Các bài suy niệm Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm A và Khánh Nhật Truyền Giáo

1632

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN_A

VÀ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

——-

Mục lục

  1. Thiên Chúa và Xê-Da (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Của Xêda Trả Xêda, Của Thiên Chúa Trả Thiên Chúa (E. Ng.Thanh Hiền, OSB)
  3. Một Cái Bẫy(Thiên San,  MTG.Thủ Đức)

     

  4. Bạn đang sống hay chết (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  5. Loay hoay con thuyền truyền giáo  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  6. Của Xêda, trả cho Xêda; Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa (Jorathe Nắng Tím)
  7. Thuộc về Thiên Chúa (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  8. Lỡ lời  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  9. Nơi ta thuộc về  (Thiên San,  MTG.Thủ Đức)
  10. Trả cho Xêda và trả cho Thiên Chúa (Lm. Trần Bình Trọng)
  11. Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

  12. Trung tín  (Lm. Vũ Đình Tường)
  13. Đời – Đạo rạch ròi (Trầm Thiên Thu)
  14. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 29 TN_A  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

  1. Cảm nghiệm và loan truyền  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
  3. Khánh Nhật Truyền Giáo Và Những Ước Nguyện (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  4. Truyền Giáo – Sứ Mạng “Lên Đường” Của Hai Đồng Tiền Kẽm(E. Ng. Thanh Hiền, OSB)
  5. Xin Chủ Sai Thợ Ra Gặt Lúa Về (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  6. Của Xê-da trả cho Xê-da – Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
  7. Hãy trao vào tay Chúa (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  8. Mỗi người là một khí cụ (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)
  9. Trả về cho Thiên Chúa (Lm. GB. Trần Văn Hào)
  10. Trách nhiệm  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
  11. Suy niệm Chúa Nhật 29 Thường niên. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)
  12. Suy niệm Chúa Nhật 29 Thường niên_A  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
  13. Tôi là công dân nước nào? (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
  14. Đồng tiền hai mặt  (Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
  15. Rạch ròi bổn phận (Trầm Thiên Thu)
  16. Lý tưởng của Giáo hội Chúa Ky-tô  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
  17. Đã là Kitô hữu phải truyền giáo  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  18. Nhiệt huyết tông đồ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  19. Khánh nhật Truyền giáo  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
  20. Mọi sự là của Chúa, hãy trả Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  21. Suy niệm Chúa Nhật Truyền giáo (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
  22. Yêu hay không yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  23. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa- (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
  24. Công dân tốt  (Phạm Anh,  MTG.Thủ Đức)
  25. Ném đá dấu tay (Lm. Vũ Đình Tường)
  26. Truyền giáo hay rao giảng Tin mừng?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
  27. Suy niệm Lễ Khánh Nhật Truyền giáo  (Lm. Anthony Trung Thành)
  28. Vấn nạn quyền bính dân sự (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
  29. Sống đạo giữa đời  (JM. Lam Thy, ĐVD)
  30. Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế  (Fx. Đỗ Công Minh)
  31.  Anh em hãy ra đi (Lm. Giuse Nguyễn)
  32. Nghĩa vụ đi tìm người anh em lưu lạc (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  33. Niềm vui Tin mừng đánh thức thế giới  (PM. Cao Huy Hoàng)
  34. Để chu toàn sứ vụ ra đi thâu nạp môn đệ cho Chúa (Lm. Đan Vinh)
  35. Trả về cho Chúa những gì thuộc về Chúa  (Lm. Đan Vinh)
  36. Chúa Nhật 29 Thường niên_A  (Lm. Antôn)

 

THIÊN CHÚA VÀ XÊ-DA

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có những giai đoạn, thần quyền và thế quyền hợp làm một. Điều này có nghĩa, Giáo Hội vừa có uy quyền đối với các tín hữu, vừa có quyền hành mang tính quyết định trong xã hội. Tình trạng này đem lại lợi ích không nhỏ cho Giáo Hội, nhưng cũng làm cho Giáo Hội mất đi tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng Sáng lập Giáo Hội. Mặt khác, đã là quyền hành chính trị thì bao giờ cũng có thủ đoạn âm mưu, bao giờ cũng có kẻ ủng hộ, người chống đối. Chính vì vậy, nếu Giáo Hội của Chúa Giêsu tham gia vào quyền lực chính trị, thì sẽ có nhiều kẻ thù. Lịch sử đã chứng minh điều ấy. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phân biệt dứt khoát: Của Xê-da thì trả cho Xê-da, và của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Cần phân biệt rõ ràng thần quyền với thế quyền, để Giáo Hội mang gương mặt của Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa cao sang đã trở nên khó nghèo vì chúng ta, đồng thời giúp Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình, là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu để loan báo Tin Mừng cứu độ.

Thiên Chúa là Chủ của lịch sử. Ngài vừa sáng tạo vũ trụ thiên nhiên và con người, vừa nâng đỡ điều khiển để vũ trụ tồn tại và xoay vần trong trật tự. Vua Ki-rô được coi như vị cứu tinh Chúa gửi đến để giải phóng người Do Thái khỏi ách lưu đày bên Babilon. Ngôn sứ Isaia (Bài đọc I), đã diễn tả việc Chúa chọn vua Ki-rô rất chi tiết: Ngài cầm lấy tay ông, cho ông một tước hiệu và ban cho ông sức mạnh với quyền năng. Với việc tuyển chọn vua Ki-rô, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là Cha của gia đình nhân loại. Mọi quyền hành đều từ Ngài mà đến và phải phục vụ lợi ích của con người. Những ai nắm quyền hành trong tay mà đi ngược lại với ý muốn của Thượng Đế và đàn áp bóc lột dân nghèo, thì quyền lực của họ không vững bền. Họ sẽ phải diệt vong. Sau này, Đức Giêsu tuyên bố với Philatô: Ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu không từ ơn trên ban cho.

Xê-da vừa là tượng trưng cho quyền bính thế gian, vừa diễn tả ảnh hưởng của vật chất trần thế. Cũng như những quyền lực trần gian có những lúc huy hoàng hùng mạnh, nhưng rồi cũng đến lúc phải suy thoái tiêu tan, vật chất trên đời có thể giúp con người làm được mọi sự, nhưng cũng có thể là chiếc bẫy làm cho con người gục ngã. Sống ở đời, cần phải biết phân biệt Xê-da với Thiên Chúa, để có một mối tương quan quân bình trong cách sử dụng và tích luỹ của cải.

Người tin Chúa không bị bứng khỏi thế gian, nhưng sống giữa thế gian. Họ sống ở đời này nhưng hướng về đời sau. Họ được mời gọi chung tay xây dựng cuộc sống xã hội nhân ái yêu thương, nhưng quê hương vĩnh cửu của họ lại ở trên trời. Chính vì vậy, người tín hữu phải biết phân biệt điều gì thuộc về Thiên Chúa và điều gì thuộc về thế gian. Họ không được phép để cho thế gian lôi kéo và nhấn chìm trong những ràng buộc đam mê đến nỗi họ đánh mất hạnh phúc Nước Trời. Trong giáo huấn của mình, Chúa Giêsu luôn đòi buộc những ai muốn theo Chúa phải chọn lựa dứt khoát, để xứng đáng trở thành môn đệ của Người. Hình ảnh người cầm cày còn ngoái lại đàng sau diễn tả những người bắt cá hai tay hay đức tin nửa mùa. Cũng vậy, những ai đã tin vào Chúa còn cậy dựa và những thế lực thần thiêng khác, thì không phải là môn đệ đích thực. Ngỏ lời với giáo dân cộng đoàn Thê-sa-nô-li-ca, Thánh Phaolô khen ngợi lòng bác ái của họ. Một cộng đoàn được thúc đẩy bởi Đức tin, Đức cậy và Đức mến, dồi dào sức sống và nhiệt thành truyền giáo. Tình yêu thương và liên đới giữa cộng đoàn tín hữu đã làm toả lan sự thánh thiện và diễn tả hình ảnh sống động về Đức Giêsu, Đấng cứu độ trần gian. Tình liên đới và quảng đại của cộng đoàn Thê-sa-nô-li-ca, là mẫu mực cho các cộng đoàn đức tin của chúng ta hôm nay.

Hôm nay là Chúa nhật thứ ba của tháng Mười, là ngày Truyền giáo. Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Mỗi người tín hữu, nhờ Bí tích Rửa tội, đều có bổn phận truyền giáo, tuỳ theo khả năng, trình độ và địa vị của mình. Lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh cho các môn đệ hai ngàn năm qua vẫn mang tính thời sự cấp bách. Cùng với lời cầu nguyện, mỗi chúng ta hãy làm toả lan sự thánh thiện qua đời sống hằng ngày của mình, để trình bày hình ảnh của Giáo Hội và hình ảnh của Đấng Cứu thế nơi trần gian. Noi gương Chúa Giêsu không mệt mỏi đi đến với mọi người, đem cho họ sự chữa lành và an ủi phần xác cũng như phần hồn, mỗi tín hữu cần ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, khởi đầu từ những người thân thuộc lân cận, rồi đến với những người không cùng niềm tin hay bất đồng quan điểm đang sống xung quanh chúng ta.

Về mục lục

CỦA XÊDA TRẢ XÊDA, CỦA THIÊN CHÚA TRẢ THIÊN CHÚA

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

 Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXIX Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Chúa các chúa, Vua muôn vua, vì thế, Chúa là Đấng rất đáng chúng ta tôn thờ và phụng sự. Chúng ta tôn thờ Chúa như thần dân đối với Vua trong Vương Quốc của Người, và chúng ta phụng sự Chúa như con thơ đối với Cha hiền trong Nhà của Người. Do đó, chúng ta không chỉ xin ơn trung tín: để tuân giữ những gì Chúa truyền dạy, mà còn phải xin cho mình có lòng quảng đại: để làm hơn cả những gì luật dạy, mà đáp lại tình phụ tử bao la cao cả của Người.

Trong bài đọc một của Thánh Lễ hôm nay, Chúa phán với ngôn sứ Isaia rằng: Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Thiên Chúa cao cả quyền năng, muốn làm gì là Chúa làm nên: Đức Chúa đã cầm lấy tay phải vua Kyrô để bắt các dân tộc suy phục ông, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách hôm nay, Thiên Chúa đã can thiệp để cứu thoát Dân của Người, khi cất nhấc cô Étte lên ngôi hoàng hậu thay cho bà Vátti, đúng như lời Thánh Vịnh 112 nói: Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời, cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất? Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý.

Bởi vì Thiên Chúa là Đấng rất đáng chúng ta tôn thờ và phụng sự, nên trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 95, vịnh gia đã kêu gọi chúng ta: Hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Tuy Thiên Chúa cao cả quyền năng, nhưng, Người không phải là một ông chủ hà khắc, trái lại, Người luôn tỏ lòng yêu thương đối với con cái mình, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh đã cho thấy: Chúng ta cầu nguyện với Đấng đã biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta xin. Thiên Chúa chúng ta không cần chúng ta tỏ ý muốn của chúng ta cho Người biết, vì Người không thể không biết, nhưng, Người muốn dùng việc cầu nguyện để kích thích lòng khao khát của chúng ta, hầu chúng ta có thể lãnh nhận ơn Người sẵn sàng ban cho, như ngôn sứ Giêrêmia đã nói: Các ngươi hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho gặp; đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nhậm lời các ngươi. Chính Ta biết kế hoạch Ta sẽ làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.

 Tâm tình chính đáng và phải đạo mà chúng ta dành cho Thiên Chúa, chính là: lòng tin, lòng mến, và lòng trông cậy chúng ta đặt nơi Người. Khi chúng ta dám can đảm sống như các tín hữu Thêxalônica trong bài đọc hai của Thánh Lễ hôm nay: làm việc vì lòng tin, khó nhọc vì lòng mến, và kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa, sống như thế, chúng ta sẽ cho mọi người thấy: chúng ta sống trong thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian: Giữa thế gian, chúng ta  chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, và làm sáng tỏ lời ban sự sống như câu Tung Hô Tin Mừng của ngày lễ hôm nay mời gọi.

Chúng ta sống tương quan với Đấng Sáng Tạo và với các thụ tạo của Người ở hai chiều kích: công bình và bác ái. Hội Thánh dạy chúng ta có hai cách ăn năn tội: cách chẳng trọn và cách trọn; “cách chẳng trọn” là không phạm tội vì sợ hình phạt hỏa ngục, còn “cách trọn” là vì lòng yêu mến Chúa.

Của Xêda, trả về Xêda”, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin ơn trung tín để chúng ta trung thành tuân giữ nghĩa vụ của một công dân trong Nước Chúa: thờ phượng Chúa và sống công bình với tha nhân. “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin ơn quảng đại để chúng ta sẵn sàng dấn thân làm hơn cả những gì luật buộc, hầu đáp đền tình yêu vô bờ mà Chúa dành cho chúng ta, bởi vì, Người là Cha nhân hậu, hằng luôn yêu thương chăm sóc chúng ta; và chúng ta phải yêu thương tha nhân, bởi vì, chúng ta đều là anh chị em của nhau, con cùng một Cha trên trời.

Của Xêda”, đồng tiền có in hình ảnh của Xêda, tức những gì thuộc về thụ tạo của Thiên Chúa, “Của Thiên Chúa”, nén vàng có in hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Người. Tất cả là của Thiên Chúa, Người đã ban cho chúng ta cách nhưng không. Do đó, những gì chúng ta nhận được từ Thiên Chúa, hay từ các thụ tạo của Người là tha nhân và thiên nhiên vạn vật xung quanh chúng ta, thì theo lẽ công bình và những đòi hỏi của tình yêu, chúng ta cũng phải có những tâm tình, thái độ hồi đáp tương xứng và còn hơn thế nữa, để giữa một thế giới tăm tối bị bao bọc bởi những bất công, hận thù, chia rẽ, chúng ta chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, và làm sáng tỏ lời ban sự sống như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay.

Về mục lục

MỘT CÁI BẪY

Thiên San, MTG. Thủ Đức

 Trong suốt ba năm rao giảng của mình, Đức Giêsu đã nhiều lần làm cho những người Pharisêu phải cứng họng. Người không chỉ trả lời cách khôn ngoan, cụ thể mà còn thẳng thừng lên án thái độ đạo đức giả, nệ luật của họ. Lần này, sau khi bàn tính với nhau, những người Pharisêu cử môn đệ của họ cùng với những người thuộc nhóm Hêrôđê đến gặp Đúc Giêsu hầu mong đưa Người vào tròng. Nhưng họ đã quên đi và dường như đã chẳng dám chân nhận một sự thật, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự. Người thừa biết họ có ý xấu muốn hại mình. Đức Giêsu không dừng lại ở cái nhìn bề ngoài mà còn thấu suốt tâm can của ta.

 “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.” (Mt 22,16). Thoạt nghe, ta có thể thấy những lời này là một lời khen ngợi. Đây quả là một lời khen nhưng không chân thành. Bởi lời khen này dùng để đưa người nghe vào một cái bẫy đã được chuẩn bị: “Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không ?” (Mt 22,17). Câu hỏi này là một câu hỏi khó. Khó vì nếu trả lời là “có”, Đức Giêsu sẽ bị liệt vào hạng những kẻ chống đối dân tộc, ủng hộ cho đế quốc. Nhưng nếu trả lời là “không”, Đức Giêsu cũng không dễ gì thoát khỏi tội danh chống Đế quốc, quân phản loạn… Thế mới biết, cái bẫy này thật không hề đơn giản như ta tưởng.

Lời khen ngợi của những người được cử đến để thử Đức Giêsu không hẳn là sai. Xét cho cùng, đó là những nhận xét khá đúng đắn về con người của Đức Giêsu. Nhưng chỉ có điều là nó được đặt sai chỗ, được sử dụng với một ác tâm. “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.” (Mt 22,16). Qua cách sống, cách giảng dạy của mình, Đức Giêsu cho chúng ta thấy Ngài chính là Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Chính vì ghen tỵ, không muốn tin nhận sự thật này mà những người Pharisêu tìm đủ mọi cách để gạt bỏ Đức Giêsu. Cách hành xử của họ chẳng hề ăn khớp với lời họ nói, đặc biệt là những lời khen ngợi họ dành cho Đức Giêsu. Đối với họ, Đức Giêsu chỉ là đối tượng họ cần “loại bỏ”.

Trước sào huyệt của những người Pharisêu, Đức Giêsu đã rất bình tĩnh. Câu trả lời của Người không những thuyết phục mà còn làm cho những kẻ chống đối phải cứng họng. “Của Xêda trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Đức Giêsu không chỉ trả lời câu hỏi của những người Phari sêu mà còn đưa họ về  điểm xuất phát ban đầu, đưa họ về với điều cốt yếu và chính yếu nhất của cuộc đời đó chính là Thiên Chúa. “Của Xêda trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” nghĩa là gì nếu không phải là bổn phận giữa đời và bổn phận làm con Chúa. Trước khi là công dân của một nước, dân Do Thái đã là dân riêng của Chúa, Thiên Chúa chính là Vua của họ. Câu trả lời của Đức Giêsu nhắc cho những người Do Thái biết điều đó. Còn chúng ta thì sao?

Sống trong một thể chế, một quốc gia, việc nộp thuế là một nghĩa vụ của mọi công dân nhằm chung tay xây dựng đất nước. Bởi đó, Đức Giêsu không hề ngăn cản việc nộp thuế cho hoàng đế. Không dừng lại ở đó, Người mời gọi chúng ta đi xa hơn để biết lưu tâm đến bổn phận của ta đối với Thiên Chúa. Chúng ta nhận lãnh từ Thiên Chúa tất cả mọi sự vì Người là Đấng hằng yêu thương, chăm sóc chúng ta. Chúng ta phải dành cho Người vị trí cao nhất trong cuộc đời của ta. Làm sao ta có thể làm được điều đó khi mỗi bận tâm của ta vẫn chỉ là cơm áo gạo tiền? Đừng chỉ biết dừng lại ở những nghĩa vụ trần gian, những bận tâm trần thế nhưng hãy ý thức mình thuộc về Thiên Chúa và cần phải trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Sống bác ái, yêu thương, mến Chúa yêu người là cách giúp ta thực hiện điều đó.

Về mục lục

BẠN ĐANG SỐNG HAY CHẾT

Lm. Jos. DĐH.

Tất cả những ai tham gia trên các phương tiện giao thông, đều thuộc câu thành ngữ: an toàn là bạn, tuy nhiên, đường bộ, đường thuỷ, hay đường hàng không, vẫn chỉ mang tính an toàn tương đối. Hầu hết những học sinh sinh viên đều có sẵn một khái niệm, học, hiểu, không phải mang lại hạnh phúc cho mình, nhưng còn làm rạng danh gia đình, dòng tộc, đất nước, khi mỗi người trân trọng ân tình ân nghĩa mà thực hành nơi cuộc sống. Truyền thống tốt đẹp được “cài đặt” nơi mỗi người: sợ dài dòng lý thuyết, thực tế hơn, hiểu, hiết, … chưa đủ, mà ta phải áp dụng vào các tương quan xã hội ; sẵn sàng, … chưa đủ, nói chung, mọi người họ còn ngóng trông ta hành động.

Truyền giáo, không cũ, không xưa, lời quả quyết “thiêng liêng” đó, gắn liền với người kitô hữu, ít là từ khi ta ý thức trí khôn là gì, và ta đang sống những điều kiện có sẵn của mình thế nào ? Từ kinh nghiệm bản thân, cùng với bài học quý báu từ sách vở, người khôn ngoan sẽ cảm nhận: khi nằm xuống, những gì ta xài, … đã mất, những gì ta tích cóp, không sử dụng, người khác xài, có phải ta chỉ đem theo được … những gì đã cho, đã cống hiến ? Tự do suy nghĩ, tự do làm điều ưa thích, nhưng không ai chấp nhận bạn tự coi mình là “cái rốn” của vũ trụ này. Lệnh truyền rõ ràng, sứ mạng cụ thể: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân làm phép rửa cho họ: nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, …”.

Tin Thầy Giêsu quyền năng, ý thức đem tin vui, tin mừng Đức Giêsu Kitô, cho anh chị em, làm phép rửa cho muôn dân, nhất định phải là sứ mạng, là trách nhiệm của Hội Thánh, không phải là của riêng các vị có chuyên môn, bậc giáo sĩ, người tài giỏi, lắm của nhiều tiền. Người trẻ hôm nay rất mạnh mẽ khi nói: tiền bạc phân minh, ái tình sòng phẳng ; con thầy, vợ bạn, gái cơ quan, chớ dây vào sẽ tan hoang ! Kitô giáo, vẫn luôn khơi dậy sự tự do nơi người tín hữu, bạn có nghe, có hiểu, có tin: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ? mỗi người phải trả lời, tôi đang sống hay chết ? Đấng là Thầy, là Chúa, sẽ kiên nhẫn đợi chờ các học trò của Ngài rõ ràng hơn về nghĩa, về tình, về khả năng hiểu biết, hầu chứng minh tôi thật sự đang sống.

Bạn đang âm thầm sống gương sáng đức tin cho gia đình giáo xứ, cho hàng xóm láng giềng, đang mạnh mẽ hô to, gào lớn, phải chung tay góp sức làm việc truyền giáo ? Bạn yêu giáo hội, thương kẻ túng thiếu nghèo hèn, hoặc trái tim đang rạo rực từ việc nhỏ bé nhất, hoặc nhiệt huyết tông đồ của bạn như đèn sắp hết dầu, Đấng là Thầy là Thiên Chúa cứu độ, Ngài biết bạn là đủ. Nếu được tham gia một gợi ý, bạn có dám trấn an người anh chị em mình: đừng quan tâm người khác nói gì, đang nghĩ bạn còn sống hay chết, bởi Thầy Giêsu biết bạn là ai, bạn đáng yêu, bạn là đối tượng lòng thương xót Chúa, hãy tự tin, hãy sống cậy trông. Cuộc đời vẫn mặc nhiên cho rằng: người nông cạn tin vào may mắn, người sâu sắc tin vào nhân quả, ở trong Đức Kitô, bạn sẽ hiểu: sống trung thực từ việc bé nhỏ hàng ngày, sức mạnh và tình yêu thật đáng quý là ở đó.

Bạn đang sống, đang làm công việc bổn phận với một ý thức trách nhiệm, có phải như thế là bạn đang hiệp thông truyền giáo không ? Trước hết, xã hội sẽ chứng minh cho bạn thấy tính hợp lý: nét quyến rũ của một người, không phải ở gương mặt, hay dáng vẻ bên ngoài, mà là trái tim và cách cư xử, cách sống yêu thương của bạn. Rồi trên hết, Đấng Kitô sẽ khơi gợi lên trong bạn sức mạnh và tình yêu đến từ đâu, hạnh phúc thật, niềm vui thật, khi lòng trí ta xác tín: “Thầy sẽ ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế”. Vâng, bạn là ai, bạn đang tỉnh hay say, đang sống hay chết, đang cùng giáo hội làm việc truyền giáo ? Thầy Giêsu không quan tâm ta là linh mục tu sĩ, trẻ thơ hay cụ già, Ngài muốn mong ta thấy cuộc sống này mang một thông điệp: quay về hướng mặt trời, bạn sẽ không thấy bóng tối.

Người cha trắc nghiệm 3 đứa con, nhằm giáo dục chúng như sau: chúng con có biết tại sao Chúa Giêsu không ở mãi trần gian này truyền giáo, mạc khải về tình yêu cứu độ cho nhân loại, mà Chúa lại uỷ thác cho 12 học trò đầy giới hạn ? Trả lời hay có thưởng. Đứa lớn thưa cha, theo con Chúa muốn nhắc các môn đệ, các con đã học thì phải hành. Xin vỗ tay. Em út xin thưa: mắt thường không ai thấy sự hiện của Chúa, nhưng mắt đức tin, Chúa vẫn ở trần gian như đã nói: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. (Vỗ tay). Đứa con thứ trả lời, thưa cha, nếu Chúa không cần các học trò, không cần mỗi người tín hữu truyền giáo, hẳn Chúa không đến trần gian làm gì ! Ba câu trả lời của chúng con thật là chí lý, cha hy vọng chúng con đã hiểu và sẽ sống tốt bổn phận và trách nhiệm của mình với gia đình, với giáo hội. Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen.

Về mục lục

LOAY HOAY CON THUYỀN TRUYỀN GIÁO

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có người bạn già nói với tôi: nghe nói muốn truyền giáo phải thành lập Giáo hội cơ bản.

Giáo hội cơ bản là gì? – TÔI HỎI

Là giáo hộ sơ khai họ quy tụ nhau để hằng tuần nghe Lời Chúa và chia sẻ bữa ăn huynh đệ với nhau. – người bạn trả lời.

Oh, tưởng gì chứ giáo hội cơ bản ấy Giáo phận đã làm từ khi thành lập rồi. Lúc dầu di cư năm 1954 vào đây các cha cũng phải quy tụ họ lại rồi lo cho họ ăn, rồi tổ chức thành cộng đoàn giáo xứ với vài chục hộ cho tới nay có nhiều giáo xứ đã đông đúc trên 20 – 30 ngàn giáo dân rồi – tôi nói

Truyền giáo theo đúng tinh thần của Chúa Giê-su là quy tụ và sai đi. Chúa Giê-su đã đến trần gian và quy tụ các tông đồ thành một cộng đoàn huynh đệ. Sau khi ban Chúa Thánh Thần cho các ông, Chúa Giê-su đã sai các ngài ra đi loan báo Tin mừng. Trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 28 các câu 16 và 18 tới 20 viết rằng: “Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến… Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,16.18-20).

 Do đó, truyền giáo là quy tụ và sai đi như một tiếp nối giữa thế hệ này với thế hệ khác để tin mừng được lan tỏa khắp mọi nơi. Riêng Giáo phận Xuân Lộc không có những vùng ngoại biên để sai đi, nhưng vẫn có hơn 60 phần trăm anh chị em lương dân sống chung trong các xứ đạo. (người Công giáo chiếm 35 % tổng số dân trong tỉnh Đồng Nai). Việc truyền giáo đòi hỏi cấp bách của Gíao phận lúc này là đời sống chứng nhân của cộng đoàn. Một cộng đoàn xứ đạo hiệp nhất yêu thương sẽ là lời chứng hùng hồn cho Tin mừng.

Nhiều người tới giờ vẫn còn ao ước thành lập những Giáo hội cơ bản như thời giáo hội sơ khai. Đây là cái nhìn non kém của người truyền giáo. Cộng đoàn giáo hội sơ khai là cộng đoàn quy tụ và sống bác ái. Thế nên, Giáo phận Xuân Lộc đã quy tụ thành rất nhiều hội đoàn, và tổ chức thành 5 giới bàn bạc trong các cộng đoàn giáo xứ. Điều quan trọng của các nhà truyền giáo là tổ chức để các cộng đoàn đã quy tụ này từ giáo xứ, các giới đến các đoàn thể biết sống yêu thương và lan tỏa tình yêu thương ấy để muôn dân thấy ky tô giáo là đạo của yêu thương.

Cộng đoàn giáo hội sơ khai cũng chỉ là quy tụ với nhau trong hội trường để nghe lời Chúa và chia sẻ của ăn với nhau để không ai đói khổ trong cộng đoàn. Và như thế, chúng ta đã qua được thời kỳ quy tụ thành cộng đoàn, và chúng ta còn quy tụ thành nhiều cộng đoàn lớn nhỏ với nhiều đặc sủng khác nhau. Điều này cũng mang lại nhiều thành quả cho việc loan báo Tin mừng trong môi trường sống của các xứ đạo. Rất nhiều anh em lương dân được sống đùm bọc trong một xứ đạo hay một đoàn thể đầy yêu thương đã khiến họ cảm động và tin theo Chúa. Rất nhiều xứ đạo khi dựng lều cư ngụ trên mảnh đất Xuân Lộc này vào năm 1954 chỉ vài chục hộ gia đình Công Giáo mà nay hầu như chỉ tăng chứ không có chỗ nào giảm, có xứ đạo tăng đến vài chục ngàn tín hữu.

Và như thế, việc truyền giáo của chúng ta đã và đang thành công và làm cho vùng đất Đồng Nai trở thành một vùng đất người Công Giáo chiếm tỉ lệ cao nhất trong cả nước. Đây là thành quả truyền giáo đáng tự hào của Giáo phận. Chính trong thập niên 1980 đầy khó khăn của thế sự, nhưng với ơn Chúa soi dẫn Giáo phận Xuân Lộc đã nhanh chóng quy tụ thành các giới để sống tin mừng yêu thương. Và nhờ sự quy tụ này mà các thành phần trong giáo hội được củng cố đức tin và trở thành nam châm lôi kéo nhiều người trở thành ky-tô hữu. Chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Chúa đã ban cho cánh đồng truyền giáo Giáo phận Xuân Lộc luôn được bội thu vì con số tín hữu mỗi ngày một gia tăng. Chúng ta không cần băn khoăn thành lập những cộng đoàn giáo hội sơ khai mà hãy duy trì những cộng đoàn đầy yêu thương sẵn có để mang lửa yêu thương thắp sáng cho trần gian. Hãy cùng nhau làm cho cộng đoàn xứ đạo, cộng đoàn các giới, các đoàn thể luôn là dấu chỉ tình yêu thương và hiệp nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất chính là hiệu kỳ quy tụ muôn dân nên một trong tình yêu Chúa.

Thế nên, điều cần nơi Giáo phận Xuân lộc chính là duy trì và làm thăng tiếng những cộng đoàn các giới, các đoàn thể sẵn có để chính nơi đây họ làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa bằng đời sống hiệp nhất yêu thương, và qua họ muôn dân sẽ thấy và ngợi khen Thiên Chúa. Amen

Về mục lục

CỦA XÊDA, TRẢ CHO XÊDA;

CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA

Jorathe Nắng Tím

Căng thẳng giữa Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Pharisêu ngày càng trầm trọng và hầu như hết thuốc chữa. Nhóm này thường xuyên cùng giáo quyền Do Thái tấn công Đức Giêsu. Nhưng hôm nay, những người Pharisêu giả hình và độc ác ấy quyết định “tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mt 22,15), khi họ “cùng đi với những người phe Hêrôđê” là vua Do Thái đang trị vì, để cùng với người của Nhà Nước, dựa vào thế lực của chính quyền quyết tâm gài cho bằng được Đức Giêsu sập bẫy chính trị, hầu có cớ cáo gian, truy tố, lên án, triệt hạ Ngài như tội phạm chính trị : xúi dân nổi loạn, làm mất trật tự chung.

Ý đồ gài Đức Giêsu vào tội chính trị : kêu gọi dân chống chính quyền bảo hộ Rôma thật qúa rõ. Cũng như bao nhiêu vụ việc lừa đối phương vào vòng lao lý trong trò chơi tranh giành quyền lực, ảnh hưởng chính trị, các người Pharisêu đã xử dùng cùng một thủ đọan “xông hương, bốc thơm đối thủ” để đưa Đức Giêsu vào chỗ chết khi nói với Ngài : “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dậy đường lối của Thuên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta” (Mt 22,16).

Có lẽ không lời nào ngọt ngào, hợp lý, xứng đáng hơn cho vị đại Ngôn Sứ là Đức Giêsu ; không ngôn từ nào trân trọng, cung kính hơn trước “Người được Thiên Chúa sai đến” ; không hái độ nào khiêm hạ, vâng phục, ngoan ngùy hơn đối với “Đấng giảng dậy có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7,29) mà nhóm Pharisêu và những người đi theo họ dành cho Đức Giêsu. Nhưng mưu hèn, kế bẩn của họ đã bị Đức Giêsu lật tẩy bẽ bàng : “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình!” (Mt 22,18).

Họ thử Đức Giêsu để có bằng chứng tố cáo Ngài với chính quyền đế quốc Rôma đang cai trị họ, vì họ biết Ngài khó thoát khỏi cạm bẫy cực kỳ tinh vi họ sắp giăng ra. Tuy cung giọng đầy khiêm tốn của môn đệ đến thỉnh ý Thầy, nhưng thực ra họ đã nắm chắc phần thắng, vì nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ  rơi vào một trong  hai câu trả lời đều nguy hiểm trước câu hỏi “bẫy” của họ : “Xin Thầy cho biết ý kiến : có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22,17).

Là con dân một đất nước bị ngoại bang thống trị, người Do Thái phải nộp thuế cho đế quốc Rôma mà Xêda là đại đế, nên nếu trả lời “phải nộp thuế cho Xêda”, Đức Giêsu sẽ bị chụp mũ là tay sai đế quốc, phản nước hại dân, bưng bô cho ngoại bang, và tất nhiên Ngài sẽ bị dân chúng kịch liệt khinh bỉ, lên án, tẩy chay, trong khi Ngài xưng mình là “Đấng Thiên Chúa sai đến cho nhà Ítraen” (x. Mt 15,24). Nhưng nếu trả lời “không nộp thuế cho Xêda”, Đức Giêsu sẽ bị  ghép tội xúi dân chống lại nghiã vụ nộp thuế cho chính quyền đế quốc đang thống trị, và với tội danh này, chắc chắn Ngài sẽ bị truy tố và lãnh án nặng nề từ phiá chính quyền  Rôma.

Ngày nay trong xã hội chúng ta đang sống cũng có rất nhiều người lợi dụng hoàn cảnh chính trị phức tạp, tế nhị như tiền đề cho những mưu hèn kế bẩn để hại người, chẳng khác gì đám Pharisêu đã gài Đức Giêsu vào một thế cờ khó gỡ, một cạm bẫy khó thoát thân năm xưa.

Thực vậy, khi trả lời “Của Xêda, trả về Xêda ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, Đức Giêsu không chỉ làm ngỡ ngàng đám Pharisêu và những người đi theo họ với âm mưu hãm hại Ngài, khi “vô hiệu hoá đòn phép nham hiểm, ác độc » của họ, mà còn nhắc họ  nhớ đến một nghiã vụ thiêng liêng rất quan trọng, đó là trung thành với một Thiên Chúa duy nhất theo Giao Ước của Thiên Chúa với các tổ phụ của họ, mà ngôn sứ Isaia không ngừng kêu gọi, cảnh báo : “Ta là Đức Chúa, không con chúa nào khác ; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta” (Is 45,5).

Sở dĩ Đức Giêsu nhấn mạnh : “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, vì lúc bấy giờ, các đại đế của đế quốc Rôma bắt đầu coi mình là thần thánh, và bắt buộc dân chúng thực hành các nghi thức thờ lậy đại đế như một thiên chúa. Đó là lý do những Kitô hữu ở thế kỷ thứ nhất đã bị bắt bớ, hành hình vì từ chối thực hành nghi thức tế tự các đại đế, do trung thành với niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Đây cũng là một vấn đề khá phức tạp trong các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, khi các tín hữu bị giằng co giữa đòi hỏi phải tôn trọng quyền bính chính trị và bổn phận tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Tuy thế, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thêxalônica được coi là tài liệu Kitô giáo cổ xưa nhất, thánh Phaolô đã chỉ nói  đến đức tin, đức ái, đức trông cậy của các tín hữu, mà không đề cập đến áp lực căng thẳng giữa chính trị và đức tin, khi ngài viết : “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1 Tx 1,3).

Xin Chúa cho chúng ta ơn khôn ngoan trong mọi thời thế, hoàn cảnh, ở đó các thế lực chính trị thường tạo nên những căng thẳng làm chúng ta mất đi niềm xác tín : hạnh phúc đích thực là được tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, Đấng mà các dân nước phải bái thờ, run sợ, bởi “Chúa thiết lập địa cầu… Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng…, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 95,10.13).

Về mục lục

THUỘC VỀ THIÊN CHÚA

Bông hồng nhỏ

“Của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22, 21b). Lắng nghe lời Chúa Giêsu, ta tự hỏi lòng mình: trong cuộc đời của ta, điều gì thuộc về “Xêda” và điều gì thuộc về Thiên Chúa? Đã rất lâu rồi, ta đã bước đi trong sự nhập nhằng giữa hai con đường khác biệt: con đường của những điều thuộc về Thiên Chúa và con đường của những điều thuộc về thế gian. Những bước đi thiếu dứt khoát ấy đã tác động mạnh mẽ trên cuộc đời ta.

Nhìn lại những bước chân ấy, ta đã thấy rõ hình bóng Thiên Chúa, bàn tay Người đã đặt trên ta. Người đã đặt để ta đến trong cuộc đời này. Vì thế, ta thuộc một gia đình, thuộc về một dân tộc, thuộc một quốc gia. Ta đã sinh ra và lớn lên trong thế gian, đón nhận cả những góc sáng- tối của cuộc đời này, nó phủ trên cuộc đời ta những mảng màu sáng tối. Có khi, những góc tối trong cuộc đời này đã giúp ta khao khát ánh sáng. Ta khao khát được ở trong ánh sáng của Thiên Chúa. Rồi cũng có những khi ánh sáng của Chúa chiếu vào lòng ta, cho ta thấy những chỗ chưa hay, chưa đẹp, ta nhột nhạt và đau đớn nữa. Ánh sáng của Lời đã chiếu sâu vào trong tâm hồn ta, cắt tỉa ta, uốn nắn ta. Những con người mà Thiên Chúa đã dẫn đến với ta, để họ cùng bước đi với ta trên một chặng đường nào đó, và cả những biến cố buồn vui trong cuộc đời, những đau khổ…, tất cả đều có giá trị khi ta đặt chúng dưới cái nhìn đức tin: Thiên Chúa muốn ta được lớn lên.

Thế gian đã cưu mang ta và vì thế, theo một cách thức nào đó, ta thấy mình thuộc về thế gian. Thuộc về thế gian phải chăng là một điều không tốt? Khi ta biết mình thuộc về Thiên Chúa, ta không chối bỏ những gì mà thế gian này mang lại cho ta: những kiến thức học được từ học đường, từ công ty, từ việc giao tiếp với mọi người… Nhìn xa hơn, rộng hơn, cao hơn và sâu hơn nữa, ta chợt nhận ra một điều: tất cả những gì ta nhận lãnh từ thế gian này chính là những điều Thiên Chúa đã dành sẵn cho ta. Người muốn ta được lớn lên, được thuộc về một gia đình, thuộc về một dân tộc, thuộc về một quốc gia. Khi ta lớn lên, đồng nghĩa với việc ta đón nhận trên đôi vai mình trách nhiệm xây dựng gia đình, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Hơn hết, Thiên Chúa muốn ta trở thành một chứng nhân Tin Mừng. Là một ngôn sứ của Thiên Chúa, ta phải luôn luôn có được cảm thức thuộc về Thiên Chúa.

Khi ta biết mình thuộc về Thiên Chúa, ta cảm nhận rõ ràng một lời mời gọi tha thiết và đầy dứt khoát của Thầy Giêsu: hãy ra đi loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (x.Mc 16, 15). Nếu chỉ mải mê thu góp những gì ở đời này, ta sẽ chỉ nhận lại được những gì chóng qua và mau tàn. Tiền tài, danh vọng, tiếng tăm, tất cả sẽ biến tan như làn khói một khi ta nằm buông tay xuống. Thế nhưng, khi ta hết lòng theo đuổi những giá trị của tin Mừng là lòng bác ái, vị tha, yêu thương như Chúa Giêsu mời gọi, điều ta nhận lại chính là tình yêu Thiên Chúa tràn ngập trong tâm hồn, niềm bình an sâu thẳm của Thiên Chúa sẽ kéo ta bước qua khỏi những gian nan, khốn khó và hiểm nguy, tình yêu Thiên Chúa sẽ giữa chặt ta khỏi bàn tay hiểm độc của kẻ thù là Satan. Cuộc đời ta là của Thiên Chúa, ta được Thiên Chúa sinh ra, được Con của Người cứu chuộc bằng giá máu châu báu, được lửa tình yêu của Thánh Thần thiêu đốt. Hãy biết trả lại cho thế gian những gì thuộc về nó và hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Những gì cuộc đời này mang đến cho ta, ta hãy dừng lại, nhận định để chọn lựa đón nhận hay từ chối chúng, hãy hỏi lòng mình: Đó có phải là điều đẹp lòng Chúa không? Thiên Chúa muốn tôi làm gì? Trong thinh lặng của tâm hồn, ta hãy nghe Lời Thiên Chúa nói.

Lạy Chúa Giêsu rất yêu mến! Con thuộc về Người. Xin Chúa nhận lấy tâm tình con dâng Chúa mỗi ngày:

“Và từ đó con xin đi theo Ngài

Dù trần ai qua bao nhiêu nghi ngại

Vẫn vẹn câu thề dâng hiến…

Nguyện đời con luôn hăng say trung thành

Làm muối ướp cho nhân gian an lành

Vững lòng theo Ngài

Suốt đời con này, Ngài ơi”

(Bài hát “Dâng hiến đời con”  Sáng tác: Dương Đình Nhu).

Con tạ ơn Chúa! Amen.

Về mục lục

LỠ LỜI

Anna Cỏ may

Có lúc nào bạn lỡ lời với ai mà lại đem niềm vui cho họ không? Có lẽ có, nhưng đó chỉ là trường hợp rất hy hữu. Thường, chúng ta dễ nói những lời gây cho nhau đau khổ và buồn tủi nhiều hơn là nhưng điều đem lại niềm vui, vì bản tính chúng ta là hay ghen tị. Bên cạnh đó, có không ít người tìm cách làm cho người khác phải lỡ lời mà nói ra điều không hay, cố tình gài bẫy để người khác phải chịu trách nhiệm về lời nói của mình.

Trong Tin Mừng Mátthêu, nhóm người Pharisêu đã bàn bạc với nhau, tìm cách làm sao cho Chúa Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ soạn và nói ra những lời khen thật đúng, thật hay để đánh lạc hướng tâm trí của Chúa Giêsu, để Ngài không còn để ý đến câu hỏi phía sau. Họ hỏi: “Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22,17). Dầu vậy, họ vẫn không thể có được kết quả như họ mong đợi. Họ còn ngạc nhiên về cách hành xử và lời nói của Ngài. Và, họ đã phải bỏ đi, để Ngài ở lại.

Chúa Giêsu đã cho nhóm người Pharisêu nhận thấy việc gì nên và không nên. Ngài cũng để lại cho các môn đệ bài học về sự tỉnh thức trước câu hỏi của người khác. Đứng trước câu hỏi của nhóm người Pharisêu, Ngài nhận định lại người đang hỏi mình là ai? Câu họ hỏi là gì? Được đặt trong bối cảnh nào? Điều họ muốn là gì? Vâng, Ngài không trả lời theo kiểu máy móc “có” hay “không”. Ngài đi vào sự việc, sự vật ngay lúc đó. Ngài nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế! “Họ liền đưa cho Người một quan tiền. Người hỏi họ: ‘Hình và danh hiệu này là của ai đây?’ Họ đáp: ‘Của Xêda.’ Bấy giờ, Người bảo họ: ‘Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Mt 22, 18-21). Thật sự có những lúc, chúng ta phải trả lời ngắn gọn, cũng có khi chúng ta phải đi vào sự việc mới trả lời chính xác và minh bạch để không ai thiệt thòi. Thánh Giacôbê đã nói: “Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa” (Gc 1, 19-20). Chúng ta nghe nhưng phải có thời gian để suy nghĩ và hiểu, lúc đó mọi lời nói và những quyết định mới đạt kết quả cao. Trong thời gian đó, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta chọn lựa những điều tốt nhất. Nếu không, chúng ta dễ rơi vào sai lầm như vua Hêrôđê (x. Mc 6,17-29). Vậy, để tránh được những lời nói và những quyết định sai lầm, chúng ta chớ vội nói, vội quyết mà hãy lắng nghe tiếng lương tâm thúc đẩy hoặc đi bàn hỏi với người khôn ngoan.

Ngày hôm nay, chúng ta dễ rơi vào bệnh “lỡ lời”, bệnh sai lầm là khi chúng ta tham gia vào mạng truyền thông, nhất là tham gia vào hoạt động facebook. Chúng ta chỉ nghe-đọc hay chỉ xem những hình ảnh, những tin nhắn trên “facebook” mà đã vội đưa ra những bình luận, những câu phán xét cho nhau. Điều đó làm cho không ít người đã phải đau khổ và còn dẫn đến cái chết cho người khác, nó như một con dao hai lưỡi vậy. Chớ gì, chúng ta hãy cẩn thận thì tốt hơn.

Lạy Chúa, Ngài thấu rõ tâm can chúng con. Xin giúp chúng con biết nhận định trong mọi vấn đề, để chúng con không bị lỡ lời hay có những quyết định sại lầm gây đau khổ cho nhau. Xin cho chúng con mỗi ngày biết chạy đến học khoa sư phạm của Ngài được chứa đựng trong lời Ngài. Nhờ đó, chúng con đem lại niềm vui cho nhau, cùng nhau xây dựng hòa bình như lòng Chúa mong ước. Amen.

Về mục lục

NƠI TA THUỘC VỀ

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Con người sinh ra và lớn lên mang theo những nét văn hóa từ gia đình, làng quê, đất nước của mình. Bởi đó là nơi “chôn rau cắt rốn”, nơi ta thuộc về, gắn bó, yêu thương. Thuộc về đồng nghĩa với việc thi hành nghĩa vụ cũng như quyền lợi ta đáng được hưởng. Nhưng đức tin dạy ta biết rằng, cuộc sống nơi trần gian này chỉ là cuộc sống tạm bợ, đời sống mai sau nơi Quê Trời mới là cuộc sống vĩnh cửu, là quê hương đích thực của mỗi người chúng ta. Vậy, để đạt được hạnh phúc Nước Trời, quê hương đích thực ta phải làm gì?

Là công dân, chúng ta có quyền lợi và nghĩa vụ để xây dựng quê hương đất nước. Dòng máu chảy trong ta, văn hóa và mọi thứ ta mang trong mình đều mang dáng dấp của một sự thuộc về. Nó giúp cho mọi người nhận biết ta là ai, công dân nước nào. Khi các cuộc thi được tổ chức với quy mô lớn cấp châu lục hay thế giới, màu cờ, sắc áo của mỗi đội tuyển sẽ nói lên điều đó. Hay chẳng hạn khi đi làm, học tập ở nước ngoài dù trước đó ta chưa từng quen biết nhau nhưng chỉ cần gặp được một người Việt Nam nơi đất khách quê người thôi ta cũng cảm thấy có một sự gần gũi, thân quen, vui đến lạ thường. Kinh nghiệm đó cho ta thấy và ý thức về cội nguồn của ta, nơi “chôn rau cắt rốn”.

Hôm nay, qua câu trả lời của Đức Giêsu với những người Pharisêu, Người nhắc cho chúng ta biết rằng, nghĩa vụ của chúng ta không chỉ dừng lại ở quê hương đất nước nơi trần gian này nhưng là đối với Nước Thiên Chúa:“Của Xêda trả vê cho Xê da, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Nghĩa là nơi ta thật sự thuộc về chính là Nước Trời. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương, chăm sóc ta, ta thuộc về Ngài. Ta phải có nghĩa vụ xây dựng và làm cho Nước ấy trổ sinh hoa trái và để trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài.

Thiên Chúa chính Đấng Tạo Thành và là Cha của chúng ta. Chúng ta thuộc về Ngài vì được Ngài tạo dựng và cứu chuộc. Tất cả những gì chúng ta có, chúng ta là đều thuộc về Thiên Chúa. Tâm tình ta cần có đối với Thiên Chúa trước tiên là tâm tình cảm tạ, biết ơn, và nhất là tâm tình thảo hiếu như Đức Giêsu. Nhờ liên đới với Đức Giêsu, chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Apba – Cha ơi”. Sống tâm tình cảm tạ, biết ơn, thảo hiếu là luôn ý thức ta là con của Ngài, thuộc về Ngài, luôn để cho Chúa hướng dẫn, làm chủ đời ta. Khi ý thức được điều đó, ta sẽ dễ dàng trao lại cho Chúa tất cả những gì ta nhận được, những gì ta có, ta là. Cảm thức thuộc về Nước Thiên Chúa mang lại cho ta niềm vui vì được Chúa yêu thương, cứu chuộc. Đồng thời cảm thức ấy giúp ta biết dùng sự sống đời này để đạt được hạnh phúc đời sau khi vâng nghe và làm theo những gì Con Một Thiên Chúa truyền dạy. Thiên Chúa gọi mỗi người chúng ta vào đời để mời gọi chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa, Ngài sẽ ban cho ta ơn để đáp lại tình thương của Ngài. Mặt khác, chính khi nỗ lực sống thánh thiện như Chúa là Đấng Thánh là ta đang góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trên trần gian này.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được hiện diện trên cõi đời này. Cảm tạ Chúa đã mạc khải cho chúng con biết rằng quê hương điích thực của chúng con là Nhà Cha trên trời. Xin giúp chúng con luôn biết sống tâm tình của một thụ tạo, một người con, luôn ngoan ngoãn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Đặc biệt là biết dùng sự sống đời này như phương thế hữu hiệu để đạt được Nước Trời mai sau khi chúng con biết sẵn sàng dâng lại cho Chúa tất cả những gì thuộc vê Ngài, những gì chúng con có, những gì chúng con là. Amen.

Về mục lục

TRẢ CHO XÊDA VÀ TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Lm Trần Bình Trọng

Nhóm người Pharisêu trong Phúc âm hôm nay kết cấu với nhóm Hêrôđê để đưa Chúa Giêsu vào cuộc tranh chấp chính trị-tôn giáo. Nhóm người Pharisêu lại hậm hực với chính quyền La mã vì phải trả thuế người ngoại bang. Còn nhóm Hêrôđê là những người phò đế quốc La mã và do đó phò cả vua bù nhìn Hêrôđê. Trước khi đưa Chúa vào tròng, họ tỏ ra nịnh bợ trước đã như khen Chúa là người chân thật và không thiên vị (Mt 22:16).

Thế rồi họ đặt câu hỏi với Chúa: Có được phép nộp thuế cho Xêda không? (Mt 22:17). Câu hỏi có vẻ đơn sơ, nhưng ý đồ của họ lại khác. Nếu Chúa trả lời: có, nghĩa là phải nộp thuế cho Xêda, thì Người sẽ bị coi là phản động và mất thế giá trước mặt người Do thái thời bấy giờ vì họ muốn thoát khỏi quyền lực của vua ngoại bang. Nếu Chúa trả lời: không, nghĩa là không cần nộp thuế cho Xêda, thì phe Hêrôđê sẽ tố cáo với nhà chức trách La mã là chống đối chính quyền ngoại bang. Chúa Giêsu biết rõ thâm ý của họ nên dùng chính đồng tiền nộp thuế có hình Xêda để giải thích cho họ. Chỉ vào hình Xêda trên đồng tiền, Chúa bảo họ: Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa (Mt 22:21).

Ở đây Chúa Giêsu phân biệt hai phạm vi thế quyền và thần quyền. Thế quyền và thần quyền tách biệt nhau, nhưng có liên hệ với nhau. Chúa muốn họ cũng vâng phục thế quyền để duy trì trật tự và lợi ích công cộng. Thế quyền cũng bắt nguồn bởi Thiên Chúa như lời Thánh kinh dạy là mọi quyền bính trên trời dưới đất đều bởi Thiên Chúa (Omnis potestas a Deo). Trong bài trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa đã dùng vua Ba tư ngoại giáo là Kyrô, người được sức dầu, để thống trị đế quốc Babylon, đem dân tộc Chúa chọn trở về khỏi ách lưu đầy (Is 45:1). Công đồng Vaticanô II nói về những liên hệ giữa thế quyền và thần quyền như sau: Tuỳ theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy trì được sự cộng tác lành mạnh, cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu hơn (Gaudium et Spes # 76). Dựa vào lời Chúa dạy thì Thiên Chúa và Xêda, hay nói cách khác, thần quyền và thế quyền, đều có những đòi hỏi nơi người công dân. Bằng cách bảo nộp thuế cho Xêda, Chúa muốn bảo toàn quyền hợp pháp của Xêda để duy trì trật tự và ích lợi chung cho xã hội loài người. Mặc dầu là chính phủ thuộc địa, nhưng trong giai đoạn thuộc địa đó, chính quyền thuộc địa cũng cung ứng được những tiện ích nào đó cho người dân.

Người công dân trách nhiệm thì tuân hành luật lệ hợp pháp của quốc gia để duy trị trật tự và lợi ích công cộng. Ðóng thuế là phương tiện giúp chính phủ bảo toàn an ninh và an sinh xã hội. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong việc nộp thuế Ðền thờ để người khác khỏi vấp phạm, mặc dù cắt nghĩa theo luật đền thở thì Chúa được miễn. Chúa bảo ông Phêrô: Con hãy ra biển thả câu, con cá nào bắt được trước tiên thì hãy mở miệng nó ra, lấy một đồng bạc về mà nộp xuất thuế của Thày và của con (Mt 17:27). Tuân giữ luật dân sự, Mẹ Maria và thánh Giuse đã làm cuộc hành trình về Bêlem, để khai sổ nhân danh theo lệnh hoàng đế Au-gút-tô (Lc 2:1-7).

Việc tuân giữ luật pháp dân sự giả thiết rằng luật pháp đó dựa theo và phù hợp với luật Thiên Chúa. Còn khi mà luật pháp dân sự đi ngược lại luật Thiên Chúa, thì người công giáo theo tiếng lương tâm ngay thẳng phải bày tỏ lập trường. Người công giáo gồm cả hàng giáo sĩ, có hai quyền công dân: công dân nước trần thế và công dân nước Trời. Là  công dân của nước trần thế, người công giáo cần đóng thuế và tuân hành luật pháp công bình của quốc gia, xã hội. Ngoài ra dựa theo lời Chúa dạy, Giáo hội cũng khuyến khích người công giáo, với tư cách là công dân của một quốc gia, tham gia vào guồng máy chính trị của xã hội.

Tuy nhiên tập thể Giáo Hội, cũng như hàng giáo sĩ, thành phần ưu tú của Giáo hội, không chủ trương tham chính (Giáo luật 285,3), cũng không đem chính trị đảng phái vào Giáo hội bởi vì Giáo hội là một thực thể siêu việt, đứng trên mọi thể chế chính tri. Giáo hội mang tính chất trường tồn, còn đảng phái cầm quyền chỉ có tính chất giai đoạn, nay còn mai mất khi có việc đổi chủ. Công Ðồng Vaticanô II khẳng định về Giáo hội và thể chế chính trị như sau: Giáo hội không cách nào bị đồng hoá với một cộng đoàn chính trị và cũng không cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào vì Giáo hội vừa là dấu chỉ vừa là bảo đảm cho tính cách siêu việt của con người (Gaudium et Spes # 76).

Khi Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II viếng thăm Mỹ Châu, Ngài cảnh giác một linh mục là thành viên Hạ viện ở một quốc gia Bắc Mỹ và một linh mục bộ trưởng chính phủ tại một quốc gia ở Trung Mỹ rằng nếu muốn tiếp tục làm linh mục thì phải bỏ việc tham chính. Hai vị đã tuân theo lời Ðức Thánh Cha. Lí do là vì tham chính là làm chính trị. Mà làm chính trị đôi khi phải thủ đoạn và ma giáo. Mà ma giáo và thủ đoạn thì không phù hợp với chức vị và mục vụ linh mục. Ngoài ra để được phiếu của nhóm nọ nhóm kia, linh mục làm chính trị có thể ủng hộ lập trường nào đó, đi ngược lại đường lối của Giáo hội.

Là công dân nước Trời, người công giáo có bổn phận trả cho Thiên Chúa những gì thuộc Thiên Chúa. Ta trả cho Thiên Chúa bằng việc thờ phượng, tin yêu mến Chúa và tuân giữ giới răn Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc góp của xây dựng, sửa sang và dọn dẹp nhà Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc tông đồ để mở mang nước Chúa hầu làm vinh danh Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc bác ái, phục vụ và giúp đỡ tha nhân, hình ảnh của Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho biết phân định thần quyền và thế quyền:

Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa đã đến dạy bảo loài người

phân định giữa thần quyền và thế quyền.

Xin cho luật pháp các quốc gia được phản ảnh luật Chúa.

Còn những nhà làm luật chưa nhận biết Chúa,

xin cho luật pháp họ đạo đạt được phản ảnh luật tự nhiên

đã được ghi khắc trong lương tâm chính trực của họ.

Cũng xin dạy con biết tuân giữ luật pháp công chính

hầu cho trật tự và tiện ích công cộng được bảo đảm.

Và xin dạy con biết tuân hành luật Chúa

để mối liên hệ giữa Chúa và con được tăng triển. Amen.

Về mục lục

CỦA CÉSAR TRẢ CHO CÉSAR,

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Tiền tệ là phương tiện trao đổi mua bán giữa con người với nhau trong đời sống xã hội. Để khẳng định quyền làm chủ của mình, thường mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng.

Đế quốc Rôma có đồng tiền riêng của mình. Đồng tiền này in hình các vị vua trong đế quốc.

César và các hoàng đế trong đế quốc Rôma cho in hình ảnh của mình trên đồng tiền, nhưng Thiên Chúa thì lại in hình ảnh của Ngài nơi muôn loài muôn vật, nhất là nơi con người (x. St 1,27). Điều đó cho thấy, César và các hoàng đế Rôma chỉ có quyền làm chủ trong đế quốc Rôma. Còn Thiên Chúa, thì làm chủ trời đất muôn loài muôn vật, kể cả loài người và trong đó có cả hoàng đế Rôma nữa.

“Cái gì của César thì hãy trả cho César và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Đồng tiền in hình của César thì hãy trả lại cho ông. Trời đất, muôn loài muôn vật và loài người in hình ảnh của Thiên Chúa thì hãy trả về cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dạy như vậy, khi những người biệt phái đến hỏi Ngài: “Thưa Thày, có được phép nộp thuế cho César không?”

Thật công bằng, chính đáng và phải đạo! Ngoài bổn phận phải vâng lời các vua chúa trần gian, Chúa Giêsu còn nhắc con người chúng ta còn phải vâng lời Thiên Chúa. Ngoài nghĩa vụ xây dựng trần thế, con người chúng ta còn phải có bổn phận xây dựng Nước Trời. Vì con người là xác hồn nhập thể, có sự sống đời này và sự sống đời sau…

Quả thật, con người là công dân trong một đất nước thì phải chu toàn nghĩa vụ, bổn phận của người công dân theo như luật pháp quốc gia đã định, một khi luật pháp ấy phù hợp với công ích, không trái ngược với lương tâm và phẩm giá của con người.

Con người cũng là công dân Nước Trời, được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, nên con người có bổn phận phải xây dựng Nước Trời và phải trả lẽ trước Thiên Chúa những gì con người đã lãnh nhận từ nơi Ngài. Từ vua quan cho đến thứ dân, ai cũng phải trả lẽ trước Thiên Chúa, không ai được miễn trừ. Cyrô vua Ba-tư, César hoàng đế Rôma, hay bất kể vua quan trần thế nào cũng thế thôi, tất cả đều phải thần phục Thiên Chúa, tất cả đều phải ra trước tòa Chúa mà chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm.

Lạy Chúa, mất những đồng tiền in hình ảnh của César, người ta tiếc xót, người ta ra công gắng sức tìm kiếm. Tìm lại được người ta vui mừng hớn hở, mời gọi mọi người đến chia vui (x. Lc 15,8-9).

Mất con người mang hình ảnh mình, Thiên Chúa cũng tiếc xót, Thiên Chúa cũng tìm kiếm như chủ chiên băng đèo lội suối đi tìm chiên lạc. Tìm lại được, Thiên Chúa cùng các thần thánh trên trời vui mừng và mở tiệc ăn khao (x. Lc 15,4-7).

Xin cho chúng con ở đời này, đừng bao giờ liều mình phạm tội làm méo mó và hoen ố hình ảnh Chúa nơi chúng con, nhưng xin cho chúng con biết chăm sóc, gìn giữ hình ảnh Chúa nơi chúng con luôn được trong sáng và nguyên vẹn, bằng một đời sống thánh thiện, mến Chúa yêu người và chu toàn bổn phận, để mai ngày chúng con xứng đáng ra trình diện trước tòa Chúa. Amen.

Về mục lục

TRUNG TÍN

Lm Vũđình Tường

Nhóm Pharisiêu và Herodian thoả hiệp, tạm thời để sang bên những khác biệt, cùng nhau tìm cách hãm hại Đức Kitô. Họ đồng í đưa ra câu hỏi, mà theo họ, Đức Kitô trả lời ‘đồng í hay không đồng í‘ đều không tránh khỏi phiền toái lớn. Họ chắc chắn đến độ Đức Kitô keo này sẽ thua đặm, coi như mất hết tiếng tăm và hỗ trợ của đám đông. Câu hỏi gần với chính trị hơn là tôn giáo. Họ hỏi Ngài. Xin cho biết ‘Có nên đóng thuế cho Caesar không?’. Nếu câu trả lời là ‘Nên đóng thuế’, Đức Kitô sẽ mất trắng, mất hết mọi hỗ trợ của dân chúng, vì toàn dân đặt trọn hy vọng nơi Ngài. Lòng tin vào Ngài bị tiêu hủy bởi ai cũng trông đợi Ngài như Đấng Cứu Tinh giúp giải thoát họ khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Nếu Ngài đáp ‘không nên đóng thuế’ nhóm Herodian sẽ tức thời báo cho chính phủ thuộc địa Rôma biết là Đức Kitô đang khuyến khích dân nổi loạn chống lại quân Rôma, như thế máu sẽ chảy, đầu sẽ rơi, thân xác đổ gục, nhà cháy thành tro, phố đầy tiếng bi ai, dân làng than khóc. Họ hí hửng chờ câu trả lời của Đức Kitô. Tập thể lãnh đạo Pharisiêu và Heordian họp hành, bàn tán. Tự tin tập thể luôn đúng. Tập thể sai lầm.Cả tập thể thua cá nhân Đức Kitô.

Biết sự xảo trá của tập thể lãnh đạo. Đức Kitô bảo họ cho coi đồng xu dùng đóng thuế. Ngài hỏi họ, tên và hình của ai trong đồng xu. Họ đáp đó là hình hoàng đế Casear. Đức Kitô nói với họ, ‘Những gì thuộc về Caesar thì trả cho Caesar, những gì thuộc về Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa’ c.16. Gài bẫy Đức Kitô, giờ chính họ rơi vào cái bẫy chính họ giăng ra. Đức Kitô dậy họ hai nhiệm vụ. Thứ nhất, mọi công dân có nhiệm vụ đóng thuế cho chính quyền nơi họ đang cư ngụ. Thứ hai, mọi thụ tạo đều phải tôn thờ Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên chúng. Đức Kitô có lần các xác nhận với một luật gia khi ông hỏi Ngài điều răn nào quan trọng nhất. ‘Mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, và yêu thương đồng loại như chính mình’ Mt 22,37. Đây là nhiệm vụ không phải dành riêng cho Kitô hữu, mà cho toàn thể nhân loại, dù tin Đức Kitô hay không tin cũng cần tình yêu để sống. Đức Kitô nhận biết tâm trí con người, đọc được tư tưởng trong óc, biết rõ cảm xúc trong tim người khác. Làm sao Ngài lại không biết tên và hình của ai trong đồng xu. Ngài hỏi điều đó để chính tập thể Pharisiêu phải bộc lộ điều họ dấu kín trong tâm. Đó là sự gian trá của họ. Môi miệng họ ca tụng ‘Đức Kitô là Đấng công chính, giáo huấn của Ngài thuộc về Chúa… Ngài không quị lụy ai’ c.18 nhưng trong tâm họ tìm cách triệt hạ Đức Kitô. Họ thần phục quân đô hộ Roma, ham thích quyền hành, lợi lộc quân đô hộ ban phát. Bởi ham lợi hơn thương dân, thích lợi lộc hơn trung tín nên họ bất trung, thất tín với Thiên Chúa. Họ không hoàn thành trách nhiệm phục vụ dân, trái lại còn chèn ép dân với sưu cao, thuế nặng. Tăng thuế Đền Thờ, nâng cao vật giá dâng hiến lễ vật. Đứng ngay trong Đền Thờ bàn thảo việc chính trị, việc đóng thuế cho hoàng đế Roma. Những việc này làm ô uế Đền Thờ. Đức Kitô có lần nói với họ ‘Không được biến nhà Cha Ta thành hang trộm cướp’ Mt 21,13.

Hàng chữ ghi trên đồng xu có nghĩa ‘Caesar, con chúa Augustus, Thầy Cả Thượng Phẩm’. Chữ khắc nơi đồng xu nói lên tính kiêu ngạo, tự nhận là chúa của mọi người. Dù biết thế nhưng tập thể Pharisiêu yêu thích đồng xu đó, sẵn sàng làm nô lệ cho đồng xu đó. Họ luông mang đồng xu tà thần bên mình, gần trong tâm trí họ. Không nhận biết tên và hình hoàng đế trong đồng xu, Đức Kitô nói cho tập thể Pharisiêu biết hoàng đế Caesar và Augustus là vua trần gian như mọi vị vua khác, không phải là chúa. Với Đức Kitô chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, Đấng tạo dựng vũ trụ và mọi sự trong đó, ngoài ra không còn chúa nào khác. Của cải vật chất cần thiết cho cuộc sống nhưng con người đừng làm nô lệ cho chúng. Nó được tạo dựng nên cho ta dùng. Chúng ta xin ơn biết tôn thờ một Chúa duy nhất, trung tín với giao ước tuyên thệ khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, và lập lại điều hứa này mỗi khi tuyên xưng đức, tin tóm tắt trong kinh Tin Kính, thường tuyên xưng mỗi Chúa Nhật và các ngày lễ trọng.

Về mục lục

ĐỜI – ĐẠO RẠCH RÒI

Trầm Thiên Thu

Rạch ròi là rõ ràng, rành mạch, không gây lầm lẫn cái này với cái kia. Đó là cách phân định cần thiết để tránh phiền toái trong mọi lĩnh vực, cả đời thường và tinh thần. Không chỉ cần rạch ròi với người khác mà còn phải rạch ròi với chính mình, vì con người luôn bị giằng co giữa trái và phải. Người can đảm mới có thể rạch ròi.

Một trong những thứ rất cần rạch ròi hiện nay là đại dịch corona. Tạ ơn Chúa cho Việt Nam được an toàn, mau qua 2 đợt dịch, nhưng chớ khinh suất, vì Việt Nam vừa phát hiện 2 trường hợp nhiễm covid tại Saigon và Bạc Liêu. Chúng ta cũng đừng quên nhiều nơi trên thế giới vẫn còn trong tình trạng phức tạp với loại virus “chết người” này.

Trong xã hội Việt Nam ngày nay, người ta không muốn rạch ròi, thích giấu giếm, lén lút, chấm mút, mưu mô mờ mịt,… thích đi đêm hơn đi ngày. Kẻ ưa bóng tối là kẻ “không hành động theo sự thật.” (1 Ga 1:6) Mắt “yếu” thì sợ ánh sáng. Ai cũng có thể suy ra rằng chỉ có kẻ xấu mới không thích ánh sáng, minh bạch.

Được làm người, dù đã lớn hay còn nhỏ, chắc chắn không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là quyền làm chủ – quyền cơ bản nhất của mỗi con người. Lĩnh vực nào cũng có quyền sở hữu đặc trưng, chẳng hạn về tài chính, người ta có loại quyền gọi là “sở hữu chéo” (ngân hàng này sở hữu ngân hàng khác, doanh nghiệp này sở hữu doanh nghiệp khác,… mối quan hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp – khái niệm này xuất hiện từ thập niên 1980). Kể ra cũng lạ thật.

Con người cũng được Thiên Chúa ban cho những loại quyền riêng. Ngài ban cho chúng ta quyền quản lý thời gian và quyền tự do, chúng ta được quyền sở hữu nhưng không được làm chủ. Chúa Giêsu xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thật vậy, khi nói về một tài năng nào đó, người ta dùng chữ “thiên phú” – tức là “trời cho.” Tác giả sách Giảng Viên cảm nhận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người.” (Gv 3:12-14) Vấn đề quan trọng là ai đó có tài năng mà còn “biết kính sợ Chúa” hay không, biết khiêm nhường hay không. Nếu cứ ảo tưởng thì “chết chắc” thôi. Quả thật, rất cần phải rạch ròi.

Ngày xưa, Đức Chúa phán với kẻ Ngài đã xức dầu là vua Kyrô: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa.” (Is 45:1) Ngài giải thoát ai thì người đó thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta cũng được Thiên Chúa cứu độ bằng Giá Máu của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài, do đó chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô, thuộc dòng dõi Ápraham và được thừa kế. (Gl 3:29) Bất cứ ai thuộc về Thiên Chúa thì phải vâng lời Ngài. (Ga 8:47) Đó là vấn đề quan trọng, cần nhận thức rạch ròi.

Cái gì cũng có nguyên nhân. Thiên Chúa giải thích: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Israel, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác.” (Is 45:4-6) Thiên Chúa nhấn mạnh tính cao cả duy nhất của Ngài bằng cách lặp đi lặp lại: “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác.” Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chỉ được phép tôn thờ một mình Ngài mà thôi. Và thật diễm phúc, chúng ta đã nhận ra điều này, để rồi chúng ta đang tôn thờ Ngài và không ngừng nỗ lực học bài học yêu của Ngài. Cũng như dân Israel, chúng ta được trở nên dân riêng của Ngài.

Chính Thiên Chúa cũng đã động viên và xác nhận với dân Israel trước đó: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1) Và Ngài cũng đang nói với mỗi chúng ta như vậy. Dân Israel là “vật sở hữu” của Thiên Chúa, và có cả mỗi chúng ta nữa. Ngày nay cũng có những thứ thuộc về Thiên Chúa, tương tự như Dân Riêng vậy, thuộc quyền sở hữu của Ngài. Ai dám “đụng chạm” đến những gì của Chúa thì sẽ “có vấn đề” ngay thôi. Không hẳn là Ngài trừng phạt, mà Ngài muốn làm cho chúng ta tỉnh ngộ. Kinh Thánh nói: “Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của tri thức. Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và lời nghiêm huấn.” (Cn 1:7)

Thời gian là cõi phù vân, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời ở dưới bầu trời này. Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, tức là tận hưởng những gì mình sở hữu, đó cũng là tặng phẩm Chúa ban rồi. (x. Gv 3:1-12) Vâng, tất cả chỉ là phù vân, chúng ta “chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết,” (Tv 49:13) chẳng có gì bền vững, chỉ có Thiên Chúa là Đấng vạn đại trường tồn. (Tv 102:25) Phải biết Chúa vô hạn và biết mình hữu hạn, biết rạch ròi như vậy để mà hết lòng tôn thờ, tuyên xưng và tán tụng Ngài. Thánh Vịnh gia mời gọi mọi người và mọi dân tộc: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” (Tv 96:1)

Đó không chỉ là trách nhiệm và bổn phận mà còn là quyền lợi của chúng ta, bởi vì việc chúng ta ca tụng Chúa cũng chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chính chúng ta. Rõ ràng Thiên Chúa quá đại lượng. Ca tụng Thiên Chúa cũng chính là niềm hạnh phúc của mỗi chúng ta: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao.” (Tv 96:3-5) Ca tụng Chúa khi thuyền đời chúng ta xuôi chèo mát mái thì đã đành, tất nhiên thôi, nhưng ca tụng Chúa ngay cả khi thuyền đời chúng ta không chao nghiêng vì sóng to, gió lớn, đó mới là điều khó thực hiện, thế nhưng lại có giá trị cao. Nhiều vị thánh đã chứng minh điều đó, cụ thể là CP thiếu niên Carlo Acutis mà Giáo Hội vừa tôn phong ngày 10-10-2020.

Con người được Thiên Chúa chăm sóc và ban cho mọi thứ, cả vật chất và tinh thần, nhưng người ta lại cứ tưởng là “điều dĩ nhiên” nên không tạ ơn Ngài, rồi lại còn “so đo” vì cho rằng mình không may mắn như người khác. Thật ra đó là ý mình chứ không phải Ý Chúa. Quả thật, Thiên Chúa luôn xứng đáng để chúng ta xưng tụng mọi nơi và mọi lúc: “Hỡi các dân các nước, hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng.” (Tv 96:7-10) Thiên Chúa nhân từ, nhưng nghiêm minh, rất rạch ròi.

Thiên Chúa tạo tác muôn loài, nghĩa là Ngài sở hữu tất cả, còn chúng ta trắng tay. Chúa Giêsu xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Thế nên chúng ta không thể không tôn vinh Ngài và không tạ ơn Ngài. Chúng ta không có quyền đòi hỏi, có ai đau khổ bằng ông Gióp chưa? Thế mà trong lúc đau khổ cùng cực, mất hết mọi thứ, từ của cải tới con cái, nhưng ông Gióp vẫn “không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Thiên Chúa nói với Satan về ông Gióp: “Chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người VẸN TOÀN và NGAY THẲNG, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.” (G 1:8) Đó là tấm gương lớn sáng ngời mà mỗi tín nhân cần phải soi hằng ngày. Chưa đến nỗi nào mà chúng ta đã than trách đủ thứ, vậy thì làm sao có thể “xách dép” theo Thánh Gióp? Làm việc gì cũng mệt mỏi, vác thập giá không thể thoải mái, chắc chắn như vậy. Cái Khó nào cũng Khổ, nhưng nhờ Khổ mới nên Khôn. Nhóm 3K kỳ lạ: Khó – Khổ – Khôn. Thảo nào người ta nói: “Cái khó ló cái khôn.”

Tạ ơn và cầu nguyện là bổn phận của chúng ta, không chỉ cho mình mà còn cho tha nhân, đồng thời cũng cần biết cảm ơn nhau nữa. Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô.” (1 Tx 1:2-3) Tình liên đới Kitô giáo thật tuyệt vời, không chỉ với người còn sống mà cả với người đã qua đời – các thánh và các linh hồn.

Vừa giải thích vừa xác định, Thánh Phaolô phân tích: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em.” (1 Tx 1:4-5) Lời thánh nhân nói với giáo đoàn Thêxalônica cũng là nói với chính chúng ta – mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận, mỗi chủng viện, mỗi tu viện,…

Người ta nói: “Nhà có gia phong, nước có quốc pháp.” Gia đình nào cũng có nề nếp riêng, quốc gia nào cũng có hiến pháp – nhưng hiến pháp phải hợp lòng dân, không thể tự ý ra luật “tùy hứng” rồi bắt người khác thực hiện. Luật có sau con người. Luật vị nhân sinh, luật vì con người. Luật giúp con người sống tốt hơn và giúp duy trì trật tự. Nên giữ luật nhưng đừng câu nệ luật, giữ luật “chữ đỏ” theo kiểu Biệt Phái. Cổ nhân có câu: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên.” Nghĩa là trong ba người cùng đi cũng có một người là thầy, có khả năng hướng dẫn hai người kia, tức là có thể “làm luật” để duy trì trật tự, vì lợi ích chung.

Trình thuật Mt 22:15-21 (≈ Mc 12:13-17; Lc 20:20-26) cho biết: Một hôm, nhóm Pharisêu bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Không chỉ vậy, họ còn cấu kết với phe Hêrôđê, gã cáo già nham hiểm mà hèn nhát. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” Đó là những kẻ mặt người dạ thú. Thật đáng kinh tởm!

Vải thưa không thể che mắt thánh. Tiền nhân ví von chí lý như vậy. Chúa Giêsu thấu suốt lòng con người, Ngài biết họ có ác ý nên Ngài nói thẳng: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình? Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ thường xuyên bị Chúa Giêsu trách mắng thẳng thừng, thậm chí là nguyền rủa, thế mà họ vẫn chai mặt, lì lợm. Và rồi họ thản nhiên đưa cho Ngài một quan tiền. Ngài vừa chỉ đồng tiền vừa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp tỉnh queo: “Của Xêda.” Thật là trơ trẽn, hết nước nói. Bấy giờ, Ngài bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Câu trả lời của Chúa độc đáo quá! Nghe vậy, họ ngạc nhiên lắm, nhưng đành lẳng lặng bỏ đi. Cái gì của ai thì trả cho người đó, không phải của mình thì đừng tham lam, không chỉ KHÔNG NÊN mà là CẤM tuyệt đối.

Dù vật chất hay tinh thần, bất cứ thứ gì của người khác thì không thuộc quyền sở hữu của mình, chớ có “ước muốn” hoặc rờ tới. Thiên Chúa đã nghiêm cấm trong Thập Giới: Chớ lấy của người và chớ tham của người. (Giới Răn 7 và 10) Rất rạch ròi. Thế nhưng có một số người lại quan niệm lệch lạc thế này: “Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh.” Nguy hiểm vô cùng! Cuộc sống có nhiều dạng sở hữu, nhưng phải phân biệt rạch ròi giữa Đời và Đạo: Cái gì thuộc về trần tục và cái gì thuộc về tâm linh. Đừng lầm lẫn mà lấy râu ông nọ đem cắm cằm bà kia. Vâng lời quyền bính thế gian cũng là vâng lời Thiên Chúa – nếu khoản luật đó phù hợp với công bình và bác ái. Chính Thiên Chúa đã minh định: “Trên hết, hãy yêu chuộng Chân Lý và Bình An.” (Dcr 8:19)

Thật vậy, Thánh Phaolô đã đề cập nhà chức trách: “Làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm.” (Rm 13:3-5) Ở đây là “lương tâm ngay lành, chân chính.” Cũng nên lưu ý loại “lương tâm chai cứng” vì bị lệch lạc, không đủ mức phân biệt phải – trái. Loại lương tâm này rất nguy hiểm, bởi vì đã mất cảm thức tội lỗi. Những người thuộc tổ chức IS (Islamic State – Nhà nước Hồi giáo) giết người dã man vì họ cho đó là “điều chính nghĩa.” (sic!) Thậm chí họ còn hành hạ cả các trẻ em vô tội. Đã có đợt họ hành hạ dã man khoảng 70.000 trẻ em vô tội. Niềm tin tôn giáo của họ lệch lạc nên họ bất nhân, loại đó không phải là tín ngưỡng đúng nghĩa.

Qua một tâm thư, Thánh Phaolô đã dặn dò đệ tử Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người.” (Tt 3:1-2) Những mệnh lệnh cách rất mạnh mẽ, cả thể xác định hoặc và phủ định – Phải và Đừng.

Thế gian là tạm bợ. Tất cả là phù vân. Mọi thứ sẽ qua đi. Ngay cả những gì chúng ta đang sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi, kể cả sự sống: “Chúa lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.” (Tv 104:29) Những gì chúng ta sở hữu và thuộc về chúng ta vĩnh viễn là nhân đức. Loại “vật sở hữu” này rất quan trọng, gọi là công trạng, vì đó sẽ là chứng cớ hùng hồn bênh vực cho chính chúng ta, chỉ nhờ đó mà chúng ta được trở thành Công Dân Nước Trời – dĩ nhiên trước tiên phải nhờ công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Có Chúa là có tất cả, Thánh LM TS Tôma Aquinô rất khôn ngoan khi xác định: “Con chỉ muốn Chúa mà thôi!” Đó là điều duy nhất mà mỗi chúng ta phải nỗ lực để khả dĩ “sở hữu” mãi mãi, và là trạng sư cho chúng ta khi chúng ta trình diện Thiên Chúa.

Chúa Nhật áp chót của tháng 10 là ngày Khánh nhật Truyền giáo – ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và dâng hiến, nói đơn giản là “đi tu” – tất nhiên không phải là “đi tù.” Ngày Thế giới Truyền Giáo được Đức Piô XI khai sinh từ năm 1926. Sứ điệp Khánh nhật Truyền giáo năm 2020: “Dạ, con đây, xin sai con đi.” (Is 6:8)

Lạy Thiên Chúa duy nhất, xin dạy chúng con nhận biết Ngài và nhận biết chính chúng con để một niềm tin yêu đến hơi thở cuối cùng. Tất cả là của Ngài và thuộc về Ngài, chúng con chỉ là cát bụi, xin triệt tiêu “cái tôi” tồi tệ của chúng con và xin liên kết mọi người “nên một” (Ga 17:20-23) theo Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 29 TN_A

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm A nêu lên một vấn đề cách tinh tế: mối tương quan giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời.

Is 451, 4-6

Bài Đọc I trích từ I-sai-a đệ nhị, trong đó vị ngôn sứ an ủi những người lưu đày ở Ba-by-lon. Ông thoáng thấy vua Ky-rô nước Ba-tư là dụng cụ Thiên Chúa chọn để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh lưu đày tại Ba-by-lon.

1 Th 11-5

Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Đây là bản văn Tân Ước đầu tiên làm chứng về sức sống mãnh liệt của Giáo Hội tiên khởi. Thánh nhân ca ngợi đức tin, đức cậy và đức mến của họ.

Mt 2215-21

Trong cuộc tranh luận với nhóm Biệt Phái, Đức Giê-su đưa ra câu trả lời cho một vấn đề nan giải giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.

BÀI ĐỌC I (Is 451, 4-6)

Bản văn này là một trong nhiều sứ điệp an ủi mà vị ngôn sứ biệt danh I-sai-a đệ nhị gửi đến những người Do thái lưu đày tại Ba-by-lon.

Vị ngôn sứ này, trên mười năm, từ 550 đến 539 trước Công Nguyên, đã tìm cách an ủi đồng bào của mình, họ nhục chí trước cuộc lưu đày tưởng chừng như vô tận này. Ông hứa với họ sự giải thoát sắp gần đến. Niềm hy vọng của ông nhắm đến vua Ky-rô nước Ba-tư.

Vào năm 553 trước Công Nguyên, vua Ky-rô đã chiến thắng vua Mê-đi là Astyage. Sau khi đã thống nhất quyền lực Ba-tư và quyền lực Mê-đi, ông xuất quân chinh phục miền Tiểu Á. Vào năm 539, ông tiến quân vào kinh thành Ba-by-lon, chấm dứt thời kỳ thống trị của Đế Quốc Ba-by-lon. Ngay cả trước khi những cuộc chiến thắng ngoạn mục của vua Ky-rô vang dội khắp nơi, vị ngôn sứ lưu đày đã loan báo rằng Thiên Chúa có ý định sử dụng vua Ky-rô để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh tù đày tại Ba-by-lon.

1. Đức Chúa đã chọn vua Ky-rô Ba tư, vua ngoại giáo (451)

Sấm ngôn thật sự gây hoang mang. Làm thế nào Đức Chúa nhờ đến một vị vua ngoại giáo để giải thoát dân Chúa chọn? Vị ngôn sứ xua tan những thành kiến của những người lưu đày khi khẳng định với họ đó là cách thức Thiên Chúa hành động. Ông quả quyết vua Ky-rô đã được Đức Chúa tuyển chọn và thánh hiến để trở nên khí cụ trung thành của Thiên Chúa.

Phần đầu sấm ngôn được trình bày như một bản văn phong vương, đồng hóa vua Ky-rô với một vị vua của dân Ít-ra-en:

“Đức Chúa phán với kẻ Người đã xức dầu, với vua Ky-rô

-Ta đã cầm lấy tay phải nó,

để bắt các dân tộc suy phục nó” (45: 1a).

Đức Chúa xức dầu thánh hiến vị vua mà Ngài đã tuyển chọn. Ngài “cầm lấy tay phải”, nghĩa là Ngài trợ giúp và bảo vệ vua, đảm bảo rằng vua sẽ chiến thắng mọi quân thù.

Trong sấm ngôn của mình, vị ngôn sứ xác định Đức Chúa hứa với vua Ky-rô là vua sẽ chiến thắng mọi quân thù như thế nào:

“Ta tước khí giới của các vua,

mở toang các cửa thành trước mặt nó,

khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (45: 1b).

Đây cốt là các cổng thành danh tiếng bằng đồng của kinh thành Ba-by-lon. Quả thật, chúng mở toang trước vua Ky-rô mà không phải tốn một làn tên mũi kiếm nào. Thành đô Ba-by-lon bị sụp đổ mà không cần phải giao chiến.

2. Đức Chúa, Chúa Tể của mọi biến cố (454-6)

Chính vì lợi ích của dân Ngài mà Đức Chúa dẫn đưa vua Ky-rô từ chiến thắng này đến chiến thắng khác:

“Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,

và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en,

Ta đã gọi ngươi đích, đã ban cho ngươi một tước hiệu,

dù ngươi không biết Ta” (45: 4).

Ngài “gọi đích danh vua”, nghĩa là Ngài trao phó cho vua một sứ mạng (đây là diễn ngữ Kinh Thánh được dùng để chỉ ơn gọi). Ngài ban cho vua một tước hiệu (có thể là tước hiệu “Đấng được xức dầu” hay “người mục tử của Ta”, được ngôn sứ trích dẫn ở nơi khác) dù vị vua ngoại giáo này không biết Ngài.

Quả thật, vua Ky-rô hành xử như một người được Đức Chúa tuyển chọn. Vua tỏ ra mình hào hiệp : chiến thắng vua Mê-đi là Astyage, ông để cho vua này được sống, chiến thắng vua Ba-by-lon là Crésus, ông cũng hành xử như thế. Ông không gây bất kỳ thiệt hại nào đối với thành đô Ba-by-lon. Ông kính trọng tôn giáo của kẻ bại trận.

Dù thế nào vị ngôn sứ quả quyết chỉ một mình Đức Chúa là Chúa Tể của mọi quyền bính chính trị, chính Ngài ban quyền lực, chính Ngài hướng dẫn mọi biến cố:

“Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác ;

chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta” (45: 5)

Đức Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái mà còn là Thiên Chúa của muôn dân nước. Ngài không lệ thuộc vào một quyền lực trần thế nào, trái lại mọi quyền bính đều xuất phát từ Ngài.

“Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,

để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng

chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.

Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (45 : 6).

Dù có ‎ý thức hay không, họ đều là khí cụ trong tay Ngài để thi hành chương trình cứu độ của Ngài. Đó cũng là lời công bố của Đức Giê-su với quan tổng trấn Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19: 11).

BÀI ĐỌC II (1Th 11-5)

Với Chúa Nhật hôm nay, chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Thánh nhân viết thư này từ Cô-rin-tô vào năm 51. Đây là thư đầu tiên của thánh Phao-lô và cũng là bản văn Tân Ước xưa nhất. Được viết chưa tới hai mươi năm sau cái chết của Đức Giê-su, thư này thật sự là một chứng liệu quý báu minh chứng niềm tin của Giáo Hội tiên khởi.

1. Lời chứng

Phần đầu thư cung cấp một lời chứng đáng chú ý về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi. Trước hết, đây là một trong những thư thường hằng liên kết danh xưng “Thiên Chúa” với tước hiệu “Cha”“Thiên Chúa là Cha” và “Thiên Chúa là Cha chúng ta”. Tiếp đó, danh xưng “Chúa Giê-su Ki-tô”, nghĩa là Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô” (Mê-si-a) và là “Chúa”, tước hiệu này bao hàm thần tính và vinh quang của Ngài. Cựu Ước dành riêng tước hiệu “Chúa” này cho Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cuối cùng, quyền năng của Chúa Thánh Thần được bày tỏ trong công việc loan truyền Tin Mừng: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà cón có quyền năng, có Thánh Thần”. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa là nét độc đáo của Ki-tô giáo.

Mặc khác, ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên, xuất hiện thành ngữ Hy-lạp: “Ecclesia” (“Hội Thánh”), để chỉ một cộng đoàn Ki-tô hữu. Để loan báo Giáo Hội tương lai của mình, Đức Giê-su thật ra đã sử dụng thành ngữ Híp-ri: “Qahal”. Thánh Mát-thêu là tác giả Tin Mừng duy nhất đã đặt trên môi miệng Đức Giê-su thành ngữ này (Mt 16: 18; 18: 17). Thành ngữ qahal chỉ “đại hội” của dân Do thái trong hoang địa (Đnl 4: 9-13; 9: 10; 18: 16; 23: 2; 31: 30) hoặc của cộng đồng phụng vụ (1Sb 13: 2; 28: 8; 2Sb 20: 3; 30: 1; Nkm 1: 12). Vả lại, hai thành ngữ Do thái và Hy lạp, giống nhau bởi ngữ căn của chúng: thành ngữ Do thái, qahal, bao gồm khái niệm kêu gọi, triệu tập, trong khi thành ngữ Hy lạp ecclesia phát xuất từ động từ kaleô, kêu gọi, quy tụ. Cả hai đều diễn tả ‎chính xác thực tại Hội Thánh: không tự mình hình thành nên, nhưng đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, tập hợp lại hay quy tụ lại thành dân Thiên Chúa.

Nếu thánh Phao-lô gọi các cộng đoàn địa phương là Hội Thánh, thánh nhân luôn luôn hiệp nhất các cộng đoàn này vào Hội-Thánh Mẹ, là Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hình thành nên một Hội Thánh duy nhất, mà thánh nhân sẽ gọi là “thân thể của Đức Ki-tô”.

2. Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca

Thê-xa-lô-ni-ca là thủ phủ của miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai của Châu Âu mà thánh Phao-lô loan báo Tin Mừng. Thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê cũng thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a.

Thê-xa-lô-ni-ca là một thành phố biển và thương mại phồn vinh. Thê-xa-lô-ni-ca là tên mà một trong các tướng lãnh của đại đế A-lê-xan-đê lấy tên vợ của mình đặt tên cho thành phố này. Ở đây có một cộng đồng kiều bào Do thái sinh sống. Họ có một hội đường. Trong sách Công vụ, thánh Lu-ca đã tường thuật những diễn biến của việc thành lập Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca này vừa ngắn gọn vừa gian nan (Cv 17: 1-9). Chính trong hội đường Do thái này mà thánh Phao-lô lên tiếng ba ngày sa-bát liên tiếp.

Lời rao giảng của thánh nhân được vài người Do thái và một số đông người Hy-lạp hoan hỉ đón nhận, trái lại, gây phẫn nộ cho cộng đoàn Do thái ở đây. Họ gây náo loạn trong thành phố đến nổi thánh Phao-lô và bạn đồng hành của ngài là ông Xi-la buộc phải vội vã rời bỏ thành phố ngay đêm ấy. Thánh Phao-lô trốn chạy đến Bê-roi-a và từ đó đến A-thê-na bằng đường biển. Lo lắng vì đã để lại một cộng đoàn non trẻ, niềm tin chỉ vừa mới bén rễ, ấy vậy đã phải chịu nhiều phiền nhiễu rồi, thánh nhân khẩn khoản xin Ti-mô-thê trở lại Thê-xa-lô-ni-ca để ủy lạo những người Ki-tô hữu non trẻ này. Khi gặp lại thánh Phao-lô lúc đó ở Cô-rin-tô, Ti-mô-thê đem đến cho thánh nhân những tin tức đầy khích lệ: Hội Thánh non trẻ nhưng thật kiên vững.

Vui mừng và an tâm, thánh Phao-lô viết thư thứ nhất này. Thư này cùng với thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, chứa chan những lời trìu mến nhất của thánh nhân.

3. Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê

Theo thể thức thư tín vào thời đó, một hay nhiều người đồng k‎ý tên vào trong cùng một bức thư: “Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê”. Xin-va-nô cũng được gọi Xi-la trong sách Công Vụ và sau này trở thành thư k‎ý của thánh Phê-rô ở Rô-ma (1Pr 5: 12). Vào lúc này, ông thay thế ông Ba-na-bê bên cạnh thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân chia tay với Ba-na-bê ở Cô-rin-tô. Còn Ti-mô-thê là một trong những người bạn đồng hành trung thành nhất của thánh Phao-lô. Chúng ta gặp thấy tên ông bên cạnh tên thánh Phao-lô trong sáu bức thư sau này.

Tiếp đó là tên người nhận thư: “xin gửi thư này cho Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Chúng ta lưu ‎ ý việc chuyển từ số ít tập thể: “Hội Thánh” đến ngôi thứ hai số nhiều: “Chúc anh em…”

4. Thiên Chúa là Cha chúng ta và là Chúa Giê-su Ki-tô

Đây thật sự là hoàn toàn mới mẻ. Cộng đoàn Ki-tô hữu không chỉ ở trong Thiên Chúa là Cha, nhưng cũng ở trong Đức Giê-su Ki-tô được công bố là Chúa. Ngay từ những hàng đầu tiên của thư đầu tiên này, chúng ta gặp thấy biểu thức tiêu biểu của thánh Phao-lô: “trong Đức Giê-su Ki-tô”, thường trở đi trở lại trong các thư của thánh nhân. Đây là biểu thức mấu chốt bày tỏ cuộc sống nội tâm của thánh nhân, cũng như tính năng động tông đồ của ngài.

5. Ân sủng và bình an

Lời chào đầu thư liên kết lời chào của người Do thái: “bình an” (“shalom”) với lời chào của người Hy-lạp: “ân sủng” (“charis”). Thánh nhân sẽ sử dụng lời chào này trong tất cả các thư của ngài, ngoại trừ hai bức thư gửi cho Ti-mô-thê, trong đó thánh nhân thêm vào “lòng thương xót”“ân sủng, lòng thương xót và bình an”. Thật ra, sự liên kết của hai thành ngữ này vốn đã hiện diện trong Do thái giáo rồi. Chúng ta gặp thấy điều này trong sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em. Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến amh em và dủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6: 24-26). Lời nguyện này tái xuất hiện trong các sách Khải Huyền Do thái như sách Hê-nốc 1: 4: “Nguyện xin Thiên Chúa ban cho anh em ân sủng và bình an”, cũng như trong các lời nguyện của cộng đồng Qum-rân. Nhưng thánh Phao-lô tô đem lại cho thành ngữ này sự giàu có của Ki-tô giáo. Ngài viết cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).

6. Cảm tạ Thiên Chúa

“Chúng tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa khi nghĩ đến anh em”. Sau này, hầu như các thư của ngài, thánh Phao-lô bắt đầu với lời “cảm tạ” hay “chúc phúc” theo cách Do thái. Trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca này, thánh nhân đặc biệt khai triển lời cảm tạ. Ngài diễn tả niềm vui của mình vì biết các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn một mực trung thành và vững mạnh bất chấp những phiền nhiễu mà những người Do thái gây ra cho họ.

7. Ba nhân đức đối thần

“Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những nghịch cảnh anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô”. Một lần nữa, bản văn Tân Ước đầu tiên này cho thấy một trong những lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như về phương diện thần học, đó là khám phá ở đây lời phát biểu ba nhân đức căn bản mà sau này sẽ được gọi là ba nhân đức đối thần. Ở Tx 5: 8 cũng như ở Col 1: 4-5, thánh nhân sẽ trích dẫn ba nhân đức này theo cùng một trật tự: đức tin, đức mến và đức cậy, còn ở 1Cr 13: 13 theo một trật tự khác: đức tin, đức cậy và đức mến.

8. Chiều kích Ba Ngôi

Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đa số đều xuất thân từ lương dân. Thánh nhân nhấn mạnh họ cũng thuộc về dân Chúa chọn, cùng một tước hiệu như những đồng đạo của họ xuất thân từ Do thái. Từ đây sự tuyển chọn của Thiên Chúa mở rộng cho hết mọi người. Nhưng nhất là thánh nhân thán phục những thành quả đáng ngạc nhiên ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ không chỉ là hoa trái do lời rao giảng Tin Mừng của thánh nhân, nhưng còn là tác động của Chúa Thánh Thần nữa.

Trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan phàm nhân, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2: 1-4). Thật ra, đây là điều mà thánh nhân đã nói với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca rồi: “Khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng cho anh em , thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa”.

TIN MỪNG (Mt 2215-21)

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất nổi tiếng được cả ba Tin Mừng nhất lãm thuật lại. Lời công bố của Đức Giê-su: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” đã được biện luận như một sự phân biệt giữa hai thế lực, tôn giáo và trần thế. Biện luận này gợi lên nhiều áp dụng thực tiễn khác nhau qua nhiều thế kỷ.

Trong bối cảnh trực tiếp, lời công bố của Đức Giê-su được ghi từ một trong những cuộc tranh luận với nhóm Biệt Phái vào những ngày cuối cùng sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem trước cuộc Tử Nạn của Ngài: “Nghe các dụ ngôn Ngài kể, các thượng tế và người Biệt phái hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ” (Mt 21: 45).

Những người Biệt Phái bàn mưu tính kế với nhau tìm cách gài bẫy để Đức Giê-su lỡ lời mà tố cáo Ngài. Họ cấu kết với phe Hê-rô-đê, một đảng phái chính trị, được thiết lập từ vua Hê-rô-đê Cả, luôn luôn sát cánh với chính quyền Rô-ma. Những người Biệt phái hy vọng phe Hê-rô-đê làm chứng về lời của Đức Giê-su ngõ hầu có thể tố cáo Ngài.

1. Âm mưu thâm độc

Rào trước đón sau bằng những lời “đường mật”, họ tán dương những lời dạy chí công vô tư của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Chữ “đường lối” là từ ngữ tôn giáo, thành ngữ này có cội rễ trong các Thánh Vịnh, đặc biệt Tv 119, trình bày hai con đường, một dẫn đến việc thực thi đức công chính và một dẫn đến sự hư mất.

Bất chấp ác ý được khéo léo bọc trong những lời ca ngợi, thật ra những lời này diễn tả chính xác nhân cách của Đức Giê-su trong những lời dạy của Ngài. Cuối cùng, viện cớ soi sáng lương tâm của mình, họ nêu câu hỏi có chủ ý gài bẫy Ngài: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da, hoàng đế Rô-ma hay không?”

Vào thời đó, miền Giu-đa có một hoàn cảnh đặc thù. Kể từ khi vua Ác-khê-lao, con của vua Hê-rô-đê Cả, bị hoàng đế Au-gút-tô phế truất vào năm 6 Công Nguyên, miền Giu-đa được đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền Rô-ma, đại diện tại chỗ là một quan Tổng Trấn. Trong khi đó, miền Ga-li-lê và những địa hạt phương Bắc vẫn dưới quyền cai trị của hai người con khác của vua Hê-rô-đê Cả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa và tiểu vương Phi-líp-phê.

Ở miền Giu-đa, nhóm Nhiệt Thành khuyến cáo không được nộp thuế cho đế quốc, vì đây là cử chỉ thuần phục chính quyền chiếm đóng. Nhóm Sa-đu-xê-ô, hợp tác với chính quyền Rô-ma, ủng hộ việc nộp thuế. Nhóm Biệt phái giữ lập trường trung lập: họ không thừa nhận việc sử dụng bạo lực của nhóm Nhiệt Thành cũng như tinh thần cộng tác của nhóm Sa-đu-xê-ô. Vì thế, “nộp thuế hay không” là một vấn đề có tính thời sự. Nhưng ý định của các địch thủ của Ngài thì hoàn toàn khác: họ muốn đặt Ngài vào trong một vấn đề tiến thoái lưỡng nan để trừ khử Ngài.

Chính quyền Rô-ma ban hành ba thứ thuế thông thường. Trước hết là “thuế điền thổ”, mỗi người đều phải đóng thuế cho nhà nước một phần mười hoa màu đất đai của mình. Đoạn, “thuế lợi tức” gồm một phần trăm lợi tức của mỗi người. Sau cùng là “thuế thân” quy định mọi người nam từ mười bốn đến sáu mươi lăm tuổi và người nữ từ mười hai đến sáu mươi lăm đều phải đóng một quan tiền, tức bằng lương công nhật của một người (Mt 20: 1-2). Thuế trong câu hỏi ở đây là thuế thân.

Nếu Chúa Giê-su trả lời “được phép”, Ngài sẽ mất uy tín đối với quần chúng, vì họ đặt ở nơi Ngài niềm hy vọng giải phóng quốc gia khỏi ách đô hộ Rô-ma. Nếu Ngài trả lời “không được phép”, Ngài tự đặt mình đối đầu với quyền lực Rô-ma, chắc chắn những người thuộc nhóm Hê-rô-đê, thân chính quyền Rô-ma, có cớ tố cáo là Ngài phản động. Nhưng nếu Ngài tránh né không trả lời thì họ đã rào trước đón sau rồi: “Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”.

2. Câu trả lời của Đức Giê-su

Nhưng Đức Giê-su không tránh né câu hỏi hóc búa này. Ngài yêu cầu họ cho Ngài xem “một quan tiền nộp thuế”. Điều này rất quan trọng. Chung quy có hai loại tiền tệ hiện hành ở Giê-ru-sa-lem. Đồng tiền chính thức của đế quốc Rô-ma mang hình và danh hiệu của hoàng đế Rô-ma (Xê-da). Mọi hình thức nộp thuế đều phải được quy định bằng đồng tiền chính thức này. Ngoài ra, còn có “đồng tiền đền thờ”, đặc thù của dân Do thái, được dùng riêng cho phụng tự (đó là lý do tại sao có những người đổi tiền trong sân đền thờ).

Cầm lấy một quan tiền mà họ trao cho Ngài, Ngài hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da”. Ngài trả lời: “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.

Về phương diện lịch sử, đây là lần đầu tiên mà sự phân biệt giữa Thiên Chúa và quốc gia được diễn tả rõ nét nhất. Người Ki-tô hữu vừa là công dân trần thế vừa là công dân Nước Trời. Đứng trước một sự phân biệt ấy người ta dễ rơi vào hai thái độ quá khích: hoặc đặt nặng các giá trị Nước Trời mà xem nhẹ các giá trị trần thế, hay quá chú trọng các giá trị trần thế mà hờ hửng với các giá trị Nước trời.

Câu trả lời của Đức Giê-su “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa” đặt người tín hữu trước hai bổn phận phải chu toàn: công dân trần thế và công dân nước trời. Cả hai không hề loại trừ nhau nhưng cùng đồng hiện diện cùng nhau và có ảnh hưởng hỗ tương với nhau: tìm cách xây dựng Nước Trời qua nổ lực xây dựng trần thế bằng cách thăng tiến nó và làm cho nó thấm nhuần sự hiện diện của Thiên Chúa để cuối cùng dẫn đưa nó về Ngài. Như thế, phục vụ Thiên Chúa qua phục vụ tha nhân rồi. Đó cũng là lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (“Vui Mừng và Hy Vọng”, 1).

Các đối thủ của Đức Giê-su nghĩ là đặt Ngài vào trong thế bí không có lối thoát, nhưng lại nhận ra rằng Ngài quán triệt vấn đề đến nỗi khiến họ phải kinh ngạc. Những kẻ muốn Ngài cứng họng phải gặp thấy ở nơi câu trả lời của Ngài một lời dạy rành mạch thấu tình đạt lý: một sự hiệp nhất cuộc sống của mỗi người tín hữu giữa bổn phận công dân trần thế và bổn phận công dân Nước Trời.

Về mục lục

 

CẢM NGHIỆM VÀ LOAN TRUYỀN

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Truyền giáo là một sứ mạng khó khăn và đầy những chông gai thách đố, nhưng đó lại là một sứ mạng làm nên bản chất của Giáo Hội (x. Ad Gentes 2). Ý thức được tầm quan trọng và những khó khăn của công cuộc truyền giáo, Giáo Hội luôn kêu mời các tín hữu cầu nguyện và cùng cộng tác tham gia, để mệnh lệnh của Đấng Phục sinh được thực hiện trong mọi nền văn hóa và các quốc gia trên thế giới.
 
Trong Tông Huấn Niềm vui Tin Mừng, Đức Giáo Hoàng Phanxiô nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không chỉ là các môn đệ của Đức Chúa Giêsu Kitô mà còn là “các môn đệ truyền giáo”. Đức Cha Michael MulveyGiám mục Giáo phận Corpus Christi – Hoa Kỳ, đã giải thích lời Đức Thánh Cha như sau: “Việc biết và đơn thuần nhận mình là môn đệ có thể bị hiểu lầm là cuộc hành trình đức tin của chúng ta chỉ liên hệ đến một vài nguyên tắc tâm linh, chẳng hạn như tham dự các lớp đào luyện ở các giáo xứ, v.v ….  Trong tất cả những điều ấy chúng ta có thể có cảm giác rằng mình là những môn đệ tốt lành và trung tín, nhưng đó có phải là điều chúng ta cần ngày nay không?”.

Để công việc truyền giáo đem lại hoa trái, người tông đồ trước hết phải cảm nhận được tình Chúa yêu thương nơi bản thân và nơi cuộc sống của mình. Bởi lẽ sứ điệp mà chúng ta cần chuyển tải cho anh chị em là dung mạo của Thiên Chúa giàu lòng thương xót và yêu thương con người. Một khi cảm nhận rõ nét tình yêu của Thiên Chúa nơi chính mình, lời chứng của chúng ta mới có sức thuyết phục. Cũng như một người quảng cáo về một sản phẩm. Lời quảng cáo ấy chỉ có sức lôi cuốn và thu hút khách hàng, nếu chính bản thân người quảng cáo đang sử dụng sản phẩm đó, với quả quyết đây là sản phẩm tốt nhất đối với mình. Đức Cha Mulvey mời gọi các tín hữu: “Là các môn đệ truyền giáo, sứ điệp cao cả nhất mà chúng ta phải chia sẻ và tặng cho những người khác là ‘Thiên Chúa yêu thương bạn’. Thiên Chúa yêu bạn vô cùng.  Thiên Chúa thương xót những yếu đuối của chúng ta và có thể tha thứ cho tội lỗi cho chúng ta. Nhiều người không biết Lòng Thương Xót nghĩa là gì; có lẽ bởi vì họ đã không cảm nghiệm được nó từ những người khác, hoặc không biết làm thế nào để cầu xin Lòng Thương Xót ấy. Đó là công việc Phúc Âm hóa; đó là sứ điệp dành cho cho mỗi môn đệ truyền giáo để chia sẻ với tha nhân”. Cuối cùng, vị Giám mục kết luận: “Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm mang Đức Kitô đến cho người khác. Không ai được miễn chước lời mời gọi này” (Bài viết đăng trên South Texas Catholic ngày 1 tháng 5 năm 2014 – Bản dịch của Phạm Văn Khôi).

Lời chứng của người tông đồ cũng chỉ có sức thuyết phục khi chúng ta loan báo với niềm vui mừng hân hoan. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh đến điều này rất nhiều lần trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng. Quả vậy, nếu nội dung Phúc Âm là niềm vui, thì niềm vui ấy trước hết phải toát lên nơi cuộc đời của người loan báo. Tác giả sách Công vụ Tông đồ kể lại với chúng ta, các tông đồ sau khi bị Công nghị Do Thái đánh đòn, cấm đoán và đe dọa, các ông “bước ra khỏi Công nghị, hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Chúa” (Cv 5,41). Chính niềm vui nơi các tông đồ đã giúp cho những người lắng nghe chứng từ của các ông nhận ra giá trị giáo huấn mà các ông rao giảng, đồng thời sẵn sàng gia nhập Giáo Hội. Niềm vui ấy cũng làm cho cộng đoàn tín hữu tiên khởi phát triển và tăng số nhanh chóng. Kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy, nơi đâu có những linh mục lạc quan vui tươi và dấn thân phục vụ, nơi đó có cộng đoàn đức tin tốt lành. Nơi cộng đoàn ấy, vừa có chiều sâu của đời sống nội tâm, vừa có tình liên đới gắn kết giữa các thành phần Dân Chúa. Nhờ vậy, mà cộng đoàn này tỏa sáng và hướng tới những nỗ lực truyền giáo.

Theo thông lệ, nhân ngày thế giới truyền giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô gửi đến mọi tín hữu một Sứ điệp. Qua Sứ điệp này, ngài nhắc lại bổn phận quan trọng của mỗi tín hữu là tham gia vào sứ mạng truyền giáo, tùy bậc sống và hoàn cảnh của mình. Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy lên đường. Ngài viết như sau: “Việc truyền giáo của Hội Thánh được sinh động bởi một linh đạo của việc liên tục lên đường. Chúng ta được thách thức “ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (Evangelii Gaudium, 20). Sứ mạng của Giáo Hội thúc đẩy chúng ta liên tục lữ hành qua các sa mạc khác nhau của cuộc đời, qua các trải nghiệm khác nhau của sự đói khát sự thật và công lý” (Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2017, số 6).

Chúa Giêsu là “Người rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất” (Đức Phaolô VI, Tông huấn Loan báo Tin Mừng, số 7). Hôm nay, Người tiếp tục sai chúng ta vào lòng thế giới: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19). Ước gì mỗi chúng ta đừng quên bổn phận cao quý ấy, để làm cho hình ảnh của Chúa tỏa sáng giữa thế gian. Amen.

Về mục lục

.

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.

Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.

Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.

Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.

Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.

Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.

Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.

Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).

Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

Về mục lục

.

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO và NHỮNG ƯỚC NGUYỆN

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

 Đứng trước tình trạng thế giới hiện nay, Hội Thánh càng được mời gọi khẩn thiết hơn để cứu rỗi và canh tân mọi loài, hầu mọi sự được tái lập trong Đức Kitô. Ước gì Hội Thánh trở thành muối đất và ánh sáng cho trần gian, can đảm cất bước trên con đường hẹp của Thập Giá, để Nước Cha trị đến: mọi người họp thành một gia đình và một đoàn Dân duy nhất. Chính các Tông Ðồ, nền tảng của Hội Thánh, đã theo chân Đức Kitô, rao giảng lời chân lý và khai sinh các giáo đoàn. Ước gì các mục tử, cùng toàn thể đoàn chiên biết tiếp tục sứ mạng này, để Nước Chúa được lan rộng khắp nơi.

Tự bản tính, Hội Thánh lữ hành phải truyền giáo, vì chính Hội Thánh bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo Ý Ðịnh của Chúa Cha. Vì quá nhân từ thương xót, Chúa Cha đã tự ý dựng nên chúng ta, và đã mời gọi chúng ta tham dự vào sự sống và vinh hiển cùng Người; Chúa Cha là Ðấng tác tạo muôn loài lại trở nên “mọi sự trong mọi người”, để mưu cầu hạnh phúc cho chúng ta. Ước gì Hội Thánh hăng hái lên đường rao giảng tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, để ý định của Người sớm được thành tựu, ý định đó là: tất cả làm thành một Dân duy nhất, và tham dự vào sự sống của Người.

Ý định của Thiên Chúa là cứu rỗi toàn thể nhân loại. Bằng con đường Nhập Thể, Đức Kitô đã đến, để làm cho loài người chúng ta được thông phần vào bản tính của Thiên Chúa. Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống vì chúng ta. Đức Kitô được sai đến rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức. Ước gì Hội Thánh biết thi hành sứ mạng của mình trong khiêm nhường và nghèo khó theo gương Đức Kitô, Đấng không có nơi để tựa đầu.

Ðể hoàn thành việc cứu độ loài người chúng ta, Đức Kitô đã sai Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha đến, để Người thực hiện công trình cứu độ và thúc đẩy Hội Thánh ngày càng phát triển. Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần là mối hiệp thông và thừa hành, ban phát các ơn huệ phẩm trật và các đặc sủng khác nhau. Chúa Thánh Thần là linh hồn làm sống động các hoạt động truyền giáo và đổ vào lòng các tín hữu tinh thần truyền giáo của Đức Kitô. Ước gì Hội Thánh luôn được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần để Hội Thánh có thể chu toàn sứ mạng truyền giáo như lòng Chúa ước mong.

Hội Thánh có bổn phận truyền bá đức tin và ơn cứu độ của Thiên Chúa cho tất cả mọi người, một phần là do mệnh lệnh của Đức Kitô, một phần là do bản chất của đời sống Kitô giáo: như các chi thể liên kết trong cùng một thân thể. Ước gì sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh được hoàn tất do việc vâng lệnh Đức Kitô, và được ân sủng Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Ước gì Hội Thánh thực sự có mặt: nơi mọi người, mọi dân tộc, để nhờ gương mẫu đời sống, lời giảng dạy, các Bí Tích và những phương tiện ân sủng khác, Hội Thánh sẽ dẫn đưa mọi người đến cùng Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người.

Hoạt động truyền giáo liên kết chặt chẽ với bản tính nhân loại và những ước vọng của nhân loại chúng ta. Đức Kitô là nguyên lý và mẫu mực của nhân loại mới, một nhân loại thấm nhuần tình huynh đệ, chân lý và bình an. Ước gì Hội Thánh luôn biết làm chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng, vượt trên mọi dị biệt về nòi giống và dân tộc. Ước gì Hội Thánh dám ra khỏi chính mình, đến với những người bị gạt ra bên lề của xã hội, để men Tin Mừng được dậy lên khắp mọi nơi, nhất là ở những vùng ngoại biên của thế giới.

Thời gian hoạt động truyền giáo là thời gian ở giữa hai lần Đức Kitô ngự đến; và khi Đức Kitô đến lần thứ hai, Hội Thánh ví như mùa gặt, được thu góp vào Nước Thiên Chúa, từ bốn phương trời. Trước khi Đức Kitô đến, Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc. Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn là bày tỏ ý định của Chúa Cha, và hoàn tất ý định đó nơi trần thế, chính trong lịch sử nhân loại mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu độ nhờ việc truyền giáo. Ước gì Hội Thánh luôn biết nhiệt thành truyền giáo, để Nước Cha được hiển trị, khi Đức Kitô ngự đến, dẫn đưa tất cả chúng ta về với Chúa Cha.

Về mục lục

.

TRUYỀN GIÁO – SỨ MẠNG “LÊN ĐƯỜNG” CỦA HAI ĐỒNG TIỀN KẼM

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Đức Giêsu ngồi đối diện thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ, Người thấy bà góa nghèo đã bỏ cả tấm lòng của mình vào trong thùng dâng cúng chỉ với hai đồng tiền kẽm. Quan sát hai đồng tiền kẽm của bà góa, chúng ta phải thừa nhận rằng: đồng tiền kẽm nào cũng có lịch sử phức tạp và dài dằng dặc của nó. Trong số hai đồng tiền kẽm này: có đồng từng là mục tiêu nài xin của người ăn mày đầu phố, có đồng từng là mồ hôi nước mắt của người lao động nghèo, có đồng được đem đổi bát cháo lót lòng của kẻ đói khó, có đồng từng được mua kẹo ngọt dỗ bé em khóc nhè, có đồng từng ngủ yên bên bụng phệ phú ông, có đồng từng nhởn nhơ ẩn cư dưới đáy hố xí, có đồng lại đã kinh qua tất cả những trải nghiệm trên đây, hơn nữa, biết đâu có đồng đã từng đến tay bà góa không phải lần đầu… Hai đồng tiền kẽm: nếu biết nói, chúng sẽ thuật lại đủ mọi chuyện ngao du; nếu biết viết, chúng sẽ viết được những chuyến du hành đầy ngoạn mục, tiếc thay, chúng chỉ im thin thít, chẳng hề hé môi, chỉ âm thầm dấn thân nhập cuộc: đến, rồi đi, tùy theo người sử dụng chúng, chúng nhận được cách nhưng không, cũng cho đi cách nhưng không, không hề giữ gì lại cho mình, không bao giờ mệt mỏi tiến bước, luôn trung thành với sứ mạng “lên đường” của mình.

Chiêm ngắm hành trình “lên đường” không mệt mỏi của hai đồng tiền kẽm, chúng ta có dịp để nhìn lại sứ mạng “lên đường” của Hội Thánh. Hội Thánh của Đức Kitô là một Hội Thánh luôn luôn “lên đường”. Thánh Kinh chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa thách đố những ai tin vào Người như thế nào, và họ phải “lên đường” với lòng tin ra sao. Ông Ápraham đã nhận được lời mời gọi “lên đường” đến một vùng đất mới. Ông Môsê đã nghe tiếng Chúa gọi “lên đường” và ông đã dẫn dắt dân Chúa “lên đường” hướng về Ðất Hứa. Trong đời sống mỗi người chúng ta, lệnh truyền “lên đường” vẫn vang dội trong những hoàn cảnh mới, với những thách đố mới, và tất cả mọi thành viên của Hội Thánh đều được mời gọi tham dự vào sứ mạng “lên đường”, bởi vì, Chúa luôn mời gọi chúng ta “lên đường”, đi ra khỏi khu vực tiện nghi an toàn của mình, để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng. Lòng hăm hở “lên đường”, ra khỏi chính mình, phải luôn là động lực thôi thúc chúng ta như lời Chúa dạy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38).

Đứng trước lời mời gọi “lên đường”, ước gì chúng ta đừng “nán lại”, nhưng, hãy để Chúa Thánh Thần dẫn dắt mình: đi đến “các làng mạc khác”, đừng dừng lại chờ kết quả, để thụ hưởng hoa trái công khó tay mình làm ra, bởi vì, Tin Mừng, tự nó có quyền năng, mà chúng ta không thể dự đoán được, một khi đã được gieo, thì nó tự mọc lên, ngay cả khi chúng ta thức hay ngủ. Ước gì chúng ta biết trung thành noi gương Đức Giêsu “lên đường”, và coi việc “lên đường” loan báo Tin Mừng có tầm mức quan trọng sống còn đối với chúng ta. Khi thấy cỏ lùng mọc lên giữa những cây lúa, chúng ta đừng vội oán trách, nhưng hãy kiên nhẫn chờ đợi, và biết mở lòng ra để chiêm ngắm cách thế mà Lời Chúa nhập thể, trong những hoàn cảnh, cho dẫu không mấy thuận lợi.

Hội Thánh luôn có Mẹ cùng đồng hành, Mẹ luôn luôn hiện diện giữa lòng Dân Chúa. Mẹ là Mẹ của Hội Thánh, nếu không có Mẹ, chúng ta không thể thật sự hiểu được tinh thần của sứ mạng lên đường truyền giáo. Có một “kiểu mẫu” Maria cho sứ mạng truyền giáo của chúng ta. Nơi Mẹ, chúng ta thấy rằng: đức khiêm nhường và lòng nhân ái không phải là những nhân đức của những người yếu đuối, nhưng, của những người mạnh mẽ, những người không cần phải ngược đãi người khác để cảm thấy mình quan trọng. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin Chúa ban cho chúng ta biết đáp lại lời mời gọi: tích cực dấn thân lên đường truyền giáo. Mẹ là người nữ của lòng tin, Mẹ sống và tiến bước trong đức tin, chúng ta hãy ngước mắt nhìn lên Mẹ, để xin Mẹ phù giúp chúng ta trong hành trình truyền giáo, nhất là, vào những thời điểm khô khan, đen tối và thậm chí mệt mỏi chán chường. Mẹ đã kinh qua những “đêm tối đức tin” để tiếp cận với Ðấng Vô Hình, xin Mẹ lấy tình mẫu tử chuyển cầu cho chúng ta: trở thành muối men, thành ánh sáng cho mọi nước, mọi dân, để cùng với Mẹ, chúng ta tiến bước không ngừng trên hành trình truyền giáo.

Về mục lục

.

XIN CHỦ SAI THỢ RA GẶT LÚA VỀ

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

              “Missio” thường được dịch là “truyền giáo”, nên chúng ta thường để ý đến việc truyền đạo, đem Chúa đến cho người khác, mà quên mất “Missio” nghĩa là việc gởi đi, phái đi, sai đi thi hành sứ mạng, thi hành mạng lệnh. Chúng ta chỉ một sứ mạng duy nhất, đó chính là sứ mạng của Đức Kitô, Người được Chúa Cha sai đến thế gian (x. Ga 5,24;17,3); Chúa Kitô Phục Sinh sai Chúa Thánh Thần đến với Hội Thánh (x. Lc 24,49; Ga 15,26). Đức Kitô sai các Tông Đồ và Hội Thánh đi rao giảng Tin Mừng (x. Mc 16,15; Mt 28,19; Cv 1,8). Sứ mạng của mỗi người chúng ta xuất phát từ sứ mạng của Đức Kitô. Do đó, “truyền giáo” là thông dự vào và chia sẻ cùng một sứ mạng của Đức Kitô: sứ mạng thì chỉ có một, nhưng bao gồm nhiều sứ vụ khác nhau: sứ vụ tông đồ (apostolat), sứ vụ mục vụ (pastoral), sứ vụ của các mục tử, sứ vụ của người giáo dân, sứ vụ của các nhà giáo dục, sứ vụ của các nhà hoạt động xã hội… Một điều cần lưu ý nữa liên quan đến từ “Missio”: sứ mạng, chúng ta thường thấy trên các thiệp mời của lễ truyền chức phó tế và linh mục là: lãnh nhận tác vụ phó tế, tác vụ linh mục, thiếu mất chữ “thừa”, chữ “thừa” mới cho thấy căn tính và sứ mạng của người lãnh nhận, bởi vì, đương sự không thực hiện tác vụ của chính mình, nhưng, là thi hành tác vụ do sự thừa kế, thừa hưởng, thừa hành, thừa lệnh của Đức Kitô. Do đó, đầy đủ phải là lãnh nhận thừa tác vụ phó tế, thừa tác vụ linh mục.

Đức Giêsu khi thi hành sứ mạng, Người luôn ý thức căn tính của mình là: được sai đến, không phải để làm theo ý mình, nhưng, là làm theo ý Đấng đã sai mình; Lương thực của Người là thi hành ý muốn của Chúa Cha, còn chúng ta, khi thi hành sứ mạng, dường như, chúng ta quên mất căn tính, nguồn cội của mình. Chắc, có lẽ vì thế mà, chúng ta vẫn có rất nhiều chương trình, kế hoạch truyền giáo rất hoành tráng: tốn rất nhiều công sức, và tiền của, nhưng, dường như, việc truyền giáo của chúng ta vẫn không mang lại những hoa trái tốt đẹp như lòng Chúa ước mong.

Để thi hành sứ mạng truyền giáo, chúng ta phải xác tín rằng: Động lực đầu tiên thúc đẩy chúng ta thi hành sứ mạng là tình yêu của Ðức Giêsu, Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta. Chính tình yêu cứu độ này đã thúc bách chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn. Thử hỏi có tình yêu nào: mà người được yêu, lại không cảm thấy: có nhu cầu, cần phải nói cho người khác biết về người mình yêu? Nếu chúng ta không cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt, để chia sẻ về tình yêu này, chúng ta cần phải tha thiết cầu xin Chúa: chạm đến tâm hồn cứng cỏi của chúng ta, mở rộng cõi lòng băng giá của chúng ta, và lay động con tim thờ ơ lãnh đạm của chúng ta.

Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa với một tấm lòng rộng mở, hãy để cho Người ngắm nhìn ta, để ta bắt gặp ánh mắt chan chứa tình yêu của Người. Trong khi thi hành sứ mạng truyền giáo, thật tốt lành biết bao khi ta đứng trước Thánh Giá, hoặc quỳ gối trước Thánh Thể, hay đơn giản chỉ là ở trong sự hiện diện của Chúa để chiêm ngắm Chúa và thầm thĩ với Người. Tốt lành biết mấy khi Người một lần nữa chạm đến cuộc đời chúng ta, và thúc đẩy chúng ta chia sẻ sự sống mới của Người cho người khác: “Ðiều chúng tôi đã thấy, đã nghe, và đã chạm đến, chúng tôi loan báo lại cho anh em” (1Ga 1,3).

Chúng ta phải thừa nhận rằng: Động lực tốt nhất để loan báo Tin Mừng, đến từ việc chiêm niệm Tin Mừng với tình yêu mến, ước gì chúng ta biết dừng lại bên những trang Thánh Kinh và đọc Lời Chúa với cả tấm lòng. Nếu chúng ta tiếp cận Lời Chúa theo cách này, vẻ đẹp của Lời Chúa khiến chúng ta phải ngỡ ngàng, kinh ngạc. Chúng ta hãy nhớ rằng: mình đã được ủy thác một kho tàng quý báu, kho tàng này làm cho chúng ta trở nên người hơn, giúp chúng ta sống một đời sống mới trong Chúa, và chia sẻ đời sống đó cho tất cả mọi người.

Hội Thánh là Đoàn Dân Thiên Chúa: “Xưa kia anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa” (1Pr 2,10). Chúng ta phải ý thức rằng: “Sứ mạng” là niềm say mê của Đức Giêsu, đồng thời, cũng là niềm say mê của Dân Người. Khi đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu tình yêu bừng sáng của Người: trải rộng ra, để ôm trọn tất cả Dân của Người. Bởi vì, Người chọn chúng ta từ giữa muôn dân và sai chúng ta đến với Dân của Người, cho nên, sứ mạng truyền giáo của chúng ta phải đưa chúng ta đến tận trung tâm của Dân Người. “Sứ mạng” ở giữa lòng dân chúng không phải là một phần của đời sống chúng ta, hay như một thứ đồ trang sức, mà chúng ta có thể tháo cởi; “sứ mạng” này không phải là một “vai phụ”, hay là một thời gian phụ trội trong đời sống chúng ta. Trái lại, “sứ mạng” là điều gì đó chúng ta không thể bứng ra khỏi con người của chúng ta, mà không hủy diệt chính bản thân mình. Chúng ta là “sứ mạng” trên trần gian này, đó là lý do: tại sao chúng ta có mặt ở đây, trong trời đất này.

Xin Chúa cho chúng ta ý thức rằng: Chỉ một lần chúng ta tách “sứ mạng” ra khỏi cuộc sống của mình, thì ngay lập tức, tất cả mọi sự sẽ trở nên tẻ nhạt, và chúng ta sẽ đi tìm danh vọng, cùng những tham vọng ích kỷ của mình. Khi đó, chúng ta không còn là Đoàn Dân Chúa nữa. Xin cho chúng ta ý thức rằng: Qua sứ mạng đem Tin Mừng đến cho mọi người, chúng ta được đóng ấn là Đoàn Dân Chúa. Nếu chúng ta có thể giúp: ít nhất cho một người, có một cuộc sống tốt hơn, chỉ điều đó thôi, cũng đủ là hy lễ của cuộc đời chúng ta rồi. Xin cho chúng ta luôn hướng tới mục tiêu trở thành một Dân trung thành của Chúa, với “sứ mạng” mà Chúa đã trao phó cho chúng ta.

Về mục lục

.

CỦA XÊ-DA TRẢ CHO XÊ-DA

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Chúa đến trần gian để rao giảng Nước Trời và đem lại hạnh phúc cho con người bằng tình thương vô biên của Ngài. Tuy nhiên, vì không đi theo đường hướng của những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó, đặc biệt là những người Pharisêu, bè phái Hêrôđê và nhiều nhóm khác, nên họ chống đối, căm thù Chúa Giêsu. Họ cho rằng Chúa đi ngược lại với chủ trương, đường hướng của họ. Do đó, họ tìm nhiều cơ hội để gài bẫy, nhằm tố cáo và bắt Ngài. Câu chuyện về việc nộp thuế cho Xê-da nói lên tính cách nham hiểm, độc ác của họ…

Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay đưa ra một câu chuyện rất thực tế, nhưng là một câu chuyện đầy nham hiểm, sâu độc của những người Do Thái chống đối Chúa Giêsu. Họ muốn khử trừ Ngài ra khỏi xã hội, đặc biệt họ muốn tìm cơ hội ngàn vàng để bắt Ngài và giết Ngài cho hả lòng căm tức của họ. Họ nói về vấn đề thuế.

Đất nước nào, Quốc gia nào cũng có những qui định của luật pháp để nhân dân đóng thuế. Do đó, thuế là nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của mọi công dân phải hoàn thành. Đưa ra vấn đề nộp thuế không phải nhóm Pharisêu và bè phái Hêrôđê thương gì Chúa. Họ giăng cái bẫy để có cơ hội tố cáo Chúa Giêsu và khử trừ Chúa Giêsu.

Do Thái lúc đó đang bị người La Mã đô hộ. Nên, nếu Chúa nói đóng thuế, những người chống đối Chúa sẽ tố cáo Ngài phản quốc, tiếp tục nối giáo cho giặc đô hộ thêm nước Do Thái. Nhưng, nói đừng đóng thuế, họ sẽ tố cáo Ngài xúi giục dân chúng chống lại người La Mã và muốn lật đổ Đế quốc Roma. Nói đóng và không đóng thuế cũng là một tội đối với họ. Cái bẫy họ giăng ra quả quá thâm độc.

Tuy nhiên, Chúa thấu suốt lòng dạ nham hiểm, ác độc của họ, do đó, Ngài nói đem cho Ngài xem một đồng bạc. Ngài hỏi họ :” Hình và đồng tiền này là của ai ? “. Họ nói:” Đồng tiền này và hình này là của Xê-da “. Chúa Giêsu liền nói :” Của Xê-da hãy trả cho Xê-da.Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa “ ( Mt 22, 21 ).

Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã không dấu diếm, tuy Ngài là Thiên Chúa, nhưng khi nhập thể làm người, Ngài đã nhận thế quyền của Xê-da, bởi vì hình trên đồng tiền là hình của Xê-da. Tuy nhiên, Xê-da hay Philatô hoặc vua Hêrôđê cũng chẳng có quyền gì trên Ngài, nếu Cha của Ngài từ trời cao không ban quyền ấy cho họ ( Ga 19, 11 ).

Quan điểm, chủ trương của Chúa Giêsu quả rất rõ ràng. Ngài không dạy con người làm sai, làm xằng, làm bậy. Khi biết rõ hình trên đồng tiền là hình của Xê-da, Chúa đã cho thấy “ nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm đóng thuế của mọi công dân trong bất cứ nước nào, quốc gia nào là hoàn toàn chính đáng. Không ai được trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm này.

Chúa nói hãy trả lại cho Xê-da quyền hành, địa vị, danh vọng, uy thế Hoàng đế mong manh, chóng qua đi của ông ta. Bởi vì ai “ đành mất mạng sống mình vì chân lý, vì Chúa thì sẽ tìm lại được sự sống vĩnh cửu, sự sống đời đời “.

Trả lại cho Thiên Chúa hình ảnh của Ngài, vì Ngài là Đấng công minh, chính trực, nhân lành giầu lòng yêu thương và tha thứ. Hình ảnh của Thiên Chúa sẽ mãi mãi trường tồn vì Ngài là Đấng tự hữu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng chúng con được Thiên Chúa dựng nên, sau này chúng con sẽ về với Ngài là Đấng vĩnh cửu. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Tại sao quốc gia nào, nước nào cũng có luật đóng thuế ?
2.Tại sao Chúa lại nói :” Của Xê-da tra về cho Xê-da.Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa ?
3.Quan điểm của Chúa về vấn đề thuế ?

Về mục lục

.

HÃY TRAO VÀO TAY CHÚA

Bông hồng nhỏ

Một lời khen ngợi chân thành sẽ mang đến cho người đón nhận một sự ấm áp và thêm tự tin hơn. Hôm nay, những người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê cũng khen Đức Giêsu “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.” (Mt 22, 16). Họ nhận định về Thầy rất đúng. Tiếc thay, họ chỉ cố tình để gài bẫy cho Thầy phải lỡ lời. Tâm ý họ đầy gian tà và xảo trá, lời nói và ý định của họ không thống nhất với nhau. Vừa khen xong, họ liền thách thức Thầy “Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22, 17). Thầy Giêsu biết rõ ý định gian tà của họ.

Thầy là Thiên Chúa làm người và Thầy thấu suốt tâm can con người. Thầy không bị những lời khen ngợi, tâng bốc giả hình của họ che mắt nhưng Thầy biết rõ về chính mình. Thầy là Đấng làm chủ muôn loài. Thầy đã lật tẩy bộ mặt giả dối của họ khi yêu cầu họ cho xem đồng tiền nộp thuế. Những con người có lòng dạ hẹp hòi này chắc chắn không biết ý định của Thầy. Cầm lấy đồng tiền trên tay, Thầy hỏi họ “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” (Mt 22, 20). Một câu hỏi mà thiết nghĩ, những đứa trẻ đến tuổi khôn cũng trả lời được. Thầy muốn nói điều gì khi hỏi một câu đơn giản như thế? Những người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê trả lời gọn lẹ, họ đáp “Của Xêda” (Mt 22, 21). Thế rồi, Thầy đã làm cho họ phải há hốc miệng vì ngạc nhiên, sau đó họ đành rút lui. “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22, 21).  

Thế gian khẳng định danh tiếng và địa vị của mình qua tiền bạc, chức tước. Những vị vua cho in hình của mình trên đồng tiền để khẳng định quyền lực của mình. Thiên Chúa không hành xử theo kiểu thế gian. Khi sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa đã khắc ghi trong tâm hồn họ một khao khát mãnh liệt là tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên Chúa tìm kiếm hình ảnh của chính mình trong tâm hồn những ai yêu mến Ngài. Bởi thế, Thầy Giêsu đã khẳng khái trả lời những kẻ gài bẫy Ngài, khiến họ khâm phục mà không thể thốt nên lời. Những gì là của thế gian hãy trả lại cho thế gian và những gì của Thiên Chúa, hãy dâng hiến cho Thiên Chúa. Của lễ đẹp nhất dâng lên Thiên Chúa chính là lòng nhân. Khi đến với Thiên Chúa, hãy trút bỏ mọi nỗi bận tâm, lo lắng về cuộc sống, phụng thờ Thiên Chúa bằng chính tâm hồn mình: hết lòng, hết sức và hết linh hồn.

 Đã là một công dân của một đất nước, ta phải có những nghĩa vụ với đất nước mình. Ta được Thiên Chúa đặt vào giữa thế gian, cho làm con của cha mẹ, thuộc về một dân tộc, thuộc về một đất nước. Ta phải có nghĩa vụ góp phần làm cho đất nước mình phát triển. Điều quan trọng hơn nữa, ta hãy luôn ý thức rằng, ta còn là một công dân của Nước Trời. Công dân của Nước Trời quan trọng hơn là công dân của một nước. Tuy nhiên, hai điều ấy không hề mâu thuẫn nhau. Trong hai nghĩa vụ ấy, nghĩa vụ đối với Thiên Chúa luôn được ưu tiên hơn. Ta sống giữa thế gian, vừa là một con người trong tất cả các mối tương quan với đồng loại và là con Thiên Chúa. Yêu thương tha nhân và phụng thờ Thiên Chúa là hai điều răn quan trọng nhất. Là công dân của một nước, ta sẽ làm gì để cho đất nước được phát triển? Ta không tham vọng làm thay đổi đất nước nhưng ta có khả năng để thay đổi chính mình. Để trở thành công dân của Nước Trời, hằng ngày, Chúa vẫn mời gọi ta ra đi gieo giống. Hạt giống nào ta đã vãi gieo trên cánh đồng truyền giáo? Đồng thời ta cũng là mảnh đất cho Lời trổ sinh hoa trái? Trong vai trò là người gieo hạt, ta hãy mặc lấy tình yêu Đức Kitô, mặc lấy chính con người của Đức Kitô và bước theo cuộc đời lữ thứ hy sinh của Ngài. Ta hãy ra đi và vãi gieo cách quảng đại. Là nhà truyền giáo, ta đừng sợ chim trời tha mất hay lo lắng đất đai cằn cỗi nhưng hãy quảng đại vãi gieo vì chính Thiên Chúa mới cho nó mọc lên. Hãy nỗ lực hết mình và tin tưởng trao tất cả những gì đã vãi gieo vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa ban cho còn lớn hơn sự mong đợi của loài người.  

Lạy Chúa, con xin mượn lời kinh của thánh I-Nhã để dâng lên Chúa tâm tình của con.

“Lạy Chúa,
Xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
Và trọn cả ý muốn của con,
Cùng hết thảy những gì con có,
Và những gì thuộc về con.

Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
Lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.

Tất cả là của Chúa,
Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.”

Về mục lục

.

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT KHÍ CỤ

Anna Cỏ May

          “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mt 16, 9-16), đó là lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu trước khi về trời. Hôm nay, chúng ta không ngừng nối tiếp các Tông đồ hăng say lên đường rao giảng Lời Chúa khắp mọi nơi. Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rõ những khó khăn và thách đố phải gặp khi đi rao giảng.

          Chính Chúa Giêsu là Đấng tiên phong trong việc loan báo Tin Mừng. Ngài đã đi khắp đó đây rao giảng, đem bình an, niềm vui và cứu bao người tội lỗi trở lại, cùng những người bệnh tật được khỏi. Trên những con đường Chúa đi, Ngài gặp biết bao khó khăn, thách thức và sự nhòm ngó của các phe phái. Chính nhóm Pharisêu nhiều lần thách thức Chúa, nhưng đều thất bại. Mặc dù vậy, họ không từ bỏ mà còn đi tìm và liên kết cùng các phe phái khác, trong đó có nhóm Hêrôđê. Cùng vì mục đích, vì tư lợi và cùng một đối tượng nên họ đã cộng tác cùng thách thức Chúa. Nhóm Hêrôđê đã đến hỏi Chúa Giêsu một cách lễ phép và có vẻ chân thật nhưng lại rất thâm hiểm, chọ hỏi “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22, 16-17). Lúc này, Chúa Giêsu trả lời có hay không thì đằng nào Ngài cũng bị liên lụy. Nếu Chúa Giêsu trả lời có thì ảnh hưởng đến dân chúng, còn trả lời không thì liên quan đến những người cầm quyền. Còn  điều chúng muốn nghe nhất là câu trả lời “không” của Chúa Giêsu, để chúng dễ dàng tố cáo với Tổng trấn. Nhưng Chúa Giêsu trả lời “Thế thì của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Mt 22, 21).  Ngài ám chỉ họ có bổn phận với Thiên Chúa thì cũng có bổn phận với mọi người. Câu trả lời của Chúa vừa dứt khoát và đúng lý nên chúng không thể bắt bẻ và liền bỏ đi.

          Hôm nay cũng là ngày khánh nhật truyền giáo. Hội Thánh vẫn tiếp tục mời gọi mỗi người chúng ta tiếp nối sứ mạng này bởi vì đây là nỗi ưu tư của Giáo hội. Việc truyền giáo ngày nay còn gặp rất nhiều khó khăn thách đố về nơi ở, văn hóa, xã hội và con người với nhau. Có người trong chúng ta đã bị thoái hóa về đời sống tu trì, bị lôi cuốn vào những sự tiến bộ không lành mạnh. Có người đã cố gắng chịu đựng, nhịn nhục và khiêm nhường khi đi rao giảng nhưng cũng không vượt qua được. Bên cạnh đó, cũng có những người có lòng khao khát ra đi rao giảng, họ lên đường với cả con tim và sự dấn thân hết mình vào công việc. Họ làm vì tình yêu Chúa và vì mọi người. Điều đau khổ hơn là họ sẽ có lúc phải chịu cô đơn một mình, sự thiếu vắng trong tâm hồn và thậm chí mất đi tinh thần phục vụ. Những lúc như vậy, làm sao họ có thể vượt qua? Có một nữ tu nói rằng: những lúc chị như vậy, chị đau khổ rất nhiều, chỉ biết ngắm nhìn và cầu nguyện với Chúa trong sự phó thác, tin tưởng. Có lúc chị cũng đã khóc và sợ lắm. Nhưng nhờ ơn Chúa, chị vượt qua từng ngày.Vâng, đó là việc lên đường đến những nơi đất khách quê nhà, còn những người ở nhà hay không đi được thì sao? Có một bà cụ bị bệnh, bà cứ ngồi than thở với các con và các cháu. Một hôm, thằng cháu nội vừa đi lễ về chạy vào với bà và nói:

-Bà ơi, hôm nay cha xứ nói chúng cháu là những nhà truyền giáo tí hon anh hùng.

-Tại sao?

-Vì chúng cháu ngoan biết vâng lời bố mẹ, học giỏi là trở thành nhà truyền giáo anh hùng đó.

-Ừm.

Rồi bà cụ lặng lẽ nhìn cháu chạy đi.

          Qủa thực, nhiều lúc chúng ta cứ lầm tưởng truyền giáo là phải lên đường. Không phải thế, Thiên Chúa đã đặt cho mỗi người một sứ mạng truyền giáo, sự mạng ấy chính là những công việc hiện tại chúng ta đang làm. Nên dù ở nhà hay bất cứ nơi nào, chúng ta điều truyền giáo, truyền giáo ngay chính trong đời sống của mình.

          Lạy Chúa!Trong ngày lễ truyền giáo, xin cho mỗi người chúng con ý thức rằng những bổn phận, nhiệm vụ, công việc hằng ngày chính là việc truyền giáo. Truyền giáo bằng chính những gì mình có và luôn sống với Lời Chúa “Của Xêda trả về cho Xêda, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Amen.

Về mục lục

.

TRẢ VỀ CHO THIÊN CHÚA

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trả về cho Xê-da, trả lại cho Thiên Chúa

Vào năm 1920, ông Mahatma Gandhi đã hô hào dân chúng không đóng thuế cho đế quốc Anh, để phát động chiến dịch đòi lại độc lập cho người dân Ấn Độ. Cuộc đảo chính không tiếng súng, không bạo động đã dẫn đến thành công và Anh quốc đã phải trao trả tự do cho Ấn Độ sau nhiều năm tháng đô hộ.

Những người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nêu ra một câu hỏi rất nham hiểm về việc đóng thuế nhằm gài bẫy Chúa Giêsu : “Thưa thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa, Xin thầy cho biết ý kiến, có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

Đây là cái bẫy xảo quyệt họ dương ra nhằm buộc tội Chúa Giêsu. Nếu Chúa trả lời là phải nộp thuế, họ sẽ quy cho Ngài tội phản bội dân tộc, làm tay sai cho đế quốc Rôma và chống lại nhân dân. Nếu Chúa trả lời rằng không, họ sẽ đi tố cáo với chính quyền để kết tội Ngài như một con người mưu phản và xách động. Tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Câu trả lời của Chúa rất khôn ngoan : “Hãy trả về cho Xê-da những gì của Xê-da, hãy trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Câu nói của Chúa hàm ngậm những sứ điệp rất quan trọng mời gọi chúng ta suy nghĩ để đem ra thực hành.

Bổn phận của một công dân trong xã hội trần thế

Là con người sống trong một đất nước hay một cơ cấu dân sự , chúng ta có bổn phận thi hành những nghĩa vụ, nếu những điều đó không đối kháng với lề luật của Thiên Chúa. Là một công dân Do thái, cho dầu sống dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, Chúa Giêsu cũng đã nộp thuế giống như mọi người. Ngài đã từng nói với Phê-rô hãy ra bờ biển thả câu và mổ bụng con cá câu được để lấy một đồng tiền vàng đi nộp thuế. Chúa Giêsu đã sống như một con người bình thường giống hệt chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài chu toàn những bổn phận của một công dân và tuân thủ những lề luật của Do Thái giáo trong xã hội lúc bấy giờ. Đức cố Viện phụ Hoàng tại Đan viện Châu Sơn có kể lại giai thoại khi ông Hồ Chí Minh đến thăm Đan viện Xi-tô tại Nho Quan, Ninh Bình vào những năm cuối của thập niên 1940, Ngài đã đón tiếp ông ta rất trọng thị. Quy tụ cộng đoàn lại, Đức Viện phụ đọc cho mọi người những giáo huấn trong thơ gửi tín hữu Rôma chương 13, nói về việc phục tùng chính quyền. Thánh Tông đồ viết : ‘Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi TC. Chính quyền là người thực hành quyền bính của TC để giúp bạn làm điều thiện (Rm 13, 1-16).

Cũng vậy, cho dầu đã trải qua những năm tháng tù ngục một cách oan khiên, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận trong tập sách ‘Đường Hy vọng’, đã ghi lại bài thơ sau đây, diễn bày lòng yêu mến quê hương nơi Ngài : “Con có một tổ quốc Việt Nam, quê hương yêu quý ngàn đời. Con hãnh diện, con vui sướng. Con yêu non sông gấm vóc, con yêu lịch sử Việt nam, con yêu đồng bào cần mẫn, con yêu chiến sĩ hào hùng. Đất tuy hẹp nhưng chí lớn. Nước tuy nhỏ nhưng danh vang. Con phục vụ hết tâm hồn. Con trung thành hết nhiệt huyết. Con bảo vệ bằng xương máu. Con xây dựng bằng tim óc. Vui niềm vui của đồng bào, buồn nỗi buồn của dân tộc. Một nước Việt Nam, một dân tộc Việt Nam, một tâm hồn Việt Nam, một văn hóa Việt Nam, một truyền thống Việt Nam. Là người Công giáo Việt Nam con phải yêu tổ quốc gấp bội. Chúa dạy con, Hội thánh dạy con phải yêu thương tổ quốc của mình”.

Đó là những dòng tâm sự của một Hồng y, một Giám mục rất thánh thiện, đã ý thức những bổn phận trần thế nơi mình cho dù Ngài phải trải qua 13 năm đen tối trong tù ngục, chỉ vì lý do mang tính chính trị độc đoán một chiều.

Đức Cha Aloysius Jiu Luxian, một Giám mục Trung Quốc lão thành, luôn khắc khoải về tự do tôn giáo tại Trung Hoa lục địa, đã trả lời phỏng vấn tờ báo ‘30 Giorno’: “Là những công dân, chúng tôi phải tuân thủ luật pháp dân sự nếu những luật đó không chống lại Thiên Chúa”. Điều này, chính thánh Phaolô cũng đã gợi nhắc trong thơ Rôma 13, 1-7 “Hãy vâng phục các nhà cầm quyền và kính trọng họ”.

Bổn phận của một công dân nước Trời

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên vế thứ hai rất quan trọng trong câu trả lời của Chúa Giêsu ‘Hãy trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ lẫn lộn giữa thần quyền và thế quyền. Câu trả lời của Chúa Giêsu không mang mầu sắc chính trị, nhưng là một định hướng căn bản cho tất cả chúng ta, những công dân của Nước Trời. Bởi vì tất cả quyền bính trần gian được con người hành xử, đều phát xuất từ chính Thiên Chúa. Không một nhân vật nào, một lãnh tụ nào, một chế độ nào có thể tiếm quyền của Thiên Chúa. Chỉ một mình Ngài là Đấng Tối Cao, nắm quyền trên tất cả thụ tạo.

Chúng ta biết đồng bạc của người Do Thái ngày xưa có in hình hoàng đế Xê-da với hàng chữ ghi ở dưới “Tiberius Cesar, Divi Augusti Filius Augustinus Pontifex Maximus”, nghĩa là ‘Xê-da Tibêriô, con và thượng đế uy linh của Angusto thần thánh’. Đồng tiền được ghi bằng tiếng La -tinh, nhưng cũng có thể ghi bằng tiếng Hy Lạp với ý nghĩa tương tự. Xê-da đã kiêu ngạo coi mình như thượng đế cao cả, bá chủ nhân loại.

Đứng trước sự ngạo mạn ngông cuồng này, Chúa Giêsu đã nói cho mọi người rằng, chỉ có Thiên Chúa là Thượng đế tối cao. Trọn vẹn cuộc sống chúng ta phải quy hướng về Ngài và không ai được chiếm đoạt quyền năng tối thượng của Ngài. Đức cố Hồng Y Sheen, nguyên Tổng Giám mục giáo phận Manila, đã từng kêu gọi dân chúng mạnh mẽ chống lại luật cho phép phá thai mà chính quyền ban hành, bởi vì luật đó đi ngược lại lề luật của Thiên Chúa. Tại nhiều quốc gia, nhất là tại các quốc gia vô thần, có rất nhiều điều khoản do chính phủ quy định, đi ngược lại giáo huấn của Giáo hội, và gián tiếp chống lại TC. Chúng ta hãy nhớ lại lời khẳng quyết của Thánh Phêrô trước công nghị : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người’ (Cv 5, 29).

Kết luận

Chúng ta vẫn biết ăn cắp là một tội. Điều răn thứ bảy dạy chúng ta như thế. Trong xã hội hiện nay tình trạng ăn cắp vẫn thường xảy ra khắp nơi. Người thợ xây ăn cắp xi măng bằng cách bớt xén. Người thợ may ăn cắp vải. Viên chức nhà nước ăn cắp thời giờ bằng cách đi muộn về sớm. Ngay cả người Kitô hữu chúng ta cũng bị ảnh hưởng sâu đậm não trạng văn hóa này, đến độ nhiều người coi đó như chuyện rất bình thường khi nghĩ rằng, của chung hay của chùa, tôi không lấy người khác cũng sẽ lấy. Lối suy nghĩ như thế sẽ rất nguy hiểm vì nó dần dần làm chai cứng lương tâm của chúng ta. Tuy nhiên, có một dạng ăn cắp khác mà chúng ta ít khi để ý tới. Chúa nói : “Những gì của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa”. Nhưng, những gì thuộc về Thiên Chúa ? Thưa là tất cả những thứ chúng ta đang có, như thời giờ, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… Mọi sự đều là của Chúa (Totus tuus), còn chúng ta chỉ là người quản lý. Ý thức như vậy, chúng ta phải sử dụng của cải một cách khôn khéo và đừng lún sâu vào tội ăn cắp mà chúng ta thường hay mắc phải.

Về mục lục

.

TRÁCH NHIỆM

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nhóm người Biệt phái họp nhau,

Mưu tìm bắt bẻ, trước sau gây phiền.
Đôi lời nịnh bợ trước tiên,
Khen rằng sự thật, nhân hiền Thầy trao.
Phân minh xét xử đồng bào,
Tâm tình ngay chính, dạt dào mến thương.
Thầy không thiên vị vấn vương,
Ý Thầy chỉ dậy, tìm đường giúp cho.
Có nên nộp thuế vào kho,
Cê-sa-rê đó, để dò phán quan.
Chúa rằng ác ý đa đoan,
Giả hình gài bẫy, mưu toan hại Người.
Khôn ngoan phát biểu đôi lời,
Đồng tiền nộp thuế, hình thời thẩm tra?
Của Cê-da trả Cê-da.
Trả về Thiên Chúa, là Cha muôn đời
Ơn thiêng sự sống cao vời,
Khả năng trí tuệ, gọi mời nghĩ suy.
Loài người muôn vật phụ tùy,
An bài Tạo Hóa, phát huy cuộc đời.

Với đồng xu nhỏ, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Mỗi người chúng ta có hai bổn phận: Một bổn phận với Chúa và bổn phận đối với xã hội. Chúng ta vừa là công dân của quốc gia và là công dân của Nước trời. Chúng ta không thể tách rời cuộc sống ra khỏi xã hội.

Chúng ta sống trong xã hội. Chúng ta làm lụng và sinh sống trao đổi bằng chính đồng tiền với hình biểu tượng của quốc gia. Chúng ta có bổn phận và trách nhiệm bảo vệ và cùng chung góp khả năng xây dựng một xã hội tốt đẹp. Chúng ta có bổn phận đóng thuế cho chính phủ. Chính phủ sẽ lo cho toàn dân trong mọi sinh họat cộng cộng. Chúng ta được thừa hưởng muôn vàn lợi ích qua cuộc sống chung.

Chúng ta cũng còn là công dân nước trời. Chúng ta được sinh ra mang hình ảnh Thiên Chúa. Chúng ta được nhận lãnh Bí tích Rửa tội, trở thành con dân của Chúa. Chúng ta được trao ban sự sống, có trí khôn, có sự hiểu biết, có tự do và tất cả. Con người là quà tặng Chúa ban. Chúng ta có bổn phận đáp trả tình yêu của Thiên Chúa. Chúa nói rằng, “Cái gì của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa’. Vậy cái gì là của Thiên Chúa. Là tất cả, là sự sống, là con người và tình yêu. Chúa vì yêu đã cho chúng ta tất cả. Chúng ta cũng nên đáp trả bằng tình yêu.

Đáp lại tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy mở lòng yêu thương đến mọi người, kể cả kẻ thù. Yêu thương anh em như Chúa đã yêu chúng ta. Chúa đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy đáp trả lại cho Chúa những gì chúng ta đã lãnh nhận.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Biệt phái là một nhóm tín đồ Do Thái giáo, thông thạo Lề Luật, giữ luật cách nhiệm nhặt theo mặt chữ, tự cho mình là thánh thiện, sống tách biệt với dân nghèo và dân ngoại. Họ tin linh hồn bất tử, tin có đời sau, tin các thiên thần. Nhưng cuộc sống của họ thường đối nghịch với Chúa Giêsu (x. Mc7,5; 8,11; 10,2; 12,13), có óc nệ luật (x. Lc 6,1-5), chi ly (x. Mt 23,23-24), tự cao tự đại (x. Mt 18, 11-12), và nhất là giả hình (x. Mt 23,3-6). Chính vì thế, nhiều lần Đức Giêsu đã tố cáo sự giả hình của họ, Ngài không ngần ngại ví họ như “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23). (x. Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN)

Bản chất giả hình của những người Biệt phái lại một lần nữa được họ thể hiện một cách rõ nét trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 22,15-21). Thật vậy, Thánh Mathêu cho chúng ta biết, họ dùng những lời ngon ngọt để nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào.”(Mt 22,16). Nội dung của những lời nói này không có gì sai, thậm chí còn rất đúng với bản chất vốn có của Đức Giêsu. Giá như họ nói những lời đó với một tấm lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng thì tốt biết mấy. Nhưng thực tế miệng họ nói những lời ngon ngọt như vậy không phải phát xuất từ lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng mà để che đậy ác ý của họ từ bên trong. Bởi vì, sau khi nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu, họ đưa ra một câu hỏi hết sức hóc búa để gài bẩy Ngài. Họ hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?”(Mt 22,7). Đúng là“miệng nam mô bụng bồ dao găm.” Với câu hỏi này, nếu Đức Giêsu trả lời “có” thì đồng nghĩa với việc Ngài ủng hộ chính quyền ngoại bang Rôma đang đô hội Nước Do Thái lúc bấy giờ, mà chính họ được coi là những người ái quốc đang chống lại chính quyền đó. Cho nên, Đức Giêsu sẽ bị chính họ và dân chúng lên án là kẻ phản quốc. Ngài sẽ mất uy tín với dân chúng. Ngược lại, nếu Đức Giêsu trả lời “không” thì Ngài sẽ bị liệt vào kẻ phản động, chống đối chính quyền, bị nhóm Hêrôđê lên án. Bởi vì nhóm Hêrôđê là những kẻ “cọng rắn cắn gà nhà”, họ ủng hộ chính quyền Rôma để trục lợi. Cho nên, chúng ta mới hiểu vì sao bình thường giữa nhóm Biệt phái và nhóm Hêrôđê hay chống đối nhau, thế mà hôm nay họ lại được nhóm Biệt phái mời đến để hợp tác chống lại Đức Giêsu.

Như thế, họ đã đưa Đức Giêsu vào cái thế “lượng đao luận”, nghĩa là trả lời cách nào cũng mắc bẫy của họ. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”. Sau khi nghe những lời tâng bốc và câu hỏi của họ đặt ra, Đức Giêsu đã tố cáo ý đồ thâm độc của họ và Ngài đưa ra giải pháp của mình, Ngài nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa.”(Mt 22,18-21).

Câu trả lời của Đức Giêsu khiến họ chưng hửng, nhưng qua câu trả lời này cũng dạy cho họ và chúng ta một bài học: Mỗi người đều có bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa.

1. Bổn phận đối với Thiên Chúa

– Chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa: Người kitô hữu tin Thiên Chúa là Cha, là Đấng dựng nên, cứu chuộc, quan phòng và muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Kinh thánh cũng dạy mọi người phải biết Kính sợ, yêu mến và biết ơn Thiên Chúa: Thật vậy, con người phải biết kính sợ Thiên Chúa: “Hỡi Israel, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em.” (x. Đnl 10,12); Con người phải biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến bằng cách tuân giữ các giới răn và lệnh truyền của Ngài: “Anh em phải đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc.” (x. Đnl 10,12-13); Con người phải biêt tạ ơn Thiên Chúa: “Hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118,1); “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”(1Tx 5,18); “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa” (x. 1Tx 2,13).

– Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài: Thiên Chúa ban cho con người có tự do, nhưng con người đã lợi dụng tự do để cướp đi quyền làm chủ của Thiên Chúa: Con người cướp đi quyền làm chủ sự sống của Thiên Chúa để giết chết bao nhiêu mạng người: Vụ xả súng mới đây tại bang Las Vegas của Mỹ đã giết chết 59 người; vấn đề phá thai, an tử hằng năm giết chết hàng triệu người vô tội; Con người cướp đi quyền làm chủ thiên nhiên của Thiên Chúa: nạn phá rừng gây ra lũ lụt, dùng thuốc sâu, chất hóa học gây ô nhiễm môi trường; Con người cướp đi quyền làm chủ lương tâm, không còn nghe theo tiếng lương tâm để làm lành lánh dữ nên gây ra biết bao nhiêu tội ác; Con người cướp đi quyền sở hữu của Thiên Chúa qua sự quản lý của Giáo hội về các vấn đề như: đất đai, cơ sở tôn giáo; Người của Thiên Chúa như các giám mục, linh mục, tu sỹ bị hành hung, đánh đập, giết chết nhiều nơi trên thế giới…Đức Giêsu nói: “Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mt 22,21).

2. Bổn phận đối với Tổ quốc

Mỗi người đều có một tổ quốc, có quyền công dân. Đi liền với quyền lợi là bổn phận đối với tổ quốc của mình. Bổn phận trên hết và trước hết là nộp những khoản thuế hợp pháp cho nhà nước. Thời Chúa Giêsu, người Do thái bị đế quốc Rôma đô hộ, nên họ đang tiêu dùng tiền Rôma. Vì tiêu dùng tiền của Rôma nên đương nhiên họ phải nộp thuế cho đế quốc Rôma. Đây là một hành động hợp lý mang tính xã hội. Chính gia đình Thánh gia và cụ thể là chính Đức Giêsu cũng đã từng chu toàn nghĩa vụ công dân của mình. Kinh thánh cho biết: Thánh Giuse và Mẹ Maria đã vâng lệnh nhà vua trở về Bêlem để kê khai hộ khẩu (x. Lc 2,4); Đức Giêsu đã sai Phêrô đi câu cả để lấy tiền nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô (x. Mt 17,26); dù biết lệnh bất công nhưng Ngài vẫn để cho chính quyền bắt Ngài (x. Lc 23,22). Thánh Phaolô dạy: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính.” (Rm13,7)

Ngoài ra, nếu chính quyền là hợp pháp và làm đúng với nghĩa vụ của họ thì buộc lòng người dân phải vâng phục và kính nể. Thánh Phêrô đã từng bảo các kitô hữu rằng: “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua.” (1Pr 2,17). Thánh Phaolô thì bảo các Kitô hữu: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13,1). Chính trong bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Ngài, nên việc làm của vua Cyrô chính là đường lối của Thiên Chúa. Vì vậy, dân Chúa phải tùng phục nhà vua.

3. Phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa

Nếu những khi bổn phận đối với Tổ quốc đi ngược lại với bổn phận đối với Thiên Chúa thì phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa hơn. Bởi vì, người kitô hữu không thể làm những điều trái với giáo huấn của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và kể cả giáo huấn của Giáo hội. Chính Thánh Phêrô và các Tông đồ đã khẳng định rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Câu chuyện của Thánh Thomas More sau đây là mẫu gương cho mỗi người kitô hữu chúng ta:

Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận : một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa Nhật, năm A, tr.305).

Tóm lại, mỗi người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng phải chu toàn, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Nhưng khi phải lựa chọn một trong hai thì cần ưu tiên bổn phẩn đối với Thiên Chúa hơn. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết tránh thói giả bình của Biệt phái và sự thông đồng ác ý của nhóm Hêrôđê. Đồng thời, xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Lời Chúa hôm nay trình bày một chủ đề rất quan trọng và thiết thực: Kitô hữu có 2 bổn phận: một là bổn phận đối với xã hội trần thế; hai là bổn phận đối với Thiên Chúa: “Của Xêda, trả cho Xêda. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa”.

Thời Chúa Giêsu, nước Israel đang bị đế quốc La Mã đô hộ, thống trị. Những người biệt phái không hợp tác, chống lại đế quốc La Mã. Những người thuộc nhóm Hêrôđê thì nhiệt tình cộng tác với đế quốc; cả hai nhóm này đều chống đối Chúa Giêsu. Tuy đường lối chính trị khác nhau, nhóm biệt phái và nhóm Hêrôđê đã hợp tác với nhau để tìm cách làm hại Chúa Giêsu, gài bẫy Chúa Giêsu. Lòng dạ họ ác độc và nham hiểm. Khi đặt câu hỏi với Chúa Giêsu không phải là thành tâm thiện chí muốn tìm hiểu, mà là gài bẫy Chúa Giêsu: “Có được phép nộp thuế cho Xêda không?”.

Câu hỏi rất nham hiểm, thâm độc, rất khó trả lời. Trên búa dưới đe, trả lời có cũng mắc bẫy, đàng nào cũng sa lưới, không thể thoát được. Nếu Chúa Giêsu trả lời  nộp thuế cho Xêda thì lập tức nhóm biệt phái sẽ kết án Chúa Giêsu là phản quốc, theo đế quốc Rôma phản lại dân tộc mình. Nếu Chúa Giêsu trả lời không nộp thuế cho Xêda, nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Đức Giêsu là phản động, chống lại hoàng đế Xêda. Lòng con người thật quả là độc ác “khẩu Phật tâm xà” và gian dối “Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy”.

Hiểu được lòng dạ của họ, ý đồ xấu của họ. Đức Giêsu đưa ra lời giải đáp rất khôn ngoan và hợp lý. Chúa Giêsu nói với họ: “Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Đức Giêsu một quan tiền. Ngài hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai?”. Họ trả lời: “Của vua Xêda”. Đức Giêsu bảo: “Thế thì của Xêda, hãy trả cho Xêda, của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”.

Câu trả lời của Chúa Giêsu thật tuyệt vời và đầy khôn ngoan để lại cho chúng ta một bài học quý giá và thực tế về cuộc sống làm người trong xã hội và làm con cái của Chúa. Đức Giêsu dạy chúng ta, là Kitô hữu, chúng ta phải cho toàn nghĩa vụ của một người công dân trong một nước: đóng thuế, xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước, thi hành nghĩa vụ quân sự, phục vụ công ích… Đóng thuế là nghĩa vụ của người công dân. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng, đang sử dụng như nhà thương, trường học, đường xá, cầu cống, điện nước… đều do sự đóng góp của toàn dân trong một nước. Đóng thuế là công bằng đối với xã hội. Trốn thuế là bất công, là lỗi điều răn thứ 7: “Chớ lấy của người”.

Người Kitô hữu còn phải chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa: sống đạo tốt, thực hành lời Chúa, tuân giữ luật Chúa, làm cho Nước Chúa trị đến, phục vụ, bác ái với mọi người để xây dựng một nền văn minh tình thương trong xã hội hôm nay. Là Kitô hữu, chúng ta là công dân của Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa.

Bức thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 đã đưa ra đường hướng mục vụ của Giáo hội Việt Nam là “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” và “đồng hành với dân tộc Việt Nam”. Trước khi là người Công giáo, chúng ta là người Việt Nam.

Đức Giáo Hoàng Benêdictô XVI nhắn nhủ tín hữu Việt Nam nhân dịp các Đức Giám mục Việt Nam viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô năm 2009.

“Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích… Anh em phải chứng tỏ rằng là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt”.

Sau cùng Kitô hữu phải ý thức mình vừa là công dân của Nước Trời, vừa là công dân trong một nước trần thế. Chúng ta phải chu toàn 2 bổn phận đối với thần quyền (đối với Thiên Chúa) và đối với thế quyền (đối với tổ quốc, quê hương), nghĩa là chúng ta phải tích cực, nỗ lực sống “tốt đạo, đẹp đời” trong cuộc sống hôm nay. Chúng ta chỉ có thể là Kitô hữu, khi chúng ta là công dân tốt trong một nước: “Của Xêda, trả cho Xêda. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa”.

Về mục lục

.

TÔI LÀ CÔNG DÂN NƯỚC NÀO?

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong thế chiến thứ hai, người ta kể một câu chuyện như sau:

Franz JaŠggerstatter sinh ra tại nước Áo và anh được giáo dục theo tinh thần Kitô giáo. Trong cuộc sống, anh không có gì nổi trội, trình độ học vấn nơi anh chỉ là sơ cấp. Cuộc sống của anh trôi đi cách bình thường, nhưng thanh thản với nghề làm thuê theo hợp đồng. Sau đó anh lấy vợ và có với nhau 3 mặt con.

Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là sự trưởng thành trong cuộc sống thường nhật cũng như đời sống đức tin nơi anh.

Đang sống trong cảnh thanh bình thì thế chiến thứ hai ập đến. Anh cũng như nhiều thanh niên khác buộc phải đi lính cho đội quân Hitler. Tuy nhiên, Franz đã từ chối và trả lời những người thắc mắc rằng: “Cuộc chiến này không phải là cuộc chiến vì chính nghĩa. Nên, thật là sai lầm nếu tôi gia nhập quân đội. Điều này trái với Lương Tâm tôi!”; anh nói tiếp: “Tôi yêu dân tộc, và tôi yêu quê hương tôi. Nhưng có một luật lệ cao cả hơn, đó là Luật của Thiên Chúa. Và Luật của Thiên Chúa nói trong Lương Tâm tôi: cuộc chiến này phi nghĩa!”.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cả cuộc đời của Franz là một cuộc chọn lựa giữa chính nghĩa và bất nhân. Giữa cái tạm bợ và vĩnh viễn. Giữa hạnh phúc và đau khổ… Franz đã đi theo đúng đường lối của Thiên Chúa, là: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

  1. Ý đồ của nhóm Pharisiêu và Hêrôđê với Đức Giêsu

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu bị hai nhóm Hêrôđê và Pharisiêu chất vấn Ngài về việc nộp thuế.

Kỳ thực thì hai nhóm này vốn từ lâu đã không đội trời chung, bởi vì nhóm Hêrôđê thì phò cho chính quyền Rôma, còn phe Pharisiêu thì trung thành với dân tộc và chống lại việc đô hộ trên đất nước họ. Tuy nhiên, ngàn năm một thủa, hôm nay cả hai nhóm, họ đều có chung một mục đích là trả thù Đức Giêsu.

Tại sao thế? Chuyện rất đơn giản: Đức Giêsu được dân chúng mến phục vì nhiều việc tốt lành, những bài giảng hấp dẫn, nhất là Ngài đã đứng lên tố cáo sự giả hình của nhóm Pharisiêu để bênh vực cho người nghèo, người thấp cổ bé họng không có tiếng nói… Vì thế, nhóm Pharisêu sợ mất uy tín với dân chúng. Họ không ngần ngại tận dụng mọi cơ hội để thực hiện cho kỳ được mục tiêu của họ là loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi xã hội bằng cái chết. Còn nhóm Hêrôđê thì sợ tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu trên dân, và vì thế, có nguy cơ bị lật đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma.

Để thực hiện được hành vi này, họ đã cấu kết với nhau để chung tay gài bẫy Đức Giêsu.

Điều mà họ đưa ra để nhờ Đức Giêsu giải quyết, chính là: “Có được phép nộp thuế cho vua César chăng?”. Đây là một câu hỏi hóc búa, một tình huống đầy cam go. Họ đã dùng chiêu thức: “Nhất tiễn diệt song điêu”. Đây là cái bẫy thâm độc. Nếu Chúa trả lời “có” thì nhóm Pharisiêu kết án Ngài phản quốc; còn nếu Người nói “không” thì phe Hêrôđê tố cáo Ngài phản động, chống tại chính quyền Rôma. Câu trả lời nào thì cũng đều sụp bẫy của chúng. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trả lời cách khôn ngoan, khiến họ không thể tìm cớ tố cáo Ngài được. Ngài nói: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Với câu trả lời trên, Đức Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy họ đã giăng sẵn, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ một bài học quan trọng, đó là: cần ý thức để biện phân đâu là những cái thuộc về Thiên Chúa và đâu là thuộc về con người. Bổn phận của con người phải có đối với Thiên Chúa là gì?

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Khi nói “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Đức Giêsu muốn nói đến sự lựa chọn của chúng ta. Sự phân định để lựa chọn cho đúng được đặt nền trên chính Lương Tâm nơi mỗi người.

Lương Tâm chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhờ Lương Tâm, chúng ta biết được điều thiện và điều bất toàn. Lương Tâm được ví như cái bánh lái của con tàu giữa biển khơi. Nếu không có bánh lái, con tàu sẽ không biết sẽ đi về đâu! Lương Tâm cũng giống như chiếc la bàn mà người thám hiểm đi trong rừng cần có để xác định hướng đi cho đúng. Nói cách khác, nhờ Lương Tâm chúng ta biết được điều gì nên làm và điều gì không nên. Vì thế, trong mọi tình huống, người Công Giáo phải ưu tiên cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo.

Vì vậy, chúng ta phải tôn trọng điều đúng phù hợp với luân lý Kitô Giáo và nội dung Tin Mừng. Tránh những điều nghịch với Lương Tâm và trái với đạo lý của Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội. Phải can đảm, nhất quyết không thể phó thác cuộc đời, công việc và mục đích cuối cùng của chúng ta cho César!

  1. Thực hành sứ điệp Lời Chúa

Ngày nay, giữa tôn giáo và chính trị, chúng ta được mời gọi vừa tuân thủ những lợi ích quốc gia khi điều được ban bố đúng với Lương Tâm. Mặt khác, chúng ta phải có nghĩa vụ trung tín với Thiên Chúa qua Luật của Ngài được nghi khắc trong Lương Tâm.

Vì thế, cần có những nguyên tắc như sau:

  • Luôn đồng hành với dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào

Thứ nhất, là người Công Giáo, chúng ta được mời gọi sống tinh thần: “là người Công Giáo tốt thì cũng là người công dân tốt” (Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16); Tuy nhiên, “lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực” (HĐGM VN).

Vì thế, dù sống nơi đâu, làm bất cứ việc gì, chúng ta đều chung một mục đích là phục vụ hạnh phúc cho con người và thăng tiến quê hương. Nếu đi ngược lại, ấy là lúc chúng ta đang phản bội quê hương, đất nước.

  • Chỉ buộc vâng phục quyền bính trần thế khi điều được ban hành là đúng

Thứ hai, khi sống trong xã hội trần thế, chúng ta được mời gọi chu toàn nghĩa vụ của mình là một công dân trong một đất nước. Vì thế, chúng ta phải chung tay, góp sức với mọi thành phần, nhằm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp, trong sáng và lành mạnh hơn. Đã là công dân, mỗi người đều có bổn phận đóng thuế, tuân thủ những định luật đúng do một thể chế hợp pháp ban hành. Nhưng những điều lệ, luật định đó phải phù hợp với lẽ phải.

Vì thế, chúng ta luôn ủng hộ đường lối, chính sánh đúng. Tuy nhiên, tùy vai trò, hoàn cảnh thực tế, hẳn chúng ta sẽ không chấp nhận chính sách trái với luân lý Công Giáo! Bởi lẽ, điều này nghịch với Lương Tâm chân chính của một con người.

  • Phải ưu tiên cách tuyệt đối cho Lề Luật của Thiên Chúa

Cuối cùng, người Kitô hữu có mục đích tối hậu là chính Thiên Chúa và sự sống đời đời. Vì vậy, luật lệ mang tính tuyệt đối mà người Công Giáo phải thượng tôn và thi hành cách trung thành, đó chính là Luật của Thiên Chúa.

Là người Công Giáo, nhưng sống trong một xã hội dân sự, chúng ta được Thiên Chúa mặc khải và định hướng bởi Lương Tâm nhằm biết làm lành, lánh dữ, nên trong mọi lựa chọn, phải lựa chọn Thiên Chúa và những căn tính thuộc về Ngài. Xác định được như thế, chúng ta sẽ hiểu hơn về câu nói của Đức Giêsu: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con biết việc chúng con phải làm, ngõ hầu chúng con được bình an, hạnh phúc ngay trong xã hội trần thế. Xin cho chúng con biết lựa chọn những điều ưu tiên, tuyệt đối cho sự sống đời đời. Amen.

Về mục lục

.

ĐỒNG TIỀN HAI MẶT

Phê-rô Trần Đình Phan Tiến

Có thể nói, tháng 09 là tháng Truyền Gíao, nhưng Ngày Khánh Nhật Truyền Gíao lại nằm ở tháng mười, vì Tháng Mười là Tháng Mân Côi, có thể nói sứ mạng Truyền Giáo được Hội Thánh phó thác cho Đức Mẹ Mân Côi, theo đó, Kinh Mân Côi là “KINH TRUYỀN GIÁO” vậy. Mong thay !

Thưa quý vị, thưa các bạn, người ta nói “ Đồng tiền nối liền khúc ruột” , điều nầy nói lên tính chất của tiền bạc, hay là giá trị của đồng tiền. Không ai phủ nhận đồng tiền, vì vậy, nó được “so sánh” và “gán ghép” cho nối liền khúc ruột. Vì , nó nối liền khúc ruột, nên người ta thường “mù quáng” vì đồng tiền là tất  cả. Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ đồng tiền, người ta “chết” cũng vì đồng tiền, mua danh, mua lợi cũng bởi đồng tiền, mua quan bán chức cũng bởi đồng tiền. Đi xa hơn, rộng hơn là tham nhũng, hối lộ cũng vì đồng tiền. Mọi vấn đề của xã hội đều được giải quyết bởi đồng tiền, bước ra khỏi cửa phải có tiền, nói gì, làm gì cũng do đồng tiền. Vì, người ta nghĩ rằng có tiền là có tất  cả. Đối với sự sống hiện tại, đồng tiền là sự sống, cuộc sống nầy.

Từ đó, “đồng tiền luôn gắn liền khúc ruột”, vì “ nén bạc đâm toặc tờ giấy”. Có tiền nói dễ người nghe, không tiền nói mãi chẳng ai nghe mình. Vâng, đời là thế !

Vâng, chủ đề Lời Chúa hôm nay không phải nói về “đồng tiền”, nhưng người Dothai đã dùng đồng tiền để thứ Chúa Giêsu. Thử Chúa để gài bẩy có cớ để bắt Người. Chúng ta thấy, Chúa Giêsu cũng “bị” thử thách như vậy. Mục đích của việc thử thách nầy là để gài Người vào thế “chính trị”. Nhưng, quả thật Người là Đấng Thiên Sai, là Đấng công chính trên sự công chính, vì vậy sự gài bẩy bất thành, và họ nhận được một bài học khôn ngoan , và qua họ, chúng ta cũng nhận được một bài học vô cùng thấm thía.

Vâng, thưa quý vị , thưa các bạn , giá trị của sự khôn ngoan còn lớn gấp bội giá trị của đồng tiền. Bởi vì sao, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì muốn có được đồng tiền rất là vất vả . cực khổ, bởi vì như đã nói ở trên, thì việc kiếm đước đồng tiền phải trả giá, mồ hôi và nước mắt, không ít khi là sinh mạng nữa. Nhưng, khi kiếm thật nhiều tiền rồi để làm gì, thưa quý vị.? Để ăn , thì ăn không hết, để xây nhà ở, thì ở cũng không hết, để xây nhà cho thuê, thì sinh lợi ra thêm tiền để làm gì, để đi du lịch, đi du lịc về rồi cũng chờ chết. Vì, tất cả ai cũng vậy, giàu cũng như nghèo , “sống qua ngày, chờ qua đời” mà thôi. Dù có bệnh trọng hay mạnh khỏe, chẳng qua là thời gian mà thôi. Dù có đi du lịch hay ở nhà cũng vậy thôi, Mục đích của cuộc đời không phải chỉ duy nhất là “đồng tiền”, mà là  đồng tiền “ chân chính” thì dẫn đến cuộc sống an bình. Đồng tiền bất chính thì dẫn đến cuộc sống đầy âu lo.

Vừa qua, tại Việt Nam, người ta xét xử vụ trọng án tham nhũng, lừa đảo , với bản án cho người cầm đầu là chung thân. Vậy, thử hỏi đồng tiền có phải là tất cả không?

Chúng ta nhớ lại một Đoạn Tin Mừng, một người phú hộ cứ lo tích lũy đầy của cải cho mình rồi nói rằng: “Ta cứ nghĩ nghơi, ăn chơi thỏa thích. Nhưng , Chúa nói : “ Đêm nay, Ta sẽ đòi mạng nguơi , thì của cải ấy về tay ai .“

Như vậy, chúng ta thấy, của cải trần gian cũng vừa vô nghĩa, lại cũng vừa nhân nghĩa, với tiền bạc của cải trần gian cũng có thể mua được Nước Trời, nhưng phải là “đồng tiền chân chính”. Cũng của cải trần gian, nhưng cũng sẽ trở thành vô nghĩa khi nó là đồng tiền phi nghĩa.

Như vậy, giá trị của đồng tiền là nhất định , không ai có thể phủ nhận nó, nhưng đối với những ai bước theo chân lý Tin Mừng của Đức Kitô thì không thể đặt đồng tiền trên sự khôn ngoan đích thực đó là Tin Mừng. Không ai phủ nhận giá trị của đồng tiền chân chính, nhưng người bước theo Đức Kitô phải đặt Người trên giá trị của đồng tiền, vì đó là kẻ khôn ngoan.

Đồng tiền ,sở dĩ có giá trị , vì theo tính chất của nó mang tính triết lý không thể phủ nhận là nó có hai mặt, luôn luôn là như vậy. Điều nầy cho thấy , nếu chúng ta sử dụng đồng tiền chỉ một một đích duy nhất là để hưởng thụ cho chính mình, thì chắc chắn sẽ có một tác dụng hoặc phản tác dụng, vì bản chất đồng tiền phải có “hai mặt” nhưng nếu chúng ta sử dụng đồng tiền như bản chất của đồng tiền, thì đồng tiền ấy sẽ vô cùng hiệu quả. Thường thì người ta “quý tiền “, chứ không phải “thờ tiền”. Qúy tiền có nghĩa là dùng tiền đúng cách, trao ban đúng đối tượng, kể cả thân hay sơ. Nhưng, nếu “thờ tiền”, thì tiền sẽ là “ chúa tể” của chúng ta, lúc ấy chúng ta sẽ là ” nô lệ”, mặc nhiên, lúc ấy chúng ta sẽ mất tự do, và điều bất hạnh luôn ngự trị trên chúng ta bao lâu chúng ta sống trên trân thế.

Nhưng, nếu chúng ta phung phí giá trị của đồng tiền,. thì chúng ta cũng sẽ bị đồng tiền “trừng trị “ chúng ta. Chúng ta cũng thừơng nghe nói “ ma lực của đồng tiền”, vì đồng tiền có một sức mạnh vô hình , tức sự cám dỗ rất lớn, nếu chúng ta không cảnh giác, và đặt nó dưới “chân “của Thiên Chúa , thì chắc chắn nó sẽ cám dỗ chúng ta.

Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay, câu quan trọng nhất là câu 21, bởi vì , cái gì của thế gian thì hãy trả cho thế gian. Đồng tiền bất chính tượng trưng cho thế gian, thì hãy trả cho thế gian. Đồng tiền chân chính là đồng tiền do Thiên Chúa ban qua công sức lao động của mỗi người, thì chúng ta được phép thụ hưởng một phần, còn lại chúng ta phải biết chia sẻ và  dâng lại cho Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu dùng ngụ ý nầy, người muốn nói về vừa giá trị vật chất, vừa giá trị tinh thần theo sự công bằng tự nhiên và siêu nhiên. Chúng ta mắc nợ ai điều gì, thì chúng ta phải trả cho họ, nếu không chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta mắc nợ Thiên chúa điều gì, thì chúng ta cũng phải trả lẽ trước mặ Thiên Chúa điều ấy. Vì , sau cùng Đấng đòi chúng ta trả lẽ chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mà thôi .

Bài đọc II hôm nay ( 1Tx 1, 1-5 b), thánh Phaolo nói “ …. Vì khi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có mình chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và mộ niềm tin xác tín sâu xa.” ( c 5b)

Theo đó, “ Đều gì của Xê-za hãy trả cho Xê-za, điều gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa . (Mt 22, 21). Chính là ý nghĩa của đồng tiền hai mặt vậy.

Khánh Nhật Truyền Giáo có thể nói là ngày chúng ta phải trả nợ cho Thiên Chúa theo những gì chúng ta đã lãnh nhận được. Việc chúng ta đóng góp cho quỹ Truyền Giáo là chúng ta bước theo Đức Kitô- Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng Nước Trời vậy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con biết được giá trị  của việc rao giảng Tin Mừng qua đồng tiền của Xê-za, xin cho chúng con biết “cư xử sòng phẳng” những gì là ân sủng của Nước Trời và những gì thuộc về tha nhân trong sự công bình và bác ái ./. Amen

Về mục lục

.

RẠCH RÒI BỔN PHẬN

Trầm Thiên Thu

Người Việt có câu: “Ăn cây nào, rào cây nấy”. Đó là nói về bổn phận phải thực hiện. Người ta cũng có cách nói khác: “Của thiên trả địa”. Đó là nói về tình trạng sở hữu, nhưng mang nghĩa xấu, với ý nói rằng cái gì không là của mình thì không thể giữ được, tương tự kiểu nói: “Của phi nghĩa có giàu đâu!”.

Quyền sở hữu liên quan bổn phận. Chắc chắn không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là “quyền làm chủ”, và như thế thì ai cũng có bổn phận. Hoàn toàn hợp lý. Quyền sở hữu là quyền cơ bản nhất của mỗi con người, bất kỳ ai. Trong lĩnh vực tài chính, người ta còn có “quyền sở hữu chéo” (ngân hàng này sở hữu ngân hàng khác, doanh nghiệp này sở hữu một doanh nghiệp khác,… mối quan hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp – khái niệm “lạ” này mới xuất hiện từ thập niên 1980). Kể cũng lạ, nhưng phần nào nói lên mối liên đới lẫn nhau.

Thời gian và tự do là đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, nghĩa là chúng ta có quyền sở hữu hai thứ đó. Tuy nhiên, chúng ta KHÔNG LÀM CHỦ mà CHỈ QUẢN LÝ. Rất rạch ròi, vì chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Thật đúng như vậy, khi nói về một tài năng nào đó, người ta dùng chữ “thiên phú” – tức là “trời cho” đó thôi. Tác giả sách Giảng Viên cảm nhận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân BIẾT KÍNH SỢ NGƯỜI” (Gv 3:12-14). Vấn đề quan trọng là người nào đó có tài năng mà còn biết kính sợ Chúa hay không, còn biết khiêm nhường hay không. Chứ ảo tưởng thì “chết chắc” thôi! Vả lại, Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).

Thuở xưa, Thiên Chúa đã phán với vua Kyrô, người được Ngài xức dầu: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (Is 45:1). Ngài giải thoát ai, người đó thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta cũng được Thiên Chúa cứu độ bằng Giá Máu của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài, vậy chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô và mặc lấy Đức Kitô (Gl 3:27), thuộc dòng dõi Áp-ra-ham và được thừa kế (Gl 3:29). Mà những ai thuộc về Thiên Chúa thì phải vâng lời Ngài (Ga 8:47). Đó là điều quan trọng, là bổn phận và trách nhiệm cả đời!

Với lòng thương xót vô biên và sự ân cần tha thiết, Thiên Chúa giải thích: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45:4-6). Thiên Chúa nhấn mạnh tính cao cả duy nhất của Ngài bằng cách lặp đi lặp lại: “Ta là Đức Chúa, KHÔNG CÒN CHÚA NÀO KHÁC”. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chỉ được phép tôn thờ một mình Ngài. Và thật diễm phúc, chúng ta đã nhận ra điều này, để rồi chúng ta đang tôn thờ Ngài và không ngừng nỗ lực học bài học yêu của Ngài. Cũng như dân Ít-ra-en, chúng ta được trở nên dân riêng của Ngài. Nhưng đừng vì thế mà ỷ lại hoặc ảo tưởng!

Chúng ta hoàn toàn bất xứng, bởi vì “con tim là tro bụi, hy vọng hèn hơn đất, cuộc đời tệ hơn bùn” (Kn 15:10), thế nhưng Thiên Chúa vẫn quan tâm, chăm sóc và hết mực yêu thương chúng ta, Ngài còn khuyến khích chúng ta như đã động viên dân Ít-ra-en xưa: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1). Dân Ít-ra-en là “vật sở hữu” của Thiên Chúa, chúng ta cũng thế. Ngày nay cũng có những thứ thuộc về Thiên Chúa, tương tự như Dân Riêng vậy. Đó là những thứ thuộc quyền sở hữu của Ngài, ai dám liều mạng mà “đụng chạm” đến những gì của Chúa thì “kẹt lắm” đấy. Phàm nhân chúng ta thật diễm phúc: “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8:5).

Thế gian không có gì trường tồn, chẳng có chi vĩnh cửu. Mọi sự ở dưới bầu trời này đều có lúc, mọi việc đều có thời. Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, tức là tận hưởng những gì mình sở hữu, điều đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi (x. Gv 3:1-12). Vâng, tất cả chỉ là phù vân, chúng ta “chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết” (Tv 49:13), chẳng có gì bền vững, chỉ có Thiên Chúa là Đấng vạn đại trường tồn (Tv 102:25). Biết mình hữu hạn, biết Chúa vô hạn, để mà hết lòng tôn thờ và tán tụng Thiên Chúa. Cảm nhận niềm hạnh phúc này, Thánh Vịnh gia không thể lặng im nên đã mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” (Tv 96:1).

Trong Kinh Nguyện Thánh Thể, Giáo hội minh định rằng việc chúng ta ca tụng Chúa chẳng thêm gì cho Thiên Chúa, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Việc ca tụng Thiên Chúa không chỉ là trách nhiệm và bổn phận của chúng ta mà còn là niềm hạnh phúc của chúng ta: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao” (Tv 96:3-5). Ca tụng Chúa khi chúng ta may mắn, đó là điều dễ thực hiện, nhưng ca tụng Chúa ngay cả khi cuộc đời chúng ta không “xuôi chèo mát mái”, đó mới là điều khó thực hiện – nhưng làm được vậy mới có giá trị cao. Trong đau khổ tận cùng, ông Gióp vẫn rạch ròi đặt vấn đề với người vợ vô tâm vô tính: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2:10).

Sinh ra tay trắng, chẳng có hành lý gì vào đời, nhưng Thiên Chúa vẫn ban cho chúng ta mọi thứ (cả vật chất lẫn tinh thần), thế mà chúng ta vô tâm cho rằng đó là “dĩ nhiên”, đã không biết tạ ơn thì thôi, chúng ta lại còn “so đo” và cho rằng mình không được may mắn như người khác. Thật ra đó là ý mình, không phải Ý Chúa. Đôi khi chúng ta chỉ muốn ép Chúa theo ý mình. To gan lắm đấy!

Sự thật minh nhiên là Thiên Chúa luôn xứng đáng để chúng ta xưng tụng mọi nơi và mọi lúc. Thật vậy, Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Hỡi các dân các nước, hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” (Tv 96:7-10). Thật hạnh phúc khi nhận biết và xưng tụng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa duy nhất, chắc chắn không có Đấng nào khác.

Chúng ta chẳng có gì, tất cả là của Chúa, Ngài sở hữu tất cả. Đúng vậy, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm nên trò trống gì, chỉ là đồ vô tích sự (x. Ga 15:5 và Lc 17:10). Vậy vì cớ gì mà chúng ta lại không tôn vinh và không tạ ơn Thiên Chúa? Có ai đau khổ bằng ông Gióp? Thế mà trong lúc đau khổ đến tột cùng, mất hết mọi vật sở hữu, từ của cải tới con cái, nhưng ông Gióp vẫn “không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G 1:22). Thiên Chúa đã xác nhận với Satan về ông Gióp: “Chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn, ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (G 1:8). Đó là 4 “điểm son” của Thánh Gióp, đồng thời là một tấm gương to lớn và sáng chói để chúng ta soi vào. Cuộc đời có khi chưa đến nỗi nào mà chúng ta đã than trách đủ thứ. Còn lâu thật là lâu chúng ta mới có thể “xách dép” chạy theo Thánh Gióp. Thật vậy, vác thập giá đâu có sướng, đâu có nhàn, không thể cứ tà tà mà vác rồi lại đòi này hỏi nọ!

Trách nhiệm và bổn phận của chúng ta không chỉ phải biết tạ ơn và cầu nguyện cho mình mà còn phải tạ ơn và cầu nguyện cho người khác, đồng thời còn phải biết ơn nhau nữa. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1 Tx 1:2-3). Đó là sợi dây liên đới trong tình yêu Kitô giáo, thật là tuyệt vời biết bao!

Tiếp theo, Thánh Phaolô vừa giải thích vừa xác định: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em” (1 Tx 1:4-5). Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Thêxalônica nhưng cũng là nói với chính chúng ta – mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận, mỗi tu viện, mỗi chủng viện,…

Người ta có câu: “Nhà có gia phong, nước có quốc pháp”. Quốc gia nào cũng có hiến pháp – nhưng hiến pháp phải hợp lòng dân, không thể tự ý ra luật “tùy hứng” rồi bắt người khác thực hiện, theo kiểu “luật rừng”. Luật có sau con người. Luật vị nhân sinh, luật vì con người. Luật giúp con người sống tốt hơn và giúp duy trì trật tự. Nên giữ luật nhưng đừng câu nệ luật, cứng ngắc theo “chữ đỏ”. Tương tự, người ta nói rằng “tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên”. Trong ba người cùng đi cũng có một người là thầy, có khả năng hướng dẫn hai người kia – tức là có thể “làm luật”. Dù là luật gì cũng phải vì yêu thương, không thể làm luật để “hành hạ” người khác.

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 22:15-21, đề cập quyền sở hữu. Một hôm, những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Không chỉ vậy, họ còn cấu kết với phe Hêrôđê – kẻ nham hiểm và hèn nhát. Quả thật, họ sai các đệ tử của họ cùng đi với những người theo phe Hêrôđê đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22:16-17). Ra vẻ chân thành nhưng chỉ là mưu mô xảo quyệt. Đó là những người “miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm”. Kinh khủng thật! Ngày nay cũng vẫn không thiếu những kẻ nham hiểm như vậy.

Sự thật mãi là sự thật. Vải thưa không thể che mắt thánh! Chúa Giêsu biết tỏng mưu thâm kế độc của họ nên Ngài thẳng thắn nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình? Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!”. Họ thường xuyên bị Chúa Giêsu trách mắng thẳng mặt và nguyền rủa, thế mà họ vẫn cứ trơ trơ. Họ thuộc loại “mặt dày”, vẫn thản nhiên đưa cho Ngài một quan tiền. Ngài vừa chỉ đồng tiền vừa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ vẫn đáp tỉnh queo: “Của Xêda”. Thật trơ trẽn, tồi tệ! Bấy giờ, Ngài bảo họ: “Thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22:21). Cái gì của ai thì trả cho người đó, vì đó là quyền sở hữu của họ, tất nhiên cũng không ai có quyền chiếm hữu bất cứ thứ gì của người khác – dù vật thể hay phi vật thể. Ôi, câu trả lời của Chúa độc đáo vô cùng! Nghe vậy, họ ngạc nhiên lắm, nhưng cũng đành câm họng và bỏ đi!

Chắc chắn ai cũng khả dĩ hiểu rằng cái gì của người khác thì không thuộc quyền sở hữu của mình, chớ có nổi lòng tham hoặc rờ tới. Hai điều Thiên Chúa đã nghiêm cấm trong Thập Giới là “chớ LẤY của người” và “chớ THAM của người” (Giới răn thứ bảy và thứ mười). Thế nhưng có một số người có khái niệm lệch lạc thế này: “Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh”. Nguy hiểm quá! Cuộc sống có nhiều dạng sở hữu, nhưng cần phải biết phân biệt rạch ròi: Cái gì thuộc về trần tục, và cái gì thuộc về tâm linh. Đừng lầm lẫn để rồi râu ông nọ lại đem cắm cằm bà kia. Vâng lời quyền bính thế gian cũng là vâng lời Thiên Chúa, nếu khoản luật đó hợp với công bình và bác ái.

Con người có hai phần – hồn và xác, thế nên cũng có hai dạng trách nhiệm rạch ròi, không thể lẫn lộn với nhau. Thánh Phaolô nói về nhà chức trách: “Làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm” (Rm 13:3-5). Ở đây có ý nói “lương tâm ngay lành”, chứ không đề cập dạng “lương tâm lệch lạc”.

Cũng nên lưu ý loại lương tâm bị “chai cứng” hoặc “lệch lạc”, loại lương tâm như vậy không đủ mức phân biệt phải hoặc trái. Đó là loại lương tâm rất nguy hiểm, vì không còn cảm thức tội lỗi. Ngày nay chúng ta thấy xuất hiện những người tự xưng là thuộc tổ chức IS (Islamic State – Nhà nước Hồi giáo), họ giết người rất dã man vì họ cho đó là “điều chính nghĩa”, là “thánh chiến” (sic!). Ngay cả các trẻ em vô tội cũng bị họ sát hại dã man. Đã từng có đợt họ hành hạ dã man khoảng 70.000 trẻ em. Niềm tin tôn giáo của họ lệch lạc nên hóa bất nhân quá!

Rất rạch ròi, Thánh Phaolô đã dặn dò đệ tử Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người” (Tt 3:1-2). Những mệnh lệnh cách rất mạnh mẽ, dù theo thể phủ định hoặc xác định!

Nhưng rồi tất cả cũng chỉ là phù vân, và mọi thứ sẽ qua đi. Chắc chắn không có gì trường tồn ở thế gian này, ngay cả những gì chúng ta đang sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi, thậm chí kể cả sự sống: “Chúa lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Những gì chúng ta sở hữu và thuộc về chúng ta mãi mãi chính là các nhân đức. Loại “vật sở hữu” này rất quan trọng, gọi là “công trạng”, vì đó sẽ là chứng cớ hùng hồn bênh vực cho chính chúng ta, chỉ nhờ đó mà chúng ta được trở thành Công Dân Nước Trời – dĩ nhiên trước tiên phải nhờ công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

Có Chúa thì mới có tất cả, Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas (1225-1274, người Ý, linh mục Dòng Đa-minh) rất khôn ngoan khi cầu xin: “Con chỉ muốn Chúa thôi!”. Đó là điều duy nhất mà mỗi chúng ta phải nỗ lực để khả dĩ “sở hữu” mãi mãi! Còn Thánh Tiến sĩ Gioan Thánh Giá (1542-1591, người Tây Ban Nha, linh mục Dòng Camêlô), khi Chúa hỏi “muốn phần thưởng gì”, thánh nhân trả lời: “Xin cho con chịu ĐAU KHỔ và chịu SỈ NHỤC vì Chúa”. Đó là dạng sở hữu rất đặc biệt, đồng thời cũng là trách nhiệm và bổn phận. Rất rạch ròi! Và có một loại thuế đặc biệt mà chúng ta phải nộp cho Thiên Chúa: Mến Chúa – Yêu Người.

Hôm nay là Chúa Nhật áp chót của tháng Mười, theo truyền thống Công giáo là Ngày Khánh nhật Truyền giáo, ngày cổ vũ ơn thiên triệu linh mục và dâng hiến, nói đơn giản là “ơn gọi đi tu”. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng Ngày Thế giới Truyền Giáo được ĐGH Piô XI khai sinh từ năm 1926.

Ngày 4-6-2017, Tòa Thánh đã chính thức công bố Sứ điệp Khánh nhật Truyền giáo Năm 2017. Trong đó, ĐGH Phanxicô đề cập việc thực hiện sứ vụ truyền giáo của chúng ta cùng với Mẹ Maria: “Trong việc thực thi sứ vụ truyền giáo của chúng ta, chúng ta hãy rút cảm hứng từ Mẹ Maria, Mẹ của việc Phúc Âm hóa. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa ở tận đáy đức tin khiêm tốn của Mẹ. Nguyện xin Mẹ Đồng Trinh giúp chúng con nói lên lời ‘xin vâng’ của chính mình, ý thức về nhu cầu cấp bách để làm Tin Mừng của Chúa Giêsu vang lên trong thời đại của chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con có lòng nhiệt thành mới trong việc mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng về sự sống, là sự sống đã chiến thắng sự chết. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con để chúng con có thể có được sự táo bạo thánh thiện cần thiết để khám phá ra những cách thức mới ngõ hầu mang lại ơn cứu độ cho mọi người nam nữ” (số 10).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận thức đúng đắn về đức tin, đức ái, trách nhiệm và bổn phận của con. “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa” (Tv 74:16), “trời là của Chúa, đất cũng là của Chúa” (Tv 89:12), con chẳng có gì, xin triệt tiêu tính kiêu ngạo trong con, và xin đổ “máu hồng thương xót” vào trái tim của mọi người để tất cả NÊN MỘT (Ga 17:20-23) theo Tôn Ý Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

LÝ TƯỞNG CỦA GIÁO HỘI CHÚA KY-TÔ

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Một em bé hỏi chị: chị ơi, lý tưởng là gì? Cô giáo em luôn nói sống phải có lý tưởng. Nếu cuộc đời không có lý tưởng thì sống sẽ vô ích và vô giá trị.
Người chị đã ân cần nói với em: giả thử có một buổi tối nào đó, em ngồi bên khung cửa sổ nhìn ra bầu trời và thấy một vì sao xanh lấp lánh trên ngọn cây. Ngôi sao đẹp và quyến rũ quá nên em định chạy ra ngoài để bắt lấy. Nhưng khi em vừa đứng dưới gốc cây thì ngôi sao đã bay lên đỉnh đồi. Em cố gắng chạy theo, lên tới sườn đồi thì ngôi sao đã lên tận đỉnh núi. Nếu em cố sức leo lên đỉnh núi thì sao đã lờ lững trên vùng biển khơi. Em lấy thuyền bơi theo sao thì sao cứ lên cao, bay xa mãi. Em không bắt được ngôi sao trong tay, nhưng trong đêm trường trên mặt biển đó, ngôi sao là đích điểm, là ánh sáng dẫn đường cho em tiến tới mãi. Người chị kết luận: Lý Tưởng của con người giống như vậy. Nó là một ước mơ, một hình ảnh đẹp dẫn dắt đời ta, giúp ta vượt ra ngoài cuộc sống tầm thường để vươn tới cuộc sống cao như bầu trời, rộng như đại dương. Lý tưởng sẽ dẫn dắt đời ta và giúp ta luôn luôn tiến tới.
Cuộc sống cần có lý tưởng. Lý tưởng sẽ cho ta sự khao khát sống và vươn lên. Lý tưởng sẽ giúp ta luôn sáng kiến, tìm tòi, nỗ lực để đạt được ước mơ của mình.
Hôm nay ngày khánh nhật Truyền giáo là dịp để chúng ta cùng nói với nhau về lý tưởng của Giáo hội. Giáo hội Chúa Ky-tô cũng có lý tưởng là loan báo Tin mừng đến cho mọi người trên thế giới. Lý tưởng này đã thôi thúc Giáo hội và biết bao nhà truyền giáo vượt qua mọi không gian và thời gian để mang tin mừng đến cho mọi người ở mọi nơi. Giáo hội qua mọi thời kỳ luôn canh tân, sáng tạo bằng mọi hình thức để Tin mừng của Chúa thẩm thấu vào trong thế gian.
Chính nhờ lý tưởng ấy mà hơn 2000 năm Giáo hội không ngừng nói về Chúa và làm nhân chứng cho tình yêu Chúa. Nhớ lý tưởng ấy mà Giáo hội luôn có hàng ngàn môn đệ của Chúa đi đến tận rừng sâu nói về Chúa và sống chứng nhân cho anh chị em nhiều sắc tộc. Nhờ lý tưởng mà hàng ngàn anh hùng tử đạo đã  không hề sợ đói khát, thiếu thốn, kể cả tù đầy và cái chết để làm chứng cho Tin Mừng.  Nhớ lý tưởng ấy mà hàng ngàn tông đồ nhiệt thành luôn thăm viếng, chia sẻ cơm bánh cho những mảnh đời bất hạnh ốm đau, đói khát, bất hạnh ở trong mọi ngõ ngách cuộc sống . . . Nhờ lý tưởng ấy mà con số 12 tông đồ ít ỏi nay đã có 1 tỷ 253 triệu người tín hữu Công Giáo (số liệu Vat 2003). 
Lý tưởng đó hôm nay Giáo hội vẫn đang mời gọi các tín hữu cùng nhau chia sẻ ưu tư lo lắng để làm sao cho tin mừng luôn mới mẻ và hấp dẫn với con người thời đại hôm nay. Nói cách khác, mỗi người chúng ta cũng phải là một vì sao sáng để dẫn dắt anh em mình đến với Chúa.
Giữa một thế giới đang vắng bóng Thiên Chúa chúng ta phải sống sáng danh Chúa qua việc thờ phượng Chúa và sống đức ái tin mừng. Giữa một thế giới đang xa cách tình người, chúng ta cần mang tin mừng yêu thương đến cho mọi phận người đang khổ đau vì đói, vì bệnh tật, vì thiên tai . . . Giữa một thế giới mà những giá trị luân lý đang bị xuống cấp, chúng ta phải sống theo giáo huấn của Chúa để xây dựng một xã hội văn hóa biết tôn trọng luân thường đạo lý.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết chia sẻ ưu tư Loan báo Tin mừng với Giáo hội của Chúa Ky-tô, luôn mang trong mình lý tưởng là khao khát cho muôn dân nhận biết Chúa. Xin cho chúng ta cũng trở thành một vì sao đẹp trong mắt tha nhân khi sống chứng nhân tin mừng, một cuộc sống yêu thương phục vụ không toan tính thiệt hơn để danh Chúa được cả sáng trên bầu trời hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

ĐÃ LÀ KITÔ HỮU PHẢI TRUYỀN GIÁO

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hàng năm, cứ mỗi khi tháng 10 về, Giáo hội lại cùng với con cái mình sốt sáng lẫn chuỗi Mân Côi và khám phá lại vẻ đẹp của lời Kinh này để cầu cho thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo, Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho việc truyền giáo, nên Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp cho mọi thành phần dân Chúa, khuyến khích họ bước theo Chúa Giêsu “Người rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7), và “lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá” (Sứ điệp Truyền giáo 2017, số 10) để lên đường truyền giáo.

Nhưng truyền giáo để làm gì ?

Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo ; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.

Ai phải truyền giáo?

Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô nói : “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta : “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân ” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô kêu lên : “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.

Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Ðức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.

Thánh Phaolô viết : “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Người không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Người còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó.

Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô” (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).

Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay với chủ đề : “Việc Truyền Giáo ở tâm điểm của Đức Tin Kitô giáo”. Trong lời mở đầu, Đức Thánh Cha Phanxicô viết : “Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa” (Trích Sứ điệp truyền giáo 2017). Ngài gợi lên một số vấn nạn cốt yếu để chúng ta suy nghĩ và hành động như : “Nền tảng việc truyền giáo của chúng ta là gì? Tâm điểm việc truyền giáo của chúng ta là gì? Chúng ta phải có cách tiếp cận cơ bản nào để thi hành công việc truyền giáo?” Ngài trích lời của thánh Iréné : “Vinh quang của Thiên Chúa là chính con người sống” (Irênê, Adversus Haereses IV, 20, 7). Chúa Giêsu đến để cho con người không những được sống mà còn sống dồi dào. Vì thế, “việc truyền giáo của Hội Thánh không thể là quảng bá một ý thức hệ tôn giáo, càng không thể là đề nghị một học thuyết đạo đức cao siêu… Truyền giáo là trình bày cho con người thời nay biết Chúa Giêsu phục sinh đang sống giữa chúng ta, những ai đón nhận Người thì với đức tin và đức mến có thể trải nghiệm sức mạnh biến đổi của Thần Khí Người” (số 3). Ngài viết tiếp : “Thế giới vô cùng cần Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” (số 5) ; Ngài nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa “đừng bao giờ quên rằng, là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ với một biến cố, một Người, sự gặp gỡ ấy tạo cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định”(Bênêđictô XVI, Deus Caritas Est, 1). Ngài thêm : “Truyền giáo nhắc nhở Hội Thánh rằng mình không phải là một mục đích tự tại, nhưng là một dụng cụ và trung gian khiêm tốn của Nước Trời” (số 7), và Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến người trẻ, ngài viết : “Giới trẻ là hy vọng của truyền giáo. Con người Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ” (số 8) . Cuối cùng ngài khuyên : “Chúng ta hãy lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời sự sống trong đức tin khiêm cung thâm sâu của Mẹ”.

Xin Đức Trinh Nữ giúp chúng ta nói lên lời “xin vâng” của mình, khi ý thức nhu cầu cấp bách phải làm cho Tin Mừng của Đức Giêsu vang dội trong thời đại chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

NHIỆT HUYẾT TÔNG ĐỒ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Truyền giáo là một sứ mạng thiêng liêng cao cả, khởi nguồn từ Thiên Chúa. Qua mọi can dự vào lịch sử loài người, Thiên Chúa Ba Ngôi đã làm tất cả “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”.

Sứ mạng truyền giáo đã được trao phó cho Giáo Hội. Khi lập Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu cho thấy ý định trao phó sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội sau này (x. Mc 3,13). Trước khi rời các Tông đồ để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã trực tiếp ban mệnh lệnh truyền giáo cho các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21), “Anh em hãy đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Chính các Tông đồ và những cộng sự của các ngài đã thừa hành mệnh lệnh này một cách xuất sắc. Trải qua bao khó khăn dọc dài lịch sử, các ngài đã đem Tin Mừng Phục Sinh tới nhiều miền và cho nhiều tâm hồn. Hơn hai ngàn năm qua, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, các thế hệ tông đồ truyền giáo đã nối tiếp nhau mang Tin Mừng đi khắp địa cầu.

Như vậy, truyền giáo xuất phát từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô sứ mạng này đã được trao cho Giáo Hội, nhờ Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trung thành và nhiệt thành chu toàn sứ mạng cho đến ngày tận thế.

Thực thi sứ mạng truyền giáo là chia sẻ cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, yêu thương đến cùng, yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. Truyền giáo là làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống.

1. Nội dung truyền giáo

Trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu ban lệnh truyền; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Lời Chúa nói với các môn đệ về nội dung truyền giáo có 4 công việc quan trọng.

a. Truyền giáo là Rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Rao giảng là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Truyền giáo là “loan báo Tin mừng”.

b. Truyền giáo là “thiết lập cộng đoàn các môn đệ”, cộng đoàn những người tin vào Chúa Kitô, cộng đoàn này chính là Giáo Hội. Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.

c. Truyền giáo là “cử hành Phụng vụ và các Bí tích”. Chúa Giêsu cũng nói rõ: “làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Các Bí tích thuộc về Nhiệm cục Cứu độ của thời đại Tân Ước, được Chúa Giêsu thiết lập, để qua đó ban ơn cứu độ cho con người.

d. Truyền giáo là dạy Giáo lý, là Huấn giáo. Chúa Giêsu đã căn dặn: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Mục tiêu của Huấn giáo là dạy cho người ta biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa, giúp cho người Kitô hữu có thể gặp gỡ Chúa, tiếp xúc với Chúa trong đời sống cầu nguyện, cũng như trong đời sống thực tế hằng ngày.

2. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu

Việc truyền giáo của Hội Thánh hướng tới mọi người thành tâm thiện chí, và dựa trên sức mạnh biến đổi của Tin Mừng. Tin Mừng là Tin Vui chứa đầy niềm vui có sức lan toả, vì nó chứa đựng và cống hiến sự sống mới: sự sống của Đức Kitô Phục Sinh, Đấng là Đường, Sự Thật và Sự Sống (x. Ga 14,6) cho chúng ta, và đổ đầy Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Người là Đường mời gọi chúng ta theo Người với lòng tin tưởng và can đảm. Khi theo Đức Giêsu là Đường, chúng ta trải nghiệm Sự Thật và lãnh nhận Sự Sống của Người, nghĩa là có sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa Cha trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Sự sống ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi ích kỷ, và là nguồn sáng tạo trong tình yêu”. (Sứ điệp TG 2017).

Đức Thánh Cha Phanxicô gợi lên hai câu chuyện Tin Mừng trong sứ vụ truyền giáo của Chúa Giêsu : “Thế giới vô cùng cần Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Thông qua Hội Thánh, Đức Kitô tiếp tục sứ mạng của mình là Người Samari Tốt Lành, săn sóc những vết thương rướm máu của nhân loại, và là Người Mục Tử Tốt Lành, không ngừng tìm kiếm những con chiên lạc trên những con đường ngoằn ngoèo không dẫn tới đâu” (Sứ điệp TG 2017, số 5).

Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Suốt đời, Ngài đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Ngài rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu.

Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó.Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo.Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu dạy các Tông đồ về cách thức loan báo Tin Mừng. Đó là, ở lại với dân chúng và giúp họ nghe lời thông truyền Tình Thương và Sự Sống, lời kêu gọi sám hối và mở lòng đón Chúa, lời đem lại ơn giải thoát cho họ (x. Mc 6,11). Như vậy, người tông đồ ra đi loan báo Tin Mừng không nhất thiết phải giúp người dân có “cơm dư gạo thừa”, nhưng công việc trước tiên là hãy đi vào trong văn hóa của địa phương và nói Lời Chúa cho dân chúng nghe, sau đó mới giúp đỡ họ được khỏe mạnh phần xác như xức dầu, trừ quỷ, chữa lành bệnh tật. Nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu, người nghe được ơn biến đổi theo Tin Mừng.Truyền giáo đạt thành quả nhờ sức mạnh biến đổi của Tin Mừng Đức Kitô, là Đường, Sự Thật và Sự Sống (x. Sứ điệp Truyền giáo 2017, số 1-5).

3. Tinh thần truyền giáo và nhiệt huyết tông đồ.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, khi còn là Giám Mục giáo phận Nha Trang, đã viết chỉ dẫn về truyền giáo như sau: “Những nỗ lực hoạt động, cầu nguyện sẽ không mang lại kết qủa nếu chúng ta không được hướng dẫn bằng một tinh thần mới, một bầu nhiệt huyết tông đồ.Bất cứ lúc nào tiếp xúc với lương dân, với một bầu nhiệt huyết tông đồ, anh chị em hãy luôn luôn nhớ rằng:Tinh thần truyền giáo không phải là óc chinh phục mà là lòng yêu thương.Tinh thần truyền giáo không phải là óc cai trị, mà là tinh thần phục vụ mọi người.Tinh thần truyền giáo không phải là đạo binh thánh gía, dùng vũ lực để đánh ngã, nhưng là tinh thần chứng nhân, lấy đời sống mà làm chứng tích.Tinh thần truyền giáo không phải là óc tự cao tự đại, nhưng là thái độ đối thoại, là tinh thần trao đổi và tôn trọng các tôn giáo khác.Tinh thần truyền giáo không phải là mãnh lực của tiền tài, quyền thế mà là tinh thần tương trợ. Tinh thần truyền giáo không phải là thủ đoạn chiến lược, nhưng là tấm lòng chân thành đơn sơ.Tinh thần truyền giáo không bao giờ chán nản, vì trở ngại, vì vô ơn, vì phản bội, vì thất bại, ngược lại luôn luôn tin cậy vào ơn Chúa và nhẫn nại”. (Gm. Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Thư luân lưu: Sứ mạng Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta, lễ Thánh Têrêxa năm 1970. Trích trong tập Hôm qua, hôm nay, ngày mai, Thời điểm 1996, tr. 102-103).

Sắc lệnh Ad Gentes đề cao tầm quan trọng của chứng tá đời sống trong việc truyền giáo: “Tất cả các Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải dùng chứng tá và gương mẫu đời sống để thể hiện con người mới của họ đã đón nhận qua bí tích Thanh tẩy, đồng thời biểu dương sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã cũng cố họ qua bí tích Thêm sức, để những người chung quanh nhìn thấy các việc họ làm mà ngợi khen Chúa Cha” (số 11).

Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mình sống và làm việc. Đời sống của giáo dân là phương tiện truyền giáo hữu hiệu hàng đầu. Muốn truyền giáo, giáo dân phải có lòng đạo nhất định. Việc tái truyền giáo giúp tẩy xóa hay giảm bớt những cách sống phản Tin Mừng nơi người đã có đức tin. Thực tế, chẳng ai lại đi theo một cái Đạo mà ngay cả tín đồ cũng không thực hành Đạo. Cũng chẳng ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Tái truyền giáo sẽ giúp giáo dân đong đầy hành trang là những giá trị Tin Mừng cho cuộc sống, thay cho những lối sống buông thả và thiếu cố gắng xưa nay. Muốn giới thiệu Chúa cho người chưa biết Chúa, người giáo dân phải thấm nhuần đạo lý, sống trong thế thượng phong về luân lý, về đức bác ái và sự công bằng. Như thế, từng cá nhân, từng nhóm và cộng đoàn có thể dấn thân vào việc truyền giáo.

Thực thi sứ vụ truyền giáo hôm nay bằng nhiều cách :

– Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá đời sống của mình. Một cách đặc biệt, những người nam người nữ thánh hiến được mời gọi lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần, Đấng kêu gọi họ đi ra các vùng ngoại biên, đến với những người chưa được nghe rao giảng Tin Mừng….Người truyền giáo đích thực thì say mê Tin Mừng. Tin Mừng là nguồn mạch niềm vui, sự giải phóng và cứu độ cho mọi người. Hội Thánh ý thức được hồng ân này, vì thế Hội Thánh không ngừng công bố cho mọi người “điều đã có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, và chúng tôi đã tận mắt chứng kiến” (1Ga 1,1). Việc truyền giáo của Hội Thánh được sinh động bởi một linh đạo của việc liên tục lên đường. Chúng ta được thách thức “ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (Evangelii Gaudium, 20).

– Giới trẻ là hy vọng của truyền giáo. Con người Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ. Họ tìm cách dấn thân phục vụ loài người với sự can đảm và phấn khởi. “Nhiều người trẻ đang chia sẻ mối quan tâm chung về các vấn đề của thế giới và tham gia các hình thức khác nhau của việc cổ động tích cực và hoạt động tình nguyện… Đẹp biết bao khi chứng kiến cảnh những người trẻ là những “nhà giảng thuyết đường phố,” vui vẻ mang Đức Giêsu đến mọi đường phố, mọi công viên và mọi góc cùng của trái đất!” (Sứ điệp Truyền giáo 2017).

– Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao giúp cho một người khác theo Đạo.

– Mỗi giáo dân nên kết thân với một lương dân. Mỗi gia đình kết thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.

– Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.

Chúa Thánh Thần hướng dẫn và quyết định thành tựu của việc truyền giáo. Nhưng nỗ lực của mọi thành phần dân Chúa trong việc truyền giáo cũng là yếu tố làm nên sự thành công. Ước mong Khánh Nhật Truyền Giáo là ngày mang đến cho chúng ta nhiều niềm vui Tin Mừng qua những thành quả, và cũng giúp chúng ta có thêm động lực để dấn thân cho việc loan báo Tin Mừng.

Về mục lục

.

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ năm 2015, , Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín  tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong Tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii):  “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.

Truyền giáo là lên đường.

Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hy sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy, truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín năm 2015, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.

Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38 ; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với  sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.

Truyền giáo là bản chất của Giáo hội

Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là :‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.

Chứng nhân hơn là thầy dạy

Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.

Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”

Kết luận: Chứng tá Tin mừng

Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng, nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”

Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.

Về mục lục

.

MỌI SỰ LÀ CỦA CHÚA, HÃY TRẢ THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Dịp lễ Đức Mẹ La Vang, tháng 8 năm 2017 vừa qua. Khi đề cập đến tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Girelli nhận định rằng, tại một số tỉnh, nhà cầm quyền lo lắng và phàn nàn về người Công Giáo và các hành động của họ. Nhưng ngài khuyên nhà cầm quyền CSVN nên nhận thức rằng, Giáo Hội Công Giáo nên được xem như một điều tích cực, thay vì một điều có vấn đề đối với đất nước.

Trích câu nói thời danh của Chúa Giêsu rằng: “Trả cho Caesar những gì của Caesar, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Đức Tổng Giám Mục Leopoldo nói tự do tôn giáo không phải cái gì thuộc về các quan chức chính quyền, mà phải nằm trong tay của người dân. Ông kêu gọi “các Caesar Việt Nam hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.

Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống, hoặc nhận tất cả về mình, không còn kể đến Thiên Chúa nữa. Câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay đã trở thành lời bất hủ và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử, trong tương quan phân chia, sở hữu thường ngày.

Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa

Chúng ta khẳng định, Chúa Giêsu là Lời sống động của Thiên Chúa thế mà con người lại cố tìm để bắt lỗi Lời của Ngài! Con người nói : “Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa”, nhưng vẫn cứ hỏi: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?” (Mt 22, 17). Hỏi để mà hỏi, không phải để biết cho bằng gài bẫy. Thực tế nhóm Pharisiêu lại tự bẫy và trói chặt mình trong câu hỏi lưỡng nan ấy. Bằng cách từ chối đơn giản hóa vấn đề của đối phương, Chúa Giêsu đặt ra vấn đề căn bản mới và thiết yếu là : ai đứng vào vị trí Thiên Chúa?

Chính vì họ hỏi con đường của Thiên Chúa, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy … dạy bảo đường lối Thiên Chúa” (Mt 22, 16), nên Người dẫn họ đi theo hướng đó, đây là tất cả giáo lý của Chúa. Thấu hiểu tâm tư của họ, Chúa bảo họ đưa cho xem đồng tiền, xem xong, thấy có khắc hình của một hoàng đế trên đồng tiền, họ khẳng định đó là hình của Cêsarê, Chúa nói : “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê” ( Mt 22, 21).

Thực tế, người Do thái không nhận biểu tượng hình ảnh này, dù Cêsarê được biết đến là một hoàng đế tự cọi mình là thần đi chăng nữa, ông cũng chỉ là một con người. Theo Lời Chúa trong sách Sáng Thế, chỉ có Thiên Chúa làm ra con người giống hình ảnh Chúa cách sống động : “Chúng ta làm ra con người giống hình ảnh chúng ta và giống chúng ta” (St 1, 26). Hãy trả đồng tiền này cho chủ nhân của nó và hãy trả cho Thiên Chúa linh hồn chúng ta.

Linh hồn chúng ta thuộc về Chúa

Đồng tiền mang hình ảnh của Cêsarê, nhưng linh hồn chúng ta là chính hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, thể theo thánh vịnh: ” Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan Người trên chúng tôi”. (Tv 4, 7) … Ánh tôn nhan Thiên Chúa là ánh của ân sủng ghi dấu trên chúng ta hình ảnh Ngài, làm cho chúng ta giống Ngài, ánh tôn nhan Chúa còn là ấn tích được ghi trong trí chúng ta, chúng ta nhận biết ai đó nhờ khuôn mặt của người ấy, thì Thiên Chúa cũng nhận biết chúng ta nhờ tấm gương của lý trí. Nhưng lý trí này đã bị biến dạng do tội lỗi con người, vì tội lỗi khiến con người chống lại Thiên Chúa. Ân sủng Đức Kitô sửa chữa lại lý trí chúng ta. Đó là lý do tại sao thánh Tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Êphêsô rằng : ” Hãy đổi mới tình thần ” ( Ep 4, 23). Ánh sáng ở đây còn là ân sủng, nhằm phục hồi hình ảnh Thiên Chúa ghi khắc trong chúng ta.

Thiên Chúa Ba Ngôi đã khắc ghi vào con người hình ảnh giống Ngài. Con người giống Chúa Cha ở điểm trí nhớ, giống Chúa con ở trí hiểu, giống Chúa Thánh Thần ở chỗ biết yêu mến… khi tạo dựng, con người được dựng lên ” giống hình ảnh Chúa” (St 1, 26). Hình ảnh trong sự nhận biết chân lý, tương tự trong nhân đức yêu thương. Ánh tôn nhan Thiên Chúa chính là ân sủng công chính hóa chúng ta và một lần nữa cho thấy hình ảnh được tạo ra. Ánh sáng này là tất cả những điều tốt đẹp nơi con người, được ghi dấu, như hình ảnh của nhà vua trên đồng tiền. Đó là lý do tại sao Chúa nói: “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê” (Mt 22, 21). Điều này ý nói : phải trả cho Cêsarê hình ảnh của Caesar, trả cho Thiên Chúa linh hồn anh em, đã được điểm tô và ghi dấu ánh sáng tôn nhan Thiên Chúa. Chúng ta không thể trao cho Cêsarê linh hồn của chúng ta, nó luôn thuộc về Chúa.

Mọi sự là của Chúa

Lời Chúa Giêsu nói : “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”( Mt 22, 21) xác lập một sự khác biệt sâu xa giữa thiêng liêng với thế trần, làm nền tảng cho sự tìm kiếm của người kitô hữu trên mặt đất này. Con người là trung tâm và tột đỉnh của sự sáng tạo, phẩm giá con người hiện nay được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên, khó khăn vẫn còn đó, chúng ta phải phân biệt hai chủ quyền khác nhau của Thiên Chúa trên thế giới. Cêsarê và Chúa không ở cùng một cấp độ, Chúa là Đấng Sáng Tạo, Chúa tể trời đất, Cêsarê là hoàng đế, những ông cũng chỉ là một thụ tạo, một con người, ông phải phụ thuộc vào Chúa và cũng phải trả lẽ trước mặt Chúa, đây không phải là Thiên Chúa hoặc Cêsarê mà là Thiên Chúa và Cêsarê, mỗi vị trong cấp độ xứng hợp riêng của mình.

Vậy “Trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê” nghĩa là trả cho Cêsarê những gì chính Chúa muốn trao cho Cêsarê. Chúa thống trị trên tất cả kể cả Cêsarê, nên Thiên Chúa làm chủ quyền thiêng liêng Nước Chúa được thực thi trong Chúa Kitô qua Giáo hội của Người. Đương nhiên, Ngài làm chủ cả thế tục và thể chế chính trị mà Chúa thực hiện gián tiếp qua các quyền bính thế gian. Về vấn đề này, Chúa Giêsu đã từng nói rõ với Philatô khi ông nói với Chúa : “Ông không biết rằng ta có quyền tha ông, mà cũng có quyền đóng đinh ông hay sao?” (Ga 19, 10) Chúa Giêsu đáp : “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho” (Ga 19, 11). Thánh Phaolô là người đầu tiên nhìn thấy hiệu quả của giáo huấn này nên viết: “Mọi người hãy phục tùng chính quyền bởi vì không có quyền bính nào mà không đến từ Chúa. Ai chống lại quyền bính thì chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra… đó là lý do tại sao anh em phải nộp thuế bởi vì chính quyền chịu trách nhiệm như những người phục vụ Chúa” (Rm13,1).

Trước khi vâng lời con người, chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa và lương tâm chúng ta. Đó cũng là nghĩa vụ của chúng ta phải nói với Cêsarê, cụ thể với quyền bính thế gian rằng, hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

Lạy Chúa là Đấng tạo thành trời đất và là chủ muôn loài, tất cả thuộc về Chúa, xin cho chúng con biết luôn hướng lòng về Chúa và tôn thờ Chúa là Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến,

Hôm nay là ngày Chúa Nhật Quốc Tế Truyền Giáo, một trong những ngày quan trọng trong chu kỳ phụng vụ trong năm, quan trọng vì mối tương quan giữa ngày lễ này với Chúa Kitô, với Giáo Hội và với mọi Kitô hữu. Để nhận thức đúng mức tầm quan trọng của Ngày Quốc Tế Truyền Giáo, chúng ta phải đặt mình trong cái nhìn, trong tư tưởng và tâm tình của Chúa Kitô. Vì như lời Người đã nói với ông Simon Phêrô: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16.17)

Vì thế, dưới ánh sáng của Chúa Cha, chúng ta hãy suy niệm về sứ vụ truyền giáo.

I.  LÝ DO PHẢI TRUYỀN GIÁO

*  Chúa Cha đã sai Tôi (Ga 12.49)

Chúa Giêsu vẫn tự xưng mình là người được Chúa Cha sai. Hàng chục lần, Người đã sử dụng danh xưng này. Người “được sai đi để loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,43), “để cứu độ trần gian” (x. Ga 3,17), “để hoàn thành những việc Chúa Cha giao phó” (x. Ga 5.36). Người là tông đồ, là thừa sai, là nhà truyền giáo của Chúa Cha. Tông đồ có nghĩa là được sai đi ; và suốt đời, Người đã làm công việc này. Từ ngày nhờ Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, Người đã mang niềm vui đến thăm gia đình bà Elisabeth (x. Lc 1,44) cho đến mệnh lệnh cuối cùng của Người trước khi về trời (x. Mt 28,19), tất cả cuộc đời của Người đều hướng về việc truyền giáo. Theo các thánh sử, thì Người đã đi khắp miền Galilê (x. Mc 1,39), Jêrusalem, Samaria, Tyro và Sidon (Mt 15,21) và cả miền Thập Tỉnh (Mc 5,20). Người đã đi khắp các thành thị và làng mạc. Người đã rao giảng cho dân chúng ở miền duyên hải, trên núi đồi, trong các hội đường và cả những nơi hoang địa. Người đã nói : “Thầy ra đi cốt để rao giảng Tin Mừng” (Mc 1,39). Tông huấn loan Tin Mừng của Đức Phaolô VI đã viết : “Chính Chúa Giêsu, Tin Mừng của Thiên Chúa là nhà truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất. Ngài đã rao giảng đến cùng: nghĩa là đến mức hoàn hảo, đến hy sinh cả cuộc sống dương thế của Ngài” (số 6). Truyền giáo là sứ vụ hàng đầu của Chúa Giêsu, đấng được Chúa Cha sai.

* Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con (Ga 20,21)

Được sai đi loan Tin Mừng, Chúa Giêsu đã sai lại các môn đệ. Người đã thiết lập một Giáo Hội tông truyền, tức là được xây dựng trên nền tảng những người được sai đi (tông đồ) để loan Tin Mừng (truyền giáo) cho mọi người. Mệnh lệnh truyền giáo của người đều được 4 thánh sử ghi lại

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19).

“Hãy đi khắp bốn phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).

“Hãy rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).

“Như Cha đã sai Thầy đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).

Chúa Giêsu đã tuyển chọn và đào tạo các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14).

Tông huấn loan Tin Mừng viết : “Rao giảng Tin Mừng là ân huệ và ơn gọi của Giáo Hội, là chân tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu để rao giảng Tin Mừng” (số 14).

Công đồng Vaticanô II cũng đã dạy như vậy: “Tự bản tính, Giáo Hội luôn hành phải truyền giáo” (TG 2). Vì thế, chỉ có Giáo Hội truyền giáo mới là Giáo Hội đích thực của Chúa Kitô.

Bởi vậy không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn.

* Mệnh lệnh truyền giáo cũng là di chúc của Chúa Giêsu trước khi về trời, là “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mt 16,15). Mệnh lệnh này liên quan đến mọi tín hữu – vì như Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Ơn gọi làm kitô hữu tự bản chất là ơn gọi làm tông đồ” (TĐ số 20).

Nhưng làm rao đi được khắp tứ phương thiên hạ – hay đến tận cùng trái đất (Mt 28,19). Chúng ta không đi được, nhưng có người đi thay cho chúng ta. Là người Á châu, chúng ta không trực tiếp truyền giáo được cho Phi châu. Nhưng là chi thể trong một Thân Thể Chúa Kitô, chúng ta vẫn có thể làm được: bằng lời cầu nguyện, sự hy sinh, đời sống chứng tá và sự dâng hiến cho việc truyền giáo những của lễ thiêng thiêng và vật chất.

II.  PHẦN CHÚNG TA.

  1. Chúng ta sẽ truyền giáo trước tiên bằng cầu nguyện.

Têrêsa Hài Đồng Giêsu nay là Bổn mạng các xứ truyền giáo. Người không đặt chân đến một nơi truyền giáo nào; cũng chẳng đào tạo một lớp tông đồ nào để sai đi. Nhưng người chia sẻ tâm tình cứu thế của Chúa. Người cầu nguyện hy sinh cho việc truyền giáo. Người kêu gọi khuyến khích các tâm hồn tông đồ. Người sống như thể đang ra đi, đang rao giảng, đang chịu đau khổ, đang rửa tội cho lương dân. Giáo hội đặt người làm Bổn mạng các xứ truyền giáo để toàn thể Dân Chúa thấy phải tha thiết với việc truyền giáo như thế đó.

  1. Bằng những hy sinh đóng góp cho việc truyền giáo. Hằng năm các Đức Thánh Cha vẫn nhắc nhớ cho chúng ta điều đó. Ở VN chúng ta thì xem ra vấn đề đề này còn rất yếu. Các nước Tây Phương họ ý thức rất rõ về vấn đề này.
  2. Ngoài những lời cầu nguyện ra ngày hôm nay người nói rất nhiều đến đời sống chứng tá.

+ Một nhóm bạn trẻ từ nhiều quốc gia đang bàn thảo về cách làm cho Tin Mừng Chúa được lan rộng. Họ nói về sự tuyên truyền, về lài liệu và những cách phổ biến Tin Mừng trong thế kỷ XX này.

Một cô gái Phi Châu nói:

– Khi muốn truyền đạo cho một làng của chúng tôi, chúng tôi không cho họ sách. Chúng tôi gửi một gia đình Kitô giáo tốt đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu.

+ Một buổi chiều năm 1953, các ký giả và một số nhân viên chính phải phủ Hoa Kỳ tập trung ở một nhà ga xe lửa tại Chicago để chào đón người được giải thưởng Nobel hòa bình năm 1953 trở về.

Người vừa xuống khỏi xe lửa là một người đàn ông cao lớn, tóc quăn, có một chòm râu mép dài. Các máy ảnh chớp liên hồi. Các nhân vật cao cấp của thành phố giang rộng tay đón chào vị thượng khách.

Người được giải Nobel hòa bình cám ơn mọi người rồi rồi đưa mắt nhìn về một một chỗ xa xa ở trên sân ga. Ông xin kiếu vài phút để đi thẳng về hướng đó. Mọi người tưởng ông để quên hành lý nào đó. Ông băng qua đám đông, trực chỉ đến một người đàn bà da đen lớn tuổi đang khệ nệ với hai va ly nặng trên tay. Ông đưa tay xách cả hai va ly, rồi đưa người đàn bà ra một chiếc xe buýt gần đó. Khi giúp người đàn bà lên xe xong, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông, ông xin lỗi vì đã bắt mọi người chờ đợi.

Người được giải thưởng hòa bình năm 1953 ấy không  ai khác hơn là bác sĩ Albert Schweitzer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh cả cuộc đời cho người nghèo tại Phi Châu.

Chứng kiến cử chỉ của ông, một người thuộc ủy ban tổ chức đón tiếp ông hôm đó nói với các ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy được một bài giảng biết đi”

+ Một thương gia giàu có  xin nhập đạo. Khi được hỏi lý do, ông đáp:     

– Nhờ gương một công nhân của tôi. Đôi lúc tôi nổi nóng, quát mắng, nhưng anh không hề tỏ ra giận ghét tôi, đù tôi biết anh rất đau khổ. Có khi tôi đối xử thô bạo với anh, anh không bao giờ thốt lên nửa lời. Thái độ của anh làm tôi, dù là cấp trên, đem lòng cảm phục. Sự thực, anh chẳng bao giờ nói với tôi về đạo, nhưng đời sống đạo của anh đã chinh phục tôi. Giờ tôi không còn nghi ngờ gì nữa và tôi hy vọng Chúa Giêsu Kitô sẽ ban cho tôi sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu xin biến chúng con thành những người đi loan báo Tin Mừng cho Chúa. Amen.

Về mục lục

.

YÊU HAY KHÔNG YÊU

Lm. Jos. DĐH.

Thích an nhàn, ngại phải đụng chạm khi làm việc chung với nhau, không muốn tốn công sức, mất thời giờ vì những việc không tên, nhiều người đã nghĩ tới ! Không thiếu những người kitô hữu nói rằng: tôi không gian tham, chẳng sống bất công ; hàng tuần tôi đến nhà thờ, còn những việc tông đồ, truyền giáo, tuỳ các linh mục tu sĩ, những vị ban hành giáo…  Rất nhiều người có khả năng, có tinh thần trách nhiệm cao, nhưng vì hoàn cảnh gia đình quá nặng nề, không thể tham gia việc tông đồ, đành phải buông xuôi như câu thành ngữ: lực bất tòng tâm. Thực ra, truyền giáo hay làm việc tông đồ, chính là lúc người tín hữu ý thức mình được Đức Kitô yêu thương, và ta đang sống mến Chúa yêu người ở mức độ nào ?

Sống trên đời, có sức khoẻ, có tình yêu, năng lực, kiến thức phong phú, nhưng không giúp được gia đình, bản thân, đạt đỉnh điểm hạnh phúc, thì thật đáng tiếc, tình cảnh như thế gọi là thất bại. Khi nói tới truyền giáo, thông thường ta vẫn hiểu là mang tình Chúa, tình người, đến cho anh chị em xung quanh mình, khi nói tới làm chứng nhân đức tin, là lúc lòng mến phải được bày tỏ: yêu hoặc không yêu. Chúa Giêsu trao cho các tông đồ mệnh lệnh truyền giáo là do Chúa yêu thương, tin tưởng các ông, cho dù lúc bấy giờ các tông đồ chưa đủ ý thức, hoặc chúng ta hôm nay còn thờ ơ với sứ mạng cao quý đó. Vì chưa đủ hiểu, chưa mạnh tin, hoặc còn lơ mơ về giới luật yêu thương, nên các tông đồ, và chúng hôm nay luôn cần Chúa, cần được sức mạnh của tình Chúa ở mãi, ở cùng.

Điều làm cho khoảng cách giữa người nói, người nghe xích lại gần nhau, hẳn không phải vì nói to nói lớn hay âm thanh dịu dàng cuốn hút, nhưng chính là niềm vui, bình an, nơi người nghe, người nói, đều cảm nhận được Chúa đang ở trong tâm hồn. Khánh nhật truyền giáo không phải là ngày chúng ta học hỏi thêm kỹ năng hay đọc lại truyền thống đức tin của tiền nhân, đúng hơn là nhắc nhớ mỗi người đang sống đức yêu thương nhiều hay ít, thật hay giả ? Điều làm cho việc truyền giáo không phải là một hình thức, một khẩu hiệu, đâu phải cứ âm thầm và che giấu theo lý luận “hãy làm nhiều nói ít”, “việc tay phải làm đừng cho tay trái biết”. Nếu xưa kia Đức Giêsu hài lòng vì số các học trò đã biết mặc lấy tinh thần khiêm tốn, cậy dựa vào ơn Chúa để sống, thì hôm nay, Ngài sẽ rất vui vì có nhiều người trẻ đang phó thác cuộc đời mình cho ơn gọi linh mục tu sĩ.

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy”, lời mời gọi đó, mệnh lệnh đó, có phai nhạt, có bình thường hay không là tuỳ “chất yêu thương” nơi mỗi người, cho dù lời nói việc làm của chúng ta chưa đủ cháy lửa mến yêu. Âm vang về đức ái không hệ tại hoàn cảnh, thời gian, số người tin Chúa, theo Chúa, nhưng là do tác động của tình yêu liên đới: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa Giêsu cần người môn đệ có trái tim biết yêu thương, cần tinh thần quảng đại nơi các học trò chứ không phải là tài giỏi, giầu sang. Nếu Chúa Giêsu qui tụ các học trò và trao ban sứ mạng tông đồ, Ngài sẽ không bỏ mặc các ông bơ vơ, nghĩa là nhờ biết hiệp thông cầu nguyện, các môn đệ đã cảm nhận được sức mạnh để thắng quyền lực thế gian.

Cổ nhân có câu: nam nhân sợ chọn nhầm nghề, nữ nhân sợ lấy nhầm chồng. Nghề nghiệp và chuyện trăm năm quan trọng, nhưng không thể là chuyện hên xui, cần phải có thời gian, nghĩa là phải có sự chuẩn bị dài lâu, sự chọn lựa càng vững chắc. Truyền giáo đối với các tông đồ, với người kitô hữu không phải là một chọn lựa, cũng không phải là một bài thực hành, khi đã bước vào giai đoạn trưởng thành. Nếu Đức Giêsu đã xây dựng Hội thánh trên nền tảng yêu thương, tất cả những ai theo Ngài thật sự, sẽ không có lối rẽ, hay đường bằng phẳng nào khác. Đức Giêsu không kiểm tra mức độ hiểu biết hoặc tinh thần sắt thép của các học trò, các tông đồ theo Thầy và tiếp nhận sứ mạng làm chứng nhân, tất cả thật sự đã bừng cháy và còn cháy lửa yêu nơi hậu thế.

Dư luận từ xưa đến nay rất ngại khi phải nghe nói: có tiếng mà không có miếng, trong giáo dục thì ai chẳng ngán kẻ đánh trống bỏ dùi, nói trước quên sau, làm thì đại khái còn quyền lợi thì tranh dành. Dù lắm tài hay nhiều đức, được danh thơm tiếng tốt đến dâu, mỗi người vẫn cần phải mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Chúa Giêsu hứa ở với Hội thánh, ở cùng các tông đồ cho đến tận thế, Ngài tiếp tục cho thấy sự cộng tác, dấn thân truyền giáo, là cần thiết, nhưng “mến Chúa yêu người” vẫn là lời thưa vâng đẹp nhất. Chớ gì lời nói việc làm của mỗi người chúng ta sẽ không mâu thuẫn với đức ái, và tinh thần mến yêu phụng sự Chúa vẫn mãi là lời minh chứng chúng ta đã biết yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA-

 Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Từ xưa đến nay, sống trong thời nào, quốc gia nào, việc nộp thuế cho nhà cầm quyền vẫn là một bổn phận và trách nhiệm của công dân. Tại nước Mỹ, việc đóng thuế còn là cách thể hiện lòng yêu nước, sự trung thực và là niềm tự hào cùa người dân. Cũng tại Mỹ, người được coi là thành đạt là người đóng thuế nhiều cho chính phủ, góp phần vào việc xây dựng quốc gia và cộng đồng. Cũng tại đây, tội trốn thuế là một trong những tội bị xét xử rất nặng, vì nó không chỉ làm tổn hại đến nguồn thu của đất nước, mà còn thể hiện sự thiếu minh bạch trong kinh doanh. Trách nhiệm và bổn phận đóng thuế là của người dân, còn việc sử dụng nguồn tiền đó sao cho có lợi cho dân, cho tổ quốc lại là chuyện khác. Gần đây, phong trào chống tham nhũng ở Việt Nam cho thấy, nhiều người có trách nhiệm đã vô cùng hoang phí nguồn tiền thuế của dân, biển thủ, tư lợi, hoặc làm thất thoát thua lỗ đến hàng trăm ngàn tỷ đồng.

Sống trong một quốc gia bị đô hộ bởi đế quốc Roma, Chúa Giêsu vẫn chu toàn trách nhiệm công dân, nộp thuế và tuân thủ luật pháp. Tuy nhiên hôm nay, những người biệt phái và những người phe Herode, là những người bảo thủ, phản đối việc hợp tác với chính quyền Roma dưới mọi hình thức, vì thế, họ muốn thăm dò lập trường của Chúa Giêsu trong vấn đề chính trị này. Những người này đặt câu hỏi: Thưa Thầy, có được nộp thuế cho Ceasar hay không? Câu trả lời dù có hoặc không đều có thể thành cớ cho những người này bắt bẻ và tố cáo Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu không tham gia hoạt động chính trị, cũng không ủng hộ đảng phái chính trị nào, Ngài đến để rao giảng lối sống công minh chính trực theo con đường của Thiên Chúa và dạy mọi người sống yêu thương nhau, đón nhận nhau như anh chị em. Khi những người biệt phái hỏi như vậy, họ muốn kéo Chúa vào những quan điểm phe nhóm chính trị của người đời. Chúa Giêsu đã khôn khéo, không đưa ra câu trả lời có hay không, nhưng yêu cầu họ: Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế. Họ đưa cho Ngài một quan tiền của Roma. Chúa Giêsu hỏi họ: Hình và huy hiệu trên đồng tiền này của ai? Họ đáp: Của Ceasar. Lúc này, Chúa đã đưa ra câu trả lời với quan điểm của sự công bằng: Của ceasar hãy trả cho Ceasar; của Thiên Chúa, hãy trả về cho Thiên Chúa.

Câu trả lời của Chúa Giêsu rất khôn khéo và trở thành câu thành ngữ nổi tiếng cho đến nay. Câu trả lời mang rất nhiều ý nghĩa: Của Cesar là tất cả những gì thuộc về thế gian, quyền lực, danh vọng, địa vị và vật chất, phải trả về cho thế gian. Người ta không thể đem của thế gian, lối sống và cách cử xử của thế gian vào trong Nước Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài. Những gì thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu quý nó, thế gian sẽ ghét bỏ những gì thuộc về Thiên Chúa và loại trừ những người thuộc về Thiên Chúa.

Cũng vậy, phải trả lại cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về Ngài, đó là sự tôn kính và việc thờ phượng cho đúng với sự thánh thiện của Ngài. Ta cũng phải dâng lại cho Chúa: sự thánh thiện, việc tốt lành, sự hy sinh, lòng biết ơn và cả con người mỗi chúng ta. Vì mạng sống, thời giờ, sức khỏe, khả năng và từng hơi thở mỗi phút giây đều do Chúa ban. 

Những ai là người thuộc về Chúa? Không chỉ những người biết Chúa, cả những con người ngoại đạo, dù chưa biết Chúa, nhưng sống theo một lương tâm ngay thẳng, công bình chính trực, họ cũng thuộc về Thiên Chúa. Bài đọc một cho thấy, Kyrô, vua Babylon là một ông vua dân ngoại, nhưng có một tâm hồn nhạy bén, một lương tâm ngay thẳng. Ông đã thấy nhu cầu của người Do Thái đang bị bắt làm nô lệ, nay muốn trở về quê hương tái thiết quốc gia và tôn giáo, vua đã ra lệnh cho người Do Thái được hồi hương thoát cảnh lưu đầy. Nhà vua còn cung cấp gỗ quý, tiền của để giúp họ trở về Giêsrusalem tái thiết quốc gia, đền thờ và khôi phục lại việc tế tự.

Một vị vua dân ngoại có những việc làm tốt đẹp như vua Kyrô cũng được kể là người thuộc về Thiên Chúa, là kẻ Chúa dùng. Thiên Chúa còn chúc phúc cho vua Kyrô và triều đại của ông: Ta đã cầm lấy tay nó, bắt các dân tộc quy phục nó. Nhờ những việc làm tốt đẹp vua Kyrô làm cho người Do Thái, ông được được truyền thống coi như là người được xức dầu, là hình ảnh của Đấng Mesia, Đấng giải thoát Israel.

Chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa những gì? Chắc chắn không ai được đòi cha mẹ sinh ra mình, cũng không có quyền chọn cho mình quốc tịch hay màu da. Ta được sinh ra và sống trên trần gian này là nhờ Thiên Chúa ban qua cha mẹ. Như vậy, tất cả những gì chúng ta đang có, đang hưởng dùng, đều do Thiên Chúa ban cho. Sức khỏe, thời giờ, khả năng, trí tuệ, từng ngày, từng giờ trôi qua, từng hơi thở và từng nhịp đập của trái tim, đều là của Thiên Chúa, do Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta phải biết dâng lại cho Chúa, trả lại cho Chúa bằng tâm tình biết ơn, yêu mến và khâm phục. Hãy thể hiện lòng biết ơn như con cái biết ơn cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Ta biết ơn Thiên Chúa vì đã cho ta sinh ra làm người, có cha mẹ yêu thương và Ngài còn ban tặng tất cả vũ trụ này cho chúng ta. Hãy dâng lại cho Chúa bằng sự thờ phượng, kính mến và vâng phục giới răn lề luật của Ngài. Hãy trả lại cho Thiên Chúa cả con người cùng với sự đơn sơ thánh thiện, sự ngay thẳng công bình như Chúa đã dựng nên thuở ban đầu. Đừng để những thói đời và những suy nghĩ, cách hành xử gian dối xảo trá len lỏi vào con người chúng ta, làm suy thoái và nhiễm bẩn cuộc sống chúng ta.

Các bậc cha mẹ đã đón nhận nhau và đón nhận con cái như món quà của Thiên Chúa. Vì thế, cần phải trân trọng món qùa Chúa ban với lòng biết ơn, và làm cho món qùa đó luôn sáng đẹp như buổi ban đầu. Đừng quên dâng lại cho Chúa mỗi ngày món qùa là vợ chồng, con cái để xin Chúa gìn giữ và thánh hóa làm cho chúng mỗi ngày thêm xinh đẹp hấp dẫn hơn. Mỗi ngày, hãy đặt vợ chồng, con cái của mình và những vui buồn trong ngày sống trên đĩa thánh nơi bàn thờ, qua giờ kinh sớm tối để xin Chúa đón nhận và biến đổi nên của lễ dâng lên Thiên Chúa.

Hãy trả cho Ceasar những gì của Ceasar, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa, còn là lời nhắc cho mỗi người: đừng đem cách sống, cách cư xử của người đời, của xã hội vào trong Giáo hội, giáo xứ. Đừng cư xử cách thủ đoạn và chiến lược, chiến thuật với nhau theo kiểu những người làm chính trị. Chúng ta hãy cùng nhau sống cách chân tình, chan hòa trong tình anh em con cùng một Chúa một Cha. Tất cả cùng chung tay vun đắp cuộc sống tại thế này cho tốt đẹp hơn và cùng bước bên nhau tiến về hạnh phúc Nước Trời, nơi chúng ta hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. 
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho công cuộc Loan báo Tin Mừng. Mỗi chúng ta đã đón nhận món quà Đức Tin và Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, chúng ta không thể giữ riêng cho bản thân mình, nhưng cần mạnh dạn và nhiệt thành giới thiệu Chúa và Tin Mừng của Người cho anh chị em chung quanh. Chúng ta giới thiệu Chúa bằng lối sống công bình bác ái, yêu thương và phục vụ, chân thành và ngay thẳng, đó là điều xã hội đang thiếu và đang cần. 

Chúa cũng đang cần những con người, đặc biệt các bạn trẻ, giúp Chúa trong việc yêu thương phục vụ anh chị em qua đời sống tu trì. Xin cho có nhiều người quảng đại dâng lại cho Chúa tuổi trẻ và cuộc đời của mình để phục vụ cho cánh đồng truyền giáo như Chúa đang mong đợi. Amen.

Về mục lục

.

CÔNG DÂN TỐT

Phạm Anh

Những người Pharisêu cố tình gày bẫy Đức Giêsu : liệu rằng Người có dạy dân chúng chống lại đế quốc Rôma, cụ thể trong việc không nộp thuế chăng ? (Mt 22, 15-21) May ra đó là cơ hội để những người Pharisêu lên án, giết Người. Biết được âm mưu của họ, Người đã dạy họ và mỗi người chúng ta một bài học quý giá trong việc ứng xử của một công dân tốt : Của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22, 21).

Thật vậy, mỗi người chúng ta không những là công dân Nước Trời, khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, nhưng mỗi người cũng là một công dân tốt trong xã hội mình hiện diện. Chúng ta được sinh ra làm người. Chúng ta đang sống trong xã hội loài người. Bởi vậy, chúng ta chịu ảnh hưởng bởi những tư tưởng, lối sống, phong cách, luân lý,… của xã hội. Không phải theo đạo là chúng ta loại trừ, chểnh mảng bổn phận và trách nhiệm của một công dân. Điều chúng ta cần đạt được hơn nữa là trở thành người tốt, công dân có ích cho xã hội. Chúng ta vẫn giữ luật, đạo đức, luân lý của xã hội, còn vượt trên sự chu toàn là tấm lòng, tình yêu. Chúa Giêsu, Người là Thiên Chúa quyền năng, nhưng khi xuống trần gian, Người vẫn tôn trọng và tuân giữ lề luật trong xã hội. Bằng chứng, Người không chống lại việc nộp thuế cho đế quốc khi nói với Phêrô : Con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con” (Mt 17, 26). Chính Chúa Giêsu đã sống, làm khuôn mẫu cho chúng ta : “Của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Không những Người chu toàn lề luật mà Người còn làm cho lề luật nên hoàn thiện hơn : “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17). Thực hành lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta hãy trở nên là những công dân tốt, trong xã hội, làm được điều đó là chúng ta đang loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người.

Chúng ta là công dân Nước trời, bởi chúng ta được là con cái Thiên Chúa. Thật vậy, hằng ngày chúng ta được lãnh nhận biết bao ân huệ, hồng ân của người công dân Nước trời, nhưng chúng ta có nhận ra và cám ơn Chúa ? Có câu chuyện kể rằng :  Một lần kia, hai thiên thần được sai xuống trần gian, trên vai mang một cái bao lớn. Một thiên thần mang bao đựng những lời cám ơn, thiên thần còn lại mang bao đựng những điều con người cầu xin. Sau một thời gian làm việc, hai thiên thần trở về gặp nhau ở cửa thiên đàng. Thật lạ, thiên thần mang bao những lời cầu xin thì rất nặng, nặng đến nỗi chẳng đi được, còn thiên thần mang bao những lời tạ ơn rất ít, chưa bằng một phần của bao bên kia. Thật vậy, nhiều lúc, chúng ta luôn đòi hỏi những điều mà chúng ta muốn, chúng ta cần với những nhu cầu. Thiên Chúa luôn yêu thương và ban cho con người những điều tốt nhất, thế mà con người cứ tưởng đó là những điều tự nhiên mà có, không nhận ra đó là ân huệ mà người công dân Nước trời được hưởng. Chúng ta chưa nhận ra tình thương của Chúa, và chưa biết cám ơn Chúa về những gì mà chúng ta lãnh nhận. Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta mỗi ngày trở nên những công dân Nước trời thật tốt.

Lạy Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì hằng ngày chúng con lãnh nhận biết bao hồng ân, nhưng chúng con là những đứa con chưa ngoan, chúng con chưa dâng lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa tiếp tục dạy chúng con biết nói lời cám ơn :  con cám ơn Chúa vì tất cả! Đồng thời, xin cho chúng con biết luôn chu toàn bổn  phận là một người tốt, là một công dân hữu ích trong xã hội mà chúng con hiện diện.

Về mục lục

.

NÉM ĐÁ DẤU TAY

Lm Vũdình Tường

Người Biệt Phái cùng với nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cộng tác để đạt chung mục đích là loại bỏ Đức Kitô ra khỏi xã hội của họ bằng cách mượn tay ngoại bang để làm điều họ mong muốn. Họ không trực tiếp nhúng tay vào chàm nhưng âm thầm, mánh lới dùng tay người khác làm việc mờ ám thay họ. Để làm được việc này họ âm thầm hội họp, bàn kín tìm kế đưa Đức Kitô vào tròng để họ giật giây. Nhóm này bực bội, tức giận không phải Đức Kitô làm điều sai, hay nói gì không đúng. Đức Kitô làm điều đúng, lời Ngài nói lên sự thật; việc Ngài làm thể hiện điều công chính vì thế nhà lãnh đạo sống trong lo âu, sợ hãi và tìm cách loại bỏ, giết chết sự thật. Sự thật được công khai, tỏ lộ khiến họ tìm cách giết Đức Kitô, diệt tiếng nói công chính, nhằm che dấu việc mờ ám họ thực hiện. Bởi nói thẳng, nói thật nên đám đông từ bỏ nhóm Biệt Phái, tin theo Đức Kitô. Họ ca tụng Ngài là Đấng có quyền thế đến ngay cả ma quỷ cũng phải phục tùng. Họ gọi Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế. Những điều này càng làm cho nhóm Biệt Phái bực tức thêm và đi đến quyết tâm hơn trong việc giết Đức Kitô. Nói lên sự thật, được đám đông ca tụng không phải là điều may cho Đức Kitô. Nhóm Biệt Phái sợ mất uy tín, ghen tức nên nhất định họ phải loại bỏ Đức Kitô bằng bất cứ giá nào ngay cả mưu kế ác độc cũng được dùng đến. Sau nhiều lần bàn thảo sôi nổi, tìm mưu kiếm kế giết Đức Kitô họ đi dến đồng thuận sai đàn em đến gặp Đức Kitô hỏi Ngài.

‘Có nên đóng thuế cho Caesar không?’

Thứ nhất chính họ không chê tiền của ngoại bang là kẻ đang cầm quyền. Chính họ dùng tiền đó làm công việc thuê mướn, mượn người. Thứ hai ngoài tiền đó ra không còn tiền nào khác được xử dụng như thế đó là chọn lựa duy nhất. Thứ ba xúi dục dân chúng không đóng thuế có lẽ tội cũng nặng bằng kẻ từ chối đóng thuế. Thứ tư người Roma không trực tiếp thu thuế nhưng dùng dân địa phương làm công việc đó thay họ. Thứ năm, không đóng thuế trở thành thiểu số không tiếng nói và sẽ bị truy nã, xử phạt. Nhóm Biêt Phái gài bẫy và họ tin Đức Kitô sẽ không tìm ra lối thoát. Họ thường chê trách nhóm thu thuế là phường tội lỗi cộng tác với ngoại bang là quân linh Roma, giờ đây chính họ cũng dùng bàn tay ngoại bang để sát hại anh em mình. Họ đối xử còn ác độc hơn người thu thuế mà họ khinh bỉ.

Đức Kitô trong vài ba lời hoá giải toàn bộ kế hoạch ác độc của họ. Ngài làm cho kế hoạch của họ hư hỏng toàn bộ. Khi ra đi họ nắm chắc phần thắng trong tay và có thể đang chuẩn bị ăn mừng chiến thắng; khi trở bề họ bẽn lẽn, xấu hổ trước thất bại thảm khốc. Họ bị mù loà trong việc tìm cách hại người bởi đầu óc họ bị giận hờn, ghen ghét chiếm đoạt. tâm họ chứa toàn hận thù nên không còn chỗ cho sáng suốt nhận định sự thật. Đức Kitô trái lại có con tim hiền hoà, đầu óc trong sáng, cuộc sống phẳng lặng, êm đềm. Chính con tim đầy ắp yêu thương tha thứ, chính khối óc chứa đầy công chính và nhân đạo đã giúp Ngài nhìn thấu suốt vấn đề. Hơn nữa cuộc sống của Ngài không bị ảnh hưởng bởi của cải vật chất và chức tước nên Ngài nhìn sự việc rõ ràng như nhìn ánh mình trong gương, rõ ràng hai thái cực. Một là thuộc về thế giới xã hội vật chất và trái lại là thuộc về thế giới tinh thần, linh thiêng. Đức Kitô biết rõ hình in trong đồng tiền là hình ai nhưng Ngài vẫn hỏi để họ tự xác nhận. Ngài hỏi những người được Biệt Phái sai đến làm công việc mờ ám. Hình ảnh trong đồng tiền là hình của ai và họ thưa đó hình hoàng đế Caesar và Đức Kitô đáp với họ. Những gì thuộc về Caesar thì trả cho Caesar và những gì thuộc về Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Chúng ta hãy tự tìm câu trả lời riêng cho mình. Giữa thế lực vật chất và thế lực thần linh thế lực nào đang ảnh hưởng, hướng dẫn cuộc sống hiện tại?

Về mục lục

.

TRUYỀN GIÁO HAY RAO GIẢNG TIN MỪNG

 Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian hơn 02 năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi ‘mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các bạn tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là cho chính mình.

Tôi nhớ là: vào năm 2003 sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình. Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu, nên tôi quyết định xin có được một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và nghiên cứu các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ); chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định, xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia (Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian – trong tư cách giám tỉnh – tôi thành lập các cơ sở giáo dục và truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam. Hơn nữa, trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma… Ấy thế mà khi thực sự tới làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo ‘Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia (chưa có ai được rửa tội), cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngằn ngủi này đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.

Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ ‘truyền giáo’ thông dụng, vì thấy nó quá mập mời dễ gây hiểu lầm. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘cải đạo’ (proselytism), thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Ki-tô mất rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Va-ti-can II phế bỏ! ‘Missio’ phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (‘thừa sai’) để ‘rao giảng Tin Mừng’ (evangelisare), để loan báo Tin Mừng cứu độ, và để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã từng được Đức Ki-tô Giê-su thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết thập giá. Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). Như thế ‘Loan báo Tin Mừng’ không là gì khác hơn: mở mắt cho người ta nhận biết rằng: họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào cái chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su Và một khi tin nhận điều đó, họ được mời gọi gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại này.

Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất ‘dội’ đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng: nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng: ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Ki-tô giáo’ mà ta sẽ mở mắt cho họ được biết, để rồi nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng. Thiết tưởng, khi Đức Ki-tô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Ngay câu nói: ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ! Nhìn vào chính Đức Giê-su ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri đang sống chung chạ sau năm đời chồng… Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run thuộc Hội Dòng CICM, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn… Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ đại loại là như thế.

Từ cái kinh nghiệm ‘thừa sai’ còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được một bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác với nền ‘luân lý Ki-tô giáo’ mang tính định canh định cư của cựu lục địa, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Ki-tô Giê-su. Công việc của một ‘thừa sai’ như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Ki-tô Giê-su Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh, là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương, để không ngừng cất cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ thừa sai.

Mong rằng những suy nghĩ trên cũng hướng dẫn được một số người, trong khánh nhật truyền giáo hôm nay, biết cất cao lời tri ân Thiên Chúa cách đặc biệt vì ơn gọi Ki-tô Hữu vĩ đại của mình, rồi sau đó loan truyền tin vui đó cho bạn bè và những người sống chung quanh.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc. Con coi đó chính là công việc ‘truyền giáo = thừa sai’ Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống cụ thể hôm nay. A-men 

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. Anthony Trung Thành

Trong lời mở đầu của Sứ điệp truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, thì Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa, mà là một trong nhiều nhóm người cuối cùng chỉ phục vụ mục đích riêng của họ và qua đi.” (Sứ điệp Truyền giáo 2017).

Thật vậy, trước khi về trời, Đức Giêsu đã ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15). Vâng lệnh truyền của Thầy chí thánh, các Tông đồ đã ra đi rao giảng Tin mừng ở khắp mọi nơi bằng nhiều cách thế khác nhau và cuối cùng đã lấy cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Tiếp nối sứ mệnh của các Tông đồ, Giáo hội ở khắp mọi nơi và qua mọi thời luôn luôn thi hành sứ mệnh truyền giáo. Nhờ nổ lực của Giáo hội, từ con số 12 lúc ban đầu, hiện nay trên thế giới đã có khoảng 1,2 tỷ người Công Giáo. Dẫu vậy, số người Công Giáo vẫn còn quá ít so với số còn lại, chỉ chiếm khoảng 17%. Chính vì vậy, lời mời gọi của Đức Giêsu luôn luôn mang tính thời sự và đòi buộc mọi người kitô hữu phải có trách nhiệm thi hành. Đặc biệt, Đức Giáo Hoàng Phanxicô hy vọng nhiều vào tầng lớp giới trẻ và các hiệp hội Giáo Hoàng truyền giáo. Với giới trẻ, Ngài nói: “Người trẻ là niềm hy vọng của sứ vụ truyền giáo. Con Người của Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng mà Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ. Họ tìm cách hiến thân phục vụ nhân loại với lòng can đảm và nhiệt tâm. ‘Có nhiều người trẻ đang cung cấp sự đoàn kết của họ chống lại các sự dữ của thế gian và tham gia các hình thức khác nhau của đấu tranh và hoạt động tình nguyện…. Đẹp thay khi thấy rằng các người trẻ đang là ‘những người rao giảng ngoài đường’, vui sướng đem Chúa Giêsu ra mọi nẻo đường, mọi quảng trường của thành phố, đến mọi ngóc ngách của trái đất!” (ibid., 106). (x. SĐTG 2017, số 8). Với các hiệp hội Giáo Hoàng truyền giáo, Ngài nói: “Các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo là một phương tiện quý giá đánh thức trong mọi cộng đồng Kitô hữu một ước ao vượt qua các giới hạn và sự an ninh của mình để rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi người. Trong số đó, nhờ một linh đạo truyền giáo sâu xa, được nuôi dưỡng hằng ngày, và liên tục cam kết nâng cao ý thức và nhiệt tâm truyền giáo, các người trẻ, người lớn, gia đình, linh mục, giám mục và tu sĩ nam nữ làm việc để phát triển một lòng (tâm hồn) truyền giáo trong mọi người.” (x. SĐTG 2017, số 9).

Vậy, chúng ta phải làm gì để truyền giáo cho có hiệu quả? Ba việc làm thông thường nhưng quan trọng luôn cần phải có khi truyền giáo, đó là: Rao giảng, làm chứng và cầu nguyện. Trong một số bài chia sẻ về chủ đề truyền giáo, tôi đã đề cập kỹ càng về các chủ đề này rồi. Hôm nay, trong khuôn khổ của bài chia sẻ này, dựa vào sứ điệp truyền giáo của Đức Thánh Cha năm 2017, tôi xin được phép gợi ý thêm một số điểm sau đây:

Thứ nhất, đối tượng truyền giáo là tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo hay địa vị. Đặc biệt, đối với những người thiện tâm, họ mong muốn được Tin mừng biến đổi. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh, nhắm đến tất cả mọi người nam nữ có thiện tâm, được dựa trên quyền năng biến đổi của Phúc Âm.” (SĐTG 2017, số 1). Vì thế, trong mọi nơi, mọi lúc, trong các mối tương quan gặp gỡ, chúng ta luôn phải có ý thức truyền giáo.

Thứ hai, nội dung truyền đạt của nhà truyền giáo là Tin mừng. Bởi vì, , bởi vì “thế giới rất cần Tin mừng của Chúa Kitô.” (x. SĐTG 2017, số 1). Hãy gieo Tin mừng vào tâm hồn người khác: Đọc Tin mừng cho họ nghe, giảng Tin mừng cho họ hiểu, tặng Tin mừng cho họ đọc, phổ biến Tin mừng bằng mọi cách nhất là qua các phương tiện truyền thông. Khi họ đã nghe, đã hiểu thì chắc chắn họ sẽ sống và được biến đổi. Bởi vì, “Phúc Âm là Tin Mừng tràn đầy niềm vui hay lây, vì nó chứa đựng và ban tặng sự sống mới: sự sống của Đức Kitô Phục Sinh là Đấng, qua việc ban Thần Khí ban sự sống, trở nên cho chúng ta Con Đường, Sự Thật và Sự Sống” (x. SĐTG 2017, số 1). Đức Thánh Cha Phanxicô còn đưa ra một số bằng chứng về sự biến đổi nhờ Tin mừng, Ngài nói: “Tôi nghĩ đến cử chỉ của một học sinh ở Dinka, người đã hy sinh mạng sống để bảo vệ một học sinh sắp bị bộ lạc thù nghịch Nuer tàn sát. Tôi nghĩ đến buổi cử hành Thánh Lễ ở Kitgum, bắc Uganda, nơi mà, sau những vụ tàn sát hung bạo bởi một nhóm loạn quân, một vị thừa sai đã làm cho dân chúng lặp lại lời của Chúa Giêsu trên thập giá: ‘Ôi Thiên Chúa của con, ôi Thiên Chúa của con, sao Ngài nỡ bỏ con?’ Như một cách diễn tả tiếng khóc than tuyệt vọng của các anh chị em của Chúa Chịu Đóng Đinh. Với dân chúng, buổi cử hành Thánh Lễ ấy là một nguồn an ủi và can đảm khôn lường. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến vô số chứng từ về việc Tin Mừng giúp người ta vượt qua sự hẹp hòi, xung đột, kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa bộ lạc, cùng cổ võ ở khắp mọi nơi, và giữa tất cả mọi người, sự hòa giải, tình huynh đệ và chia sẻ cho nhau như thế nào.” (SĐTG 2017, số 5).

Thứ ba, nhà truyền giáo phải có tấm lòng mục tử, từ đó mới có thể gieo rắc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với mọi người. Bởi vì, Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đó có Thiên Chúa. Tình yêu đi liền với tinh thần phục vụ, hy sinh. Đức Giêsu đã nói:“Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”(Ga 15,13). Chính Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã khẳng định: “Qua Hội Thánh, Đức Kitô tiếp tục sứ vụ của Người như người Samaritanô tốt lành, chăm sóc các vết thương rỉ máu của nhân loại, và như Người Mục Tử Nhân Từ, không ngừng tìm kiếm những kẻ lang thang dọc theo các nẻo đường quanh co chẳng dẫn đến đâu.” (SĐTG 2017, số 5).

Thứ tư, nhà truyền giáo phải biết liều mình đi ra “chỗ nước sâu,” tới các “vùng ngoại vi.” Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúng ta được thách thức ‘đi ra khỏi vùng an toàn của mình để đến tất cả các vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng.’” (EG, 20). (x. SĐTG 2017, số 6). Chỗ nước sâu ở đây có thể là những vùng sâu vùng xa, các khu nhà ổ chuột, các trại phục hồi nhân phẩm, những nơi mà ít khi hoặc chưa bao giờ người ta được nghe Tin mừng. Chỗ nước sâu ở đây cũng có thể hiểu là nơi những tâm hồn chai đá, khô cứng, tội lỗi… Họ đang “đói khát chân lý và công lý” (x. SĐTG 2017, số 6) . Chỗ nước sâu ở đây có thể là những người vô thần, thậm chí là những người đang chống đối Thiên Chúa, chống đối Giáo hội. Đi ra chỗ nước sâu, đi tới vùng ngoại vi có thể gây nguy hiểm cho nhà truyền giáo, nhưng nếu nhà truyền giáo biết “liều mình” như thế chắc chắn sẽ bắt được những “con cá lớn”. Đức Thánh Cha nói tiếp: Sứ vụ truyền giáo nhắc nhở cho Hội Thánh rằng Hội Thánh không phải là cùng đích cho chính mình, mà là công cụ khiêm tốn và trung gian của Nước Trời. Một Hội Thánh quy chiếu về chính mình, một Hội Thánh hài lòng với những thành công trần thế, thì không phải là Hội Thánh của Đức Kitô, thân thể bị đóng đinh và vinh hiển của Người. Đó là lý do tại sao chúng ta nên thích “một Hội Thánh bị bầm dập, đau đớn và dơ bẩn bởi vì nó đang ở ngoài đường, chứ không phải một Hội Thánh bệnh hoạn vì bị giam hãm và ràng buộc bởi sự an toàn của mình” (ibid., 49). (SĐTG 2017, số 6).

Cuối cùng, nhà truyền giáo cần noi gương Mẹ Maria: Noi gương Mẹ lên đường mang Chúa đến với mọi người như biến cố Mẹ đi thăm bà Êlizabet (x. Lc 1,39-56); Noi gương Mẹ biết quan tâm giúp đỡ sự thiếu thốn của kẻ khác như biến cố tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2,1-12); Noi gương Mẹ biết can đảm chấp nhận thánh ý Chúa châp nhận hy sinh Con Một vì nhân loại như biến cố trên thập giá (Ga 19,25-27). Đồng thời, chúng ta cũng cần nhờ Mẹ Maria đồng hành và nâng đỡ trên mọi nẻo đường truyền giáo. Đức Thánh Cha nói: “Trong việc thực thi sứ vụ truyền giáo của chúng ta, chúng ta hãy rút cảm hứng từ Mẹ Maria, Mẹ của việc Phúc Âm hóa. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa ở tận đáy đức tin khiêm tốn của Mẹ. Nguyện xin Mẹ Đồng Trinh giúp chúng con nói lên lời ‘xin vâng’ của chính mình, ý thức về nhu cầu cấp bách để làm Tin Mừng của Chúa Giêsu vang lên trong thời đại của chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con có lòng nhiệt thành mới trong việc mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng về sự sống, là sự sống đã chiến thắng sự chết. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con để chúng con có thể có được sự táo bạo thánh thiện cần thiết để khám phá ra những cách thức mới ngõ hầu mang lại ơn cứu độ cho mọi người nam nữ.”(SĐTG 2017, số 8).

Nguyện xin Đức Giêsu, “Đấng loan báo Tin Mừng tiên khởi và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7), Đấng tiếp tục sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng về tình yêu của Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. SĐTG 2017, lời mở đầu) hướng dẫn và đồng hành để sứ vụ loan báo Tin mừng của Giáo hội và mỗi người kitô hữu chúng ta mang lại hoa trái dồi dào. Amen.

Về mục lục

.

VẤN NẠN QUYỀN BÍNH DÂN SỰ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Câu nói của chúa Giêsu năm nào đã làm cho nhiều người Pharisêu và nhóm người phe Hêrôđê là những người đầy dã tâm đang tìm mọi cách hãm hại Người phải chưng hửng. Thoạt nghe câu chuyện chúng ta dễ nghĩ đến sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Phải nhận rằng Người đã tài tình thoát khỏi cái thế tiến thoái lưỡng nan do bởi cái bẫy hiểm độc của nhóm Pharisêu và phe Hêrôđê, những người vốn không thích nhau, thì nay lại hợp sức giăng ra. Tuy nhiên, nhân câu chuyện thú vị này và nhất là qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta có được một cái nhìn chuẩn mực hơn về vấn nạn quyền bính trong các xã hội dân sự.

Con người là hữu thể có tính xã hội. Có thể nói rằng tính xã hội là một trong những yếu tố nền tảng làm nên con người. Không ai là một hòn đảo. Kinh Thánh khẳng định: “con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Cái không tốt ở đây không chỉ liên hệ đến phẩm tính mà còn liên hệ đến căn tính, nghĩa là liên hệ đến hữu thể “người”. Nói nôm na là nếu “ở một mình” thì không thể thành người đúng nghĩa. Một vài sự kiện về các trẻ bé lạc trong rừng sâu như một minh chứng rõ ràng. Dù sau đó khi được phát hiện và đưa về thì “người rừng” rất khó hòa nhập với xã hội loài người.

Quyền bính có ra là do yêu cầu của tính xã hội. Đã là hai người thì tất yếu có kẻ trên, người dưới. Đã là tập thể thì phải có người đứng đầu để lãnh đạo. Một tập thể mà không có người chỉ huy thì chuyện tan rã là chuyện không sớm thì muộn cũng xảy ra. Không có người lãnh đạo thì sẽ dẫn đến tình trạng hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé. Chính vì thế sự hiện hữu của quyền bính là điều tất yếu cần thiết. Vị trí quan trọng và thiết yếu của quyền bính được nhìn nhận do bởi vai trò của nó. Quyền bính có ra là để gìn giữ xã hội ổn định trong trật tự, công bằng; xây dựng công ích; bảo vệ kẻ cô thân, yếu thế, người bất hạnh; tạo điều kiện cho mỗi người và mọi người hoàn cảnh thuận lợi để tồn tại, phát triển và nên hoàn thiện.

Theo viễn kiến này và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa muốn có sự hiện hữu của quyền bính trong xã hội dân sự. Và sự hiện hữu của quyền bính là trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, khi Người dựng nên nhân loại có tính xã hội. Như thế chúng ta có thể nói không sợ sai lầm rằng quyền bính là một trong những công trình của Thiên Chúa, nghĩa là do Thiên Chúa làm nên.

Những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Xêda là một hình thức quyền bính của xã hội dân sự thời phong kiến xưa. Xêda là hoàng đế của La mã hoặc bất cứ vị hoàng đế của nước nào cũng đều thuộc về Thiên Chúa. Ngày nay, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Quốc Hội, Tòa án…cũng là quyền bính xã hội và chúng đều thuộc về Thiên Chúa. Vì thuộc về Thiên Chúa thì những người nắm giữ quyền bính ấy phải hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Hoàng đế Kyrô khi ra sắc chỉ cho dân Do Thái bị lưu đày trước đây được hồi hương và tái thiết Đền thờ thì đã được ngôn sứ Isaia nhìn nhận như là người được Thiên Chúa tuyển chọn. Hoàng đế Kyrô còn được gọi là người được xức dầu vì ông đã thực thi thánh ý Thiên Chúa (x.Is 45,1).

Chúng ta cần phân biệt sự hiện hữu của quyền bính với người nắm quyền bính. Sự hiện hữu của quyền bính là chính đáng, hợp pháp và phải đạo vì do Thiên Chúa làm nên. Tuy nhiên không phải bất cứ ai nắm quyền bính cũng đều chính đáng, vì có thể họ chiếm lấy quyền bính cách không hợp pháp hoặc họ thực thi quyền bính cách không phải đạo. Lich sử minh chứng có trường hợp người ta đã chiếm lấy quyền bính cách “ma đạo” và hành quyền kiểu độc tài, phi nhân và phi luân. Như thế chúng ta cần phải phân biệt rạch ròi thực thể quyền bính với những người nắm quyền để khỏi nhầm lẫn.

Xét quyền bính như là một cơ cấu tổ chức điều hành một tập thể xã hội hay tôn giáo thì nó thật chính đáng và hợp lý. Tuy nhiên hình thức quyền bính này cũng cần phải được chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển của con người và xã hội để phục vụ cách hữu hiệu ngày mỗi hơn. Chẳng hạn như cơ cấu quyền bính loại hình quân chủ chuyên chế không thể nào thích hợp với con người và xã hội hôm nay. Nhiều hình thái cơ cấu, tổ chức không chỉ cần phải được đổi mới mà thậm chí còn phải bị thay thế bằng hình thái khác. Có thể nói rằng với đà phát triển của nhân loại như hôm nay thì những hình thái quyền bính mang tính độc tài, chuyên chế không còn lý do để hiện hữu.

Xét những con người nắm quyền bính thì trước hết chúng ta cần xem xét cách thức họ nắm giữ quyền hành có hợp pháp không, nghĩa là có minh bạch và công bằng không. Chúng ta dễ nhận ra cách thức xem ra được gọi là khá công bằng hiện nay để xây dựng công quyền đó là “phổ thông đầu phiếu”. Và dù được tổ chức bầu bán công khai thì cũng cần phải xét xem việc bầu bán ấy có tiến hành trong sự tự do và công bằng hay không. Thực tế đã có đó những cuộc bầu bán tuy là công khai những chỉ là một thứ hình thức hợp pháp hóa sự độc quyền, vì chưa bầu mà thiên hạ đã biết những ai sẽ đắc cử và sẽ đảm nhận vai vế gì trong hệ thống công quyền.

Kế đến chúng ta cần xem xét những người cho dù đảm nhận quyền bính cách hợp pháp và công minh nhưng họ có hành quyền cách công tâm và đúng mực không, dĩ nhiên là ở một mức độ nào đó khả dĩ có thể chấp nhận. Nếu đang nắm quyền mà không thực thi vai trò của quyền bính như đã nói trên, đó là xây dựng công ích, gìn giữ trật tự, bảo vệ người cô thế…, thì chắc chắn những người ấy đang đi ngoài đường lối của Thiên Chúa. Như thế họ không chỉ không đáng được tôn trọng mà thậm chí còn cần phải bị thay thế.

Giáo Hội không làm thay việc của Chính quyền. Đây là một lời khẳng định đúng. Thế nhưng cần hiểu hai từ Giáo Hội ở đây xét như là một thực thể tôn giáo mang tính xã hội có cơ cấu tổ chức và cả quyền bính. Còn những con người có tôn giáo thì chắc chắn phải thực thi nghĩa vụ “con người mang tính xã hội” của mình. Họ phải tích cực tham gia và xây dựng quyền bính xã hội để làm cho nó ngày càng thuộc về Thiên Chúa hơn, nghĩa là được vận hành cách chính đáng và phải đạo. Giáo Hội Công Giáo chỉ cấm hàng giáo sĩ và tu sĩ không được tham gia vào các chức vụ công quyền, trừ khi có lý do thật khẩn thiết và được ban phép (GL Đ.287.2 ; Đ.672). Còn với tín hữu giáo dân thì việc trực tiếp hay gián tiếp tham gia công quyền và xây dựng công quyền ngày càng trở thành “chính quyền” là một nghĩa vụ khẩn thiết, không thể xao nhãng hay bỏ qua vì bất cứ lý do gì.

“Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Có thể khẳng định rằng thể chế nào, nền công quyền nào hay người nắm quyền lực nào mà không “thuộc về Thiên Chúa” thì đang bị Thần dữ chi phối. Thần dữ vốn là tên sát nhân và là cha của sự gian dối thì “thành quả” của nó chính là sự chết chóc, bạo lực và hận thù (x.Ga 8,44). Chính vì thế để làm phát triển nền văn minh tình thương và sự sống thì mọi Kitô, dù là giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ, theo cách thế của mình, đều có bổn phận làm cho các cơ chế công quyền và những người nắm quyền “thuộc về Thiên Chúa”, nghĩa là hiện hữu, vận hành và thi hành quyền bính phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Để được vậy, thiết nghĩ không gì hơn chúng ta cần tích cực can đảm bảo vệ công lý và làm chứng cho sự thật trong tình yêu. “Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo” đã từng được Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên chương trình phổ biến và học tập. Mong sao chương trình này không dừng lại ở phạm trù truyền đạt kiến thức nhưng thiết nghĩ cần phải được hiện thực hóa bằng việc làm cụ thể, rõ ràng.

Về mục lục

.

SỐNG ĐẠO GIỮA ĐỜI

JM. Lam Thy

Người Việt Nam vẫn gọi những người theo Đạo Thiên Chúa là những người có Đạo. Khi nói đến “sống Đạo giữa Đời” là nói đến sứ mạng chính yếu của người có Đạo (tức là những Ki-tô hữu sống giữa trần gian với trách nhiệm loan báo Tin Mừng mà Thiên Chúa và Giáo hội đã trao phó). Nói cách cụ thể thì đó là công cuộc Truyền Giáo như ĐTC Phan-xi-cô viết trong phần mở đầu Sứ điệp Truyền Giáo 2017 (“Sứ vụ Truyền Giáo trong Lòng Đức Tin Ki-tô giáo”):

“Một lần nữa trong năm nay, ngày Thế giới Truyền Giáo tụ tập chúng ta lại chung quanh con người của Chúa Giê-su, “Đấng loan báo Tin Mừng tiên khởi và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, “Evangelii Nuntiandi”, 7), Đấng tiếp tục sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng về tình yêu của Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngày hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ lại về việc truyền giáo trong lòng đức tin Ki-tô giáo. Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, thì Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Ki-tô nữa, mà là một trong nhiều nhóm người cuối cùng chỉ phục vụ mục đích riêng của họ và qua đi. Vì thế, điều quan trọng là chúng ta tự đặt ra cho mình những câu hỏi về căn tính Ki-tô giáo của mình và trách nhiệm của mình như các tín hữu trong một thế giới bị đánh dấu bởi sự nhầm lẫn, thất vọng và thất bại, cùng bị xâu xé bởi các cuộc chiến tương tàn, là các cuộc chiến bất công nhắm đến những người vô tội. Căn bản của sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì? Trọng tâm của sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì? Những tiếp cận thiết yếu mà chúng ta cần phải thực hiện trong việc thi hành sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì?” (nguồn: Vatican.net)

Xin cùng tìm hiểu về sứ vụ Truyền giáo:

I.- TRUYỀN GIÁO – TÍNH CHẤT CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI:

A- XUẤT PHÁT ĐIỂM VÀ ĐÍCH ĐIỂM CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO: Xuất phát từ lòng nhân từ thương xót vô biên, Thiên Chúa dựng nên loài người có nam có nữ, để làm vinh danh Người và tạo nên hạnh phúc cho loài người. Nói rõ hơn, vì tình yêu, Thiên Chúa ban sự sống cho con người và lại quay lại mời gọi loài người san sẻ tình yêu ấy cho nhau, liên kết nhau thành một dân duy nhất quy hướng về nguồn cội “Thiên Chúa Tình Yêu” (tức là khơi nguồn từ “Suối Tình Yêu” Thiên Chúa tuôn trào, để lại trở về với cội nguồn là “Biển Tình Yêu” bao la vô lượng của Thiên Chúa). Dòng chảy không ngừng ấy cũng chính là nguyên lý Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh như sắc lệnh về Truyền Giáo “Ad Gentes” (số 2) đã chỉ rõ: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo Ý Ðịnh của Thiên Chúa Cha. Ý định này tuôn trào từ “suối tình yêu” cũng là lòng thương của Thiên Chúa Cha, vì chính Ngài là Nguyên lý vô Nguyên lý, bởi Ngài mà Chúa Con được sinh ra, và cũng bởi Ngài và nhờ Chúa Con mà phát xuất Chúa Thánh Thần.”

Chính vì thế, nên chân lý “Thiên Chúa Tình Yêu” vừa là xuất phát điểm, vừa là đích điểm của hoạt động truyền giáo. Công cuộc truyền giáo bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, được duy trì và tiếp nối từ khi con người hiện diện trên trái đất. Những Thánh vịnh, Thánh ca, những ngôn từ, sách vở được lưu truyền rộng rãi, hoặc những hình ảnh về một cây nho, một vườn nho đan tử trong Cựu Ước, đã minh họa sống động cho điều này. Tới khi Thiên Chúa Cha sai Con Một xuống thế thực thi sứ mạng cao cả cứu độ nhân loại, thì một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vĩ đại – về truyền giáo được khai sinh. Và cũng từ đó, Giáo hội được thiết lập như một tiếp nối hành trình Con Đường Cứu Rỗi của Đức Ki-tô. Rõ ràng, Truyền Giáo tức là tình yêu “nhận về” (eros) – đón nhận Tình Yêu từ Thiên Chúa – và tình yêu “cho đi” (agape) – chia sẻ Tình Yêu ấy cho anh em.

B- TÍNH CHẤT CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI TRẦN THẾ: Giáo hội trần thế còn gọi là Giáo hội Lữ hành, đó là một cộng đồng Dân Chúa đang trên hành trình tiến về Quê Trời (Giáo hội Thiên Quốc – GH Khải Hoàn). Vì tính cách tìm kiếm để chiếm hữu được Nước Trời, nên mọi hoạt động của Giáo hội nơi trần thế đều quy về một hướng: Rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Khởi từ biến cố “Ngôi Lời nhập thể”, một kỷ nguyên mới được mở ra giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Loài người vì được Thiên Chúa ban cho sự tự do đến gần như tuyệt đối, phát sinh kiêu ngạo “muốn bằng Đức Chúa Trời” (câu chuyện “Nguyên Tổ ăn trái cấm” – St 3, 1-24, câu chuyện “xây tháp Babel” – St 11, 1-9), và vì thế ngày càng đắm chìm trong tội lỗi nhuốc nhơ, trong bóng tối của tử thần. Đức Giê-su Ki-tô nhận lãnh sứ vụ từ Thiên Chúa Cha – qua thông hiệp của Chúa Thánh Thần – đã đến trong thế gian để hiện thực hóa sứ vụ rao truyền ơn Cứu Rỗi.

Người chính là nhà Truyền Giáo vĩ đại nhất, bởi chính Người là Thiên Chúa tác tạo muôn loài lại phải trở nên “mọi sự trong mọi người” (“Lúc muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.” – 1Cr 15, 28), đồng thời phải đem chính mạng sống của mình ra cứu chuộc tội lỗi cho muôn người. Với dụ ngôn “Cây nho và vườn nho”, Người đã dạy cho các môn đệ cũng như cho mọi tín hữu biết tất cả là những cành nho hút nhựa từ thân cây nho duy nhất là Đức Ki-tô phải có bổn phận trổ sinh hoa trái, đó chính là bổn phận Truyền Giáo. Lệnh truyền của Đức Ki-tô: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 19-20), đã minh chứng rằng khi thiết lập Hội Thánh Chúa nơi trần thế, Người đã trao cho Giáo hội sứ mạng tiếp nối hành trình Cứu Độ mà Người đã thực hiện qua Hy tế Thập Giá và sự Phục Sinh vinh hiển, đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại.

Rõ ràng tính chất căn bản của Giáo hội là truyền giáo (“Như thế, rõ ràng là hoạt động truyền giáo bắt nguồn sâu xa từ chính bản tính của Giáo hội. Nó truyền bá đức tin cứu rỗi của Giáo hội, hoàn tất sự hiệp nhất công giáo của Giáo hội bằng cách làm bành trướng sự hiệp nhất này, nó dựa vào tính cách tông truyền của Giáo hội, nó thể hiện ý nghĩa cộng đoàn của hàng Giáo phẩm, nó làm chứng, truyền bá và thúc đẩy sự thánh thiện của Giáo hội.” – Sắc lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 6). Trách vụ của toàn thể Giáo hội (bao gồm mọi Ki-tô hữu, mọi thành phần Dân Chúa – không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân) là phải loan báo Tin Mừng.

C- TÍNH CHẤT CÁNH CHUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO: Hoạt động truyền giáo là trường kỳ, là miên viễn, khơi nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi truyền sang con người là loài thụ tạo, trải qua thời gian thật dài (Cựu Ước), trước khi Đức Giê-su Ki-tô được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian lần thứ nhất, và chỉ chấm dứt khi không còn sự hiện diện của loài người trong vũ trụ. Nói khác hơn, “thời gian hoạt động truyền giáo là thời gian ở giữa hai lần Chúa đến; và khi Chúa đến lần thứ hai, Giáo hội ví như mùa gặt được thu góp vào Nước Chúa từ bốn phương trời. Thực vậy, trước khi Chúa đến, Phúc Âm phải được rao giảng cho mọi dân tộc.” (Sắc lệnh “Ad Gentes”, số 9).

Vào những thời điểm thuận tiện và cần thiết đáp ứng nhu cầu của thời đại, Giáo hội thường phát động và mở ra những tiêu điểm truyền giáo, nhằm nhắc nhở và thúc đẩy mọi Ki-tô hữu nhớ đến sứ mạng chính yếu của mình, đồng thời tác động vào tiềm năng loan báo Tin Mừng nơi mỗi Ki-tô hữu. Đó chính là lý do các Năm Thánh, Đại Năm Thánh được mở ra, và cho dù có nhiều chủ đề được nêu lên, nhưng tựu trung vẫn là phục vụ cho một mục đích duy nhất mà Hội Thánh Chúa hằng theo đuổi, đó là Truyền Giáo.

II.- TRUYỀN GIÁO: SỨ VỤ NHẤT QUÁN CỦA KI-TÔ HỮU:

A- KI-TÔ HỮU VỚI 3 CHỨC VỤ CỦA ĐỨC KI-TÔ: Nhờ bí tích Thánh Tẩy, mọi Ki-tô hữu được tháp nhập vào chính Thân Thể Đức Giê-su Ki-tô, như những cành nho tháp nhập vào với thân cây nho duy nhất, hút nhựa và trổ sinh hoa trái. Cũng từ đó, người Ki-tô hữu được “trở nên Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả của Chúa Ki-tô” (Hiến chế Tín Lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, số 31).

Tư Tế: Dâng cuộc sống riêng tư của bản thân làm của lễ, như Đức Ki-tô trong hy tế thập giá (Tư: riêng từng người, Tế: lễ dâng, lễ tế). Mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, kể cả những thử thách của cuộc sống, nếu người tín hữu kiên trì đón nhận và chu toàn trong Thánh Thần, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô; vì những của lễ ấy được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với Mình Thánh Chúa khi cử hành lễ tạ ơn (“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô.” – 1Pr 2, 5). Như thế, giáo dân, nhờ biết phụng thờ Thiên Chúa, sẵn sàng cung hiến thế giới này cho Người bằng hành động thánh thiện khắp nơi.

Trong chiều hướng đó, hiến chế “Lumen Gentium” (số 34) đã giải thích: “Chúa Giê-su Ki-tô, Linh Mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vì cũng muốn giáo dân tiếp tục công việc chứng tá và việc phục vụ của mình, nên đã nhờ Thánh Thần ban cho họ sự sống, và không ngừng thôi thúc họ thực hành những điều thiện hảo. Thực vậy, những kẻ mà Người đã cho tham dự mật thiết vào sự sống và sứ mệnh Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ tư tế, để họ thực hành việc phụng thờ thiêng liêng hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi loài người. Bởi thế, vì giáo dân đã được hiến dâng cho Chúa Ki-tô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn.”

Ngôn Sứ: Trước đây, dùng tiếng Tiên Tri (biết trước, ý muốn nói là người biết trước kết quả việc mình tin theo, làm theo; lời tiên tri tức là lời được báo trước về những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai); nhưng sau dùng tiếng Ngôn sứ phù hợp và cụ thể hóa chức vụ của Đức Ki-tô khi Người được Chúa Cha sai xuống trần gian rao giảng Tin Mừng và thực hiện việc cứu độ nhân loại, và đó cũng là lý do gọi mầu nhiệm “Ngôi Hai giáng trần” là “Ngôi Lời nhập thể”. Ngôn sứ có nghĩa là người được sai đi rao giảng Lời Chúa (Ngôn: lời nói,Sứ: người được sai đi). Đó chính là công việc loan báo Tin Mừng, mở mang Nước Chúa, mà từ trước khi Chúa Ki-tô giáng trần, Thiên Chúa đã sai một số người thực hiện (như các Tiên tri, Ngôn sứ trong Cựu Ước). Kể từ khi Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha sai đi như một ngôn sứ, thì Người đã sai toàn thể môn đệ làm những việc mà Người đã và đang làm.

Kể từ Tân Ước, việc được sai đi mang tính tập thể hơn Cựu Ước (“Việc tham gia vào trách vụ rao giảng của Đức Ki-tô ‘là Đấng lấy cả cuộc sống mình cũng như lấy sức mạnh của lời nói để tuyên bố vương quốc Chúa Cha’, sự tham gia này làm cho người giáo dân có đủ năng-cách và dấn thân để nhận lãnh Phúc Âm trong Đức Tin, để rao giảng bằng lời nói và hành động, và để tố cáo một cách bạo dạn không do dự những gì là điều ác. Người tín hữu giáo dân hợp nhất với Đức Ki-tô ‘vị Đại Tiên Tri’ (Lc 7, 16) và được đặt làm “chứng nhân” của Đức Ki-tô Phục Sinh trong Chúa Thánh Thần, họ trở thành những người tham dự vào ý thức Đức Tin siêu nhiên của Giáo hội ‘không thể sai lầm trong Đức Tin’ cũng như tham gia vào ân sủng của lời nói (Acts. 2, 17-18, Ap. 19, 10). Hơn nữa họ được gọi để chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc Âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia đình và xã hội của họ, cũng như để diễn tả niềm hy vọng vinh quang ‘ngay cả trong những cơ cấu của cuộc sống trần thế’ (L.G. 35) với một tâm hồn nhẫn nại và can đảm giữa những khó khăn của thời hiện đại.” – Tông huấn Ki-tô hữu Giáo Dân “Christi Fideles Laici”, số 14).

Vương giả: Vương giả là ông vua, người lãnh đạo (Vương: vua, Giả: ông, người). Tham dự vào chức vụ Vương giả, ngụ ý tham dự vào công việc của Vua Giê-su; mà Vua Giê-su khác hẳn những ông vua phong kiến ở trần thế (ngồi thụ hưởng, được mọi người phục vụ hết mình), Vua Giê-su thì “Thầy đến để phục vụ chớ không phải để được phục vụ” (Mt 20, 28). Được tham dự vào chức vụ Vương giả có nghĩa là được làm chủ: Làm chủ bản thân, làm chủ trần thế. Đó chính là tinh thần dân chủ đích thực giúp người tín hữu nhận biết bản tính sâu xa của tạo vật cùng với giá trị của chúng, và cùng đích của chúng là ca ngợi Thiên Chúa. Đồng thời với sự hiểu biết ấy, người tín hữu giúp nhau sống đời thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Ki-tô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình.

Thực vậy, “Giáo dân giữ lấy vai trò chính yếu trong khi chu toàn nhiệm vụ phổ quát đó. Nhờ khả năng chuyên môn trong những việc trần thế, nhờ các hoạt động của họ, những hoạt động được ân sủng Chúa Ki-tô nâng lên bậc siêu nhiên, giáo dân hãy đem toàn lực hợp tác để nhờ lao công con người, kỹ thuật và văn hóa nhân loại khai thác những của cải được tạo dựng hầu mưu ích cho mọi người và phân chia cân xứng hơn giữa họ theo ý định của Ðấng Tạo Hóa và sự soi sáng của Ngôi Lời Ngài; và tùy cách thức riêng của chúng, chúng giúp phát triển toàn diện sự tự do của con người và sự tự do của Ki-tô hữu. Như thế, nhờ các phần tử của Giáo hội, Chúa Ki-tô sẽ đem ánh sáng cứu độ của Người chiếu soi toàn thể nhân loại mỗi ngày một hơn.” (Hiến chế “Lumen Gentium”, số 36).

B- GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG-ĐỒNG-HIỆP-THÔNG-VÀ-TRUYỀN-GIÁO: Như đã trình bày, căn tính, chân tính của Giáo hội là truyền giáo, là loan báo Tin Mừng Cứu Độ, là chia sẻ cho nhau Tình Yêu vô lượng của Thiên Chúa. Rõ ràng Giáo hội là một tập thể, một cộng đồng sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, như lời chúc của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần.” (2Cr 13, 13). Có thể khẳng định Giáo hội là một-cộng-đồng-hiệp-thông-và-truyền-giáo, vì “Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần “hợp nhất toàn thể Giáo hội trong mối hiệp thông và thừa hành, ban phát các ơn phẩm trật và đặc sủng khác nhau”, như là linh hồn làm sống động những Tổ chức trong Giáo hội và đổ vào lòng các tín hữu cũng một tinh thần truyền giáo đã thúc đẩy chính Chúa Ki-tô. Ðôi khi Chúa Thánh Thần lại chuẩn bị một cách hữu hình cho hành động truyền giáo, cũng như không ngừng dùng những phương thế khác nhau để theo sát và hướng dẫn vậy.” (Sắc lệnh “Ad Gentes”, số 4).

Tại sao vậy? Ấy cũng bởi “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo hội và sai Giáo hội đi rao giảng Phúc Âm “khắp trên mặt đất” (Acts. 1, 8). Còn Giáo hội, Giáo hội biết sự hiệp thông là ơn Chúa, nó có sứ mệnh đốí với mọi người. Như thế Giáo hội cảm thấy mắc nợ đã nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần, Đấng đã ban tràn đức ái của Chúa Cha trong lòng các kẻ tin tưởng, là sức mạnh nốí kết bên trong và cũng là sức mạnh bành trướng bên ngoài. Sứ mệnh của Giáo hội nằm ngay trong bản tính của mình như Chúa Ki-tô đã muốn: đó là sứ mệnh phải trở nên “dấu chỉ và phương thế… làm cho toàn thể nhân loại được hợp nhất”. Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông “mới” ; sự hiệp thông đi vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người.” (Tông huấn “Christi Fideles Laici”, số 32). Chính vì thế, tất cả mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo hội đều sống hiệp thông huynh đệ với nhau để cùng thực thi sứ vụ chung là “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).

C- TÍNH CHẤT CÁCH TÂN (ĐỔI MỚI) VÀ NHẤT QUÁN (THỐNG NHẤT) TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO: Kể từ khi được Thiên Chúa dựng nên và hiện diện trên trái đất, nếu loài người cùng thực hành, thực thi một công việc nào đó cho đến lúc thế giới cánh chung, thì đó chính là tính cách nhất quán của công việc ấy. Vậy thì từ khi những Ki-tô hữu được ơn gọi trở nên Dân Thiên Chúa, chỉ được trao có một nhiệm vụ duy nhất, cao cả nhất là rao giảng Tin Mừng cứu độ, thì sứ vụ ấy đã mang tính nhất quán (trước sau là một, chỉ có một mà thôi). Sứ vụ được trao tuy chỉ là một, là bất di bất dịch, là bất biến, nhưng lại luôn luôn thích nghi với thời đại, với từng giai đoạn trong trường kỳ lịch sử nhân loại, luôn phù hợp với từng hoàn cảnh địa dư, thì đó chính là tính chất cách tân (đổi mới) của hoạt động truyền giáo của Giáo hội.

Từ thời Cựu Ước, vấn đề truyền giáo đã được đặt ra. Đến thời Tân Ước, chính Đức Giê-su Ki-tô thực hiện việc truyền bá Phúc Âm thông qua Hy tế Thập Giá và sự Phục Sinh vinh hiển của Người – một cuộc canh tân vĩ đại đã mở ra phương hướng “trời mới đất mới” cho loài người. Khi hoàn tất sứ mạng, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Ki-tô lại phán cùng các môn đệ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 19-23). Đó là Giáo hội sơ khai do chính Đức Ki-tô thiết lập với viên đá tảng đầu tiên là Thánh Phê-rô. Trải qua 2000 năm lịch sử, với các Công Đồng Chung, Giáo hội luôn luôn kiện toàn và đổi mới phương cách trong sứ vụ duy nhất là truyền giáo cho phù hợp với từng giai đoạn, từng bối cảnh lịch sử loài người. Đặc biệt và gần đây nhất là Thánh Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II (1962-1965) đã làm một cuộc canh tân vĩ đại chưa từng thấy trong lịch sử Giáo hội.

Cả một triều đại Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II (và vẫn được tiếp nối tới triều đại đương kim: Đức GH Phan-xi-cô), một khẩu hiệu luôn luôn được nhắc đi nhắc lại và tận tâm, tận lực thực hiện là khẩu hiệu “Canh tân và sám hối” (Tông huấn “Christi Fideles Laici”, 34). Rõ ràng việc rao giảng Tin Vui Cứu Thế luôn luôn thích nghi với thời đại và là sợi chỉ vàng xuyên suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của Giáo hội. Sự thích nghi với từng thời điểm của lịch sử nhân loại là tính chất cách tân (đổi mới), và phải chăng sợi chỉ vàng xuyên suốt ấy là tính chất nhất quán (duy nhất) của hoạt động truyền giáo của Giáo hội? Cũng có thể khẳng định rằng để có Giáo hội (Giáo hội hiện hữu) và để Giáo hội mãi mãi tồn tại (Giáo hội bất biến), điều tất yếu là phải Truyền Giáo.

III.- KẾT LUẬN:

Tóm lại, tự bản chất, Giáo hội là một cộng đồng, một tập thể bao gồm tất cả Dân Thiên Chúa. Tất cả và mỗi Ki-tô hữu là thành phần của Giáo hội, bởi vì họ đã là “cành nho của thân cây nho duy nhất là Đức Giê-su”. Mỗi cành nho hút nhựa từ thân cây nho để tồn tại và trổ sinh hoa trái, và việc trổ sinh hoa trái ấy chính là một sứ vụ đáp trả ân sủng nguồn nhựa đã hút được. Nói khác hơn, việc trổ sinh hoa trái chính là việc “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16, 15). Và đó chính là sứ vụ Truyền Giáo mà Giáo hội được chính vị hôn phu Giê-su Ki-tô trao phó, để tiếp nối hành trình cứu độ nhân loại. Vâng, và xin mượn lời dạy của Sắc lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes” (số 9), để một lần nữa minh họa hoạt động trong sứ vụ chung của tất cả những Ki-tô hữu trong Giáo hội:

“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần, chính trong lịch sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ việc truyền giáo. Nhờ lời rao giảng và việc cử hành các bí tích, mà trung tâm và tuyệt đỉnh là phép Thánh Thể, hoạt động truyền giáo làm cho Chúa Ki-tô, Ðấng tác thành công trình cứu rỗi được hiện diện. Tất cả những gì là chân lý và ân sủng đã được tìm thấy nơi các dân tộc như một sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa sẽ được hoạt động truyền giáo giải thoát cho khỏi bị nhiễm độc, và hoàn lại cho Chúa Kitô là Ðấng tác thành chúng, Ðấng đã lật đổ nước ma quỷ và chận đứng sự dữ muôn hình của tội lỗi.

Bởi vậy, bất cứ điều gì tốt đẹp được nhận biết là đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay trong những lễ chế và văn minh riêng của các dân tộc, sẽ không bị hủy diệt, mà còn được thanh tẩy, thăng tiến và hoàn tất, để Chúa được tôn vinh, ma quỷ bị xấu hổ và con người được hạnh phúc. Vì thế, hoạt động truyền giáo hướng về sự viên mãn cánh chung: nhờ hoạt động truyền giáo này, Dân Chúa được phát triển tới mức độ và thời gian mà Chúa Cha đã ấn định do quyền riêng của Ngài như lời tiên tri nói với Dân này rằng: ‘Hãy mở rộng nơi con cắm trại, hãy căng rộng lều vải của con, đừng ngần ngại’ (Is 54, 2). Cũng nhờ hoạt động truyền giáo, Nhiệm Thể được triển nở đến thời hạn viên mãn của Chúa Ki-tô, và đền thờ thiêng liêng, nơi Thiên Chúa được thờ lạy trong tinh thần và chân lý, sẽ lớn lên và được xây dựng ‘trên nền móng là các Tông đồ và các Tiên tri mà chính Chúa Giê-su Ki-tô là viên đá góc’ (Ep 2, 20).”

Để đạt được ước nguyện, xin hãy làm theo lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô: “Anh chị em thân mến, khi thi hành việc truyền giáo của mình, chúng ta hãy lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời sự sống trong đức tin khiêm cung thâm sâu của Mẹ. Xin Đức Trinh Nữ giúp chúng ta nói lên lời “xin vâng” của mình, khi ý thức nhu cầu cấp bách phải làm cho Tin Mừng của Đức Giê-su vang dội trong thời đại chúng ta. Xin Mẹ cầu Chúa ban cho chúng ta nhiệt tâm mới để đem Tin Mừng đến với mọi người, là Tin Mừng của sự sống chiến thắng sự chết. Xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta có được sự táo bạo thánh thiện cần thiết để khám phá ra những cách mới hầu đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người.” (Sứ điệp Truyền Giáo 2017, số 10).

Về mục lục

.

THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ

          Fx Đỗ Công Minh 

Chúa nhật XXIX  thường niên  hôm nay, Giáo hội dành cầu nguyện cho việc Loan báo Tin Mừng mà chúng con quen gọi là lễ Khánh nhật Truyền Giáo. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa đả nhắc: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ “, qua đó Chúa mong muốn có nhiều người đáp lại tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng  loan báo Tin vui về Thiên Chúa, đấng hằng yêu thương hết mọi người và mong cho họ được ơn cứu độ. Chúa còn muốn con trở nên những người thợ gặt trước một cánh đồng lúa đang chín rộ trên đất nước Việt Nam, nơi đây là biết bao đồng bào đang cùng chia sẻ ngọt bùi với con trên mảnh đất thân thương này. Và cũng chính tại đây, còn có hơn 70 triệu người chưa được đón nhận Tin Mừng của Chúa. Đó chính là những thao thức lớn lao của  Chúa, của Hội Thánh cũng như từng tín hữu chúng con.

         Con đã được trở thành người tín hữu tức là con cũng được mời gọi vào cánh đồng  mênh mông này. Ngày hôm nay, một số bạn trẻ đang dấn thân, hy sinh cuộc đời mình dành cho Chúa và cho mọi người, trở thành những Linh Mục, tu sĩ. Nhưng bên cạnh đó, còn biết bao giáo dân đang sống giữa đời, mỗi người chúng con cũng phải đáp lời mời gọi của Chúa. Chính đức Thánh Cha Bênêdictô XVI trong sứ điệp về Truyền giáo cũng nhắc nhở chúng con :”Hãy thông truyền cho mọi người niềm vui đức tin với lòng nhiệt thành hăng hái đến từ cuộc sống được Chúa Thánh Linh thúc đẩy, vì chính Chúa canh tân mọi sự . . .Hãy tỉnh thức, sẵn sàng để nhận ra khuôn mặt  Đức Kitô và chạy đến với anh chị em của chúng ta với Tin vui : Chúng tôi đã nhìn thấy Chúa “.

         Con không thể đi đến những nơi xa xôi khó khăn để loan báo Tin mừng. Con không đủ sức hay chưa dám hy sinh quên mình đi đến những trại phong, những buôn làng, hay đến với các em khuyết tật, những người bị bỏ rơi. . .Nhưng con cũng có thể loan báo tin mừng bằng chính cuộc sống của con tại nơi con sống, làm việc, công tác, những người thân cận với con. Nếu con biết “Đi ra” khỏi cuộc sống riêng tư, đi ra những “vùng ngoại biên”, liên đới với mọi người đang sống bên con trong xã hội. Chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với họ, giúp đỡ họ và tạo điều kiện cùng giúp nhau vươn lên, nhất là trong lúc đồng bào con thuộc các tỉnh thành miền Bắc, miền Trung nước Việt đang phải gặp bao hoạn nạn vì bão lũ. Con biết mở lòng ra cùng với anh chị em con  đang  con đangđược sống trong những nơi an toàn. :Làm được như thế chính là  giới thiệu khuôn mặt Đức Kitô cho họ, đó chính là con đang biến mình thành những thợ gặt nhiệt thành.

        “ Thế giới ngày nay đang cần những người nói với Thiên Chúa, để có thể nói về Thiên Chúa . . .Chúa Giêsu đã không cứu độ thế giới bằng những lời hoa mỹ, hoặc bằng những phương thế hoành tráng, nhưng bằng khổ đau và cái chết của Người “( Sứ điệp TG).

          Xin cho con biết luôn thưa cùng Chúa:”Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

          Lạy Ngài, Xin thêm Đức tin cho con” AMEN.

Về mục lục

.

ANH EM HÃY RA ĐI

Lm. Giuse Nguyễn

1.  Chúa Nhật trước Chúa Nhật cuối tháng 10 được Giáo hội chọn là “Khánh Nhật Truyền Giáo”, ngày hội loan báo Tin Mừng. Không phải Giáo hội chỉ loan báo Tin mừng trong ngày hôm nay, mà “bản chất của Giáo hội là Truyền giáo”, lúc nào Giáo hội cũng phải loan báo Tin mừng… Nhưng đặc biệt trong ngày hôm nay, Giáo hội chọn để cầu nguyện cho việc loan báo Tin mừng nhằm nhắc nhở cho toàn thể Giáo hội thêm một lần nữa ý thức rõ hơn về cái gọi là bản chất của mình.

Có nhiều người gọi truyền giáo đơn giản là “Truyền bá tôn giáo”. Trong việc “truyền bá tôn giáo” này hàm ý việc làm cho tổ chức tôn giáo của mình lan rộng ra, được nhiều người biết đến, nghĩa là nhắm đến số lượng; nhưng nó cũng bao gồm việc truyền một con đường, một lý tưởng, là để cho Tin Mừng thấm nhập vào cuộc sống. Ở điểm này người ta nhắm đến phẩm chất nhiều hơn. Tuy nhiên việc Truyền giáo không chỉ đơn giản như vậy. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã viết trong sứ điệp Truyền Giáo 2017 như sau: “Việc truyền giáo của Hội Thánh không thể là quảng bá một ý thức hệ tôn giáo, càng không thể là đề nghị một học thuyết đạo đức cao siêu.” Vậy Truyền giáo là gì?

Nguyên gốc của chữ Truyền giáo là một danh từ tiếng La Tinh “Missio”, động từ là “Mittere”. Từ này có nhiều nghĩa, mà một trong những nghĩa thường được hiểu là: gửi đi, sai phái đi để làm một công tác quan trọng. Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian, để cứu độ con người. Chính Chúa Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường để cộng tác với Ngài trong sứ mạng cao cả này. Như vậy, truyền giáo mang đặc tính của sự “ra đi”.

2.  Đoạn Tin Mừng được đọc trong Thánh lễ hôm nay nói rõ điều đó: “Khi ấy, Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành phố, các nơi mà chính Người sẽ đến” (Lc 10, 1). Đức Giêsu sai các môn đệ đến nơi mà Ngài sẽ đến, làm công việc mà Ngài sẽ làm. Như vậy việc các môn đệ được sai đi rõ ràng là việc Truyền Giáo, vì các ông được sai phái đi làm một công việc quan trọng, để thực hiện công việc này, đòi hỏi các ông phải ra đi.

Cựu Linh mục dòng Chúa Cứu Thế, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Lan đã có một tác phẩm nổi tiếng vào cuối thập niên 60 mang tên “đường hay pháo đài”. Tác giả nhận đinh: “Đường là để đi, pháo đài là để phòng thủ”. Qua hình ảnh “đường và pháo đài”, tác giả muốn phản ảnh thực tại của Giáo hội để Giáo hội phải trả lời cho nhân loại mình là đường hay pháo đài? Có lẽ có một lúc nào đó, một thời nào đó, một nhóm nào đó… chỉ lo củng cố sức mạnh của mình về quyền lực, tài chánh và ảnh hưởng, nên Giáo hội được ví như một pháo đài phòng thủ kiên cố, chắc chắn. Nếu bản chất của Giáo hội là Truyền giáo, thì Giáo hội phải luôn luôn lên đường, luôn luôn ra đi. Nhưng lên đường, ra đi để làm gì?

3.   Sứ điệp Truyền Giáo 2017 có đoạn: Nhờ việc truyền giáo của Hội Thánh, chính Đức Giêsu Kitô tiếp tục rao giảng Tin Mừng và hành động; như thế việc truyền giáo của Hội Thánh làm hiện diện trong lịch sử thời của Đức Kitô, thời cứu độ thuận lợi. Đức Thánh Cha đã muốn Giáo hội lấy lại mô hình của Đức Giêsu trong việc Truyền Giáo, là làm cho Đức Giêsu hiện diện trong mọi môi trường, mọi thời đại. Ngài sai các môn đệ đi trước, dọn đường, để chính Ngài sẽ hiện diện. Vì lẽ đó, chắc chắn người môn đệ không thể rao giảng một ai khác ngoài Đức Giêsu, càng không thể rao giảng chính bản thân mình như đấng cứu nhân độ thế, đấng làm được mọi sự, và bắt mọi sự phải quy phục mình. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” như sau: “Là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ với một biến cố, một Người, sự gặp gỡ ấy tạo cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định.Vì vậy nếu người ta gặp gỡ được Đức Kitô thì họ mới biến đổi được cuộc đời, “mới tìm được chân trời mới, mới có một hướng đi quyết định”. Và đó chính là sứ mạng của Giáo hội, của mỗi Kitô hữu: Cho người khác gặp gỡ được Đức Kitô trong chính cuộc đời chúng ta trong mọi môi trường.

Khi anh chị em lương dân nghe gia đình người Công giáo đọc kinh hôm chung với nhau; thấy một anh bán bánh mì “chất lượng cao”: ngon, an toàn, hợp vệ sinh, luôn tươi cười, trong tủ có dán hình Chúa Thương Xót và cha Diệp; thấy một em học sinh “có đạo” không bao giờ gian lận trong thi cử; thấy một bà đạo đức cứ đi thăm viếng những người đau yếu, bệnh tật; thấy gia đình nọ không giàu có gì, nhưng gặp người nghèo khổ là sẵn sàng chia sẻ miếng cơm, manh áo…

4.   Muốn cho người khác gặp gỡ được Đức Kitô thì đòi hỏi Kitô hữu phải “lên đường”, phải “ra đi”. Dĩ nhiên không thể hiểu theo nghĩa đen sự ra đi như các môn đệ ngày xưa, nhưng đó vẫn phải là mệnh lệnh cho mỗi chúng ta: “Anh em hãy ra đi!”. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp truyền giáo 2017: Truyền giáo nhắc nhở Hội Thánh rằng mình không phải là một mục đích tự tại, nhưng là một dụng cụ và trung gian khiêm tốn của Nước Trời. Một Hội Thánh quy chiếu về chính mình, một Hội Thánh bằng lòng với thành công trần thế, thì không phải là Hội Thánh của Đức Kitô, không phải là Thân Thể chịu đóng đinh và vinh hiển của Người. Đó là lý do tại sao chúng ta phải thích “một Hội Thánh bị bầm giập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình”.Vì thế Kitô hữu đừng lấy lý do bận công việc làm ăn, mệt mỏi nên không thể đi lễ, không có giờ đọc kinh; sợ điều này, sợ điều kia… mà không dám sống những giá trị của Tin Mừng. Hãy chiêm ngắm một Đức Kitô bị bầm giập vì những vết thương để chúng ta hãy mang lấy thương tích của Đức Kitô mỗi ngày.

5.  Đức Maria “đã vội vã lên đường”đến với gia đình bà Êlisabet. Trong tháng 10, nhiều Họ đạo tổ chức kiệu Đức Mẹ đến từng gia đình để đọc kinh để chúng ta chiêm ngắm sự “lên đường” của Đức Mẹ. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta biết “cưu mang” Chúa qua cầu nguyện, thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích… để gương mặt Đức Kitô được tỏa ra nơi cung cách sống hằng ngày của chúng ta, nhờ đó mà người khác gặp gỡ được Đức Kitô.

Về mục lục

.

NGHĨA VỤ ĐI TÌM NGƯỜI ANH EM LƯU LẠC

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Hùng và Cường là hai anh em trong một gia đình hạnh phúc và êm ấm tại một thôn làng nhỏ ở miền Trung. Đời sống an bình bên luỹ tre xanh kéo dài chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra dữ dội khiến gia đình Hùng và Cường phải theo đoàn người sơ tán.

Trên con đường lánh nạn, bom đạn vô tâm đã trút xuống đầu dân lành vô tội, gây nhiều cái chết đau thương. Dưới lằn bom đạn kinh hoàng, ai nấy cắm đầu chạy trối chết và rồi sau đó, khi đến nơi an toàn, cha mẹ của Cường không thấy Cường đâu nữa. Thế là cả ba người – cha, mẹ và Hùng- quay quắt tìm kiếm Cường suốt cả mấy ngày nhưng cũng hoài công. Bị lạc mất con, cha mẹ Cường gặm nhấm nỗi đau buồn suốt ngày nầy qua tháng khác.

Thường ngày, ông bà vẫn nhắc nhở Hùng hãy cố gắng cất bước tìm em: “Con ơi, lòng cha mẹ rất buồn đau, ngồi đứng không yên khi vắng bóng em con trong ngôi nhà nầy. Con đã khôn lớn rồi, con hãy lên đường tìm em về cho cha mẹ.”

Nghe lời cha mẹ nỉ non, Hùng cảm thấy chột dạ, nên cũng dạ dạ vâng vâng nhưng rồi mãi lo vui chơi với bạn bè, nên cũng chẳng cất bước tìm em.

Ngày này qua tháng khác, dù được cha mẹ nhắc nhủ nhiều lần hãy lên đường tìm em, Hùng vẫn dửng dưng, không thiết gì đến hoàn cảnh đứa em lưu lạc, chẳng màng gì đến nỗi đau của cha mẹ già đang đau khổ vì đứa con xa nhà. Cậu cứ mãi lo việc mình, lo vui đùa với chúng bạn, không màng gì đến em. Như thế, Hùng đúng là người vô cảm vô tâm, bất nghĩa với em, bất hiếu với cha mẹ.                                    

Người cha người mẹ trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của Thiên Chúa nhân lành. Hùng tượng trưng cho những người con trong gia đình Thiên Chúa. Cường tượng trưng cho những anh chị em còn đang ở ngoài.

Thiên Chúa là Cha chung của hết mọi người. Ngài yêu thương tất cả không trừ ai và đặc biệt yêu thương những người con lưu lạc. Đã bao lần Ngài van lơn và thúc giục chúng ta hãy đi tìm những đứa em lưu lạc để dẫn đưa em về nhà, nhưng chúng ta vẫn cứ làm ngơ.

Là con cái trong nhà, hằng ngày chúng ta được Thiên Chúa chăm sóc chu đáo. Lời Chúa là thức ăn bổ dưỡng được Chúa trao ban hằng ngày. Chúa lại còn trao ban cả Mình Máu thánh Ngài để bồi bổ, tăng cường sức sống cho chúng ta. Chúa trang điểm chúng ta bằng bao lời khuyên dạy khôn ngoan giúp chúng ta trở thành người có phẩm chất cao đẹp. Chẳng có gì cần thiết cho đời sống tâm linh mà Chúa lại không cung cấp cho chúng ta.

Thế nhưng khi Chúa truyền dạy chúng ta lên đường tìm đứa em lưu lạc, đưa em về sum họp với gia đình và chia sẻ cuộc sống hạnh phúc với mình thì chẳng mấy ai quan tâm.

Như thế, việc loan Tin mừng, giới thiệu Đức Ki-tô cho lương dân và đưa họ về với Chúa là bổn phận phải làm vì đức ái, vì tình huynh đệ. Ai thoái thác là lỗi đức ái đối với anh em mình.

Ngoài ra, tất cả chúng ta, nhờ bí tích Thánh tẩy, được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giê-su,  được trở thành chi thể của Ngài.

Là chi thể của Chúa Giê-su, chúng ta không thể từ khước tham gia vào công việc hệ trọng nhất của Ngài là Đầu và của Thân Mình Ngài là Hội thánh.

Một chi thể không làm theo mệnh lệnh của đầu là một chi thể tê bại và một chi thể tê bại thì luôn gây cản trở cho hoạt động của toàn thân.  

Vậy, lý do thứ hai khiến chúng ta phải tham gia truyền giáo vì đây là đòi buộc tất yếu đối với các chi thể của Chúa Giê-su. Chi thể nào không tham gia vào sứ mạng tối thượng nầy là tự tách mình ra khỏi Đầu là Chúa Giê-su và Thân Mình Ngài là Hội thánh.

Lạy Chúa Giê-su,

Người anh được vui sống hạnh phúc trong nhà cha mẹ mà không chịu cất bước dẫn đứa em lưu lạc về nhà là người anh bất nghĩa.

Người con không vâng lời cha mẹ dạy hãy tìm kiếm và đưa em về nhà là người con bất hiếu.

Không lẽ chúng con vô tâm vô cảm với các anh chị em lưu lạc của mình mà để mặc họ phải sống trong cảnh xa nhà mãi sao!

Xin cho chúng con, ngay từ hôm nay, quyết tâm lên đường theo lời Chúa mời gọi để dẫn đưa anh chị em mình về sum họp trong nhà Cha thân yêu.

Về mục lục

.

NIỀM VUI TIN MỪNG ĐÁNH THỨC THẾ GIỚI

PM. Cao Huy Hoàng

SỐNG SỰ SỐNG CỦA THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG

Chúng ta rất vui mừng vì đang có những con người bước ra khỏi lòng mình, bước ra khỏi cái tháp ngà sang trọng của mình ở trên cao kia, rồi bước xuống cuộc đời cùng thấp với đầy dẫy những sầu thương bất hạnh, và bước đến tận nơi thâm sơn cùng cốc mọi ngõ ngách cuộc đời, để chạm đôi tay của Thiên Chúa vào thương tích của nhân loại, để tỏ bày lòng yêu của Thiên Chúa đối với con người và cuộc đời hôm nay.

Chúng ta rất vui mừng vì đang có những con người dày công nghiên cứu, dài ngày suy tư nghiền ngẫm, tốn hao công sức cho những luận án, những loạt bài thần học, những cuốn sách giá trị , và hùng hồn thuyết giảng cho thế giới về Thiên Chúa, về niềm vui quý giá của Tin Mừng.

Chúng ta vui mừng vì tất cả các tín hữu có ý thức, có trăn trở, và có thực thi sứ mệnh truyền giáo của mình, sứ mệnh loan báo tin mừng của mình trong cuộc sống trần gian này.

Nhưng, không ai cho điều mình không có. Vì thế, thiết tưởng có đi đến đâu, có nói gì, có làm gì, đi nữa, thì trước tiên, con người truyền giáo phải là con người có đạo, có xác tín rõ rệt con đường mình đi; con người  loan báo tin mừng phải là người có Tin Mừng, phải là người sống hân hoan vui mừng. Ai tin đươc Tin Mừng khi người loan báo Tin Mừng lại là người đang trầm luân trong buốn bã, chán nản thất vọng u sầu, nhất là đang trầm luân trong tình trạng u uất bất mãn, bất ý, chống đối những con người trong Hội Thánh Chúa…Như thế là phản tác dụng truyền giáo, phản ý nghĩa loan báo Tin Mừng, phản Tin Mừng.

Mỗi tín hữu cần xác tín vững chắc về Thiên Chúa, cần xác tín mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, cần xác tín mình đang sống sự sống của Thiên Chúa,  trước khi nói về Thiên Chúa, Loan báo về Thiên Chúa.

Vâng, Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, tin tưởng, cầu khấn, ca tụng, mến yêu là một Thiên Chúa Hằng Sống. Thiên Chúa có sự sống, có sức sống, có sự sống dồi dào, sống dồi dào, sống đến vĩnh cửu, hằng sống. Người là Thiên Chúa của bình an, Thiên Chúa của hy vọng, Thiên Chúa của vui mừng hạnh phúc. Nơi Thiên Chúa không có thiểu não, buồn bã, bi lụy, chán đời, thất vọng, vô vọng, và đặc biệt là không hề có sự chết.

Bởi vậy, nếu gọi những người tin vào Thiên Chúa là tín hữu, thì không có một tín hữu buồn bã, càng không có một nữ tu hay ông thày dòng buồn bã, càng không thể có một linh mục buồn bã… vì, buồn bã là thuộc tính của ma quỷ, là bạn hữu của ma quỷ, thế lực chống lại Thiên Chúa, buồn bã là không có niềm tin vào Thiên Chúa, buồn bã thì ai dám gọi là tín hữu.

Hội Thánh Công Giáo luôn luôn là một Hội Thánh vui mừng và hy vọng, Hội Thánh của những người vui mừng và hy vọng, Hội Thánh mang lại vui mừng và hy vọng cho thế giới cho nhân loại. Thành phần nào trong Hội Thánh không vui mừng và hy vọng, thì lấy vui mừng và hy vọng ở đâu mà mang lại cho tha nhân, cho thế giới, đồng nghĩa với việc thành phần ấy đi ngược lại với ý muốn của Hội Thánh, đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa khi thiết lập Hội Thánh.

Vì thế, cuộc sống của các tín hữu phải là cuộc sống vui mừng và hy vọng, vì niềm tin vào một Thiên Chúa Hằng Sống. Cuộc sống ấy giới thiệu cho nhân loại một Thiên Chúa Hắng Sống, chứ không thể và không bao giờ có thể giới thiệu một Thiên Chúa đã chết rồi hay một Thiên Chúa hằng chết. Điều đáng tiếc là, hai ngàn năm qua, đã có biết bao người mang danh là tín hữu của Thiên Chúa, mà lại giới thiệu một Thiên Chúa buồn bã, thảm sầu, bất an, vô vọng, qua cách sống của mình, nên xảy ra chuyện “chúng tôi khát khao vui mừng bình an và hạnh phúc” nhưng “ai dám tin Thiên Chúa buồn bã của các anh”.

Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô rất chí lý khi nói lên 5 điều mong đợi nơi các người sống đời thánh hiến, mà 2 trong số đó là sống vui và đánh thức thế giới. Thiết nghĩ, hai điều mong đợi này là niềm mong đợi nơi tất cả mọi tín hữu, và cách riêng, nơi những người sống đời thánh hiến Đó là hai niềm mong đợi thiết thực, đáng suy nghĩ trong ngày truyền giáo năm nay. Sống hân hoan vui mừng chính là sống sự sống của Thiên Chúa. Sống hân hoan vui mừng chính là làm chứng cho một Thiên Chúa hằng sống. Sống hân hoan vui mừng và hy vọng là đánh thức thế giới đang u sầu, buồn bã thất vọng.

 

CHỨNG NHÂN CHO TIN MỪNG:

 SỒNG VUI GIỮA NHỮNG NGƯỜI BUỒN 

Bao nhiêu con người đang buồn bã vì cắm đầu chúi cổ vào niềm vui rẻ tiền, niềm vui của thân xác, niềm vui dẫn đến sự chết ngàn thu, thì ngược lại, người tín hữu Chúa Ki-tô được diễm phúc đang say sưa, đang ngây ngất trong niềm vui của sự sống, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Bao nhiêu con người đang buồn bã vì tìm cho được và hưởng cho tận tàn những niềm vui vội vàng chóng vánh, thì người tín hữu thưởng nếm hương vị của niềm vui vĩnh cửu, thiên thu, niềm vui thánh thiện của Thiên Chúa chí thánh, chí thiện.

Bao nhiêu con người đang buồn bã vì cứ còn những khát khao bất chính cho đến mãn đời mà chưa hề được thỏa mãn, thì người tín hữu lại sống hân hoan vui mừng vì những khao khát công chính, thiện hảo cùng Đức Giê-su và trong Đức Giê-su, đã được mãn nguyện ngay hôm nay, trên trần gian này.

Bao nhiêu con người đang buồn bã vì xem những bất hạnh, đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, và cả sự chết nữa trong cuộc đời này là những thứ dẫn con người tới ngõ cụt bi đát, tới cõi tàn tận hư không, thì người tín hữu lại hân hoan vui mừng nhận ra trong những điều tưởng như là bi đát ấy, lại là hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban để được cứu rỗi, để được một chỗ trong lòng Thiên Chúa, để được một mai hậu vững bền hạnh phúc trong cõi sống muôn đời.

Bao nhiêu con người đang buồn bã vì ước ao bao nhiêu chuyện được, mà chẳng được, còn người tín hữu thì lại ước ao bao nhiêu chuyện mất, thì lại được vô cùng được, bao la được. Kẻ muốn được phục vụ từ đằng chân tới đằng đầu, được phục vụ tới tận mồm tận răng, mà không hề cảm thấy mình hạnh phúc, còn người tín hữu thì đành mất mình đi, cúi mình xuống phục vụ kẻ khác với lòng yêu thương, thì lại được hân hoan vui mừng vì cuộc sống mình bao la ý nghĩa, vĩ đại ý nghĩa…

Bao nhiêu con người đang buồn bã vì thất bại trong đời, mất chức quyền, mất địa vị, mất tài sản, mất uy tín, mất danh dự, mất tất cả, thì người tín hữu lại hân hoan vui mừng vì cuộc sống mình đã sống theo phong cách Đức Giê-su, là đã tự đánh mất tất cả rồi, nên không còn gì để mất. Và khi không còn gì để mất, thì cũng không có gì phải tiếc nuối, đau buồn, bi lụy, mà chỉ còn toàn là thanh thản, an nhàn với niềm vui, bởi họ biết mình còn lại một điều huyền nhiệm quý giá mà không ai có được: đó là còn lại một Đức Giê-su, sở hữu một Đức Giê-su trắng tay khiêm nhượng, mình trần, thân trụi, tất cả vì yêu.

Bao nhiêu con người đang buồn bã vì những gánh nặng trong cuộc đời, gánh trách nhiệm xã hội, giáo hội, gia đình, gánh oan sai, gánh bức bách, khủng bố, gánh tỵ hiềm ghen ghét, gánh hận thù vô cớ, gánh sự dữ không mong, gánh nợ nần sỉ nhục… thì người tín hữu, cũng ngần ấy gánh nặng, lại phơi phới mùa xuân thong dong thanh thản như không có chuyện gì, bởi có gánh đâu mà nặng, chỉ làm vai phụ cho Chúa mà thôi. Ký thác cả đường đời này cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người ra tay, người kê vai mà gánh tất. Chúa đã vác phần nặng, còn người tín hữu chỉ phần nhẹ tưng thôi mà.

Bao nhiêu con người đang buồn bã vì yêu theo cách yêu của loài người, tình yêu vị kỷ, tình yêu trục lợi, tình yêu thỏa mãn những đam mê, thì người tín hữu lại hân hoan vui mừng và say mê cái loại “yêu không giống ai’ theo cách yêu của Đức Giê-su, yêu và chết cho người mình yêu được hạnh phúc.

Chính cách sống hân hoan vui mừng lội ngược dòng đời của những tín hữu, là cách sống anh dũng làm chứng cho một Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa có sự sống dồi dào, sống tràn trề niềm vui, an bình và hy vọng, sống vĩnh cửu.

 

SỐNG VUI TƯƠI THEO TIN MỪNG, LÀ ĐÁNH THỨC THẾ GIỚI.

Con người trong thế giới hôm nay đang đắm chìm trong cơn mê muội vật chất trần gian, và thoảng hoặc bừng ngộ như ánh sao vừa le lói lên đã vội vàng vụt tắt. Con người mụ mị về Thiên Chúa, mụ mị về sự sống thần linh, mụ mị về hạnh phúc siêu nhiên, bởi vì lòng trí con người đang bị tử thần Sa-tan giam hãm trong lô cốt ích kỷ, bỏ tù trong nhà tù kiêu căng, khống chế trong chiếc quan tài tri thức không có Thiên Chúa.

Người tín hữu, nhờ sức mạnh chiến thắng của Đức Giê-su Ki-tô hiền lành và khiêm nhượng, đã khai mở một lối đi, một con đường sống, một cách sống tự do trong thần khí, thiện hảo trong chân lý, và được tháp nhập vào cuộc sống “vui tươi, an bình, hạnh phúc” của Thiên Chúa.

Chính cuộc sống “vui tươi, an bình, hạnh phúc” theo Tin Mừng ấy, là lời cảnh tỉnh, là sự đánh thức thế giới mê muội mụ mị kia, và là lời giới thiệu cho thế giới về một Đức Khôn Ngoan có được nhờ lòng khiêm nhượng thẳm sâu của loài thụ tạo trước Đấng Vô Hình, Hằng Có, Hằng Sống. Cuộc sống ấy là của ngôn sứ không nói bằng lời, mà nói bằng cả một cuộc đời.

Chính cuộc sống “vui tươi, an bình, hạnh phúc” theo Tin Mừng ấy, là lời mời gọi một nhân loại tưởng mình là tự do kia, hãy mau mau kíp kíp thoát khỏi cái tự do làm nô lệ của Sa-tan, và hãy khẩn cấp trở về với nguồn tự do đích thực, là tự do của Thiên Chúa tự do, tự do của Thánh Thần chân lý, tự do mà Thiên Chúa ban cho mỗi con người luôn có lòng hướng về cái Chân, Thiện, Mỹ.

Chính cuộc sống “vui tươi, an bình, hạnh phúc” theo Tin Mừng ấy, là động lực thôi thúc, là nguồn khích lệ lớn lao, là đỡ nâng cần thiết cho những con người buồn bã tìm được vui mừng trong Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Ki-tô, qua Tin Mừng của Nước Trời.  

Ai chưa sống Tin Mừng bằng cách sống hân hoan vui mừng giữa những con người buồn bã, thì cũng chưa nói được là làm chứng cho Đức Tin của mình. Và phải còn hãy cảnh giác trước những cám dỗ nghiêng chiều về phía thất vọng buồn bã, bỏ ngũ, và chống lại niềm tin chân chính của mình.

Người sống vui tươi an bình hạnh phúc là người đã thấu đáo và làm sáng lên giá trị đích thực của Giáo Hội Chúa Ki-tô giữa lòng nhân loại. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nói với các Phong trào giáo hội vào lễ Vọng lễ Chúa Hiện xuống ngày 18 tháng 5 năm 2013: “Giá trị căn bản của Giáo hội nằm ở chỗ sống Tin mừng và làm chứng cho đức tin. Giáo hội là muối của đất, là ánh sáng của đời, Giáo hội được kêu gọi làm cho men của Vương quốc Thiên Chúa hiện diện trong xã hội, và Giáo hội thực hiện ơn gọi này tiên vàn bằng sự chứng tá, chứng tá của tình yêu huynh đệ, của tình liên đới, của sự chia sẻ” 

Ước gì, sống vui tươi theo Tin Mừng là lý tưởng mà người tín hữu sẽ đạt được, để còn thực hiện một lý tưởng vươn tới: đó là sống trước cuộc sống phục sinh ngay trong cuộc sống trần thế này.

Về mục lục

.

ĐỂ CHU TOÀN SỨ VỤ RA ĐI THÂU NẠP MÔN ĐỆ CHO CHÚA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20

(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. c 18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

  1. Ý CHÍNH: LỆNH CUỐI CÙNG CỦA CHÚA PHỤC SINH:

Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra lần cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Ga-li-lê. Trước khi lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mệnh đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có đức tin nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mệnh dạy các tín hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và còn hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị mất Giu-đa phản bội nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ nữ và lời của Chúa Phục Sinh nhắc lại vào buổi sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10), các môn đệ đã quay trở lại miền Ga-li-lê nhưng thiếu mất Giu-đa. Ga-li-lê là địa điểm truyền giáo chủ yếu của Đức Giê-su trong thời gian rao giảng Tin mừng. Qua việc ra lệnh cho các môn đệ trở về Ga-li-lê, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Đức Giê-su lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao giảng Tin Mừng, với Chúa Ki-tô của niềm tin, tức là sau khi Người đã từ cõi chết sống lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng Mát-thêu không xác định là quả núi nào. Sách Công Vụ nói đó là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 1V 19,8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Ở đây các môn đệ đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh qua thái độ bái lạy Người, giống như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11), người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x. Mt 14,33), người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa Giê-su xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này mọi môn đệ đều đã tin Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện nhiều lần trong các trình thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài nghi đều được đánh tan bằng một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa Phục Sinh đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41); Người thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng tin (x. Ga 20,24). Ở đây, Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi của một vài môn đệ bằng lời khằng định: Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài nghi của cộng đoàn Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không được đòi “Thấy rồi mới tin” như Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của Người để củng cố đức tin như Lời Chúa phán: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).

– C 18-19: + Đức Giê-su đến gần: Đến gần là một hành động tỏ ra sự ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Khởi đầu rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban cho tất cả. Thế là ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải nhân Danh Chúa Giê-su mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin Mừng để người ta tin theo, các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa Ba Ngôi để tái sinh họ làm con Thiên Chúa Ba Ngôi. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ còn phải được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến đến khi Người lại đến vào ngày tận thế. Câu này cho thấy Đức Giê-su chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7,14; Mt 1,23).

  1. HỎI ĐÁP:

– HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su truyền đến Ga-li-lê (x. Mt 28,10). Khi gặp Người, các ông đều bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi ?

ĐÁP:

Có hai ý kiến giải thích về sự hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:

  1. Ý kiến thứ nhất: Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã sống lại, nhưng hoài nghi không biết người đang tiến lại gần kia có phải là Chúa Giê-su hay không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la lầm tưởng Người là ông làm vườn (x. Ga 20,15), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau tưởng Người là một lữ khách cùng đi trên đường với mình (x. Lc 24,15-16). Tuy nhiên lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các ông đã bái lạy tức là đã nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao lại còn hoài nghi không biết có phải là Thầy hay không?
  2. Ý kiến thứ hai: Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi trước khi các ông đạt được lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các cuộc hiện ra khác, nên không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của các môn đệ trước khi các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin Mừng khác đều có nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài nghi vào lúc này, không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy, nhưng là của các ông trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới đức tin trọn vẹn. Như vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự trục trặc về cách hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.

– HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu với lệnh truyền của Chúa Giê-su trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1,8), có sự khác biệt về tính phổ quát của công cuộc truyền giáo và công thức rửa tội: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải chăng lời Đức Giê-su ra lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã được Hội Thánh sau này thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?

ĐÁP:

Thực ra theo Lu-ca, tác giả sách Công Vụ TĐ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là đến với muôn dân. Rồi trong Công Vụ TĐ chúng ta chỉ thấy nói tới việc rửa tội “Nhân danh Đức Giê-su” (x. Cv 2,38; 10,48). Từ những nhận định trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã được Đức Giê-su ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn soi dẫn của Thánh Thần (x. Ga 16,12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm sống, Hội Thánh đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát đó. Đến khi Tin Mừng được soạn thảo, thánh Má-thêu đã dùng công thức rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội thánh được“Thần khí Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức phụng vụ phép rửa, thay cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giê-su” như sách Công Vụ thuật lại.

– HỎI 3: Sau khi truyền cho các môn đệ “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Đức Giê-su đòi các ông: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải chăng Chúa muốn các ông hãy rửa tội cho người ta trước rồi mới dạy dỗ sau ?

ĐÁP:

– Công việc cứu thế của Đức Giê-su được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà Người trao cho Hội Thánh thực hiện như sau:

Một là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (x. Mt 4,23; 7,28-29).

Hai là chữa lành các bệnh tật. Chẳng hạn: bệnh phong (x. Mt 8,3), tê liệt (x. Mt 8,6.13), cảm sốt (x. Mt 8,15), băng huyết (x. Mt 9,20-22), phục sinh bé gái (x. Mt 9,25), chữa bệnh mù lòa (x. Mt 9,29), và nhiều bệnh khác (x. Mt 15,30-31)…

Ba là trừ quỷ. Chẳng hạn: xua đuổi ma quỷ khỏi người bị nó ám (x. Mt 8,16), trừ quỷ câm (x. Mt 9,32-33), bắt quỷ kinh phong phải xuất ra (x Mt 17,15-18)…

Bốn là dạy dỗ. Hãy dạy tân tòng tuân giữ mọi huấn lệnh của Chúa truyền (x. Mt 28,20).

– Lời Chúa dạy nói trên chỉ muốn diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai việc phải làm là rửa tội và giảng dạy, chứ không buộc phải theo thứ tự trước sau giữa việc rửa tội và việc giảng dạy. Theo truyền thống từ thời sơ khai, Hội Thánh đã luôn giảng dạy trước để chuẩn bị tâm hồn dự tòng rồi khi họ hiểu biết và tuyên xưng đức tin mới ban phép rửa tội dìm mình trong nước cho họ như Phi-líp-phê đã làm cho viên thái giám được thuật lại trong sách Công vụ tông đồ (x. Cv 8,26-40). Sách Đi-đa-kê đã chỉ dẫn việc cử hành phụng vụ phép rửa tội như sau : “Sau khi đã nói tất cả những điều đó, hãy rửa tội…” (Didaché 7,1).

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP SÁNG NGỌN LỬA TIN YÊU TRONG LÒNG MỌI NGƯỜI:

Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA là một nữ tu người An-ba-ni, được nhà dòng sai đến phục vụ người nghèo tại nước Ấn Độ. Khi tận mắt chứng kiến rất nhiều người quá nghèo khổ, trải qua giờ phút hấp hối trên lề đường, sau khi chết bị thiêu hủy như một con vật; bao gia đình phải sống trong các túp lều ổ chuột… Mẹ đã chọn con đường tu hành bằng việc thực thi tình thương cụ thể là tìm kiếm chăm sóc những người cô đơn nghèo khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi.

Một hôm, khi đi thăm một ông lão sống cô đơn trong căn lều tồi tàn bẩn thỉu mà toàn bộ đồ đạc trong nhà là một mớ hỗn độn. Ông ta lại có lối sống khép kín, không muốn trả lời những lời hỏi thăm. Mẹ xin phép ông dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ mà ông cũng làm thinh. Trong lúc dọn dẹp, Mẹ thấy một cây đèn dầu bụi bám đen xì nằm ở góc nhà. Sau khi được lau chùi, Mẹ liền kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá !”. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi đã tặng vợ tôi sau ngày cưới. Từ khi bà ấy qua đời, tôi cũng không bao giờ đốt đèn lên nữa. Thấy ông đã bắt đầu cởi mở, Mẹ Tê-rê-sa liền đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị em nữ tu mỗi ngày đều đến thăm và đốt đèn cho ông không? Và ông đã đồng ý. Từ ngày đó, vào mỗi buổi chiều, các chị em nữ tu đều thay nhau tới thăm, giúp ông dọn dẹp nhà cửa và nói chuyện với ông. Ngọn đèn bắt đầu cháy sáng trong căn lều sạch sẽ ấm áp. Ông lão cũng trở nên vui vẻ hơn. Ông bắt đầu đi ra ngoài nhà thăm hỏi hàng xóm, và nhiều người cũng đến viếng thăm, khiến con tim của ông lão đã vui trở lại.

Mẹ Tê-rê-sa cứ miệt mài phục vụ người nghèo: Mẹ lập ra những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc giúp họ chết an lành và được chôn cất như một con người. Mẹ lập những trại cô nhi nuôi trẻ mồ côi, xây những bệnh viện và trường học miễn phí. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập ra dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay dòng này  đã có mặt trong 132 quốc gia và Mẹ đã được cả thế giới biết đến. Mẹ được trao nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, Mẹ qua đời, đã có 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có cả phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, tuyệt đại đa số dân theo Ấn giáo, vốn không ưa gì đạo Công giáo, đã cho chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang với hai mươi mốt phát súng đại bác để tiễn đưa linh hồn Mẹ Tê-rê-sa về trời.

Mẹ Tê-rê-sa đã định nghĩa thế nào là một nhà truyền giáo: “Đó là một tín hữu Ki-tô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Tê-rê-sa không những làm cho người ta nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su bằng việc nói về Chúa Giêsu, diễn tả khuôn mặt của Chúa Giê-su bằng cuộc sống yêu thương phục vụ của mình. Như vậy, Mẹ Têrêxa chính là một nhà truyền giáo vĩ đại trong thế kỷ 20, vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn cháy sáng tin yêu giữa bóng đêm hưởng thụ lạc thú bất chính và thù hận chém giết nhau, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn giúp mọi người nhìn nhau là anh em, là con cùng một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa.

2) MỘT BÀI GIẢNG BIẾT ĐI

EN-BỚT SUÝT-DƠ (Enbert Schweitser) vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai truyền giáo. Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại đây, ông đã dùng tài sản để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa là tình thương cho bệnh nhân cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh. Công việc bác ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông đã được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người nghèo tại Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của ông có một sức mạnh lớn lao, giống như một BÀI GIẢNG BIẾT ĐI như sau:

Vào một buổi chiều nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa của thành phổ Chi-kê-gô (Chicago) Hoa kỳ, để đón chào một nhân vật nổi tiếng, mới được nhận giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa bước xuống khỏi toa xe lửa là một người đàn ông cao lớn tóc húi cua, trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được cắt tỉa cẩn thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất. Khi vị thượng khách xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi đám đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp lễ mọi người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay để chào đón người mới đươc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn về phía cuối sân ga và vội vã vượt qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một người đàn bà lớn tuổi. Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến nơi, vị khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc va-li, rồi hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Khi quay trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị. Tôi rất tiếc đã để quý vị phải chờ đợi”. Người đàn ông với cử chỉ đẹp đó không ai khác hơn là bác sĩ EN-BỚT SUÝT-DƠ (Anbert Schweitser), một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khổ tại Phi Châu. Một thành viên trong ban tổ chức cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Suýt-dơ ở sân ga hôm đó, đã phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết đi”.

3) GƯƠNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO CỦA MỘT VIÊN GIÁM ĐỐC HÀN QUỐC:

Có một người Hàn quốc đã sang Việt Nam mở một doanh nghiệp làm ăn kinh tế tai thủ đô Hà nội. Doanh nghiệp của ông có 50 công nhân, trong đó cũng có mấy người Công giáo. Một hôm viên giám đốc hỏi mấy người công nhân Công giáo : Các anh là đạo gốc, thế các anh đã truyền giáo được cho người nào chưa ?” Họ trả lời rằng: “Chúng cháu giữ đạo còn chưa xong, làm sao dám nghĩ đến việc truyền giáo cho ai khác được”. Bấy giờ ông chủ Hàn quốc liền nói: “Thế là các cậu đã thua tôi rồi. Tôi chỉ là người tân tòng theo đạo từ khi lập gia đình, và mới sang Việt Nam được 3 năm nay. Thế mà tôi đã mời gọi được hai người Việt Nam học giáo lý để được gia nhập vào đạo công giáo rồi đó”.

  1. SUY NIỆM: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN

1) LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:

Hôm ấy, mười một môn đệ Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê như Chúa Phục Sinh đã hẹn qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x.Mt 28,10). Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ ba điều  như sau:

– Một là: Người đã được trao “Toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18): Điều này nhắc chúng ta nhớ lại khi Đức Giê-su bị cám dỗ, tên cám dỗ đã nói với người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã không theo lời xúi giục của nó. Bây giờ, Chúa Cha đã ban cho Người chẳng những các nước thế gian, mà còn có “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).

– Hai là: Người ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19): Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su dạy các ông chỉ đi loan báo Tin Mừng cho dân Ít-ra-en, vì đây là dân Chúa chọn có quyền ưu tiên (x. Mt 10,5-7). Nhưng bên cạnh đó, Người cũng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và làm phép lạ cứu giúp những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Chẳng hạn: Viên đại đội trưởng ngoại giáo có đức tin mạnh đã được Người chữa cho đầy tớ của ông khỏi bệnh tê liệt (x. Mt 8,5-13); Người đàn bà Ca-na-an có đức tin mạnh đã được Đức Giê-su trục xuất quỷ ra khỏi đứa con gái của bà (x. Mt 15,28).

– Ba là: Người hứa “sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20): Ngày xưa Đức Chúa đã hứa ở với Mô-sê khi sai ông đi cứu dân Ít-ra-en khỏi tay Pha-ra-ô của Ai-Cập như sau: “Ta sẽ ở với người” (Xh 3,12). Ngày nay, Đức Giê-su cũng hứa ở cùng các môn đệ để giúp các ông chu toàn nhiệm vụ được Người trao phó. Cũng như Mô-sê xưa nhờ được Đức Chúa hiện diện phù giúp đã đưa được dân Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ cho dân Ai-Cập về tới Hứa Địa, thì nay với sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng sẽ thành công trong sứ mệnh “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người”.

2) TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI, LẮNG NGHE , VÀ CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ:

Nhân ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Đức Phan-xi-cô đã dựa theo sách Công Vụ Tông Đồ dạy về tiến trình ba bước loan báo Tin Mừng nhờ ơn Thánh Thần, qua câu chuyện tông đồ Phi-líp-phê thực hiện với viên thái giám người xứ Ê-thi-ô-pi như sau:

-Bước một: “Hãy đứng lên và ra đi”:

Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-lip-phê: “Hãy đứng lên và ra đi” (x. Cv 8,26) . Ngày nay, để trung thành với huấn lệnh của Chúa, Hội Thánh cũng phải lắng nghe huấn lệnh của Chúa Giê-su với ơn Thánh Thần thôi thúc, để ra đi loan báo Tin Mừng. Một Hội Thánh không “đứng lên và ra đi” là một Hội Thánh đang suy yếu bệnh tật.

– Bước hai: “Hãy lắng nghe sự thao thức của tha nhân” và chia sẻ niềm vui của Tin Mừng:

Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-líp-phê chạy theo xe ngựa của quan thái giám người Ê-thi-ô-pi. Ông quan này đã đi hành hương Giê-ru-sa-lem và đang trên đường về quê nhà. Ông đang đọc đoạn sách ngôn sứ I-sai-a. Khi thấy Phi-líp-phê chạy theo xe mình, viên thái giám liền dừng xe mời ông lên xe với mình. Trong câu chuyện, theo yêu cầu của viên thái giám, Phi-líp-phê đã trình bày về Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai cho ông. Nhờ được Thần Khí tác động, viên thái giám đã tin vào lời Phi-lip-phê giảng và khi xe ngang qua chỗ có nước, ông đã yêu cầu được nhập đạo. Ông tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, và được Phi-lip-phê làm phép rửa dìm mình trong nước. Sau đó, Thần Khí đã đưa Phi-líp-phê rời đi nơi khác, còn viên thái giám lại tiếp tục cuộc hành trình về quê nhà trong niềm hân hoan (x. Cv 8,27-40).

Ngày nay Hội Thánh cũng cần phải lắng nghe sự thao thức của con người thời đại để biết họ nghĩ gì muốn gì, rồi tìm cách đáp ứng bằng cách chia sẻ niềm vui ơn cứu độ của Chúa cho họ.

Tóm lại Đức Phan-xi-cô đã khuyên các tín hữu hãy truyền giáo bằng ba việc: “Hãy đứng lên và ra đi; Hãy lắng nghe thao thức của tha nhân; Hãy chia sẻ niềm vui Tin Mừng của Chúa cho họ”.

3) TRUYỀN GIÁO CHÍNH LÀ TRUYỀN NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG

– Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.

– Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giê-su thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần được tiếp nối không ngừng.

– Thánh Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng không chủ trương yêu thương chung chung, nhưng là yêu thương từng người cụ thể ngay ở bên mình.

Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian mà ta cần yêu thương trọn vẹn trong giây phút đó.”

Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-sa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mười năm!

Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.

Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như người thân quyến của mình để sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng đến hiệp thông. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và nhờ đó, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ chiếu sáng như ánh nến trong đêm Vọng Phục Sinh.

4) CỤ THỂ CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ? :

– Đừng “đứng nhìn lên trời”: Hãy xuống núi để chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng bằng việc ăn ở công minh chính trực, chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhất là bằng thái độ biết nghĩ tới người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh. Ngoài ra còn phải dấn thân đến với những anh em chưa biết Chúa, để hợp tác cải thiện xã hội và sãn sàng chia sẻ “Chúa là Tình Yêu” cho tha nhân.

– Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ : Ngày nay, khi lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta cũng đón nhận ánh sáng Tin Mừng và có sứ mệnh chiếu ánh sáng đức tin trong môi trường sống là khu xóm, trường học, chợ búa, cơ quan xí nghiệp, và hết mọi nơi. Chu toàn sứ mệnh sống chứng nhân, chia sẻ niềm tin về Chúa Giê-su đã chết và sống lại.

– Hãy lãnh nhận Thánh Thần (x. Ga 20,21-22): Sứ mệnh truyền giáo thật là khó khăn như kinh nghiệm của Hội Thánh suốt hơn hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh. Để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh truyền giáo, Đức Giê-su đã hứa ban Thánh Thần để giúp Hội Thánh hiểu biết sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,7.13). Vào buổi chiều ngày phục sinh, Đức Giê-su đã hiện đến với các môn đệ và sai các ông giống như Chúa Cha đã sai Người. Người thổi hơi ban Thần Khí cho các ông và phán : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Người hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin cho các ông. Rồi vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã tác động như cơn gió bão ùa vào nhà tiệc ly và đổ ơn Thánh Thần trên đầu mỗi vị (x. Cv 2,1-4). Nhờ ơn Thánh Thần soi dẫn phù trợ mà chỉ sau một bài giảng của Tông đồ Phê-rô, đã có tới ba ngàn người tại Giê-ru-sa-lem xin nhập đạo (x. Cv 2,41).

– Hãy kết nghĩa với lương dân:

Năm 1983, khi thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đi thăm Giáo Hội Hàn quốc và tấn phong 103 thánh tử đạo người nước này, thì Giáo Hội Hàn quốc mới chỉ có 3 triệu rưỡi tín hữu. Khi ấy Đức Hồng Y Stephano Kim đã hứa với Đức Thánh Cha sẽ đẩy mạnh công việc truyền giáo bằng hoạt động cụ thể như sau: mỗi gia đình Công giáo Hàn quốc cần kết nghĩa với một gia đình lương, và mỗi tín hữu Hàn quốc cần có ý hướng truyền giáo cho một anh chị em ngoài Công giáo.

Sự kết nghĩa thiêng liêng thể hiện bằng việc âm thầm cầu nguyện cho anh em lương dân, năng đến thăm giúp đỡ để gây thiện cảm với họ và tìm dịp thuận tiện giới thiệu Chúa cho họ. Chính công việc này đã mang lại kết quả tốt đẹp: Chỉ sau 10 năm, số tín hữu công giáo Hàn quốc đã tăng lên gấp đôi !

Ngày nay, nếu chúng ta quyết tâm chu toàn sứ mệnh truyền giáo và áp dụng các phương thế của các môn đệ thời Hội Thánh Sơ Khai là: cộng tác với ơn Thánh Thần, hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng lối sống yêu thương cụ thể… thì chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mệnh truyền giáo như sau : “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19); “Hãy nên chứng nhân của Thầy… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

  1. THẢO LUẬN:

1) Đối với những “Ki-tô hữu vô danh” là những người đã có đức tin và muốn theo đạo, nhưng vì hoàn cảnh như là con trai trưởng phải lo cúng giỗ cha mẹ, nên chưa thể gia nhập đạo ngay, chúng ta nên làm gì để giúp họ sống đức tin vào Chúa ?

2) Nếu họ chết khi chưa chịu phép rửa tội, thì họ có được ơn cứu độ không ? (x. Lc 23,40-43).

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…

Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (Theo thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

TRẢ VỀ CHO CHÚA NHỮNG GÌ THUỘC VỀ CHÚA

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Mt 22,15-21

(15) Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mắc bẫy. (16) Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. (17) Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được  phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?” (18) Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình ! (19) Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi !” Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. (20) Và Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây ?” (21) Họ đáp: “Của Xê-da”. Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.

  1. Ý CHÍNH:

Một số người Pha-ri-sêu liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm cách gài bẫy Đức Giê-su, để có cớ tố cáo chống lại Người. Nhưng cuối cùng Người không bị mắc bẫy của họ, mà còn giúp họ ý thức bổn phận sống “tốt đạo đẹp đời”, vừa tôn trọng thế quyền lại vừa tôn trọng thần quyền bằng nguyên tắc như sau: “Của Xê-da trả về Xê-da, Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 15: + Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mắc bẫy: Những người Pha-ri-sêu được dân Do Thái đánh giá là có lòng ái quốc, chống lại đế quốc Rô-ma bấy giờ đang cai trị nước Do Thái. Các người Pha-ri-sêu rất tôn trọng Thiên Chúa, tuân giữ tỉ mỉ từng điều khoản trong bộ luật Mô-sê, nhất là luật về ngày hưu lễ (Sa-bát) và việc thanh tẩy, nhưng họ lại không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a). Vì Đức Giê-su nhiều lần quở trách thói giả đạo đức và kiêu căng, nên họ luôn chống đối Người. Ở đây họ bàn mưu tính kế để tố cáo Người về lời nói.

– C 16: + Những người phe Hê-rô-đê: Đây là một đảng phái chính trị, là tay chân ủng hộ vua Hê-rô-đê và thân với chính quyền Rô-ma. Họ theo văn hóa Hy Lạp và không quan tâm đến luật Mô-sê. Có thể nói phe này đối lập với nhóm Pha-ri-sêu cả về chính trị lẫn tôn giáo. Người Pha-ri-sêu cùng với những người phe Hê-rô-đê: Hai nhóm người đối nghịch nhau giờ đây lại liên kết với nhau để đối phó với Đức Giê-su là kẻ thù chung của họ, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Họ rình rập và sai một số người giả bộ làm người công chính, đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn” (Lc 20,20). + Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật: Đây là một lời khen giả dối với mục đích tránh bị Đức Giê-su nghi ngờ về ý đồ đen tối của họ. Họ chào hỏi Người như là một ông Thầy (Rab-bi), khen Người là người trung thành với lề luật Thiên Chúa và không bị người đời chi phối. Đây là hai đặc tính tiêu biểu của người công chính được Thánh Kinh nhắc đến (x. Cv 10,34 ; Gc 2,1-9 ; Cl 3,25).

– C 17: + Xin Thầy cho ý kiến: Họ xin Đức Giê-su cho ý kiến để giải quyết một vấn đề phức tạp mà nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Hê-rô-đê bất đồng ý kiến với nhau. + Xê-da: Tước hiệu ám chỉ hoàng đế đang trị vì đế quốc Rô-ma. Trong Tân Ước, tước hiệu Xê-da ám chỉ 3 vị hoàng đế Rô-ma: Một là AU-GÚT-TÔ: cai trị từ năm 29 trước Công nguyên đến năm 14 sau Công Nguyên, vào thời điểm Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem (x. Lc 2,1). Hai là TI-BÊ-RI-Ô: Cai trị từ năm 14 đến năm 37 sau CN, trong thời gian Đức Giê-su giảng đạo công khai. Tin Mừng nhắc đến tước hiệu này 3 lần: Khi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Lc 3,1), khi Người bị gài bẫy về việc nộp thuế (x. Mt 22,17) và khi Người bị dân Do Thái đòi kết án tử hình thập giá (x. Ga 19,12). Ba là NÊ-RÔNG: cai trị từ năm 54 đến năm 68 sau CN. Sách Công Vụ dùng tước hiệu này để chỉ hoàng đế Nê-rông, khi ông Phao-lô gặp khó khăn với người Do Thái tại Thê-xa-lô-ni-ca (x. Cv 17,7), và khi ông tự biện hộ rồi kháng án lên hoàng đế Xê-da (x. Cv 25,10 ; 28,19). + Nộp thuế: Người Do Thái hằng năm đều phải nộp hai thứ thuế:  Một là thuế tôn giáo hay thuế Đền Thờ (x. Mt 17,24). Hai là thuế nhà nước: Ngoài nhiều loại thuế khác, mỗi năm người Do Thái trong hạn tuổi từ 14 đến 65, đều phải nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma. Người Do Thái coi việc nộp thuế này là một sự ô nhục, biểu lộ thái độ thần phục hoàng đế Rô-ma. Vì thế Nhóm Quá khích có tinh thần ái quốc đã cấm thành viên của mình đóng thuế cho ngoại bang. + Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?: Câu này có nghĩa là người Do Thái theo lương tâm có được nộp thuế cho hoàng đế Xê-da vừa là dân ngoại, vừa là vua của đế quốc đang thống trị dân Do Thái hay không ? Như vậy vấn đề nộp thuế ở đây được đặt trên bình diện chính trị. Đây chính là một cái bẫy mà theo thâm ý của họ thì Đức Giê-su trả lời đằng nào cũng không ổn: Nếu bảo phải nộp thuế, thì nhóm Pha-ri-sêu sẽ tố cáo Người là kẻ phản quốc và chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) mà dân Do Thái đang mong đến, để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của dân ngoại. Ngược lại, nếu Người bảo không phải nộp thuế, thì phái Hê-rô-đê sẽ dựa vào đó tố cáo với tổng trấn Rô-ma rằng Đức Giê-su là kẻ phản động, đang âm mưu chống lại chính quyền Rô-ma, cụ thể là xúi giục dân không nộp thuế, để tổng trấn ra lệnh bắt bớ giết hại Người.

– C 18: + Đức Giê-su biết họ có ác ý: Những kẻ chất vấn Đức Giê-su đã tỏ ra giả dối trong hai chuyện: Một là họ làm ra vẻ băn khoăn về một vấn đề lương tâm, đang khi thâm ý của họ là muốn gài bẫy làm hại Đức Giê-su. Hai là trong cuộc sống đời thường, họ vẫn phải sử dụng đồng tiền của Xê-da để giao dịch mua bán, tức là họ đã mặc nhiên chấp nhận quyền cai trị của hoàng đế Rô-ma rồi. Thế nhưng họ vẫn làm ra vẻ như không chấp nhận quyền ấy. + Tại sao các người lại thử tôi ?: Qua câu này, Đức Giê-su cho thấy người đã biết rõ ý đồ đen tối của bọn người này là muốn giăng bẫy để làm hại Người. + Hỡi những kẻ giả hình: Giả hình là không trung thực, là giả bộ, thái độ và lời nói bên ngoài trái ý với ý nghĩ trong thâm tâm. Họ đặt câu hỏi không phải vì muốn biết điều đúng để theo, nhưng là muốn đưa Người vào thế “tiến thoái lưỡng nan”, để hoặc tố cáo làm mất uy tín của Người trước dân chúng, hoặc tố cáo Người với nhà cầm quyền Rô-ma để mượn tay họ giết hại Người.

– C 19: + Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi: Đức Giê-su đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế là tiền của Rô-ma đang lưu hành ngoài xã hội, trên đó có khắc hình và danh hiệu của Hoàng đế Xê-da. Mười điều răn trong Luật Mô-sê có khoản như sau: “Người không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Trên danh hiệu hoàng đế Rô-ma có chữ thần linh, vì hoàng đế tự coi mình là thần, nên người Do Thái đạo đức không muốn sử dụng đồng tiền này. Dân Do Thái trước khi nộp thuế Đền Thờ hay ủng hộ việc trùng tu Đền Thờ, phải đổi từ tiền Rô-ma dùng ngoài xã hội sang loại tiền riêng dùng trong Đền Thờ tại những bàn đổi tiền (x. Mt 21, 12). + Họ đưa cho Người một đồng bạc: Người Do Thái có lòng yêu nước chân chính sẽ không mang theo đồng tiền của đế quốc Rô-ma. Ở đây khi lấy từ túi áo một đồng tiền để đưa cho Đức Giê-su, tức là những người này đã mặc nhiên thừa nhận quyền cai trị của hoàng đế Xêda. – C 20-21:  Hình và danh hiệu này là của ai đây ?: Đức Giê-su đã quá biết hình và danh hiệu khắc trên đồng tiền là của Xê-da. Nhưng Người muốn chính miệng họ phải nói ra điều này, trước khi Người trả lời thắc mắc của họ. + Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da: Một khi họ nhận quyền của hoàng đế trên dân tộc mình, thì việc nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma cũng là lẽ đương nhiên (x. Rm 13,5-7). Vì mọi quyền hành đều xuất phát từ Thiên Chúa, như lời Đức Giê-su nói với tổng trấn Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19,11), hoặc như thánh Phao-lô viết: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1-4). Thánh Phê-rô cũng dạy tương tự (x. 1 Pr 2,13-14). Nói cách khác, khi người ta tùng phục quyền bính chính đáng của thế quyền, thì cũng là làm theo thánh ý của Thiên Chúa. + Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa: Nhưng khi thế quyền chống lại Thiên Chúa, thì các tín hữu phải chọn đứng về Thiên Chúa, vì Người mới là nguồn gốc mọi quyền bính của loài người, như Tông đồ Phê-rô đã trả lời trước Thượng Hội Đồng Do Thái, khi bị họ ngăn cấm rao giảng danh Đức Giê-su: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Tóm lại, qua câu trên, Đức Giê-su muốn dạy rằng: Nộp thuế thì cứ nộp, vì dù muốn dù không thì ta cũng đang sống dưới quyền cai trị của một đế quốc, thể hiện qua việc phải sử dụng đồng tiền của đế quốc. Nhưng chỉ được tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, và ngoài Người ra không còn thần linh nào khác. Như vậy theo lời Đức Giê-su, người ta phải chu toàn cả hai bổn phận: Vừa tôn trọng quyền lợi của hoàng đế, lại vừa tôn trọng quyền lợi của Thiên Chúa.

  1. CÂU HỎI: 1) Tại sao người Pha-ri-sêu chống đối Đức Giê-su ? 2) Hai nhóm Pha-ri-sêu va Hê-rô-đê đã làm gì để liên kết chống đối Đức Giê-su ? 3) Trong Tân Ước, Xê-da là tước hiệu ám chỉ ba vị hòang đế nào của đế quốc Rô-ma ? 4) Người Do thái hằng năm phải nộp những lọai thuế nào ? Ho thường bất đồng ý kiến với nhau về việc phải nộp lọai thuế nào ? Tại sao ? 5) Những người Pha-ri-sêu va phái Hê-rô-đê đã gài bẫy Đức Giê-su như thế nào về việc nộp thuê ? 6) Tại sao Đức Giê-su lại gọi bọn người này là những kẻ giả hình ? 7) Hãy cho biết hai lọai đồng tiền thời Đức Giê-su khác nhau thế nào ? Đức Giê-su đã làm gì để hóa giải cái bẫy của những kẻ ác ý kia ? 8) Qua câu “của Xê-da trả cho Xê-da, Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”, Đức Giê-su đã phân định thế nào về bổn phận của các tín hữu đối với thế quyền và với Thiên Chúa ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) SỰ LỰA CHỌN CỦA THÁNH TỬ ĐẠO THO-MÁT MO-RƠ (THOMAS MORE)

Vua HĂNG-RI THỨ TÁM (Henry VIII) Nước Anh, muốn Tòa thánh hủy bỏ cuộc hôn nhân chính thức trước đó để tái hôn với cô En-nơ Bô-lơn (Anna Bolen). Nhưng vì không hội đủ lý do tiêu hôn, nên Tòa Thánh đã từ chối giải quyết yêu cầu của vua. Nghe vậy, HĂNG-RI tức giận và tuyên bố thành lập một giáo hội Anh quốc ly khai khỏi Công Giáo. Sau đó, ông tự huỷ bỏ cuộc hôn nhân trước để tái kết hôn theo ý ông muốn. Ông tự phong là giáo chủ của Anh giáo, và ra lệnh cho các chức sắc tôn giáo như hồng Y, Giám Mục và các Quan chức trong triều, các vị tướng lãnh, quý tộc và các thành viên trong nghị viện Anh phải ký tên vào một văn bản công nhận quyền tái hôn của ông, và gia nhập Anh giáo ly khai. Nhiều người phản đối, nhưng vì sợ bị chém đầu, nên đành ký tên vào bản văn ấy. Bấy giờ Tho-mát Mo-rơ đang là một quan chức cao cấp của nhà vua. Ông đã bị giằng co giữa hai bổn phận: một là của người tín hữu phải trung thành với Thiên Chúa và như thế sẽ bị kết tội làm phản và bị tử hình. Hai là bổn phận của một bề tôi phải trung thành với nhà vua và được hứa sẽ cho làm Tổng Giám Mục để hưởng nhiều bổng lộc và vinh hoa phú quý. Nhưng Thô-mát Mo-rơ đã chọn trung thành với Thiên Chúa. Sau đó Ngài đã bị bắt giam trong một nhà ngục ở Luân Đôn. Trong phiên tòa xét xử Ngài, sau khi nghe vị quan tòa tuyên án tử hình về tội phản nghịch dám chống lại nhà vua, Thô-mát Mo-rơ đã phát biểu như sau: “Tôi biết lý do tại sao tôi bị kết án, chỉ vì tôi đã không ủng hộ cuộc hôn nhân bất chính của nhà vua. Tôi chấp nhận từ bỏ cuộc sống đời tạm này, để bước vào một cuộc sống mới trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin đón nhận linh hồn con: Đây vừa là một lời cầu xin mà cũng là niềm hy vọng của tôi. Tôi xin Chúa sớm nhận lời tôi cầu xin cho nhà vua mau sám hối trở về với Chúa”. Sau đó ngài đã anh dũng chết vì đạo vào ngày 06 tháng 07 năm 1525. Cuộc đời của Thánh Thô-mát Mo-rơ đã chấm dứt trong sự thánh thiện và vinh quang như thế.

Còn bạn, khi gặp hoàn cảnh phải chọn một trong hai: Thiên Chúa hay tiền bạc, địa vị con Thiên Chúa hay chức quyền trần gian. Trong trường hợp đó, bạn sẽ chọn theo điều nào: Chọn theo Chúa và chấp nhận bị coi là kẻ khờ dại và bị loại trừ, hay chọn theo những kẻ gian ác tham nhũng để được an thân và được thăng quan tiến chức ?

2) ĐỒNG BẠC RÔ-MA THỜI ĐỨC GIÊ-SU:

Khi đến viện bảo tàng Men-sét-tơ (Manchester) bên nước Anh, và đi thăm khu vực trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rô-ma, bạn có thể tìm thấy loại đồng tiền De-na-ri-ut (Denarius) bằng bạc, trên đó có đúc niên biểu và hình của hoàng đế Rô-ma. Quan tiền này được lưu hành trong nước Do Thái vào thời Đức Giê-su. Trong lúc cầm quan tiền trên tay và lật qua lật lại, bạn có thể liên tưởng đến dụ ngôn người Sa-ma-ri ngoại đạo, đã đưa cho chủ quán hai quan tiền như thế, để nhờ chăm sóc một người Do Thái bị bọn cướp trấn lột và đánh trọng thương (x. Lc 10,35). Bạn cũng có thể liên tưởng đến dụ ngôn các thợ làm vườn nho trong Tin Mừng Mát-thêu. Ông chủ vườn đã trả lương cho mỗi người thợ làm vườn một quan tiền như đồng bạc đó (x. Mt 20,9-10). Nhất là, bạn có thể liên tưởng đến quan tiền mà Đức Giê-su đã dùng để trả lời cho hai nhóm Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê liên minh với nhau gài bẫy Người. Trên quan tiền này, bạn chăm chú nhìn vào khuôn mặt của một vị Xê-da là TI-BE-RI-UT (Cesar Tiberius) đang cai trị đế quốc Rô-ma vào thời Đức Giê-su rao giảng Tin Mừng (x. Lc 3,1). Mặt sau của đồng bạc là hình bà LI-VI-A, mẹ của vua TI-BE-RI-UT. Bà đang ngồi, cầm một cành cây ô-li-va trên tay, tượng trưng cho hòa bình.

Cầm đồng tiền ấy trên tay, người ta có thể liên tưởng đến câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất; đến dụ ngôn ông chủ vườn nho đã trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất là, người ta có thể liên tưởng đến đồng tiền Chúa Giêsu đã dùng để trả lời cho cả 2 nhóm Pharisêu và Herodes trong Tin Mừng hôm nay.

3) MỌI SỰ ĐỀU LÀ CỦA CHÚA:

“Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương Đông…

Một ngày kia, Satan đến gặp Thiên Chúa. Thiên Chúa khen ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều ác.

Satan cho rằng ông Gióp tốt với Chúa như vậy chẳng qua là vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa thử giơ tay rút lại những tài sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ Chúa nữa không? Chắc chắn là Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!

Thiên Chúa chấp thuận để cho Satan thử thách lòng trung tín của ông Gióp đối với Người.

Vậy là một ngày kia, đang khi các con trai con gái của Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có một người đưa tin đến cho ông Gióp rằng:

– Trong lúc bò của ông đang cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại còn dùng gươm giết chết các đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho ông hay. Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:

– Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay. Người nầy còn đang nói thì người khác chạy về thưa:

– Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay. Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:

– Con trai con gái ông đang ăn uống tại nhà người anh cả thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.

Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (Gióp 1, 6-22).

Câu chuyện trên đây giúp chúng ta biết rằng: mọi sự ta có đều là của Chúa ban cho ta hưởng dùng, nếu mai đây Chúa có đòi lại thì chúng ta cũng hãy bằng lòng và phó thác để Chúa định liệu.

4) KHÔN NGOAN PHÒNG TRÁNH CẠM BẪY CỦA THẾ GIAN

Đức TGM Ngô Quang Kiệt, ngày 20. 09. 2008, đã phát biểu tại UBND TP. Hà nội, trước một cử tọa khá đông người như sau: ” Chúng tôi đi ra nước ngoài rất nhiều. Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị soi xét. Chúng tôi buồn lắm chứ. Chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh…” Vậy mà hôm sau báo đài Việt Nam đã loan tin ầm lên, khi họ chỉ trích ra một phần nhỏ trong câu nói dài của ngài: “Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam…” Thói đời là thế, khi người ta không ưa ai, muốn hạ bệ ai, nhất là khi người ta chẳng tôn trọng sự thật, chẳng sợ lương tâm gì cả… Về phần các tín hữu, cần phải cảnh giác và khôn ngoan đề phòng trước những thông tin của các thế lực thù địch chống phá Hội Thánh. Hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha luôn khôn ngoan để lèo lái con thuyền Hội Thánh vượt qua sóng gió như muốn nhấn chìm Hội Thánh.  Hãy cầu xin cho mỗi tín hữu chúng ta tránh những tội lỗi và gương xấu làm cớ vấp phạm cho con người thời đại hôm nay.

  1. SUY NIỆM:

Đến chất vấn Đức Giê-su là những người thuộc hai nhóm đối lập nhau về chính trị là nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Hê-rô-đê. Để đối phó với Đức Giê-su là kẻ thù chung, hai nhóm này tạm thời liên minh đặt ra một cái bẫy để từ đó tố cáo giết hại Người:

1) CÁI BẪY ĐƯỢC GIƯƠNG RA:

“Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”, một câu hỏi thật sắc bén do họ đặt ra, để đưa Đức Giê-su vào thế bí, mà theo họ thì trả lời đàng nào cũng không ổn: Nếu Đức Giê-su bảo phải nộp thuế cho đế quốc, thì nhóm Pha-ri-sêu vốn có lòng ái quốc sẽ đi rao rằng Người là kẻ bán nước, là tay sai của ngoại bang để đàn áp bóc lột đồng bào, hầu dân Do Thái không tin Người là Đấng Mê-si-a, mà họ đang tha thiết mong chờ. Nhưng nếu Đức Giê-su bảo rằng không được nộp thuế cho Xê-da, thì phái Hê-rô-đê vốn thân chính quyền, sẽ thừa cơ chụp mũ cho Người là một kẻ phản động, âm mưu xách động quần chúng chống việc nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma, để Người sẽ bị chính quyền bắt bớ và kết án.

2) CÂU TRẢ LỜI CỦA ĐỨC GIÊ-SU: Trước hết Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu đen tối của họ khi nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình !” Rồi sau đó Người đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế. Đồng tiền này bằng bạc, trên có khắc hình và tên hiệu của Xê-da là hoàng đế Rô-ma. Khi được hỏi hình và tên hiệu của ai, họ thưa: “Của Xê-da”. Dĩ nhiên, Đức Giê-su đã biết rõ hình đó là của ai, nhưng Người muốn chính miệng họ nói ra điều này, để cho họ thấy: Một khi họ đã chấp nhận sử dụng đồng tiền của Rô-ma, tức là họ đã mặc nhiên công nhận quyền cai trị của Xê-da và coi ông là hoàng đế của mình. Từ đó, Đức Giê-su tuyên bố hai điều như sau:

– “Của Xê-da trả về cho Xê-da”: nghĩa là phải trả cho Xê-da đồng tiền mang hình và danh hiệu của ông. Khi đã chấp nhận quyền cai trị của hoàng đế Rô-ma, thì đương nhiên cũng phải chu toàn bổn phận đóng thuế cho Xê-da ! Đây là đáp án cho câu hỏi “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”.

– “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21): Tuy bọn người này không hỏi về bổn phận đối với Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su vẫn nói đến: Phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Người. Đây là một bổn phận quan trọng mà những ai muốn là con hiếu thảo của Thiên Chúa không thể bỏ qua.

3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?

Các tín hữu chúng ta vừa là công dân của nước trần gian, lại vừa là công dân của Nước Trời. Là công dân nước trần gian, chúng ta được hưởng những quyền lợi của công dân theo Hiến Pháp và luật pháp quy định, như các quyền tự do cư trú, tự do tín ngưỡng, được bảo vệ tài sản tính mạng, quyền ứng cử và bầu cử… Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng có trách nhiệm phải thi hành nghĩa vụ công dân như đóng thuế, bảo vệ an ninh tổ quốc… Những kẻ vi phạm các nghĩa vụ công dân vừa có tội với đất nước, lại vừa có lỗi với Thiên Chúa như thánh Phao-lô đã dạy: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1 ; Ga 19,11a). Trừ phi thế quyền buộc chối bỏ đức tin, thì bấy giờ phải theo nguyên tắc được thánh Phê-rô nêu ra trước Thượng Hội Đồng Do Thái: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).

Là công dân của Nước Trời, chúng ta cũng được hưởng những quyền lợi thiêng liêng tinh thần và có trách nhiệm chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Chu toàn nghĩa vụ với Thiên Chúa, là tôn trọng các công trình do Người sáng tạo, nhất là tôn trọng con người là tạo vật được Thiên Chúa tạo nên giống hình ảnh Người (x. St 1,26); Bên cạnh đó, chúng ta cũng có nghĩa vụ truyền giáo, là giúp cho người lương nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, và ăn ở như con cái hiếu thảo đối với Đấng đã tác thành nên mình. Ngoài ra chúng ta còn phải tôn trọng các tài nguyên thiên nhiên và muôn sinh vật do Thiên Chúa dựng nên. Nhất là phải sử dụng những hồng ân Chúa ban như sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, và tài năng để làm vinh danh Chúa và phục vụ hạnh phúc cho tha nhân. Đó là trách nhiệm mà các tín hữu phải thực hiện nếu không muốn bị loại ra khỏi Nước Trời trong cuộc phán xét vào ngày tận thế sau này (x. Mt 25,41-45).

  1. THẢO LUẬN:

1) Quyền của nhà nước với quyền của Hội Thánh khác và giống nhau thế nào ?

2) Khi thế quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng thì bạn cần có thái độ ra sao ?

  1. NGUYỆN CẦU:

1) LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA ĐẦY LÒNG NHÂN ÁI. Xin cho chúng con quyết tâm noi gương Đức Giê-su là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha”. Xin cho chúng con có lòng bao dung nhân hậu để đón nhận mọi người là anh em. Xin cho chúng con biết chia sẻ hạnh phúc được làm con Cha cho những người chưa nhận biết và tôn thờ Cha. Xin cho chúng con luôn khiêm hạ phục vụ và tôn trọng tha nhân như Cha đã nêu gương cho chúng con. Xin cho chúng con dám yêu đến cùng và cho đi tất cả để được Cha yêu thương tha thứ lỗi lầm, và ban Nước Trời đời đời cho chúng con.

2) LẠY CHÚA GIÊ-SU: Trong Tin Mừng hôm nay, khi nói: “Của Xê-da trả về Xê-da”, Chúa đã dạy chúng con phải biết yêu mến và xây dựng tổ quốc trần gian bằng việc chu toàn các nghĩa vụ công dân. Nhưng Chúa cũng nhắc chúng con phải ý thức chu tòan bổn phận đối với Cha trên trời khi nói: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Xin cho chúng con ý thức rằng: Dù đang sống giữa thế gian, nhưng chúng con không thuộc về trần gian như lời Thánh Phao-lô: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Do đó, ngay từ bây giờ, Chúa muốn chúng con phải biết chu toàn bổn phận mến Chúa yêu người theo gương Chúa làm và lời Chúa dạy.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Trong những bài Tin mừng Chúa nhật mấy vừa qua, Chúa Giê-su đã dùng những dụ ngôn để dạy dỗ về Nước Trời. Sau khi nghe những dụ ngôn này, đặc biệt là dụ ngôn “Chủ vườn nho và các tá điền” , những thượng tế và biệt phái hiểu Chúa Giêsu ám chỉ họ, với mục đích là muốn cảnh tỉnh để họ tin vào Chúa, nhưng tâm hồn họ đã trở nên chai cứng, lòng thù hằn của họ đã lên cao độ. Vì vậy họ lập mưu để tìm cách tố cáo và bắt hại Người. 

Cuộc bày mưu được tính toán và xếp đặt rất chu đáo.  Trước hết, họ sai đồ đệ và mang theo phe cánh của Hêrôđê  đến gặp Chúa.  Sau khi gặp Người, họ đề cao Người bằng những lời khâm phục giả dối, phát xuất từ tâm độc, với mục đích tang bốc Người lên trước, rồi tìm cách gài bẫy và tố cáo sau.  Chúng ta hãy nghe những lời tâng bốc vuốt ve của họ: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa.  Thầy không cần để ý đến ai, vì Thầy không thiên vị người nào.”   Sau đó họ gài bẫy:  “Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?” 

Nếu Chúa trả lời không, thì phe cánh Hêrôđê sẽ kết án Người chống đối chính quyền.  Nếu trả lời phải, thì họ sẽ tuyên truyền với dân chúng, kết án Người là tay sai đế quốc xâm lăng phản bội dân tộc.  Vì thế họ chờ đợi và thầm nghĩ rằng Chúa sẽ sa vào bẫy của họ.  Nhưng chúng ta thấy Chúa thấu hiểu được sự hiểm độc của họ, và không những không rơi vào cạm bẫy, mà còn dựa vào đó dạy cho họ một bài học đích đáng. Chúng ta nghe Chúa nói với họ: “Đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế” và hỏi: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?”  Họ trả lời:  “Của Cêsarê.”   Chúa nói với họ: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa.” Thật bất ngờ như một tiếng sét nổ bên tai, họ kinh ngạc và chuồn đi.  

Ông bà anh chị em thân mến. Qua bài tin mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta một lẽ sống chính đáng.  Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người.  Đó là lẽ công bình cũng giống như chúng ta phải trả cho Cê-sa-rê, hay cho quốc gia chúng ta đang sống, những gì thuộc về quốc gia này cho lợi ích chung.  Thật vậy, chúng ta là công dân của 2 quốc gia trần thế và Thiên Quốc, và vì là công dân của hai quốc gia, chúng ta có những bổn phận và trách nhiệm đối với hai quốc gia này.

Đối với quốc gia trần thế, chúng ta có những bổn phận chính yếu như tuân theo luật pháp, bảo vệ quốc gia, đi bầu và đóng thuế. Như chúng ta biết, chủ đích của luật pháp là giữ an ninh và bảo đảm quyền tự do cho mỗi người, và cũng như bảo vệ nhân phẩm của mọi người được tôn trọng. Đi bầu để chọn những người xứng đáng, biết phục vụ và bảo vệ những quyền căn bản của con người, bảo vệ giá trị hôn nhân gia đình và sự sống con người.  Chúng ta có bổn phận phải đóng thuế để có những tiện nghi công cộng và lợi ích cho mọi người về những phương diện như giáo dục và xã hội.

Là những Ki-tô hữu và công dân của Thiên Quốc, chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ trời đất và con người.  Tất cả mọi sự là của Chúa. Vì yêu thương, Thiên Chúa ban cho chúng ta chính một Người là Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người.  Người đã chết trên thập giá để ban cho chúng ta ơn cứu độ.  Ngoài ra, chúng ta xác tín qua mọi phương cách Thiên Chúa đã, đang và sẽ ban cho chúng ta muôn vàn ơn lành hồn xác, nhất là qua Đức Mẹ Maria, Đức Mẹ Fatima mà nhiều người Việt trong giáo xứ đã đến thăm viếng tại nhà thờ chính tòa tối hôm Thứ Sáu và sáng Thứ Bảy vừa qua.  Tất cả mọi sự chúng ta có là ơn lành Chúa ban. Nếu chúng ta được dựng nên, nhận được nhiều ơn lành và được yêu thương như thế thì mỗi người chúng ta phải biết mình có bổn phận gì đối với Đấng đã yêu thương mình.

Tôi nghĩ rằng chúng ta có bổn phận phải biết ơn, phụng sự và vinh danh Chúa.  Trong Thánh lễ quốc táng của Mẹ Tê-rê-sa Calcutta, Đức hồng y Quốc vụ khanh Tòa thánh đã dùng những lời này để kết thúc bài giảng của mình: “Ngày hôm nay, nhân danh Đức giáo hoàng Gioan Phao-lô Đệ nhị, Vị sai tôi đến đây, nhân danh ngài, tôi xin nói lên cùng Mẹ lời giã từ cuối cùng trên trần gian này, và nhân danh Đức thánh cha, tôi cám ơn Mẹ vì tất cả những gì Mẹ đã làm cho Giáo hội, và nhất là cho người nghèo của thế giới”

Chúng ta thấy đối với con người mà còn nhận được sự vinh danh và biết ơn như thế thì huống chi đối với Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta, sự vinh danh và lòng biết ơn của chúng ta phải như thế nào mới gọi là cân xứng!  Chúng ta biết ơn Chúa bằng cách sống những giới luật Chúa dạy.  Chúng ta vinh danh Chúa bằng đời sống chứng nhân cho Chúa trong xã hội này. Chúng ta phụng sự Chúa bằng đời sống bác ái, tốt lành và công bình, bằng sự hy sinh phục vụ và quảng đại đóng góp xây dựng Nước Chúa trần gian.  

Chúng ta thấy sau năm 1975 và cho tới ngày hôm nay, có biết bao nhiêu người Việt chúng ta đã được sang định cư sống ở đất nước Hoa kỳ này. Chúng ta có cuộc sống no ấm và tự do để sống đức tin.  Có người đã phải vượt đại dương với bao nhiêu sự nguy hiểm, có người di tản, có người đoàn tụ.  Nói tóm lại, bằng cách này hay cách khác, chúng ta được sự che chở và quan phòng của Thiên Chúa, đến được đất nước này và quy tụ tại giáo xứ thánh Giuse để tiếp tục sống đức tin và thờ phượng Chúa.  Nếu chúng ta thành tâm nhìn vào đời sống, chúng ta nhận ra rất nhiều ơn lành mà Chúa đã thương ban, về vật chất cũng như tinh thần. Tất cả là hồng ân Chúa.  Vì vậy, hôm nay tất cả chúng ta có bổn phận phải biết ơn Chúa bằng cách cùng nhau hy sinh phục vụ, quảng đại dâng cúng, đóng góp tiếp tục xây dựng giáo xứ để phụng sự Chúa.  Nếu chúng ta biết ơn, phụng sự và vinh danh Chúa thì chắc chắn Mẹ Maria sẽ nghe lời cầu xin và sẽ cầu bầu cho chúng ta.

Ông bà anh chị em thân mến.  Mục đích cuộc sống Ki-tô hữu của chúng ta nơi trần gian này là nhận biết, yêu mến và phụng sự Chúa, và giúp cho người khác cũng nhận biết, yêu mến và phụng sự Chúa nữa, để chúng ta được hưởng bình an và hạnh phúc đời này và đời sau với Chúa trên Thiên quốc.

Về mục lục

.