Các bài suy niệm Chúa Nhật 3 Phục Sinh_ A

1366

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm A

Lời Chúa: Cv 2,14.22-33; 1Pr 1,17-21; Lc 24,13-35

——-

Mục lục

  1. Người Lữ Hành (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
  2. Mời Ông Ở Lại ( Lm. Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  3. Con tim đã vui trở lại (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  4. Khi con đau khổ Chúa ở đâu? (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  5. Tôi sống, không phải tôi (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  6. Hành trang Phục sinh (Jorathe Nắng Tím)
  7. Cho lòng bừng cháy (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  8. Tưởng chừng không còn gì (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)
  9. Đức Kitô Phục sinh là đường dẫn ta về cõi sống (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
  10. Chúa Phục sinh an ủi những người thất vọng  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
  11. Nhận ra sự hiện diện của Chúa  (Lm. Trần Bình Trọng)
  12. Để gặp gỡ Đấng Phục sinh (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  13. Chúa vẫn trung thành hiện diện  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
  14. Hành trình Em-mau (Lm. Xuân Hy Vọng)
  15. Nhận diện  (Trầm Thiên Thu)
  16. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 3 PS_A  (Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

1. Có Chúa trong đời  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau  (Gm. Phêrô Nguyễn Khảm)

3. Một Thiên Chúa đồng hành với con người  (Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt)

4. Đường Emmau  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

5. Phục sinh cho đời  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

6. Cánh cửa bừng sáng  (Anna Cỏ may, Thanh Tuyển sinh MTG. Thủ Đức)

7. Chứng tá cho Chúa Kitô (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

8. Suy niệm Chúa Nhật III Phục sinh. Năm A   (Lm. Anthony Trung Thành)

9. Emmaus – Thành phố chiến thắng  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Nhận ra Chúa là điều quan trọng  (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

11. Loan truyền niềm tin  (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh)

12. Hành trình đức tin (JM. Lam Thy, ĐVD)

13. Nhận biết Đấng Phục sinh (Trầm Thiên Thu)

14. Nhận ra Chúa Phục sinh khi Người bẻ bánh  (P.Trần Đình Phan Tiến)

15. Sẻ chia tâm sự  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

16. Phục sinh và sứ điệp bẻ bánh  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

17. Gặp gỡ Chúa Phục sinh  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

18. Lời Chúa và Thánh Thể  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

19. Hai niềm vui chan hòa trong một lần gặp gỡ  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

20. Cần Chúa giải phóng  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

21. Đồng hành  (AM. Trần Bình An)

22. Cảm thông (Lm. Trần Việt Hùng)

23. Điểm tựa vững chắc – Xin Thầy ở lại với chúng con! (Lm. Giuse Nguyễn)

24. Nóng bỏng con tim  (Lm. Vũ Đình Tường)

25. Hành trình Emmau  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

26. Đồng hành với Chúa trong cuộc đời (Lm. Đan Vinh)

27. Emmaus   (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

28. Chúa Nhật 3 Phục sinh_A  (Lm. Antôn)

 

NGƯỜI LỮ HÀNH

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Lững thững bước trên đường, hai môn đệ mệt lả, buồn thiu, kể lại với nhau chuyện cũ. Dường như có rất nhiều người đi đường nhưng chẳng ai để ý đến ai. Bất chợt Đức Giêsu Phục sinh tiến đến, đi cạnh bên hai ông, nhưng vì mắt các ông còn bị ngăn cản nên không nhận ra Người. “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17). Thấy có người quan tâm, một người tên là Clêôphas trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” (Lc 24, 18). “Chuyện gì vậy”, Đức Giêsu hỏi. Vậy là suốt quãng đường ngày hôm ấy, hai môn đệ có Chúa Giêsu Phục sinh đồng hành mà chẳng ai hay. Mãi đến khi được dùng bữa với Ngài, mắt các ông mới mở ra, họ nhận ra Ngài.

Chúng ta có thể thấy, Đức Giêsu Phục sinh không chỉ hiện ra với các phụ nữ, với các Tông đồ mà Người còn hiện ra với các môn đệ – nhóm Bảy mươi hai. Dường như Đức Giêsu Phục sinh đã giả bộ. Ngài giả bộ không hay biết gì về chuyện hai người đi đường kia đang bàn tới. Người nhìn thấy nét mặt đượm buồn của các ông. Người biết rõ nhưng lại tỏ vẻ không hay biết gì. Cái giả bộ của Chúa Giêsu Phục sinh ngày hôm ấy thật dễ thương. Người giả bộ không hay biết gì để có thể tiếp cận, cùng đi với hai ông. Dường như đoạn đường ngày hôm ấy bỗng trở nên ngắn hơn, nhẹ nhàng hơn với hai ông khi có người chia sẻ. Hai ông nào có biết người đang đi cùng mình, đang lắng nghe tâm tư của mình chính là Thầy Giêsu. Chẳng biết quãng đường hôm ấy các ông đi trong bao lâu, nhưng nó đủ dài để Đức Giêsu có thể giải thích cho các ông hiểu về Kinh Thánh, từ ông Môsê cho đến các ngôn sứ, tất cả những gì liên quan đến Người. Đến đây, lòng các ông mới chỉ rạo rực lên.

Đoạn Người còn giả bộ phải đi xa hơn một chút, các ông mới nài nỉ Người ở lại với các ông vì trời đã xế chiều, ngày sắp tàn. Lòng các ông rạo rực lên khi nghe Người giải thích Kinh Thánh, nhưng vẫn chưa biết đó là Người. Điều gì đến sẽ phải đến. Khi dùng bữa với nhau, các ông mới nhận ra Người qua cử chỉ quen thuộc: “bẻ bánh”. Mắt các ông mở ra và nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Vui quá. Vậy ra người đi cùng họ suốt đoạn đường ngày hôm ấy chính là Thầy Giêsu, nhưng là Thầy Giêsu Phục sinh. Ngay lúc ấy, họ không ngần ngại trở về Giêrusalem báo tin vui cho các bạn đồng môn được hay. Chắc hẳn, ngọn lửa được thắp lên trong lòng các ông hãy còn cháy, nó đủ mạnh để chiếu sáng tâm hồn các ông, giúp các ông băng băng trên con đường trở về. Tin vui gặp tin vui, các ông rối rít kể cho nhau nghe về việc Đức Giêsu Phục sinh đã hiện ra gặp gỡ mỗi người thế nào. Cả căn phòng tràn ngập ánh sáng của niềm vui, hy vọng và hạnh phúc.

Đoạn đường từ Giêrusalem đến Emmau trời hãy còn sáng, nhưng lòng các ông còn u tối, đượm buồn bởi mất hết hy vọng. Ánh sáng mặt trời không đủ sáng để xuyên thấu cái đêm đen trong tâm hồn của các ông. Cho tới khi “khách lữ hành” xuất hiện, song hành cùng hai môn đệ, bức tranh tiếp tục chuyển màu. Họ vừa đi vừa trao đổi với nhau thì trời càng về tối. Tối đến nỗi các ông phải tìm chỗ nghỉ chân. Ấy vậy, trong cái tối của đất trời nhưng lại lóe lên một ánh sáng rực rỡ. Ánh sáng ấy lóe lên từ đốm lửa được Đức Giêsu Phục sinh đốt lên trong lòng các ông khi Ngài giải thích Kinh thánh và những gì liên quan đến Ngài cho các ông. Ngọn lửa ấy tiếp tục cháy và bùng lên cho tới khi các ông bắt gặp cử chỉ quen thuộc: “bẻ bánh”, mắt các ông mở ra và các ông nhận ra Người. Ánh sáng của Đức Giêsu Phục sinh chiếu rọi tâm hồn các ông, giúp các ông bước đi trong cái tối của đất trời, chỉ mong mau gặp lại các bạn đồng môn và kể cho họ tin vui này.

Đức Giêsu Phục sinh có đang cùng chúng ta bước đi? Người có là “khách lữ hành” của mỗi người chúng ta như hôm nào cùng hai môn đệ trên đường Emmau? Thiết nghĩ, trong hành trình tiến về quê trời, có những đoạn đường ta bước đi trong hân hoan, vui sướng nhưng cũng không ít những đoạn đường ta bước đi trong mệt mỏi, chán nản, thất vọng. Thực ra, dù ở đoạn đường của yêu thương, hạnh phúc hay đoạn đường của chán nản, thất vọng thì Đức Giêsu Phục sinh vẫn luôn sẵn sàng tiến tới, đi bên cạnh ta. Có khi Ngài cũng đang giả bộ với ta như đã giả bộ với hai môn đệ trên đường Emmau hôm nào. Người sẵn sàng trở thành “khách lữ hành” của mỗi người chúng ta, cùng chúng ta bước đi, lắng nghe và chia sẻ mọi tâm tư của ta. Có lúc, Người cũng thẳng thắn trách móc vì sự cứng lòng và chậm tin của ta: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 25-26). Nhưng rồi lòng chúng ta cũng sẽ được cháy rực lên khi được Người giải thích Thánh kinh, và những gì liên quan đến Người cho ta. Chúng ta có nhận ra Người trong cử chỉ “bẻ bánh” của Người?

Lạy Chúa Giêsu Phục sinh! Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn đồng hành cùng chúng con. Xin giúp chúng con biết chạy đến với Chúa qua từng thánh lễ. Bởi nơi đó, chúng con sẽ được Người dùng Lời mà dạy bảo, được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Thánh Châu báu của Ngài. Đoạn đường Emmau hôm nào cũng đang mời gọi con nơi mỗi Thánh lễ. Chúa là “khách lữ hành” chủ động tiến đến và song hành cùng chúng con. Chúa hiện diện bước đi, lắng nghe, chia sẻ cùng chúng con đoạn đường chúng con đang đi. Xin giúp mỗi người chúng con nhận ra Chúa dù ngày xế tàn, để chúng con biết trở về cùng Chúa, loan tin vui Phục sinh cho anh chị em. Amen.

Về mục lục

MỜI ÔNG Ở LẠI

Tuần 3 Phục Sinh-A: Lc 24, 13-25

Lm Jos. DĐH, HP. Xuân Lộc

Kiến thức phong phú cho ta sự tự tin khi đối phó với mọi tình huống. Ý chí quyết tâm minh chứng ta dồi dào năng lượng, đang sử dụng tự do của mình cách tốt nhất. Bản lĩnh, không dễ ngã gục trước thất bại, phần nào chứng tỏ ta tạm trưởng thành, ví như lúc sai sót, việc làm kết quả không như ý, lại trở thành cơ hội vàng giúp ta rút tỉa kinh nghiệm. Quan niệm ở đời, người dũng cảm, không có nghĩa là không sợ khổ đau bầm dập, chính xác là sợ, nhưng luôn mạnh dạn tiến lên. Thắng không kiêu, thua không nản, được xem là động lực cần thiết, để đến đích thành công, vì: quan trọng không phải là đi nhanh hay chậm, miễn sao là đừng quay đầu bỏ cuộc. Để khuyên con cháu tự tin, đừng tự mãn, cha ông ta nói rằng: đừng chọn mua cuốn sách chỉ vì sự hấp dẫn bởi cái bìa, cũng đừng phán xét ai chỉ theo dáng vẻ bên ngoài. Nói cách khác, đừng yêu ai bằng mắt thể xác, mà hãy yêu bằng mắt tâm hồn.

Các chuyên gia tâm lý nhắn nhủ các bạn trẻ: nếu bạn thích một người, hãy can đảm nói ra, nếu không, hãy can đảm nhìn người đó rẽ sang một hướng khác ! Đấng phục sinh vì yêu, đã theo sát và đồng hành với hai môn đệ làng Emau, lắng nghe hai ông trút bầu tâm sự: “chắc ông là khách hành hương duy nhất không biết chuyện vừa xảy ra mấy ngày nay…”. Điều kỳ diệu không khỏi làm nhiều người giật mình: đàn ông con trai yêu bằng đôi mắt, nhưng lại khóc bằng trái tim ! Trong khi hai môn đệ mắt bị phủ kín bởi buồn chán, thất vọng, để rồi miệng lưỡi cứ tuôn ra lời ai oán, khó hiểu, tại sao chết, chôn táng, tại sao có tin đồn Thầy sống lại, còn Thầy thì chẳng thấy đâu ? Hai môn đệ chê Vị khách lạ vô tâm vô tư đến độ không hay biết sự việc vừa xảy ra ở Giêrusalem, ấy thế, Vị khách lạ lại biết lắng nghe, cảm thông, và rất am tường về kinh thánh.

Chân lý cuối cùng trên cõi đời này là tình yêu, yêu là sống, còn sống là còn yêu. (Voltaire). Phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa, Thầy Giêsu vì yêu đã vâng lời Chúa Cha, chịu chết trên thập giá, được chôn táng và sống lại, Ngài là tình yêu bất tử được ban cho nhân loại. Đấng phục sinh không còn lệ thuộc thời gian, không gian, ơn bình an và tình yêu của Đấng phục sinh, không giới hạn nơi các tông đồ hay một số người thánh thiện, nghĩa là tình yêu Đấng cứu độ sẽ đến với cả người tội lỗi. Mời Thầy đồng hành hay Đấng phục sinh tự xuất hiện, đều là cách diễn tả tình yêu của Đức Kitô đã và đang trải rộng khắp thế giới. Đấng phục sinh chính là Lời yêu thương củng cố niềm tin, cụ thể nơi hai môn đệ làng Emau. Đấng phục sinh giải thích kinh thánh, và mở trí mở lòng cho các ông, cho chúng ta: cuộc đời mỗi người là một cuốn sách, gặp trang sách buồn, hãy mạnh mẽ lật trang khác, đừng gấp lại, đừng bỏ cuộc.

Mời ông ở lại hay xin Đấng đã chiến thắng tử thần, đoái thương, quan tâm đến đoàn chiên, vẫn mãi là điều kiện thiết thực mà mỗi người đang tự do bày tỏ niềm tin của mình. Có ai là vô tội, có ai là toàn thiện, có ai tự sửa chữa được tính hư tật xấu của mình ? Có thể nhiều người ảo tưởng cho rằng: tôi không nhìn điều xấu, tôi không nghe chuyện xằng bậy, không nói điều sai quấy, và chẳng hề làm chuyện thất đức, thế là ok ! Đúng là tự ban đầu ai cũng tóc đen máu đỏ, nghĩa là mọi người đều có tâm trạng trước đau khổ hay hạnh phúc, bởi từ sâu thẳm tâm hồn đã được nhắc nhớ sống yêu thương, bổ túc, giúp nhau, đạt tới hạnh phúc. “Mời ông ở lại với chúng tôi vì trời đã chiều và ngày sắp tàn…”. Chắc không phải là xã giao, không phải vì đói khát, mà vì sự cháy bỏng giữa tình Thầy-trò, dù sao vẫn mang một nghĩa cử đẹp: lời chào cao hơn mâm cỗ.

Mời ông ở lại: chuyện buồn, chuyện vui, chuyện ông Giêsu Nagiarét, chuyện các thượng tế và kỳ lão cư xử bất công, xin hãy gác lại, hãy nói về tình bạn, tình yêu thương, đào sâu hơn việc phải qua đau khổ thập giá rồi mới tới vinh quang. Mời ông ở lại, vì sự đồng hành của bạn, vì những gợi ý từ cựu ước, đã và đang làm rung động con tim khối óc, đang làm sáng tỏ tâm tư nơi anh em chúng tôi. Mời ông ở lại, tình bạn, tình yêu, đánh động ký ức chúng tôi nhớ đến Vị Thầy, và đúng rồi, việc bẻ bánh, cho biết bạn là Thầy Giêsu, là Đấng phục sinh đang thức tỉnh anh em chúng tôi. Thật là vui: nợ ai một chút chớ quên, ơn ai một chút phải nên đáp đền. Tình bạn, tình Thầy-trò, tình Chúa yêu thương, thật kỳ diệu, dù muốn hay không, nào ai điều khiển được ? Hãy đứng thẳng lên, hãy tin rằng: nước mắt chảy xuôi, cha mẹ thương con, thầy thương trò, dù con quậy phá, trò lười biếng !

Mời ông ở lại, dù nhút nhát dại khờ, chậm tin hay cứng lòng tin, Thầy đã nhắc và chúng con ghi nhớ, dù trang sách dơ bẩn của con được tẩy xoá, dù trở lại Giêrusalem, nhưng chúng con không thể sống mà thiếu tình yêu thương của Thầy ! Mời ông ở lại, nhắc nhớ tình liên đới hiệp thông giữa tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể, lưu ý hành trình đời người sẽ tới bến bờ bình an khi có Đấng phục sinh. Mời ông ở lại, còn là kinh nghiệm quý báu, vì: cái mất đáng tiếc nhất là thời gian, cái mất đáng buồn nhất là cơ hội, cái mất đáng sợ nhất là niềm tin ! Đấng phục sinh không nói đến tội hay phúc, không nhắc lại quá khứ, không hứa hẹn tương lai, và hài lòng với thời khắc hiện tại: “mời ông ở lại với chúng tôi”. Hãy vui lên, Đấng phục sinh hằng ở cùng ta. Amen.

Về mục lục

CON TIM ĐÃ VUI TRỞ LẠI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Luca là tác giả duy nhất kể lại câu chuyện hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem trở về Emmaus. Bố cục văn chương cũng như nội dung hàm chứa những nội dung rất sâu sắc. Tác giả muốn khẳng định với chúng ta:

* Khi chúng ta thất vọng, có Chúa đồng hành để nâng đỡ, mặc dù chúng ta không cảm nhận được sự hiện diện của Người.

* Khi chúng ta đã nhận ra Chúa và đã tìm được niềm vui, thì Người lại ẩn mình đi. Ẩn mình không có nghĩa là vắng bóng, mà chỉ là sự hiện diện huyền nhiệm mà thôi.

Trong hành trình cuộc đời, Đấng Phục sinh vẫn hiện diện bên chúng ta. Nhờ sự đồng hành và nâng đỡ của Người, mà chúng được bình an và thấy con tim vui trở lại. Phụng vụ mùa Phục sinh muốn khẳng định với chúng ta điều ấy.

Chúa Giêsu đã bị một số người Do Thái lên án tử bằng hình thức đóng đinh vào thập giá. Bản án đã được thi hành theo ý muốn của thày Thượng tế, các luật sĩ và biệt phái. Công chúng ở Giêrusalem đều biết rõ vụ việc và nhiều người đã trực tiếp chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu. Tuy vào thời chưa có hệ thống thông tin hiện đại như ngày nay, nhưng “vụ án Giêsu” là một sự kiện nổi bật, không ai mà không biết. Vì vậy, hai môn đệ ngạc nhiên thấy vị khách đi cùng đường với mình, cũng từ hướng Giêsusalem về ngoại ô, mà không biết sự kiện này. Tuy vậy, hai ông này cũng giống như đại đa số những người đã chứng kiến vụ án, đều chỉ nhìn nhận sự kiện với cái nhìn hoàn toàn thế tục. Kinh Thánh kể các ông đã có một thời theo Chúa Giêsu làm môn đệ Người, các ông cũng hoàn toàn thất vọng, như các ông đã thú nhận: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng, chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israen”. Cùng với lời thú nhận này, là tâm trạng buồn bã, chán nản thất vọng. Các ông cũng có nghe mấy người phụ nữ nói về ngôi mồ trống và lời đồn Chúa đã sống lại, nhưng các ông cho đó là chuyện tầm phào, chẳng đáng tin.

Tâm trạng và lý luận của hai môn đệ, cũng là tâm trạng và lý luận của nhiều người trong thời đại của chúng ta. Đối với họ, Chúa Giêsu đã chết. Việc Chúa sống lại chỉ như câu chuyện tầm phảo, viển vông. Chính quan niệm này làm cho người vô tín chìm đắm trong bi quan, chán nản và thất vọng, khi họ đối diện với những khó khăn trên đường đời.

“Người khách lạ” đã gợi ý để hai môn đệ nhìn nhận sự kiện dưới cái nhìn khác. Là người Do Thái, hai ông dễ dàng hiểu vấn đề khi nghe người khách lạ liên hệ và trích dẫn lời các ngôn sứ, cộng với việc hồi tưởng những gì Chúa Giêsu đã làm và đã giảng dạy. Từ những chia sẻ của vị khách đi đường, niềm vui và hy vọng đã trở lại với các ông. Cử chỉ bẻ bánh là điểm mấu chốt giúp hai ông khẳng định, người khách đồng hành chính là Thày mình, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Chính lúc các ông nhận ra Người, thì Người biến mất. Hai ông đã thoát ra khỏi tâm trạng bi quan thất vọng. Sự thao thức kể lại cho anh em tin vui này đã khiến các ông trở về Giêrusalem ngay trong đêm. Trở về Giêrusalem là trở về với nơi đã làm các ông thất vọng. Các ông đã trở về Giêrusalem với tâm trạng mới mẻ, đầy tràn niềm vui và nghị lực.

Đức Giêsu không phải là một nhân vật huyền thoại. Cuộc khổ nạn và phục sinh của Người đã được tiên báo qua các ngôn sứ. Trong bài giảng ngài lễ Ngũ Tuần, Thánh Phêrô can đảm làm chứng về sự kiện phục sinh. Ông lược qua những gì đã được ghi chép trong Kinh Thánh Cựu ước, để khẳng định với thính giả rằng: “Theo kế hoạch của Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại”.  Vị Tông đồ còn quả quyết: “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”. Niềm xác tín của thánh Phêrô vừa dựa trên sự kiện, vừa căn cứ vào truyền thống Thánh Kinh.

Lễ Phục sinh và tuần Bát nhật đã kết thúc. Chúng ta đang từng bước trở về với những sinh hoạt đời thường. Phụng vụ lưu ý chúng ta: Đấng Phục sinh đang hiện diện và đồng hành với chúng ta, dù chúng ta không nhìn thấy người bằng con mắt thể lý. Lễ Phục sinh nhắc người tín hữu phải sống phù hợp với mầu nhiệm họ cử hành. Thánh Phêrô viết cho các tín hữu: “Nếu anh em gọi Thiên Chúa là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này” (Bài đọc II).

Giữa những lo âu của cuộc sống hôm nay, nhất là giữa đại hoạ của bệnh viêm phổi Vũ Hán (COVID-19), mầu nhiệm Phục sinh chiếu toả ánh sáng của niềm hy vọng. Cuộc sống dù đau buồn đến đâu, đừng quên Chúa đang đồng hành với chúng ta. Hãy nhận ra sự hiện diện của Người để cảm nhận sự ngọt ngào Chúa ban.

Về mục lục

KHI CON ĐAU KHỔ CHÚA Ở ĐÂU?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người Việt Nam khi gặp hoạn nạn hay khó khăn thường hay nói đây là ý Trời, rồi khuyên bảo nhau cứ ráng mà chịu, vì “Trời cho ai người ấy hưởng”. Và điều ấy dẫn tới niềm tin vào định mệnh. Định mệnh Trời đã an bài. Trời đã định chẳng thoát được đâu? Con người có số nên chẳng chạy thoát được số Trời đã an bài.

Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng chịu ảnh hưởng của định mệnh nên viết như sau:

Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

Hoặc trong bài ca dao dí dỏm mà chúng ta đã học từ nhỏ rằng:

Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay tới tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm?

Ông Trời thật gần gũi thân thương. Trời cũng bị khói đen của những nỗi oan làm cay mắt, cũng bực mình xót xa cho nỗi đau nhân thế.

Ông Trời cũng biết cái hoạ của con người là do chính con người gây nên Ông Trời mới giận dữ bảo rằng: “Thằng nào đốt rơm?”.

Nhìn vào thế thái nhân tình hôm nay có lẽ Ông Trời cũng cay mắt, giận dữ hỏi rằng: “Thằng nào làm ra Covid 19?”. Vạn vật đều có căn nguyên. Vậy sự dữ Corona Vũ Hán này ở đâu mà ra? Ai phải chịu trách nhiệm về bể dâu tang thương khiến cả thế giới phải dừng lại mọi sinh hoạt, mọi giao thương để bảo vệ cho chính mình và cho quốc gia. Ai đã gây tan thương khiến gần 200 ngàn người đã chết và hơn 2 triệu người nhiễm dịch trong lo âu sợ hãi?

Lời Chúa Tuần Thứ Ba Mùa Phục Sinh cho ta thấy một hình ảnh thật gần gũi của Chúa Giê-su sau khi sống lại. Chúa Giê-su đã cùng với hai môn đệ Emmau đốt một đống rơm để hàn huyên và chia sẻ về những gì đang xảy ra. Xem ra Chúa Giê-su cũng đang cay mắt vì đống rơm khắc nghiệt mà 2 môn đệ đang nói lên cùng Ngài. Nhưng ở đây ta thấy Chúa Giê-su rất hiểu nỗi đau của 2 môn đệ nên Ngài đã chủ động ngồi lại tâm sự để họ có cơ hội kể lể trút hết bầu tâm sự trong cái “khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào”. Và Chúa Giê-su đã cho các ông được dịp nhìn lại lịch sự dân tộc mình, những bước tưởng rằng phí lý nhất lại đã là mốc ghi cho một niềm tin cao hơn là những giải quyết luẩn quẩn trần tục.

Hoá ra trong những biến cố lớn của lịch sử con người phải có cái nhìn đức tin để thấy Thiên Chúa đang viết lại lịch sử. Đừng theo thói quen để rồi ôm ghì lề luật cứng nhắc mà đau khổ than van. Trong hành trình Emmau các ông đã đau buồn vì chỉ nhìn vào nỗi tang thương của Thứ Sáu Tuần Thánh nhưng không đủ đức tin để nhìn vào ngày thứ ba sau khi chết Ngài sẽ sống lại nên các ông buồn, khóc lóc và thất vọng.

Đúng vậy. Cuộc sống mỗi người cũng nhiều nỗi đau xót oan khiên, chỉ có thể được hóa giải bằng con mắt niềm tin thấy được Chúa đã sống lại và đang đi bên cạnh, đang tâm sự, đang vỗ về hỏi han.

“Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Luca 24:32).

Tôi không phải là nhà Kinh Thánh hay Thần Học để có thể đọc được ý Chúa đang dạy gì chúng ta qua biến cố Đại dịch Covid này, nhưng tôi tin vào Thiên Chúa đã xuống thế và ở cùng chúng ta. Ngài đã trở nên gần gũi đến nỗi có thể hiểu được ngôn ngữ bình dân nhất của chúng ta, chỉ cần chúng ta thấy đói thì kêu, thấy buồn thì khóc, thấy khổ thì cầu Trời, thì Trời cũng cay mắt vì nỗi đau mà con người đang phải gánh chịu.

Cách cầu nguyện dân dã ấy đã được cha ông Việt Nam truyền tụng cho con cháu. Mỗi khi gặp những niềm đau và nỗi oan khiên thì hãy cùng nhau đốt một đống rơm để cái mùi khói chẳng thơm tho chút nào ấy bay cao làm cay mắt ông Trời thì ông liền quát hỏi: đứa nào đốt rơm?

Và hãy tin rằng: Trời nào có phụ ai đâu! Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ!

Người Công Giáo gọi Trời là Thiên và còn là Chúa Cả trời đất đã đến cư ngụ giữa chúng ta. Vậy chúng ta hãy chung nhau đốt đống rơm là những lời tâm sự đầy lo âu, buồn phiền dâng lên Ngài, chắc chắn, Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta, và nhất là xin Chúa mạc khải để chúng ta hiểu được ý Chúa mà sống theo sự hướng dẫn của Ngài. Amen

Về mục lục

TÔI SỐNG, KHÔNG PHẢI TÔI

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Lời tuyên xưng rất đặc biệt của thánh Phaolô đã reo lên: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Chúa Thánh Thần làm cho Đức Kitô sống lại và làm cho Đức Kitô sống trong tôi. Đó là niềm xác tín của Thánh Phaolô, Chúa Kitô Người đang sống.

Tôi sống, không phải tôi sống.

Kinh tin kính chúng ta tuyên xưng: “Chúa Thánh Thần là Chúa và là Đấng ban sự sống”. Thánh Phaolô cũng cho thấy sống sự sống mới là sống nhờ Chúa Thánh Thần. Người Kitô hữu không chỉ sống theo như là theo gương của một ai đó, học ở ai đó hoặc theo tư tưởng của ai đó được tô vẽ trên trần gian này. Người Kitô hữu sống nhờ Chúa Thánh Thần là sống cùng Chúa Giêsu Kitô. Người đang sống, không như một người nào đó đã chết từ lâu năm, lấy di ngôn, di chúc của người đó mà sống theo.

Chúa Kitô, Người đang sống là một đề tài Thánh Phaolô luôn sống cùng, sống với và sống trong Người. Khi Thánh Phaolô viết: “Chính Chúa Kitô sống trong tôi”, đó là cách sống ngài luôn thuộc về.

Sống cùng Chúa Kitô là sống với sự hiện diện của Người khi tham dự các bí tích trong Giáo Hội. Chính Chúa là Đấng đang hiện diện khi Người cử hành các bí tích qua thừa tác viên. Nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô trong khi cử hành bí tích Thánh Thể, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho lễ dâng trần thế lên cùng Chúa Cha. Hiệp thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Thánh Phaolô viết trong lời kết vinh tụng ca, thư gửi tín hữu Roma: “ Kính chúc Người, Thiên Chúa duy nhất và khôn ngoan, nhờ Ðức Yêsu Kitô, vinh quang đời đời kiếp kiếp. Amen.” (Rm 16, 27)

Hiệp thông trong Giáo Hội. Sống với Chúa không chỉ sống cho mình hay cho một cộng đoàn mà là sống trong hiệp thông cùng với Giáo Hội. Thánh Phaolô theo trình thuật của ngài, lời rao giảng không do loài người, mà chính ngài thụ giáo nơi Chúa Kitô, và thuộc về Giáo Hội: “Rồi sau ba năm, tôi mới lên Yêrusalem tham kiến Kêpha, và tôi đã lưu lại với ông mười lăm ngày. Các Tông đồ khác, tôi không gặp ai, duy chỉ có Yacôbê, người anh em của Chúa” (Gl 2, 18 – 19). Người Kitô hữu không chỉ thuộc về một cộng đoàn mà thuộc về Giáo Hội nên sống với Chúa là vâng nghe giáo huấn Giáo Hội giảng dạy.

Hiệp thông trong đau khổ. Để sống với Chúa, Thánh Phaolô luôn mời gọi sống trong sự khổ chế, nghĩa là từ bỏ lối sống theo xác thịt. Ai sẽ giúp ta ra khỏi lối sống xác thịt chính là Chúa Thánh Thần mà Thánh Phaolô mời gọi: “Nếu Thần khí của Ðấng đã cho Ðức Yêsu sống lại từ cõi chết cư ngụ trong anh em, thì Ðấng đã cho Ðức Yêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ tác sinh thân xác chết dở của anh em, nhờ bởi Thần khí của Người cư ngụ trong anh em” (Rm 8, 11). Đi trên hành trình trần thế , con người được mời gọi vác thập giá mình theo Chúa, thập giá ấy là những khổ chế trong luyện tập đời sống thiêng liêng, thông hiệp cùng với tất cả anh chị em đang đau khổ, cùng với đau khổ của ta: “Nay tôi vui sướng trong các nỗi thống khổ chịu vì anh em; và trong thân xác tôi, tôi bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi quẫn bách Ðức Kitô phải chịu vì Thân mình Ngài, tức là Hội thánh” (Cl 1, 24)

Xin Chúa cứu con khỏi cái tôi.

Tôi sống, như một bản kiểm điểm việc mình sống. Thường tôi sống cho tôi nhiều hơn cho Chúa, cho anh chị em. Cái tôi sống có khuynh hướng quy về mình, nghĩ cho mình, kiếm cho mình những điều tốt đẹp hơn những người khác, luôn có những biện minh cái tôi là chính đáng. Như cái dằm trong thân xác theo cách nói của Thánh Phaolô, luôn lôi kéo: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. (Rm 7 19 – 20).

Kinh nghiệm của cái tôi gần với cái tội luôn bị lôi kéo muốn dứt bỏ nhưng vẫn cứ quyến luyến. Trong kinh nghiệm của R. Tagore cũng cho thấy điều này: “Tên tôi là một nhà tù, nơi người tôi giam đang than khóc. Mải mê xây tường bao vây tất cả, và dần dần khi tường đã vươn cao, trong bóng tối âm u, tôi không còn nhìn thấy con người thực của mình đâu nữa” (Lời dâng, bài số 29, R.Tagore).

Và trong kinh nghiệm “tôi sống” ấy Thánh Phaolô viết tiếp: “ Vô phúc thay con người tôi! Ai sẽ cứu tôi khỏi các xác chết này? Ðội ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Rm 7, 24, 25).

Ơn giải thoát ở nơi Chúa Giêsu Kitô. Người đang sống. Xin cho con ý thức Chúa đang sống ở nơi con.

Về mục lục

HÀNH TRANG PHỤC SINH

Jorathe Nắng Tím

Suốt Mùa Chay, Tuần Thánh và Phục Sinh, chúng ta đã đi với Đức Giêsu trên nhiều con đường : con đường vào thành thánh Giêrusalem, con đường Thánh Giá từ Giêrusalem lên Núi Sọ, con đường từ Núi Sọ đến mộ phần, con đường từ mộ phần mà tảng đá lấp kín cửa “đã lăn ra khỏi mộ” đến Galilê, ở đó Đức Giêsu phục sinh hẹn gặp chúng ta, cũng như đã hẹn gặp các môn đệ của Ngài.

Như đã sai các môn đệ từ Galilê, Đức Giêsu cũng sai chúng ta đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo “Tin Mừng Chúa đã chết và đã sống lại. Chính Ngài là Đấng Cứu Độ muôn dân”, và truyền cho chúng ta làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Ngài (x. Mt 28,19). Nhưng hành trang nào chúng ta cần trang bị để đi trên con đường Truyền Giáo không biên giới này ?

Nói về hành trang của người môn đệ được sai đi thì qủa là câu chuyện “lạc đề truyền giáo”, vì Đức Giêsu “đã chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng ; được đi dép nhưng không đuợc mặc hai áo” (Mc 6,8-9).

Không những rõ ràng, chính xác, mà còn dứt khoát, triệt để, quyết liệt. Với chỉ thị này, các môn đệ lên đường mà không hành trang ; đi đường mà không rương hòm ; đi xa mà không sắc tay, bóp ví ; truyền giáo mà túi rỗng, tay không ; loan báo Tin Mừng mà không một phương tiện “truyền thông” cần thiết.

Vì thế, khi đọc chỉ thị về hành trang truyền giáo của Đức Giêsu truyền cho các môn đệ của Ngài, cảm tưởng “có cái gì qúa đáng, bất khả thi, lỗi thời” nẩy sinh và làm chúng ta chút ít nghi ngờ tính khả thi và hữu hiệu của chỉ thị.

Chúng ta nghi ngờ tính bất khả thi của chỉ thị “không được mang gì”, vì nhà truyền giáo lên đường không hành trang như Đức Giêsu căn dặn thì chỉ có nước chết đói trước khi đến được nơi truyền giáo ; thi hành chỉ thị “không bao bị” của Đức Giêsu thì hầu như mọi việc sẽ bị đình trệ, hoặc bế tắc, vì không tiền, không bạc, không phương tiện vật chất thì chẳng làm được việc gì trong xã hội mà “mọi việc đều phải giải quyết bằng tiền hoặc bằng rất nhiều tiền” ; thực hiện không sai sót huấn lệnh “không thu gom, góp nhặt tiền bạc” của Đức Giêsu thì người môn đệ sẽ nắm chắc “ăn đường ngủ chợ”, vì tìm đâu ra người tốt bụng cho “ăn nhờ ở đậu” mà không tính toán, không trao đổi sòng phẳng khi đón tiếp vào nhà, và rộng rãi nuôi ăn, vì người tử tế, tốt bụng thật qúy hiếm, tựa mò kim đáy biển ở xứ sở “không ai dám tin ai” và thời đại thực dụng, ích kỷ “tận răng” hôm nay.

Chúng ta cũng nghi ngờ tính hữu hiệu của chỉ thị “truyền giáo không hành trang”, vì hôm nay không phải hôm qua, thời này và thời xưa khác xa hoàn toàn, nên truyền giáo mà không điện thoại, không xe pháo, không thẻ ngân hàng, thì khó mà xong việc ; truyền giáo mà nay đau mai ốm, lại  không tiền, thì nhiều người không thích làm bầu bạn, cả anh em và bề trên đến một lúc cũng  mệt mỏi, ngao ngán, nhạt nhẽo ; nhất là khi về già, người môn đệ không còn “năng xuất”, tức khả năng sản xuất, khả năng làm việc, tình hình sẽ khó và xấu hơn nhiều, kéo theo mức độ lệ thuộc trầm trọng làm người môn đệ hết thời nghẹn ngào tủi thân, xót xa số phận.

Vậy đâu là ý của Đức Giêsu khi ra chỉ thị xem ra gắt gao, chặt chẽ này?

Khi căn dặn các môn đệ đừng mang theo gì khi lên đường truyền giáo, Đức Giêsu muốn các ông nắm vững hai điều :

  • Chính Ngài sai các ông đi, và chính Ngài sẽ lo liệu tất cả cho các ông.

Khi biết các ông lo lắng phải ăn gì, mặc gì, ở đâu, làm cách nào có tiền để giải quyết công việc, nhu cầu trên đường truyền giáo, Đức Giêsu đã trấn an bằng  ban cho các ông quyền “chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma qủy” (Mt 10,8). Với quyền này, các ông sẽ an tâm, vì biết Thiên Chúa ở với các ông, và người ta sẽ nhận ra các ông là người được Thiên Chúa sai đến để phục vụ họ. Và như người được sai đến để phục vụ, các ông sẽ được mọi người kính nể, ngưỡng mộ, yêu mến, giúp đỡ.

Đồng thời, trước khi ra chỉ thị đừng kiếm chác vàng bạc, cũng đừng mang theo bao bị lỉnh kỉnh, Đức Giêsu còn xác tín với các ông một điều quan trọng là các ông đừng lo gì, vì các ông sẽ nhận được rất nhiều, và sẽ không thiếu thốn gì, khi bảo các ông : “Anh em đã được cho nhưng không, thì cũng phải cho nhưng không” (Mt 10,8).

Tóm lại, Đức Giêsu là người bảo đảm an sinh bản thân và xã hội cho những người Ngài sai đi, vì Ngài biết chúng ta cần gì, và ngày mai, cũng như sự sống, sự chết của chúng ta luôn thuộc về Ngài (x. Mt 6,25-34).

  • Sứ mệnh duy nhất, công việc duy nhất của Ơn Gọi làm môn đệ là loan báo Nước Trời:

Sở dĩ chỉ thị “truyền giáo không hành trang vật chất” được Đức Giêsu ban bố một cách nghiêm nghị, cứng rắn, vì Ngài muốn nhấn mạnh ý muốn của Ngài, đó là  ngoài sứ mạng loan báo Tin Mừng, ngoài công việc rao giảng Nước Thiên Chúa, ngoài sứ vụ tuyên xưng và giới thiệu “Đức Giêsu đã chết và sống lại” cho muôn dân, các môn đệ không còn một công việc, sứ mạng, sứ vụ nào khác phải làm và được phép làm, nghiã là không được chèo kéo thêm một nghề nghiệp nào khác ; không được móc ngoặc thêm dịch vụ to nhỏ, gầy béo, xa gần nào khác ; không được thủ thân, thủ phận bằng một toan tính, kế hoạch, cơ đồ nào khác, vì tất cả những gì  lệch ra ngoài việc Loán Báo Nước Trời sẽ  làm sao lãng sứ vụ phục vụ Tin Mừng, làm xa dần sứ mạng loan báo Đức Giêsu, làm lạc lối bước chân người môn đệ được sai đi truyền giáo.

Cũng bởi cám dỗ lo cho an ninh bản thân, lo cho an sinh trăm phần trăm được bảo đảm, lo cho ngày mai tự do, độc lập, không lệ thuộc ai, không tùy thuộc cơ chế nào là cám dỗ rất khủng khiếp không chỉ với người môn đệ, mà với tất cả mọi người, nên Đức Giêsu đã tỏ ra dứt khoát với chỉ thị này.

Không muốn các môn đệ quên mình được chọn và sai đi cho duy nhất một Ơn Gọi, một sứ mạng, một sứ vụ : Loan Báo Đức Giêsu chịu đóng đinh, rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần, và “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), Đức Giêsu còn biết rõ : chỉ có thể thực hiện được đòi hỏi thiêng liêng “loan báo Nước Trời”, nếu các môn đệ được sai đi hoàn toàn tách mình khỏi vấn vương vật chất, gỡ mình khỏi dan díu của cải, tự nguyện buông bỏ ràng buộc của thế gian dưới mọi hình thức, kiểu cách, mức độ, để toàn tâm, toàn ý, toàn thân thuộc về Đức Giêsu phục vụ Tin Mừng.

Hiểu như thế, chúng ta sẽ không còn thấy cái áo, cái quần, cái bao, cái bị, cây gậy, đôi giầy… là chính yếu, nhưng chính yếu là tinh thần từ bỏ và phó thác ; không còn nhìn ngó người anh em môn đệ bên cạnh có gì, người anh em cùng đi truyền giáo mang gì, vì tất cả chỉ là thứ yếu, khi cái chính yếu là tình trạng thư thái, nhẹ nhàng, không bị của cải ràng buộc, không bị tiền bạc trói chặt, không bị những giá trị trần tục linh tinh khác cầm chân, để người môn đệ có thể nâng tâm hồn lên với Chúa và tự do đến với mọi người mà không phải qua bất cứ cửa ải, trạm kiểm soát, hàng rào an ninh, quan thuế nào.

Xác định được điều chính yếu của chỉ thị “truyền giáo không hành trang vật chất” rồi, chúng ta mới thấy được giá trị của hành trang thiêng liêng mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải có trên đường truyền giáo.

Nếu Tin Mừng Mátthêu (10,1-16) tường thuật chi tiết cảnh Đức Giêsu sai mười hai tông đồ đi truyền giáo và chỉ thị “không được mang theo hành trang vật chất”, thì Tin Mừng Luca (24,13-35) vẽ lại cảnh Đức Giêsu đồng hành với hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau, sau khi Ngài sống lại, cũng với chỉ thị về hành trang, nhưng là chỉ thị về  “hành trang thiêng liêng phải mang theo” trên đường truyền giáo, khác với chỉ thị ở Tin Mừng Mátthêu : không được mang theo hành trang vật chất:

Trên con đường buồn thê lương, ảm đạm về Emmau, một làng “cách Giêrusalem chừng mười một cây số” (Lc 24,13), hai môn đệ kể cho nhau những chuyện buồn đã xẩy ra cho Thầy mình và cho nhóm các ông, những môn đệ của Đức Giêsu, hai ông phần vì  chán nản, thất vọng, phần vì “chậm tin vào lời các ngôn sứ” (Lc 24,25), và quên bẵng Lời Hứa “ngày thứ ba sẽ sống lại từ cõi chết” của Đức Giêsu, nên đã không nhận ra Ngài, khi Ngài đồng hành và nói chuyện với các ông.

Trong suốt hành trình, Đức Giêsu sau khi lắng nghe tâm sự buồn của hai ông, đã cắt nghiã Kinh Thánh cho hai ông “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27), và nhắc hai ông một điều rất quan trọng : “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).

Nhận lời mời của hai môn đệ “khi gần tới làng họ muốn đến” (Lc 24,28), Đức Giêsu đã ở lại với họ. Và “khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người…” (Lc 24,30-31).

“Nhận ra Người, tức nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã chết và sống lại” là mục đích của truyền giáo, là mơ ước, khát khao, thao thức, khắc khoải của nhà truyền giáo. Và hôm ấy, trên đường Emmau, chính Đức Giêsu đã đóng vai nhà truyền giáo khi làm cho hai môn đệ “nhận ra Người”.

Đức Giêsu đã làm cho hai ông nhận ra Người là Thiên Chúa khi cắt nghiã Kinh Thánh, và đồng bàn chia sẻ lương thực với hai ông. Ngài đã thi hành sứ vụ truyền giáo cho hai môn đệ của mình, vì các ông “chẳng hiểu gì cả” và lòng trí lại chậm tin (x. Lc 24,25).

Như thế, hành trang truyền giáo mà Đức Giêsu không những chỉ thị cho chúng ta phải trang bị, mà còn tự mình thực hành sứ vụ truyền giáo với hành trang đó trên đường Emmau chính là Lời Ngài và Mình Máu Ngài. Hai hành trang thiêng liêng không thể thiếu cho người môn đệ, hai bao bị không thể bỏ quên trên đường truyền giáo, cũng là đôi dép và cây gậy không thể rời xa người được sai đi.

Lời Chúa và Thánh Thể là hành trang Đức Giêsu muốn và chỉ thị người được sai đi phải có, phải mang theo, phải gắn bó thiết thân, phải yêu mến tận tình, phải phục vụ tận tụy, vì Lời Chúa và Thánh Thể là nguồn mạch cứu độ, là ánh sáng và sự sống đời đời, bởi Lời và Mình Máu Chúa là chính Chúa, Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Nếu hai môn đệ trên đường Emmau, khi ngthe Đức Giêsu nói chuyện và giải thích Kinh Thánh đã thấy “lòng bừng cháy lên” (Lc 24,32) thì trái tim người được rao giảng cũng chỉ bùng sáng khi Lời Thiên Chúa được gieo vào tâm hồn họ. Nếu mắt hai môn đệ trên đường Emmau đã chỉ “mở ra và họ nhận ra Người ”, khi Đức Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30-31), thì mắt người được loan báo Tin Mừng, mắt người chưa nhận ra Đức Giêsu, mắt người ngoại đạo sẽ chỉ mở ra khi Thánh Thể được cử hành, để nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất quyền năng và nhân hậu.

Vì thế, ngoài hành trang Lời Chúa và Thánh Thể, người môn đệ không thể trông cậy vào bất cứ hành trang nào khác, dù là những hành trang đầy giá trị của quyền lực, của cải, thế giá, ảnh hưởng, tài giỏi, khôn ngoan… để làm cho người khác nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa và “làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Ngài”, bởi việc thánh hoá tâm hồn, đổi mới con tim, cải thiện đời sống thuộc quyền của Thiên Chúa, tuy có cần sự cộng tác của con người, nên phương tiện, cách thế được xử dụng cũng phải là phương tiện, cách thế của Thiên Chúa.

Vâng, là người Kitô hữu với ơn gọi và sứ mạng loan báo “Đức Giêsu chịu chết và sống lại”, chúng ta không thể bỏ quên Lời Chúa và Thánh Thể là hành trang vô cùng quan trọng, không thể thiếu, không thể xa chúng ta dù một bước trên đường truyền giáo. Nếu không, tất cả thiện chí, ước mơ, cố gắng, công trình truyền giáo của chúng ta sẽ trở nên vô ích, và không mang lại ơn ích thiêng liêng cho ai, kể cả cho chính chúng ta, vì ngoài Lời Chúa và Thánh Thể, chúng ta không giúp  lòng trí ai “bừng cháy lên được”, cũng như không thể cộng tác với Thiên Chúa làm cho mắt muôn người “mở ra và nhận ra Người”.

Về mục lục

CHO LÒNG BỪNG CHÁY

Bông hồng nhỏ

Cái chết của Thầy Giêsu không những để lại một nỗi đau thương, một sự sợ hãi trong tâm hồn các môn đệ nhưng nó còn lấy đi cả niềm tin và hy vọng của họ. Chính sự Phục Sinh của Người đã mang lại niềm hy vọng, thắp sáng niềm tin trong tâm hồn người môn đệ khi Người tỏ mình ra cho họ.

Chiều dẫn buông, hai môn đệ lê bước trên đường về Emmaus. Họ vừa đi vừa trò chuyện và bàn tán về những gì đã xảy ra. Thầy Giêsu đã chết, niềm tin và hy vọng các ông đặt nơi Thầy cũng chẳng còn. Hai ông quyết định trở về quê cũ. Trở về quê hương mà lòng các ông nặng trĩu. Dưới dáng dấp của một người khách lạ, Thầy Giêsu đã tiến đến và cùng đi với hai ông. Hai ông không nhận ra Người. Người chia sẻ nỗi buồn của họ bằng sự lắng nghe, dần dần, Người kéo họ ra khỏi nỗi thất vọng bằng việc giải thích Kinh Thánh, Người thắp lại niềm tin trong họ bằng việc đồng bàn và tỏ mình ra cho họ. Ngay khi họ nhận ra Người thì Người biến mất. Người biến mất nhưng họ nhận ra lòng mình đã được bừng cháy, họ hớn hở trở về Giêrusalem để báo tin cho các anh em khác.

Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đến với ta trong từng giây phút của cuộc sống. Ta có nhận ra Người không? Người sẵn sàng lắng nghe từng niềm vui nỗi buồn của ta. Mỗi khi đến với Chúa Giêsu, ta hãy bày tỏ cho Người biết nỗi lòng của mình. Người rất muốn nghe ta tâm sự. Ở cùng Chúa Giêsu Thánh Thể, ta hãy để cho lòng mình thật lặng lẽ và lắng nghe Lời của Người đang vang lên trong tâm hồn ta. Lời ấy có sức nâng đỡ, ủi an ta trong mọi cơn gian nan khốn khó. Mỗi khi mở lòng ra với Chúa, ta sẽ cảm nhận được một niềm bình an sâu thẳm trong tâm hồn ngay giữa những lúc đời ta gặp sóng gió. Niềm hy vọng ta đặt nơi Chúa như chiếc neo chắc chắn và bền vững thả sâu vào trong trái tim của Chúa Giêsu. Người đã thắp sáng niềm tin trong tâm hồn ta và làm cho nó bừng cháy. Người làm cho trái tim được lớn lên, biết mở ra với những anh chị em của mình. Người làm cho ta nhận biết chính mình, đón nhận con người thật của mình với những điều tốt đẹp và cả những giới hạn. Hơn thế nữa, Người ban cho ta hồng ân được nhận biết và yêu mến Người hơn. Ở với Chúa rồi, ta hãy để Người ở trong tâm hồn ta, để Người đến gần và đi bên cạnh người anh em của ta. Hãy bắt đầu một cuộc trò chuyện thân tình với những người bên cạnh ta. Hãy để họ lắng nghe những tâm tư của ta. Đi bên cạnh một người bạn đang có tâm sự, ta rất muốn sẻ chia với họ, có thể ta chỉ ở bên cạnh họ, lắng nghe họ nói để cho họ vơi đi nỗi buồn phiền. Không phải ta đang ở bên cạnh người bạn của ta nhưng là chính Chúa Giêsu ở trong ta đang đi với người bạn ấy. Người làm cho hai tâm hồn được gần gũi nhau, hiểu nhau hơn. Thánh Thần tình yêu làm cho niềm tin và hy vọng nơi Chúa trong mỗi người được bừng cháy. Cũng như hai môn đệ trên đường Emmaus, ta hãy để cho Lời Chúa làm cho lòng bừng cháy, hãy nài nỉ Chúa ở lại trong tâm hồn mình và để Người dùng ta mà đến với tất cả những anh chị em đang đau khổ buồn phiền, đang đánh mất niềm tin và hy vọng trước những thử thách của cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Chúa đã dùng Lời mà làm cho lòng hai môn đệ được bừng cháy. Chúa đã đồng hành với họ như một người bạn và đã tỏ mình ra khi Người đồng bàn với họ. Trong cơn thử thách nặng nề của đại dịch đang lan tràn, xin Chúa cho chúng con biết nâng đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ những thử thách của cuộc sống. Chúa vẫn đến và ở với chúng con và làm cho lòng chúng con được bừng cháy nhờ Lời Chúa. Xin cho chúng con biết chuyên cần cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, để niềm tin và tình yêu được thắp sáng nơi tâm hồn mỗi chúng con. Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Chúa là nguồn hy vọng chúng con tựa nương. Chúng con tín thác nơi Chúa. Amen.

Về mục lục

TƯỞNG CHỪNG KHÔNG CÒN GÌ

Anna Cỏ May 

Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết, các môn đệ buồn rầu, chán nản và thất vọng vì mọi sự đã tan thành mây khói. Thầy chẳng còn, mọi ước mong và sự chờ đợi một cuộc sống sung túc nơi thầy đã đổ vỡ. Các ông bắt đầu suy nghĩ và lên đường đi tìm cuộc sống khác. Có hai môn đệ đang tiến về một làng kia tên là Emmaus, họ vừa đi vừa trò chuyện và bàn tán về mọi sự đã diễn ra với Thầy của họ, họ cũng chia sẻ những băn khoăn trăn trở của nhau. Chúa Giêsu từ đằng sau tiến “đến gần” và “cùng đi” với họ. Ngài bắt chuyện với họ bằng câu hỏi đầy quan tâm, Ngài hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24,17a). Lời thăm hỏi của Ngài đã khiến họ bộc lộ tâm trạng thật: “Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu” (Lc 14,17b). Họ bắt đầu kể cho Ngài về mọi sự. Nhưng trước khi kể, một trong hai người tên là Cơlêôpát đã đáp lời như trách Ngài về sự vô tâm. Ngài không để ý lời trách đó mà tiếp tục hỏi họ: “Chuyện gì vậy?” (Lc 14,19). Điều Ngài muốn biết là lòng trí các ông đang suy nghĩ gì và lòng họ đang như thế nào? Qua việc hỏi han và cùng đi với họ, họ cảm thấy người bạn đường này thật gần gũi và thân thiện, nên họ đã nói ra mọi điều đang diễn ra trong lòng họ. Họ nói về người Thầy mà họ đã theo, chia sẻ về những ước vọng mà họ đặt nơi Thầy của mình (x.Lc 14, 19-21). Họ theo Thầy là đúng nhưng lại nghĩ sai về Thầy. Sau khi nghe những lời ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giải thích Kinh Thánh liên quan đến Ngài từ thời ông Môsê đến các ngôn sứ. Những lời giải thích của Ngài đã khiến họ cảm nhận sự thánh thiện và sự quen thuộc giữa Ngài với họ. Họ níu kéo, nài ép Ngài rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn” (Lc 14,29). Trước lời nài ép và sự khao khát bên trong của họ, Chúa Giêsu một lần nữa tỏ mình ra cho các ông bằng bữa tiệc đồng bàn. Khi Ngài cầm bánh dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho các ông, mắt họ liền mở ra và nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất. Đôi mắt được mở là đôi mắt tình yêu, đôi mắt đức tin. Bây giờ, họ không chỉ dừng lại ở chỗ hiểu biết mà còn nhận biết sự chết và sự Phục Sinh của Thầy là vì ai, vì điều gì. Họ liền quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp ở đó với tâm hồn đầy ánh sáng và sức sống mới của Thầy.

Sức sống Phục Sinh của Chúa Giêsu vẫn đang được trao ban cho mọi người nếu người đó cho bản thân mình cơ hội gặp Chúa. Đứng trước đại dịch đang hoành hành, mọi tương quan bên ngoài của cuộc sống của mọi người đã bị hạn chế, ai về nhà đó. Sao chúng ta không tận dụng thời gian này để xây dựng lại mối tương quan trong gia đình, để làm cho tình yêu gia đình thêm gắn chặt hơn. Sao chúng ta không làm mới lại tình yêu với Thiên Chúa trong chính gia đình của mình, cùng nhau cầu nguyện, đọc Sách Thánh và tham dự Thánh lễ trực tuyến. Chẳng phải hai môn đệ trên đường Emmaus đã được Lời Chúa làm cho lòng bừng cháy lên sao và các ông được lãnh nhận sự bình an và sức sống của Chúa qua bàn tiệc đó sao. Chúng ta hãy cho mình và người khác một cơ hội được sống bình an trong tâm hồn trước cuộc sống hiện tại. Chúa Giêsu vẫn đang gõ cửa gia đình bạn và  gõ cửa tâm hồn bạn, hãy mở ra cho ánh sáng Phục Sinh chiếu vào cuộc đời chúng ta. Ánh sáng Chúa Kitô!

Lạy Chúa, xưa Chúa đã hiện ra cho các môn đệ tùy theo thể thức cá nhân hay từng nhóm người, để củng cố đức tin và trao ban cho họ sức sống mới của Chúa. Nay chúng con cũng xin Chúa đến và ở lại với chúng con, giúp chúng con biết họp nhau lại trong gia đình mà cùng cầu nguyện và làm mới lại tình yêu cho nhau, cùng biết chia sẻ nỗi đau của mọi người bằng sự hy sinh các đam mê đã từng theo đuổi. Amen.

Về mục lục

ĐỨC KITÔ PHỤC SINH LÀ ĐƯỜNG DẪN TA VỀ CÕI SỐNG

Lm. Đaminh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Cv 2:14, 22b-33;  1 Pr 1:17-21; Lc 24:13-25)

Theo dõi sinh hoạt của Hội Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem, chúng ta thấy tông đồ Phê-rô đã giữ một vai trò quan trọng.  Qua lời giảng mộc mạc mạnh dạn nhưng đầy xác tín của ngài và nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh đã mau chóng phát triển.  Chủ đề của các bài giảng đều xoay quanh sứ mạng của Chúa Giê-su mà đỉnh điểm là đề cao sự chết và sống lại của Chúa là “đường về cõi sống đời đời” (bài đọc 1).  Sau đó, trong thư thứ nhất, thánh Phê-rô đã nhắc nhở tín hữu rằng ta được cứu chuộc khỏi tội lỗi là nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn là Đức Ki-tô (bài đọc 2).  Tuy nhiên, sứ mệnh của Chúa Ki-tô còn được Người đích thân dùng Kinh Thánh Cựu Ước mà giải thích và minh chứng khi Người đồng hành với hai môn đệ trên đường họ trở về làng Em-mau (bài Tin Mừng).  Sứ mạng của Chúa Ki-tô được kiện toàn qua biến cố Phục Sinh, để từ nay Người trở thành con đường dẫn ta về hưởng vinh phúc quê trời.

Bài giảng của Phê-rô về sứ mạng Đức Ki-tô.  Ngay sau khi lãnh nhận sức mạnh Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phê-rô cùng các anh em tông đồ đã thi hành sứ vụ rao giảng.  Phê-rô không rao giảng một mình, nhưng ông “đứng chung với Nhóm Mười Một” và thay mặt anh em mà giảng.  Vì nói với cư dân Giê-ru-sa-lem, ngài đã dựa trên Kinh Thánh để minh chứng việc Chúa Giê-su sống lại là điều đã được Kinh Thánh và nhất là Thánh Vịnh chứng thực.  Những lời chứng của Thánh Vịnh là chắc chắn, bởi vì vua Đa-vít, tác giả Thánh Vịnh, là vị ngôn sứ đã được Thiên Chúa “cho thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô”.  Ngoài ra, Phê-rô còn dựa vào biến cố vừa xảy ra là Chúa Thánh Thần hiện xuống, để khẳng định việc phục sinh của Chúa Giê-su là đích thực.  Thánh Thần chân lý không hề lừa dối ai.  Các nhân chứng là các tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần và dân chúng Giê-ru-sa-lem cũng quy tụ lại sau khi họ nghe “từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi các ông tụ họp”.  Do đó, khi chứng kiến hoạt động của Thánh Thần và nghe Phê-rô giảng, họ phải nhìn nhận chứng từ của các tông đồ về sứ mạng của Đức Ki-tô là xác thực.  Bài giảng của Phê-rô đem lại những kết quả vô cùng tích cực.  Sách Công vụ kể:  “Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác: ‘Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?’ ” Ông Phê-rô đáp: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2:37-38).

Chúa Giê-su giải thích sứ mệnh của Người dựa trên Kinh Thánh.  Trên đường về Em-mau, hai môn đệ Chúa tâm sự với nhau về biến cố vừa xảy ra:  Chúa Giê-su đã chịu chết và tin nói Người đã sống lại.  Họ đã tin Chúa Giê-su là “một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân”.  Nhưng hiện thời niềm tin ấy lung lay vì họ chứng kiến Chúa đã chết trên thập giá, rồi họ hoang mang khi nghe tin Chúa đã sống lại.  Nghe họ kể lể, Chúa Giê-su nhận định một cách khá khôi hài:  “Các anh chẳng hiểu gì cả!  Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!”  Rồi Chúa dạy họ một bài học Kinh Thánh, dựa vào Lề Luật và các ngôn sứ, “Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”.  Người giải thích để dẫn họ tới niềm tin cốt lõi, là “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người”.  Quả thực là một bài học Kinh Thánh quý giá và đầy đủ ý nghĩa.  Tuy nhiên với đầu óc u mê và lòng chậm tin, họ phải chờ tới lúc Chúa “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”, thì họ mới “mở mắt và nhận ra” Chúa Phục Sinh!  Khi ấy, Chúa biến đi, để họ tiếp tục suy nghĩ và lên đường quay lại Giê-ru-sa-lem mà loan báo Tin Mừng Chúa sống lại.  Tin vui Chúa sống lại dồn dập, từ các tông đồ và các bạn hữu đang tụ họp tại Giê-ru-sa-lem kể lại cho đến câu chuyện hai môn đệ được Chúa dạy Kinh Thánh!

Sống sứ điệp Lời Chúa

Cùng với bài giảng trong ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau này thánh Phê-rô không ngừng nhắc nhở tín hữu về sứ mạng của Chúa Giê-su là đã đổ máu để cứu chuộc ta.  Ngài khẳng định với chúng ta rằng “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô”.  Tuy nhiên việc cứu chuộc không đơn phương về phần Thiên Chúa, mà đòi sự đáp trả và cộng tác của chúng ta, vì “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử”.  Chúa Giê-su cứu chuộc ta khỏi tội lỗi, đó là bước đầu để giúp ta “đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa”.  Còn chúng ta, bổn phận của ta là “hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này”.  Đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách nghĩa là gì nếu không phải là hãy sống đích thực như con cái của Đấng mà chúng ta gọi là Cha?  Đức Ki-tô đã dạy ta cách “gọi Thiên Chúa là Cha” khi Người đã hoàn tất vai trò làm Con Chiên vẹn toàn để cứu chuộc nhân loại.  Vậy thì chúng ta cũng phải học cách ấy, không chỉ “gọi” bằng miệng lưỡi, nhưng bằng chính cuộc sống của một Ki-tô hữu tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa và tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh là Đường đưa ta về nhà Cha, để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cùng Ba Ngôi Thiên Chúa.

Về mục lục

CHÚA PHỤC SINH AN ỦI NHỮNG NGƯỜI THẤT VỌNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Khi con người rơi vào chán nản thất vọng, người ta thường đặt câu hỏi: Chúa ở đâu? Chúa ở đâu trong lúc tôi đau khổ? Chúa ở đâu khi thế giới chìm ngập trong cơn đại dịch này? Chúa có thấy nhân loại đang chết chóc, sợ hãi như thế này không? Chúa có thấy hàng ngàn người chết vì dịch mỗi ngày không? Tại sao Chúa không can thiệp? Đây là những câu hỏi muôn thuở mỗi khi con người gặp tai ương thử thách. Thiên Chúa vẫn luôn trả lời mọi chất vấn của con người, nhưng vì con người quen sống trong âm thanh ồn ào, luôn để lòng bị xáo động nên họ chỉ biết đặt câu hỏi mà không muốn lắng nghe câu trả lời.

Hôm nay, câu chuyện hai môn đệ trên đường Emaus đã cho thấy: Thiên Chúa luôn thấu cảm với nỗi đau của con người và của từng người. Thiên Chúa luôn hiện diện ở bên và đồng hành với con người, nhưng chỉ có ít người nhận ra Ngài, ít người muốn mời Ngài vào nhà và ép Ngài ở lại dùng bữa với gia đình mình.

Hai môn đệ trên đường Emaus là hình ảnh của những con người chán nản vì thất vọng, sợ hãi vì thảm họa và đau khổ vì mất người thân. Tuy không phải là một trong số mười hai tông đồ, nhưng chắc chắn hai ông này cũng ở trong nhóm thân hữu của Chúa. Các ông đã bỏ lại tất cả gia đình, vợ con, sự nghiệp để đi theo Chúa Giêsu. Có thể các ông cũng nuôi trong lòng một kỳ vọng trần tục nào đó, khi Thầy Giêsu khởi nghĩa thành công, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang, quyền lực với Chúa. Nhưng giờ đây, với cái chết kinh hoàng của Thầy, bầu trời tương lai của các ông như tan vỡ. Các ông hoàn toàn mất hết hy vọng vì Thầy các ông đã chết. Cái chết của Thầy khiến các ông hoàn toàn suy sụp. Hai môn đệ này đã tháo lui bằng cách trở về quê cũ, với con người cũ, công việc cũ.

Thấu hiểu được tâm trạng của hai người học trò đáng thương này, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các ông. Ngài không hiện ra theo cách Ngài đã hiện ra với các phụ nữ hoặc với các tông đồ, nhưng Ngài hiện ra trong hình ảnh của một người bạn đồng hành cùng đi với họ. Ngài chủ động bước đến, gợi chuyện với hai ông: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Câu hỏi của Chúa là dịp để các ông trải lòng với Ngài, nhưng trên gương mặt họ chưa hết vẻ buồn rầu. Một trong hai người tên là Cleophat đã giãi bày tâm trạng của họ về chuyện ông Giêsu Nazareth bị bắt, bị giết, bị đóng đinh trên cây thập giá. Ông cũng nói lên nhận định và tâm trạng của mình đối với Thầy Giêsu: “Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong lời nói cũng như việc làm, trước mặt Thiên Chúa cũng như toàn dân… Chúng tôi vẫn hy vọng Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel.” Điều làm các ông hoang mang hơn nữa là: “Có mấy bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ và không thấy xác Người. Các bà còn bảo rằng, các thiên thần bảo: Người đang sống. Vài người chúng tôi chạy ra xem mộ thì thấy đúng như vậy, còn Ngài thì họ không thấy.”

Chúa Giêsu Phục Sinh đã lắng nghe những lời tâm sự, chia sẻ của các ông, Chúa thấu hiểu nỗi lòng còn ngổn ngang nhiều thứ của họ. Chúa nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh chậm tin vào lời các ngôn sứ. Đức Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” Qua câu trả lời, Chúa Phục Sinh mời gọi hai môn đệ này trước hết cần đọc, lắng nghe và suy gẫm những lời ngôn sứ, tức là những lời được chép trong Kinh Thánh. Vì tất cả những việc liên quan đến Chúa Giêsu đều đã được các ngôn sứ báo từ trước. Những ai siêng năng đọc và suy gẫm sách Kinh Thánh, thì sẽ đón nhận được niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Để khơi lại đức tin cho hai môn đệ này, Chúa Giêsu dùng chính những lời đã chép trong sách ngôn sứ, bắt đầu từ Môsê để giải thích cho các ông hiểu về sứ mạng của Người. Có thể vì trước đây các ông đi theo Chúa, nhưng vẫn để lòng mình quá ồn ào về những sự kiện bên ngoài mà bỏ quên việc đọc và suy gẫm Kinh Thánh, nên lòng các ông bị mù tối.

Để thử lòng các ông, khi gần đến làng, Chúa Giêsu làm như còn phải đi tiếp nữa. Hai ông lúc này mời, ép, Người: “Mời ông ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn.” Sau một hành trình đi bên Chúa Phục Sinh, dù chưa nhận ra Ngài, nhưng hai môn đệ này đã cảm nhận được sự ấm áp, an toàn, sức sống như được phục hồi. Giờ đây, khi “trời về chiều và ngày sắp tàn” các ông cảm thấy phải đối diện với một sự bất an trong tâm hồn. Hai ông đã cố nài ép vị khách: “Mời ông ở lại với chúng tôi.” Trước sự khao khát của hai ông, Chúa Giêsu Phục Sinh đã ở lại với họ, vào trong nhà của họ, và cùng dùng bữa tối với các ông.

Khi cùng các ông dùng bữa tối, “Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.” Hình ảnh “bữa tối” này nhắc lại hình ảnh bữa tối Thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu cũng làm cùng một cử chỉ như vậy và truyền cho các môn đệ: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, hãy nhận lấy mà uống vì này là mình, máu Thầy.” Thấy cử chỉ và nghi thức quen thuộc này, đón nhận tấm bánh từ người khách đồng hành, hai môn đệ nhận ra đó chính là Chúa Giêsu, Thầy của mình. Các ông đã nhớ lại suốt một hành trình dài Chúa đã đồng hành với các ông, đã làm cho tâm hồn các ông ấm lại và hồi sinh. Giờ đây, với một tinh thần mới, một sức mạnh mới, một con người hoàn toàn mới, các ông phấn khởi, chỗi dậy trở lại Giêrusalem ngay trong đêm để gặp nhóm Mười Một. Các vị này đã làm chứng cho hai ông về việc Chúa sống lại, còn hai ông thì kể lại những gì đã xảy ra cho mình lúc đi đường và khi bẻ bánh. Họ cùng nhau phấn khởi vui mừng.

Chúa Giêsu đã chết thật và Người đã sống lại thật và đang sống, đang hiện diện, đang đồng hành với chúng ta. Đó cũng là những lời minh chứng của các tông đồ, đặc biệt là của Phêrô trong sách Công Vụ hôm nay. Phêrô quả quyết với mọi người: “Chúa Giêsu Nazareth đã bị anh em đóng đinh Ngài trên thập giá, nhưng Thiên Chúa quyền năng đã làm cho Ngài chỗi dây từ cõi chết.” Chính Ngài sẽ giải thoát chúng ta khỏi đau khổ và cái chết, khỏi sợ hãi và thất vọng.

Thưa quý OBACE, như đã gợi ý ở trên, mỗi khi gặp tại ương thử thách, con người thường quay lại trách móc Thiên Chúa và kể cả thách thức Ngài, chất vấn Ngài. Thiên Chúa vẫn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu và luôn trả lời cho từng người. Tuy nhiên, vì con người quen sống trong âm thanh ồn ào, luôn để lòng bị xáo động, tránh né sự thinh lặng, khiến họ chỉ biết đặt câu hỏi mà không muốn lắng nghe câu trả lời từ nơi Chúa.

Chúa đã nghe thấy tiếng khóc than của cả thế giới trong cơn đại dịch; Chúa thấu hiểu nỗi đau từ vị giáo hoàng cao tuổi, cho đến một thiếu nhi nhỏ bé; nỗi lo lắng của những người có trách nhiệm và sự hy sinh vất vả của những y bác sĩ; nỗi sợ hãi của nhân loại, của các bệnh nhân và gia đình. Chúa nghe và Chúa biết. Chúa vẫn đang đồng hành với chúng ta để an ủi nâng đỡ, chia sẻ, cảm thông. Tuy nhiên, có thể mắt chúng ta bị che phủ hoặc chúng ta chỉ mải đặt câu hỏi mà không nhận ra Ngài. Chúa vẫn đang nói, nhưng có thể chúng ta chưa quan tâm để nghe. Chúa đang nói với chúng ta qua Kinh Thánh mà đã lâu nay, chúng ta tránh né, chúng ta không đọc, không suy. Chúa rất muốn vào nhà chúng ta dùng bữa, nhưng chúng ta không thiết tha mời Ngài, vì thế Ngài lại phải đứng ở ngoài cửa chờ đợi.

Tiệc Thánh Thể, thánh lễ là bữa ăn mỗi ngày, nơi đây chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, lòng chúng ta được ấm lên nhờ lời Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta đã quá coi thường. Chúng ta lấy nhiều lý do để biện minh cho sự từ chối đến gặp Chúa mỗi ngày nơi thánh lễ. Những ngày này, khi không được đến với thánh lễ, ta mới cảm thấy mình đã từng coi thường những điều quan trọng nhất. Tuy nhiên, Chúa vẫn có cách của Ngài. Hơn khi nào hết, trong hoàn cảnh này, nhiều người đã biết quan tâm hơn đến việc tham dự thánh lễ và đọc Kinh Thánh. Các thánh lễ online tuy không phải là cách tốt nhất, nhưng lúc này, cũng là cách Chúa dùng để quy tụ cả gia đình, để mọi người đem thánh lễ về với cuộc sống, đem nhà thờ về với gia đình.

Xin Chúa cho chúng ta không ngừng nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện trong cuộc đời mình, qua các biến cố đang xảy ra cho thế giới để chúng ta không rơi vào chán nản thất vọng. Xin cho chúng ta để cho tâm hồn mình tĩnh lặng để nghe được những câu trả lời từ Thiên Chúa, thay vì kêu ca oán trách Chúa. Xin cho chúng ta biết tận dụng những ngày này để xây dựng bầu khí đạo đức của gia đình, mà bấy lâu ta đã xem nhẹ, và xin cho các cuộc xum họp trong gia đình: cầu nguyện, hiệp thông thánh lễ và các bữa cơm luôn có Chúa Phục Sinh hiện diện nâng đỡ. Amen

Về mục lục

NHẬN RA SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA

Lm Trần Bình Trọng

Cuộc khổ nạn của Ðức Kitô trên thập giá đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng của các tông đồ và của cả các môn đệ. Vào sáng Chúa nhật có hai môn đệ bỏ cuộc, trở về quê quán mình ở làng Emmau cách Giêrusalem khoảng mười một cây số.

Mặc dầu Ðức Kitô đã tiên báo nhiều lần về cuộc tử nạn và phục sinh của Người, các môn đệ vẫn không hiểu. Hai môn đệ bỏ cuộc hôm nay cố gắng tìm kiếm trong Thánh Kinh những lời lẽ để cắt nghĩa về cuộc khổ hình của Thày mình. Và dọc đường, có người khách lạ hiện ra, đàm đạo với các ông và nói: Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh (Lc 24:26-27).

 Hai môn đệ trên đường Emmau cùng đồng hành với Chúa, đàm đạo với Chúa mà không nhận ra Người. Sở dĩ có trạng huống như vậy là vì họ đã tự đóng khung trong tư tưởng và quan niệm riêng của họ về Ðấng Cứu thế. Có lẽ họ chỉ nghĩ thôi từ nay sẽ không còn hi vọng địa vị nọ kia trong vương quốc của Người. Họ để cho mình bị chi phối và chìm đắm trong nỗi chán nản thất vọng của cảnh tử nạn ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nỗi buồn chán thất vọng đè nặng trên con người họ, khiến họ không thể vươn lên và vượt ra ngoài tâm thức của họ.

 Trường hợp các môn đệ lúc đầu không nhận ra Chúa trong Phúc âm hôm nay cũng giống trường hợp bà Maria Mácđala và các tông đồ lúc đầu cũng không nhận ra Chúa (Ga 20:14; Ga 21:4; Lc 24:37). Tại sao lại có chuyện như vậy? Lí do thứ nhất là vì các tông đồ không mong đợi một cách tin tưởng việc Chúa sống lại như là Chúa đã tiên báo. Lí do thứ hai theo thánh Marcô là khi hiện ra với các môn đệ/tông đồ: Chúa tỏ mình dưới một hình dạng khác (Mc 16:12), nghĩa là hình dạng đã biến đổi. Hình dạng khác không phải là vì bị tra tấn và nằm trong mộ ba ngày, không ăn uống nên Chúa bị xuống kí và kiệt sức. Thánh Phaolô giải thích thân xác phục sinh của Chúa khác thân xác trước kia như sau: Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: ..gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1Cr 15:44).

 Lời Chúa đàm đạo với họ trên đường khiến tâm hồn họ bừng cháy (Lc 24:32) nhưng họ chưa nhận ra Chúa cho tới khi họ mời Người vào nhà nghỉ lại. Trong bữa ăn khi Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, rồi trao cho họ (c.30) thì họ  mới nhận ra Người. Khi hai môn đệ nhận ra người khách lạ chính là Ðức Kitô, họ liền vội vả trở về Giêrusalem để báo tin cho các tông đồ. Và họ được biết các tông đồ cũng đã xác tín về việc Chúa phục sinh.

 Trong số mười một tông đồ, có ông Tôma tỏ ra cứng lòng tin khi các tông đồ khác bảo cho ông biết Ðức Kitô phục sinh đã hiện ra với họ. Ðức Kitô phải đích thân hiện ra cho ông Tôma thấy dấu đinh ở tay Người và vết thương ở cạnh sườn Người. Còn trong số bảy mươi hai môn đệ thì có ông Cơlêôpát và một ông nữa cũng không chịu tin việc Thầy họ sống lại, khi bà Maria Mácđala và mấy bà khác loan báo là họ không thấy xác Người trong mồ và có thiên thần hiện ra nói là Người đã sống lại. Chúa phục sinh cũng chiều hai ông mà hiện ra đồng hành với hai ông, giải thích cho hai ông những lời kinh thánh liên quan đến Người và còn bẻ bánh như là dấu chỉ cho hai ông thấy mà tin.

 Việc rao giảng Ðức Kitô phục sinh là sứ điệp giảng dạy thiết yếu thời giáo hội sơ khai nên Chúa không muốn có những tông đồ hay môn đệ nào hồ nghi về việc Người sống lại. Vì thế Chúa đã để cho ông Tôma sờ vào vết đinh ở tay và vết thương ở cạnh sườn Chúa, để ông có thể thốt lên lời biểu lộ đức tin bất hủ: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28). Chúa phục sinh còn hiện ra bẻ bánh với hai môn đệ thành Emmau để  các ông có thể lập tức đứng dạy ngay lúc ấy, quay trở lại Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó (Lc 24:33) hầu chia sẻ tin mừng Chúa phục sinh.

 Phải chăng ta cũng gặp những trường hợp giống như hai môn đệ làng Emmau? Có bao giờ ta nghi ngờ về sự hiện hữu của Chúa. Có bao giờ ta sợ hãi cho tương lai đen tối. Có bao giờ ta thất vọng về những tệ đoan trong xã hôị và gương xấu trong giáo hội? Khi gặp sóng gió bão táp trong tâm hồn, tâm trí ta bị mây đen bao phủ khiến ta không nhận ra sự hiện diện của Chúa và những dấu vết của Người.

 Ðể được ý thức về sự hiện diện của Chúa, ta cần tìm đến lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Hằng ngày xung quanh ta, còn ghi khắc những dấu vết của Chúa, và công trình của việc Người tạo dựng. Tuy nhiên ít khi ta cố gắng tìm kiếm để có thể khám phá ra những dấu vết và kỳ công của Chúa hầu có thể ý thức về sự hiện diện của Người. Những chướng ngại vật trong tâm hồn như là cô đơn, phiền muộn, lo lắng, sợ hãi đè nặng trên con người, khiến ta bị giới hạn trong thân xác, không vượt ra khỏi mình được. Ðể có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa, ta cần xin Người giúp loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn và mở rộng hồn thiêng để có thể hướng về thiên giới.

 Lời nguyện xin cho được ý thức về sự hiện diện của Chúa:

Lạy Ðức Kitô phục sinh, con xin tạ ơn Ngài

đã đến trong thế gian, chịu khổ hình, chịu chết trên thập giá

để cứu chuộc loài người khỏi án phạt của tội nguyên tổ,

và còn hứa ở lại với loài người cho đến tận thế.

Xin giải thoát con khỏi những nghi ngờ, lo âu, sợ hãi và thất vọng

để con ý thức được sự hiện diện của Chúa trong đời sống,

trong thánh kinh, trong các bí tích mà con lãnh nhận,

nơi người nghèo đói, bệnh tật và đau khổ,

nơi vạn vật, cỏ cây, hoa lá và những kỳ công của vũ trụ

hầu con được vững tâm bước đi dưới sự hiện diện  của Chúa. Amen.

Về mục lục

ĐỂ GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Với Chúa Nhật III Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa tiếp tục trình bày với chúng ta về niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Trong thánh lễ này, chúng ta khai triển về chủ đề này với ba điểm: 1) Biến cố phục sinh là nền tảng của niềm tin Kitô giáo; 2) Làm sao để nhận ra Đấng Phục Sinh; 3) Loan báo Đấng Phục Sinh.

1- Chúa Phục Sinh, nền tảng đức tin

Sự kiện Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết là một điều hết sức bất ngờ, không ai có thể nghĩ trước được. Bởi lẽ, đây là biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Đức Kitô là người đầu tiên chỗi dậy từ cõi chết. Đối với các môn đệ, khi chứng kiến Chúa chết trên thập giá, họ cho rằng mọi sự đã kết thúc, niềm hy vọng vào Người tan thành mây khói, họ trở về quê để kiếm kế sinh nhai như hai môn đệ Emmaus. Nhưng sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và hiện ra nhiều lần với các môn đệ, họ được gặp gỡ Đấng Phục Sinh, được củng cố niềm tin và trở thành những người can đảm làm chứng cho Người.

Điều này được nói ở trong bài đọc I, thánh Phêrô cùng với Nhóm Mười Một lớn tiếng với dân chúng rằng: “Đức Giêsu Nadarét, là người được Thiên Chúa phái đến với anh em… Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ… Đức Giêsu ấy đã bị nộp và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi… Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,22-32).

Những lời trên đây minh chứng rằng biến cố Phục sinh là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Nếu trước Phục sinh, trọng tâm sứ vụ rao giảng là Nước Thiên Chúa, thì sau biến cố này, trọng tâm lời rao giảng là “Đức Giêsu chịu chết, được mai táng và sau ba ngày, Người sống lại.” Bởi lẽ, biến cố này là trung tâm điểm của Kitô giáo. Nói như thánh Phaolô, nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta trở nên hảo huyền và lời rao giảng của chúng tôi sẽ trở nên trống rỗng (x. 1 Cr 15,14.17). Hay nói cách khác, nếu Chúa Kitô không sống lại, sẽ không có Kitô giáo, không có ơn cứu độ, không có Giáo Hội và không có cộng đoàn chúng ta quy tụ để cử hành thánh lễ như hôm nay. Quả là đúng như lời thánh Phêrô trong bài đọc II: “Anh em được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô… Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa” (1 Pr 1,19.21).

2- Làm sao để nhận ra Đấng Phục Sinh?

Tuy nhiên, không phải dễ dàng để nhận ra Đấng Phục Sinh, cần phải có một cặp mắt đức tin nhạy bén mới nhận ra Người. Bởi vì với biến cố này, Chúa Kitô là người đầu tiên đi vào một đời sống hoàn toàn mới; sự hiện hữu của Người hoàn toàn khác biệt; Người là Đấng hằng sống. Người vẫn là chính Người nhưng thân xác Người đã được biến đổi. Người không còn bị lệ thuộc bởi không gian và thời gian, cũng như những định luật tự nhiên chi phối. Người có thể hiện ra và xuất hiện ở bất kỳ nơi nào mà Người muốn.

Bài Tin Mừng hôm nay minh chứng điều đó. Sau khi chứng kiến Chúa chết trên thập giá, hai môn đệ Emmaus thất vọng trở về quê, trên đường về, Đấng Phục Sinh đồng hành, nói chuyện với họ như một người bộ hành, nhưng họ không nhận ra Người. Đấng Phục Sinh đã dùng Kinh Thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước để giải thích cho họ hiểu về Đấng Kitô và những gì đang xảy ra. Sau đó, họ mời Người dùng bữa. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất (x. Lc 24,25-31).

Có thể nói diễn tiến của trình thuật này là diễn tiến của một thánh lễ đầu tiên được cử hành dọc đường do Đấng Phục Sinh. Theo đó, nó có hai phần: phần thứ nhất là phần Lời Chúa. Chúa Giêsu đã dùng lời Chúa để giải thích cho họ hiểu về mầu nhiệm liên quan đến Chúa Kitô. Nơi Người, các lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Đây cũng là phần đầu của thánh lễ mà chúng ta cử hành, được gọi là bàn tiệc Lời Chúa. Đối với chúng ta, Lời Chúa là lương thực hằng ngày cho chúng ta. Lời Chúa là ngọn đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng dẫn đường chúng ta đi. Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Như thánh Giêrônimô đã từng nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô.” Nên chúng ta cần phải siêng năng học hỏi Kinh Thánh, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày.

Phần thứ hai đó là phần bẻ bánh: Đấng Phục Sinh cầm bánh, chúc tụng và bẻ ra cho các ông. Mắt họ liền sáng ra vì thấy Người bẻ bánh. Họ đã nhận ra Đấng Phục Sinh khi cùng tham dự bẻ bánh với Người. Đây cũng chính là phần thứ hai của thánh lễ, đó là bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi nghe Lời Chúa, chúng ta cùng cử hành Thánh Thể. Chính lúc truyền phép, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Đấng Phục Sinh hiện diện với chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Bởi vì Chúa Phục Sinh và Chúa Giêsu Thánh Thể là một. Người trở thành lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Người trở thành người bạn đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường cuộc sống. Người trở thành sức mạnh cho chúng ta khi gặp những gian nan thử thách. Người làm cho chúng ta sáng mắt và cháy bỏng lòng yêu mến khi chúng ta tham dự bàn tiệc với Người.

Như thế, nhờ Lời Chúa và việc bẻ bánh, hai môn đệ Emmaus đã nhận ra Đấng Phục Sinh. Cũng thế, ngày hôm nay, Đấng Phục Sinh tiếp tục hiện diện và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Chúng ta nhận ra Người nhờ việc đọc, suy gẫm Lời Chúa và tham dự thánh lễ. Kinh Thánh và Thánh Thể là hai con đường tuyệt hảo để gặp gỡ Đấng Phục Sinh.

3- Làm chứng cho Đấng Phục Sinh

Những ai đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh đều cảm thấy có nhu cầu cần phải loan báo cho người khác biết. Hai môn đệ Emmaus sau khi đã gặp gỡ và nhận ra Đấng Phục Sinh, họ đã quay trở lại Giêrusalem và loan báo cho các bạn hữu biết Chúa đã trỗi dậy rồi. Những người phụ nữ ra mồ để viếng xác Chúa, nhưng bất ngờ được gặp Đấng Phục Sinh, họ đã vội vã trở về báo tin cho các Tông Đồ biết là Chúa đã sống lại. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô đã hùng hồn rao giảng về Đấng Phục Sinh. Kết quả là có khoảng 3000 người theo đạo. Những Tông Đồ khác, sau khi Chúa Phục Sinh, đã theo lệnh truyền của Chúa và đã đi khắp tứ phương thiên hạ để truyền giáo và làm chứng cho Đấng Phục Sinh.

Đến lượt chúng ta, với tư cách là những người Kitô hữu, sau khi đã được lắng nghe Lời Chúa và Bẻ Bánh, chúng ta được mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho những người xung quanh. Đó là sứ vụ của Giáo Hội. Đó là sứ vụ của mỗi người Kitô hữu. Bởi vì, chúng ta không chỉ là những người tin vào Chúa mà còn là những người loan báo Chúa cho người khác.

Nguyện xin Đấng Phục Sinh luôn đồng hành, soi sáng và làm cho chúng ta được bừng cháy lòng mến và lòng nhiệt thành để chúng ta làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen!

Về mục lục

CHÚA VẪN TRUNG THÀNH HIỆN DIỆN

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Ở cuối hành trình về làng Emmaus, hai môn đệ mời người khách bộ hành, chính là Chúa Phục Sinh mà cả hai đều không nhận ra: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”.

Thực tế trời sắp tối, một ngày đang vội kết. Nhưng “ngày sắp tàn” còn diễn tả trạng thái tâm hồn: Một cõi hồn đang không lối thoát, đang tối thật sự.

Bởi sau khi Chúa thụ nạn, như nhiều môn đệ, tâm trạng hai ông rệu rã, mất định hướng. Nội tâm chìm trong đêm tối, cái đêm của nghi ngờ, của thất vọng.

Các ông từng đặt niềm tin vào Thầy. Nhưng Thầy bị bắt, bị đánh nát tấm thân, bị đóng đinh, chết trên thập giá như kẻ bất lực không thể thoát đau đớn.

Tất cả niềm tin và hy vọng tan biến, chỉ còn lại vực thẳm sâu thăm thẳm của sự ngã lòng. Đêm tối ấy đáng sợ.

Tự bản chất, màn đêm làm tăng sợ hãi. Vậy mà bây giờ, trong lòng vốn đã tăm tối, đã vô cùng sợ hãi, lại còn bị nhấn dần vào đêm của tự nhiên. Hình như nỗi khiếp sợ trong cõi hồn hai ông càng tăng dữ dội.

Chính trong tâm trạng rối bời ấy, các ông thưa cùng người bộ hành, người cho mình sự ấm áp suốt quảng đường dài: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”.

Cũng vậy, biết bao nhiêu lần sóng gió, khổ đau, sợ hãi, bế tắc trong đời mình, ta cũng cần Chúa ở cùng.

Những lúc đời ta thất bại dồn thất bại, cay đắng dồn cay đắng, thương đau đè lên thương đau, gục ngã như kéo nhau ập đến, oan khuất như cùng lúc tấn công tứ phía, chúng ta, người môn đệ của Chúa hôm nay, không thốt lên để kêu nài: “Lạy Chúa, xin hãy ở lại với con” đó sao!

Lời cầu khẩn ấy đâu phải lời xa xưa, đâu phải lời quá khứ. Nó là lời hiện tại và hiện thực của chính chúng ta, của biết bao cuộc đời xung quanh chúng ta.
Có mấy cách để người môn đệ vững vàng trong thử thách, nhằm vượt qua nỗi cheo leo đời mình, để thấy Chúa luôn hiện diện, luôn đỡ nâng, đó là:

1. Lời Chúa.

Chúa dạy hai môn đệ suốt hành trình về Emmaus bằng lời Kinh Thánh, là Chúa hun đúc đức tin để hai ông lấy lại nền tảng Kinh Thánh mà tin vào Chúa.
Chúa vẫn hiện diện đấy thôi. Chỉ có điều hai ông và cả chúng ta đều không nhận ra Chúa giữa đời thường.

Vậy, khi bị vây bởi bóng tối trong đời, hãy mở Kinh Thánh nghiền ngẫm, cầu nguyện. Suy ngẫm Lời Chúa là cách ta để Chúa uốn nắn đức tin của ta.

Vì thế, nếu không bao giờ tiếp xúc với Lời Chúa, đó là người vô phúc, vì loại bỏ một phần sự giáo dục quan trọng của Chúa ra khỏi đời mình.

Lúc tiếp cận, cầu nguyện với Lời Chúa là lúc sức mạnh của Chúa đỡ nâng hành trình đời ta. Chúa hiện diện trong sự đỡ nâng thầm lặng mà Người thủy chung dành cho ta.

2. Thánh Thể.

Cuối hành trình của hai môn đệ trên làng Emmaus, cũng là lúc cuối ngày, lúc bóng tối đang dồn về, Chúa cử hành lại nghi thức của chiều thứ Năm Tuần Thánh, một cử hành mới diễn ra vài ngày trước: cử hành Thánh Thể.

Nếu bóng đêm của không gian đang phản ánh chính bóng đêm của cõi lòng, thì giữa bóng đêm tăm tối, Chúa trao ban Thánh Thể của Người. Đó chẳng phải là cử hànhThánh Thể giữa những tăm tối đó sao?

Ngày nào mà Hội Thánh không cử hành Thánh Thể! Giữa những tăm tối của cuộc đời, hằng ngày Thánh Thể vẫn sáng lên soi rọi, dẫn lối, trao sức mạnh cho bất cứ ai dám tin tưởng, dám đặt đời mình trong ơn Chúa.

Bài học này lớn vô cùng để ta biết, cuộc đời càng tối tăm, càng thách thức, càng giăng nhiều cạm bẫy, ta càng phải quay về với Thánh Thể Chúa.

Thánh Thể là sức mạnh vững chãi cho kẻ tin tưởng tìm về. Điều này rõ hết sức khi hai ông lập tức quay trở lại Giêrusalem. Cũng là bóng đêm, thậm chí đêm càng lúc càng khua, càng đáng sợ, thì hai ông mất hết sợ hãi. Lập tức lên đường, ngay trong đêm, hai ông loan báo bằng được niềm vui Chúa Phục sinh.

Thánh Thể Chúa đã gây nên sức mạnh vô cùng lớn lao, khó có thể có ai cản nổi. Thánh Thể Chúa chính là sự đỡ nâng đầy thánh thiện mà mỗi người không bao giờ được phép bỏ qua.

Ai dại dột bỏ qua Thánh Thể, kẻ đó đang đánh mất chính nguồn sống, chính sự sống siêu nhiên, sự sống đời đời của mình.

Về mục lục

HÀNH TRÌNH EM-MAU

 Lm. Xuân Hy Vọng

Kính thưa quý cộng đoàn Phụng Vụ! Khi con ngồi viết những dòng suy niệm này là lúc cả thế giới đang chống chọi với cơn đại dịch cô-vi. Và trong thời gian bệnh dịch bùng phát cho đến thời gian bây giờ, Thánh lễ nhiều nơi trên thế giới, những sinh hoạt chung giáo xứ có lẽ vẫn còn bị đình chỉ! Dù trong một bức tranh u ám như vậy chăng nữa, Chúa Phục Sinh đã chiếu sáng vào chốn tối tăm, chiếu soi vào cõi lòng nhân loại, và tỏ rạng ánh vinh quang của Ngài nơi tâm hồn chúng ta. Vì thế, cùng cảm nghiệm ngày xưa của hai môn đệ làng Em-mau, chúng ta cùng suy gẫm đôi điều về các bài đọc Phụng Vụ hôm nay.

Giả như, nếu ví cuộc đời của chúng ta là một bộ phim nhiều tập, thì hơn ai hết là người Ki-tô hữu, chúng ta biết rõ cuốn phim này kết thúc ra sao rồi. Mà nếu ví cuộc đời của chúng ta là cuốn tiểu thuyết thì chắc chắn chúng ta cũng đã biết kết cuộc thế nào. Vì chưng, Chúa Ki-tô đã chịu chết trên thập giá, nhưng Người đã sống lại, chiến thắng sự chết, và đây chính là điều tối hậu của cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta, đức tin của chúng ta; cụ thể được minh chứng rõ nét trong đoạn sách Công Vụ Tông Đồ “vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Đấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa” (Cv 2, 28). Chúng ta có thể thất vọng với chính bản thân mình, với những người xung quanh, với kỳ vọng của chúng ta; nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm chúng ta thất vọng, nếu chúng ta biết trông cậy và tín thác nơi Người.

Chính nhờ niềm tin này, mà chúng ta nên ra công tìm kiếm và thực thi ý Chúa hơn là ước muốn của thế gian hay của chúng ta. Về điểm này, lời Chúa trong thư của Thánh Phê-rô Tông Đồ vang vọng trong chúng ta, “…không phải nhờ những thứ chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm…Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô” (x. 1Pr 1, 18 – 19). Tuy nhiên, thực tế cho chúng ta nhận ra, chúng ta đã – đang sống ngược lại với những gì Thánh nhân dạy. Trong lịch sử, mỗi khi các cơn đại dịch xảy ra, thì con người thường ăn năn, sám hối ít nhiều, trở về với Thiên Chúa, chạy tới kêu xin Người thương xót. Nhưng nay thì khác, đại dịch cô-vi bùng phát, người ta lại hối hả mua đồ tích trữ, vơ vét hết những thứ nhu yếu phẩm, chỉ biết lo cho bản thân mà không mảy may nghĩ đến người khác cũng đang cần như mình! Giữa đại dịch, thay vì dành nhiều thời gian để nhìn lại bản thân, nhìn lại cuộc sống làm người, nhìn lại đời sống Ki-tô hữu…thì không ít chúng ta chỉ nơm nớp lo sợ, hoảng loạn! Giữa đại dịch, thay vì dành nhiều cơ hội để cầu nguyện, để gần gũi Chúa, gần gũi với anh chị em trong gia đình hơn, thì chúng ta lại vẫn ‘ngựa quen đường cũ’ tụ tập trong nhà ăn nhậu, bày ra nhiều trò tiêu khiển khác. Giữa cơn đại dịch, thay vì loan truyền tin mừng, tin hy vọng, khuyến khích động viên, cảm thông hơn với nhau, thì chúng ta chỉ biết lợi nhuận cá nhân mà đẩy giá mặt hàng trên mạng! Chúng ta được cứu thoát nhờ Máu châu báu của Con Chúa, chứ không phải được cứu rỗi bằng nén vàng, thỏi bạc, châu sa, hạt lựu! Vì thế, chúng ta nên sống và làm chứng với ơn sủng được Chúa cứu độ.

Mặc khác, khi nhìn toàn cảnh thế giới đang oằn mình chống chọi với cơn đại dịch cô-vi, và mỗi ngày phải nhìn thấy những dòng tít lớn trên báo mạng về thảm hoạ dịch bệnh, khiến chúng ta rùng mình, bi quan, buồn bã, thất vọng và có khi nghi ngờ ‘Thiên Chúa còn là Đấng luôn yêu thương, giàu lòng thương xót’? Thậm chí, còn nghĩ ‘Chúa đang trừng phạt nhân loại’ qua cơn đại dịch này chăng? Thật ra, Thiên Chúa mà Chúa Giê-su loan báo cho chúng ta, và là hiện thân qua Con Một Người không phải Đấng ưa thích trừng trị, sát phạt, mà là ‘Đấng giàu lòng xót thương, chậm bất bình, và rất mực khoan dung’ (Tv 103, 8), là ‘Đấng không muốn kẻ gian ác, tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống’ (Ez 18, 23). Sự dữ, sự ác đều do tội lỗi con người, do tính kiêu căng, cao ngạo của con người mà ra; và vì con người tự mình gây ra nên phải gánh hậu quả là điều tất yếu. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc, và luôn gửi thông điệp đến với chúng ta trong tâm hồn, qua những biến cố thời đại giúp chúng ta quay về với Người, v.v…Hơn nữa, chỉ có một mình Thiên Chúa mới cứu thoát con người ra khỏi vòng luẩn quẩn này, và chỉ mình Người mới có thể biến sự dữ thành sự lành, biến sự ác thành sự thiện mà thôi, ‘duy chỉ Thiên Chúa viết đường thẳng trên những đường cong’ (theo Thánh Âu-gus-ti-nô). Trong nỗi thất vọng dường như tuyệt vọng ‘Thiên Chúa bỏ quên chúng ta’ này cũng là cảm nghiệm của hai môn đệ đã bỏ Giê-ru-sa-lem mà về làng Em-mau. Vì buồn sầu thê thảm, mọi thứ dường như sụp đổ trước mắt họ, nên họ đành bỏ nơi mà họ từng hăng hái, đầy nhiệt huyết bước theo chân Thầy Giê-su, cùng Người bôn ba khắp chốn, được nghe Người giảng dạy và chứng kiến biết bao điều kỳ lạ, để trở về nơi chốn xưa, nơi mà hai ông sống trước khi được gặp Thầy Giê-su! Trong nỗi thất vọng ê chề này, có thể nói: hai ông đã trốn chạy, bỏ lại đằng sau những gì bi thương xảy ra tại Giê-ru-sa-lem ‘Thầy Giê-su chịu kết án, chết nhục nhã trên thập giá’. Nhưng nỗi sầu này đâu phải chỉ dừng tại đây, mà ‘sau ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy từ cõi chết’ như hai ông đã từng được nghe khi còn theo chân Thầy Giê-su. Và trong nỗi u buồn lê bước trở về làng Em-mau, với suy nghĩ ‘Thiên Chúa đã bỏ mặc Thầy Giê-su’ hoặc ‘Thiên Chúa đã bỏ mặc chúng ta’, thì chính lúc này, Thiên Chúa lại gần gũi hai ông hơn bao giờ hết “đang lúc trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến gần và cùng đi với họ” (Lc 24, 15). Không những thế, Người còn giải thích Kinh Thánh cặn kẽ, mở trí lòng cho hai ông, mà còn tỏ cho hai ông thấy hành động bẻ bánh trong bữa tiệc ly trong đêm trước khi Người chịu khổ nạn. Và khi nghiệm lại tất cả biến cố trên đường đi, hai ông đã nhận ra “dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24, 32). Nói cách khác, Chúa Ki-tô Phục Sinh đã đồng hành với họ trong nỗi thất vọng, Chúa Ki-tô Phục Sinh thổi bùng lên ngọn lửa nhiệt huyết của họ đã tắt khi trên đường về quê, Chúa Ki-tô Phục Sinh đã ban cho họ niềm vui của Ngài hầu xua tan bao nỗi bất an, nặng trĩu đang ẩn sâu trong tâm hồn họ.

Với cảm nghiệm của hai môn đệ làng Em-mau, chúng ta cùng nhau xác tín rằng: Chúa Ki-tô Phục Sinh đang cùng sánh bước với chúng ta trên cuộc hành trình lữ thứ đầy chông gai này. Người đang nói với chúng ta qua mỗi giờ kinh nguyện sốt sắng. Người hiện diện, đỡ nâng, nuôi dưỡng chúng ta qua Thánh Lễ hằng ngày. Người hướng dẫn, chỉ lối chúng ta qua Giáo Hội của Người. Trong niềm cậy trông tín thác Chúa Ki-tô Phục Sinh, chúng ta dâng lời cảm tạ:

                                                Chúa đã chịu chết cho nhân loại

                                                Chúa đã sống lại trong vinh quang

                                                Chúa hằng chuyển cầu cho chúng con

                                                Chúa luôn đồng hành với chúng con

                                                Al-lê-lui-a, Al-lê-lui-a. Amen!

Về mục lục

NHẬN DIỆN

Trầm Thiên Thu

Nhận diện là điều cần thiết. Càng ngày càng cần hơn vì sự dữ gia tăng, giả hình tinh vi hơn ngày xưa rất nhiều. Con người còn giả thì còn thứ gì không giả? Mức nhận diện cần chính xác để tránh lầm lẫn kẻo mang họa vào thân.

Chiếc máy vi tính hoặc chiếc điện thoại, không chỉ cần mật mã để khóa mà còn cần nhận diện. Việc nhận diện trước tiên để tự bảo vệ chính mình khỏi những thứ nguy hiểm. Virus đa dạng, không chỉ về sinh học mà cả về kỹ thuật số. Có những loại virus còn độc hại hơn là virus trừu tượng: dối trá, lọc lừa, tham lam, ghen tỵ, tà tâm, xảo quyệt,… Vô số chủng loại mới nguy hiểm giữa xã hội gian tà và vô thần ngày nay.

Nhận diện được chúng thì mới có cách để xa tránh hoặc triệt tiêu chúng. Đó là phương diện tiêu cực. Phương diện tích cực là nhận diện cái tốt để hấp thụ. Càng cần thiết hơn về phương diện tâm linh: nhận diện Thiên Chúa và nhận diện môn đệ đích thực của Ngài. Khó nhất là nhận diện chính mình – để tránh lố bịch, ảo tưởng.

Người ta thường nói: “Tưởng vậy mà không phải vậy.” Vì  thế càng phải nhận diện chính xác, sai một ly đi một dặm. Ai cũng biết chữ Cross (Anh ngữ) nghĩa là gì, nhưng nó không chỉ có nghĩa là thập giá hoặc đau khổ, mà còn có nghĩa là huân chương: Cross of Merit – Huân Chương Công Trạng. Thảo nào Chúa Giêsu động viên chúng ta cố gắng vác thập giá để xứng đáng được Ngài thưởng sự sống đời đời. Thật tuyệt vời!

Cuộc sống là hoạt động, di chuyển. Tuy nhiên, đi được khoảng cách xa hay gần không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường. Gặp gỡ rất quan trọng, và có liên quan nhận diện. Sống ở đời không thể không gặp nhau, nhìn thấy nhau, và thường liên quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt, bằng động thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong sự im lặng. Vô ngôn có khi còn “nói” nhiều hơn là ngôn ngữ.

Có nhiều kiểu gặp nhau. Có người vui mừng gặp người khác, có người giáp mặt mà làm ngơ hoặc tránh né. Đó là sự gặp gỡ vô ích, đôi khi thêm phiền toái. Gặp nhau là điều cần thiết: để chia sẻ, để giúp đỡ, để biến đổi, để thảo luận, để yêu thương,… Gặp người đời mà cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ chính Đức Kitô Phục Sinh. Gặp Ngài để được biến đổi, được tái sinh, gặp tha nhân và gặp chính mình.

Việc gặp Đức Kitô là một dạng được sống lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của Ladarô – em trai của Mácta và Maria, (Ga 11:1-44) và con trai bà góa thành Nain (Lc 7:11-17) chỉ là sống lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống lại của Đức Kitô là dạng sống lại đặc biệt và không còn chết nữa. Thân xác nhục thể và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì thế mà chính Chị Maria Mácđala và hai môn đệ trên đường Emmau cũng không nhận ra Thầy Giêsu, dù trước đó họ rất thân thiết với Ngài. Chị Maria Mácđala chỉ nhận ra Ngài khi Ngài gọi đích danh bằng giọng thân thương quen thuộc, hai môn đệ kia chỉ nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: Bẻ bánh.

Và còn hơn như vậy nữa. Khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và hồ nghi. Chúa cho họ rờ vào Ngài, rõ ràng Ngài vẫn có xương thịt, đặc biệt là Ngài còn ăn khúc cá nướng. Lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật. (Lc 24:36-43) Thân xác phục sinh thật khác và cũng rất lạ, giống như xưa mà vẫn khác xưa. Thảo nào chẳng ai nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh vì họ nhìn bằng con mắt trần gian.

Trong cuộc sống đời thường cũng có điều khác thường. Bất kỳ ai “gặp” được Đức Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có vẻ.” Thấy ai biến đổi thì biết chắc là người đó đã được “gặp” Đức Kitô. Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ không “ra vẻ biến đổi” để được người khác khen ngợi hoặc tỏ ra mình đạo đức. Cuộc đời các thánh đã cho thấy điều đó, họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi là chân lý. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được.

Ngư phủ Phêrô là người được Thầy Giêsu tín cẩn trao trọng trách làm giáo hoàng tiên khởi, dù “không có chữ nghĩa” (Cv 4:13) và đã từng nói mạnh là dám liều chết với Thầy, (Mt 26:35; Mc 14:31; Lc 22:33) nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược khi Thầy bị bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm. Tuy nhiên, sau khi ông đã gặp được Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn biến đổi, không còn nhát đảm hoặc sợ sệt. Và rồi một hôm, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giuđa Ítcariốt), và lớn tiếng nói với họ: “Thưa anh em, miền Giuđê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây.” (Cv 2:14) Ông dốt chữ nghĩa nhưng thông thạo Lời Chúa.

Thật vậy, ông Phêrô đã dõng dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Nadarét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đavít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.” (Cv 2:22-28) Sự biến đổi kỳ diệu!

Rõ ràng một Phêrô hôm nay khác hẳn một Phêrô hôm qua. Ông trở thành một nhân chứng sống động, một nhân chứng đích thực. Khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác, kể cả cái chết. Ông Phêrô tiếp tục nói với giọng quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đavít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe.” (Cv 2:29-33) Đúng là ông đã nhận diện được chính Đấng Phục Sinh, Thiên Chúa của kẻ sống chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết.

Khi chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Thiên Chúa thì Ngài rất vui. Ngài muốn chúng ta như vậy để chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài và được lợi ích là tận hưởng Lòng Thương Xót bao la của Ngài. Được như vậy thì chúng ta sẽ vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2) Đó là lúc nhận diện chính mình, biết mình là ai, như thế nào, và cần gì.

Đó là “chuỗi nhận diện.” Thánh Augustinô nói: “Nhận biết Thiên Chúa là làm cho người ta nhận biết mình; cũng vậy, nhận biết mình cũng làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa.” Còn Thánh Thomas Aquinô phân tích: “Có ba điều cần để con người được cứu độ: biết mình TIN gì, biết mình MUỐN gì, và biết mình LÀM gì.” Rất lô-gích!

Chắc chắn rằng chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ.” (Tv 16:5) Do đó, chúng ta có thể can đảm thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11) Niềm tín thác tuyệt vời biết bao! Và hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay – đặc biệt trong cơn đại dịch corona này, người ta đã biết hướng về Thiên Chúa.

Có tin tưởng nhau thì mới có thể gặp nhau. Đối với phàm nhân, mức độ ưu tiên có khác nhau, ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn. Nhưng Thiên Chúa không như vậy, chớ ảo tưởng mà lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện nhiều, từ thiện nhiều, làm việc tông đồ nhiều,…) rồi mạo nhận là mình “ngon” hơn người khác. Thật đáng sợ!

Với bản tính bộc trực, thẳng như ruột ngựa, Thánh Phêrô nói rõ: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này.” (1 Pr 1:17) Rất rõ ràng, rất rạch ròi, rất thẳng thắn, rất công bình, rất nghiêm túc. Đó là sự thật, mà sự thật thường khiến người ta không vừa lòng.

Và rồi Thánh Phêrô còn giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.” (1 Pr 1:18-21) Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào. Chữ phải có nghĩa, nghĩa phải đủ kẻo dễ hiểu lầm.

Tin nóng về Đức Giêsu chịu chết làm rúng động dân chúng, tin nóng đó chưa đủ nguội thì lại có tin nóng khác: Đức Giêsu phục sinh. Tin nóng này lại tiếp tục “khuấy động” lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác. Nhưng cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Trên đường họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cảm thấy thất vọng vì không biết tương lai ra sao, thôi thì về quê cắm câu vậy, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ thế nào. Tương lai như đi vào ngõ cụt. Buồn ơi là buồn!

Trình thuật Tin Mừng (Lc 24:13-35 ≈ Mc 16:12-13) cho biết rằng khi họ đang đi đường, cùng trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài “giả nai” mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách lạ này là người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi mà “ông ta” chẳng hề biết. Lạ ghê!

Khi đó, Cơlêôpát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” và hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ chân thành kể lại vụ Ông Giêsu Nadarét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel, thế nhưng những việc ấy xảy ra đã ba ngày. Họ còn bảo họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy.” Thế thì buồn thật và thất vọng thật!

Và rồi Đức Giêsu nói với họ: “Các anh CHẲNG HIỂU gì cả! Lòng trí các anh thật là CHẬM TIN vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” Ngài bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà hai ông vẫn chưa “phá ngu đột xuất.” Khổ ghê!

Không thể khác hơn, Chúa Giêsu đành phải trách các ông “chậm tin.” Thật vậy, cuộc sống đời và đạo cứ hằng ngày trôi qua, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, thậm chí việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của con robot được lập trình sẵn. Và chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng rồi gặp chuyện gì không xuôi xắn “như ý” mình thì chúng ta lại… ngại ngần, hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm. Thấy giật mình thật, nhưng cũng chẳng oan ức gì!

Gần tới nơi họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Họ gãi đầu gãi tai và bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Ôi, tiếc thật!

Và rồi ngay lập tức, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh. Thế là mọi vấn đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa. Tương lai xán lạn ở phía trước. Niềm vui lại rộn ràng điệp khúc Alleluia!

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra Ngài trong những người chúng con gặp, nhất là nơi những người hèn mọn, và xin cho họ cũng nhận ra Ngài khi gặp chúng con. Xin giúp chúng con biết cầm lấy tấm-bánh-cuộc-đời-mình, tạ ơn Ngài, bẻ ra, trao cho mọi người, và luôn làm chứng về Đức Kitô chịu chết và phục sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 PS_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh này đặt trọng tâm vào sự kiện Phục Sinh.

Cv 2: 14, 22-28, 33

Bài Đọc I trích từ diễn từ đầu tiên của thánh Phê-rô. Thánh nhân ngỏ lời với dân chúng ở thành đô, bảy tuần sau biến cố Phục Sinh. Vị lãnh tụ của các Tông Đồ lớn tiếng công bố Đấng chịu đóng đinh đã Phục sinh.

1Pr 1: 17-21                                                      

Thánh Phê-rô viết từ Rô-ma gửi các Ki-tô hữu miền Tiểu Á, trong đó thánh Phê-rô nhắc nhở rằng nền tảng Đức Tin và nguồn mạch Đức Cậy đặt trên hy tế và phục sinh của Đức Ki-tô.

Lc 24: 13-35                                                      

Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc gặp gỡ của hai môn đệ phiền muộn với Đấng Phục Sinh trên đường Em-mau. Ngài khai lòng mở trí cho họ hiểu cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài bằng Kinh Thánh; cuối cùng họ nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh, ngay lúc đó Ngài biến mất trước mắt các ông.

BÀI ĐỌC I (Cv 2: 14, 22-28, 33)

Đoạn văn hôm nay được trích từ diễn từ đầu tiên của thánh Phê-rô, được công bố vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần. Sau khi được tràn đầy Thánh Thần, thánh Phê-rô ngỏ lời với đám đông Do thái đến Giê-ru-sa-lem để tham dự lễ “Ngũ Tuần”.

Chúng ta chỉ còn biết thán phục trước sự dạn dĩ của vị lãnh tụ các Tông đồ, thánh nhân phục hồi danh dự cho Đấng chịu đóng đinh và lớn tiếng công bố việc Ngài sống lại trong chính thành mà Ngài chịu khổ nạn, chỉ vài tuần sau những biến cố bi thương như vậy.

  1. Ngón đòn tâm lý

Thánh Phê-rô “đứng… và lớn tiếng nói”, nghĩa là thánh nhân lên tiếng trong tư thế của một người xác tín và vững tin. Việc các Tông đồ khác đồng hiện diện với thánh nhân chứng thực sự đồng thuận của Tông Đồ đoàn.

Bố cục của bài diễn từ thật rõ ràng: Đức Giê-su là người của Thiên Chúa, anh em đã kết án tử Ngài, Ngài đã sống lại. Trong phần khai triển, thánh Phê-rô sử dụng ngón đòn tâm lý. Để chứng minh rằng Đức Giê-su là người của Thiên Chúa, thánh nhân khởi đi từ một thực tại mà hầu hết các thính giả đều đã sống qua khi viện dẫn họ ra làm chứng: “Chính anh em đều biết những chuyện đó, vì mọi sự đã xảy ra giữa anh em”.

Thánh Phê-rô tránh nêu lên thần tính của Đức Ki-tô ngay từ đầu, nhưng nhấn mạnh nhân tính của Ngài trước tiên: “Đức Giê-su người Na-da-rét, người đã được Thiên Chúa chứng nhận… Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su đã bị nộp”. Tiếp đó, vị lãnh tụ các Tông Đồ nhắc lại cái chết của Đức Giê-su khi cẩn trọng phân phối trách nhiệm: trước hết, cái chết này phù hợp với kế hoạch Thiên Chúa đã định; tiếp đó, dân Do thái cũng chịu phần trách nhiệm: “Anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh vào Thập giá mà giết đi”; như vậy, người Rô-ma cũng bị quy trách nhiệm về cái chết của Ngài.

  1. Biến cố Phục Sinh của Đức Kitô đã được Kinh Thánh loan báo

Lúc đó, thánh Phê-rô mới nêu lên biến cố Phục Sinh. Đối với cử toạ quen thuộc với Kinh Thánh, thánh nhân sẽ minh chứng rằng cuộc Phục Sinh này đã được Kinh Thánh loan báo rồi. Thánh nhân trích dẫn hai Thánh Vịnh.

Trước hết, Thánh Vịnh 18: “Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ do thần chết gây nên, mà cho Người sống lại. Vì lẽ thần chết không tài nào khống chế được Người mãi”, đây là bài thánh thi tạ ơn Đức Chúa cứu độ, chính Thiên Chúa đã ra tay cứu bạn Ngài khỏi lưới tử thần, tuy nhiên bản dịch Hy-lạp lại thay thế “lưới tử thần” của bản Híp-ri bằng “những đau khổ do thần chết gây nên”.

Tiếp đó, thánh Phê-rô trích dẫn Thánh Vịnh 16, được gán cho vua Đa-vít, theo đó người được Thiên Chúa tuyển chọn hân hoan vui mừng cho dù phải đối diện cái chết, “vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát”. Tv 16 này được người Do thái đương thời với Đức Giê-su chấp nhận là bài thánh vịnh mang chiều kích Mê-si-a. Thánh Phê-rô phát hiện ở nơi Thánh Vịnh này một luận chứng gây kinh ngạc.

  1. Lời chứng của vua Đa-vít

Tác giả của lời sấm này là vua Đa-vít, vua “đã chết và đã được mai táng” (như Đức Giê-su), và ngôi mộ của vua hiện ở Giê-ru-sa-lem (như Đức Giê-su) ở đó người ta vẫn còn thấy ngôi mộ của vua. Thánh Phê-rô muốn lưu ý thính giả về sự tương phản giữa số phận của vua Đa-vít với số phận của Đức Ki-tô mà Thiên Chúa đã cho sống lại.

Nhờ ân ban ngôn sứ, vua Đa-vít biết rằng Đấng Mê-si-a sẽ thuộc dòng dõi của vua và Đấng ấy sẽ sống lại mà ra khỏi mồ. Vì thế, thánh Phê-rô công bố một lần nữa việc Đức Giê-su sống lại: “Về điều này tất cả chúng tôi đều làm chứng” (Cv 2: 32) và khẳng định việc Ngài được tôn vinh ở bên hữu Chúa Cha. Chúa Cha đã cho Ngài quyền ban Thánh Thần. Qua hành động cản đảm của mình, các Tông đồ cũng chứng thực họ được thụ hưởng ân ban Thánh Thần dư tràn này.

Như vậy, vị lãnh tụ các Tông Đồ dọi chiếu ánh sáng Kinh Thánh trên Đức Giê-su lịch sử mà mọi người đều đã biết, con người Giê-su này đích thật là Đấng Mê-si-a được Kinh Thánh loan báo. Đức Giê-su chết như một con người lịch sử và Ngài sống lại như một Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng sự chết.

BÀI ĐỌC II (1Pr 1: 17-21)

Chúng ta tiếp tục đọc Thư thứ nhất của thánh Phê-rô, viết từ Rô-ma gửi cho các cộng đoàn khác nhau tại miền Tiểu Á. Vào Chúa Nhật trước, chúng ta đã đọc lời khuyên bảo sống trong niềm hy vọng; đoạn trích thư của Chúa Nhật này là một lời mời gọi sống cuộc đời thánh thiện.

  1. Dưới cái nhìn của Chúa Cha

Vị Tông Đồ ám chỉ rõ ràng đến “Kinh Lạy Cha”“Nếu anh em gọi Ngài là Cha…”. Đó là danh xưng cao quý mà người Ki-tô hữu gọi Thiên Chúa của mình. Họ là con cái Thiên Chúa, vì thế, họ phải hành xử sao cho xứng hợp, vì cuộc sống của họ diễn ra dưới cái nhìn của Chúa Cha, “Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử”. Từ đó, họ phải xử sự như người lữ khách trên trần thế này mà sống trong tâm tình “kính sợ Thiên Chúa”. Phải hiểu kiểu nói này theo nghĩa Kinh Thánh, nó diễn tả một thái độ tôn kính, vâng phục và yêu mến chứ không sợ hãi. Chúng ta nên đọc lại sách Đệ Nhị Luật ở đó lòng mến dành cho Đức Chúa được trưng dẫn nhiều lần: “Ngươi hãy kính sợ, phụng sự… yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết dạ hết sức ngươi”.

  1. Bửu huyết của Đức Kitô

Anh em có thể sống cuộc đời thánh thiện như vậy, vì xưa kia anh em vốn là dân ngoại, gắn bó với cách sống được thừa hưởng từ cha ông của anh em, còn hiện nay anh em đã được Đức Ki-tô giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi.

Thời kỳ thờ ngẫu tượng và lối sống “phù phiếm”, vô định và vô vọng đã chấm dứt. Sự giải phóng này đã được trả bằng “giá máu quý giá của Đức Kitô,” như máu Con Chiên vẹn toàn, vô tì vết (đây là những phẩm chất tất yếu của con chiên vượt qua: Xh 12: 13). Thánh Tông Đồ chắc chắn nghĩ đến dung mạo của người Tôi Trung chịu đau khổ (dung mạo này hiện diện khắp bức thư này), người Công Chính này “bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông” (Is 53: 7).

  1. Tình yêu Thiên Chúa

Trong các cộng đoàn tiên khởi, các Ki-tô hữu gốc lương dân cùng sống chung với các Ki-tô hữu gốc Do thái, liệu họ cảm thấy tự ti mặc cảm đối với những người vốn đã thuộc vào dân Chúa chọn? Có thể… Thánh Phê-rô trấn an họ. Từ cõi đời đời, Thiên Chúa đã nghĩ đến họ, và chính để họ từ nay dự phần vào dân Ngài, mà Thiên Chúa đã sai Con của Ngài: “Người là Đấng Thiên Chúa chọn và xuất hiện vì anh em”, như vậy mở ra một giai đoạn mới và chung cuộc trong lịch sử cứu độ.

  1. Qua Chúa Con đến Chúa Cha

Thánh Phê-rô kết thúc khi mô tả chuyển động kép đời sống nội tâm của người Ki-tô hữu. Khởi đi từ ý tưởng về Thiên Chúa, Đấng vừa là Cha vừa Thẩm Phán, người Ki-tô hữu hướng mắt về Đức Ki-tô mà trở về với Chúa Cha, với niềm xác tín rằng Chúa Con lôi kéo họ cùng bước theo Ngài từ Khổ Nạn đến vinh quang bên cạnh Chúa Cha. Như vậy Đức Tin và Đức Cậy bất khả biệt phân.

TIN MỪNG (Lc 24 : 13-35)

Đoạn Tin Mừng hôm nay là một trong những hạt ngọc của sách Tin Mừng Lu-ca: nó toát ra một vẻ đẹp quyến rũ khôn sánh, cả về chiều kích tâm linh lẫn chiều kích phụng vụ.

Hai môn đệ (chỉ một người duy nhất được nêu tên: Cơ-lê-ô-pát) rời bỏ Giê-ru-sa-lem sau hai ngày tấn thảm kịch thập giá (quả thật, thánh Lu-ca định vị câu chuyện này vào cùng ngày Đức Giê-su Phục Sinh). Việc họ rời bỏ Thánh Đô làm chứng rằng cộng đoàn nhỏ bé của các môn đệ thân cận với Đức Giê-su, rã đám, phiền muộn và không còn hy vọng gì nữa. Mỗi người về quê nhà của mình, trở lại nghề nghiệp trước đây của mình.

  1. Chiều kích Kinh Thánh:

Đức Giê-su động lòng thương những bạn hữu của Ngài. Họ khóc thương cái chết của Ngài và tiếc nuối giấc mơ bất thành của mình. Ngài đồng hành với họ. Đây không đơn giản là một “cuộc hành trình theo nghĩa vật lý”, nhưng còn là lộ trình tâm linh nữa. Sự hiện diện của Ngài, Đấng Phục Sinh, không còn như trước đây nữa: họ không nhận ra Ngài, cũng như bà Ma-ri-a Mác-đa-la, khi gặp gỡ Ngài bên ngôi mộ trống, bà cũng đã không nhận ra Ngài.

Theo từng bước một, Ngài dần dần soi lòng mở trí cho hai ông để hai ông “ngộ được” các biến cố. Ngài đích thân giải thích cuộc sống và cái chết của Ngài. Đối với những ai xưng tụng Ngài là “ngôn sứ”, Ngài minh chứng Ngài là Đấng Mê-si-a; đối với những ai chờ đợi cuộc giải phóng dân Ít-ra-en, Ngài giúp họ khám phá mầu nhiệm Vượt Qua. Ánh sáng dần dần ửng hồng trong tâm trí của họ, và một ngọn lửa nội tâm sưởi ấm lại tấm lòng họ, như sau này họ sẽ thốt lên : “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng thấy rạo rực đó sao ?”.

  1. Chiều kích Thánh Thể

Đức Giê-su đã thắp sáng lại niềm tin của họ. Nhưng vẫn còn thiếu một chiều kích, chiều kích này rồi sẽ xuất hiện khi họ đích thân ngỏ lời với Ngài: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì ngày đã xế chiều, và trời gần tối”.

Đây là cử chỉ của tấm lòng, cử chỉ của việc dâng hiến và chia sẻ. Đức Giê-su giả vờ như tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ngài không muốn áp đặt nhưng chờ đợi hai ông ngỏ lời mời và Ngài chấp nhận lời mời của họ. Với cử chỉ thân thiện và tình bạn của họ, Ngài sẽ đáp trả một cách tuyệt vời. Với những người bày tỏ tấm lòng hiếu khách với Ngài và mời Ngài một bữa ăn, đến lượt mình, Ngài đáp lại bằng việc bẻ bánh và mặc khải chân tính của Ngài.

Thánh Lu-ca dùng những từ ngữ mà Đức Giê-su đã dùng vào lúc Ngài thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Lc 22 : 19). Người ta nhận ra ngay đây là cử chỉ tái diễn bữa Tiệc Ly trong mối thâm tình cảm động. Vả lại, phụng vụ đã dựa trên sự kiện bẻ bánh này để biện minh việc rước lễ chỉ dưới hình bánh.

Tuy nhiên, từ xưa cho đến nay, các nhà chú giải không đồng nhất với nhau. Vài nhà chú giải bác bỏ chiều kích Thánh Thể ở nơi cử chỉ bẻ bánh của Đức Giê-su. Trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau không là các Tông Đồ, nên họ đã không tham dự bữa Tiệc ly với Đức Giê-su, làm thế nào hai người môn đệ này có thể nhận ra Thánh Thể ở nơi cử chỉ bẻ bánh của Đức Giê-su? Tuy nhiên, hướng đi của câu chuyện không thể nào chối cãi là Thánh Thể. Có một xác định đáng chú ý: vào buổi chiều Tiệc ly, Đức Giê-su đã tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, vì thế, Ngài đã hiện diện hữu hình với các Tông Đồ, trong khi với hai môn đệ Em-mau “Ngài biến mất trước mặt các ông”. Kể từ đó, sự cần thiết của Thánh Thể là như vậy: chỉ duy bánh là sự hiện diện hữu hình của Đấng Phục Sinh. Từ đó, nơi mà các tín hữu gặp gỡ Đấng Phục Sinh vinh quang chính là bàn tiệc Thánh Thể: “Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thánh Thể Người đó sao ? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10: 16-17).

  1. Chiều kích Phụng Vụ

 Vả lại, thật ấn tượng biết bao khi chúng ta đọc thấy ở nơi câu chuyện này có đủ yếu tố phụng vụ Thánh Thể: đọc và suy niệm Lời Chúa, cử chỉ dâng hiến và chia sẻ qua việc bẻ bánh.

  1. Chiều kích Giáo Hội

Thêm nữa, chúng ta cũng gặp thấy ở nơi câu chuyện này chiều kích Giáo Hội. Quả thật, hai môn đệ Em-mau ngay tức khắc trở về Giê-su-sa-lem. Họ gặp lại “các Tông Đồ và các bạn hữu đang tụ họp ở đó”. Cuộc gặp gỡ của hai người môn đệ này với Đấng Phục Sinh được cũng cố bởi kinh nghiệm của thánh Phê-rô: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon”.

Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng duy nhất nêu lên việc Chúa Ki-tô hiện ra với một mình thánh Phê-rô, lãnh tụ các Tông Đồ. Thánh Phao-lô cũng nói điều này trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô. Như vậy, thánh Lu-ca kết thúc câu chuyện này với lời chú thích của Giáo Hội, dưới uy quyền tối thượng của thánh Phê-rô.

Về mục lục

 

CÓ CHÚA TRONG ĐỜI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Chúng ta vừa long trong cử hành lễ Phục Sinh. Những ồn ào náo nhiệt của ngày lễ đang dần lắng xuống. Nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: điều còn lại sau những ngày lễ là gì? Mỗi người tín hữu được mời gọi trả lời qua đời sống của mình: “Điều còn lưu lại nơi chúng ta, đó là niềm xác tín có Chúa trong đời”.
 
Con đường về Emmau của hai môn đệ xa thăm thẳm và dài đằng đẵng. Con đường ấy dài không phải vì khoảng cách không gian, mà là do tâm trạng của các ông. Hai ông đang chán chường, vì lý tưởng và hy vọng của mình bấy lâu nay bỗng chốc tan thành mây khói. Những tâm sự mà các ông thổ lộ với “vị khách đồng hành” đã cho thấy điều ấy: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en”. Khi nói “trước đây vẫn hy vọng”, các ông lộ rõ sự chán nản đang làm các ông mất định hướng cho đời mình.
 
Vào lúc các ông không ngờ, Chúa Giêsu đến gặp gỡ các ông trên con đường xa thẳm ấy. Người đến đúng lúc các ông đang buồn chán và đang cần sự nâng đỡ. Với dáng vẻ của một lữ khách, Người đàm đạo với các ông để chứng minh sứ mạng Thiên Sai của Người. Người nâng đỡ sự yếu hèn của các ông và đem lại cho các ông niềm lạc quan và nghị lực. Tâm trạng chán nản nơi các ông quá nặng nề đến mức không nhận ra Thày mình. Chỉ vào lúc Chúa bẻ bánh, mắt hai ông mới mở ra và nhận ra Chúa.
 
Hành trình Emmau cũng là hành trình cuộc đời của mỗi chúng ta. Trên con đường dương thế, chúng ta phải đối diện với biết bao khó khăn thử thách. Không ít lần, chúng ta đã ngã gục trước những thử thách cam go ấy. Xung quanh chúng ta cũng có những người mang trên vai gánh nặng cuộc đời quá nghiệt ngã, tưởng chừng như không thể vượt qua. Tuy vậy, người tin vào Chúa xác tín rằng, họ không bước đi một mình trong hành trình dương thế, nhưng có Chúa đồng hành để đỡ nâng phù giúp. Chính vì thế, những ai tin Chúa luôn cầu nguyện phó thác nơi Ngài. Niềm cậy trông của chúng ta sẽ không uổng phí, vì Chúa là Cha nhân hậu, luôn lắng nghe và thấu hiểu những nguyện vọng của con người. Lịch sử cứu độ và cuộc sống cá nhân mỗi người đã chứng minh điều ấy.
 
Giữa những lo toan bận rộn bủa vây tư bề, có những lúc chúng ta quên sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau hôm nay, nhắc nhở chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Như người cha người mẹ thương yêu vỗ về con cái, và luôn ở gần đặc biệt trong những giờ phút thử thách gian nan, Chúa cũng luôn ở gần chúng ta để che chở giữ gìn trước những nghịch cảnh của cuộc đời.
 
Cử hành lễ Phục Sinh không chỉ để tưởng niệm một người đã chết, nhưng điều quan trọng hơn là tôn vinh quyền năng của Đấng đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Thánh Phêrô đã khuyên các tín hữu hãy xác tín vào Đấng Phục Sinh và sống sao cho đẹp lòng Người. Bởi lẽ, một khi tin vào Đức Kitô sống lại, đời sống của người tín hữu phải phù hợp với niềm tin đó. Mỗi cộng đoàn Kitô hữu đều có Chúa phục sinh hiện diện. Sự hiện diện của Người được thể hiện qua đời sống yêu thương và hiệp nhất (Bài đọc II).
 
Nhờ gặp gỡ Đấng Phục sinh, hai môn đệ Emmau được hiểu nội dung Kinh Thánh và Sứ điệp của Tin Mừng. Hai ông đã theo Chúa Giêsu, đã được thụ giáo với Người trong suốt thời gian dài. Tuy vậy, lòng trí của các ông còn bị che phủ bởi những quan niệm trần thế về Đấng Thiên sai. “Người khách lạ” trên đường Emmau đã trách hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!”.  Chính Chúa Phục sinh mở lòng mở trí cho các ông để các ông nhận ra những gì các ngôn sứ của Cựu Ước đã được thực hiện. Nhờ Đấng Phục sinh, chúng ta có một nhãn quan mới để đọc và hiểu Kinh Thánh, vì tất cả Cựu Ước đều quy về một trung tâm điểm là Chúa Giêsu Kitô, như Thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Cũng nhờ được gặp gỡ với Đấng Phục Sinh mà thánh Phêrô đã giảng hùng hồn trong ngày lễ Ngũ Tuần, đã làm cho ba ngàn người trở lại. Trong bài giảng này, ông đã biết lồng ghép Cựu Ước với biến cố Đức Giêsu chịu khổ nạn và phục sinh. Thánh Phêrô đã trích dẫn lời Tổ phụ Đavít và chứng minh rằng điều Tổ phụ đã thấy trong quá khứ chính là lời tiên báo về Chúa Giêsu. Người là Đấng các ngôn sứ loan báo và muôn dân mong đợi. Ơn cứu độ trần gian đến từ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người (Bài đọc I).
 
Một khi xác tín có Chúa trong đời, chúng ta sẽ yêu mến cuộc đời này hơn và sẽ cố gắng để sống tốt hơn trong cuộc sống hiện tại. Niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Phục sinh đã làm nên sức sống kỳ diệu của Giáo Hội suốt bề dày lịch sử. Niềm tin ấy cũng làm cho mỗi người tín hữu chúng ta trở thành nhân chứng của Đấng Phục sinh trong cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

.

CHÚA HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAU

Gm. Phêrô Nguyễn Khảm

Hôm nay chúng ta sẽ suy niệm về một lời cầu khẩn của hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Đó là một thực tế về mặt thời gian, bởi vì lúc đó gần tối rồi. Đồng thời câu nói đó có lẽ nó cũng diễn tả một thái độ tâm hồn.

Trời đã về chiều, ngày sắp tàn, đêm tối sắp đến. Tâm hồn của hai ông bị chìm trong đêm tối, cái đêm tối của nghi ngờ, đêm tối của thất vọng. Bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin vào Thầy Giêsu mà cuối cùng Thầy Giêsu bị bắt đánh đập, đóng đinh, giết chết trên Thập Giá. Tất cả niềm tin và hy vọng tan biến, chỉ còn lại nghi ngờ và tuyệt vọng. Đêm tối ấy đáng sợ hơn là đêm tôi về mặt không gian và thời gian tự nhiên.

Chính trong tâm trạng ấy các ông thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Lời cầu khẩn ấy không phải là lời cầu khẩn của chính chúng ta hay sao? Những lúc cuộc đời của chúng ta có những thất bại, có những cay đắng, chán nản đến độ chúng ta đâm ra nghi ngờ Thiên Chúa, chúng ta cần bắt chước hai môn đệ thốt lên lời nguyện xin: “Lạy Chúa hãy ở lại với con”.

Hôm nay thánh Luca muốn nói với chúng ta: Ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng ta có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Luca tường thuật lại suốt trên con đường đi về Emmau có một người khách bộ hành đi cùng. Hai môn đệ không thể nhận ra Thầy yêu thương của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho thì hai ông mới nhận ra. Và khi nhận ra thì Chúa lại biến mất.

Về mặt tín lý chi tiết này rất hay, rất quan trọng để cho ta hiểu rõ về Bí Tích Thánh Thể. Khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể nghĩa là ta cùng với Hội Thánh cầm lấy tấm bánh bẻ ra và trao cho nhau. Lúc ấy anh chị em có thấy Chúa không? Thưa không. Trước mặt chúng ta hoàn toàn là một khoảng không. Ngày xưa hai môn đệ đi bên cạnh Chúa, suốt quãng đường dài mà họ không nhận ra Chúa, khi biết được Chúa biến mất trước mặt họ cũng là một khoảng không. Chúa Giêsu không hiện diện một cách gọi là thể lý theo nghĩa chúng ta thấy Ngài như chúng ta nhìn thấy nhau.

Thực sự, sự hiện diện của Ngài là một hiện diện bao trùm cuộc sống của chúng ta. Ta đón nhận sự hiện diện đó bằng lòng tin của chúng ta. Cho nên ta vẫn có thể gặp được Chúa Phục Sinh khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể: Cầm bánh, tạ ơn Chúa. bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức?

Vì vậy câu chuyện Tin Mừng hôm nay nhắc cho chúng ta. Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể. Ước gì chúng ta có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước màu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Ngài và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Ngài.

Về mục lục

.

MỘT THIÊN CHÚA ĐỒNG HÀNH VỚI CON NGƯỜI

Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt

Trong hành trình cuộc sống, nhiều khi chúng ta tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Người tín hưũ đôi khi cũng bị người khác hỏi: Thiên Chúa bạn ở đâu? Bài Tin Mừng về Chúa Giêsu phục sinh đồng hành với 2 môn đệ đi Emmau giúp chúng ta trả lời được những thắc mắc như vậy.

Hai môn đệ ở trong hoàn cảnh “mộng vàng tan mây, nhọc nhằn lê gót chân buồn đường dài” như cha Thành Tâm diễn tả. Lúc ấy hẳn là họ nghĩ Thiên Chúa ở nơi đâu hết sức cao xa. Nhưng thật ra Chúa Giêsu phục sinh đang đồng hành với họ mà họ chưa nhận ra ngay. Trên đường, Chúa cắt nghĩa Kinh Thánh cho họ, khiến lòng họ nóng lên. Lúc đồng bàn, Chúa bẻ bánh trao cho họ, khiến họ nhận ra Chúa. Từ chỗ hoang mang bỏ Giêrusalem ra đi, họ vui mừng quay trở lại Giêrusalem với anh em. Hôm nay Chúa Giêsu phục sinh vẫn đồng hành với chúng ta như vậy.

Và Chúa cũng muốn đồng hành với con người thời nay như vậy. Có người không biết tại sao mình có mặt trên đời để. Có người đau khổ vì bệnh tật hay vì ác tâm của người đời. Có người buồn sầu vì những mất mát… Chúa muốn đồng hành với họ, soi sáng họ, dẫn đưa họ vào con đường Chúa đã đi để đến nơi Chúa đã đến. Chúa thực hiện điều ấy qua các môn đệ của Chúa. Tôi phải đóng vai của Chúa Giêsu phục sinh đối với người này, bạn phải đóng vai Chúa Giêsu phục snh đối với người kia. Chúng ta trở thành Chúa Giêsu phục sinh cho nhau.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin Chúa ở lại với chúng con, để chúng con vượt qua những hoang mang trong cuộc sống, đạt gới niềm vui, nhờ đó chúng con cũng có thể giúp anh em như vậy trong cuộc sống của họ.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG EMMAU

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Đường Emmaus thật lạ kỳ. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, mãi không thấy đến. Lúc về thì sao chóng vánh, chưa đi đã đến. Khi đi thì ảo não u sầu. Lúc về lại phấn khởi hân hoan. Khi đi trời còn sáng mà tưởng như đi trong đêm đen. Lúc về trời đã tối mịt mà tưởng đi giữa ban ngày. Khi đi tuyệt vọng chán chường. Lúc về tràn đầy hi vọng. Chắc hẳn ai cũng hiểu, lúc về có kết quả tốt đẹp như thế là vì hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh làm nên khác biệt. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc đời có ý nghĩa, có niềm vui, có hi vọng và có lẽ sống.

Nhưng làm thế nào để gặp được Chúa Kitô Phục Sinh? Thực ra sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong không gian. Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa ở ngay bên ta. Nhưng ta không thấy được Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài. Muốn gặp Ngài và nhận ra Ngài, ta hãy học hỏi bí quyết của hai môn đệ Emmaus: bí quyết đó là xây dựng những cộng đoàn chia sẻ.

Trước hết là chia sẻ Lời Chúa. Hai môn đệ không đi một mình nhưng lúc nào cũng bên nhau. Hai môn đệ không nói chuyện vu vơ, nhưng cùng nhau nhớ đến Chúa, nói chuyện về Chúa, chia sẻ tâm tư về Chúa. Các ngài đã thực hành Lời Chúa: “Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thày thì Thày ở giữa họ”. Chúa đã thực hiện lời hứa nên đã đến đồng hành với các môn đệ. Hơn nữa, Chúa còn chia sẻ Lời Chúa giúp các ngài hiểu biết và yêu mến Lời Chúa.

Tiếp đến là chia sẻ bác ái. Chúa giả vờ muốn đi xa hơn. Nhưng các môn đệ van nài: “Xin ở lại với chúng tôi vì trời đã chiều và ngày sắp tàn”. Thật cảm động khi lỡ đường mà được mời chia sẻ một mái nhà, dù chỉ là quán trọ. Và chia sẻ một bữa ăn dù đơn sơ đạm bạc. Nếu các môn đệ không có lòng bác ái chia sẻ như thế, có lẽ Chúa đã bỏ đi. Cảm động trước tấm lòng chia sẻ chân thành nên Chúa đã ở lại. Các môn đệ đã thực hành Lời Chúa: “Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Nhờ chia sẻ bác ái, các ngài đã được gặp Chúa. Và chính Chúa đã ở lại để chia sẻ tâm tình với các ngài.

Sau cùng là chia sẻ Thánh Thể. Ngồi vào bàn, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập phép bí tích Thánh Thể. Mắt các môn đệ mở ra và nhận ra Chúa. Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài sức sống mới để tiếp tục xây dựng các cộng đoàn chia sẻ rộng lớn hơn. Từ đó nhân lên các cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ bác ái và chia sẻ Thánh Thể đi khắp thế giới.

Tôi rất vui mừng vì giáo xứ nhà thờ chính tòa chúng ta đang phấn đấu xây dựng thành một cộng đoàn theo gương các môn đệ. Cha Xứ và Anh chị em đang tích cực khuyến khích nhau học hỏi, chia sẻ và thực hành Lời Chúa, khuyến khích tổ chức các nhóm họat động từ thiện bác ái, và khuyến khích mọi người đến tham dự thánh lễ ngày càng đông đảo. Đó là dấu hiệu Chúa đang ở giữa chúng ta. Có Chúa hiện diện tôi tin chắc cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ được ơn biến đổi, sẽ tràn đầy niềm vui, niềm bình an, sẽ ngày càng thêm đoàn kết yêu thương và sẽ hăng hái đi loan Tin Mừng. Xin Chúa cho con đường cộng đoàn chúng ta đang đi trở nên con đường Emmaus, khi đi dù có khó khăn vất vả, nhưng với sự phấn đấu ta sẽ gặp Chúa và đường về sẽ tràn ngập niềm vui.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Có những cuộc gặp gỡ đốt nóng lên ngọn lửa yêu mến, hăng hái nhiệt tình trong tâm hồn. Bạn có kinh nghiệm này bao giờ chưa?

2) Gặp Chúa Giêsu đã biến các môn đệ thành những con người khác hẳn. Bạn có mong ước được gặp Chúa để thay đổi cuộc đời không?

3) Để sống tinh thần chia sẻ, bạn phải làm gì?

Về mục lục

.

PHỤC SINH CHO ĐỜI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc đời vốn dĩ bấp bênh, vô định. Con người luôn đứng trước phong ba bão tố. Cái khổ, cái đói, và bệnh tật cứ lận vào kiếp người khiến chúng ta cảm thấy khổ nhiều hơn vui, lo nhiều hơn bình an.
Trước những đau khổ bủa vây, người Việt nam xưa vẫn tin vào Ông Trời. Họ cầu mong Trời phù hộ. Họ kêu cầu Trời giúp họ vượt qua tai ương hoạn nạn. Ông Trời không phải là sản phảm do con người tự vẽ ra để tìm cách trấn an lòng mình. Nhưng ông Trời luôn có mắt để trông xem vạn vật và đòi lại công bằng cho con người.

Thế nên, trong mọi niềm đau và oan trái người Việt Nam đều chạy đến với Trời. Họ cầu khẩn Trời phù hộ và giúp họ vượt qua, như câu ca dao xưa dân gian vẫn đọc.

Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay tới tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm?

Hóa ra Ông Trời thật dễ thương, thật gần gũi. Khi con người buồn quá, đau quá họ trút mọi nỗi đắng cay ấy vào đống rơm và cho bốc cháy thành khói đen nặc mùi khổ đau. Ông Trời cũng xót xa phận người khổ đau liền hỏi: “thằng nào đốt rơm?”.

Trong câu hỏi đã có câu trả lời. Ông Trời đã biết ai đang khổ, ai đang cay đắng những bể dâu. Ông Trời sẽ giải cứu mọi nỗi oan gia cho con người, miễn là con người còn có niềm tin vào Trời thì mọi sự sẽ vượt qua, bởi vì: “Trời nào có phụ ai đâu! Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ!”

Có thời kỳ người ta tưởng sự tiến bộ của văn minh sẽ xóa sổ Ông Trời. Sẽ không còn ai tin vào Trời, vào thần thánh. Thế nhưng, điều đó đang diễn ra ngược lại. Con người văn minh họ càng thấy mình nhỏ bé so với vũ trụ bao la. Sự văn minh lại đẩy con người vào biết bao những oan gia, những thị phi, khổ đau. Con người vẫn cảm thấy bế tắc trước bao vấn nạn cho nhân sinh quan của con người. Niềm tin vào Trời hôm nay lại rộn ràng hơn, lại sầm uất hơn. Đặc biệt Việt Nam với hơn 8.000 lễ hội là một con số khổng lồ. Nó phản ánh một nhu cầu tâm linh khi con người càng bế tắc trong cuộc sống họ càng chạy đến cầu khẩn thần linh nhiều hơn.  

Câu chuyện Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmaus thật gần gũi với con người hôm nay. Hai môn đệ đang mang trong tâm trạng chán chường thất vọng. Họ bị cuộc đời vùi dập đến nỗi đánh mất tất cả niềm hy vọng. Họ đã từng hy vọng đi bên Thầy Giê-su trong vương quốc của Ngài. Thế mà, Ngài lại bị đóng đinh vào thập giá. Ước mơ tan thành mây khói. Niềm tin về cuộc sống, về công lý đã không còn. Các ông chỉ thấy “khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào” mà còn cay cay nghẹn lòng xót xa!

Nhưng Đức Giê-su phục sinh đã cảm thông với nỗi niềm tang thương nơi các ông. Ngài dẫn chứng Kinh Thánh cho các ông thấy mọi sự đang trong đường lối Thiên Chúa. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang được thực hiện qua cái chết của Thầy Giê-su. Và rồi, mắt họ bừng lên niềm hy vọng khi họ nhận ra Thầy mình vẫn sống, vẫn đang hiện diện bên mình. Sự chết đã bị đánh bại. Niềm đau đã không còn mà biến thành niềm vui vì từ nay Chúa không chỉ đồng hành mà còn đồng bàn với họ.

“Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời húc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền bừng mở, và họ nhận ra Người” (Luca 24:30-31).

Quả thực, hai môn để đã hoàn toàn thay đổi nhờ gặp được Chúa Giê-su. Một Giê-su là Chúa của họ đã đánh bại thần chết để sống lại vinh quang. Chính cuộc gặp gỡ này đã mang lại cho họ một niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn não trạng của họ từ thất vọng đến tin tưởng, lạc quan. Từ nay họ hiểu rằng Thiên Chúa vẫn hằng sống và hằng quan tâm đến họ.

Xin cho chúng ta luôn xác tín về sự hiện diện của Chúa để dám sống làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa trước những khó khăn trong dòng đời. Xin đừng vì những nghi nan mà chối bỏ Chúa nhưng luôn biết cậy dựa vào Chúa để vượt qua sóng vỗ ba đào. Nhất là hãy tin tưởng: “Chúa đã thắng thế gian”. Hãy vui mừng luôn trong mọi hoàn cảnh. Amen.

Về mục lục

.

CÁNH CỬA BỪNG SÁNG

Anna Cỏ may

           Ngày thứ nhất trong tuần, mặt trời đã lên cao. Chúa không còn trong mồ. Những lời các bà kể chẳng ai tin và họ cho đó là chuyển vớ vẩn. Mọi người trở lại cuộc sống bình thường. Trong số đó có hai môn đệ quay trở về làng mình, làng Em-mau. Họ cho rằng nán lại ở Giêrusalem cũng vô ích, vì Thầy không còn nữa. Họ trở về với tâm trạng buồn rầu xao xuyến.

  1. Người bạn đi đường

          Giữa ánh nắng chói chang, hai ông vừa đi vừa trò chuyện về tất cả những việc xảy ra với Thầy mình. Cũng đoạn đường ấy, Chúa Giêsu đã đi theo sau họ. Người “tiến gần” và “cùng đi” với họ. Họ đã không nhận ra Thầy, vì nơi họ còn mang nỗi ưu tư, buồn rầu và thất vọng. Thất vọng vì Thầy không phải là Đấng Mêsia mà họ mong chờ. Vì thế khi Chúa Giêsu hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” (x. Lc 24, 17). Họ liền cởi mở trả lời như một người bạn đi đường bình thường. Chúa Giêsu muốn tiếp tục nghe chính miệng các ông nói về Người. Người hỏi: “chuyện gì vậy” – câu hỏi của Chúa Giêsu thể hiện sự nhiệt tình, quan tâm, thật thà khiến các ông không ngần ngại nói với Người. Họ nói cho Người về việc uy quyền, vậy mà các thưởng tế và thủ lãnh đã đóng đinh Người (x. Lc 24, 19-24). Lời họ nói không có ý chỉ trích Chúa Giêsu mà họ trách các vị thượng tế và thủ lãnh đã nộp Thầy mình, nộp người vô tội.

          Khi nghe những lời ấy, Chúa Giêsu đã nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (x. Lc 24,25 -26). Bây giờ Chúa Giêsu nói với họ về Kinh Thánh, từ ông Môsê đến các ngôn sứ. Người khiến họ cảm thấy tràn trề hy vọng. Say sưa với lời dạy, đường xa hóa ra gần, làng Emmau đã xuất hiện, chỉ còn đi thêm một đoạn.

  1. Đôi mắt đức tin

          Ánh nắng gay gắt đã qua, ngày sắp hết. Hai ông vì cảm mến, biết ơn và hiếu khách nên đã nài nỉ Người: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn” (x. Lc 24,29). Ngài nhận lời và đồng bàn cùng họ. Người cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Người làm như một chủ nhà thường làm trước bữa ăn và hành động như chính Người đã làm với các môn đệ. Ngay lúc này, mắt họ mở ra và nhận biết Thầy. Đôi mắt đức tin, đôi mắt tâm hồn và cõi lòng bị mù, bị vùi dập nay được mở ra. Sự việc này cho chúng ta thấy, các chị em phụ nữ nghe tiếng Chúa đã nhận ra Người. Còn các môn đệ nhìn thấy việc Người làm thì mới tin. Khi họ nhận ra Thầy mình thì Người lại biến mất. Chính sự biến mất của Người làm cho họ nhận thấy sức sống mới của Thầy. Ngài không còn giới hạn nơi chốn, thời gian, không gian nữa. Ngài ở khắp mọi nơi, giữa họ. Ngay sau đó, họ trở lại Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu, thuật lại những gì xảy ra. Sự quay trở về của họ cho chúng ta nhận thấy Ngài không chỉ hiện ra để giúp họ tin, Ngài còn muốn quy tụ các môn đệ lại với nhau, cùng nhau tiếp nối sứ mạng của Ngài.

          Chúng ta thì sao? Có lúc nào chúng ta thất bại, chán nản, trách móc Chúa? Trong cuộc sống nhộn nhịp náo nhiệt này, chúng ta nhận biết Chúa bằng cách nào? Có bao giờ chúng ta để Chúa nói với chúng ta không? Chúng ta hãy trả lời Chúa và chính mình trong từng ngày sống.

          Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con thêm vững tin. Tin Chúa ở khắp mọi nơi, mọi thời đại, qua những người chúng con gặp gỡ. Chúng con xin Chúa ở lại dạy dỗ chúng con lắng nghe và học hỏi Lời Ngài, nhờ đó, đức tin của chúng con được lớn lên mà đem niềm vui đến cho mọi người. Amen.

Về mục lục

.

CHỨNG TÁ CHO CHÚA KITÔ

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

            Sách giáo sử Trung Hoa ghi lại rằng: Ngày mùng 5 tháng 7 năm 1900, anh Gioan Ngô Văn Ân, một tín hữu công giáo Trung Hoa, bị bắt dưới danh hiệu là tín hữu công giáo. Trước khi bị áp giải về tỉnh, anh được ghé nhà, chào giã biệt mẹ già. Bà mẹ chỉ nhắn nhủ con một điều duy nhất: “Con nhớ là không được bao giờ chối đạo. Nếu con không còn là người kitô hữu nữa, thì con cũng không còn là con của mẹ nữa”. Anh Ân cảm động thưa với mẹ: “Mẹ an tâm, con sẽ không bao giờ chối đạo”. Nghe con trả lời, bà mẹ vững dạ. Bà choàng vào cổ con bộ áo Đức Bà, như lời cầu xin Đức Mẹ phù hộ cho con mình được lòng trung tín với Chúa đến giây phút cuối đời. Và anh Ân đã trung tín đến cùng. Trong khi chờ đợi lý hình chém đầu, anh giữ im lặng cầu nguyện. Thấy vậy, quan tòa sai lính dụ dỗ anh lần cuối. Nhưng anh trả lời: “Đừng tìm cách dụ dỗ tôi vô ích, bao lâu đôi môi tôi còn mấp máy, thì bấy lâu chúng vẫn còn được dùng để cầu nguyện, để ca tụng Thiên Chúa.

            Câu nói này của anh Ân diễn tả điều Thánh Phêrô muốn nhắn nhủ chúng ta trong bài đọc hôm nay: “Chúa Kitô đã chịu chết để ban cho chúng ta ơn cứu độ nên chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, và được hưởng cuộc sống thiêng liêng bất diệt mai sau. Không có ơn nào trọng đại và cao quý bằng ơn được làm con Thiên Chúa”.

            Anh Ân đã tin nhận Chúa là Đấng cứu độ anh, và anh đã hy sinh chịu chết để làm chứng tá cho Chúa, đây cũng là lý do khiến cho các anh hùng Tử Đạo Việt Nam đã hiên ngang không sợ hãi trước cực hình và cả cái chết nữa. Thái độ đó cũng là thái độ của người con hiếu thảo, đem chính cái chết của mình ra để minh chứng lòng yêu mến đối với Thiên Chúa.

            Tình yêu đòi hỏi phải đáp trả lại bằng tình yêu. Và không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống cho người mình yêu. Nếu các Thánh Tử Đạo có chết vì Chúa, thì cũng là để đáp trả lại cái chết vì yêu thương của con người của Ngôi Lời Con Thiên Chúa mà thôi.

            Hai môn đệ trên đường về làng Emaus, nhờ Chúa tỏ lộ cho biết tại quán trọ lúc Ngài bẻ bánh, mắt các ông mới bừng sáng lên và nhận ra Chúa. Các ông không thể hiểu được một người đã chết tất tưởi trên cây thập giá, có thể sống lại được. Nhưng đằng này các ông đã thấy Chúa tỏ tường, lúc Người đi đường đàm đạo với các ông, lúc Người bẻ bánh cùng ngồi ăn với các ông. Nên các ông đã tin, các ông quay trở lại Giêrusalem gặp các tông đồ khác. Họ kể cho nhau nghe về Chúa Kitô phục sinh. Và họ lần lượt theo nhau chịu chết để làm chứng cho niềm tin ấy. Nếu việc Chúa sống lại không có thật thì ai dại gì lại hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa.

            Người Kitô hữu chân chính phải là những tá can đảm, hữu hiệu của Chúa Kitô, dù ở bất cứ môi trường nào, dù gặp bất luận hoàn cảnh nào, họ cũng phải can đảm: “Loan truyện việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi Chúa lại đến”.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT III PHỤC SINH. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành  

Có nhiều câu chuyện kể lại việc Đức Giêsu hiện ra sau khi Ngài từ cõi chết sống lại, nhưng có lẽ câu chuyện Tin mừng hôm nay do Thánh Luca tường thuật lại là câu chuyện đẹp nhất. Đẹp không chỉ vì hành văn và cách kể chuyện của tác giả mà còn đẹp về nội dung diễn tả tình nghĩa thầy trò và đặc biệt là đẹp vì cái kết có hậu.  

Câu chuyện bắt đầu bằng sự thất vọng của hai môn đệ của Đức Giêsu. Đây là hai trong số bảy mươi hai môn đệ. Họ theo Đức Giêsu vì hy vọng một tương lai tươi sáng: Một Giêsu đánh đông dẹp bắc; một Giêsu giải phóng dân tộc Israel đang bị giặc ngoại bang đô hộ; một Giêsu tràn đầy quyền lực chính trị mà chính họ cũng hy vọng được tham dự vào. Thế rồi, một thời gian ngắn sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của mình: Ngài đã bị bắt, bị đánh đập, vác thập giá, chịu đóng đinh và chết trên thánh giá. Cuối cùng, Ngài chịu mai táng trong mồ như bao con người khác. Đối với họ, giờ chỉ còn một Đức Giêsu đã chết, một Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn. Chính vì thế, họ thất vọng chán nản. Họ từ bỏ Giêrusalem với biết bao mộng ước giờ chỉ còn là quá khứ để trở về quê hương tiếp tục sinh sống với nghề cũ. 

Rời Giêrusalem như những kẻ thua cuộc. Quảng đường từ Giêrusalem tới Emmau độ 11km. Hai ông buồn bã lê bước, vừa đi vừa trò chuyện với nhau cho vơi đi nỗi buồn. Thế rồi, trong khi đang buồn bã lê bước, Đức Giêsu đã hiện đến như một khách bộ hành vừa đi vừa đàm đạo với hai ông. Ngài gợi ý bằng một câu hỏi tế nhị để nhằm bắt chuyện với hai ông: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” (Lc 24,17). Cơ hội để các ông dốc bầu tâm sự. Một trong hai ông đã kể lại đầu đuôi câu chuyện, về một Đức Giêsu đã có nhiều thành công nhưng cũng không thiếu những thất bại: Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Rồi việc Người chịu mai táng trong mồ và việc các phụ nữ loan tin ngài đã sống lại như thế nào?  (x. Lc 24, 19-24). 

Chờ chỉ có thế, Đức Giêsu mới bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” (Lc 24,25-26). Rồi Ngài lần lượt dẫn những đoạn Kinh thánh có liên quan đến Ngài để giải thích cho họ “bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri…”(x. Lc 24,27). Lòng các ông được hâm nóng lên, mặc dầu chưa nhận ra người đang đi cùng, đang giải thích Kinh thánh cho mình là ai. Thế rồi, trời đã về chiều, đường đi cũng gần tới đích. Trước khi rẽ vào làng, với lòng hiếu khách, hai ông mời Đức Giêsu ở lại với họ. Ngài đồng ý. Và khi ngồi đồng bàn, họ đã nhận ra Đức Giêsu khi Ngài bẻ bánh. Ôi, niềm vui mừng không gì có thể diễn tả nổi. Hai ông mới nhớ lại những diễn biến xảy ra với mình khi Ngài giải thích Kinh thánh cho họ trên đường đi. Các ông không muốn giữ riêng niềm vui cho mình. Bởi vì, “niềm vui chia sẻ niềm vui lớn.” Bấy giờ, hai ông vội vả trở lại Giêrusalem để chia sẻ niềm vui đó với các Tông đồ. Khi họ trở lại Giêrusalem, không những họ chia sẻ niềm vui được gặp Chúa Phục sinh mà họ còn nhận được niềm vui từ các Tông đồ, vì Đức Giêsu cũng vừa mới hiện ra với các Tông đồ.  

Cũng như tâm trạng của hai môn đệ đi làng Emmau, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta không tránh được lo âu, phiền muộn, có khi cả thất vọng. Lo âu phiền muộn vì chuyện gia đình, vợ chồng, con cái. Lo âu phiền muộn vì chuyện cơm áo, gạo tiền. Lo âu phiền muộn vì biết bao vấn đề trong cuộc sống. Thất vọng về người thân, thất vọng về Giáo hội, về xã hội…Trong thực tế, khi gặp những lo âu phiền muộn và thất vọng trong cuộc sống, có người đi tìm sự an ủi nơi những niềm vui bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái. Có người tìm sự an ủi nơi ma thuật, bói toán. Thậm chí, có người đã làm liều bằng cách giải thoát mình bằng cái chết.  

Chúng ta cần phải tránh xa những hình thức an ủi phù phiếm trên. Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi tin vào Đức Giêsu Phục sinh. Vì chính Ngài đã cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Ngài (x.1Pr 1,19). Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết đường lối trường sinh (x. Tv 15,11a). Ngài sẽ cho chúng ta biết con đường sự sống và cho chúng ta đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa (x. Cv 2,28).  

Câu chuyện Tin mừng hôm nay giống như diễn biến của một thánh lễ: Có phần phụng vụ Lời Chúa, có phần phụng vụ Thánh Thể, có phần mời gọi ra đi để chia sẻ niềm vui cho những người xung quanh.   

Ngày hôm nay, chúng ta không được vinh dự gặp Đức Giêsu Phục sinh như hai môn đệ Emmau và các Tông đồ ngày xưa, nhưng chắc chắn Đức Giêsu Phục sinh vẫn luôn đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Đặc biệt, Ngài đang hiện diện với chúng ta nơi Lời của Ngài, nơi Bí tích Thánh Thể và nơi cộng đoàn phụng vụ, vì “ở đâu hai ba người họp lại vì danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”(Mt 18,20). 

Thật vậy, Lời Chúa là chính Chúa. Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi. Lời Chúa đã biến đổi biết bao nhiêu tâm hồn. Lời Chúa làm kim chỉ nam hướng dẫn đường đi nước bước của con cái Chúa qua mọi thời đại. Vì thế, chúng ta hãy siêng năng đọc, suy niệm và đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống của mình và giúp cho đời sống của tha nhân.  

Cũng vậy, Thánh Thể chính là Đức Giêsu. Thánh thể là của ăn chính nuôi sống linh hồn các kitô hữu. Trong bảy Bí tích, Bí tích Thánh Thể là Bí tích cao trọng nhất. Vì thế, chúng ta hãy siêng năng đến với Thánh Thể. Chúng ta hãy siêng năng tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể, viếng Thánh Thể, nhất là dọn mình sốt sắng để rước lễ hằng ngày.  

Ngoài ra, mỗi kitô hữu chúng ta phải luôn sống liên kết với cộng đoàn. Vì, sống là sống với sống cùng. Cũng như hai môn đệ sau khi gặp Chúa Phục sinh đã biết nhanh chóng quay trở lại chia sẻ với các Tông đồ, mỗi thành viên trong cộng đoàn chúng ta phải biết chia vui sẻ buồn với nhau. Nếu chúng ta biết gắn bó với cộng đoàn, chắc chắn khi vui khi buồn đều được cộng đoàn giúp đỡ, chở che. Bằng không, chúng ta sẽ bị cô đơn lạc lọng trong cuộc sống. 

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con siêng năng tham dự thánh lễ để có cơ hội suy niệm Lời Chúa, rước Mình Máu Thánh Người, sống tinh thần liên kết với cộng đoàn hầu niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh của chúng con luôn được vững mạnh. Amen.

Về mục lục

.

EMMAUS – THÀNH PHỐ CHIẾN THẮNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Câu truyện về hai môn đệ trên con đường về làng quê Emmaus rất sinh động và giầu ý nghĩa. Chỉ duy một mình thánh sử Luca kể lại câu truyện này, đan nối với nội dung được chính Thánh sử thuật lại trong sách Tông đồ Công vụ. Thánh Luca kể lại giai thoại nhằm nêu bật chứng tá của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, cộng đoàn mà Cleopas cũng như người bạn đường là những thành viên. Thánh ký viết rằng, sau khi nhận ra Chúa, họ đứng dậy quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp nhóm 11 và các bạn hữu đang tụ họp tại đó (Luca 14,33). Sau đó, mọi người chia sẻ với nhau về những trải nghiệm khi họ đã tiếp cận với Đấng Phục sinh.

Emmaus, thành phố chiến thắng.

Thánh Luca nhắc đến địa danh Emmaus với nhiều dụng ý. Đây là một thành phố nhỏ với tên gọi ‘Nicopolis’ thời đế quốc Rôma. Nicopolis có nghĩa là ‘Thành phố Chiến thắng’. Nội dung câu chuyện mà hai người bộ hành trao đổi với nhau liên quan đến một mơ ước cháy bỏng của dân chúng thời bấy giờ. Dân Do Thái mong chờ một vị cứu tinh, người sẽ chiến thắng quân đội Rôma để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang. Riêng các môn đệ lại kỳ vọng rằng người chiến thắng ấy chính là Đức Giêsu, Đấng mà họ đã bỏ mọi sự, đi theo để làm mônsinh. Họ mơ tưởng đến một vị anh hùng sẽ chiến thắng vang dội, khai mở một trang sử mới, đưa nước nhà đến cuộc sốngđộc lập trong phồn vinh và thịnh vượng. Ngay cả hai con ông Zêbêđê còn mơ ước cao hơn nữa. Họ mong muốn một người sẽ được làm chủ tịch nước, một người làm thủ tướng trong vương quốc do vị anh hùng chiến thắng ấy thiết lập. Nhưng cái chết nhục nhã của Đức Giêsu trên Thập giá là dấu chấm hết đối với họ. Bao mộng ước và mơ tưởng về một tương lai tươi sáng đã hoàn toàn sụp đổ.

Thánh sử Luca nhắc đến địa danh Emmaus cũng làm chúng ta liên tưởng đến trận chiến thắng của Guiđa Macabê vào năm 166 trước Công Nguyên. Tại phía Nam Emmaus (1 Mcb 3,57), Guiđa Macabê đã quyết tử chống lại Seleucid, tướng quân của Lysias và đội quân của vua Antiôkhô Epiphanes. Thật kỳ diệu, Guiđa Macabê với số quân ít ỏi và vũ khí thô sơ so với đối phương, nhưng đã đánh tan tành lực lượng hùng hậu của Seleucid. Mục đích của Guiđa Macabê là chiếm lại đền thờ Giê-ru-sa-lem để thanh tẩy và bảo tồn. Anh em nhà Macabê đã liều lĩnh quyết chiến và tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trước khi lâm trận, ông nói với dân: “Bây giờ, chúng ta hãy ngước nhìn lên Chúa và xin Người thương đến chúng ta. Xin Người nhớ lại giao ước đã thiết lập với tổ tiên mà nghiền nhát đoàn quân đang ở trước mặt chúng ta đây. Bấy giờ, mọi dân tộc sẽ biết rằng có một ‘Đấng Giải cứu Israel’ (1 Mcb 4,10-11). Hạn từ ‘Giải cứu’ mà Guiđa Macabê đã nói năm xưa, cũng được Thánh Luca lập lại trong câu chuyện của hai người bộ hành hôm nay. Cleopas và người bạn đường biểu tỏ nỗi buồn mênh mông, bởi vì họ cũng từng khao khát một cuộc chiến thắng của vị anh hùng, như họ đã bộc bạch : “Chúng tôi hy vọng rằng Ngài sẽ là ‘Đấng Giải cứu Israel’ (c.21)”.

Đức Giêsu Phục sinh, Đấng Chiến thắng đang ở bên họ.

Chúa Giêsu đang sánh bước cùng hai môn đệ trên đường về làng quê, nhưng họ không nhận ra. Đây cũng là một thực tại hiện sinh trong cuộc lữ hành đức tin của chúng ta ngày hôm nay. Chúa vẫn luôn song hành trong từng dấu chân chúng ta đi qua trên mọi nẻo đường, đặc biệt giữa những bầm dập và sóng gió của cuộc sống. Hai môn đệ đang chôn mình trong hố sâu của tuyệt vọng và chán chường, nhưng họ vẫn không nhận ra ‘Đấng Giải cứu’ đang ở sát bên họ, đang trò chuyện, đang sẻ chia và đang cảm thấu nỗi bi thương nơi tâm hồn họ. Chúng ta cũng thường rơi vào tâm trạng giống như vậy, mỗi khi cặp mắt đức tin của chúng ta bị che chắn bởi những ngáng trở giăng mắc. Câu chuyện về hai môn đệ giúp vạch dẫn lộ trình đức tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa đang cùng sánh bước với ta trong mọi biến cố cuộc sống thường ngày.

Trước hết, hai môn đề nghe Chúa cắt nghĩa về Thánh kinh. Đức Giêsu là trung tâm của lịch sử cứu độ mà các sách Cựu ước đều quy chiếu vào. Chắc chắn, Cleopas và người bạn đồng hành đã rất nhiều lần tham dự các buổi hội họp tại các hội đường và đã được nghe các đầu mục Do Thái giáo đọccũng như cắt nghĩa các bản văn Kinh thánh, nhưng họ vẫn chưa hiểu. Chỉ sau khi được Chúa dẫn giải, lòng các ông mới bùng cháy lên (c 32), bởi vì ‘Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng, cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (Tv 119, 130). Nếu chúng ta ý thức rằng ‘Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường’, thì việc đầu tiên để con mắt đức tin chúng ta được mở ra, đó là chúng ta phải chuyên cần lắng nghe Lời của Chúa. Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta cần chú tâm nghe Lời Chúa, nhưng không phải nghe bằng lỗ tai của thân xác mà nghe với đôi tai của cõi lòng (Thánh Biển Đức).

Thứ đến, con mắt đức tin của hai môn đệ được khai mở hoàn toàn khi họ ngồi vào bàn ăn với Chúa. ‘Mắt họ mở ra và nhận ra Người’ (c. 31). Thánh Luca thuật lại bữa tiệc này với cách diễn tả giống như câu chuyện phép lạ nhân bánh ra nhiều cho 5.000 người ăn no nê: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ và các môn đệphân phát cho dân”(Lc 9,16-17).Phép lạ đó chính là biểu thị việc cử hành Bí tích Thánh thể. Trong sách Tông đồ Công vụ, Thánh Luca cũng nói về đời sống đức tin của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi với nhiều đặc nét. Một trong những đặc nét ấy, chính là việc họ trung thành trong ‘Việc bẻ bánh’, tức là cử hành Bí tích Thánh Thể cách đều đặn (Cv 2,40).

Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể là hai quà tặng vô giá Chúa ban mỗi lần chúng ta đi tham dự Thánh lễ. Đây là những phương thế tuyệt hảo giúp khai mở và kiện cường đức tin nơi chúng ta.

Kết luận

Hai môn đệ sau khi gặp gỡ Chúa và nhận ra Ngài, họ liền quay về Giê-ru-sa-lem, nơi mà họ đã chứng kiến cái chết bi thảm của Thầy chí thánh. Khi trở về, con người họ đã được biến đổi hoàn toàn, từ thất vọng đến hy vọng, từ nỗi khiếp sợ đến lối sống anh hùng, dám chấp nhận ngay cả cái chết để làm chứng cho Đấng đã sống lại.

Trong cuộc sống đời thường, mỗi khi gặp những thử thách và nghiệt ngã, chúng ta hãy bắt chước hai môn đệ để thưa với Chúa: “Xin mời Ngài ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Trong bóng đêm của cuộc sống, lúc ánh mặt trời rực rỡ đã khuất bóng, khi chúng ta chìm ngập trong những nỗi sầu buồn mênh mang, chúng ta hãy xin Chúa lưu lại nơi căn nhà củachúng ta. Có Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ còn phải sợ hãi và tuyệt vọng.

Về mục lục

.

NHẬN RA CHÚA LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ở đời, người ta thường có câu: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Trong đời sống đức tin cũng vậy, nếu chỉ tin khi thuận buồm xuôi gió, hoặc có lợi cho mình thì thật là dễ. Tuy nhiên, tin cả khi mây mù dày đặc, tức là tin cả những lúc không thuận với ý ta thì đây mới là đức tin mang tính trưởng thành.

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại sự kiện Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau khi các ông đang trên đường trở về quê vì sự thất vọng qua cái cái chết của Ngài. Họ chán trường, hoang mang vì đã tin vào một Đức Giêsu bị thất bại và kết cục cuộc đời lại bị treo trên thập giá như một tử tội. Tuy nhiên, Đức Giêsu phục sinh đã làm cho các ông bừng sáng lên niềm hy vọng và can đảm tuyên xưng cũng như  loan truyền về Ngài cho anh chị em…

Vậy, đâu là điều mà các môn đệ nhận ra Ngài, tin theo và loan truyền?

  1. Các ông đã nhận ra Đức Giêsu

Hai môn đệ đang trên đường trở về quê, các ông bước đi trên đôi chân rã rời vì mệt mỏi, cộng thêm tinh thần thất vọng vì đã đặt nhầm niềm tin vào Đức Giêsu! Thật vậy, các ông vừa đi vừa bàn chuyện, nhưng không phải là chuyện làm ăn, buôn bán, lao động, giao thương…, hay chuyện gia đình, mà bàn về chuyện một con người, con người đó là chính Đức Giêsu. Câu chuyện được khởi đi từ một tinh thần buồn bã của các ông. Thấu hiểu tâm can các môn đệ,  Đức Giêsu đã hiện đến và hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17), họ trả lời: “Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24, 19-20).  Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với họ, nhưng họ vẫn không nhận ra Ngài. Tuy nhiên, Ngài vẫn trong vai trò là người chủ động, nên cùng bộ hành với họ, và bắt đầu giải thích cho họ hiểu về Đấng Mêsia, Ngài nói: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!  Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24, 25-27).

Đức Giêsu đã trao đổi về vai trò của người Tôi Trung đau khổ, đến để hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa Cha trong vai trò Thiên Sai, đồng thời, Ngài cũng giúp cho họ hiểu rằng con đường cứu độ là con đường đau khổ, phải qua đó thì mới bước vào vinh quang.

Đức Giêsu còn đang nói, thì trời đã về chiều, nhưng lòng các môn đệ đã ấm lên và vẫn muốn nghe lời Ngài giải thích. Tuy nhiên, dù muốn nghe nữa, các ông cũng không thể, vì ngày đã ngả bóng hoàng hôn và đêm đã về,  nên họ mời Đức Giêsu ở lại với họ. Ngài đã đồng ý, và người bộ hành này đã ngồi vào bàn ăn, vẫn các cử chỉ quen thuộc là cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông. Chính vì vậy mà họ đã nhận ra Ngài. Nhưng cũng chính ngay lúc này, họ không còn được thấy Ngài cách thể lý nữa, vì Ngài đã biến mất. Điều này cho thấy, từ nay, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong hành động Bí tích.  

  1. Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người cách toàn diện trên bình diện ân sủng

Khi đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy niềm hy vọng của các môn đệ, cũng như các Tông đồ và nhiều người Dothái thời bấy giờ là mong muốn một vị Cứu Tinh quyền uy lẫy lừng, đánh đông dẹp bắc, giải phóng dân tộc bằng quyền lực của sức mạnh, binh đao… Họ không thể tin được một vị Thiên Chúa mà lại bị thất bại ê chề trong tay người phàm qua cái chết tủi nhục đắng cay như vậy, nên các ông đã cảm thán khi được Đức Giêsu hỏi chuyện, trong tâm trạng vô vọng, họ đã thốt lên:  “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay” (Lc 24, 18). Ngài hỏi tiếp: “Chuyện gì vậy?” và họ đã cảm phiềm: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24, 19-20). Thực ra lời nói này mang đầy tính thất vọng. Họ đã không hiểu nổi sứ vụ Thiên Sai của Ngài, nên trước đó,  họ trách khéo người khách lạ này xem ra có vẻ vô tâm, vô tình nên không hay biết chuyện mới xảy ra…, nhưng giờ đây, Đức Giêsu đã khiển trách họ khờ dại và không hiểu biết gì…

Như vậy, Đức Giêsu đã giúp cho họ một lần nữa đi xa hơn về lộ trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngài không giải thoát con người theo thiển ý của họ, mà Ngài giải phóng con người trên bình diện ân sủng, đó là: giải thoát con người khỏi tội lỗi, biết sống công bằng, chia sẻ bác ái và yêu thương hết mọi người, kể cả kẻ thù… để thế giới này chỉ có một Thiên Chúa là Cha và mọi người có nhau là anh em… Đây mới là sự giải phóng toàn diện của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Khi nhận ra cốt lõi của mầu nhiệm cứu chuộc nơi Đức Giêsu, ngay lập tức, các ông đã can đảm, hăng say trỗi dậy, trở lại Giêrusalem để loan tin vui mừng này cho các Tông đồ đang còn ở lại nơi đây.

Nguyên nhân để có một thái độ đặc biệt này là họ đã hiểu được Đức Giêsu qua việc Ngài giải thích Thánh Kinh và nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh.

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

Bài Tin Mừng hôm nay được dàn trải cách tiệm tiến: bắt đầu là việc thông tri sự kiện; thứ đến là được Đức Giêsu giải thích; và, cuối cùng là họ nhận ra Ngài rồi lên đường loan truyền Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng tình thương của Đức Giêsu cho mọi người…

Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắn gửi chúng ta rằng:

Trước tiên, muốn hiểu, tin và sống mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu thì cần phải loại bỏ sự thất vọng. Hãy tin tưởng trong sự đơn sơ, không bám víu vào những triết lý cao siêu, nhưng sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời của Ngài hướng dẫn, từ đó ta sẽ được biến đổi hầu trở nên chứng nhân của Ngài.

Thứ đến, hãy tin tưởng vào Chúa ngay trong những thất bại của cuộc đời, vì Ngài luôn có mặt và đồng hành với chúng ta như Ngài đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Hãy gắn bó với Giáo Hội của Đức Giêsu, mặc cho phong ba bão táp; mặc cho những phần tử trong Giáo Hội có những chuyện chẳng hay, thì Giáo Hội Chúa vẫn còn và không ngừng hướng tới sự thánh thiện cũng như là trung gian để thông chuyển ơn cứu độ của Chúa đến với muôn dân.

Tiếp theo, hãy yêu mến Thánh Kinh, vì đây chính là sự hiện diện của Chúa cách đặc biệt. Nếu các môn đệ không được Đức Giêsu hiện ra để giải thích Thánh Kinh cho họ, chắc họ đã không có cơ hội để nhận ra Chúa. Vì thế, chúng ta muốn trở nên nghĩa thiết với Chúa thì phải yêu mến, đọc, học và siêng năng suy gẫm Lời Ngài, vì đây là kho tàng mặc khải trọn vẹn và phong phú mà Thiên Chúa dành cho con người. Có thế, chúng ta mới hy vọng nhận ra Ngài và can đảm, hăng say lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đặt niềm hy vọng vào Ngài là Đấng đã Phục Sinh. Luôn yêu mến và gắn bó với Chúa. Sẵn sàng làm chứng cho Chúa khi đã nhận ra Chúa. Amen.

Về mục lục

.

LOAN TRUYỀN NIỀM TIN

Bs. Ng Tiến Cảnh
 

Bài đọc 1 hôm nay (Cv 2:14, 22-23) là một trong 6 cuộc bàn luận liên quan đến Chúa Giesu Phục Sinh và những lời ngôn sứ nói về Người (Cv 3:12-26; 4:8-12; 5:29-32; 10:34-43; 13:16-41). Năm lời bàn đầu liên hệ tới Phero và lời sau cùng liên hệ tới Phaolo. Những lời bàn này được coi là những Tuyên Cáo / Kerygma (1Cr 15:11). Bài của Phero có thể được chia làm 3 phần, một phần mở đấu và 2 phần kia thì phần 1 (cc16-21) Phero cho biết lời tiên tri Joel nói từ thời ngôn sứ nay đã xẩy ra và phần 2 (cc22-36) ông tuyên bố Đức Giesu thành Nazareth đã bị người Do Thái đóng đanh vào thập giá chính là ngôn sứ đã được Thiên Chúa hứa ban mà người công chính đã chờ mong như nói trong Cựu Ước. Chính Người đã hoàn thành chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.

Để chứng minh Đức Giesu thành Nazareth là một ngôn sứ mà các tiên tri đã nói trước đây, Phero đã gợi cho khán thính giả nhớ lại những phép lạ Người đã làm (c 22), cái chết (c 23), phục sinh (cc 24-32) và lên trời hiển vinh của Người (c 33-35). Bài giảng của Phero kết thúc vắn gọn (c 36). Phero đã tuyên bố một sứ điệp có thể thay đổi cuộc sống của những ai nghe ông. Sứ điệp đó đã không thay đổi mà cũng chẳng làm mất quyền uy của nó ở đời này của chúng ta. Đó là sứ điệp hy vọng cho những người mất hy vọng, sự sống cho những kẻ chết trong tội lỗi, và tha thứ cho những ai phấn đấu chống lại tội lỗi.

CÂU CHUYỆN GIÁO  HUẤN VÀ PHỤNG VỤ

Câu chuyện 2 môn đệ trên đướng Emmaus là trọng điểm của Tin Mừng Luca nói về Chúa Phục Sinh (Lc 14:13-35). Trên đường hai ông gặp một lữ khách rồi cả ba đã tâm sự về việc chúa Giesu chịu chết. Qua cách cắt nghĩa kinh thánh của người lữ khách mà hai ông không nhận ra Chúa Giesu cho đến khi Chúa bẻ bánh. Cách giảng nghĩa kinh thánh của ngưởi lữ khách (Lc 24:25-27), cung cách bẻ bánh của Chúa (c30) và lời tuyên cáo Chúa sống lại của Phero (c34) có tính giáo huấn và phụng vụ hơn là biện giáo. Tại sao?

Khi hai môn đệ đi Emmaus vào một buổi chiều lúc hoàng hôn sắp tàn. Lúc đó việc Chúa Sống Lại chỉ là tin đồn từ miệng người này qua người kia đôi khi pha lẫn một ước mong linh thiêng nào đó, hy vọng Chúa còn sống và đang hiện diện đâu đó. Tuy nhiên hồ nghi vẫn nặng trĩu trong đầu họ và họ không nhận ra là Chúa đang đi bên cạnh họ. Không để ý đến những điều họ đang nói là họ đang tuyên xưng những nét chính của Niềm Tin Kito giáo nhưng họ lại mù quáng không biết đến những đau khổ của đấng thiên sai là cần thiết đã được nói tới trong Kinh Thánh.

Người lạ mặt trên đường Emmaus đã nắm lấy cái hoài nghi và tò mò của 2 môn đệ để dẫn các ông vào câu chuyện Kinh Thánh. Chúa Giesu thách thức các ông cắt nghĩa những biến cố trong những ngày qua theo Kinh Thánh. Nhưng Cleopas và bạn ông vẫn “tối dạ, chậm tin những lời các tiên tri đã nói!”(c25) Đấng Thiên sai đã chịu đau khổ và chết để đi vào vinh quang của người. Luca là thánh sử duy nhất nói rõ ràng về sự đau khổ của đấng Thiên Sai (Lc 24:26, 46; Cv3:18; 17:3; 26:23). Tư tưởng đấng Thiên Sai bị đau khổ không thấy nói trong Cựu Ước hay trong các văn bản khác của Do Thái trước thời Tân Ước, nhưng có nói bóng gió trong Marco 8:31-33.

Cuối cùng nhờ cách bẻ bánh, mắt họ mới mở lớn và nhận ra Chúa phục sinh đang hiện diện giữa họ. Trên đường Emmaus Chúa đã làm cùng những cử chỉ giống như lúc Chúa biến bánh thành nhiều (9:16) và trong bữa tiệc ly. Những bữa ăn của Chúa, đặc biệt bữa tiệc ly, có thể nói chính là cái phông làm nền tảng cho tâm trí các thánh sử diễn tả lúc các ngài nhận ra Chúa Giesu ( Lc 5:29; 7:36; 14:1,12,15,16; 22:14). Với cảm nghiệm đó về Chúa sống lại, các môn đệ trên đường Emmaus đã tin là Chúa Kito phục sinh.

Do đó, hiểu biết chúa Phục Sinh phải qua một tiến trình có 2 bước: biết được sứ điệp nói trong Kinh Thánh và cảm nghiệm được sứ điệp đó là nói về Chúa Kito là Chúa và qua cử chỉ bẽ bánh và chia sẻ bánh với các tín hữu trong cộng đồng.

HÀNH TRÌNH EMMAUS

Cuộc hành trình đi Emmaus không chỉ là chuyện khoảng cách giữa Jerusalem và Emmaus, nhưng còn là cuộc hành trình đau đớn tiệm tiến về “Lời” đi từ óc xuống con “Tim”, về sự xuất phát của niềm tin, về việc trở lại tình liên đới với người khách lạ là Chúa Giesu. Chúa luôn luôn hiện diện và lắng nghe chúng ta. Đó là một phần khoa sư phạm của Chúa đối với các môn đệ, là Người luôn luôn lắng nghe các ngài, nhất là những lúc khó khăn gian nan khi con người sa ngã, hồ nghi, mê muội và thất bại. Lời Chúa làm cho trái tim các môn đệ “bừng cháy”, mang họ thoát khỏi bóng tối buồn phiền và thất vọng, giữ họ trong ước mong có Chúa: Lạy Thầy, xin Thầy ở lại với chúng tôi!

Thái độ tiêu cực của các môn đệ bắt đầu trở thành tích cực khi họ được Chúa Kito Phục Sinh soi sáng, cắt nghĩa Kinh Thánh cho biết Thiên Chúa đã hành động thế nào trong một thế giới trai đá với những kẻ tội lỗi cứng lòng như chúng ta. Quả là một cuộc thắng có vẻ bất thường, bởi lẽ từ chối, cưỡng bách và cảm nghiệm đau khổ và tội lỗi -tự nó- đã trở thành phương thế giúp cho mục đích của Thiên Chúa hoàn thành ở trần gian.

LỜI CHÚA BIẾN ĐỔI CUỘC SỐNG

Đến đây người viết muốn chia sẻ với quí vị một đoạn rất độc đáo về “Bổn phận Phúc Âm Hóa” trong phần mở đầu (Lineamenta) cho Thương Hội Đồng Các Giám Mục nằm 2012 về “Tân Phúc Âm Hóa / rao truyền Niềm Tin Kito Giáo.” Đoạn này đưa ra một viễn tượng khá độc đáo về câu chuyện trên đường Emmaus hôm nay.

(#2) – “ Lời của các môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24:13-35) cho thấy việc tuyên bố về đức Kito đã đưa đến thất bại; lời của các ông đã không có sức biến đỏi đời sống. Khi kể lại sự thất bại và mất hy vọng, hai môn đệ đã tuyên bố là một người nào đó đã chết (cc21-24). Đối với Giáo Hội ở mọi thời đại, lời của các ông phải mang tính khả hữu có thể tuyên bố -thay vì mang lại sự sống- phải giữ chặt cả hai, người tuyên bố và người nghe liên kết với cái chết của chúa Kito (là người được tuyên bố đã sống lại).

Loan truyền niềm tin thì không bao giờ là một biến cố có tính cá nhân, riêng lẻ, nhưng phải có tính cộng đồng và giáo hội. Nó không được coi như là đáp ứng cho một chương trình nghiên cứu có hiệu quả về thông tin ngay cả khi nó tập trung mà ít có tính cách phân tích vào những khán thính giả, chẳng hạn như giới trẻ. Thay vào đó, những đáp ứng này phải được thực hiện như có liên hệ đến người kêu gọi để tuyên bố công việc tinh thần này. Nó phải trở thành đúng như bản tính của Giáo Hội. Theo cách thức này, vấn đề được đặt trong bản văn và hành sử đúng cách, không ngoài đề, nghĩa là phải đặt vào trọng tâm cuộc bàn luận tất cả những gì mà toàn thể Giáo Hội là và làm. Có lẽ theo cách thức này, vấn đề phúc âm hóa và dạy giáo ly ngày nay không có hiệu quả có thể coi như vấn đề nghiên cứu của Giáo Hội liên hệ đến khả năng của Giáo Hội -mà ít nhiều- trở nên một cộng đồng thực sự, một tình huynh đệ thực và một thân xác sống động, không phải một xí nghiệp hay một vật có tính máy móc.”

ÍT ĐIỀU SUY NGHĨ TRONG TUẦN

1- Với tư cách Giáo Hội, mục tử giáo dân lãnh đạo, chúng ta có bao giờ cảm thấy lời của chúng ta không có khả năng loan truyền sự sống cho tha nhân không ? Chúng ta có tuyên bố người nào chết không phải là Thiên Chúa hằng sống không? Lời của chúng ta và sứ điệp của Giáo Hội đã gắn chặt con người vảo cái chết của chúa Kito thế nào?

2- Cái gì ngăn cản chúng ta trở thành một cộng đồng thực sự, một tình huynh đệ thực và một thân xác sống động hơn là một vật có tính máy móc hay một xí nghiệp?

3- Những biến cố lịch sử nào ảnh hưởng, cản trợ và và ngăn cấm chúng ta tuyên xưng hay trở nên thành viên của Giáo Hội?  Một vài biến cố nào đó đã giúp chúng ta tinh luyện và nghĩ lại cách tuyên xưng của chúng ta?

4- Thần Linh Thiên Chúa đã nói gì cho Giáo Hội chúng ta qua những biến cố này? Những hình thức Tân Phúc Âm Hóa nào là Thần Linh giảng dạy cho chúng ta và đòi hỏi nơi chúng ta?

Về mục lục

.

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/PS-A – Lc 24, 13-35) trình thuật câu chuyện 2 môn đệ  (trong đó có Cơ-lê-ô-pat) trở về quê là làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Với tâm trạng buồn rầu, họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc đã xảy ra. Ngay khi đó, Đức Giê-su hiện ra với họ nhưng họ không nhận ra, và khi Người hỏi họ đang nói với nhau chuyện gì thì họ lập tức bày tỏ tâm trạng buồn chán thất vọng vì đã tới ngày thứ ba rồi mà niềm hy vọng của ho vẫn chưa được đáp ứng (“Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.” – Lc 24, 21). 

Sau khi Đức Ki-tô tử nạn trên thập giá, thì có thể nói hai môn đệ trên đường Em-mau bộc lộ rõ nét nhất tâm trạng chung của các Tông đồ tiên khởi: chán chường, mỏi mệt, thất vọng não nề. Thế là hết, hết mọi hy vọng về một vương triều mới dưới sự lãnh đạo của Vua Giê-su. Tuy rằng các môn đệ khác còn theo người Mẹ mà Thầy mình đã trối trăng, tập trung tại một nơi để cầu nguyện; nhưng hai ông thì thật sự tuyệt vọng, chẳng còn lý do gì để lưu lại chốn kinh thành. Cứ xét theo tâm lý con người, thì hành vi rời Giê-ru-sa-lem cũng bình thường thôi, bởi ngay khi Thầy còn sống, được ở liền bên với Thầy, chứng kiến bao nhiêu việc làm và nhất là những phép lạ Thầy chữa bệnh cho bao nhiêu người, thậm chí còn cho cả kẻ đã chết rồi được sống lại nhãn tiền, mà vẫn còn bán tin bán nghi; huống hồ nay Thầy đã chết và chính mình mai táng trong mồ, thì làm sao còn nuôi được hy vọng như khi mới theo Thầy được?  

Hành trình Em-mau nghe sao mà thê thảm! Còn đâu nữa ước vọng làm Tả Hữu Thừa tướng dưới quyền Vua Giê-su (Gia-cô-bê và Gio-an “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” – Mc 10, 37). Thôi thì đành “trở về quê cũ học cày cho xong” để rồi cứ  “ngày ngày vác cuốc thăm đồng…”, ngày này sang ngày khác “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” (ca dao, tục ngữ VN). Lủi thủi trên đường, bỗng gặp một người khách lạ đồng hành và hỏi về những điều họ đang buồn rầu trao đổi với nhau. Thật là một dịp được cởi mở cõi lòng, họ kể hết về chuyện ông Giê-su Na-da-rét bị án tử hình rồi bộc lộ tâm trạng: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.” (Lc 24, 21-24)  

Nghe vậy, ngay lập tức người khách lạ liền lên tiếng quở trách: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 25-26). Không những thế, mà người khách lạ lùng ấy còn: “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả sách Thánh.” (Lc 24, 27). Phải chăng những lời dạy của vị khách là tiếng gọi của Tình yêu, bởi đã mở mắt cho 2 môn đệ thấy được lòng trí u mê, tăm tối của con người, nhất là cái niềm tin rất dễ bị chao đảo, khủng hoảng. Chậm tin, kém tin là đương nhiên, và vì thế, khi nghe được những lời khai thông ấy, họ như được mở lòng ra. Tới làng họ muốn đến (Em-mau), nhưng thấy vị khách còn muốn đi tiếp, họ liền khẩn khoản: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” (Lc 24, 29).

Thật sự chẳng ai ngờ được người khách đồng hành lại chính là người Thầy đã tử nạn trên thập giá. Thì ra Thầy vì Tình Yêu đã vâng lệnh Chúa Cha xuống trần để cứu độ loài người. Thầy luôn luôn và mãi mãi đồng hành, “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” mà họ không tự biết, vẫn còn bán tín bán nghi. Phải đợi đến lúc đồng bàn, Thầy lập lại động tác như trong bữa Tiệc Ly, thì “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24, 31). Thế đấy! Các môn đệ và nói chung là con người đã đón nhận biết bao nhiêu hồng ân xuất phát từ Tình Yêu của Thầy mà vẫn hững hờ, vô cảm. Hành động “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn” cũng chỉ là một nghĩa cử bình thường của tình nhân loại.  

Tuy nhiên, nghĩa cử đó đã được đáp ứng: Hai môn đệ mời Thầy dùng cơm bánh đời thường thì Thầy lại mời họ dùng bánh bởi trời. Sự nhận về và cho đi giữa Thầy và các môn đệ thật quá đỗi lạ lùng, và đó chính là sự kỳ diệu của Tình Yêu. Con người ở thế kỷ XXI này cũng vậy thôi, đã nhận về rất nhiều, quá nhiều Máu và Nước Tình Yêu từ Trái Tim Thầy, từ lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vậy mà vẫn còn và còn rất nhiều cảnh “Ngày xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách trọ các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các người đã chẳng thăm viếng…” (Mt 25, 42-43). 

Cái hành trình Em-mau ấy hoá ra lại là một hành trình khởi đi từ nỗi thất vọng, chán nản ê chề, trở thành một hành trình tìm kiếm đức tin và kết thúc hết sức tốt đẹp, nên “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó”. Trở lại với nhóm Mười Một không phải chỉ là để kể cho nhau nghe những điều mình đã tai nghe mắt thấy, mà là để “tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 1, 1-4).  

Kết quả là: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ” (Cv 1, 42-43). Vâng, và vì thế đối với các Ki-tô hữu thời đại ngày nay cũng đừng vội tự ti mặc cảm khi nhìn lại mình thấy mình đã buồn nản vì những thử thách nghiệt ngã để rồi tản mác khắp nơi, chẳng còn tin tưởng vào một điều gì nữa. Hãy “quay trở lại Giê-ru-sa-lem”, tề tựu nhau mà cầu nguyện – cầu nguyện với Mẹ Maria. Chắc chắn Chúa vẫn luôn đồng hành với chúng ta trên hành trình Em-mau, và Người sẽ cùng “quay trở lại Giê-ru-sa-lem” với chúng ta. Chắc chắn Thầy Chí Thánh sẽ ban cho “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 1, 4) như lòng mong ước. 

Tóm lại, người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy bắt chước hai Tông Đồ trên đường Em-mau, coi đó là hành trình đức tin của chính bản thân mình. Nói cách cụ thể là hãy cầu xin Chúa “ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” (Lc 24, 29) và ban cho chúng con “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 1, 4), để chúng con có đủ dũng khí, sẵn sàng thi hành sứ vụ của mình như hai môn đệ trên đường Em-Mau thủa xưa, sẵn sàng mau mắn “quay trở lại quê hương đích thực là Giê-ru-sa-lem trên Thiên Quốc”. Muốn được toại nguyện, đừng quên chạy đến với Đức Maria, tha thiết khẩn cầu cùng Mẹ:

ĐK: Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ. Con biết cậy vào ai biết nương nhờ ai. Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ. Con biết cậy vào ai biết nương nhờ ai? TK: Trời đêm vắng sao sương mờ. Đường xa thăm thẳm khuất bóng quê. Con băn khoăn đưa mắt trông tìm đây đó. Có ai bạn đường cùng đi khỏi lo. Mẹ ơi! Bóng đêm rợn rùng. Vực sâu đang gầm dưới lá rung. Con lao đao sắp ngã trên đường nguy khốn. Đoái thương con cùng Mẹ Đấng Chí Tôn.” (TCCĐ “Trên Con Đường Về Quê” – Nguyễn Sang).

Về mục lục

.

NHẬN BIẾT ĐẤNG PHỤC SINH

Trầm Thiên Thu

Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới muốn gặp, và khi đã gặp rồi thì “hai năm rõ mười”, nhận biết tỏ tường, sự thật minh nhiên, không thể chối cãi – đúng hoặc sai, yêu hoặc ghét. Đó là một quy trình đơn giản mà cần thiết, có mối liên kết chặt chẽ với nhau.

Trong cuộc sống đời thường, có nhiều dạng khoảng cách – địa lý, tinh thần, tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta đi được khoảng cách xa bao nhiêu cũng không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường, qua đó chúng ta sẽ nhận biết được gì? Quả thật, sự nhận biết rất quan trọng. Sống ở đời không thể không gặp gỡ nhau, nhưng gặp nhau rồi có nhận biết nhau hay không lại là chuyện khác.

Gặp nhau chắc chắn nhìn thấy nhau, và thường liên quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt, bằng động thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong sự im lặng, gọi là “ngôn ngữ không lời”.

Người ta gặp gỡ nhau để làm gì? Gặp nhau để nhận ra nhau, để yêu thương, để chia sẻ với nhau, để giúp đỡ nhau, để biến đổi nhau,… Rất đa dạng. Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, đặc biệt là nhận biết chính Đức Kitô là Đấng Phục Sinh.

Chắc chắn cuộc gặp gỡ đó rất diệu kỳ, cuộc gặp gỡ đó có sức mạnh khó cưỡng lại, và cuộc gặp gỡ đó đã được Lm Ns Yuse Tiến Lộc (DCCT) mô tả trong một ca khúc thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh” (Gặp Gỡ Đức Kitô).

Cuộc gặp gỡ đó có kết quả tốt: nhận biết Đức Kitô qua tha nhân. Quá trình gặp gỡ Đức Kitô còn là một dạng được sống lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của La-da-rô (Ga 11:1-44), em trai của Mác-ta và Ma-ri-a, và con trai bà góa thành Na-in (Lc 7:11-17) chỉ là sống lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống lại của Đức Kitô là sống lại đặc biệt và không thể chết nữa. Thân xác nhục thể và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì thế mà chính Chị Ma-ri-a Mác-đa-la và hai môn đệ trên đường Em-mau đều không nhận ra Thầy Giêsu của mình, mặc dù rất quen. Chị Ma-ri-a Mác-đa-la chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài gọi đích danh mình bằng giọng nói thân thương và quen thuộc, còn hai môn đệ kia chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: bẻ bánh.

Và thậm chí còn hơn như thế nữa. Thật vậy, khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và ngờ vực. Nỗi lo sợ đã khiến họ hoa mắt chăng? Cửa thì đóng kín, thế mà bỗng dưng có người “đi xuyên tường”. Thế thì ma thật!

Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu mỉm cười vì thấy các đệ tử co rúm vào nhau, mắt chữ O mà miệng chữ A. Ngài thấy tội nghiệp các trò lắm, thế là Ngài cho họ rờ vào Ngài, họ thấy Ngài vẫn có xương thịt và Ngài còn ăn khúc cá nướng họ đưa cho, lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật (Lc 24:36-43). Thân xác phục sinh khác thật và lạ thật đấy, nhìn giống như xưa mà lại không như xưa. Thảo nào chẳng ai nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh!

Trong cuộc sống, bất kỳ ai gặp gỡ Đức Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có vẻ”. Thấy ai biến đổi thì biết chắc người đó gặp được Đức Kitô. Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ không “tỏ vẻ biến đổi” để “lấy tiếng” hoặc để được người khác khen ngợi.

Cuộc đời các thánh đã cho chúng ta biết chắc về việc họ được gặp gỡ Đức Kitô một cách thần bí. Vâng, cuộc đời họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ, thậm chí có những vị thánh bị nghi ngờ là tâm thần. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi là chân lý. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được!

Tông đồ Phêrô, người được Thầy Giêsu tín cẩn trao trọng trách làm Giáo hoàng tiên khởi, và đã từng nói mạnh là dám liều chết với Thầy, nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược khi Thầy bị bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm, thế nhưng sau khi ông đã gặp gỡ và nhận biết Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn khác hẳn, không còn nhát đảm như trước. Cụ thể là vào một ngày nọ, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giu-đa Ít-ca-ri-ốt), và lớn tiếng nói với họ: “Thưa anh em, miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây” (Cv 2:14).

Sự biến đổi rất rõ nét. Ông Phêrô dõng dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” (Cv 2:22-28).

Một Phêrô của ngày hôm nay hoàn toàn biến đổi tích cực chứ không còn là một Phêrô hèn nhát và tiêu cực của ngày hôm qua. Ông thực sự trở nên một nhân chứng sống động, một nhân chứng nhiệt thành. Quả thật, khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác, kể cả cái chết.

Tiếp theo, ông Phêrô nói với giọng điệu quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe” (Cv 2:29-33). Thật tuyệt vời khi người ta được Thiên Chúa biến đổi!

Chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng khi chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Ngài, nói theo ngôn ngữ thời nay là “triệt buộc”. Nghe chừng miễn cưỡng nhưng không phải vậy, vì đó là cách “triệt buộc” của tình yêu, của Lòng Chúa Thương Xót. Ngài làm vậy để chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài và chúng ta được lợi ích là hưởng nhờ Lòng Thương Xót khôn lường của Ngài – hoàn toàn có lợi cho chúng ta chứ chẳng thêm gì cho Ngài. Khi đã gặp gỡ và nhận biết Đấng Kitô Phục Sinh, đồng thời tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ không thể không vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2).

Tại sao như vậy? Bởi vì lúc đó chúng ta biết chắc chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích của cuộc đời chúng ta: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Do đó, chúng ta có thể không ngần ngại mà thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11). Niềm tin tưởng như vậy thật là tuyệt vời, niềm tín thác như thế đẹp biết bao!

Một khi đã thực sự tin tưởng nhau, người ta có thể gặp gỡ nhau bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, phàm nhân thường có mức độ ưu tiên khác nhau, và thường thì ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn – “ngon” hơn nhờ “dễ nhìn” hơn, giàu có hơn hoặc “vai vế” hơn người khác. Thế nhưng Thiên Chúa không hề như vậy, đừng lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện nhiều, làm từ thiện nhiều, làm việc tông đồ nhiều,…) mà tưởng mình “ngon” hơn người khác. Ảo tưởng thì chết chắc!

Thật vậy, Thánh Phêrô đã thẳng thắn: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này(1 Pr 1:17). Rất rõ ràng, rất rạch ròi, rất nghiêm túc, rất công bình.

Và rồi ông còn giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1 Pr 1:18-21). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào. Thế mới lạ!

Tin tức về Đức Giêsu chịu chết làm rúng động dân chúng, tin tức đó chưa đủ lắng xuống thì tin tức về sự phục sinh của Ngài lại tiếp tục khuấy động lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác. Nhưng cũng chính ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cũng thấy thất vọng vì không biết tương lai ra sao, thôi thì về quê cắm câu cho chắc ăn, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ thế nào. Tướng mất thì quân cũng tan hàng. Buồn thật!

Trình thuật Lc 24:13-35 cho chúng ta biết rằng đang lúc họ vừa đi đường vừa trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài thử “giả nai” mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”. Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách lạ này là người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi mà ông ta lại chẳng biết gì ráo trọi. Sao lại có người vô tâm vô tính thế nhỉ?

Nghe “người lạ” hỏi vậy, một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” nên hỏi họ: “Chuyện gì vậy?”. Họ kể lại vụ ông Giêsu Na-da-rét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en, thế nhưng những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Họ còn bảo họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy”.

Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”. Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà hai ông vẫn chưa hết “ngu đột xuất” đấy!

Chúng ta cảm thấy “nhột” và phải giật mình khi thấy Chúa Giêsu trách các ông “chậm tin”. Thật vậy, cuộc sống đời và đạo cứ hằng ngày trôi qua, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, ngay cả việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của con robot được lập trình sẵn, hoặc đọc kinh như được nhấn play, gắn thẻ nhớ hoặc gắn USB, rồi cứ thế mà “phát âm” vậy thôi. Và rồi chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng khi gặp chuyện gì không xuôi xắn “như ý” mình thì chúng ta lại… ngại ngần. Ôi chao, hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm, chẳng oan ức chi cả!

Thánh sử Luca cho biết rằng khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Tiếc hùi hụi! Họ gãi đầu gãi tai và bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.

Thế là ngay lúc ấy, họ liền đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh. Thế là mọi vấn đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa!

Người ta nói rằng Chữ phải có Nghĩa – gọi là chữ nghĩa. Trong Việt ngữ, chữ “gặp gỡ” cũng độc đáo quá chừng luôn: GẶP để GỠ chuyện gì hoặc việc gì đó. GẶP thì mới GỠ được, KHÔNG GẶP thì KHÔNG GỠ được. Tương tự, NHẬN thì phải BIẾT, nếu KHÔNG BIẾT thì chắc hẳn “có vấn đề”. Những người được gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, dù là nam hay nữ, họ đều biến đổi hoàn toàn, thay đổi cả con người từ trong ra ngoài, bởi vì họ nhận biết Ngài. Họ được “gặp” Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài “gỡ” mọi khúc mắc của con người cũ để trở nên con người mới hoàn toàn. Họ nhận biết Ngài nên họ cũng muốn nên giống Ngài hoàn toàn!

Lạy Thiên Chúa, xin cho con nhận thấy Chúa trong bất kỳ ai mà con gặp hằng ngày, nhất là đối với những người hèn mọn, và xin cho mọi người gặp con cũng nhận thấy Ngài sống động nơi con. Xin giúp con biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời-mình, rồi TẠ ƠN Chúa, sau đó BẺ RA và TRAO CHO mọi người, đồng thời can đảm làm nhân chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH KHI NGƯỜI BẺ BÁNH

P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng,  thưa quý vị, thưa các bạn , Tin Mừng Chúa Nhật III P/S hôm nay ( Lc 24, 13 -35) , là Đoạn Tin Mừng nói về : “ Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau”. Cũng như theo Tin Mừng thánh Gioan ghi lại sự việc sau khi Phục Sinh, thì Chúa Giêsu, hiện ra với bà Maria Mac-đa-la đầu tiên, thì thánh Luca ghi lại biến cố sau Phục Sinh của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Em-mau. Vậy, khi được đề cập đến chi tiết nầy, thì chúng ta biết rằng, chỉ có ở Luca.

Theo đó, có hai chi tiết để nhận ra Chúa Giêsu phục sinh là :

  • Dấu chỉ bẻ bánh.
  • Dấu chỉ giải thích Thánh Kinh ( lời Chúa ).

Rõ ràng dấu chỉ ”Bẻ Bánh” là dấu chỉ “ đặc trưng “ của Kitô giáo, bởi vì sự bẻ bánh lá một “Lời truyền” của Chúa Giêsu với các môn đệ, có thể nói là “di chúc” của Người.

Dấu chỉ “bẻ bánh” lá dấu chỉ bác ái, chia sẻ. Cũng như làm dấu Thánh giá là dấu chỉ biểu lộ đức tin công giáo. Dấu chỉ chúc bình an là để ban Thánh Thần và tha tội. Vậy, dấu chỉ bẻ bánh là tín hiệu “chia sẻ” “lương thực” tự nhiên cũng như siêu nhiên cho tha nhân.

Vậy, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên với hai môn đệ trên đường Em-mau là Người biểu lộ dấu chỉ “bẻ bánh”. Điều nầy cho thấy, Người trao ban và nhắc lại mầu nhiệm Đức tin trong ngày Tiệc Ly. Dấu chỉ “bẻ bánh” cho thấy sự chia sẻ mầu nhiệm “tử nạn và vinh quang phục sinh” nơi Đức Kitô cho nhân thế. Dấu chỉ “bẻ bánh” tuy đơn sơ, nhưng là “chia sẻ” chính Thân Mình Mầu Nhiệm cứu chuộc của Người. Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mầu nhiệm được trao ban, chứ không giữ kín cho riêng ai. Vâng, điều nầy thể hiện nơi dấu chỉ “bẻ bánh”, bẻ bánh là phân phát lương thực tự nhiên, đồng thời là lương thực siêu nhiên. Theo đó, chính là mầu nhiệm của sự sống, mầu nhiệm nuôi sống từ Thần Linh là Thiên Chúa vô biên.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại qua mầu nhiệm Nhập Thể làm Người của Đức Giêsu- Kitô, là Thiên Chúa chia sẻ mầu nhiệm Thần Linh cho thế nhân. Thiên Chúa chia sẻ và phân phát tình yêu và sự sống viên mãn nơi Thiên Chúa cho nhân loại qua hình thức là bánh để ăn. Hình thức ăn uống là mầu nhiệm của sự sống từ Thiên Chúa mà con người được lãnh nhận.

Như vậy, dấu chỉ bẻ bánh sau phục sinh là dấu chỉ trao ban sự sống cho nhân thế, trao ban cách cụ thể cho nhân loại. Bởi vì, khi nhận ra dấu chỉ bẻ bánh, thì hai môn đệ mới nhận ra Chúa. Rõ ràng, “dấu chỉ bẻ bánh” có hiệu nghiệm ngay tức khắc, khi hai môn đệ gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Nhưng, đồng thời dấu chỉ nầy xuất hiện, khi họ nhận ra Chúa, thì Người biết mất. Chi tiết nầy cho thấy, Chúa phục Sinh không còn ở trong giới hạn của trần gian, Người đã hoàn tất mầu nhiệm khổ nạn, thì không thế lực nào làm chủ được Người nữa.

Niền vui làm theo ý mình, là niềm vui giả tạo, vì khi nhân thế không tự tìm niềm vui cho họ, theo ý muốn họ, thì họ cho là bất hạnh, chán nản, bực dọc . Nhưng, khi người nào biết tìm niềm vui từ Thiên Chúa, thì niềm vui ấy đích thực, vì niềm vui làm theo ý Thiên Chúa, thì niềm vui ấy mới mang lại hạnh phúc vững bền cho mình và tha nhân. Dấu chỉ  bẻ bánh là trao ban “niềm vui phục sinh” từ Thiên Chúa, Đấng là niềm vui đã tự hiến, trao ban và đồng hành cùng nhân thế.

Theo đó, chi tiết “bẻ bánh” là chi tiết đồng giá trị với việc giải thích Thánh Kinh, vì , khi được chính Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh, thì lòng họ bừng sáng lên, nhưng, chưa nhận ra Người.

Như vậy, Chúa Giêsu phục sinh là chi tiết, hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau, giải thích Thánh Kinh, bẻ bánh và đồng bàn với họ. Theo đó, hai môn đệ trên đường Em-mau là hai người hạnh phúc nhất, vì họ đã gặp Đấng Phục Sinh.

Như vậy, ý nghĩa chính của Đoạn Lời Chúa hôm nay là củng cố đức tin cho hai môn đệ trên một đoạn đường ngắn, biểu lộ niềm tin phục sinh bằng dấu chỉ bẻ bánh là Chúa muốn nhắc nhở cho họ niềm tin vững chắc vào sự chia sẻ cho tha nhân điều họ nhận lãnh.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiện ra củng cố đức tin cho hai môn đệ trên đường Em-mau. Xin cho chúng con khi được khát khao gặp Chúa, cũng được diễm phúc gặp Người, và dấu chỉ giải thích Thánh Kinh và bẻ bánh cũng được Người truyền cho chúng con, để chúng con rao truyền ơn phục sinh trong chia sẻ vì bác ái cho tha nhân./. Amen.

Về mục lục

.

SẺ CHIA TÂM SỰ

Lm. Jos. DĐH.

Tâm sự buồn hay vui của bất kể ai chia sẻ ta cũng nên trân trọng ; khách quý hay khách quấy rầy làm phiền, người lịch sự sẽ không bao giờ được phép nổi cáu. Khi nói đến chia tay, từ bỏ bất cứ mơ ước lớn nhỏ gì mà tâm hồn ta không xao xuyến, thì đó đúng là chuyện lạ. Chúng ta đã từng đọc, từng được chỉ dạy: cục đường chia sẻ, cục muối cắn đôi, áp dụng vào cuộc sống là vui hãy bày tỏ để niềm vui được nhân đôi, buồn mà có cơ hội giãi bày thì nỗi buồn tan biến. Kinh nghiệm cho thấy, tâm trạng buồn hay vui, đều có lý do, miễn cưỡng từ bỏ mơ ước, hay bắt buộc phải chia tay vĩnh viễn một lý tưởng, tâm hồn ta còn ray rứt, hẳn đó là do tình yêu đang làm ta vương vấn.

Sự kiện hai môn đệ làng Em-maus là bất đắc dĩ phải giã từ tất cả trở về quê sinh sống, sự xuất hiện của vị khách không mời mà đến lại có chủ ý, không hề do tình cờ. Vị khách lạ không có ý làm phiền, Ngài chỉ muốn được đồng hành, được lắng nghe hai môn đệ trút bầu tâm sự, dù nhiệt huyết của hai ông vị khách đã hiểu. Cũng vì muốn được cảm thông với hai môn đệ, vị khách lạ đã thôi thúc, giúp hai môn đệ nói hoài, nói mãi, nói cho vơi bớt những bức xúc đang dày vò. “Có lẽ ông là vị khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”.

Đúng như câu tục ngữ: ăn lúc đói, nói lúc say. Hoàn cảnh của hai môn đệ không phải là say rượu hay đói ăn, các ông trở nên hào hứng và nói lên những tâm tư tận đáy lòng, các ông phấn khởi vì có vị khách bộ hành đang chú ý lắng nghe. Người xưa nói rằng: buồn ngủ gặp chiếu manh là thế, nỗi buồn của các ông lắng xuống và nhường chỗ cho hy vọng khởi đi từ sự cảm thông của vị khách lạ. Sau khi đã dốc cạn bầu tâm sự, cũng là lúc hai môn đệ muốn được xoa dịu, được một vài lời động viên xã giao, vị khách lạ đã từ tốn giải gỡ những nút thắt: “chớ gì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao”?

Ngày hôm nay ở trong tâm trạng “vỡ mộng” như hai môn đệ làng Em-maus, hẳn vẫn đang ẩn khuất nơi cuộc sống nơi chúng ta. Công việc làm ăn thua lỗ, lý tưởng theo thầy học nghề, mở rộng kinh doanh bị thương trường tẩy chay ; biết bao nỗi oan uổng không có lời giải, không ít người thở than, đau khổ vẫn còn đó, công lý như dần chìm vào quên lãng. Cũng không ít người mắt tối lại chỉ vì chẳng biết đâu là bạn tốt để tâm sự, chia sẻ, tìm lối thoát. Cũng có người đã từng ngửa mặt kêu xin: con khóc sao mẹ không cho bú ? Con khó khăn cả tinh thần lẫn thể xác, sao trời phật cứ lặng thinh ?

Lời chia sẻ rất “trừu tượng” của hai môn đệ làng Em-maus, thật đáng để mọi người suy nghĩ: “phải chăng lòng chúng ta chẳng sốt sắng lên, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư”? Lúc hai môn đệ tưởng Chúa chết là hết, nhưng không, Đấng phục sinh lại hiện diện bên họ ; lúc Chúa bẻ bánh, hai ông vừa nhận ra Chúa đang sống thì mắt họ lại bị che khuất không nhìn thấy Chúa nữa. Đau khổ hạnh phúc, thành công thất bại ở đời này là một khái niệm có thật ; hai môn đệ làng Em-maus được vị khách lạ cùng đồng hành là có thật. Nhưng việc nhận ra Đấng phục sinh, nhất định phải là những tâm hồn thực lòng trở nên môn đệ Đức Kitô.

Đáng phục sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-maus là một bất ngờ, Chúa mở trí, mở lòng, mở mắt đức tin, rồi Chúa hẹn gặp ở Giêrusalem, trong khi các ông còn muốn giữ Chúa ở lại. Cha ông chúng ta có câu: không gấp đi đâu tối, không vội đi đâu đêm, trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu có chí thì nên. Nếu khi xưa hai môn đệ làng Em-maus đã có ý định rút lui, phó mặc cho duyên phận, vậy mà Chúa phục sinh không bỏ rơi hai ông. Thì hôm nay, biến cố vui buồn xảy ra trong đời, ta hãy bình tĩnh, hãy chia sẻ, cầu nguyện, và hãy tin tưởng Đấng phục sinh luôn đồng hành và lắng nghe, Ngài sẽ chỉ chúng ta cách giải quyết vấn đề.

Ở chọn nơi, chơi chọn bạn ; hay gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, có thể không giống với tình huống của trang Tin mừng hôm nay, nhưng dù sao cũng là dịp để ta suy xét mình đang sống trong hoàn cảnh nào, và đã có bạn để sẻ chia tâm sự không ? Đấng phục sinh vì yêu nên đã đồng hành, đã mở trí lòng các môn đệ, dù thân xác và giọng nói của Đấng phục sinh có khác, nhưng cử chỉ xoa dịu nỗi đau và việc bẻ bánh vẫn là Thiên Chúa yêu thương. Đấng phục sinh không dài dòng khiển trách hai môn đệ, Ngài cũng thực sự đang đồng hành với tất cả chúng ta, cử chỉ yêu thương của Đấng phục sinh trước sau như một, hãy đến với bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, kinh nghiệm của người xưa không bao giờ thừa, hay sẻ chia tâm sự, cầu nguyện với Đấng phục sinh mà chúng ta tin thờ. Amen.

Về mục lục

.

PHỤC SINH VÀ SỨ ĐIỆP BẺ BÁNH

Lm. Gioan Nguyn Văn Ty

Câu truyện Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Em-mau vẫn thường mang lại cho tôi một cảm giác mênh mông! Vẫn hiểu mục đích của tường thuật lần hiện ra này, cũng như hầu hết các lần hiện ra khác sau khi Chúa sống lại, các tác giả Tin Mừng không chỉ nhằm minh chứng Đức Giê-su đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết hay tường thuật các diễn biến của Chúa sau khi sống lại… Cách riêng lần hiện ra này, trong tường thuật của Lu-ca, các tín hữu qua mọi thời đại vẫn luôn phải đầu tư nhiều suy nghĩ tìm tòi hơn các lần hiện ra khác.

Trước các biến cố dồn dập và đau thương như những gì đã xảy ra tại Giê-ru-sa-lem trong những ngày trước đó thì, không riêng gì hai môn đệ, ai ai cũng đều dễ bị cuốn hút vào cái chuỗi các biến cố bi tráng, thê lương để rồi buông mình vào tâm trạng lo lắng buồn phiền dẫn tới nản chí; “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. Thế nhưng điều mà ông bạn đồng hành muốn chia sẻ trên quãng đường dài lại không phải chỉ là tìm hiểu các sự việc đã xảy ra như thế nào, mà là: làm sao hiểu được cái ý nghĩa tiền tàng đích thực của chúng; “Các anh chẳng hiểu gì cả!…” Nếu suốt cả một ngày đường ông khách lạ đã cất công “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ” thì đó là để hai môn đệ thất đảm nắm bắt được cái ý nghĩa gói ghém bên trong các biến cố đau thương đã xảy ra để rồi tìm thấy một nguồn sinh lực mới.

Ngày nay Ki-tô hữu chúng ta đều đã quá rõ: trọn bộ Cựu ước, bắt đầu từ Mô-sê cho tới các ngôn sứ, đều chỉ có một mục tiêu duy nhất là giúp khai mở và đào sâu nhận thức về Đức Giê-su Ki-tô – Lời tối hậu và dứt khoát của Thiên Chúa, Lời tình yêu và cứu độ, Lời mạc khải về một Thiên Chúa đầy yêu thương. Nếu không đạt được, hoặc không chân thành chấp nhận sự hiểu biết này thì mọi biến cố Cựu Ước, và ngay cả những gì xảy ra cho Đức Giê-su trong toàn bộ cuộc sống, nhất là trong cái chết và sống lại của Người, cũng đều là trống rỗng, trống rỗng tới độ gần như vô nghĩa. Ông bạn đồng hành đã cất công làm công việc cực kỳ quan trọng này, là giải thích cho hai tâm hồn thất đảm buồn phiền về cái nội dung đầy an ủi và nhân ái chứa đựng bên trong biến cố tử nạn và thập giá tang thương. Trong đêm Phục Sinh, phụng vụ canh thức cũng nhằm cùng một mục đích duy nhất đó là: mời gọi cộng đoàn tín hữu cùng nhau làm cái việc đào sâu tối hệ trọng này.

Trình thuật Tin Mừng không xác định đầu óc hai môn đệ đã hiểu các lời giải thích của ông khách lạ tới mức nào; tác giả chỉ khảng định rằng: trong cảm thức của mình, hai ông đã bắt đầu nắm bắt được một điều gì đó rất thiết thân đối với niềm tin; “Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Chính sự hiểu biết này đã mở mắt để họ có thể nhận ra ông khách đồng hành và đồng bàn chính là Đức Giê-su từ cõi chết sống lại, nhất là khi “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Thực ra thì hành vi ‘bẻ bánh’ không phải là cử chỉ độc đáo của riêng Thầy Giê-su. Đây là một nghi thức phổ biến mà gia chủ hay chủ tiệc Do Thái nào cũng vẫn thường làm, nhất là khi cử hành lễ Vượt Qua truyền thống. Thế nhưng, đối với các môn đệ đã từng theo Đức Giê-su, cách riêng sau bữa tiệc ly biệt với những lời tâm huyết thắm thiết, đặc biệt sau cái chết đau thương của Người, thì cử chỉ đơn sơ này đã mặc lấy một ý nghĩa hoàn toàn mới: bẻ bánh nói lên cái chết giải phóng cứu độ, và trao ban chính là tình yêu tự hiến trọn vẹn. Trong nội dung đó, thì Phục Sinh không chỉ là việc làm cho một người đã chết được sống trở lại, mà đã trở thành một bảo chứng đầy uy tín rằng: Thiên Chúa đảm bảo tình yêu tự hiến và trao ban này sẽ trường tồn và kéo dài mãi qua muôn thế hệ. Hai môn đệ đã nhận ra Người sống lại trong tất cả chiều kích sâu xa nhất, cùng với đảm bảo vững chắc nhất: lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là bất diệt, là toàn thắng. Như thế, một niềm hy vọng mới đã bừng lên, một chân trời mới đã mở ra, “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người”!

 Các Thánh Lễ trong mùa Phục Sinh mà chúng ta được diễm phúc cử hành thật là đặc biệt, vì chúng trở thành cao điểm của niềm tin Ki-tô hữu khi họ tuyên xưng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa qua cái chết Thập Giá và sự sống lại của Đức Ki-tô Giê-su. Lời Chúa, bất luận là  Cựu Ước hay Tân Ước mà chúng ta đọc/nghe trong mỗi Thánh Lễ những ngày này, đều phải giúp ta khám phá ra nội dung đích thực của tình yêu thương xót và cứu độ vĩnh cửu. Và cho dầu khả năng hiểu biết tri thức của ai đó trong chúng ta có bị giới hạn hay mù mịt, thì các phụng vụ vẫn nhằm giúp họ luôn biết cử hành tình yêu bất diệt đó cách sinh động trong toàn bộ đời sống. Cũng như hai môn đệ trên đường đi Em-mau và cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi đã cảm nhận được cách sâu xa tình yêu thương xót cứu độ của Thiên Chúa trong cử hành ‘bẻ bánh’, các tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải hội nhập được vào thứ tình yêu bao la và bừng sáng đó mỗi lần được diễm phúc hiệp dâng Thánh Lễ, để… lòng chúng ta cũng được bừng cháy lên.

Riêng tôi, tôi vẫn thường tự hỏi sau mỗi Thánh lễ, nhất là trong mùa Phục Sinh: tôi đã cảm nhận được điều gì khi hôn kính bàn thờ trước khi trở vào phòng thánh?

 Lạy Chúa Phục Sinh! Con đã dâng quá nhiều Thánh Lễ trong quá khứ, nhưng lại khám phá quá ít nội dung của nó. Không biết bao nhiêu lần con đã từng bẻ bánh và phân phát cho giáo dân rước lễ, nhưng lại rất ít lần cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh đang thực sự hiện diện và trao ban chính Người cho từng tín hữu, trong đó có con. Xin cho con biết rửa sạch con mắt đức tin để lòng cũng được ấm lên mỗi khi con nhân danh Chúa bẻ bánh và trao ban. Xin biến đổi con nên linh mục của Lòng Thương Xót Chúa ngày càng hơn, đặc biệt mỗi lần con tiến ra dâng lễ. A-men.

Về mục lục

.

GẶP GỠ CHÚA PHỤC SINH

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine”: Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.

Từ nay, mỗi lần đọc đến câu chuyện “Hai môn đệ trên đường Emmau”, chúng ta thật xúc động và cầu nguyện với Thánh Gioan Phaolô II. Trong năm cuối cùng của triều đại Giáo hoàng, Ngài đã mở ra Năm Thánh Thể, mời gọi cộng đoàn Dân Chúa qui hướng về Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu hiện diện thường trực và sống động.

Khi để lại cho Dân Chúa lòng sùng kính Bí Tích Thánh Thể, Thánh Gioan Phaolô II muốn công bố và nhắc nhớ về Đức Giêsu Phục Sinh. Bởi vì có phục sinh thật, Đức Giêsu mới đang thật sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, như thánh Phêrô công bố sự kiện Phục Sinh cho người Do thái sau khi Chúa sống lại (theo bài đọc 1). Ngài xác tín là, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu Phục Sinh khi mộ mến Bí Tích Thánh Thể. Ngài mời gọi, hãy nhớ đến Đấng đã cứu độ nhân loại, nhớ đến thân phận con người và diễm phúc là đã được cứu nhờ Đức Giêsu hy sinh mạng sống và đổ máu vì chúng ta; hay nói như thánh Phêrô trong bài đọc 2, được cứu khỏi nếp sống phù phiếm và sự chết đời đời, không phải nhờ vàng bạc hay hư nát mà nhờ Máu châu báu của Đức Giêsu.

Câu chuyện “Hai môn đệ trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca.

Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh.

Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo.

Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục Sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh.

Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.

Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.

Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T : Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.

1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh

Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nỗi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Người đã giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24, 44).Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách Công vụ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.

Thánh Giêrônimô đã nói : Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: “Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh”(MK21).

Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để “khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng” (MK 26).

2. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Trên đường Emmau, có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban, hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông được đổi mới.
Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền” biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine”, số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).

Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.

Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.

3. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh

Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẻ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.

Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình.

Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói : “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh).

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Về mục lục

.

LỜI CHÚA VÀ THÁNH THỂ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Ít ai biết đến ” một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm ” (Lc 24, 13), nếu không có một Người Bộ Hành mà hai môn đệ coi là “khách hành hương” cùng đi với họ thì ngôi làng Emmaus ấy đã bị lãng quên từ lầu rồi. Theo hai ông, đây là khách hành hương duy nhất ” không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay “(Lc 24, 18).

Chúng ta không biết tên của một trong hai môn đệ, chỉ biết một người tên là Clêophas, còn người kia thì không, có thể là mỗi người trong chúng ta, vào những giờ đen tối nhất của nghi ngờ, buồn thảm, mệt mỏi và chán nản, cuộc sống dường như thất bại, không thay đổi được quá trình của các sự kiện. Chúng ta không tiến bước, mà lại quay về với thực tại của quá khứ, trở thành gánh quá nặng, hoặc một mớ rối bòng bong, trốn chạy bằng con đường Emmaus. Hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh trong đời sống chúng ta.

Hai môn đệ trên đường Emmaus đã gắn bó với Đức Giêsu thành Nagiarét ” với hy vọng Người sẽ cứu Israel ” (Lc 24, 21). Rõ ràng, hai ông đã không ” nghe ” những lời cảnh báo lặp đi lặp lại của Thầy dành cho tất cả những ai muốn theo Người : ” Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta ” ( Lc 14, 27). Trong sự hào hứng của mình, họ đã ” không ngồi mà trù liệu phí tổn, xem có đủ vốn đến lúc hoàn thành hay không ? ” (Lc 14 , 28). Họ đã đặt nền móng, nhưng khi có thử thách về cuộc Khổ Nạn, họ bỏ dở : làm thế nào họ có thể tiếp tục mà không có một kế hoạch và không có người đứng đầu, tức là thợ cả ? Bằng chứng lời Chúa chứng minh rằng họ thiếu cái gì đấy để tiếp tục và đi đến cùng việc xây dựng Nước Trời ở giữa họ.

Vì đã tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của họ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện : “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy ?” (Lc 24, 17) Nghe hỏi thế, họ đã bộc bạch về sự đau khổ, thất vọng, đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngúm. Chúa nói chuyện với hai ông và ” giải thích ” Kinh Thánh. Chúa chủ động trình bày cho họ, ” bắt đầu từ Môsê và các tiên tri”, mà tất cả Sách Thánh đều hướng về mầu nhiệm Con Người (x. Lc 24, 27), làm cho tâm hồn họ “ bừng cháy”. Lời Chúa đem lại một tia sáng khơi lên niềm hy vọng, đưa họ ra khỏi bóng tối của phiền muộn và thất vọng, đánh thức nơi họ lòng khao khát muốn được ở gần Người, khiến họ nài ép : “Mời ông ở lại với chúng tôi”, với lý do “vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn ” ( Lc 24, 29 ).

“Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29 ). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi ” bẻ bánh ” đơn giản ( Lc 24, 35 ). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ ” chỗi dậy trở về Giêrusalem ” ( Lc 24, 33 ) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho ” mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp ” (Lc 24, 33).

Hình ảnh hai môn đệ trên đường Emmaus có thể hình ảnh của mỗi chúng ta giữa biết bao vấn đề và khó khăn, ngay cả những thất vọng nặng nề, Người Bộ Hành Thần Linh vẫn tiếp tục đồng hành bên cạnh chúng ta, mở ra cho chúng ta những trang Kinh Thánh và hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta hãy van nài : Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.

Chúa luôn ở với chúng ta, hãy năng đến gặp Người nơi Bí tích Thánh Thể và lắng nghe Lời Chúa. Chính Ðấng Cứu Thế đã bảo đảm cho chúng ta về sự hiện diện hữu hình của Người ở giữa chúng ta, ngang qua Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể. Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35).

Chúng ta cũng vậy, bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Ðấng Phục Sinh.

Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta : ” Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến” ( 1 Cr 11, 26 ). Như thế, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Niềm vui ấy phải lây sang người khác làm cho Giáo Hội tăng trưởng. Giáo Hội lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.

Về mục lục

.

HAI NIỀM VUI CHAN HÒA TRONG MỘT LẦN GẶP GỠ

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Sau khi Chúa Giê-su chịu khổ nạn và chịu chết tủi nhục đau thương, các môn đệ của Ngài bị lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần nghiêm trọng. Đức Giê-su là Đấng mà họ tôn làm thần tượng, là “một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (Lc 24,19), Đấng mà họ “hy vọng rằng chính Ngài  là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (Lc 24,21)… giờ đây đã trở thành người thiên cổ.  

Chán nản và thất vọng, hai môn đệ Chúa Giê-su lầm lũi lê gót về Em-mau, lòng nặng trĩu ưu phiền.

Niềm vui thứ nhất 

Đang khi hai môn đệ đi đường trong tâm trạng rầu rĩ âu sầu như vậy thì lại có một người bộ hành khác tiến đến bắt chuyện với họ. Người nầy rất am tường Kinh thánh, đã cặn kẽ giải thích cho họ biết rằng vị Tôn sư của họ phải chịu khổ hình như vậy rồi mới tiến vào vinh quang. Trong suốt cả quảng đường dài mười một cây số, được người bạn đường giảng giải Kinh thánh cho, đôi bạn quên cả mệt nhọc đường xa, tâm hồn trở nên hỉ hoan phấn chấn, nỗi buồn vơi hẳn, niềm vui dâng trào. Những lời Kinh thánh phát ra từ môi miệng người bạn đồng hành đã làm cho “tâm hồn họ bừng cháy lên.” (Lc 24, 32) 

Niềm vui thứ hai 

Thế là hai môn đệ Em-mau không muốn rời xa người bạn đồng hành tinh thông Kinh thánh, đã nhen lên trong lòng họ niềm tin và hy vọng nên đã khẩn khoản mời người ấy vào quán trọ ăn tối và nghỉ đêm với mình: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” 

Khi ngồi vào bàn ăn, đôi bạn trố mắt kinh ngạc nhìn người kia “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.” (Lc 24,30) 

Bấy giờ như người mơ bừng tỉnh, đôi bạn nhận ra đây chính thật là Thầy Giê-su! Nhưng chưa kịp reo mừng thì Chúa vụt biến mất! 

Tuy biến đi nhưng Chúa Giê-su để lại niềm vui và hạnh phúc chan hòa trong tâm hồn hai người môn đệ. Niềm vui lớn đến nỗi “ngay lúc ấy” (Lc 24,33) hai vị nầy tức tốc quay trở lại Giê-ru-sa-lem, không ngại đêm đen đang dần dần buông xuống, không ngại mệt nhọc vì đường xa… Phải quay về Giê-ru-sa-lem gấp để chia sẻ cho các môn đệ khác niềm vui đang tràn ngập tâm hồn mình, vui vì được đồng bàn với Đấng phục sinh, dù chỉ trong giây lát. 

Đối với hai môn đệ hôm ấy, đây quả là hai niềm vui tuyệt vời trong một lần gặp gỡ Đấng phục sinh.

Hai niềm vui lớn hơn nơi Bàn Tiệc thánh

Có lẽ nhiều lúc trong đời, nhất là khi gặp thất bại, sầu đau, chúng ta mong sao cho mình có được diễm phúc như hai môn đệ trên đường về Em-mau năm xưa. Niềm hoan lạc mừng vui của hai môn đệ đang khi thất vọng ê chề, lại được gặp Chúa Giê-su trong buổi chiều vàng hôm ấy, được Ngài hâm nóng tâm hồn bằng lời Kinh thánh, được Đấng phục sinh tỏ mình cho gặp ngay trong bữa ăn, là điều biết bao người đang mong chờ ao ước. 

Vậy mà niềm vui đó, hạnh phúc đó đang nằm trong tầm tay chúng ta từ bấy lâu nay mà không mấy ai cảm nhận. Hôm nay, mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta được diễm phúc còn hơn cả hai môn đệ Em-mau mà lắm khi chúng ta không lưu ý. 

Thực vậy, 

-Qua Bàn Tiệc Lời Chúa trong Thánh lễ hằng ngày, Chúa Giê-su tiếp tục đồng hành với chúng ta như với hai môn đệ xưa, tiếp tục lấy Lời Chúa để sưởi ấm tâm hồn băng giá của chúng ta, để soi sáng tâm trí u tối của chúng ta, để lấp đầy những khát vọng trong tim ta. 

-Và qua Bàn tiệc Mình Máu thánh, Chúa Giê-su cho ta được “hiệp thông nên một với Ngài, cùng một thân mình, cùng một giòng máu” [1] với Ngài và nhờ đó, sự sống thần linh của Chúa Giê-su, một sự sống vô cùng cao quý và không bao giờ tàn lụi, được thông truyền cho chúng ta. 

Vậy mà tiếc thay, vì không nhận thức cho đúng ơn huệ cao vời đó nên nhiều người trong chúng ta đã tỏ ra vô cảm, thờ ơ với hồng ân vô giá.

Lạy Chúa Giê-su, 

Hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục cống hiến cho chúng con hai niềm vui vượt xa niềm vui của hai môn đệ Em-mau, ngay tại Bàn tiệc thánh hằng ngày và Ngài vẫn tha thiết mời gọi chúng con đến chung phần. 

Xin cho “tâm hồn chúng con được bừng cháy lên” khi nghe Lời Chúa dạy trong bàn tiệc Lời Chúa như hai môn đệ xưa; và xin cho chúng con được hiệp thông nên một với Chúa, cùng một thân mình, cùng một giòng máu” với Ngài khi lãnh nhận Mình thánh Chúa nơi Bàn Tiệc yêu thương.

 

[1] Trích từ bài giáo huấn cho tân tòng tại Giê-ru-sa-lem, bài đọc Kinh Sách ngày thứ Bảy tuần Bát Nhật phục sinh.

Về mục lục

.

CẦN CHÚA GIẢI PHÓNG

Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng

Hai môn đệ trên làng Emmaus, có lẽ vừa mới dự lễ Vượt qua tại Giêrusalem, bây giờ, sau khi tan lễ, họ trở về làng mình. 

Khác mọi cuộc hành hương hàng năm, hành hương Giêrasalem năm nay, các môn đệ trở về, mang theo cả một tâm trạng ngổn ngang, run rẩy. Bởi Thầy của họ vừa mới bị giết chết thê thảm.  

Họ trở về, nhưng tâm tưởng vẫn vươn đầy hình ảnh tàn khốc về tất cả những gì mà những nhà lãnh đạo đã dành cho Thầy. Họ trở về, nhưng chắc chắn, bên trong cõi lòng, vẫn còn đó những nỗi bàng hoàng, xao xuyến, sợ hãi, đau buồn, chán nản… 

Khác mọi cuộc hành hương trong đời họ, lần hành hương này mang tính vĩnh biệt, vì Chúa đã chết. Có thể họ sẽ còn những lần hành hương khác, nhưng đấy chỉ là hành hương theo nghi thức tôn giáo và vì lòng đạo đức. Nó sẽ thiếu niềm hy vọng, niềm vui, sự háo hức vì có Chúa, nguồn tin tưởng của họ… 

Chính những biến cố xảy ra bên ngoài cùng những tâm tư đầy thất bại bên trong tâm hồn như thế, làm bước chân hai môn đệ trên làng Emmaus trĩu nặng. Họ bước bên nhau lầm lũi, tương lai xa vắng. Trước mắt, sự tối tăm của cuộc đời như đang giăng mắc, chẳng khác một ngày của họ đang khuất và bóng chiều đang đổ.  

Họ bước bên nhau nhưng không chút niềm vui, trái lại, nỗi buồn của cả hai như cộng vào nhau, làm tăng thêm, làm mạnh hơn. Đã buồn, càng buồn!  

Những bước đi của họ là những bước của kẻ dại khờ: Trước đây từng tự trói buộc mình vào ước mơ đổi đời hảo huyền, không tưởng. Nay lại tự trói buộc mình vào nỗi ám ảnh thất bại, nỗi ám ảnh của kẻ đi tìm ánh sáng, nhưng chỉ đối diện sự tối tăm của đoạn cuối con đường hầm. 

Nghĩ như thế mà thấy hai môn đệ đáng thương. Thấy họ càng điêu đứng, càng thất thỉu, càng quay quắt…  

Nghĩ như thế mà thương cho thân phận của những ai mải miết rong ruỗi trong đời chỉ để thực hiện giấc mơ trần thế, một giấc mơ rẻ rúng đến độ chỉ có cơm-áo-gạo-tiền, chỉ có quyền-lực-danh cho một kiếp “quán trọ-trần gian”. Đó là một sự trói buộc đầy nô lệ. 

Nhưng Đấng Phục Sinh không đứng bên lề cuộc đời con người. Người là Đấng giải phóng. Người yêu chuộng sự giải phóng. Người tìm đến để có thể giải phóng tất cả những gì trói buộc, những gì gây nên nỗi áp bức và nô lệ. 

Cũng như xưa, Thiên Chúa đã từng đi tìm Adong, Evà trao lời hứa cứu độ. Người tìm Cain, kẻ sát hại em ruột để ngỏ với Cain rằng, người tôn trọng sự sống và không muốn bất cứ ai xúc phạm sự sống. Người tìm dân riêng và trao sự lãnh đạo toàn dân cho Môsê, để Môsê có thể trực tiếp liên đới với dân và với chính Người. Sau này, Người lại tiếp tục dẫn dân trở về quê cha đất tổ của họ để lập quốc, để ổn định đời sống sau thời gian lưu đàu khổ ải…  

Đó là những hành trình giải phóng, Thiên Chúa thực hiện để cởi bỏ mọi trói buộc, mọi ách nô lệ mà con người, hoặc vì hoàn cảnh, hoặc tự mình mang vào. Vô số những bằng chứng từ Lời Chúa, Thiên Chúa cho thấy Người trung thành với ơn giải phóng mà từ ngàn xưa Người đã thực hiện… 

Cũng vậy, Đấng Phục Sinh đồng hành để lắng nghe tâm tư nặng trĩu của môn đệ, để giải phóng họ khỏi những trói buộc, mà vì mê muội, khiến họ tự chuốc lấy. Giữa lúc ề chề, thất vọng, yếu đuối, và bất ngờ nhất, họ được Chúa tìm thấy. Chúa không muốn họ chìm sâu trong tuyệt vọng. 

Phương thế Chúa dùng để giải phóng họ, cởi trói họ là Thánh Kinh, là bí tích Thánh Thể: 

– Bằng Thánh Kinh, “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông tất cả những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Chúa Giêsu mở trí để môn đệ hiểu kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chúa giúp họ nhận ra, đau khổ là nhịp cầu để Chúa vượt qua, tiến về vinh quang. Đau khổ không là chuyện may rủi, nhưng có vị trí trong chương trình cứu độ. 

Chính nhờ Lời Chúa mà các môn đệ được cởi trói. Tin Mừng mà Đấng Phục Sinh trao tặng là Tin Mừng ngọt ngào, khiến nỗi đau dịu đi và cõi lòng được hâm nóng, trở nên ấm áp diệu kỳ. Sự giải phóng thiêng liêng khiến họ hạnh phúc thốt lên: “Khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”

– Bằng hành động của buổi chiều thứ năm tuần Thánh khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cử hành lại nghi thức bẻ bánh, sau khi đã giảng dạy Lời của Chúa, đã thêm sức cho các môn đệ. Họ đã thực sự được giải phóng khỏi tất cả những gì mà chỉ trước đây ít phút, họ từng bị cột trói. 

Giờ đây, họ phục hồi niềm tin. Họ tìm lại được Chúa, tìm lại Đấng luôn giải phóng trên suốt dọc đường đời của họ. Chúa vẫn tiếp tục ở cùng họ. Người tỏ mình cho họ qua những dấu chỉ của lòng tin. Người tiếp tục lôi kéo họ vào mầu nhiệm phục sinh của Người. 

Từ đây, họ vững vàng hơn, tin tưởng hơn, can đảm hơn để có thể ra đi, không phải chỉ quay về Giêrusalem, nhưng là vươn ra mọi nẻo đời để công bố tin mừng phục sinh, công bố tình yêu cứu độ, tình yêu giải phóng của Thiên Chúa. 

Chắc chắn, không ai là không có ước mơ. Chúng ta hãy để ước mơ trường sinh chi phối đời mình, chứ đừng để “mộng vàng” trần thế trói buộc. 

Bởi biết bao nhiêu lần, ta chỉ loay hoay với mưu sinh, với việc kiếm tiền, mà tấm thân thành ra phờ phạc, xót xa. 

Biết bao nhiêu lần ta phạm tội vì thói tham lam, vì muốn vượt quyền, đoạt chức, nên tâm trí mù tối, cuộc sống diễn ra nhiều bi thương. 

Biết bao nhiêu lần vì tranh giành, tranh chấp, ta mất hết lẽ sống, mất nghĩa ân. 

Bị trói buộc nhiều thứ, mà lẽ ra phải cảnh giác để không bị trói buộc, vì thế, ta chẳng còn khám phá Chúa đang hiện diện, chẳng còn nhận thấy tình thương quan phòng của Chúa. 

Kinh nghiệm của hai môn đệ trên làng Emmaus cũng là kinh nghiệm của chúng ta: Do bị cột trói bởi nhiều thứ, mà đời ta cứ mãi bất hạnh. Chúa có đến, ta không ngờ. Chúa có đi, ta chẳng biết mà giữ lại. Chúa ở lại với ta mà ta không cảm được, không nhìn thấy. Lúc tưởng Chúa vắng mặt, thì Chúa ở gần bên. Lúc nhận ra Chúa gần bên, thì Chúa đã biến mất.  

Hãy trở về với nguồn mạc khải là Lời Chúa và với nguồn sống thần linh là Thánh Thể, ta sẽ tìm lại năng lực sống, để từ nay, Chúa giải phóng cõi lòng ta, giải phóng những u tối vây bủa ta. 

Hãy cầu nguyện nhiều, hãy suy niệm Thánh Kinh bền bỉ, siêng năng kết hợp với Thánh Thể, để chính khi ta tưởng Chúa biến mất, sẽ là giây phút ta cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Chúa.

Bởi những lúc ta tưởng mình phải đi một mình, càng là lúc ta được Chúa đồng hành. Chỉ có cảm nghiệm thiêng liêng như thế, ta mới thực sự mở ngỏ để Chúa chạm đến cõi tâm hồn. Chỉ có mở lòng lãnh nhận ơn được giải phóng, ta mới thuộc trọn về Chúa, mới không vướng bận cõi đời.

Về mục lục

.

ĐỒNG HÀNH

AM. Trần Bình An

Năm 1991, khi mẹ gọi tôi tới khu nhà nghỉ mát ở Hood Canal để gặp gỡ một nhóm bạn, bao gồm cả Warren, tôi đã không muốn đi. Tôi lấy lí do là quá bận rộn với công việc, nhưng mẹ cố thuyết phục tôi rằng Warren Buffett là một người rất thú vị. Mặc dù vậy, tôi vẫn rất kiên quyết: “Mẹ nhìn xem, ông ta chỉ mua và bán những mẩu giấy, chúng không đem lại giá trị thực sự. Con không nghĩ con và anh ta có nhiều điểm chung.” Cuối cùng, tôi vẫn bị mẹ thuyết phục, dù trong lòng không thực sự sẵn sàng. 

Khi gặp Warren ở bữa tiệc, ông hỏi tôi một số câu hỏi về kinh doanh phần mềm và tại sao một công ty nhỏ như Microsoft lại mong đợi có thể cạnh tranh với IBM (Tập đoàn máy tính đa quốc gia lớn nhất thế giới thời điểm đó, thành lập từ năm 1911) và các phần mềm được thiết lập thế nào, giá cả ra sao? Đó quả thật là những câu hỏi tuyệt vời mà chưa ai từng hỏi tôi. Chúng tôi hoàn toàn say mê với cuộc trò chuyện cùng nhau mà quên cả thời gian. Trong cuộc trò chuyện, Warren không phải một nhà đầu tư lớn, ông ấy đã rất khiêm tốn khi nói về những điều ông đã làm. Warren thật thú vị và tôi ấn tượng nhất với cách ông suy nghĩ về thế giới. Cuộc trò chuyện đó là khởi đầu cho một tình bạn sâu sắc. 

Tại văn phòng làm việc, tôi chỉ lưu 2 số điện thoải khẩn cấp: số của gia đình và số của Warren Buffett. Thật tuyệt nếu ông ấy có thời gian để nghe điện thoại của tôi. Khi đó tôi sẽ liên tục học được những điều mới mẻ từ ông ấy. Warren và tôi đều thích nói chuyện về các công ty, chính trị, các sự kiện nổi bật và những đổi mới đang diễn ra trên thế giới. Thực sự thú vị khi nói chuyện với một người có cùng mối quan tâm với bạn, nhưng lại có cách phân tích dựa trên nền tảng khác biệt. Khi nhìn nhận các vấn đề, Warren dùng đôi mắt của một nhà đầu tư kinh tế và tôi thì dùng kĩ năng của một chuyên gia công nghệ. 

Warren là một người hướng dẫn tuyệt với đối với tôi và Melinda. Trước mỗi thách thức, chúng tôi thường tự hỏi: “Trong tình huống này, Warren sẽ làm gì?” Bằng cách đó, chúng tôi tìm ra giải pháp tốt nhất. Tôi và Warren gần như đồng trang lứa, nhưng thực sự đôi khi ông ấy khôn ngoan hơn nhiều. Đối với tôi, ông ấy có lẽ giống như một người cha. 

Và ông ấy cũng rất tài năng khi đầu tư vào con người. Tôi luôn ngạc nhiên về cách ông ấy thu hút mọi người và khiến mọi người vui vẻ khi tiếp thu, học hỏi từ ông. Mặc dù rất bận rộn, Warren luôn sắp xếp thời gian để nuôi dưỡng tình bạn của chúng tôi. Ông thường xuyên gọi điện và gửi những bài viết ông ấy nghĩ tôi và Melinda sẽ thích. 

Hơn 25 năm qua, tôi đã học rất nhiều điều từ Warren, nhưng có lẽ điều quan trọng nhất là cách ông ấy nuôi dưỡng tình bạn của chúng tôi. Thật may mắn khi có một người bạn thân ái và tử tế như Warren. Ông sẵn sàng giúp mọi người cảm thấy tốt hơn về bản thân và chia sẻ niềm vui trong cuộc sống. Cho đến bây giờ, mỗi khi có dịp tới Omaha, Warren vẫn lái xe tới sân bay để đón tôi. (Thu Hoài, Thâm tình hơn 1/4 thế kỉ của hai tỷ phú giàu nhất thế giới: Bill Gates và Warren Buffett, Tri thức trẻ) 

Hai tỷ phú Warren Buffett và Bill Gates đang đồng hành cùng nhau, dù khác ngành nghề kinh doanh, nhưng đều hiệp nhất, chia sẻ quan niệm sống, giúp nhau hướng thượng, làm từ thiện. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu phục sinh  cũng âm thầm, lặng lẽ đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Người chia sẻ tâm tư, Lời Chúa đến Thánh Thể, khiến nhị vị nhận ra chính Người.

Chia sẻ tâm tình 

“Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra.” Đức Giêsu mong muốn các môn đệ luôn kết hiệp với nhau vì danh Chúa. Nên thấy hai người buồn nản, đau khổ, mất phương hướng, sau khi Người chịu chết và mai táng trong mồ, Người đã phục sinh, hiện ra an ủi, chia sẻ tâm tình thất vọng, lo âu, sợ hãi quyền lực đen tối. “Ở đâu có hai, ba người họp lại vì danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ.”(Mt 18, 19-20) 

Cầu nguyện chung là phương thức cổ võ và duy trì bác ái và hiệp nhất trong cộng đoàn, qua tâm đầu hiệp ý và nhân danh Đức Giêsu.“Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau.” (Ep 4, 3) 

Khi đồng hành cùng hai môn đệ, Đức Giêsu liền thân ái thăm hỏi:”Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Người luôn ân cần quan tâm đến người đi cùng, tích cực an ủi, chia sẻ và nâng đỡ.   

Chia sẻ Lời Chúa 

Sau khi ân cần hỏi han sự tình mới xảy ra ở Giêrusalem, hiểu rõ tâm tình thất vọng của hai môn đệ, vì còn chìm đắm u mê, Người liền chia sẻ, giải thích sứ vụ của Đấng Cứu Thế, phải trải qua bao khổ nạn và chịu đóng đinh, rồi sống lại, y như Kinh Thánh đã tiên báo. “Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người.” Khiến lòng trí họ mở ra đón nhận ánh sáng Tin Mừng: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Bởi vì Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. (Tv 119, 105)

Chia sẻ Thánh Thể 

Nhờ Lời Chúa khai hoá, xua tan mây mù thế gian, đốt lên ngọn lửa mến, niềm tin, lòng cậy trông, hai môn đệ hiệp nhất, đồng tâm, đồng thanh mời Đức Giêsu ở lại. Họ muốn chia sẻ với Người nơi ăn nghỉ, cùng tha thiết được chia sẻ hơn nữa.“Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người.” 

Ánh sáng Lời Chúa lại thêm tỏ tường, rạng rỡ, chói loà khi Người lập lại cử chỉ bẻ bánh. Hai môn đệ hân hoan nhận ra ngay chính Người là Đức Giêsu phục sinh, vị Thầy muôn thuở, đã tận tình dìu dắt, chỉ dạy cho họ suốt ba năm qua. Người đã lập nên Bí Tích Thánh Thể, vốn là tuyệt đỉnh tình yêu, hoàn toàn dâng hiến, hy sinh, trở nên lương thực cho nhân loại.“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13) 

Hằng ngày cùng với Chúa Giêsu, con dâng hiến mình, sẵn sàng từng giây phút, để “bị nộp” vì anh em con, để “đổ máu ra cho nhiều người được tha tội,” (Đường Hy Vọng, số 377)  

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin thương xót đồng hành cùng chúng con, để chúng con luôn được chia sẻ Lời Chúa và Mình Máu Chúa . 

Khấn xin Mẹ thương yêu cầu bầu cho chúng con luôn được Chúa Giêsu đồng hành trong từng giây phút cuộc đời. Amen.

Về mục lục

.

CẢM THÔNG

Lm. Trần Việt Hùng

Cùng ngày thứ nhất trong tuần,

Có hai môn đệ, thấm nhuần đau thương.

Em-maus dẫn lối lên đường,

Trở về quê cũ, tựa nương tháng ngày.

Truyện trò trao đổi hăng say,

Mỗi người một ý, chăng hay tình hình.

Giê-su tiến bước đồng tình,

Hỏi han giải thích, Thánh Kinh từ đầu.

Các ông khờ dại bao lâu,

Tiên tri loan báo, khổ sầu tôi trung.

Ki-tô cứu thế bao dung,

Đánh đòn hành hạ, tới cùng xót xa.

Khổ hình thập giá vì ta,

Hy sinh chịu chết, thứ tha tội đời.

Ba ngày sống lại rạng ngời.

Hoàng hôn ghé quán, xin mời cùng vô.

Giê-su cầm bánh tung hô,

Tạ ơn chúc tụng, tông đồ ngạc nhiên.

Đọan Người biến mất nhãn tiền,

Các ông sáng mắt, nhân hiền Thầy ơi!

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra rất nhiều lần với các môn đệ. Khi Chúa hiện ra, họ đã không nhận ra Chúa ngay. Bà Maria Mađalêna thấy Chúa đó, nhưng tưởng là người làm vườn. Ngoài bãi biển, Chúa nói hãy thả lưới bên hữu thuyền, các tông đồ cũng không nhận ra Chúa. Trên đường về quê Emmaus, hai môn đệ cũng không nhận ra Chúa đang đồng hành với các ông. Vậy sau khi sống lại, Chúa đã biến đổi hình dạng khác thường.

Được nhìn biết Chúa là một ơn Chúa ban. Chúa chỉ xuất hiện với người mà Chúa muốn tỏ bày. Câu truyện trong bài phúc âm kể rằng hai môn đệ trên đường Emmaus bước đi trong thinh lặng và chán nản. Các ông đã bỏ cuộc, nhưng trong lòng vẫn thao thức. Chọn cơ hội tốt, Chúa xuất hiện đồng hành để giải thích ý nghĩa sự đau khổ, sự chết và sự sống lại mà các tiên tri đã loan báo về Đấng Cứu  Thế. Tuy hiểu lời Kinh Thánh, nhưng mắt các ông vẫn bị che kín.

Chúa kiên nhẫn đợi chờ sự thức tỉnh của hai môn đệ. Chúa biết hai ông là người chân thành và nhiệt tình. Chấp nhận lời mời ở lại quán trọ với bạn trong lúc chán nản. Nơi đây Chúa đã dâng thánh lễ thứ hai, qua nghi thức bẻ bánh như dấu chỉ và các môn đệ đã nhận ra Thầy. Lòng các ông phấn khởi và vui tươi. Tinh thần các ông như sống lại trong niềm hy vọng. Khởi đầu cho sứ mệnh mới, hai môn đệ lập tức trở lại Giêrusalem đem tin vui đến các môn đệ khác.

Trong cuộc đời chúng ta cũng thế, đã bao lần chúng ta chán nản rơi vào thất vọng. Chúng ta toan tính bỏ cuộc. Đôi khi chúng ta tìm giải quyết theo cách thức và nhãn quan của chúng ta. Tốt nhất, chúng ta hãy mời Chúa cùng đồng hành. Chúa sẽ đem lại nguồn an vui.

Chúng ta nghe câu truyện dấu chân trên cát. Trong giấc mơ, người đó bước bộ dọc theo bờ biển với Chúa. Bỗng nhiên những biến cố cuộc đời xuất hiện trong chớp nhoáng. Nhìn lại dấu chân trên cát, người đó thấy rằng trong những lúc vui tươi và hạnh phúc, có hai hàng dấu chân xuất hiện trên cát. Nhưng những lúc đau khổ, chỉ còn lại một hàng dấu chân. Người đó thưa với Chúa: Con không hiểu sao, trong lúc con cần Chúa, Chúa lại rời xa con. Chúa phán: Cha không bao giờ xa con, trong những lúc con gặp nguy nan và buồn nản. Khi con chỉ thấy một hàng dấu chân. Khi đó, Cha mang vác con trên vai.

Chúng ta hãy mời Chúa đồng hành trên đường lữ thứ. Chúng ta hãy rước Chúa cư ngụ trong nhà. Chúng ta hãy đón Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta. Mừng Chúa phục sinh, chúng ta hãy mở rộng cửa đón Chúa. Chúa chính sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và dẫn dắt chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu.

Về mục lục

.

ĐIỂM TỰA VỮNG CHẮC – XIN THẦY Ở LẠI VỚI CHÚNG CON!

Lm. Giuse Nguyễn

Ngày 18-04-2017, báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Liên Hiệp Quốc đã khẳng định “đạo đức Công Giáo” giúp giải thích tại sao thanh thiếu niên ở Mêxicô lại hạnh phúc hơn thanh thiếu niên ở Anh. Lý do là bởi vì Nước Anh, một trong những nước giàu có, phụ thuộc một cách bấp bênh vào phúc lợi từ hệ thống an sinh xã hội của nhà nước; trong khi tại Mêxicô và Balan, người ta trông cậy vào gia đình và cộng đồng, là những thể chế đáng tin cậy, được xây dựng vững mạnh trên niềm tin tôn giáo. Điều đó cũng có nghĩa là sự bảo đảm an toàn của người đời không làm cho người ta hài lòng với cuộc sống; ngược lại, dù cuộc sống có những gian nan thử thách, nhưng khi có niềm tin vào Chúa, vào sự sống đời sau, con người cũng cảm thấy hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống của mình. Chính vì vậy, điều quan trọng là con người tìm ở đâu để có một điểm tựa vững chắc cho cuộc đời mình.

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Cv 2, 14.22b-33

Tiếp tục loạt bài giảng về cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô để mời gọi người ta tin vào Ngài, Thánh Phêrô đã nói đến sự gian ác của con người: “Đức Giêsu đã bị nộp, và anh em đã dùng ban tay kẻ dữ mà đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi” (Cv2, 23b). Sự gian ác đó xuất phát bởi những tính toán riêng tư của con người. Họ muốn loại trừ ông Giêsu ra khỏi cuộc sống để họ được bình an với những gì họ đang có; trong khi Đức Giêsu nói lên những chân lý, những sự thật và những đòi buộc… chính những điều đó đã khuấy động tâm hồn họ, đòi buộc họ phải từ bỏ lối sống không đúng đắn để đón nhận Tin Mừng… Nhưng vì họ không muốn nên họ đã giết chết Ngài. Hay nói cách khác, họ đã có một điểm tựa khác ngoài điểm tựa Giêsu.

  1. Bài Đọc II: 1Pr 1, 17-21

Cũng là những lời rao giảng của Tông đồ trưởng Phêrô, ngài đã nhắn nhủ giáo đoàn của mình: “Anh em hãy biết rằng, không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô” (1Pr 1, 18-19). Như thế Phêrô bằng tất cả tấm chân thành của một Tông đồ, của một kẻ đã từng chối Thầy, của một người đã được chứng kiến Đấng Phục Sinh, của một môn đệ đã mạnh rao giảng về niềm tin mà mình đã xác quyết, giờ đây ông chỉ cho các Kitô hữu biết đâu là điểm tựa vững chắc cho cuộc đời của họ: là chính Đức Kitô.

  1. Tin Mừng: Lc 24, 13-35

Hai môn đệ được nhắc tới trong bài Tin Mừng hôm nay, đã một thời dám từ bỏ nhà cửa, quê hương, sự nghiệp của mình để làm môn đệ ông Giêsu. Như lời họ chia sẻ với người “khách lạ”, họ theo ông Giêsu để mong chờ sự giải phóng cho dân tộc Israel. Nhưng với cái chết của ông Giêsu họ hoàn toàn thất vọng nên đã quay về với những gì họ đã từ bỏ. Có lẽ họ cũng đã chuẩn bị để khi trở về sẽ bị gia đình, bị lối xóm cười chê, mai mỉa; chắc phải một thời gian lâu lắm người ta mới hết chọc quê mình. Nhưng thà như vậy còn hơn là ở lại Giêrusalem, sẽ mất tất cả.

Khi được người “bạn đồng hành” giải thích Thánh Kinh, rồi làm cử chỉ quen thuộc là “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ” (Lc 24, 30), lúc đó “mắt họ liền mở ra, và họ nhận ra Người” (Lc 24, 31).

Khi nhận ra Thầy mình đã sống lại từ cõi chết, họ lập tức quay lại Giêrusalem ngay đêm hôm đó, kể tất cả mọi sự cho anh em mình. Bắt đầu từ ngày hôm đó, cuộc đời của họ đã biến đổi hoàn toàn. Họ không còn theo ông Giêsu vì để mong chờ sự giải phóng cho Israel, nhưng họ tin tưởng và bước theo Đấng đã chết và sống lại để họ được Sự Sống Mới.

Như vậy điểm tựa của 2 môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay đã thay đổi từ một con người Giêsu sang một Đấng Phục Sinh.

II.  ĐIỂM TỰA CHO CON NGƯỜI

  1. Những giá trị tự nhiên

Con người luôn cần “những điểm tựa”. Từ khi được sinh ra đứa bé đã nương tựa hoàn toàn vào cha mẹ hoặc những người chăm sóc chúng. Trưởng thành, điểm tựa để hình thành nhân cách của một con người chính là gia đình, trường học và xã hội. Lớn lên, điểm tựa đó là nơi để họ nghỉ ngơi sau một thời gian làm việc mệt mỏi, là chốn để họ tìm về sau những lúc đi hoang. Và luôn luôn trong suốt cuộc đời, điểm tựa cho con người chính là niềm tin vào những con người mà mình gặp gỡ, vào cuộc sống mà mình đang hiện diện…

Thế nhưng thực tế ngày nay cho thấy điểm tựa cho con người không còn vững chắc. Hàng loạt những vụ án dâm ô với trẻ em, trong đó có cả những người thân, người lân cận, người làm công tác giáo dục… đã đến lúc phải gióng lên hồi chuông báo động ; những câu chuyện giáo viên mầm non bạo hành trẻ em… cho thấy những điểm tựa vốn vững chắc một thời đã trở thành cái bẫy cho trẻ em. Những cô gái mới lớn, vô tư, muốn có nhiều tiền để đổi đời, đặt niềm tin vào những người giới thiệu việc làm, nhưng đã vô tình rơi vào tay những kẻ buôn người. Những nam sinh, những chàng trai mới lớn muốn tìm “điểm tựa trên mây” nên đã rơi vào cái bẫy của sự tò mò, đến lúc muốn thoát ra cũng không được bởi vòng vây của dâm ô, của chất gây nghiện… Những con người và môi trường sống cũng không còn là chỗ dựa an toàn cho nhau, vì không biết người ta lợi dụng, lường gạt và hãm hại nhau lúc nào… Thức ăn, nước uống, cũng không còn an toàn cho con người vì thực phẩm bẩn và ô nhiễm môi trường…

Tất cả những phản ánh nêu trên chính là tâm trạng của 2 môn đệ trên đường Emmaus. Họ đã mất đi điểm tựa, họ đã thất vọng về tất cả. Họ buông xuôi, bỏ cuộc. Họ biết tìm nơi đâu một điểm tựa an toàn, chắc chắn?

  1. Điểm tựa Giêsu

Lời Thánh Vịnh 61: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn”. Đức Giêsu đã khẳng đinh: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga14, 6). Và: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, thì các con cũng ở đó”.

Trên đường Emmaus ngập tràn đêm tối, chán nản và thất vọng, 2 môn đệ gặp lại Thầy mình đã Phục Sinh từ trong cõi chết. Mầu nhiệm đó làm cho lòng các ông bừng cháy lên. Các ông quay trở lại Giêrusalem mà không còn sợ hãi, vì các ông đã tìm lại được điểm tựa nơi Thầy Giêsu, nơi Đấng Phục Sinh.

Người ta kể một câu chuyện về cây táo. Lúc còn nhỏ, ngày nào đứa bé cũng chạy ra leo trèo, chơi giỡn dưới gốc cây táo. Thời gian trôi qua, đứa bé giờ đã lớn, không còn đến chơi với cây táo nữa. Một hôm nó trở lại vẻ mặt u buồn. Cây táo mừng rỡ reo lên: “Hãy đến chơi với ta đi!”. Đứa bé nói cháu đã lớn và cháu không thích chơi giỡn nữa, cháu cần tiền. Cây táo nói: “Vậy con hãy leo lên hái trái ta đem bán và lấy tiền”. Nó hái tất cả trái trên cây táo và sung sướng ra đi. Một thời gian sau, nó lại quay về với vẻ mặt u buồn. Cây táo lại vui mừng: “Hãy đến chơi với ta đi!”. Nó nói “cháu không có thời gian, giờ cháu còn phải lo cho gia đình, cháu cần một mái nhà”. Cây táo vui vẻ nói: “Vậy cháu hãy đốn những cành cây của ta về cất nhà đi!” Và chàng trai đã chặt hết những cành cây và ra đi không trở lại. Một thời gian sau, đứa bé giờ đã lớn tuổi, quay trở lại với vẻ mặt u buồn. Cây tạo lại vui vẻ: “Hãy đến chơi với ta đ!” Đứa bé năm nào nói: “ Cháu đang buồn, vì thấy mình già đi, cháu muốn chèo thuyền đi khắp nơi cho khuây khỏa”. Cây táo liền nói: “Vậy cháu hãy đốn thân ta để làm một chiếc thuyền đi!” Chàng trai chặt thân cây táo làm thuyền và chèo đi xa, xa mãi. Nhiều năm sau, chàng trai giờ đã già nua quay lại với gốc cây táo. Cây táo u buồn và nói: “Ta xin lỗi vì ta chẳng còn gì cho con, không còn trái nữa”, “nhưng cháu đâu còn răng để ăn” ; “Ta cũng chẳng còn cành cho con leo”, “Nhưng cháu không đủ sức để leo nữa” ; “Ta thật sự chẳng còn gì cho con, ngoài bộ rễ đang chết dần, chết mòn”, “Con cũng chẳng cần gì ngoài một chỗ nghỉ ngơi sau những tháng ngày mệt mỏi”. Cây táo mừng rỡ reo lên: “Vậy thì gốc cây già cỗi này là nơi rất tốt để làm điểm tựa cho con nghỉ ngơi sau một cuộc đời mệt mỏi”. Và đứa bé năm nào giờ là một ông già ngồi xuống, tựa lưng vào bộ rễ cây táo, nhắm mắt lại, ngủ một giấc thật ngon. Còn cây táo thì mừng rơi nước mắt.

Cây táo là hình ảnh của Thiên Chúa đã hy sinh tất cả mọi sự cho con người, nhưng con người đi tìm một điểm tựa khác, họ chỉ quay về với Ngài mỗi khi cuộc đời không cho họ một điểm tựa. Nhưng đến lúc cuối đời, chỉ Thiên Chúa mới là điểm tựa vững chắc cho họ mà thôi.

Qua lời Chúa hôm nay, tôi muốn giới thiệu với anh chị em, đặc biệt các bạn trẻ một điểm tựa vững chắc mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, đó là Đức Giêsu Kitô. Hãy từ bỏ những điểm tựa khác như tiền bạc, những thú vui, những tò mò…để tìm đến với điểm tựa Giêsu. Cụ thể sau một ngày sống hãy tìm đến với Ngài trong giờ kinh hôm. Đến với Ngài trong các thánh lễ, các bí tích và các việc đạo đức…

Chúng ta có giờ đi hát Karaoke trong căn phòng máy lạnh với chúng bạn, nhưng lại không có giờ để đi tham dự thánh lễ. Chúng ta có thể ngồi hàng giờ để chơi facebook, zalo, nhưng không thể ngồi nửa giờ để đọc kinh gia đình, hay lần chuỗi lòng thương xót….

Hãy thay đổi điểm tựa cho cuộc đời chúng ta vững chắc!

Về mục lục

.

NÓNG BỎNG CON TIM

Lm Vũđình Tường

Nóng bỏng con tim là con tim yêu mến, nồng cháy tình yêu. Ngày xưa Môisen trong Cựu Ước nhận biết Thiên Chúa qua bụi gai lửa cháy bập bùng nhưng bụi gai vẫn xanh tươi. Trong Tân Ước hai môn đệ trên đường về quê làng Emmaus cũng nhận biết Đức Kitô Phục Sinh khi tâm tư các ông bừng cháy lửa tình yêu và các ông nhận ra Thầy Phục Sinh. Mặc dầu không đồng í với cách đối xử của chính quyền, họ vừa lạm dụng quyền hành vừa xử án tử hình bất công với Đức Kitô nhưng các môn đệ vẫn dùng ngôn từ của người tỏ ra có tư cách, lịch sự để diễn tả tâm tình đau khổ của người đang mất niềm hy vọng nơi các nhà lãnh đạo.

Nhờ tâm tình bác ái và lòng nhân các ông đã biến con tim đau khổ thành con tim nồng cháy tình yêu. Bác ái và lòng nhân với người xa lạ không quen, các ông gặp trên đường về quê. Dù hai người đang to nhỏ, tâm sự về nỗi đau đớn trong lòng, các ông vẫn chào đón người lạ trên đường và cùng với người lạ chia sẻ tâm sự riêng của hai người. Người lạ không những chỉ lắng nghe với tâm tình chân thành, cởi mở và mau chóng trở thành người chủ toạ, hướng dẫn cuộc đối thoại, giải thích cho các ông về mọi biến cố xảy ra cho Đức Kitô. Chính những đau khổ, tủi nhục đó lại trở thành vinh quang để nhân loại nhận biết tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Các môn đệ lắng nghe và thầm cảm tạ người lạ về những điều người đó giải thích cho các ông. Người lạ đó nói với tất cả tấm lòng chân thành, yêu mến và chính tình yêu đó để lại trong tâm các môn đệ lòng yêu mến thiết tha. Chiều đến người lạ còn định đi tiếp nhưng các môn đệ tỏ í mời người lạ cư ngụ tại nhà các ông qua đêm. Điều này bao gồm cả việc đãi bữa cơm tối, chỗ ngủ và có lẽ bữa ăn sáng ngày hôm sau.

Các môn đệ nhận ra Đức Kitô Phục Sinh khi Ngài bẻ bánh. Thay vì được phục vụ nơi bàn tiệc, người xa lạ làm công việc của chủ nhà, chủ tiệc. Ngài cầm bánh trong tay, dâng lời chúc tụng, tạ ơn trước khi trao cho các ông. Việc làm trên nhắc các ông về bữa Tiệc Li Đức Kitô thực hiện trước khi chịu khổ hình. Đúng lúc đó các môn đệ nhận ra Đức Kitô, Ngài liền biến khỏi các ông. Lúc đó các ông mới nhận biết người xa lạ dọc đường, nói với tất cả tâm tình chính là Đức Kitô Phục Sinh dưới hình thức người đi đường. Dù sau một ngày vất vả, cực nhọc nhưng tâm tình các ông chan hoà lòng mến và tình yêu, ngay đêm đó các ông lên đường trở về nơi mà lúc sáng các ông dời bỏ, chạy trốn. Các ông trở lại nơi đó để báo tin vui cho các bạn hữu là các ông đã gặp lại Đức Kitô Phục Sinh và tin vui các người phụ nữ loan báo là tin thật bởi chính các ông đã gặp Ngài, được Ngài giảng dậy dọc đường và chính các ông chứng kiến việc Ngài bẻ bánh và biến khỏi mắt các ông. Câu chuyện trên đường Emmaus cho biết các môn đệ gặp Đức Kitô bởi tâm tình yêu mến Thiên Chúa và hành động bác ái của các ông. Hành động bác ái là cách Đức Kitô dùng để mở con mắt tâm linh, con mắt trong tâm hồn con người. Các ông thể hiện bác ái qua việc mời người lạ cùng chia xẻ tâm tình của mình. Các ông thực hiện bác ái bằng tâm tình lắng nghe, nghe một cách chân thành. Các ông thực hiện bác ái bằng việc mời người lạ trú ngụ qua đêm. Các ông thực hiện bác ái bằng việc cho kẻ đói ăn, khát uống, lạnh cho chăn ấm. Các ông thực hiện bác ái bằng lời nói thành thật và nhẹ nhàng, nhưng không kém phần sắc bén, quyết đoán, khi nói về người lãnh đạo lạm quyền và đối xử bất công.

Đức Kitô Phục Sinh nói với chúng ta qua tiếng nói của con tim yêu mến. Điều răn mới Đức Kitô truyền lại là điều răn yêu thương và điều này được cho miễn phí. Điều răn mới không phải bằng lời nói suông mà được thể hiện qua việc bác ái, yêu thương và lòng nhân dành cho tha nhân. Điều mà các môn đệ trên đường Emmaus thực hiện trong cuộc sống.

Câu chuyện trên cho biết thực phẩm, thức ăn, thức uống, ngôn ngữ, bác ái yêu thương gắn liền với cuộc sống. Chúng quan trọng cho cuộc sống trần gian và khi chúng ta dùng chúng một cách khôn ngoan chúng trở thành giá trị thiết thực cho cuộc sống tâm linh.

Về mục lục

.

HÀNH TRÌNH EMMAU

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Câu chuyên hai môn đệ trên đường đi Emmau thường được biểu trưng hành trình đức tin của Kitô hữu. Nói đến hành trình đức tin của Kitô hữu thì chúng không thể không nói đến một hành vi thờ phượng đỉnh cao trong Phụng Vụ là các buổi cử hành Thánh Thể hay còn gọi là Thánh Lễ. Dõi theo chân hai môn đệ năm xưa, xin được chia sẻ đôi tâm tình.

1. Các cơn giông tố hay nhũng thách đố của cuộc đời:

Hai môn đệ chán chường, mỏi mệt, rời Giêrusalem về quê cũ, Emmau. Thế là hết. Hết mọi hy vọng về một vương triều mới dưới sự lãnh đạo của Thầy Giêsu. Tất cả như vô vọng. Còn gì để mong khi xác Người đã nằm im bất động ngay trong huyệt lạnh. Một vài tin đồn khá giật gân từ miệng các phụ nữ. Ôi, phụ nữ! Ôi đàn bà! Thời nào chẳng vậy, từ không thành có cũng thường do các bà dựng nên. Chẳng còn lý do gì để lưu lại chốn kinh thành. Thôi đành về quê xưa, mang lại cảnh kiếp “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.

Hành trình đức tin Kitô hữu hôm nay và mọi thời, hẳn không thiếu những thì, những lúc, thấy mình chơi vơi, lạc hướng. Niềm tin đã nhiều lần chao đảo trước bao thử thách, cam go và cảnh hẩm hiu của số phận. Hình như Chúa bỏ tôi hay là Chúa có hiện hữu chăng? Nếu thực có Người và Người đang sống thì tình người sẽ không như thế và cuộc đời sẽ không như vậy. Bao ngang trái vẫn dẫy đầy. Người ngay gặp cảnh dữ, kẻ ác lại gặp vận may. Đâu phải là chuyện hoạ hiếm, mà trái lại, nó đang nhan nhãn thật khó chối cãi. Đôi lần và đã nhiều lần, bản thân tôi và cả bậc thánh nhân như muốn buông xuôi. Cứ mặc dòng đời trôi. Người ta sao, mình vậy. Anh hùng làm gì cho thiệt thân. Sao lại phải vất vả bơi ngược dòng cho khác người?

2. Tình yêu luôn cần đó một lời mời:

Một đôi khi đến Nhà Thờ nghe Lời Chúa, nghe giảng dạy, lòng cũng nóng lên như hai môn đệ đi Emmmau ngày nào. Quyết tâm ăn năn: không thiếu. Quyết tâm thay đổi: có nhiều. Nhưng rồi, ra khỏi Nhà Thờ, về với cuộc sống đời thường thì đâu lại hoàn đấy. Ánh sáng của Lời Chúa vừa le lói: “có qua đau khổ mới đến vinh quang” chợt vụt tắt. Hết lưỡng lự lại phân vân và rồi không thắng nổi cái sức ì của kiếp nhân sinh.

Ta có ngờ đâu, như xưa với hai môn đệ đi Emmau, Chúa Kitô Phục Sinh mãi đang đồng hành bên ta. Không nhận ra Người cũng là điều dễ hiểu. Tại mắt đức tin ta mờ tối hay lòng ta đang nặng trĩu muôn sự đời? Dẫu gì đi nữa thì Người chẳng để ta đơn côi. “Thầy ở lại với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Người vẫn đang đồng hành với ta khi vui cũng như lúc buồn, lúc chán chường cũng như khi hân hoan vui sướng. Người đang đợi ta. Người đang chờ ta. Tình yêu luôn mở ngõ với một lời mời.

3. Chuyện nghịch lý của tình yêu:

May thay, hai môn đệ đi Emmau đã mở lời nài ép người khách lạ vào quán trọ dùng bữa, qua đêm. Một nghĩa cử bình thường của tình nhân loại, thế thôi, nhưng cũng đủ thành duyên cớ để Chúa Kitô lưu lại cùng hai ngài và tái diễn các hành vi của Bữa Tiệc Thánh. Thiên Chúa chẳng hề bỏ qua một nghĩa cử nào của ta, dù là bé nhỏ, để bắt đầu một cuộc gặp gỡ. Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Ai mở cửa thì Ta sẽ vào dùng bữa với họ (x. Kh 3,20).

Chuyện nghịch lý đã xảy ra. Khi chủ mời khách dự tiệc đời thì khách lại trao ban cho chủ lương thực bởi trời. Vị khách lạ cầm lấy bánh bẻ ra, trao cho hai môn đệ. Khách chủ đổi ngôi. Tình yêu quả thật kỳ diệu. Chính khi trao ban là lúc lãnh nhận. Càng chia sẻ thì càng có thêm nhiều. Nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh là một hạnh phúc không gì so sánh.

4. Tình yêu là để thông chia chứ không phải để độc chiếm:

Vừa nhận ra Thầy Chí Thánh, Thầy vụt biến mất. Hạnh phúc là điều cần phải dệt xây chứ không phải để hưởng thụ. Ai càng cố nắm giữ thì sẽ mất. Hiểu được điều này, hai môn đệ vội vàng trở về Giêrusalem ngay giữa đêm khuya báo tin cho anh em. Tình yêu, hạnh phúc thúc bách ta cần chia sẻ, dù lúc trời nắng nhẹ hay giữa đêm khuya lạnh giá. Gặp gỡ, hiệp thông với đấng Phục Sinh để rồi chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã lãnh nhận.

Loan báo Tin Mừng là một hệ luận tất yếu của người đã nhận hồng ân, được cảm nhận Chúa Phục Sinh. Gian truân, bắt bớ, tù đày chẳng hề ngăn được bước chân các tông đồ, các môn đệ. Vừa được giải thoát khỏi tù ngục, các tông đồ đã lại hiên ngang rao giảng tại Đền Thờ (x.Cvtđ 5,17-26).

5. Thánh Lễ: một hành trình Emmau.

Người ta dễ dàng nhận ra bản trình thuật của Thánh Sử Luca về chuyện hai môn đệ đi làng Emmau được cấu trúc như tiến trình của Thánh Lễ gồm hai phần chính là Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể. Mỗi ngày đầu tuần tức là ngày Chúa Nhật, Kitô hữu tiên khởi quy tụ lại để họp mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Truyền thống của Hội Thánh từ xưa đến nay đều mừng Chúa Phục Sinh trong ngày Chúa Nhật, kể cả trong các mùa đặc biệt như mùa Vọng và mùa Chay.

Thật đẹp thay cứ mỗi tuần chúng ta họp nhau ít là một lần vào ngày Chúa Nhật để dâng lên Chúa mọi bao vui buồn sướng khổ của đời ta. Không một ai là khách lạ trong buổi cử hành Thánh Thể. Không một ai đến Nhà Thờ ngày Chúa chỉ vì luật buộc. Và ước gì không một ai đến họp mừng Chúa Phục Sinh với đôi bàn tay trắng trơn, khi họ không thực sự tham dự mà chỉ xem Lễ cách bàng quang, chiếu lệ.

Dâng lên Chúa trọn cuộc sống buồn vui và bao trăn trở của mình để rồi lắng nghe Chúa nói qua phần Phụng Vụ Lời Chúa. Xin đừng quên phần diễn giải Lời Chúa của giám mục, linh mục hay của thầy phó tế trong Thánh Lễ là một phần của Phụng vụ Lời Chúa. Ước gì tất cả mọi người không chỉ nói với Chúa và nghe Chúa nói mà còn được kết hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí tích Thánh Thể. Và rồi cái gì đến sẽ phải đến. Những bước chân của chúng ta sau khi ra khỏi Nhà Thờ sẽ là những bước chân trong hân hoan, sẵn sàng chia sẻ niềm vui, chia sẻ hồng ân mình đã lãnh nhận. Mong sao cứ mỗi lần ra khỏi Thánh đường, lòng chúng ta lại rộng mở hơn xưa, cho kẻ lạ cũng như người thân, cho người đạo hạnh cũng như kẻ bất nhân bạc tình. Nếu được vậy thì đó là một trong những dấu chỉ nói lên rằng ta đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh, Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân trần.

Về mục lục

.

ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 24,13-35

(13) Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem sáu mươi dặm. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. (15) Đang lúc trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. (8) Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”.  (19) Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy ?” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói: còn chính Người thì họ không thấy”. (25) Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ ! (26) Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? (27) Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. (28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó (34) Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” (35) Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

  1. Ý CHÍNH: CHÚA PHỤC SINH HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ LÀNG EM-MAU:

Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã hướng dẫn hai môn đệ về đức tin để họ từ tâm trạng chán nản và vấp ngã trước mầu nhiệm thập giá (18 và 21), đã tìm lại được niềm tin yêu vào mầu nhiệm Phục Sinh qua việc nghe lời Người giải thích Kinh Thánh (25-27.32), và được tham dự nghi thức Bẻ Bánh do chính Người thực hiện (30-31).

  1. CHÚ THÍCH:

– C 13-16: + Cùng ngày hôm ấy: Tức là ngày Thứ Nhất trong tuần. + Có hai người trong nhóm môn đệ: Hai môn đệ này thuộc nhóm 72 (x. Lc 10,1), không thuộc nhóm 12. Tin Mừng nhắc đến tên một trong hai ông là Cơ-lê-ô-pát (18). Còn ông thứ hai không được nêu tên và được suy đoán là chính Lu-ca, tác giả đã tường thuật câu chuyện này. + Làng Em-mau: Một nơi cách Giê-ru-sa-lem khoảng 11 km về phía Tây. Nhưng cho tới nay các nhà chú giải vẫn chưa xác định được vị trí của ngôi làng này. + Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra: Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán thất vọng, các ông vẫn bàn tán với nhau đang khi đi đường. + Chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ: Đức Giê-su Phục Sinh luôn yêu thương và quan tâm đến các môn đệ. Khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn nan giải, thì Người liền hiện đến để ban ơn nâng đỡ. + Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người: Bị ngăn cản có thể do tâm trạng buồn sầu thất vọng, nên không nghĩ người khách lạ kia lại có thể là Thầy Giê-su của họ. Cũng có thể do khuôn mặt Đức Giê-su Phục Sinh đã được biến dạng khác với khi còn sống. Trước đó vào sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la cũng đã không nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người hiện ra gần bên ngôi mộ đã an táng Người.

– C 17-18: + “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” : Chúa Phục Sinh chủ động bắt chuyện để các ông dễ dàng tâm sự những lo buồn chất chứa trong lòng. + Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem…: Các ông nghĩ đây là một khách hành hương đi lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua, và không quan tâm đến một biến cố lớn lao mới xảy ra trong thành mấy ngày qua.

– C 19-21: + Chuyện ông Giê-su Na-da-rét…: Cho đến lúc này, các môn đệ mới công nhận Đức Giê-su là Ngôn sứ có quyền lực trong lời rao giảng và các phép lạ đã làm. Các ông đi theo Người với hy vọng có được một địa vị trong Vương quốc của Người. + Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình: Sự kiện mới xảy ra đã làm các ông chán nản thất vọng: các nhà lãnh đạo dân Ít-ra-en đã nộp Người để quan Phi-la-tô kết án đóng đinh thập giá. Còn Thiên Chúa thì không làm gì để cứu vị Ngôn sứ của Người. Sự việc xảy ra tới nay đã sang ngày thứ ba rồi !

– C 22-24: + Cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi…: Tâm trạng của các ông vẫn hoang mang, dù mấy phụ nữ và các Tông đồ đã nhìn thấy mồ trống, và thiên thần hiện ra bảo rằng “Người vẫn còn sống”, nhưng riêng các ông này thì cho điều đó thật khó tin. Câu này cho thấy hai môn đệ này không phải thuộc loại người dễ tin. Do đó, một khi họ tin thì chắc đã phải có những bằng chứng xác đáng không thể phản bác được.

– C 25-27: + Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ !: Lời Chúa quở trách đức tin yếu kém của hai ông có hơi nặng nề, nhưng thực ra vẫn hàm chứa một tình cảm âu yếm. + Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?: Chúa Giê-su nhắc lại lời Người đã từng báo trước về số phận của Người trước đó: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; 17,25). + Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ…: Luật Mô-sê và sấm ngôn của các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Thánh Kinh Cựu Ước, đã làm chứng về con đường cứu thế mà Đức Giê-su đã chọn theo là: « Qua đau khổ vào trong vinh quang » (x. Lc 24,44 tt).

– C 28-31: + Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa: Thái độ giả vờ ở đây không phải là giả dối, nhưng là cách thử để xem phản ứng của các môn đệ, xem các ông có thực lòng muốn nghe và muốn Người ở lại hay không. Một đức tin chỉ có giá trị khi người tin tự nguyện mở lòng đón nhận, chứ không bị ép buộc. + Họ nài ép Người: Đây là thái độ hiếu khách quen thuộc của Người Pa-lét-tin (x. Lc 14,23). Chính Lời Chúa giải thích Kinh Thánh đã đánh tan những lo lắng bất an trong lòng hai môn đệ, nên các ông đã xin Người ở lại nhà các ông để có thể tiếp tục nói chuyện với các ông. + Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn: Đây là lời hai môn đệ mời vị khách lạ kia ở lại một cách khép léo tế nhị. Đây cũng là lời cầu nguyện tâm tình của các tín hữu muốn kết hiệp mật thiết với Chúa.

– C 32-31: + Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ: Khó có thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã truyền phép Thánh Thể như đã làm trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ở đây, Lu-ca cố ý dùng kiểu nói quen thuộc trong phụng vụ Thánh Thể (x. Lc 22,19). Đó là cử chỉ Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. 9,16), ám chỉ nghi lễ Bẻ Bánh (x. Cv 2,46; 20,7.11). Sau này mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu cũng được nghe lời Chúa giáo huấn và được tham dự bàn tiệc Thánh Thể giống như hai môn đệ làng Em-mau. + Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người: Tiến trình đức tin của các tín hữu cũng bắt đầu từ việc lắng nghe Lời Chúa, rồi tin theo Chúa và được thánh hóa nhờ tham dự bàn tiệc Thánh Thể như bà Ly-đi-a thời Giáo Hội sơ khai (x. Cv 24,13-15). + Nhưng Người lại biến mất: Từ đây Chúa Giê-su sẽ hiện diện cách thiêng liêng vô hình khi các tín hữu đọc Thánh Kinh, nghe lời giảng của các mục tử, tham dự thánh lễ hay phục vụ người nghèo…

– C 32-35: + Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?: Nhờ được nghe giảng Thánh Kinh, các môn đệ đã thấy được ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như một chặng đường Người phải trải qua để vào trong vinh quang phục sinh. + Ngay lúc ấy, họ đứng dậy…: Việc nhận ra Chúa Phục Sinh và lòng tin yêu Chúa đã biến đổi hai môn đệ từ chỗ thất vọng muốn buông xuôi, trở thành con người mới đầy phấn khởi và hy vọng. Tâm trạng ấy làm các ông hăng hái đi lại quãng đường dài 11 cây số trở về Giê-ru-sa-lem để báo tin vui cho các tông đồ và môn đệ khác. + Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon: Sự kiện Si-mon Phê-rô được Chúa Phục Sinh hiện ra trước các tông đồ khác đã được chính Chúa Giê-su tiên báo trước cuộc khổ nạn (x Lc 22,31-32) và sau này cũng được thánh Phao-lô nhắc đến trong thư Cô-rin-tô (x 1 Cr 15,5). + Thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường: Cuối cùng hai môn đệ làng Em-mau đã chia sẻ niềm vui Phục Sinh cho Nhóm Mười Một tông đồ và các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem.

  1. CÂU HỎI:

1) Hai môn đệ quê làng Em-mau kể trên thuộc nhóm 12 tông đồ hay nhóm 72 môn đệ ? Tên của các ông là gì ? 2) Tại sao hai môn đệ làng Em-mau và bà Ma-ri-a Mác-đa-la lại không nhận ra ngay người đang nói chuyện với mình là Chúa Phục Sinh? 3) Việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Em-mau nói lên điều gì về tình yêu của Người đối với các tín hữu chúng ta ? 4) Câu trả lời của hai môn đệ cho thấy đức tin của các ông về sứ mạng của Đức Giê-su thế nào ? Các ông đi theo Đức Giê-su nhằm mục đích gì ? Tại sao giờ đây các ông lại chán nản tuyệt vọng ? 5) Hai môn đệ này có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm sống lại của Chúa Giê-su không ? Tại sao ? 6) Chúa Giê-su trong vai khách bộ hành đã làm gì để củng cố đức tin còn non yếu của hai môn đệ ? 7) Chúa Giê-su giả vờ muốn đi xa hơn nhằm mục đích gì ? 8) Câu nào của hai môn đệ là lời cầu nguyện mẫu về lòng tin yêu Chúa cho các tín hữu chúng ta hôm nay ? 9) Hai môn đệ đã nhận ra người khách lạ chính là Thầy Giê-su Phục Sinh khi nào ? 10) Hai ông cho biết lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa tin yêu Chúa vào lúc nào ? 11) Điều gì khiến hai môn đệ nhiệt tình loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho người khác ?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Họ mới bảo nhau: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32)
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHÚA BỒNG TA TRÊN ĐÔI TAY CỦA NGƯỜI ?

Một người tân tòng sau khi theo đạo đã gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn: bệnh tật, rủi ro mất xe, mất tiền bạc… Anh đã nhiều lần xin Chúa cho tai qua nạn khỏi mà xem ra Chúa vẫn ngỏanh mặt làm ngơ khiến anh đâm ra chán nản và thôi không cầu nguyện và cũng không đến nhà thờ dự lễ nữa. Thế rồi một đêm kia, anh nằm mơ thấy mình đang đi bách bộ với Chúa Giê-su trên bãi biển. Anh quay nhìn ra sau thì thấy trên nền cát ướt có 4 dấu chân: hai dấu chân lớn của Chúa, và hai dấu chân nhỏ của anh. Khi gặp chỗ lởm chởm nhiều sỏi đá thì anh không thấy Chúa đi bên cạnh nữa. Quay lại nhìn thì anh chỉ thấy hai dấu chân trên cát của anh. Anh chán nản ngồi nghỉ mệt trên một tảng đá thì Chúa Giê-su lại hiện đến ngồi bên. Anh thắc mắc hỏi Người: “Lạy Chúa, vừa qua Chúa biến đi đâu để con phải một mình đương đầu với những khó khăn như vậy ?” Bấy giờ Chúa Giê-su mới âu yếm nhìn anh và nói: “Con hãy thử nhìn kỹ lại xem hai dấu chân trên cát kia là của ai ?” Lúc đó, anh ta mới nhìn kỹ và nhận ra đó hai dấu chân to là của Chúa Giê-su. Anh lại hỏi: “Lạy Chúa, thế thì dấu chân của con đâu ?” Chúa liền trả lời: “Con ơi, hãy nhớ rằng: Ta luôn ở bên con mọi giây phút trong cuộc đời con. Những khi con gặp phải sự gian nan thử thách thì đó là lúc Ta đang bồng con trên cánh tay Ta đó !”

2) CHÚA ĐẾN VỚI CHÚNG TA QUA THA NHÂN CẦN ĐƯỢC TRỢ GIÚP :

         Vào một buổi sáng cuối đông, bác thợ giầy thức dậy rất sớm dọn dẹp nhà cửa và cho thêm củi than vào lò sưởi để đón chờ khách quý là Chúa Giê-su. Người đã hiện ra với bác trong giấc mơ ban đêm và hứa sẽ đến nhà thăm bác vào ngày hôm sau. Khi ánh bình minh vừa ló rạng, thì bác thợ  giầy đã nghe thấy có tiếng gõ ngoài cửa. Tưởng là Chúa đã đến, bác liền vội ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đứng mặt bác không phải là Chúa Giê-su, mà là anh phát thư như mọi lần. Băng tuyết ngoài trời khiến mặt mũi và tay chân của anh ta đỏ lên như gấc. Bác thợ giầy cảm thông liền mời anh ta vào nhà ngồi bên lò sưởi và pha trà nóng mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đã nói lời cám ơn và từ giã đi lo công việc.  

Ít phứt sau, nhìn qua khung cửa kính, bác thấy một bé gái khoảng 7-8 tuổi đang co ro đứng trước cửa nhà khóc, bác liền ra hỏi thăm thì được biết em bị lạc mẹ ngoài chợ và đang tìm đường về nhà nhưng không tìm thấy đường vì tuyết rơi trắng xóa. Bác thợ giầy liền lấy bút viết vài chữ trên tờ giấy và gắn ngoài cửa nhà để thông báo cho Chúa Giê-su biết mình cần đi ra ngòai một lát. Nhưng tìm đường dẫn cô bé về nhà không đơn giản. Mất mấy tiếng đồng hồ bác mới tìm được nhà của đứa bé, và khi ra về thì trời đã xế chiều.

Về đến nhà, bác lại thấy có người đang ngồi đợi nhưng không phải là Chúa, mà là một bà mẹ trẻ gần nhà với vẻ mặt buồn bã. Chị cho biết đứa con nhỏ của chị đang lên cơn sốt ở nhà và chị chạy sang tìm bác để nhờ giúp đưa bé đi nhà thương. Bác thợ giầy liền hối hả theo chị về nhà giúp đưa cháu bé đến bệnh viện chăm sóc. Nửa đêm bác mới trở về nhà mình và nằm lăn ra giường ngủ quên cả việc ăn uống. Trong giấc mơ, bác thợ giầy đã nghe thấy tiếng Chúa Giê-su: « Hôm nay Ta cám ơn con đã sẵn sàng tiếp đón và cho Ta vào nhà để sưởi ấm và còn dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn Ta bị lạc có thể trở về nhà mình. Cám ơn con đã giúp đưa Ta đến bệnh viện để kịp thời thuốc thang chữa trị ». Thì ra hôm nay Chúa Giê-su đã giữ lời hứa đến thăm bác thợ giầy không phải một mà là ba lần. Người hiện thân qua những người cần được trợ giúp như Người đã nói: « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy » (Mt 25,40).

3) TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CHA TRÊN TRỜI :

Một sĩ quan công giáo, người Anh được sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu đến một nơi được chỉ định. Tầu rời bến được vài ngày thì biển động dữ dôi. Một cơn bão ập đến làm tầu có nguy cơ bị đắm.  Mọi người trên tầu hết sức sợ hãi. Bà vợ của vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả vì bà đã không tiếc lời trách móc chồng  đã đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất là khi thấy chồng vô tư chẳng mấy quan tâm.  Chính thái độ bình tâm này của chồng mà bà vợ  xem như là một biểu hiệu thiếu lo lắng, thông cảm, yêu thương đối với vợ con nên bà càng tức giận xỉ vả hơn.

          Trước tình thế khó xử đó, khi đã có đôi lời giãi bầy vắn tắt, viên sĩ quan rời căn phòng một lát rồi quay trở lại  với thanh kiếm tuốt trần trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại bên vợ và dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng cười lớn tiếng không chút gì nao núng cả.

 Viên sĩ quan hỏi :

– Làm sao mình có thể cười khi nhận thấy mũi kiếm sắp đâm vào ngực?

Bà vợ trả lời :

– Làm sao em lại phải sợ khi biết lưỡi kiếm ấy nằm trong tay một người thương yêu em.

Bấy giờ viên sĩ quan nghiêm giọng nói :

– Vậy tại sao em lại muốn anh sợ hãi cơn bão tố này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Chúa  là Đấng luôn luôn yêu thương anh ?

4) LỜI CHÚA PHÁN KHIẾN MỌI SÓNG GIÓ LIỀN YÊN LẶNG :

          Được thăng  giáo hoàng là một việc rất trọng đại. Khi Đức Pi-ô  XI đăng quang, sau khi thực hiện xong các lễ nghi rồi, ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của Đức Giáo hoàng trước ngài Bê-nê-dic-tô XV, thì tự nhiên ngài cảm thấy một mối lo âu ập xuống trên ngài, vì Giáo hội đang bị kẻ thù tấn công tư bề, Hội Thánh đang phải trải qua một giai đoạn thử thách mới : Tuy Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm dứt, nhưng Thế chiến Thứ Hai lại đang âm ỉ và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nghĩ đến những chuyện ấy, lòng Đức Pi-ô XI lại ngập tràn lo âu. Bấy giờ ngài qùi gối trước Thánh Giá và cầu nguyện sốt sắng. Đang lúc cầu nguyện, tự nhiên tay ngài chạm phải một tấm ảnh đặt trên bàn làm việc của Đức tiên giáo hoàng. Bấy giờ Đức Pi-ô liền cầm tấm ảnh lên xem và tự nhiên ngài thấy nỗi lo sợ trong lòng biến mất, và ngài lại cảm nghiệm được sự bình an trong tâm hồn. Đó là bức hình vẽ Chúa Giê-su đang đứng trên mũi thuyền và truyền cho sóng gió yên lặng. Từ ngày đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức hình ấy trên bàn làm việc, và mỗi khi gặp hoàn cảnh khó khăn không biết phải làm gì, Đức Pi-ô XI ngồi nhìn vào bức ảnh rồi cầu xin Chúa Giê-su hãy phán một lời, thế là mọi khó khăn đang gặp phải đều tự nhiên tan biến hết (W.J. Diamond- Đồng cỏ non).

  1. SUY NIỆM:          

1) Tâm trạng của hai môn đệ về làng Em-mau: 

         Đây là hai trong số 72 môn đệ của Đức Giê-su đã được Người sai từng hai người đi giảng đạo (x. Lc 10,1a). Hai ông đã đến Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Giờ đây đại lễ đã xong, hai ông quay trở về nhà riêng tại làng Em-mau. Một trong hai ông tên là Cờ-lê-ô-pát, còn người kia không được nêu tên, có thể là chính tác giả Lu-ca. Hai ông này vừa đi vừa trò chuyện với nhau với vẻ mặt buồn bã thất vọng. Sở dĩ họ mang tâm trạng như thế là vì mấy lý do như sau:

        – Một là vì Đức Giê-su « là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá » (Lc 24,19b-20). 

        – Hai là biến cố đau thương của Đức Giê-su đã xảy ra trái với ước vọng của các ông khi đi theo làm môn đệ của Thầy, khiến các ông hoàn toàn thất vọng muốn buông xuôi: « Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Nhưng các sự việc ấy đã xẩy ra đến nay là ngày thứ ba rồi » (Lc 24,21).

        2) Vai trò của Kinh Thánh và Phụng Vụ trong việc củng cố đức tin:

– Lời Kinh Thánh đã làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi lòng các ông: Trong vai một người khách bộ hành, Đức Giê-su đã « giải thích cho hai ông tất cả lời Thánh Kinh chỉ về Người ». Còn về “vụ ông Giê-su” thì sau khi lắng nghe quan điểm của hai ông về vụ án, về cuộc tử nạn, và việc Người bị treo trên thập giá, Đức Giê-su đã giải thích Kinh Thánh và khích lệ tinh thần của các ông như sau: ”Nào Đấng Ki-tô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang sao”? (Lc 24,26). Sau đó các ông đã nói với nhau : « Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32).

– Chính cử chỉ yêu thương đã mở mắt đức tin của các ông : Để được nhận biết tin yêu Chúa, đòi các môn đệ phải khao khát lắng nghe Lời Chúa qua lời cầu: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (Lc 24,29). Rồi chính bầu khí yêu thương giữa cộng đoàn đã mở mắt đức tin cho các ông, như Tin Mừng thuật lại: « Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất » (Lc 24,30-31).

        3) Vai trò của Tin, Cậy, Mến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng: 

Sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh thì Người lại biến mất. Chính lòng tin và lòng mến đã thúc bách hai môn đệ lập tức quay lại Giê-ru-sa-lem loan báo Tin Vui như Tin Mừng ghi nhận : « Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh (Lc 24,33-35).

4) Sống và chu toàn sứ vụ loan báo tin mừng Phục Sinh cho thế giới hôm nay:

– Trong cuộc sống, mỗi lần gặp thử thách, nhiều tín hữu thường nghĩ rằng: Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Chúa không còn quan tâm giúp đỡ mình nữa… và từ đó sinh ra chán nản, bỏ bê đọc kinh cầu nguyện, lười biếng dự lễ Chúa Nhật và có khi còn mê tín dị đoan: đi coi bói tóan, cậy nhờ thầy bùa thầy ngải…

– Lẽ ra chúng ta phải xác tín rằng: Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta. Không những Người ở bên chúng ta khi ta được bình an, mà ngay cả những lúc gặp gian nan khốn khó như bệnh tật tai nạn, chúng ta vẫn tin rằng Chúa đang đồng hành với chúng ta. Người luôn đi bên ta và sẵn sàng giơ tay trợ giúp và bồng ẵm ta trên tay nếu ta biết cậy trông vào Người, như « ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước và đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thi ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: Lạy Thầy xin cứu vớt con. Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi! » (Mt 14,29-31).  

– Nếu mỗi ngày chúng ta quyết tâm từ bỏ các thói hư như : tham lam, gian ác, ích kỷ, tự mãn cùng các đam mê tội lỗi khác, sẵn sàng vác thập giá là chu tòan các việc bổn phận của mình mà theo chân Chúa Giê-su, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc Nước Trời đời sau. Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.

– Mỗi người sẽ làm gì để noi gương hai môn đệ làng Em-mau, lập tức đi loan báo Tin Mừng cho tha nhân và phải loan báo thế nào để giúp họ dễ nhận biết tin yêu Chúa ?

  1. THẢO LUẬN: 1) Khi gặp một người lỡ đường xin tá túc ban đêm, chúng ta nên làm gì để vừa bảo đảm an toàn cho gia đình, vừa thực hành bác ái “Cho khách đỗ nhà” như kinh Thương Người đã dạy ? 2) Hát bài: Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn thiếu gì. Dù trời tăm tối, bước đi không lo lạc lối. Đường dù nguy nan, không chút vấn vương tâm hồn.
  2. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn rồi, vì lòng chúng con đang khao khát được nghe lời Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì đức tin chúng con mỏng dòn yếu đuối, rất cần được Chúa trợ giúp vượt qua khó khăn của cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì chúng con dễ sa chân lạc bước, hay chạy tìm kiếm thỏa mãn những đam mê bất chính, dễ chán nản buông xuôi khi gặp thử thách gian nan. Xin ở với chúng con, để chúng con thấy Chúa đang hiện diện nơi những người đau khổ và chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì khi gặp được Chúa, chúng con sẽ được ơn biến đổi cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì tâm hồn chúng con vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa.

– LẠY CHÚA. Hai môn đệ làng Em-mau đã sằn sàng đón tiếp một người khách lạ đang cần một bữa ăn tối và một chỗ nghỉ đêm. Chính nhờ lòng quảng đại ấy, mà hai ông đã nhận ra Chúa Phục Sinh, và được biến đổi nên vui tươi phấn khởi. Xin cho chúng con cũng biết quảng đại đi bước trước để làm quen với một người lạ đang bị đau khổ, cho chúng con biết sẵn sàng lắng nghe những tâm sự của họ và năng tham dự thánh lễ moi ngày. Nhờ được gặp Chúa, chắc chắn chúng con sẽ được ơn biến đổi trở nên người mới và chu toàn được sứ mệnh loan Tin Mừng cho tha nhân, như hai môn đệ làng Em-mau xưa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

EMMAUS

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Emmaus có thể xem như hành trình cuộc đời, đóng lại hay mở ra. Trên đỉnh của thất vọng là cánh cửa mở ra hy vọng và cũng có thể là cánh cửa khép lại trong tuyệt vọng. Cánh cửa mở ra, đó là hình ảnh của ngôi mộ Phục Sinh, tảng đá lăn ra khỏi mộ. Cánh cửa khép lại trong tuyệt vọng là chiếc hòm khóa kín bằng u mê, tự kết liễu chính mình,

Emmaus: con đường chán nản.

Hai môn đệ trên đường Emmaus, thất vọng trở về sau khi Chúa tử nạn, họ buồn bã kể lại cho nhau nghe những thổn thức ngày qua.

Không ai có thể nhốt mình, nếu mình không tự nhốt. Tự nhốt mình trong của cải xa hoa, trong những đám tiệc tốn kém, trong những vũ điệu cuồng say, trong những lối sống hưởng thụ. Tự nhốt mình trong những gian tham, cướp bóc. Tự nhốt mình trong cách thế độc tài, độc quyền. Sách Huấn ca nói về họ: “Của cải không lợi gì cho kẻ tiểu nhân, đối với con người đố kỵ, thì tài sản để làm gì? Tích luỹ mà vong thân là tích luỹ cho kẻ khác, người khác sẽ hưởng dùng của cải nó thu gom. Xấu với bản thân thì tốt với ai được? Ngay cả với tài sản của mình, nó cũng không được hưởng. Không ai tệ hơn kẻ làm hại chính mình, và đó là công trả cho sự gian ác của nó” (Hc 14, 3 – 6). Cái chết cũng là cánh cửa khép lại trong tuyệt vọng với chính họ. Bởi cái chết không mang theo được gì trong bình diện vật chất. Tinh thần có đem theo được thì toàn là những thứ rác rưởi của mưu mô, thù hằn, tính toán, cay nghiệt. Ra khỏi, đó là cách thức của con người thực sự đang sống. Đừng tự nhốt mình trong của cải hư vô, đó là hành vi xấu với chính mình.

Tự nhốt mình trong tay người khác, tự nhốt mình trong sự tùy thuộc vào người khác có quyền thế hơn, tự nhốt mình trong những thỏa hiệp với cái ác. Những trạng thái tự nhốt mình cho hay về sự nhược tiểu, ươn hèn, xu nịnh, luồn cúi, sống nhục. Sách tiên tri Isaia nói: “Khốn thay những đứa con phản nghịch, sấm ngôn của Đức  Chúa! Chúng thực hiện kế hoạch, nhưng không phải của Ta, chúng ký kết thoả hiệp, nhưng không theo thần khí của Ta, cứ chồng chất tội này lên tội khác. Chúng đâu thỉnh ý Ta khi lên đường đi xuống Ai-cập tìm sự che chở của Pha-ra-ô, và núp bóng Ai-cập. Nhưng sự che chở của Pha-ra-ô sẽ khiến các ngươi phải thẹn thùng, và việc ẩn núp dưới bóng Ai-cập sẽ làm cho các ngươi phải nhuốc hổ.” (Is 30, 1- 3). Ai cũng biết, chính mỗi người cần giải quyết vấn đề của mình, người khác chỉ cho lời khuyên, trợ giúp. Nếu không tự giúp mình thì trời cũng không giúp. Đừng dựa vào cành cây, cành cây sẽ gẫy, đừng dựa vào con người, con người sẽ chết, chỉ dựa vào một mình Thiên Chúa “Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Rm 10, 11).

Đau khổ do thiên tai, bệnh tật, rắc rối từ nơi không mong muốn. Con người không thể tránh hết mọi đau khổ ở trong cuộc đời. Thiên tai, mắc bệnh ác tính như các vùng sống trong chất thải nhiễm độc, trong những thực phẩm không an toàn…Biết nhưng vẫn phải sống vẫn phải dùng. Đau khổ đến, sẽ đến nhưng đừng tuyệt vọng. Thất vọng trong đau khổ như ông Gióp nhưng ông vẫn không ngừng hy vọng. Bài học đến từ Thiên Chúa, ra khỏi mồ thật không dễ chịu: “Thiên Chúa dùng cái nghèo để giải thoát người nghèo, dùng khổ đau mà mở mắt họ.” (Giop 36 , 15).

Emmaus: Thánh Thể, niềm vui cuộc sống.

Ở đình cao của thất vọng là hy vọng, cũng như trên đỉnh mủa Đông lạnh gía là mùa Xuân ló dạng. Không có sầu tuyệt vọng mà chỉ có niềm hy vọng được thắp lên.

Niềm hy vọng ở Bí Tích Thánh Thể: Hai môn đệ nhận ra Chúa khi bẻ bánh; (Lc 24, 30 – 31) và các môn đệ cũng nhận ra Người “Cầm lấy và ăn trước mặt các ông.” (Lc 24, 43). Thánh lễ mỗi ngày đều được cử hành, con người có thể tìm thấy chính Chúa trong mọi biến cố cuộc đời mình, để tìm ra câu giải đáp. Thiên Chúa chờ đợi để lắng nghe và chính con người cũng cần lắng nghe Thiên Chúa nói:

“Vì sức mạnh của Ngài không dựa vào số đông, quyền lực của Ngài chẳng ở nơi người mạnh thế. Nhưng Ngài là Thiên Chúa của kẻ khiêm nhu, là Đấng cứu giúp người hèn mọn, Đấng đỡ nâng kẻ cô thế, Đấng bảo vệ người bị bỏ rơi, Đấng Cứu Tinh của những ai thất vọng.” (Giuđitha 9, 11)

“Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề.  Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34, 19 – 20).

“Nếu con lỡ rút gươm đe bạn, đừng thất vọng: vẫn có thể hàn gắn. Nếu con lỡ nặng lời với bạn, đừng lo sợ: con có thể giải hoà.” (Hc 22, 21 – 22)

“Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng;4 ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy.5 Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5, 4 – 5)

Trong mọi hoàn cảnh, con người đều có thể gặp Chúa trong Lời của Người. Dùng Lời Chúa để là chìa khóa mở những cái mồ của con người, bởi chính Lời Chúa là sức mạnh mở cửa mồ để con người bước ra. Đó sẽ là những hành vi tích cực để không tự nhốt mình.

Thánh Thể đón lấy là chính Chúa, Chúa chờ đợi con người, muốn yêu và được yêu. Vừa là chủ động và là bị đông, Tình Yêu của tuyệt đối là như thế, đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả, hy sinh tất cả và tha thứ tất cả. Tất cả đều cử hành trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Người.

Năng tham dự bí tích Thánh Thể sẽ củng cố con người trong nghị lực, sống tươi vui và dồi dào phong phú hơn. Chính Chúa nói với con người: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10)

Mỗi người đang hành trình trên đường Emmaus. Con đường ấy dẫn đến niềm vui khi gặp được Chúa và mời Người ở lại. Trong hành vi thiện chí của con người, hòn đá cửa mộ được lăn ra và Thiên Chúa bước vào. Con người sẽ chết trong ngôi mộ chính mình khi tự ý khóa lại. Chọn lựa của con người, cần suy nghĩ  mỗi khi hành động: đóng vào hay mở ra.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta có thể nhận ra thái độ và tâm tình buồn thảm và thất vọng và của các môn đệ sau cái chết của Chúa Giê-su, Thầy của mình.  Vì sau 3 năm khổ cực theo Chúa với hy vọng sẽ hưởng được vinh quang đã hoàn toàn biến mất sau cái chết khổ nhục của Chúa trên thập giá. Thập giá đã kết liễu cuộc đời đầy hứa hẹn của Thầy, thập giá đã chôn vùi mọi hy vọng và niềm mong đợi trong lòng của họ. Mọi sự đã sụp đổ và tiêu tan hoàn toàn.  Cũng như tâm trạng của mỗi người chúng ta khi đối diện với cái chết của người thân yêu, đó là chết là hết.  Chết thì không còn gì nữa trong trần gian này. Sự nghiệp của một người thường chấm dứt khi người ấy nhắm mắt xuôi tay. Giả như người ấy sống bác ái, quảng đại hay có những sự nghiệp tinh thần lớn lao và quan trọng, thì may ra còn để lại chút ý nghĩa hay ảnh hưởng nào đó cho những người còn sống.
Thế nhưng có lẽ các môn đệ và những người yêu mến Chúa vẫn còn mang một tia hy vọng mỏng manh vào lời Chúa tuyên bố trước đây là Người sẽ sống lại.  Tin mừng cho chúng ta biết vào sáng sớm ngày Chúa nhật đầu tiên sau khi Chúa chết, mấy người phụ nữ đã đến viếng mộ Chúa, họ không thấy xác Chúa, và họ quả quyết Chúa đã hiện ra với họ.  Đó là những điều đang làm các môn đệ của Chúa băn khoăn suy nghĩ, cụ thể là hai môn đệ mà bài Tin Mừng hôm nay kể lại.  Hai ông vừa buồn, vừa sợ hãi và thất vọng, vì thế các ông quyết định bỏ Giêrusalem trở về quê cũ, nhưng trên con đường về làng Em-mau, Chúa Giêsu đã hiện ra cùng đồng hành với hai ông và trò chuyện với hai ông. Chúng ta thấy, lúc đầu hai ông chưa nhận ra đó là Chúa Giêsu phục sinh mà chỉ tưởng là một người bộ hành nào đó tình cờ gặp trên đường, nên các ông mời ghé lại quán bên đường dùng cơm và tiếp tục câu chuyện. Vào quán, khi dùng bữa, Chúa Giêsu phải dùng đến những cử chỉ quen thuộc, cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng Thiên Chúa, bẻ ra và trao cho hai ông, lúc ấy hai ông mới sáng mắt nhận ra Ngài. Nhưng khi vừa nhận ra thì Chúa Giêsu biến mất. Các ông vui mừng quay trở lại Giêrusalem để báo cho các bạn khác biết Chúa Giêsu đã sống lại thật rồi.
Ông bà anh chị em thân mến.  Câu chuyện hai môn đệ đi về làng Em-mau cũng là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng đi theo Chúa Giêsu, cũng đã tin vào Người. Trong biết bao năm tháng, chúng ta đã nghe những lời Chúa giảng dạy, nhưng cũng như các môn đệ, nhiều khi chúng ta chán nản hay thất vọng vì điều chúng ta trông mong ước, hay điều chúng ta cầu xin, nhiều khi rất thiết tha, nhưng cầu mãi, trông hoài mà vẫn chưa được.  Chúng ta lâm cảnh đau đớn vì bệnh hoạn, gia đình không hòa thuận, con cái khó dạy bảo, công việc không thành công hay như chúng ta mong muốn  Những tình cảnh đó làm cho chúng ta chán, chúng ta buồn, chúng ta khổ, đủ thứ cả, thế mà nghe giảng, tham dự tĩnh tâm, cầu nguyện cũng không đem lại cho chúng ta hy vọng gì hơn, giống như hai môn đệ nói : “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en, nhưng việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.”  Đợi cho đến ngày thứ ba, hai ông đâm ra thất vọng. Cũng thế, chúng ta đợi, chúng ta chờ, có khi đã hơn ba ngày, ba tuần, ba tháng, ba năm mà vẫn không thấy gì, chúng ta đâm ra thất vọng, chán nản, phàn nàn.  Nhiều khi chúng ta đổ lỗi cho người này, người kia, cho linh mục này, linh mục kia, kêu trách Chúa, thậm chí có người còn ra điều kiện với Chúa hoặc bỏ Chúa.
Nhưng cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta hãy bắt chước hai môn đệ này như hai ông đã thưa với Chúa: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi.”  Và hãy xin Chúa: “Xin Chúa luôn ở lại với con trên đường đời đầy đau buồn, chông gai và gian khổ này. Xin Chúa ở lại với con trong cái xã hội đầy tội ác, nhiều hận thù và ganh ghét, còn muốn đóng đinh Chúa nữa này. Xin Chúa lưu lại đây với con để dạy con biết chết đi những tính hư nết xấu, lòng ích kỷ, tham lam và lười biếng, và được biến đổi trở nên như những Kitô hữu chính thật, để con có lòng xác tín, yêu mến Chúa hết sức, hết trí khôn và hết tâm hồn của con, và được sống mật thiết trong ân sủng của Chúa.”  Trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, chúng ta không bao giờ chán nản và thất vọng, vì biết rằng Thiên Chúa là Đấng toàn năng, là Cha nhân từ thương yêu chúng ta vô cùng, và luôn có những việc lạ lùng và bất ngờ cho chúng ta. 

Tin mừng cho chúng ta thấy các môn đệ có biết đâu trên cuộc hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng đồng hành, chú ý từng tâm sự, từng nỗi lo âu nhỏ to của các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông.  Điều đó cho chúng ta vửng niềm tin Đấng Phục sinh vẫn hiện diện bên chúng ta. Nhưng cách hiện diện của Người hoàn toàn mới lạ, khác với cách hiện diện thông thường mà con mắt thể xác của chúng ta có thể nhìn thấy được. Chỉ đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng, tâm trí các ông được Người khai mở, nhận ra và tin Thầy của các ông đã thực sự sống lại.  Vì thế, các ông không một chút nghi ngờ vị khách đồng hành, người đã giảng dạy Kinh thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục sinh. Tâm hồn các ông lúc đó tràn ngập niềm vui mừng vì được gặp Chúa Phục sinh, khiến cho các ông lập tức lên đường trở về Giêrusalem, báo và làm chứng cho các môn đệ khác Thầy đã sống lại như đã tuyên bố.  Những bước chân nặng nề, chán chường và cô đơn trước đó đã được thay thế bằng những bước chân vui mừng, hớn hở và hạnh phúc.  Kể từ đó, Tin mừng Phục sinh đã theo dấu chân của các ông lan rộng khắp hoàn cầu.

Ông bà anh chị em thân mến.  Như hai môn đệ trên đường Emmau,và trong bất cứ tình cảnh nào, người Kitô hôm nay cũng phải mang trong mình sự vui mừng, hân hoan và hy vọng trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế này.  Câu chuyện Emmau giúp mỗi người chúng ta nhận ra điều này: bất luận chúng ta là ai và đang sống trong bất cứ hoàn cảnh như thế nào, đều có sự hiện diện, có sự “quan sát” và có sự đồng hành của Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh. Đặc biệt Chúa đang hiện diện với tất cả chúng ta trong Bí tích Thánh thể mà chúng ta đang cử hành.  Xin Chúa cũng sẽ đi cùng với chúng ta về gia đình và cuộc sống hàng ngày.

Về mục lục

.