Các bài suy niệm Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm B – Khánh nhật Truyền giáo

1975

Mục lục

1. Đấng chữa lành (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Khôn hay khờ  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Chết đến nơi rồi  (Lm. Thái Nguyên)

4. Niềm trông đợi của người môn đệ (Jorathe Nắng Tím)

5. Hãy cúi xuống phục vụ (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

6. Lãnh đạo như Chúa Giêsu(Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ)

7. Lừng danh  (Lm. Vũ Đình Tường)

8. Chỗ đứng của người  môn đệ  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

9. Thuật lãnh đạo  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

10. Vấn đề phục vụ  (Trầm Thiên Thu)

11. Hy tế  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

12. Chuyện hai anh em nhà Dêbêđê (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Năm 2018

Mục lục

1. Người trẻ và sứ vụ loan báo Tin mừng  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Chúa sai tôi đi  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Truyền giáo nhờ quyền năng Chúa  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Phục vụ trong yêu thương (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Giá chuộc tình yêu (Lm. Hoàng Kim Toan)

6. Cùng người trẻ loan báo Tin mừng  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Giới trẻ dấn thân truyền giáo  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Truyền giáo hay rao giảng Tin mừng  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Danh vọng  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Suy niệm Chúa Nhật 29 Thường niên_B  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

11. Vị đắng cuộc đời  (Trầm Thiên Thu)

12. Quyền hành để phục vụ (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

13. Muốn làm lớn, phải phục vụ như đầy tớ  (Lm. Trần Bình Trọng)

14. Đưa người anh em lưu lạc về nhà Cha (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

15. Ngôn sứ hay tiên tri? (JM. Lam Thy, ĐVD)

16. Muốn làm đầu phải hầu thiên hạ  (Lm. Đan Vinh)

17. Có Chúa ở cùng  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

18. Khánh nhật truyền giáo  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

19. Chúa Nhật truyền giáo (Lm. Gioakim Nguyễn Đức Vinh)

20. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 29 Thường niên_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

21. Làm đầy tớ  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

22. Chúng ta hãy đem Tin mừng cho hết mọi người (Lm. Giuse Nguyễn)

23. Khánh nhật truyền giáo.  (Jorathe Nắng Tím)

24. Họa – Phúc  (Lm. Thái Sơn)

 

Năm 2015

Mục lục

1. Hiến mình vì yêu thương  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Hãy loan báo Tin mừng  (Tgm. Ngô Quang Kiệt)

3. Tinh thần truyền giáo  (Gm. Giuse Vũ Duy Thống, Gp. Phan Thiết)

4. Tin mừng cho người ngoại biên  (Gm. GB. Bùi Tuần)

5. Truyền giáo bằng cách sống  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

6. Nhớ Thầy (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

7. Cầu nguyện và giúp đỡ công việc truyền giáo  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

8. Mơ ước Thiên đàng hay chiêm ngắm Đức Kitô Thập giá (Lm.Gioan Nguyễn V.Ty)

9. Chúa Nhật 29 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

10. Chuyện phục vụ  (Trầm Thiên Thu)

11. Khánh nhật truyền giáo  (Lm. GB. Văn Hào)

12. Tinh thần truyền giáo-  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

13. Loan báo Tin mừng trong xã hội hôm nay  (Lm. Đan Vinh – HHTM)

.

ĐẤNG CHỮA LÀNH

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 (Ngày Giáo Hội Việt Nam cầu xin cho đại dịch chấm dứt – 17/10/2021)

Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước đều mạc khải cho chúng ta thấy dung mạo của Thiên Chúa là Đấng Chữa Lành. Có những người được Chúa chữa lành sau một thời bị trừng phạt do tội lỗi của họ, như trường hợp bà Myriam là em gái của ông Môisen (x Dân số 12,1-1). Có trường hợp Chúa chữa lành sau một thời gian dài bị thử thách đến mức đau khổ cùng cực, như trường hợp ông Gióp. Thiên Chúa chữa lành những cá nhân. Ngài cũng chữa lành cả một tập thể, như trường hợp người Do Thái trong hành trình sa mạc bị rắn lửa cắn (Ds 21,4-19). Đức Giêsu là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Người đã đến trần gian như một vị Lang Y chữa lành con người về tinh thần cũng như thể xác. Các tác giả Phúc Âm đều trình bày với chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa bệnh. Người chữa đủ mọi chứng bệnh mà người dân đem đến. Người cũng đến những nơi bệnh nhân tập trung như bên bờ hồ, ở đó có người đã bệnh 38 năm được Chúa chữa (x. Ga 5,1-16) Người phá mọi rào cản thành kiến để gặp những người cùi và chữa cho họ lành, đồng thời giúp họ hoà nhập cuộc sống bình thường, xứng với phẩm giá con người. Người cũng tiếp xúc và lắng nghe nỗi lòng của những cô gái làng chơi, những người thu thuế, để quy phục nhân tâm và giúp họ chỗi dậy khỏi vũng bùn tội lỗi. Cùng với việc loan báo Tin Mừng giải thoát, Chúa Giêsu chữa lành những thương tổn hồn xác, giúp họ tìm được niềm vui và an bình.

Chúa nhật 17-10 năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã kêu gọi toàn thể mọi tín hữu cầu nguyện cho đại dịch Covid-19 mau chấm dứt. Đã gần 2 năm, kể từ khi đại dịch bùng phát ở Vũ Hán (Trung Quốc), con virus nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thể thấy, đã làm cho cả thế giới điêu đứng hoang mang. Đại dịch này đã nhanh chóng lan rộng trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, cướp đi sinh mạng của gần sáu triệu người. Tại Việt Nam chúng ta, đã có trên 20 ngàn người chết vì Covid-19 (theo thống kê đầu tháng 10-2021). Không thể kể hết những hệ luỵ tiêu cực do dịch bệnh gây ra, trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, gia đình và cả tôn giáo. Trước sự tàn phá của đại dịch, nhiều người đã đặt ra những vấn nạn. Có người cho rằng đây là hình phạt của Thượng Đế. Người khác lại dựa vào những đau khổ hiện tại để phủ nhận Thiên Chúa. Họ cho rằng, nếu Thiên Chúa hiện hữu thì Ngài phải xót thương nhân loại cùng khổ. Không lẽ Ngài dửng dưng trước nỗi thống khổ của con người. Không chỉ lương dân, mà một số tín hữu cũng băn khoăn khi chứng kiến và gánh chịu hậu quả của đại dịch.

Trước hết, chúng ta khẳng định, đại dịch và những sự dữ không phải là hình phạt của Thiên Chúa. Bản chất của Chúa là tốt lành và thánh thiện. Nếu Ngài trừng phạt con người, thì hành động của Ngài sẽ trái nghịch với bản chất. Sự dữ là do con người gây nên, ví dụ: tai nạn giao thông do bia rượu hoặc bất tuân luật lệ giao thông; tàn phá thiên nhiên gây bão lụt và tác hại đến môi trường; lòng tham và giận dữ gây nên tội trộm cắp giết người. Cũng có khi sự dữ không do con người mà đến từ những hiện tượng thiên nhiên như động đất, sóng thần.

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Đức tin Công giáo khẳng định với chúng ta điều đó. Nhưng nếu chữa lành là một ưu phẩm của Thiên Chúa, thì đó không phải là ưu phẩm duy nhất của Ngài. Nói cách khác, Ngài không phải là một lang y hay một bác sĩ chuyên chữa bệnh. Nhiệm vụ chính của lang y và bác sĩ là chữa bệnh. Nếu lang y và bác sĩ nào không chữa được bệnh thì uy tín của họ sẽ bị giảm dần và có thể mất đi. Thiên Chúa là Đấng Chữa Lành tâm hồn và thể xác, nhưng Ngài cũng là Đấng Cứu Độ, Đấng giải phóng con người khỏi ách giam cầm của quyền lực sự ác và dẫn đưa con người đến sự thánh thiện hoàn hảo. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu, chữa lành con người qua Bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Hiệu quả của Bí tích này là xin Chúa chữa lành những tổn thương linh hồn và thân xác, để họ thêm sức mạnh và khỏi bệnh, và nếu đã đến lúc họ kết thúc cuộc sống dương thế, thì được vững vàng cậy trông và ra đi trong an vui thanh thản.

Hơn nữa, vẫn biết rằng xin ơn chữa lành là một phần của lời cầu nguyện Kitô giáo, nhưng mục đích của đời sống Kitô hữu không phải để được chữa lành mà thôi. Vì nếu như vậy, thì những ai tin Chúa sẽ không bao giờ phải chết. Ông Lagiarô được Chúa cho sống lại, nhưng rồi ông cũng phải chết. Chàng thanh niên con duy nhất của bà goá thành Na-im cũng vậy (x. Lc 7,11-17). Khi một người lâm bệnh, bản thân đương sự và người thân cầu nguyện với Chúa, để, nếu Ngài muốn, thì Ngài chữa lành. Tuy vậy, con người đã có ngày khởi đầu cuộc sống ở trần gian, thì cũng có ngày phải ra khỏi trần gian này. Đau khổ và sự chết gắn liền với thân phận của con người. Vì vậy, người ta gọi cuộc đời này là “cõi tạm”, là “hành trình dương thế”. Dựa vào giáo huấn của Chúa Giêsu, Giáo Hội Công giáo dạy rằng: cái chết là một sự biết chuyển, là một cuộc khởi hành mới, vì “chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”.  Như thế, mục đích của đời sống Kitô hữu còn là để được cứu độ. Thiên Chúa là Đấng Cứu độ và Ngài cứu chúng ta với tất cả con người chúng ta. Thiên Chúa cứu chữa con người cách triệt để chứ không chỉ giải quyết những tình huống nhất thời mà thôi. Đôi khi sự dữ lại là dịp để chúng ta rút ra những bài học cần thiết để nên tốt hơn.

Đã gần 2 năm, Đức Thánh Cha và cả Giáo Hội Công giáo cầu nguyện cho đại dịch chấm dứt. Đặc biệt, tại quảng trường Thánh Phêrô, vào buổi chiều ngày thứ Sáu, 27-3-2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cầu nguyện trong một khung cảnh trầm buồn sâu lắng và hết sức cảm động, xin Chúa thương xót nhân loại. Dù đã cầu nguyện hết sức, dịch bệnh vẫn lan rộng. Trước hiện tượng này, nhiều người đặt câu hỏi: phải chăng Chúa không nhận lời chúng ta cầu nguyện và như thế thì cầu nguyện là vô ích. Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong bài huấn từ của Đức Thánh Cha trong buổi cầu nguyện vừa nêu: Nhân loại đang đi trên một chiếc thuyền, giống như các môn đệ đi trên chiếc thuyền ở biển hồ Galilê. Sóng gió bão táp nổi lên làm mọi người lo sợ. Chính lúc đó, Chúa Giêsu đang tựa gối mà ngủ. Các môn đệ trách Chúa: chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao? (x. Mc 4,35-41). Trước sự dữ do đại dịch gây ra, cũng có người trách Chúa như vậy. Chúa đã quở các môn đệ: sao kém lòng tin! và Người đã ra lệnh cho bão táp phải dừng. Chúa có chương trình của Ngài. Ngài hành động theo ý Ngài muốn, vào lúc Ngài muốn và với phương pháp Ngài muốn. Lịch sử đã chứng minh điều ấy. Vì vậy, lời cầu nguyện không bao giờ vô ích. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy và hãy gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Chúng ta hãy xin Chúa đoái thương nhân loại khổ đau, hãy tìm sự công chính và gõ cửa lòng thương xót của Chúa.

Đại dịch gây nên nhiều đau khổ cho cá nhân cũng như cho cộng đoàn. Đại dịch cũng là lúc chúng ta chứng kiến những nghĩa cử bác ái chia sẻ tuyệt vời! không phân biệt tôn giáo, vùng miền, tình nghĩa đồng bào đã vượt lên trên tất cả. Giữa đau thương của đại dịch, chúng ta được nghe những “câu chuyện cổ tích” của thời đại. Với lăng kính Đức tin, người tín hữu còn nhìn thấy ở đó chính là những phép lạ Chúa làm qua những tấm lòng nhân ái của người Việt Nam đối với đồng bào.

Hôm nay, tại tất cả nhà thờ ở Việt Nam, chúng ta đều dâng thánh lễ cầu nguyện, chúng ta tin rằng lời cầu xin tha thiết của chúng ta sẽ chạm đến trời cao, và quê hương của chúng ta sẽ sớm trở lại an bình, trẻ em lại được đi học, công nhân được đến xưởng, người nông dân tiếp tục ra đồng, niềm vui và hạnh phúc sẽ trở lại với chúng ta.

Về mục lục

KHÔN HAY KHỜ

Lm. Jos DĐH.

Không cần phải nhiều kiến thức, chúng ta vẫn hiểu: ăn trên ngồi trốc, là câu thành ngữ nói đến kẻ quyền thế, đối tượng mà xã hội thường né tránh, vì sợ, vì ngại va chạm, lỡ lời có thể: không phải đầu cũng phải tai. Dù không có ý khinh khi người nghèo kẻ khờ, xã hội vẫn xem họ thấp kém, cũng vì danh dự nên mới có câu: làm người có thể nghèo, có thể xấu, có thể hôi, bẩn, hay bất tài, nhưng tuyệt đối không được hèn. Cũng trong cách nói đó: khôn chẳng có tiền, khôn ấy dại; dại có uy quyền, ấy dại khôn ! Con người tự nhiên là mơ ước giầu sang địa vị, túng nghèo, hèn hạ, dẫn đến buồn chán, là sự thật. Dù chỉ bình thường, cha ông ta vẫn biết khuyên con cháu: mọi cố gắng sẽ được đáp đền, hãy chuyên chăm học học tập, để xây dựng tương lai mang tên mình.

“Thưa Thầy, xin cho hai anh em con, một đứa ngồi bên hữu một đứa ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Có phải vừa khôn vừa lanh, nên hai anh em họ đã biết “thủ thỉ”, xin Thầy hai vị trí đặc biệt trong nước trời ? Chắc không phải vì trâu chậm uống nước đục, không phải vì khờ hay chậm, 10 anh học trò kia để vụt mất ước mơ chỗ nhất cho nhì khi Thầy được vinh quang ? Thực ra, mang thân phận người đầy giới hạn, 12 vị chài lưới năm xưa, đã phản ánh đúng thực chất là các ông khôn theo đường lối thế gian, các ông khờ do chưa có khái niệm gì về hạnh phúc thật trong nước Chúa. Qua 21 thế kỷ rồi, người tín hữu chúng ta vẫn đang “nhỏ to” với Thầy Giêsu: xin cho con học giỏi, xin cho con được trúng vé số, xin gia đình con làm ăn phát đạt … Đức Giêsu đang nhắc lại điều quan trọng: các ngươi có uống chén Thầy sắp uống, có chịu phép rửa Thầy sắp chịu không ?

Khôn là biết theo Thầy, khôn là biết hiệp thông với chén Thầy uống, liên đới với phép rửa Thầy sắp chịu, và trở nên khờ dại trước những ảo ảnh thế gian, đó là điều căn bản, khi người tín hữu muốn ở bên Thầy Giêsu trong nước của Ngài. Khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương, dại là chỉ lo tìm danh lợi thú ở đời này, khôn là biết cậy trông vào sức mạnh của Thầy Giêsu. Khôn là biết trở nên nhỏ bé trước anh chị em mình, dại là tìm thoả mãn dục vọng, bắt người khác hầu hạ mình. Đức Khổng Tử dạy các học trò: người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người. Là học trò Đức Giêsu, chúng ta không những phải biết tự lo cho mình, ngoài ra còn có bổn phận phải giúp đỡ anh chị em xung quanh mình. Vì chưng, “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hy sinh mạng sống mình”.

Khôn ăn người, dại người ăn. Khôn làm cột cái, dại làm cột con.  Khuynh hướng tự nhiên, ai cũng muốn khôn, muốn giầu sang chức trọng, ví như quy luật ngầm, kẻ nghèo hèn phải phục vụ hầu hạ giai cấp thượng lưu. Tìm kiếm vị trí trong xã hội, người ta cũng muốn có luôn chỗ nhất chỗ nhì trong Nước Chúa. Người ta xin làm lớn, xin chức quyền ở đời này, đời sau hy vọng vẫn có kẻ hầu hạ mình. Đức Giêsu đã thẳng thắn với Giacôbê và Gioan: “các ngươi không biết điều các ngươi xin…”. Vâng, ở đời người ta vẫn nói: hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra bóc trần ai cũng như ai. (ca dao). Ở trong tình liên đới hiệp thông với Đức Giêsu, người tín hữu kitô chắc chắn phải được thấm nhuần giáo huấn yêu thương và phục vụ.

Khôn hay khờ, giỏi hay dại, thông thái hay hèn kém, tất cả đều dừng lại khi nhắm mắt xuôi tay, giầu nghèo, cùng đinh hay quý tộc, cũng phôi phai theo thời gian. Ngồi bên tả bên hữu, có vị trí nhất nhì khi Thầy được vinh quang, Đức Giêsu không coi đó là vấn đề chính, hãy uống chén đắng, hãy chịu phép rửa với Thầy, đó là điều cần thiết. Theo Thầy Giêsu làm môn đệ, một quá trình vừa học vừa hành, dù là gia trưởng hiền mẫu, là tu sĩ, giáo sĩ, ai cũng có cơ hội để thông phần cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô. Ở đời này, ta có thể chậm hay khờ, có thể nghèo hoặc đen đủi xấu xí, chẳng phải do thân phận bọt bèo mà Chúa quên, Chúa không cho hưởng hạnh phúc đời đời. Phần thưởng cao quý ở thiên quốc, không hệ tại nhà giầu hay con quan, mà tuỳ thuộc cách sống của mỗi người.

Khôn hay khờ, ngồi ghế nhất hay ghế nhì, đúng là vinh dự cho bản thân, gia đình, dòng tộc, nơi cuộc sống này. Đội cũng vào chợ, gánh cũng vào chợ, có chức quyền, hoặc chỉ là dân đen, đều được mời gọi theo Đức Giêsu đi hết hành trình đời người, khi ta uống chén Thầy uống, chịu phép rửa Thầy chịu. Nhân loại sẽ không lý giải được, tại sao có người giầu ăn không hết, có người lần chẳng ra ? Tại sao có kẻ khôn người khờ, tại sao có kẻ tài giỏi, sung túc, nhưng họ không hạnh phúc ? Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta: uống chén Thầy uống, chịu phép rửa Thầy chịu, chính là chiếc chìa khoá mở ra những nút thắt ở đời. Khôn hay khờ, ở bên tả bên hữu trong nước trời, đều cao quý, nhưng tin theo Chúa phải sống thánh ý Chúa, giầu sang, tài giỏi, chức quyền là để phục vụ, là để thực thi đức ái kitô. Xin tình yêu Chúa ở mãi trong ơn gọi và nén bạc của từng người trong chúng ta. Amen.

Về mục lục

CHẾT ĐẾN NƠI RỒI

Ngày Toàn Quốc cầu nguyện xin Ơn Chữa lành : Mc 4,35-41

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Trong lễ này, Giáo Hội đặt bài Tin Mừng kể lại trận cuồng phong nổi lên, khi Chúa Giêsu và các Tông đồ đang trên thuyền đi qua “bờ bên kia”. Trước cơn sóng dữ ập vào thuyền, các Tông đồ hoang mang, sợ hãi, các ông hốt hoảng chạy đến đánh thức và kêu cứu Thầy. “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Có gì đáng sợ bằng đứng trước cái chết, nó cho ta một cảm giác kinh hoàng. Lời kêu cứu của các tông đồ xem ra cũng là lời trách móc, có vẻ như Thầy quá vô tư hững hờ trước mạng sống của các đồ đệ. Nhưng có lẽ cần phải như thế để các ông nhận ra sự yếu đuối và bất lực của con người mình.

Ðức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Thế là sóng yên biển lặng như tờ. Lúc đó, Đức Giêsu mới trách lại các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy. Có Thầy mà cũng như không. Mặc dù các ông đã từng chứng kiến những phép lạ lớn lao Thầy làm, nhưng hôm nay các ông mới thực sự kinh ngạc và thốt lên: “người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Nhìn các Tông đồ đối mặt với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời.

Thế giới mà nhiều người ảo tưởng là vĩnh cửu dường như sắp sa chìm trong biển cả của sự dữ. Chỉ cần nhìn lại một năm rưỡi nay (từ 2020), ta đã thấy nhiều thảm họa xảy ra: trước tiên là cuộc cháy rừng ở Úc, hơn 10 triệu ha bị phá hủy; khoảng 1.400 ngôi nhà ở bang New South Wales bị thiêu rụi. Tiếp đến là trận “lụt hồng thủy” 40 ngày đêm ở Trung Quốc nhấn chìm hàng trăm ngàn ngôi nhà, khiến cho hàng ngàn người chết, đó là chưa kể đến lũ lụt ở các tỉnh miền Trung Việt Nam làm chết hàng trăm người, và cuộc chiến tàn sát nhau vì màu da sắc tộc trên nước Mỹ. Vượt lên trên các thảm họa kia là thảm họa Covid 19. Cơn đại dịch này làm cho thế giới kinh hoàng, làm tê liệt nền kinh tế và các hoạt động xã hội. Số người chết vì Covid 19 tính tới thời điểm này đã lên đến 10 triệu người ([1]). Thảm họa này làm cho con người điên đảo, cạn kiệt niềm hy vọng vào một thế giới tươi sáng.

Có nhiều người nghĩ đây đúng là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Nó làm cho nhà nhà, người người phải chia ly, kẻ ở người đi không một lời trăn trối. Bao gia đình tan tác, bao người thân chết không thấy xác, bao thương đau về tinh thần và đói khát về thể xác; thời gian héo hắt phai tàn, và không gian im lìm chìm vào hoang vắng; nhà thờ và chùa chiền không bóng người. Mỗi ngày ở Việt Nam có hàng ngàn người phải cách ly, họ đang phải chiến đấu để giành giật lấy từng hơi thở, không biết ngày mai mình còn có mặt ở trên đời nữa không,… Tất cả mọi người đều rơi vào hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, và rồi những khó khăn lại nối tiếp như thất nghiệp, nghèo đói, không nơi nương tựa… Bao người tự hỏi: liệu Thiên Chúa có hay không? Nếu có thì Ngài ở đâu trong biến cố này? Ngài có nghe thấy tiếng con cái đang ngày đêm kêu cầu lòng thương xót của Ngài không? Có khi chúng ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa: Chúng con chết đến nơi rồi mà Chúa không ra tay cứu chữa! Ngài còn chờ gì nữa đây?

Nếu cứ loay hoay tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó thì không bao giờ thỏa đáng, nhưng nếu ta nhớ lại câu chuyện Ladarô trong Tin Mừng Gioan, thì ta sẽ có được tia sáng đầy hy vọng về cách hành động của Thiên Chúa. Mặc dù Chúa Giêsu rất yêu quí Ladarô nhưng Ngài không đến cứu ngay, mà để chết rồi mới đến cứu. Điều này cho ta thấy “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa cứu thoát cho bằng một Thiên Chúa cứu chuộc. Ngài không can thiệp để cứu ta khỏi nhục nhã, đau khổ và chết chóc, nhưng Ngài cứu chuộc ta khi ta đã qua nhục nhã, đau khổ và phải chết cách nào đó” (Ronald Rolheiser). Thật không dễ để hiểu được điều này nếu thiếu cảm nghiệm dưới ánh sáng đức tin.

Tuy nhiên, câu chuyện Chúa ngủ trên chiếc thuyền đang bị bão bùng năm xưa vẫn còn nguyên giá trị. Ngài vẫn ở đó, vẫn bên cạnh các Tông đồ, nhưng lo sợ đã làm các ông quên mất sự hiện diện của Chúa. Lúc này cũng vậy, Chúa đang ở đây, đang đau niềm đau của con người, đang khổ nổi khổ của nhân loại. Nhưng vì quá hoảng sợ, ta không còn nhận ra Chúa. Ngài vẫn ở bên chúng ta, “cho dù người mẹ có quên đứa con của mình, phần Ta, Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).

Thập giá là điều tất yếu của cuộc sống con người. Đau khổ cũng là lẽ tất nhiên trong thân phận làm người. Chúng ta không thể trốn chạy hay đổ lỗi cho Thiên Chúa, mà trái lại, thực tế lại thường là hậu quả của tội lỗi loài người. Mỗi người đều phải vác thập giá của mình, và những đau khổ chúng ta đang chịu lúc này đều liên hệ với những những đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúa đảm nhận tất cả những đau khổ ấy để thánh hóa mọi người chúng ta. Ta đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy thắp lên một ngọn lửa của niềm tin và hy vọng; cần vác đỡ thập giá cho nhau. Được như vậy, thập giá sẽ trở nên Thánh giá, vì nó được đón nhận từ trái tim chúng ta trong sự kết hiệp với trái tim Chúa Giêsu, Đấng đã đổ máu để cứu chuộc chúng ta.

Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng kiêu căng, ích kỷ, tham lam, hận thù, ghen ghét, nhất là chủ nghĩa bá quyền đang bành trướng dưới nhiều hình thức. Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch này, con người mới biết mình là ai? Làm được cái gì? Quả thật, nếu không có Chúa, thiếu Chúa, vắng Chúa, thế giới sẽ trở thành “ngôi nhà ma”, và biển cả của sự dữ là mồ chôn tất cả. Hãy nhìn mọi sự dưới cái nhìn đức tin để thấy Chúa đang hành động, và hành động cụ thể qua những con người đầy thiện chí, đầy nhiệt tình, đang xả thân cho anh em đồng loại ở mọi góc độ của cuộc sống hôm nay. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống của thế giới giờ đây có nhiều thay đổi, có thể mọi người phải tiếp tục sống chung với lũ, nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).

Ước gì nạn Covid không làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa bị “phong tỏa” bằng những suy nghĩ tiêu cực, bi quan, nhưng mở rộng tâm hồn ta để tiếp nhận ánh sáng, tình yêu và ân sủng, mà Thánh Thần Chúa đang tiếp tục tuôn đổ xuống cho những kẻ tin.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Cuộc đời như biển cả mênh mông,
có những khi đầy sóng gió chập chùng,
với dịch bệnh, tai ương và nghèo túng,
biết bao người phải lâm cảnh khốn cùng,
chúng con thấy hoang mang và nao núng,
lại thấy Chúa như xa cách muôn trùng.

Cuộc sống với đau khổ không thể tránh,
bao lần con ưu phiền và than trách,
nhưng thử thách lại là phương cách,
Chúa muốn tôi luyện đời sống con,
qua những đau thương thêm vững vàng,
qua những nguy nàn thêm tin cậy.

Thử thách như cơ hội triển nở,
giúp con khai mở những tiềm năng,
để con khai sáng cuộc đời mình,
theo như chương trình tình yêu Chúa.

Thử thách như thập giá hằng ngày,
cho con biết luôn kề vai vác lấy,
trong an vui và hy vọng tràn đầy,
vì thấy mình được nên giống Chúa hơn.

Trong thử thách con thấy mình chới với,
nhưng tin rằng Chúa có mặt ở mọi nơi,
luôn yêu thương và hành động kịp thời,
không để đời con phải chơi vơi,

Thuyền đời con chẳng bao giờ êm ả,
chỉ êm ả khi về tới bến quê,
chỉ mong sao con giữ vẹn lời thề,
biết sống đức tin giữa cuộc đời trần thế,
Xin cảm tạ và tôn vinh danh Chúa,
trong gian nan thử thách của đời con. Amen.

[1]https://zingnews.vn/so-ca-tu-vong-thuc-te-vi-covid-19-tren-toan-cau-la-bao-nhieu-post1254231.html (24.08.2021)

Về mục lục

NIỀM TRÔNG ĐỢI CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

Jorathe Nắng Tím

Đi theo Chúa, ắt phải trông đợi ở Chúa điều gì. Tin Mừng Máccô kể lại điều mong đợi của hai môn đệ Giacôbê và Gioan. Cả hai đều là con của ông bà Dêbêđê: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10,35-36).

Thực ra, đây không chỉ là câu hỏi của riêng hai anh em nhà Dêbêđê,  nhưng là câu hỏi bấy lâu hằng nung nấu tâm can nhiều môn đệ khác, nhưng hầu hết đã không dám nói ra, vì sợ bị anh em ganh ghét, và ngại bị Thầy nghĩ mình là kẻ háo danh, ham quyền.

Tuy thế, khi đã mạnh dạn bộc lộ ước mơ làm quan trong vương quốc của Đức Giêsu, Thầy mình rồi, thì hai ông đã không chút ngượng ngùng, do dự, nhưng dũng cảm bảo vệ đến cùng mơ ước của mình, khi trả lời Đức Giêsu : “Thưa được”, khi Ngài hỏi lại các ông: “Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (Mc 10, 38-39).

Thực ra, tất cả mọi người, trong đó có cả chúng ta, ở bước đầu đi theo Đức Giêsu đều nghĩ mình sẽ được nhiều, rất nhiều, trong đó có vinh quang, nên sau một thời gian làm môn đệ, câu hỏi quen thuộc được đặt ra chính là câu hỏi của Phêrô đã đại diện anh em Nhóm Mười Hai thưa với Đức Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27).

Trả lời các môn đệ, cũng là trả lời chúng ta. Trước hết, Đức Giêsu đã không phủ nhận việc “ngồi bên trái, bên phải trong vương quốc của Ngài”, nhưng khẳng định : Việc đó thuộc quyền Chúa Cha, và Chúa Cha “đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10,40).

Nói như thế Đức Giêsu gián tiếp cho các môn đệ biết: để được Chúa Cha cất nhắc, các ông phải có đủ điều kiện, và điều kiện đó là:

1/ Trở nên tôi tớ phục vụ:

Không như “quan lộ” của thế gian, con đường tiến thân trong Nước Trời đi theo một nguyên tắc hoàn toàn khác: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,43-45).

Phục vụ như người tôi tớ trung tín, dù chịu muôn vàn thử thách của Giavê mà ngôn sứ Isaia đã mô tả: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ”, và “vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của ta sẽ làm cho muôn người nên công chính” (Is 53,10.11).

2/ Trở nên Của Lễ chuộc tội:

Không chỉ trở nên tôi tớ phục vụ, người môn đệ còn phải trở nên “Của Lễ”, khi “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45), như Đức Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Của Lễ đền tội cho nhân loại trên Thánh Giá, mà thánh Phaolô đã vẽ lên chân dung của Ngài: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4, 15-16).

Quả thực, khi đi theo Đức Giêsu, người môn đệ tuy biết chắc sẽ nhận được phần thưởng lớn lao trên trời (x. Mt 5,12), biết chắc tên mình đã được ghi trên trời (x. Lc 10,20), biết chắc “sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (M 19,29), nhưng không khỏi băn khoăn trước đòi hỏi: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo” (Lc 9,23);  không khỏi lo âu khi bị đặt trước sự dữ, đau khổ, và sự chết, bởi ngay cả Đức Giêsu cũng đã không nói gì nhiều về đau khổ và cái chết là giới hạn bi thương của con người, ngoài mở ra  cánh cửa đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh  bằng chính con đường khổ nạn, và cái chết tức tưởi, câm lặng của Ngài trên Thánh Giá.

Vâng, hơn lúc nào hết, giữa đại dịch Covid, giữa những thử thách của đời sống  và gọng kìm của sự dữ đang bao vây, xiết chặt, đẩy con người vào cô đơn, bế tắc. Những nỗi đau thiếu thốn vật chất, nỗi khổ cô đơn, cô độc, nỗi lo chết vì lây nhiễm dịch bệnh đang thử thách đức tin của chúng ta, và đức tin ấy sẽ chỉ được tôi luyện, củng cố, nếu chúng ta dám tin rằng: chúng ta đang chung phần đau khổ với Đức Giêsu, và Đức Giêsu đang chia sẻ đau khổ với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa ở với con người, và có mặt giữa con người cho đến tận thế, không một giây phút rời bỏ con người.

Xác tín như thế, chúng ta sẽ được cùng Ngài đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh với Ngài, qua cánh cửa của đau khổ và sự chết là “giá chuộc muôn người ”, giá xóa bỏ tội lỗi và cứu độ chúng ta.

Về mục lục

HÃY CÚI XUỐNG PHỤC VỤ

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Dịch bệnh- phong tỏa là những từ ngữ ám ảnh và sợ hãi nhất của người Miền Nam lúc này. Dịch đến ai, thì người đó phải đi cách ly chịu trăm ngàn khó khăn, rồi ngay cả những người trong gia đình và cả khu xóm lại bị phong tỏa, rào chắn đến nỗi “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, sống thiếu thốn và đầy lo âu sợ hãi.

Có những nơi bị phong tỏa kéo dài 3-4 tháng trời! Cuộc sống hoàn toàn sống nhờ và chờ sự bố thí. Nhưng chính trong hoàn cảnh khó khăn của thời thế lại tạo anh hùng. Anh hùng ở đây là những người hùng đã chẳng quản ngại gian nan, hiểm nguy để dấn thân làm thiện nguyện cứu giúp đồng bào mình. Rất nhiều những hình ảnh đẹp nơi các thiện nguyện viên nhiệt thành đi kiếm rau, kiếm gạo, kiếm mì tôm để tiếp tế cho anh em mình đang trong vùng phong tỏa. Rất nhiều những thiện nguyện viên cúi xuống chăm sóc cho các bệnh nhân f0 đang thoi thóp với mớ hỗn động của dây thở oxy . ..

Họ chẳng màng đến danh vọng, quyền lợi. Họ chỉ làm vì một điều duy nhất là theo bản năng thấy người ta đói thì cho ăn, ai nỡ để anh em mình đói khổ?  Họ thuộc đủ mọi thành phần. Cócác linh mục, tu sĩ, giáo dân, người khác đạo thiện nguyện, với nhiều hình thức: Giúp bệnh nhânvà những người bị phong tỏa, họ quyên góp cung cấp lương thực, thuốc men, bình oxy…

Nếu được hỏi về động cơ để dấn thân thì ai cũng nói là vì Chúa, vì Giáo hội mà dấn thân nên chẳng nề gian nan vất vả, hiểm nguy.  Có nhiều các bạn trẻ đã can đảm xông pha vào tâm dịch dầu biết rõ rủi ro, hiểm nguy, và đã không ít người cũng đã bị lây nhiễm bệnh sau ít ngày xông pha.

Đây là điều mà Chúa Giê-su luôn mời gọi những người môn đệ là phải sống phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ. Dầu phải hy sinh, phải nằm gai nếm mật mà Chúa bảo đó chính là “chén đắng” vẫn can trường đón nhận: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu”. Vì chưng “ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.

Đời người ky-tô hữu phải trở nên dấu chỉ cho tình yêu thương mới xứng danh là môn đệ Chúa. Tình yêu thương không dừng lại ở sự xót thương những mảnh đời bất hạnh mà còn phải làm điều gì đó để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Cuộc đời người ky-tô hữu không có yêu thương thì cũng như cây khô héo mà Chúa bảo sẽ mang chất thành củi khô mà đốt. Như muối đã lạt quăng ra đường cho đời dẫm nát. . .

Hôm nay Giáo hội Việt Nam cùng chung một tâm tình là cầu nguyện xin ơn Chúa chữa lành cho nhân loại, và mời gọi từng người tín hữu cũng hãy làm điều gì đó giúp cho anh em đang khổ đau. Giáo Hội Việt Nam đang mời gọi mọi người tín hữu hãy cùng hát lên tâm tình đầy yêu thương như cha Kim Long đã từng viết:  “ Xin hãy thương yêu nhau, vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu . Để tình yêu bừng cháy tiên diệt sự chết. Tình yêu bền vững, tháng năm chẳng tàn phai. Vì tình yêu là chính giới luật của Chúa, tình yêu tuyệt đối. Chính Chúa là tình yêu.

Thiên Chúa có thể chữa lành dịch bệnh nhưng Ngài lại rất cần con người cúi xuống băng bó cho nhau. Xin chúng ta luôn là cây lúc chịu nát tan để cánh đồng lúa của Giáo Hội luôn nặng trĩu hạt yêu thương và hy sinh. Amen

Về mục lục

LÃNH ĐẠO NHƯ CHÚA GIÊSU

Giuse Phạm Đình Ngọc

Phải khiêm tốn nhìn nhận rằng trong mỗi người chúng ta, đâu đó cũng ước muốn có địa vị thật cao trong xã hội. Mình phải làm sao để dưới một người, trên vạn người mới gọi là thành công. Tiếc là hấp lực ấy đã khiến nhiều người lao vào tìm kiếm và tranh dành như con thiêu thân. Hậu quả là chính họ và nhiều người khác bị tổn hại vì sự cao ngạo và cách lãnh đạo hà khắc của họ.

Thực ra vấn đề trên đây không mới. Trong Tin Mừng[1], không ít lần chúng ta thấy các môn đệ xin cho mình được nổi tiếng với Đức Giêsu. Suốt ba năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã chiếm được cảm tình của dân chúng. Không ít người tung hô và muốn Đức Giêsu lên làm vua của họ, nghĩa là trở thành người lãnh đạo. Là các môn đệ thân tín với Đức Giêsu, các ông phần nào cũng được thừa hưởng “hào quang” này. Bởi thế mà trong Tin Mừng Chúa Nhật 29 hôm nay, chúng ta hiểu được tại sao hai muôn đệ là Giacôbê và Gioan lại xin với Đức Giêsu cho mỗi người một bên, khi Đức Giêsu vinh thắng. Có lẽ vì ý hướng không ngay lành trong lời xin này của hai ông, nên Đức Giêsu mới trách rằng: “Các anh không biết các anh xin gì!” (Mc 10,36). Nếu có mặt trong lúc này, chúng ta cũng thấy hai ông chỉ muốn ngồi mát ăn bát vàng. Hai ông chỉ muốn đi thẳng đến giai đoạn phục sinh mà bỏ qua con đường đau khổ.

Tôi tin ai cũng biết đi theo Đức Giêsu là có ngày được hưởng vinh quang, được vào Nước Trời. Tiếc là trước đó, Đức Giêsu luôn đòi mỗi người phải trải qua con đường thập giá, phải uống chén đắng mà cuộc đời mang lại cho người môn đệ. Nhiều lúc tôi và bạn cũng hăng hái xin uống, như hai môn đệ trong câu chuyện này: “Thưa thầy, chúng con sẵn sàng uống.” (x. Mc 10,39). Nhưng trên thực tế lại khác hoàn toàn. Gặp gian nan thử thách, nhất là đối diện với cái chết, thử hỏi mấy ai dám một lòng tín trung với Thiên Chúa. Điều thú vị là ai bước với Đức Giêsu trong đau khổ, thì cũng được ở với Người trong vinh quang. Đó vừa là lời hứa bảo đảm của Thiên Chúa, nhưng cũng là thách đố cho mỗi người chúng ta.

Dẫu sao chúng ta thử lắng nghe, nhìn vào nhóm môn đệ lúc này, điều gì đang xảy ra? Số là hai môn đệ kia xin mỗi người một bên thầy Giêsu, những người còn lại đâm ra tức tối. Lòng ganh tị của họ là nguyên nhân gây ra chia rẽ. Đành rằng một nhóm phải có người lãnh đạo, nhưng nếu hai môn đệ này được ngồi bên tả, bên hữu thầy Giêsu, trong hoàn cảnh này, tự nhiên những thành viên khác bị xem thường, trở nên những người bị trị. Vì suy diễn như thế, nên họ mới tranh cãi xem ai là người lớn nhất trong nhóm.

Đang hăng máu tranh dành địa vị, Đức Giêsu cho các ông một bài học về thế nào là người lãnh đạo theo đúng ý Chúa. Đức Giêsu xác nhận rằng các thủ lãnh thế gian thường bị rơi vào vòng xoáy quyền lực này (Mc 10,42). Họ sẵn sàng đấu đá, tranh dành để vươn lên chức cao nhất bao nhiêu có thể. Trên đó, họ lấy quyền mà cai trị dân. Đó là chuyện của chính trị, của xã hội từ cổ chí kim, hiện tại cũng thế. Nhìn tới nhìn lui thử tìm được mấy nhà lãnh đạo dân sự vì nước vì dân? Thay vào đó, người làm lớn theo phong cách của thầy Giêsu phải là:

– Làm người phục vụ: Theo cách hiểu của Công giáo, người phục vụ tốt là người hết lòng theo một lý tưởng cao cả nào đó. Ở đây Đức Giêsu muốn các ông phải hạ mình, cúi xuống rửa chân cho nhau (Ga 13, 1-15). Để phục vụ tốt, người ta phải chú trọng đến tình yêu như là động cơ thúc đẩy mọi ý hướng và hành động của họ hướng đến người khác. Trong tâm thế này, người phục vụ hẳn nhiên không tìm sự nổi tiếng, lời tung hô, nhưng trong sự khiêm tốn, như một người thợ được đặt làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa.

– Làm người đầy tớ: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mc 10,44) Đây là một nghịch lý mà không phải người lãnh đạo nào cũng dám chấp nhận. Bởi đầy tớ là người vô danh tiểu tốt, làm những việc tầm thường, không đáng để người đời tán dương ca tụng. Điều này hợp lý, nhưng với Thiên Chúa lại hoàn toàn khác. Khi phục vụ bằng cái tâm, với nhiều tình yêu, người đầy tớ của Thiên Chúa biết mình chỉ là công cụ trong tay Ngài. Nếu Thiên Chúa dùng họ trong công việc gì, thì họ sẵn lòng quảng đại để đáp lời xin vâng[2]. Trong sự vâng phục này, tuy họ phục vụ trong cương vị là người đầy tớ, nhưng người đời sẽ nhận ra họ là chứng tá của Thiên Chúa[3]. Nhờ vậy, qua người đầy tớ này, danh Thiên Chúa được cả sáng, và dĩ nhiên, người này cũng chung phần vinh quang với Chúa. Bởi thế mà suốt dòng lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy biết bao vị Giáo hoàng, các vị thánh thực sự là đầy tớ trung thành của Thiên Chúa và con người. Tình yêu của họ cảm hóa được tha nhân, cung cách phục vụ của họ chiếm được lòng dân. Họ là những anh hùng, là nhà lãnh đạo tài đức, bởi họ đã thuộc lòng bài học của thầy Giêsu dành cho những ai muốn lãnh đạo theo Ngài.

– Hiến mạng vì anh em: Nhà lãnh đạo là người đứng mũi chịu sào. Họ phải là người mục tử sống chết vì đoàn chiên. Chúng ta còn nhớ mẹ Têrêsa thành Calcutta, một phụ nữ chân yếu tay mềm, nhưng cả đời xả thân phục vụ những con người khốn cùng. Mẹ không tử đạo theo nghĩa đen[4], nhưng mẹ đã trao hiến thời gian, sức lực, ước mơ và tình yêu cho công cuộc loan báo tin mừng nơi những người nghèo. Phải chăng vì phong cách lãnh đạo này mà mẹ đã trở nên “vị thánh, người hùng và là người lãnh đạo” không chỉ trong lòng chúng ta, nhưng còn cho rất nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới[5]. Lý do: Mẹ không dùng vũ lực để đáp trả bạo lực, nhưng dùng tình yêu, hiến thân để cảm hóa lòng người.

Các bạn trẻ thân mến,

Những lời chia sẻ trên đây tôi muốn dành tặng cho các bạn và cho chính tôi. Chúng ta đang học tập để trở nên nhà lãnh đạo. Trước là lãnh đạo trong gia đình, sau là Giáo xứ, Giáo hội và xã hội. Hãy mạnh dạn học với thầy Giêsu để trở nên nhà lãnh đạo tài đức. Xin đừng quen ra lệnh, hoặc chỉ trỏ quát tháo. Hãy khiêm hạ phục vụ anh em như người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Gương lành và đời sống thánh thiện sẽ là bằng chứng để cảm hóa mọi người. Rồi khi có địa vị và quyền lãnh đạo trong tay, tinh thần phục vụ sẽ chi phối cho bạn biết cách giúp người khác thăng tiến trên con đường sự thật và tình yêu.

Chắc đến lúc chúng ta phải nghĩ khác: thay vì lãnh đạo theo kiểu “quyền lực cứng”, hãy bắt chước Đức Giêsu, hướng dẫn người khác bằng việc lành phúc đức, bằng tinh thần của người phục vụ vì Thiên Chúa và vì anh em đồng loại (quyền lực mềm). Được như thế, chắc rằng chúng ta sẽ có cơ hội làm lớn!

 

[1] Mt 20,20-23; Lc 22,24-27; Mc 10,35-45

[2] “Ðối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (x. Lc 17,7-10)

[3] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nhắn với mỗi người chúng ta, với các nhà lãnh đạo Công giáo: “Con người hôm nay cần chứng nhân hơn thầy dạy” (x.Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 41).

[4] Tử vì đạo là làm chứng cho đức tin, làm chứng cho Đức Kitô bằng cái chết của chính mình. Chẳng hạn ở Việt Nam, chúng ta có 117 vị thánh tử đạo.

[5] Ngày 6/9/1997, Mẹ Têrêsa qua đời ở tuổi 87 tại Calcutta. Chính phủ Ấn Độ đã tổ chức lễ quốc tang trọng thể cho Mẹ với sự có mặt của hơn 400 chính khách quan trọng của hơn 20 nước, trong đó có 3 nữ hoàng và 3 tổng thống.

Về mục lục

LỪNG DANH

Lm Vũđình Tường

Đức Kitô dậy môn đệ lối sống mới. Lối sống mới khác biệt rất nhiều so với lối sống cũ. Cuộc sống hiện tại thay đổi ít, lối sống thay đổi nhiều. Trưởng thành trong lối sống mới, cuộc sống còn thay đổi nhiều hơn nữa. Trong thời kì chuyển tiếp này môn đệ Đức Kitô thường lúng túng, khi xử thế theo lối cũ, lúc lại xử thế theo lối mới. Khác biệt chính do cách làm việc khác nhau giữa khối óc và con tim. Lối cũ hướng dẫn bởi khối óc. Khối óc hành xử cách cứng rắn, sắt thép, tính toán hơn thiệt trước khi đưa ra hành động. Lối sống mới nghe tiếng nói của tim. Sống tình cảm, theo nhịp rung của con tim để hành xử. Đối xử, giúp đỡ anh em ít hay nhiều đều lệ thuộc vào mức rung động, cảm nhận, bén nhậy của con tim. Thiên Chúa đối xử với tha nhân bằng con tim Ngài. Môn đệ Đức Kitô rất thích lối sống mới, sống tình cảm. Tuy nhiên các ông cần thời gian để học hỏi, làm quen với lối sống tình cảm.
Lẫn lộn giữa mới và cũ. Có lần trên đường đi Capernaum các ông tranh biện ai là người khá nhất, xứng đáng trở thành thủ lãnh, lãnh đạo nhóm. Về nhà, Đức Kitô hướng dẫn các ông. Phong cách trong lối sống mới, lãnh đạo chính là khiêm nhường phục vụ.
‘Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người Mc 9,35.
Được Đức Kitô chọn làm tông đồ là một đặc ân lớn. Giacôbê và Gioan vẫn ước mong được hơn anh em. Học từ kinh nghiệm lần trước, các ông không tranh cãi ai lớn, ai nhỏ nữa. Lần này hai anh em trực tiếp gặp Đức Kitô xin Ngài ban cho điều các ông mong đợi.
‘Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang Mc 10,37
Ba lần Đức Kitô tiên đoán Ngài sẽ bị bắt, chịu đóng đanh, chết và sau ba ngày sống lại. Môn đệ Đức Kitô tin vào sự thông minh, tài trí, cách thoát hiểm siêu quần của Thầy. Các ông tin Thầy luôn có cách tự giải thoát khỏi mọi tai họa. Không ai có thể ám hại được Thầy. Môn đệ tin điều Đức Kitô tiên đoán về cái chết của Ngài sẽ không xảy ra. Nếu tin điều đó thực sự xảy ra, các ông không xin được ngồi bên tả, bên hữu Đức Kitô. Mười môn đệ kia ghen tức khi nghe điều hai anh em Giacôbe và Gioan xin vì các ông không tin Đức Kitô sẽ chết. Trường hợp các ông tin Đức Kitô chết, ba ngày sau sẽ sống lại, các ông đã không chán nản, chạy trốn sau khi Đức Kitô bị bắt. Điều các ông ghen tức cho biết sống theo tiếng gọi của con tim quả chưa bén rễ sâu trong tâm hồn các ông. Đức Kitô không khiển trách các ông nhưng hướng dẫn thêm cho các ông. Ngài nói với các ông hy sinh, tận hiến là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Chính Ngài tự chọn đi con đường đó để đến với Chúa cha. Chính Đức Kitô tự chọn thì việc Ngài để cho bị bắt, đóng đinh, sống lại là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Vì thế Ngài mới xác nhận Ngài đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn dân.
‘Ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ mọi người. Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người’. Mc 10,45
Môn đệ Đức Kitô cũng học từ Thầy Chí Thánh. Các ông cũng tự nguyện hy sinh, chấp nhận đau khổ, vui lòng hiến thân với mục đích duy nhất là làm Vinh Danh Thiên Chúa. Thiên Chúa được vinh danh không phải vì hy sinh, đau khổ của môn đệ, mà chính là lòng yêu mến, lòng tín trung môn đệ dành cho Thiên Chúa mạnh hơn cả đau khổ và sự chết.
Đức Kitô không ban cho hai anh em điều họ xin, nhưng ban cho chén Ngài sắp chịu, cũng như phép rửa Ngài sắp lãnh nhận. Hai anh em đồng í nhưng không hiểu rõ đó là chén gì và phép rửa đó ra sao. Đức Kitô sống lại từ chõi chết cho biết: Cái ác thắng nhất thời, sự thiện thắng muôn đời. Đi theo con đường Đức Kitô hướng dẫn chính là chọn thua để thắng, chọn hy sinh, đau khổ để được vinh quang. Chọn chết nhất thời để sống muôn đời.
Ba lần Đức Kitô nói về cái chết của Ngài. Ba lần đồng nghĩa với nhiều lần. Trong trường hợp Đức Kitô, ba lần còn có nghĩa là điều đó chắc chắn xảy ra. Kẻ chống đối Đức Kitô hành xử bằng lí chí, bằng phán đoán của khối óc. Họ tin là sức mạnh của họ có thể triệt tiêu lối sống tình cảm Đức Kitô rao giảng. Đúng thế hành động ác độc gây đau khổ có khả năng phá hoại thân xác con người, nhưng không thể xác định ác độc lay chuyển nội tâm, thay đổi tâm tính nạn nhân. Lòng xót thương gây thiện cảm, hoán cải. Đây chính là đường lối Chúa.
Roi đòn làm rách nát thân thể Đức Kitô. Thập giá tàn phá hình tượng Ngài, lưỡi đòng đâm thấu tim. Trong khi đó tâm tư Ngài dành cho Chúa Cha không lay chuyển. Tình yêu Ngài dành cho muôn dân trong sáng hơn. Ngài chết trong thinh lặng làm người sĩ quan lãnh đạo quân lính hành hình đấm ngực ăn năn vì hành động tàn bạo, hối lỗi vì lời nói tục tĩu, thô lỗ. Bạo lực đã thua. Khiêm nhu đã thắng.
Tình yêu chân chính luôn đi chung với hy sinh. Đức Kitô trở thành vĩ đại cho muôn dân. Môn đệ Đức Kitô chọn đi con đường đó để làm Vinh Danh Chúa. Đức Kitô chết như người nô lệ vô danh. Ba ngày sau, Ngài sống lại, Danh Ngài vang lừng cho toàn thể nhân loại. Kitô hữu sống là sống cho Đức Kitô và chết là chết trong Đức Kitô để được chia sẻ vinh quang Danh Ngài.

Về mục lục

CHỖ ĐỨNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu để xin Người một ân huệ. Họ muốn được ngồi một người bên hữu, một người bên tả Thầy khi Thầy được vinh quang. Nghe vậy, cả mười môn đệ khác đều tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Thầy Giêsu đã gọi tất cả các ông lại mà dạy cho biết người làm đầu phải là người hầu hạ và trở nên đầy tớ mọi người.

“Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Chúa Giêsu đã lắng nghe hai ông cầu xin. Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Họ mạnh dạn cầu xin: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10, 37). Các ông ước muốn quyền lực, danh vọng và giàu sang. Các ông nuôi hy vọng Thầy sẽ làm vua. Các ông theo Thầy bấy lâu cũng vì những mộng ước ấy. Thế nhưng, đó không phải là mục đích của Người khi đến trần gian. Trước lời cầu xin đầy táo bạo và đầy toan tính của hai ông, Thầy Giêsu không trách mắng hai ông, không nổi giận với hai ông nhưng chỉ thốt lên: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Trước câu hỏi của Thầy, hai ông mau mắn đáp lại: “Thưa được”. Các ông còn chưa hiểu chén của Thầy là chén đắng Cha trao, phép rửa mà Thầy sẽ chịu chính là hiến tế chính mình trên cây thập giá. Người hứa với các ông: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được” (Mc 10, 39-40). Người đã muốn các ông được chung phần với mình.

Trong thời đại hôm nay, có rất nhiều Kitô hữu cũng đã chạy đến với Chúa và thưa lên cùng một cách thế như vậy. Mỗi người đều xin Chúa thực hiện cho mình điều mình muốn, dù nhiều khi chính họ không hiểu mình đang xin gì. Họ ít bận bân đến việc đâu mới là điều Chúa muốn họ làm, hay đâu mới là điều làm đẹp lòng Chúa. Chúa thấu biết mỗi người cần gì trước khi họ cầu xin, Người sẽ ban cho mỗi người mỗi cách.

Mười môn đệ kia có nuôi hy vọng giống hai anh em này không? Các ông tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Các ông đang bước đi cùng Thầy nhưng chưa cùng chí hướng với Thầy. Về phần mình, Thầy Giêsu biết rõ con đường Thương Khó mà mình sắp bước vào, biết rõ phép rửa mà Người sẽ thực hiện bằng việc hiến tế chính mình. Người khao khát đến cháy bỏng mong cho được hoàn tất phép rửa ấy, để dâng lên Thiên Chúa Cha hy lễ tình yêu. Đã hai lần Người thẳng thắn loan báo cho các môn đệ về cuộc Thương Khó và Phục Sinh nhưng các môn đệ không hiểu, không chia sẻ được tâm tư của Thầy. Các ông sợ hãi nhưng mỗi người cũng bận tâm cưu mang trong mình những toan tính về địa vị và quyền lực. Các ông tranh cãi nhau để dành chỗ nhất, các ông tức tối với nhau, không còn một lòng một chí như trước nữa. Người hiểu rõ các ông đầy những giới hạn như thế nhưng Người vẫn một lòng yêu thương các ông. Đức Giêsu đã gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 42-44). Chính Người đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mc 10,45). Đó mới là chỗ đứng của người môn đệ, là tâm tình và ước muốn mà người môn đệ cần cưu mang.

Lạy Chúa Giêsu! Đã bao lần con khẩn thiết dâng lời cầu nguyện, nhưng cũng bấy nhiêu lần con đã chỉ xin Chúa làm điều con muốn. Con xin lỗi Chúa về cách hành xử của mình. Con cũng tạ ơn Chúa vì tình thương mà Chúa dành cho con. Chúa đã sửa dạy con, nâng đỡ con. Người không quay mặt làm ngơ khi con lỗi lầm nhưng rộng tình tha thứ. “Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, xưa Chúa đã làm cho mạch nước tuôn trào từ tảng đá để nuôi dân được no thỏa khỏi cơn khát. Xin Chúa cũng ban cho con dòng lệ ăn năn sám hối chảy ra từ trái tim khô cằn, chai cứng của con, cho con biết đón nhận tình thương và ơn tha thứ của Chúa”.  Để khi được Chúa xót thương, con cũng biết dùng tình thương mà đối xử với anh chị em con. Amen.

Về mục lục

THUẬT LÃNH ĐẠO

Thiên San

Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về việc hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin Thầy Giêsu cho họ được ngồi bên tả và bên hữu Thầy, khi Thầy đợc vinh quang. Đức Giêsu trả lời: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Các ông trả lời: “Thưa được” (Mc 10,39). Đức Giêsu dạy rằng, phép rửa và chén Ngài sắp chịu, sắp uống các ông cũng sẽ được chung phần, còn việc ngồi bên hữu hay tả thì Ngài không có quyền cho, Chúa Cha đã định cho ai thì kẻ ấy được. Mười môn đệ kia nghe thấy vậy đâm ra tức tối với các ông. Bấy giờ, Đức Giê su mới dạy các ông về thuật lãnh đạo.

Theo Thầy bấy lâu, các môn đệ chưa hiểu được sứ mạng thật sự của Thầy mình. Các ông mơ tưởng về một tương lai với quyền bính của thế gian. Bởi đó, các ông mới đến “xí chỗ” trước. Đức Giêsu nói thẳng cho các ông biết là các ông không biết mình đang xin gì. Quả thực, nếu các ông thật sự biết chén và phép rửa của Thầy sắp chịu thì chắc hẳn các ông đã không dám xin Thầy điều đó. Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Tôi Trung của Thiên Chúa. Ngài đến thế gian, sống giữa nhân loại tội lỗi nhưng không phạm tội. Ngài là vị Thượng Tế, là Đấng cảm thương với những yếu hèn của ta (x. Dt 4, 15). Ngài là vị tôi trung, nếm mùi đau khổ để làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của muôn người (x. Is 53,11). Sau khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng, phục sinh vinh hiển, các tông đồ lần lượt được cùng uống chén với Thầy.

Trong khi các môn đệ khác đang tức tối với hai anh em nhà Giacôbê thì Đức Giêsu mới gọi các ông lại, ôn tồn chỉ bảo. “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người (Mc 10, 42-44). Đức Giêsu không chỉ nói không không. Chính Ngài đã trở nên người phục vụ giữa mọi người. Người đã nói rõ: “Vì Con Người đến không phải để người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 10, 45). Quả thực, những ai đi theo Thầy Giêsu đều học được bài học về việc lãnh đạo mà Thầy đã dạy. Họ phải là những người phục vụ, là đầy tớ giữa mọi người. Người phục vụ luôn chủ động chăm lo cho mọi người. Họ không dùng uy quyền để thống trị hay điều khiển người khác. Những người lãnh đạo theo tinh thần của Đức Kitô phải là những người biết dùng tình thương để phục vụ.

Sự khác biệt giữa cách lãnh đạo của Đức Kitô và những người theo tinh thần thế gian là một thách đố lớn. Trong khi người đời tìm kiếm quyền lực, danh vọng và “ghế ngồi” thì người môn đệ Đức Kitô được mời gọi tìm cho mình một chỗ rốt hết, là người phục vụ, là đầy tớ của mọi người. Bao lâu ta còn muốn dùng quyền lực để điều khiển và chi phối kẻ khác thì bấy lâu ta chưa thấm được bài học của Thầy Giêsu. Bao lâu ta muốn người khác phục vụ mình thì bấy lâu ta chưa thể là nhà lãnh đạo đích thực. Ngời lãnh đạo theo gương Đức Giêsu phải là người biết họa lại cuộc sống của Thầy, phải chấp nhận nhỏ bé và rốt hết. Nếu ai cũng trở nên nhỏ bé, coi người khác hơn mình thì cuộc sống sẽ bớt đi sự tranh giành cắn xén lẫn nhau. Đổi lại, cuộc sống là sự yêu thương ngập tràn. Đó là cách lãnh đạo Đức Giêsu đã thực hiện.

Về mục lục

VẤN ĐỀ PHỤC VỤ

Trầm Thiên Thu

Tương tự nhiều vấn đề “tế nhị” khác, Phục Vụ là vấn đề muôn thuở. Phục Vụ đối lập với Hưởng Thụ. Cả hai đều có vần Ụ nên cả hai đều khó thực hiện, vì cái gì bị “đắp ụ” đều gây rắc rối, và ai cũng thích mình là ông CỤ chứ không khoái là thằng CU. Cả chữ Phục Vụ và Hưởng Thụ đều quan trọng ở dạng động từ hơn là danh từ, nghĩa là phải hành động cụ thể chứ không nói suông. Vì Chúa Giêsu truyền lệnh: “Hãy phục vụ, đừng hưởng thụ.” (Mc 9:35)

Ý Chúa hoàn toàn khác hẳn ý phàm nhân. Người ta muốn làm lớn thì Ngài bảo phải làm nhỏ, người ta thích khoác lác thì Ngài cấm khoe khoang, người ta ưa an nhàn thì Ngài bắt phải làm việc, người ta khoái vơ vét vào thì Ngài bảo phải chia sẻ. Cứ thế và cứ thế: Phục vụ.

Nhưng phục vụ là thế nào? Phục vụ là giúp đỡ mọi người – có thể đó là những việc PHẢI LÀM theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có thể là việc MUỐN LÀM vì tự ý, tình nguyện. Tinh thần phục vụ không làm cho người ta thấp kém mà làm cho người ta nên cao quý, vì phục vụ là dâng hiến chính con người bé nhỏ của mình cho Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Phục vụ người khác là phục vụ Thiên Chúa – phục vụ Ngài qua tha nhân. Đó là điều thực sự khó!

Trong xã hội loài người, hằng ngày các công ty, siêu thị, cửa hàng hoặc quán xá luôn có những đợt tuyển nhân viên phục vụ. Công việc của người phục vụ rất bình thường, đôi khi bị coi là tầm thường, nhưng thật ra lại rất cần thiết. Có thể nói rằng không có họ thì các sinh hoạt xã hội khó tồn tại. Không có các công nhân thì giám đốc chỉ bó tay, và xã hội sẽ không có sản phẩm để tiêu thụ. Cách phân biệt “cao – thấp” là do quan niệm của những người thiển cận, nông cạn – tương tự dạng “thiểu não” mà thôi. Chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu, cũng không có nghề nào hơn nghề nào.

Thật vậy, tiền nhân nhận xét chí lý: “Nhất sĩ, nhì nông; hết gạo chạy rông… nhất nông, nhì sĩ.” Ảnh hưởng “cao – thấp” là do quan niệm xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Kẻ sĩ được coi là “dân ngon lành.” Thế nhưng hết gạo ăn thì “ngon” cái nỗi gì? Ai hơn, ai kém? Liệu còn sức để vênh cái mặt lên? Còn trong gia đình, ai to hay nhỏ mà phân biệt việc giặt giũ, đi chợ, nấu ăn, rửa chén, quét nhà,…?

Trong cuộc sống, mọi người đều phục vụ lẫn nhau, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc bằng cách nào đó. Đừng tưởng tôi tớ mới phải phục vụ chủ nhân, mà chính chủ nhân cũng phải phục vụ tôi tớ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có nhân viên mới phải phục vụ giám đốc, mà chính giám đốc cũng phải phục vụ nhân viên bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có đệ tử mới phải phục vụ sư phụ, mà chính sư phụ cũng phải phục vụ đệ tử bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có giáo dân mới phải phục vụ linh mục quản xứ, mà chính linh mục cũng phải phục vụ giáo dân bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có bề dưới mới phải phục vụ bề trên, mà chính bề trên cũng phải phục vụ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có người nhỏ mới phải phục vụ người lớn, mà chính người lớn cũng phải phục vụ người nhỏ bằng cách nào đó; v.v…

Rất nhiều mối quan hệ trong xã hội, mọi mối quan hệ đều liên đới với nhau. Vợ chồng đối với nhau, cha mẹ và con cái đối với nhau, anh chị em đối với nhau, bạn bè đối với nhau,… nói chung là con người đối với con người. Chúa Giêsu đã có nguyên tắc sống: “Ai làm đầu phải hầu thiên hạ.” (x. Mt 20:25-28; Mc 10:40-45) Đó là luật.

Kinh Thánh cho biết rằng, sau khi được Chúa Giêsu chữa khỏi chứng sốt nặng, nhạc mẫu của ông Phêrô liền chỗi dậy PHỤC VỤ Người. (x. Mc 1:29-31; Lc 4:38-39) Chính Chúa Giêsu đã từng minh định: “Thầy sống giữa anh em như MỘT NGƯỜI PHỤC VỤ.” (Lc 22:27) Quả thật, ngay tại Bữa Tiệc Ly, trước khi bị bắt, chính Chúa Giêsu đã đích thân hạ mình bằng cách quỳ xuống mà rửa chân cho các môn đệ, Ngài muốn làm gương và dạy về tầm quan trọng của sự phục vụ (x. Ga 13:3-20) cho mọi người, nhất là những ai muốn trở nên hoàn thiện.

Vấn đề phục vụ có liên quan thái độ “chảnh” – vì phục vụ trái ngược với kiêu căng. Người ta thường thích “sai” người ta làm cái này, việc nọ, và phải như thế mới oai. Chỉ là ảo tưởng và ngu xuẩn, vì đi ngược lại đường lối của Chúa mà lại dám hãnh diện. Một hành động mà hai tội: khinh người và kiêu ngạo. Việc phục vụ rất bình thường mà lại quá nhiêu khê. Phục vụ là dấn thân, rất cần phải khiêm nhường thật lòng mới có thể phục vụ hết mình. Nếu không thì thêm tội chứ chẳng thấy phúc đâu!

Thật lạ, vấn đề phục vụ còn liên quan nịnh bợ, tâng bốc, ranh mãnh, mưu thâm kế độc. Cứ thấy “ông to, bà lớn” thì họ tìm mọi cách đưa đón, đâm thọt, đãi bôi, gièm pha,… cốt để tỏ ra mình có uy, tìm mọi cách “bợ trên, đạp dưới.” Lũ sai nha bất nhân đó chỉ là “cáo mượn oai hổ,” chứng tỏ đầu óc kém cỏi, ngu dốt với cái đầu rỗng tuếch. Họ chỉ trích người khác mà lại tự thú sự ngu xuẩn xấu xa của chính mình, ngu dại mà cứ tưởng mình giỏi giang.

Thời nay có những người rất dị hợm, không muốn phục vụ mà chỉ muốn hưởng thụ. Việc nhỏ không làm vì chê là nhỏ nhặt, việc lớn cũng không thể làm vì không đủ năng lực. Tiến sĩ, giáo sư, giảng viên,… nhưng lại chưa học hết trung học phổ thông. Tục ngữ Đức có câu nói thú vị: “Người ta bắt thỏ rừng bằng chó săn, bắt đàn bà bằng bạc tiền, và bắt kẻ ngu si bằng lời khen dối trá.” Mắc bẫy mà cứ tưởng mình hay. Thật kinh khiếp!

Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu.” (Is 53:10) Nghe chừng rất lạ, vì có vẻ rất… “ngược đời,” nhưng như vậy mà lại không như thế. Nghịch mà thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.

Rất đơn giản với lý do vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.” (Is 53:11) Bất cứ ai chân thành theo Chúa sẽ được tha thứ tội lỗi, được “giải án, tuyên công,” được công chính hóa, vì chính Thiên Chúa “bù lỗ” cho họ. Ôi, hạnh phúc vô cùng!

Thật diễm phúc khi chúng ta nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Nkm 9:6; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10-13; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20) giàu lòng thương xót, (Ep 2:4) công minh chính trực, (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7) không thiên vị bất cứ ai. (1 Pr 1:17; Gl 2:6; Cv 10:34) Đặc biệt là mọi lời Ngài nói đều nên trọn: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5)

Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối. (Rm 3:4) Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài “không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Ngài cũng không cám dỗ ai.” (Gc 1:13) Thánh Vịnh gia đã minh chứng: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi NGƯỜI LUÔN CHE CHỞ PHÙ TRÌ.” (Tv 33:18-20) Lòng thương xót và lòng trắc ẩn vĩnh viễn có nơi Thiên Chúa, vì Ngài là Tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16)

Phàm nhân chúng ta có biết yêu thương cũng bởi nhờ Ngài, bắt nguồn từ Nguồn Yêu Thương của Ngài. Thiếu tình yêu, chắc chắn con người sẽ chết sớm, thậm chí chết ngay khi còn thở. Vì thế, chúng ta phải biết không ngừng cầu xin Ngài: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Thiên Chúa hiện diện nơi những con người thật, sinh động bằng xương bằng thịt.

Có yêu thương thì mới sẵn sàng phục vụ, không yêu thương thì người ta không muốn phục vụ – dù có thể họ vẫn biết cách phục vụ. Nhưng để có thể phục vụ, người ta phải biết yêu thương; để có thể yêu thương, người ta phải biết lắng nghe nhau, đặc biệt là lắng nghe Thiên Chúa. Ước gì mọi người đều biết sẵn sàng và mau mắn như cậu Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1 Sm 3:9) Cuộc sống là thực tại, không là chiêm bao hay mộng ảo.

Thật vậy, Chúa Giêsu là vị Thượng Tế biết cảm thương, luôn chạnh lòng thương xót người khác, luôn động lòng trắc ẩn trước những con người khốn khổ. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin.” (Dt 4:14) Tuyên tín là điều cần thiết, nhưng lại không đơn giản, vì đơn giản và cụ thể như việc làm dấu Thánh Giá mà nhiều người vẫn e ngại, nhất là khi có người khác tôn giáo hoặc ở nơi công cộng. Họ lý luận bằng cách phát âm là “làm dấu” thành “làm giấu.” Chúa Giêsu nói: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 10:32-33) Đó là phương trình công bằng.

Thánh Phaolô dùng phủ định cách để làm nổi bật sự xác định: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4:15-16) Không đến với Lòng Chúa Thương Xót không chỉ là dại dột mà là ngu xuẩn. Tuy nhiên, nếu ảo tưởng thì chúng ta chỉ “lợi dụng” Lòng Chúa Thương Xót mà thôi, bởi vì TIN mình được Chúa thương thì KHÔNG LÀ KIÊU NGẠO, nhưng TƯỞNG mình được Chúa thương thì lại LÀ KIÊU NGẠO!

Người ta kiêu ngạo vì ảo tưởng, vì ảo tưởng nên không yêu thương – mà yêu thương rất thực tế, cần hành động cụ thể. Do đó, không yêu thương thì không thể phục vụ. Sự phục vụ đối lập với quyền hành, địa vị, chức tước, vì người có chức quyền không muốn phục vụ, chỉ muốn “chỉ dạy” và muốn được phục vụ. Chúng ta khó phục vụ bởi vì chúng ta ÍCH KỶ, Ỷ LẠI, NGẠI KHÓ, SỢ HÈN, QUEN “CHẢNH.” Thánh Tiến sĩ Thần bí Têrêsa Avila nhận xét: “Chúng ta quá tự ái, quá vận dụng tài trí trần gian để khoe khoang mình, đó là SỰ DỐI TRÁ to lớn và NGÔNG CUỒNG, các thánh nhân không như thế.”

Trình thuật Mc 10:35-45 là câu chuyện đầy kịch tính về vấn đề phục vụ – lúc cũng là thời sự nóng bỏng. Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và “lấy lòng” Ngài bằng cách rào trước đón sau: “Thưa Thầy, chúng con MUỐN THẦY THỰC HIỆN cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Họ không ngần ngại vào thẳng vấn đề: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.”

Chúa Giêsu trách mắng họ và nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Họ có vẻ “vô tư” khi trả lời Ngài: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì THẦY KHÔNG CÓ QUYỀN CHO, nhưng Thiên Chúa đã CHUẨN BỊ CHO AI thì kẻ ấy mới được.” Lời Chúa Giêsu luôn gây sốc cho nhiều người, khiến họ thực sự thấy “ngại” lắm. Đó cũng là tâm trạng của mỗi tín nhân thời nay vậy.

Nghe vậy, mười môn đệ kia ĐÂM RA TỨC TỐI với ông Giacôbê và ông Gioan. Bản tính ghen tỵ trong con người luôn muốn chỗi dậy, sẵn sàng vùng lên bất cứ lúc nào, nhất là khi cảm thấy mình “lép vế” hơn người khác. Ghen tỵ vì tự ái, vì “cái tôi” luôn ích kỷ, không muốn thua thiệt. Tính ghen tỵ có ở mọi nơi và trong mọi người, dễ nhận ra trong các cộng đoàn – cả xã hội và tôn giáo. Trong các giáo xứ, đoàn thể, cộng đoàn tu trì, nhóm từ thiện, thậm chí ngay trong gia đình, chúng ta vẫn thấy có tính ghen tỵ – với các mức độ khác nhau. Con gà còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà! Tự ái và ghen tỵ là “chướng ngại vật” khiến chúng ta khó “từ bỏ mình” theo ý của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu biết các đệ tử đang hậm hực với nhau vì muốn tranh giành quyền hành, Ngài gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” Rõ ràng quá, không có gì khó hiểu, nói ngắn gọn là “ai muốn làm đầu phải hầu người khác.”

Sao “ngược đời” vậy? Chúa Giêsu minh chứng cụ thể: “Con Người đến KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC NGƯỜI TA PHỤC VỤ, nhưng là ĐỂ PHỤC VỤ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10:45) Chúng ta không thể viện cớ với bất cứ lý do gì để tự biện hộ nữa. Thật vậy, cứ “xem quả thì biết cây.” (Mt 12:33; Lc 6:44) Rất rõ ràng.

Lúc này, và hơn bao giờ hết, thiết tưởng chúng ta phải suy tư và cố gắng nhiều, đồng thời chân thành cầu nguyện như Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.” Lời cầu này mệnh danh là Kinh Hòa Bình vì đậm chất phục vụ theo Ý Chúa – phụng sự Chúa TRONG mọi người. Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã xác định khi “phân loại” Chiên và Dê: “Mỗi lần các ngươi LÀM cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã LÀM cho chính Ta, mỗi lần các ngươi KHÔNG LÀM cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã KHÔNG LÀM cho chính Ta.” (x. Mt 25:31-46)

“Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành, và hãy bước theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người.” Đó là lời nhắn nhủ của Thánh Pôlycarpô (+155), giám mục tử đạo. Vâng, lỗi tại tôi mọi đàng!

Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm can đảm thu mình lại để Ngài lớn lên. Con chỉ là kẻ vô dụng bất tài, nhưng vì Tôn Danh Ngài, xin biến con thành khí cụ của Ngài. Xin cho con thấy Ngài trong tha nhân, và họ cũng thấy Ngài con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

HY TẾ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

Khi bước vào trong nhà thờ Công Giáo, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh đau thương của Chúa Giêsu Kitô chết treo trên thánh giá nơi cung thánh. Thân mình Chúa trần trụi, đầu đội mạo gai, hai chân hai tay bị đóng đinh vào thánh giá, cạnh sườn bị đâm thủng, mình mẩy dính đầy máu và chết trong tư thế gục đầu xuống. Cái chết của Chúa thật bi thương. Những người tin vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế đã kính thờ bái lạy và ghi dấu thánh giá trên mình. Chúa đã hiến thân mình làm hy tế để giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Của lễ hiến tế là chính thân xác của Chúa Giêsu. Chúa Kitô đã chết trên thánh giá và đã sống lại vinh hiển đang ngự bên hữu Chúa Cha. Nhiều người không biết và không tin vào Chúa Kitô, họ không thể hiểu tại sao người Công Giáo lại tôn thờ một Đấng, bị xem như là tội nhân của đế quốc Rôma đã phải xử tội tử hình.

Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng sẽ đến, người tôi tớ trung tín và công chính sẽ chịu khổ hình để gánh tội trần gian. Làm người ai cũng muốn sống an vui và hạnh phúc, chẳng mấy ai muốn đời mình bị đau khổ. Thực ra chỉ có đau khổ mới hóa giải được khổ đau. Nếu chúng ta không gặp đau khổ, chúng ta không biết thế nào là vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta không có đau đớn bệnh hoạn, chúng ta không biết mình đang an khang khỏe mạnh. Người tôi tớ công chính đã lãnh chịu mọi thống khổ ở đời để biến đổi nó thành hoa trái tốt lành của ơn cứu độ.

Người Tôi Trung của tiên tri Isaia là hình ảnh của Đấng được Xức Dầu, Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã chấp nhận thân phận con người yếu đuối, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chọn con đường thánh giá để giao hòa. Con đường Chúa đi là con đường ngược chiều, có nhiều đau thương và chông gai. Thơ Do-thái gọi Ngài là Thượng Tế để gắn kết với hy tế mà chính Ngài đã hiến dâng. Hy lễ đền tội cho nhân loại hiến dâng lên Thiên Chúa Cha một lần là đủ.

Câu chuyện trong bài Phúc âm rất tuyệt vời. Thánh Maccô rằng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và thưa: Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy. Sự khẩn cầu của hai ông cũng giống như sự cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Mở lời cầu xin, nếu nhận được ơn ngay, thì dễ dàng quá. Ai cũng có thể cầu xin được. Không trải qua đắng cay thử thách, chúng ta không thể đạt được triều thiên vinh quang. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho hai ông và các tông đồ về cách sống đạo. Muốn được hưởng vinh quang, các ngài phải uống chén đắng mà Chúa sắp uống. Có nghĩa là phải sống, phải tu luyện, phải phấn đấu trường kỳ và phải chịu mọi thử thách gian nan trong niềm tin.

Chúa Giêsu đã uống chén đắng qua tất cả những khổ đau mà Ngài phải chịu. Chúa bị người đời ruồng bỏ, chống đối, tẩy chay, khinh dể, nhạo báng, đánh đập, xô đẩy, khạc nhổ, la hét, phản bội, chối từ, đóng đinh và chết trên thập giá. Chúa chấp nhận tất cả như người tôi tớ trung tín để cảm thông mọi nỗi cơ cực của con người. Hai tông đồ Gioan và Giacôbê đã đi trọn con đường theo Chúa. Tông đồ Giâcobê là người đầu tiên trong mười hai tông đồ đã đổ máu đào làm nhân chứng cho Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Thánh Gioan đã một đời rao giảng về tình yêu của Chúa và tín trung cho đến giây phút cuối cùng.

Tin vào Chúa là bước theo con đường Chúa đã đi. Chúng ta không thể đi theo con đường tắt để đạt vinh quang. Con đường vắn gọn, thư thái nhẹ nhàng chỉ là bánh vẽ và ảo tưởng. Muốn hành đạo tốt, chúng ta phải bước xuống. Sống đạo phải khởi đi từ trái tim yêu thương. Chúa Giêsu đã trải nghiệm kiếp người trong khiêm hạ phục vụ. Chúa là Thầy và là Chúa đã quỳ xuống, lấy nước rửa và lau chân cho các môn đệ. Chúa đã không loại trừ một ai, cho dù Chúa biết có những đôi bàn chân không xứng đáng. Chúa đã hạ mình xuống tận cùng để lãnh nhận công việc của người tôi tớ. Từ đáy vực thẳm thấp hèn, Chúa đã nâng con người lên làm bạn hữu và được đồng thừa tự vinh quang trong Nước Chúa.

Chúa Giêsu đã mở con đường phục vụ trong khiêm hạ. Một lời mời gọi phục vụ chân tình đối với tất cả các phẩm trật trong Giáo hội. Đặc biệt trong các giờ phụng vụ thánh lễ và các nghi lễ, linh mục và các thừa tác viên có những trách nhiệm và bổn phận riêng phải chu toàn. Chúng ta hãy ý thức tôn trọng lẫn nhau, đừng dẫm chân lên nhau, đừng lớn tiếng phàn nàn, đừng tỏ thái độ cau có và xúc phạm danh dự của nhau. Chúng ta cùng đến để phục vụ cộng đoàn, chứ không phải được phục vụ.

Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi xưa là con đường khổ giá, khiêm tốn và phục vụ, xin cho chúng con biết dõi theo lối gót của Chúa để cùng xả thân hy sinh phục vụ tha nhân.

Về mục lục

CHUYỆN HAI ANH EM NHÀ DÊBÊĐÊ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Hôm 7/10/2021, Thủ Tướng gửi công điện hoả tốc yêu cầu các tỉnh thành hợp tác tạo điều kiện cho những ai muốn có thể trở về quê an toàn, bình an trong mùa dịch này! Xem các hình ảnh, clip người dân chở nhau về quê trên những chiếc xe hai bánh, có khi còn là xe đạp hay đi bộ nữa, với quãng đường hàng trăm, có khi hàng ngàn cây số, mà thương dân mình quá! Và tôi ngạc nhiên: tại sao tình hình như vậy mà các vị lãnh đạo phải chờ đến thủ tướng ra lệnh mới làm. Làm lãnh đạo phải dự đoán được làn sóng dân trở về quê lần này, vì trước đó ít lâu đã có lần dân muốn về quê mà không được phép, nên lần này phải chuẩn bị cho việc này chứ, tại sao lại chặn dân lại như vậy?!

Ngoài tài năng, còn cần đến tấm lòng nữa mới làm lãnh đạo được! Mà phần tấm lòng này lại rất cần, nếu không, tài năng kia chỉ được sử dụng nhằm tìm lợi ích cá nhân, phe nhóm thôi!

Ngày 11.10, Giáo hội mừng lễ Thánh Giáo Hoàng Gioan 23, tôi nhớ ngay đến tên mà người ta đặt cho ngài “người cha tốt bụng” (buon papa). Ngài là con người rất bình dị và gần gũi với người bình dân, ngay cả khi là giám mục, Hồng Y và giáo hoàng nữa! Tấm lòng mục tử khiến ngài trở nên liều lĩnh, dấn thân giải quyết những vấn đề khó khăn của Giáo Hội khi làm sứ thần, nhất là liều lĩnh khi mở công đồng Vaticanô II, đưa đến những chuyển biến vô cùng quan trọng cho Giáo Hội trong cách hiện diện và trong sứ mạng với trần thế. Sự liều lĩnh này khởi đi từ cảm nhận của người cha tốt bụng: không muốn Giáo Hội sống trong sự đối đầu với xã hội trần thế! ( Lm Giuse Nguyễn Trọng Sơn, suy niệm Lễ Thánh Giáo Hoàng Gioan 23, ngày 11.10.)

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bài học “làm lớn”, “làm đầu” cho các Tông Đồ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Đây là nẻo đường duy nhất đưa tới uy tín và sự cao cả thật sự. Phục vụ là tiêu chuẩn giúp đánh giá sự cao cả và thành công đích thực. Ai là người tôi tớ của mọi người, ai phục vụ nhằm mưu ích cho kẻ khác, với trọn tâm hồn, với tất cả sức lực, người ấy thật sự là người đứng đầu mọi người.

Đọc kỹ câu chuyện Tin Mừng, ta thấy hai anh em nhà Dêbêdê có vẻ như thấy mình được “cưng” cách riêng nên dám đến nói nhỏ với Đức Giêsu, và xin Người “ừ” trước rồi mới nói ra điều mình xin: “Thưa Thầy, chúng con xin Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Người cũng có vẻ gật đầu trước: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Họ nói rõ điều họ muốn. Có vẻ như họ nghĩ phen này lên Giêrusalem là Thầy lên làm vua đây. Đến phiên Đức Giêsu cũng đòi họ “vâng” trước: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nỗi chén Thầy sắp uống không, hay chịu được Phép Rửa mà Thầy sắp chịu không?”. Các ông không biết mình xin gì và cũng chẳng hiểu “chén Thầy sắp uống”, “Phép Rửa Thầy sắp chịu” là gì, nhưng hiểu rằng hễ chịu điều kiện ấy thì sẽ được như ý, nên trả lời ngay: “Thưa được”. Điều kiện thì Người cho ngay: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. Còn điều họ xin thì sao?. “Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”.

Thế là hai anh em chưng hửng! Nhưng không hiểu sao mười ông kia cũng biết chuyện hai anh em “đi cửa hậu” và phản ứng: “Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Sự hục hặc giữa các ông làm sao qua mắt Đức Giêsu được. Người dùng dịp này dạy dỗ các ông: Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Vẫn là chuyện các ông tranh dành địa vị với nhau. Lần trước thì Người đem một em bé làm mẫu. Lần này Người phân biệt cung cách của các môn đệ với cung cách của người đời. Môn đệ thì phải theo gương Thầy chứ đừng theo kiểu người đời. (Lm Giuse Nguyễn Công Đoan, Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Maccô.)

Rõ ràng, sự ganh đua quyền thế gay gắt đến nỗi làm các môn đệ từ một “Nhóm Mười Hai” lại chia thành phe cánh: “mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó”. Họ ganh tỵ, xét cho cùng, họ cũng đầy cao vọng. Họ cũng cao vọng bằng hai anh em nhưng họ không đủ can đảm để xin như anh em nhà Dêbêdê. Như một bậc thầy cao thượng và một nhà giáo dục khôn ngoan, Đức Giêsu vẫn bình tâm. Người đón nhận sự im lặng vô tâm của Nhóm Mười Hai. Người ân cần lắng nghe lời thỉnh cầu. Người cho họ biết rằng, những chỗ danh dự trên trời không dành cho những kẻ bè phái, nịnh hót, xin xỏ, nhưng dành cho những người xứng đáng. Người thẳng thắn đặt anh em nhà Dêbêdê trực diện với vấn đề và trực tiếp chất vấn các ông: “Các con không biết các con xin gì! Các con có uống nỗi chén Thầy sắp uống không?”. Người đưa ra xác quyết nhưng lại mở ngỏ cho lời đáp trả bằng cách ‘kéo Chúa Cha vào cuộc’: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”.Và nhất là, Người qui tụ các môn đệ trở lại vào nhóm, bên cạnh Người để có những lời rỉ tai, những lời của con tim thổ lộ với con tim: “Anh em biết… Giữa anh em thì không được như vậy…”. Chúa Giêsu dạy các ông lối hành xử của Người: muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ phục vụ mọi người. Chọn con đường cứu chuộc bằng thập giá, Người đã muốn sống tinh thần phục vụ.

Chúa Giêsu thanh luyện các môn đệ không chỉ bằng thái độ và lời nói, mà còn bằng chính đời sống gương sáng của Người. Sự đối lập giữa “làm đầy tớ” và “làm đầu” đòi hỏi một sự hoán cải trọn vẹn. Các môn đệ muốn làm đầu, Chúa Giêsu bảo: muốn làm đầu phải làm tôi tớ phục vụ mọi người. Đây là việc phục vụ của người hiến dâng bản thân, luôn quan tâm đến tha nhân vì yêu thương.

“Ai muốn làm lớn”, “Ai muốn làm đầu”, Chúa Giêsu không nói: “Ai được đặt làm lớn; ai được đặt làm đầu”, nhưng nói đến ý muốn, và ý muốn này đang có nơi các môn đệ và cũng đang có nơi tất cả chúng ta. Chính Chúa đã nói ý muốn của mình: “Con Người đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x.Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x.Is 53,10-11).Vì thế, phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của người môn đệ. Phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của những ai theo chân Chúa. Phục vụ là giúp đỡ, là làm đầy tớ, là bạn đồng hành chăm lo người khác và quan tâm đến những nhu cầu thiết thực của họ.Trong gia đình, ông bà cha mẹ phục vụ con cháu, anh chị em phục vụ lẫn nhau, con cháu phụng dưỡng ông bà cha mẹ. Ngoài xã hội, mỗi người là một thành phần đóng góp công sức phục vụ nhân quần xã hội. Trong Hội thánh, trong cộng đoàn lớn nhỏ, mỗi người là một chi thể sống và làm việc vì lợi ích cho tập thể.Vậy thì ai cũng là một người phục vụ. Nhưng để trở thành người phục vụ tốt, gương mẫu, xứng đáng cần hội đủ một số đức tính căn bản như khiêm tốn, quảng đại, tế nhị, tận tâm và hy sinh quên mình.

Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).

Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thịnh vượng hay không, Giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không, chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ – tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này. (Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa, suy niệm Chúa nhật 29 TN B: Làm đầy tớ.)

Chúng ta theo Chúa, chỉ mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa. Bên phải bên trái là sát bên Thầy. Mà Chúa đồng hóa mình với người tôi tớ, người bé nhỏ, người hèn mọn, cho nên càng là người tôi tớ, càng phục vụ, càng được ở gần Thầy.

Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đã nói: “Hoa quả của đức tin là tình yêu, hoa quả của tình yêu là phục vụ và hoa quả của phục vụ là bình an”. Một tình yêu đích thực sẽ luôn làm nảy sinh sức sống mãnh liệt giúp cho việc phục vụ đạt tới cùng đích cuối cùng.

Về mục lục

 

NGƯỜI TRẺ VÀ SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong những ngày này, Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới đang diễn ra tại Rôma, từ ngày 3 đến 28-10-2018, với sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một Thượng Hội đồng được triệu tập với đối tượng quan tâm là người trẻ trong Giáo Hội. Chủ đề của Thượng Hội đồng là: “Người trẻ, Đức tin và Phân định ơn gọi”. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, mỗi người sống trên thế gian đều có một sứ mạng. Trách nhiệm của họ là nhận ra sứ mạng của mình để chu toàn sứ mạng ấy. Sứ mạng ấy cũng là một ơn gọi. Giáo Hội muốn giúp cho người trẻ hôm nay tìm thấy ơn gọi của mình trong cuộc sống, để rồi phát triển ơn gọi ấy, đem lại những điều tốt đẹp cho bản thân cũng như cho xã hội.

Thượng Hội đồng là dịp để những người lãnh đạo Giáo Hội lắng nghe tiếng nói của người trẻ, với bao ưu tư và trăn trở trong cuộc sống hiện tại. Khi triệu tập một Thượng Hội đồng với đề tài liên quan đến người trẻ, Đức Thánh Cha khẳng định mối quan tâm đến người trẻ, vì họ là tương lai của Giáo Hội.

Theo thông lệ, hằng năm vào ngày Chúa nhật Truyền giáo, Đức Thánh Cha công bố một sứ điệp. Năm nay, nội dung của Sứ điệp là lời nhắn nhủ dành cho người trẻ trong Giáo Hội, xoay quanh đề tài truyền giáo của người trẻ. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng được thuyết trình và thảo luận trong Thượng Hội đồng. Trong Sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ hãy nhiệt thành cộng tác trong sứ vụ truyền giáo, vì đây là sứ mạng do Bí tích Thánh tẩy ủy thác. Ngài phân tích những “vùng ngoại vi” cụ thể trong xã hội hôm nay. “Ngoại vi” không còn là ý niệm về không gian như chúng ta vẫn hiểu, nhưng đó là “tình trạng con người cần Đức Kitô nhưng vẫn thờ ơ với đức tin hay tỏ ra chán ghét đời sống sung mãn trong Thiên Chúa. Mọi sự nghèo khó vật chất và thiêng liêng, mọi hình thức kỳ thị chống lại anh chị em chúng ta, luôn luôn là hậu quả của việc từ chối Thiên Chúa và tình yêu của Ngài”.  Theo lời Đức Thánh Cha, xung quanh chúng ta còn biết bao những “ngoại vi” cần đến sự hiện diện của các Kitô hữu. Sự hiện diện của chúng ta phải phản sánh sứ điệp của Tin Mừng, tức là giãi bày lòng nhân ái bao dung và khiêm nhường thành thật. Một hiện tượng xã hội hôm nay là “thế giới kỹ thuật số”. Những thành tựu của lãnh vực này đem lại nhiều tiện lợi không thể phủ nhận, nhưng cũng có nguy cơ làm cho bạn trẻ sống khép kín, trầm cảm, cô đơn và trở thành những con nghiện. Tình trạng này được đề cập trong phiên họp của Thượng Hội đồng ngày 11-10 vừa qua. Tiến sĩ Ruffini nói rằng mặc dù thế giới kỹ thuật số là một phát triển lớn lao và giúp cho việc trao đổi thông tin thuận lợi hơn, nhưng nó cũng có những ranh giới. Mối nguy của sự thao túng và nền văn hóa bạo lực là rất thực tế trong cả hình ảnh và bài viết. Giáo Hội phải giúp đưa tính nhân văn trở lại với thế giới kỹ thuật số. Đức Tổng giám mục Bruno Forte của giáo phận Chieti-Vasto, Italia, nói rằng Thượng Hội đồng nhìn nhận có rất nhiều người trẻ cô đơn, không xây dựng các mối tương quan có thực, nhưng lại đi tìm những tương quan trên mạng internet. Thượng Hội đồng đã suy nghĩ làm sao để Giáo Hội đến được với những người trẻ ấy; họ đang ngồi một mình trong bóng tối trước chiếc máy tính đe dọa sẽ nuốt chửng họ” (Trích từ bản tin của HĐGM).

Trong Sứ điệp nhân ngày Truyền giáo, Đức Thánh Cha cũng khen ngợi nhiều bạn trẻ trong Giáo Hội đã và đang âm thầm góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng qua những nghĩa cử bác ái. Chúng ta vui mừng vì tại Việt Nam, đông đảo các bạn trẻ tham gia các hội đoàn đạo đức hoặc các sinh hoạt từ thiện. Tuy vậy, nhiều nơi, các bạn trẻ còn thờ ơ với những hoạt động này. Nhiều bạn trẻ xa quê, không ý thức bổn phận giữ ngày Chúa nhật và các thực hành đạo đức, nên đời sống đức tin của họ bị mai một. Một trong những mối ưu tư lớn nhất của Giáo Hội là những bạn trẻ Công giáo kết hôn với người không cùng tôn giáo, chúng ta vẫn gọi là hôn nhân khác đạo. Phía bên Công giáo, vốn dĩ đời sống Đạo đã phai nhạt, có nguy cơ mất đức tin trong những trường hợp này.

Tôi là giáo dân và là một người vô danh trong Giáo Hội, làm sao tôi có thể truyền giáo? Nhiều bạn trẻ trong chúng ta đặt ra câu hỏi đó. Đức Thánh Cha khẳng định: “Không ai quá nghèo đến độ không thể cho cái họ có, nhưng trước tiên và trên hết là trao ban chính bản thân họ. Cha muốn lặp lại những lời khích lệ mà Cha đã nói cho giới trẻ ở Chilê: “Đừng bao giờ nghĩ rằng không ai cần các con. Nhiều người cần các con. Hãy nghĩ đến điều đó. Mỗi người trong các con hãy tự nhủ trong lòng: nhiều người cần đến tôi”.

Xin nhắc lại lời dặn dò của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày Giới trẻ Thế giới tại Rio de Janerio năm 2013: “Hôm nay, việc loan báo Tin Mừng cũng được trao phó cho các bạn, để nó có thể vang lên với sức mạnh tươi mới. Giáo Hội cần các bạn, cần lòng nhiệt thành, sáng tạo, niềm vui đặc trưng của các bạn… Các bạn có biết đâu là dụng cụ tốt nhất cho việc Phúc Âm hóa người trẻ? Đó là một người trẻ khác. Đây là con đường mở ra ra cho tất các các bạn đi theo”.

Chúng ta cầu nguyện cho Thượng Hội đồng đem lại những hiệu quả thiêng liêng cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là nơi những người trẻ. Trong ngày cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên toàn thế giới, mỗi chúng ta cũng hãy nghe lại lệnh truyền của Đức Giêsu phục sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Hai mươi thế kỷ đã qua, lệnh truyền này vẫn mang tính thời sự và vẫn thúc bách chúng ta. Những ai có lòng yêu mến Đức Giêsu, phải làm theo lệnh truyền của Người. Đó cũng là bằng chứng cụ thể cho lòng yêu mến ấy và nhất là cho đức tin mà chúng ta vẫn tuyên xưng.

Về mục lục

.

CHÚA SAI TÔI ĐI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.

Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?

– Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.

– Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.

– Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.

– Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.

Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác

Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.

Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?

2) Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?

3) Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không? Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?

Về mục lục

.

TRUYỀN GIÁO NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Truyền giáo là lẽ sống của Giáo Hội. Giáo hội không truyền giáo là Giáo hội đã đánh mất căn tính của mình và cũng đánh mất niềm vui của sứ vụ.

Năm xưa Chúa Giê-su đã tuyển chọn 12 tông đổ để huấn luyện thành người truyền giáo và Ngài đã ra lệnh cho các ông “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng”. Ngài còn chọn thêm 72 môn đệ để thêm những cánh tay, những đôi chân ra đi đến với muôn dân.

Phúc âm kể rằng sau khi các ngài ra đi nhân danh Chúa để chữa lành bệnh tât, xua trừ ma quỷ và loan báo về Nước Thiên Chúa, các ngài đã vui mừng trở về kể với Thầy Giê-su về thành quả họ đã làm được. Chúa Giê-sua đã cùng các ngài tạ ơn Chúa Chavà qua đó Chúa cũng nói với các ngài đừng chỉ vui mừng vì thành quả mình làm được nhờ nhân danh Chúa mà hãy cảm tạ vì qua những việc làm đó “tên các con được ghi trên trời”.

Hôm nay nhân ngày truyền giáo liệu rằng chúng ta đã có thành tích nào để kể với Chúa. Suốt năm qua chúng ta đã nhân danh Chúa để làm gì? Công việc chúng ta khiđến với anh em chúng ta đã xua trừ sự dữra khỏi môi trường hay chỉ an phận thủ thường? Chúng ta đã có chương trình phục vụ bệnh nhân để chữa lành cho họ, hay cũng theo chủ trương “mackeno””của thói đời?  Chúngta đã thực sự dám dấn thân để bảo vệ công lý vànâng đỡ kẻ yếu đuốihay chỉ bàn họp trên bàn giấy mà không đem ra thực hành?

Xemra từng người chúng ta phải đấm ngực tạ lỗi với Chúa rất nhiều. Nhìn lại những sinh hoạt của các giáo xứ và giáo phận dường như chưa có một công việc truyền giáo cụ thể nào để giới thiệu về tình yêu và lòng thương xót Chúa giữamuôn dân. Dân oan rất nhiều nhưng không thấy mục tử lên tiếng! Xã hội đầy thị phi bất công nhưng không thấy mấy ai dám dấn thân để đẩy lùi sự dữ!

Nhìn lại những sinh hoạt truyền giáo trong Giáo Phận chúng ta chỉ thấy những buổi tọa đạm, những báo cáo thành tích nhưng xa rời với thực tế. Bởi vì thực tế có mấy linh mục tu sĩ đã dành thời giờ để đến với lương dân? Đôi khi còn có những tông đồ của Chúa xa rời đàn chiên Chúa trao và cũng xa rời những con chiên không thuộc ràn mình? Có mấy ai đã thực sự sống dấn thân vì người nghèo và cho người nghèo đến quên bản thân? Giáo phận Xuân Lộc đã đào tạo hàng ngàn tác viên Tin mừng nhưng có mấy ai thực sự mong muốn tìm hiểu để trở thành nhà truyền giáo hay chỉ là đến học vì bổn phận mà bề trên bắt đi? Và sau khóa học thì mọi sự trở thành bình thường như mọi ngày? Cũngcó một vài nguời gọi là truyền giáo pa nô nhưng cũng chỉ là những công chức ăn lương hàng tháng và đi dạo cho qua ngày! Xem ra sự đào tạo này cũng chỉ mong cho các tác viên ấy sống tốt là quý rồi và không trông mong với kiến thức lượm lặt mươi ngày có thể đủ hành trang ra đi loan báo Tin mừng!

Chúa Giê-su khi sai các tông đồ môn đệ ra đi truyền giáo là Ngài ủy thác những công việc cụ thể. Người tông đồ truyền giáo không phải là những người chỉ nói thật hay để mị dân mà quan yếu là những hành vi cụ thể như: xua trừ sự dữ, xoa dịu nỗi đaubệnh tật, nghèo đói của đồng loại. . . Người tông đồ truyền giáo sống Tin mừng là tin mừng của yêu thương qua tấm lòng quan tâm chia sẻ với mọi phận người, nhất là những kẻ bé mọn mà Chúa gửi tới để ta bảo vệ chăm sóc.

Những năm gần đây chúng ta thấy có một hiện tượng rất lạ là nhiều người trên khắp miền đất nước kể cả lương giáo hayđến cầu nguyện Lòng Thương Xót với cha Trần Đình Long. Nhiều người nói rằng mình được ơn này ơn kia là do đến với cha Long lòng thương xót, và chính cha Trần Đình Long cũng để những người được ơn công khai nói lên ơn lành mình đã nhận được từ Lòng Thương Xót Chúa. Những buổi cầu nguyện Lòng thương Xót Chúa với những chứng nhân, cho tôi thấy những ai đến nơi đây cũng vui mừng như các môn đệ quay quần bên Chúa để kể với Chúa là những ơn lành họ được đều là nhờ vào Danh Thánh Lòng Thương Xót Chúa.

Thực hư của những chứng nhân chúng ta không dám phán xét, nhưng đối với Chúa Giê-su thì “không ai nhân danh Thầy mà trừ quỷ mà lại đi nói xấu Thầy”. Ở đây,ý Chúa muốn nói rằng nếu ai nhân danh Chúa thì họ có thể làm nhiều chuyện phi thường dù họ không là môn đệ Chúa, dù họ không phải là thánh nhân, nhưng Lòng Thương xót Chúa vẫn thi thố qua những con người hèn mọn ấy.

Như vậy, việc truyền giáo chỉ thành công khi chúng ta nhân danh Chúa mà làm. Chúa không đòi chúng ta bằng cấp tiến sĩ hay thạc sĩ, Chúa cũng không đòi chúng ta là thánh nhân, Chúa chỉ mời gọi hết thảy mọi người tùy khả năng hoàn cảnh mình để đến với anh em đểgiới thiệu về một Thiên Chúa gẫn gũi đầy yêu thương.

Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn. Amen

Về mục lục

.

PHỤC VỤ TRONG YÊU THƯƠNG

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Sống ở đời ai cũng ước mong có địa vị, mong được người khác đề cao và trong tay có nhiều đầy tớ, có nhiều thuộc hạ. Tuy nhiên, cách Chúa Giêsu dạy các môn đệ và con người lại khác,Ngài nói:”  Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống làm giá cứu chuộc cho nhiều người “ ( Mc 10, 10 ). Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cà mọi tín hữu.

Phục vụ đối với Chúa là điều cao cả nhất bởi vì tiếng phục vụ ở đây là làm người đầy tớ. Chúa Giêsu nói “ con người đến để hầu hạ chứ không phải được hầu hạ “.  Chúa là Thiên Chúa nhưng Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài làm gương cho các môn đệ. Chúa muốn dạy các môn đệ :” lãnh đạo chính là đầy tớ của các đầy tớ “ . Các Đức Thánh Cha bao giờ cũng ghi ở  cuối các bài huấn dụ, thông điệp vv…là tôi tớ của các tôi tớ. Đó là sự khiêm nhượng theo gương Đức Kitô. Các môn đệ một cách nào đó, cứ tưởng Chúa là vua đến khôi phục nước Israen, và như thế, các Ngài được chia chác chức vụ trong Vương Quốc Chúa khôi phục lại. Mẹ của Giacôbê và Gioan đã xin cho hai con của bà, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả của Chúa trong Vương Quốc của Ngài…Thực tế, cho tới giờ phút này và ngay lúc này, các môn đệ và ngay cả bà mẹ của Gioan và Giacôbê vẫn không hiểu rằng Nước của Chúa không thuộc thế gian này, nghĩa là Ngài đã không đăng quang lên ngôi theo cung cách các vua quan thế trần để cai trị, để thống lãnh con người, mà Ngài đã bước lên thập giá để hiến dâng mạng sống làm giá chuộc loài người, con người, để yêu thương nhân loại, yêu thương cho đến cùng. Chúa Giêsu đã đề cập đến cái chết của Ngài lần này là lần thứ ba để các môn đệ hiểu con đường của Chúa là con đường vinh quang thập giá. Con đường này đòi hỏi các môn đệ phải hy sinh, can đảm, quảng đại, dấn thân. Con đường của Chúa là con đường phục vụ, con đường quả cảm hiến bản thân để cứu chuộc nhân loại. Các môn đệ cần phải được thanh luyện, nghĩa là phải có Chúa Thánh Thần mới có thể nhận ra con đường mà Ngài muốn các môn đệ đi. Chết là định luật tất yếu của con người. Chúa Giêsu nhập thể làm người, nên Ngài cũng không nằm ngoài định luật ấy. Do vậy, khi loan báo về cái chết, Chúa Giêsu muốn nối kết nó với sứ mệnh của mình. Sứ mệnh của Chúa chỉ thực sự được hoàn thành bằng cái chết. Bọn Pharisêu, Kinh sư, Tư tế đã ghen ghét Ngài, chống báng và giết chết Ngài chỉ vì lời nói, việc làm, và cuộc sống của Ngài đã tố cáo sự gian các, bất chính, tự mãn của họ.Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu hãy noi gương bắt chước Chúa : phục vụ và hiến dâng mạng sống của mình vì tha nhân. Gia đình là cái nôi để tỏa sáng sự thương yêu, bác ái và từ nơi gia đình yêu thương, bác ái sẽ lan tỏa ra nhiều người xung quanh, đặc biệt tỏa sáng nơi những người nghèo, bệnh tật, cô đơn vv…Thực tế, nếu chúng ta chưa nên giống Chúa được thì chúng ta cũng hãy cố gắng giống như Đức Cha Jean Cassaigne ở giữa người cùi, phục vụ và chết chôn giữa họ, chúng ta hãy bắt chước bác sĩ phụ sản người Congo lo cho hàng 1000 trường hợp các cô gái bị hãm hiếp và đấu tranh cho nhân phẩm của họ. Chúng ta hãy sống hết mình, âm thầm phục vụ những người thân yêu, những người Chúa trao phú cho mình trong gia đình và những người sống xung quanh chúng ta. Cha sở họ Ars bên Pháp đã tàn tạ, già trước tuổi vì phục vụ không biết mệt mỏi ngày đêm cho phần rỗi các linh hồn và Ngài đã ra đi về với Chúa vì kiệt quệ, phục vụ các con chiên và các linh hồn với con tim rộng mở, hết sức quảng đại. Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã hết mình phục vụ cho người nghèo, cho những người hấp hối, nên Chúa đã tôn vinh Mẹ.

 Con người chỉ hơn nhau khi người ta biết sống quảng đại, biết chia sẻ và biết cho đi.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim quảng đại để chúng con biết phục vụ người khác mà không hề so đo, tính toán.Amen,

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Con đường Chúa muốn chúng ta đi là con đường nào ?

2. Tại sao Chúa nói người lãnh đạo là người phục vụ ?

3. Tại sao các Đức Giáo Hoàng luôn ký dưới các Tông Huấn, Thông điệp, Tự sắc , Văn kiện là “ tôi tớ của mọi tôi tớ ?”.

4. Chúa đã làm gương gì cho nhân loại hiểu Ngài là Đấng phục vụ ?

5. Tại sao Chúa  nói :” Đến để hầu hạ chứ không để được hầu hạ ?

Về mục lục

.

GIÁ CHUỘC TÌNH YÊU

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan.

Giá chuộc không chỉ đo bằng vật chất, tiền chuộc mà giá trị nhất ở chính mạng sống. Tình yêu làm giá chuộc cho muôn người, đó là một tình yêu ra khỏi chính mình, một tình yêu không ngừng trao tặng cho người mình yêu trải dài trong thời gian. Tình yêu giá chuộc đó có nhiều người chết cho con cái, chết cho bạn bè thân hữu…Một tình yêu trở nên giá chuộc cho muôn người, không chỉ cho một hoặc vài mà cho tất cả nhân loại, chỉ có duy nhất tình yêu của Thiên Chúa.

Tình yêu ra khỏi chính mình.

Khi yêu thương, ít nhất là cần có hai và tình yêu ấy cần có cả hai ra khỏi chính mình để gặp gỡ người mình yêu. M. Blondel nói rằng: “chính tình yêu làm cho hiện hữu” vì biết mình đang yêu và được yêu. Còn nhớ bao nhiêu người trẻ đi tìm cái chết bởi vì thấy thiếu tình yêu, mất đi ý nghĩa hiện diện ở cuộc đời.

Tình yêu làm cho sống và sống có ý nghĩa, tình yêu làm thành niềm vui, sáng tạo. Tình yêu cần có một đòi hỏi thật sự ra khỏi chính mình, hiệp thông, chung số phận với con người mình yêu, đi chung con đường người mình yêu cho đến tận cùng của sự sống và chết.

Một tình yêu đích thật luôn gánh vác mọi buồn vui, hạnh phúc, đau khổ, thanh xuân đến già nua, mạnh khỏe cũng như đau yếu. Tình yêu vô vị lợi, quảng đại, sẵn sàng tha thứ, yêu thương và đón nhận tất cả. Một tình yêu như Chúa dạy: “Hết lòng, hết sức, hết trí khôn” (Mc 12, 32). Một tình yêu như thế không dễ, thường thấy ở nơi tình yêu cha mẹ dành cho con cái. Tình yêu với cộng đồng lớn hơn lại đòi hỏi nhiều người hơn, bắt nguồn từ mỗi người. Một tình yêu cộng đồng nhỏ xây dựng hiệp nhất, gặp gỡ, chia sẻ, hy sinh, đón nhận, tha thứ, bỏ ích kỷ, chiếm hữu, lớn lên trong một cộng đồng lớn hơn, đa dạng hơn và phong phú hơn.

Nỗi khổ tình yêu

Tình yêu và nỗi khổ thường đi chung với nhau như hai mặt đồng tiền. Hy sinh, đón nhận đau khổ là những khía cạnh làm tình yêu dễ chịu thất bại. Có những nguyên nhân thất bại của tình yệu:

Sở hữu, chiếm hữu. Tình yêu như người ta nói “trao trái tim cho nhau, chứ đừng nắm giữ tim nhau”. Một sự trao nhận, tình yêu cần có tôn trọng nhau, không xét đoán, không coi mình là trung tâm, tiêu chuẩn để đánh giá. Cũng không phải là tình yêu bao che cho nhau trong lỗi phạm. Tình yêu cần có sự chữa lành, giữ cho nhau phẩm giá… Tình yêu không chiếm hữu, không lấy vật chất làm giá trị để nắm giữ tình yêu. Tình yêu mời gọi việc làm hơn là lời nói suông…

Vô ơn: Bội bạc trong tình yêu là không nhận ra nhau là món quà vô giá của nhau. Tìm nhau, gặp nhau, như một vật sở hữu, nhàm chán và bỏ đi. Mỗi người là một tặng vật vô giá của tình yêu. Không do ngẫu nhiên mà do từ bản chất “muốn yêu và được yêu”. Lời cám ơn xuất phát từ cõi lòng của người yêu nói với người mình yêu. Lời cám ơn ấy là nhận ra nhau, cần có nhau, cùng nhau chia sẻ, làm gia tăng giá trị cuộc đời của nhau và làm phát sinh hoa trái cho nhiều người.

Chối bỏ: Không có đau khổ nào bằng đau khổ của tình yêu bị chối bỏ. Dĩ nhiên không phải là một tình yêu cuồng si bị chối bỏ mà một tình yêu chân chính bị chối bỏ. Cách nói của người thời nay thường là “say nắng” một người khác, làm tình yêu bao năm gắn kết với người mình yêu bị chối bỏ.  Tình yêu ngã rẽ bao giờ cũng là một tình yêu gây nên nhiều đau khổ, cho người mình yệu, cho các con của mình, cho người thân, bạn hữu…

Tình yêu giá chuộc.

Tình yêu giá chuộc cho một người hay vài người hay nhiều người cũng là tình yêu đáng ghi nhận.Bởi tình yêu đó, có cha mẹ đã hy sinh tất cả cho con cái mình. Có người hy sinh cho cộng đồng, cho quê hương đất nước. Một tình yêu hy sinh mạng sống mình đổi lấy an bình, hòa bình. Đó là một tình yêu để cho cuộc đời thấy ý nghĩa bình yên, hạnh phúc.

Một tình yêu chết cho mọi người lại là một tình yêu không thuộc về con người nhân thế này. Chỉ có tình yêu của Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi thời gian, trên mọi loài, Đấng là Tình yêu Tuyệt Đối: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3, 16 – 17). Tình yêu nên giá chuộc cho muôn người là tình yêu vâng phục của Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, xuống thế làm người, mang lấy tất cả con người nhân loại, chỉ trừ tội lỗi và chịu chết thay cho tội lỗi nhân loại chúng ta.

Một tình yêu tuyệt đối mới có thể làm giá chuộc cho muôn người mà thôi. Con người chúng ta chỉ xin một phần nào có thể để làm cho gia đình, cộng đồng nhỏ thấy niềm vui và hạnh phúc khi mình tham dự và sống với nhau là khá rồi.

Xin Chúa giúp chúng con.

Về mục lục

.

CÙNG NGƯỜI TRẺ LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tháng 10 tháng Mân Côi, cũng là tháng truyền giáo, Giáo hội ngoài khám phá lại vẻ đẹp của lời Kinh này, khuyến khích con cái mình siêng năng đọc kinh Mân Côi, Giáo hội còn mời gọi chúng ta dấn thân cho việc truyền giáo.

Nhưng Chúa nhật truyền giáo để làm gì ?

Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo ; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.

Ai phải truyền giáo?

Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói :  “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta : “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảngTin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc 16, 15). Thánh Phaolô kêu lên : “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.

Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hộichứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly : “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Ðức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.

Thánh Phaolô viết : “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài, tình yêu chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thế giới.

Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo Hội cần đến với con người… công việc cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô”(Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).

Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay diễn ra trong bối cảnh THĐGM tại Rôma bàn về giới trẻ, nên Đức Thánh Cha Phanxicô chọn chủ đề “Cùng với người trẻ, chúng ta mang Tin Mừng cho tất cả mọi người”.

Ngài nhắc đến sứ mạng làm chứng và rao giảng Chúa Kitô mà mỗi Kitô hữu nhận lãnh khi chịu phép rửa tội. Ngài viết : “Sứ mạng thông truyền đức tin, trọng tâm sứ mạng của Giáo Hội, diễn ra qua sự ‘hay lây’ của tình thương, trong đó niềm vui và sự phấn khởi biểu lộ ý nghĩa được tìm lại và sự sung mãn của cuộc sống. Sự loan truyền đức tin bằng sự thu hút đòi chúng ta phải có con tim cởi mở, được tình yêu làm nở rộng”.

Nhắc đến lời Chúa dạy các môn đệ hãy mang Tin Mừng đến tận cùng trái đất, Đức Thánh Cha cắt nghĩa : “Những môi trường con người, văn hóa và tôn giáo vẫn còn xa lạ với Tin Mừng của Chúa Giêsu và sự hiện diện bí tích của Giáo hội chính là những khu ngoại ô tột cùng”, những bờ cõi của trái đất: mà các môn đệ thừa sai được gửi đến từ Chúa Giêsu Phục Sinh, với niềm xác tín có Chúa luôn ở cùng (Mt 28,20; Cv 1,8). Ơn gọi truyền giáo cho dân ngoại hệ tại điều đó.

Ngài giải thích thêm rằng “Khu vực ngoại ô tiêu điều nhất của nhân loại đang cần Chúa Kitô chính là sự dửng dưng đối với đức tin hoặc thậm chí đó là sự oán ghét chống lại đời sống sung mãn trong Chúa. Mỗi sự nghèo nàn về vật chất và tinh thần, mỗi sự kỳ thị chống lại các anh chị em luôn luôn là hậu quả của sự từ chối Thiên Chúa và tình thương của Ngài”.

Ngỏ lời với các bạn trẻ Đức Thánh Cha viết : “Các bạn trẻ thân mến, tận cùng trái đất, đối với các bạn ngày nay, thật là tương đối và luôn dễ dàng lướt trong đó, đó là thế giới tiềm thể, kỹ thuật số, các mạng xã hội đang tràn ngập và xuyên qua chúng ta, xóa bỏ mọi khoảng cách, thu hẹp những khác biệt. Dường như tất cả ở trong tầm tay, tất cả đều gần kề. Nhưng nếu không có ơn can dự của cuộc sống chúng ta trong đó, thì dù có vô số các tiếp xúc, chúng ta sẽ không bao giờ đi sâu vào một cuộc sống hiệp thông thực sự. Sứ mạng truyền giáo cho đến tận bờ cõi trái đất đòi phải có sự hiến thân trong ơn gọi được Chúa ban cho chúng ta, Đấng đã đặt chúng ta trên trái đất này (x. Lc 9,23-25). Tôi dám nói rằng, đối vơi một người trẻ muốn theo Chúa Kitô, điều thiết yếu là tìm kiếm và gắn bó với ơn gọi của mình”.

Lạy Mẹ Maria, Ngôi Sao truyền giáo, xin cầu thay nguyện giúp chúng con. Amen.

Về mục lục

.

GIỚI TRẺ DẤN THÂN TRUYỀN GIÁO

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chủ đề Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay là “Cùng với người trẻ, chúng ta mang Tin Mừng cho tất cả mọi người”. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi giới trẻ dấn thân trong sứ mạng mang Tin Mừng cho tất cả mọi người, cho đến “tận cùng trái đất”.

Đức Thánh Cha nói rằng, mỗi người chúng ta được mời gọi để phản ánh một sự thật là “tôi là một nhà truyền giáo nơi thế gian này”, đó là lý do chúng ta đang ở đây trong thế giới này. “Mỗi người, nam và nữ là một nhà truyền giáo. Để được thu hút và để được sai đi là hai động thái” của trái tim “vì triển vọng tương lai của chúng ta cũng như định hướng cho cuộc đời của chúng ta”.

Truyền giáo là một sứ mạng thiêng liêng cao cả, khởi nguồn từ Thiên Chúa. Qua mọi can dự vào lịch sử loài người, Thiên Chúa Ba Ngôi đã làm tất cả “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”.

Sứ mạng truyền giáo đã được trao phó cho Giáo Hội. Khi lập Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu cho thấy ý định trao phó sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội sau này (x. Mc 3,13). Trước khi rời các Tông đồ để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã trực tiếp ban mệnh lệnh truyền giáo cho các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21), “Anh em hãy đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Chính các Tông đồ và những cộng sự của các ngài đã thừa hành mệnh lệnh này một cách xuất sắc. Trải qua bao khó khăn dọc dài lịch sử, các ngài đã đem Tin Mừng Phục Sinh tới nhiều miền và cho nhiều tâm hồn. Hơn hai ngàn năm qua, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, các thế hệ tông đồ truyền giáo đã nối tiếp nhau mang Tin Mừng đi khắp địa cầu. Như vậy, truyền giáo xuất phát từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô sứ mạng này đã được trao cho Giáo Hội, nhờ Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trung thành và nhiệt thành chu toàn sứ mạng cho đến ngày tận thế.Thực thi sứ mạng truyền giáo là chia sẻ cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, yêu thương đến cùng, yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. Truyền giáo là làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống.

  1. Nội dung truyền giáo

Nội dung truyền giáo có 4 công việc quan trọng.

  1. Truyền giáo là Rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Rao giảng là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Truyền giáo là “loan báo Tin mừng”.
  2. Truyền giáo là “thiết lập cộng đoàn các môn đệ”, cộng đoàn những người tin vào Chúa Kitô, cộng đoàn này chính là Giáo Hội. Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.
  3. Truyền giáo là “cử hành Phụng vụ và các Bí tích”. Chúa Giêsu cũng nói rõ: “làm phép rửa cho họ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Các Bí tích thuộc về Nhiệm cục Cứu độ của thời đại Tân Ước, được Chúa Giêsu thiết lập, để qua đó ban ơn cứu độ cho con người.
  1. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu

Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội thời nào và ở đâu cũng bắt đầu từ mẫu gương Chúa Giêsu.

Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu.

Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó.Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo.Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.

Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mình sống và làm việc. Đời sống của giáo dân là phương tiện truyền giáo hữu hiệu hàng đầu. Muốn truyền giáo, giáo dân phải có lòng đạo nhất định. Việc tái truyền giáo giúp tẩy xóa hay giảm bớt những cách sống phản Tin Mừng nơi người đã có đức tin. Thực tế, chẳng ai lại đi theo một cái Đạo mà ngay cả tín đồ cũng không thực hành Đạo. Cũng chẳng ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Tái truyền giáo sẽ giúp giáo dân đong đầy hành trang là những giá trị Tin Mừng cho cuộc sống, thay cho những lối sống buông thả và thiếu cố gắng xưa nay. Muốn giới thiệu Chúa cho người chưa biết Chúa, người giáo dân phải thấm nhuần đạo lý, sống trong thế thượng phong về luân lý, về đức bác ái và sự công bằng. Như thế, từng cá nhân, từng nhóm và cộng đoàn, mới dấn thân vào việc truyền giáo. “Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá đời sống của mình… Như Công đồng Vaticanô II nói: Giáo dân phải hợp tác vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh; là những chứng nhân và đồng thời là những công cụ sống động, họ chia sẻ sứ mạng cứu rỗi của Hội Thánh” (Ad Gentes, 41)”.

  1. Giới trẻ dấn thân truyền giáo

Trong Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới Năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các bạn trẻ hãy đi ra: “Các bạn trẻ thân mến, đừng để cho tính năng động của tuổi trẻ bị dập tắt trong bóng tối của một căn phòng khép kín trong đó cửa sổ duy nhất thông ra thế giới bên ngoài là máy tính và điện thoại thông minh. Hãy mở rộng cánh cửa của cuộc sống các bạn! Cầu xin cho thời gian và không gian của các bạn tràn ngập những mối quan hệ có ý nghĩa, những người thực, là những người các bạn chia sẻ kinh nghiệm thực và cụ thể của bạn về cuộc sống hàng ngày”.

Đức Thánh Cha hy vọng nhiều vào giới trẻ. Ngài nói: “Người trẻ là niềm hy vọng của sứ vụ truyền giáo. Con Người của Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng mà Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ. Họ tìm cách hiến thân phục vụ nhân loại với lòng can đảm và nhiệt tâm. Có nhiều người trẻ đang cung cấp sự đoàn kết của họ chống lại các sự dữ của thế gian và tham gia các hình thức khác nhau của đấu tranh và hoạt động tình nguyện…. Đẹp thay khi thấy rằng các người trẻ đang là ‘những người rao giảng ngoài đường’, vui sướng đem Chúa Giêsu ra mọi nẻo đường, mọi quảng trường của thành phố, đến mọi ngóc ngách của trái đất!”.

Trong Sứ Điệp Truyền Giáo Năm 2018, Ngài mời gọi: “Các bạn trẻ thân mến, tận cùng trái đất, đối với các bạn ngày nay, thật là tương đối và luôn dễ dàng lướt trong đó, đó là thế giới tiềm thể, kỹ thuật số, các mạng xã hội đang tràn ngập và xuyên qua chúng ta, xóa bỏ mọi khoảng cách, thu hẹp những khác biệt. Dường như tất cả ở trong tầm tay, tất cả đều gần kề. Nhưng nếu không có ơn can dự của cuộc sống chúng ta trong đó, thì dù có vô số các tiếp xúc, chúng ta sẽ không bao giờ đi sâu vào một cuộc sống hiệp thông thực sự. Sứ mạng truyền giáo cho đến tận bờ cõi trái đất đòi phải có sự hiến thân trong ơn gọi được Chúa ban cho chúng ta, Đấng đã đặt chúng ta trên trái đất này (x.Lc 9,23-25). Tôi dám nói rằng, đối với một người trẻ muốn theo Chúa Kitô, điều thiết yếu là tìm kiếm và gắn bó với ơn gọi của mình”.

Trọng tâm của sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội là sự lây lan của tình yêu, nơi đó niềm vui và lòng nhiệt thành được diễn tả bằng ý nghĩa mới khám phá và đầy đủ trong đời sống. Việc lan truyền của đức tin qua “sự thu hút” đòi hỏi những con tim biết cởi mở và biết đưa vòng tay ôm rộng vì tình yêu. (x.Sứ điệp Truyền giáo 2018). Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực: kinh doanh, sản xuất, buôn bán… với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.

Cuộc đời thật cần gương sáng. Gương sáng để đẩy lùi điều xấu. Gương sáng giúp cho xã hội bớt cái xấu và giúp cho cái tốt, cái thiện phát triển mạnh hơn. Gương sáng ở nơi gia đình sẽ giúp cho mọi thành viên sống tốt hơn. Gương sáng nơi học đường sẽ giúp cho nhà trường rạng rỡ hơn. Gương sáng giữa bạn bè sẽ giúp nhau thăng tiến. Gương sáng ở nơi môi trường sống sẽ đẩy lùi những tệ nạn, những trào lưu văn hóa xấu.

Hôm nay là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo, thiết tưởng chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội có nhiều gương sáng sống đạo, hơn là những người giảng thuyết mà thiếu gương sáng giữa đời.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta, đặc biệt là người trẻ, luôn ý thức được sứ mạng truyền giáo bằng chứng tá của mình, để ra sức sống tinh thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.

Về mục lục

.

TRUYỀN GIÁO HAY RAO GIẢNG TIN MỪNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian 02 năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi ‘mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là viết cho chính mình đấy thôi.

Tôi nhớ là: năm 2003, sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình. Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu…, nên tôi đã quyết định xin có một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và học hỏi về các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ); chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia (Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian, với tư cách giám tỉnh, thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam. Hơn nữa, trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma; ấy thế mà khi thực sự tới và làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo ‘Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia, cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngằn ngủi này đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.

Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ ‘truyền giáo’ thông dụng, vì thấy nó quá mập mời dễ gây hiểu lầm. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘cải đạo’ (proselytism), thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Ki-tô mất rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Va-ti-can II phế bỏ! ‘Missio’ phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (‘thừa sai’) để ‘rao giảng Tin Mừng’ (evangelisare), có nghĩa là để loan báo Tin Mừng cứu độ, để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã từng được Đức Ki-tô Giê-su thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết Thập Giá. Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội, thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm lớn. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). Như thế ‘Loan báo Tin Mừng’ không làm gì khác hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào sự chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su;  và một khi họ đã tin nhận điều đó, ta mời gọi họ gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại đó.

Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất ‘dội’ đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Ki-tô giáo’ mà ta sẽ mở mắt cho họ biết, để rồi, nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định, luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng. Thiết tưởng: khi Đức Ki-tô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Ngay câu nói: ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ! Nhìn vào chính Đức Giê-su ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri đang sống chung chạ sau năm đời chồng. Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn… Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là cho mọi người nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ đại loại là như thế.

Từ cái kinh nghiệm ‘thừa sai’ còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được một bài học cơ bản: Thiên Chúa, không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác biệt với nền ‘luân lý Ki-tô giáo’ mang tính định canh định cư của lịch sử, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Ki-tô Giê-su. Công việc của một ‘thừa sai’ như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Ki-tô Giê-su Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cất cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ thừa sai.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày. Con coi đó chính là công việc ‘truyền giáo = thừa sai’ Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống này. A-men 

Về mục lục

.

DANH VỌNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Môn đồ yêu dấu nài van,
Hai ông hai chỗ, sẻ san quyền hành.
Vinh quang tỏa sáng danh thành,
Xin điều không biết, sẽ dành cho nhau.
Ngồi bên tả hữu trước sau,
Phải qua phép rửa, khổ đau chất chồng.
Uống phần chén đắng được không?
Chén Thầy sắp uống, mặn nồng sầu thương.
Các con vững bước can trường,
Dõi theo lối bước, trên đường Thầy đi.
Việc ngồi phải trái là chi,
Cha Thầy quyết định, thực thi công bình.
Tông đồ theo Chúa bực mình,
Đua chen ganh tị, bất bình nhỏ nhen.
Các con ánh sáng muối men,
Hiến thân phục vụ, sang hèn xá chi.

Ai muốn làm lớn thì hãy phục vụ mọi người. Qua câu truyện của hai anh em Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên tả, bên hữu Chúa. Lời cầu xin chân thành nhưng đầy tham vọng. Chúa đã dạy cho chúng ta một bài học về sự khiêm nhường và phục vụ. Những điều Chúa dậy đi ngược lại với quan niệm người đời. Đối với người đời, ai làm lớn thì có quyền sai khiến và được cung phụng. Ai làm hạ cấp thì phải hầu hạ và phục vụ.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng hạ mình mang thân phận mỏng dòn như chúng ta. Qua sự khiêm hạ, Chúa đã đến với mọi người. Chúa lấy tình yêu chữa lành các vết thương lòng. Trước khi chịu khổ hình, Chúa đã qùy xuống rửa chân cho các môn đệ. Đây là một sáng kiến hoàn toàn mới lạ. Xưa nay chỉ có đầy tớ mới rửa chân cho chủ. Một thái độ khiêm nhu sâu thẳm.

Trong Giáo Hội, quyền bính được trao ban không phải cho kẻ ham muốn kiếm tìm. Giáo Hội chọn và trao cho những người có thiện chí và có khả năng phục vụ trong các chức bậc của Giáo Hội. Giáo Hội không có vận động tranh dành tìm hậu thuẫn, gây ảnh hưởng nhưng dựa vào sự phán đoán khách quan và dựa vào đời sống đạo hạnh để chọn lựa. Vì chức vị càng cao thì trách nhiệm càng nặng nề. Những ai có địa vị trong Nước Chúa, thì họ phải phục vụ chứ không hưởng thụ.

Chúng ta đến với tha nhân, không phải tìm danh vọng nhưng là để phục vụ tha nhân. Phục vụ tha nhân với niềm vui ơn cứu độ. Truyện kể mẹ Têrêxa mỗi ngày trước khi sai các Dì đi thăm viếng, mẹ ban phép lành. Có ngày kia, nhìn thấy một chị mặt mày ủ rũ. Mẹ đã giữ chị ấy lại ở nhà. Chị hỏi: vì sao? Mẹ nói: Người ta đã đau khổ và chán nản, nếu nhìn thấy người chị em đến với mình mặt mày khổ sở, chỉ làm cho họ khổ thêm.

Chúa mời gọi chúng ta đến để phục vụ anh chị em. Mỗi người trong một chức bậc và hoàn cảnh khác nhau. Các bề trên thường khuyên dạy các anh chị em khi ra đi làm nhân chứng, có ba điều cần thiết là hãy khoan dung, độ lượng và nhân từ. Ba điều này sẽ thắng được tâm hồn kẻ khác.

Được phục vụ là một hạnh phúc tuyệt vời. Hạnh phúc của niềm vui cho đi. Đây là niềm vui của tâm hồn, không ai có thể lấy mất. Thánh Gioan và Giacôbê đã hiểu được sứ mệnh phục vụ. Các ngài đã hiến trọn cuộc đời theo Chúa, hiến thân vì Chúa và phục vụ tha nhân. Xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng con ra đi phục vụ anh chị em trong niềm vui ơn cứu rỗi.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến,

Hôm nay là ngày Chúa Nhật Quốc Tế Truyền Giáo, một trong những ngày quan trọng trong chu kỳ phụng vụ trong năm, quan trọng vì mối tương quan giữa ngày lễ này với Chúa Kitô, với Giáo Hội và với mọi Kitô hữu. Để nhận thức đúng mức tầm quan trọng của Ngày Quốc Tế Truyền Giáo, chúng ta phải đặt mình trong cái nhìn, trong tư tưởng và tâm tình của Chúa Kitô. Vì như lời Người đã nói với ông Simon Phêrô: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16.17)

Vì thế, dưới ánh sáng của Chúa Cha, chúng ta hãy suy niệm về sứ vụ truyền giáo.

I. LÝ DO PHẢI TRUYỀN GIÁO

*  Chúa Cha đã sai Tôi (Ga 12.49)

Chúa Giêsu vẫn tự xưng mình là người được Chúa Cha sai. Hàng chục lần, Người đã sử dụng danh xưng này. Người “được sai đi để loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,43), “để cứu độ trần gian” (x. Ga 3,17), “để hoàn thành những việc Chúa Cha giao phó” (x. Ga 5.36). Người là tông đồ, là thừa sai, là nhà truyền giáo của Chúa Cha. Tông đồ có nghĩa là được sai đi; và suốt đời, Người đã làm công việc này. Từ ngày nhờ Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, Người đã mang niềm vui đến thăm gia đình bà Elisabeth (x. Lc 1,44) cho đến mệnh lệnh cuối cùng của Người trước khi về trời (x. Mt 28,19), tất cả cuộc đời của Người đều hướng về việc truyền giáo. Theo các thánh sử, thì Người đã đi khắp miền Galilê (x. Mc 1,39), Jêrusalem, Samaria, Tyro và Sidon (Mt 15,21) và cả miền Thập Tỉnh (Mc 5,20). Người đã đi khắp các thành thị và làng mạc. Người đã rao giảng cho dân chúng ở miền duyên hải, trên núi đồi, trong các hội đường và cả những nơi hoang địa. Người đã nói: “Thầy ra đi cốt để rao giảng Tin Mừng” (Mc 1,39). Tông huấn loan Tin Mừng của Đức Phaolô VI đã viết: “Chính Chúa Giêsu, Tin Mừng của Thiên Chúa là nhà truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất. Ngài đã rao giảng đến cùng: nghĩa là đến mức hoàn hảo, đến hy sinh cả cuộc sống dương thế của Ngài” (số 6). Truyền giáo là sứ vụ hàng đầu của Chúa Giêsu, đấng được Chúa Cha sai.

* Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con (Ga 20,21)

Được sai đi loan Tin Mừng, Chúa Giêsu đã sai lại các môn đệ. Người đã thiết lập một Giáo Hội tông truyền, tức là được xây dựng trên nền tảng những người được sai đi (tông đồ) để loan Tin Mừng (truyền giáo) cho mọi người. Mệnh lệnh truyền giáo của người đều được 4 thánh sử ghi lại

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19).

“Hãy đi khắp bốn phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).

“Hãy rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).

“Như Cha đã sai Thầy đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).

Chúa Giêsu đã tuyển chọn và đào tạo các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14).

Tông huấn loan Tin Mừng viết: “Rao giảng Tin Mừng là ân huệ và ơn gọi của Giáo Hội, là chân tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu để rao giảng Tin Mừng” (số 14).

Công đồng Vaticanô II cũng đã dạy như vậy: “Tự bản tính, Giáo Hội luôn hành phải truyền giáo” (TG 2). Vì thế, chỉ có Giáo Hội truyền giáo mới là Giáo Hội đích thực của Chúa Kitô.

Bởi vậy không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn.

* Mệnh lệnh truyền giáo cũng là di chúc của Chúa Giêsu trước khi về trời, là “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mt 16,15). Mệnh lệnh này liên quan đến mọi tín hữu – vì như Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Ơn gọi làm kitô hữu tự bản chất là ơn gọi làm tông đồ” (TĐ số 20).

Nhưng làm rao đi được khắp tứ phương thiên hạ – hay đến tận cùng trái đất (Mt 28,19). Chúng ta không đi được, nhưng có người đi thay cho chúng ta. Là người Á châu, chúng ta không trực tiếp truyền giáo được cho Phi châu. Nhưng là chi thể trong một Thân Thể Chúa Kitô, chúng ta vẫn có thể làm được: bằng lời cầu nguyện, sự hy sinh, đời sống chứng tá và sự dâng hiến cho việc truyền giáo những của lễ thiêng thiêng và vật chất.

II. PHẦN CHÚNG TA.

  1. Chúng ta sẽ truyền giáo trước tiên bằng cầu nguyện.

Têrêsa Hài Đồng Giêsu nay là Bổn mạng các xứ truyền giáo. Người không đặt chân đến một nơi truyền giáo nào; cũng chẳng được đào tạo một lớp tông đồ nào để sai đi. Nhưng người chia sẻ tâm tình cứu thế của Chúa. Người cầu nguyện hy sinh cho việc truyền giáo. Người kêu gọi khuyến khích các tâm hồn tông đồ. Người sống như thể đang ra đi, đang rao giảng, đang chịu đau khổ, đang rửa tội cho lương dân. Giáo hội đặt người làm Bổn mạng các xứ truyền giáo để toàn thể Dân Chúa thấy phải tha thiết với việc truyền giáo như thế đó.

  1. Bằng những hy sinh đóng góp cho việc truyền giáo. Hằng năm các Đức Thánh Cha vẫn nhắc nhớ cho chúng ta điều đó. Ở Việt Nam chúng ta thì xem ra vấn đề đề này còn rất yếu. Các nước Tây Phương họ ý thức rất rõ về vấn đề này.
  2. Ngoài những lời cầu nguyện ra ngày hôm nay người nói rất nhiều đến đời sống chứng tá.

+ Một nhóm bạn trẻ từ nhiều quốc gia đang bàn thảo về cách làm cho Tin Mừng Chúa được lan rộng. Họ nói về sự tuyên truyền, về tài liệu và những cách phổ biến Tin Mừng trong thế kỷ XX này.

Một cô gái Phi Châu nói:

– Khi muốn truyền đạo cho một làng của chúng tôi, chúng tôi không cho họ sách. Chúng tôi gửi một gia đình Kitô giáo tốt đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu.

+ Một buổi chiều năm 1953, các ký giả và một số nhân viên chính phải phủ Hoa Kỳ tập trung ở một nhà ga xe lửa tại Chicago để chào đón người được giải thưởng Nobel hòa bình năm 1953 trở về.

Người vừa xuống khỏi xe lửa là một người đàn ông cao lớn, tóc quăn, có một chòm râu mép dài. Các máy ảnh chớp liên hồi. Các nhân vật cao cấp của thành phố giang rộng tay đón chào vị thượng khách.

Người được giải Nobel hòa bình cám ơn mọi người rồi rồi đưa mắt nhìn về một một chỗ xa xa ở trên sân ga. Ông xin kiếu vài phút để đi thẳng về hướng đó. Mọi người tưởng ông để quên hành lý nào đó. Ông băng qua đám đông, trực chỉ đến một người đàn bà da đen lớn tuổi đang khệ nệ với hai va ly nặng trên tay. Ông đưa tay xách cả hai va ly, rồi đưa người đàn bà ra một chiếc xe buýt gần đó. Khi giúp người đàn bà lên xe xong, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông, ông xin lỗi vì đã bắt mọi người chờ đợi.

Người được giải thưởng hòa bình năm 1953 ấy không ai khác hơn là bác sĩ Albert Schweitzer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh cả cuộc đời cho người nghèo tại Phi Châu.

Chứng kiến cử chỉ của ông, một người thuộc ủy ban tổ chức đón tiếp ông hôm đó nói với các ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy được một bài giảng biết đi”

+ Một thương gia giàu có  xin nhập đạo. Khi được hỏi lý do, ông đáp:

– Nhờ gương một công nhân của tôi. Đôi lúc tôi nổi nóng, quát mắng, nhưng anh không hề tỏ ra giận ghét tôi, dù tôi biết anh rất đau khổ. Có khi tôi đối xử thô bạo với anh, anh không bao giờ thốt lên nửa lời. Thái độ của anh làm tôi, dù là cấp trên, đem lòng cảm phục. Sự thực, anh chẳng bao giờ nói với tôi về đạo, nhưng đời sống đạo của anh đã chinh phục tôi. Giờ tôi không còn nghi ngờ gì nữa và tôi hy vọng Chúa Giêsu Kitô sẽ ban cho tôi sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu xin biến chúng con thành những người đi loan báo Tin Mừng cho Chúa. Amen.

Về mục lục

.

VỊ ĐẮNG CUỘC ĐỜI

Trầm Thiên Thu

Đau khổ thế trần đầy khắp chốn

Phúc vinhTthiên quốc chỉ một nơi

Cuộc đời có nhiều mùi vị. Theo nghĩa bóng, không ai thích vi cay đắng, chua chát,… mà ai cũng thích ngọt bùi. Còn theo nghĩa đen, ai cũng ưa vị cay nồng, đắng chát,… Mà cũng lạ, những gia vị cay đắng lại tốt cho sức khỏe hơn so với vị ngọt ngào. Hảo ngọt là chết chắc – dù nghĩa đen hay nghĩa bóng. Phải chăng đó là một dạng tự mâu thuẫn của con người?

Kể ra cũng khó có thể xác định, nhưng chắc chắn không ai muốn “chạm trán” với đau khổ – nghĩa là ai cũng tìm mọi cách và bằng mọi giá để tránh né đau khổ, thế nhưng hầu như ngày nào chúng ta cũng phải đối mặt với đau khổ, dù ít hay nhiều, với đủ dạng và đủ mức độ khác nhau. Càng tránh khổ càng khổ thêm, càng diệt khổ càng tăng khổ. Vô ích mà thôi! Tại sao? Bởi vì “ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).

Có lần chính Chúa Giêsu đã từng tỏ cho các môn đệ biết rõ rằng “Ngài PHẢI đi Giêrusalem, PHẢI chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi BỊ GIẾT CHẾT, và ngày thứ ba sẽ SỐNG LẠI” (Mt 16:21). Một câu ngắn mà có tới 2 từ PHẢI và 1 từ BỊ, cả hai đều ở thể thụ động. Não lòng quá! Đau khổ luôn có hệ lụy gần gũi với nước mắt, loại chất lỏng đặc biệt mang vị mặn đặc trưng khác hẳn với các vị mẳn khác.

Tuy nhiên, kinh nghiệm sống cho thấy rằng đau khổ như “phần cứng” được cài đặt mặc định trong mỗi con người, thậm chí còn như một chương trình “đóng băng” (DeepFreeze) về lĩnh vực máy vi tính, và người ta không thể thay đổi theo ý mình được. Thật vậy, đau khổ như một phần tất yếu của cuộc sống, không đau khổ cũng hóa “buồn tẻ” lắm, có đau khổ thì mới phải cố gắng, cố gắng khiến người ta vươn lên – tức là tự đổi mới chính mình. Chí lý lắm đấy chứ!

Chắc hẳn là thế. Này nhé, một đứa trẻ chưa hề nếm mùi đau khổ, thế mà vừa sinh ra đã bật tiếng khóc để chào đời. Vui sao lại khóc? Đứa trẻ nào không khóc là có vấn đề, cha mẹ lo sốt vó lên ngay. Như vậy, mặc nhiên người ta đã chấp nhận sự đau khổ là phần tất yếu. Người đời chia sẻ kinh nghiệm: “Đời là bể khổ”. Kinh Thánh đặt vấn đề: “Chuyện gì xảy ra cho con người sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời? Phải, đối với con người ấy, TRỌN CUỘC ĐỜI CHỈ LÀ ĐAU KHỔ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!” (Gv 2:22-23). Thật thê thảm!

  1. VÌ KHỔ MÀ ĐAU

Việt ngữ thường ghép hai chữ Khổ và Đau thành Khổ Đau hoặc Đau Khổ – đảo qua đảo lại mà chẳng thấy khác chi ráo trọi. Đúng là khổ thật! Trình thuật Is 53:10-11 là một phần của bài thứ tư trong số các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu”. Tình trạng thê thảm là “bị nghiền nát”, nhưng lại là để “được vĩnh tồn”. Thật lạ lùng và ngược đời quá! Đối với phàm nhân, tình trạng đó thật đáng sợ vì quá chua chát và cay đắng, có thể không còn nước mắt để than khóc nữa. Người Tôi Trung đó chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Và thật kỳ diệu, ngôn sứ Isaia giải thích: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Ôi, lòng thương xót của Thiên Chúa bao la vô tận, chúng ta không thể nào hiểu được!

Nhìn thấy người ta đau khổ mà rợn cả người rồi chứ nói chi chính mình phải chịu. Đau khổ nào cũng cay đắng, đắng đến tê lòng, thế nhưng đau khổ vẫn có vị ngọt bùi kỳ lạ. Thật diệu kỳ mầu nhiệm của sự đau khổ. Trong thực tế cuộc sống, khi chịu đau khổ vì tình yêu, có người gọi nỗi đau khổ đó là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm”. Vậy đó, đau thương mà vẫn thú vị, đau khổ mà vẫn dịu êm. Còn nước mắt lại được ví von là “giọt nước mắt ngà”. Thế mới lạ, thế mới cao thượng. Người đời con khả dĩ nhận thức như vậy huống chi những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa! Ai có khả năng cảm nhận được như vậy chính là người đã vượt lên trên nỗi đau khổ, đi xuyên qua nỗi đau khổ. Chắc chắn không ai có thể tránh đau khổ, nhưng muốn tránh đau khổ thì chỉ còn cách chiến thắng nó và làm chủ nó. Đó là cách độc đáo để tự “vượt qua số phận”. Vị đắng chợt hóa ngọt ngào.

Những người chấp nhận đau khổ là những người can đảm, họ can đảm nên không hề than thân trách phận, không so đo với những người may mắn khác, chắc hẳn người đó phải có chiều sâu tâm linh, luôn sống trong niềm tín thác vào Thiên Chúa quan phòng. Thật vậy, Thánh Vịnh gia bày tỏ: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Nói được như vậy là xác định Thiên Chúa là ai và biết rõ Ngài như thế nào: “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:9). Chúng ta không thể nào hiểu hết tình yêu Chúa, cũng không thể cân-đo-đong-đếm Lòng Chúa Thương Xót, vì tình yêu thương hoặc lòng trắc ẩn ấy vẫn triền miên hết ngày dài lại đêm thâu, suốt từ thuở hồng hoang trải dài từ đời nọ tới đời kia (x. Lc 1:50). Thật vậy, “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (1 Sbn 16:34; 1 Sbn 16:41; 2 Sbn 5:13; 2 Sbn 7:3; 2 Sbn 7:6; Er 3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4, 29; Tv 136:1-26).

Tiếp tục minh định về Đấng-Xót-Thương, Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-20). Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng ngay cả khi chúng ta quên Ngài mà Ngài vẫn luôn nhớ đến chúng ta, thậm chí cả khi chúng ta hoàn toàn đối nghịch với Ngài mà Ngài vẫn miệt mài tìm chúng ta để đưa về hưởng an bình nơi “đồng cỏ xanh rì bên suối ngọt lành” (x. Tv 23). Vô tri bất mộ, “tri” rồi thì không thể không “mộ”. Ai đã nếm thử Chúa ngọt ngào thế nào rồi thì không thể giữ riêng cho mình, mà tự lòng mình sẽ thôi thúc chia sẻ với người khác về Ngài: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), đồng thời tin tưởng và vui mừng cầu nguyện liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).

Và như vậy, cho tới lúc đó thì sự đau khổ không còn vị đắng cay nữa mà lại hóa vị ngọt ngào và êm dịu. Nghĩa là người ta có thể cảm nhận sâu sắc thế nào là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm” hoặc “giọt nước mắt ngà”. Quả là điều kỳ diệu, là mầu nhiệm về sự đau khổ.

Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Niềm tin luôn quan trọng trong cuộc sống đời thường, đức tin càng quan trọng gấp bội trong đời sống Kitô hữu, nhất là chúng ta đang sống trong Thời Cánh Chung, đồng thời còn phải lưu ý trách nhiệm chung là truyền giáo và tái truyền giáo.

Thánh Vịnh gia nói: “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118:9). Thật vậy, Chân phước LM Placid Riccardi (OSB, 1844-1915) cũng khuyên: “Đừng mong gì nhiều nơi những người quyền thế của thế gian này – vì hầu hết họ đều bỏ mặc những người nghèo khó trong cảnh bần hàn, họ vừa hèn hạ vừa thiếu quảng đại, giả điếc làm ngơ trước tiếng kêu than của những người yếu đuối và bất lực”.

Vừa giải thích vừa khuyến khích, Thánh Phaolô cho biết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã CHỊU THỬ THÁCH về MỌI PHƯƠNG DIỆN cũng như ta, nhưng KHÔNG PHẠM TỘI. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của cả nhân loại” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1485). Quả thật, nếu Lòng Chúa Thương Xót không lớn lao hơn mọi thứ xấu xa tồi tệ nhất trên đời này thì chúng ta chết ngay lập tức. Tại sao? Không khí là bằng chứng sống động về Lòng Chúa Thương Xót: Nếu không khí chỉ loãng hơn một chút hoặc đậm đặc hơn một chút, chúng ta đủ chết ngắc rồi chứ đừng nói chi đến thiếu không khí. Chỉ cần minh chứng đơn giản về không khí thôi, chúng ta cũng đủ để phải không ngừng tạ ơn Chúa rồi, đừng nói chi đến những thứ khác. Vì thế, “Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và ca tụng lời Người” (Tv 56:5 và 11).

  1. VÌ ĐAU MÀ KHỔ

Người ta thường nói: “Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ, vậy thà chịu khổ hơn chịu lỗ”. Nhưng phải xác định được mình CẦN gì, MUỐN gì và LÀM gì. Yêu thì khổ, khổ thì đau. Ai cũng được quyền tự do chọn lựa và quyết định.

Trình thuật Mc 10:35-45 nói về chuyện “chạy chọt” chức vụ của hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan. Họ thưa với Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Rào trước đón sau, rất đúng “bài bản”, thậm chí còn như “ra điều kiện” với Chúa vậy. Tương tự, chúng ta cũng thường xuyên có cách “cầu xin” như vậy. Chúa Giêsu hỏi họ: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Họ khoái chí thưa ngay, không hề ngại ngùng chi cả: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Rất thẳng thắn, rất thực tế, rất rõ ràng. Nhưng đó là cách cầu nguyện vị kỷ và tìm tư lợi. Hai con trai ông Dêbêđê chắc mẩm Sư Phụ rất “ngon”, nổi tiếng như cồn, quyền phép vô song, uy tín quá chừng luôn, chắc chắn Sư Phụ sẽ lên ngôi báu trị vì thiên hạ, làm cận thần của Thầy mình thì còn gì oai hơn chứ? Thật là trên cả tuyệt vời! Nếu là chúng ta, có thể chúng ta không muốn làm cận thần như họ, vì như vậy vẫn “bèo” lắm, mà có thể chúng ta muốn làm phó nguyên soái hoặc thủ tướng, chí ít cũng phải xin làm bộ trưởng. Xin cho ra xin mới bõ công!

Thế nhưng Đức Giêsu thẳng thắn nói luôn: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38). Chén này không phải là chén mật hoặc chén sữa, cũng chẳng phải là chén cà-phê, dĩ nhiên không phải là chén mật ngọt, mà là chén mật đắng; phép rửa này không rửa bằng nước mà rửa bằng máu tươi. Có lẽ các ông không hiểu ý Chúa nên mạnh dạn đáp: “Thưa được” (Mc 10:39a). Nếu thế thì quá ngon. Rất OK!

Rất điềm đạm và thản nhiên, Chúa Giêsu ôn tồn: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy KHÔNG có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. Vế thứ hai trong câu nói của Chúa Giêsu thật đáng lưu ý. Nghe Thầy trò họ đối thoại, mười môn đệ kia cảm thấy “nóng gáy” nên tỏ vẻ tức tối với anh em Giacôbê và Gioan. Đó cũng chính là động thái của chúng ta ngày nay, cũng ghen ăn tức ở chứ chẳng hơn gì họ ngày xưa, thậm chí còn kèn cựa nhau rất tinh vi theo dạng công nghệ “bốn chấm” ngày nay.

Sau đó, Chúa Giêsu gọi các đệ tử lại và nói: “Anh em biết rằng những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn LÀM LỚN giữa anh em thì phải LÀM NGƯỜI PHỤC VỤ anh em; ai muốn LÀM ĐẦU anh em thì phải LÀM ĐẦY TỚ mọi người”. Và Ngài dẫn chứng: “Vì Con Người đến KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC NGƯỜI TA PHỤC VỤ, nhưng là để PHỤC VỤ, và HIẾN MẠNG SỐNG làm giá chuộc muôn người”. Có thể tóm lại một câu ngắn gọn có vần điệu thế này cho dễ nhớ: “Làm đầu PHẢI hầu thiên hạ”.

Xưa cũng như nay, đối với con người, vấn đề phục vụ là chuyện rất tế nhị, dễ “chạm” vào “phần mềm nhạy cảm” của bất kỳ ai – dù đời hay đạo. Nhưng Lời Chúa quá rõ ràng, không bóng gió, không văn hoa, không tránh né. Tuy nhiên, trong sinh hoạt thường nhật, cái mà người ta nói là phục vụ người khác thì thực chất có thể lại chỉ là cung cách “phục vụ có điều kiện”. Rất đáng quan ngại!

Phục vụ là động từ, nghĩa là phải hành động cụ thể, chứ không là danh từ suông hoặc một mỹ từ để “trang trí” theo chức vụ, tất nhiên liên quan đau khổ. Hầu như mọi thứ đều liên đới với nhau, nối kết như mạng nhện vậy – không trực tiếp thì gián tiếp. Trên một tấm bảng đồng, người ta thấy khắc những dòng chữ tuyệt vời này:

Lạy Chúa, con cầu xin được Mạnh Mẽ để thành đạt trong cuộc đời, Ngài lại làm cho con ra YẾU ĐUỐI để biết VÂNG LỜI và KHIÊM HẠ.

Con cầu xin có Sức Khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao, Ngài lại cho con chịu TÀN TẬT để chỉ làm NHỮNG VIỆC NHỎ TỐT LÀNH.

Con cầu xin được Giàu Sang để sống sung sướng thoải mái, Ngài lại cho con NGHÈO NÀN để học biết thế nào là KHÔN NGOAN.

Con cầu xin có Uy Quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi, Chúa lại cho con THẤP HÈN để con biết CẦN NGÀI.

Con cầu xin có Tất Cả để tận hưởng cuộc đời, Ngài lại cho con CẢ CUỘC ĐỜI để TẬN HƯỞNG MỌI SỰ.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết cầu xin, thế mà Ngài vẫn ban cho con THẬT DƯ ĐẦY từ lâu.

Lạy Chúa, hóa ra con lại là người hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được VÔ VÀN ÂN PHÚC của Ngài. Con xin lỗi Ngài, xin tha tội cho con!

Ôi chao! Toàn là những thứ trái ngược nhau. Tuy nhiên, qua đó chúng ta khả dĩ nhận thấy rằng đau khổ không là điều đáng nguyền rủa, mà ngược lại, đau khổ lại là điều đáng mơ ước, vì đó là “thánh giá Chúa trao” – như người ta thường nói với những người chịu đau khổ. Vui chịu đau khổ là sống đức tin, là bước qua cửa hẹp (Mt 7:13-14; Lc 13:24), là vác thập giá theo Chúa (Mt 10:38; Lc 14:27), là từ bỏ chính mình (Mt 10:39; Lc 14:33). Hợp lý lắm!

Chúa Giêsu đã chịu đau khổ tới mức tột cùng, với nhân tính thì Ngài cũng vô cùng đau đớn. Thiết tưởng rằng mỗi chúng ta đều phải nghiêm túc xem lại đức tin của chính mình: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32-33).

Cuộc sống hầu như luôn TRÁI Ý chứ KHÔNG NHƯ Ý của mình, thế nên Chúa Giêsu mới bảo “vác thập giá” mà theo Ngài. Nhiều vị thánh đã có những lúc phải sống trong vùng tăm tối của linh hồn, nhưng các ngài vẫn một lòng trung tín. Đấng đáng kính Charles de Foucauld nói: “Đôi khi Thiên Chúa để chúng ta chìm trong tăm tối đến độ bầu trời của chúng ta không có một vì sao chiếu sáng. Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta sống trên trần gian để chịu đau khổ, trong khi vẫn bước theo Đấng Cứu Độ dịu hiền trên con đường tăm tối và chông gai. Chúng ta là những người lữ hành và những người xa lạ trên trần gian. Những người lữ hành ngủ trong những túp lều và nhiều lúc phải băng qua hoang mạc, nhưng khi nghĩ đến quê nhà là họ quên hết mọi sự khác”.

Lạy Thiên Chúa, chúng con thật là vô tích sự mà vẫn “chảnh”, xin biến đổi chúng con. Xin ban thêm đức can đảm và đức khôn ngoan để chúng con sống đức tin, không ngừng tuyên xưng Danh Thánh Ngài mọi nơi và mọi lúc, xin giúp chúng con biết dùng ánh mắt đức tin để nhận biết Thánh Ý Ngài trong mọi nghịch cảnh ở đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

QUYỀN HÀNH ĐỂ PHỤC VỤ

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Có chức có quyền là điều nhiều người mong ước, vì người có chức có quyền thường thống trị người khác và bắt người khác phục vụ mình; tuy nhiên theo Đức Giêsu, người lớn nhất phải là người phục vụ người khác, phải là người “nô lệ” người khác.

Chức quyền: điều nhiều người mong ước

Tiền của địa vị, giầu sang chức quyền, là những điều người đời vẫn tìm kiếm. Người có tiền của, có thể dùng tiền của để mua gần như được tất cả; người có chức quyền được người khác phục vụ, vì những người này có thể cho người ta điều họ mong muốn. Có những người có chức có quyền được hối lộ để họ cho người ta được quyền này quyền nọ, phép này phép kia, hầu những người này có thể làm được nhiều tiền hơn. Người có chức quyền thường được người ta trọng vọng, ăn trên ngồi trước. Có lẽ đó là những lý do nhiều người thích có chức vị quyền hành.

Các tông đồ khi theo Đức Giêsu cũng còn có tham vọng tương tự. Họ có ao ước lớn muốn giải phóng Israel khỏi ách thống trị của người Roma, nhưng cũng ao ước có chức có quyền. Điều này được thấy khi hai anh em Giacôbê và Gioan xin cho được ngồi bên tả bên hữu thầy khi thầy được vinh quang. Các tông đồ khác tức giận khi biết hai ông xin điều đó; sở dĩ vậy vì các ông cũng ao ước cùng một điều. Gioan và Giacôbê quá khôn nên muốn “qua mặt” các ông.

Đức Giêsu sẵn sàng cho hai môn đệ thân yêu được chia sẻ chén đắng và phép rửa của Ngài, nhưng còn việc ngồi bên tả bên hữu thì lại không thuộc quyền Ngài. Cái nhìn của Đức Giêsu về quyền hành chức vị khác người đời quan niệm rất nhiều. Với người đời, những người có chức có quyền được người khác phục vụ; còn đối với Đức Giêsu và cả những người theo Đức Giêsu, những người muốn làm lớn nhất giữa anh em mình, thì phải làm người phục vụ anh em, phải là tôi tớ anh em, phải là người “tùy thuộc” anh em để mưu lợi ích cho anh em mình.

Ai muốn làm lớn nhất phải là nô lệ của tất cả

Quyền hành đối với những người theo Đức Giêsu, không được dùng để trục lợi riêng cho mình như người đời thường làm, nhưng phải dùng để xây dựng, để làm tốt cho cộng đoàn. Với những thẩm quyền trong Giáo Hội, chẳng hạn như các cha xứ hoặc nơi những bề trên của các hội dòng, quyền bính là để phục vụ những thành viên trong giáo xứ hoặc cộng đoàn. Ai dùng quyền hành để bắt người khác phục vụ mình, là không sống theo lời dạy của Đức Giêsu, là không sống theo Đức Giêsu, và không là môn đệ đích thực của Ngài.

Trong Giáo Hội, có nhiều giáo xứ mà các tín hữu trong giáo xứ không phục tùng cha xứ, cũng có tu sĩ không phục tùng bề trên vì cho rằng bề trên không cai quản như người đại diện Thiên Chúa mà xử sự theo ý riêng của mình. Một người sống theo Đức Giêsu có lẽ cũng không buộc người khác phải vâng phục mình. Con người chỉ phải vâng phục Thiên Chúa thôi, và chỉ không vâng phục Thiên Chúa mới là tội thôi, còn con người với nhau, mình có khá gì hơn người khác mà đòi người ta tùng phục mình! Thiên Chúa đâu phải của riêng ai. Thiên Chúa đâu có thiên tư tây vị. Đâu phải chỉ mình có Thánh Thần còn người khác không có Thánh Thần! Đâu phải chỉ có những người có địa vị hoặc chức thánh mới có Thánh Thần! Đâu phải các tín hữu không có Thánh Thần! Kéo Thánh Thần về mình và “không cho” Thánh Thần hiện diện với người khác, là tội “ngăn cản” Thiên Chúa (mà đâu có ngăn cản được Thiên Chúa!).

“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga.20, 23). Quyền này được ban để tha tội; còn nếu người đó không có tội thì quyền này đâu được ban để buộc tội người ta. “Ai nghe các con, là nghe Ta” (), nhưng điều này đâu có nghĩa: ai không nghe các con là không nghe Ta. Khi những người có trách nhiệm ở trên tòa giảng dạy dỗ nhân danh Thiên Chúa, thì phải vâng phục họ, nhưng đừng bắt chước việc họ làm (Mt.23, 2-3). Tuy nhiên, nếu có một vị nào đã không dùng quyền hành để phục vụ dân Chúa, thì cũng không vì vậy mà phải liên minh chống lại họ. Hơn nữa, có chắc là họ dùng quyền hành để phục vụ họ không? Sao mình dám làm quan tòa mà phán xét họ. Thiên Chúa là Đấng thông biết tất cả, biết cả những gì kín ẩn, sẽ là Đấng phán xét chí công. Còn con người, có chắc gì những điều tôi biết về người đó là đúng, có chắc gì những gì tôi biết về người đó không nằm trong một “âm mưu” của một con người nào đó?

Phục vụ giúp người ta triển nở và hạnh phúc

Có lẽ những ai bận tâm về quyền hành nhiều, cũng là người thích quyền hành. Phải chăng nên là đừng bận tâm về quyền hành, hoặc nên tự do với quyền hành? Hãy phục vụ theo gương Đức Giêsu, phục vụ những con người cụ thể, làm tất cả những gì mình có thể làm được. Ai muốn có quyền để phục vụ, cứ để họ dùng quyền mà phục vụ. Những người không có quyền, cứ phục vụ như những người không có quyền. Cứ vâng phục lẽ phải, sẵn sàng vâng phục tất cả mọi người, cứ coi mình như nhỏ bé nhất để phục vụ, như vậy là theo gương Đức Giêsu. Bận tâm về những điều thuộc quyền bính làm gì! Đòi hỏi người khác phải làm điều này điều kia để làm gì! Tại sao họ lại phải làm theo ý tôi? Đâu phải chỉ những điều tôi cho là đúng mới là đúng!

Quyền hành không quan trọng bằng phục vụ. Nếu chọn giữa chức quyền địa vị và việc phục vụ, thiết tưởng tôi sẽ chọn việc phục vụ, vì phục vụ làm mình lại gần con người, làm mình có “trọng lượng thật” hơn, làm mình có công phúc hơn, làm mình triển nở và hạnh phúc hơn. Quyền hành địa vị so với việc phục vụ, là như tiếng thanh la vang dội, như phù vân giả tạo, như hình bóng so với cái thực. “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và làm giá cứu chuộc nhiều người”.

Tạ ơn Đức Giêsu, Ngài đã dạy con đường hạnh phúc đích thực cho con người. Phục vụ, là điều làm cho con người triển nở và hạnh phúc. Không có con đường nào tuyệt vời hơn con đường Đức Giêsu đã đi. Đức Giêsu đã tự hủy để phục vụ, để dạy con người bước đi theo Ngài; và một khi theo Ngài, con người sẽ tìm được bình an, triển nở, và hạnh phúc đích thực.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

Địa vị chức quyền đem lại gì cho bạn? Nó có giúp bạn triển nở hơn không? Tại sao?

Bạn có nghĩ: phục vụ làm bạn triển nở và hạnh phúc hơn không? Tại sao?

Làm sao để một người hiểu rằng: phục vụ làm cho người phục vụ triển nở và hạnh phúc thật sự?

Về mục lục

.

MUỐN LÀM LỚN, PHẢI PHỤC VỤ NHƯ ĐẦY TỚ

Lm Trần Bình Trọng

Tham vọng chung của loài người là muốn có được một chỗ đứng trong bậc thang xã hội. Vì thế mà hai tông đồ Giacôbê và Gioan toan ngỏ ý xin Thầy mình một ân huệ là được ngồi: một người bên tả và một người bên hữu trong vinh quang của nước Chúa. Nghe lỏm được ý đồ của họ, các môn đệ khác bèn tức tối với hai ông này (Mc 10:41). Xét theo công trạng, thì hai ông Giacôbê và Gioan chưa có làm được gì đáng kể. Nói kiểu bình dân, các ông chưa có điểm với Chúa Giêsu và với các tông đồ khác, nên việc xin ngồi bên tả và bên hữu chi là việc muốn ăn mảnh.

Ðến đây, Chúa liền thách thức hai ông: Các con có uống nổi chén mà Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? (Mc 10:38). Thời cổ xưa tại đất Do thái, việc uống cùng một chén với ai, có nghĩa là muốn tham phần vào vận mệnh của người đó: hoặc may hay rủi. Vậy thì vận mệnh của Chúa cứu thế là gì? Vận mệnh của Chúa là việc Người tự nguyện chấp nhận khổ hình thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Như vậy lời Chúa có nghĩa là lời thách đố xem hai ông có muốn trả giá cả để được ngồi bên tả và bên hữu Chúa không, nghĩa là xem các ông có muốn chịu khổ hình với Chúa và vì Chúa không? Chúa nhận lời quả quyết chấp nhận bách hại và chịu đau khổ của hai ông. Tuy nhiên ghế danh dự mà hai ông xin là tuỳ thuộc vào sự quyết định của Chúa Cha.

Trong những lần giảng dạy, Chúa Giêsu hứa sẽ thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, nhưng Người sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết trước khi hoàn thành theo như lời tiên báo trong sách Isaia: Thiên Chúa đã muốn người tôi trung phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn (Is 53:10). Và như vậy thì Đức Giêsu đồng hoá với người tôi tớ đau khổ của Ðức Giavê trong lời tiên tri Isaia. Nỗi đau khổ mang lại sự cứu độ còn được thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi tín hữu Do thái (Dt 4:16).

Phúc âm hôm nay ghi lại Chúa Giêsu chặn đứng tham vọng cá nhân của ông Giacôbê và Gioan bằng cách dạy họ: Ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người (Mc 10:44), nghĩa là phục vụ mọi người. Các tông đồ muốn phần thưởng cho những cố gắng của họ. Chúa bảo họ trong Nước Chúa thì có sự khác biệt. Nước Chúa không phải là nơi để người ta tâng bốc cái tôi. Trong nước Chúa, tất cả những ai muốn có ảnh hưởng, địa vị thì phải làm đầy tớ người khác, nghĩa là phục vụ người khác. Nếu để các ông nuôi tham vọng cá nhân, có thể trở nên mối nguy hại cho Giáo hội mà Chúa sẽ thiết lập sau này.

Chúa dạy các tông đồ như vậy để cho những người kế vị và những người cộng sự hiểu biết đường lối Phúc âm hầu tránh việc lợi dụng chức tước, tránh việc kéo bè phái mà gây ảnh hưởng cá nhân ngay cả trong việc đạo. Như vậy khi hiểu được bản chất của Nước Chúa, các tông đồ sẽ là người cuối cùng tìm kiếm địa vị và danh dự. Các tông đồ nhận thức được rằng, họ sẽ có địa vị trong Nước Chúa, cũng như trong Giáo hội của Chúa. Tuy nhiên Chúa bảo họ không được dùng quyền để bá chủ và áp đặt, mà phải dùng quyền để phục vụ như Chúa đã phục vụ: Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 45).

Có nhiều việc phục vụ khác nhau. Trong quá khứ, có những việc phục vụ do đầy tớ và nô lệ thực hiện. Vào thời cổ xưa tại đất Do thái, khi khách vào nhà ai, thì việc của đầy tớ là đem nước để rửa chân cho khách. Chân đi dép trên đất cát giữa trời nóng nực mà được dội nước vào chân thì khách cảm thấy khoan khoái biết bao. Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã làm công việc của người nô lệ, lấy nước rửa chân cho các tông đồ vì yêu thương. Và Chúa dặn các ông phải rửa chân lẫn cho nhau, nghĩa là phục vụ lẫn nhau.

Phục vụ cũng được thực hiện do người làm công hoặc tình nguyện. Việc phục vụ được coi là việc nhân đạo nếu được phát xuất tự chủ nghĩa nhân bản. Việc phục vụ được coi là việc bác ái nếu được làm vì yêu mến. Việc phục vụ có đượm tình yêu mến là điểm thiết yếu của đạo Kitô giáo. Phục vụ người khác vì yêu mến là một nhân đức mà mỗi người Kitô hữu cần thực hành. Khi phục vụ vì tình yêu mến Chúa thúc đẩy, công việc phục vụ sẽ trở nên nhẹ nhàng và người làm việc phục vụ mới cảm thấy vui được. Có những người khi không có việc gì làm, thì buồn chán, sinh bệnh. Khi làm việc phục vụ giúp đỡ tha nhân, họ tìm được ý nghĩa của cuộc sống, lại lên tinh thần, rồi được khỏi bệnh. Và đó là ý nghĩa của tình yêu biến đổi. Thánh Âu-tinh đã nhận ra tình yêu biến đổi khi viết: Ðâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như có khổ đi nữa, người ta sẽ chấp nhận cái khổ vì yêu.

Nếu muốn phục vụ, người ta sẽ tìm thấy rất nhiều việc để làm trong nhà thờ như quét dọn nhà thờ, hốt lá khô, nhặt rác rưởi xung quanh nhà thờ, lau bụi ghế ngồi, xếp sách hát lại vào hộc ghế, và nhiều việc để làm trong cộng đồng, làng xóm, phố phường như tình nguyện giúp việc từ thiện, bác ái, việc xã hội và việc nhân đạo.

Là người công dân và người Kitô hữu, người tín hữu cần học để coi việc phục vụ trong gia đình, trong giáo xứ và trong xã hội như là phương thế để hoàn thành ơn gọi làm người Kitô giáo.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết sống tinh thần phục vụ:

Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đến thế gian dạy các môn đệ
bài học phục vụ trong yêu thương.
Xin dạy con biết làm việc phục vụ vì yêu mến Chúa
và nhận ra hình ảnh Chúa
nơi nguời anh chị em mà con phục vụ
nhất là những người nghèo đói, bệnh tật
đau khổ và bất hạnh. Amen.

Về mục lục

.

ĐƯA NGƯỜI ANH EM LƯU LẠC VỀ NHÀ CHA

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Tôi biết Tuấn là đứa bé côi cút ngày đêm lang thang phiêu bạt trên đường phố. Tuấn chưa hề biết cha mẹ mình là ai, vì Tuấn bị lạc mất gia đình trong thời chiến tranh loạn lạc. Nỗi khao khát lớn nhất trong đời Tuấn là được gặp lại mẹ cha, được chung sống dưới một mái nhà đầm ấm với cha mẹ và anh chị em ruột thịt của mình.

Đồng thời, tôi cũng biết cha mẹ Tuấn là người rất giàu có, cao sang, đầy quyền lực và rất giàu lòng yêu thương. Tôi vẫn biết cha mẹ Tuấn ngày đêm trông ngóng tin con, đau đáu, khắc khoải chờ mong con trở về đoàn tụ với gia đình.

Thế mà tôi không chịu hé miệng nói cho Tuấn biết sự thật này. Tôi cứ để mặc Tuấn lang thang vất vưởng trên đường đời, để mặc cho cha mẹ Tuấn ngày đêm thổn thức vì đứa con lưu lạc… thì thử hỏi: Tôi là hạng người thế nào? Có ai vô tâm, vô cảm như tôi không? Tôi có đáng bị lên án không?

Thưa cộng đoàn,

Hôm nay, trong số 95 triệu người trên quê hương đất nước Việt Nam, có hơn 85 triệu người có chung thân phận như Tuấn. Những anh chị em này chưa nhận biết mình có một Người Cha rất cao sang, tốt lành, nhân hậu… là Thiên Chúa, chưa biết mình có một quê hương tuyệt vời là thiên đàng sắm sẵn cho họ vui hưởng mai sau; chưa biết mọi người chung quanh là anh chị em ruột thịt của mình…

Trong khi đó, chúng ta là những người được diễm phúc sống kề cận bên Cha, được Cha ấp ủ bằng tình phụ tử ngọt ngào, được Cha dưỡng nuôi bằng những lời khôn ngoan do Chúa Giê-su mang từ trời xuống, được Chúa Thánh Thần là Thầy khôn ngoan soi đường dẫn lối, được Đức Maria là Mẹ hiền bao bọc chở che bằng tình mẫu tử thiêng liêng trìu mến, được đón nhận vô vàn ân sủng qua các Bí tích…

Vậy mà chúng ta vẫn bình chân như vại, chúng ta vẫn câm lặng, không chịu loan báo cho những người anh chị em lưu lạc của mình biết họ có Chúa là Người Cha rất đỗi tuyệt vời, để họ nhận biết Cha, trở về với Cha và đoàn tụ dưới mái nhà của Thiên Chúa là Cha, và được chung hưởng muôn vàn phúc lộc của người con trong nhà như chúng ta.

Nếu chúng ta cứ mãi câm lặng như thế, thì chúng ta là hạng người như thế nào? Có đáng gọi là con của Cha trên trời nữa hay không?

Lời thôi thúc mời gọi của Cha

Rất nhiều lần, lời Cha qua miệng Chúa Giê-su vang dội trong tâm hồn chúng ta: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”; “Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Mt 28,19)”; “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về…” (Lc 10,2)…. Nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó vẫn chưa lay động con tim vô cảm của chúng ta, vẫn chưa khơi lên được ngọn lửa truyền giáo đã tắt ngúm trong tâm hồn chúng ta, mà chỉ như làn gió thoảng qua rồi im bặt.

Hôm xưa, sau khi Ca-in giết chết đứa em vô tội của mình, có tiếng Chúa từ trời vọng xuống hạch tội Ca-in: “Ca-in, em ngươi đâu?”

Ca-in vô cảm trả lời: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!” (St 4,9).

Nếu hôm nay Chúa hỏi mỗi người chúng ta:

– “Con có biết lòng Cha ray rứt đau khổ ngày đêm vì có hơn 85 triệu đồng bào Việt Nam chưa hề biết Ta là Cha thật của họ không?”. Câu đáp sẽ là: “Mặc Chúa, con chẳng quan tâm.”

– “Con có biết hiện nay có hơn 85 triệu đồng bào Việt Nam, là anh chị em ruột thịt của con, đang cần con nói cho họ biết họ có Cha trên trời hết lòng yêu thương họ và họ đang cần được con dẫn về đoàn tụ trong nhà Cha không?”. Câu đáp cũng sẽ là: “Mặc họ, con không cần biết đến ai!”

Lạy Chúa Giê-su,

Trong gia đình, người anh không làm theo lời cha truyền dạy phải lên đường đi tìm em là người con bất hiếu; Người chị không chỉ cho đứa em lưu lạc biết mặt cha và đưa em về đoàn tụ trong gia đình là người chị bất nhân.

Hôm nay, có đông đảo anh chị em chúng con chưa biết Chúa là Cha, còn lưu lạc xa nhà là Hội thánh, đang chơi vơi giữa biển đời như thuyền không bến vì không được Lời Chúa như hải đăng soi dẫn và còn chịu băng giá trong tâm hồn vì chưa được tình Cha sưởi ấm…

Xin cho chúng con luôn quan tâm đến những anh chị em này và tìm mọi cách đưa họ về với Cha.

Về mục lục

.

NGÔN SỨ HAY TIÊN TRI?

JM. Lam Thy

Nói tới truyền giáo là nói tới những người được sai đi loan báo Tin Mừng: Ngôn sứ. Những người được sai đi gọi là “sứ giả”, Tin Mừng là Lời Chúa mà “lời” là “ngôn ngữ”; tổng hợp lại (“sứ giả” + “ngôn ngữ”) thành một từ ghép: “ngôn sứ”. Ngôn sứ mang ý nghĩa: Người được sai đi loan báo Lời Chúa (Tin Mừng). Trong khi đó, Lời Chúa là Lời dạy cho biết chương trình Cứu Độ của Thiên Chúa bao gồm những sự việc đã xảy ra (quá khứ), đang xảy ra (hiện tại), đồng thời cả những sự kiện sẽ xảy ra (tương lai). Nói cụ thể thì “ngôn sứ” chính là người phát ngôn (phát ngôn nhân, phát ngôn viên) của Thiên Chúa.

Trước đây thường gọi những ngôn sứ” là “tiên tri”. Về mặt ngôn ngữ, tiên tri chỉ có nghĩa là “biết trước”, vậy khi nói “tiên tri Isaia” thì chỉ có nghĩa: một người có tên là Isaia là người biết trước những sự việc sẽ xảy ra. Như vậy thì chưa đúng với vai trò và sứ vụ của Isaia, vì thế lại cần phải hiểu ngầm (ngụ ý) ông Isaia là người loan báo Lời Chúa. Do đó, theo thiển ý của kẻ viết bài này, dùng từ “ngôn sứ” để dịch chữ “Prophet” (có gốc từ chữ Hi-lạp “Aprophetes”) là chính xác hơn.

Ca dao Việt Nam có câu “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, ngụ ý khuyên răn anh em trong nhà có cùng một huyết thống, cùng một cha mẹ sinh ra, phải thương yêu đùm bọc nhau, đừng nên tranh giành hơn kém rồi sinh ra cảnh “nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn”. Lời khuyên răn ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, mà còn mở rộng ra cả nước. Sự tích bà Âu Cơ đẻ 100 trứng nở ra 100 con, 50 con ở với mẹ trên núi, 50 con theo cha (Lạc Long Quân) xuống biển, cho thấy quan điểm toàn thể dân tộc Việt Nam đều chung một gốc là “con Rồng, cháu Tiên”. Vì thế, nên phải biết “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Tuy vậy, nhưng vẫn xảy ra không ít cảnh “huynh đệ tương tàn”, “gà nhà bôi mặt đá nhau” (tiếm ngôi, cướp ngôi nhau, triều đình này hạ bệ triều đình kia, loạn 12 sứ quân, Trịnh Nguyễn phân tranh, cõng rắn cắn gà nhà v.v… và v.v…).

Xã hội loài người không chỉ có cảnh anh em tàn sát lẫn nhau, mà còn hơn thế nữa, xảy ra cảnh “phụ tử tương tàn” nữa kia. Ngay từ thời Cựu Ước đã có chuyện “tranh bá đồ vương” giữa cha con với nhau xảy ra ngay trong hoàng cung một triều đại danh tiếng: Đó là vua Đa-vít và hoàng tử Ap-sa-lôm. Trong những người con của vua Đa-vit, thì Ap-sa-lôm là một người đẹp trai, tài giỏi, được vua cha yêu mến, nhưng chính Ap-sa-lôm đã muốn tranh giành địa vị của cha, rồi tự phong mình làm vua ở Khép-rôn. Cuộc khởi loạn này đã làm cho vua Đa-vít và cả triều đình phải chạy trốn khỏi thành Giê-ru-sa-lem, và Ap-sa-lôm đã tiến chiếm kinh thành; nhưng sau này đã bị đại tướng của vua Đa-vit là Giô-áp đánh bại và bị giết chết tại khu rừng gần Ep-ra-im. Cuộc chiến tranh “phụ tử tương tàn” này đã khiến cho 20 ngàn quân lính bị thiệt mạng! (xc. 2Sm, Chương15 – 18).

Quả thực từ cái tham vọng của người này nảy sinh ra cái ghen tức của người khác, đã làm cho loài người xung đột, gây hấn với nhau, để rồi thì khủng bố, chiến tranh bùng nổ khắp mọi nơi. Ôi chao! Tham vọng “tranh danh đoạt lợi, tranh bá đồ vương” vẫn là vấn đề muôn thủa của con người. Và cái “miếng đỉnh chung”, cái “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp” luôn luôn và mãi mãi là cái hấp lực khó lòng từ chối, dứt bỏ. Ngay đến các Tông đồ ở cận kề với Người Thầy luôn dạy dỗ môn đệ phải sống bác ái và khiêm nhường, vậy mà cũng có hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an muốn được “một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Bài Tin Mừng CN.XXIX/TN-B – Mc 10, 35-45).

Tin tưởng khi Thầy mình được vinh quang sẽ làm Vua, mà lại xin được ngồi bên tả và bên hữu Người, thì chẳng phải đó là muốn được ngồi “cỗ nhất”, được hưởng “miếng đinh chung” bảnh nhất là ”Tả hữu Thừa tướng” đó sao? Không phải chỉ có 2 môn đệ này thôi đâu, mà các môn đệ khác cũng tỏ ra tức tối (“Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an.” – Mc 10, 41). Tức tối tức là ghen tị, là mong muốn mình phải được coi trọng hơn, và “chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh” xảy ra cũng là điều tất nhiên (“Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau.” – Gc 4, 1-3).

Đức Giê-su quá hiểu tâm lý của con người ai cũng muốn mình có địa vị và được kính nể hơn người khác, ai cũng muốn làm ông chủ để được kẻ hầu người hạ và nếu có ai đó được hơn mình thì ngay lập tức ganh tị, thù hằn nhau. Vì thế, khi thấy Gio-an và Gia-cô-bê xin được ngồi “cỗ nhất”, Đức Ki-tô nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì!”, rồi đặt câu hỏi: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Cứ tưởng chén của Đức Giê-su sắp uống là chén rượu mừng vinh thăng và phép rửa Người sắp chịu cũng kiểu như phép rửa mà thánh Gio-an Tẩy Giả thực hiện trên sông Gio-đan, nên các Tông đồ mau mắn trả lời: “Thưa được”. Thực ra, ở vào trường hợp đó, ít ai có thể ngờ được Đức Giê-su nói chén Người sắp uống là chén đắng, là chén “ĐỨC CHÚA đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ Người, ý muốn của ĐỨC CHÚA sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, Người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. ” (Is 53, 10-11).

Đó chính là chén “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.” (Mc 10, 33-34). Đồng thời cũng là chén mà Tông đồ Phê-rô cầu xin Chúa Cha cho Thầy khỏi phải uống để rồi được Thầy gọi là “Xa-tan!” (Mc 8, 31-33). Ngay cả đến chính người Thầy đã nói về chén đắng ấy, với bản tình loài người cũng kinh sợ mà thốt lên cùng Chúa Cha: “Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con.” Tuy nhiên, ngay lập tức, bản tính Thiên Chúa đã trỗi dậy, và Người nói tiếp: “Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.” (Mc 14, 36). Thật không thể ngờ chén đắng ấy lại cũng chính là phép rửa thanh tẩy tội lỗi loài người để được sống lại từ cõi chết như Đức Giê-su đã sống lại. Chỉ đến khi biến cố Thương Khó và Phục Sinh xảy ra, mọi người mới hiểu được hết ý nghĩa sâu xa Lời Thầy Chí Thánh nói về Chén Đắng và Phép Rửa mà Người phải chịu để đền vì tội lỗi nhân loại.

Trước đây, vì chưa hiểu được ý nghĩa thâm thúy của Lời Chúa, nên các Tông đồ mới mạnh miệng nói là mình uống được chén mà Thầy sắp uống, nhưng tới lúc Thầy bắt đầu uống thì “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26,56). Chỉ đến khi các môn đệ được chịu phép rửa “trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3, 11) trong ngày Lễ Ngũ Tuần, thì các ngài mới thật sự dũng cảm uống chén đắng ấy, và hiên ngang chịu phép rửa như Thầy mình đã tiên liệu: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu” (Mc 10, 39). Chính nhờ vậy mà Giáo hội và nói chung là toàn thể nhân loại được vui hưởng vinh quang Phục Sinh cho đến muôn ngàn đời.

Trải dài theo lịch sử Giáo hội, biết bao nhiêu thế hệ, biết bao nhiêu Ki-tô hữu đã uống chén đắng ấy. Chỉ riêng Giáo hội Việt Nam trong quá trình 5 thế kỷ truyền giáo, đã có tới 130.000 Ki-tô hữu anh dũng uống chén đắng. Chén đắng trong quá khứ do những thế lực thù địch hữu hình đưa tới cho sứ vụ truyền giáo, nó lại càng đắng hơn trong hiện tại và tương lai, vì thế lực thù địch ngày nay đã trở nên vô hình vô ảnh. Cũng vẫn những mũi giáo, lưỡi gươm, viên đạn xuyên phá khủng khiếp ấy, nhưng ngày nay tất cả chúng đều được bọc đường, một lớp đường hào nhoáng ngọt lịm. Chỉ đến khi chúng lọt vào thân thể và công phá mãnh liệt, lúc đó mới “à” lên một tiếng muộn màng!

Cho nên, công cuộc truyền giáo hiện nay đòi hỏi người Ki-tô hữu phải có một động lực dấn thân trong vai trò Ngôn sứ, đó chính là: “Động lực của việc dấn thân loan báo Tin Mừng của họ là do xác tín rằng những người Ki-tô hữu không được run sợ trước thế gian, mà đúng hơn phải mạnh dạn chia sẻ kho tàng chân lý đã được giao phó cho mình. Cũng vậy, người Ki-tô hữu ngày nay, đang khi cởi mở với các thực tại hiện thời và tán đồng tất cả những gì tốt lành trong xã hội, phải có can đảm mời gọi mọi người nam và nữ hoán cải tận căn, cuộc hoán cải gắn liền với việc gặp gỡ Đức Ki-tô và khởi đầu một cuộc sống mới trong ân sủng.” (Diễn văn của ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI trong “Cuộc gặp gỡ đại kết” tại Tòa TGM Praha – CH Séc – ngày 27/9/2009).

Trong Sứ điệp Truyền Giáo 2017 (số 6), Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Việc truyền giáo của Hội Thánh được sinh động bởi một linh đạo của việc liên tục lên đường. Chúng ta được thách thức “ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng “Evangelii Gaudium”, số 20). Sứ mạng của Hội Thánh thúc đẩy chúng ta liên tục lữ hành qua các sa mạc khác nhau của cuộc đời, qua các trải nghiệm khác nhau của sự đói khát sự thật và công lý. Việc truyền giáo khơi dậy một cảm giác bị đoạ đày triền miên, làm chúng ta ý thức rằng, trong cơn khát cái vô hạn, chúng ta là những kẻ lưu đày đang tiến về quê nhà cuối cùng của mình, đang đứng lơ lửng giữa cái “đã có” và cái “chưa có” của Nước Trời.”

Muốn cho công cuộc Truyền giáo đạt hiệu quả thì phải cần có thật nhiều những ngôn sứ, đúng như lời dạy của ĐGH Phan-xi-cô: “Hội Thánh cần có các ngôn sứ. Tôi nói cách mạnh mẽ hơn rằng: Hội Thánh cần tất cả chúng ta làm ngôn sứ. Ở đây, ngôn sứ không có nghĩa là nhà bình luận, nhà phê bình, không phải thế. Ngôn sứ có nghĩa khác thế. Một nhà phê bình thì luôn nhận xét theo kiểu: “Không, điều này không tốt, điều kia không hiệu quả, điều nọ không phù hợp… điều ấy phải như thế này mới đúng…”. Người như thế thì không phải là ngôn sứ. Vị ngôn sứ là người biết cầu nguyện, biết nhìn lên Thiên Chúa, biết nhìn tới người dân, biết cảm thấy đau khổ khi dân lầm lỗi, biết khóc thương dân chúng, có khả năng thương khóc trước những tội lỗi của dân chúng, và cũng biết cách nói sự thật cho dân biết. Nguyện xin cho Giáo hội luôn có sự hiện diện phục vụ của các ngôn sứ, để dân Chúa tiếp tục tiến bước.” (xc. “Đức Giáo hoàng nói về NGÔN SỨ” – nguồn: Đài Vatican).

Tóm lại, mọi Ki-tô hữu cần – rất cần – nhìn lại quá khứ, nhìn lại mình để thấy được hiện tại những kẻ thù địch là vô hình vô ảnh, với những chiêu thức vô cùng tinh vi xảo quyệt nhằm ngăn chặn, chống phá công cuộc truyền giáo của Giáo hội, “những viên đạn bọc đường” luôn luôn là tột cùng nguy hiểm. Nhìn lại mình để “không được run sợ trước thế gian, mà đúng hơn phải mạnh dạn chia sẻ kho tàng chân lý đã được giao phó cho mình” (ibid). Nhìn lại mình để tôi luyện đức tin, trui rèn ý chí, không chùn bước trước mọi thử thách, sẵn sàng “tham gia vào sứ mạng của Chúa Ki-tô”, sẵn sàng nhận lãnh chức vụ “ngôn sứ” lên đường thi hành sứ vụ truyền giáo mà Thiên Chúa và Giáo hội đã trao phó. Hãy sống xứng đáng với vai trò “ngôn sứ” như ĐGH Phan-xi-cô mong muốn trong lời dẫn trên. Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa! Cánh đồng truyền giáo hiện nay trên thế giới cũng như tại quê hương chúng con quả là lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít” (Mt 9, 37). Cúi xin Chúa ban Thánh Thần Chân Lý cho chúng con, để chúng con đủ can đảm bước ra khỏi “cái tôi vị kỷ”, “cái tôi chỉ ham tranh danh đoạt lợi”, để chúng con có đủ dũng khí đối diện với mọi thử thách, luôn sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, ngõ hầu trở nên những “thợ gặt” đúng như lòng Chúa mong đợi. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

MUỐN LÀM ĐẦU PHẢI HẦU THIÊN HẠ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 10,35-45

(35) Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến gần Đức Giê-su và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. (36) Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì? ” (37) Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. (38) Đức Giê-su bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. (39) Các ông đáp: “Thưa được”. Đức Giê-su bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. (40) Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. (41) Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. (42) Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. (43) Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; (44) Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. (45) Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.

  1. Ý CHÍNH:

Sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ ba về cuộc Thương Khó Người sắp trải qua, các môn đệ xem ra vẫn không hiểu và không muốn chấp nhận con đường đó.  Các ông vẫn đinh ninh rằng Thầy các ông sắp lên Giê-ru-sa-lem để làm Vua Mê-si-a và các ông đã tranh giành nhau vị trí quan trọng trong Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập (Mc 9,33-34; 10,35-40); Đức Giê-su đã nhắc nhở các môn đệ về bổn phận của người làm đầu là phải hầu thiên hạ và nên tôi tớ phục vụ mọi người (9,33; 10,41-45).

  1. CHÚ THÍCH:

-C 35-38: +Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an: Gia-cô-bê và Gio-an là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh em bà con của Đức Giê-su.. Hai ông thuộc Nhòm 12 Tông đồ, được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên và đã mau mắn bỏ thuyền và từ giã cha già mà đi theo Người (x Mt 4,21-22). Hai ông nhiệt thành bảo vệ Đức Giê-su và được Người gọi là “con cái của sấm chớp”. +Chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin: Tin Mừng Mát-thêu thay lời xin của hai anh em bằng lời xin của bà mẹ. Có người cho rằng Mát-thêu muốn làm giảm tính tiêu cực của hai anh em qua việc đổ lỗi cho bà mẹ!

-C 37-38: +Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang: Hai ông nghĩ Thầy sắp vào trong vinh quang là lên làm Vua Thiên Sai, nên xin hai chỗ vinh dự nhất là được ngồi hai bên tả hữu. +Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?: Hai ông đã không hiểu được ý nghĩa thực sự và kết cục là cái chết đau thương đang chờ đón Thầy tại Giê-ru-sa-lem, nên Đức Giê-su đã nhắc cho các ông về điều ấy.

-C 39-40: +”Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu: Đức Giê-su hứa cho các ông được chia sẻ trọn vẹn thân phận của Người. “Chén Thầy sắp uống” tượng trưng cho những đau khổ, “phép rửa Thầy sắp chịu” ám chỉ việc Người sẽ bị dìm trong lòng đất khi chết và được an táng trong mồ. Nhưng ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Lời tiên báo này đã được ứng nghiệm khi Gia-cô-bê là vị Tông đồ đầu tiên chịu tử vì đạo vào n ăm 42 do vua Hêrôđê An-ti-pa, như sách Tông Ðồ Công Vụ đã cho biết như sau: “Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Gia-cô-bê, anh của ông Gio-an” (Cv 12,2). Còn Tông đồ Gio-an thì bị đi đày một thời gian trên đảo Pát-mốt thời hòang đế Do-mi-ti-en. Người đã bị bỏ vào vạc dầu sôi nhưng được Chúa cứu thóat. Ngài qua đời tại Ephêsô (Tiểu Á) dưới thời hòang đế Tra-jan sau năm 98. +Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được:  “Chuẩn bị cho ai” ám chỉ là do ý muốn của Chúa Cha, chứ không phải sự tiền định.

-C 41-42: +Mười môn đệ kia đâm ra tức tối: Các ông tức tối vì chính các ông cũng muốn được ngồi chỗ nhất trong Nước Thầy sắp thiết lập. +Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân: Đức Giê-su giáo huấn môn đệ về quyền lãnh đạo: Quyền bính xã hội thường mang tính áp chế do tham vọng ca nhân muốn được ăn trên ngồi trước.

-C 43-45: +Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em: Đức Giê-su phân biệt quyền bính trong Nước Trời hay Cộng đòan Hội Thánh mà Người sắp thiết lập. +Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người: Người đòi môn đệ và các mục tử lãnh đạo Cộng đòan phải noi gương Người để sống khiêm hạ và sẵn sàng phục vụ người dưới. +Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ: Đức Giê-su thường tự xưng mình là Con Người. Người luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ và đòi môn đệ cũng phải học tập sống như vậy. +và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người: Giá chuộc ở đây thường là số tiền bỏ ra để mua sự giải thoát cho một tù nhân, hoặc để chuộc lại một người đang làm nô lệ. Tuy Đức Giê-su không bỏ tiền ra chuộc ai cả, nhưng Người chấp nhận trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha giống như giá chuộc để đền tội thay và giải thóat mọi người khỏi án chết muôn đời.

  1. CÂU HỎI:

1) Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an là ai?

2) Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an xin Đức Giê-su điều gì?

3) Chén Thầy sắp uống và phép rửa Thầy sắp chịu ám chỉ biến cố gì? 3)Bạn biết gì về cuộc tử đạo của Tông đồ Gia-cô-bê?

4) Tông đồ Gio-an đã uống chén khổ nạn do Chúa trao cho thế nào?

5) Chúa Cha “chuẩn bị cho ai” nghĩa là gì? 6)Tại sao mười môn đệ kia lại tức tối với hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an?

7) Đức Giê-su giáo huấn các ông về quyền lãnh đạo trong Nước Thiên Chúa thế nào?

8) Người muốn các môn đệ và các mục tử sau này phải noi gương Người ra sao? 9)”Giá chuộc muôn người” nghĩa là gì?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45).
  2. CÂU CHUYỆN: GƯƠNG HY SINH PHỤC VỤ CỦA ĐÔI TÂN HÔN:

Một câu chuyện phục vụ Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA hay kể lại như sau:

“Vào năm 1982, một hôm có đôi thanh niên nan nữ tới nhà chúng tôi tại Can-quýt-ta đến trao tặng một món tiền lớn giúp bữa ăn cho người nghèo. Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Do đâu mà hai con có món tiền lớn vậy?” Họ trả lời: “Chúng con vừa tổ chức lễ cưới được hai ngày nay. Trước lễ cưới, chúng con bàn nhau sẽ thuê áo cưới thay vì đi may, cũng không liên hoan linh đình, mà dùng khoản tiền ấy trao tặng cho những người kém may mắn. Vì chúng con yêu nhau và muốn có một kỷ niệm đẹp nhân ngày cưới nhau”.

Ðể biết rõ thêm, mẹ Têrêsa hỏi: “Tại sao chúng con quyết định táo bạo như thế? Chúng con không sợ việc làm như vậy sẽ làm cha mẹ và họ hàng buồn lòng hay sao?” Hai bạn trẻ ấy trả lời: “Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một sự hy sinh mà cả hai đều cùng nhau thực hiện”.

Mẹ Tê-rê-sa kết luận: “Thật là tuyệt vời khi nghĩ đến một tình yêu cao quí như vậy. Tôi luôn cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho những người trẻ ơn thánh và sức mạnh, để trong ngày thành hôn, họ có thể trao cho nhau trái tim trong sạch, trái tim trinh khiết, thân xác trong trắng… là món quà lớn lao của tình yêu nhau”.

  1. SUY NIỆM:

1) Con người ai cũng muốn được ngồi vào chỗ nhất :

Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã không ngần ngại xin Đức Giê-su cho ngồi hai bên tả hữu Thầy, là hai chỗ tốt nhất khi Thầy lên làm Vua Mê-si-a. Mười môn đệ kia nghe vậy rất bực mình. Điều này cho thấy họ cũng muốn ngồi chỗ ấy.

Thực ra, tự bản chất, mỗi chúng ta đều muốn được “ăn trên ngồi trước”. Xã hội cũng tôn vinh những người địa vị cao, khuyến khích những ngừơi đoạt giải nhất trong các cuộc thi, hoan hô các nhà vô địch “khỏe nhất, nhanh nhất, xa nhất” như trong các Đại Hội Thể Thao Ô-lym-pic…

2) Đức Giê-su “đến để phục vụ hơn là được phục vụ”:

Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ tha nhân: Người đã làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế như: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7,22; Is 35,5-6; 42,7). Để cứu độ chúng ta, Người chấp nhận hy sinh chịu chết trên thập giá, hầu chứng tỏ một tình yêu tột đỉnh (x Ga 15,13). Người cũng nói với các môn đệ rằng: “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10.45). Trong bữa tiệc ly Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và sau đó đã dạy các ông bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau như sau: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15).

3) Chúng ta phải làm gì?

-Bác sĩ TOM DOLLY đã nói như sau: “Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác”. Dù là người bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu, không ai trong họ là người hòan tòan vô dụng”.

-Ở bất cứ đâu và trong bất cứ hòan cảnh nào mỗi người chúng ta đều có thể yêu thương và phục vụ tha nhân: Là người bán hàng: chúng ta có thể nói với khách hàng rằmg: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?”. Là bác sĩ hay y tá bệnh viện, chúng ta có thể ân cần phục vụ bệnh nhân; Là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta có thể phục vụ người nghèo, bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta. Vấn đề là chúng ta có sẵn sàng mở rộng con tim để đón nhận và yêu thương phục vụ tha nhân như chính Đức Giê-su hay không?

-Buổi tối mỗi người hãy dành một phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình: “Hôm nay tôi đã làm gì để phục vụ tha nhân? Như: Nở nụ cười thân thiện với người mới gặp; Trao cái nhìn yêu thương cho một người ăn xin; Lắng nghe cảm thông với một người đang lo âu; Nói một lời an ủi người chán nản …Mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm kèm theo tình thương sẽ là món quà quý phục vụ tha nhân.

  1. THẢO LUẬN:

1) Bạn cần làm gì để tránh thói ham mê danh vọng chức quyền thế gian?

2)Tuần này bạn sẽ làm gì để thực tập khiêm hạ phục vụ?

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã hạ mình như đầy tớ phục vụ môn đệ và tình nguyện chịu chết đền tội thay cho chúng con. Xin giúp chúng con hiểu được tình yêu vô biên của Chúa và noi gương Chúa yêu thương phục vụ mọi người.  Xin cho chúng con biết năng nghĩ đến người bên cạnh và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa để xứng đáng thành môn đệ thực sự của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CÓ CHÚA Ở CÙNG

Lm. Jos. DĐH.

Hầu hết các thông tin quan trọng, kinh nghiệm quý báu, hoặc kiến thức khoa học xã hội, muốn truyền lại cho con cháu, người ta đều cần phải có chút nghệ thuật, dù tình yêu thương dành cho hậu thế luôn lai láng. Mơ ước thụ hưởng, nghĩ tới được làm con quan, giầu sang phú quý, hoặc được kẻ trên người dưới nể trọng, hoàn toàn phù hợp với lý lẽ tự nhiên. Vì thao thức được vinh dự, người ta phấn đấu để có danh phận, xả thân vì quê hương đất nước, với hy vọng được đứng vào hàng ngũ các anh hùng dân tộc, cũng vì thế họ có một sức mạnh khá đặc biệt để lướt thắng cả nguy hiểm sợ hãi. Đồng ý rằng, tiến thân vì mục đích riêng tư, hành động vì tình sâu nghĩa nặng, gia đình vẫn ghi nhận, tổ quốc hằng nhớ ơn, nghiêm túc mà nói, đó cũng chỉ là hạnh phúc thế gian ban tặng.

Tinh thần yêu mến, bản chất truyền giáo, đối với người kitô hữu có phải là lời mời gọi tự giác, hay chỉ là tiếng “phèng la” âm vang một chút rồi mặc kệ ? Ơn làm con Chúa và Hội thánh có phải là một vinh dự, chúng ta có dám nhìn lại mình để thấy Thiên Chúa yêu thương, và chúng ta đang sống vì mục đích gì không ? Con người đúng là giới hạn đầy mâu thuẫn, tiền nhân chúng ta đã từng chia sẻ: ốc chẳng mang nổi mình ốc, lại còn phải mang cọc cho rêu ! Sống yêu mến, loan truyền niềm vui ơn cứu độ cho thân nhân, cho anh chị em xóm ngõ, trước hết phải bằng gương sáng, bằng sự hiểu biết và sự năng động của mỗi người, rồi kết tiếp là bằng niềm tin, quyền năng, phép lạ, Chúa sẽ thực hiện.

Sau khi hoàn tất sứ mạng tại trần gian, Chúa Giêsu căn dặn các học trò, hãy loan truyền về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và Ngài hứa với các ông: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Có Chúa ở cùng, có dấu hiệu của tình yêu, là có sự sống và quyền năng bao phủ trên kẻ tin yêu, mến Ngài. Có Chúa ở cùng các tông đồ, có Chúa ở cùng các gia đình, ở cùng mọi tâm hồn, không phải sẽ hết đau khổ, hết nguy nan sợ hãi, mà đúng hơn là những ai sống tin tưởng cậy trông, người ấy không bao giờ “cô đơn”. Có Chúa ở cùng, là có đau khổ thập giá, và có sức mạnh đỡ nâng, có tình yêu bất tử đi đến cùng tận bến bờ hạnh phúc.

Người tín hữu hôm nay có nhiều điều kiện thuận lợi, có sự linh thánh chảy tràn trong tin yêu, có bề dày kinh nghiệm của tiền nhân để lại cách sống đạo, giữ đạo, hầu phát huy truyền thống xây dựng đức tin và đức ái. Xã hội cũng cho thấy sự cao quý nơi tình người: sống trong bể ngọc kim cương, không bằng sống giữa tình thương bạn bè. Nếu thiếu vắng đức yêu thương, không đủ sự liên đới hiệp thông giữa tình Chúa tình người, ai dám bước theo Đức Giêsu, ai dám tự hào cho mình có gương sáng đạo đức cho gia đình, lối xóm ? Chúa làm được mọi sự, biết rõ tâm tính từng học trò của Ngài, nhưng Chúa vẫn gọi mời các môn đệ, và chúng ta hôm nay tiếp tục làm chứng nhân Tin mừng, cộng tác xây dựng Nước Chúa tại trần gian, tất cả là hồng ân, là tình yêu.

Công bằng mà nói, được cha mẹ yêu thương, con cháu phải có nghĩa vụ sống yêu thương, chu toàn phận vụ mình như một quy luật trước gia đình xã hội. Cứ công bằng mà nói, được lãnh nhận dồi dào nguồn ơn bí tích, người kitô hữu không thể ngồi im, thụ hưởng, cần phải chia sẻ, sống ơn ban, sống tinh thần tông đồ, phản ánh đức tin kitô giáo. Khuôn vàng thước ngọc mà các đấng bậc nhắn gởi: hãy trung thực khi nghèo khó, giản dị khi giầu có, lịch sự khi có uy quyền, và im lặng khi giận dữ. Người có Chúa ở cùng, là người luôn ý thức sống tinh thần: có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ ; có ơn Chúa ban, và sẽ chia sẻ ơn ban cho anh chị em mình. Các môn đệ hôm xưa có Chúa ở cùng, các ông đã hoàn tất được sứ mạng Chúa trao phó, đâu ai nghi ngờ là các ông đã biết sống kết hiệp với ơn Chúa.

Người có Chúa ở cùng là người khôn ngoan, biết cậy dựa vào tình yêu và sức mạnh của Chúa, họ sẽ thấy rõ ràng hơn thế nào là phép lạ theo cùng. Chúng ta hôm nay sẽ có Chúa cùng hành động, vì mỗi kitô hữu chính là hạt giống đức tin trổ sinh bông hạt do giá Máu cứu độ của Đấng đã chết vì yêu. Người xưa có nhiều kinh nghiệm rất đáng để chúng ta suy xét về cách sống của mình: ở không là mẹ các tật xấu, hay nhàn cư vi bất thiện. Người kitô hữu không thể ngồi yên chờ thời, không thể thủ thân thủ thế với nén bạc chúng ta đã nhận lãnh, dù là ơn vật chất hay tinh thần. Người có Chúa ở cùng, không phải là người “lỳ hay liều”, họ sẽ không chờ đợi “là thánh”, hoặc hoàn toàn “nên giống Chúa”, họ đủ khôn ngoan để ơn gọi truyền giáo như sứ mệnh vô cùng cấp bách Chúa mời gọi. Amen.

Về mục lục

.

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Hằng năm, Giáo Hội dành trọn một Chúa nhật trong tháng mười để cử hành ngày Khánh Nhật Truyền Giáo. Không phải chỉ có ngày hôm nay là ngày truyền giáo, mà bản chất và sứ mạng của Giáo hội là Loan Báo Tin Mừng. Việc cử hành này là dịp để mọi thành phần trong Giáo Hội nhìn lại công cuộc loan báo Tin Mừng, đồng thời nhắc cho mỗi người không ngừng thực hiện sứ mạng này mỗi ngày trong cuộc sống của mình. Cử hành ngày Khánh Nhật Truyền Giáo năm nay, trùng với dịp Giáo Hội Việt Nam mừng kỷ niệm ba mươi năm ngày Giáo Hội tôn vinh các Thánh Tử đạo tại Việt Nam. Đây là dịp rất tốt để chúng ta nhìn lại công cuộc Loan Báo Tin Mừng, gương sống đạo của cha ông, các bậc tiền nhân và trách nhiệm của chúng ta ngày nay.

Việt Nam hiện nay dân số hơn 90 triệu, trong đó có hơn 7 triệu tín hữu, chiếm tỷ lệ khoảng 8% dân số. Như thế có nghĩa là người Công Giáo vẫn là một thiểu số rất nhỏ so với toàn dân Việt Nam. Tin Mừng của Chúa đã được các vị thừa sai đầu tiên đem đến mảnh đất Việt nam này từ thế kỷ 16 tại làng Ninh Cường thuộc giáo phận Bùi Chu ngày nay. Lúc đó, tổ tiên cha ông chúng ta đã sẵn sàng đón nhận một tôn giáo mới, một nếp sống mới với một tâm hồn chân thành. Mặc dù lúc đó các ngài chưa hiểu nhiều về giáo lý, nhưng qua đời sống yêu thương gắn bó với nhau, họ khiến cho nhiều người ngoại nhận ra Chúa Giêsu và tin theo. Những người lương dân ngạc nhiên vì thấy những người Công Giáo gắn bó với nhau, yêu thương nhau, họ đặt tên cho những người có đạo lúc bấy giờ là: Những người theo đạo thương nhau. Tình yêu thương có sức lan tỏa khiến cho những người tin vào Chúa Giêsu đã gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên nhiều năm trở lại đây, các thống kê cho thấy, số người Công Giáo gia tăng không đáng kể, chỉ dừng lại ở tỷ lệ 7-8% dân số. Con số những người theo đạo vì thấy gương sống của người tín hữu dường như ít hơn những người theo đạo vì lý do hôn phối. Phải chăng chúng ta đã dậm chân tại chỗ trong việc loan báo Tin Mừng? Phải chăng chúng ta đã không sống và thể hiện tình yêu thương đủ và có sức lay động tâm hồn người khác, dẫn họ đến việc tin theo Chúa? Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho việc trì trệ này:

1/ Nhiều người không cảm thấy tự hào mình là người Công Giáo, sống tự ti mặc cảm. Nhiều người Công Giáo bước vào các môi trường xã hội như nhà trường, công ty, thấy mình có đạo như lẻ loi. Một thời gian dài những người Công Giáo bị nghi kỵ, trù dập và bị coi như công dân hạng hai, khiến cho nhiều người rơi vào tự ti mặc cảm. Hơn thế nữa, do chính sách tuyên truyền của chính quyền, khiến cho nhiều người dân ngoại nhìn những người công giáo như những kẻ phản quốc, bất hiếu, cần phải đề phòng. Trong xã hội có một sự phân biệt đối xử một cách rõ ràng, khiến cho nhiều người Công Giáo cảm thấy mình bị loại trừ không được chấp nhận. Nhiều người vì sợ hãi hoặc vì muốn tìm kiếm địa vị xã hội, muốn tiến thân, nên không ngần ngại nhận mình là người không tôn giáo. Một khi mang tâm trạng tự ti mặc cảm như thế, thì không thể làm chứng cho Chúa được. Cha ông chúng ta ngày xưa cũng bị nghi kỵ như thế, nhưng các ngài đã phá vỡ mặc cảm này và khẳng định cho mọi người thấy chính Tin Mừng và Chúa Kitô đã dạy chúng ta một nếp sống thật tốt, đã huấn luyện chúng ta nên những con người hoàn thiện, đáng tin.

2/ Lý do thứ hai khiến cho đạo Công Giáo không trở nên hấp dẫn thu hút được nhiều người khác là vì các Kitô hữu sống đạo một cách hời hợt không có sức sống. Nhiều người sống đạo chỉ như một thói quen; có sự chênh lệch giữa giáo lý và đời sống thực tế. Nhiều người có đạo sống không tốt hơn những người ngoại, nhiều khi còn trở thành gương xấu, khiến người ngoại không muốn tìm hiểu đạo. Đời sống các gia đình Công Giáo không có gì khác hơn các gia đình khác, còn nhiều những cãi vã, chửi bới, bạo hành. Không chỉ trong đời sống cá nhân, mà trong đời sống cộng đoàn giáo xứ cũng không có gương sáng. Nhiều giáo xứ rềnh rang những cuộc rước sách, kèn trống, lễ lạc bên ngoài mà không quan tâm đến đời sống bác ái chia sẻ trong cộng đoàn. Nhiều nơi quan tâm đến bề nổi và những hình thức phô trương mà bỏ qua việc xây dựng chiều sâu và đời sống đức tin. Vì sống đạo theo lối mòn như thế, làm mất đi sức sống và nhiệt tâm loan báo Tin Mừng.

3/ Lý do sâu xa hơn khiến cho việc loan báo Tin Mừng không phát triển là do nhiều người Kitô hữu không có Chúa, không biết Chúa, và không gặp Chúa bao giờ. Mang danh là Kitô hữu, là người có Chúa Kitô, tuy nhiên cuộc sống của nhiều người đã không chỉ cho người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lời nói, hành động và cuộc sống của họ. Nhiều Kitô hữu đã bỏ qua, hoặc coi nhẹ việc đón rước Chúa vào trong tâm hồn và để cho Chúa biến đổi cuộc sống mình. Nhiều người sống đạo nhưng không lãnh nhận Bí Tích, không chuyên chăm trong việc dâng lễ thờ phượng Chúa.

Nhiều người xưng mình là Kitô hữu, nhưng họ lại không biết gì về Chúa Kitô hoặc biết về Ngài một cách hết sức sơ sài. Sở dĩ họ không biết về Chúa Kitô vì họ bỏ qua việc nghe, đọc và suy gẫm Kinh Thánh. Vì chỉ nhờ Kinh Thánh chúng ta mới có thể biết về Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài mà thôi. Mang danh là người Công giáo, nhưng nhiều tín hữu không biết về giáo lý của đạo Công Giáo, vì thế mỗi lần phải giải thích cho anh chị em lương dân, họ tỏ ra hết sức lúng túng và nói không xác tín.

Sở dĩ chúng ta không thể nói về Chúa Kitô cho người khác một cách mạnh dạn, tự hào và tự tin, là vì nhiều người chưa bao giờ gặp được Chúa Giêsu. Chúng ta tin Chúa, theo Chúa, nhưng quan trọng hơn chúng ta phải gặp được Chúa, thì cuộc đời chúng ta mới có thể biến đổi và hạnh phúc. Chúng ta có thể gặp được Chúa qua những giờ phút cầu nguyện, sống riêng tư thân tình với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa nói qua từng biến cố của cuộc sống. Chúng ta có thể gặp được Chúa qua việc thường xuyên suy gẫm Kinh Thánh, tham dự Thánh lễ và rước lễ cách sốt sắng. Chỉ khi chúng ta có kinh nghiệm gặp gỡ tiếp xúc với Thiên Chúa, chúng ta mới có thể nói về Chúa cho người khác cách mạnh dạn, tự tin, và khi đó, lời nói của chúng ta mới đáng tin được.

Cử hành ngày Khánh Nhật Truyền Giáo hôm nay, chúng ta phải thực tâm nhìn lại bản thân, lối sống của mình và của cộng đoàn để nhận ra những thiếu sót và những cản trở khiến cho Tin Mừng của Chúa bị chựng lại không lan tỏa đến với đồng bào chung quanh. Chúng ta cùng thành tâm xin lỗi Chúa và quyết tâm điều chỉnh lại, từ suy nghĩ đến hành động của mỗi cá nhân và cả cộng đoàn, cùng thúc đẩy nhau sống  loan báo Chúa Kitô cho mọi người.

Chúng ta có thể bắt đầu nói về chúa cho gia đình bên cạnh qua việc sống thân thiết, quan tâm chia sẻ, và cầu nguyện cho họ. Đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta những cách giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em.

– Chúng ta nói về Chúa bằng cách sống và bước theo Chúa không phải để tìm kiếm vật chất, địa vị, chỗ cao chỗ thấp, mà là dám chia sẻ cùng một sứ mạng với Chúa, cùng uống một chén và cùng chịu một phép rửa với Chúa. Nói cách khác, Chúa mời các môn đệ của Chúa phải nên giống Chúa hoàn toàn, cùng mang lấy trái tim và đôi tay của Chúa, cùng suy nghĩ, cùng hành động để cùng với Chúa chạnh thương và chia sẻ. Sống và thực hành như thế, mọi người sẽ nhận ra Chúa Kitô trong chúng ta.

– Chúa muốn trong cộng đoàn, trong gia đình phải gạt bỏ sự ghen tỵ tức tối nhau; cùng nhau xây dựng gia đình và cộng đoàn thành một cộng đoàn yêu thương và phục vụ: “Thủ lãnh thế gian thì dùng quyền mà thống trị, người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy. Ai muốn làm đầu thì phải làm người phục vụ và là đầy tớ mọi người”.Như thế có nghĩa là mỗi người dám bỏ ý riêng, quyền lời riêng, để biết nghĩ đến ích chung và quyền lợi chung, nghĩ đến lợi ích của anh em mình trước. Mỗi người khi dám cúi xuống phục vụ anh chị em một cách chân thành, không tính toán thiệt hơn, đó là cách để mọi người chung quanh nhận ra Chúa nơi sự phục vụ của chúng ta.

Chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa biết Chúa Giêsu và Tin Mừng. Chúng ta không thể làm ngơ, trái lại mỗi người phải cảm thấy mình bị thôi thúc, đòi buộc phải làm gì đó cho họ biết Thiên Chúa là Cha và biết Đức Giêsu là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. Gioakim Nguyễn Đức Vinh

Mỗi lần Chúa Giêsu loan báo về cuộc Thương Khó và Tử Nạn sắp đến của mình, các môn đệ của Ngài luôn luôn tránh né, mà các ông chỉ nghĩ đến những vấn đề về quyền hành, chức tước, bổng lộc, vinh hoa, phú qúy.

Thật thế, sau lời loan báo lần thứ nhất, thánh Phêrô tìm cách ngăn cản Chúa Giêsu và Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài (x.Mc 8, 31-9,1).

Rồi đến lần thứ hai, các môn đệ bày tỏ một thái độ hoàn toàn hững hờ đối với những lời bi thảm của Chúa Giêsu mà lúc này các môn đệ chỉ tranh nhau đặc quyền đặc lợi giữa họ. Lúc đó, Chúa Giêsu đã mạnh mẽ đòi hỏi họ phải tự hạ mình và phục vụ mọi người.

Và lần thứ ba, trên đường tiến về Giêrusalem, một lần nữa Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ cuộc khổ nạn của Ngài phải chịu ở Giêrusalem (x.Mc 8,31; 9,31), để các ông cảm thông, chia sẻ. Thay vì cảm thông và chia sẻ thì hai anh em ruột Giacôbê và Gioan đã tự tin đến mức mà họ bộc phát qua lời cầu xin ngồi bên tả hữu nước Chúa (x.Mc 10, 35-38), nhưng họ hoàn toàn không hiểu những gì Chúa Giêsu đã nói.

Giacôbê, Gioan và các môn đệ khác tưởng đâu Chúa Giêsu sẽ ra đi làm vua thống trị, thì ít ra họ sẽ được những chức tước, hay được một ghế nào đó trong nước Chúa. Nghĩa là khi Chúa Giêsu thành công trong việc đánh đuổi người La mã ra khỏi Palestina, tái lập Vương quốc Israel. Vì trước đó, Chúa Giêsu đã hứa là họ sẽ được ngồi trên ngai xét xử mười hai chi tộc Israel.

Với các môn đệ, cuộc thử thách mà Chúa Giêsu nói đến sẽ chóng qua. Vì họ tin rằng với quyền năng trong tay Chúa Giêsu, Ngài sẽ vượt qua tất cả và Ngài sẽ chiến thắng. Bởi chính các môn đệ đã chứng kiến biết bao cuộc thử thánh đối với Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã vượt qua. Hơn nữa, các môn đệ đã chứng kiến lòng thương xót và nhân lành của Chúa Giêsu khi phục sinh con gái ông Gia-ia (x.Mc 5,37) và vinh quang của Ngài khi biến hình (x.Mc 9,1-12). Và rất có thể, hai biến cố đó đã khiến cho các ông tự tin và mạnh dạn đến xin Chúa Giêsu điều mình mơ ước bấy lâu nay.

Như vậy, lòng ao ước và khát khao của các môn đệ đi theo Chúa Giêsu bấy lâu nay nhưng chưa có dịp thuận tiện để nói, mà chỉ có hai anh em Giacôbê và Gioan đầy tự tin mới dám nói ra. Điều này cho thấy, các môn đệ gắn bó với cái nhìn hoàn toàn trần tục về đấng Mêsia.

Chúa Giêsu đã biết rõ tâm lý tự nhiên của các môn đệ, cũng như hai môn đệ Giacôbê và Gioan nên Chúa không quở mắng hai ông, mà Ngài chỉ phê bình các ông ngây thơ quá không biết điều mình xin. Nhân đây Chúa Giêsu dạy họ rằng: “Các con không biết rõ điều các con xin!”. Rồi Chúa Giêsu nhấn mạnh việc phải làm, điều sắp phải chịu mà các môn đệ phải chia sẻ với Chúa bằng câu hỏi: các con có thể uống chén Thầy phải uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Thầy sắp phải chịu không? Giacôbê và Gioan lúc này đồng loạt thưa: Thưa vâng. Chúa chấp nhận lời ưng thuận của hai ông, nhưng lại nói rõ không phải vì thế mà được phúc lộc bên tả bên hữu, vì quyền bính và phúc lộc là ân huệ Chúa Cha định đặt cho ai thì người ấy mới được.

Và Chúa Giêsu xác định quyền bính, chức vụ trong Nước Chúa khác hẳn quan niệm trần gian vì quyền bính và địa vị ở trần gian là để cai trị dân, hống hách, bắt nạt người dưới, còn quyền bính, địa vị trong Nước Chúa là để phục vụ giúp đỡ mọi người. Chính Chúa Giêsu dạy người ta bằng gương của mình, lấy công việc của mình chỉ dạy cho người ta bắt chước. Chúa không dạy suông, nói suông. Vì thế, Ngài nói: con Người không đến để được người ta hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người. Chính đời sống và cuộc tử nạn chịu chết của Chúa Giêsu đã chứng minh cho lời nói của Ngài.

Cho nên, từ đời sống gương mẫu của Chúa, Chúa dạy các môn đệ: trong các ông, ai muốn làm lớn thì hãy làm đầy tớ các ông, và ai muốn cầm đầu thì hãy làm nô lệ cho mọi người. Đầy tớ làm theo ý chủ nhưng còn có công, có tự do, nô lệ thì hoàn toàn thuộc quyền của chủ sử dụng cách vô điều kiện. Muốn làm lớn thì làm đầy tớ, muốn làm đầu thì làm nô lệ, tất cả đều nằm trong ý tưởng phục vụ chứ không phải để cai trị.

Hôm nay, Chúa Nhật 29 Thường Niên B cũng là Chúa Nhật Truyền Giáo, hưởng ứng lời kêu gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”(x.Mc16, 15). Ý thức được điều đó, Giáo hội hơn hai ngàn năm qua vẫn không ngừng vâng lệnh Chúa truyền để “Ra Đi, quên mình và phục vụ những con người vất vưởng lầm than đói khổ”, ngõ hầu đem hình ảnh nhân từ thương xót và Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân.

Như vậy, sứ mệnh mà Chúa đã mời gọi “Hãy Ra Đi” vẫn luôn mãi là một lời thúc bách, khiến cho mỗi người Kitô hữu vốn tự bản chất là một nhà truyền giáo (AG 35) không thể không thao thức với sứ mạng truyền giáo của mình, như cảm nghiệm của Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”.

Mặc lấy tâm tình năm thánh 400 năm Tin mừng đến với Giáo phận Qui nhơn chúng ta, và mặc lấy tâm tình năm thánh Kính Các Thánh Tử ĐạoViệt Nam. Người kitô hữu ý thức mình là con cái của Chúa, là con cháu của các thánh tử đạo, mỗi chúng ta hãy ra đi để rao giảng Tin mừng tình yêu của Chúa, để muôn dân nhận biết Chúa là Cha và cho muôn dân sống trong tình Cha, cho muôn dân sống trong ân tình Ngài qua cách sống và thể hiện niềm tin của người kitô hữu.

Ước mong rằng Tin Mừng cứu rỗi của Chúa Kitô, nhờ vào sự cộng tác nhiệt thành của mỗi người, mỗi thành phần dân Chúa mà Tin mừng không ngừng được lớn mạnh và tình yêu thương mà Chúa Kitô đã đem đến cho nhân loại, cho thế giới này sẽ được phát triển và hiện diện với hết mọi người và với mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA –

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Mỗi người Ki-tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công việc truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc loan báo Tin Mừng. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay xác định cho chúng ta nội dung của việc loan báo Tin Mừng được cô động ở nơi lời phát biểu của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.

Nếu công việc truyền giáo được định nghĩa theo truyền thống Đông Phương “kể cho nhau nghe cuộc đời của Đức Ki-tô”, thì mỗi người Ki-tô hữu phải kể về cuộc đời của Đức Giê-su cho anh chị em mình không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của mình, nghĩa là, tự đặt mình vào trong tình liên đới với những anh chị em chung quanh mình, biến cuộc đời mình thành cuộc đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá cứu chuộc muôn người. Đó là lời loan báo Tin Mừng cụ thể nhất, sống động nhất và hữu hiệu nhất.

Trong tuyến phát triển của Tin Mừng Mác-cô, chúng ta theo Đức Giê-su trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ở đó cái chết đang chờ đợi Ngài. Viễn cảnh Thương Khó ở trung tâm của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay; hai trong số ba bài đọc: Bài Đọc I và Bài Đọc II, được mượn từ Phụng Vụ Lời Chúa Thứ Sáu Tuần Thánh.

Is 53: 10-11

Trong Bài Đọc I trích từ bài ca Người Tôi Trung chịu đau khổ, những khốn khổ và cái chết của Người Tôi Trung đã được Thiên Chúa chấp thuận như hiến lễ xóa tội, nhờ đó muôn người nên công chính.

Dt 4: 14-16

Trong Bài Đọc II trích từ thư gửi tín hữu Do thái, tác giả minh chứng Đức Giê-su là vị Thượng Tế đầy lòng cảm thương, Ngài đã tự đặt mình liên đới với nhân loại, cho đến mức chịu đau khổ và chịu chết để đưa con người đến bên lờng Chúa xót thương.

Mc 10: 35-45

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su trả lời cho những tham vọng của hai anh em nhà Dê-bê-đê và cho tất các môn đệ của Ngài nữa, bằng cách phác họa chân dung người tôi tớ lý tưởng, biến cuộc đời mình thành đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá chuộc cho muôn người.

BÀI ĐỌC I (Is 53: 10-11)

Đoạn văn này được trích từ bài ca thứ tư về Người Tôi Trung đau khổ trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55). Bài ca này mô tả số phận Người Tôi Trung mầu nhiệm của Đức Chúa: chịu đau khổ và bị giết chết, đoạn được tôn vinh, số phận tương tự với số phận của Đức Giê-su. Thân phận Người Tôi Trung này loan báo thân phận của Chúa Giê-su.

  1. Hy lễ của cuộc đời đau khổ(Is 53: 10)

Người thuật chuyện, chắc chắn chính là vị ngôn sứ, hoàn tất những suy niệm của mình về số phận đau thương của Người Tôi Trung qua lời nguyện mà ông ngỏ lời với Đức Chúa:

“Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.

Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,

người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,

và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53: 10).

“Kẻ nối dõi” chắc chắn có cùng một ý nghĩa như trong nhiều đoạn văn Cựu Ước, tức là hậu duệ của tổ phụ Áp-ra-ham, chính xác hơn, đông đảo những người tín hữu được hưởng nhờ việc Người Tôi Trung hiến thân mình làm của lễ đền tội. Người “sẽ được trường tồn” (cũng như: “Người sẽ nhìn thấy ánh sáng”) có thể ám chỉ đến “sự sống lại”.

  1. Câu trả lời của Đức Chúa(Is 53: 11)

Lúc đó, Đức Chúa trả lời cho vị ngôn sứ bằng cách hứa ban một số phận vinh quang cho Người Tôi Trung của Ngài, vì những đau khổ mà ông đã phải hứng chịu, và nhờ ông gánh lấy tội lỗi của muôn dân mà họ được nên công chính và thánh thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sẽ tự đồng hóa mình với “người tôi tớ”, “Ngài đến để phục vụ” và Ngài sẽ lặp lại bằng những từ ngữ tương tự: “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.

BÀI ĐỌC II (Dt 4: 14-16)

Bài Đọc II tiếp tục trích thư gửi tín hữu Do thái. Trong đoạn trích trước, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa: Lời Chúa thấu suốt lòng trí của chúng ta, xét xử tận cõi thâm sâu qua tiếng lương tâm mỗi người. Trong đoạn trích hôm nay, tác giả đem đến một viễn cảnh trấn an: Đức Ki-tô là Đấng chuyển cầu lý tưởng của chúng ta, vì Ngài “thông cảm được những nỗi yếu hèn của chúng ta; vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, nhưng không phạm tội”. Ngài là vị Thượng Tế tuyệt vời; Ngài đã không đơn giản băng qua Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để đi vào nơi Cực Thánh – như vị Thượng Tế Cựu Ước – nhưng đã băng qua các tầng trời để tiến đến ngai Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta theo Ngài đến tận nơi Thiên Chúa ngự. Vì thế, chính nhờ Ngài mà chúng ta nhận được muôn vàn ân sủng.

Lời chuyển cầu đầy quyền năng của Đức Ki-tô bắt nguồn từ những đau khổ mà Ngài đã chấp nhận hứng chịu khi mặc lấy thân phận con người. Bản văn âm vang Bài Đọc I và loan báo bài học mà Đức Giê-su sẽ đưa ra cho các môn đệ Ngài trong Tin Mừng hôm nay.

TIN MỪNG (Mc 10: 35-45)

Cuộc vận động của hai anh em nhà Dê-bê-đê, Gia-cô-bê và Gioan, được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu thuật lại (thánh Mát-thêu quy cuộc vận động này cho bà mẹ của họ). Cả hai thánh ký đều đặt tình tiết này ngay liền sau lời loan báo thứ ba của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Lời loan báo thứ ba này có nhiều chi tiết chính xác hơn hai lần loan báo trước; Đức Giê-su kể ra: Ngài sẽ phải chịu những lời nhạo báng, nhục mạ, đánh đòn và bị giết chết. Thánh ký đã không ghi nhận bất kỳ phản ứng nào của các môn đệ, ngoài việc họ im lặng, vì không hiểu và chắc chắn cũng sợ hãi nữa. Quả thật, trước khi thuật lại Chúa Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, Thánh Mác-cô viết: “Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (Mc 10: 32).

  1. Phản ứng của các môn đệ

Cứ mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của mình, các môn đệ của Ngài luôn luôn tìm cách xua đuổi khỏi tâm trí của mình những hình ảnh đau thương mà chỉ nghĩ đến quyền hành, chức tước, bổng lộc. Sau lời loan báo thứ nhất, ông Phê-rô tìm cách ngăn cản Ngài và Chúa Giê-su yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài (8: 31-9: 1). Sau lời loan báo thứ hai, họ bày tỏ một thái độ dửng dưng, vô cảm đối với những lời bi thảm của Thầy mà chỉ tranh nhau về những đặc quyền đặc lợi giữa họ; lúc đó, Chúa Giê-su đòi hỏi họ phải tự hạ mình “làm người phục vụ mọi người” (9: 30-37). Sau lời loan báo thứ ba này, sự tương phản cũng không kém dữ dội: hai trong số họ có tham vọng riêng của mình.

  1. Hai anh em nhà Dê-bê-đê

Hai ông Gia-cô-bê và Gioan là những người thợ được gọi vào giờ thứ nhất: hai ông đã là đối tượng được Đức Giê-su ưu ái một cách đặc biệt: Ngài cho hai ông cùng với ông Phê-rô chứng kiến cuộc phục sinh bé gái ông Gia-ia; Ngài cho hai ông cùng với Thánh Phê-rô chiêm ngưỡng cuộc Biến Hình của Ngài trên núi cao; chỉ hai ông cùng Thánh Phê-rô và Thánh An-rê, hỏi riêng Ngài khi nào thì Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và những điềm báo nào về thời chung cuộc (Mc 13: 3); cuối cùng, chỉ hai anh em này cùng với Thánh Phê-rô sẽ chứng kiến cơn xao xuyến tận mức của Chúa Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni.

Chắc chắn hai người con của ông Dê-bê-đê đã được hưởng mối thân tình gần gũi với Đức Giê-su hơn các môn đệ khác; họ mong muốn được tiếp tục tình thân này trong Nước Chúa và chiếm những chỗ ưu tiên bên cạnh Thầy mình. Quả thật, đầy tham vọng, họ sẵn sàng chịu đựng tất cả để đạt cho bằng được những chỗ ưu tiên này; nhưng dù thế nào, lòng yêu mến của họ và sự ngây thơ của họ khiến chúng ta cảm động. Giả như họ biết rằng hai chỗ mà họ cầu xin sẽ là hai chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Thầy mình, liệu họ có thỉnh cầu không?

  1. Được chia sẻ cùng số phận với Ngài

Đức Giê-su hứa với hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, họ sẽ được dự phần vào vận mệnh đau khổ của Ngài: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. “Chén” để uống là hình ảnh Kinh Thánh được dùng để tượng trưng những đau khổ phải chịu (Tv 75: 9; Is 51: 17-22;…). Diễn ngữ “uống cạn chén” đồng nghĩa với việc phải chịu thử thách cho đến tận cùng. Vào những giờ phút xao xuyến tận mức trong vườn Ghết-xê-ma-ni, chính Đức Giê-su sẽ nài xin Cha Ngài: “Xin cất chén này xa con” (14: 36).

Còn về phép rửa mà Ngài sắp chịu, đó là những giờ phút cam go, những giờ phút Ngài sắp phải bị dìm mình vào trong những cơn sóng đau khổ và cái chết bi thảm. Ngài sẽ chuẩn bị cho hai anh em những bách hại và phúc tử đạo; nhưng Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của họ là được ngồi bên hữu bên tả của Ngài, bởi vì đó không thuộc thẩm quyền của Ngài; vai trò của Ngài thì khác: “Con Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con Người, mà được cứu độ” (Ga 3: 17). Các môn đệ chỉ có một cách hành xử phải theo: phó thác vào bàn tay của Chúa Cha.

  1. Lý tưởng phục vụ

Lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dê-bê-đê đã dấy lên một làn sóng tranh dành quyền cao chức trọng giữa các môn đệ, vốn đã tiềm tàng từ lâu trong lòng họ, nhưng chưa có cơ hội để bộc phát. Đức Giê-su đã hiểu rõ rằng các ông còn nghĩ đến một vương quốc trần thế mà họ tin triều đại này sắp đến gần. Với một sự kiên nhẫn vô tận để không gây thất vọng cho họ, Ngài lấy lại giáo huấn của Ngài về việc thay đổi tận căn những giá trị theo quan niệm trần thế. Giáo Hội của Ngài không được bắt chước những xã hội trần thế. Nếu những kẻ quyền cao chức trọng trong xã hội trần thế được hưởng những đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trước, được kẻ hầu người hạ, thì trong Giáo Hội của Ngài “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”.

Để làm cho rõ nghĩa lý tưởng “phục vụ” này, Đức Giê-su còn bổ túc thêm: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Trong bất kỳ xã hội nào, đầy tớ là hạng người thấp kém nhất và ai cũng biết người đầy tớ phải làm những gì rồi. Hơn nữa, việc phục vụ không chỉ dừng lại trong vòng anh em của mình, hay cho một tiểu số nào, mà phải trải rộng cho hết “mọi người”.

Như vậy, bài học thật sống động cụ thể, nhưng còn trở nên sống động và cụ thể hơn nữa khi được rút ra từ chính cuộc đời của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Những từ ngữ này được mượn ở nơi cuộc đời của Người Tôi Trung chịu đau khổ mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã phác họa trong Bài Đọc I. Chúa Giê-su sẽ trao ban mạng sống mình “làm giá cứu chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá rất đắt cho tội lỗi của nhân loại, không trừ một ai hết.

Về mục lục

.

LÀM ĐẦY TỚ

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Đọc Tin Mừng, ta thấy dường như duy chỉ có trường hợp hai anh em nhà Giêbêđê (hay chính người mẹ của hai ông này) đến xin Chúa Giêsu cho xí phần tả hữu khi Chúa được vinh quang, theo mộng tưởng của hai vị là Chúa sẽ làm vua. Dù rằng mười vị còn lại có biết chuyện này, vì các vị đã tức tối ra mặt, nhưng không thấy vị nào mon men đến xin xỏ Thầy một chức vị nào đó cho sau này. Có thể đây là một lý do: Điều xin thì chưa chắc được nhưng điều không xin thì lại phải bị gánh chịu. “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”(Mc 10,39-40).

Phen này đúng là thua to, hai vị nhà Giêbêđê im hơi lặng tiếng đủ nói lên tâm trạng của các vị. Thực ra không phải hai vị mà cả nhóm Mười Hai đã lầm. Cái lầm căn bản của cả nhóm đó là mong sẽ được có chức vị cao trọng ngoài xã hội, và dĩ nhiên sẽ được hưởng vinh hoa phú quý khi đi theo Thầy Giêsu. Vị tôn sư người Nagiarét đủ đầy quyền năng trong lời nói lẫn hành động hẳn phải là Đấng Thiên Sai, nếu không thì cũng là một đại ngôn sứ. Với uy quyền cả thể như thế, chắc chắn Người sẽ giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ ngoại bang và sẽ được phong làm vua. Ngay cả trước khi Chúa về trời thì các ngài cũng còn hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Cvtđ 1,6).

Cả nhóm Mười Hai lầm thì cũng dễ hiểu vì các ngài chưa được nghe lời khẳng định của Thầy trước mặt Philatô rằng Người là vua nhưng nước Người không thuộc về thế gian này (x.Ga 18,33-38). Nơi con người, song hành với tính xã hội thì có đó bản năng thống trị. Ở giữa một tập thể, người ta có khuynh hướng tìm cách làm đầu kẻ khác. Dẫu sao đi nữa, làm đầu con tôm cũng hơn là làm đuôi con rồng. Dù lớn hay bé, khi đã được làm đầu thì không chỉ sẽ được kính trọng mà còn được cung phụng. Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy đây là một chủ đề thường xuyên trở thành nguyên cớ tranh luận giữa tập thể nhóm Mười Hai.

“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44). Lời khẳng định của Chúa Giêsu là một mệnh lệnh. Cả nhóm Mười Hai hôm ấy và cả chúng ta hôm nay, chẳng ai chối cãi hay biện bạch. Thế nhưng, thực tế minh chứng cho thấy chúng ta vẫn còn đặt để mệnh lệnh ấy trên giấy cách nào đó. Không riêng gì người theo Chúa, quý vị nắm trọng trách ngoài xã hội cũng khẳng định rằng chính quyền là đầy tớ nhân dân. Thế mà chuyện đầy tớ ăn trên ngồi trước, còn các ông chủ thì khép nép tìm các hạt cơm thừa; đầy tớ thì chễm chệ ghế salon nệm dày, sở hữu nhà cao cửa rộng còn ông chủ lại vất vưởng trong các căn chòi ọp ẹp…đã trở thành “chuyện tử tế” của một thời và hình như là của nhiều thời, nhiều nơi.

Có thể có nhiều lý do để biện minh về việc các ngài đầy tớ sở hữu cũng như sử dụng các phương tiện sang trọng. Các vị ấy cần có phương tiện thích ứng để làm đầy tớ tốt hơn, hữu hiệu hơn. Các vị ấy không chỉ cần có tác phong tương xứng, mà còn cần có những cái bên ngoài như y phục, đồ dùng, phương tiện đi lại…cách nào đó cho phù hợp với vai vế hay chức vụ đảm nhận mà thôi (noblesse oblige). Đây không phải là lời biện minh, nhưng là lời giải thích khá hữu lý và hợp tình. Thế thì đâu là dấu chỉ một người làm đầu đang thực sự làm đầy tớ?

Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta một dấu chỉ bằng chính cuộc sống, cung cách hành động của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Có thể nói việc hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người là bằng chứng của việc làm đầy tớ. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x.Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x.Is 53,10-11).

Số người được làm đầu con rồng trong Giáo Hội hay ngoài xã hội quả là không nhiều, nhưng số người làm đầu con tôm, tôm to, tôm vừa, tôm bé hay các loại tép thì đếm không xuể. Có một vài người thuộc quyền của chúng ta, dưới quyền của chúng ta, trong trách vụ của chúng ta thì chúng ta đang được đặt làm đầu. Đó là đàn chiên chúng ta đang chăn dắt, đó là con cái mà ta đã sinh thành, đó là nhóm học sinh ta đang dạy dỗ, đó là những người cô thân, bé phận ngoài xã hội hay trong Giáo Hội, đó là những người yếu đuối, tội lỗi đang cần chúng ta nâng đỡ, dìu dắt, chỉ lối, dẫn đường…Như thế, có thể nói hầu hết chúng ta đã được đặt làm đầu. Đã làm đầu thì phải làm đầy tớ.

Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).

Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thịnh vượng hay không, Giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không, chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ – tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này.

Về mục lục

.

CHÚNG TA HÃY ĐEM TIN MỪNG CHO HẾT MỌI NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn

Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ như thế với các bạn trẻ trong Sứ Điệp Truyền Giáo 2018. Lý do Đức Thánh Cha nói riêng với các bạn trẻ trong sứ điệp truyền giáo năm nay là vì Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đang nhóm họp tại Rôma từ 03-28/10 với chủ đề: “Giới trẻ, đức tin và việc phân định ơn gọi”. Tuy nhiên, không chỉ nói riêng với giới trẻ, mà Ngài còn khẳng định: “Trong khi nói với các con, Cha cũng nói với hết mọi Kitô Hữu đang sống hành trình đời mình trong Giáo Hội trong vai trò là con cái của Thiên Chúa”. Như vậy Đức Thánh Cha nói với hết mọi người chúng ta trong ngày truyền giáo năm nay là: “CHÚNG TA HÃY ĐEM TIN MỪNG CHO HẾT MỌI NGƯỜI”.

  1. Cuộc đời là một sứ mạng

Đức Giêsu Phục Sinh đã trao sứ mạng cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19a). Và quả thật, các ngài đã đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Các ngài đã dùng nhiều cách thức khác nhau để loan báo Tin Mừng Phục Sinh, thời đó chủ yếu là lời rao giảng. Nhưng quan trọng nhất là các ngài đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng về Đức Giêsu đã chết và sống lại. Thế cho nên các môn đệ đã làm cho cuộc đời của mình nên ý nghĩa khi chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã nói trong sứ điệp Truyền giáo của Ngài: “Mỗi người nam nữ là một sứ mạng; đó là lý do cho cuộc sống của chúng ta trên mặt đất này”. Ngài nói chung về sứ mạng làm người, và dĩ nhiên muốn nói riêng về sứ mạng làm Kitô hữu. Nhạc sĩ Phong Vũ đã sáng tác bài hát: Xin Cho Đời Tôi được bắt đầu bằng câu: “Đã làm người mỗi người đều có một lần sinh ra một lần chết đi nên đừng uổng phí hay không có gì cho anh em mình”. Làm người thì phải sống có ích cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội; tránh trở nên gánh nặng cho người khác bởi những đam mê, tật xấu và sự hờ hững của mình. Làm Kitô hữu thì phải sống cho ra người con cái Chúa vì nó sẽ đem đến sự sống vĩnh cửu cho chính bản thân mình. Hơn thế nữa khi chúng ta sống đạo tốt còn ảnh hưởng đến gia đình, con cái, người thân và mọi người chúng ta gặp gỡ.

Tuy nhiên nhiều Kitô hữu đã không ý thức mình là Kitô hữu nên không quan tâm gì đến chuyện sống đạo, hoặc sống đạo đơn giản chỉ là việc đi lễ ngày Chúa Nhật, ngoài ra không cầu nguyện, không lãnh nhận các Bí tích, không thực thi tình bác ái theo lời Chúa dạy… Sống đạo là đi vào mối tương quan với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Vì vậy đạo không phải là hình thức, là một mớ lề luật phải giữ, nhưng phải cảm nhận thực sự Thiên Chúa đang ở bên cạnh cuộc đời mình. Con người chúng ta có nhiều lý tưởng, nhiều đam mê, nhiều khả năng, nhiều năng lực để thực hiện ước mơ… Trong tất cả những điều đó, hãy dành ưu tiên số một cho Thiên Chúa là bạn đang thực hiện một sứ mạng lớn nhất cho cuộc đời mình.

Giáo hội vừa có thêm 8 vị tân hiển thánh vào Chúa Nhật, 14/10/2018. Họ gồm nhiều thành phần khác nhau: Giáo hoàng, Tổng Giám mục, Linh mục, tu sĩ và giáo dân. Trong tiểu sử không thấy vị nào đi truyền giáo, nhưng đều có một nét chung là họ sống hết mình cho sứ mạng của mình, mà sứ mạng đó được phát xuất bởi niềm tin vào Thiên Chúa.

  1. Thông truyền niềm tin đến tận cùng trái đất

Sứ mạng mà Đấng Phục Sinh trao cho các môn đệ của Ngài là: “… Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều mà Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19b). Những điều Đức Giêsu dạy cho các môn đệ cũng chính là sứ điệp chính yếu về Thiên Chúa là Cha, Đấng giàu lòng thương xót, từ đó hãy sống tình con thảo với Ngài qua những điều Ngài chỉ dạy. Sống được như thế là đang thông truyền niềm tin cho người khác.

Đức Thánh Cha nhắn nhủ với các bạn trẻ: “Sự thông truyền niềm tin này diễn ra bởi sự lây nhiễm của tình yêu, nơi mà niềm vui và lòng nhiệt thành trở thành một sự thể hiện của một ý nghĩa và sự tròn đầy mới được phát hiện trong cuộc sống”. Vì thế trước hết, Kitô hữu phải có niềm vui trong đời sống của mình. Vui vì được làm con Chúa, được sống trong gia đình Hội thánh, được thực thi sứ mạng bác ái yêu thương. Do đó dù trong bất cứ cảnh ngộ nào, chúng ta cũng không được quá buồn phiền, lo lắng làm mất đi niềm vui thánh thiện của mình, vì chúng ta tin tưởng rằng có Thiên Chúa quan phòng cho ta mọi sự… Kế đến là lòng nhiệt thành. Kitô thực sự phải có lòng nhiệt thành, hăng say với việc đạo và việc chung trong cộng đoàn. Chính lòng nhiệt thành mà tân hiển thánh Oscar Romero được Đức Thánh Cha tuyên thánh vào Chúa Nhật tuần trước đã hết lòng bênh vực người nghèo đến nỗi đã bị chính quyền loại trừ và  bắn chết Ngài đi đang dâng lễ trong một nhà thương. Cũng chính lòng nhiệt thành vì Giáo hội mà nhiều người đã bỏ sức lực, thời gian, tài sản vì việc chung của Giáo hội.

Như vậy trong sứ điệp truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha không hề đề cập đến việc loan báo Tin mừng cho những người chưa biết Chúa, mà Ngài nhắm đến những bạn trẻ và mọi Kitô hữu để nhắc nhở họ trước hết hãy sống cho sứ mạng cao cả mà mình đã được lãnh nhận bằng niềm vui là lòng nhiệt thành, nghĩa là Ngài muốn nói đến việc truyền giáo bằng chính đời sống, vì cũng theo lời của vị tân hiển thánh là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Người thời nay cần những chứng nhân hơn thầy dạy, và nếu có cần thầy dạy thì cũng vì họ đã là chứng nhân”.

Chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện với Đức Mẹ là người nữ truyền giáo đầu tiên cho mỗi người chúng ta ý thức lại sứ mạng là Kitô hữu để sống trọn vẹn cho sứ mạng đó bằng niềm vui và lòng nhiệt thành giống Đức Mẹ ngày xưa đã mạnh dạn lên đường trong niềm vui ơn cứu độ.

Về mục lục

.

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO.

Jorathe Nắng Tím

Tin Mừng Chúa Nhật Truyền Giáo chia thành hai phần với nội dung hoàn toàn trái ngược : phần nhất từ câu 35 đến câu 41 là câu chuyện hai tông đồ Gioan và Giacôbê quấn quýt, bám chặt Đức Giêsu để chạy chức, chạy quyền với lời van xin tha thiết : “Xin cho chúng con được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả trong vinh quang của Thầy”, và phần hai từ câu 41 đến 45 với giáo huấn của Đức Giêsu : Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ, vì “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc tội thay cho nhiều người” (Mc 10,45).

1. Sống đạo là truyền giáo :

Truyền giáo là căn tính của Giáo Hội, nên không có Giáo Hội, nếu không có Truyền Giáo, vì căn tính và sứ vụ của Giáo Hội là : “Hãy đi khắp thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu rỗi …” (Mc 15,15-16).

Một cách cụ thể, truyền giáo là “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”, điều mà mọi tín hữu đều long trọng xướng lên ở phút cao điểm của thánh lễ. Đây chính là lẽ sống, đường sống, và sinh hoạt của đời người Kitô hữu. Họ sống đạo khi loan truyền Đức Giêsu chịu đóng đinh, chết và sống lại. Họ trở thành người có Đạo một cách thiết thực, sống động và chính danh khi loan báo cho mọi người Thiên Chúa vì yêu thương con người đã làm người, chết cho con người và sống lại để con người được sống. Sống đạo và truyền đạo là một, vì chung một mục đích, chung một hoạt động. Vì thế sẽ không có tín hữu sống đạo mà không truyền giáo, cũng như không có nhà truyền giáo nào bị coi là không sống đạo.

Từ chối bổn phận truyền giáo là không sống đạo ; phủ nhận trách nhiệm loan báo Đức Giêsu cho mọi người chung quanh là mặc nhiên chối đạo ; bỏ quên sứ mệnh “được sai đi” khi chịu bí tích thánh tẩy là đào ngũ, bởi loan báo Đức Giêsu, tuyên xưng Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu, dẫn người ta đến gặp Đức Giêsu, tạo điều kiện để Đức Giêsu ngự đến trong nhà người khác, chuẩn bị mảnh đất tâm hồn tha nhân để hạt giống Tin Mừng của Đức Giêsu được mọc lên tươi tốt là căn tính, điều kiện không thể thiếu để trở thành người có đạo, người sống đạo, người có Đức Giêsu.

Như thế, người Kitô hữu trước hết phải được sứ mệnh truyền giáo cuốn hút, bằng xác tín mãnh liệt : mình được sai đi qua bí tích Thánh tẩy. Có tin rằng mình được Thiên Chúa sai đi qua Giáo Hội, chúng ta mới tự tin và hăng hái lên đường truyền giáo. Sở dĩ nhiều người công giáo đã không tha thiết với sứ vụ truyền giáo là vì não trạng : truyền giáo là việc của các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chứ không phải việc của “con chiên, giáo dân”. Chính não trạng này, cộng thêm não trạng “giáo sĩ trị” đã làm hoang mang và chùn chân người giáo dân trong sứ vụ truyền giáo của mình.

Nhờ được sứ vụ truyền giáo cuốn hút, chúng ta sẽ nhận ra trách nhiệm của mình với thế giới, với mọi người chung quanh : trách nhiệm loan báo Tin Mừng để mọi người được hạnh phúc như chúng ta.

Chính trong trách nhiệm làm cho thế giới được hạnh phúc nhờ lãnh nhận Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta nhận được niềm vui đích thực của Tin Mừng, niềm vui mà Thiên Chúa hứa ban cho những ai đi theo Ngài để làm chứng Thiên Chúa yêu thương và cứu độ mọi người.

2. Truyền giáo là Phục Vụ :

Có lẽ, anh chị cũng như tôi, chúng ta đã có lần suy nghĩ và tự hỏi : Vẫn biết truyền giáo là loan báo Đức Giêsu làm người, đã chết và sống lại ; truyền giáo là giới thiệu Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người cho mọi người, mọi nơi, mọi thời, nhưng cụ thể, chúng ta bắt đầu truyền giáo từ đâu, từ công việc nào ?

Quả thực, câu hỏi rất quan trọng và ít nhiều đã làm chúng ta băn khoăn. Trong Tin Mừng của ngày Truyền Giáo hôm nay, Đức Giêsu trả lời chúng ta rất rõ ràng, chính xác : Truyền giáo là Phục Vụ mọi người như tôi tớ.

Hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã năn nỉ hai chỗ quan trọng trong vương quốc của Đức Giêsu, và cả hai đã nhận được câu trả lời : “Các ngươi biết : các kẻ được coi là thủ lĩnh các dân tộc thì làm chúa trên họ, và những người làm lớn thì bắt người khác phục quyền mình. Nhưng các ngươi thì không như thế ! Ai muốn làm lớn trong các ngươi thì hãy hầu hạ các ngươi, và ai muốn làm đầu các ngươi thì hãy làm tôi tớ mọi người” (Mc 10,42-44).

Đức Giêsu đã không ngần ngại làm vỡ mộng “quan lớn” của hai tông đồ, bằng đưa ra một đường lối hoàn toàn trái ngược : phục vụ mọi người như đầy tớ. Làm môn đệ, tông đồ, chứng nhân, người được sai đi loan báo Tin Mừng của Ngài sẽ không cai trị ai, không bắt ai phục dịch, hầu hạ mình, càng không đàn áp, khống chế, bóc lột ai vì tư lợi, nhưng tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ mọi người. Từ đây, tông đồ không còn nuôi giấc mộng bá quyền, cai trị, nhưng chỉ còn một thách đố trước mắt là qùy xuống rửa chân cho mọi người như tôi tớ ; nhà truyền giáo không còn lên đường với não trạng “kẻ cả, người trên” bố thí Tin Mừng, nhưng là loan báo Tin Mừng bằng phục vụ mọi người như người anh em hèn mọn ; người được chọn lãnh đạo trong Giáo Hội cũng không còn tơ vương làm vua làm chúa, nhưng biết mình được chọn để trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đấng đến trong thế gian để “phục vụ chứ không phải để được phục vụ, đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người”.

Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc truyền giáo : Phục Vụ ; đã chỉ cho chúng ta một phương án truyền giáo : Phục Vụ ; đã dậy chúng ta một bài học truyền giáo : Phục Vụ bằng quả quyết sứ mệnh của Ngài là Phục Vụ : “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,45).

Không còn gì chính xác hơn lời qủa quyết này, vì nếu sứ vụ cuả Đức Giêsu, Đấng đến trong thế giới để loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện bằng Phục Vụ mọi người, bằng qùy xuống rửa chân môn đệ mình như đầy tớ, thì những người khác được Ngài sai đi tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng sẽ không thể làm khác, nghiã là không thể né tránh đòi hỏi Phục Vụ, không thể khước từ lời mời gọi Phục Vụ, không thể khấu trừ điều kiện Phục Vụ. Trái lại, không phục vụ sẽ không thể loan truyền Đức Giêsu chịu chết cho ai, không phục vụ sẽ không có cách tuyên xưng Đức Giêsu sống lại cho người nào, không phục vụ sẽ vô phương làm chứng Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người, chết cho con người vì yêu thương con người.

Phục Vụ từ nay không còn là việc làm có cũng được, không có cũng chẳng sao, nhưng là điều kiện mang tính quyết định thành bại trong đời sống đạo, cũng như trong công cuộc truyền giáo. Thiếu phục vụ, không ai tin lời chứng của chứng nhân ; không phục vụ, tiếng nói của nhà truyền giáo không thuyết phục ; bỏ quên phục vụ, dung mạo đích thực của Đức Giêsu sẽ không chỉ bị bóp méo, bôi nhọ, xấu xí, dị hợm, mà còn biến dạng thành kinh tởm, đe doạ, đáng ghét trên môi miệng người được sai đi.

Ước gì Lời Chúa đang mời gọi chúng ta lên đường truyền giáo bằng cúi xuống phục vụ mọi người như tôi tớ, loan báo Nước Thiên Chúa bằng qùy xuống rửa chân cho anh em như đầy tớ hèn mọn, giới thiệu Đức Giêsu là Tình Yêu thương xót và Tin Mừng Cứu Độ bằng hiến mạng sống cho hạnh phúc của anh em được thực hiện ngay hôm nay bằng một việc làm cụ thể : phục vụ một người gần nhất đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.

Về mục lục

.

HỌA – PHÚC

Lm. Thái Sơn

Bần đạo có ông anh họ, cũng thuộc hàng ‘lờ mờ, long mồm, lở móng’ đã sưu tầm được mẩu chuyện vui, với nhan đề “TOẠC VÁY”, xin phép được mạo muội chia sẻ:

+ NHẬT BẢN. Tại phi trường Tokyo đông nườm nượp, một anh chàng chẳng may chạm vào làm toạc váy của một cô gái Nhật. Anh ta chưa kịp nói lời xin lỗi, thì cô gái đã cúi rạp người nhỏ nhẹ nói:

– Xin lỗi đã làm phiền anh, chỉ vì phẩm chất chiếc váy này tệ quá.

+ MỸ QUỐC. Tại trung tâm Times Square tấp nập người đi lại, một anh chàng Mỹ vô tình làm toạc váy của một em tóc vàng. Chàng này chưa kịp mở miệng thanh minh, thì cô gái đã rút ngay tấm danh thiếp và nói:

– Đây là số phone luật sư của tôi, ông ta sẽ tìm anh để tính việc quấy rối tình dục này, hẹn gặp nhau tại toà án.

+ PHÁP QUỐC. Dưới chân tháp Eiffel, một chàng lãng tử Pháp không may làm toạc chiếc mini skirt của một cô nàng Pháp. Chàng chưa kịp nói gì thì cô nàng đã cười hic hic, sau đó ghé vào tai chàng và nói:

– Nếu anh không ngại, thì tặng em một bông hồng để xin lỗi đi…

+ THÁI LAN. Trên bãi biển Phu Ket, một anh chàng Thái vô tình làm toạc chiếc váy ngắn của một cô gái. Chàng trai chưa kịp nói gì thì cô gái đã cười nói:

– Chưa kịp ngã giá mà đã đòi xem hàng rồi hả anh?

+ TRUNG QUỐC. Trước tượng đài giải phóng Trùng Khánh, một anh Tầu chẳng may làm toạc váy ngắn của một cô gái Hoa. Anh này chưa kịp mở miệng xin lỗi, thì đã nghe tát bốp một cái bên tai. Cô gái túm chặt lấy cổ anh, mồm thì rít lên:

– Mày to gan nhỉ, dám chọc tới bà mày à? Đi gặp 110 thằng công an cùng tao ngay…

+ VIỆT NAM. Tại chợ Đồng Xuân, chàng thư sinh chẳng may làm toạc chiếc váy ngắn của một em gái Hà Thành. Chàng này chưa kịp xin lỗi thì nàng đã hét lên:

– Mẹ Tiên Sư Bố cả lò nhà mày, mắt mũi để đâu hả thằng nỡm kia? Bà tát cho mày một cái, mặt lật sau lưng, đít gập vào cổ, cằm bổ làm đôi, răng môi lẫn lộn, lỗ mũi ăn trầu, cái đầu ăn guốc…

Thưa các bạn!

Phải chăng, tảng đá mà bạn ném ra, người bị nó làm cho vấp té sẽ luôn là chính bản thân bạn? Thiết tưởng, nếu bạn nói lời cay nghiệt, sau cùng cũng sẽ tự mình rước lấy nhục nhã mà thôi.

Mừng Lễ Truyền Giáo, nhắc nhở “bạn & tôi” lời mời gọi truyền giáo hay rao giảng Tin Mừng là một mệnh lệnh của Chúa, cũng là sứ mạng của mỗi Kitô. Nếu không, “phúc” chẳng thấy đâu, mà “họa” sẽ đến gõ cửa nhà “bạn & tôi”.

Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16).

Rao giảng Tin Mừng như thế nào? Có lẽ, “bạn & tôi” cần thay đổi tư duy và cách sống để rao giảng Lời Chúa giữa cuộc đời này, hầu có thể đổi “họa” thành “phúc”.

Cần thay đổi đời sống bằng cách “cầu nguyện” nhiều hơn. Là người, không ai có thể làm thay đổi tâm hồn một con người, nếu không có ân sủng của Thiên Chúa.

Cần thay đổi đời sống bằng cách “làm chứng” cho Chúa trong mọi hoàn cảnh sống. Nói ít làm nhiều, nhìn ít nghe nhiều, tính ít mần nhiều, dối ít thật nhiều…

Cần thay đổi đời sống bằng cách “dâng hiến” thời gian, sức lực, tài năng, ước muốn, tiền của, và bản thân cho Thiên Chúa, Giáo Hội, cộng đoàn, gia đình, anh chị em…

Sau cùng, biết tin tưởng nơi Chúa, vì “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1Cr 3,6). Cụ thể, “trồng” và “tưới” hạt giống Lời Chúa là nhiệm vụ của “bạn & tôi”, còn cho “hoa trái” tùy thuộc vào Chúa.

Thưa các bạn!

Nếu chỉ vì một hành vi sơ ý, mà lấy “cái tôi” to tổ chảng, rồi kéo cả đạo binh, họ hàng, dòng giống người khác ra, từ tổ tiên, ông bà, phụ mẫu đến con cái, cháu chắt chửi cho sướng cái “mõm”, thì còn gì là “phúc” nữa.

Xin cho tất cả cái “họa” như gặp khó khăn, vất vả, cực nhọc, khổ đau…sẽ biến thành cái “phúc” cho “bạn & tôi”. Hơn nữa, Hà Thành sẽ trở nên Thành Đô của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Amen

Về mục lục

.

 

HIẾN MÌNH VÌ YÊU THƯƠNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một tác giả đã viết: hạnh phúc lớn lao nhất mà ta đạt được, đó là khi làm cho người khác được hạnh phúc. Quả vậy, khi chúng ta quảng đại dấn thân để đem lại niềm vui cho một người nào, thì chính chúng ta đạt được niềm hạnh phúc lớn lao cho chính mình. Chúa Giêsu đã dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Chúa đã làm gương cho chúng ta khi vui lòng chấp nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương con người.
 
Chúa Giêsu đóng đinh là trung tâm đời sống của Giáo Hội. Luật Phụng vụ quy định, khi dâng thánh lễ luôn phải có tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, đặt ở vị trí mọi người dễ thấy cạnh bàn thờ. Sự hy sinh hiến mình của Chúa Giêsu là nguồn gợi hứng và là linh hồn cho mọi hoạt động của đời sống Kitô hữu. Thánh Phaolô đã khẳng định, niềm vinh dự của ngài chính là Đức Giêsu chịu đóng đinh. Chính nơi thập giá, thánh nhân đã kín múc sức mạnh, sự can đảm và niềm vui, mặc dù phải đối diện với bao gian nan thử thách trong sứ mạng tông đồ.
 
Lời Chúa hôm nay diễn tả Đức Giêsu dưới khía cạnh của một người Tôi tớ Chúa chịu khổ nạn vì yêu thương con người. Ngôn sứ Isaia đã thương cảm trước hình ảnh của Đấng bị hành hạ, là nạn nhân của bạo lực và ghen ghét. Tuy vậy, nếu vị Tôi tớ Chúa chấp nhận những khổ đau, là để cho con người được hạnh phúc trường tồn. Một hậu duệ thiêng liêng sẽ được phát sinh từ thương tích của Ngài.
 
Truyền thống Kitô giáo đã nhận ra nơi người Tôi tớ đau khổ của Chúa mà Isaia loan báo là hình ảnh tiên báo Chúa Giêsu. Con Thiên Chúa đã mang trên mình mọi tội lỗi của muôn dân. Người chịu đóng đinh trên thập giá như một tội nhân, mặc dù người Do Thái không tìm được lý do gì để kết án. Cái chết của Chúa là sự tự hiến, vì yêu thương đến cùng. Chúa Giêsu khẳng định, Người đến thế gian không để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống vì yêu thương con người. Chúa Giêsu là Mục tử, lãnh đạo bằng tình yêu thương phục vụ, khác với những nhà lãnh đạo trần thế, là những người lãnh đạo bằng quyền lực và thủ đoạn.
 
Suốt bề dày lịch sử, có nhiều cái nhìn lệch lạc về sứ mang của Chúa Giêsu. Điều đó không có gì lạ, bởi lẽ ngay những môn đệ của Chúa cũng hiểu lầm như vậy. Giacôbê và Gioan là hai anh em đã có một thời gian theo Chúa làm môn đệ Người, vậy mà các ông vẫn mang quan niệm trần tục về sứ mạng thiên sai của Đức Giêsu. Không riêng gì hai anh em này, mà cả mười môn đệ còn lại cũng có tâm trạng như thế. Các ông bực tức và xầm xì với nhau trước việc Giacôbê và Gioan xin ngồi bên tả và bên hữu Chúa. Các ông tỏ ra là những người đầy tham vọng và ghen tương ngày cả với những người anh em mình.
 
Chúng ta đừng vội trách móc hoặc phê phán các môn đệ. Bởi lẽ chính chúng ta cũng có lối sống Đức tin theo kiểu trần thế, ưa thích những gì hào nhoáng bên ngoài. Qua cách sống của nhiều người tín hữu, hình ảnh của Chúa Giêsu và của Giáo Hội bị biến dạng và mang tính thế tục. Thật vậy, khi người tin Chúa nói một đàng lại làm một nẻo, họ sẽ gây nhiều ngộ nhận về đời sống Đức tin. Nhiều anh chị em lương dân có thành kiến với người có Đạo, bởi họ không sống những điều họ tuyên xưng.
 
Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn làm môn đệ của Chúa thì phải dấn thân sống tinh thần phục vụ như Người. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thày, là anh em thương yêu nhau” (Ga 13,35). Giới răn yêu thương là cốt lõi của Đạo Chúa, là con đường giúp chúng ta đạt được Nước Trời.

Về mục lục

.

HÃY LOAN BÁO TIN MỪNG

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.

Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.

Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.

Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.

Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.

Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.

Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.

Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.

Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt. Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.

Hôm nay Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?

2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?

3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?

4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?

Về mục lục

.

TINH THẦN TRUYỀN GIÁO

Gm. Vũ Duy Thống

“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.

Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?

Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.

1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.

Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.

Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.

Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.

2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.

Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”, đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.

Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?

Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.

Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.

Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.

Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.

Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.

Về mục lục

.

TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGOẠI BIÊN

Gm. Gioan B. Bùi Tuần

Thuở còn nhỏ, tôi đã sớm nhận thấy sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo.

Lớn lên, tôi cảm được sâu sắc cảnh nghèo. Nghèo thì hèn. Nghèo thì khổ. Cái Nghèo, cái Hèn, cái Khổ dính vào nhau khăng khít. Đồng thời, tôi cũng nhìn được cảnh giàu. Giàu thì sang. Giàu thì có. Cái Giàu, cái Sang, cái Co đồng hành ung dung.

Khi đi qua nhiều nơi, ở lại nhiều nước, tôi lại thấy giàu nghèo làm thành những giai cấp. Giàu là giai cấp cao. Nghèo thuộc giai cấp thếp. Cấp cao, cấp thấp đều có nhiều bậc. Đôi khi, người nghèo khổ bậc dưới không thể và cũng không dám nhìn người giàu sang ở bậc trên. Vì khoảng cách quá xa về địa lý, nhất là về tâm lý.

Trung tâm và ngoại biên.

Để đơn giản hoá tình trạng chênh lệch giữa giàu và nghèo, tôi tạm chọn cho mình một hình ảnh gợi ý. Hình ảnh đó là Trung tâm và Ngoại biên.

Trung tâm có thể áp dụng về nhiều mặt. Như trung tâm kinh tế, trung tâm văn hoá, trung tâm chính trị, trung tâm tôn giáo. Những ai được ở trong hoặc gần những trung tâm đó thường được coi là những người hưởng nhiều may mắn về phát triển, về danh dự, về cuộc sống.

Ngoại biên cũng được hiểu về nhiều lãnh vực như trên. Những ai ở ngoại biên kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo thường phải chịu nhiều mất mát, thua thiệt, kém cỏi.

Trung tâm và ngoại biên không hẳn chỉ là địa lý, mà còn là tâm lý và pháp lý.

Thời Chúa Giêsu giáng thế, theo truyền thống lâu đời, thì Giêrusalem là trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế, còn đền thờ là trung tâm tôn giáo. Đền thờ này cũng toạ lạc tại Giêrusalem.

Giêrusalem là nơi tập trung những người có địa vị, nắm quyền lực, sống trong phẩm trật và được ưu đãi.

Đền thờ là nơi thờ phượng của người có đạo. Gian trên dành cho các chức sắc. Gian giữa dành cho các đàn ông Do Thái. Gian cuối dành cho phụ nữ và trẻ con. Ngoài hè dành cho các người ngoại giáo, các kẻ tội lỗi và những ai tàn tật.

Chúa Giêsu đi về ngoại biên.

Trong một tình hình như thế, Thiên Chúa có những lựa chọn lạ lùng.

Thực vậy, Chúa Giêsu xuất hiện ở Galilêa. Xứ này là vùng biên, xa trung tâm Giêrusalem.

Người sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.

Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên.

Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20).

Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).

Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria:

“Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).

Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.

Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người đã nói trước khi tự nạp mình chịu chết: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).

Người muốn các môn đệ Người cũng hãy theo gương Người, mà đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Muốn được thế, các ngài cần đón nhận sẵn tình thương cứu độ của Người. Để đón nhận, các môn đệ phải rất khiêm nhường trong phục vụ. Gương phục vụ khiêm nhường sau cùng Nguời trối lại là chính Người quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Sau đó, Người truyền dạy: “Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con » (Ga 13,15).

Phục vụ rất khiêm nhường là một cách tốt nhất để mở cửa lòng, đón nhận lửa tình yêu của Chúa, một thứ lửa đầy ánh sáng chân lý và yêu thương. Nhờ đó, môn đệ Chúa có thể ra đi ngoại biên, đem Tin Mừng cho mọi người, ưu tiên cho những người nghèo khổ.

Vui buồn về thực tế truyền giáo.

Đem mấy tư tưởng Phúc Âm trên đây chiếu dọi vào thực tế truyền giáo tại địa phương, tôi thấy có những điều đáng mừng và có những điểm đáng lo ngại.

Những điểm đáng mừng là từng triệu những người nghèo khổ vẫn đón chờ Tin Mừng, và vẫn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng. Nhiều nơi, nhiều người đã gặp được Tin Mừng, nhờ gặp được những người môn đệ Chúa đến với họ, thương cảm đời họ, phục vụ họ một cách khiêm nhường, và dấn thân hy sinh vì họ. Các môn đệ như thế thuộc mọi thành phần, trong đó các nữ tu và giáo dân giữ một vai trò quan trọng.

Những điểm đáng buồn là ở nhiều nơi còn thiếu gương sáng về truyền giáo.

Trên đường đời, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, đã xử sự lạnh lùng với người ngoại biên. Thái độ của ta cũng giống thái độ thầy tư tế và Lêvi xưa trước nạn nhân nằm quằn quại bên vệ đường. Mặc người ngoại Samaria lo cho người ngoại biên (Mt 12,41-44). Ta cứ an tâm đi về đền thờ là trung tâm.

Trong cuộc sống, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã xua đuổi người ngoại biên, không cho họ đến gần Chúa. Giống như các môn đệ Chúa xưa đã muốn xua đuổi người đàn bà xứ Canaan. Khi bà cứ lẽo đẽo sát lại bên Chúa Giêsu, để xin Người chữa con bà bị quỉ ám (Mt 15,21-28). Ta bảo vệ Chúa là trung tâm bằng cách loại trừ ngoại biên, tức những ai ta coi là bất xứng.

Trong những công việc chung, không thiếu trường hợp người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã đánh giá thấp người ngoại biên. Không giống cách Chúa Giêsu xưa đã đánh giá rất cao người đàn bà goá nghèo, đã dâng cúng vào đền thờ chỉ một đồng xu (Mt 12,41-44). Ta tôn vinh con người theo tiêu chuẩn tiền bạc và địa vị, như thể tiền bạc và địa vị là giá trị của trung tâm đạo.

Hiện nay, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là Mẹ làm, chứ không chỉ nói. Với những việc làm yêu thương cụ thể, Mẹ là một người mẹ âm thầm hy sinh, trước khi là thánh vinh quang.

Khi tôn vinh Mẹ Têrêsa, Toà Thánh muốn tôn vinh một tinh thần truyền giáo sáng ngời, một phương cách truyền giáo khôn ngoan, đã rất hữu hiệu, đã gây được nhiều thiện cảm ở các xã hội và tôn giáo đa dạng, tại Ấn Độ nói riêng và Á châu nói chung.

Qua đời sống của mình, Mẹ Têrêsa Calcutta đã giới thiệu dung mạo một Hội Thánh dễ thương, dễ mến. Một Hội Thánh dịu dàng, khiêm tốn phục vụ, đầy tình xót thương, luôn đi tìm những người nghèo khổ, tội lỗi, bị loại trừ, sống trong bế tắc, để đưa họ vào tình Chúa bao la.

Ước gì mọi người truyền giáo chúng ta cũng theo gương Mẹ, để bất cứ ai, nhất là các người ngoại biên, đón nhận được hy vọng là Tin Mừng nơi Chúa là Cha giàu lòng thương xót.

Về mục lục

.

TRUYỀN GIÁO BẰNG CÁCH SỐNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cách chung con người ngày hôm nay thường nóng vội, hấp tấp, làm đại. Nghịch lý ở chỗ thích hoành tránh nhưng lại đòi phải nhanh, phải gọn. Họ chỉ thích làm những chuyện lớn mà bỏ qua chuyện nhỏ. Họ luôn xem việc nhỏ là tầm thường mà quên rằng việc lớn là do tích tiểu thành đại. Không kiên nhẫn trong việc nhỏ thế nên, họ cũng bỏ lỡ cơ hội làm những chuyện lớn lao.

Điển hình là xã hội hôm nay không có những công trình thế kỷ mà chỉ có những kiến thiết hợp thời, model nhưng mau qua. Về sự học dường như học sinh không thể ngồi yên để thuộc một câu thơ hay một bài lịch sử mà chỉ học trên net, trên Iphone . . .

Người ta kể rằng: Thời Đông hán có một thiếu niên tên Trần Phiên. Hắn cho mình bất phàm nên chỉ làm chuyện lớn mà thôi. Một hôm người bạn tới thăm thấy nhà hắn bẩn thỉu liền nói:  Nho tử sao không quét nhà để tiếp đón khách?

Trần Phiên trả lời: Đại trượng phu xử thế. Nên quét thiên hạ sao lo một nhà?

Người bạn đáp lại: Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ.

Trần Phiên ngộ ra không nói được lời nào.

Xem ra muốn xây dựng giang sơn thì phải xây dựng từ gia đình mình. Muốn làm những điều cống hiến cho đời thì phải rèn luyện mình thành người tốt. Phải khởi đi từ việc nhỏ mới mong làm chuyện đại sự to tát hơn. Muốn canh tân xã hội phải có một kế sách lâu dài và phải khởi đi từ những việc nhỏ nhất mới mong thành đại sự.

Phải chăng Giáo hội hôm nay cũng bị cuốn vào trào lưu thích hoành tráng, rầm rộ? Thích phô trương đánh trống hơn là sống đạo mến yêu? Các lễ nghi, lễ hội thật nhiều nhưng điều đó không quan trọng bằng việc ra đi đến với người nghèo, người già yếu, bệnh tật  . . .?

 Giáo hội luôn nói mình có sứ mạng truyền giáo và mời gọi các tín hữu tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng xem ra chẳng có kết quả, bởi vì ai cũng muốn làm việc lớn nhưng những việc bình thường là canh tân đời sống bản thân, là sống công bình bác ái, là phục vụ yêu thương khởi đi từ gia đình lại bị xem thường.

Thực vậy, làm sao có thể truyền giáo khi chưa tề gia để mang lại cho gia đạo êm ấm thuận hòa?

Làm sao có thể truyền giáo khi bản thân còn nhiều tính hư nết xấu, đôi khi còn trở thành gương mù gương xấu cho tha nhân?

Truyền giáo không phải là một lễ hội để đánh trống khua chiêng. Truyền giáo là đem đạo vào đời qua muôn nẻo đường trần thế. Thế nên, truyền giáo đòi hỏi từng người phải biết sống trở thành nhân chứng cho Chúa, phải mang tin mừng thẩm thấu vào trong trái tim và trao tặng cho anh em, cho bạn bè. Truyền giáo phải như chút muối làm cho thế gian nồng thắm tin mừng. Truyền giáo phải như chút men làm cho Tin mừng hòa  vào thế gian.

Trong bài hát  “Một chút” thôi của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống dường như cũng nói những điều thật đơn giản ấy.

Một chút những viên đá nhỏ hợƿ thành ngọn núi lớn

Một chút những bước chân đi xɑ về muôn lối

Một chút những ƿhút ủi ɑn dịu xoɑ ngàn nỗi sầu

Ϲhỉ một chút ƙhởi đầu tương lɑi sẽ đẹƿ màu

ĐK – Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi

Ɲhiều chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới

Một chút trong đời trở thành một chút thật tuуệt vời.

Ϲhắt chiu từng chút ấу cho đời nàу thêm sáng tươi.

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, ước gì chúng ta hãy từng chút một chắt chiu những việc làm tốt để sáng danh Chúa, có như vậy chúng ta mới gom thành một làn sóng yêu thương mang tin mừng lan tỏa khắp nơi. Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn.

Về mục lục

.

NHỚ THẦY

Lm. Jos. DĐH

Sống trên cõi đời, thiết tưởng ai cũng đã từng khắc khoải nhớ thương : nhớ người yêu, nhớ đấng bậc đã khuất, nhớ tình thầy trò, nhớ bạn thân đã đi xa, hoặc là nhớ những kỷ niệm tuổi thơ…. Chữ tình càng cao thì nỗi nhớ càng da diết, chữ hiếu càng lớn, nỗi buồn vắng cha thiếu mẹ càng sâu ! Khổng Tử xưa kia cũng nhắc nhớ các học trò của ông : nên ôn lại những gì đã học để biết thêm điều mới, đừng phụ ơn những người thầy đã từng dắt ta bước, dìu ta đi, nếu sống như thế, bạn sẽ sớm trở thành bậc thầy thiên hạ.

Vì thương yêu, các thánh hiền từng khắc ghi vào tâm trí học trò của mình nhiều điều thực tế, sống trên đời : không có gì nghèo cho bằng không có tài, không có gì khổ cho bằng không có đức, không có gì hèn cho bằng không có chí ! Đức Giêsu trước khi về trời, Ngài không chỉ dạy các môn đệ thêm điều gì, ngoài trao ban một sứ mạng : “hãy loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ”. Nhóm 12 tông đồ là những người theo sát Thầy, từng ăn uống, từng có dịp đi thực tập truyền giáo, các ông đầy ắp kỷ niệm, nên trăn trở nhớ Thầy chắc chắn phải có trong tâm trí của các ông.

Ở đời, người ta nhớ nhau không phải là ngồi ôn lại một vài kỷ niệm sâu sắc, nhưng là thực hiện công việc mà người thân của họ đã từng làm. Nhớ nhau không phải là nuối tiếc về cách hành xử thiếu nghĩa tình, thiếu bổn phận và tấm lòng bao dung tha thứ. Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta được mời gọi để nhớ đến Thầy Giêsu, nhớ đến tình yêu thương của Ngài dành cho nhân loại, nhớ tới hoạt động và giáo huấn của Một Thiên Chúa làm Người. Đặc biệt hơn là nhắc nhớ mỗi chúng ta về tương quan hiện tại của mình với Thầy Giêsu và anh chị em của mình trong tình huynh đệ ra sao ?

Ngày hôm nay, mỗi lần nói tới truyền giáo, Đấng bản quyền, các nhà chuyên môn, thường đưa ra một vài con số thống kê, hoặc nhắc nhớ mỗi người hãy quảng đại, hãy đóng góp vật chất và lời cầu nguyện…. Đôi khi còn đưa ra những dự phóng, kế hoạch, phương pháp truyền giáo thế nào để mang lại hiệu quả nhất. Nếu như số học trò được gọi chọn, được huấn luyện và sai đi thực tập việc tông đồ, các ông không nhớ được nhiều, thì cũng nhớ được căn tính của người môn đệ là biết sống mến yêu. Có thể kết quả của việc truyền giáo, không tùy thuộc vào sự khôn khéo hay khả năng truyền đạt của con người, mà bằng niềm tin : “có Chúa hoạt động cùng các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép là kèm theo”.

Nhớ Thầy, nhớ tình yêu thương của Thầy, cũng là nhớ tới việc sống mến yêu như Thầy, đó có phải là thực thi mệnh lệnh truyền giáo chưa ? Nhớ, yêu, và sống, sẽ không phải là lý thuyết, là khuôn mẫu có sẵn, nhưng là tính chất phong phú cho từng khả năng, ơn gọi khác nhau khi sống cầu nguyện, hoạt động trong Đức Kitô là Thầy. Nhớ mình là người bình thường, người tin Chúa, thuộc về Chúa. Nhớ mình phải là mình, căn bản là biết sống mến yêu, hoàn toàn không phải là làm được nhiều hay làm được ít cho Chúa. Nhớ mình từng bước, từng bước, sẽ là thánh, nên có thể sai lầm, do đó cần khiêm tốn và hãy sống tình huynh đệ chặt chẽ hơn.

Nhớ Thầy để mỗi người hãy ý thức mình đang là học trò của Thầy Giêsu. Nhớ Thầy để ta cùng cảm thông, hiệp thông với trăn trở của Thầy Giêsu, sống và chia sẻ cho cánh đồng truyền giáo với Thầy. Nhớ Thầy để ta thêm tin tưởng, Thầy đang đồng hành và củng cố niềm tin cho hoạt động tông đồ cùng ta. Nhớ Thầy để không một thế lực nào có thể lôi kéo ta ra khỏi tình yêu của Thầy Giêsu, Thầy là duy nhất, là lẽ sống của ta. Nhớ Thầy còn là khao khát nên trọn lành, nên giống Thầy Giêsu, cho dù ta vẫn đầy thiếu sót lỗi lầm.

Tục ngữ có câu : xem người biết nết, xem bếp biết nết đàn bà. Có thể chúng ta cũng nên nói : nhìn thành quả, hiểu người chăm sóc giáo dục, nhìn việc sống đạo, biết ta có yêu mến Chúa Giêsu chưa. Biết tính nết hay biết mến Chúa yêu người, có thể không liên quan trực tiếp đến truyền giáo, nhưng đó là ơn ban giúp ta nhận ra mình : tình trạng khô cứng hay đang sống ích kỷ, cầu an, chờ thời. Mặt trời ló rạng rồi khuất lấp, trăng tròn rồi lại trăng khuyết, đó là chân lý. Thầy Giêsu yêu các học trò, các học trò yêu Hội Thánh của Thầy thiết lập, và mỗi người Kitô hữu đều có liên hệ với Đức Giêsu và Đại gia đình Hội Thánh khi biết sống yêu thương.

Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh, mỗi chúng ta đã được học biết từ thuở nhỏ. Truyền giáo không phải là công việc của các nhà chuyên môn, cũng không phải do phát xuất từ cảm tính nhất thế nhì thân. Đúng hơn, truyền giáo là ơn ban của Chúa qua từng người chúng ta biết sống mến yêu, sống nén bạc mà mỗi người đang có. Sứ mạng yêu thương của Thầy Giêsu từng giây phút vẫn đang chảy tràn vào giáo hội, vào tâm hồn của người môn đệ theo Chúa. Nhớ Thầy, nhớ đến mệnh lệnh truyền giáo của Thầy, cũng là bổn phận trách nhiệm sống yêu thương đã trao ban cho ta. Nhớ Thầy, yêu Thầy và sống giáo huấn của Thầy Giêsu, nhất định phải là là công việc truyền giáo mà Đức Giêsu đang thực hiện chương trình cứu độ nơi con người thời đại chúng ta hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN VÀ
GIÚP ĐỠ CÔNG VIỆC TRUYỀN GIÁO

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Do những hiểu lầm và những nghi kỵ đã xảy ra trong quá khứ, người Công giáo Việt Nam đã trải qua những giai đoạn hết sức khó khăn ngay trên đất nước của mình. Về mặt công dân, có một thời các sinh hoạt tôn giáo bị giới hạn chỉ còn trong nhà thờ, con em người Công giáo không được theo học một số trường. Trong cái nhìn của anh chị em lương dân, những người Công giáo bị coi như những người ngoại lai, những kẻ bất hiếu. Tuy nhiên, dường như trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đời sống của người tín hữu có phần sốt sắng hơn, họ không chú trọng những hình thức bên ngoài, mà tập trung xây dựng đời sống nội tâm nhiều hơn. Cũng trong thời kỳ khó khăn bách hại thì dường như con số những người tin vào Chúa và gia nhập đạo nhiều hơn.

Ngày nay, đời sống đạo có phần thoải mái dễ dàng hơn, người Công giáo lại bị rơi vào lối sống đạo chuộng hình thức bên ngoài, thiếu đời sống nội tâm, thiếu nhiệt tâm sống làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng. Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống luân lý của nhiều tín hữu trở nên lỏng lẻo hơn và có xu hướng chạy theo lối sống dễ dãi, buông thả. Trước hoàn cảnh xã hội và tôn giáo thay đổi nhanh chóng như thế, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã kêu gọi toàn thể cộng đồng dân Chúa, trong năm sắp tới 2016, cùng nhau thực hiện chủ đề : Tân Phúc Âm hoá đời sống xã hội.

Tân Phúc Âm hoá không có nghĩa là rao truyền một Phúc Âm, một Tin Mừng nào khác, mà là làm mới lại cách sống, cách loan báo và thực thi Tin Mừng của mỗi tín hữu chúng ta. Trong thư mục vụ, các Đức Giám mục đã giải thích : Tân Phúc Âm hóa đời sống xã hội chính là sống, chia sẻ, loan báo và làm chứng cho lòng thương xót ngay trong đời sống xã hội. Trước những dấu hiệu đáng ngại trong xã hội ngày nay : gian dối, vô cảm, bất công, ma tuý, bạo lực, phá thai, tự tử…, mỗi người Công giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống.

Chúng ta đang chứng kiến tội ác và bạo lực ngày càng gia tăng trong xã hội. Có những người cho đó là hệ quả của nền giáo dục thiếu lòng nhân ái và bao dung, biến con người thành cỗ máy khô cứng không có trái tim. Có người cho rằng, do sự bất lực của những người có trách nhiệm điều hành trong xã hội, do tác động từ film ảnh sách báo, từ lối sống trọng tiền bạc của cải hơn con người, đã dẫn đến tình trạng tội ác và bạo lực như thế. Ngoài những lý do trên, người tín hữu cũng cần nhận trách nhiệm của mình đối với những vấn đề xã hội, vì chính chúng ta chưa nhiệt tâm dấn thân đem Tin Mừng của Chúa Kitô vào trong xã hội này, chưa thực sự sống tình yêu thương phục vụ và sự thứ tha của Chúa Giêsu đã dạy, chưa làm cho Tin Mừng lan toả trong đời sống xã hội.

Người tín hữu không thể thụ động đứng nhìn hoặc chỉ trích, nhưng chính mỗi người cần bắt tay làm biến đổi môi trường xã hội hôm nay theo chiều hướng của Tin Mừng. Đức Thánh Cha và các Đức Giám mục mời gọi chúng ta không chỉ là người đón nhận lòng thương xót của Chúa, mà còn phải là người đem lòng thương xót của Chúa đến cho anh em qua sự chia sẻ cụ thể và lòng bao dung mỗi người dành cho nhau, vì Thiên Chúa sẽ xét xử mỗi người theo tình yêu và lòng bao dung mà chúng ta đối xử với nhau. Chúng ta còn được mời gọi không thụ động đứng bên lề xã hội, nhưng trái lại, chúng ta cần tham gia một cách tích cực vào trong các hoạt động, các lãnh vực của xã hội, từ chính trị đến kinh tế, đến văn hoá giáo dục. Để từ đây, mỗi người đem niềm vui và ánh sáng Tin Mừng vào trong các lãnh vực, môi trường mình sống và làm việc để cho Tin Mừng biến đổi lãnh vực, môi trường đó.

Gần đây, các nhà lãnh đạo chính quyền đánh giá cao và công nhận sự đóng góp tích cực của giới Công giáo vào trong đời sống xã hội, đặc biệt trong lãnh vực bác ái và xây dựng đời sống dân cư. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở những con số, những lời khen đó thì chưa đủ, chúng ta cần đem niềm vui và hy vọng của Tin Mừng vào trong môi trường xã hội, giúp cho mọi người khi tiếp xúc với người Công giáo, họ cảm nhận được niềm vui và hy vọng trong cuộc sống.

Chúng ta sống đạo không phải ở trên mây, nhưng là đem niềm vui và giáo huấn của Tin Mừng vào trong môi trường cụ thể của Việt nam hôm nay. Cũng trong Thư chung 2015 của Hội Đồng Giám Mục đã chỉ cho chúng ta một số việc, trong đó nhấn mạnh đến việc tôn trọng và chăm sóc môi trường sống. Hãy tìm mọi cách để làm cho trái đất và mọi loài trong đó thêm tốt đẹp, đứng huỷ hoại chúng, đứng tàn sát chúng. Với người Công giáo, Đức Giáo Hoàng kêu gọi phải hoán cải, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống trong tương quan với môi trường thiên nhiên. Chính Thiên Chúa đã trao cho con người trách nhiệm trông coi trái đất (x. St 1,28). Do đó, chúng ta không được tàn phá hoặc sử dụng để trục lợi, nhưng phải chăm sóc và gìn giữ cho thế hệ hiện nay và cả tương lai. Từ đó, chúng ta được thúc đẩy thay đổi cách sống, biết tôn trọng thiên nhiên, chăm sóc môi trường sống. Hãy bắt đầu từ những việc nhỏ bé trong cuộc sống hằng ngày như tiết kiệm nước và năng lượng, giữ vệ sinh chung trong khu xóm. Các giáo xứ sẽ phải trở thành những mẫu gương trong việc giữ gìn và bảo vệ môi sinh.

Cùng với việc tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên là việc tôn trọng mạng sống của mình và của người khác khi tham gia giao thông. Vấn đề tai nạn giao thông đang là vấn đề gây lo lắng bất an cho nhiều người mỗi khi tham gia giao thông. Mỗi Kitô hữu được mời gọi ý thức và hết sức tôn trọng luật giao thông, cư xử bác ái, nhường nhịn nhau khi lái xe và nhất là cần tôn trọng mạng sống mình và người khác, vì chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, là món quà Chúa gửi cho mỗi gia đình. Đừng để vì sự cẩu thả của mình mà gây tổn thương đau khổ cho bản thân, gia đình và cho người khác.

Một việc làm không thể thiếu trong việc đem niền vui và giáo huấn của Tin Mừng đến cho người khác là việc cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Thông thường trong cầu nguyện, chúng ta chỉ xin cho những nhu cầu trước mắt, xin cho bản thân giống như hai anh em ông Giacôbê và Gioan hôm nay : Xin cho hai anh em con được một người ngồi bên phải, một người ngồi bên trái Thầy trong ngày Thầy được vinh quang. Hai ông theo Chúa trong hành trình truyền giáo, các ông không cầu xin cho sứ mạng truyền giáo, trái lại, các ông xin nhữg điều hết sức trần tục – được một chỗ ngồi để hưởng thụ. Chúa Giêsu đã không chấp nhận lời cầu xin của hai ông, nhưng Ngài hướng các ông đến sứ mạng của Ngài, đó là sứ mạng cứu độ muôn dân. Chúa muốn tất cả chúng ta phải là những người cùng với Chúa thực thi đến cùng sứ mạng này : Cùng uống một chén, cùng chịu một phép rửa với Chúa.

Việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo có nghĩa là cầu nguyện để mỗi người có được cùng một kháo khát với Chúa Giêsu, Đấng đem lửa vào thế gian và ước mong lửa ấy bừng cháy lên. Cầu nguyện để mỗi người được biến đổi từ trong tâm hồn đến đời sống, để không còn tìm kiếm vinh quang chức quyền theo kiểu thế gian, trái lại, tìm và thực thi ý Chúa. Cầu nguyện để mỗi người có thể học theo gương Chúa Giêsu, dám trở nên người tôi tớ phục vụ anh chị em. Nhiều người ngoại giáo không bị đánh động bởi những bài giảng hùng hồn, cũng không được biến đổi bởi những con số thành tích hoặc đền đài, nhưng họ được đánh động và tin theo Chúa nhờ gương sống hiền lành, khiêm nhường và phục vụ của các Kitô hữu.

Chuyến viếng thăm Cuba và Hoa kỳ của Đức Thánh Cha Fancis vừa qua được đánh giá là rất thành công, không chỉ bởi những bài diễn văn quan trọng, nhưng là chính gương sống hiền lành, khiêm nhường, nghèo khó của Ngài. Người dân Mỹ đã phải nhìn nhận rằng : Đức Thánh Cha đã đem đến cho chúng tôi sứ điệp và gương sống tình yêu thương và phục vụ. Đó là điều mà chúng tôi đang cần và đang thiếu.

Xin Chúa cho mỗi người luôn ý thức mình là cộng tác viên của Chúa, đem Tin Mừng tình yêu và hy vọng đến cho mọi người qua chính đời sống phục vụ của mỗi chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

MƠ ƯỚC THIÊN ĐÀNG

HAY CHIÊM NGẮM ĐỨC KITÔ THẬP GIÁ

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

”Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”; thiết tưởng theo tư duy tự nhiên, thì lời khẩn cầu của hai anh em nhà Dê-bê-dê rất chính đáng. Phải chăng rất nhiều người chúng ta cũng đã từng có những ước muốn ‘chính đáng’ tương tự; chúng ta đã chẳng mơ ước được một chỗ cao sang trên thiên đàng, được giầu công nghiệp trước mặt Chúa, được phần thưởng trọng hậu là gì? Các môn đệ khác, chứ không cứ gì hai anh em, cũng đã không ít lần bàn cãi về chuyện đó, xem: “ai sẽ là người lớn nhất trong nước trời”. Trước thao thức của các ông, hình như Đức Giê-su muốn nhắc nhở rằng: công nghiệp hay chỗ cao trên thiên đàng là việc dành riêng cho Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”, môn đệ chân chính không nên quan tâm tới. Nếu hiểu đúng ý Đức Giê-su, thì điều duy nhất cần quan tâm trong việc sống Tin Mừng sẽ chỉ là theo sát Đức Ki-tô Thập Giá, và theo cho tới cùng, là “Uống chén thầy sắp uống, chịu phép rửa thầy sắp chịu”.

Trước hết, Ki-tô hữu chúng ta cần biết rõ: ‘chén của Thầy, phép rửa của Thầy’ là gì; trên đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đã nhiều lần cảnh báo các môn đệ về cuộc thương khó và phục sinh sắp xảy ra (xem Mc 10:32-34), tuy nhiên bài học này lúc đó hình như các ông không kham nổi, đơn giản là vì các ông không thể hình dung nó sẽ ra sao? Ki-tô hữu chúng ta ngày nay thì không lạ lẫm gì về diễn biến Thập Giá, khi Đức Giê-su (Lời Thiên Chúa) tự hiến để phục vụ lợi ích thiết thực của con người nhân loại tội lỗi. Thập Giá là bằng chứng thuyết phục rằng: Người đến không phải để luận phạt theo lẽ công bình, mà để hiến mình cứu độ, qua đó chỉ cho mọi người thấy một Chúa Cha vô cùng nhân ái; chính vì vậy mà, trước cuộc thương khó, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, một biểu tượng của hạ mình phục vụ để thanh tẩy và tha thứ (xem Ga 13). Qua hành động này, Đức Giê-su chắc hẳn không nhằm dạy các môn đệ mình một ‘chiến thuật’ để chinh phục và cai trị thiên hạ, như Lão tử – nhà hiền triết Trung Hoa đã từng vịnh rằng: ”Sông, biển để làm gì, để cai trị trăm ngàn thung lũng? Nó đặt mình nằm dưới tất cả và vì thế nó cai trị hàng trăm thung lũng. Nếu thánh hiền muốn làm đầu dân tộc hãy học nói năng cho khiêm tốn. Nếu muốn lãnh đạo dân hãy đặt mình vào chỗ rốt hết”; Những lời khôn ngoan thật đấy, nhưng đâu phải là Tin Mừng!

Môn đệ là những người ‘theo Đức Ki-tô’, vì thế họ có thể tự hào: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo thầy” (Mc 10:28). Nhưng họ cũng cần hiểu rằng: từ bỏ là để đi con đường Thầy đi, và đó là con đường phục vụ, phục vụ tới độ tự hủy, tới độ hiến cả mạng sống mình; “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Điều khó chấp nhận nhất chính là: sự vĩ đại của Thiên Chúa mà lại đồng hóa với việc cúi xuống phục vụ người thấp hèn. Thầy Giê-su đã làm gương và dạy môn đệ làm theo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Phải mất một thời gian dài nữa, các ông mới hiểu được điều này; phải đợi tới khi được Thấn Khí tác động, các ông mới dứt khoát “trở nên mọi sự cho hết mọi người…”

Ki-tô hữu chúng ta cũng vậy thôi! Quyết định theo Chúa đấy, nhưng bài học quên mình phục vụ thì mãi vẫn chưa thuộc. Lý do là vì, chúng ta mơ ước quá nhiều về thiên đàng, còn chiêm ngắm Thập Giá thì lại quá ít. Duy nhất Thầy Giê-su mới là đường, là chân lý, và là sự sống! Do đó thiên đàng không phải là cùng đích, nhất là cái thứ thiên đàng mà ta vẫn thường vẽ ra trong đầu. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân ái và xót thương, thì thiên đàng phải là nơi chan hòa nhân ái; bên hữu hay bên tả của Thiên Chúa nhân ái trên thiên đàng đó sẽ chỉ dành cho những ai có lòng thương xót mà thôi; “Phúc thay những ai xót thương, vì họ sẽ đươc Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).

Nếu vậy, lạy Cha nhân ái, xin cho con được ngồi bên hữu Cha; không phải vì con đạo đức thánh thiện hơn người, nhưng chỉ vì con nhận biết Cha hằng xót thương những con người yếu hèn, nên sẽ yếu mến sự hèn kém của con. Đặc biệt, thể theo lời mời gọi của Cha, con sẽ quyết tâm chia sẻ lòng thương xót đó cho mọi người, đặc biệt cho các tội nhân thấp kém. A-men.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay, khi hai người con ông Dêbêđê, và cũng là những người trong nhóm môn đệ đi theo Chúa Giê-su, là Gioan và Giacôbê, đến xin Chúa cho mình được hai chỗ bên tả và bên hữu Chúa, nghĩa là những người có địa vị, danh vọng và uy quyền trên những người khác, và chúng ta cũng được biết, khi 10 môn đệ khác tỏ thái độ bực tức và ganh tị với hai người con ông Dêbêđê, vì họ cũng muốn có địa vị, danh vọng và uy quyền, Chúa Giê-su đã từ chối, và nhân đó Người dạy các môn đệ và chúng ta bài học về đời sống hy sinh phục vụ.  

Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã từ chối vì 2 lý do. Lý do thứ nhất là trong các tổ chức chính trị, hành chánh và xã hội, những người lãnh đạo đều thích và dùng mọi phương cách để có uy quyền, chức vụ trên người khác. Nhưng trong các cơ cấu tổ chức mà họ lãnh đạo người dưới quyền không được hạnh phúc gì cả, trái lại còn phải đau khổ. Lý do thứ hai là trong tổ chức mà Chúa Giê-su thành lập, tức là Giáo Hội, không có người trên kẻ dưới, không có người lớn kẻ nhỏ, mà tất cả đều bình đẳng với nhau vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng là con của một Cha trên trời. Cho nên mọi người đều có bổn phận, trách nhiệm và giúp nhau để làm theo ý Cha trên trời, và làm danh Cha cả sáng. Bởi vậy trong Giáo Hội, địa vị và quyền bính được trao không phải cho kẻ ham muốn kiếm tìm nó, mà trao cho những người nào có thiện chí và hy sinh phục vụ.

Có một câu chuyện ngụ ngôn được kể như sau. Một chiếc đồng hồ đeo tay một hôm đi dạo ở công trường trước một nhà thờ. Nó nhìn lên tháp nhà thờ thấy một chiếc đồng hồ rất lớn nên ganh ghét. Đồng hồ nhỏ nói: “Anh tưởng là anh ngon lắm hả. Thực ra cái mặt anh to quá khổ chẳng đẹp chút nào, hai cánh tay thì dài thượt coi chẳng đẹp gì cả. Giọng nói thì khàn khàn.” Chiếc đồng hồ lớn chỉ mỉm cười và nói: “Hãy lên đây.” Chiếc đồng hồ nhỏ leo lên. Khi đứng bên chiếc đồng hồ lớn nhìn xuống thì nó mới hoảng sợ. Thì ra ở trên cao này nguy hiểm quá té xuống tan xác như chơi. Rồi lúc nào cũng bị bao nhiêu cắp mắt nhìn lên, và lại còn cô đơn nữa. Khi đó chiếc đồng hồ lớn khều nó nói: “Ở dưới có người muốn biết giờ kìa. Em đưa mặt ra cho họ xem đi.” Chiếc đồng hồ nhỏ đáp: “Không được, từ đây xuống dưới xa quá mà mặt em nhỏ quá ở dưới xem không thấy đâu.” “Vậy thì em nói giờ cho họ nghe đi.” “Cũng không được, vì tiếng em nhỏ quá.” Khi đó chiếc đồng hồ lớn mới ôn tồn giải thích: “Đó em thấy chưa. Em cũng không thể làm việc của anh, mà anh cũng không thể làm việc của em. Mỗi người chúng ta ai làm việc nấy, chỉ để phục vụ cho người ta thôi. Từ này về sau mình đừng chỉ trích và ganh ghét nhau nữa nhé.”

Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện rất ý nhị và nói lên được ý nghĩa bài học Chúa Giê-su dạy chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay. Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta có bổn phận, trách nhiệm và cũng có một ơn gọi để phục vụ người khác. Kẻ ở địa vị cao thì phải phục vụ nhiều hơn. Và ở địa vị cao thì càng gặp khó khăn nhiều hơn, có khi còn cô đơn hơn nữa. Bởi vậy, khi hai người con ông Dêbêđê xin địa vị, Chúa Giêsu đã hỏi: “Chúng con có uống nổi chén đắng không?”

Chúng ta nhận thấy phục vụ và đau khổ là hai đường rầy của đường xe lửa. Ở đâu có phục vụ, ở đó có đau khổ. Phục vụ luôn đi kèm với chén đắng, tức là những hy sinh và đau khổ vì 3 lý do sau đây.

Thứ nhất, phục vụ luôn đi đôi với đau khổ, vì chúng ta không thể phục vụ, không thể giúp đỡ người khác, mà chúng ta không phải hy sinh cách nọ cách kia, lớn hay nhỏ, nhiều hay ít, về thời giờ, khả năng hay tài chánh. Lý do thứ hai phục vụ luôn đi đôi với hy sinh và đau khổ bởi vì Thiên Chúa luôn kêu mời những ai có những sự đau khổ hãy đặt sự đau khổ của mình trong sự phục vụ người khác. Thiên Chúa kêu mời họ dùng sự đau khổ của chính mình để hy sinh phục vụ người khác về mặt tinh thần. Hay nói một cách khác, Chúa kêu mời họ hãy dùng sự đau khổ của mình để kết hợp với sự đau khổ của Chúa Giê-su. Và lý do thứ ba, phục vụ luôn đi đôi với hy sinh và đau khổ, mà chúng ta thường không để ý, không chú ý tới là: hy sinh phục vụ lấy bớt đi những sự đau khổ của kẻ khác. Đó chính là đường lối mà chính Chúa Giê-su đã phục vụ anh chị em đau khổ của Người. Vì thế mà Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, nói với các môn đệ rằng “Con người cũng không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.”

Ông bà anh chị em thân mến. Vậy thì, là những Ki-tô hữu, chúng ta phải xây dựng một tinh thần hy sinh phục vụ người khác, và cách riêng, những người cùng trong một cộng đoàn giáo xứ người Việt chúng ta sống trong thành phố Tulsa này, như thế nào? Trước hết, chúng ta phải chú ý đến một điều ngăn cản chúng ta xây dựng một tinh thần hy sinh phục vụ người khác, đó là sự chia rẽ và lạnh cảm. Hay nói một cách khác, chúng ta muốn người khác chú ý đến, phục vụ chúng ta, nhưng chúng ta muốn sống ích kỷ, riêng rẽ cá nhân, không muốn chú ý đến những người chung quanh, hay trong cùng một cộng đoàn giáo xứ, và không hy sinh phục vụ ai hay tham gia vào một điều gì trong giáo xứ. Thứ nhất, chúng ta cố gắng tạo một tinh thần hy sinh phục vụ người khác như của Chúa Giê-su, bằng cách duy trì một đời sống cộng đoàn hiệp nhất, và chú ý đến những khó khăn, những điều cần thiết trong đời sống của người khác, thay vì chú ý đến đời sống của chính mình. Và thứ hai, chúng ta xây dựng một tinh thần hy sinh phục vụ người khác bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện giúp chúng ta ý thức đến những khó khăn và đau khổ của người khác hơn bất cứ một phương cách nào khác.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta cùng cầu xin Chúa trong lời kinh của thánh Phan-xi-cô. Lạy Chúa từ nhân, xin cho chúng con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể chúng con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Ðể chúng con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy chúng con: Tìm an ủi người hơn được người ủi an. Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết. Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Về mục lục

.

CHUYỆN PHỤC VỤ

Trầm Thiên Thu

Phục vụ là giúp đỡ người khác, có thể đó là vic phi làm theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có thể là vic mun làm vì tự nguyện. Tinh thần phục vụ làm cho chúng ta nên cao quí, vì phục vụ là dâng hiến chính con người bé nhỏ của chúng ta cho Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối.

Hàng ngày, các công ty, các cửa hàng, các quán ăn hoặc giải khát,… luôn có những đợt tuyển nhân viên phục vụ. Công việc của người phục vụ rất bình thường, đôi khi bị coi làm tầm thường, nhưng thực ra lại rất cần thiết. Có thể nói rằng không có họ thì các sinh hoạt xã hội khó tồn tại. Không có các công nhân thì giám đốc chỉ bó tay, và xã hội sẽ không có sản phẩm để tiêu thụ. Cách phân biệt “cao – thấp” là do quan niệm của những người thiển cận, nông cạn – cũng là một dạng “thiểu não” đấy. Chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu, cũng không có nghề nào hơn nghề nào. Tiền nhân nói: “Nht sĩ, nhì nông; hết go chy rông… nht nông, nhì sĩ”. Ảnh hưởng “” là do quan niệm xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Kẻ sĩ được coi là “dân ngon”. Nhưng hết gạo ăn thì “ngon” cái nỗi gì? Ai hơn ai đây?

Ai cũng phục vụ lẫn nhau, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc bằng cách nào đó. Đừng tưởng tôi tớ mới phải phục vụ chủ nhân, mà chính chủ nhân cũng phải phục vụ tôi tớ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có nhân viên mới phải phục vụ giám đốc, mà chính giám đốc cũng phải phục vụ nhân viên bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có đệ tử mới phải phục vụ sư phụ, mà chính sư phụ cũng phải phục vụ đệ tử bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có giáo dân mới phải phục vụ linh mục quản xứ, mà chính linh mục cũng phải phục vụ giáo dân bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có bề dưới mới phải phục vụ bề trên, mà chính bề trên cũng phải phục vụ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có người nhỏ mới phải phục vụ người lớn, mà chính người lớn cũng phải phục vụ người nhỏ bằng cách nào đó;… Rất nhiều mối quan hệ trong xã hội, mọi mối quan hệ đều liên đới với nhau. Vợ chồng đối với nhau, cha mẹ và con cái đối với nhau, anh chị em đối với nhau, bạn bè đối với nhau,… nói chung là con người đối với con người. Chúa Giêsu đã có quy luật sống: “Ai làm đu phi hu thiên h” (x. Mt 20:25-28; Mc 10:40-45).

Sau khi được Chúa Giêsu chữa khỏi chứng sốt nặng, nhạc mẫu của ông Phêrô liền chỗi dậy phc v Người (x. Mc 1:29-31; Lc 4:38-39). Và rồi chính Chúa Giêsu đã minh định: “Thy sng gia anh em như mt người phc v” (Lc 22:27). Quả thật, ngay tại Bữa Tiệc Ly, trước khi Chúa Giêsu bị bắt, chính Ngài đã đích thân hạ mình bằng cách quỳ xuống mà rửa chân cho các môn đệ, Ngài muốn làm gương và dạy chúng ta về tầm quan trọng của sự phục vụ (x. Ga 13:3-20).

Chuyện phục vụ cũng liên quan thái độ “chảnh”. Người ta thường thích “sai” người ta làm cái này, việc nọ, và cứ tưởng thế là oai lắm. Ảo tưởng quá, dại dột quá, vì đi ngược lại đường lối của Chúa mà lại dám “hãnh diện”, thế mới chết chứ! Phục vụ là việc bình thường mà lại nhiêu khê. Phục vụ là dấn thân, cũng rất cần phải khiêm nhường mới có thể phục vụ. Không dễ chút nào!

Phục vụ còn liên quan nịnh bợ, tâng bốc, ranh mãnh. Cứ thấy “ông to, bà lớn” thì họ tìm mọi cách để “đưa đón” và “đẩy đưa”, đãi bôi, tâng bốc,… cốt để tỏ ra mình “oai”, tìm mọi cách “nịnh trên, đạp dưới”. Thật ra họ chỉ là “cáo mượn oai hổ”, chứng tỏ đầu óc kém cỏi, ngu dốt với cái đầu rỗng tuếch. Họ tự thú với người khác rằng “ông ơi, tôi ở bụi này”, ngu dại mà cứ tưởng mình giỏi giang. Kinh khủng thật! Tục ngữ Đức có câu nói thú vị: “Người ta bt th rng bng chó săn, bt đàn bà bng bc tin, và bt k ngu si bng li khen di trá”.

Ngôn sứ Isaia cho biết: “Đc Chúa đã mun người phi b nghin nát vì đau kh. Nếu người hiến thân làm l vt đn ti, người s được thy k ni dõi, s được trường tn, và nh người, ý mun ca Đc Chúa s thành tu“” (Is 53:10). Nghe chừng rất lạ, vì có vẻ rất… “ngược đời”, bình dân gọi là “trái khoáy”. Thế nhưng như vậy mà lại không phải như thế. Nghịch mà thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.

Lý do vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Nh ni thng kh ca mình, người s nhìn thy ánh sáng và được mãn nguyn. Vì đã nếm mùi đau kh, người công chính, tôi trung ca Ta, s làm cho muôn người nên công chính và s gánh ly ti li ca h” (Is 53:11). Ai chân thành theo Chúa sẽ được tha thứ tội lỗi, được “trắng án” và được công chính hóa – tức là được “giải án, tuyên công”, vì chính Thiên Chúa “bù lỗ” cho họ. Thật hạnh phúc biết bao!

Thiên Chúa công minh và chính trực. Ngài giàu lòng thương xót (Ep 2:4), nhưng Ngài lại thẳng thắn, không thiên vị bất cứ ai (1 Pr 1:17; Gl 2:6; Cv 10:34). Mọi lời Ngài nói đều nên trọn: “Li Chúa phán qu là ngay thng, mi vic Chúa làm đu đáng cy tin. Chúa yêu thích điu công minh chính trc, tình thương Chúa chan hoà mt đt” (Tv 33:4-5).

Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mi người đu gi di (Rm 3:4). Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài “không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Gc 1:13). Tác giả Thánh Vịnh đã minh chứng: “Chúa đ mt trông nom người kính s Chúa, k trông cy vào lòng Chúa yêu thương, hu cu h khi tay thn chết và nuôi sng trong bui cơ hàn. Tâm hn chúng tôi đi trông Chúa, bi Người luôn che ch phù trì” (Tv 33:18-20).

Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là lòng thương xót, là lòng trắc ẩn. Chúng ta có biết yêu thương thì cũng là nhờ Ngài, bắt nguồn từ Nguồn Yêu Thương của Ngài. Thiếu tình yêu, chắc chắn con người sẽ chết sớm. Vì thế, chúng ta phải biết không ngừng cầu xin Ngài: “Xin đ tình thương xung chúng con, ly Chúa, như chúng con hng trông cy nơi Ngài (Tv 33:22).

Yêu thương là phục vụ, không yêu thương thì người ta không muốn phục vụ – dù có thể họ vẫn biết cách phục vụ. Nhưng để có thể phục vụ, người ta phải biết yêu thương; để có thể yêu thương, người ta phải biết lắng nghe nhau, đặc biệt là lắng nghe Thiên Chúa. Ước gì mọi người đều biết sẵn sàng và mau mắn như cậu Samuel ngày xưa: “Ly Chúa, xin Ngài phán, vì tôi t Ngài đang lng nghe” (1 Sm 3:9).

Chúa Giêsu là vị Thượng Tế biết cảm thương, luôn chạnh lòng thương xót người khác, luôn động lòng trắc ẩn trước những con người khốn khổ. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có mt v Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tng tri, là Đc Giêsu, Con Thiên Chúa. Vy chúng ta hãy gi vng li tuyên xưng đc tin” (Dt 4:14). Tuyên tín là điều cần thiết, nhưng lại không đơn giản, vì đơn giản như việc làm Dấu Thánh Giá mà nhiều người vẫn “e ngại”, nhất là khi có người khác tôn giáo hoặc ở nơi công cộng. Họ lý luận bằng cách phát âm là “làm dấu” nhưng thực ra là “làm giấu” đó mà!

Thánh Phaolô nói rõ ràng, dùng phủ định cách để làm nổi bật sự xác định: “V Thượng Tế ca chúng ta không phi là Đng không biết cm thương nhng ni yếu hèn ca ta, vì Người đã chu th thách v mi phương din cũng như ta, nhưng không phm ti. Bi thế, ta hãy mnh dn tiến li gn ngai Thiên Chúa là ngun ân sng, đ được xót thương và lãnh ơn tr giúp mi khi cn” (Dt 4:15-16). Không đến với Lòng Chúa Thương Xót không chỉ là dại dột mà phải nói là ngu xuẩn. Tuy nhiên, nếu ảo tưởng thì chúng ta chỉ “lợi dụng” Lòng Chúa Thương Xót mà thôi. TIN mình được Chúa thương thì không là kiêu ngo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa thương thì li là kiêu ngo!

Kiêu ngạo là ảo tưởng. Vì ảo tưởng mà không yêu thương – mà yêu thương thì rất thực tế, vì cần hành động cụ thể. Do đó, không yêu thương thì không thể phục vụ. Phục vụ đối lập với quyền hành, địa vị, chức tước, vì người có chức quyền không muốn phục vụ, chỉ muốn “chỉ dạy” và muốn được phục vụ. Tại sao chúng ta khó phục vụ? Bi vì chúng ta ích k, li, ngi khó, s hèn, quen “chnh”. Thánh nữ Têrêsa Avila (1515-1582), Tiến sĩ Thần bí, nhận xét: “Chúng ta quá t ái, quá vn dng tài trí trn gian đ khoe khoang mình, đó là s di trá to ln và ngông cung, các thánh nhân không như thế.

Chuyện phục vụ có “dính líu” tới chức quyền. Trình thuật Mc 10:35-45 là câu chuyện đầy kịch tính về vấn đề này, hầu như lúc nào cũng là vấn đề “thời sự nóng”.

Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và “lấy lòng” Ngài bằng cách rào trước đón sau: “Thưa Thy, chúng con mun Thy thc hin cho chúng con điu chúng con sp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh mun Thy thc hin cho các anh điu gì?”. Họ không ngần ngại vào thẳng vấn đề: “Xin cho hai anh em chúng con, mt người được ngi bên hu, mt người được ngi bên t Thy, khi Thy được vinh quang”.

Đức Giêsu trách mắng họ và Ngài cũng nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có ung ni chén Thy sp ung, hay chu được phép ra Thy sp chu không?”. Họ có vẻ “vô tư” khi trả lời Ngài: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thy sp ung, anh em cũng s ung; phép ra Thy sp chu, anh em cũng s chu. Còn vic ngi bên hu hay bên t Thy thì Thy không có quyn cho, nhưng Thiên Chúa đã chun b cho ai thì k y mi được”. Nghe lời này, có lẽ họ cảm thấy… “ngại” lắm đấy. Và đó cũng là “tâm trạng” của chúng ta ngày nay!

Sau khi nghe hai anh em nhà Dêbêđê nói vậy, mười môn đệ kia đâm ra tc ti với ông Giacôbê và ông Gioan. Bản tính ghen tỵ trong con người luôn muốn trỗi dậy, sẵn sàng vùng lên bất cứ lúc nào, nhất là khi cảm thấy mình “lép vế” hơn người khác. Ghen tỵ vì tự ái. Tính ghen tỵ có ở mọi nơi và trong mọi người. Tính ghen tỵ dễ thấy trong các cộng động – cả xã hội và tôn giáo. Trong các giáo xứ, đoàn thể, cộng đoàn tu trì, nhóm từ thiện, thậm chí ngay trong gia đình, chúng ta vẫn thấy có tính ghen tỵ – với các mức độ khác nhau. Con gà còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà! Tự ái và ghen tỵ là “chướng ngại vật” khiến chúng ta khó “từ bỏ mình” theo ý của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu biết các đệ tử đang hậm hực với nhau vì muốn tranh giành quyền hành, Ngài gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: nhng người được coi là th lãnh các dân thì dùng uy mà thng tr dân, nhng người làm ln thì ly quyn mà cai qun dân. Nhưng gia anh em thì không được như vy: ai mun làm ln gia anh em thì phi làm người phc v anh em; ai mun làm đu anh em thì phi làm đy t mi người”. Rõ ràng quá, không có gì khó hiểu, nói ngắn gọn là “ai muốn làm đầu phải hầu người khác”.

Tại sao lại “ngược đời” vậy chứ? Chúa Giêsu đã minh chứng cụ thể: “Con Người đến không phi đ được người ta phc v, nhưng là đ phc v, và hiến mng sng làm giá chuc muôn người” (Mc 10:45). Chúng ta không thể viện cớ với bất cứ lý do gì để tự biện hộ nữa. Thật vậy, cứ “xem quả thì biết cây” (Mt 12:33; Lc 6:44).

Trong dịp viếng thăm đất nước Hoa Kỳ (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô đã vấp bậc cầu thang và lảo đảo khi lên máy bay (*). Trong lúc đó, gió còn thổi khăn choàng vai phủ lên đầu, và không có ai đi kế bên ngài. Khi ngài lên tới cửa máy bay, có người muốn xách cp giùm nhưng ngài t chi. Gương khiêm nhường và phục vụ rốt rõ nét. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: “Con Người đến KHÔNG phi đ ĐƯỢC người ta phc v, nhưng là đ PHC V và HIN DÂNG mng sng làm giá chuc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Khi ăn uống, ĐGH Phanxicô hòa mình vào với mọi người, thân thiện và gần gũi, không thích ngồi “chỗ danh dự”, không muốn đi ăn với người sang trọng mà thích đi ăn với người vô gia cư.

Còn chúng ta, nhất là những “người lớn”? Thực tế, có nhiều người chưa “lớn” đã chảnh lắm! Trả lời với Chúa Giêsu thế nào đây? Ai “dám” noi gương ĐGH Phanxicô? Có lẽ người ta gãi đầu, ậm ừ, lần lữa, và… hậu xét!

Hôm nay, ngay bây giờ, và hơn bao giờ hết, có lẽ chúng ta phải suy tư nhiều và cố gắng chân thành cầu nguyện theo gương Thánh Phanxicô Assisi: “Ly Chúa, xin cho con biết mến yêu và phng s Chúa trong mi người”. Lời cầu này mệnh danh là Kinh Hòa Bình vì đậm chất phục vụ theo Ý Chúa – phụng sự Chúa TRONG mọi người. Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã xác định khi “phân loại” Chiên và Dê: “Mi ln các ngươi LÀM [giúp đ] cho mt trong nhng anh em bé nh nht ca Ta đây, là các ngươi đã LÀM cho chính Ta, mi ln các ngươi KHÔNG LÀM [giúp đ] cho mt trong nhng anh em bé nh nht ca Ta là các ngươi đã KHÔNG LÀM cho chính Ta (x. Mt 25:31-46).

Vâng, hãy nghe Thánh Pôlycarpô (+155, giám mục tử đạo) nhắn nhủ: “Hãy t lòng nhân hu, nhit thành, và hãy bước theo chân lý ca Chúa, Ðng đã làm tôi t mi người”.

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết nhn din chính mình đ đ sc trit h “cái tôi” trong con. Ht-bi-con không đáng gì mà đã làm bn mt Ngài, con ch là k vô dng vì bt tài, nhưng vì Tôn Danh Ngài, xin biến con thành khí c bình an và yêu thương, đ bt c ai gp con cũng gp được Ngài, và xin cho con cũng gp Ngài nơi nhng người con gp. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

(*) Xin xem đon video này: https://www.youtube.com/watch?v=kxKU9v5aorA

Về mục lục

.

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. G.B. Văn Hào

Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín năm 2015 tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, đó là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.

Truyền giáo là lên đường.

Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hi sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh đó là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.

Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu cho sứ vụ truyền giáo. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (trích Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.

Truyền giáo là bản chất của Giáo hội

Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.

Chứng nhân hơn là thầy dạy

Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.

Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”

Kết luận: Chứng tá Tin mừng

Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng các ông nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”

Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn của họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.

Về mục lục

.

TINH THẦN TRUYỀN GIÁO-

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Truyền giáo là một sứ mạng thiêng liêng cao cả, khởi nguồn từ Thiên Chúa. Qua mọi can dự vào lịch sử loài người, Thiên Chúa Ba Ngôi đã làm tất cả “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”.

Sứ mạng truyền giáo đã được trao phó cho Giáo Hội. Khi lập Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu cho thấy ý định trao phó sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội sau này (x. Mc 3,13). Trước khi rời các Tông đồ để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã trực tiếp ban mệnh lệnh truyền giáo cho các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21), “Anh em hãy đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Chính các Tông đồ và những cộng sự của các ngài đã thừa hành mệnh lệnh này một cách xuất sắc. Trải qua bao khó khăn dọc dài lịch sử, các ngài đã đem Tin Mừng Phục Sinh tới nhiều miền và cho nhiều tâm hồn. Hơn hai ngàn năm qua, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, các thế hệ tông đồ truyền giáo đã nối tiếp nhau mang Tin Mừng đi khắp địa cầu.

Như vậy, truyền giáo xuất phát từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô sứ mạng này đã được trao cho Giáo Hội, nhờ Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trung thành và nhiệt thành chu toàn sứ mạng cho đến ngày tận thế.

Thực thi sứ mạng truyền giáo là chia sẻ cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, yêu thương đến cùng, yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. Truyền giáo là làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống.

  1. Nội dung truyền giáo

Trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu ban lệnh truyền; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Lời Chúa nói với các môn đệ về nội dung truyền giáo có 4 công việc quan trọng.

  1. Truyền giáo là Rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Rao giảng là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Truyền giáo là “loan báo Tin mừng”.
  2. Truyền giáo là “thiết lập cộng đoàn các môn đệ”, cộng đoàn những người tin vào Chúa Kitô, cộng đoàn này chính là Giáo Hội. Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.
  3. Truyền giáo là “cử hành Phụng vụ và các Bí tích”. Chúa Giêsu cũng nói rõ: “làm phép rửa cho họ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Các Bí tích thuộc về Nhiệm cục Cứu độ của thời đại Tân Ước, được Chúa Giêsu thiết lập, để qua đó ban ơn cứu độ cho con người.
  4. Truyền giáo là dạy Giáo lý, là Huấn giáo. Chúa Giêsu đã căn dặn: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Mục tiêu của Huấn giáo là dạy cho người ta biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa, giúp cho người Kitô hữu có thể gặp gỡ Chúa, tiếp xúc với Chúa trong đời sống cầu nguyện, cũng như trong đời sống thực tế hằng ngày.

2. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu

“Đức Giêsu Kitô là lý tưởng trung tâm của truyền giáo, và lý tưởng này đòi hỏi sự hiến mình hoàn toàn cho việc rao giảng Tin Mừng” (Sứ điệp TG 2015). Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội thời nào và ở đâu cũng bắt đầu từ mẫu gương Chúa Giêsu.

Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu.

Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó. Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu. Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo. Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.

Trong sứ điệp Truyền Giáo 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đặt câu hỏi và trả lời: “Ai là những người đầu tiên phải được nghe loan báo sứ điệp Tin Mừng? Câu trả lời rất rõ ràng và được gặp rất thường xuyên trong Tin Mừng, đó là: những người nghèo, những người bé mọn và những người bệnh tật, những người thường bị khinh dể hay bị bỏ quên, những người không có gì để đền đáp chúng ta (x. Lc 14,13-14). Ưu tiên rao giảng Tin Mừng cho những người hèn mọn nhất giữa chúng ta là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu đem đến: “Có một dây liên kết không thể phân ly giữa đức tin của chúng ta và người nghèo” (Evangelii Gaudium, 48). 

3. Tinh thần truyền giáo và nhiệt huyết tông đồ.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, khi còn là Giám Mục giáo phận Nha Trang, đã viết chỉ dẫn về truyền giáo như sau: “Những nỗ lực hoạt động, cầu nguyện sẽ không mang lại kết quả nếu chúng ta không được hướng dẫn bằng một tinh thần mới, một bầu nhiệt huyết tông đồ. Bất cứ lúc nào tiếp xúc với lương dân, với một bầu nhiệt huyết tông đồ, anh chị em hãy luôn luôn nhớ rằng: Tinh thần truyền giáo không phải là óc chinh phục mà là lòng yêu thương. Tinh thần truyền giáo không phải là óc cai trị, mà là tinh thần phục vụ mọi người. Tinh thần truyền giáo không phải là đạo binh thánh giá, dùng vũ lực để đánh ngã, nhưng là tinh thần chứng nhân, lấy đời sống mà làm chứng tích. Tinh thần truyền giáo không phải là óc tự cao tự đại, nhưng là thái độ đối thoại, là tinh thần trao đổi và tôn trọng các tôn giáo khác. Tinh thần truyền giáo không phải là mãnh lực của tiền tài, quyền thế mà là tinh thần tương trợ. Tinh thần truyền giáo không phải là thủ đoạn chiến lược, nhưng là tấm lòng chân thành đơn sơ. Tinh thần truyền giáo không bao giờ chán nản, vì trở ngại, vì vô ơn, vì phản bội, vì thất bại, ngược lại luôn luôn tin cậy vào ơn Chúa và nhẫn nại”. (Gm. Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Thư luân lưu: Sứ mạng Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta, lễ Thánh Têrêxa năm 1970. Trích trong tập Hôm qua, hôm nay, ngày mai, Thời điểm 1996, tr. 102-103).

Sắc lệnh Ad Gentes đề cao tầm quan trọng của chứng tá đời sống trong việc truyền giáo: “Tất cả các Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải dùng chứng tá và gương mẫu đời sống để thể hiện con người mới của họ đã đón nhận qua bí tích Thanh tẩy, đồng thời biểu dương sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã cũng cố họ qua bí tích Thêm sức, để những người chung quanh nhìn thấy các việc họ làm mà ngợi khen Chúa Cha” (số 11).

Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mình sống và làm việc. Đời sống của giáo dân là phương tiện truyền giáo hữu hiệu hàng đầu. Muốn truyền giáo, giáo dân phải có lòng đạo nhất định. Việc tái truyền giáo giúp tẩy xóa hay giảm bớt những cách sống phản Tin Mừng nơi người đã có đức tin. Thực tế, chẳng ai lại đi theo một cái Đạo mà ngay cả tín đồ cũng không thực hành Đạo. Cũng chẳng ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Tái truyền giáo sẽ giúp giáo dân đong đầy hành trang là những giá trị Tin Mừng cho cuộc sống, thay cho những lối sống buông thả và thiếu cố gắng xưa nay. Muốn giới thiệu Chúa cho người chưa biết Chúa, người giáo dân phải thấm nhuần đạo lý, sống trong thế thượng phong về luân lý, về đức bác ái và sự công bằng. Như thế, từng cá nhân, từng nhóm và cộng đoàn, mới dấn thân vào việc truyền giáo. Đức Phanxicô viết trong Sứ điệp truyền giáo năm nay rằng “Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá đời sống của mình… Như Công đồng Vaticanô II nói: Giáo dân phải hợp tác vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh; là những chứng nhân và đồng thời là những công cụ sống động, họ chia sẻ sứ mạng cứu rỗi của Hội Thánh” (Ad Gentes, 41)”. 

Thực thi sứ vụ truyền giáo trong Năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ và đời sống cộng đoàn thánh hiến bằng cách:

– Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá đời sống của mình. Một cách đặc biệt, những người nam người nữ thánh hiến được mời gọi lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần, Đấng kêu gọi họ đi ra các vùng ngoại biên, đến với những người chưa được nghe rao giảng Tin Mừng… Người truyền giáo đích thực thì say mê Tin Mừng. Tin Mừng là nguồn mạch niềm vui, sự giải phóng và cứu độ cho mọi người. Hội Thánh ý thức được hồng ân này, vì thế Hội Thánh không ngừng công bố cho mọi người “điều đã có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, và chúng tôi đã tận mắt chứng kiến” (1Ga 1,1). Sứ mạng các tôi tớ của Lời – các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân– là giúp cho mọi người, không trừ một ai, được đi vào mối quan hệ với Đức Kitô. (Sứ điệp Truyền giáo 2015).

  • Đặc biệt đối với những người sống đời thánh hiến, qua lời khấn sống đời nghèo khó, họ chọn theo Đức Kitô trong sự ưu ái của Ngài đối với người nghèo, theo cách mà Ngài tự đồng hoá mình với người nghèo: sống giống như người nghèo giữa những bất trắc của đời sống hằng ngày và từ khước mọi đòi hỏi về quyền lực, để đem đến cho họ chứng tá về niềm vui của Tin Mừng và một dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa. (Sứ điệp TG).
  • Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo.
  • Mỗi giáo dân nên kết thân với một Lương dân. Mỗi gia đình kết thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.
  • Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.

Chúa Thánh Thần hướng dẫn và quyết định thành tựu của việc truyền giáo. Nhưng nỗ lực của mọi thành phần Dân Chúa trong việc truyền giáo cũng là yếu tố làm nên sự thành công. Ước mong Khánh Nhật Truyền Giáo là ngày mang đến cho chúng ta nhiều niềm vui Tin Mừng qua những thành quả, và cũng giúp chúng ta có thêm động lực để dấn thân cho việc loan báo Tin Mừng.

Về mục lục

.

LOAN BÁO TIN MỪNG
TRONG XÃ HỘI HÔM NAY

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 16,15-20

(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi lòai thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. (17) Đây là những dấu lạ sẽ di theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhầm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe. (19) Nói xong Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họat động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

  1. Ý CHÍNH:

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời khắp thế gian. ai tin và chịu phép rửa thì sẽ nên dưỡng tử của Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ. còn kẻ không tin là tự loại mình ra khỏi Nước Trời và sẽ bị kết án. Cuối cùng Đức Giêsu còn hứa ban cho các ông quyền làm nhiều phép lạ. Các môn đệ đã vâng lời Thầy đi khắp nơi loan Tin Mừng.

  1. CHÚ THÍCH:

C 15-16: + Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. nhưng sau khi phục sinh, Người lại trao cho các Tông đồ sứ mạng phổ quát đến với muôn dân + Loan báo Tin Mừng: theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Euaggelion) là một “Tin Vui, Tin Mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giêsu theo hai nghĩa: Một là chính “Tin Mừng được Đức Giêsu công bố”. Hai là “Tin Mừng về Đức Giêsu”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. + cho mọi loài thọ tạo: Nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ biến đổi mọi tạo vật nên “Trời Mới Đất Mới” vào ngày tận thế (x. Kh 21,1). + Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên người mới, dưỡng tử của Thiên Chúa để được sống đời đời.+ còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giêsu, nên sẽ bị khô héo và bị quăng vào lửa đời đời (x. Ga 15,5-6). + Còn những người không tin Đức Giêsu nhưng không do lỗi của họ thì có được ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ cố tình làm tay sai cho ma quỷ, làm điều gian ác và không chịu hồi tâm thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục. Vì hỏa ngục được lập ra “dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).

C 17-18: + Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giêsu đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để các ông xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Đức Giêsu lại trao quyền làm các dấu lạ cho các ông. + Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông đồ thực hiện. Chẳng hạn: vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông đồ (x. Cv 5,12). Ông Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). còn Tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Ly-tra (x. Cv 14,8-10) ; Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).

C 19-20: + Chúa Giêsu được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác Đức Giêsu cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa. + và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giêsu đã được Chúa Cha tôn vinh, được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep 1,21-22). + ra đi rao giảng khắp nơi: các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giêsu, đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Đức Giêsu tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). + có Chúa cùng hoạt động với các ông…: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần để Hội thánh tha tội cho người ta giống như Người (x Ga 20,21-22). Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn lao hơn Người nữa, đó là đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc với quyền năng Thánh Thần (x Ga 14,12).

  1. CÂU HỎI:

1) Mầu nhiệm Phục sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi? Các Tông đồ được Đức Giêsu sai đến với những ai?

2) Tin Mừng Đức Giêsu có những ý nghĩa nào?

3) Phải có những điều kiện nào để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giêsu?

4) Những ai chắc chắn sẽ bị sa vào hỏa ngục? Những người chưa có đức Tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được hưởng ơn cứu độ không?

5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giêsu đã ban cho các ông những quyền nào?

6) Trước khi về trời, Đức Giêsu trao sứ mệnh loan Tin mừng cho các Tông đồ kèm theo những dấu lạ nào?

7) Lời Chúa phán về các dấu lạ kèm theo Lời rao giảng của các Tông đồ đã ứng nghiệm thế nào vào thời Giáo Hội sơ khai?

8) Thời Cựu Ước, Ngôn sứ nào được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa Giêsu thăng thiên khác với việc mông triệu của Đức Maria thế nào?

9) Người lương dân luôn ăn ngay ở lành mà chết, có được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giêsu ban cho không?

10) So sánh Lời Chúa Giêsu truyền cho các Tông đồ trước khi lên trời là “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”(x Mt 28,19) và “Hãy nên chứng nhân của Thầy…” (x Cv 1,8) giống và khác nhau thế nào?

11) Sau khi lên trời, Chúa Giêsu còn hiện diện trong Hội thánh nữa không?

12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội thánh với sứ mạng gì?

.

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
  2. CÂU CHUYỆN: VIÊN NHẠC SĨ VÀ CHIẾC VĨ CẦM QUÍ GIÁ

PHÍT KÂY-DƠ-LÊ (fritz kreisler) (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một tài sản đồ sộ nhờ các buổi hòa nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết những của cải kiếm được. Do đó, trong một chuyến đi lưu diễn, ông phát hiện ra một cây vĩ cầm rất đẹp và âm thanh của nó nghe thật tuyệt vời, nhưng ông lại không có đủ tiền để mua ngay. Sau một thời gian để dành, khi ông mang tiền đến mua thì cây vĩ cầm kia đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Phít theo địa chỉ tìm đến chủ nhân mới của cây vĩ cầm để xin được mua lại. Nhà sưu tầm lúc đầu không muốn bán, vì theo ông ta cây đàn này là một bảo vật quí giá. Phít cảm thấy chán nản thất vọng. Tuy nhiên trước khi ra về, ông nảy ra sáng kiến và nói với người chủ mới của cây đàn như sau: “Tôi xin phép được chơi một bài trước khi cây đàn này bị rơi vào cỏi thinh lặng”. Được chủ nhân đồng ý, viên nhạc sĩ tài ba này đã làm cho ông chủ cây đàn vô cùng xúc động khi nghe được tiếng đàn du dương réo rắt của nó qua bàn tay tài hoa của ông, đến nỗi ông ta đã phải thốt lên: “Này Kây-dơ-lê ơi! Tôi không có quyền giữ cây đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới, để thiên hạ được thưởng thức âm thanh tuyệt vời của nó”.

3.THẢO LUẬN:

1) Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không ?

2) Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da… Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không ?

3) Trong xã hội hôm nay, chúng ta cần rao giảng Tin Mừng cho anh em lương dân bằng cách nào để đạt hiệu quả nhất ?

  1. SUY NIỆM:

1) Tại sao phải truyền giáo? :

Có người lên tiếng chỉ trích công việc truyền giáo của Hội thánh Công giáo cho lương dân. Theo họ: “Đạo nào cũng tốt vì đạo nào cũng dạy người ta phải ăn ngay ở lành và đều bắt nguồn từ Trời, nên cần chi phải rao giảng về đạo Công giáo cho ngừoi ta? Tốt hơn là cứ khuyên họ hãy sống thật tốt theo đúng tôn chỉ của đạo giáo mà họ đang theo”. Thực ra, nếu xét về mặt luân lý tự nhiên thì xem ra mọi tôn giáo đều tốt và đều dạy người ta hướng thượng, ăn ngay ở lành, giữ đức công bình và sống từ bi nhân ái. Nhưng về mặt tín lý, giáo lý của các đạo giáo chỉ là thứ chân lý chủ quan, có nhiều sai lạc và làm méo mó đi hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, các tôn giáo nói chung không thể có giá trị ngang nhau cả về tín lý và luân lý. Ta có thể ví chân lý của các tôn giáo nói chung giống như ánh sáng lờ mờ của cây đèn dầu, và còn sai lầm khi tôn thờ những con người hay thú vật để được phù trợ ban ơn… Còn chân lý của đạo Công giáo do phát xuất từ Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người như Người đã nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. … Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Đạo Công giáo ví như ánh sáng chói chan của mặt trời chính ngọ, giúp các tín hữu nhận biết, tôn thờ yêu mến một Thiên Chúa tòan năng chân thật, nhờ đó, họ sẽ nhận được hạnh phúc và sự sống đời đời như công đồng Vaticanô II đã dạy: “Tất cả những gì tốt lành chân thật trong các tôn giáo chỉ có giá trị như để chuẩn bị cho họ lãnh nhận Tin Mừng, và như một hồng ân mà Đấng soi sáng mọi người ban cho, để cuối cùng họ sẽ được sống đời đời” (LG số 16).

Để qui tụ tất cả con cái loài người đã bị tội lỗi làm cho tản mác và đi lạc đường, Thiên Chúa muốn tập họp toàn thể loài người trong Hội thánh của Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài. Hội thánh là nơi loài người tìm thấy Thiên Chúa và sẽ được hưởng ơn cứu độ. Hội thánh là thế giới đã được hòa giải, là con tàu giúp vượt đại dương trần gian nhờ cơn gió mạnh là Thánh Thần, với cánh buồm là thánh giá Đức Ki-tô. Hội thánh cũng được ví như con tàu duy nhất của tổ phụ Nô-e giúp loài người thoát khỏi cơn đại hồng thủy (x. 1 Pr 3,20-21).

2) Sứ vụ truyền giáo của Hội thánh bắt nguồn từ đâu? :

Đức Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo cho các môn đệ trước khi lên trời “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Người cũng dạy môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria  và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Như vậy sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là một việc tuỳ sở thích như lời thánh Phaolô: “Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16). Công việc truyền giáo đòi hỏi nhiều kiên trì dù có gặp thất bại, dù thân xác đã bị mệt mỏi rã rời và cả khi gặp những trắc trở như lời thánh Phaolô: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Nhờ ơn Thánh Thần của Chúa Phục Sinh trao ban, Hội thánh thời sơ khai đã hăng hái chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời đi khắp thế gian. Các Tông đồ nhờ ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần, đã theo lối sống đơn giản vị tha, quảng đại chia sẻ và khiêm tốn phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những người bất hạnh để giới thiệu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế cho mọi dân mọi nước, để ai tin và chịu phép rửa tội sẽ được gia nhập Nước Trời để được hưởng ơn cứu độ là sự sống vĩnh hằng đời này và đời sau. Còn những kẻ cố chấp không tin vào Đức Giêsu là đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ do Người mang đến.

3) Truyền giáo cụ thể là truyền điều gì? :

Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng một số chân lý về Chúa, nhưng là truyền đức tin mà chính mình đã có được sau khi đã gặp gỡ thân tình với Chúa cho người chưa biết Chúa để họ cũng tin yêu Chúa như mình, giống như cách thức ông Anrê đã làm sau khi tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Ông đã giới thiệu Người cho người em của mình là Simon Phêrô (x. Ga 1,40-42). Hoặc như ông Philipphê sau khi gặp và tin Đức Giêsu đã dẫn bạn là Nathanaen đến gặp Người (x. Ga 1,45-51). Truyền giáo bằng cách truyền đức tin yêu Chúa sẽ có sức lay động lòng  người khác hơn là chỉ cố gắng trình bày giáo lý công giáo cho người chưa tin.

Để chu toàn sứ mạng thông truyền đức tin cho người khác, trước hết chúng ta cần phải củng cố đức tin của mình vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, bằng việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày dưới ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần và cầu xin Chúa gia tăng đức tin cậy mến cho mình, trước khi “đi bước trước” làm quen người chưa nhận biết Chúa, theo cách Đức Giêsu đã làm bên bờ giếng Giacóp: Người đã mở lời xin nước uống để làm quen với người phụ nữ Samari, rồi sau đó từng bước trình bày cho chị về thứ Nước Hằng Sống được ban cho những ai tin vào Người (x. Ga 4,7-10). Rồi sau khi đã tin Đức Giêsu, chị ta đã về làng loan báo Đức Giêsu cho dân làng biết và đã dẫn họ ra bờ giếng để gặp Đức Giêsu (x Ga 4,25-30).

4) Phải truyền giáo bằng cách nào cho hữu hiệu? :

Ngày nay mỗi tín hữu do bí tích rửa tội và thêm sức đã lãnh nhận, cũng có sứ vụ góp phần với Hội thánh để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho những người chưa tin bằng một số phương cách như sau:

– Bằng việc “tân phúc âm hóa” đời sống mỗi người và mỗi gia đình tín hữu:

Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta phải hiểu biết Chúa và tin yêu Chúa. Một người không tin Chúa hoặc chỉ có đức tin nông cạn thì không thể “nói về Chúa” cách hữu hiệu được. Tiếp đến, người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì lời chứng mới đáng tin và mới có sức thuyết phục được người khác tin theo. Thực vậy, một người nói về Chúa mà không sống những điều mình nói thì không thể làm cho người nghe tin được, có khi họ lại còn diễn giải sai lạc về giáo lý của Hội thánh nữa. Trong Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam gần đây có kêu gọi các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, hãy nhiệt thành cộng tác để đổi mới phương cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp với thời đại hiện nay, nhờ đó, hy vọng sẽ đem lại cho Hội thánh Việt Nam một mùa lúa chín dồi dào. Nói cụ thể, các vị chủ chăn muốn mỗi người tín hữu công giáo hãy dành ra thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia đình”, tức là liệu sao cho việc học giáo lý hôn nhân được nghiêm túc hơn, và tổ chức thường xuyên giờ Kinh Tối gia đình canh tân để thêm phần suy niệm Lời Chúa. Những việc làm đó sẽ giúp củng cố tình yêu giữa các thành viên trong gia đình và giúp giáo dục Đức tin ngày một tốt hơn cho các thế hệ tương lai.

– Bằng cuộc sống chan hòa tình thương giữa cộng đoàn:

Chính đời sống yêu mến nhau giữa các tín hữu thời Hội thánh sơ khai đã khiến toàn dân thương mến (Cv 2,47a), thì đời sống hiệp nhất yêu thương của các xứ đạo hôm nay cũng sẽ trở thành một cộng đoàn được người lương nhìn bằng ánh mắt thiện cảm. Đó cũng là phương cách để ca tụng Chúa và giúp “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Hội thánh” (Cv 2, 47b). Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hãy quan tâm giúp đỡ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả vật chất nữa, không chỉ trong nội bộ công giáo mà còn cả với anh em lương dân chung quanh. Đồng thời sự yêu thương này cũng gồm cả xóa bỏ những hận thù ganh ghét giữa các thành viên trong cộng đoàn, mỗi người cần sẵn sàng đón nhận nhau trong tình bác ái huynh đệ, “dĩ hòa vi quý”, nâng đỡ đùm bọc nhau để biến giáo xứ trở thành một cộng đoàn chan hòa yêu thương, chia sẻ và cảm thông. Đó chính là dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Đức Giêsu và nên chứng nhân của Tin mừng giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.

– Bằng việc “đi bước trước” đến với anh em lương dân:

Cụ thể, trong những ngày này, mỗi người tín hữu sẽ noi gương Mẹ Têrêxa để kết thân với một người lương, coi họ như anh chị em trong gia đình ruột thịt để quan tâm giúp đỡ họ. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi: Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc, hai bên hãy mời nhau đến hiệp thông để thắt chặt mối giây thân ái và nhờ đó, Tin Mừng sẽ ngày một lan truyền như ánh nến lễ đêm Vọng Phục Sinh được truyền từ tay người này sang tay người khác.

– Bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu thương cách cụ thể:

Mẹ Têrêxa Calcutta đã nêu gương truyền giáo bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu thương cụ thể. Mẹ không rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng tâm tình yêu mến kèm theo cử chỉ thân thương đối với những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi. Mẹ cũng không chủ trương yêu thương cách chung chung, nhưng là yêu thương từng con người cụ thể gặp được trong cuộc sống. Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là yêu thương từng người một. Để thương yêu một người thì trước tiên phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người vì mỗi người đều là hiện thân của Đức Kitô… Người đó phải là con người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.” Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm của nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo hội công giáo Hàn Quốc đã gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong mười năm!

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo. Xin giúp chúng con trở nên chứng nhân giúp người khác nhận biết và tin yêu Chúa bằng lời nói việc làm của chúng con: Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo các tiện nghi để hưởng thụ, xin cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống đơn sơ trong cách ăn ở và tiêu dùng của cải vật chất. Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho chúng con tránh thói tham lam, chỉ lo thu tích cho mình, nhưng biết quảng đại chia sẻ cho người bất hạnh. Giữa một thế giới khinh thường người nghèo, xin cho chúng con biết quí trọng phẩm giá của mọi người. Giữa một thế giới bị mất phương hướng, xin cho chúng con giúp họ nhận biết tin yêu Chúa và phục vụ tha nhân, hầu tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.          

– Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất  tà trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội thánh vắng bóng tình yêu, thì các Tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình… Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội thánh: nơi Trái Tim Hội thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện (Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu).

X. HIỆP CÙNG MẸ MARIA.-

Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục