Chúa, chúng ta khao khát được gặp Chúa phục sinh, trong khi Người đang hiện diện chung quanh ta, đang đồng hành với ta, cùng ta làm việc, cùng ta sinh hoạt trong cùng một mái nhà, một xưởng máy… Vậy mà chúng ta đâu có nhận ra Người. Chúng ta tưởng Người ở nơi đâu xa lắm, mãi tít trên trời xanh; chúng ta tưởng chừng Người đang lởn vởn đâu đó như một bóng ma. Thế rồi, như con cá non dại kia, chúng ta thơ thẩn đi tìm Chúa ở những phương trời khác.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Con cá bé bỏng kia không ngờ rằng nước biển và đại dương chỉ là một nên nó đã hoài công bơi lội tìm kiếm điều mà nó vẫn được tiếp cận thường xuyên; chúng con cũng không ngờ rằng Chúa và tha nhân là một nên chúng con đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội được phục vụ và vui sống bên Ngài.
Xin giúp chúng con sớm giác ngộ để chấm dứt hành trình tìm kiếm Chúa cách viển vông nhưng biết dừng lại để yêu thương và phục vụ Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em đang sống quanh mình. Amen.
(1) “Vậy anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận” ( 1 Cor. 12:27);
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (1 Cor. 6:15);
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cor. 10:17)
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40)
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Đức tin dựa trên hai yếu tố: Tin là điều Chúa muốn muốn bày tỏ và tin là việc con người đón nhận điều Chúa phán.
Thiên Chúa bày tỏ.
Trong sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu. Người muốn bày tỏ cho những người Chúa chọn về việc Chúa đang sống: ”Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24, 6). Sứ điệp này không chỉ bằng Lời mà còn bằng chứng : “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây? Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24, 39 – 40).
Đức tin đến từ Thiên Chúa, Người biểu lộ chính mình cho con người trong Chúa Giêsu Kitô. Làm sao con người có khả năng đón nhận? Chính Chúa Thánh Thần lay động từ trong sâu thẳm của trái tim con người: “Có một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phao-lô nói.” (CVTĐ 16, 14). Chúa mở lòng trí con người, con người mới có khả năng đón nhận điều Chúa phán dạy.
Quyết định tin là hành vi của con người nhưng cũng là tác động của Thiên Chúa từ trong lòng của con người, để con người xác tín và tuyên xưng. Thánh Phaolô giảng dạy: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” (Rm 10, 9 -10).
Tin còn là điều Thiên Chúa tác động đưa lòng dạ con người về với Thiên Chúa. Con người thụ tạo vốn sống trong thế gian, thuộc về thế gian, nên không có khả năng hướng về Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không tác động. Thế nên, mọi người đều được Thiên Chúa quy hướng về Người, tuy với nhiều Danh Xưng khác nhau về Thiên Chúa, nhưng bài giảng của Thánh Phao lô ở Athene, chỉ rõ:
“Thưa quý vị người A-thê-na, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: “Kính thần vô danh”. Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị.
“Từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta. Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: “Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người.” (Cv 17, 22 – 28)
Tin là một sự hoán cải. Tuy là Thiên Chúa bày tỏ, con người vẫn cần được Thiên Chúa biến đổi từ bên trong. Chúa Giê su ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để chính Chúa tHanh Thần biến đổi các môn đệ từ những con người theo Chúa, bây giờ xác tín vào Chúa, từ con người yếu đuối, kém tin để trở nên những con người mạnh mẽ, dám lấy mạng sống mình ra làm bằng chứng cho Chúa Phục Sinh.
Chúa Thánh Thần vẫn còn tiếp tục làm cho đức tin ngày càng tăng trưởng và hiểu thấu hơn về Lời Chúa đã mạc khải để ngày càng vâng phục hơn trong hiểu biết và yêu mến.
Thánh Augustine cầu nguyện : “Chúa sẽ khiến con quay về với Chúa..Chúa sâu thẳm hơn chính sự sâu thẳm của con, cao hơn những nơi cao nhất của chính con”
Tin Chúa bằng cả ý chí và lý trí.
Trong sự kiện của Toma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25). Lý trí đòi hỏi cần được minh chứng để tùng phục trong ý chí. Cuối cùng, Chúa đã hiện ra và mời gọi hãy xem tay chân Thầy và Toma đã thưa lên: “”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! ” (Ga 20, 28).
Tin có một chiều kích khác là ý chí. Đòi hỏi một dấn thân, bền bỉ và đời sống cầu nguyện. Như các môn đệ đầu tiên, “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1, 39).
Công đồng Vat II đưa ra một đề nghị về niềm tin là “tự do phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa”. Hành vi của niềm tin này là một cuộc mạo hiểm sáng suốt: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9, 24).
Chính Chúa lôi kéo và quyến rũ được tôi, đó là kinh nghiệm của Giêrêmia. Thánh Phaolô thì nói: “Tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt , bởi lẽ chính tôi đã được Chúa Kitô chiếm đoạt” (Pl 3, 12). Như vậy, chính Chúa là Đấng đã tự thông ban chính mình cho nhân loại và nhân loại cũng đã tự nhiên thấy mình khao khát về ý nghĩa sống, cuộc đời đang sống này có trị gì, rồi đi đâu, để đi tìm Chúa. Kết qủa Thiên Chúa đến với con người và con người đi tìm kiếm Thiên Chúa, được gặp gỡ Người. Tìm kiếm và gặp gỡ là hành trình của con người mãi mãi sẽ lớn lên trong đời sống với Chúa và với nhau.
Các Tông Đồ là những người đã trải qua kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Các ngài là các Đấng tường thuật mãi cho các thế hệ mai sau, những kinh nghiệm ở với Chúa, học với Chúa và quy tụ cộng đoàn trong tin Mừng Chúa Phục Sinh trong các quyển Tân Ước.
Thay cho lời kết:
Lời cầu nguyện của Thánh Augustine:
“Lạy Chúa! Hướng mọi nỗ lực của con theo quy luật đức tin này, con đã tìm Chúa, chừng nào con có thể, chừng nào Chúa cho con khả năng đó; con đã ước ao nhìn thấy bằng trí hiểu điều con tin… Xin nhận lời con, vì con sợ rằng, do mệt mỏi chán chường, con không còn muốn tìm kiếm Chúa nữa.”
.
Lm. Nguyễn Thái
Có một câu chuyện kể rằng khi Chúa Giêsu về trời, tất cả các thánh, các thiên thần quy tụ lại xung quanh Ngài để phỏng vấn. Giống như báo chí thường phỏng vấn các tân giám mục hoặc hồng y, các thiên thần nhìn thấy những vết thẹo trên mình Ngài, những vết đinh trên bàn tay, bàn chân, những mũi gai nhọn trên đầu, vết đòng đâm bên cạnh sườn, và những vết roi bị đánh đòn phía sau lưng… Thánh Giuse mới hỏi: “Ắt hẳn là Ngài phải chịu đau đớn kinh khủng lắm vì sự tàn bạo của con người chứ?” “Đúng vậy!” Chúa Giêsu trả lời. “Thế họ có nhận ra tình yêu của Ngài dành cho họ và điều Ngài đã làm cho họ không?” Thánh Giuse hỏi tiếp. “Không!” Chúa Giêsu trả lời, “Chưa đâu, có thể là sau này thôi!” “Thế Ngài đã làm gì để bảo đảm rằng mọi người sẽ nhận ra?” Thánh Giuse lại hỏi. “Ừ, Ta đã yêu cầu ông Phêrô, Giacôbê, bà Maria, và vài người khác nói lên điều đó, và yêu cầu tất cả những ai nghe họ cũng phải loan truyền cho những người khác, cho đến khi nào tất cả mọi người ở mọi nơi đều biết đến điều đó.” “Nhưng nếu ông Phêrô, Giacôbê, và bà Maria không nói với ai hết thì sao? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ trở nên mệt mỏi, nhàm chán? Hoặc giả những người đến sau họ quên luôn? Hoặc là họ nghe, rồi quên nói lại? Ngài có dự phòng một kế hoạch nào khác nữa không?” Thánh Giuse đặt vấn đề. Chúa Giêsu trả lời: “Không! Ta đã chẳng dự trù một kế hoạch khác nào cả. Ta hoàn toàn tin tưởng và trông cậy nơi họ.”
Bài Phúc Âm hôm nay, Lc 24: 35-48, diễn tả việc Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trong lúc họ đang sợ hãi và ngờ vực. Nhưng Chúa đã biến đổi sự sợ hãi và ngờ vực thành niềm vui và kinh ngạc, để rồi sau cùng Chúa đã tin tưởng và trao phó sự nghiệp truyền giáo cho họ: “Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem… Chính anh em là những chứng nhân của những điều này” (Lc 24:47-48).
Đó là lúc ban đêm, cái đêm sau những kinh hoàng về cái chết của Chúa, một đêm chuyển tiếp giữa sự kiện Chúa đã chết và Ngài sống lại, giữa thập giá và vinh quang, giữa quá khứ và hiện tại, giữa cũ và mới. Các tông đồ tụ họp nhau trong căn phòng kín đáo trên gác. Cửa đóng chặt, im lặng vì sợ. Bóng của họ đổ dài trên tường qua ánh đèn dầu le lói. Chúa Giêsu xuất hiện. Các tông đồ sợ hãi. Theo Thánh Luca họ sợ vì nghĩ là ma: “Các ông kinh hồn, bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24: 37). Còn Thánh Gioan lại cho rằng: “vì sợ người Do Thái” (Ga 20: 19).
Mỗi Thánh Ký diễn tả nỗi sợ hãi của các tông đồ một cách khác nhau, nhưng có nguyên nhân giống nhau. Sợ người Do Thái có nghĩa là sợ một quyền lực bắt bớ từ bên ngoài, nhưng có nguyên nhân của nội tâm. Sợ ma là một nỗi ám ảnh bên trong tâm hồn, một sự trống vắng niềm tin. Nói chung, các tông đồ sợ vì họ đã có kinh nghiệm riêng tư với Chúa Giêsu. Họ sợ vì mặc cảm tội lỗi, như đã chối Chúa, đã chạy trốn, đã để Chúa bị chết… Tất cả đều là những nguyên nhân làm cho họ sợ hãi.
Trong cả hai bản tường thuật, Chúa Giêsu đều chào các tông đồ với lời chào theo truyền thống của người Do Thái: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36; Ga 20:19). Nhưng trong mạch văn của Gioan, những từ này được hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của một lời chào. Chúa Giêsu đã trấn an nỗi sợ hãi của các tông đồ tương tự như Ngài đã làm dịu trận cuồng phong bão tố trên biển (Mc 4: 35-41). Trong Luca, những chữ này thực sự là những lời chào hỏi, làm họ phải chú ý đến sự hiện diện của Ngài ở trong phòng. Các ông đã sợ hãi khi trông thấy Ngài.
Thánh Luca giải thích rõ hơn. Chúa Giêsu đã hỏi: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?” (Lc 24:38). Chúng ta đã hiểu nỗi sợ hãi của các môn đệ là do sự nghi ngờ mà ra. Quả vậy, ở một khía cạnh nào đó, chúng ta cũng thường cảm nghiệm điều này trong đời sống tinh thần của mình. “Nghi nan chỉ thấy cản ngăn. Vững tin nhìn thấy phăng phăng thẳng đường. Nghi nan toàn thấy đêm trường. Vững tin chỉ thấy sáng trưng như ngày” (Thơ Lệ Hằng).
Cha Anthony De Mello đã ghi lại cảm nghiệm sợ hãi vì nghi ngờ lòng thương xót của Thiên Chúa như sau: “Tôi sống mối quan hệ rất tốt với Chúa. Tôi trò chuyện với Ngài, cầu xin, chúc tụng, tạ ơn Ngài. Nhưng tôi cứ có cảm giác khó chịu là Ngài muốn tôi nhìn vào mắt Ngài. Nhưng tôi không nhìn. Tôi chỉ nói và nhìn ra nơi khác nếu tôi cảm thấy như thể Ngài đang nhìn tôi. Tôi thường xuyên nhìn ra nơi khác như thế, vì tôi sợ! Tôi nghĩ rằng cặp mắt Ngài sẽ tố giác tôi về những tội lỗi nào đó chưa chừa được! Hoặc là cặp mắt đó sẽ đòi hỏi tôi phải làm điều gì đó. Cuối cùng, một ngày kia, tôi thu hết can đảm và nhìn lên. Không có tố giác! Chẳng có đòi hỏi! Cặp mắt ấy chỉ muốn nói: “Cha yêu con!” Tôi nhìn lại nữa. Cũng vẫn lời nhắn nhủ ấy: “Cha yêu con!” Tôi bước ra ngoài, và như Thánh Phêrô xưa, tôi khóc.”
Chúa Giêsu đã nói lên nguồn gốc của sự sợ hãi là nghi ngờ. Sợ hãi và nghi ngờ là hai mặt của một vấn đề. Và sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu đã biến đổi sợ hãi và nghi ngờ trở nên an bình và vui tươi. Ngài đã đưa tay chân cho họ xem và rờ vào vết thương của Ngài (Lc 24:39). Điều này, trong Phúc Âm của Gioan, chỉ xảy ra với Tôma mà thôi!
Thánh Luca diễn tả sự biến đổi này một cách khéo léo và tài tình như sau: “Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin, và còn đang ngỡ ngàng…” (Lc 24:41). Đang trong tâm trạng hỗn độn, nghi ngờ và lo sợ, các môn đệ lại phải đối diện với một thực tại siêu phàm quá sức tưởng tượng; họ nhìn thấy Chúa Giêsu đã sống lại. Người bình dân gọi điều lạ lùng này là “quá trí”, vượt quá trí hiểu biết, trí tưởng tượng của loài người. Họ đã thực sự trông thấy Thiên Chúa sống động, nhưng điều này vĩ đại quá làm họ chưa dám tin vào con mắt trần gian của mình. Điều này cũng không thể nào xảy ra được so với sự hiểu biết nông cạn của họ. Vì thế, họ chưa dám tin!
Tâm trạng này lại được diễn tả trong bài đọc thứ nhất, Cv 3:11-26, trích từ sách Công Vụ Tông Đồ cũng được coi là của Luca. Chúng ta thấy Phêrô và Gioan vừa bước vào cổng đền thờ liền gặp một người què được bạn bè khiêng tới mỗi ngày để xin ăn. Vừa gặp hai ông, anh què xin các ngài giúp đỡ. Các môn đệ không có tiền, nhưng Phêrô đã cho anh một điều còn quý giá hơn tiền bạc. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Phêrô chạm đến anh và chữa anh què được lành. Quá vui mừng, anh nhẩy nhót sung sướng, chạy đi đây đó. Mọi người vây quanh lại trong kinh ngạc, có lẽ đầy sợ hãi nữa vì điều lạ lùng vĩ đại đã xảy ra trước mắt họ một cách không thể ngờ được! “Quá trí!” Họ quá ngỡ ngàng và kinh ngạc đến độ khó mà tin được vào con mắt của mình. Người què bị tàn tật từ khi mới sanh, nhưng bây giờ, sau khi Phêrô chỉ nói vài câu, anh đã không còn què nữa. Rồi Phêrô bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu chết, sau ba ngày đã sống lại, hiện ra với các ông. Các ông đã chứng kiến tất cả những điều lạ lùng xảy ra như mọi người cũng đang thấy. “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24:48).
Một câu chuyện khác cũng xảy ra tương tự như vậy, Luca nói về Phêrô đang ở trong tù. Các bạn hữu của Phêrô quy tụ lại với nhau để cầu nguyện cho ông được ra khỏi tù. Lời cầu nguyện của họ sẽ được chấp nhận. Giữa đêm khuya, một thiên thần đến dẫn Phêrô ra khỏi nhà tù. Phêrô đi thẳng đến nhà bạn hữu của ông. Ngài gõ cửa. Một người tớ gái đi ra cửa đã nhìn thấy Phêrô. Giống như các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay, nàng rất đỗi kinh ngạc. Trong niềm vui, thay vì mở cửa và mời Phêrô vào, nàng chạy vào trong nhà báo tin cho mọi người biết Phêrô đang đứng ngoài cổng. Họ đang cầu nguyện cho Phêrô, nhưng thay vì tin vào lời cầu nguyện của mình, họ đã trả lời với cô: “Đồ khùng!” Trong khi đó Phêrô tiếp tục đập cửa. Mở cổng ra, thấy ông, họ ngỡ ngàng vì chứng kiến một điều vượt quá trí khôn của con người! (Cv 12: 1-15).
Phép lạ quá vĩ đại cũng làm chúng ta vui mừng “quá trí” đến độ ngỡ ngàng. Cảm xúc ngỡ ngàng trước những mầu nhiệm siêu việt hay thực tại linh thiêng làm con người chưa dám tin vào con mắt trần gian, trí hiểu biết hay sự nhận thức nông cạn của mình. Đó là kinh nghiệm đã xảy ra cho các môn đệ khi xưa và cho cả chúng ta ngày nay.
Một người đã được ơn trở lại với niềm tin Kitô Giáo kể lại rằng sau khi theo đạo, những người bạn vô tín ngưỡng đã đến chất vấn anh. Họ nói với anh rằng: “Tôi nghe tin anh mới gia nhập đạo Công Giáo có đúng vậy không?” Anh trả lời: “Phải”. Họ hỏi: “Như vậy anh phải hiểu biết rất nhiều về Đức Kitô, hãy nói cho chúng tôi biết, Ngài đã sinh ra ở quốc gia nào?” Anh trả lời: “Tôi không biết”. “Ngài đã chết năm nào?” họ hỏi. Anh trả lời: “Tôi không biết”. “Vậy anh có thể nói cho chúng tôi biết vài điều về giáo huấn của Ngài, vài phép lạ, hay làm thế nào Ngài đã sống lại từ cõi chết được không?” Anh trả lời: “Tôi cũng không biết!” “Nhưng chắc chắn rằng anh phải biết tí gì về Người đã tự xưng là Đức Kitô chứ?” Anh trả lời: “Các anh nói đúng. Tôi rất xấu hổ vì biết rất ít, nhưng điều tôi thực sự biết: Đó là ba năm trước, tôi đã là một người nghiện rượu và bị mang nợ. Gia đình tôi tan rã. Vợ tôi và con cái phải khiếp sợ vào mỗi buổi tối khi tôi trở về nhà. Tôi đã tuyệt vọng, nhưng tôi đã dâng hiến tâm hồn tôi cho Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của tôi. Bây giờ, tôi đã bỏ rượu, trả hết nợ, vợ chồng tôi yêu thương nhau. Tất cả điều này Đức Giêsu Kitô đã làm cho tôi. Đấy là điều duy nhất tôi biết.
Những chuyện không thể ngờ và không thể tin được như thế vẫn tiếp tục xảy ra hằng ngày trong cuộc sống. Hãy mở mắt tâm hồn ra mà đón nhận! Câu chuyện Chúa Giêsu hiện ra sau khi sống lại, và những điều các tông đồ đã làm chứng nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh vẫn còn đang hiện diện ngay trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Hãy tìm kiếm và để Ngài biến đổi nỗi sợ hãi và ngờ vực của chúng ta trở thành vui mừng và ngỡ ngàng!
.
Lm. Đinh Lập Liễm
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông Đồ tại nhà Tiệc Ly. Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người: Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24:1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24:13-25), và cuối cùng cho các Tông Đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24:35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với mức độ khác nhau.
Khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông Đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn Ngài hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất hay linh thiêng, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ vào được.
Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn (Lc 24:40-43). Khi các Tông Đồ đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi, Chúa mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử: ”Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Maisen, các sách tiên tri và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44).
Đức Giêsu nói cho các Tông Đồ biết toàn bộ Kinh Thánh đã ứng nghiệm về Ngài. Nếu Thánh Kinh không ứng nghiệm về Ngài, thì toàn bộ Thánh Kinh là giả dối vì Thánh Kinh loan báo về Đấng cứu độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv 4:12). Để thấy rõ như thế, Ngài đã “dẫn giải cho các ông những điều viết về Ngài trong toàn bộ Thánh Kinh” (Lc 24:27). Để có thời gian giải thích, chắc Ngài còn phải ở với các ông lâu dài, như Thánh Luca đã xác định là 40 ngày được ghi rõ trong sách Công Vụ Tông Đồ: ”Ngài lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1:3). Thời gian 40 ngày đã quá đủ để các Tông Đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông Đồ khi Ngài sống lại: ”Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:47-48).
Trong bài đọc một, Thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Đức Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Ngài và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử không thấy tội gì. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi đã phạm, họ đã ăn năn sám hối: ”Hôm ấy đã có thêm khoảng 3000 người theo đạo” (Cv 2:41).
Trong bài đọc hai, Thánh Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cho cả thế giới” (1 Jn 2:1-2). Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo (Jn 2:4).
Nhìn vào lịch sử truyền giáo, chúng ta thấy các Tông Đồ, những chứng nhân trung thực, đã đi rao giảng Đức Giêsu chịu chết và phục sinh cho muôn dân, nghĩa là sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu thế… các Tông Đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.
Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực nào hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: ”Chúng tôi xin làm chứng” (Act 3:15). Dù đứng trước toà án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khảng khái thưa: ”Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe” (Act 4:20).
Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chịu chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 Tông Đồ, lại có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
Đức Kitô đã làm chứng về Ngài đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các Tông Đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Ngài.
Trong sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân của Công Đồng Vatican II, Hội Thánh nhắc nhở cho các tín hữu nhiệm vụ làm tông đồ và làm chứng nhân bởi vì nhiệm vụ này phát xuất từ bí tích Thánh Tẩy: “Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân làm chứng bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy, đức mến. Đó là dấu chỉ rất thích hợp trong thời đại chúng ta để biểu lộ Chúa Kitô sống động trong các tín hữu của Người. Cùng với việc tông đồ bằng lời nói mà trong một số hoàn cảnh lại rất cần thiết người giáo dân rao giảng Chúa Kitô cắt nghĩa và phổ biến giáo lý của Người tùy theo hoàn cảnh và tài năng của mỗi người, đồng thời họ cũng trung thành tuyên xưng giáo lý của Người nữa” (Sác Lệnh Tông Đồ Giáo Dân, số 16).
Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã trải qua hay đã kinh nghiệm. Hay nói cách khác, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã nghe, đã trải qua. Ở toà án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều mắt thấy tai nghe, và phải nói đúng sự thực như mình đã thấy. Chứng nhân càng có uy tín thì lời chứng của mình càng có giá trị, khiến người khác dễ bị thuyết phục. Ngược lại, những người không có uy tín thì khiến những lời nói của mình không có tính thuyết phục, đôi khi lại trở nên phản chứng.
Làm chứng cho Đức Giêsu đâu có phải là chỉ kể lại cho kẻ khác về đời sống của một vĩ nhân đã sống cách đây hai ngàn năm. Ai cũng có thể làm được điều này. Làm chứng cho Đức Giêsu đâu phải chỉ là xác nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại. Đám lính cánh gác mồ cũng đã làm như thế (Mt 27:11). Làm chứng cho Đức Giêsu chính là dùng chính cuộc sống của mình để chứng tỏ rằng quyền năng của Đức Giêsu sống lại đã tác động và biến đổi chúng ta một cách lạ lùng nhất, có thể tưởng tượng được. Làm chứng nhân cho Đức Giêsu là để cho Ngài ngỏ lời với tha nhân ngang qua chúng ta, nghĩa là dùng chúng ta để nói với kẻ khác (1 Th 2:13).
Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài ”Truyền Giáo Năm 2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị phải xử dụng tối đa các phương tiện truyền thông tân tiến trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số bạn trẻ khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo Hội chống lại những bất công xã hội, những chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hoà hợp.
Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu giơ tay xin phát biểu: ”Tại Phi châu nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn không có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở, báo chí, phim ảnh; chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình Công Giáo tốt, để dân làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo (R.D. Wahrheit, Ánh Sáng Hy Vọng, tr 208).
Thánh Phaolô nhận thấy mình có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, nếu không là một điều có lỗi lớn: ”Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cor 9:16). Nếu muốn rao giảng Lời Chúa thì mỗi người có trách nhiệm phải lắng nghe và thực hành lời Chúa vì không nghe thì làm sao mà biết, không biết thì làm sao có thể rao giảng.
Vào giây phút cuối cuộc đời, văn sĩ John Bayern đã nói những lời từ giã người vợ thân yêu như sau: ”Mình yêu dấu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng.”
“Trong gương mặt của mình tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa.” Mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống như thế nào, để anh em chung quanh có thể nói tương tự: ”Trong gương mặt của anh, tôi có thể nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn bạn vô cùng.” Đó là ơn gọi cao cả của mỗi người Kitô hữu được gọi trở nên giống Chúa, và làm cho những người khác nhìn thấy Chúa như trong Tin Mừng theo Thánh Matthêu. Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ: ”Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5:48). Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của người Kitô hữu đến độ Chúa so sánh cuộc sống của họ như đèn sáng: ”Các con là anh sáng thế gian. Ánh sáng đó cần phải chiếu sáng trước mặt người đời, ngõ hầu họ thấy việc lành mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời” (Mt 5:16) (Hạt giống âm thầm, tr 178).
Ta hãy suy nghĩ về đoạn văn trích từ lá thư mục vụ của Giám mục Duval của Pháp: “Dù có phát biểu khéo léo đến đâu, những tư tưởng trừu tượng cũng khó mà cảm động được lòng người. Như những con người sống động, có khả năng làm cảm động lòng người, những người đó hãy xung phong bước ra. Hãy để cho chân lý trào ra từ cuộc sống của mình, và hãy làm cho quyền năng của mình tương xứng với món quà mà mình trao tặng bằng tình yêu. Lúc đó mọi người sẽ lắng tai nghe, và bình minh của những ngày tươi sáng sẽ bừng lên trên bầu trời của chúng ta.”
Một nhà truyền giáo Ấn Độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn Giáo sống bên cạnh, để dạy ông học tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn Giáo này từ chối: “Thưa ông, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ông, vì tôi không muốn trở nên người Kitô hữu.” Nhà tuyền giáo trả lời: “Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ phải trở lại đạo Chúa.” Nhưng người tín đồ Ấn Giáo đáp lại: “Thưa ông, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không ai có thể sống bên cạnh ông lâu, mà không bị cảm hóa trở thành người Kitô hữu.”
Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô, đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh. “Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ (Sđd, tr 179).
.
Micae Bùi Phúc Hòa
Trong một lần nói về ơn Đại xá năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ rằng: “Cha kêu mời tất cả mọi người hãy sám hối, nhất là những ai đang sống xa ân sủng của Chúa, hoặc đang là thành viên trong các băng nhóm tội phạm. Vì lợi ích của chính mình, hãy thay đổi. Nhân danh Chúa Kitô, cha kêu mời chúng con hãy chiến đấu chống lại tội lỗi và đừng bao giờ từ chối một người tội lỗi nào có ý muốn trở lại. Hãy nhớ rằng tiền bạc không đem lại hạnh phúc thật sự và chúng ta cũng không thể mang theo một khi chết rồi. Đây là thời gian để thay đổi, hãy mở rộng cõi lòng để con tim đón nhận sự tha thứ của Chúa”. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha không loại trừ một ai, tất cả chúng ta được kêu mời sám hối và thay đổi con người của mình. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống tinh thần cần phải thường xuyên được nuôi dưỡng bởi việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể và lắng nghe Lời Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô phục sinh đã hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau. Hôm đó là ngày thứ ba sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Có hai môn đệ chán nản bỏ về làng cũ. Các môn đệ đang hoảng loạn vì không tin vào những gì đã xảy ra. Một không khí buồn bã bao trùm khắp mọi nơi. Giữa lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các ông, Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh cho các ông hiểu rằng Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Khi nhận ra Chúa Giêsu, hai môn đệ đang từ tâm trạng thất vọng trở nên tràn trề hy vọng, đón nhận một sức sống mới từ Đức Kitô Phục Sinh và hăng say ra đi loan báo Tin Mừng.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh được truyền cho mọi người kể từ ngày đó, và niềm tin ấy cũng truyền đến cho mỗi người chúng ta. Mỗi khi thất bại, chúng ta cũng buồn. Khi nghĩ về tương lai mờ mịt, chúng ta hoảng sợ. Nhưng có Chúa Giêsu bên cạnh thì mọi nỗi ưu phiền tang biến hết và được thay bằng sự hy vọng. Trích sách công vụ tông đồ đã cho chúng ta một giải pháp rất rõ ràng: Anh em đã hành động mà không hiểu biết mình đang làm gì. Anh em hãy sám hối, trở lại cùng Thiên Chúa để Người xó bỏ tội lỗi của anh em.
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì đã có những lúc bỏ rơi Chúa, thậm chí còn không nhận ra Người đang đi cùng đường. Nhưng nhìn kỹ lại, chúng ta cũng chẳng hơn gì khi Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta hàng ngày mà chúng ta cũng chẳng nhận ra Người. Thật không dễ chút nào để nhận ra Chúa Giêsu trong hình ảnh tha nhân, trong những người nghèo đói, trong những người bé nhỏ…Làm sao tránh khỏi những lúc chúng ta nghi ngờ Chúa khi cái xấu vẫn xảy ra hàng ngày, vận đen luôn đeo đuổi bên mình, nhất là những lúc bị bắt bớ vô cớ vì danh Chúa. Tâm trạng đó cũng đã xảy đến với các môn đệ ngay sau khi Chúa chịu đóng đinh, nhưng khi nhận ra Chúa Phục Sinh, họ đã can đảm ra đi làm chứng cho Người.
Chúng ta cũng hãy can đảm như các môn đệ của Chúa, hãy tin vào Ngài và hãy bước theo Ngài. Thánh Gioan Tông Đồ trong thư thứ nhất đã khẳng định: chúng ta biết Thiên Chúa khi chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.
Ước gì ánh sáng đức tin luôn mạnh mẽ trong mỗi người chúng ta, để nhờ đó chúng ta trở thành những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương và không quên truyền rao Lời Chúa cho mọi người.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Có một phụ nữ cõng đứa con trai 12 tháng tuổi vào rừng kiếm củi. Bà đặt đứa bé dưới một gốc cây và một mình tiến vào rừng sâu. Bỗng những tiếng hú kinh hoàng của một bầy chó sói vang lên. Người phụ nữ vội vàng trở ra để tìm đứa con nhưng đã quá muộn. Bầy chó sói đã mang đứa bé đi thật xa. Những ngày sau đó, người mẹ đau khổ đi tìm kiếm đứa con, nhưng bà hoàn toàn tuyệt vọng. Cuối cùng, người mẹ đó đã chết trong đau khổ tột cùng. Mười hai năm sau, đứa bé lớn lên giữa bầy chó sói, và nó sống giống hệt một con thú hoang. Thay cho ngôn ngữ loài người, thằng bé chỉ biết rống lên những tiếng hú ai oán làm xé lòng người. Một bữa kia, một nhóm thợ săn đã giăng bẫy và bắt được đứa bé. Một chị vú nuôi được cắt đặt để cho thằng bé ăn và dạy nó nói, nhưng nó chỉ liếm láp và vẫn cất lên những tiếng hú nghe rất não nuột. Một bữa nọ, thằng bé tìm cách chạy trốn để trở về với bầy sói, nhưng bầy sói đã đi thật xa. Vài ngày sau, vì quá đói đứa bé tìm đường trở về làng. Bà vú nuôi nhẹ nhàng đứng bên cạnh nó, vuốt ve nó cách trìu mến. Chú bé người sói đứng yên bất động. Nó khẽ cầm đôi bàn tay của người vú nuôi và đưa lên áp sát vào ngực. Những giọt nước mắt từ từ lăn dài trên cả hai khuôn mặt. Đó là cuộc hội ngộ và gặp gỡ giữa 2 trái tim của 2 con người, một phụ nữ và một đứa bé người sói. Sức mạnh của tình yêu đã tạo nên một luồng điện cao thế diễn bày sự đồng cảm. Tình yêu chính là tần số mạnh nhất để đem con người đến với nhau, cho dù con người đó đã một thời trở thành sói dữ.
Cũng vậy, cuộc hội ngộ của Chúa Giêsu và các môn đệ mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại cũng chính là cuộc hội ngộ trong tình yêu. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã thắng vượt sợ hãi. Trong tình yêu, các môn đệ đã nhận ra Đức Giêsu, Đấng Phục sinh đang ở bên cạnh và thoát vượt bóng tối u ám đang phủ ngập tâm hồn mình.
Tình yêu mạnh hơn sự chết
Đây là sự xác tín mà thánh Phaolô đã khẳng quyết trong thơ gửi giáo đoàn Rôma (Rm 8, 31-39). Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách tròn đầy qua cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chính tình yêu đã thắng vượt cái chết và ánh sáng Phục sinh là dấu chỉ cuộc vinh thắng nơi tình yêu Thiên Chúa. Cái chết là một bóng tối khủng khiếp bao trùm lên phận người, khiến chúng ta luôn chìm nhập trong nỗi khiếp sợ. Con người chúng ta ai cũng run sợ khi đối diện trước cái chết. Cũng vậy, khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu cũng đã rơi lệ cầu xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7). Khi đối diện trước cái chết của Đức Giêsu, các môn đệ cũng thất vọng và tinh thần suy sụp hoàn toàn. Sự sợ hãi dâng cao tột độ. Thánh Luca thuật lại rằng, các ông kinh hồn bạt vía vì tưởng thấy ma (Lc 24, 27). Bóng ma luôn ám ảnh và đeo bám nơi các học trò của Đức Giêsu. Tâm hồn của các ông trở nên bất an và hoang mang tột cùng. Vì thế, khi Đức Giêsu Phục sinh xuất hiện, động thái đầu tiên Chúa thực hiện là trao ban bình an cho các học trò yêudấu. Ngài cất đi bóng ma dầy đặc đang phủ kín tâm hồn các ông. Sau đó, từ tâm trạng sợ hãi, các tông đồ đã trở nên can trường. Từ sự tuyệt vọng, tâm hồn các ông đã tràn ngập niềm vui và hy vọng (c. 41).
Cuộc hội ngộ giúp biến đổi
Trong Tin mừng Gioan, thánh ký đã liên kết các sự kiện thành một chuỗi mầu nhiệm duy nhất, gồm việc Sống lại, thổi hơi ban Thánh thần để khai sinh Giáo hội và Lên trời để đi vào trong vinh quang với Chúa Cha. Trong góc nhìn thần học ấy, chúng ta thấy được chiều kích linh thánh của mầu nhiệm Phục sinh nhằm khơi dậy niềm tin nơi các độc giả. Còn trong Tin mừng nhất lãm, nhất là trong trình thuật của thánh Luca mà bài Tin mừng hôm nay nói tới, thánh ký liên kết sự kiện Chúa Phục sinh với đời sống đức tin của Giáo hội sơ khai, mà chính Thánh Luca đã viết lại trong sách Tông đồ Công vụ. Trong bài đọc 1 hôm nay, thánh Luca, tác giả sách Công vụ Tông đồ, đã ghi lại bài giảng của thánh Phêrô, vị tông đồ trưởng. Sau khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh, các tông đồ đã hăng hái lên đường đi đến mọi ngõ ngách, từ thành phố đến thôn quê, từ hội đường Do Thái giáo đến các quảng trường công cộng để làm chứng về Đấng mà họ đã mục kích khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết. Thánh Phêrô nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Tình yêu ấy là động lực mời gọi chúng ta thực hành việc sám hối. Khi kết thúc bài giảng, thánh Phêrô đã nói : “ Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi của anh em” (Cv 3, 19). Khi bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu cũng công bố lời hiệu triệu : ‘Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng’. Tương tự như thế, sau khi đã hoàn tất cuộc hành trình vượt qua, Chúa Giêsu nhắc lại cho các môn đệ : “Có lời Kinh thánh chép rằng, Đấng Kitô phải chịu đau khổ rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24, 45). Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca nhắc lại giáo huấn trên của Đức Giêsu như một tiêu chí căn bản, giúp chúng ta diễn bày đức tin và tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa.
Sống ơn gọi tình yêu
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các môn đệ là cuộc gặp gỡ trong tình yêu. Tình yêu là tâm điểm của mầu nhiệm Phục sinh mà thánh Phêrô đã lớn tiếng rao giảng ngoài công trường. Cũng trong triền tư tưởng đó, trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Gioan tông đồ cũng khuyến mời chúng ta cách thức sống ơn gọi tình yêu. Ngài viết : “Những ai tuân giữ những lời dạy bảo của Đức Giêsu, nơi người ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự trở nên trọn hảo (1 Ga 2,5). Tình yêu là tên gọi và cũng là thuộc tính của Thiên Chúa, đồng thời tình yêu cũng là thẻ căn cước để chứng minh chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu.
Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử, bởi lẽ tình yêu mạnh hơn sự chết. Trong những tuần lễ sau Phục sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta đi sâu hơn vào quỹ đạo tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã chọn Chúa Nhật ngay sau lễ Phục sinh để tôn vinh Lòng Thương xót Chúa. Như Ngài đã từng cắt nghiã, lòng thương xót là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, và dưới một khiá cạnh nào đó, lòng thương xót cũng chính là cách thức bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa một cách tròn đầy.
Kết luận
Thánh Augustinô đã nói : “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis). Trong tình yêu, chúng ta sẽ trở nên bất tử, bởi vì tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu sẽ giúp biến đổi con người chúng ta, cho dù chúng ta đầy tội lỗi hay vướng mắc nhiều yếu đuối. Bởi vì tình yêu Thiên Chúa có thể lấp che mọi hố sâu tội lỗi nơi tâm hồn con người. Tình yêu của Ngài như một luồng sáng, hắt dọi vào những bóng tối phủ kín cuộc sống nhân sinh, giúp chúng ta thắng vượt những sợ hãi và tuyệt vọng. Xin Chúa giúp chúng ta biết thể hiện niềm tin nơi tình yêu của Ngài.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phục sinh kêu gọi mọi người sám hối?
Cả ba Phúc âm nhất lãm đều đề cập tới lần Chúa hiện ra với nhóm mười một tông đồ. Về lần hiện ra quan trọng này, chi tiết bên ngoài của biến cố hình như không được các thánh sử quan tâm diễn tả cho lắm; chỉ có tường thuật của Lu-ca là đi vào một số chi tiết để chứng minh nhân vật hiện ra đích thực là Đức Giê-su mà các ông đã từng quen biết. Điều mà các tác giả quan tâm tới nhiều hơn là sứ điệp Chúa Phục Sinh muốn thông đạt cho cả nhóm. Chính Đấng Sống Lại đòi nhóm mười một và toàn thể những ai coi mình là môn đệ của Người phải trở thành ‘chứng nhân về những điều (sứ điệp) này’. Không may ngày nay, người ta lại thích nói tới sự kiện phục sinh khải hoàn hơn là đề cập tới sứ điệp của nó, tới độ rất ít khi tín hữu được nhắc nhở hoặc quan tâm tìm hiểu sứ điệp phục sinh thực sự là gì!
Sứ điệp Phục Sinh gồm hai phần chính:
– ‘Kêu gọi sám hối để được ơn tha tội’
– ‘Nhân danh Người rao giảng (điều này) cho muôn dân’
Sám hối để được ơn tha tội: Mát-thêu và Mác-cô đã nói tới nội dung này khi đề cập tới lệnh truyền: ‘làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28:19), hay lời giải thích: ‘ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ’ (Mc 16:16). Sứ điệp ‘hãy sám hối’ đã được Gio-an Tẩy Giả từng hô hào từ những ngày đầu, trước cà khi Đức Giê-su xuất hiện công khai, qua nghi thức dìm mình xuống giòng sông Gio-đan. Như vậy, sau ngày sống lại, khi Đức Giê-su Ki-tô long trọng công bố trở lại sứ điệp này thì chắc hẳn nó phải chứa đựng một điều gì hoàn toàn mới lạ và cấp bách. Để có thể hiểu được tầm quan trọng của sứ điệp mà Đức Giê-su đã dày công giảng giải cho các môn đệ hiểu, rằng đó chính là trọng tâm của các sách Ngôn Sứ và Thánh Vịnh… nói tóm lại, của toàn bộ Kinh Thánh, ta cần đi sâu vào nội dung của nó. Đương nhiên sám hối đây không thể được hiểu theo nghĩa ‘cải tà qui chính’ – thuần tính luân lý. Sau biến cố Phục sinh, sám hối càng lộ rõ sứ điệp Tin Mừng của một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, một khám phá và tín thác không ngừng vào Thiên Chúa đầy lòng xót thương “yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một…” Qua biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su mà mười một tông đồ chắc hẳn đã chứng kiến, các ông phải được giải thích cho hiểu ý nghĩa và nội dung của nó. Quả vậy các ông phải tin và trở thành ‘chứng nhân về những điều này’! Phục sinh chính là để hiểu và nắm bắt sâu sắc sứ điệp đã được công bố ngay từ đầu “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nói cách khác, sứ điệp chính yếu và long trọng nhất của Tin Mừng Phục Sinh lại chính là hãy “Sám hối để được ơn tha tội”.
Rao giảng cho muôn dân: Bằng các kiểu nói khác nhau (Mát-thêu: ‘Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ; Mác-cô: ‘Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng; Lu-ca: ‘Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đều từ Giê-ru-sa-lem…’), các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm đều cho thấy phần hai của sứ điệp Phục Sinh là một ‘lệnh lên đường’. Phúc âm Gio-an còn nêu rõ sứ điệp này là chính yếu và quyết liệt hơn hết: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em…” Và để chu toàn ‘lệnh lên đường’, đồng thời để có thể ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’, Thánh Thần đã được trao ban cho các môn đệ; ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’ (Ga 20:22), hay ‘Nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống’ (Lc 24:49) theo cách nói của Lu-ca. Nếu Đấng sống lại không còn bị chi phối bởi không gian và thời gian, thì sứ điệp cứu rỗi của Chúa Phục Sinh lại càng không thể bị giới hạn, không những bởi không gian và thời gian, mà còn bởi văn hóa, sắc tộc, truyền thống, thậm chí luân lý, cho dầu có ‘bán khai’ hay ‘man rợ’ tới mấy. Phục Sinh chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa từ nhân được minh chứng là vô giới hạn, không gì ngăn cản nổi. Lệnh lên đường hay truyền giáo phải dựa trên nhận thức ơn cứu độ phổ quát và tình yêu xót thương của Thiên Chúa vượt xa sự hạn hẹp của loài người.
Tôi không chỉ ‘mừng’ Chúa Phục Sinh, mà còn phải ‘sống’ Chúa Phục Sinh. Và sống Chúa Phục Sinh trước hết phải là lắng nghe và loan truyền cho mọi người sứ điệp Phục Sinh thật cấp bách của Đức Ki-tô khải hoàn.
Lạy Chúa Ki-tô, Đấng Phục Sinh, xin dạy con biết tiếp nhận và sống sứ điệp phục sinh cách ý thức và mạnh mẽ. Trong tư cách là Ki-tô hữu hay linh mục, chính con phải là người đầu tiên sống ‘sám hối’ theo nội dung phục sinh, để có thể trở thành chứng nhân trung thực của sứ điệp cứu rỗi. Cũng xin cho con hiểu được tình yêu cứu độ của Chúa là không biên giới, để con hăng say lên đường gieo rắc tình yêu và lòng thương xót Chúa cho mọi dân nước. A-men.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Tin mừng Chúa nhật III Phục Sinh tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra lần thứ ba với các tông đồ tại nhà tiệc ly. Lần này Chúa Giêsu chứng minh cho các ông thấy Ngài đã Phục sinh từ cõi chết để củng cố niềm tin phục sinh và truyền cho các ông phải làm chứng nhân Tin mừng Phục sinh cho mọi người, hầu nhân loại được hưởng ơn cứu độ: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”.
Để củng cố niềm tin cho các tông đồ về việc phục sinh của mình. Đức Giêsu đã đưa ra những bằng chứng xác thực và cụ thể sau đây:
– “Hãy sờ mà xem, ma đâu có xương thịt”. Chúa Giêsu đưa ra những bằng chứng có tính khả giác. Những thương tích, dấu đinh nơi tay chân, dấu lưỡi đòng đâm nơi cạnh sườn… để minh chứng Ngài vẫn đang sống. Con người của Người trước khi chịu chết và sau khi phục sinh là một. Ngài đã từ cõi chết sống lại thật chứ không phải là ma đâu mà sợ.
“Chính Thầy đây. Hãy sờ mà xem, ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”.
– “Người ăn trước mặt các ông”. Người sống mới ăn, người chết thì không ăn nữa. Chúa Giêsu minh chứng Người đang sống qua hành vi ăn, một hành động cần thiết của thân xác, để chứng tỏ sự sống sau khi Ngài đã phục sinh.
– Đức Giêsu nhắc lại những điều Ngài đã nói với các tông đồ khi xưa: ‘Con Người sẽ bị giết chết, ngày thứ ba sẽ sống lại”. Những lời này phải được ứng nghiệm để nói lên tính cách xác thực về việc Người đã phục sinh:“Cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy, trong luật Môsê, trong sách các tiên tri và thánh vịnh”.
– Sau cùng Chúa Giêsu đã giải thích kinh thánh cho các ông, giúp các ông hiểu về biến cố Chúa phục sinh: “Người chịu đau khổ, chịu chết và sống lại như lời thánh kinh”. Cũng như hai môn đệ đi trên đường về Emmaus, nhận ra Chúa phục sinh khi Người dẫn giải thánh kinh và khi bẻ bánh. “Lời Chúa và bí tích Thánh Thể” giúp chúng ta xác tín, tin nhận Đức Giêsu đã phục sinh. Chính Đức Giêsu phục sinh hiện diện trong Lời của Ngài và trong bí tích Thánh Thể một cách sống động và thật sự.
Qua bài Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu đưa ra nhiều bằng chứng cụ thể để cho thấy “Người đã sống lại thật” “Ngài đang sống” để củng cố niềm tin của người Kitô hữu hôm nay, và để qua các tông đồ, Chúa trao cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta sứ mạng loan báo Tin mừng Phục sinh cho mọi người: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về các điều ấy”.
Như thế, sự phục sinh của Đức Kitô là nền tảng cho việc tông đồ, việc loan báo Tin mừng cho muôn dân. “Hãy đi loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đó là những lời cuối cùng của Đức Giêsu phục sinh nói với các tông đồ, trước khi Người lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
– Lời Chúa và bí tích Thánh Thể là nguồn sống, nguồn sức mạnh giúp người Kitô hữu tin tưởng mạnh mẽ vào Đức Giêsu Kitô phục sinh như hai môn đệ Emmaus đã hăng say ra đi loan báo Tin mừng phục sinh cho anh em. Cần phải yêu mến Lời Chúa và gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể“Không biế kinh thánh, không biết Chúa Kitô”.
– Niềm tin vào Đức Giêsu Kitô phục sinh phải xây dựng và phát triển trên căn bản: yêu mến, học hỏi, suy niệm lời Chúa… để Chúa mở lòng trí cho chúng ta hiểu được thánh ý của Ngài mặc khải trong thánh kinh.
– Sự phục sinh của Chúa Giêsu là một tin vui: Con người sẽ được sống lại nếu biết cùng chết với Đức Kitô, nghĩa là thực sự sống trong ơn nghĩa của Chúa; tương quan tốt với Chúa và tha nhân.
Nguyện xin Đức Giêsu phục sinh luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta và đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trần thế hôm nay.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
I. SỰ KIỆN
Sự kiện ngôi mộ trống sẽ thật khó mà giải thích nếu không chấp nhận việc Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ. Thế nhưng đó chẳng qua cũng chỉ mới là một bằng chứng tiêu cực.
Thêm vào đó là việc Chúa Giêsu xuất hiện rõ ràng cho hai môn đệ trên đường Emmau cũng thế. Những bằng chứng này quả cũng vẫn chưa đủ. Có thể có người sẽ cho rằng sự kiện ấy chỉ là một dị tượng, một bóng ma hoặc bóng dáng của một vị thần nào đó.
Chính vì thế mà hôm nay khi kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một tông đồ lúc đêm xuống, Luca đã cố ý nhấn mạnh vào việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Người.
Vâng Chúa đã hiện ra cho các môn đệ với một thân thể vật chất còn in những dấu đinh độc ác, một thân thể có thể ăn được, một thân thể có thể đụng vào và cảm nhận được.
Hơn nữa Người còn trang nghiêm tuyên bố rằng Người không phải là thần linh không có thể xác. Người còn chỉ cho họ thấy những vết thương ở tay và chân và Người quả quyết với họ rằng thần linh thì chẳng có xương thịt như họ thấy Người đang có.
Rồi cuối cùng để đánh tan mối nghi ngờ hãy còn sót lại, Người cầm lấy một miếng cá nướng và ăn trước mặt các môn đệ. Có lẽ chẳng còn hình thức nào có thể minh chứng về Người mà Người đã không sử dụng để làm cho các môn đệ tin và từ niềm tin đó Ngài biến họ thành những nhân chứng cho Người sau đó.
Tóm lại, qua những lần Chúa Giêsu hiện ra và biến đi sau khi Người sống lại từ cõi chết chúng ta có thể coi đó như là những phép lạ chẳng khác gì những phép lạ Người làm lúc còn sống với các môn đệ trong cuộc đời công khai của Người vậy.
II. BÀI HỌC.
Chúng ta có thể rút ra được bài học nào?.
- Niềm tin vào Sự Phục Sinh của Chúa.
Chúa Giêsu xuất hiện không như một bóng ma, hoặc là một ảo tưởng của tâm trí. Đây là một sự thật: Đấng đã chết nay sống lại. Kitô giáo không xây dựng trên nền tảng các giấc mơ của người hoại trí hay ảo ảnh của những người loạn thị. Kitô giáo xây dựng trên những sự kiện thực tế của lịch sử: Đức Giêsu một con người đã đối đầu và chiến thắng tử thần và để rồi cuối cùng đã phục sinh để trở thành Cứu Chúa cho muôn loài.
Trước đây người ta có cho trình chiếu một cuốn phim. Cuốn phim mang tựa đề là “Thế giới trong tối tăm”. Nội dung câu chuyện nói về việc một nhà khảo cổ danh tiếng đã tổ chức một cuộc khai quật ở Giêrusalem và tìm được xác của Chúa Giêsu.
Vâng! Sau bao công khó đào bới, một ngày kia nhà khảo cổ đã dõng dạc tuyên bố:
– Tôi đã tìm ra được xác ông Giêsu.
Thế rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ qui tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày đào bới và khảo cứu vất vả.
Trong cuộc họp báo này, nhà khảo cổ đã trưng ra trước mắt mọi người một xác người đã khô đét nhưng còn có thể nhận ra là tay, chân của người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu.
Cuốn phim đang quay lại cảnh mọi người đang im lặng, chăm chú theo dõi lời thuyết trình của nhà khảo cổ về cái xác mà ông bảo là xác của ông Giêsu thì tình cờ có một phụ nữ đứng lên phát biểu lớn tiếng.
– Đây là một sự thật hiển nhiên rồi. Ông ta đã bị đóng đinh, đã chết và đã được mai táng.
Và nhà khảo cổ tiếp lời:
– Vâng đúng thế, bị đóng đinh, chết và được mai táng, và bây giờ chúng tôi khám phá ra xác của ông ấy đây, vì thế làm gì có chuyện ông ấy phục sinh?
Tiếp ngay sau đó cuốn phim cho thấy hậu quả của việc tìm ra xác ông Giêsu: đó là không còn chỗ nào và không còn ai mừng lễ Phục Sinh nữa. Những ngọn đèn chầu trong các nhà thờ tắt ngúm. Nhà thờ đóng cửa. Chuông nhà thờ im tiếng. Thánh giá trong các nhà thờ bị hạ xuống! Thế giới đắm chìm trong một màn đêm dày đặc. Thật là một cảnh kinh khủng!
Rồi sau đó điều gì sẽ xảy ra? Cuốn phim trình chiếu cận cảnh cảnh hấp hối của nhà khảo cổ. Và đây mới là điều đáng ghi nhớ: Trước khi trút hơi thở cuối cùng ông ta đã đau đớn thú nhận:
– Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm ra cái xác giả của ông Giêsu rồi bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước, trước khi khởi sự công việc đào bới tìm xác ông.
Sau lời tuyên bố đó của nhà khảo cổ, cuốn phim lại quay lại cảnh hàng ngàn người tuôn đến mộ thánh ở Giêrusalem như người ta thường thấy trong những dịp Tuần Thánh.
Những ngọn nến lại được thắp lên và những tín hữu, tay mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng để soi sáng cho những con đường đang chìm ngập trong bóng đen của hận thù, của chán nản thất vọng .
Chuông các nhà thờ lại đổ để báo tin Chúa Giêsu đã phục sinh để nói với mọi người rằng: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi, sự sống mạnh hơn sự chết.
Vâng! cuộc phục sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài, nhưng nó ảnh hưởng trực tiếp đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, lòng tin và niềm hy vọng của chúng ta nữa.
- Sứ mạng khẩn cấp loan báo Tin mừng.
Phải ra đi, kêu gọi mọi người ăn năn để tiếp nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Hội Thánh không thể ngồi yên tại phòng họp mãi mà phải ra đi. Phải lìa phòng họp mà nhận lấy sứ mạng của mình. Hãy để cho những ngày than vãn lùi vào quá khứ. Giờ đây, ta phải đem niềm vui mừng Phục sinh chia sẻ cho mọi người.
Hãy chứng tỏ cho thế giới biết về một Đức Giêsu hằng sống. Người đang hiện diện giữa cuộc sống của mọi người.
Có rất nhiều cách để làm chứng, nhưng cách hay nhất và hữu hiệu nhất vẫn là chính cuộc sống thánh thiện, đầy tình yêu thương của mỗi người.
Từ một chàng thanh niên không biết Chúa, sau khi bị trận mạc cướp đi hai cánh tay và hai con mắt, Jacques Lebreton thay vì thất vọng, hận đời, anh đã tìm về với Chúa. Sau đó anh lao đầu vào việc học để được hiểu biết Chúa nhiều hơn. Khi thấy hành trang đã tạm đủ, anh quyết lên đường để làm chứng.
Trong buổi lễ phong chức phó tế cho anh, Đức Giám Mục địa phận Beauvais đã nói: “Thầy Jacques nay cụt cả hai tay, nên sẽ không thể giúp lễ và rửa tội. Thầy Jacques nay mù cả hai con mắt, nên sẽ không thể đọc Sách Thánh được. Nhưng Thầy còn tiếng nói và với tiếng nói Thầy sẽ có thể rao giảng niềm vui của cuộc sống”
Vâng quả thực Thầy đã làm cho mọi người phải ngỡ ngàng ngạc nhiên. Thầy đã giảng hơn kém 200 bài giảng mỗi năm. Ngoài thời giờ giảng về niềm vui của cuộc sống có Chúa, Thầy còn để hết tâm lực vào việc giúp đỡ những bệnh nhân, giúp họ cũng có được niềm vui như thầy.
Có lần người ta hỏi: “Nếu phải chọn một từ nào để rao giảng thì Thầy sẽ chọn từ nào.?
Thầy trả lời ngay, không một chút suy nghĩ: “Tình yêu” Rồi Thầy nói tiếp: “Tật bệnh nặng nhất chính là không còn yêu thương và không được yêu thương”
Một con người cụt cả hai tay, mù cả hai con mắt thế nhưng vẫn thấy cuộc đời của mình hạnh phúc và muốn chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Còn chúng ta, chẳng lẽ chúng ta lại không tìm được niềm vui nào với cuộc sống của một người tin Chúa hay sao!
Vâng chúng ta hãy đi làm chứng cho mọi người biết về một Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Có thể nói đường đi Emmau có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô hăng hái lên đường bắt bớ.Tiếc thương Đức Giêsu trên đường đi Emmau hay thù ghét Ngài trên đường đi Đamas, cả hai đều chỉ thấy Ngài trong cõi chết. Họ đều cần ơn “trở lại” để đổi mới cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp họ trở lại bằng sự hiện diện đồng hành, bằng đòn quật ngã khỏi yên ngựa.
Dưới tác động của ân sủng, họ được biến đổi và trở nên chứng nhân loan báo Tin mừng Phục sinh.
- Hành trình Emmau:
Ai đã từng có một lần thất bại trong tình yêu hay trên đường sự nghiệp sẽ hiểu được tâm trạng buồn phiền chán nản, nặng trĩu ưu sầu của hai môn đệ trên đường Emmau. Mộng vàng tan bay, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu hy vọng bỗng dưng đổ vỡ tan tành. Những năm tháng theo Thầy đi rao giảng, họ luôn ôm ấp hoãi bảo lớn lao. Thầy sẽ lập quốc, đánh đuổi đế quốc La mã.Thầy sẽ là vua. Họ sẽ là các quan đại thần quyền thế. Khát vọng vinh quang trần thế này không đúng ý Chúa, nhưng là động lực thúc đẩy các môn đệ.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối họ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục.
Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Họ đã không nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh đang cùng đi với họ. Ưu tư duy nhất là ưu tư về chính mình. Thái độ ấy đã bịt mắt, đã che đi nguồn sáng nên họ đã không nhận ra sự hiện diện đầy thân tình của Đấng Phục Sinh.
Đức Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Ngài chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Ngài đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Ngài và chỉ có ý nghĩa vì Ngài. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của Đức Kitô “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi.
Trong quán trọ, họ nhận ra Ngài qua cử chỉ bẻ bánh. Mắt họ mở ra khi “Đức Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho họ”. Đó là cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly, một dấu ấn đã in sâu vào tâm hồn các môn đệ. Cảm nhận bừng cháy trong tâm hồn khi Đức Giêsu ngõ lời, nhưng Ngài đã biến đi. Hai ông đã phục hồi niềm tin, đã tìm lại được Chúa, Đấng Hằng sống trên đường đời của họ.Từ nay, Chúa ở với họ,tỏ ra cho họ qua những dấu chỉ niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm Phục sinh.
Con đường dẫn đưa những người lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về Giêrusalem lại hoá nên gần gũi thân quen, bởi vì Tin mừng đang cháy bỏng trong tim và trên môi của họ. Họ gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục sinh.
Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen.
Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các Ngài nữa vì Đấng Phục sinh đang cùng họ đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
- Hành trình Đamas:
Trước khi trở lại, đối với Phaolô,Tin mừng về Đức Kitô quả là một chuyện vô lý nhất chưa từng nghe nói bao giờ. Giêsu đã sống lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống lại.
Nghe bài diễn văn của Simon-Phêrô, người dân chài rao truyền rằng:Giêsu Nazareth, người mà Thiên Chúa đã uỷ thác bằng các phép lạ tuyệt diệu, người mà các ông đã bắt và đã kết tội tử hình,đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài. Phải,Thiên Chúa đã cho cho sống lại…chúng tôi đã chứng kiến, tất cả chúng tôi đã là nhân chứng tại chỗ..
Saolô với tư cách là người có học, một biệt phái mộ đạo. Ông có thông biết thánh kinh bằng hay hơn kẻ chài lưới có bàn tay chai cứng ? Phêrô, Gioan đã nhân danh Đức Giêsu đặt tay lên người bệnh và người bệnh được khoẻ mạnh. Phêrô và Gioan đã bị nhốt trong ngục tối, cửa sắt khoá chặt, quân đội súng ống canh gác ngày đêm trước dãy tường kiên cố. Thế nhưng, Phêrô, Gioan đã được thả tự do bởi một bàn tay kỳ diệu. Người lạ gặp thấy hai ông đang lên tiếng to trong hành lang của đồn là Đức Giêsu đã sống lại, hai ông đã chứng thực về những phép lạ các ông cử hành nhân danh Thầy Chí Thánh.
Saolô không thể chấp nhận như thế mãi được, phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Nhận lệnh từ Giêrusalem, Saolô lên đường đi Đamas. Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, bụi tung mịt mù, trời nóng như thiêu đốt. Không quan trọng ! Saolô ra đi, điều cần thiết nhất là nhanh chóng bắt hết bọn tà đạo về Giêrusalem.
Và bỗng chốc, một luồng ánh sáng chói lọi bao phủ lấy Saolô làm ông ngã ngựa. Ông không còn thấy gì nữa. Ông nghe có tiếng gọi ông: “Saun,Saun,sao ngươi lại bắt bớ Ta?”
Ông hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Tiếng nói lại âm vang: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại”( Cv 9,5). Saolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi ! Thê rồi ông chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ ngài là một, và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa,Chúa muốn con làm gì?”.Chúa truyền cho Saolô vào thành gặp Khanania. (Cv 9,5-8). Saolô đứng dậy, ông chớp mắt mà không thấy gì. Ông được đưa về Đamas. Sau ba ngày,có một người Dothái thuộc cộng đoàn mới đã đến gõ cửa và bảo: “Saolô,người anh em,hãy nhìn thấy lại”.Phép lạ đã xảy ra, Saolô lại thấy được. Saolô đã chịu phép rửa bởi tay Khanania. Ông cần thời gian để tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện.Thế là ông rời bỏ Đamas để sang vùng Ảrập sống trong thanh vắng. Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị ba năm (Gal 1,17). Ba năm trời ông nghiền ngẫm thánh kinh, đối chiếu trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin mừng. Ba năm trời đã cho ông tâm tình của Chúa Kitô,đã đồng hoá ông với Đức Kitô đến nổi ông phải tuyên bố: “Không phải tôi sống,nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi” ( Col 2,20).
Kể từ lúc sáng mắt, Saolô đã hoàn toàn đổi mới. Ông nhiệt thành loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”( 1Cor 5,14). Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã ra đi khắp chân trời góc biển rao giảng Tin mừng và trở nên vị tông đồ dân ngoại lừng danh. Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”( Gal 2,20).
Hành trình Đamas đã làm thay đổi cuộc đời Phaolô. Sống và chết cho Đức Kitô trong tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân,bắt bớ, đói khát,trần truồng, nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta “(Rm 8,35-39).
Đọc lại hành trình Emmau, hành trình Đamas để nhận thấy người Kitô hữu chỉ bắt đầu là Kitô hữu thực sự khi khởi đi từ niềm tin Chúa Kitô sống lại.
Trong hành trình theo Chúa, người tín hữu có lúc phải đối diện với vô vàn khó khăn phức tạp của đời sống muôn mặt. Có những thất bại, có những chống đối làm choáng váng, ngỡ ngàng hoang mang vì Đức Giêsu như không còn hiện diện và can thiệp. Ngài dường như bỏ mặc cho thế gian hoành hành.
Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.
Hãy biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như hai môn đệ Emmau. Hãy biết nhận ra Ngài qua từng biến cố đau đớn như Phaolô té ngựa trên đường Đamas.
Với tất cả niềm tin và lòng yêu mến, nhất định người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân của niềm hy vọng, chứng nhân của sự sống, chứng nhân của niềm vui.
.
Trầm Thiên Thu
Mục Sở Thị nghĩa là “nhìn tận mắt”, đó là cách nói rút gọn của câu “thực mục sở thị”. Từ điển Hán Nôm giải thích: MỤC là con mắt; SỞ là rõ ràng, minh bạch; THỊ là thân cận, gần gũi. Người ta cũng dùng chữ “mục kích” (mục: mắt, kích: đập vào). Cách nói phổ biến là “nhãn tiền”. Chữ “nhãn tiền” (nhãn: mắt, tiền: trước – ý nói “thấy trước”) do câu “quả báo nhãn tiền”, ý nói về điều không tốt, nhưng ngày nay chữ này cũng được dùng khi nói về điều tốt.
Tình yêu thương là hiện thân của Thiên Chúa (1 Ga 4:8 và 16). Tình yêu đó cũng chính là Lòng Thương Xót của Ngài. Lòng Chúa Thương Xót luôn được nhắc đến suốt Năm Phụng Vụ, đặc biệt vào Mùa Phục Sinh – cách riêng là Chúa Nhật II Phục Sinh. Chẳng phải mới đây mà từ thuở khai thiên lập địa, Kinh Thánh đã nói đến tình yêu thương. Đây là vài câu cụ thể trong sách Sáng Thế:
St 19:19 – “Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ LÒNG THƯƠNG lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất!”
St 24:14 – “Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa”, thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ TÌNH THƯƠNG đối với chủ con”.
St 24:27 – “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ TÌNH THƯƠNG và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Đức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi”.
St 33:10 – “Tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ LÒNG THƯƠNG với tôi”.
Bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 & 16) – cách định nghĩa của Thánh Gioan, thế nên Đạo (của) Chúa là Đạo Yêu Thương. Yêu thương, tình thương, tình yêu, hoặc lòng thương đều là một – có thể rút gọn còn một từ YÊU. Phàm ngôn có nhiều cách gọi, nhưng thực chất vẫn là Lòng Chúa Thương Xót. Ngay trong Việt ngữ cũng không thống nhất, khi thì Lòng Thương Xót Chúa, khi thì Lòng Chúa Thương Xót, đó là cách rút gọn của cách nói “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”. Đôi khi Việt ngữ dễ gây hiểu lầm do cách “rút gọn” văn phạm! Cuộc sống đời thường có nhiều loại thực tế, cuộc sống tâm linh cũng vậy.
THỰC TẾ TỘI LỖI
Có lẽ không thực tế nào buồn và đáng sợ bằng thực tế tội lỗi. Nó không chỉ khiến người ta sa sút về tinh thần, nguy hiểm về phần rỗi, mà còn gây yếu đuối cả về thể lý.
Tội lỗi liên quan ma quỷ, nghĩa là đối lập với Thiên Chúa. Thánh Phêrô nói: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh chị em đã NỘP và CHỐI BỎ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh chị em đã CHỐI BỎ ĐẤNG THÁNH và ĐẤNG CÔNG CHÍNH, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh chị em đã giết ĐẤNG KHƠI NGUỒN SỰ SỐNG, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 3:13-15). Chúng ta thật khốn nạn, dám “giao nộp” Chúa Giêsu, dám “chối bỏ” Ngài, dù biết rõ Ngài là “Đấng Thánh”, là “Đấng Công Chính”, là “Đấng khơi nguồn sống”. Tội to lắm!
Và rồi với “kinh nghiệm đau thương” về việc này (tội chối Thầy) nên vị giáo hoàng tiên khởi đã chân thành kêu gọi: “Thưa anh chị em, giờ đây tôi biết anh chị em đã hành động vì KHÔNG HIỂU BIẾT, cũng như các thủ lãnh của anh chị em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh chị em hãy SÁM HỐI và TRỞ LẠI cùng Thiên Chúa, để Ngài xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Ông Phêrô đã sám hối và được Thầy Giêsu xót thương. Tấm gương sám hối đáng để chúng ta noi theo mỗi khi sảy bước sa chân.
Từ ngàn xưa, có thể dân Do Thái hành động vì thiếu hiểu biết, bởi vì họ quá bất ngờ và quá bị “sốc” khi nghe chàng-thanh-niên-con-bác-thợ-mộc nói chính mình là Con Thiên Chúa. Nếu lúc đó chúng ta nghe được điều đó, chắc chắn chúng ta cũng thấy “chói tai” lắm đấy! Nhưng ngày nay, chúng ta không thể biện minh là chúng ta không hiểu biết – bởi vì chúng ta được dạy quá nhiều rồi.
Thế thì làm sao? Nếu thực sự không thể tự biện hộ, thực sự biết mình đã và đang phạm nhiều tội lỗi thì chúng ta phải biết thành tâm sám hối, chân thành trở lại, tin tưởng và khẩn cầu LCTX: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Nên biết rằng Chúa biệt đãi người hiếu trung với Ngài; khi kêu cầu thì Ngài luôn nghe lời. Có thể chính chúng ta cũng đã bao lần thắc mắc: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4:7a). Chính trong câu hỏi đó đã mặc nhiên có câu trả lời – nghĩa là không ai khác, không một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta càng phải kêu cầu: “Lạy Chúa, xin toả ánh Tôn Nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7b).
Cầu nguyện là khiêm hạ và hạnh phúc, chính lúc cầu nguyện là lúc chúng ta trở nên vĩ đại, bởi vì được thưa chuyện với Thiên Chúa và được Ngài lắng nghe chúng ta trút mọi nỗi niềm. Có ai như Thiên Chúa của chúng ta? Chắc chắn là không! Đó chính là thực tế về ân sủng.
THỰC TẾ HỒNG PHÚC
Thiên Chúa vô cùng đại lượng và hào phóng, hằng ngày Ngài luôn ban muôn vàn hồng ân cho chúng ta – từng phút, từng giây. Đơn giản nhất mà lại cần thiết nhất chính là KHÔNG KHÍ – vì thiếu không khí vài phút là chúng ta chết ngay! Mọi người, không trừ ai, đều đã và đang nhận lãnh hồng ân của Thiên Chúa – dù chúng ta chưa hề mở lời xin Ngài.
Chưa nói được lời tạ ơn thì cũng đừng đối kháng. Thánh Gioan khuyên chúng ta “đừng phạm tội”, và “láy” một câu: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Thật quá tuyệt vời!
Chắc chắn chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn, nhưng chúng ta lại vô cùng may mắn có Chúa Giêsu là luật sư biện hộ cho chúng ta trước Tòa Án Công Lý của Chúa Cha. Hơn nữa, “chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Nhận xét của Thánh Gioan rất “ăn khớp” với lời khẩn cầu trong Chuỗi LCTX: “Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Con rất yêu dấu Cha, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”. Tha thiết lắm, Thiên Chúa không nỡ làm ngơ đâu!
Một thực tế khác: Nếu chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài, chúng ta nhận ra mình là những người biết Thiên Chúa. Nhưng “ai nói mình biết Ngài mà không tuân giữ các điều răn của Ngài, đó là kẻ nói dối, và Sự Thật không ở nơi người ấy” (1 Ga 2:4). Ngược lại, “ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5). Tình yêu và bổn phận luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Thực tế thế thôi!
Chiều Chúa Nhật Phục Sinh, sau khi hai môn đệ nhận ra Sư phụ Giêsu trên đường Emmau khi Ngài bẻ bánh, họ vội vã trở lại Giêrusalem và thuật lại chuyện đã xảy cho các môn đệ khác biết. Các ông còn đang bàn tán thì chính Đức Giêsu hiện ra đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, hồn xiêu phách lạc tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Lời-chúc-bình-an đó là Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ lúc đó – và ban cho cả chúng ta ngày nay.
Vừa dứt lời, và để các môn đệ thấy thực tế minh nhiên, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ấy thế mà họ còn chưa tin, có lẽ một phần vì quá vui mừng, một phần vì quá ngỡ ngàng. Mừng vì Thầy đã sống lại thật chứ không bị bọn ma mãnh lấy mất xác Thầy, mừng vì hai môn đệ kia (gặp Chúa trên đường Emmau) cũng nói thật chứ không hề “nổ” hoặc “xạo” chút nào. Và cũng là để cho “chắc cú”, Ngài hỏi rất thực tế: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:43). Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng thơm phức, thế là Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt họ. Ôi, Sư phụ Giêsu thật chứ không phải tay nào khác giả dạng. Thế thì trên cả tuyệt vời luôn rồi!
Sau khi ăn khúc cá nướng, Ngài giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Vâng, Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm, vượt xa tầm hiểu biết của nhân loại – dù là những bậc thông thái. Bấy giờ, chính Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Một thực tế minh nhiên và các môn đệ cũng đã “thực mục sở thị”. Rõ ràng và rạch ròi rồi.
Tất nhiên Chúa-Giêsu-phục-sinh biết rõ chúng ta luôn yếu đuối, luôn sai phạm, nên Ngài cũng luôn nhấn mạnh động thái “sám hối” và “tín thác”. Có được hai điều đó thì LCTX luôn chan hòa trên chúng ta. Và chính Ngài xác định bổn phận được trao cho chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Bổn phận và trách nhiệm không của riêng bất kỳ ai!
Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa hứa hẹn vừa dặn dò: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được Ngài thực hiện cho nhân loại chúng ta mãi cho tới khi niên tận thế cùng.
Lạy Thiên Chúa chí tôn chí thánh, xin thánh hóa và gia tăng ba đức đối thần cho chúng con, và cũng ban các đức đối nhân để chúng con làm người xứng đáng. Xin Ngài luôn ban Thần Khí để chúng con can đảm làm chứng về Lòng Thương Xót của Ngài và Đức Kitô phục sinh, hôm nay và mãi đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Sòng phẳng, tiền trao cháo múc, cách hành xử như thế có phải đa phần thuộc về những ai chỉ chuyên sống bằng lý mà không sống bằng tình ? Phải chăng bậc làm cha mẹ mới nói: con dù khôn lớn cũng là con của cha mẹ, con dù vụng dại cũng là con của mẹ cha. Có hay không, tình yêu tính toán là thứ tình yêu bất thường: khi yêu nói nhớ nói thương, hết yêu, thương nhớ bay theo cùng người. Suy nghĩ về tình đời, tình đôi lứa, tình mẹ cha, có thể nhiều người sẽ nói rằng: tình chỉ đẹp khi còn dang dở, tình chỉ tồn tại, khi biết chấp nhận tâm tính tương đối của nhau ? Trọng tâm của đức tin Kitô giáo mời gọi chúng ta cùng bước theo Thầy Giêsu, có thao thức, có tin yêu, có lắng nghe, mới có cơ hội hiểu đâu là tình đẹp đâu là tình bền vững.
Đức Giêsu gọi chọn số học trò hầu hết họ là những người tầm thường: chài lưới, thu thuế, nóng tính, ham hố bổng lộc chức vị. Các ông theo Thầy Giêsu, nhưng cũng chẳng khác gì những kẻ không có lập trường: khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai ! Dù sao chúng ta cũng đọc được nơi các ông sự chân thật, đầy nhiệt huyết, không hề quanh co che đậy những khuyết điểm xấu xa tội lỗi của mình. Chúng ta cũng đọc thấy nơi những con người bất toàn ấy, họ toan tính từ giã, chia tay nhau về quê làm ăn, mạnh ai nấy sống, dù tâm tư của các ông còn đầy ký ức đẹp về Thầy Giêsu. Nếu như người ta có thể khích lệ nhau: còn nước còn tát, hoàn cảnh các tông đồ lúc đó thật bi đát, có gì để mà tát ? chỉ còn chờ tình yêu và phép mầu của Chúa mà thôi.
Làm sao những người học trò hết sức giới hạn năm xưa hiểu được, theo Thầy Giêsu phải trải qua những ngày tháng huấn luyện, phải biết mình là ai, nếu là môn đệ của Thầy Giêsu, cần được yêu thương và được biến đổi từng ngày. Nhiều người hôm nay vẫn chưa hết thắc mắc, tại sao các môn đệ, họ là những học trò sống sát gần với Thầy, vậy mà mỗi lần Chúa phục sinh hiện đến, các ông đều giật mình hoảng hốt hoặc tưởng là gặp ma ! Cuộc đời theo Thầy Giêsu làm môn đệ, theo Đấng phục sinh nói chung, đừng nghi ngờ, ai cũng cần được Ngài hiện diện biến đổi, được tăng cường bồi bổ tình yêu và lòng mến.
Người Việt chúng ta có câu thành ngữ: vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm, ý nói đến những người con mới lớn, chúng nghịch phá, mỗi khi người lớn vắng nhà. Đấng phục sinh hiện diện, hẳn Ngài cũng muốn thấy các học trò “quậy phá” trong giai đoạn các ông là người trưởng thành đức tin, là hãy mang tình yêu thương của Chúa sống lại đến với muôn dân thiên hạ. Để trưởng thành, những người học trò phải được lơn lên về mọi mặt, các ông có vấp váp, đã từng xấu hổ đến độ được gặp Thầy, mà các ông tưởng nghĩ gặp ma. Thầy cho các trò xem thương tích của cuộc khổ nạn, ăn uống thân tình trước mặt các trò, Thầy mở trí cho các ông hiểu kinh thánh, và nhắc nhớ các trò ấy hãy tiến bước, hãy làm chứng về những điều các trò đã lĩnh hội.
Thông thường, chúng ta vẫn quan niệm người trưởng thành là người được trau dồi kiến thức, được lớn mạnh lên nhờ ăn uống bồi bổ dĩnh dưỡng hợp lý, đúng chuẩn. Chúa phục sinh nuôi dưỡng các học trò của Ngài bằng tình yêu thương, bổ sức cho các học trò bằng tình yêu Thánh Thần, cùng tiến bước với các học trò bằng sự hiện diện như Ngài từng nói: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nhờ tình yêu thương và ơn biến đổi, những học trò nhút nhát ấy đã biết nhận ra Thầy sống lại bằng mắt đức tin, cảm nhận sự hiện diện của Đấng phục sinh là ơn bình an, là những phép lạ đi cùng các ông. Cuộc đời người kitô hữu là cuộc đời theo Thầy Giêsu vừa học hỏi, vừa sống niềm tin, nếu có cùng Thầy chiến đấu, cũng sẽ đủ sức mạnh chiến thắng sự chết như Đấng đã sống lại vì yêu thương.
Thứ vũ khí hữu hiệu nhất của người đi trong đêm tối là cây “đèn pin” ; khả năng hiểu biết, sự giầu có và quyền lực ở đời, vẫn là chỗ dựa để người ta sống một cách an toàn. Trên hành trình làm người tốt hôm nay, ai cũng nói đó là nhờ tấm lòng quảng đại bao dung, biết sống yêu thương nhau. Đấng phục sinh sẽ còn nói mãi: tình yêu, ơn bình an, là ơn soi sáng cho những ai có lòng khao khát làm công dân của Nước Trời, tất cả sẽ ở trong tình hiệp thông duy nhất là TIN và sống NIỀM TIN nơi Đấng phục sinh. Có tin Chúa phục sinh, có gặp Đấng sống lại, sẽ có cơ hội được biến đổi, được những ơn cần thiết, dù chúng ta có xét thấy mình còn thiếu sót tội lỗi, Chúa phục sinh vẫn hằng yêu thương tha thứ, phục hồi ơn làm nghĩa tử cho chúng ta.
Lý luận ở đời vẫn cho rằng, người mạo hiểm là người dám sống theo câu châm ngôn: được ăn cả ngã về không, hoặc sống vinh hơn chết nhục. Trong khi đó, những người lười biếng, thiếu lập trường sống, những người chưa thành công, lại dễ tự ti vì thiếu tài, thiếu đức, không được cố nhân phù hộ. Đấng phục sinh luôn tha thiết mong chúng ta hôm nay hãy TIN, hãy cùng Thầy tiến bước trên hành trình người môn đệ, đừng cậy dựa vào sức mạnh thế gian, hãy sống tình hiệp thông và chúng ta sẽ gặp được tình yêu của Thánh Thần. Xin tình yêu của Đấng phục sinh tiếp tục hiện diện và đỡ nâng tất cả những ai đang thao thức theo Thầy Giêsu làm học trò, làm thần dân của Nước Trời. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Bá Trung
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với nhiều người, ở nhiều nơi, có khi cùng một lúc. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh trước hết là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, rằng Ngài đã sống lại thực sự. Kế đến là sự bình an đích thực trong tâm hồn cho những kẻ tin vào Ngài, vì từ đây họ không còn sợ gì nữa. Và sau cùng là sứ mạng phải loan báo tin mừng Phục Sinh cho mọi người:“Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24, 48).
Những lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh đem lại niềm vui lớn lao và củng cố đức tin cho các Tông Đồ. Thật vậy, với cái chết của Thầy Giêsu, cánh cửa tương lai của các Tông Đồ như bị đóng lại. Trước mắt các ông chỉ còn là một màu đen tối, u buồn, sợ hãi lẫn thất vọng. Có nhiều người trong họ đã buông xuôi và tính đến việc bỏ về quê như hai môn đệ trên đường Emmaus, có người bỏ đi một nơi nào đó như Tôma. Các Tông Đồ khi đi theo Chúa, họ đã đặt biết bao hy vọng và niềm tin vào Thầy mình, giờ đây họ như bị bế tắc.
Đang lúc các ông rơi vào tình trạng chán nản, thất vọng như thế, chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã nhiều lần xuất hiện một cách bất ngờ.
Chúa Giêsu không báo trước cho các Tông Đồ trong những lần Ngài hiện ra. Vì thế, trong lúc các ông đang ở trong phòng đóng kín, Ngài đã xuất hiện bất ngờ, khiến các Tông Đồ sợ hãi và hoang mang (Ga 20, 19). Chúa Giêsu Phục Sinh cũng bất ngờ hiện ra ở Biển Hồ Tibêria vào lúc trời mờ sáng, giữa lúc các Tông Đồ đang đánh cá và họ đã không nhận ra Ngài (Ga 21, 1-14). Chúa Giêsu Phục Sinh cũng hiện ra với Maria Mađalêna một cách bất ngờ khiến bà không nhận ra Ngài, nhưng tưởng là người làm vườn (Ga 20, 15). Chúa Giêsu Phục Sinh cũng bất ngờ xuất hiện bên cạnh hai môn đệ làng Emmaus, khiến hai ông không nhận ra Chúa (Lc 24, 12-35). Và đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đột ngột xuất hiện giữa các Tông Đồ, khiến các ông hoảng sợ tưởng là ma hiện hình (Lc 24, 37).
Những lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta thấy Chúa hiện ra không phải trong cảnh huy hoàng sáng láng, với dung mạo một Thiên Chúa đầy vinh quang. Nhưng Ngài xuất hiện trong vóc dáng của một con người tầm thường khiêm tốn : như một khách bộ hành, như một bác làm vườn, hay như một ngư phủ…
Ngài hiện ra với những vết thương nơi thân xác, Ngài ăn uống bình thường trước mặt các Tông Đồ. Ngài tỏ ra những cử chỉ thân thương đối với các Tông Đồ : cho các ông chạm vào người, bẻ bánh trước mặt các ông, hoặc dọn bữa cho các ông trên bờ biển…
Chính vì Chúa Giêsu Phục Sinh thường xuất hiện bất ngờ với những điều bình thường như thế nên những đôi mắt đức tin còn mờ tối của các Tông Đồ sẽ khó mà nhận ra Ngài.
Thế nhưng, sau khi đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh, các Tông Đồ đã được hoàn toàn đổi mới. Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các Tông Đồ ba món quà quý giá trong những lần hội ngộ đầy thân thương ấy. Ba món quà đó là: Bình an: “Bình an cho các con ! Này Thầy đây, đừng sợ!” (Lc 24,36). Ánh sáng “Ngài đã mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45). Sức mạnh: các Tông Đồ nhận lãnh sức mạnh từ Chúa, họ đã can đảm mở tung cánh cửa của sự hèn nhát và sợ hãi để lên đường đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Đó chính là điều mà Chúa đã tín nhiệm trao cho các Tông Đồ như một sứ mạng:“Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24, 48).
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Ngày nay, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn hằng hiện diện với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta, Ngài đến trong những khoảnh khắc bất ngờ trong cuộc sống, Ngài đến trong những cái tầm thường và thấp hèn nhất của đời ta. Ngài đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng:
– Ngài đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh thật sự là chi thể của Ngài ( ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17);
– Ngài tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài (Mt 25, 40).
Ngoài ra, Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ngày cũng ban cho chúng ta ơn bình an qua thánh lễ, qua việc lãnh nhận các bí tích, qua đời sống cầu nguyện. Mỗi khi chúng ta đến với Chúa, mở tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa, Chúa cũng sẽ giúp chúng ta thấu hiểu Lời Ngài. Và Chúa còn ban cho chúng ta sức mạnh khi chúng ta biết chạy đến với Chúa và nương tựa vào Chúa để qua đó Chúa mời gọi chúng ta noi gương các Tông Đồ làm chứng nhân cho Tin Mừng Phục Sinh của Chúa.
Theo lịch Công giáo của Giáo Phận Qui Nhơn, Giáo huấn số 20 của Chúa Nhật 3 Phục Sinh có mời gọi chúng ta: Năm thánh của Giáo phận là dịp thuận tiện nhất để mọi người cùng nhắc nhở nhau, động viên nhau, nâng đỡ nhau cùng lên đường gặp gỡ thân mật với Đấng Phục Sinh và ra đi làm chứng cho Ngài, một sứ mệnh khẩn thiết của người kitô hữu trong thế giới hôm nay.
Trong cuộc điều tra để phong thánh cho cha Gioan Maria Vianney, tòa án phong thánh cho mời tất cả những ai đã từng tiếp xúc với cha Vianney đến để làm chứng cho ngài. Trong số các chứng nhân được mời đến, có một bác nhà quê chất phác nói một câu đơn sơ, vắn tắt nhưng đầy ý nghĩa: “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.
Thánh Gioan Maria Vianney đã chiếu tỏa dung mạo của Thiên Chúa qua đời sống thánh thiện và bác ái của mình. Vì thế, người ta đã nhìn thấy Thiên Chúa qua ngài. Vậy, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh chính là chúng ta phải sống thế nào để cho người khác luôn nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện trong con người và cuộc sống của chúng ta. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói: “Con người ngày nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy. Nếu họ có tin vào thầy dạy thì thầy dạy ấy đồng thời đã là những chứng nhân”.
Chớ gì, xin Chúa giúp chúng ta biết làm chứng cho Chúa bằng cách luôn nhận ra Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo hèn để sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ cho họ, thăm viếng những kẻ đau liệt, khoan dung tha thứ những kẻ xúc phạm đến mình, động viên những người đau buồn thất vọng… hầu chúng ta có thể chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. AMEN.
.
CHÚNG TA RAO GIẢNG ĐIỀU GÌ VỀ CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Cv 3:13-15, 17-19; 1 Ga 2:1-5a; Lc 24:35-48)
Mỗi lần hiện ra với các tông đồ và môn đệ, Chúa Giê-su Phục Sinh trước hết thuyết phục họ tin rằng Người đã sống lại thật. Tiếp đến Người trao cho họ sứ mệnh làm chứng Người đã sống lại và sứ mệnh đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Bài đọc 1 kể lại việc tông đồ Phê-rô giảng bài giảng thứ hai về Chúa Giê-su là Đấng Thánh và Đấng Công Chính, đồng thời ngài kêu gọi người ta sám hối. Trong bài đọc 2, thánh Gio-an đề cao vai trò của Chúa Giê-su là làm “trạng sư” cho chúng ta trước Thiên Chúa Cha. Còn bài Tin Mừng thì thuật lại việc Chúa Giê-su mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, để họ tin những điều Kinh Thánh nói về Người đã được thể hiện. Nhưng điều quan trọng nhất, đó là Chúa sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, tức là sự thống hối và ăn năn giúp người ta lãnh ơn tha tội.
Trước hết chúng ta dừng lại ở bài Tin Mừng để cùng các môn đệ Chúa Phục Sinh đón mừng Người hiện đến. Chúa tới bất ngờ khiến mọi người hoảng hốt tưởng mình thấy “ma”. Sau lời chào bình an, Chúa Giê-su trấn an họ. Chúa còn “đưa tay chân cho họ xem”, để chứng minh đây thực sự là Chúa, vì ma làm gì có xương có thịt. Hơn thế, Chúa còn ăn mẩu cá nướng trước mặt họ nữa. Chúa Giê-su muốn các môn đệ hoàn toàn tin là Người đã sống lại, không một chút nghi ngờ, nên Người đã làm tất cả những gì có thể để củng cố đức tin của họ. Điều này là cần thiết, vì nếu họ hoàn toàn xác tín Chúa đã sống lại, thì họ mới có thể làm chứng nhân cho sự phục sinh của Người. Tuy nhiên đó mới chỉ là làm chứng bằng những gì họ đã mắt thấy tai nghe. Nhưng họ còn phải tin vào Người và sứ mệnh của Người, dựa trên tất cả những điều Kinh Thánh đã nói về Người. Mấy thế kỷ sau, thánh Giê-rô-ni-mô, một học giả Kinh thánh, đã phát biểu một câu nói để đời: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô”. Như thế, chúng ta mới hiểu được tại sao Chúa Giê-su đã “mở trí cho các môn đệ am hiểu Kinh Thánh”. Bởi vì một khi đã biết Chúa Giê-su và tin vào Người, môn đệ mới có thể “nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân”. Đúng vậy, Chúa Giê-su đã từng rao giảng sự thống hối để kêu gọi người ta trở lại làm con cái Thiên Chúa. Giờ đây môn đệ Người cũng phải làm điều Người đã làm, tức là kêu gọi người ta tin vào Chúa Giê-su và hãy sám hối.
Vị tông đồ đầu tiên đã thi hành sứ mệnh rao giảng sự thống hối, đó là thánh Phê-rô. Sau phép lạ Phê-rô làm cho một người què từ khi lọt lòng mẹ được khỏi và đi lại bình thường, dân chúng kéo nhau tới đông đảo. Nhân cơ hội này, ngài giảng bài giảng thứ hai về Chúa Giê-su. Ngài nhắc đến cái chết của Chúa là do tội lỗi của họ, những kẻ đã gián tiếp giết Chúa Giê-su, hoặc tội lỗi của các thủ lãnh của họ là những kẻ đã trực tiếp giết Chúa. Để kết luận, Phê-rô kêu gọi dân chúng: “Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xóa bỏ”.
Còn thánh Gio-an tông đồ, khi suy niệm về sứ vụ rao giảng ơn thống hối, ngài đã trình bày theo chiều hướng thần học. Trước hết ngài nhắc nhở rằng hết thảy chúng ta đều là những kẻ phạm tội, nên đều cần đến Chúa Giê-su là vị trạng sư của chúng ta trước Thiên Chúa Cha. Vì là Đấng Công Chính nên Chúa Giê-su giữ vai trò làm “trạng sư” để cầu bầu cho chúng ta là những kẻ đã được Người đền tội thay. Tuy nhiên để thực sự được Chúa Giê-su, vị trạng sư có quyền thế trước tòa Chúa Cha, nhận làm “thân chủ” của Người, chúng ta phải “biết” Người, phải “giữ giới răn Người”. “Biết” Chúa là có mối tương quan yêu mến Người, chứ không phải biết bằng trí khôn. Thử hỏi có thân chủ nào dám cãi lời luật sư của mình trước tòa án không? Trước tòa án thế gian, người ta đôi khi còn cãi lời luật sư, nhưng chắc chắn chúng ta không thể cãi lời trạng sư Giê-su của chúng ta được, như thánh Gio-an đã lý luận: “Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý”. Phải, Chúa Giê-su không thể bào chữa cho kẻ nói dối đâu!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Giáo Hội dành cho chúng ta bảy tuần lễ để đặc biệt suy niệm biến cố và ý nghĩa mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa. Giờ đây ta đã bước vào tuần thứ ba rồi! Ta hãy tự hỏi mình đã thực sự “biết” Chúa Giê-su như thánh Gio-an diễn tả chưa? Nghĩa là tin vào Chúa và yêu mến Người, để thực hành sự thống hối và ăn năn, rồi sẵn sàng làm chứng rằng sở dĩ Chúa Ki-tô đã chịu chết và sống lại là để ta được lãnh ơn tha tội và được phục hồi danh phận làm con cái Thiên Chúa. Như thế rao giảng Chúa Phục Sinh chính là rao giảng Tin Mừng cứu độ và ơn thống hối vậy!
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh năm B dâng hiến cho chúng ta những lời chứng mới về biến cố Phục Sinh; nhưng mầu nhiệm vinh quang này được bày tỏ ở đây trong mối liên hệ với mầu nhiệm Thương Khó của Đấng Mê-si-a chịu đau khổ.
Cv 3: 13-15, 17-19
Trong diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mê-si-a. Lời công bố này vang dội trực tiếp trong đoạn trích Tin Mừng Lu-ca hôm nay.
1Ga 2: 1-5a
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan suy gẫm về những đau khổ mà Đức Ki-tô phải chịu vì tội lỗi của chúng ta, nhờ đó chúng ta đạt được ơn tha thứ.
Lc 24: 35-48
Thánh Lu-ca thuật lại cho chúng ta chuyện Đức Giê-su hiện ra cho các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Phục Sinh. Trong câu chuyện này, Chúa Giê-su giải thích cuộc sống và cái chết của Ngài và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo rồi cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài, cũng như ơn tha thứ tội lỗi.
BÀI ĐỌC I (Cv 3: 13-15, 17-19)
Đây là bài diễn từ thứ hai trong số các bài diễn từ mà thánh Phê-rô ngỏ lời với dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, được sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại. Bài diễn từ thứ nhất được công bố vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Bối cảnh của câu chuyện thật ngoạn mục. Thánh Phê-rô và thánh Gioan lên Đền Thờ để tham dự “buổi cầu nguyện lúc giờ thứ chín” (tức ba giờ chiều: Cv 3: 1). Niềm tin của họ tháp nhập rất tự nhiên vào khuôn mẫu phụng vụ Do thái giáo. Hai Tông Đồ chú ý đến một người ăn xin ngồi bên cửa Đền Thờ. Thánh Phê-rô nhìn thẳng vào anh, nắm chặc lấy tay anh và kéo anh đứng lên. Anh đứng dậy được, vừa đi vừa nhảy nhót theo chân hai Tông Đồ. Mọi người nhận ra anh, kinh ngạc và chạy ùa đến. Khi thấy đám đông, thánh Phê-rô ngỏ lời với họ.
Đề tài thánh Tông Đồ khai triển tóm lược điều cốt yếu của bài giảng Tông Đồ tiên khởi, như sách Công Vụ nhắc lại cho chúng ta qua năm bài diễn từ của thánh Phê-rô (Cv 2: 14-39; 3: 12-26; 4: 9-12; 5: 29-32; 10: 34-43) và một bài diễn từ của thánh Phao-lô (Cv 13: 16-41). Trong bài diễn từ thứ hai này, thánh Phê-rô vẫn còn nhắm đến người Do thái. Điều khó khăn nhất là làm thế nào để người ta có thể chấp nhận rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là Đấng Mê-si-a.
- Anh em là Dân Giao Ước
Trước tiên, thánh Tông Đồ gây nên niềm hứng phấn nơi thính giả của mình khi nhắc cho họ nhớ rằng họ là dân Giao Ước, Giao Ước này Thiên Chúa đã ký kết với các tổ phụ: Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ấy vậy, chính “Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su”. Thánh Phê-rô gọi Đức Giê-su bằng tước hiệu “Tôi Trung” để hướng lòng trí của người nghe đến hình ảnh người tôi trung chịu đau khổ của I-sai-a. Vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị này đã tiên báo rằng Người Tôi Trung của Đức Chúa sẽ bị khinh bỉ và chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho muôn người. Tước hiệu “Tôi Trung” dành cho Đức Giê-su sẽ được lập lại một lần nữa trong các bài diễn từ Tông Đồ, tước hiệu này đem đến một lập luận quan trọng khi đối mặt với thái độ ngập ngừng của những người chờ đợi một Đấng Mê-si-a vinh quang và quyền năng.
- Anh em đã nộp Người
Tiếp đó, thánh Phê-rô đưa ra lời buộc tội trực tiếp khi dẫn chứng những tương phản:
– Quan Phi-la-tô, người ngoại giáo, đã nhận ra sự vô tội của Đức Giê-su và muốn thả Ngài; nhưng trái lại, chính anh em, dân Chúa chọn, đã chối bỏ Ngài.
– Chính Ngài là Đấng Thánh và Đấng Công Chính, nhưng anh em lại chuộng một tên sát nhân hơn là Ngài.
– Chính Ngài là Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng anh em đã ra tay giết Ngài.
Ở đoạn văn này, chúng ta gặp lại một dấu ấn mà thánh Lu-ca đã nhấn rất mạnh trong bài trình thuật của mình về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô: trách nhiệm của quan Phi-la-tô về cái chết của Đức Giê-su thì ít hơn dân chúng, những kẻ, bị các thượng tế khích động, kêu gào đóng đinh Ngài. Thật thế, quan tổng trấn Rô-ma đã công bố đến ba lần: “Ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả”.
Còn đối với hai phẩm tính “Đấng Thánh và Đấng Công Chính”, đây là hai tước hiệu Kinh Thánh thường đi kèm theo tên của những tôi trung vĩ đại, chẳng hạn như ông Mô-sê (thánh Phê-rô sẽ nêu đích danh Mô-sê trong bài diễn từ này). Hai tước hiệu này vẫn là những tước hiệu Ki-tô học rất cổ xưa, nhưng căn cứ trên lời minh chứng của thánh Phê-rô: Đức Giê-su đã thực hiện ở nơi bản thân Ngài những lời Kinh Thánh: Ngài là Đấng Thánh và Đấng Công Chính mà các ngôn sứ đã tiên báo.
- Thiên Chúa đã phục sinh Ngài
Đây là Mặc Khải cốt yếu, lời quả quyết không thể tin được. Vị Tông Đồ còn nhấn mạnh: “Về điều này, chúng tôi xin làm chứng”. Đoạn, bằng một lý lẽ rất thấm thía, thánh Phê-rô làm yên lòng những người mà thánh Tông Đồ buộc tội: tội ác mà họ đã phạm vì không hiểu biết, thì Thiên Chúa đã sử dụng để thực hiện kế hoạch của Ngài; họ có thể được thụ hưởng ơn cứu độ và đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nếu họ sám hối mà trở lại cùng Thiên Chúa.
Chắc chắn lời kêu gọi sám hối này sẽ được lập đi lập lại như một điệp khúc trong các bài diễn từ các Tông Đồ, nhưng lời kêu gọi này được đặt ngay sau việc nêu lên những đau khổ tất yếu mà Đấng Mê-si-a phải chịu, mặc lấy một sức mạnh đặc biệt.
BÀI ĐỌC II (1Ga 2: 1-5)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan, được viết vào cuối thê kỷ thứ nhất gởi cho cộng đồng Ki-tô hữu miền Tiểu Á.
Thánh Tông Đồ ngỏ lời với các tín hữu này với cung giọng trìu mến của người cha; thánh nhân biết những khó khăn và cuộc chiến đấu của họ chống lại những lạc thuyết đang dấy lên trong cộng đoàn. Thánh nhân muốn soi sáng cho họ và củng cố niềm tin của họ.
“Hỡi anh em là những người con bé thơ của tôi”, lối xưng hô này được lập đi lập lại thường hằng trong thư tạo nên nét đặc trưng của bức thư này. Đây là cách nói biểu lộ tấm lòng ưu ái. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Tông Đồ đưa ra hai lời khuyên bảo: một liên quan đến cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi và một khác về sự hiểu biết Thiên Chúa.
- Cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi(2: 1-2)
Trong thư này, thần học Gioan được khai triển chung quanh ba trục: Thiên Chúa là ánh sáng, Thiên Chúa là Công Chính và Thiên Chúa là Tình Yêu.
A. Nhận ra mình là tội nhân
Đề tài: “Thiên Chúa là Công Chính” được liên kết với đề tài tội lỗi. Chính vì sự công chính mà Thiên Chúa cứu độ chúng ta; và sự công chính cứu độ này có tên gọi là “Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”.
Người Ki-tô hữu đích thật biết nhận ra rằng mình là tội nhân, trái với những tiến sĩ giả tự cho mình là hoàn hảo. Hậu cảnh của những lời kêu gọi đạo lý này mang sắc thái của cuộc bút chiến: những nhà phổ biến lạc thuyết Ki-tô giáo tự cho mình là tinh tuyền này xuất thân từ những cộng đoàn này và đã gây xáo trộn ở giữa lòng các cộng đoàn. Thánh Gioan đồng hoá họ với những kẻ dối trá khi nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1: 8). Khi phát biểu bằng đại từ: “chúng ta”, thánh Tông Đồ khiêm tốn tự đặt mình vào hàng các người Ki-tô hữu có thể phạm tội.
B. Đức Giê-su là Đấng Bảo Trợ của chúng ta
“Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”. Danh xưng “Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý xuất phát từ động từ Hy-lạp có nghĩa “gọi đến bên cạnh để cứu giúp”. Chúng ta không gặp thấy danh xưng này trong các bản văn Tin Mừng Nhất Lãm cũng như trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng chỉ trong các bản văn thuộc truyền thống Gioan. Trong Tin Mừng Gioan, danh xưng “Đấng Bảo Trợ” được dùng để chỉ vai trò của Chúa Thánh Thần (x. Ga 14: 16-20); tuy nhiên, trong thư thứ nhất này, danh xưng này được dùng để chỉ Đức Giê-su Ki-tô, Ngài là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, mà thánh Gioan xác định phẩm tính là “Đấng Công Chính”.
Phẩm tính này ám chỉ đến sự vô tội của Đức Giê-su, vì thế, không nhắm đến tính chất Công Chính hoàn hảo của Ngài cho bằng đến chức năng thẩm phán của Ngài. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng công chính hóa chúng ta, bởi vì Ngài trở nên một người như chúng ta và hiến dâng mạng sống mình làm “của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta”.
Thánh Gioan dùng từ “của lễ đền tội” gợi lên tức thời hy lễ xóa tội của dân Ít-ra-en; nhưng trái với hy lễ này chỉ có hiệu lực xoá tội của vị thượng tế và cộng đoàn Ít-ra-en, còn của lễ đền tội của Đức Giê-su Ki-tô có tầm mức hoàn vũ.
Ở đây cũng thế, ngoài nỗi bận lòng mục vụ của mình, thánh Gioan nhắm đến việc lên án những kẻ lạc giáo, họ tách biệt ở nơi Chúa Giê-su, một Đức Giê-su phàm nhân với một Đức Ki-tô thiên giới, Đấng trở nên một với Đức Giê-su phàm nhân vào lúc chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, nhưng rồi sẽ rời bỏ Đức Giê-su phàm nhân này vào lúc Khổ Nạn. Vì thế, chính Đức Giê-su phàm nhân, chứ không phải là Con Thiên Chúa, chịu chết trên thập giá. Theo thánh Gioan, những ai phủ nhận mầu nhiệm Nhập Thể, hệ luận tất yếu cũng phủ nhận luôn mầu nhiệm Cứu Chuộc.
- Sự hiểu biết về Thiên Chúa
Một vấn đề có tính thời sự đặt ra cho các cộng đoàn miền Tiểu Á đang bị các nhà rao giảng ngộ đạo làm chao đảo đức tin của mình là làm thế nào biết được là chúng ta biết Thiên Chúa đích thật. Mục đích cốt yếu của thánh Gioan là làm yên lòng các tín hữu, đem lại cho họ niềm xác tín rằng họ đang ở trên chính lộ. Tiêu chuẩn để nhận biết Thiên Chúa đích thật không cốt ở nơi những suy luận trừu tượng, hay ở nơi thần khải nội tâm, nhưng ở nơi sự hiểu biết thực nghiệm này, tức là thực thi các điều răn mà Chúa Giê-su dạy.
A. Tuân giữ các điều răn của Chúa
Vậy thì, đây là những điều răn nào? Ở đây, thánh Gioan xem ra vẫn ở trong tính tổng quát của các giáo huấn Tin Mừng; tuy nhiên, xuống dưới một chút, thánh nhân xác định: “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta” (1Ga 3: 23). Những đòi hỏi này chính xác là những lời nhắc nhở xuyên suốt bức thư này; chính là những đòi hỏi mà các nhà ngụy rao giảng không tuân giữ. Ví dụ, các nhà rao giảng ngộ đạo thuyết tự cho mình đạt được một tình trạng hiểu biết về những mầu nhiệm thiên giới, điều này khiến họ khinh thường những người dốt nát không thể đạt đến những phạm vi cao siêu này.
Chính vì thế thánh Gioan nhấn mạnh rằng người Ki-tô hữu phải tin vào Đức Giê-su Ki-tô và tuân giữ điều răn đức ái, có như thế họ mới có thể vào trong cõi tâm giao với Thiên Chúa, trong mối liên hệ cá nhân với Chúa Cha và Chúa Con. Chúng ta gặp lại ở đây đề tài hiệp thông với Thiên Chúa, đây là đề tài trung tâm của bức thư và là nền tảng của sự hiểu biết chân thật về Thiên Chúa.
B. Hiệp thông với Thiên Chúa
“Còn hễ ai giữ lời Người truyền dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo”. Trong lời phát biểu này, “Tình yêu Thiên Chúa” muốn nói lên điều gì? Phải chăng “tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta” thực sự nên hoàn hảo nơi người Ki-tô hữu trung tín; hay là “tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa” trở nên hoàn hảo qua việc tuân giữ điều răn yêu thương?
Chúng ta gặp thấy câu trả lời nhờ một đoạn văn song đối lập lại cùng một kiểu nói: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (1Ga 4: 12). Như vậy, chính “tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta” mới làm cho chúng ta nên hoàn hảo. Tuy nhiên, xuyên suốt bức thư này, thánh Gioan xem việc tuân giữ các điều răn là bản trắc nghiệm tình yêu của người Ki-tô hữu đối với Thiên Chúa. Lời nhắc nhở này được thánh Tông Đồ lập đi lập lại nhiều lần trong diễn từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21).
Quả thật, hai viễn cảnh được trộn lẫn mật thiết với nhau. Vả lại, hai mệnh để phụ: “Còn hễ ai…” và “Nếu chúng ta…” đều dẫn đến cùng một câu kết luận: “Tình yêu Thiên Chúa thực sự nên hoàn hảo”. Mục đích thật sự ở đây là làm cho người Ki-tô hữu thông phần vào cuộc sống thần linh. Đây là ý nghĩa của động từ “ở lại” mà thánh Gioan thường hằng lập đi lập lại.
TIN MỪNG (Lc 24: 35-48)
Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm những lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ Ngài. Vào Chúa Nhật trước, chúng ta đã đọc bài trình thuật của thánh Gioan, vào Chúa Nhật này, chính là bài trình thuật của thánh Lu-ca.
Trước đoạn trích Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca trình thuật cho chúng ta sự kiện Chúa Giê-su Phục Sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau. Như vậy, ngày Phục Sinh này là ngày dài nhất: khởi đầu với việc các thánh nữ đến viếng mộ lúc trời vẫn còn tối cho đến tận đêm khuya khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ. Quả thật, Chúa Giê-su chấp nhận đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau suốt ngày hôm ấy cho đến lúc trời đã xế chiều: trong khi đồng bàn với hai ông, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ thì họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài biến mất (x. Lc 24: 29-31). Ngay lúc đó, hai môn đệ này quay trở lại Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ đang tụ họp tại đó.
- Kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau
Xem ra thánh Lu-ca đã cô đọng những biến cố vào cùng một ngày. Điều đáng chú ý chính là thánh ký luôn luôn nêu bật chiều kích Giáo Hội ở nơi cử chỉ của hai môn đệ trên đường Em-mau. Chính ở nơi các Tông Đồ mà hai người môn đệ quy chiếu về. Nhóm Mười Một vẫn là những chứng nhân cốt yếu của sự kiện Phục Sinh. Tuy vậy, kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau không bị giảm thiểu, nhưng đã được củng cố và được thu tóm một cách nào đó vào trong kinh nghiệm cộng đoàn. Vả lại, hai môn đệ này chắc chắn rất thân cận với các Tông Đồ, vì họ biết ở nơi các Tông Đồ bí mật tụ họp cùng nhau.
Như trong các bài trình thuật biến cố Phục Sinh của Tin Mừng Gioan, ở đây Đức Giê-su cũng bất ngờ xuất hiện giữa các môn đệ Ngài. Thân thể bằng xương bằng thịt của Ngài, như Ngài sắp chứng tỏ điều đó, vẫn như trước kia khi Ngài còn sống giữa họ, nhưng cũng hoàn toàn khác. Đức Giê-su, Đấng trở về bên cạnh Chúa Cha trong vinh quang, đã không rũ bỏ nhân tính của Ngài. Sau khi sống lại, Đức Giê-su vẫn mãi mãi là Thiên Chúa và con người.
- Bình an cho anh em
Lời cầu chúc này, chúng ta đã thấy rồi, còn hơn cả lời chào hỏi thông thường theo phong tục của người Do thái, đây là bình an thời Mê-si-a, bình an mà Chúa Giê-su đã hứa ban khi Ngài tham dự Tiệc Ly với các môn đệ vào ngày thứ năm trước đó: “Thầy để lại cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14: 27). Bình an mà Đấng Phục Sinh trao ban cho các môn đệ là bình an của Nước Trời, bình an của một đời sống trong Thần Khí sự thật (Ga 16: 13), nhiều lần được gợi lên trong Tin Mừng Lu-ca (Lc 2: 14; 2: 29; 7: 50; 8: 48; 10: 5-6; 11: 21; 19: 38; 19: 42; 24: 36).
- Tầm quan trọng của bằng chứng thể lý
Thánh Lu-ca nhấn mạnh hơn thánh Gioan về nỗi khiếp sợ của các môn đệ, về sự cứng tin của các ông và về những vết thương khổ nạn mà Chúa Giê-su đưa ra để làm bằng chứng rằng Ngài đã thực sự sống lại. Thánh ký ngỏ lời với những người Hy-lạp và những người Rô-ma, những người này đã không biết đến Kinh Thánh. Chính vì thế thánh ký không trích dẫn Kinh Thánh, nhưng kể ra việc Chúa Giê-su ăn một cá nướng trước mặt các ông.
Cử chỉ này không xem ra là bằng chứng riêng lẽ. Để chứng nhận Đức Giê-su thật sự đã sống lại, đây chỉ là một trong những bằng chứng như thánh Phê-rô sẽ công bố: “Chúng tôi đã cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10: 41). Trong chương 21 Tin Mừng Gioan, vì các môn đệ chưa nhận ra Ngài, Chúa Giê-su đã dọn sẵn một bữa ăn cho các môn đệ Ngài, vì các ông đã vất vả đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cả. Sau mẻ lưới cá lạ lùng, Ngài nói với họ: “Anh em đến mà ăn!”. Xem ra Chúa cùng ăn với họ những thức ăn mà Ngài đã nướng sẵn trên than hồng.
- Tầm quan trọng của bằng chứng Kinh Thánh
Bằng chứng Kinh Thánh cũng quan trọng không kém gì bằng chứng thể lý. Chúa Giê-su đã nhấn rất mạnh bằng chứng Kinh Thánh này khi Ngài giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24: 44).
Cũng như hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa Giê-su cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem để các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài cũng như những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước.
Việc “ôn cố tri tân” này (nhắc lại Cựu Ước để hiểu Tân Ước) được Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ hai lần trong cùng một ngày này (trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau; sau đó, các môn đệ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem) chắc chắn không thể thiếu được. Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca cho chúng ta biết rằng các môn đệ quy tụ chung quanh Đấng Phục Sinh đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1: 6). Với những tâm trí ngu muội này phải nhắc đi nhắc lại mới mong các ông ngộ ra rằng vương quốc mà Kinh Thánh loan báo không là vương quốc Ít-ra-en trần thế, nhưng là vương quốc Thiên Chúa hoàn vũ. Biến cố Phục Sinh không là điểm kết thúc của một cuộc mạo hiểm thần linh, nhưng là khởi điểm của một công trình bao la mà giờ đây được trao gởi cho các môn đệ thực hiện bằng cách công bố cho muôn dân nước lòng sám hối và ơn tha thứ tội lỗi.
- Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem
Thành thánh Giê-ru-sa-lem là nơi Chúa Giê-su hoàn tất sứ mạng của mình và cũng là nơi Giáo Hội khởi sự thi hành sứ mạng của mình, đó là tất cả quan điểm của sách Tin Mừng Lu-ca.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Ngày Con Thiên Chúa giáng sinh, các thiên thần hân hoan reo ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Và hôm nay, Con Thiên Chúa phục sinh, niềm bình an đến trên nhân loại, không còn do thiên thần báo tin nữa, nhưng đã trở nên lớn lao và quan trọng:
Chính Đấng Phục sinh trực tiếp trao ban. Trong các lần hiện ra cùng các môn đệ, lời đầu tiên của Chúa Giêsu Phục Sinh luôn luôn là lời chúc bình an.
Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng: Trong khi các môn đệ còn bán tín, bán nghi về những lần những người trong nhóm họ nói là đã thấy Chúa Phục sinh, thì chính Người, Đấng Phục Sinh ấy, bỗng dưng xuất hiện giữa họ. Lại một lần nữa, Chúa lên tiếng trớc hết: “Bình anh cho các con”.
Bình an, điều mà trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã từng rao giảng – Bằng chứng là trong Tám mối Phúc thật, thì Phúc thứ Bảy nói đến hòa bình: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Hay ở một chỗ khác: “Thầy ban BÌNH AN CỦA THẦY cho các con. Thầy ban KHÔNG NHƯ THẾ GIAN ban tặng” (Ga 14, 27). Và còn nhiều những lần như thế.
Bình an có tầm mức quan trọng là thế. Không phải chỉ chờ đến lúc Chúa Giêsu nói, ta mới biết. Nhưng trong kinh nghiệm cuộc sống của từng người, ai mà không cảm nhận sự cần thiết vô cùng của sự bình an.
Vậy mà có lần Chúa lại nói những điều xem ra rất khó nghe, rất chướng tai: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an cho trái đất. Ta đến không phải để đem bình an nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10, 34).
Hóa ra, Chúa Giêsu tự mình mâu thuẫn với chính mình? Hay ở một khía cạnh khác, mang tầm mức xã hội hơn, bởi “đem gươm giáo”, rõ ràng Chúa Giêsu là một người hiếu chiến? Và nếu thế thì Chúa Giêsu là tay thực dân, là tên xâm lược, giống như thời nay vẫn xảy ra? Đúng như thế hay ta còn phải hiểu thế nào về Lời của Chúa?
Từ cuộc sống của chính Chúa Giêsu, ta dám khẳng định một điều: Người không hề có bất cứ một mảy may mâu thuẫn nào dù là lời nói hay hành động! Trong đời giảng dạy – ba năm trường – Chúa Giêsu không dùng gươm giáo, không kêu gọi lật đổ chính quyền thực dân lúc đó. Người cũng không xâm chiếm lãnh thổ của ai, không cướp đất dành ranh giới của người nào.
Nói cho cùng: Chúa Giêsu là người mang lại phúc cho đời, trước sau gì bản thân Người cũng vẫn là Phúc thật lớn nhất của nhân loại.
Chẳng những không mâu thuẫn, dù lời của Chúa Giêsu có lẽ gay gắt, nhưng rất đúng: Vì chính Tin Mừng “bình an” này, chính mối Phúc thật thứ Bảy này gây nhiều xáo trộn, nhiều chia rẽ.
1.Trước hết cho chính bản thân:
Có ai muốn sống Lời Chúa, muốn chu toàn lề luật mà không bị giằn co, không phải chiến đấu với bản thân. Nhất là những lần đối diện với cám dỗ, với chính con người đầy yếu đuối, bất toàn của mình.
Có ai sống Lời Chúa mà không thoát khỏi những lúc phải từ bỏ chính bản thân, hay phải chết đi cho những đam mê, cho khoái lạc, dục vọng thấp hèn… Và khi vượt qua để chiến thắng những gì là chưa tốt như thế, cũng có nghĩa là ta đã sống Lời Chúa. Chính lúc ấy, hơn ai hết, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận bình an, cảm nhận niềm vui chan chứa trong tâm hồn và trong từng ngày sống của ta.
2 Trong tương quan với anh chị em,
Lời Chúa có thể làm ta rơi vào sự thù oán, hay ít là ghen ghét, khi ta không cùng a dua, không “cùng hội cùng thuyền” với những người sống thiếu lương thiện, sống mà không kể gì đến Thiên Chúa.
Từ ngàn xưa, Sách tiên tri Giêrêmia đã cho ta những bài học quí giá về một cuộc sống thiếu bình an khi phải sống Lời Chúa, khi phải giữ trọn lề luật của Người. Ta hãy nghe Giêrêmia tâm sự:
“Kẻ gian ác nói: ‘Hãy đến đây, ta cùng nhau bàn mưu tính kế hại Giêrêmia. Vì thiếu tư tế, lề luật không chết, thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến, thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo. Đến đây, ta hãy dùng lời nó mà hại nó’” (Gr 18, 18).
Vì phải sống và loan báo Lời Chúa, nhà tiên tri bị người đời ghét bỏ, chống đối, và thù hận đến mức có những lúc ông đau khổ một cách tuyện vọng, chỉ còn biết than thân trách phận:
“Thật đáng nguyền rủa ngày tôi được sinh ra. Ngày mẹ tôi sinh ra tôi không đáng được chúc lành. Tại sao tôi lại không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi, và lòng bà cưu mang tôi mãi mãi? Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi? Phải chăng chỉ để thấy toàn gian khổ buồn sầu, và thấy cuộc đời qua đi trong tủi hổ” (Gr 21, 14. 17 – 18).
Đó là số phận của những người ngay lành, những người chỉ biết lấy Lời Chúa làm lẽ sống cho mình. Đúng như Chúa đã nói: “Ta đến không phải đem bình an, nhưng đem gươm giáo”.
Bởi thế bình an mà Đấng Phục Sinh trao ban chỉ có thể là bình an của những người biết phó thác cuộc đời mình cho Chúa. Chỉ có phó thác, chỉ có đặt tất cả cuộc đời, tất cả lòng tin và sự sống trong tay Chúa, ta mới có bình an thật trong tâm hồn của mình, dẫu trên thân xác ta đầy vết tích, cuộc đời ta đầy thử thách, đường đời ta đi đầy chông gai.
Chúa Kitô đã chẳng phải như thế sao, khi chính Người đã bị cuộc đời vùi giập? Dẫu là đau đớn đến cùng cực, dẫu là cái chết bầm da, xé thịt, hay mọi đắng cay nhục nhã và ê chề đến đâu đi nữa, Chúa Giêsu vẫn một lòng phó thác chính bản thân Người cho thánh ý Chúa Cha, cho tình yêu của Chúa Cha.
Lúc mà trên thân thể hằn lên nỗi đau bao nhiêu là chính lúc nhờ sự phó thác, Chúa Giêsu lại càng có được bình an tận tâm hồn bấy nhiêu.
Ta hãy xin Chúa ban bình an cho ta, không phải thứ bình an trên thân xác, càng không phải bình an do của cải, quyền thế, danh giá… mang lại, nhưng là bình an của tâm hồn để trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh của đời người, ơn bình an ấy sẽ giúp ta càng thánh thiện, càng trung thành với Chúa hơn, dẫu là lúc ta vui hay buồn, sướng hay khổ, dẫu là hoàng cảnh nào đi nữa.
.
JM. Lam Thy
Trong cuộc đời nhiễu nhương, chuyện sợ ma cũng là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nói chung, con người ai cũng sợ ma quỷ, nhưng có dám tự nhận mình là “sợ ma” hay không thì… “hãy đợi đấy!” Ấy cũng bởi vì thực tế đã chứng minh những kẻ “yếu bóng vía” thường hay vỗ ngực xưng mình là “không sợ ma”; nhưng chỉ cần đối diện với thực tế (đi trong đêm tối nơi những phong cảnh âm u, hiu hắt), lại là những người “sợ ma năm-bờ-oăn”! Ngoài mặt thì không sợ ma, nhưng trong lòng thì bất cứ một cảnh giới, một hiện tượng nào cũng có thể là ma được cả. Câu tục ngữ Việt Nam “thần hồn nát thần tính” để chỉ những hạng người ấy quả thật không sai. Cũng giống như các Tông đồ thủa xưa khẳng định chắc nịch: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” nhưng khi thấy Thầy đi trên mặt biển (Mt 14, 25-33) hoặc hiện ra sau Phục Sinh, thì lại cho Thầy là “ma”. Bài Tin Mừng hôm nay (CN III.PS-B – Lc 24, 35-48) là một ví dụ:
Thánh sử Lu-ca trình thuật câu chuyện 2 môn đệ trên đường Em-mau sau khi được Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra, liền trở về Giê-ru-sa-lem gặp nhóm mười một và “thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”. Chính nhóm mười một cũng nói cho 2 môn đệ trên đường Em-mau biết: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. Ấy vậy mà “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma.” Thái độ đó đã khiến Người phải quở trách: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.”
Sự kiện Đức Giê-su Ki-tô bị bắt, chịu xét xử, bị kết án tử hình, chết treo thảm khốc trên thập giá, đã như một nỗi ám ảnh kinh hoàng tột đỉnh, khiến các môn đệ sợ hãi và tuyệt vọng. Không còn một tia hy vọng nào rọi vào tâm trí nữa. Tất cả là bóng tối và tảng đá liệm mồ Chúa đã trở nên như một tảng đá nặng nề khô cứng niêm kín tâm hồn họ. Nói cách khác, họ cho rằng Thầy đã chết thật vì chính tay họ đã chôn Thầy trong hang đá; vậy thì những hiện tượng khác lạ xảy ra đối với họ chỉ có thể là do ma quỷ gây ra; chớ Thầy đã chết thì làm sao Thầy còn đi đứng được?!! Cái hành trình đức tin của các Tông đồ tiên khởi kể ra cũng éo le và gian nan thật.
Sống liền bên, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ, nghe biết bao lời giáo huấn thánh thiện chân tình, nhất là được chứng kiến tận mắt rất nhiều phép lạ Thầy mình đã làm, vậy mà vẫn bán tin bán nghi, lúc thì tuyên xưng Thầy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, lúc thì coi Thầy là ma. Khi Thầy còn sinh tiền và chưa bước vào cuộc thương khó, thấy Thầy đi trên mặt biển mà coi là ma, thì còn có thể chấp nhận được, vì bản chất con người là thế. Nhưng đến lúc Chúa đã phục sinh và đã được những nhân chứng sống (bà Maria Mac-đa-la, 2 môn đệ trên dường Em-mau) báo trước, vậy mà khi được thực mục sở thị vẫn không tin, vẫn tưởng là thấy ma, kể cũng lạ thật! Lạ, nhưng không trái thường nghịch lý chút nào, vì đó chính là bản chất con người. Hoá cho nên cũng chẳng lạ khi thấy có một Tô-ma “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25).
Các Tông đồ tiên khởi còn như thế, huống hồ là những tin hữu sống sau các ngài tới 2000 năm. Các tín hữu ngày nay được mang tước hiệu Ki-tô hữu (“nhãn hiệu trình toà – marque déposée” đàng hoàng!) xem ra còn thê thảm hơn các môn đệ thủa xưa. Vẫn còn không ít người tin vào thần nhà thần bếp, thần cây đa cây đề, thần sông thần núi, thần sấm thần chớp, thần năm tuổi, thần hộ mệnh nọ kia… Và nếu có tin vào Đấng Ki-tô thì chỉ là tin trên môi trên miệng, chỉ cần sợ bóng sợ vía đã vội vàng “chối Thầy không chỉ ba lần mà có thể lên tới ba mươi lần ba” bằng cách cất bàn thờ vào một xó xỉnh nào đó để chưng hình lãnh tụ, khai vào lý lịch là không tôn giáo, theo đạo thờ ông bà v.v…và v.v… Chính vì thế, vấn đề thiết thân đặt ra luôn luôn và mãi mãi phải là củng cố đức tin, không thể khác hơn.
Thánh Tô-ma ngày xưa vẫn còn cơ may khi được chính Người mà mình không tin là đã sống lại, trưc tiếp phán dậy: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27). Đối với Ki-tô hữu ngày nay, không được như Thánh Tô-ma để thốt lên tự đáy lòng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28) và được chính Người mà mình tin phán bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Thật vậy, Ki-tô hữu ngày nay tuy không được “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin”, nhưng lại có nhiều cơ hội được chiêm ngưỡng những dấu chỉ thời đại, những phép lạ dưới nhiều hình thức chứng tỏ thật sự đã có một Đấng “không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi” đến độ hy sinh cả tính mạng để giúp họ được sạch. Ki-tô hữu ngày nay còn được thử thách, đối diện với những mưu ma chước quỷ thâm độc hơn, cọ xát với những cám dỗ mời mọc ma mãnh hơn các Tông đồ thủa xưa. Vì thế, nếu từ bỏ được tội lỗi, xa lánh được cám dỗ, vượt qua được thử thách – tức là ”thắng được chính mình, thắng được thế gian” – chắc chắn sẽ được “Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
”Thắng được thế gian” ư? Nghe ra thì có vẻ là điều không tưởng, nhưng nghĩ cho kỹ, suy cho cùng thì đó chính là vượt qua được chính mình. Mình là thế nhân (người thế gian), vượt qua được chính mình tức là vượt qua, là chiến thắng được thế gian. Mà muốn được như thế thì điều kiện tiên quyết phải là làm sao hiểu cho thấu lý đạt tình mình hoàn toàn không phải là con cái thế gian, mà chính là con cái Thiên Chúa, Đấng là Cha Toàn Năng hằng hữu. Ấy cũng bởi “vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.” (1Ga 5, 4). Đó là điều tất yếu và cũng chính điều đó đã đưa chúng ta về với nguồn mạch đức tin: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” (1Ga 5, 5-6).
Nói về hành trình đức tin của các Tông đồ tiên khởi, thì nhân vật điển hình không ai khác hơn là thánh Phê-rô. Ngài làm nghề chài luới mà theo Chúa vì tin Chúa có thể “làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 19). Theo Thầy, ở liền bên Thầy không rời nửa bước, vậy mà lúc thì tuyên xưng Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, khi thì lại tưởng Thầy là ma đi trên mặt biển. Vừa mới leo lẻo: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy. thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã… Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” (Mt 26, 33-35); vậy mà chỉ cần một đứa tớ gái nhà Cai-pha nói: “Bác này cũng đã ở với ông Giê-su người Na-da-rét đấy”; đã vội thề độc mà chối tới ba lần: “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26, 71-74). Chỉ đến khi được chính Thần Khí Sự Thật chiếu tỏa trong ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh nhân mới thật sự vững lòng tin và nhờ thế ngài đã chữa cho 1 người què đi được và giảng cho dân chúng nghe bằng cách trưng dẫn tất cả những lời tiên tri căn bản trong Cựu Ước, để chứng minh cho mọi người có thể tin nhận “Chính Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại.” (Cv. 3, 13-15, 17-19).
Nhìn vào tấm gương chân thực của người đứng đầu Hội Thánh tiên khởi ấy, có thể kết luận: Hành trình đức tin của mỗi Ki-tô hữu – dù xưa hay nay – không phải là một lộ trình rộng thênh thang, trơn tru phẳng lặng; mà là một con đường hẹp, gồ ghề, khúc khuỷu, sỏi đá, gai góc, ấy là chưa kể còn biết bao nhiêu rắn độc, thú dữ rình mò. Nói cách cụ thể, hành trình đức tin luôn là một hành trình gian khổ, chứa đầy thử thách và chỉ khi nào vượt qua được thử thách mới tới được cùng đích (“Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì.” – Gc 1, 2-4). Và vì thế mới nói: Đức tin là ân sủng Thiên Chúa ban nhưng không cho con người và chính nhờ Đức Tin, con người mới đến được với Thiên Chúa hằng sống.
Vậy thì không lý gì khi niềm tin bị chao đảo vì những thử thách, người tín hữu lại không biết “cầu xin với lòng tin” (Gc 1, 5-7) để được chính suối nguồn Đức Tin là Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh thương ban Thần Khí Sự Thật, hầu củng cố niềm tin cho vững mạnh. Ấy cũng bởi vì chính “Thần Khí là chứng nhân” (”Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” – 1Ga 5, 6; “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.” – Ga 15, 26-27).
Tóm lại, Người Thầy chí thánh đã dạy rất rõ ràng: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24, 46-48). Vậy thì người Ki-tô hữu cần ý thức sứ vụ “Ngôn sứ + Tư tế + Vương giả” của mình bằng cách rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho những điều mình đã rao giảng. Rao giảng ở đây không nhất thiết phải đứng trên bục giảng (phần này chỉ dành riêng cho những người có năng khiếu hoặc đã được đào tạo: Giáo sĩ – Giáo lý viên); mà là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm hàng ngày.
Nói cụ thể là rao giảng Lời Chúa, loan báo Tin Mừng bằng chính cuộc sống chứng nhân của mình. Ấy cũng bởi vì “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân.” (Thông điệp Loan báo Tin Mừng “Evangelii nuntiandi”, số 41). Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người, một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay những lập luận lý thuyết mà không có hành động minh họa (Lời nói không đi đôi với việc làm => Đức tin không có hành động => Đức tin chết – Gc 2, 17).
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rõ rằng, với thân phận mỏng giòn và bất toàn, đức tin của con luôn bị chao đảo. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí Sự Thật – Thần Khí Chứng Nhân cho con, để con có đủ sáng suốt và nhất là dũng khí thi hành sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô phục sinh giữa đời thường. Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con! Con tin! Amen. Alleluia! Alleluia!
.
Lm Vũdình Tường
Canh tân theo tinh thần của Đức Kitô Phục Sinh chính là trung tâm điểm bài giảng của Thánh Phêrô ghi lại trong Tông Đồ Công Vụ 3,13 tt.
Cuộc thương khó của Đức Kitô có thể chia thành ba giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn một là niềm hy vọng của toàn dân, xảy ra trước cuộc thương khó. Trên môi miệng mọi người ai cũng nói về phép lạ Đức Kitô thực hiện và người ta hy vọng được gặp Ngài để được cứu chữa. Giai đoạn hai pha trộn giữa ngạc nhiên lẫn thất vọng trong thái độ bàng hoàng, sợ hãi nơi dân chúng khi họ hay tin các nhà lãnh đạo Đền Thờ Giêrusalem, âm thầm, vội vàng kết án Đức Kitô ngay trong đêm họ bắt Ngài. Ngay đêm đó họ đã đưa ra bản án khắc nghiệt của hận thù. Hận thù, ghen tị của cả một tập đoàn lãnh đạo đổ lên đầu một cá nhân vô tội với bản án tử hình dã man, đóng đinh chờ cái chết chầm chậm đến trong nắng, khát, cô đơn, một mình trên đồi vắng. Đám đông khóc thầm, thương tiếc. Ai cũng cảm thấy mất mát nhưng bất lực trước bất công và bạo hành. Người ta cảm thấy bất lực đến độ không dám khóc lớn, hay lên tiếng than vãn vì thái độ hung hăng, tính bạo hành, cách hành xử vừa vô nhân đạo vừa tàn ác nơi nhà lãnh đạo ra lệnh cho đám hành hình thi hành. Mọi người đều uất ức nhưng làm gì được vì họ nắm binh quyền trong tay. Mọi người âm thầm, nhìn nhau, cắn răng chịu đựng vì hở môi đau khổ ập vào. Ai cũng biết, cũng nghe nói đến. Cả người xót thương, đau khổ lẫn kẻ hả hê vì đã thực hiện được dã tâm muốn thực hiện. Điều này thể hiện rõ ràng khi Clêo nói với người lạ ông gặp trên đường:
Có lẽ ông là cư dân duy nhất không biết việc vô cùng dã man vừa mới xảy ra tức thì tại thành thánh Giêrusalem Lc 24,18.
Giai đoạn ba là tin tức nóng hổi loan tin Đức Kitô bị đóng đanh chết trên thập giá, an táng ba ngày trước nay đã sống lại và hiện ra với rất nhiều người, trước hết là các môn đệ sống gần thành thánh Giêrusalem và sau đó là những môn đệ khác. Tin loan nhanh không gì ngăn cản nổi. Trên môi miệng mọi người, kẻ tin Đức Kitô lẫn kẻ không tin đều bàn tán xôn xao về tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Các môn đệ vui mừng đón nhận tin vui, lòng họ rộn rã mong chờ được gặp lại Thầy mình; kẻ chống đối Đức Kitô thì bồn chồn lo lắng, làm thế nào để bịt miệng toàn dân và tránh bị chính quyền trù dập. Loan tin giả và hối lộ là cách họ thực hiện. Điều này cho thấy giả dối sau dùng để bao che giả dối trước và cứ thế chồng chất lên nhau.
Về phần các môn đệ sau khi gặp lại Thầy các ông trở nên mạnh dạn, khôn ngoan phi thuờng. Nghe những tuyên bố của thánh Phêrô ghi lại trong sách Tông Đồ Công Vụ 3,13tt cho thấy khôn ngoan của ông đến từ Đức Kitô Phục Sinh. Phêrô cho biết chương trình cứu độ của Thiên Chúa thực hiện không thế lực trần gian nào có thể ngăn cản. Người ta tưởng giết Con Một Thiên Chúa là Đức Kitô là phá tan chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Họ không thể ngờ được là Đức Kitô họ giết đi được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết tạo thành làn sóng Kitô hữu nói về Ngài, làm chứng nhân cho Ngài và trung thành, vui mừng được đổ máu đào ra làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh. Điểm thứ hai là Đức Kitô Phục Sinh đổi mới cuộc sống Kitô hữu, ban cho họ tinh thần mới, sự sống mới và khả năng mới, mạnh dạn làm chứng nhân không sợ gian nguy, khó khăn và ngay cả cái chết. Đức Kitô đổi mới con người và đổi mới mọi loài thụ tạo. Điểm thứ ba Đức Kitô làm Vinh Danh Chúa Cha bằng cách tự nguyện chết trên thập tự trong khi đó Chúa Cha làm Vinh Danh Chúa Con bằng cách cho Ngài sống lại vinh quang từ cõi chết. Các môn đệ Đức Kitô làm Vinh Danh Đức Kitô bằng cách công khai loan tin Đức Kitô Phục Sinh và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng Phục Sinh. Điểm thứ tư thánh Phêrô cho biết í kiến của tập thể lãnh đạo sai lầm khi cùng lòng giết Đức Kitô, họ biết họ sai do ích kỉ nhưng vì tự kiêu nên họ không dám nhận điều sai trái và tìm cách tránh né, giải thích lệch lạc sự việc, dùng tuyên truyền tạo chia rẽ trong dân chúng. Điểm thứ năm cho thấy tập thể lãnh đạo luôn vỗ ngực tự nhận mình khôn ngoan nhưng không biết là càng tự nhận mình khôn càng đi sâu vào con đường u tối bởi họ từ chối ánh sáng chân lí Phục Sinh. Điểm thứ sáu cho biết chỉ cần khiêm nhường tự nhận mình sai trái, thống hối ăn năn sẽ nhận được ơn Chúa thứ tha. Điều này cho thấy tình yêu Chúa lơn hơn tội ta phạm, tội cá nhân và tội tập thể.
Bài đọc thứ hai thánh Gioan (1Gn 2,1-5) cũng nói về tình yêu Chúa khi Ngài cho biết tình yêu Chúa mạnh hơn tội lỗi. Tình yêu Chúa có sức ban sự sống, tạo dựng, đổi mới đời ta và đổi mới toàn vũ trụ; đối nghịch với tình yêu Chúa là sự ác, thể hiện qua tội lỗi. Hậu quả của tội lỗi là tàn phá, gây chia rẽ, hận thù, giết hại và án phạt muôn đời. Để được hưởng tình yêu Chúa con người cần sống theo giáo huấn của Đức Kitô, làm cho giáo huấn của Ngài đi chung với hành động trong cuộc sống hàng ngày. Khi Lời Chúa thấm nhập vào trong lòng ta, Lời Chúa biến thành nguồn suối tình yêu, đến từ cõi lòng, mang sinh lực cho cuộc sống và chính suối nguồn tình yêu này sẽ làm trôi đi những rác rưởi cuộc đời, rửa sạch tội đời và làm cho cuộc sống ta trở nên mới trong Đức Kitô. Lời Chúa không những rửa sạch tội đời mà còn thiêu huỷ mọi mầm mống tội đang nảy mầm trong tâm hồn.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Bài hát “Vì Chúa đã phục sinh” của Lm nhạc sĩ Thái Nguyên có đoạn: “Vì Chúa đã phục sinh nên con hết lòng đổi thay cuộc sống, biết phụng thờ Ngài trên tất cả, không sa ngã theo trần gian”. Quả thật xã hội ngày hôm nay đang rất cần thay đổi khi càng ngày sự dữ càng tinh vi và táo tợn hơn. Tất cả đang chờ đợi sự thay đổi. Nhưng điều quan trọng nhất là tự mỗi người ý thức để thay đổi chính cuộc sống của mình. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta có sự thay đổi để phù hợp với cuộc sống mới của Đấng Phục Sinh.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: Cv 3, 13-15.17-19
Đoạn sách Tông đồ công vụ được trích đọc hôm nay nằm sau phép lạ của Phêrô và Gioan cho một người bại liệt đi được. Thấy sự lạ như vậy, dân chúng kéo nhau đến xem quá sức. Nhân cơ hội này, Phêrô đã rao giảng về ĐGK đã Phục Sinh. Để kết thúc bài giảng của mình, cũng như đưa ra một hành động cụ thể cho dân chúng, Phêrô đã kêu gọi: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa để được Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em”. Đó là lời mời gọi thay đổi cuộc sống.
- Bài Đọc II: 1Ga 2,1-5a
Là những lời rất tha thiết của thánh Gioan: “Tôi viết cho anh em những điều này để anh em đừng phạm tội”. Tuy nhiên ngài cũng biết điều đó là rất khó vì làm sao con người tránh được những tội lỗi, những thiếu sót, nên ngài thêm: “Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ là ĐGK”. Nghĩa là ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối để trở về với Chúa mỗi khi sa ngã phạm tội.
- Tin Mừng: Lc 24, 35-48
Khi 2 môn đệ trên đường Emmaus quay về Giêrusalem kể lại những sự việc 2 ông vừa trãi qua, chủ yếu là 2 ông xác quyết Đức Giêsu đã sống lại. Dĩ nhiên có người tin nhưng cũng có người không tin. Đợi đến khi Đức Kitô Phục Sinh đứng giữa họ, lúc đó họ không cần phải tin nữa, vì sự thật đã xảy ra trước mắt rồi. Ngài cắt nghĩa kinh thánh cho họ, soi lòng mở trí cho họ hiểu. Cuối cùng Ngài sai họ đi rao giảng sự sám hối. Vì vậy sự sám hối là đề tài xuyên suốt cả 3 bài đọc hôm nay.
Chúng ta có thể rút ra được một sứ điệp của phụng vụ lời Chúa hôm nay là: Chúa đã phục sinh, Ngài mời gọi chúng ta bước vào sự sống mới, nên chúng ta phải thay đổi cuộc sống hiện tại, từ xấu sang tốt, từ tốt sang tốt hơn, từ tốt hơn đến tốt hơn nữa.
II. NHỮNG “HỘI CHỨNG” CẦN SÁM HỐI
Muốn sám hối phải biết mình sai. Muốn biết mình sai phải nhìn vào thực tế cuộc sống, như việc chúng ta soi gương để tìm những vết bẩn trên gương mặt mà tẩy rửa. Xã hội ngày hôm nay có nhiều mặt đã xuống cấp trầm trọng, nhiều đến mức mà người ta gọi nó là “hội chứng”, một danh từ trong y học để chỉ những triệu chứng cùng xuất hiện một lúc của căn bệnh. Chúng ta hãy nhìn đến một vài “hội chứng” đang làm ảnh hưởng đến xã hội, và nhất là làm cho đức tin của chúng ta xuống cấp.
- Hội chứng “bình thường thôi”
Có một nhà báo nói rằng giới trẻ bây giờ đã thấy, đã biết tận dụng triệt để cái nhìn “bình thường thôi”, dẫn đến chuyện tự nhiên quay cóp mà không xấu hổ, xạo bạn dối thầy mà vẫn cứ tự nhiên, chửi thề như đọc ráp mà không biết ngượng miệng. Có người nói những phát hiện đó cũng “bình thường thôi” vì nó xảy ra nhan nhản (lại bình thường thôi). Điều chúng ta cần nói ở đây là tại sao lại xảy ra hiện tượng bình thường hóa sự xấu như vậy? Có phải tại một nền giáo dục có vấn đề, hay tại người lớn vô tình hoặc cố ý “bình thường hóa sự xấu” ngay trước mắt trẻ em, để rồi khi lớn lên nó trở thành một tập quán?
Những ai có xem tin tức bóng đá cũng đều biết câu chuyện của thần đồng bóng đá Việt Nam vào những năm 2012 : Hoàng Danh Ngọc. Khi bị trọng tài phạt thẻ đỏ, anh đã chửi thề rất rõ, rất nặng trong khi VTV3 đang truyền hình trực tiếp nên khán giả nghe rất rõ, có nhiều người đã tắt TV vì con cái họ đang xem. Điều đáng nói hơn là sau đó mặc dù anh thừa nhận mình có chửi thề, nhưng anh nói đó chỉ là những câu bình thường thôi. Chưa hết, HLV trưởng của đội bóng Ninh Bình đã phát biểu: “Việc cầu thủ chửi thề là hết sức bình thường. Không có gì phải làm to chuyện”. Vấn đề là ở chỗ một vị HLV đáng tuổi cha chú, lại là người có vai trò uốn nắn, giáo dục lại nghĩ rằng “Chửi thề là hết sức bình thường”, thì việc các học trò của ông chửi thề một cách vô tội vạ như vậy cũng là điều không lạ; một ngày nào đó, nó quay lại chửi thề vô mặt thầy nó thì cũng là điều “bình thường thôi”. Điều này nếu không phải tại người lớn dung dưỡng sự mất nết của giới trẻ, thì cũng bởi tầm nhận thức của người lớn chỉ là “bình thường thôi”.
Chúng ta sám hối với hội chứng này, đừng hùa theo đám đông mà làm những chuyện xấu, những chuyện mà vì nhiều người cùng làm nên nó trở thành “bình thường thôi”. Vì cuộc sống nên 1 số người đã bỏ nhà thờ, không còn nhớ đến Chúa nữa; không vì thế mà tôi cũng giống như họ để việc bỏ đạo, bỏ Chúa trở thành “bình thường thôi”. Có những người đối xử tệ bạc với tôi, nhưng không vì thế mà tôi cũng đối xử tệ bạc với họ. Có những người rãnh khi thấy người khác đi lễ ngày thường họ lại nói đạo đức giả, nhưng không vì thế tôi cũng lười biếng giống họ…Đặc biệt hơn chúng ta phải biết hội chứng “bình thường thôi” là hậu quả của người lớn để lại cho thế hệ trẻ. Vì vậy khi chúng ta dám lội ngược dòng thì nó cũng là tấm gương cho thế hệ mai sau.
- Hội chứng Chịu Chơi
Hội chứng thứ hai xuất phát từ những người nổi tiếng, đó là “hội chứng chịu chơi”. Hội chứng này chỉ bắt đầu rầm rộ từ câu chuyện của cầu thủ mua tặng người yêu của mình chiếc đồng hồ trị giá 4 tỷ đồng. Ai dám nói Việt Nam là một nước nghèo khi phiên bản của chiếc đồng hồ này trên thế giới chỉ có 15 chiếc, mà Việt Nam đã sở hữu một chiếc? Điều đáng nói là trước đây gia đình của cầu thủ này rất nghèo trong một xã nghèo của một tỉnh nghèo miền trung. Người ta có tiền thì người ta có quyền tiêu xài, ăn chơi, nhất là khi người ta đã trở thành sao rồi thì phải chứng tỏ đẳng cấp của mình trước công chúng. Điều đáng nói ở đây là cách suy nghĩ trong việc tiêu xài đồng tiền mình có (nhiều khi một cách bất công). Hội chứng chịu chơi này ảnh hưởng rất lớn trong một số thành phần giới trẻ. Không có tiền nhưng sẵn sàng mượn để mua điện thoại mới. Không có tiền nhưng sẵn sàng bán đất để mua xe. Không có tiền nhưng mẫu thời trang nào mới cũng mua cho bằng được… Nói như vậy không phải những người có tiền thì được quyền chịu chơi một cách phung phí. Chúng ta nên nhớ, tất cả những điều đó không chỉ đơn thuần là sự “chịu chơi” mà nó còn thể hiện sự kiêu ngạo muốn khẳng định bản thân mình. Chúng ta phải sám hối vì sự kiêu ngạo là đầu mối mọi tội lỗi, là nguyên nhân để thiên thần trở thành ác quỷ. Để chống lại sự kiêu ngạo, đòi hỏi chúng ta phải có sự khiêm nhường. Khiêm nhường là nhìn nhận và sống thật giá trị của mình. Có sao chịu vậy chứ không phải cố tỏ ra cho người ta thấy những cái mình không có.
Những hội chứng này ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống đức tin của chúng ta, khi chúng ta giữ đạo hay không cũng là “Bình thường thôi”; khi chúng ta giữ đạo vì “chịu chơi”, để cho người ta thấy mình đạo đức, thánh thiện, để cho bạn bè nể phục… Tất cả những điều đó phải được sám hối, sửa đổi, để chúng ta có một cuộc sống mới, một cuộc sống phi thường chứ không còn bình thường nữa khi chúng ta biết hướng về những giá trị cao siêu trên trời. Khi chúng ta thực lòng “chịu chơi” và chơi hết mình với Chúa không phải để chứng tỏ bản thân mình, nhưng để muốn gắn bó mật thiết với Đấng Phục Sinh.
“Vì Chúa đã Phục Sinh nên con tin vào quyền năng của Ngài sẽ đổi mới thế gian này, đổi mới mọi sự từ đây”.
.
NHẬN RA SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA PHỤC SINH
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Vừa qua, trên trang facebook của người mẹ tên Dan Nguyen đã kể lại cuộc “VƯỢT QUA CÕI CHẾT” tại chung cư Carina Plaza, trong vụ hỏa hoạn ngày 22/3 làm 13 người chết như sau:
“Tầm khoản 1h40 sáng, tự nhiên Mẹ giật mình thức dậy, nghe âm thanh la hét. Mẹ mở cửa sổ nhìn xuống. ‘Cháy!’ Mẹ kêu Bố dậy, Mẹ bế Ella (1 tuổi), Bố bế Kathy (3 tuổi). Mẹ đập cửa phòng Daisy (chị giúp việc). ‘Chạy! khói đã sắp vào nhà’. Và chỉ còn cách duy nhất là cầu thang bộ. Nhưng không biết cháy từ hướng nào, càng chạy, khói phía cầu thang càng nhiều. Từ tầng 9, chạy xuống đến gần tầng 4, thấy đoàn người khác từ dưới chạy ngược lên: ‘nóng, nóng lắm! chạy ngược lên thôi!’. Thế là chạy theo ngược lên. Có người gọi điện báo: ‘chạy ra tầng trệt đi, nhanh lên, nhanh lên’. Mẹ cùng Ella chạy từ tầng 10 trở xuống lại tầng Trệt. Đến tầng Trệt, vẫn thấy nhóm người nói: ‘nóng quá, cửa đóng rồi’. Mẹ nghĩ, đây là cửa thoát hiểm, mình có thể mở được, mặc dù rất nóng. Mẹ mở bật cánh cửa ra như một Phép Màu! Mẹ la lớn: ‘cửa mở được rồi, cửa mở được rồi!’. Ngay sau khi mở được cánh cửa, Mẹ ngã quỵ xuống, không thở được nữa. Khói mù mịt, không thấy gì cả, nhưng Mẹ cảm nhận được Ella vẫn đang động đậy! Mẹ đã gượng đứng dậy ‘sắp đến rồi con ơi, mình sắp đến rồi!’
Mẹ quay lại tìm, ‘Bố và Kathy đâu?’. Mẹ như chết đi. Họ bị kẹt rồi. Mẹ gào thét, kêu cứu với tất cả bảo vệ, hàng xóm, lính cứu hỏa. Nhưng không ai dám vào trong. Mẹ chạy vào thêm lần nữa, mọi người níu Mẹ lại. Thế giới của Mẹ như dập tắt. Hết rồi, hết thật rồi! Mẹ chỉ biết ngồi bệt xuống đất cầu nguyện, cầu xin Chúa, chỉ có Ngài mới có Phép Màu! Điện thoại Mẹ reo, Bố hỏi ‘Mẹ và Ella an toàn chưa, Bố lạc mất Mẹ nên chạy lên trên tìm. Giờ Bố cùng đoàn người ở lầu một, đang tìm cách xuống. Còn chị giúp việc đang bị kẹt ở Tầng 7. Cầu nguyện, cầu nguyện, chị ấy sẽ qua được’. Một lúc sau, cậu Đằng báo, ‘Daisy thoát ra được rồi!’ Thế là cả nhà an toàn nhập viện. Mẹ bị nặng nhất nên phải nằm khu chăm sóc đặc biệt. Lúc này là 3 giờ khuya, ngồi viết lại câu chuyện vượt ra từ cõi chết của cả nhà chúng ta.
Nhờ cậu Đằng cho biết tầng trệt không cháy. Nhờ Ella kiên cường, nhúc nhích mà Mẹ tỉnh dậy khi quỵ gối gần như ngất đi. Nhờ Kathy kiên cường cho Bố có động lực dũng cảm. Nhờ tình yêu của Bố, Mẹ dành cho các con. Nhờ tình thương người với nhau mà Daisy đã vượt qua được”.
Nhưng sau cùng, người mẹ kia cảm nhận được một điều là: “TẤT CẢ NHỮNG CHỮ ‘NHỜ’ ẤY, CHÍNH LÀ PHÉP MÀU CỦA CHÚA. Nó không tự nhiên mà diễn ra, đó là mục đích đã lập ra sẵn từ Ngài. Nếu Chúa không để Mẹ tỉnh giấc nửa đêm, thì cả Nhà đã tiếp tục ngủ. Nếu Chúa không chỉ đường quay lại tầng trệt, thì Mẹ đã bị ngộp và hết sức ở tầng 10. Nếu Chúa không giữ để Ella còn động đậy nhúc nhích thì Mẹ đã không đứng dậy nổi để chạy ra. Cảm ơn Ngài, Đấng quyền năng đã bảo vệ gia đình chúng con thoát chết!”.
Thưa quý OBACE, sau khi thoát ra khỏi đám cháy, người mẹ nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa đã cho họ vượt qua cái chết, để được sống đoàn tụ cả gia đình. Lời Chúa hôm nay cũng cho thấy, sau biến cố kinh hoàng của cuộc tử nạn của Chúa Giêsu khiến các tông đồ hoảng loạn, nay các ông đã bình tĩnh lại và nhận ra Chúa Phục Sinh vẫn đang đồng hành trong cuộc đời của họ.
Tin Mừng hôm nay kể tiếp câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus đã nhận ra Chúa Phục Sinh. Sau khi nhận ra Chúa, các ông trở lại Giêrusalem kể cho mọi người nghe, thì chính Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ. Cũng như những lần hiện ra trước, Chúa Phục Sinh trấn an họ bằng ơn bình an: “Bình an cho các con!” Chúa cũng khiển trách họ vì họ vẫn còn nghi ngờ, chưa tin. Tuy nhiên, Chúa cũng rất kiên nhẫn và thông cảm với các môn đệ của mình. Chúa đã cho các ông xem các vết thương nơi tay chân Chúa, để xua tan ý nghĩ và dư luận cho rằng các môn đệ bị ám ảnh hoặc tưởng tượng. Chúa Giêsu đã muốn cho các môn đệ thấy, Ngài đã sống lại thực sự, Ngài hỏi họ: “các con có gì ăn không?”. Chúa Giêsu đã ăn trước mắt các môn đệ, để họ tin rằng, Ngài đang hiện diện cách cụ thể bằng xương bằng thịt với các ông.
Điều quan trọng hơn, Chúa Giêsu muốn nhắn gửi các môn đệ là: để có thể tin Ngài từ cõi chết sống lại thì cần phải đọc lại Kinh Thánh, vì tất cả các Kinh Thánh nói về Ngài đều phải ứng nghiệm. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng thấy các môn đệ của mình hết sức giới hạn. Vì vậy, Ngài đã phải mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Đây cũng chính là ơn đặc biệt Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho các môn đệ và cho mỗi chúng ta. Với khả năng giới hạn của trí khôn, chúng ta không thể hiểu và đón nhận được lời Kinh Thánh. Khi ta thành tâm thiện chí, thì chính Chúa sẻ mở trí để chúng ta hiểu và Ngài còn mở lòng để chúng ta tin Ngài là Đấng Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu và là Đấng Cứu Thế.
Tin Đức Giêsu là Đấng Kitô đã chịu khổ hình, và từ trong cõi chết sống lại. Niềm tin này phải là một sự xác tín của mỗi người và là nội dung sứ điệp mà các môn đệ phải tiếp tục minh chứng cho toàn thế giới. Chúa Giêsu đã tin tưởng trao cho các môn đệ sứ mạng rao giảng và trở thành chứng nhân về niềm tin này. Các tông đồ sau khi được mở trí để hiểu Kinh Thánh, được đón nhận đức tin, các ông đã trở thành những người không mệt mỏi nói về Chúa Giêsu cho thế giới. Sách Công Vụ kể lại lời rao giảng và cũng là lời tuyên tín của Phêrô trước mặt mọi người. Trước đây, đức tin của Phêrô còn yếu ớt mong manh, giờ đây ông xác tín với mọi người về Chúa Giêsu với nhiều danh hiệu: Tôi Trung Của Thiên Chúa; Ngài là Đấng Thánh và là Đấng Công Chính; Ngài là Đấng Khơi Nguồn Sự Sống.
Phêrô muốn nói cho mọi người về sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông nói cho mọi người biết Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể rút điều tốt ra từ điều xấu, biến sự ác của con người thành cơ hội thể hiện tình yêu thương. Thiên Chúa đã biến đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Dù vẫn phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu, nhưng thánh Phêrô khuyên người Do Thái tin tưởng vào lòng khoan dung của Thiên Chúa: “Hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để được xóa bỏ tội lỗi”. Theo Phêrô, Thiên Chúa biến tất cả trở thành cơ hội để Ngài thể hiện lòng xót thương và tình yêu đến cùng dành cho từng người.
Phêrô cũng nhận ra sự hiện diện và quan phòng của Chúa trên chính cuộc đời của ông. Mặc dù đã hèn nhát, chối Chúa, song qua biến cố này Phêrô lại đón nhận được cái nhìn yêu thương của Chúa để chỗi dậy. Ông hoàn toàn tin tưởng và nói lên tình yêu của mình khi Chúa hỏi: “Con có yêu mến ta hơn những anh em này không?” Ông mạnh dạn trả lời: “Thưa Thầy! Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nhận ra rằng, Chúa biết ông yếu đuối, song Chúa vẫn chọn ông và trao cho ông sứ mạng củng cố đức tin cho anh em. Ông cũng ý thức rất rõ các ông là những người được chọn làm chứng nhân về cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu: “Sau khi sống lại Người đã hiện ra với chúng tôi là những kẻ được tuyển chọn từ trước”.
Thưa quý OBACE, nhìn nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa trong mỗi biến cố của mình, của gia đình và xã hội, là điều hết sức quan trọng. Giống như người mẹ Dan Nguyen sau khi vượt qua cái chết trong vụ hỏa hoạn Carina đã nhận ra bàn tay của Thiên Chúa, chúng ta cũng cần có cái nhìn đức tin, để nhận ra Chúa đang hiện diện che chở ta trong các biến cố xảy ra cho gia đình cho bản thân.
Để nhìn thấy Chúa cần phải có một con mắt đức tin đủ sáng và để nhận ra Chúa cần phải có một tâm hồn lắng đọng, gẫm suy. Hai yếu tố này bổ xung cho nhau. Chắc chắn Chúa Giêsu vẫn hiện diện bên ta như Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng với các con mọi ngày cho đến tận thế”, nhưng nhiều khi chúng ta không nhận ra Người. Có những khi chúng ta bị những cơn sóng gió thử thách, vùi dập tối tăm mặt mũi, đức tin của ta chao đảo, ta sẽ không nhận ra Chúa. Simon Phêrô khi ở bờ hồ cũng không nhận ra Chúa. Chỉ khi Gioan nói với ông: “Chúa đó!”, ông mới nhận ra Người. Như vậy khi bị sóng gió hoặc tối tăm bao phủ, đừng ngại tìm đến với mẹ Giáo Hội, Mẹ Giáo hội sẽ chỉ cho chúng ta nhìn và nhận ra Chúa.
Cũng vậy khi gia đình gặp thử thách hoặc các biến cố xảy ra chung quanh, chúng ta cần bình tâm như các tông đồ, để cho Chúa soi lòng mở trí, giúp ta hiểu lời Kinh Thánh. Vì, Kinh Thánh là lời khôn ngoan, là đèn soi lối giúp ta nhận ra ý Chúa muốn nói với mình qua các biến cố đó, để ta kịp điều chỉnh lại đời sống của mình và gia đình cho phù hợp với đường lối của Chúa và Tin Mừng.
Chúa vẫn hiện diện cách cụ thể qua Thánh Lễ mỗi ngày, qua Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, nhưng nhiều khi nại vào lý do công việc bận rộn, ta đã bỏ qua sự hiện diện cụ thể và đặc biệt này. Xin cho mỗi chúng ta luôn nhìn thấy và nhận ra Chúa hằng ở bên chúng ta, dù lúc vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại để ta có thêm sức mạnh sống và làm chứng về Chúa. Amen
.
ĐẤNG KITÔ PHẢI CHỊU KHỔ HÌNH, RỒI MỚI PHỤC SINH
Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại từ cõi chết”. Đó là lời giải thích của Đức Giê-su Ki-tô tử nạn và phục sinh đối với các tông đồ và môn đệ khi Người hiện ra trao ban bình an và củng cố niềm tin cho các ông.
Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giê-su nói về việc Người ‘chịu chết, rồi ngày thứ ba mới sống lại hiển vinh’ mà trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Người đã đề cập đến điều này nhiều lần. Nhưng các tông đồ và môn đệ “không hiểu, từ trong cõi chết sống lại là gì” (x. Lc 18,34).
Chẳng những không hiểu mà một người trong số họ, tên là Phêrô, còn tỏ vẻ thương thay cho Đức Giêsu, không muốn Đức Giê-su phải chịu khổ nạn, đã kéo riêng Người ra một nơi mà nói: “Xin Thiên Chúa thương gìn giữ Thày, đừng để Thày phải như vậy . Nhưng Đức Giê-su liền mắng Phê-rô: Satan, hãy lui ra đàng sau Thày, tư tưởng của anh không phải là của Thiên Chúa mà là của loài người”(x. Mt 16, 22- 23.
Quả thật, đối với loài người, chết là hết chuyện. Nếu có ai chết rồi mà hiện về thì cũng chỉ là hồn ma. Chứng kiến Đức Giê-su chết, chết một cách tất tưởi đau thương, các tông đồ và môn đệ nghĩ rẳng mọi sự đã kết thúc và chấm dứt.
Tuy nhiên, điều không thể xảy ra đối với loài người, thì lại có thể xảy ra đối với Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng ban sự sống. Ngài đã sáng tạo mọi sự từ hư vô, thì Ngài cũng có thể làm cho kẻ chết sống lại. Và Ngài đã thực hiện điều này khi làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại, đúng như lời Ngài đã loan báo trong Thánh Kinh qua miệng các ngôn sứ.
Thiên Chúa đã làm cho Đức Giê-su trỗi dạy từ cõi chết, đúng như lời đã loan báo trong Thánh Kinh. Nhưng khi hiện ra cho các tông đồ và môn đệ, họ ‘tưởng Đức Giê-su phục sinh là ma’.
Để đánh tan tưởng nghĩ sai lầm đó, Đức Giê-su đã vận dụng mọi giác quan nhằm chứng tỏ cho các ông thấy và tin: Người có một thân thể ‘bằng xương bằng thịt’, chứ không phải ‘không xương không thịt’ và thân thể của Người cũng chính là thân thể đã bị đóng đinh trên cây thập giá, được an táng trong mộ đá. Chỉ có khác là từ nay thân thể Người đã được bước vào vinh quang phục sinh không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian, sự chết và trần thế chẳng còn quyền chi đối với Người nữa, Người chỉ còn lệ thuộc vào quyền năng thần linh của Chúa Cha, nên Người có thể tự do hiện diện ở đâu, lúc nào và dưới hình dạng nào tùy ý Người muốn, không giống hình dạng các tông đồ và các môn đệ đã quen- như ‘dưới hình dạng một người làm vườn’ (x. Ga 20, 14-15) hoặc dưới ‘hình dạng một khách bộ hành’ (x. Lc 24,13-34) – để khơi dậy đức tin của các ông và làm cho các ông nhớ lại tất cả những gì Người đã nói trước khi bước vào cuộc tử nạn, rồi truyền cho các ông phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Vâng lệnh Đấng Phục Sinh, các nhứng nhân đã ra đi rao giảng và làm chứng về Người cho đến tận cùng trái đất, dù có phải mất đi cả mạng sống mình. Như thánh Phê-rô, ông đã lên tiếng nói với dân Israel rằng: Thưa anh em, Thiên Chúa của tổ phụ Ab-ra-ham…, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà anh em đã trao nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính… Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Về điều này, chúng tôi xin làm chứng…” (x. Cv 3,13-15).
Tóm lại: Đức Giê-su tử nạn và phục sinh ‘đúng như lời Thánh Kinh’, là việc hoàn thành những lời hứa của Cựu Ước và của chính Người trong cuộc đời trần thế, giúp nhân loại khử trừ tội lỗi và khai mở kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ, kỷ nguyên con người được giải án tuyên công, để trở thành con cái Thiên Chúa.
Rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su tử nạn và phục sinh là sứ mạng khẩn thiết của Giáo Hội cũng như của người môn đệ Chúa. Và niềm tin về Đấng Phục Sinh của Giáo Hội và người tín hữu xưa cũng như nay, được dựa trên đời sống và lời rao giảng của những chứng nhân gặp gỡ trực tiếp Đấng Phục Sinh, chứ không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người.
Lạy Chúa Giê-su tử nạn và phục sinh, xin ban thêm lòng tin cho con, để trong mọi giây phút cuộc đời, con luôn biết sống và rao giảng về Người cho những anh chị em đồng loại. Amen.
.
CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra với các Tông đồ sau khi Người đã Phục Sinh. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa hiện ra với các ông. Trước đó Người đã hiện ra với Ông SiMon Phêrô, hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau. Chúa đến với các tông đồ, việc đầu tiên, Người muốn các ông đón nhận từ nơi Người sự bình an: “Bình an cho anh em “. Sau biến cố Thầy bị chết treo trên thập tự, các môn đệ quá sợ hãi chạy tứ tán vì sợ bị liên lụy. Cũng vì quá lo sợ nên người này dựa dẫm người kia, hỏi han nhau về tình hình thế sự, bàn tính với nhau về chuyện tương lai “biết ra sao ngày sau?”. Hiểu được tâm trạng của các ông đang bất an, lo lắng, Chúa đã nhân lúc các môn đệ trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp nhóm mười một và các bạn hữu đang tụ họp nhau tại đó mà hiện ra với các ông. Chúa còn muốn nhân dịp này củng cố đức tin cho các ông, dù trong suốt những ngày Thầy trò rao giảng, nhiều lần Đức Giêsu đã loan báo cho các ông biết những điều viết về Người trong sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh, nhưng các ông vẫn không hiểu được và không tin, hay nửa tin nửa ngờ.
Diễn tiến tâm trạng của các ông khi Chúa hiện ra trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca đã phân tích rất kỹ. Khởi đi từ sự kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, đến mức Chúa phải trấn an :”Sao anh em lại hỏang hốt, sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây “. Các ông từ chỗ vẫn còn chưa tin, chuyển sang vì mừng quá, dẫn đến ngỡ ngàng. Cũng ngay lúc ấy, Người cùng ăn uống với các ông để các ông tin Người đã sống lại thật, và giữ đúng lời hứa khi gặp hai môn đệ trên đường Emmau là, sẽ gặp các ông tại Giê-ru-sa-lem.
Ngày hôm nay, chúng con có được lời chứng của các Thánh Sử để lại; có được” Lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ 3, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này “. Những Lời Đức Giêsu Kitô sau khi Phục sinh để lại không chỉ dành cho các Tông đồ, mà là cho hết mọi tín hữu. Các Thánh Tông đồ đã vâng nghe Lời Chúa, đã làm tròn sứ mạng Chúa trao. Phần con, con vẫn tự nhận là có phúc vì được thừa hưởng Đức tin do các Tông đồ truyền lại,nhưng việc rao giảng và làm chứng về việc Chúa đã sống lại thật, con có làm và sẵn sàng làm ?
Xin Lời Chúa giúp con nhìn lại đời sống Đức tin của mình. Con có thực sự vui mừng vì Chúa đã sống lại để con cũng được sống lại với Người? Trong đời sống hằng ngày, con có sống niềm vui Phục Sinh như các Tông đồ ngày ấy, là ra đi khỏi con người hằng lo sợ cho bản thân. Các Ngài dám đi đến mọi nơi, mọi chỗ rao truyền Tin Mừng của Chúa cho anh em và làm chứng Người đã sống lại thật?
Lời Chúa vẫn thôi thúc con: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”
Xin cho con biết vượt qua những sợ hãi, như sợ mất đi những vui thú đang có, sợ phải đơn độc trong cuộc chiến chống lại cái ác, cái xấu; sợ mình sống khác người, sợ phải mất mát chức quyền, địa vị; sợ phải mất quyền lợi cho bản thân, gia đình; sợ phải khép vào khuôn khổ; sợ phải sống . . . thánh thiện.
Xin cho con mạnh dạn sẵn sàng vượt qua nỗi sợ, dấn thân phục vụ Chúa, qua những người anh em con còn nhiều bất hạnh, thiếu thốn, bị lọai trừ trong xã hội. Có như thế Niềm vui Phục sinh mới thực sự có ý nghĩa trong cuộc đời con.
Lạy Chúa,
Xin Người ban thêm Đức tin cho con .
.
BẢN HÒA TẤU PHỤC SINH CỦA LUCA
Bác sĩ Ng Tiến Cảnh
Chương 24 Tin Mừng Luca quả là một bản hòa tấu Phục Sinh tuyệt vời gồm 4 chuyển động. Chuyển động một là câu chuyện những người phụ nữ trước cửa mồ và Phero đến mộ để kiểm chứng sự việc (c.1-12). Chuyển động hai là câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau, đưa tới đỉnh điểm là họ nghe nói Chúa cũng hiện ra với Phero (c 13-35. Chuyển động ba Chúa xuất hiện trong bữa ăn với các môn đệ và kết thúc Chúa trao sứ vụ cho các ông (c 36-49). Và chuyển động bốn Chúa lên trời (c.50-52).
TÂM TRANG HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS
Câu chuyên hay và phổ thông nhất là chuyển đường Emmaus bắt đầu từ câu 13. Đây là chuyện chuyển đề giữa các biến cố Chúa chịu nạn và lúc khám phá ra ngôi mồ trống. Khác với sống lại của người thường, Chúa xuất hiện trong chốc lát rồi biến mất. Câu chuyện trên đường Emmaus (c.13-35) như một cây cầu nối giữa ngôi mồ trống (24:1-12) và Chúa Giesu tỏ mình cho các môn đệ (24:36ff) tiếp theo sau bữa ăn của các môn đệ trên đường Emmaus, rồi khi họ nhận ra Chúa họ liền trở lại Jerusalem.
Cleopas và bạn ông rời nơi ở là nơi đã xẩy ra những biến cố lón và quan trọng, đi về một làng xa không rõ. Họ không tin là Chúa sống lại do những lời đồn đây đó. Góp nhặt tin tức vui rồi thất vọng, họ không tài nào có thể tin được những chuyện như ngôi mồ trống, Chúa hiện ra với các môn đệ khác. Dưới con mắt họ, sứ mạng của Chúa coi như đã thất bại hoàn toàn. Họ chẳng còn gì để bám víu vào Chúa Giesu nữa.
Thế rồi, trên đường Emmaus, hai môn đệ bất ngờ gặp một khách lạ đồng hành, tim họ từ từ bừng sáng khi hiểu ra sự thật về đấng Thiên Sai đã bị đau khổ và chết. Rồi tại bữa ăn ở Emmaus, họ cảm thấy vững tin hơn về việc Chúa sống lại. Bẻ bánh, Ăn cá.
CÂU CHUYỆN EMMAUS VÀ HỘI NGHỊ LỜI CHÚA
Thượng hội nghị về Lời Chúa vào tháng 10 năm 2008 đã thường nhắc tới câu chuyện Đường Emmaus của hai môn đệ (Lc 24:13-35). Trong số những hồng y, giám mục, chuyên viên và khách đặc biệt đến từ khắp thế giới đã trình bày nhiều vấn đề, nhưng câu chuyện Đường Emmaus lại được nhắc tới và coi là tuyệt tác, đặc biệt nhất để dạy giáo lý, giảng huấn, nghiên cứu Kinh Thánh, nhất là Sống đời sống Kito giáo.
Lý do cuộc hành trình, không phải là đường xa từ Jerusalem đến Emmaus, nhưng là một cuộc hành trình Lời Chúa đều đặn, lâu dài và gian khổ khởi đầu từ bộ óc đến con tim. Khi niềm tin đạt được rồi thì đem nó chia sẻ với tha nhân, qua tình liên đới đến với người xa lạ không ai khác ngoài Chúa Giesu.
ĂN UỐNG VỚI CHÚA GIESU
Bài Phúc Âm hôm nay là nối tiếp câu chuyện con đường Emmaus. Thiên Chúa đã khéo léo dẫn con người đi tới cộng đồng và bàn tiệc để họ cùng nhau cảm nghiệm (Lc 24:36-48). Câu chuyện được trình bày dưới nhiều dạng thức: Chúa hiện ra và các môn đệ hoảng sợ bối rối (c 36-43); những lời trong Kinh Thánh được ứng nghiệm, nhiệm vụ của các tông đồ (c 44-48). Mọi yếu tố của câu chuyện đường Emmaus đã rõ ràng. Luca trình bày việc Chúa sống lại và một người khách lạ nhập cuộc đồng hành với họ, nói chuyện với hai ông rồi các ông mời khách lạ cùng ăn tối. Chỉ sau khi hai ông mời người khách lạ ở lại đêm với họ thì họ mới phần nào nhận ra Chúa.Trên đường đi lúc nói truyện, họ không nhận ra được Chúa, nhưng nhìn cách bẻ bánh họ mới thực sự nhận ra Chúa.
Bữa ăn chứng tỏ tính đặc thù của Chúa. Hỏi thức ăn cá. Cung cách bẻ bánh. Ngồi ăn chung với các ông. Chỉ có người mới ăn. Ma đâu có ăn. Tất cả những chi tiết đó khiến các ông nhận ra được Thầy mình, dù nó chẳng phải là chứng cớ thần hoc hay tín lý gì cả. Chỉ có cung cách ngồi ở bàn ăn mới xác quyết được Chúa Giesu là Thầy mình còn sống.
Dù mấy người phụ nữ và hai ông bạn đi đường Emmaus quả quyết, các môn đệ vẫn không thể tin được con mắt trần của mình khi chúa Giesu hiện ra trước mặt các ông. Chỉ có chúa Giesu mới đánh giá những kinh nghiệm và làm cho chúng ta hiểu đúng những kinh nghiệm đó. Chúa đã chứng minh cho các ông là những gì các ông nhìn thấy là thật như việc Toma để tay vào vết thương ngực, cạnh sườn và chân tay Chúa, dù Chúa chỉ hiện ra trong chốc lát. Nhưng Chúa là Chúa thật với thân xác bằng xương thịt. Không phải ma.
Tuy nhiên, trọng tâm của câu chuyện không phải là bữa ăn nhưng là giá trị của việc Chúa hiện ra. Chúa hiện ra như một sinh vật sống, linh động, và rắn chắc có thể nhìn, sờ được. Thiên Chúa thánh thiêng và thiêng liêng mà vẫn có thể nhận biết được dưới dạng hữu hình, không phải như tình trạng xuất hồn, ngây ngất quên hết mọi sự trần tục…Thiên Chúa đến với con ngưởi qua sự tạo dựng của Người. Cảm nghiệm này đã trở thành nền tảng của Giáo Hội, tự biết mình như là thân thể Chúa Kito, thể hiện qua việc thờ lạy Mình và Máu Thánh Chúa. Người tín hưu ngày nay gặp Chúa Kito Phục Sinh qua cảm nghiệm thân xác Người như sờ mó, nghe, nhìn, tôn thờ, nhận Minh Thánh Chúa, chia sẻ bí tích thánh thể, làm chứng nhân và phục vụ tha nhân.
Phép Mính Thánh Chúa là tổng hợp đời sống Chúa Giesu, nhắc lại việc Chúa hy sinh mạng sống, chịu chết vì nhân loại. Bẻ bánh cũng là một dấu hiệu sức mạnh hiệp nhất. Khi chúng ta bẻ bánh là chúng ta chia sẻ với nhau, với mọi người trong thân xác Chúa Kito. Thánh Phaolo đã nói: “…Và khi chúng ta bẻ bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể. (1Cr 10:16-17).
Đúng thế, không phải chí một người chia sẻ rượu và bánh để tạo hiệp nhất với Chúa Kito, nhưng cùng với bánh rượu đó phải được phân chia sẻ cho mọi thành viên cộng đồng đang tham dự lễ. Sự hiệp nhất này không nằm trong khuôn khổ một bữa tiệc của loài người, mà là một tặng phẩm có được nhờ nghi thức bẻ bánh, chia sẻ mình và máu thánh Chúa Kito. Phép Thánh Thể cũng nói lên tính duy nhất của cộng đồng, được cảm nghiệm dưới ba mức độ: với Chúa Giesu Kito, giữa các thành viên với nhau và phục vụ tất cả mọi người, mọi dân tộc trên toàn thế giới.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_B
Lm. Anthony Trung Thành
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ. Lần hiện ra đặc biệt này, Ngài ban cho các ông ơn bình an, soi sáng cho các ông am hiểu Kinh Thánh và ra lệnh cho các ông phải làm chứng nhân về sự chết và sự phục sinh của Ngài.
1. Đức Kitô Phục Sinh ban bình an cho các Tông đồ
Sau khi Đức Giêsu bị bắt, các Tông đồ hoang mang lo sợ. Vì thế, hầu hết các ông đều bỏ trốn. Phêrô chối Thầy ba lần. Trên đồi Canvê chỉ còn lại Thánh Gioan, Đức Mẹ và một số phụ nữ. Nỗi hoang mang lo sợ càng gia tăng khi Thầy đã chết và được táng trong mộ. Cụ thể, các ông vào phòng đóng kín cửa lại. Một vài môn đệ thì bỏ về quê. Cũng vì hoang mang lo sợ nên khi thấy Thầy hiện ra thì họ lại tưởng là ma. Đức Kitô Phục Sinh thấu hiểu tình trạng sợ hãi lo lắng của các ông, nên lần hiện ra này Ngài đã ban bình an cho các ông. Ngài nói: “Bình an cho các con.” Được ban ơn bình an của Đức Kitô Phục Sinh, các ông không còn sợ hãi gì nữa. Từ nay các ông mạnh dạn rao giảng và làm chứng cho Ngài dù phải bắt bớ tù tội và chết chóc.
Ngày hôm nay, Đức Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục ban ơn bình an cho chúng ta. Nhưng để lãnh nhận ơn bình an của Ngài, chúng ta phải giữ mình sạch tội, nhất là tội trọng. Và khi đón nhận bình an của Chúa Phục Sinh, chúng ta phải có trách nhiệm trao ban bình an cho những người xung quanh.
2. Đức Kitô Phục Sinh soi sáng cho các Tông đồ am hiểu Kinh Thánh
Trong suốt ba năm đi theo Thầy, các Tông đồ đã được Đức Giêsu giảng dạy rất nhiều điều, nhưng hầu như các ông chưa hiểu được bao nhiêu. Có những lần, nghe giảng xong, các ông lại xin Thầy giải thích thêm. Chẳng hạn, khi Đức Giêsu giảng xong dụ ngôn người đi gieo giống, “các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì.” (Lc 8,9). Đức Giêsu đã giải thích cho họ một cách rõ ràng. Khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài, các ông không hiểu nên Thánh Phêrô đã can ngăn Ngài. Vì thế, hôm nay Ngài nhắc lại và mở trí cho các ông hiểu: “Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh.” Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. Người lại nói: “Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại.”(Lc 24, 44-45)
Cũng vậy, khi Đức Giêsu bảo rằng : “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Các ông không hiểu lời Ngài nói, nên Người Do Thái mới nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?”Nhưng sau này các ông mới hiểu, chính Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói.” (x. Ga 2,19-21)
Ngoài những vấn đề được đề cập trên, còn rất nhiều vấn đề khác, các Tông đồ chỉ hiểu sau khi Đức Kitô Phục Sinh soi lòng mở trí cho họ. Nhờ đó, bốn thánh ký đã ghi lại những lời Đức Giêsu đã nói và những việc Ngài đã làm, đồng thời các ông mạnh dạn giải thích Kinh Thánh cho mọi người.
3. Đức Kitô Phục Sinh mời gọi các Tông đồ làm chứng về sự chết và phục sinh của Ngài.
Sau khi ban bình an và soi sáng cho các Tông đồ hiểu Kinh Thánh, nhất là tin nhận về sự chết và phục sinh của Ngài, Đức Giêsu mời gọi các ông làm chứng về những sự việc đó. Các ông đã vâng nghe lời Đức Giêsu và ra đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Bài đọc I hôm nay cho chúng ta biết, khi thấy dân chúng ngạc nhiên và bàn tán với nhau về phép lạ chữa lành cho người què, Thánh Phêrô giải thích cho họ biết: Phép lạ Ngài làm không phải do quyền năng của mình nhưng là do quyền năng của Đấng Phục Sinh ban cho. Rồi Ngài làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh rằng: “Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.”(Cv 3,13-15). Sau những lời giảng dạy hùng hồn như thế, Ngài mời gọi dân Do thái : “Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Ðức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ.”(Cv 3,17-19). Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút được khoảng 3000 người trở lại.
Trong bài đọc thứ II, Thánh Gioan cũng làm chứng cho Đức Kitô là Đấng công chính, làm trạng sư cho chúng ta nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta làm chứng cho Ngài bằng cách giữ các giới răn của Người vì “Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý.”(1 Ga 2,4)
Mặc dầu các Tông đồ gặp nhiều cấm cách, bắt bớ, tù tội khi đi rao giảng và làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh nhưng các ông luôn luôn can đảm không hề cảm thấy sợ hãi. Chính thánh Phêrô và các Tông đồ khác khẳng định rằng: “phải vâng lời Thiên Chúa còn hơn là vâng lời người đời.” (Cv 5,29). Thực sự như thế, hầu hết các môn đệ đã lấy cái chết của mình để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Sự can đảm làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh của các Tông đồ cũng là động lực giúp chúng ta chu toàn sứ mạng rao giảng Tin mừng cho mọi người trong thời đại hôm nay.
4. Đức Kitô Phục Sinh muốn gì nơi chúng ta?
Chúng ta không được vinh dự gặp Đức Kitô Phục Sinh hiện ra, nhưng qua Kinh Thánh chúng ta tin thật Đức Kitô đã phục sinh. Mặt khác, qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được Đức Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần. Nhờ thế, Chúa Thánh Thần luôn soi sáng cho chúng ta am hiểu Kinh Thánh. Ngoài ra, Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta và sẵn sàng ban ơn Bình an của Ngài cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta cũng có trách nhiệm làm chứng về sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô bằng lời nói và bằng chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Lạy Chúa Kitô Phục sinh, xin ban bình an cho chúng con, xin soi sáng cho chúng con để chúng con am hiểu Kinh Thánh để từ đó chúng con can đảm làm chứng cho Chúa khắp mọi nơi. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24,48). Những điều này là những điều gì đây? Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).
Phải nhìn nhận rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô là một chủ đề chính của lời rao giảng của các tông đồ. Đã có lúc, có nhiều đấng vì muốn nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục sinh nên thích chưng ảnh tượng Chúa Phục sinh trong cung thánh Nhà thờ, thế mà Hội Thánh vẫn không chuẩn nhận. Theo luật hiện hành thì phải chưng ảnh tượng Chúa chịu nạn (Crucifix), dù rằng mầu nhiệm Chúa Phục sinh chính là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo, vì như lời thánh Phaolô Tông đồ rằng: Nếu Chúa Kitô không sống lại thì Kitô hữu là những người khốn khổ nhất.
Cả hai mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh luôn song hành với nhau, không thể tách rời. Mầu nhiệm Phục sinh khẳng định rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm chủ sự sống và sự chết. Mầu nhiệm Tử nạn lại mạc khải cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Cũng như các Tông đồ xưa, Kitô hũu chúng ta mọi thời cần phải làm chứng rằng Đấng tử nạn đã phục sinh đồng thời phải làm chứng rằng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn.
Đấng tử nạn đã phục sinh: Khi tuyên bố chân lý này, chúng ta tuyên tín rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật. Người đã phục sinh như lời Người đã tiên báo. Nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa có nghĩa là kính dâng lên Người sự thần phục của chúng ta. Không chỉ chúng ta mà mọi vật mọi loài cần phải suy phục Đấng đã phục sinh như là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Cùng với thánh Phaolô chúng ta tuyên xưng: “Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người…” (Col 1,16).
Sự suy tôn, thần phục không chỉ thể hiện bằng việc nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có, đều do bởi Đấng đã phục sinh mà còn thể hiện bằng việc gắn bó với Người và hết tâm hết lòng tuân giữ lời Người phán dạy. Thánh Gioan khẳng định qua bài đọc thứ hai:“Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người…”(1 Ga 2, 4). Các Tông đồ xưa đã thực thi điều này khi khẳng khái trước mặt quan quyền rằng: Phải vâng lời Chúa hơn là vâng lời phàm nhân (x.Cvtđ 4,19).
Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn: Chân lý này gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, khi cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Vì yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban chính Con Một (x.Ga 3,16). “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Col 1,19-20).
Tuyên xưng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn thì cũng là nhìn nhận tội ác của con người, của chính mỗi người chúng ta. Vì chúng ta, Đức Kitô đã chịu nộp, chịu khổ hình thập giá. Như thế lời tuyên xưng này luôn bao hàm lời mời gọi hoán cải ăn năn để được ơn tha tội. Thiên Chúa đã rộng ban ơn tha thứ, sự giải hòa, qua cái chết của Đức Kitô. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng chúng ta có nhận được sự thứ tha hay không, vẫn còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Nói như thánh Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi, không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Và sự sám hối, ăn năn chính là một cách thế căn bản để đón nhận hồng ân tha thứ, hồng ân cứu độ.
Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Lời truyền của Đấng Phục sinh năm xưa vẫn còn vọng vang đến những người tin là các Kitô hữu. Ước gì bà con lương dân, anh chị em khác đạo không chỉ nghe các bài ca “Hallêluia, Chúa đã sống lại”, mà còn nhìn thấy các Kitô hữu, cách riêng các mục tử trong Hội Thánh biết sám hối ăn năn, thay đổi đời sống. Các Tông đồ xưa, đã làm chứng nhân trước hết bằng việc dứt bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quảng đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các Ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính giá máu… Xin lỗi Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI, không chỉ hôm nay mà cả trước đây lẫn sau này người ta vẫn thích nghe theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Cha ông dân Việt đã từng cảm nghiệm rằng: “lời nói gió bay, gương bày lôi kéo”.
.
LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊSU
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Lc 24,35-48
(35) Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. (36) Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”. (37) Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. (38) Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. (40) Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. (41) Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không? (42) Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. (43) Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. (44) Rồi Người bảo: Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. (45) Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. (46) Và Người bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, (47) và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân của những điều này.
2.Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng của Thánh Lu-ca thuật lại sự kiện Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra lần thứ ba với các tông đồ tại nhà Tiệc Ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp ma, bằng cách cho họ xem tay chân của Người bằng xương thịt, và Người còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự Phục Sinh của Đấng Ki-tô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mệnh cho các ông phải đi rao giảng sự ăn năn để được ơn tha tội, và làm chứng nhân của Chúa về những điều mắt thấy tai nghe.
3.CHÚ THÍCH:
– C 35-36: + Còn hai ông: Đây là hai trong số bảy mươi hai môn đệ của Đức Giê-su (x. Lc 10,1). Một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát (x. Lc 24,18). + Nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh: Bẻ bánh là cử chỉ của Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,19 ; 15,36), và trong bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể (x. Lc 22,19). Nhờ cử chỉ bẻ bánh này mà hai môn đệ đã nhận ra người khách bộ hành chính là Thầy Giê-su đã chết và giờ đây sống lại.+ “Bình an cho anh em”: Là lời chào thông thường của người Do Thái (Sha-lom!). Nhưng lời này còn bao hàm sự chúc lành của Thiên Chúa. Sau khi sống lại, Đức Giê-su đã thực hiện lời Người hứa là ban bình an cho các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27).
– C 37-39: + Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà !: Chân tay Đức Giê-su có những vết thương do đã bị quân lính đóng đinh vào thập tự (x. Lc 23,33). + Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?: Đức Giê-su Phục Sinh đã chứng tỏ Người không phải hồn ma, khi cho các môn đệ xem Người có xương thịt như mọi người.
– C 40-43: + Người đưa tay chân ra cho các ông xem: Cũng như trong Tin Mừng Gio-an (x. Ga 20,20), Chúa Phục Sinh đã chứng tỏ Người chính là Đấng bị đóng đinh, đã chịu chết trên thập giá, mà nay sống lại và đang đứng trước mặt các ông. + Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Xem ra các vết thương ở tay chân vẫn chưa thuyết phục được các tông đồ tin Đức Giêsu đã thực sự sống lại, nên Người cho họ có thêm một bằng chứng Người không phải hồn ma, khi cầm lấy và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông.
– C 44-45: + Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em: Đức Giê-su tiếp tục cho các môn đệ có thêm bằng chứng về việc Người đã từ cõi chết sống lại, bằng cách nhắc lại lời Kinh Thánh tiên báo đã được ứng nghiệm nơi Người.. + Sách luật Mô-sê, sách các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh: Ở đây, Lu-ca lại kể ra Sách Thánh gồm các sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh. * Sách luật Mô-sê: Năm cuốn sách đầu của Thánh Kinh Cựu Ước, được xếp thành bộ Ngũ Thư gồm: Sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lê-vi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. * Sách Ngôn Sứ: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa gặp gỡ rồi sai đến để thay Chúa nói với dân Người, giúp dân Do Thái nhận ra lỗi lầm của họ, kêu gọi họ ăn năn trở về với Giao Ước. Nhưng sứ mạng quan trọng nhất là tuyên sấm về Đấng Mê-si-a (Thiên Sai) sẽ đến để ban ơn cứu độ. Bộ sách Ngôn sứ gồm 16 cuốn, trong đó có 4 Ngôn sứ lớn như: I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en, và 12 Ngôn sứ nhỏ. Lớn hay nhỏ được phân biệt do các ngài đã để lại lời sấm ngôn của Chúa nhiều hay ít * Thánh vịnh: Là bộ sưu tập các bài thánh thi hay bài thơ tôn giáo từ thời Đa-vít đến thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Đây là kho tàng kinh nguyện của Dân Chúa trong Cựu Ước cũng như Tân Ước. Có 150 Thánh vịnh đọc trong Giờ Kinh Phụng Vụ và Đáp Ca trong Thánh lễ.
– C 46-48: + Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Là chứng nhân, nghĩa là loan báo Tin Mừng về những điều đã xảy ra trong cuộc đời Đức Giê-su, từ khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả, đến cuộc tử nạn, sống lại và lên trời của Người. Đặc biệt các ông còn sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho những điều mình rao giảng là chân thực vì chính các ông đã được tận mắt chứng kiến.
4.CÂU HỎI: 1) Hai ông trong đoạn Tin Mừng này thuộc Nhóm 12 Tông đồ hay Nhóm 72 môn đệ ? 2) Đức Giê-su đã “bẻ bánh” mấy lần trong gần 3 năm giảng đạo? Bẻ Bánh ám chỉ bí tích nào trong 7 phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập? 3) Lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh có ý nghĩa thế nào? 4) Tại sao các môn đệ lại kinh hồn bạt vía khi nhìn thấy Chúa Phục Sinh hiện ra? 5) Chúa Phục Sinh đã nói và làm gì để các môn đệ khỏi bị sợ ma và tin Người đã từ cõi chết sống lại? 6) Khi nói với các môn đệ các bằng chứng về việc Người từ cõi chết sống lại, Chúa Giê-su đã nêu tên các sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh. Vậy ba loại sách này là những sách gì? 7) Lệnh truyền hãy đi truyền giáo gồm hai đặc tính quan trọng nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA.
1.LỜI CHÚA: Chúa phán: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”(Lc 24,48).
2.CÂU CHUYỆN:
1) ĐI TRONG ÁNH SÁNG SẼ KHÔNG CÒN SỢ HÃI:
Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông dân, ông bố âu yếm đưa mắt nhìn đứa con trai với vẻ hài lòng vì thấy con bắt đầu khôn lớn. Ông nghĩ đã đến lúc cậu con trai phải ra chuồng ngựa một mình vào ban đêm để cho ngựa uống nước. Sau đó ông bảo con hãy cầm đèn đi ra chuồng ngưạ một mình. Cậu con tỏ vẻ do dự thưa với cha:
– Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ phải đi một mình.
Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy tay cầm cây đèn và dắt con đi ra hè trước nhà. Ông thắp đèn lên đặt vào tay con và hỏi:
– Với đèn sáng này, con nhìn thấy rõ đến đâu?
Cậu trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.
Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi với theo: từ chỗ đang đứng đó con nhìn được tới đâu ?
– Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.
Ông giục cậu đi cổng. Từ cổng cậu đã nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
– Con hãy đổ nước vào máng cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Cậu con làm theo và từ ngày đó cậu không còn cảm thấy sợ hãi khi phải một mình ra chuồng ngựa mỗi đêm nữa.
Khi thiếu niềm tin, người ta sẽ bị hoài nghi và sợ hãi. Cậu bé trong câu chuyện trên do thiếu tự tin nên sợ ở trong bóng đêm. Khi sợ hãi người ta sẽ cảm thấy bất an và dễ tưởng tượng bị ma quỷ hãm hại. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ em. Can đảm thắng sự sợ hãi bóng tối là dấu hiệu của một con người trưởng thành.
2) EM BÉ NGỦ YÊN TRONG VÒNG TAY CHA:
Một cậu bé 5 tuổi bị thức giấc do tiếng sấm to trong một đêm giông tố. Cậu mở mắt thì thấy cảnh vật tối tăm. Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm rú như đang giận dữ như muốn đạp đổ nhà cửa và cây cối. Cậu bé hốt hoảng cầu cứu cha:
– Ba ơi ! Con sợ quá !
– Ba đây ! Cậu nghe thấy có tiếng cha từ xa vọng lại.
– Ba đang ở đâu mà sao con không thấy ba ? Cậu giơ hai tay ra phía trước quờ quạng.
– Ba đây ! Người cha bước lại gần và ngồi xuống bên con. Cậu ôm lấy cha, áp đầu vào ngực cha. Người cha đã đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy bàn tay của cha và chìm dần vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng cậu không còn cảm thấy sợ khi ở trong vòng tay của Cha.
Trong cuộc sống hằng ngày, Chúa Phục sinh vẫn luôn ở trong và gần bên chúng ta như xưa Người vẫn luôn hiện diện bên các môn đệ. Người hằng mời gọi chúng ta tin cậy phó thác mọi sự trong bàn tay quan phòng của Người. Dù đời còn nhiều giông tố, nhưng nếu chúng ta vững tin và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng thì sẽ được bình an.
3) BÀN TAY CHÚA DẪN ĐƯA:
Trước khi hiến thân phụng sự Chúa, thánh An-phong-sô là một luật sư tài ba lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì có tài hùng biện và lý luận sắc bén, nên đã thành công trong nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho Am-phong-sô bị thất bại : Trong một vụ án đơn giản, dễ dàng chiến thắng, thế mà ngài lại thua thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, An-phong-sô thấy như bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan thành mây khói. Uy tín cũng không còn được như trước. Cả một màn đen u ám phủ xuống cuộc đời của ngài.
Không biết tìm an ủi ở nơi nào khác, An-phong-sô đã chạy đến với Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa giúp, ngài đã lấy lại sự bình an cho tâm hồn. Ngài như nghe thấy tiếng Chúa mời đi vào con đường mới để phụng sự Chúa. Từ đó, An-phong-sô đã hiến thân trọn vẹn phục vụ Chúa. Ngài học làm linh mục, rồi lên chức giám mục và thành lập một dòng tu lớn là dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại quãng đời đã qua, ngài đã hiểu rằng : Chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại và đã dùng những thất bại đau khổ để thanh luyện ngài nên khiêm nhường và tin yêu phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống khỏi danh vọng trần thế để đưa vào trong vinh quang Nước Trời.
4) BÁC TÀI XẾ TẮC-XI LÀM TÔNG ĐỒ:
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức truyền giáo của một bác tài lái xe tắc-xi như sau:
“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách đó theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp; một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo; một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường…
Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi anh tài xế:
– Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
– Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người cầm mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?
Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì có thể làm hai việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thì giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc thật tuyệt vời!”
Một số hội đoàn Công giáo Tiến hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc lát-tích treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang cùng lái xe với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước xe quá giá, sẵn sàng trao trả đồ đạc khách bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con đuợc khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn bình an và thần kinh con luôn thoải mái. Xin đừng để con lái xe khi uống rượu say không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn THƯỢNG LỘ BÌNH AN”.
3.SUY NIỆM:
1) Chúa Phục Sinh mang lại niềm tin yêu giúp vượt qua nỗi sợ hãi:
Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa nhà Tiệc Ly đều đóng kín. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông khiến các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Tuy nhiên, các tông đồ cho rằng mình thấy ma chứ không phải Thầy đã sống lại. Vì vậy, Chúa Phục Sinh đã cho các ông sờ vào thân xác mang thương tích của Người để xác định Người: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. Nói xong, Người giơ tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,39-40). Và để giúp các ông vững tin hơn, Đức Giê-su còn ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông. Nhờ gặp Chúa mà các tông đồ đã vững tin và không còn cảm thấy sợ hãi nữa.
Ngày nay chúng ta cũng sẽ vững tin nếu gặp được Chúa trong thánh lễ, trong giờ kinh tối gia đình hay những lúc cầu nguyện riêng tư. Hãy năng dự các buổi Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần để dễ thực hành theo Lời Chúa dạy. Nhờ đó chúng ta sẽ không bị ảo giác hồ đồ, nhưng sẽ nhận biết quyền năng của Chúa qua các biến cố may rủi giữa đời thường.
2) Mầu nhiệm Phục Sinh mang lại niềm hân hoan hy vọng:
Các môn đệ đã bị lung lạc đức tin khi thấy Thầy Giêsu bị bắt bớ, bị giết chết đau thương trên cây thập gía, thì giờ đây khi gặp Chúa Phục Sinh, các ông đã tìm lại được niềm vui hân hoan.
Đức Giê-su thường quở trách các tông đồ về đức tin như sau: “Đừng sợ, hãy tin!”; “Vì sao sợ hãi, hỡi những kẻ yếu tin?”; “Thầy đây, đừng sợ!”; “Dọc đường hai ông nói chuyện gì với nhau mà buồn bã thế?”; “Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin?”… Nhưng “Các ông đã vui mừng vì xem thấy Chúa”.
Người Kitô hữu sống đạo là người chứa đầy niềm vui và hăng say chiếu giãi niềm vui khi gặp được Chúa. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và không bị khiếp nhược sợ hãi bóng tối nếu chúng ta vững tin vào sự phục sinh của Chúa như Người đã động viên các tông đồ: “Các con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian rồi”.
3) Chúa Phục Sinh ban Thần Khí giúp chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng:
Trong Tin Mừng những người đã được phúc gặp Chúa Phục sinh, đều mau mắn chu toàn lệnh truyền của Chúa, là loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho tha nhân. Chẳng hạn: Mấy người phụ nữ sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã trở về báo tin vui cho các môn đệ rằng: “Chúa đã sống lại”. Hai môn đệ về làng Emmaus, sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người bẻ bánh, đã lập tức trỗi dậy trở về thủ đô Giêrusalem, loan báo tin vui cho các anh em khác: “Chúa đã sống lại rồi và chúng tôi đã nhận ra Người khi Người bẻ bánh”. Các Tông đồ sau khi đã đón nhận đầy ơn Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần, đã mở tung cửa nhà Tiệc Ly ra đường để rao giảng Tin Mừng cho dân chúng thuộc mọi nước mọi dân ở thủ đô Giê-ru-sa-lem. Các ông còn sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã loan báo Tin Mừng Phục sinh cho tha nhân như thế nào? Chúng ta đã làm gì để trở thành chứng nhân cho tin mừng Phục Sinh?
4) Phải làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội hôm nay ? :
Ngày nay các tín hữu dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:
+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su: như bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng nguyên việc này khó lòng mang lại hiệu quả để thuyết phục được người nghe tin theo (x. Lc 24,11).
+ Làm chứng bằng cách để Chúa Thánh Thần nói với tha nhân qua chúng ta: Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại và chúng ta nhờ ơn Thánh Thần ban, có bổn phận chia sẻ niềm vui và sự bình an mình cảm nghiệm được cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp dụng. Sau khi đón nhận Thánh Thần, ông Phê-rô đã rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su như sau: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại. Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe…” (Cv 2,32-33). Nhờ ơn Thánh Thần tác động, cách làm chứng đầy xác tín này của ông Phê-rô đã khiến ba ngàn người xin theo đạo (x. Cv 2,41).
+ Làm chứng bằng lối sống quên mình, vị tha bác ái: noi gương cộng đòan Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47). Cách làm chứng này hữu hiệu và rất phù hợp với các cộng đoàn tu sĩ, các hội đoàn công giáo tiến hành và các cộng đoàn giáo xứ giáo họ.
+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin, noi gương các anh hùng tử đạo: Các ngài đã không hèn nhát chối Chúa để được sống, nhưng đã sẵn sàng chịu chết vì đức tin để trở thành những “Chứng nhân đức tin”. Đây cũng là phương cách truyền giáo hữu hiệu như lời ông Téc-tuy-li-a-nô đã nhận định: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”.
Ngày nay tuy chúng ta không bị giết hại vì đức tin như các anh hùng Tử Đạo Việt Nam, nhưng chúng ta cũng có thể trở nên chứng nhân đức tin khi can đảm sống vị tha bác ái giữa một xã hội gian ác như lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà ngợi khen Cha của anh em Đấng ngự trên trời”.
4.THẢO LUẬN: Hôm nay bạn sẽ áp dụng phương cách truyền giảng Tin Mừng cụ thể nào để giúp các bạn học cùng trường, các người hàng xóm, bạn đồng nghiệp được tin vào Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Chúa với chúng ta.
5. NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.
Giữa một thế giới chỉ biết tìm kiếm hưởng thụ tiện nghi vật chất và thỏa mãn các đam mê khoái lạc. Xin cho chúng con biết chấp nhận lối sống đơn sơ khó nghèo như lời Chúa dạy: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ. Con người không có hòn đá gối đầu”.
Giữa một thế giới khinh thường và chà đạp nhân phẩm những người nghèo khó bất hạnh. Xin cho chúng con biết quý trọng mọi người và sẵn sàng phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi.
Giữa một thế giới sống không lý thưởng, không có niềm hy vọng vào tương lai. Xin cho chúng con biết vững tin vào quyền năng và tình thương của Chúa và tích cực góp phần xây dựng một “Trời Mới Đất Mới” công bình nhân ái và hạnh phúc ngay từ ngày hôm nay.
– LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã củng cố đức tin của các tông đồ bằng việc cho xem tay chân đã từng bị đóng đinh trên cây thập giá và còn ăn uống trước mặt các ông. Rồi khi các ông đã tin, Chúa lại trao sứ mệnh làm tông đồ cho các ông. Xin giúp chúng con hôm nay biết ăn năn sám hối tội lỗi và quảng đại chia sẻ cơm áo tiền bạc cho những người nghèo đói, thăm viếng an ủi những người đau liệt, tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con… để chúng con trở nên những tông đồ giáo dân nhiệt thành làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống và làm việc của chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Có một người mẹ trẻ đã tâm sự như sau. Trong những bậc cha mẹ làm gương mù gương xấu cho con cái của mình có tôi. Tôi phải tự thú nhận từ lúc đặt chân lên quốc gia Hoa kỳ này tôi chỉ theo đuổi đồng tiền mà thôi. Chúa của tôi là tiền. Ai chỉ cho tôi nhiều mánh lới hái ra tiền thì người ấy là bạn tốt và là thầy của tôi. Tôi thường nghĩ tiền và làm được nhiều tiền ai lại chẳng ham chẳng muốn! Ai kêu gọi tôi sống sốt sắng, đạo đức, quảng đại và công bằng kể cả cha xứ thì tôi đều coi họ là những người đạo đức giả và tránh xa họ. Càng giầu có thì tôi chẳng cần nghe ai và tha thiết đến ai. Chẳng cần phải hy sinh, đóng góp, quảng đại hay phục vụ ai. Ai sao mặc! Miễn đừng làm phiền đến tôi là được!
Tuy giàu có nhưng nhiều khi tôi cũng thường thắc mắc sống ở trên đời này để làm gì? Tại sao tôi chỉ biết làm nô lệ cho vật chất, tiền bạc, và cảm thấy cuộc sống của tôi không có ý nghĩa gì hết! Chẳng gì làm cho tôi vui và thỏa mãn được! Và còn biết bao nhiêu câu hỏi liên quan đến cuộc sống cá nhân, gia đình và đức tin mà tôi không có câu trả lời, nên tôi luôn cảm thấy bất an. Tôi lại càng lao đầu vào việc tính toán thương mại, phải luôn bận rộn, tranh dành, tìm cách làm ra nhiều tiền hơn. Tôi không có nhiều thời giờ cho việc đi tham dự Thánh lễ, cho gia đình con cái. Tôi chỉ biết sống cho chính bản thân, mọi thứ hầu như trở nên vô nghĩa.
Cho đến một hôm tôi mất tất cả. Sức khỏe, sự nghiệp và tiền bạc của tôi đã trở thành tiêu tán. Tôi không còn làm chủ được cuộc sống. Thế là mất cả ý chí và hy vọng. Mất hết sự kiêu ngạo, tự ái và hãnh diện. Trong số bạn của tôi, có người may mắn nhưng con cái của họ thì một đứa nghiện ngập cờ bạc, đứa thì ma túy, đứa đi theo băng đảng đem bạn bè về nhà để khảo tiền cha mẹ. Bởi chúng biết cha mẹ giấu tiền mặt ở nhà! Nên cha mẹ bị một trận tra khảo nhớ đời. Bây giờ thì gia đình bị tan vỡ. Hạnh phúc, tình yêu và mái nhà trở thành mây khói. Có những gia đình vợ chồng khác thì gia đình như một cái địa ngục trần gian, bất hòa, xung đột và cãi lộn nhau suốt ngày.
Giờ đây chính tôi, tiền bạc và cơ sở thương mại bị điều tra và nhất là bị mất sức khoẻ vì biết mình đang mang chứng bệnh trầm trọng, và biết chắc rằng sự chết sẽ đến một ngày gần đây. Ăn năn nhìn lại cuộc đời thì đã muộn, nhưng bây giờ tôi thật sự tìm được bình an của Chúa. Tôi cảm nghiệp được rằng có đi qua những đau khổ trong cuộc sống thì mới tìm được bình an. Có qua thập giá thì mới được phục sinh. Tôi chỉ còn mang một niềm hy vọng vào Chúa.
Hôm nay tôi tin và nhận biết rằng Chúa không muốn tất cả chúng ta đi vào con đường của tôi đã đi, vì vậy tôi muốn để lại tâm sự này làm chứng cho mọi người thấy và biết rõ. Tiền bạc vật chất và tự do cần thiết cho đời sống, nhưng nếu để cho tiền bạc, hay sự tự cao và ích kỷ làm chủ cuộc sống, thì chúng ta sẽ không còn thực tâm muốn nghe và sống lời Chúa dạy, hay trở thành chứng nhân cho Chúa, cho những người sống chung quanh, con cái, vợ hay chồng, và nhất là không có sự bình an thực của Chúa trong đời sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh muốn ban cho chúng ta sự bình an thực của Chúa, và muốn chúng ta trở thành những chứng nhân cho Người trong cuộc sống hôm nay. Thật vậy, bài Tin mừng kể cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa hiện ra một lần nữa với các môn đệ, có sự hiện diện của cả 2 môn đệ trở về trên con đường về làng Emmau. Chúng ta biết các môn đệ là những người thật may mắn vì Chúa đã hiện ra với họ nhiều lần, để xác định Người đã sống lại thật, để an ủi và khích lệ các ông trong lúc lo sợ, nhất là để củng cố niềm tin cho các ông trong lúc nghi ngờ. Các môn đệ cần có một niềm tin vững mạnh và kiên cường vào Chúa Kitô Phục Sinh, vì chính họ sau này sẽ là những chứng nhân đích thực, làm chứng cho Chúa với mọi người và ở mọi nơi, kể cả khi phải chịu những sự gian nan khốn khó, hay lúc bị chống đối và tù đày. Đó chính là lý do Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với họ nhiều lần.
Thật vậy sau khi ban bình an, Chúa đã nói với các ông rằng: “Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân.” Chúa đã trao ban cho các môn đệ sứ mạng trở thành những chứng nhân cho Người, và đó cũng chính là sứ mạng của mỗi người Ki-tô hữu chúng ta.
Chúng ta nhận biết rằng trong xã hội này muốn trở thành những chứng nhân cho Chúa Giê-su Kitô Phục sinh, chúng ta sẽ phải chấp nhận những hy sinh, khó khăn và thiệt thòi. Sống trong xã hội này, chúng ta có tự do cá nhân và có nhiều cơ hội tạo ra mọi thứ như vật chất và tiền bạc, nhưng sự nguy hiểm là để những thứ ấy không những đưa chúng ta vào cuộc sống nô lệ, bất an và mất đức tin, mà còn gây ra những ảnh hưởng xấu đến đời sống những người thân thuộc sống chung quanh chúng ta. Tâm sự của một người mẹ trong câu truyện trên là muốn để lại một bằng chứng sống động trong xã hội này.
Xin Chúa giúp chúng ta có một niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh trong Bí tích Thánh Thể, và trong giây phút nữa cũng sẽ hiện diện trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta có sự bình an thực của Chúa. Xin Chúa cũng ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta đối phó và vượt qua những cám dỗ của tiền bạc, vật chất, sống đúng với danh nghĩa Kitô hữu, trở thành những chứng nhân cho Chúa và làm sáng danh Người.
.