CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH NĂM B

307

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm B

Lời Chúa: Cv 3,13-15.17-19; 1Ga 2,1-5a; Lc 24,35-48

.

Mục lục

1. Từ ngờ vực đến vững tin  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Cách hiện diện của Đấng Phục sinh (Gm. Giuse Vũ Duy Thống, Gp. Phan Thiết)

3. Những bóng ma tưởng tượng (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

4. Có Chúa có bình an  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Sứ điệp 3T  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

6. Phục sinh kêu gọi mọi người sám hối? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7. Tình ngộ  (Trầm Thiên Thu)

8. Chúa Nhật 3 Phục sinh_B (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

9. Đức tin trong đời sống cộng đoàn và dưới ánh sáng của Lời Chúa (Lm.Jos Dương H.Tình)

10. Niềm vui có Chúa  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

11. “Và con tim đã vui trở lại” (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

12. Tin và làm chứng cho Chúa hôm nay (Lm. Đan Vinh. HHTM)

13. Anh em là chứng nhân (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

14. Đường Emmaus (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

 

 

TỪ NGỜ VỰC ĐẾN VỮNG TIN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy rõ một điều: sự kiện Chúa Giêsu sống lại ban đầu đều bị các môn đệ khước từ, tức là các ông không tin. Nhân chứng đầu tiên của Đấng Phục Sinh là bà Maria Mađalêna. Với tâm lý của người phụ nữ, rất thích là người đầu tiên loan báo một tin sốt dẻo, bà đã vội chạy đi báo tin cho các môn đệ. Theo Thánh Luca, khi đón nhận tin này, nhóm Mười Một cho đó là chuyện vớ vẩn (x. Lc 24,11). Cả hai môn đệ trên đường đi Emmaus cũng cùng chung một ý nghĩ (x. Lc 14,13-35). Kể cả khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các ông, các ông vẫn chưa tin, lại còn tưởng là ma (x. Lc 24,37). Điển hình là trường hợp Tôma, ông thách thức chỉ khi nào được thọc tay vào cạnh sườn Chúa và xỏ ngón tay vào lỗ đinh thì mới tin. Chúa Giêsu đã hiện đến để đáp lại thách thức của Tôma (x. Ga 20, 26-27).

Sự cứng lòng của các môn đệ trước sự kiện Phục Sinh là điều dễ hiểu. Bởi lẽ, kinh nghiệm cuộc sống cho thấy chẳng có ai đã chết mà sống lại. Đàng khác, các ông đang sợ hãi và bị ám ảnh bởi biến cố thập giá. Trước sự đắc thắng của các kỳ mục Do Thái, các ông thấy cần phải dè dặt, cho nên đóng kín cửa vì sợ người Do Thái (Ga 20-19). Sự kiện các ông ngờ vực trước lời báo tin của mấy người phụ nữ cũng cho thấy sự cẩn trọng của những người có trách nhiệm. Đây là điều sau này chúng ta gọi là sự khôn ngoan của các vị lãnh đạo Giáo Hội trước những quyết định quan trọng có liên quan đến chân lý Đức Tin.

Nếu lúc ban đầu, các ông nghi ngờ sự kiện Phục Sinh, thì sau này, các ông lại sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự kiện ấy. Chúng ta có thể phân biệt hai giai đoạn: giai đoạn trước và sau gặp Đấng Phục Sinh. Cuộc gặp gỡ với Đấng Sống lại đã tiếp sức cho các môn đệ. Từ những người sợ hãi nhút nhát đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, các ông trở nên những chứng nhân can đảm, sẵn sàng loan báo Chúa đã sống lại, và còn hân hoan vì được xứng đáng chịu đau khổ vì Chúa (x. Cv 5,41). Sau này, tất cả các tông đồ đã chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng về điều họ đã được xem thấy. Điều họ xem thấy là gì? Là Đấng đã từ cõi chết sống lại.

“Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào các ngôn sứ!” (Ga 20,25). “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Chính Thầy đây!” (Lc 24,38-39). Đó là những lời quở trách thái độ chậm tin của các tông đồ. Hai mươi thế kỷ đã qua, sứ điệp Phục Sinh vẫn đang tiếp tục loan báo cho nhân loại. Đó là sứ điệp của niềm hy vọng, giữa một thế giới đầy bi quan tăm tối. Có thể ngay trong các cộng đoàn tín hữu, vẫn còn nhiều người chưa thực sự xác tín vào mầu nhiệm Phục Sinh. Có thể những anh chị em lương dân chưa nhận ra Đấng Phục Sinh, bởi vì những cộng đoàn Đức Tin chưa phản ánh được sự hiện diện của Người. Làm sao người tin Chúa có thể chứng minh Chúa Giêsu phục sinh đang hiện diện, khi đời sống của họ vẫn còn đầy tội lỗi, ghen ghét, hận thù và chia rẽ? Làm sao họ có thể tin vào Đức Giêsu phục sinh, khi những người tin Chúa lại không thực hiện giáo huấn của Người?

“Chính anh em là những nhân chứng về những điều này”. Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh đã trao cho các ông sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa. Các ông đã nhiệt thành chu toàn sứ mạng ấy và nhờ vậy, Tin Mừng đã được loan truyền khắp thế giới.

Ý tưởng “chuộc tội”, “đền bù tội lỗi”, “ơn tha tội” rải rác trong cả ba bài đọc của Phụng vụ hôm nay. Trong niềm vui hân hoan của lễ Phục Sinh, nhiều người đặt câu hỏi: “Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu có tác động và liên hệ gì đến chúng ta? Thánh Gioan tông đồ đã trả lời: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (Bài đọc II). Như thế đã rõ, lễ Phục Sinh không nhằm kỷ niệm một sự kiện đã qua, nhưng để giúp con người lãnh ơn tha tội, và nhờ đó, họ được cứu rỗi. Thập giá Đức Kitô và sự phục sinh của Người là cội nguồn ơn cứu độ.

“Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để người xóa tội anh em” (Bài đọc I). Lời kêu gọi của thánh Phêrô trong bài giảng ở cửa Đền thờ Giêrusalem đã khẳng định Đức Giêsu là Đấng có quyền tha tội. Trong Người, Thiên Chúa đã thiết lập một kỷ nguyên mới. Cây thập giá chính là cờ hiệu của kỷ nguyên ấy. Đó là kỷ nguyên của tình yêu thương, khởi đi từ sự tự hiến chính thân mình của Đức Giêsu.

Về mục lục

 

CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

Gm. Vũ Duy Thống

Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus. Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý. Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì. Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt. Mặc kệ tất cả. Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được. Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người. Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:

1) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT TRONG NHỮNG BƯỚC ĐỒNG HÀNH CHIA SẺ

Bối cảnh của bài Phúc Am là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh. Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát. Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới. Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ. Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá. Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng. Vỡ mộng, thất vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.

Mà đâu có xong. Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường. Ngay trong Phúc Am hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.

Vâng, Đấng Phục sinh là như thế. Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ. Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên Chúa. Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hành chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.

2) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT BẰNG NHỮNG LỜI CỦNG CỐ TIN YÊU

Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Am cũng vẫn là thất vọng ê chề. Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì. Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra. Chới với, chao nghiêng. Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.

Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phái. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư. Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cứ đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.

Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa. Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Am hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân. Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.

3) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT GIỮA NHỮNG TẤM BÁNH BẺ RA CHO ĐỜI

Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phải là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ. Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần. Đấng Phục sinh mà không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại. Đấng Phục sinh có mặt giữa con người không giống như kẻ hồi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa”. Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng tin vốn đang chao đảo hoang mang của họ.

Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ. Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui. Thảo nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.

Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này. Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mẩu cá, những tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.

Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa. Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng. Và thường thì vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những người quanh ta. Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chủ động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.

Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

 

 

NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.

Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.

Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an… Có lần Đức Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.

Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.

Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.

Khi đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức tin của các tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.

Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.

Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.

Về mục lục

 

 

CÓ CHÚA CÓ BÌNH AN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Điều mà con người mong mỏi khao khát nhất, không hẳn là cơm áo gạo tiền mà là sự bình an. Bình an trong tâm hồn. Bình an khỏi mọi sự dữ. Bình an trong công việc được êm xuôi. Sự khao khát bình an biểu lộ nơi mọi người. Nơi kẻ lữ hành mong thương lộ bình an. Nơi kẻ ở nhà cũng mong đừng bị quấy phá. Thế nhưng, cuộc đời đau mấy khi bình yên. Trắc trở khó khăn cứ dồn dập khiến con người luôn bất an lo sợ. Cuộc đời đâu mấy khi được hưởng sự bình an trọn vẹn nơi tâm hồn và cuộc sống.

Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin, còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ”, nhìn thấy Chúa lại tưởng là “Ma”.

Chuyện kể rằng có một người đi uống rượu về ban đêm. Bước tới sân nhà anh thấy một con rắn nằm vắt ngang giữa sân. Sợ hãi anh đã chạy vào bếp lấy một con dao băm con rắn ra thành nhiều mảnh rồi yên tâm vào nhà ngủ. Sáng ra, tỉnh dậy tính thu dọn con rắn ai dè không phải đêm qua chém rắn mà chém nát ống nước tưới cà-phê mà vợ chưa kịp dọn.

Các tông đồ sau khi tin vào Chúa Phục sinh thì các ông không còn cái nhìn sợ hãi. Các ông đã hết sợ nghi nan. Các ông không sợ người Do Thái đến bắt. Các ông không sợ đối diện với công quyền. Các ông chỉ còn lo một việc là nói về sự phục sinh của Chúa cho muôn dân.

Như thế, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.

Thế nên, gia đình nào có Thiên Chúa thì chắc chắn có bình an. Người ta nói trời có lúc mưa lúc nắng. Đời có lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt. Những thay đổi này càng đúng trong đời sống hôn nhân. Tình yêu thì đòi bền vững nhưng con người lại hay thay đổi. Tình yêu thì đòi hâm nóng mỗi ngày nhưng con người lại hay “chê cơm thèm phở”. Có lẽ vì vậy mà gia đình nào cũng có vấn đề, gia đình nào cũng có khó khăn.

Tại tiệc cưới Cana, đám cưới chỉ mới bắt đầu mà đã có vấn đề! Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì mất mặt qúa! Không chừng cô dâu chú rể sẽ lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào  . . . Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương. Vấn đề của họ là rượu đã hết thì niềm vui chưa trọn vẹn, hay có thể nói là tiệc mất vui.

Rất may cho họ hôm đó đã mời Chúa Giê-su. Có Chúa thì họa biến thành may. Có Chúa thì không có gì mà Ngài không làm được. Có Chúa thì mọi sự sẽ êm xuôi. Thế nên, mỗi gia đình hãy mời Chúa đến trong tiệc cưới và trong từng gia đình mình. Thiếu rượu, tiệc cưới mất vui. Thiếu tình yêu, gia đình không hạnh phúc. Ai cũng muốn được Chúa biến đổi nước lã là cuộc sống vô vị, chán ngắt, nặng nề trong gia đình thành  rượu tình yêu nồng nàn hạnh phúc. Ai cũng muốn được Chúa đong đầy ân sủng bình an vào trong gia đình. Do đó, điều nhất thiết là chúng ta phải mời Chúa đến trong gia đình. Có Chúa gia đình không còn sợ đói, sợ khổ, sợ chia ly. Có Chúa với cánh tay quyền năng Ngài sẽ che chở gia đình được bình an.

Ước gì các đôi hôn phối biết mời Chúa Giê-su đến chúc lành cho ngày vui của mình. Ước gì các gia đình hãy mời Chúa Giê-su vào nhà mình để Chúa đong đầy ân sủng và bình an cho gia đình. Xin Chúa Giê-su phục sinh đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, xin cũng đồng hành với các gia đình chúng ta hôm nay. Amen

Về mục lục

 

 

SỨ ĐIỆP 3 T

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc: “Dấu Chân”, giai điệu slow nhẹ nhàng thiết tha, ca từ thấm đẫm chất thơ, bài ca lấp lánh niềm tín thác.

  1. Hôm nao dưới nắng reo vui, mình tôi rong chơi trên bãi biển.
    Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đôi.
    Này là dấu chân to, và kìa là dấu chân nhỏ.
    Cả hai cùng chiều đi tới, tựa hình với bóng bước song đôi.

ĐK.
Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ.
Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa.
Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi.
Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi.

  1. Hôm nao giữa bước chân đi, chợt nghe dâng mênh mang nỗi buồn.
    Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đơn.
    Lạ lùng dấu chân to, và nặng nề vết in đậm.
    Mà sao chỉ còn một dấu, lại chẳng thấy có dấu chân tôi?

Ca khúc được dệt nhạc từ truyện “Footprints”.

Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.

– Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.

– Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu…anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.

Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc…Chúa lại đồng hành với con, đi với con…Nhưng khi con thất bại, đau khổ…những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”.

Chúa Giêsu trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con”.

Câu chuyện gợi lên ý tưởng: Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trên mọi nẻo đường trần thế. Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Khi con người gặp đau khổ và thất vọng, Ngài an ủi, đỡ nâng, ban thêm sức mạnh và tình yêu.

Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca. Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến lại, trò chuyện và đồng hành mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục Sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui hoan ca trở về Giêrusalem, hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.

Đường Emmau thật lạ lùng. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vời vợi, giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần có mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi, đường xa ôi là xa, đi mãi không đến. Lúc về sao thật ngắn ngủi, đi thật mau đến. Khi đi chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.

Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T : Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh (xem thêm: Kiềng Ba Chân, Lm Thiện Duy). Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.

  1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh

Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nỗi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Người đã giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24, 44).Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách CVTĐ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.

Thánh Giêrônimô nói : Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn. Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: “Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh”(MK21).

Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để “khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng” (MK 26).

  1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể

Thánh Luca tường thuật, suốt trên con đường đi về Emmau có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh tạ ơn bẻ ra trao ban, hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa Giêsu bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới.

Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là một bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Thư “Mane Nobiscum Domine”, số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).

Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.

Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.

  1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh

Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẻ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.

Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình. Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói : “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh). Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Chúa Giêsu Cứu Thế đã in dấu chân trên những nẻo đường truyền giáo “bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ”. Chúng ta bước theo Chúa trên hành trình sứ vụ, mỗi ngày đã qua như một dấu chân trên cát, nối lại những dấu chân, cuộc đời sẽ thành đường dài của niềm vui và hy vọng.

Về mục lục

 

 

PHỤC SINH KÊU GỌI MỌI NGƯỜI SÁM HỐI?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Cả ba Phúc âm nhất lãm đều đề cập tới lần Chúa hiện ra với nhóm mười một tông đồ. Về lần hiện ra quan trọng này, chi tiết bên ngoài của biến cố hình như không được các thánh sử quan tâm diễn tả cho lắm; chỉ có tường thuật của Lu-ca là đi vào một số chi tiết để chứng minh nhân vật hiện ra đích thực là Đức Giê-su mà các ông đã từng quen biết. Điều mà các tác giả quan tâm tới nhiều hơn là sứ điệp Chúa Phục Sinh muốn thông đạt cho cả nhóm. Chính Đấng Sống Lại đòi nhóm mười một và toàn thể những ai coi mình là môn đệ của Người phải trở thành ‘chứng nhân về những điều (sứ điệp) này’. Không may ngày nay, người ta lại thích nói tới sự kiện phục sinh khải hoàn hơn là đề cập tới sứ điệp của nó, tới độ rất ít khi tín hữu được nhắc nhở hoặc quan tâm tìm hiểu sứ điệp phục sinh thực sự là gì!

Sứ điệp Phục Sinh gồm hai phần chính:

–  ‘Kêu gọi sám hối để được ơn tha tội’

–  ‘Nhân danh Người rao giảng (điều này) cho muôn dân’

Sám hối để được ơn tha tội: Mát-thêu và Mác-cô đã nói tới nội dung này khi đề cập tới lệnh truyền: ‘làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28:19), hay lời giải thích: ‘ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ’ (Mc 16:16). Sứ điệp ‘hãy sám hối’ đã được Gio-an Tẩy Giả từng hô hào từ những ngày đầu, trước cà khi Đức Giê-su xuất hiện công khai, qua nghi thức dìm mình xuống giòng sông Gio-đan. Như vậy, sau ngày sống lại, khi Đức Giê-su Ki-tô long trọng công bố trở lại sứ điệp này thì chắc hẳn nó phải chứa đựng một điều gì hoàn toàn mới lạ và cấp bách. Để có thể hiểu được tầm quan trọng của sứ điệp mà Đức Giê-su đã dày công giảng giải cho các môn đệ hiểu, rằng đó chính là trọng tâm của các sách Ngôn Sứ và Thánh Vịnh… nói tóm lại, của toàn bộ Kinh Thánh, ta cần đi sâu vào nội dung của nó. Đương nhiên sám hối đây không thể được hiểu theo nghĩa ‘cải tà qui chính’ – thuần tính luân lý. Sau biến cố Phục sinh, sám hối càng lộ rõ sứ điệp Tin Mừng của một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, một khám phá và tín thác không ngừng vào Thiên Chúa đầy lòng xót thương “yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một…” Qua biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su mà mười một tông đồ chắc hẳn đã chứng kiến, các ông phải được giải thích cho hiểu ý nghĩa và nội dung của nó. Quả vậy các ông phải tin và trở thành ‘chứng nhân về những điều này’! Phục sinh chính là để hiểu và nắm bắt sâu sắc sứ điệp đã được công bố ngay từ đầu “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nói cách khác, sứ điệp chính yếu và long trọng nhất của Tin Mừng Phục Sinh lại chính là hãy “Sám hối để được ơn tha tội”.

Rao giảng cho muôn dân: Bằng các kiểu nói khác nhau (Mát-thêu: ‘Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ; Mác-cô: ‘Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng; Lu-ca: ‘Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đều từ Giê-ru-sa-lem…’), các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm đều cho thấy phần hai của sứ điệp Phục Sinh là một ‘lệnh lên đường’. Phúc âm Gio-an còn nêu rõ sứ điệp này là chính yếu và quyết liệt hơn hết: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em…” Và để chu toàn ‘lệnh lên đường’, đồng thời để có thể ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’, Thánh Thần đã được trao ban cho các môn đệ; ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’ (Ga 20:22), hay ‘Nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống’ (Lc 24:49) theo cách nói của Lu-ca. Nếu Đấng sống lại không còn bị chi phối bởi không gian và thời gian, thì sứ điệp cứu rỗi của Chúa Phục Sinh lại càng không thể bị giới hạn, không những bởi không gian và thời gian, mà còn bởi văn hóa, sắc tộc, truyền thống, thậm chí luân lý, cho dầu có ‘bán khai’ hay ‘man rợ’ tới mấy. Phục Sinh chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa từ nhân được minh chứng là vô giới hạn, không gì ngăn cản nổi. Lệnh lên đường hay truyền giáo phải dựa trên nhận thức ơn cứu độ phổ quát và tình yêu xót thương của Thiên Chúa vượt xa sự hạn hẹp của loài người.

Tôi không chỉ ‘mừng’ Chúa Phục Sinh, mà còn phải ‘sống’ Chúa Phục Sinh. Và sống Chúa Phục Sinh trước hết phải là lắng nghe và loan truyền cho mọi người sứ điệp Phục Sinh thật cấp bách của Đức Ki-tô khải hoàn.

Lạy Chúa Ki-tô, Đấng Phục Sinh, xin dạy con biết tiếp nhận và sống sứ điệp phục sinh cách ý thức và mạnh mẽ. Trong tư cách là Ki-tô hữu hay linh mục, chính con phải là người đầu tiên sống ‘sám hối’ theo nội dung phục sinh, để có thể trở thành chứng nhân trung thực của sứ điệp cứu rỗi. Cũng xin cho con hiểu được tình yêu cứu độ của Chúa là không biên giới, để con hăng say lên đường gieo rắc tình yêu và lòng thương xót Chúa cho mọi dân nước. A-men.

Về mục lục

 

 

TỈNH NGỘ

Trầm Thiên Thu

Cuộc đời là bến mê lầm. Sai một ly, đi một dặm. Phải luôn cố gắng tỉnh thức để thoát khỏi mọi cạm bẫy. Thoát ly như vậy là tỉnh ngộ – thoát khỏi ngu muội. Điều này vô cùng cần thiết, vì chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38).

Phật giáo dùng từ “giác ngộ” (zh. 覺悟, sa., pi. bodhi). Danh từ này được dịch nghĩa từ chữ “bodhi” (bồ-đề) trong Phạn ngữ. Từ ngữ này chỉ trạng thái tỉnh thức, lúc con người bỗng nhiên trực nhận tính KHÔNG, bản thân nó là “không” như toàn thể vũ trụ cũng là “không” vậy.

Và chỉ với trực nhận đó, con người mới thấu hiểu được “thể tính mọi hiện tượng”. Tính “không” ở đây KHÔNG phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên, không thể dùng suy nghĩ hoặc cảm nhận để đo lường, vì điều đó nằm ngoài cặp đối “có – không”. Tính “không” này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận, vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Do đó, giác ngộ là một kinh nghiệm không thể giãi bày.

Kinh Thánh nhắc lại Người Tôi Tớ Đau Khổ và cũng “chạm” vào ký-ức-buồn của chúng ta, tức là sự ngu muội của chúng ta: “Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộpchối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3:13-15).

Thánh Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Giêsu Kitô và thông cảm với sự ngu muội của chúng ta: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hốitrở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Thiên Chúa nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài chỉ cần chúng ta hối hận thật lòng thì Ngài sẽ tha thứ ngay. Điều này đã được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa rồi: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Và chính tướng cướp Diasmas đã được hưởng lời hứa đó ngay trên Núi Sọ: Theo Chúa Giêsu vào thẳng Thiên Đàng (Lc 23:43), dù “đại ca” này chưa hề biết gì về Chúa Giêsu và chưa lãnh nhận Bí tích Rửa tội.

Thiên Chúa quá đỗi nhân lành, nhất là với những người thành tâm sám hối: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Ngoài Thiên Chúa, chắc chắn chẳng có thần linh nào hoặc phàm nhân nào khả dĩ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc. Hãy cầu nguyện liên lỉ, hãy không ngừng nài xin: “Lạy Chúa, xin toả ánh tôn nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7).

Khi có Ngài rồi thì cứ “vô tư” mà sống. Chả lo lắng chi cho già người đi. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã chia sẻ kinh nghiệm thoải mái này: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4:9). Mèn ơi! Thế thì thật là hạnh phúc, sướng ơi là sướng!

Thánh Gioan muốn chúng ta tỉnh ngộ nên đã nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính“” (1 Ga 2:1). Không nên phạm tội, đó là điều chính đáng, nhưng tay lỡ “nhúng chàm” thì lại được Luật Sư uy tín biện hộ cho chúng ta, đó là chính Chúa Giêsu. Thế thì còn gì sướng hơn nữa chứ?

Thánh Gioan cho biết: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Trên cả tuyệt vời, vì chính Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Mọi diễn biến từ Cựu Ước tới Tân Ước đều lô-gích, chính xác, không chút sai lệch. Thật là mầu nhiệm biết bao!

Điều kiện thứ nhất là “đừng phạm tội”, điều kiện thứ hai là “tuân giữ các điều răn” – nhất là điều răn bác ái. Đức ái là một trong ba đức đối thần, nhưng là nhân đức quan trọng nhất. Tại sao? Vì đức mến còn mãi mãi, trên Thiên Đàng chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy (hy vọng).

Thánh Gioan phân tích: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:3-5). Thánh Phaolô cũng nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:8-10). Người biết yêu mến là người chu toàn lề luật của Thiên Chúa, đó là người mặc lấy con người mới, sống niềm vui phục sinh, tức là đã tỉnh ngộ.

Sau khi phục sinh, một hôm ở trên đường Emmaus (*), Chúa Giêsu gặp hai môn đệ và giải thích cho họ những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Họ không hề biết đó là Chúa-Giêsu-phục-sinh. Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ đã mở ra, tỉnh ngộ, và nhận ra Ngài, thế nhưng Ngài lại biến mất (Lc 24:27-30).

Lần khác, khi các môn đệ còn đang nói, chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và chúc bình an cho họ. Các ông kinh hồn bạt vía, cứ tưởng là thấy ma. Tá hỏa tam tinh. Run sợ thật đấy! Nhưng Ngài cười và bảo: “Này các cậu, sao lại hoảng hốt thế nhỉ? Sao lòng anh em còn ngờ vực chứ? Này, nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-48). Rồi Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ừ nhỉ! Ma đâu có thế này, đúng là thần hồn nhát thần tính. Chán thật!

Các ông còn bán tín bán nghi, chưa dám tin thật, phần vì mừng quá, phần vì ngỡ ngàng. Chúa Giêsu thấy mắc cười lắm, Ngài hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không nào? Đem ra đây cho Thầy ăn!”. Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt các ông. Mấy ông nhéo nhau, ai cũng la oái, thế thì không phải mơ, tỉnh thật đấy.

Rồi Ngài ôn tồn: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Bấy giờ Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Ngài nhấn mạnh: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:46-48).

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở lòng trí chúng con để chúng con đủ sức hiểu rõ lời Kinh Thánh, xin giúp chúng con biết tỉnh ngộ để chúng con chân tín Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ chúng con, đồng thời cũng luôn biết sống yêu thương và can đảm làm chứng về Đấng Phục Sinh. Ngài là Đấng hằng sinh và hằng hữu, hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.

(*) Emmaus là viết theo tiếng Latin, tiếng Hy Lạp là Ἐμμαούς, tiếng Ả Rập là عِمواس‎ (Imwas), tiếng Do Thái là חמת‎ (Hammat), có nghĩa là “mùa xuân ấm áp”. Emmaus cách Giêrusalem 7 dặm, khoảng 11 km.

 Về mục lục

 

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Nếu một người ngoại đạo, hay một người không có đức tin đặt ra cho chúng ta những câu hỏi như “Chúa Giê-su Ki-tô có thật sự sống lại không?” “Có ai làm chứng cho sự kiện Chúa Giê-su sống lại không?” “Có phải câu chuyện sống lại do người Ki-tô đặt bịa ra không?”

Những câu trả lời cho những câu hỏi trên rất quan trọng, vì nó sẽ xác định niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa như thế nào, và cũng sẽ quyết định cuộc sống vĩnh cửu đời sau của chúng ta. Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta sẽ ra vô ích.” Vậy làm sao chúng ta biết Chúa Giê-su Kitô đã sống lại thật? Chúng ta nhận thấy sự kiện ngôi mộ trống với khăn niệm để bên cạnh không đủ bằng chứng để tin Chúa Giê-su đã sống lại, vì sao? Vì người khác có thể đánh cắp xác Chúa và phao tin đồn thất thiệt như người Do-thái đã làm, và chúng ta thấy ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đã nghi ngờ. Cho nên chúng ta cần có thêm những bằng chứng khác, và các bài đọc Kinh thánh hôm nay cho chúng ta 3 bằng chứng hùng hồn, rõ ràng và xác quyết về việc Chúa sống lại.

Thứ nhất, Tin mừng thánh Luca hôm nay tường thuật cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệ. Sau khi ban bình an cho các ông, Chúa mời họ chạm, rờ vào thân hình của Ngài, và ăn khúc cá nướng trước mắt các ông, để chứng tỏ Ngài đã sống lại thật. Ngoài lần hiện ra hôm nay, các sách Tin mừng cũng đã tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ nhiều lần như với bà Mary Ma-đa-lê-na, với các phụ nữ trên đường về từ ngôi mộ, với hai môn đệ trên đường Em-maus, với 10 tông đồ không có Tô-ma, với 11 Tông-đồ có cả Tô-ma, với các tông đồ đi đánh cá, tổng cộng tất cả có ít nhất là 7 lần Chúa đã hiện ra.

Thứ hai, cũng như bài Tin mừng, chúng ta thấy trong bài đọc I, các tông đồ cũng như Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết, hãy đọc lại những lời Kinh Thánh và những gì Ngài đã dạy dỗ và báo trước, để biết chính Kinh thánh đã làm chứng cho Chúa. Chẳng hạn như Kinh thánh Cựu Ước nói rằng Đấng Thiên Sai sinh ra từ giòng dõi Da-vít tại Bethlehem (Mic 5:4). Thánh Thần Chúa xức dầu tấn phong và sai Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành những người bệnh, phóng thích kẻ bị giam cầm (Isa 61:1). Đấng Thiên Sai phải chịu nhiều đau khổ để gánh tội cho con người (4 Bài ca về Người Tôi Trung trong sách ngôn sứ I-sa-i-a). Và Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu chết và ngày thứ ba Người sẽ sống lại (Hos 6:2).

Và thứ Ba cuối cùng, trong Bài Đọc 1 và 2, chúng ta thấy các tông đồ và các tín hữu đã can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã nhân danh Chúa Giê-su Kitô rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh. Vì đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, họ có cuộc sống cộng đoàn trong tình hiệp nhất yêu thương, và thành tâm bỏ mọi sự làm của chung để xây dựng để có phương tiện rao giảng Tin mừng, và làm sáng danh Chúa. Cuối cùng, chúng ta thấy sự phát triển và vững bền của Giáo Hội hơn 2,015 năm qua, với hàng triệu người đã chịu tử vì đạo làm chứng cho Chúa, trong đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cha ông, tổ tiên chúng ta, đã can đảm chịu những cực hình và đổ máu đào để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh. Thêm vào đó, mỗi năm hàng ngàn các anh chị em tân tòng gia nhập đạo.

Với 3 bằng chứng trên đây và với hàng triệu các nhân chứng, việc Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh sống lại là điều chắc chắn đã xảy ra, và niềm hy vọng sẽ được cùng sống lại vinh hiển với Ngài của chúng ta được đặt trên một nền tảng vững vàng, chắc chắn hơn xây nhà trên đá.  

Ông bà anh chị em thân mến. Nếu những người không có đạo, không có đức tin đặt một câu hỏi tiếp theo cho chúng ta “Vậy ông bà, anh chị em nói và tin Chúa Giê-su Ki-tô đã phục sinh, nhưng điều đó có ảnh hưởng gì trong cuộc sống của ông bà, anh chị không?” Tôi nghĩ rằng có lẽ chúng ta không dễ trả lời câu hỏi này, nếu cuộc sống của chúng ta không có gì khác biệt hơn, không tốt lành hơn, không bác ái hơn, không ngay thẳng hơn, hoặc không có điều gì nổi bật hơn cuộc sống của những người chung quanh, hay của những người vô thần, không có đạo, không có đức tin. Vậy thì mầu nhiệm Chúa Giê-su Ki-Tô Phục sinh mời gọi chúng ta sống như thế nào?

Chúng ta biết trong xã hội ngày này muốn sống hay thể hiện đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, hay trở thành chứng nhân cho Chúa Giê-su Kitô, không phải dễ. Nếu chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh và muốn được sống lại với Ngài, thì chúng ta phải chấp nhận những sự hy sinh và thiệt thòi, phải khiêm nhường chấp nhận những đau khổ, khó khăn và thập giá như Ngài. Chúng ta cũng phải sống lời Chúa dạy và có lòng bác ái, quảng đại. Thật vậy, khiêm nhường, hy sinh, quảng đại và làm chứng nhân cho Chúa ở thời đại ngày nay thật là khó khăn, khó thực hiện.

Nhưng, ông bà anh chị em thân mến, chúng ta không thể nào sống như những người không có đức tin hay vô thần, hay chúng ta không thể nào có cuộc sống cá nhân, ích kỷ và nguội lạnh như những người không thuộc cộng đoàn dân Chúa, hay không được kết hợp trong Thân Thể Chúa Ki-tô, và không tin vào sự sống lại, không tin vào đời sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Khi chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giê-su Kitô, thì chúng ta cũng phải tin Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của chúng ta, tin những gì Ngài dạy dỗ và tuân giữ, sống các giới răn của Ngài dạy chúng ta.

Từ lễ kính Chúa Giê-su Phục Sinh đến nay, chúng ta đã nghe nhiều đoạn Tin Mừng kể lại những lần Chúa hiện ra với các môn đệ của Ngài sau ngày Ngài phục sinh. Ngài đã hiện ra với nhiều người nhiều lần để minh chứng cho họ biết là Ngài đã sống lại từ cõi chết như lời Ngài đã hứa, và để củng cố niềm tin và sai họ đi làm chứng cho Chúa. Chúng ta hôm nay tin vào sự phục sinh của Chúa và không bao giờ để báo chí, dư luận, và cám dỗ thế gian, làm lung lay niềm tin của chúng ta vào sự phục sinh của Chúa Giê-su Kitô, và vào sự sống vĩnh cửu đời sau, vì chúng ta đã có quá nhiều bằng chứng và nhân chứng về niềm tin này. Chúng ta cầu xin cho mỗi gia đình và cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết sống hòa hợp, đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi công việc, để xây dựng và làm sáng danh Chúa. Xin Chúa cũng luôn hiện diện giữa chúng ta, hướng dẫn và ban bình an hạnh phúc cho chúng ta.

Về mục lục

 


ĐỨC TIN TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN

VÀ DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA

Lm. Giuse Dương Hữu Tình

Nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một câu “dở dang”, đòi phải trở lại những câu ở phần trên thì mới hiểu được toàn bộ câu chuyện. Bài Tin Mừng bắt đầu như sau: “Hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”.

Đối với những người hiểu biết Kinh Thánh, họ sẽ biết ngay phần trên của câu chuyện là gì và hai ông này là ai. Nhưng có thể có người không biết rõ câu chuyện ở phần trên và hai ông này là ai, vì thế chúng ta phải nói rõ thế này: đây là hai môn đệ đã gặp Chúa trên đường trở về Em-mau mà thánh sử Luca đã ghi lại (24,13-35). Ngài còn nói rõ một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát. Sau khi được Chúa đồng hành và giải thích Kinh Thánh, được Chúa đồng bàn và bẻ bánh để rồi nhận ra Chúa, các ông đã vội vã trở lại Giê-ru-sa-lem để gặp Nhóm Mười Một (phần này được suy ngắm ở năm A theo chu kỳ năm phụng vụ). Khi đã gặp họ, “hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”. Đây chính là phần đầu dẫn vào bài Tin Mừng hôm nay.

Thánh sử Luca kể tiếp: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”. Và rồi ta sẽ thấy sự kiên trì của Đấng Phục sinh khi Người cố gắng củng cố niềm tin cho các tông đồ, môn đệ. Các ông “hoảng hốt” và “ngờ vực”, Chúa Phục sinh phải cho các ông xem chân tay mình. Các ông vẫn “còn chưa tin”, Người phải “cầm lấy và ăn trước mặt các ông”. Xem ra chưa đủ, Chúa lại phải nhắc tới Kinh Thánh, rồi còn “mở trí cho các ông hiểu”. Không biết như thế đã đủ cho các ông chưa, thánh sử Luca sau đó nói đến việc hứa ban Thánh Thần: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (24,49).

Khi kể lại tất cả các sự kiện trên, thánh sử Luca dường như muốn nói cho chúng ta hay rằng: biến cố phục sinh ngay từ đâu không phải là một điều dễ tin, dễ chấp nhận. Đó là một sự kiện hết sức mới mẻ, vượt mọi dự tính, suy đoán và hiểu biết của con người. Và để có được một niềm xác tín vào Đấng Phục sinh, đòi hỏi hết mọi người tín hữu phải sẵn lòng để Chúa Phục sinh kiên trì dạy dỗ và giải thích cho mình. Có hai môi trường và hoàn cảnh thuận lợi cho việc Chúa Phục sinh hiện diện và dạy dỗ chúng ta, đó là đời sống cộng đoàn và Lời Chúa. Hai môn đệ đã được gặp Chúa dọc đường, các ông lại được gặp Chúa lần nữa khi trở về với Nhóm Mười Một. Lòng các ông đã chẳng “bừng cháy lên” khi được Chúa nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho đó sao! Nhất là khi các ông được Chúa “mở trí” cho để am hiểu Kinh Thánh.

Với cuốn Tông Đồ Công Vụ, người ta hiểu thánh sử Luca là một vị thánh sử rất lưu tâm tới đời sống cộng đoàn. Tông Đồ Công Vụ là cuốn sách ghi lại sinh hoạt của Giáo hội tiên khởi, một cộng đoàn gương mẫu cho đời sống của tất cả những ai tin vào Đấng Phục sinh. Khi ghi lại sự kiện Đấng Phục sinh “đến” và kiên trì giáo huấn và củng cố niềm tin cho các tông đồ, môn đệ, ngài cũng muốn kể lại kinh nghiệm ngay từ thuở đầu của Giáo hội. Đó là một Giáo hội có tính cách cộng đoàn và sống Lời Chúa. Chỉ khi nào chúng ta ở trong bầu khí của cộng đoàn Giáo hội, chỉ khi nào chúng ta siêng năng lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa, niềm xác tín của chúng ta vào Đấng Phục sinh mới chắc chắn và vững vàng. Sự xa rời cộng đoàn, sự trễ nải trong việc lắng nghe Lời Chúa là những lý do làm cho đời sống đức tin của chúng ta sa sút và yếu kém.

Bài Tin Mừng hôm nay như một lời nhắc nhở chúng ta tự kiểm điểm lại đời sống đức tin của mình. Đức tin của chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng gì và trong môi trường nào?

Chúng ta có để Đấng Phục sinh tiếp tục kiên trì đến với chúng ta, dạy dỗ chúng ta không, nhất là mỗi khi chúng con họp nhau tham dự “lễ bẻ bánh” và cùng nhau chia sẻ Lời Chúa. Amen.

Về mục lục

 

 

NIỀM VUI CÓ CHÚA

Lm. Jos.DĐH

Trong khi giới trẻ hằng mơ mộng được sở hữu những công nghệ “hot” nhất, “xi-tin” nhất; các bậc làm cha mẹ vẫn một ước mơ truyền thống : gia đình hạnh phúc không cần phải xây dựng dựa trên những cái nhất. Biết bao người đau bệnh vì quá tải với công việc, nhưng họ bất lực không thể truyền lại kinh nghiệm cho con cháu, người thân, đang quá hăng say tìm kiếm lợi nhuận vật chất. Chung quanh chúng ta nhiều người vui vì đạt được thành tích, gfdsađược danh hiệu, được thừa hưởng khối tài sản của tiền nhân, nhưng vui vì được bình an tâm hồn, thường ít ai nhắc tới.

Niềm vui có tiền, có chức danh, niềm vui ấy xã hội coi là thực tế hơn cả; niềm vui nơi mọi thành viên gia đình biết quan tâm yêu thương, xã hội đất nước thái bình, vẫn bị gọi là thiên đàng trong mơ. Niềm vui có Chúa, ý niệm về sự thật, việc thật, người tốt, việc tốt, chúng ta đã có sẵn trong tâm trí từ khi có trí khôn, còn tự do hành động hay thể hiện là thuộc về mỗi người. Có nhiều người tìm kiếm sức khoẻ, địa vị, vì đã quá đủ về vật chất, theo cái nhìn tích cực, họ đang được qui hướng về điều tốt nhất, đang khao khát một hạnh phúc thật, niềm vui cao hơn.

Đấng Phục Sinh đã nhìn biết các tông đồ như là các học trò đáng thương, cần được khích lệ, cần được quan tâm, nhờ vậy, các ông mới đủ trưởng thành trong đức tin và đức mến. Sở dĩ các tông đồ cần được yêu thương, vì trước khi Chúa sống lại, các ông xa lạ với Đấng Phục Sinh, các ông không có kinh nghiệm với thế giới siêu nhiên. Nhưng do luôn chân thành, gần gũi với tình yêu mến, nên các ông dễ cảm nhận được ơn bình an, niềm vui, từ lời chào chúc của Đấng Phục Sinh.

Khi đã hiểu, đã cảm nhận được niềm vui và sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, các ông có một sự biến đổi khác thường đó là can đảm, mạnh mẽ không nhút nhát, không sợ thế lực trần gian nào nữa. Bài trích sách Công vụ hôm nay, chứng minh Phêrô đã mạnh dạn tố giác sự sai lầm chết người của các thượng hội đồng Do-thái, ông nói mọi người cần phải sám hối nhận ra lỗi lầm của mình để được tha thứ.

Tính chất mới mẻ nơi các học trò sau khi có Đấng Phục Sinh, các ông không còn hoài nghi về thập giá vinh quang, không sống trong mơ hồ ảo tưởng, theo Thầy Giêsu để được hưởng bổng lộc trần gian này. Nơi bài đọc 2, bằng kinh nghiệm về sự tha thứ của Đấng Phục Sinh, Thánh Gioan tông đồ khuyên tất cả mọi người lỡ có phạm tội, đừng nản lòng, nhưng hãy thật tình sám hối trong tin tưởng vào tình yêu Đức Kitô. Chúa Phục Sinh đến với các tông đồ, tình yêu tha thứ đã hàn gắn lại tình nghĩa Thầy trò, tình yêu ấy sẽ còn tiếp tục mở lòng trí, để những ai sống tin yêu sẽ còn là chứng nhân của “Tin Mừng Phục Sinh”.

Với người Kitô hữu chúng ta hôm này, tội lỗi làm cho con người mất quân bình, dễ nghi ngờ, lo sợ đủ điều, dễ mất phương hướng, mất cả tình yêu thương. Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng trí lòng cho các tông đồ hiểu Thánh Kinh, Ngài lại còn sai họ ra đi rao giảng làm chứng về những điều các ông đã nghe, đã thấy cho muôn dân. Hôm nay, khi hiện đến với các đồ đệ, Đức Giêsu cho các ông nhìn xem chân tay Thầy, chân tay Thầy không hề đeo vàng bạc châu báu…. mà đeo đầy những thương tích, dấu chứng tình yêu.

Bằng mắt phàm trần, các tông đồ quá sung sướng khi được chiêm ngắm, được nhận ra Đấng Phục Sinh, bằng mắt đức tin, các ông hiểu Đức Giêsu mấy ngày trước bị đóng đinh, chính là Đấng Phục Sinh lúc này đem niềm vui và bình an đến cho các ông. Cuộc đời của chúng ta hôm nay, hình ảnh Chúa Phục Sinh vẫn đang ở mỗi gia đình, mỗi tâm hồn, khi ta đủ niềm tin, nỗi ưu tư sợ hãi mới được tan biến. Có Chúa hiện diện là có niềm vui, có sự biến đổi, có tình yêu và ơn tha thứ, dù bản chất và cách sống của ta còn đầy thiếu xót.

Ơn bình an của Đấng Phục Sinh, không bị giới hạn ở nơi chốn hay khung cảnh địa lý, ơn Phục Sinh còn tiếp tục là hồng ân kỳ diệu, giúp những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa sẽ khám phá ra ơn gọi làm chứng nhân của mình. Trong đời sống tự nhiên người ta cho rằng : một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Trong ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô, niềm vui Phục Sinh là điều kiện giúp những ai tin theo Chúa có được sự sáng suốt, khôn ngoan, biết sống chứng nhân Tin mừng. Biến cố Phục Sinh thay đổi nhận thức nơi các tông đồ về sứ mạng của Thầy Giêsu, Đấng chiến thắng cả sự chết, Ngài đang sống; và bằng niềm tin yêu, tất cả những ai tin theo Chúa sẽ gặp Đấng Phục Sinh đang sống trong cuộc đời của mình. Chúng ta gặp gỡ Chúa Phục Sinh một cách đặc biệt trong “lần bẻ bánh”, nghĩa là nơi phép Thánh Thể nơi mỗi ngày sống của mình.

Người mạo hiểm là người dám sống câu châm ngôn : được ăn cả ngã về không ! kẻ lười biếng trong công việc, lại dễ bị mặc cảm tự ti vì mình không may mắn, thiếu tài, thiếu đức. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, các ông lại vui mừng biết bao khi được gặp Đấng từ cõi chết sống lại. Nếu các môn đệ âu lo vì sợ người ta đã giết Thầy, họ sẽ bắt luôn cả trò, các ông lại có trọn niềm hân hoan khi nhìn tận mắt Thầy sống lại, cho các ông xem tay chân và cạnh sườn. Nếu người Kitô hữu có Chúa trong tâm hồn của mình, ta sẽ thoát ra khỏi nỗi lo lắng vu vơ; tâm hồn sẽ tràn đầy niềm vui hạnh phúc hiện tại cũng như tương lai. Nếu chúng ta biết mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, hẳn chúng ta đang công bố Tin Vui Phục Sinh. Xưa kia, vì cần xóa đi mọi nghi ngờ cho các học trò, Đấng Phục Sinh ăn uống trước mặt các môn đệ, khoảnh khắc đầy ấn tượng đó, Chúa kêu gọi chúng ta đừng ngần ngại sống thân tình với nhau. Điều gì đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời theo Chúa làm môn đệ của ta ? Thưa, có Thiên Chúa hiện diện, chúng ta hết buồn sầu, và sẽ tìm được lối sống mới trong an vui, hạnh phúc thật. Amen.

Về mục lục

 

 

“VÀ CON TIM ĐÃ VUI TRỞ LẠI”

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Có lẽ nhiều người đã từng nghe hoặc từng hát bài “Và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy. Lời bài hát nói lên tâm trạng của một người lầm lũi bước đi, tìm kiếm cho mình một tương lai. Anh lao vào những cuộc vui của xã hội, nhưng chỉ tìm thấy chán nản, thất bại, bế tắc. Chỉ khi một luồng sáng từ trên cao chiếu rọi vào tâm hồn và chỉ cho anh một con đường phải đi, tác giả mới tìm lại được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Anh đã tâm sự : Tìm một con đường, tìm một lối đi, ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi, lạc loài niềm tin, sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai, cứ vui cho trọn hôm nay. Rồi cuộc vui tàn, mọi người bước đi, một mình tôi về, nhiều lần ướt mi, chợt tình yêu đến trong ánh nắng mai, xóa tan màn đêm u tối, cho tôi biến đổi tâm hồn, thành một người mới. Và con tim đã vui trở lại, tình yêu đến cho tôi ngày mai, tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, tôi hy vọng được ơn cứu rỗi, và con tim đã vui trở lại, và niềm tin đã dâng về người, trọn tâm hồn nguyện yêu mãi riêng người mà thôi… Và bây giờ, ngày buồn đã qua, mọi lỗi lầm, cũng được thứ tha, tình yêu đã đến trong ánh nắng mai, xóa tan màn đêm u tối, cho tôi biến đổi tâm hồn, thành một người mới. Và con tim đã vui trở lại … Dẫu như tôi phải đi qua vực sâu tối, tôi vẫn không sợ hãi gì, vì người gần bên tôi mãi.

Có thể so sánh niềm vui của tác giả Đức Huy tìm lại được một hướng đi giống với niềm vui của hai môn đệ trên đường Emaus và của các Tông đồ sau ngày Chúa Phục Sinh. Quả thật, với cái chết của Thầy Giêsu, cánh cửa tương lai của các Tông đồ như bị đóng lại. Trước mắt các ông chỉ còn là một màu đen tối, u buồn, sợ hãi lẫn thất vọng. Có nhiều người trong họ đã buông xuôi và tính đến việc bỏ về quê như hai môn đệ Emaus, có người bỏ đi một nơi nào đó như Tôma. Các Tông đồ khi đi theo Chúa, họ đã đặt biết bao hy vọng và niềm tin vào Thầy mình, giờ đây họ như bị bế tắc.

Đang lúc các ông rơi vào tình trạng chán nản, thất vọng như thế, chính Chúa Giêsu đã chủ động và tìm cách lấy lại tinh thần cho các ông. Ngài đã lần lượt hiện ra với các phụ nữ, với các Tông đồ, với hai môn đệ trên đường Emaus để an ủi và giúp các ông lấy lại được thăng bằng cho cuộc sống. Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra sau khi Chúa Phục Sinh đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emaus. Ngài giải thích Kinh Thánh để củng cố đức tin và an ủi họ, cho họ nhận ra Ngài lúc bẻ bánh. Hai môn đệ đã vô cùng phấn khởi trở lại Giêrusalem để thuật lại kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục sinh cho các Tông đồ khác.

Khi các ông còn đang nói thì chính Chúa Giêsu đứng giữa các ông và bảo : Bình an cho các con ! Bình an chính là món quà mà Chúa Phục Sinh trao tặng cho các Tông đồ và là món quà thích hợp nhất cho các ông lúc này. Chúa Giêsu đã thấu hiểu tâm trạng của các Tông đồ. Các ông dường như chưa hoàn hồn, chưa hết đau đớn về cái chết của Thầy cộng thêm nỗi sợ vì liên lụy tới Thầy Giêsu. Có lẽ điều khiến các Tông đồ dù nghe thấy những người kia kể lại về việc họ đã gặp Chúa, nhưng vẫn không tin, là vì họ đã chôn vùi cả tinh thần, ý chí và niềm tin của mình trong ngôi mộ của Thầy. Vì vậy, khi Chúa hiện ra đứng trước mặt, các ông kinh hồn bạt vía vì tưởng là bóng ma.

Chúa Giêsu đã phải trấn tĩnh, thuyết phục các ông và tìm cách chứng minh Ngài chính là Thầy của họ, Đấng đã chết và đã sống lại thật : Sao anh em lại nghi ngờ ? Cứ sờ mà xem, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy đây. Rồi Ngài cho các ông xem dấu vết nơi tay chân Ngài. Dường như ánh mắt nghi ngờ vẫn còn nơi các Tông đồ. Chúa Giêsu đã phải cho các ông thấy một dấu chứng khác khi hỏi các ông : Anh em có gì ăn không ? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng, Người ăn trước mặt các ông. Chắc chắn thân xác phục sinh của Chúa Giêsu không cần phải ăn uống, nhưng Ngài vẫn ăn trước mặt các Tông đồ, để các ông tin Ngài đã sống lại thật trong thân xác thật chứ không phải là ảo ảnh hay nằm mơ.

Dù thuyết phục các Tông đồ bằng các dấu chứng như thế, Chúa Giêsu vẫn muốn xây dựng đức tin của các Tông đồ trên nền tảng vững chắc hơn, đó là dựa trên Thánh Kinh. Ngài nhắc lại cho các ông tất cả các sách Luật, các Ngôn Sứ và Thánh Vịnh đã chép về Ngài phải được ứng nghiệm. Khi nhắc đến Môse và các Ngôn Sứ tức là nhắc đến toàn bộ Thánh Kinh đã nói trước về cuộc tử nạn phục sinh và ơn Cứu độ mà Đấng Cứu Thế sẽ thực hiện để cứu chuộc nhân loại. Tác giá Luca còn nhấn mạnh : Bấy giờ, Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Được Chúa mở trí tức là được Chúa phá đi màn đêm u tối, cho tâm hồn biến đổi thành một người mới.

Chúa Giêsu nhắc lại cho các Tông đồ những đoạn Kinh Thánh nói về Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại. Điều này chứng tỏ rằng : Để đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh và trở thành người loan báo về mầu nhiệm Phục Sinh cần phải đọc lại Kinh Thánh và tin vào những gì Kinh Thánh đã nói về Chúa Giêsu. Đây chính là nền tảng cho đức tin của chúng ta, vì ngày nay, chúng ta không được thấy Chúa Phục Sinh hiện ra, cũng không thấy ngôi mộ trống, nhưng chúng ta vẫn có thể tin và đón nhận Chúa Phục Sinh nhờ lời minh chứng của Kinh Thánh và của Giáo Hội.

Thánh Phêrô sau khi đã chứng kiến ngôi mộ trống, những lần Chúa hiện ra và đọc lại Kinh Thánh, ông đã tin. Niềm tin vào sự Phục Sinh đã biến đổi hoàn toàn con người của ông. Từ một con người nhát sợ, ông trở thành can đảm ; từ một người trốn tránh, nay ông dám đứng ra để nhận trách nhiệm làm chứng về Chúa Phục sinh. Bài đọc một cho thấy Phêrô đã trích lời Kinh Thánh và nhắc đến việc Thiên Chúa hứa với các Tổ phụ rằng sẽ ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Tuy nhiên, những thế hệ con cháu của các tổ phụ đã từ chối và đã đóng đinh Ngài trên cây thánh giá. Thiên Chúa quyền năng đã tôn vinh Đức Giêsu và làm cho Ngài từ cõi chết sống lại. Điều quan trọng lúc này là hãy sám hối về hành động ấy, quay trở lại với Thiên Chúa và tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô.

Cùng với việc tin Chúa Giêsu Phục Sinh thì cũng đồng thời phải nhân danh Người rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều đó. Đây là trách nhiệm Chúa trao cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa Phục sinh khi ta tin Ngài và đã gặp Ngài, vì nếu chúng ta chưa xác tín hoặc chưa gặp Ngài, lời chứng của chúng ta sẽ không đủ xác tín và thiếu thuyết phục. Như vậy, để trở thành chứng nhân về việc Phục sinh, chúng ta phải đọc và gẫm suy lời Kinh Thánh mỗi ngày. Kinh Thánh sẽ củng cố đức tin cho chúng ta. Giống như hai mộn đệ trên đường Emaus, cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình cũng có những lúc thăng trầm, sóng gió. Có nhiều khi toan tính, dự định không thành, làm ăn thất bại ; nhiều khi vì áp lực của xã hội khiến cho cuộc sống căng thẳng, mệt mỏi. Chúng ta tin rằng, Chúa Phục sinh không bao giờ để chúng ta thất vọng, Ngài luôn đồng hành bên ta để giúp ta tìm lại niềm vui cho cuộc sống. Chúa Giêsu cũng sẽ dùng Lời Kinh Thánh để an ủi, nâng đỡ mỗi người. Ngài sẽ cho chúng ta nhận ra Người trong bữa tối khi chúng ta cố mời ép Người vào cư ngụ trong gia đình, trong tâm hồn. Ngài hiện diện nơi Bí tích Thánh Thể để những ai đến với Ngài sẽ nhận ra sự hiện diện quyền năng của Ngài.

Tin và loan truyền Chúa Phục Sinh, chúng ta không thể để mình sống trong ủ dột, buồn chán, bi quan, thất vọng ; ngược lại, chúng ta phải sống trong niềm vui. Dân ngoại sẽ không thể đón nhận Tin Mừng chúng ta loan báo khi chúng ta mang trên mình gương mặt buồn bã, tinh thần uể oải. Niềm vui của Tin Mừng không phải là niềm vui ồn ào bên ngoài, mà là niềm vui phát xuất từ trong tâm hồn vì tin rằng chúng ta đã được cứu độ và trở nên con của Thiên Chúa. Niềm vui ấy sẽ phải lan tỏa ra cho mọi người, qua lời nói qua cử chỉ và qua cách sống đẹp của mỗi Kitô hữu nơi gia đình, nơi chòm xóm và nơi mỗi người đang làm việc.

Xin Chúa cho mỗi người cảm nhận được niềm vui Phục sinh và trở thành người loan báo tin vui Phục sinh cho anh chị em. Amen.

Về mục lục

 

 

TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY

Lm. Đan Vinh

  1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”(Lc 24,48).
  1. Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng của Thánh Lu-ca thuật lại sự kiện Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra lần thứ ba với các tông đồ tại nhà tiệc ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp ma, bằng cách cho xem tay chân bằng xương thịt của Người, và còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đấng Ki-tô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mạng là đi rao giảng sự ăn năn để được ơn tha tội, và làm chứng nhân về những điều mắt thấy tai nghe.
  1. CÂU CHUYỆN:

1) CON  NGƯỜI NGÀY NAY THÍCH NGHE CHỨNG NHÂN HƠN LÀ THẦY DẠY:

Trong một buổi chia sẻ giữa những người tĩnh tâm, một bà đã kể một câu chuyện nhỏ mà bà đã chứng kiến tại họ đạo của bà như sau: Hôm đó, lớp giáo lý trẻ em khá đông. Mấy chục em nhỏ đã lắng nghe cha phụ tá giảng bài giáo lý về thiên đàng. Cha đã giảng về thiên đàng với nhiều hình ảnh hấp dẫn và các em đều chú ý lắng nghe. Bất ngờ một em nhỏ giơ tay lên hỏi cha: “Thưa cha, cha đã lên thiên đàng chưa, và cha có xem thấy những điều cha kể không?

Mọi người nghe bà ta kể chuyện đều cười ồ tỏ ý tán thưởng. Bấy giờ người bạn ngồi bên cạnh ghé vào tai tôi khẽ nói: “Ngày nay người ta thích nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy“.

2) CÁCH LÀM CHỨNG CHO CHÚA CỦA MỘT TÀI XẾ TA-XI:

Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một phương cách làm tông đồ của một bác tài xế xe tắc-xi ở đó như sau:

“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường… Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:

– Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

– Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?

– Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời !

Một số hội đoàn Công giáo Tiến hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc lát-tích treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang đồng hành với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước quá giá, sẵn sàng trả lại đồ đạc cho khách hàng bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con đuợc khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây ra tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn được bình an và thần kinh con luôn ổn định. Xin đừng để con lái xe khi đã uống rượu say vì không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn THƯỢNG LỘ BÌNH AN”.

  1. THẢO LUẬN: 1) Qua hai câu chuyện trên, hãy cho biết: thế nào là làm chứng cho Chúa? 2) Theo bạn: Trong hai cách truyền giáo là bằng lời giảng và bằng lời chứng cho Chúa, cách nào mang lại hiệu quả hơn ? Tại sao ? 3) Hiện tại bạn có thể làm chứng cho Chúa thế nào ngay trong cuộc sống giữa đời thường ?
  1. SUY NIỆM:

– Làm chứng là dùng thế giá của mình để chứng thực những điều xác quyết là đúng do mắt thấy tai nghe và cảm nghiệm được, nhằm thuyết phục người khác tin theo. Đức Phao-lô VI đã nói: “Con người ngày nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy. Nếu họ có tin vào thầy dạy thì thầy dạy ấy đồng thời đã là những chứng nhân”.

– Ngày nay mỗi chúng ta có thể loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su bằng nhiều cách như sau:

Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su. Điều này mọi tín hữu đều có thể làm được cho con cái hay những người muốn tìm hiểu về đạo.

Làm chứng bằng việc khẳng định Đức Giê-su đã sống lại từ trong cõi chết như Ma-ri-a Mác-đa-la và một số phụ nữ viếng mồ Người đã làm sau khi đã gặp Chúa. Nhưng thực tế cho thấy những lời chứng của các bà đã không thuyết phục được mấy ai tin theo (x. Lc 24, 8-11).

Làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì đức tin, cương quyết không bước qua thập giá để được sống như các thánh Tử Đạo Việt Nam, quyết tâm không làm điều xấu để được hưởng lợi cách bất chính. Cách làm chứng này thực tế đã mang lại nhiều hiệu quả tốt đẹp như Téc-tuy-li-a-nô đã khẳng định: “Máu của các vị Tử Đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”.

Làm chứng bằng việc dùng chính cuộc sống đã được đổi mới của mình để biểu lộ quyền năng của Đức Giê-su Phục Sinh đã tác động và biến đổi mình, như các Tông đồ đã làm sau khi được đầy Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần. Bài giảng của Phê-rô đầy sự xác tín đã mang lại hiệu quả tốt là: ba ngàn người đã xin theo đạo (x. Cv 2,1-41).

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Phục Sinh. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa đã củng cố đức tin của các Tông đồ bằng việc cho các ông xem tay chân đã bị đóng đinh và còn ăn uống trước mặt các ông. Rồi khi các ông đã tin, Chúa đã trao sứ mạng làm chứng cho Chúa. Xin giúp chúng con ý thức và chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa bằng việc “sám hối và tin vào Tin Mừng”, năng xin ơn Thánh Thần mỗi khi Hiệp Sống Lời Chúa, luôn thấy Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo hèn để sẵn sàng chia sẻ cơm áo tiền bạc cho họ, thăm viếng những kẻ đau liệt, khoan dung tha thứ những kẻ xúc phạm đến mình, động viên những người đau buồn thất vọng… hầu chúng con có thể chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.- AMEN.

Về mục lục

 

ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con.
Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma.
Có lần Ðức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ,
nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma.
Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ,
họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma.
Ðấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách
để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng.
Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài
để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt.
Ngài còn ăn một miếng cá nướng
để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.
Khi các môn đệ yếu đức tin,
họ coi Ðức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma.
Nhưng khi đức tin của họ được củng cố,
họ mới thấy Ngài có thực.
Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa,
vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ,
giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược,
hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau.
Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến.
Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài.

Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.
Ðức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ.
Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại.
Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời.
Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.
Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi
ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế.

Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.
Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết.
Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động.
Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người.
Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ.
Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không đâu.
Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt,
và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết.
Họ phải là nguồn sống dồi dào,
sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.

Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui.
Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học.
Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc.
Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền.
Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa,
nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình,
chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh,
bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.

Chuyện Ðức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin.
Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ
thì người ta có thể gặp đươc Ðấng đang sống.

Cầu Nguyện

Giữa một thế giới
chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích của cải.

Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu
xin cho con cảm được
cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa:
“Các con hãy cho họ ăn đi.”

Ước gì chúng con dám trao
tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có
cho chúng con và cho cả nhân loại.

Về mục lục

 

ĐƯỜNG EMMAUS

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Con đường này không dài cũng không ngắn. Con đường dài hay ngắn của mỗi người vẫn tùy thuộc việc rất cụ thể: “Mắt họ mở ra” (Lc 24, 31). Việc được mở mắt trở nên việc cần thiết để nhận ra ý nghĩa cuộc đời mình.

Đường đi mỗi người.

Có những con đường đi mỗi ngày, đi rồi đến, đến rồi đi. Ngày nào cũng thế, một hành trình lập đi lập lại, đến quen thuộc, đến nhàm chán. Con đường đi, nhiều hôm phải tắc nghẽn, tiến lên chậm chạp, khói xe, hơi nóng, mồ hôi quện vào nhau, như chẳng còn muốn đi mà vẫn phải đi. Những con đường ấy biết bao người vẫn đang đi, vẫn phải bươn trải để sống, để tồn tại. Câu chuyện của họ thường ngày vẫn là những cực khổ, lao nhọc, cố nhích từng tý để vươn tới, nhưng vẫn xa.

Câu chuyện ấy, ngày xưa Thánh Luca thuật lại việc hai môn đệ trên đường Emmaus. Không biết danh tính họ là ai, điều này cũng có thể chỉ đến những con người ngày hôm nay vẫn phải ra đường ngày hôm nay, dù chật chội, dù có nhích lên từng bước. Những bước chân mỏi mệt của hai môn đệ không phải vì đường xa mà vì thất bại trở về u sầu. Những con đường đi của mỗi người đôi khi cũng thế, cố gắng năm này qua năm khác, biết bao công sức, rồi cả những ngày đau khổ thể xác, tinh thần, cuối cùng vẫn buồn chán vì thất bại trở về khi đi tìm những gì ngoài Thiên Chúa.

Trên con đường trở về có người khách lạ cùng đường đi. “Khi các cánh cửa ra vào đều đóng kín, Thiên Chúa sẽ mở một cánh cửa sổ làm lối thoát”. Đó là kinh nghiệm của Thánh Nữ Têrêsa hài Đồng Giêsu. Trưởng thành trong đức in là đóng lại các lối quan niệm cũ, những kiếm tìm lạc hướng, những gì còn bụi trần, để mở ra con đường mới. Khép lại quá khứ, nhìn ra những thiếu sót, riêng con người cũng khó nhận ra. Hai môn đệ được giải thích Thánh Kinh trên đường đi, người khách bộ hành đã dần dần khép lại lối cũ và mở ra hướng nhìn mới. Kinh nghiệm trên đường đi mỗi người là rà lại đời sống của mình theo Thánh Kinh, Thiên Chúa sẽ cho thấy nguyên nhân của thất bại và dẫn đến cái nhìn mới.

Mắt họ mở ra.

Cụm từ “mắt họ mở ra” nói lên nhiều điều.

Trong việc nhận ra Chúa Giêsu lúc Người bẻ bánh, Thánh Luca muốn nhấn mạnh đến điều quan trọng của đời sống người Kitô hữu về việc tham dự Thánh Lễ để gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Bữa tiệc, bàn ăn, ở lại, là những từ ngữ biểu hiện của tình yêu. Mở mắt ra vì thấy mình được yêu thương hơn mình tưởng, là kinh nghiệm của nhiều người khi nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi đồng bàn với Chúa, con người phàm nhân mới nhận ra: “thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8, 5).

Mắt mở ra vì nhận ra cái tôi ích kỷ của mình đã kềm hãm biết bao điều tốt đẹp bị bỏ qua. Tiến trình khai mở về cái tôi là một cần thiết để mở ra. “Mời ông ở lại với chúng tôi”. Mở lòng ra sẽ đón nhận nhiều điều tốt đẹp ở lại, nhất là khi mời Chúa đến cư ngụ trong tâm hồn. Đối thoại với Chúa, chia sẻ được nỗi lòng là đã tiến hơn một bước trong tình bạn với Chúa. Chúa đã mở mắt cho người mù, mở những tâm hồn cô quạnh để gặp gỡ, Chúa cũng sẽ mở mắt để nhận ra sự sống mới của Người và phục sinh có nghĩa là sống đời sống mới, một đời sống tươi vui trong Chúa.

Trở về với bạn hữu.

Thường sau khi giác ngộ là trở về với đời sống thật. Cây đích thực là cây, người đích thực là người. Phân định rõ ràng thực ảo giữa đời sống hằng ngày là một sự trở về đích thực. Sau khi nhận ra Chúa lúc Người bẻ bánh, hai môn đệ quay trở về lập tức. Mắt đã sáng, bóng tối không còn che khuất, niềm tin không còn nghi ngờ, hành trình trở về mau mắn, tất cả là kết quả của hành trình tìm kiếm và gặp gỡ.

Gặp gỡ Chúa theo Thánh Gioan là hoán cải, thay đổi cuộc đời của mình. Với Thánh Luca gặp gỡ Chúa Phục sinh là hăng hái trở về gặp gỡ anh chị em, sống với anh chị em, xây dựng đời sống cộng đoàn cầu nguyện và chứng nhân Tin Mừng.

Hành trình Emmaus có thể thấy, đó là hành trình mỗi ngày của cuộc sống. một hành trình, có Chúa đi bên cạnh. Chỉ cần lắng nghe Chúa nói, giảng giải Thánh Kinh. Lòng rộn rã, việc bỏ lại con người cũ trở nên dễ dàng để kết bạn với Chúa, mời Người ở lại và tham dự Thánh Lễ chính Người bẻ bánh. Ơn lành cuộc sống mới tuôn chảy và lòng hân hoan sống với anh chị em, hòa hợp trong sự khác biệt, xây dựng cộng đoàn đức tin và loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho người khác.

Xin cho chúng con được gặp gỡ Chúa để đổi mới chúng con.

Về mục lục