CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 25, 6-10a; Pl. 4, 12-14.19-20; Mt. 22, 1-14
——-
-
Cùng đích cuộc đời (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Tiệc Cưới(Thiên San, MTG.Thủ Đức)
- Bữa Tiệc Thiên Quốc – Niềm Hy Vọng Của Mọi Nước Mọi Dân (E. Ng.Thanh Hiền, OSB)
-
Tiệc ngon đã sẵn (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Yến tiệc Nước Trời (Jorathe Nắng Tím)
-
Để luôn sẵn sàng (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Y phục Nước Trời (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Một lời mời (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
-
Áo cưới (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Mặc áo cưới (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
-
Bữa tiệc của vua Trời (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
-
Tiệc cưới và áo cưới (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Chấp nhận lời mời dự tiệc Nước Trời (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Đại tiệc (Trầm Thiên Thu)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 28 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
-
Lời yêu thương (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Sao không mặc y phục lễ cưới (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
1. Lời mời của Chúa (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Mặc áo cưới (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Dụ ngôn tiệc cưới (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Mặc sao xứng kỳ đức (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Cửa Nước trời luôn mở, nhưng y phục phải xứng hợp (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Bữa tiệc Nhà Chúa (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Để xứng đáng (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
8. Dự tiệc cưới (Phạm Anh, MTG.Thủ Đức)
9. Bàn tiệc Nước Trời (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
10. Không có y phục lễ cưới (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
11. Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật 28 Thường niên_A (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
12. Suy niệm Chúa Nhật 28 Thường niên_A (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
13. Thiệp mời thương xót (Trầm Thiên Thu)
14. Cần có y phục xứng hợp khi dự tiệc hoàng tử Giêsu (Jos.Vinc. Ngọc Biển)
15. Y phục xứng kỳ đức (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
16. Tiệc cưới (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
17. Cửa trời rộng mở (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
18. Mặc lấy Chúa Kitô (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
19. Cần một tấm lòng (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
20. Tiệc cưới Nước trời (JM. Lam Thy, ĐVD)
21. Y phục tiệc cưới hoàng gia (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
22. Dự tiệc và cách dự tiệc (Antôn Lương Văn Liêm)
23. Suy niệm Chúa Nhật 28 Thường niên. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
24. Y phục lễ cưới là gì? (P.Trần Đình Phan Tiến)
25. Đáp lại lời mời vào dự tiệc Nước trời (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
26. Khuôn khổ (Lm. Vũ Đình Tường)
27. Y phục tiệc cưới Nước trời là lòng sám hối và tin vào Tin mừng (Lm. Đan Vinh)
28. Ý nghĩa tiệc cưới và áo cưới (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
29. Tiệc Nước trời (Lm. Giuse Nguyễn)
30. Lên thì nhiều, vào thì ít (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
31. Chúa Nhật 28 Thường niên_A (Lm. Antôn)
.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc đời con người rồi sẽ kết thúc ra sao? Đâu là tương lai hậu vận của con người? Những người làm việc lành và những kẻ ác nhân liệu sẽ có một kết thúc khác nhau? Đó là những vấn nạn được đặt ra ở mọi thời đại, mọi nền văn hoá và mọi giai tầng xã hội. Để trả lời, Kinh Thánh khẳng định với chúng ta: tương lai con người sẽ giống như một tiệc cưới. Ai cũng được mời, nhưng không phải ai cũng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong ngày vui đó.
Hình ảnh tiệc cưới được sử dụng nhiều lần trong giáo huấn của Đức Giêsu. Tiệc cưới diễn tả niềm vui của người tin Chúa ngay khi họ còn sống ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu mà sau này họ sẽ đạt được. Trong Cựu Ước, hình ảnh tiệc cưới hoặc bữa tiệc vui cũng diễn tả mối tương quan thân thiết giữa Thiên Chúa với con người, làm cho con người được hạnh phúc trọn vẹn và lâu dài. Đích điểm tối hậu của đời sống con người là được sống với Chúa. Khi ấy, niềm vui sẽ tràn đầy, như trong một bữa tiệc thịnh soạn, đầy đủ rượu ngon, thịt béo, không còn khóc lóc và tang chế nữa. Đó cũng là hình ảnh diễn tả sự can thiệp của Thiên Chúa để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi cảnh lưu đày (Bài đọc I). Khung cảnh bữa tiệc thịnh soạn và chan chứa niềm vui còn được nhắc tới trong Thánh vịnh 22 được hát lên trong Phụng vụ hôm nay (Đáp ca).
Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh bữa tiệc cưới để nói về Nước Trời với công thức quen thuộc: Nước Trời giống như… Ai ai cũng được mời dự bữa tiệc trọng đại này, dù họ thuộc về nền văn hóa hay ý thức hệ nào. Hình ảnh bữa tiệc cưới mà Chúa Giêsu nói đến là bữa tiệc cưới của một vị vua, tổ chức cưới cho hoàng tử là người sẽ kế vị mình. Vì là tiệc cưới của con vua, nên mọi sự chuẩn bị rất cẩn trọng và chu đáo. Những thực khách đã được ông chủ trân trọng mời trước, nay đến ngày tổ chức tiệc, họ được mời lại lần nữa. Một điều thật trớ trêu, đó là sự chu đáo và trân trọng của chủ được đáp lại bằng thái độ coi thường, thậm chí bằng bạo lực. Nhiều thực khách viện đủ cớ để vắng mặt trong bữa tiệc, có những lý do lãng xẹt, chứng tỏ sự coi thường trước thịnh tình của chủ tiệc. Sự vô ơn của họ còn được thể hiện qua hành động côn đồ và dã man, đến mức bắt các đầy tớ của vua để hành hạ và giết chết. Điều này đã khiến nhà vua nổi cơn thịnh nộ. Những kẻ ngang ngược đã bị tru diệt. “Rượu mời không muốn, lại muốn rượu phạt”, khiến ông chủ nổi giận. Tấm thịnh tình của ông biến thành cơn giận. Đám cưới đã được chuẩn bị chu đáo từ lâu, biến thành đẫm máu do sự gian trá và độc ác của một số thực khách vô luân.
Đọc lịch sử Cứu độ, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa dùng nhiều cách thế để kêu gọi con người sống thánh thiện. Lời mời gọi của Chúa được nhiều người đón nhận, nhưng cũng có nhiều người khước từ. Họ yêu vật chất và vinh hoa trần thế hơn là đời sống thánh thiện mà Thiên Chúa đề nghị. Họ ngại phải từ bỏ. Họ sợ phải hy sinh. Họ không muốn bước ra khỏi vỏ bọc của sự ích kỷ và tham lam của mình. Họ giống như những thực khách được mời, kiếm cớ để từ chối lời mời rất trân trọng của ông chủ tiệc. Việc đi tham dự tiệc cưới là một vinh dự, mà bị họ coi như gánh nặng và nô dịch. Việc sống đạo đức là một niềm vui, mà bị họ coi như những hủ tục nhàm chán lỗi thời. Trải qua mọi thời đại, vẫn còn đó những người khước từ lời mời gọi nên thánh để được hưởng Nước Trời.
Nơi người Do Thái vào thời Chúa Giêsu, vẫn tồn tại một não trạng “tự tôn”, cho rằng Thiên Chúa là của riêng họ và chỉ có họ mới được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Qua dụ ngôn tiệc cưới, Chúa Giêsu muốn khẳng định: Người Do Thái hay dân ngoại, bất kỳ ai tin vào Chúa và thực thi Lời Ngài thì sẽ được vào dự “tiệc cưới”, tức là được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Như thế, là người Do Thái không có nghĩa đương nhiên được một “tấm vé” để vào Nước Trời, nhưng hạnh phúc Nước Trời là kết quả của một cuộc đời cố gắng không ngừng để diệt trừ tội lỗi, gia tăng nhân đức.
Giáo huấn của Chúa Giêsu, Nước Trời được gửi đến cho toàn thể nhân loại. Chính Người là Tin Mừng cho muôn dân. Tất cả mọi người đang sống dưới gầm trời này, dù muốn dù không, họ cũng thuộc về Thiên Chúa. Ai ai cũng được mời gọi gia nhập Dân Chúa là Giáo Hội, để đón nhận giáo huấn của Chúa và làm cho sinh hoa kết trái trong cuộc đời, tức là được dự tiệc cưới Thiên Chúa sẽ tổ chức vào lúc tận cùng thời gian. Có nhiều người dù chưa được rửa tội, nhưng họ cũng thuộc về Chúa khi họ sống theo tiếng nói của lương tâm và sống công bằng ngay thẳng trong cách đối xử với anh chị em. Họ là những người đang kiếm tìm Thiên Chúa qua việc kiếm tìm Chân Lý và những giá trị vĩnh cửu làm tâm điểm cho cuộc đời mình. Thánh Phaolô là một mẫu gương cho chúng ta trong đời sống Đức tin. Người đã khẳng định: Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Quả vậy, nhờ cậy trông vào Chúa, chúng ta sẽ vượt thắng mọi gian nan, chấp nhận mọi hoàn cảnh và kiên trì trong mọi quẫn bách (Bài đọc II).
Được đọc dưới ánh sáng Phục Sinh, dụ ngôn tiệc cưới còn giúp cho các độc giả liên tưởng đến hình ảnh Chúa Giêsu là vị Hoàng Tử của Thiên Chúa Cha. Ngày hôm nay, Chúa Cha vẫn đang tổ chức tiệc cưới cho Con Một mình. Ai trong chúng ta cũng được mời. Tuy vậy, một điều kiện không thể thiếu khi dự tiệc cưới là chúng ta phải có y phục lễ cưới. Y phục lễ cưới mà Chúa Giêsu muốn nói tới, đó là tâm tình yêu mến, sự tuân phục Thánh ý Chúa và tình huynh đệ đối với anh chị em mình. Y phục lễ cưới được nhắc tới trong bài Tin Mừng như một điều kiện và một kiến thức căn bản, không ai có thể biện minh rằng mình không biết. Điều đó cho thấy, mỗi chúng ta đang sống trong Giáo Hội, “y phục lễ cưới” chính là tình trạng thường xuyên của một tâm hồn thánh thiện, mến Chúa yêu người và mong muốn những điều tốt đẹp cho anh chị em đang sống xung quanh mình. Ngày lãnh nhận phép Thanh Tẩy, chúng ta được vị linh mục chủ sự mặc cho một chiếc áo trắng với lời nhắn nhủ hãy “mặc lấy Chúa Kitô – Mặc lấy con người mới” (x. Ep 4,24). Như thế, chiếc áo cưới chúng ta mặc hằng ngày là chính Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương ta và chịu chết vì ta. Nhờ tấm áo cưới này mà chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Người.
Trở lại với những vấn nạn được đặt ra ở trên, chúng ta tìm thấy câu trả lời: tương lai của chúng ta là hạnh phúc Nước Trời. Số phận kẻ dữ và người lành không giống nhau. Tiệc cưới chính là hình ảnh để diễn tả cùng đích cuộc đời. Ông chủ là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên chúng ta và mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc.
Thiên San, MTG. Thủ Đức
Ở Việt Nam, để chuẩn bị cho con cái yên bề gia thất, các bậc cha mẹ thường phải mất rất nhiều thời gian, công sức và nhất là tình yêu vào đó. Đặc biệt là khi tổ chức các nghi lễ cưới hỏi cho con cái. Thường thì đôi tân hôn cùng với cha mẹ ngồi lại, cùng lên danh sách khách mời xa gần trong họ hàng, bà con láng giềng, bạn bè thân thích. Cha mẹ sẽ hướng dẫn con cái trong việc tổ chức, khách mời… Trong câu chuyện hôm nay, Khi nói về Nước Trời, Đức Giêsu nhắc đến một ông vua chuẩn bị tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Điều lạ lùng là dường như các vị khách được mời chẳng có ai thèm đếm xỉa đến, bỏ đi làm việc của mình. Nhiều lần đức vua cho đầy tớ đi thỉnh quan khách nhưng họ vẫn không mảy may, thậm chí còn bắt các đầy tớ vua mà giết đi (x. Mt 22, 1-14).
Vị vua trong câu chuyện đã nổi trận lôi đình, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân đó. Không giận sao được khi nghe biết điều tồi tệ đó. Nếu ở trong hoàn cảnh đó, chúng ta sẽ làm gì? Trên thực tế, Các đám cưới được chuẩn bị rất chu đáo và các quan khách được mời cũng rất háo hức tham dự. Những người thân thiết, bạn bè xa gần, họ hàng và nhất là gia đình hai bên cô dâu và chú rể đều rất vui. Đại đa số đều cố gắng sắp xếp thời gian, chuẩn bị quà cáp để đi dự tiệc cưới. Số ít vì nhiều lý do, không thể tham dự thì ít ra họ cũng gửi phong bì hay chút ít quà mừng cho đôi bạn. Bởi đây là dịp vui, rất quan trọng của đời người. Nhìn vào thực tế để chúng ta có cái nhìn khách quan và phần nào hiểu được phản ứng của vị vua trong câu chuyện.
Khi tương quan với người khác, chúng ta sẽ có những cách xử sự khác nhau tùy thuộc vào địa vị, chức vụ, vai trò của người đó với ta. Với một người bạn thân, ta sẽ có cách nói chuyện, cư xử khác. Với thầy cô giáo hay những người lớn, ta cũng phải tỏ ra lễ phép, kính trọng. Ta không thể dùng cách nói với bạn bè để nói chuyện với một vị lớn tuổi hơn, hay dùng lời nói của một người buôn bán, chợ búa để nói chuyện với thầy cô. Thực vậy, sự tôn trọng của ta thể hiện qua cách ta cư xử, nói năng hằng ngày. Nếu quý mến một người, kính trọng một người, khi được mời đi đâu đó, chúng ta sẽ cố gắng sắp xếp thời gian để đi. Món quà ta tặng cho họ cũng sẽ khác với món quà ta tặng cho một người mới quen. Trong câu chuyện Đức Giêsu kể, Người không nói rõ các quan khách là ai, chỉ nói chung chung. Tuy nhiên dù họ là ai đi nữa, tất cả họ đều đã xem thường vua, không bận tâm đến lời mời của vua mà chỉ mải lo việc của mình. Người mời là vua thì có thể những kẻ được mời phải đứng sau vua, không ngang hàng với vua. Ấy vậy mà họ lại chẳng thèm đả động, đoái hoài gì đến lời mời rất vinh dự ấy. Bởi đâu phải ai cũng được vua mời vào dự tiệc cưới của hoàng tử. Hành động và thái độ của họ đã cho ta thấy rõ, họ đã từ chối lời mời của đức vua. Thật đáng tiếc.
Câu chuyện không dừng lại ở đó. Sau khi sai người đi tru diệt những kẻ sát nhân đó, nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng.Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.”. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.” (Mt 22, 8-10). Đức vua đã chọn một giải pháp khác để tiệc cưới của hoàng tử vẫn được diễn ra. Một sự thay đổi vượt quá sự suy tưởng của ta. Những kẻ được vua cân nhắc, ghi tên vào danh sách khách mời nay lại chẳng được dự tiệc cưới. Những người khác có nằm mơ cũng không nghĩ mình được mời dự tiếc cưới của hoàng tử thì lại được tham dự.
Cuộc sống luân có những bất ngờ, có những bất ngờ làm ta vui sướng nhưng cũng có những bất ngờ khiến ta phải hối tiếc. Thực ra, những bất ngờ ấy chẳng tự dưng đến nhưng đâu đó là kết quả của những chọn lựa của ta trong cuộc sống. Thực vậy, Chúng ta bất ngờ khi bị mấy chú công an gọi vào, yêu cầu xuất trình giấy tờ. Chúng ta bất ngờ khi bị gọi đứng lên bảng, bất ngờ khi nhìn thấy ba mẹ lên thăm… Nếu ngồi nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rằng, sở dĩ ta bị chú công an gọi vào là vì ta đã đi qua tốc độ hay không bật xi nhan khi qua đường… Sở dĩ ta bị gọi lên bảng là vì trước đó ta đã nói chuyện riêng trong lớp… Tuy nhiên, cũng có những bất ngờ xảy đến và ta chẳng thể biết được nguyên nhân tai sao. Hãy chọn sao để không phải hối tiếc.
BỮA TIỆC THIÊN QUỐC – NIỀM HY VỌNG CỦA MỌI NƯỚC MỌI DÂN
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Thường Niên XXVIII, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: tự sức mình, chúng ta không thể tuân giữ được những gì Chúa truyền dạy, vì thế, chúng ta rất cần ân sủng của Chúa. Tất cả là do bởi ơn Chúa, cho nên, để chúng ta có thể đạt đến Nước Trời, nơi mà Chúa đã dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc, ân sủng của Chúa sẽ luôn mở đường và cùng đồng hành với chúng ta trên hành trình tiến về Núi Thánh, Đền Thánh để dự Bữa Tiệc Thiên Quốc.
Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, Đức Chúa đã phán cùng ngôn sứ Khácgai: Hãy lên núi tái thiết Đền Thờ cho Ta, và Ta sẽ vui thích. Nhà của Đức Chúa sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân, chứ không chỉ của người Dothái. Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Syrilô đã cho thấy Danh Chúa thật cao cả giữa chư dân, chư dân nghĩa là dân ngoại, như lời ngôn sứ Dacaria đã tiên báo: Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng Đức Chúa, chúng sẽ thành dân thánh của Ta. Thánh Syrilô nói: Thời Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến, đã xuất hiện một Đền Thánh vinh quang hơn, huy hoàng hơn và cao trọng hơn bội phần so với đền thờ cũ.
Điểm đến chung cuộc của chúng ta chính là Nước Trời, là Đền Thánh, Núi Thánh, là Bữa Tiệc Thiên Quốc như bài Đáp Ca của ngày lễ hôm nay: Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Này tôi được ở đền Người, những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Niềm hy vọng của chúng ta là chính Chúa, là tiệc vui Thiên Quốc, nhưng, chúng ta lại mải mê thế sự mà đánh mất lòng trông cậy, cho nên, các nhà phụng vụ đã cố tình chọn câu Tung Hô Tin Mừng cho ngày lễ hôm nay là: Xin Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, soi trí mở lòng cho chúng ta thấy rõ, đâu là niềm hy vọng, mà ơn Người kêu gọi đem lại cho chúng ta.
Niềm hy vọng của chúng ta, được ngôn sứ Isaia khẳng quyết cách chắc chắn trong bài đọc một là: Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc. Ngày ấy, người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và chúng ta đã được Người thương cứu độ. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô nói với các tín hữu Philípphê rằng: Thiên Chúa sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu. Với niềm xác tín thẳm sâu, thánh nhân tuyên bố: Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết.
Trong bài Tin Mừng, thánh Mátthêu cho thấy Bữa Tiệc Thiên Quốc bao gồm đủ mọi thành phần, qua lệnh truyền của nhà Vua: Vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. Tuy nhiên, có một người không mặc y phục lễ cưới. Thánh Mátthêu cố tình nói “có một người”, vậy là, mọi người đã mặc y phục lễ cưới, chỉ có người này cố tình không mặc y phục lễ cưới, và bằng chứng là, khi nhà Vua hỏi tới, thì người ấy câm miệng không nói được gì. Người này không có một lý do nào để phân trần, biện hộ cho mình, và đương sự cũng không cậy nhờ vào lòng thương xót của nhà Vua, mà van xin tha thứ. Vì thế, người này đã bị trói chân tay lại, bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Ơn cứu độ, Nước Trời, Bữa Tiệc Thiên Quốc là ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, Chúa luôn mời gọi chúng ta tiến về Núi Thánh, lên Đền Người ngự, ở nơi đó, Chúa dọn sẵn cho chúng ta một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế. Ấy thế mà, chúng ta không thèm đếm xỉa tới lời mời gọi của Chúa.
Bữa Tiệc Thiên Quốc là một lời mời, nên cần chúng ta đáp lời; là một lời hứa, nên cần chúng ta cộng tác để thực hiện; là một hành trình, nên cần chúng ta tiến bước; là một niềm hy vọng, nên cần chúng ta vững dạ cậy trông. Mọi sự đã sẵn sàng, ân sủng của Chúa luôn mở đường và cùng đồng hành với chúng ta, chỉ cần chúng ta mở lòng đón nhận: khoác trên mình chiếc y phục lễ cưới, mà chính Đức Kitô đã mặc khi vào trần gian: đến không phải để được hầu hạ, nhưng, để hầu hạ và hiến dâng mạng sống vì chúng ta.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Con người ngày nay thường rất bận. Càng giầu càng bận. Càng có chức quyền càng bận. Họ bận đến nỗi chẳng có thời giờ cho riêng mình. Bận đến nỗi luôn lao vào công việc mà chẳng có thời gian thư giãn với đồng loại. Có khi bận quá mà quên chăm sóc cho bản thân.
Chuyện kể rằng có một anh thợ rất khéo. Bao nhiêu quần áo đẹp trong làng đều do anh may. Tuy nhiên, bản thân anh thì chỉ có mỗi một chiếc áo cũ rách. Lúc nào anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn của làng anh vẫn chiếc áo lôi thôi ấy đến dự. Có người bất bình hỏi anh: sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại không may cho anh được một chiếc áo sang trọng?
Anh trả lời: vì tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may cho chính mình.
Người bạn: vậy anh hãy cầm lấy số tiền này và may cho anh một chiếc áo mới, kể như tôi muốn anh may cho tôi vậy.
Anh thợ may cầm tiền về nhà, tới buổi tiệc tiếp theo anh vẫn mang bộ đồ cũ rách ấy. Anh bảo cũng chẳng có giờ may cho chính mình , vì hàng nhiều quá!
Chúa Giê-su hôm nay nói rằng: “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình… Nhà vua sai đầy tớ đi, và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quí vị đến dự tiệc cưới!” (Mt 22:2,4)
Vậy mà nhiều người không đến ăn tiệc được vì không có giờ, vì bận quá: “kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn…” (Mt 22:5).
Và hôm nay vẫn còn đó nhiều người đã không có cơ hội để hưởng niềm vui hiện tại. Họ là những CEO đang bận bịu với các cuộc họp làm ra tiền. Họ là những chuyên viên kinh tế đang theo dõi thị trường chứng khoán. Họ là những người lao động đang phải làm thêm giờ phụ trội cho có đủ tiền trả góp chiếc xe láng mới tậu để “gáy” đua với mấy tên bạn. Giờ đâu mà ngó mây trời. Ăn còn chẳng kịp nữa là. Họ thật đáng thương!
Thế là hóa ra người nghèo lại có nhiều cơ may hưởng được niềm vui trong cuộc sống hơn. Lệnh của chủ tiệc là ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới. Và phòng tiệc đã đầy nhanh chóng. Ai nấy ăn uống vui vẻ.
Con người thường mâu thuẫn với chính mình. Người ở quê thì thích về thành phố để sống vinh quang dù vất vả khổ cực. Người thành phố lại chỉ ước mong về gìa sẽ về quê để vui thú điền viên.
Như vậy, hạnh phúc không phải là ở quê hay ở thành phố. Hạnh phúc cũng không phải ở công việc làm ăn lớn hay nhỏ. Hạnh phúc đơn giản được vui với niềm vui hiện tại. Được vui cùng nhau, chia sẻ cùng nhau mà không hề toan tính giầu nghèo. Và đối với lời Chúa hôm nay thì hạnh phúc là được tham dự yến tiệc Nước Trời hôm nay và mãi mãi.
Thánh lễ là bàn tiệc Nước Trời tại thế. Nơi đó Chúa cũng muốn mọi người có mặt. Chúa không muốn thiếu vắng ai. Vì thiếu vắng là thiệt thòi, vì người vắng sẽ thiếu niềm vui của cộng đoàn hiệp thông, vì người vắng sẽ thiếu ân sủng và sức mạnh của Thiên Chúa để nhờ ơn Chúa họ sẽ sống tốt hơn.
Đáng tiếc, nhiều người lại quá lo làm ăn, buôn bán, có khi vui chơi giải trí để từ chối tham dự tiệc thánh Chúa mời gọi. Họ ưu tiên cho cái bụng trước mắt mà không thèm đếm xỉa đến bàn tiệc Nước Trời.
Bàn tiệc Nước Trời cũng ám chỉ bàn tiệc cánh chung. Con người sinh ra rồi cũng chết, nhưng chết là là cuộc vượt qua vào cõi vĩnh hằng để tham dự bữa tiệc cánh chung. Nơi đó Thiên Chúa đã sắp sẵn một bàn tiệc viên mãn cho những ai được Ngài mời gọi. Nơi đó, Chúa cũng đòi hỏi người dự phải có tấm áo Tin mừng. Tấm áo của lòng thanh khiết luôn hướng về Chúa. Tấm áo của lòng bác ái luôn sống mến Chúa yêu người. Tấm áo của ân sủng để Chúa luôn đong đầy yêu thương đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi của chúng ta.
Vâng , Chúa luôn mời gọi tất cả mọi người, nhưng Chúa lại tôn trọng tự do để con người biết chọn cách sống cho phù hợp với tin mừng, và nhất là biết gìn giữ tấm áo rửa tội để mãi thuộc về Chúa hôm nay và mai sau. Xin cho chúng ta biết chọn lựa hạnh phúc Nước trời hơn là những vinh hoa phí quý trần gian mau qua. Xin cho chúng ta cũng biết nắm lấy niềm vui hiện tại mà vui sống với những gì Chúa ban. Amen
Jorathe Nắng Tím
Càng gần những ngày cuối của ba năm rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu càng cảm thấy áp lực nặng nề từ phía giáo quyền Do Thái, khi các thượng tế, ký lục và nhóm Pharisêu ngày càng công khai dồn sức tấn công và tìm mọi cách giăng bẫy Ngài với hy vọng giao nộp Ngài cho chính quyền đế quốc Rôma và ước mơ thấy Ngài lãnh án tử hình đóng đinh, hầu triệt tiêu một khuôn mặt gây nhiều phiền phức, có sức đảo lộn toàn bộ sinh hoạt xã hội, tôn giáo, và làm sụp đổ thành trì “cơ chế” vững chắc bảo đảm an toàn chỗ đứng của họ.
Ở thời điểm căng thẳng này, Đức Giêsu nhiều lần nói với những chức sắc tôn giáo ấy bằng một cung giọng ngày càng cứng rắn, và không ngại lột trần dã tâm đen tối, xấu xa của họ, như dụ ngôn “Tiệc Cưới Nước Trời” được ghi lại trong Tin Mừng Mátthêu.
Dụ ngôn được coi như bản cáo trạng thu gọn lên án thái độ khinh bạc và quyết định khước từ của Ítraen, dân Chúa trước lời mời vào dự tiệc Nước Trời của Thiên Chúa. Qua hình ảnh những khách được mời đã viện đủ lý do để từ chối, đã tìm mọi cách để không đến dự tiệc, dù “cỗ bàn đã dọn xong, bò tơ, thú béo đã hạ rồi, và mọi sự đã sẵn” (Mt 22,4). Không đếm xỉa và coi thường lời mời của Thiên Chúa đã đành, Ítraen còn bắt bớ, hành hạ và giết cả những người của Thiên Chúa sai đến để mời họ, và Đức Giêsu đóng lại bản cáo trạng bằng một kết luận đanh thép : “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng” (Mt 22,8).
Trước lửa hận thù đang sôi sục trong tâm hồn những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ, lời tuyên bố không nể nang, nhân nhượng của Đức Giêsu về một dân riêng không còn xứng đáng với tình thương và lòng trân trọng của Thiên Chúa khác nào đổ thêm dầu để ngọn lửa bùng phát ngàn lần dữ dội, khủng khiếp. Bằng chứng là ngay sau đó “những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mt 22,15).
Khi nghe Đức Giêsu tố cáo như vậy, chắc chắn một số trong họ đã nghĩ đến ngôn sứ Giêrêmia, người mà cha ông họ đã bạc đãi, đối xử tồi tệ, bất công, đồng thời nhớ lại đội quân hùng mạnh của Nabucodonoso gần 6 thế kỷ trước (năm 587 trước công nguyên) đã tàn phá Đền Thờ và dẵm nát quê hương “Đất Hứa” của họ. Và nhiều người trong họ đã coi đó là hình phạt của Thiên Chúa Giavê đổ trên dân riêng “bất xứng, ngỗ nghịch”.
Riêng Đức Giêsu, hôm nay Ngài chính thức cho họ biết có một dân mới được mời gọi vào yến tiệc Nước Trời thay thế họ ; có những người khách mới được Thiên Chúa đích thân đón vào dự tiệc cưới ; có những con người mới xứng đáng hơn họ được Thiên Chúa yêu thương, trân trọng cho đồng bàn. Và những khách mới, người mời, dân mới ấy chính là “bất cứ ai gặp được ở các ngã đường”, bởi đã đến lúc Thiên Chúa “gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” trong Vương Quốc của Ngài (Mt 22,9).
Hình ảnh những người khách mới gặp được ở các ngã đường để thay thế những “khách mời bất xứng” chính là Giáo Hội của Đức Giêsu, một dân tộc mới “gồm muôn dân” được mời vào dự tiệc của Chiên Thiên Chúa như ngôn sứ Isaia đã loan báo : “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc : tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,6), vì Thiên Chúa, Đấng thiết đãi muôn dân yến tiệc Nước Trời là Mục Tử nhân lành, Đấng dẫn đoàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, bên dòng nước trong lành ; Ngài dắt chiên đi trên đường ngay nẻo chính, và dọn sẵn cho chiên “bữa tiệc ngay trước mặt quân thù” (x. Tv 22,1-5).
Nhưng khi các khách mời đã vào bàn tiệc, thì một biến cố buồn bất chợt xẩy ra : “nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy : Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”. Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch : “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 22,13).
Biến cố thật bất ngờ và đáng buồn chắc chắn đã làm sững sờ nhiều người, nhất là thực khách bị nhà vua chiếu tướng, điểm mặt và ra lệnh bắt giam, đem đi hành hạ. Ngay cả chúng ta cũng chung một tâm trạng hụt hẫng ấy, bởi cứ sự thường những vị “khách mới” bất ngờ giờ chót được mời ở các ngã ba, ngã tư đường đã vào bàn tiệc với y phục thường ngày, vì không ai trong họ đã được biết trước mình sẽ được nhà vua mời dự tiệc cưới trong hoàng cung. Thái độ nổi giận và hình phạt nặng nề của nhà vua trên vị khách không mặc y phục lễ cưới qủa thật làm sốc không ít và chúng ta cảm thấy có chút gì bất công về phiá nhà vua.
Thực ra, Đức Giêsu đã mượn hình ảnh y phục lễ cưới để nói lên một chân lý quan trọng đó là Nước Trời từ nay được mở ra cho tất cả mọi người, không trừ ai, không phân biệt sắc dân, chủng tộc, trình độ, hoàn cảnh, nhưng điều đó không có nghiã những người được nhận vào Nước Trời không còn phải đáp ứng bất cứ đòi hỏi nào. Trái lại, luật mới của Tin Mừng, luật của Giao Ước Mới, luật mới của Đức Giêsu, tuy khác Luật cũ Môsê, nhưng vẫn đòi hỏi không kém, vẫn có những điều kiện buộc người muốn vào dự tiệc Nước Trời phải tuân giữ, thực hiện. Và Luật đó chính là Luật Yêu Thương, y phục lễ cưới đó chính là Đức Ái, điều kiện để được Thiên Chúa yêu thương cho đồng bàn với Ngài trong Vương Quốc, như thánh Tông Đồ Gioan đã khẳng định : “Thiên Chúa là Tình yêu : ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”, và “đây là điều răn mà chúng ta đã nhận từ Người : ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,16.21).
Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ quên mang sẵn trên mình y phục lễ cưới là Đức Ái, để bất cứ giờ nào, ở đâu Thiên Chúa mời gọi vào dự Tiệc Cưới Nước Trời, chúng ta đều đến với Ngài trong y phục Tình Yêu lộng lẫy, xinh đẹp, để xứng đáng đồng bàn với chính Thiên Chúa và các thánh của Ngài trên Thiên Đàng.
Bông hồng nhỏ
Cuộc sống luôn luôn đòi hỏi ta phải sẵn sàng. Một tâm thế sẵn sàng sẽ giúp ta dễ dàng để tới đích, dễ dàng để hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc. Trong tình yêu, Thiên Chúa đã luôn luôn sẵn sàng: sẵn sàng để yêu thương ta, tha thứ cho ta, chữa lành ta, nâng đỡ và an ủi ta… Ta có sẵn sàng để đón nhận tình thương của Ngài không? Được Thiên Chúa yêu thương, ai mà không hạnh phúc. Niềm hạnh phúc lớn nhất của ta là được nhận biết Thiên Chúa, nhận biết mình được Người hết lòng yêu thương. Thế nhưng, đã bao lần ta đã tỏ ra không sẵn sàng để đón nhận tình yêu thương của Người. Điều gì đã khiến ta không sẵn sàng như thế?
Hôm nay, lắng nghe câu chuyện Thầy Giêsu kể, ta nhận thấy có mình trong đó. Thiên Chúa chính là ông vua đã tổ chức tiệc cưới cho con mình. Ông gửi thiệp, mời các quan khách đến dự. Tiệc cưới đã sẵn sàng mà khách được mời lại chưa tới. Ông sai các đầy tớ của mình đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến (x. Mt 22,3). Từ ngày ta được lãnh nhận Mình Thánh Chúa, Thánh lễ trở nên thật ý nghĩa đối với ta. Ta được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, được nên một với Người. Người làm cho ta lớn lên, được giống Người mỗi ngày một hơn. Ước chi, ta cứ mãi là trẻ thơ để không phải lo lắng, không phải bận bịu; chỉ hồn nhiên để chạy đến bên Người, yêu mến Người mãi mãi.
Nhưng kìa, từ khi bước chân vào đời, ta đã đổi khác. Nhịp sống vội vã đã cuốn ta vào vòng xoay của nó. Ta bận bịu với biết bao nhiêu công việc, rồi ta bỏ lễ một lần, hai lần rồi ba bốn lần. Cứ thế, ta cứ dần dần từ chối quyền được hưởng niềm hạnh phúc của người được Chúa thương. Thánh lễ chính là một tiệc cưới. Thiên Chúa đã kiên nhẫn chờ đợi ta đến với Người trong những Thánh lễ mỗi ngày. Thiên Chúa vẫn rất thương ta, Người đã gửi đến cho ta những “đầy tớ” để họ nhắn lại cho ta nhớ lời của Người: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!” (Mt 22,4). Ta hãy tạm ngưng công việc đang dở dang, hãy lắng nghe các “đầy tớ” của Thiên Chúa nhắn lại lời của Người. Họ là những người bạn, là cha mẹ, là những người trong giáo xứ, là những tu sĩ, những linh mục đang cố gắng giúp ta. Đừng để cho những bận rộn của trần thế làm ta quên đi lời mời của Thiên Chúa. Hãy sẵn sàng để đó nhận tình yêu bao la của Người.
Chẳng phải những lần không thể tham dự Thánh lễ, ta đã thấy lòng mình hụt hẫng, thiếu vắng và nhớ Chúa quá chừng đó sao. Ta hãy tìm cách tham dự Thánh lễ. Thiên Chúa đã mở tiệc thết đãi muôn dân, ta đã được mời dự và không bao giờ bị từ chối. Dù ta có vấp ngã nhiều lần đi chăng nữa, dù trước đó ta đã từ chối tình thương của Chúa thì ngay bây giờ nếu ta sẵn sàng bước vào dự tiệc cưới, Người vẫn sẵn sàng đón nhận ta. Ta sẽ được Chúa Kitô kéo ra khỏi bóng đêm tội lỗi, được Người thanh tẩy bằng Máu Thánh của Người, bấy giờ ta sẽ cảm nhận được niềm hạnh phúc lớn lao, niềm hạnh phúc mà ta đã từng được hưởng nếm. Y phục lễ cưới chính là lòng thống hối ăn năn của ta. Thiên Chúa đã mời tất cả mọi người dự tiệc, dù họ có một quá khứ lỗi lầm, là một người xấu đi chăng nữa, thì Thiên Chúa vẫn đón nhận họ. Thiên Chúa đã chờ đợi con người quá lâu, đến nỗi Người đã trực tiếp thân hành đến giữa họ. “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ta có nhận ra Người không? Đừng chần chừ nữa, hãy mang lấy tấm áo của lòng thống hối ăn năn, sẵn sàng mặc lấy tấm áo ấy là sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa để thay đổi chính mình. Đó cũng chính là lúc ta sẵn sàng đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Hãy để cho Lời của Thiên Chúa vang lên trong lòng ta, hãy để Người biến đổi cuộc đời ta.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa vẫn chờ đợi con. Người không mỏi mệt để lên tiếng trong lòng con, không mỏi mệt khi tha thứ cho con. Xin giúp con đủ sức để chiến đấu trong cuộc chiến đấu với chính mình, để chọn lựa ưu tiên của con là chọn Chúa trên hết mọi sự. Xin làm cho con trở nên sẵn sàng trước tình yêu bao la của Chúa. Amen.
Anna Cỏ may
Dù sáng sớm hay chiều về, đường phố luôn tấp nập. Con đường ngập tràn tiếng xe, tiếng cười. Bao màu sắc phong phú của trang phục như những sắc hoa trải dài trên các nẻo đường. Những màu sắc này là vẻ đẹp riêng của các trường học, công ty, công sở và các công việc khác nhau, là dấu chỉ để cho biết nơi mà mỗi người hiện diện.
Cuộc sống ở trần gian có những quy định về sắc cờ mầu áo thì cuộc sống Nước Trời cũng vậy. Vì thế, Chúa Giêsu đã chuẩn bị và trao cho mỗi người những trang phục để vào dự tiệc cưới Nước Trời. Ai không có y phục lễ cưới, người đó sẽ không được dự tiệc cưới.
Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện một ông vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai các đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước đến dự tiệc, nhưng họ lấy lý do để từ chối khéo. Ông lại sai đầy tớ đi mời lần hai, họ vẫn không đến. Sau đó, nhà vua liền sai các đầy tớ ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào. Trong số người dự tiệc, có một người không mặc y phục lễ cưới. Nhà vua hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22,12). Người ấy câm miệng không nói được gì. Cuối cùng, anh ta đã bị quăng ra bên ngoài vì không mặc y phục lễ cưới.
Nhìn vào thực tế, mỗi khi đến với Chúa trong Thánh lễ, chúng ta đã mặc trang phục như thế nào? Trang phục trong Thánh lễ là một hành động nhỏ nói lên niềm tin và sự tôn kính của chúng ta dành cho Thiên Chúa. Có thể nói, người không mặc đúng y phục đã được chuẩn bị là người không dám cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Anh muốn dự tiệc nhưng lại không muốn chung một niềm vui với chủ nhà, không muốn trở nên một với chủ nhà và không muốn thuộc về một nhà. Bởi đó, khi nhà vua hỏi, anh chỉ biết câm miệng, không nói được gì. Nếu ngay lúc đó, anh thật lòng muốn, anh có thể xin lỗi nhà vua và đi lấy y phục lễ cưới mặc vào, anh sẽ được ở lại. Nhưng, anh đã để cho mình mất cơ hội dự tiệc cưới. Còn những người không đến dự tiệc là những người đã bỏ mất cơ hội vào Nước Trời. Họ đã lấy những lý do riêng để từ chối. Những lý do đó có thật sự cần thiết không? Hay chúng ta chỉ muốn che dấu sự không muốn của mình. Như vậy, có nhiều lý do khiến chúng ta không được ở trong Nước Trời. Những lý do đó đều xuất phát từ chúng ta. Nhìn lại chính mình, tôi có đang từ chối bữa tiệc Nước Trời không?
Chúa Giêsu đã nói: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Vâng, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người hãy có thái độ sẵn sàng và mau mắn mặc y phục hòa giải, y phục sám hối, y phục khiêm tốn trước khi đến dự tiệc Thánh Thể . Nếu không, những thái độ trang nghiêm của chúng ta dù có thế nào cũng không trọn vẹn để vui hưởng niềm vui hạnh phúc của người biết mình được Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, xin dạy con luôn có thái độ sẵn sàng và biết mau mắn mặc y phục sám hối, y phục khiêm tốn, y phục hòa giải mỗi khi đến tham dự Thánh lễ và khi đến với tha nhân. Nhờ đó, con được hưởng trọn vẹn tiệc cưới Nước Trời ngay ở đời này và cả đời sau. Amen.
Thiên San
Sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng tiệc cưới cho con, nhà vua nhiều lần đi thử các quan khách nhưng họ không những không chịu đến mà còn bắt các đầy tớ của vua mà giết chết. Cuối cùng nhà vua nổi cơn thịnh nộ sai quân đi tru diệt và thiêu hủy thành phố của bọn sát nhân. Rồi nhà vua sai người ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào dự tiệc cưới.
Câu chuyện Đức Giêsu kể hôm nay như một hồi chuông cảnh tỉnh không chỉ cho những người trong giới lãnh đạo Do Thái mà còn cho cả mỗi người chúng ta. Thiên Chúa chính là vị vua trong câu chuyện, Người luôn hết lòng kiên nhẫn để kêu mời chúng ta vào dự “tiệc cưới Con Chiên”, là hạnh phúc Nước Trời. Trong câu chuyện trên, những kẻ được mời đã không lấy làm vinh dự khi được nhà vua mời nhưng đã tỏ ra hờ hững, “không thèm đếm xỉa” hay quan tâm đến lời mời đó. Tại sao vậy? Phải chăng họ chẳng xem vua ra gì? Hay vì họ quá bận rộn đến việc mình, và cũng chẳng sợ mất lòng vua? Cũng như các quan khách trong câu chuyện, chúng ta thường có vô vàn lý do để biện minh cho hành động của mình: bận đi thăm nông trại, đi buôn bán… (x.Mt 22,5). Phải chăng vì chúng ta quá “bận rộn” mà quên lời mời gọi của Thiên Chúa? Khi con người bận tâm với những sự chóng qua ở đời này, “cơm áo gạo tiền”, chúng ta sẽ chẳng còn thì giờ để nhớ đến lời mời của Thiên Chúa. Chẳng hạn, Chúa mời ta gặp gỡ Ngài cách đặc biệt vào các ngày lễ Chúa Nhật nhưng ta không thể đến vì còn bận đi shopping, đi nghỉ dưỡng, đi bán hàng… Lời mời gọi của Thiên Chúa là một lời mời gọi cao trọng. Có bao giờ ta có thể nghĩ được rằng Thiên Chúa Tối Cao lại cất công mời ta, để tâm đến ta?
Quả thực, lời mời gọi của “Nhà vua” thực sự rất cao quý nhưng không phải ai cũng nhận ra điều đó. Trong thánh vịnh số 8 có nói: “Ngắm tầng trời cao tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài. Mà con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm” (Tv 8,4-5). Thật vậy, ta chẳng là gì nhưng lại được Chúa đoái thương nhìn tới, dành cho ta một lời mời danh dự, cao quý là dự “tiệc cưới Con Chiên”. Mà Con Chiên ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã từng bày tỏ: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4,13). Sở dĩ thánh Phaolô nói được như vậy là vì đối với ngài, Đức Giêsu Kitô chính là lẽ sống, là sức mạnh và là cùng đích. Ngài chỉ quan tâm một điều là đáp trả lời mời gọi Thiên Chúa dành cho Ngài ngang qua Đức Giêsu Kitô, vì thế mà Ngài sẵn sàng đón nhận tất cả. Còn đối với chúng ta, Thiên Chúa ở vị trí nào trong cuộc sống của chúng ta? Nếu chúng ta xem Chúa là trên hết và trước hết và là vua cả trời đất thì chúng ta sẽ sẵn sàng đáp lại lời gọi yêu thương của Ngài và lấy làm vui thích vì được Chúa đoái thương, mời gọi. Khi ấy, ta sẽ thấy rằng, “cơm áo gạo tiền” quan trọng thật nhưng hạnh phúc đời sau mới là cốt yếu. Nhờ đó, ta sẽ bớt phải lo nghĩ đến chuyện “no” hay “đói” nhưng là làm sao để có được hạnh phúc đời đời; “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (x. Ga 17,3).
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha đã đoái nhìn, yêu thương và mời gọi chúng con vào “dự tiện cưới Con Chiên”. Xin Cha thương xót chúng con và giúp chúng con đừng quá bận tâm đến những sự chóng qua ở đời này, “no” hay “đói” nhưng là hạnh phúc đời đời là được dự tiệc cưới của Con Cha. Xin cũng giúp chúng con ngay ở đời này biết chuẩn bị cho mình y phục lễ cưới cho xứng hợp với lời mời gọi cao quý mà Cha dành cho chúng con. Amen.
Lm Vũđình Tường
Dụ ngôn vị vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Nhà vua lần đầu gởi thiệp mời đến thân hữu nhưng họ không đáp trả. Lần thứ hai, thay vì gởi thiệp, sợ thất lạc chăng, nhà vua sai gia nhân đến tận nhà từng thân hữu mời. Kẻ viện lí do việc gia đình, kẻ khác bận lo việc thương mại, kẻ khác nữa xỉ nhục, xua đuổi và có kẻ giết chết gia nhân. Coi thường không tham dự tiệc cưới của bạn thân giết chết tình thân hữu. Không thèm tham dự tiệc cưới của hoàng tử là một xỉ nhục cho nhà vua, hành động coi thường hoàng gia. Nhà vua buồn vì cách đối xử không thân thiện của các bạn hữu thì ít, nhưng có lẽ buồn hơn cả là cách họ đối xử tàn tệ với gia nhân thân tín hoàng gia. Gieo gió ắt gặt bão. Tất cả đều khởi sự bởi khách được mời, nhà vua sai lính tru giệt kẻ sát nhân. Những người tàn ác với người khác giờ chính họ trở thành nạn nhân. Không gì ngăn cản được tiệc cưới nhà vua định tổ chức cho hoàng tử. Thay vì mời thân hữu, nhà vua ra lệnh cho gia nhân mời bất cứ ai họ gặp trên đường phố. Người ta vui mừng đón nhận và tiệc cưới đầy tràn thực khách. Niềm vui nhà vua chợt tắt khi nhận ra có thực khách không tuân thủ quy luật tiệc cưới hoàng gia. Anh ta không những bị đuổi ra và còn bị lưu đầy trong ngục thất.
Dụ ngôn tiệc cưới là một dụ ngôn bất thường ở nhiều điểm. Thứ nhất, thực khách không dự tiệc cưới thì thôi, sao lại hãm hại người đi mời, kẻ vô tội. Thứ hai, trước tiệc cưới nhà vua sai lính giết kẻ phản loạn; tang thương, chết chóc, nhà tan, cửa nát, hình ảnh thêm lương trước đám cưới có phải là việc nên làm chăng? Nhà vua có dư thời gian trị tội kẻ phản loạn sau khi tiệc cưới hoàn thành. Thứ ba, thực khách bị tống ngục cũng là điều hơi lạ. Đuổi khỏi bàn tiệc, không cho tham dự, đã là xỉ nhục lắm rồi. Thứ tư, câu ‘kẻ được gọi thì nhiều mà được chọn tì ít’ (c.14) dường như không ăn nhập gì với tiệc cưới. Thứ năm ngôn từ trong dụ ngôn cũng bất thường. Đây là ngôn ngữ dùng cho ngày phán xét ‘Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc và nghiến răng’ (c.13). Câu này ám chỉ dụ ngôn tiệc cưới không phải là đám cưới trần gian, nơi xã hội mà chính là ám chỉ hình ảnh tiệc cưới nước trời. ‘Vua’ chính là Thiên Chúa, Vua vũ trụ. Gia nhân sai mời chính là các tiên tri, sứ giả của Thiên Chúa. Người được chọn mời là dân Israel. Người đầu đường, góc phố là dân ngoại nay trở thành dân riêng của Chúa. Áo cưới đây không phải là lụa là, gấm vóc, cũng không phải là tư cách cá nhân, mà chính là các nhân đức, đức hạnh. Thực khách không mặc áo cưới chính là người không có nhân đức, đức hạnh. Nơi khóc lóc, nghiến răng chính là nơi thiếu tình thương, thiếu bác ái. Kẻ giết gia nhân không phải tất cả dân Israel mà chính là người lãnh đạo trong dân. Phúc âm tuần trước nhắc đến nhóm này, họ là lãnh tụ Đền Thờ, Giới Trưởng Lão, Pharasiêu và Biệt Phái. Câu ‘kẻ gọi thì nhiều mà được chọn thì ít’. Có lẽ nhà vua nói với chính mình. Không phải những người được mời tất cả đều từ chối dự tiệc cưới. Một số từ chối, một số tham dự. Tuy nhiên so sánh với số thực khách mời đầu đường, góc phố, thì số được chọn quả là quá ít người tham dự. Như thế câu trên nói riêng cho đám thực khách được mời đầu tiên. Nhiều người được mời nhưng ít người chọn tham dự. Dụ ngôn nói về ngày phán xét. Kẻ tốt được tham dự tiệc cưới thiên quốc, kẻ xấu bị loại ra ngoài nơi tràn đầy đau thương, khổ ải.
Chúng ta, Kitô hữu, đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi thành dân riêng Chúa, theo con đường vua tình thương hướng dẫn, bảo bọc. Chúng ta dâng lời cảm tạ vì Thiên Chúa kêu gọi chúng ta vào dự tiệc cưới Thiên quốc, nơi bình an thật, hạnh phúc tràn đầy, tình thương vô hạn.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Thiên Chúa yêu thương tìm ngỏ lời và kết ước với loài người, trong khi loài người lại phản bội lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa. Dụ ngôn diễn tả sự phản bội ấy: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”.
Nhưng dù loài người có rắp tâm phản bội đến đâu, Thiên Chúa vẫn thủy chung trong tình yêu của mình. Chính trong tình yêu bền bỉ ấy, Thiên Chúa sai Con Một là Chúa Giêsu đến trần gian, đưa loài người vào dự tiệc tình yêu hạnh phúc với Người.
Đặc biệt, dụ ngôn làm nổi bật sự thủy chung bền bỉ ấy của Thiên Chúa. Thiên Chúa tiếp tục mời gọi hết lớp người này đến lớp người khác: “Những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”.
Tuy nhiên, khách được mời phải mặc áo cưới. Dự tiệc cưới thì phải mặc áo cưới. Đó là lẽ tự nhiên và hợp lý. Kitô hữu cũng vậy, một khi đã cam kết bước theo lời mời gọi của Thiên Chúa, họ phải có đời sống phù hợp. Họ phải “mặc áo cưới” để theo Người. “Mặc áo cưới” nghĩa là gì? Đó là:
– Trung thành thờ phượng, tín thác vào Chúa.
– Biết để Thiên Chúa làm chủ mọi năng lực sống trong đời mình.
– Luôn vững tin, cậy và yêu mến Thiên Chúa là Cha tuyệt đối thánh thiện. Đồng thời tin tưởng, cậy trông và yêu mến Chúa Giêsu, Đấng hy sinh thân mình vì ơn phần rỗi của chúng ta. Hướng về Chúa Thánh Thần, ta cũng dâng lên Người lòng tin, cậy, mến như với Ngôi Cha và Ngôi Con.
– Ăn năn sám hối chân thật vì sự kính trọng mà ta dành cho Thiên Chúa. Ngoài Người, không có ai đáng được kính trọng như thế.
– Đào tạo bản thân có trái tim trong sạch và gột rửa thường xuyên trí lòng bằng việc lãnh bí tích hòa giải để làm hòa cùng Thiên Chúa.
– Sẵng sàng hiệp thông và trao tặng lòng mến của mình đến mọi người.
– Thay đổi đời sống, làm sao ngày mai phải tốt, phải thánh hơn hôm nay.
– Xa tránh cám dỗ và tội lỗi, tập nhân đức, bỏ ý riêng sống theo ý Chúa.
– Bỏ ích kỷ cá nhân, mặc lấy bác ái, vị tha.
– Dẹp bỏ tham lam, ô uế, gian tà để xứng đáng đón tiếp tình yêu của Chúa.
– Bỏ hiềm khích, vô ơn, bất chính, mặc lấy lòng xót thương, lòng biết ơn.
– Bỏ sự hờ hững, vô tâm, mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông…
– Có trái tim rung động trước tình yêu của Chúa, không chai đá chỉ biết chạy theo những gian dối của trần gian.
Tóm lại, “mặc áo cưới” là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới, cách sống mới.
Vậy để có thể giữ tình trạng “mặc áo cưới” của mình lâu bền, chúng ta hãy chuyên chăm cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trí lòng, để có thể tỉnh táo luôn mà tẩy rửa linh hồn. Xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh, giúp ta kiên quyết đến cùng trên con đường theo đuổi sự thánh thiện. Xin Chúa Thánh Thần nắm lấy tay ta, để không trượt ngã trên đường theo Chúa suốt đời ta.
Và bản thân, hãy cộng tác với ơn của Chúa Thánh Thần để trung thành giữ cho mình luôn trong tình trạng “mặc áo cưới”, đó là ra sức chống trả mọi tư tưởng gian tà, quyết thực hành lề luật của Chúa, của Hội Thánh, không sống theo xác thịt với những đam mê dục vọng của nó.
Lạy Chúa, xin ban sức mạnh cho chúng con, để chúng con luôn biết “mặc áo cưới” mà theo Chúa. Xin Chúa đừng loại bỏ chúng con, nhưng xin cho chúng con được ơn tha thứ. Mai đây, khi đi qua cõi đời này, Xin Chúa cho chúng con hưởng thánh nhan Chúa muôn đời. Amen.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Dụ ngôn nhà vua mở tiệc đãi khách được trích đọc hôm nay gợi lại cho chúng ta một bữa tiệc khác trọng đại hơn rất nhiều. Đó là tiệc Thánh thể.
Thánh lễ là một bữa tiệc thật nhiệm mầu. Bữa tiệc này vô cùng cao quý vì cung cấp cho khách mời thực phẩm đem lại sự sống đời đời, chứ không như tiệc trần gian, dù có ăn bao nhiêu rồi cũng phải chết.
Bữa tiệc này có hai món đặc biệt: thứ nhất là Lời Chúa và thứ hai là Mình Máu thánh Chúa.
Món thứ nhất: Lời Chúa.
Có thể gọi đây là đặc sản của thiên đàng.
Đây là kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa, được Chúa Giê-su mang từ trời xuống ban phát cho thế gian. Đây là Lời hằng sống, là lương thực thiêng liêng mang lại an vui đời này và hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Không có thứ lương thực nào trên thế gian có thể sánh ví được.
Nhờ hấp thụ lương thực thiêng liêng này, nhiều người trên thế giới trải qua các thời đại được trở nên tốt lành, thánh thiện, đạo đức, nhân hậu, bao dung, quảng đại, sẵn sàng hiến dâng thân mình phục sự Thiên Chúa và phục vụ mọi người, điển hình là các thánh nam nữ đang được Giáo hội tôn vinh.
Món thứ hai là lương thực nhiệm mầu mà ngay cả các thiên thần cũng không được thưởng thức, đó là Mình Máu thánh Chúa Giê-su. Nhờ lương thực thiêng liêng và thần diệu này, các tín hữu được lãnh nhận nhiều hồng phúc vô cùng cao quý. Cụ thể là khi rước Chúa vào lòng, chúng ta nhận được hai hồng ân vô giá:
– Một là được kết hợp nên một với Chúa Giê-su, tan hòa vào Chúa Giê-su như ao nước nhỏ hòa chung với đại dương bao la. Nhờ đó, Chúa với ta không còn là hai nhưng chỉ là một, như lời Chúa phán: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở trong tôi và tôi ở trong người ấy” (Ga 6, 56).
Người phàm hèn mọn mà được nên một với Chúa, ở trong Chúa, cùng chung huyết nhục với Chúa Giê-su thì thật là nhiệm mầu và vô cùng diễm phúc!
– Hai là được sống đời đời với Chúa Giê-su.
Một khi đã được hòa chung nên một với Chúa Giê-su, thì sự sống thần linh, sự sống tuyệt vời, sự sống muôn đời của Chúa Giê-su sẽ được thông truyền qua cho chúng ta, y như sự sống toàn thân chuyển qua cho từng chi thể nhỏ. Thế là ta được mang sự sống đời đời của Chúa Giê-su trong thân xác mình; thế là ta sẽ được chung hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa trên thiên quốc, như lời Ngài phán: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6, 54).
Thế rồi, Chúa Giê-su tha thiết kêu mời mọi người từ muôn phương đến dự bàn tiệc cao quý Ngài thiết đãi.
Tiếc thay,
Nhiều người thích nghe những chuyện tào lao mà không muốn nghe những điều khôn ngoan đích thực.
Người ta khao khát của cải vật chất mà không quan tâm đến những giá trị tinh thần.
Người ta tìm kiếm lương thực giúp sống qua ngày mà chẳng thiết gì lương thực mang lại sự sống vĩnh hằng mai sau.
Vì thế, họ không màng gì đến tiệc thánh của Chúa Giê-su!
Thế là Chúa Giê-su, Người chủ tiệc, bị bẽ mặt, buồn phiền và cảm thấy bị xúc phạm.
Lạy Chúa Giê-su,
Nếu Chúa khoản đãi những bữa ăn chỉ giúp người ta sống qua ngày và kêu mời khách tứ phương đến tham dự thì phòng tiệc sẽ chật ních người và ngày nào thiên hạ cũng chen chúc tìm đến.
Tuy nhiên, khi Chúa dọn tiệc thánh, tiệc thần linh để cho những ai hưởng dùng thì được hấp thụ sự khôn ngoan đích thực bởi trời và được sống đời đời hạnh phúc với Chúa thì chỉ có ít người tham gia.
Xin cho chúng con biết quý trọng lương thực trường sinh hơn là thức ăn hư nát đời này, đừng viện đủ lý do để từ chối bữa tiệc của Chúa, nhưng thường xuyên đến tham dự tiệc thánh để được hưởng muôn vàn phúc lộc. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Matthêu 21,23-27, kể chuyện Chúa Giêsu tranh luận với giới lãnh đạo Do thái: “Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi ‘Ông lấy quyền nào mà làm các việc ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?’”.
Sau cuộc đối thoại với những kẻ tự bưng tai, che mắt, bịt miệng, Chúa lay tỉnh họ bằng ba dụ ngôn để vạch trần tâm địa của họ và cho họ biết cái gì chờ họ ở cuối con đường họ đang đi.
Dụ ngôn thứ nhất (Mt 21,28-32): suy niệm Chúa Nhật 26.
Dụ ngôn thứ hai (Mt 21,33-46): suy niệm Chúa Nhật 27.
Dụ ngôn thứ ba (Mt 22,1-14): suy niệm Chúa Nhật 28. Dụ ngôn tiệc cưới. Dụ ngôn này có hai mũi dùi: mũi dùi thứ nhất tiếp tục chĩa vào những kẻ được mời trước mà không thèm đến dự (cùng họ với người con thứ hai trong dụ ngôn thứ nhất và bọn tá điền coi vườn nho trong dụ ngôn thứ hai). Mũi dùi thứ hai, một trong những kẻ đầu đường xó chợ đã được vào thế chỗ dự tiệc nhưng lại không mặc áo cưới, chĩa vào những người đã tin, đã gia nhập Hội Thánh nhưng lại không sống đời sống mới. Đó là lời cảnh báo: Hội Thánh không phải là hãng bảo hiểm sinh mạng vô điều kiện, phép rửa không phải bùa hộ mệnh nhưng là khởi đầu một cuộc sống mới, và Hội Thánh là bàn tiệc Nước Trời ngay bây giờ cho những ai muốn thật sự theo Chúa Giêsu, mặc lấy Chúa Kitô nên đồng hình đồng dạng với Người (x.Cl 2-3; Pl 3; Ep 3-6), nhờ Lời Chúa và các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể nuôi dưỡng.(x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Matthêu, Lm Nguyễn Công Đoan. SJ).
Tiệc cưới
Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh tiệc cưới, vị vua tổ chức cho hoàng tử. Đây là một đại yến tiệc hoàng gia. Khách được mời là cấp hoàng tộc, giới thượng lưu và có địa vị cao trong xã hội. Tuy nhiên, những vị khách quý này đã tỏ ra khinh thường và hung bạo đối với các sứ giả nhà vua. Không những họ từ chối lời mời, mà còn nhục mạ và sát hại những người được vua phái đến. Vua tức giận trừng phạt những con người hung ác kia và cho gia nhân ra các ngả đường mời bất cứ ai, bất luận tốt xấu, đến dự tiệc và phòng tiệc chật ních khách mời. Qua dụ ngôn Tiệc Cưới, Chúa Giêsu tỏ rõ cho người Do thái biết rằng, họ chính là dân tộc được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, là khách mời đặc biệt của bữa tiệc Nước Trời. Nhưng khi Chúa Giêsu đến, loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ, thì họ lại khước từ. Vì thế, Israel đã được thay thế bằng các dân tộc khác, kể cả những người ngoại giáo và tội lỗi. Bữa tiệc được mở rộng đến mọi người, mọi dân tộc, mọi quốc gia trên thế giới.
Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Thời nay, những người tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Thiên Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật. Có người nhân danh đạo tại tâm để từ chối dự lễ Chúa nhật. Có người viện lý do ghét người này người nọ để từ chối việc đến nhà thờ. Bên cạnh những người bỏ đạo còn có những người lấp lửng nửa vời. Họ nại vào lý do “có thực mới vực được đạo”. Họ không đi lễ vì phải lo kế sinh nhai, cơm áo gạo tiền. Khi rãnh mới đi lễ… Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh hoạt xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự thánh lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.
Thánh lễ chính là Tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa thết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Mọi sinh hoạt Kitô giáo đều bắt nguồn và đặt nền nơi Thánh lễ ngày Chúa Nhật.Tham dự Thánh lễ Chúa Nhật là một bằng chứng trung thành với Chúa Kitô và với Hội Thánh, đồng thời các tín hữu hiệp thông với nhau trong tin yêu, nâng đỡ và khuyến khích nhau. Thu xếp công việc, dành ưu tiên cho Chúa, hân hoan dự bàn tiệc Thánh Thể. Khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.
Tham dự Thánh lễ là bổn phận trước tiên và chủ yếu để thánh hóa ngày của Chúa, người tín hữu dành Chúa nhật cho những việc hữu ích và cần thiết khác theo ý muốn của Chúa. “Chúa Nhật và các lễ buộc khác, tín hữu buộc phải tham dự Thánh lễ; lại nữa, phải kiêng những việc làm, và những hoạt động làm cản trở việc thờ phượng Thiên Chúa, niềm vui riêng trong ngày của Chúa, hoặc việc nghỉ ngơi tinh thần và thể xác cần phải có” (GL 1247). Thời giờ ngày Chúa Nhật cũng có mục đích dành để sống với gia đình, trau đổi văn hóa nghệ thuật cũng như đạo đức, và để thăm viếng bạn bè, nhất là đến với những bệnh nhân, tàn tật, già yếu, cô đơn. “Mỗi người cần được hưởng đầy đủ sự nghỉ ngơi và thời giờ nhàn rỗi, để sống đời sống gia đình, văn hóa, xã hội và tôn giáo” (MV 67).
Áo cưới
Đỉnh cao của dụ ngôn chính là vấn đề “y phục lễ cưới”. Ý nghĩa đạo đức hay luân lý của hình ảnh “y phục lễ cưới”: trách nhiệm luân lý, lương tâm ngay thẳng, những việc đạo đức và bác ái… Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo, trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.
Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh Tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”
Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, các Kitô hữu mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ lòng kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng với bản thân mình. Mỗi lần tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi, đó là y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin cậy mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.
Từ Bàn Tiệc Thánh Thể hàng ngày, chúng ta sẵn sàng cho mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời. Trước khi được dự tiệc cánh chung, bữa tiệc Thiên quốc, mỗi ngày Chúa cho chúng ta được hưởng nếm tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể. Nơi đó, không những Chúa trao ban Lời Ngài, mà còn ban chính Thịt Máu Ngài để nuôi sống chúng ta. Qua bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta được qui tụ lại trong tình hiệp nhất yêu thương. Hãy đến với Chúa Thánh Thể để được lãnh nhận lương thực thiêng liêng cho tâm hồn mỗi ngày, miễn là chúng ta biết cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới trong Đức Kitô. Hãy gìn giữ chiếc áo trắng tinh tuyền ngày chịu phép Thánh Tẩy, “chiếc áo cưới” tượng trưng cho tâm hồn trong sạch giúp chúng ta xứng đáng được Thiên Chúa đón nhận vào dự tiệc Nước Trời mai sau.
CHẤP NHẬN LỜI MỜI DỰ TIỆC NƯỚC TRỜI
Lm Trần Bình Trọng
Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người mang đặc tính của bữa tiệc cưới. Mỗi giao ước giữa Thiên Chúa với loài người trong Thánh kinh Cựu ước được hiểu và cắt nghĩa theo hình ảnh hôn nhân trong tiệc cưới.
Giao ước giữa Thiên Chúa và dân được chọn trong Cựu ước đi song song với giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo hội trong Tân ước. Trong mối giao ước giữa Thiên Chúa và dân được chọn, Thiên Chúa được coi như vị hôn phu, còn dân riêng được coi như người hôn thê. Hình ảnh hôn nhân cũng được thánh Phaolô và thánh Gioan dùng để so sánh mối liên hệ giữa Chúa Kitô, được ví như vị hôn phu và Giáo hội, được coi là hôn thê (2 Cr 11:2; Ep 5:22; Kh 19:7-9; 21:2; 22:17).
Dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử ghi lại những phản ứng khác nhau trước lời mời gọi đến dự tiệc cưới. Mời ai đến dự tiệc cưới là mong mỏi người ấy đến bàn tiệc. Tuy nhiên số khách được mời đợt đầu từ khước đến dự tiệc cưới. Lần thứ hai nhà vua lại sai đầy tớ đi khẩn khoản mời khách đến dự tiệc, nói với họ: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn sàng. Mời quí vị đến dự tiệc cưới (Mt 22:4). Tiệc cưới hôm nay có liên hệ đến bữa tiệc vui nước Trời mà ngôn sứ Isaia đã viễn kiến: Bữa tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế (Is 25:6).
Khi khách được mời dự tiệc từ chối, thì ông vua cho mời bất cứ ai vào tiệc cưới. Tuy nhiên khi vào phòng tiệc, ông vua bắt gặp một người không bận áo cưới và ra lệnh tống ngục anh ta. Làm sao ông vua có thể hy vọng người đang ở ngoài đầu đường xó chợ được mời vào dự tiệc cưới có thể bận quần áo thích hợp cho tiệc cưới được? Ông lại không đòi hỏi quá đáng chăng? Tuy nhiên theo phong tục Do thái thời bấy giờ, thì đôi khi nhà trai cung cấp vải cho khách được mời đến dự tiệc để họ tự may áo cưới. Chủ tiệc cưới cũng có thể may y phục tiệc cưới treo sẵn ngoài cửa phòng tiệc cưới cho khách vào bận. Nếu không biết có phong tục này thì người ta cho rằng ông vua đòi hỏi cách quá đáng và vô lí. Tuy nhiên theo đa số các học gỉả Thánh kinh thì có lẽ mẩu chuyện người khách không bận áo cưới là phần kết của câu chuyện khác, được thánh sử Mát-thêu lồng vào làm một với dụ ngôn dự tiệc cưới, nên khi đọc tiếp, nghe có vẻ đột ngột và khó hiểu.
Dầu sao đi nữa dụ ngôn mời dự tiệc cưới cho thấy nếu đã chấp nhận lời mời thì người ta phải theo phong tục dự tiệc cưới, một phong tục mặc áo cưới mà hầu như được coi như là luật lệ. Ai không bận là tỏ ra khinh chủ, là lỗi phong tục tiền nhân. Vì thế mà khi bị chủ vặn hỏi tại sao một người không bận y phục lễ cưới, người ấy thinh lặng vì không tìm được lý do bào chữa như nhà nghèo, không tiền may sắm, hoặc đang ở ngoài đồng không kịp về nhà thay quần áo cưới.
Theo cốt chuyện dụ ngôn thì tiệc cưới ám chỉ bàn tiệc nước Trời; nhà vua ám chỉ Thiên Chúa; con nhà vua ám chỉ Ðấng Cứu thế; đầy tớ chỉ về các ngôn sứ và các tông đồ; khách từ chối dự tiệc cưới ám chỉ dân được chọn trong Cựu ước; thành phố bị tàn phá ám chỉ Giêrualem bị phá huỷ năm bảy mươi. Cũng như trong dụ ngôn tá điền gian ác, vườn nho được trao cho tá điền khác là dân ngoại, thì trong dụ ngôn tiệc cưới, khách ngoài đường là dân ngoại và người tội lỗi cũng được mời vào dự tiệc cưới.
Y phục lễ cưới ở đây được hiểu theo nghĩa bóng là người được mời dự tiệc cưới nước Trời phải bận quần áo thích hợp cho cơ hội. Người được mời dự tiệc phải tỏ ra dấu hiệu nào đó là họ chấp nhận lời mời gọi một cách nghiêm chỉnh. Họ phải hội đủ những tiêu chuẩn, những đòi hỏi nào đó của Phúc âm. Áo cưới thích hợp họ phải bận là áo đức tin vào Ðức Kitô.
Tiệc cưới nước Trời được dành ưu tiên cho dân được tuyển chọn trong Cựu ước. Tuy nhiên dân được chọn lại coi thường, không đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa qua các ngôn sứ của Người. Gioan tiền hô, vị ngôn sứ cuối cùng trong Cựu ước đến kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối để dọn đường cho Ðấng Cứu thế, thì họ giả điếc. Khi Ðấng Cứu thế đến, thì họ tẩy chay Người. Và khi dân được chọn từ khước, thì lời mời gọi dự tiệc cưới được gửi đến cho hết mọi người ở các ngả đường. Ðiểm này nói lên lòng quảng đại của đức vua. Tuy nhiên không phải vì thế mà việc vào ngồi bàn tiệc cưới không có điều kiện. Ðiều kiện vào ngồi bàn tiệc cưới là bận áo cưới.
Lời mời gọi dự tiệc cưới nước Trời cũng được tiếp tục gửi đến vô số người từ khi Giáo hội được thiết lập trong những hoàn cảnh và thời điểm khác nhau. Hôm nay mỗi người cần tự vấn lương tâm xem mình đang đáp trả laị lời mời gọi của Chúa như thế nào?
Lời cầu xin cho được tham phần vào bàn tiệc cưới nước Trời:
Lạy Chúa, chúng con xin cảm tạ Chúa
đã chiếu cố đến tổ tiên chúng con là dân ngoại.
Qua bí tích Rửa tội, Chúa đã kêu mời
tổ tiên chúng con đến tham dự tiệc cưới của Hoàng Tử.
Do đó con cũng được thừa hưởng phúc ấm của tổ tiên.
Xin cho con được trung thành với đức tin mà con đã lãnh nhận
để con được tham phần vào bàn tiệc nước Trời. Amen.
Trầm Thiên Thu
Cuối tháng 09 năm 2020, khi Việt Nam bớt lo về dịch corona thì vẫn có những thứ đáng quan ngại khác. Một trong các mối quan ngại đó là cách cư xử ác ý của con người, cụ thể là cô gái trẻ Cà Thị Út (24 tuổi) đã nhẫn tâm “bom” 150 bàn tiệc cưới tại một nhà hàng ở P. Mường Thanh, TP. Điện Biên Phủ, mỗi bàn giá 1.350.000 đồng, hẹn tổ chức vào trưa ngày 30-09-2020. Nhưng rồi cô ta “biến mất” và không một thực khách nào tới. Đại tiệc hóa đại họa. Một cô gái trẻ người mà quá nhẫn tâm!
Chắc hẳn không ngẫu nhiên mà người Việt có câu: “Ăn có mời, làm có khiến.” Ở đây không có ý tiêu cực hoặc thụ động, mà có ý nói phép lịch sự tối thiểu trong giao tiếp thường nhật, và người ta cũng so sánh: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ.” Ai cũng đã từng đi dự tiệc, dù là trẻ em, vì xã hội càng phát triển, người ta càng có nhiều loại tiệc: Cưới hỏi, tân gia, đầy tháng, thôi nôi,… Không mặn nhiều cũng mặn ít, đơn giản nhất cũng là tiệc trà. Phú quý sinh lễ nghĩa, trẻ em ngày nay cũng thích tổ chức sinh nhật để có dịp vui với bạn bè. Có lẽ tiệc cưới là loại tiệc phổ biến – từ thành thị tới thôn quê.
Đám tiệc thì phải có ăn uống. Đó cũng là cách người ta mặc nhiên cho rằng “chuyện ăn uống” là vấn đề quan trọng, “ăn uống” chứ không “ăn uổng.” Thành ngữ có câu: “Dân dĩ thực vi tiên.” Ý nói nhân dân coi vấn đề ăn là vấn đề to lớn nhất, cơ bản nhất trong cuộc sống (tr. 123, “Từ điển Thành ngữ Điển cố Trung quốc,” GS Lê Huy Tiêu biên dịch, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993). Câu đó có nguồn gốc từ một câu trong Hán Thư: “Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên” – Vua chúa lấy dân làm trời, nhân dân lấy (cái) ăn làm trời. Quả thật, ăn là vấn đề cần thiết, vì liên quan vấn đề sinh tồn. Ăn uống thể hiện văn hóa, đó là bài học thứ nhất trong bốn thứ phải học đầu tiên: Học ĂN, học NÓI, học GÓI, học MỞ. Có thể nói rằng miếng ăn cần thiết tương tự khí trời để hít thở, như điều kiện “ắt có và đủ” vậy. Tuy nhiên, miếng ăn có thể khiến người ta vinh dự hay nhục nhã.
Ai cũng phải cố gắng chịu đựng khi gặp đau khổ thì mới có thể hy vọng hạnh phúc sẽ đến sau. Các vị tử đạo đã không sợ đau khổ, dám thí mạng vì niềm tin vào Đức Kitô, và họ được Thiên Chúa thưởng công. Hai người yêu nhau, chung thủy và tin tưởng trong khoảng chờ đợi nhau, hạnh phúc sẽ mỉm cười với họ. Ai kiên trì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có công mài sắt, có ngày nên kim. Khổ luyện là điều tất yếu.
Thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia cho biết: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.” (Is 25:6) Toàn là cao lương mỹ vị, rất ngon, đáng mơ ước lắm. Không chỉ vậy mà còn hơn thế nữa, niềm vui khả dĩ nhân đôi: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người.” (Is 25:7-8) Thiên Chúa hứa như vậy, và chắc chắn như thế: “Đường lối Thiên Chúa quả là toàn thiện, lời Đức Chúa hứa được chứng nghiệm tỏ tường.” (2 Sm 22:31a)
Thật vậy, ngày ấy người ta sẽ cùng nhau râm ran: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.” (Is 25:9) Tất cả rạch ròi, hai năm rõ mười: “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ. Còn Mô-áp sẽ bị giày đạp ngay tại chỗ, như rơm bị nghiền nát trong hố phân.” (Is 25:10)
Đức tin là một hồng ân, và cũng là một nhân đức. Tin Chúa là có Chúa trong lòng, có Chúa rồi thì chẳng còn gì phải bồi hồi, xao xuyến: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Thật vậy, một lần khác, Thánh Vịnh gia cũng đã xác định: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay.” (Tv 37:5) Đó là hành động của đức tin, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng và tiền định. Những người thực sự tín thác vào Chúa thì chẳng có gì khiến họ lo lắng, sợ hãi, vì họ luôn hướng về Chúa, mọi nơi và mọi lúc, như Thánh Vịnh gia xác định: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23:4)
Kinh Thánh nói: “Như cột kèo chắc chắn trong toà nhà, dù động đất cũng chẳng lung lay; một tâm hồn cương quyết theo kế hoạch đã định, gặp thời vận hạn cũng không nao núng.” (Hc 22:16) Sau gian truân, thử thách, đau khổ, người trung tín sẽ được Thiên Chúa tuyên dương công trạng: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.” (Tv 23:5) Hạnh phúc biết bao, chắc hẳn không ai có thể hoãn lại cái sự sung sướng đó, mà phải bày tỏ cho người khác biết: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:6) Sự thật không thể giấu giếm, niềm vui không thể đè nén.
Giống như Thánh Phaolô, các tín nhân sẵn sàng chấp nhận mọi thứ mà không đòi hỏi: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải.” (Pl 4:12-14) Đối với những người có đức tin vững mạnh, chắc chắn không có gì có thể tách rời họ khỏi tình yêu của Đức Kitô, (x. Rm 8:35) bởi vì họ luôn tâm niệm lời Ngài nhắn nhủ và động viên: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian!” (Ga 16:33)
Có ý động viên người khác, Thánh Phaolô nói rõ ràng với niềm tín thác kiên định: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu. Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta, đến muôn thuở muôn đời! Amen.” (Pl 4:19-20) Và Thánh Vịnh gia cũng mời gọi mọi người: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9) Chắc chắn bất cứ ai đã ít nhiều cảm nghiệm sự ngọt ngào của Chúa thì cách sống của họ cũng hoàn toàn khác. Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người đến với Ngài, bất cứ lúc nào, càng sớm càng tốt.
Dụ ngôn “tiệc cưới” (Mt 22:1-14 ≈ Lc 14:15-24) là cách thể hiện lời mời gọi chân thành của Thiên Chúa dành cho mọi người – không trừ ai. Thực sự Ngài muốn con người hoàn thiện để xứng đáng hưởng phúc trường sinh mà Thiên Chúa dành cho những ai tin nhận và tôn thờ Ngài.
Kể dụ ngôn là đặc điểm mỗi khi Chúa Giêsu giảng thuyết. Chính Chúa Giêsu đã nói với dân chúng về dụ ngôn Tiệc Cưới. Ngài nói rằng Nước Trời giống như chuyện một ông vua mở tiệc cưới cho con mình. Ông sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, nhưng họ không chịu đến. Ông lại sai gia nhân đi mời quan khách đã được mời, nói rõ rằng cỗ bàn đã dọn xong, cao lương mỹ vị đã sẵn. Nhưng họ viện đủ cớ bận rộn để thoái thác: thăm trại, buôn bán,… thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, sỉ nhục và sát hại họ.
Nhà vua nổi cơn thịnh nộ khi nghe tâu lại, ông liền sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng, rồi ông nói với đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã ĐƯỢC MỜI lại KHÔNG xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, mời mọi người đến dự tiệc cưới, bất kể họ là ai.
Theo phong tục Do Thái, tiệc cưới thường đãi ban đêm, và có phòng cho mọi người thay lễ phục rồi mời vào phòng tiệc. Đến giờ cử hành hôn lễ, nhà vua tiến vào, quan sát và chợt thấy có một người KHÔNG mặc y phục lễ cưới, nhà vua hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy cúi đầu lặng thinh, không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” Thật đáng quan ngại!
Chúa Giêsu đã cảnh báo điều đó. Phải chăng chỉ ít người được vào Nước Trời? Rất có thể. Bởi vì người ta chỉ “giật mình” khi nghe lời Chúa “chạm” đến chính mình, nhưng rồi đâu lại vô đó. Con người vốn yếu đuối, dễ “lờn thuốc,” không cố gắng thì “ngựa quen đường cũ,” lại sa đà ngay thôi. Có phải chúng ta được “cài đặt” mặc định với cái tên “Nguyễn Y Vân” (vẫn y nguyên) hoặc “Vũ Như Cẩn” (vẫn như cũ) chăng? Người ta thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời.” Thực sự rất khó để “cởi bỏ” con-người-cũ để có thể “mặc lấy” con-người-mới. Xuống dốc “khỏe” hơn leo dốc. Vì thế mà phải tỉnh thức và nỗ lực rất nhiều, nỗ lực triền miên và không ngừng. Ước gì chúng ta được có tên trong danh sách “số ít được chọn” ấy. Đó mới là niềm vui đích thực của tín nhân.
Là tín hữu Công giáo, chúng ta luôn được mời gọi tham dự hai bữa tiệc: Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Thật vậy, trong mỗi Thánh Lễ, linh mục đại diện Chúa Giêsu vẫn tha thiết mời gọi: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.” Thật là diễm phúc nếu chúng ta đón nhận chính Đức Giêsu Kitô vào lòng để được hòa tan vào Ngài, tâm sự với Ngài. Sau rước lễ, nên dành những giây phút quý giá và hiếm hoi để “hòa tan” vào Đức Giêsu Kitô – hòa tan cả linh hồn và thể lý. Chúa Giêsu muốn ở gần chúng ta – không rời dù chỉ trong tích tắc – nên Ngài mới thiết lập Bí tích Thánh Thể, đúng như Ngài đã nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20)
Tình yêu của Chúa Giêsu quá lớn lao, chúng ta không đủ mức để hiểu thấu. Câu nói đó là lời hứa của Chúa Giêsu, cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, và cũng chỉ có Phúc Âm này ghi lại câu này. Mọi điều Chúa hứa đều ứng nghiệm chính xác: “Ai kính sợ Người, Người ban phát của ăn; giao ước đã lập ra, muôn đời Người nhớ mãi.” (Tv 111:5)
Lạy Thánh Phụ chí thánh, xin cảm tạ Ngài đã ban Thánh Tử Giêsu cho chúng con, xin giúp chúng con biết chuẩn bị “áo cưới” để xứng đáng tham dự Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể, nhất là Đại Tiệc Thiên Quốc vĩnh hằng. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết siêng năng kết hiệp với Ngài và được sống dồi dào, (Ga 10:10) xin giúp chúng con nhận thức rằng không có Ngài thì chúng con không thể làm được gì. (Ga 15:5) Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Thánh Phụ với Thánh Thần muôn đời, và là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 28 TN_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Với hình ảnh bữa tiệc, các ngôn sứ mô tả niềm vui tương lai mà những người công chính được hưởng trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc vào thời cánh chung, đồng thời ơn cứu độ được thực hiện cho muôn dân nước vào thời thiên sai. Bàn tiệc cánh chung và bàn tiệc thiên sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.
Is 25: 6-9
Trong đoạn trích “khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân là bàn tiệc cánh chung. Đây là niềm vui của những người được tuyển chọn, theo đó mọi đau khổ và sự chết hoàn toàn biến mất trong Thiên Quốc.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tâm tình tri ân đối với cộng đoàn Ki-tô hữu này. Trái với thông lệ của mình, ngài đã chấp nhận sự trợ giúp vật chất của họ khi ngài gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng là dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử mà Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách của mình. Những quan khách được mời lại từ chối. Lời mời được gởi đến cho tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Bản văn này bao gồm các chương 24-27, đây là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại “sấm ngôn khải huyền”. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn này không phải là ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau này.
Viễn cảnh là thời cánh chung hòa lẫn với viễn cảnh thời thiên sai. Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân, diễn tả ơn cứu độ phổ quát cũng như niềm vui chan chứa của những người được tuyển chọn.
- Viễn cảnh thời cánh chung
“Ngày ấy, trên núi này,
Thiên Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc”.
“Trên núi này”, đó là núi Xi-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Xi-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi” (Is 2: 1-5).
Cũng được chính vị ngôn sứ này nhắc lại:
“Vầng ô thẹn mặt, bóng nguyệt hổ mày,
vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị
trên núi Xi-on và tại Giê-ru-sa-lem” (24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một viễn cảnh như thế (Dcr 8: 20-23). Thời cánh chung sẽ là thời điểm Đức Chúa ngự trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc hoàng gia. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề này trong dụ ngôn “tiệc cưới hoàng gia” (Mt 22: 1-14).
Trong bữa tiệc này, thức ăn và thức uống đều hảo hạng:
“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,
thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế”.
Phẩm chất hảo hạng của bữa tiệc thắp sáng tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với khách mời. Cho đến lúc đó, trong các hy lễ “thịt béo” luôn luôn được dành riêng dâng lên Thiên Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp này, “rượu ngon” là niềm vui vĩnh viễn:
“Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân,
và tấm màn liệm bao trùm muôn nước.
Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần”
Sách Khải Huyền của thánh Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chan chứa hy vọng này: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
- Viễn cảnh thời thiên sai
Sấm ngôn hoàn tất với bài ca cảm tạ tri ân về những thiên ân chưa từng được ban cho và một niềm tin tưởng vô bờ:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ.
Chính Người là Đức Chúa, chúng ta từng đợi trông.
Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ’”.
Niềm vui tròn đầy, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu thời thiên sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, dấu chỉ của bữa tiệc thiên sai đích thật: bữa tiệc thánh thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20)
Đoạn trích thư hôm nay là phần kết thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê.
- Chấp nhận sự trợ giúp của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê
Xin nhắc lại, thánh nhân viết bức thư này khi ngài đang sống trong cảnh giam cầm hoặc ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ thánh nhân trong hoàn cảnh bị giam cầm, vả lại đây không là lần đầu tiên (x. Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn duy nhất mà thánh nhân đã không từ chối giúp đỡ vật chất. Thánh nhân luôn bận lòng là không bao giờ trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không, như “đầy tớ” của Đức Ki-tô, Đấng không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính đôi tay của mình để cung cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12).
Tuy nhiên, do mối thân tình và niềm tin tưởng của thánh nhân đối với các tín hữu Phi-líp-phê, ngài chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành của họ đối với ngài.
- Hài lòng trong mọi hoàn cảnh
Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Épictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết này múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Ki-tô, Đấng sống trong thánh nhân.
Vị sứ đồ muốn các tín hữu hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai, ngài quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô” (1Cr 9: 12).
- Cám ơn tấm lòng của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê
Thánh Phao-lô bày tỏ lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời này: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ (các tín hữu Phi-líp-phê) vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3).
Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ từ bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói về các tín hữu Phi-líp-phê như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối thư, thánh nhân ngỏ lời trước hết với “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó với “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14)
Dụ ngôn này cùng với hai dụ ngôn đi trước: dụ ngôn hai người con và dụ ngôn những tá điền gian ác, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: lương dân thay thế dân tuyển chọn, dân bất trung với sứ mạng của mình. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: trong dụ ngôn tiệc cưới, dấu nhấn được đặt trên ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn này chứa đựng hai bài học: bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung, cả hai viễn cảnh này rất thường được đặt chồng lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
- Bàn tiệc thời thiên sai (22: 1-7)
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, “Đức Vua” đại diện Thiên Chúa, “Người Con” đại diện Đấng Cứu Thế, và “tiệc cưới hoàng gia” là giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Các quan khách được đức vua ưu ái gởi thiệp mời trước, sau đó sai đầy tớ đến nhắc lại, không thèm đếm xỉa tới giao ước mới này, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Vài quan khách còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và giết chết các gia nhân của vua.
Họ chẳng những không đáp trả lời mời dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội, nhưng còn bách hại các gia nhân mà vua sai đến với họ, vì thế “nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”. Trong bối cảnh Kinh Thánh, cách hành xử của nhà vua như thế là những án phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ gian ác này, nhưng ở đây dường như là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 Công Nguyên bởi đạo quân Rô-ma.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc màu da, tốt xấu, được mời gọi thay thế dân Ít-ra-en bất trung: “Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Sự chọn lựa giữa người tốt kẻ xấu sẽ xảy ra sau này vào thời cánh chung như trong dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng hay trong dụ ngôn chiếc lưới.
Trong cùng một câu chuyện của mình, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Đức Giê-su ưu ái đặc biệt, họ đã hoan hỷ tiếp đón Tin Mừng và đã dự phần vào niềm vui thiên sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người này.
- Bàn tiệc thời cánh chung (22: 8-14)
Từ bàn tiệc thời thiên sai, dụ ngôn chuyển sang bàn tiệc thời cánh chung. Có sự khác biệt đáng kể giữa bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung. Trong bàn tiệc thời thiên sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi (không phải lời mời gọi của Đức Giê-su đặc biệt ngỏ lời với những người tội lỗi sao?). Trái lại, trong bàn tiệc thời cánh chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép tham dự khi mặc y phục của những người công chính.
Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn của đức vua: “Này bạn”, luôn hàm chứa sắc thái khiển trách như chủ vườn nho nói với tá điền của giờ thứ nhất: “Này bạn”, hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa đến bắt Ngài: Này bạn”.
Làm thế nào có thể trách cứ người khách này không mặc y phục lễ cưới khi mà anh được mời vào dự tiệc cưới bất ngờ từ ngoài đường? Tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Một tập tục như vậy không được chứng nhận ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thật sự rõ ràng: không ai được phép dự phần vào bàn tiệc Nước Trời, nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi Tin Mừng như lời dạy của thánh Phao-lô: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27). Mặc lấy Đức Ki-tô, chính là: “Phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4: 22-24).
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, rõ ràng không ăn khớp với phần thứ hai của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời cánh chung, trong đó một số lượng lớn khách được mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn câu cuối này liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời thiên sai, trong đó một ít người dân Ít-ra-en, dân tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thiên sai, khi so sánh với muôn dân nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng, tham dự bàn tiệc thiên sai, gia nhập Giáo Hội.
Lm. Jos DĐH.
Cuộc sống mỗi người được ví như cuốn sách: kẻ không bình thường ngáo ngán muốn lật giở sang trang cho mau lẹ, các vị khôn ngoan vừa đọc vừa suy gẫm, người tài cao đức rộng không những nghiền ngẫm, mà còn sớm đem cái biết của mình ra thực hành. Người nói hay gặp kẻ nghe giỏi thì quả là hết ý, hiểu biết rồi sống tốt, sống đẹp, đời này còn gì hạnh phúc hơn. Đến, đi, ki cóp và thụ hưởng, có phải đó là bức tranh cuộc sống quá phức tạp: thiên hạ ồn ào vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi. Người ta không nghe, không hiểu, dửng dưng với lời hay ý đẹp, chưa chắc đã phải vì trầm cảm, đúng hơn vì họ bận tâm đến nhu cầu khác.
Xã hội từ xa xưa vẫn hiểu rằng, đi ăn tiệc cưới là cùng chia sẻ hạnh phúc với gia chủ, gọi là nợ đồng lần, nay người mai ta ; đồ ăn thức uống của chúa hay của chùa, luôn được coi là dồi dào vô tư, ai nhanh kẻ ấy có. Được mời gọi đến dự tiệc cưới “hoàng tử”, mấy ai không hiểu đó là vinh dự. Im lặng không đáp lời các đấng bậc sinh thành đã là xúc phạm, từ chối không hưởng ứng lời kêu gọi của vua chúa quan quyền là trọng tội, đáng chết. Cuộc sống trớ trêu: người khôn cho rằng đời là một giấc mơ, kẻ dại quan niệm đời là cuộc vui chơi, người nghèo hiểu cuộc đời là một bi kịch, kẻ giầu sang cho rằng sống là phải ăn, phải hưởng thụ. Tuỳ tự do mỗi người, nghe lời yêu thương, sống lời yêu thương, chính là đáp lại lời mời dự tiệc Nước-trời cách hữu hiệu nhất.
Dẫn lời yêu thương bằng dụ ngôn nhà vua tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử, Chúa Giêsu diễn tả Nước-trời thật “tưng bừng” như đại tiệc: thịt béo rượu ngon luôn sẵn sàng. Nước-trời rộng mở cho mọi đối tượng, ai cũng vinh dự được mời tiến vào, dù đến hưởng phúc phải tuân thủ qui định: “mặc áo cưới”. Lời yêu thương rất cụ thể của người đói khát cơm bánh, là cần được no bụng, lời yêu thương đối với học sinh, sinh viên, là kiến thức, là bằng cấp, với người đau bệnh, lời yêu thương nhất là gặp được thầy được thuốc. Lời yêu thương mà Chúa Giêsu muốn chúng ta nghe, hiểu: “này cỗ bàn đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn sàng, mời quý vị đến dự tiệc”.
Hạnh phúc Nước-trời sẽ gần sát và thực tế hơn, khi ta nghe được lời yêu thương, ta biết buông bỏ những ham hố sự đời, bỏ cái tôi ích kỷ, hầu minh chứng một niềm tin Thiên Chúa Đấng giầu lòng xót thương. Cũng vì đeo đuổi thứ hạnh phúc chóng qua, bỏ mồi bắt bóng, người ta đánh mất mình, mất cả vinh dự được hưởng nếm bàn tiệc với triều thần. Vì cường độ tin yêu chưa đủ mạnh, nguy cơ ngã gục bởi tiền tài danh vọng cuốn hút, rồi lỡ hẹn với các đấng bậc, không thể nói lời yêu thương, dù là lời yêu nhỏ, tình thương bé. Vấn nạn mà bậc sinh thành từ xa xưa hằng “lăn tăn”, thế nào là yêu con yêu cháu, đâu là phương pháp giáo dục đúng, chuẩn ? Con đường đi đến thành công, chỉ cần tự tin, đầu tư đúng chỗ, đúng thời điểm. Thành quả của việc giáo dục con cháu, không phải là tài giỏi, mà hệ tại gương sáng, lời nói, việc làm.
Dụ ngôn nhà vua tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử, sẽ là câu trả lời cho muôn thế hệ: “hiểu và sống lời yêu thương”, nhất thiết phải được minh chứng bằng hành động . “Tiệc cưới đã sẵn sàng, mà những kẻ được mời không đến, vậy các ngươi hãy ra các nẻo đường gặp ai cũng mời vào hết. Đầy tớ theo ý chủ liền ra đi, gặp ai bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách”. Thực ra, lo lắng cơm áo gạo tiền là trách nhiệm, là bổn phận, nghỉ ngơi, mua sắm, là nhu cầu riêng tư, không ai bắt tội. Bỏ qua lời yêu thương của Thiên Chúa, từ chối không đáp lại lời mời tham dự bàn tiệc Nước-trời, là dại dột, là đáng chết. Đặt mình vào hoàn cảnh của dụ ngôn, liệu ta có đủ khôn, đủ ý chí, phân biệt thật giả, chiến thắng bản thân, thắng những vinh hoa phú quý ở đời không ?
Nếu có, nghe, hiểu, và sống lời yêu thương của Chúa, chắc chắn tiệc Nước-trời sẽ là phần thưởng. Chúng ta sẽ nghĩ gì, khi người trẻ hôm nay quả quyết rằng: dù nhiều bận rộn, nhưng “tớ” vẫn thích, vẫn đủ thời gian đọc tin nhắn, nhất là tin từ một người “tớ” thương mến. Dù khổ đau, hay hạnh phúc, dù non trẻ hay lão làng, dù địa vị cao hay thấp, bậc sinh thành, hẳn vẫn muốn chúng ta mang tinh thần người quân tử: vững như kiềng ba chân, nghe được, hiểu được, và sống được, khi gặp khó khăn, khi gặp thuận lợi. Nhất định người tài cao đức dày, không phải là họ mình đồng da sắt, người thông thái không phải là họ biết mọi điều tốt xấu, đúng, hơn họ là người biết nghe, biết mình cần được nâng đỡ bổ sức. Xin Đấng là Thầy là Chúa, giúp chúng con biết nghe, biết nói và biết sống lời yêu thương cách trọn vẹn nhất. Amen.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Một người khách ngoài đường phố, bất ngờ được mời vào bàn tiệc cưới và chủ tiệc cưới lại bắt lại anh ta không mặc y phục cưới, là sao? Và tại sao nhiều người được mời vào từ các ngã đường cũng được mời vào, chỉ có một người không mặc y phục lễ cưới? Dụ ngôn được hiểu tiệc cưới đã được báo trước và cần sẵn sàng.
Tiệc cưới là gì để sẵn sàng?
Tiệc thường đi đôi với lễ, thường người Việt dùng từ “lễ lạc”. Khi bữa tiệc sau lễ không chỉ là chung vui với nhau, nhưng đặt lễ lên hàng đầu, tiệc còn mang ý nghĩa thừa hưởng niềm vui cùng với Thiên Chúa và các thần thánh trên trời.
Tiệc còn là chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, cùng chia sẻ sự sống muôn đời thần thánh trên trời đã được hưởng phúc, qua bàn tiệc trần gian. Một sự sống thiêng liêng nuôi dưỡng linh hồn trong khi dùng của ăn nuôi sống thể xác trên hành trình dương thế. Lý do đó, người Công Giáo còn mời chủ tế, chủ tiệc, ban phép lành bữa tiệc, hay đọc kinh, trước khi mọi người dùng bữa.
Như vậy, tiệc mang một ý nghĩa trang trọng chứ không thể hạ thấp như là bữa cỗ liên hoan, bàn nhậu… Tục hóa bàn ăn, bàn tiệc, là một điều nên tránh, để của ăn thân xác không dẫn vào đường tội lỗi.
Tiệc cưới trong Thánh Kinh còn là bàn tiệc trong Nước Thiên Chúa. Mọi người đều được mời vào dự. Khi được mời vào dự bàn tiệc, khách mời có thể từ chối hay đón nhận lời mời. Việc đáp trả lời mời cũng tùy theo cách thức thể hiện tấm lòng với chủ tiệc. Không cần quà cưới, nhưng là tấm lòng thực thi. Không cần khách sáo nhưng cần thành tâm. Không cần trang sức nhưng cần đức hạnh…
Để dự tiệc cưới chiên con trong sách Khải Huyền, còn là được thanh tẩy mọi lỗi lầm trong Máu Chiên Con, nghĩa là trong hy tế thập giá của Chúa Kitô: “Ðó là những người từ cuộc quẫn bách lớn lao đã đến; họ đã giặt áo họ và phiếu trắng tinh trong máu Chiên Con.” (Kh 7, 14).
Y phục lễ cưới.
Y phục là đặc thù của con người, dù con người có mặc cho chó mèo, hay vật nuôi nhưng quần áo cũng chỉ gọi là trang phục. Y phục thường biểu lộ một sứ mệnh được giao phó: tu sỹ, linh mục, binh lính, cảnh sát, y tá, bác sỹ… của con người mang nó. Y phục lễ cưới là những cách biểu lộ phẩm tính, phẩm hạnh hoặc là cách trẻ trung theo thời trang, thời thượng nào đó. Quan trọng vẫn là tấm lòng chứ không phải là y phục, “Chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”.
Vào tiệc cưới không mặc y phục lễ cưới. Chủ tiệc trong dụ ngôn không nói đến y phục ở bên ngoài thể hiện mà thực trạng của tấm lòng. Chuẩn bị tâm hồn dự tiệc cưới muôn đời, vào giờ không hay, vào ngày không biết, khi Chúa đến. Đó là cách mang y phục lễ cưới bằng tỉnh thức và cầu nguyện.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết sẵn sàng trong tư thế y phục: “Tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Lời Chúa trong mấy Chúa nhật liên tiếp đều mang nội dung những lời mời. Người mời có thể là một vị vua (tiệc cưới hoàng tử), một ông chủ (mướn thợ làm vườn nho), hay đơn giản là một người cha (sai con đi làm). Những lời mời này không bó buộc khắt khe. Người được mời có thể đồng ý, có thể chối từ.
Thông thường, mời ai là thể hiện tình cảm và sự trân trọng đối với người đó. “Lời chào cao hơn mâm cỗ” như Ông Bà ta thường nói. Vì thế, người được mời cần tế nhị trong thái độ đáp lại, nhất là khi chủ thể của lời mời là một nhân vật quan trọng. Lời Chúa hôm nay cũng nói đến một lời mời, và là lời mời dự tiệc. Tuy vậy, những bữa tiệc này hoàn toàn khác với những bữa tiệc chúng ta chứng kiến hằng ngày.
Bài đọc I, ngôn sứ Isaia hướng tới một bữa tiệc trong tương lai, vào ngày Thiên Chúa can thiệp và ban ơn cứu độ. Đó sẽ là ngày vui mừng. Tang chế và sự chết không còn nữa. Đau khổ cũng chấm dứt. Đây là bữa tiệc do chính Thiên Chúa khoản đãi và ở trên núi cao. Độc giả người Do Thái dễ dàng hiểu, đây là ám chỉ hạnh phúc đời đời Chúa dành cho người công chính. Đó sẽ là khởi đầu của một cuộc sống mới trong Thiên Chúa.
Nếu bữa tiệc Ngôn sứ Isaia nhắc tới diễn tả với chúng ta về hạnh phúc Nước Trời trong tương lai, thì hình ảnh của bữa tiệc trong Tin Mừng lại quy hướng chúng ta về hiện tại. Vị vua là nhân vật chính trong câu chuyện xem ra có vẻ khác người. Ông quá dễ dãi trong việc mời thực khách, nhưng lại quá khắt khe trong trang phục của họ. Một điều lạ nữa ở thái độ của một số thực khách được mời. Phản ứng và cách hành xử của họ làm chúng ta ngỡ ngàng. Họ coi nhẹ lời mời của ông, thậm chí còn bắt đầy tớ, nhục mạ rồi giết chết. Vị vua là người dễ dãi quảng đại là thế, nhưng cũng không chịu nổi thái độ của những người này, nên đã nổi giận trước sự khước từ và thái độ gian ác của họ.. Ông đã lệnh cho đầy tớ đi ‘lùa” vào bàn tiệc tất cả những ai họ gặp ngoài đường và phố chợ. Lúc này xem ra không còn phải lựa chọn thực khách, mà ai cũng được mời đến thưởng thức một bữa tiệc thịnh soạn đã chuẩn bị sẵn sàng.
Chúng ta đừng quên bối cảnh của đoạn Tin Mừng trên đây: câu chuyện ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử được đặt vào thời điểm một số người Do Thái đang chống đối Chúa Giêsu một cách kịch liệt, vì Chúa đuổi người buôn ra khỏi Đền Thờ. Chúa cũng khiển trách mưu mô và sự cứng lòng tin của họ. Câu chuyện vườn nho và những tá điền bất lương (Mt 21,33-42) đã diễn tả quá rõ thái độ của những luật sĩ và biệt phái.
Như thế, chúng ta tìm thấy ý nghĩa của hình ảnh tiệc cưới trong Tin Mừng: đó là lời mời gọi tin vào Chúa và đón nhận giáo huấn của Người. Đây cũng là lời mời gọi gia nhập cộng đoàn tín hữu, tức là Giáo Hội, để sống tình huynh đệ thân thương. Quả vậy, Giáo Hội là một gia đình, luôn mở rộng cửa để đón tất cả mọi người không phân biệt. Đây không phải là sự ép buộc, mua chuộc hay lợi dụng, nhưng mọi người đều hoàn toàn tự do trước lời mời này. Ông vua mời dự tiệc cưới cũng như người gieo giống, rất kiên trì và quảng đại, để tùy vào sự đáp trả tự do của con người. Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã đề cập tới phản ứng khác nhau của những khách được mời. Đó cũng là thái độ của con người trước lời mời gọi của Chúa. Một khi đón nhận giáo huấn của Người phải can đảm từ bỏ lối sống cũ không phù hợp, nên nhiều người kiếm cớ để chối từ. Khi nói đến trường hợp người được mời hành hạ và giết đầy tớ của vua, phải chăng Đức Giêsu muốn nhắc tới chính cái chết của Người. Người là Con Thiên Chúa, Đấng đến trần gian đề mời gọi nhân loại chia sẻ vinh quang và sự thánh thiện của Chúa, nhưng đã bị bạc đãi và giết chết.
Cần lưu ý, dù người ta đón nhận Chúa hay chối từ Người, thì vào thời điểm cuối cùng của lịch sử, họ cũng phải trình diện trước nhan Người để chịu phán xét. Đó là ý nghĩa lời phê phán của vị vua chủ tiệc, khi thấy một thực khách dự tiệc mà không mặc áo cưới. Nếu ông quảng đại rộng rãi trong việc đãi tiệc, thì lại khắt khe trong việc y phục của thực khách. Việc quảng đại đãi tiệc là việc của Chúa, việc chuẩn bị cho xứng hợp là bổn phận về phía con người. Đến ngày phán xét, mỗi người phải mang trách nhiệm về cách hành xử và thái độ của mình đối với Chúa và đối với tha nhân.
Hình ảnh bữa tiệc giúp người tín hữu kiên vững trong đức tin, mặc dù phải trải qua muôn vàn thử thách. Thánh Phaolô là một ví dụ điển hình. Đối với thánh nhân, thử thách, gian nan và thiếu thốn không quan trọng, vì ngày xác tín rằng Thiên Chúa là Đấng sẽ chu cấp dư dật cho những ai biết quảng đại cho đi (Bài đọc II).
Lời Chúa hôm nay vừa phê phán những người được mời trân trọng mà lại chối từ, vừa khẳng định: những ai được mời ồ ạt sau này cũng phải có điều kiện cần thiết để dự tiệc. Mặc dù lời mời gọi của Chúa được gửi đến hết thảy mọi người, Nước trời không phải một thứ “dồn toa” tổng hợp ai cũng được vào, nhưng là nơi dành cho những ai thiện chí thực thi Lời Chúa và bền tâm mến Chúa yêu người.
Bữa tiệc tương lai (Bài đọc I) và bữa tiệc hiện tại (Bài Tin Mừng) không phải là một ảo tưởng hoang đường nhằm ru ngủ chúng ta trước thực tại của cuộc sống. Đó chính là niềm hy vọng giúp ta vững bước, đồng thời nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời. Ngài không ngừng mời gọi chúng ta hãy sống thánh thiện và nhân ái, để chuẩn bị cho hạnh phúc vĩnh cửu, là bữa tiệc đời đời Chúa dành cho những ai trung tín với Ngài.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Với tình thương yêu, Thiên Chúa dọn tiệc mời.
Đọc dụ ngôn tiệc cưới, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Người. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.
Đó là một tình yêu nhưng không.
Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.
Đó là tình yêu chia sẻ.
Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.
Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.
Tôi phải mặc áo cưới tới dự.
Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.
Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.
Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.
Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).
Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.
Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi tôi đến dự tiệc Thánh Thể, tôi có mau mắn đáp lời hay tôi thường từ chối?
2) Mặc áo cưới là theo Chúa quyết liệt, không nửa vời tôi theo đạo nhưng tôi có thực hành Lời Chúa không?
3) Bạn phải làm những gì để được coi là “mặc áo cưới”?
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Chúa Giêsu trong ba năm đi rao giảng Tin Mừng, loan báo Nước Thiên Chúa cùng với các môn đệ, Ngài đã không rao giảng một mớ lý thuyết trên mây trên gió, xa vời thực tế, khó hiểu, khó chấp nhận. Ngài đã dùng các dụ ngôn, các sự việc ra trong xã hội Do Thái lúc đó để loan báo Nước Trời. Đức Giêsu đã ví Nước Trời như viên ngọc quí, thửa ruộng, tiệc cưới, hạt cải vv…Những hình ảnh, ví dụ, sự việc, dụ ngôn Chúa dùng để diễn đạt một điều gì đó, một mầu nhiệm, luôn giúp con người dễ nhận ra, dễ chấp nhận điều Chúa Giêsu muốn diễn tả và dạy bảo. Chúa Nhật XXVIII thường niên, năm A,xoay quanh chủ đề tiệc cưới.
Hình ảnh tiệc cưới khác lạ trong đoạn Tin Mừng hôm nay nói lên niềm vui, sự hân hoan, phấn khởi của thực khách, của mọi người trong tiệc vui Nước Trời. Tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ của Chúa đã có mặt để đem lại hạnh phúc, niềm hân hoan phấn kích cho gia đình nhà đám và các thực khách có mặt hôm đó. Chính trong tiệc cưới này theo sự gợi ý tế nhị của Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước lã hóa thành rượu ngon khi nhà đám đã hết sạch rượu. Chúa đã làm cho tiệc cưới mặc một ý nghĩa cao cả, diễn tả Nước Thiên Chúa. Chúa dùng bưa với Giakêu, Lêvi và nhiều người thu thuế, tội lỗi vv…Những người thấp cổ bé họng, những người bé nhỏ, tội lỗi Chúa cũng vui vẻ đồng bàn với họ. Chúa tới nhà Martha, Maria và Lagiarô ở Bêtania cùng với các môn đệ, nghỉ ngơi và dùng bữa với gia đình họ. Chúa luôn đem lại niềm vui cho những người, những gia đình Ngài tiếp xúc, đến thăm. Chúa lập bí tích Thánh Thể cũng trong bữa ăn cuối cùng của cuộc sống trần thế của Ngài. Khi Chúa phục sinh, Ngài đồng bàn với hai môn đệ ở một quán trọ trên đường về làng Emmaus. Chúa hiện ra trên bờ hồ sau khi sống lại, chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài chia sẻ miếng cá, miếng bánh, chút mật ong với các môn đệ. Bữa tiệc, bữa ăn nói lên sự hiệp thông, tình yêu, chia sẻ, cảm thông giữa người với người. Vua ở đây là chính Thiên Chúa. Tiệc cưới tượng trưng cho việc Thiên Chúa gặp gỡ con người. Các gia nhân đi mời khách tượng trưng cho các tiên tri. Có nhiều gia nhân bị hành hạ, đánh đập, bị giết chết nói lên thân phận của các ngôn sứ. Vua thịnh nộ sai quân lính đi tru diệt và thiêu hủy thành phố của chúng, tượng trưng cho thành Giêrusalem bị tàn phá. Sự tàn phá là hậu quả của sự từ khước lời mời gọi của Vua. Thực khách là những người Do Thái, dân riêng của Chúa chọn, vốn trung tín với Lề Luật, trung thành với Giao Ước nhưng họ lại từ khước lời mời gọi tham dự tiệc cưới, nghĩa là đi vào Nước Trời. Do đó, những đĩ điếm, những người tội lỗi, thu thuế biết sám hối, thật lòng ăn năn, và những khách lạ ở khắp nơi được mời gọi dự tiệc cưới. Người Do Thái cứng lòng, thích tìm kiếm những sự chóng qua, đặc biệt những Kinh sư, Biệt phái, Pharisêu, Đầu mục đã tự kiêu, tự mãn, không chấp nhận Chúa, chối từ Chúa, họ không được hưởng gia nghiệp là Nước Trời Chúa hứa ban cho con người. Thiên Chúa luôn yêu thương con người, nhẫn nại chờ đợi con người thật lòng quay về, thật lòng hoán cải để nhận ra Lòng Thương Xót, sự nhân từ, khoan hậu của Chúa.
Ngày nay nhiều người mải mê sự đời, chạy theo địa vị, danh vọng, của cải phù phiếm mau qua và khước từ lời mời gọi dự tiệc cưới của Chúa. Con người không quan tâm không nhận ra hạnh phúc đích thực, sự sống vĩnh cửu. Họ quên rằng cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ, của cải, danh vọng, thú vui rồi sẽ qua đi…chỉ có sự sống Nước Trời mới là hạnh phúc thật và là nơi ở vĩnh viễn. Chúa đòi hỏi con người sống gắn bó, đặt Chúa lên trên hết và sống lời Chúa, thực hành lời Chúa để con người luôn có tương quan tốt với Chúa và với anh em. Con người sẽ bị loại ra khỏỉ tiệc cưới của Nước Trời, nếu họ không biết ăn năn, cải thiện đời sống và có tương quan tốt với Chúa và với anh em.
Lạy Chúa, xin thứ tha tội lỗi của chúng con và ban thêm đức tin để chúng con luôn khao khát tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Amen.
Gợi ý để chia sẻ :
1. Tiệc cưới ở đây có ý nghĩa gì ?
2. Tại sao các Đầu mục, Kinh sư và Pharisêu lại từ khước Nước Trời ?
3. Ăn năn, sám hối, cải thiện đời sống có cần thiết không ?
4. Khách không mặc áo cưới có nghĩa gì ?
5. Các gia nhân là ai ?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Một em bé hỏi tôi: cha ơi hôm nay là ngày gì mà cha mặc đẹp thế?
Tôi trả lời: À không, chỉ là để tiếp khách thôi.
Tiếp khách sao lại phải mặc đẹp? Em hỏi
Vì chúng ta tôn trọng khách. Khi mình ăn mặc đẹp thì người khách cảm thấy họ được tôn trọng và chắc chắn mình cũng tự tin hơn khi tiếp xúc với họ.
Quả thực, mặc đẹp là ngôn ngữ không lời để nói lên sự kính trọng dành cho khách đến thăm. Người càng cao trọng ta càng phải chỉnh chu hơn khi tiếp đón. Cách ăn mặc còn là đặc thù riêng biệt của những nơi, những chốn phải mặc sao cho phù hợp. Áo mặc đi lễ phải khác với áo mặc dạ hội. Áo đến công sở phải khác với chốn du lịch vui chơi. Dầu vậy, nhiều người vẫn gây nên những phản cảm khi mặc thiếu vải đi lễ Chùa. Cái đẹp đâu chẳng thấy mà thấy cái tư cách bị tụt hạng và bị cư dân mạng ném đá không thương tiếc.
Đó là lý do mà người xưa thường nhắc nhở nhau phải ăn mặc sao cho “xứng kỳ đức”. Nghĩa là cách ăn, cách mặc, cách đối xử phải tương xứng với địa vị của mình. Nếu không ứng xử cho “xứng kỳ đức” là ta đang tự làm mất giá trị phẩm giá của mình.
Điều đáng buồn là không ít những cảnh “nghịch mắt, chướng tai” khi nhìn vào xã hội hôm nay. Ngoài đường phố, nơi công cộng có không ít cảnh những học sinh, sinh viên nói tục, chửi bậy, cư xử thiếu tác phong. Ngành giáo dục thì có không ít những thầy giáo, cô giáo “làm rầu nồi canh” bằng những hành vi tiêu cực như: nhận hối lộ, “gợi ý” quà cáp, thậm chí, bạo hành với trẻ nhỏ. Ở một số những nơi hành hương như đền đài, chùa chiền là chốn linh thiêng nhưng lại có hiện tượng mất cắp vặt, thậm chí còn giật bóp, giật điện thoại . . .
Hôm nay Chúa Giê-su ví Nước Trời là một bữa tiệc. Thiên Chúa mời mọi người vui lòng đến dự bữa tiệc do Ngài thiết đãi. Ngài mời gọi không phân biệt chủng tộc, màu da. Ngài hân hoan chào đón mọi thành phần vào tham dự bữa tiệc. Tuy nhiên, để được dự tiệc Ngài cũng đòi hỏi mỗi người phải khoác chiếc áo phù hợp. Chiếc áo thể hiện lòng kính trọng với chủ tiệc. Chiếc áo mà Ngài đã trao cho mỗi người khi chấp nhận lời mời bước vào bữa tiệc cánh chung đó chính là chiếc áo trắng trong ngày rửa tội. Chiếc áo của ân sủng. Chiếc áo tinh tuyền không tì vết tội lỗi.
Nhưng đáng tiếc, có người đã đánh mất chiếc áo vì bỏ đạo. Có người đã làm bẩn chiếc áo bởi đam mê lầm lạc. Có người đã để chiếc áo nhàu nát, rách rưới bởi bon chen tranh giành thú vui trần gian. Có người đã bỏ lại chiếc áo ân sủng mà khoác trên mình chiếc áo của tính hư nết xấu. Họ đã thiếu y phục cần có khi dự tiệc. Chúa sẽ rất buồn khi nhìn thấy họ làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá làm con Thiên Chúa.
Điều Chúa buồn hơn khi thấy chiếc áo của hiệp nhất yêu thương nơi Giáo hội đang bị nhàu nát bởi con cái Chúa. Họ tin Chúa nhưng lại chơi xấu anh em bằng việc rỉ tai vu khống, bỏ vạ, cáo gian. Giáo xứ cũng chia năm xẻ bảy bởi phe cha xứ, phe cha phó. Cha mới, cha cũ. Ban Hành Giáo với cha xứ và với nhau cũng gây nên không ít sóng gió cho giáo xứ. Hội đoàn cũng tụm năm tụm bảy nói xấu nhau gây nên những thị phi. Bàn tiệc thiếu hiệp nhất sẽ mất mùi vị thơm ngon. Phải chăng đây là lúc chúng ta cũng thành thật nhìn lại chính mình để bớt đi cái tôi ích kỷ mà hòa nhập với nhau trong tinh thần kính trọng và yêu thương?
Ước gì chúng ta luôn biết chuẩn bị lòng mình cho xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh. Xin gìn giữ chiếc áo ân sủng hầu xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh. Xin đừng ví cái tôi của mình mà làm nhàu nát chiếc áo hiệp nhất của Giáo hội, nhưng luôn biết xây dựng tình hiệp nhất bằng yêu thương. Amen
.
CỬA NƯỚC TRỜI LUÔN MỞ, NHƯNG Y PHỤC PHẢI XỨNG HỢP
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lại một dụ ngôn khác về Nước Trời được trình bày cho chúng ta với chủ đề sâu xa tương tự như các Chúa nhật trước. Thiên Chúa luôn đi bước trước, “Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ” (Tv 22) “đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25, 6) ; “ Đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa ” (x. Tv 22) “theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô” (Pl 4, 12). Nước Trời luôn rộng mở cho hết thảy mọi người, bất luận tốt xấu, miễn là phải có y phục xứng hợp : “Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới ” (Mt 22, 9).
Lời mời gọi phổ quát
Qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã mời gọi dân Ngài đi vào trong giao ước, chia sẻ tình yêu với Ngài. Nhưng tiếc thay, con người luôn đáp lại một cách khác, ngược đãi, xua đuổi các tiên tri. Giao ước không được đáp trả. Nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, tiếp tục mở tiệc mời con người tới dự tiệc giao ước mới và đó chính là niềm vui cho mỗi người chúng ta.
Những người đầu tiên được đức vua mời đến dự tiệc cưới, nhưng viện cớ lấy lý do “như đi thăm trại…đi buôn bán” để từ chối (Mt 22, 5-6). Vì họ từ chối, nên những người khác được mời vào chia sẻ niềm vui với gia đình hai bên và đôi bạn trẻ.
Khác với những người được mời trước, những người được mời sau chẳng có công gì cũng được mời dự tiệc cưới. Họ chỉ có cơ may là được các người đầy tớ gặp ở ngã ba đường. Họ thuộc đủ mọi thành phần, bình thường không ai để ý tới.
Chúng ta tự hỏi : Liệu họ có hy vọng, có trông đợi mình được mời dự tiệc cưới kia không ? Isaia trả lời. Mọi người đều sống niềm hy vọng vì trong con người có một sự chờ đợi vô song. “Này đây Chúa chúng ta…nơi Người, chúng ta đã tin tưởng…vì ơn Người cứu độ” (Is 25). Họ hy vọng và chờ đợi chứ.
Hy vọng vào lời mời gọi phổ quát này, giả thiết không có một điều kiện tiên quyết nào, cũng không phải là lời mời của những người có lên hệ với nhà vua : “Chúa dọn ra cho con mâm cỗ…”, cho hết mọi người (Tv 22). Thật khó có thể tưởng tượng, hoặc tin rằng Thiên Chúa ban ơn ơn cứu độ nhưng không cho hết mọi người. Đây chính là Tin Mừng Thiên Chúa kêu gọi chúng ta.
Hạnh phúc vì được mời
“Tiệc cưới Con Chiên” được sách Khải Huyền mô tả (19, 7, 9) hàm chứa một ý nghĩa sâu xa : “Phúc cho những ai được mời dự tiệc cưới của Chiên Con! ” Thật hạnh phúc cho chúng ta, phúc này vượt quá những gì chúng ta có thể nếm hưởng trên trần gian, đây là yến tiệc Chúa Giêsu ban cho chúng ta.
Sau Chiên Thiên Chúa linh mục mời gọi : “Đây Chiên Thiên Chúa…phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” (Thánh lễ). Lời này gửi đến tất cả những ai sẽ tham dự vào tiệc cưới Con Chiên. Mỗi Thánh lễ là một lời loan báo và tham dự trước vào yến tiệc Nước Trời, tiệc của Hoàng Tử, Con yếu dấu của Chúa Cha, tiệc của Đức Kitô kết ước với nhân loại. Thánh Têrêsa Avila nói : “Lạy Chúa vị Hôn Thê của con, giờ đã đến, giờ con hằng mong đợi, giờ chúng ta gặp nhau. Ôi lạy Thiên Chúa là tình yêu duy nhất của con! Này là giờ con ao ước từ lâu, tâm hồn con vui sướng khi được kết hợp với Chúa! ” Chúng ta không thể gần Chúa mà không mặc lấy tâm tình của Chúa.
Nhưng phải có y phục lễ cưới
Có một điều khiến người đọc không khỏi thắc mắc và tìm lời giải đáp cho người được mời không mặc y phục lễ cưới, họ vào và bị đức vua ra lệnh: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! ” (Mt 22, 13). Họ đang ở ngã ba đường, đầy tớ đức vua tình cờ gặp họ, mời họ vào bất luận họ là ai, sao lại đòi họ phải có y phục lễ cưới ?
Áo cưới mà Tin Mừng nói tới ở đây là áo nào ? Có phải các bí tích không ? Hay là Phép Rửa tội ? Vì không chịu phép Rửa tội, không ai có thể đạt tới Thiên Chúa được, nhưng có một số người lãnh nhận phép Rửa tội, không đến cùng Thiên Chúa… Có thể là bàn thờ hay điều người ta lãnh nhận từ bàn thờ không ? “Vì kẻ ăn và uống, mà không phân biệt được Thân mình, tức là ăn và uống án phạt cho mình” (1Cr 11, 29). Vậy thì là cái gì ? Ăn chay ư ? Những kẻ gian ác cũng làm thế. Đi nhà thờ ư? Những kẻ gian ác cũng đi nhà thờ như bao người khác … Vậy áo cưới này là áo nào?
Ở đây, người vào dự tiệc cưới không thụ động, chấp nhận vào thì phải tìm cách thể hiện mình xứng đáng, và đó là áo cưới. Ơn cứu độ là phổ quát, đồng ý để được cứu độ là chấp nhận sống theo những đòi hỏi của Nước Trời, áo cưới vừa thể hiện sự đồng ý, vừa chứng tỏ trách nhiệm của chúng ta.
Đời sống luân lý không phải là điều kiện duy nhất để được cứu độ, Maria Mađalêna, Giakêu và nhiều người khác được mời, họ đã hoán cải để trở nên xứng đáng với Chúa hơn. Áo cưới là những điều tốt, người dự tiệc phải có. Thánh Phaolô nói : “Ðiều lời truyền dạy phải nhằm đưa tới đức mến, phát tự tấm lòng trong sạch, lương tâm thiện hảo, và đức tin không giả hình” (1Tm 1, 5). Đây là y phục lễ cưới.
Người được mời đến dự tiệc cưới không đơn giản chỉ ăn, nhưng chia sẻ niềm vui với họ hàng hai bên, mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ, nên phải có y phục xứng đáng.
Chúng ta là những tội nhân được Thiên Chúa mời dự tiệc Nước Trời. Chắc chắn ai cũng muốn mặc chiếc áo cưới tinh tuyền, không vương tội lỗi. Giáo hội Chúa không phải là một xã hội hoàn hảo, gồm có tội nhân, nhưng ý thức được tội lỗi của mình và mong muốn được tha thứ. Áo cưới được hiểu là biểu tượng của sự hoán cải. Sách Khải Huyền nói đến sự thánh và việc lành là chiếc áo bao phủ chúng ta (Kh 19,8). Thánh Giêrônimô thì nói : “Áo cưới, là những thánh chỉ của Chúa, và việc làm được thực hiện theo luật của Tin Mừng là chiếc áo cưới mới”. Chúng ta không thể tham dự vào tiệc cưới con chiến mà không tìm kiếm mặc lấy lòng trắc ẩn, lòng tốt, khiêm nhường trong lòng, từ bi. Áo cưới chính là “Đức Kitô Vị Hôn Phu” thánh Phaolô khuyên : “anh em hãy mặc lấy Ðức Kitô” (Gl 3, 27), chấp nhận hoán cải, thanh tẩy chính mình “để sao cho xứng với Chúa, mà làm đẹp lòng Ngài trong mọi sự ” (Cl 3, 10). Giờ đây hãy chúng ta hãy nghe lời Chúa : “Mọi sự đã sẵn sàng hãy đến !”
Lạy Chúa, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Amen.
.
Anna Cỏ may
Bé Lan chạy ở đâu về réo lên:
– Bố ơi, nhà chú Cao có đám cưới. Bố cho con đi ăn nha!
– Thế đã đến giờ ăn chưa con?
– Dạ rồi!
– Vậy thì đi đi, nhớ giờ về mà đi học.
– Dạ!
Ở miền quê mọi người gọi tiệc cưới là đám cưới. Trong đám cưới, những người đi dự tiệc luôn mỉm cười và nói rộn rã lời chúc mừng cho cô dâu và chú rể, cùng ngồi chung vui với hai gia đình thông gia. Và lũ trẻ con trong xóm cũng hớn hở và ríu rít gọi nhau. Chúng cũng được chung vui với mọi người.
Hôm nay, chúng ta được nghe câu chuyện về tiệc cưới của nhà vua. Nhà vua mở tiệc cưới linh đình và sai các đầy tớ đi “thỉnh” các quan được mời đến dự tiệc, nhưng không ai đến. Nhà vua lại tiếp tục cho người đi mời lần hai. Lần này họ chẳng những từ chối mà còn lấy lý do này lý do khác để từ chối, lại còn bắt các đầy tớ hành hạ và giết chết. Nhà vua căm giận và sai người đi tru diệt họ. Bây giờ nhà vua sai các đầy tớ đi ra các ngả đường, gặp ai thì mời, bất luận tốt xấu. Khi khách đã đông đủ, nhà vua đi quan sát một vòng thì thấy có một nguời không mặc y phục lễ cưới, liền hỏi. Nhưng người ấy không trả lời. Nhà vua liền cho người phục dịch trói chân tay nó rồi quăng ra ngoài chỗ tối tăm (Mt 22,1-14). Là một vị vua vừa có quyền vừa có tất cả mọi thứ, nên bữa tiệc ấy đã chuẩn bị rất tươm tất nào là cỗ bàn, bò tơ và thú béo. Ngoài ra còn có sẵn trang phục cho những ai đến dự, nhưng chẳng ai tới. Tại sao họ lại không đến dự tiệc cưới nhà vua? Họ là cấp dưới phải tôn trọng và nhanh chân đi chứ? Chẳng lẽ họ có một chút gì đó không hay với vua? Điều chúng ta nên để tâm đó là ông vua. Ông mong muốn mọi người đến và chung vui với ông, cùng chia sẻ hạnh phúc và cùng thưởng thức những món ăn ngon. Rồi ai đã tới? Đó cũng là tâm tư của Thiên Chúa chúng ta.
Vâng, xưa kia Thiên Chúa đã dọn tiệc cưới để mừng Con của Ngài. Khách được mời mà không đến là dân Do thái, kẻ được thay thế là dân ngoại. Họ được mời sau nhưng lại nhanh chân đến, không chần chừ. Trong số đó, có những người không mặc áo cưới là ám chỉ những người Kitô hữu có đức tin mà lại không sống đức tin. Bữa tiệc ấy không bị hạn chế nhưng vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay và kéo dài cho đến ngày tận thế. Chính vì thế, Chúa Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta hãy đến dự tiệc cưới của Ngài. Với tiệc cưới thế gian, đôi tân hôn phải tính toán và lên kế hoạch từ lâu. Và khách dự tiệc cũng cần biết trước để chuẩn bị những thứ cần thiết. Vì thế, tiệc cưới của Chúa Giêsu vẫn cần chuẩn bị sẵn sàng như năm cô khôn ngoan chờ chàng rể đến (Mt 25,1-13). Chúng ta hãy mặc lấy trang phục là các Bí tích và Lời Chúa. Phương tiện đi là những điều răn và lề luật của Ngài và làm những việc hy sinh nhỏ bé trong lời nói, ánh mắt, cử chỉ… Để khi đến dự tiệc cưới của Chúa, chúng ta được tràn đầy niềm vui hạnh phúc cùng Ngài, được ăn uống thỏa thuê không bao giờ hết. Chúng ta cũng đã ngày ngày được dự tiệc với Ngài trong Thánh lễ. Nhờ đó, Ngài gìn giữ và nối kết chúng ta cho đến khi chung vui trên Trời là quê hương đích thực của chúng ta.
Có ông cụ nói với bà vợ:
– Bà ơi, tối qua tôi mơ tôi được vào một nơi rất đông người, nơi đó có rất nhiều đồ ăn nước uống không thiếu cái gì. Tôi ăn nhiều lắm mà chẳng thấy vơi tí nào.
– Rồi ông sẽ được ăn như thế. Bà cụ trả lời.
Lạy Chúa, bữa tiệc của Chúa luôn luôn có sẵn để chờ chúng con đến. Ngài hằng cho Người đến đón rước chúng con, mà chúng con lại từ chối. Chúng con cứ đi tìm những tiệc cưới mau qua chóng tàn. Chúng con thật chẳng biết nhận ra đâu là điều quan trọng con phải chuẩn bị cho ngày đi dự tiệc. Cậy vì tình yêu và lòng nhân từ của Chúa, xin Chúa hãy đánh thức và lại đánh thức chúng con, giúp chúng con thoát khỏi những ham muốn bữa tiệc tạm bợ chóng tàn trong ngày sống. Amen
.
Bông hồng nhỏ
“Xứng đáng”, đó là một trong những thang giá trị mà ta tự đặt cho mình hay cho người khác, trước khi muốn trao cho ai một món quà hay khi ta đón nhận một món quà. Người xứng đáng là người đủ phẩm chất và tư cách để được hưởng món quà. Hôm nay, Thầy Giêsu lại dùng một dụ ngôn khác để nói về Nước Trời: Dụ ngôn tiệc cưới. Những kẻ được mời dự tiệc cưới nhưng lại không xứng đáng để vào dự tiệc. Điều gì đã xảy ra?
Lắng nghe Thầy Giêsu kể dụ ngôn, ta nghe giọng Thầy đượm buồn. Tiệc cưới đã chuẩn bị sẵn sàng mà những kẻ được mời lại không đến. Họ bận rộn đi thăm vườn, đi buôn, kẻ lại đi thăm nông trại. Có những kẻ còn chống đối ra mặt, họ bắt các đầy tớ của nhà vua mà hành hạ và giết đi. Họ không sợ nhà vua nổi giận nhưng những bận rộn và sự kiêu căng đã làm họ ra đui mù; hay nói cách khác, họ không tha thiết với bữa tiệc cưới hoàng gia. Những đầy tớ như những ngôn sứ nhận lệnh Vua Trời, đi mời những vị khách đến dự tiệc cưới. Các ngài đến mang lời Thiên Chúa và nhắc nhở cho dân được Thiên Chúa tuyển chọn rằng: hãy ngưng lại mọi bận rộn của cuộc sống và đến dự bữa tiệc trên Trời. Họ không nghe, nên nhà vua lại kiên nhẫn và sai thêm các ngôn sứ khác nhưng họ cũng không thèm đếm xỉa tới. Họ không ngờ rằng, chính lối sống ấy đang dẫn họ tới cái chết. Họ không còn xứng đáng với danh dự vốn là của họ: những vị khách “ưu tuyển”. Có hai thái độ trước lời mời của Thiên Chúa. Thái độ thứ nhất là của những kẻ lắng nghe nhưng không để tâm và tiếp tục lối sống của mình. Thái độ thứ hai là những kẻ nghe Lời nhưng phản đối và bất cần, ngang nhiên trở thành sát nhân. Chính vì những lý do đó mà họ không xứng đáng với bữa tiệc trên Trời. Nhà vua sai các đầy tớ đi ra khắp các ngả đường và mời tất cả mọi người đến, dù tốt hay xấu vẫn được mời. Như thế, Nước Thiên Chúa sẽ được ban cho những ai biết trân trọng và sẵn lòng đến dự Tiệc Cưới.
Hằng ngày, ta vẫn được mời đến dự Tiệc Thánh nhưng có lắm khi ta quá bận rộn với bộn bề của công việc, ta mải mê với những sự trần thế mà đánh mất nỗi khát khao được lãnh nhận nguồn sức thiêng. Ta không tha thiết với lời mời chân tình của Đấng đã hiến mình vì ta. Ta đánh mất cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa để rồi khi cuộc đời không như ý muốn, giông tố đến, ta trách Chúa sao nỡ bỏ ta, hay tệ hơn ta biến mình trở thành “sát nhân”, giết chết chính mình và người khác.
Khi đi dự đám cưới của bạn bè hay người thân, ta luôn băn khoăn và dành thời giờ để chọn cho mình có được một bộ trang phục phù hợp và đẹp. Cũng thế, dự tiệc cưới “Con Chiên”, ta sẽ mặc y phục nào? Y phục ta mang trong ngày dự tiệc cưới của Con Chiên chính là tấm áo trắng tinh tuyền mang hương thơm của tình yêu. Chính ngày ta được Vua Trời mở lời mời, tặng cho ta tấm áo trắng tinh tuyền trong ngày Rửa tội, ta cũng được nhận lãnh một sứ mạng mới: trở thành tư tế, ngôn sứ, và vương đế. Nhận được lời mời rồi, ta hãy vui mừng chuẩn bị bộ trang phục đẹp nhất là chính tâm hồn mình. Một tâm hồn luôn khát mong và cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa! Những bận rộn của ngày sống thường cuốn con vào một cơn lốc. Nó khiến con căng thẳng và không tìm ra lối thoát. Xin Chúa cho con nhớ rằng, dù bận rộn đến đâu, một phút giây thôi được ở bên Chúa còn quý hơn ngàn phút giây con vui hưởng niềm vui thế gian. Xin Chúa cho con biết cộng tác với ơn Chúa, để mỗi ngày con biết giữ gìn chiếc áo trắng tinh tuyền là tâm hồn mình. Nếu có khi nào con làm hoen ố chiếc áo, xin cho con biết chạy đến với Chúa để được Chúa thanh tẩy, nhờ thế, con được Chúa làm cho nên xứng đáng hơn trước món quà tình yêu Chúa ban tặng. Amen.
.
Phạm Anh
Dự tiệc cưới là một cơ hội được gặp gỡ, tương quan, thể hiện niềm vui gắn kết, được chúc phúc. Nếu được mời dự tiệc, ai cũng chuẩn bị sửa soạn cho mình thật tươm tất, sang trọng : quần áo phải mới, đầu tóc khác kiểu, trang điểm tươi tắn,… Nhưng những người được mời đi dự tiệc trong “dụ ngôn tiệc cưới” (Mt 22, 1-14) đã làm gì ? Họ có dự tiệc cưới chăng ? Nhà vua có hài lòng về bữa tiệc ?
Tiệc cưới đã sẵn sàng : “Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi”, nhà vua cho mời khách dự tiệc tới. Nhưng mỗi người đều có thái độ khác nhau : quan khách không đếm xỉa tới, lại bỏ đi : kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết (x. Mt 22, 5-6). Tại sao những quan khách được mời đến dự tiệc lại không đi, chẳng lẽ công việc làm ăn của họ quan trọng hơn hay sao ?
Thật vậy, hằng ngày, trong Thánh lễ, Thiên Chúa vẫn mời gọi chúng ta đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Thể, nhưng chúng ta có nhận ra không ? Chúng ta mải miết với công việc mưu sinh mà quên mất Chúa, nhiều lúc chúng ta coi trọng công việc hơn là Chúa. Đến giờ đi lễ, ta thường biện minh là còn hẳn 15 phút nữa mới lễ, phải làm cái này cho xong, đang làm dở không thể bỏ được. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thường đi trễ về sớm. Nếu không đi lễ ngày thường đã đành, lễ Chúa Nhật cũng ngại ngùng không muốn đi. Có khi chúng ta tham dự Thánh lễ vì sợ lỗi luật, hay không đi người khác sẽ cười. Từ tận sâu thẳm bên trong chúng ta có thật là vì công việc, vì luật, hay chúng ta chưa hiểu tham dự Thánh lễ là dự tiệc ? Chúng ta vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của Chúa, nhận ra những giá trị thiêng liêng, niềm vui, hạnh phúc mà chúng ta nhận được khi tham dự bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta vẫn còn hờ hững trước lời mời gọi dự tiệc cưới. Nhưng không sao, từ từ chúng ta sẽ nhận ra khi chúng ta nỗ lực đón nhận hồng ân Chúa từng ngày, “mưa dầm thấm đất”.
Dù chúng ta chưa hăng hái tham dự tiệc cưới, nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục kiên nhẫn, chờ đợi, Người sẵn sàng đón tiếp chúng ta bất cứ lúc nào : “Các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (Mt 22, 9). Thiên Chúa chẳng chịu thua trước sự cứng cỏi của con người. Bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Thể vẫn diễn ra mỗi ngày, chúng ta luôn được hưởng bữa tiệc đó. Dù ta không đón nhận, nhưng Thiên Chúa vẫn hằng tuôn đổ hồng ân xuống cho tất cả mọi người chẳng trừ một ai. Đó là tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa dành cho con người. Vậy cớ sao chúng ta không dự tiệc mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho chúng ta ? Cùng với lời Thánh vịnh chúng ta thưa lên rằng : “CHÚA là Ðấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103, 8).
Lạy Chúa, xin Người ban cho chúng con tình yêu. Xin cho chúng con biết mau mắn đón nhận Lời Chúa, năng rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, để mỗi ngày chúng con nên tươi mới trong niềm vui đích thực. Qua đó, chúng con không ngừng chuẩn bị sẵn sàng chiếc áo cưới cho bữa tiệc trên Thiên quốc. Amen.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Bữa ăn là nhu cầu không thể thiếu đối với cuộc sống con người chúng ta. Tuy nhiên, các bữa ăn trong sinh hoạt cộng đồng còn là những cơ hội để diễn bày bầu khí gia đình, để liên kết tình thân hữu giữa bà con lối xóm và cũng là những dịp để khơi dậy mối hiệp thông huynh đệ. Ngày xưa, các bộ tộc hay các quốc gia vẫn thường ký kết thỏa hiệp trong các bữa ăn. Hiện nay, người ta cũng hay mượn khung cảnh những bữa tiệc sang trọng để thảo luận về việc làm ăn buôn bán, và ngay cả để bàn thảo những chuyện quốc sự trọng đại nữa.
Kinh Thánh thuật lại, trong suốt 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu cũng thường xuyên hiện diện trong các bữa ăn để diễn bày tính năng cứu độ, theo nhãn quan thần học của các thánh sử. Ví dụ, Chúa đến dự tiệc cưới tại Cana để biến nước thành rượu, tiên báo một thứ ‘rượu mới’ sẽ được ban tặng để trở nên niềm vui ơn cứu độ. Ngài đồng bạn với bọn thu thuế và phường tội lỗi để công bố cho mọi người biết rằng, ‘Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, chỉ người bệnh tật mới cần’. Ngài đi ăn tại nhà ông Gia-kêu để khai mở chân trời cứu độ nơi tâm hồn ông khi nói rằng : “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến trong nhà này”. Ngài còn đến dùng bữa tại Bêtania với những người bạn nghĩa thiết. Đặc biệt, Chúa đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn để trao tặng cho chúng ta món quà vô giá, là chính thịt và máu của Ngài, trở nên thần lương trường sinh nuôi sống nhân loại.
Các bài đọc trong phụng vụ hôm nay cũng vén mở cho chúng ta viễn ảnh về ‘bàn tiệc cánh chung’, nhất là qua dụ ngôn tiệc cưới do nhà vua thiết đãi. Tất cả chúng ta đều là những thực khách được mời. Nhưng, để xứng đáng ngồi vào bàn tiệc cao quý này, chúng ta phải khiêm tốn trải rộng tấm lòng hầu đón nhận hồng ân Thiên Chúa trao ban một cách dư tràn.
Bữa tiệc thời thiên sai, dấu chỉ tình yêu đại độ nơi Thiên Chúa
Trước hết, trong bài đọc một, tiên tri Isaia phóng một tầm nhìn về bàn tiệc thiên sai được thực hiện vào thời ân điển sau cùng. Bữa tiệc đó có hai đặc nét. Trước hết, đó là bàn tiệc phổ quát, dành cho tất cả mọi người và không dành riêng cho ai. Hạn từ ‘muôn dân, muôn nước, mọi người’,… được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Kế tiếp, bàn tiệc đầy ắp ‘thịt béo và rượu ngon’, là hình ảnh nói lên niềm vui tròn đầy do chính Thiên Chúa tặng ban. Niềm vui đó còn được diễn tả qua những biểu tượng cụ thể như ‘Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ; Ngài sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Người. TC sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước’. Đó là những tấm khăn của tang tóc hay u sầu. Bữa tiệc ấy được dọn ra trên núi của Đức Chúa. Hình ảnh ‘núi’ ám thị về Ngai trời, nơi Thiên Chúa bày tỏ vinh quang và cũng là nơi ân phúc được trao ban. Cũng vậy, thánh vịnh 22 mà Giáo hội cất lên trong phần đáp ca cũng nhắc lại hình ảnh bữa tiệc mà tiên tri Isaia phác vẽ. Chúa như người mục tử chăn dắt đoàn chiên. Ngài dọn sẵn cho chúng ta một bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con Chúa xức dầu thơm. Ly rượu con đầy tràn chan chứa.. Nói tóm lại, bàn tiệc thiên sai mà phụng vụ hôm nay nói đến ám thị niềm vui ơn cứu độ. ‘Rượu làm hoan hỷ lòng người’, và rượu mới trong bàn tiệc này chính là niềm hoan vui mà Chúa Giêsu đem lại cho chúng ta vào thời cánh chung.
Cũng thế, trong bài Tin Mừng, thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về tiệc cưới Nước Trời. Đức Vua là hình ảnh nói về chính Thiên Chúa. Gia nhân đi mời là các ngôn sứ thời cựu ước. Khách được mời là dân Do Thái khi xưa, đặc biệt là các thượng tế, các kinh sư và các đầu mục trong dân, nhưng họ đã từ chối lời mời. Sau cùng, tất cả mọi người, bất luận tốt hay xấu cũng được triệu tập đến cho đầy phòng tiệc. Đây là hình ảnh nói về tính đại đồng của kỷ nguyên ơn cứu độ. Tuy nhiên, chúng ta cần dừng lại trên một chi tiết nổi bật được nhắc đến, là trong số thực khách có một người không mặc áo cưới. Số phận của anh ta rất bi thảm. Anh bị trói lại và bị quăng ra bên ngoài, nơi người ta sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Có lẽ, chi tiết này khiến chúng ta phải giật mình và tự nhìn lại chính mình, xem chúng ta có bị rơi vào tình trạng ấy hay không.
Bài học về lòng quảng đại của Thiên Chúa
Mỗi khi chúng ta đến tham dự thánh lễ, chúng ta được tiên hưởng bàn tiệc cánh chung mà các bài đọc lời Chúa hôm nay nói tới. Bàn tiệc ấy quảng diễn tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa trao tặng. Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã phân thây xẻ thịt chính ‘Con Một’ yêu dấu để cho chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10, 106). Nhưng điều kiện duy nhất, là chúng ta phải mang y phục tiệc cưới, tức là cũng phải mang chở nơi mình tình yêu như Chúa đã nêu gương. Thánh Augustinô khi suy niệm về Bí tích Thánh Thể đã nói rằng : “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết con chim diều hâu”. Diều hâu ăn bánh mì vào, bánh sẽ trương nở làm nó chết nghẹt. Vì thế, chúng ta cần phải lột bỏ bộ quần áo cũ kỹ mang nhãn hiệu ‘diều hâu’ khi ngồi vào bàn tiệc Thánh Thể. Y phục đám cưới là cách sống theo đức ái như Chúa Giêsu mời gọi. Đức ái đó đòi hỏi chúng ta phải loại bỏ những tham lam bất chính, những ích kỷ ghét ghen, những gian dối lọc lừa để chúng ta không bị ném ra ngoài chỗ tối tăm, nơi con người phải khóc lóc và nghiến răng mãi mãi.
Kết luận
Vào một đêm lạnh giá giữa tháng 01/1935, một phiên tòa được tổ chức trong khu phố nghèo nhất ở New York. Thẩm phán là ông Fiorello La Guardia, vị thị trưởng đáng kính, còn đứng trước vành móng ngựa là một bà lão đã gần 60, áo quần cũ rách với dáng vẻ sầu khổ. Gương mặt tiều tụy của bà hiện lên vẻ xấu hổ vì bà đã bị bắt quả tang khi đang ăn cắp một ổ bánh mì. Ngài thị trưởng hỏi bà lão : “Bà đã bị tố cáo vì ăn trộm bánh mì, có đúng thế không”. “Thưa đúng”, bà ấp úng đáp. “Bà lấy trộm vì đói có phải không?” “Thưa quan tòa, tôi rất đói. Nhưng nếu chỉ vì đói, tôi đã không làm như thế. Đứa con rể của tôi đã bỏ nhà ra đi. Con gái tôi ốm liệt giường. Tôi cần chiếc bánh mì để nuôi hai đứa trẻ đang chết đói”. Nói đến đây bà bật khóc. Cả phòng xử im lặng. Ngài thị trưởng thở dài. Ông rảo mắt nhìn khắp gian phòng và quay sang bà lão, ông nói : “Bị cáo, tôi sẽ xử phạt bà. Luật pháp phải công bằng và không có ngoại lệ với bất cứ ai. Bà phải nộp phạt 10 đô-la hay sẽ bị giam 10 ngày. Bà chọn cái nào?
Trong sự bế tắc, bà lão nghẹn giọng trả lời : “Thưa ngài, tôi xin chịu phạt. Nếu tôi có 10 đôla, tôi đã không đi trộm bánh mì. Vậy tôi xin chịu giam 10 ngày. Nhưng còn hai đứa trẻ, ai sẽ chăm sóc chúng bây giờ”. Nói xong, bà bật khóc.
Ngài thị trưởng khẽ mỉm cười. Ông rút trong túi ra 10 đô-la và nói : “Đây là 10 đô-la tiền phạt và bà được tự do”. Sau đó, ông nhìn xuống và nói với cử tọa : “Bây giờ, xin mỗi người hãy đóng 50 xu tiền phạt, vì đã vô tâm để cho một người hàng xóm khốn khổ phải đi ăn cắp bánh mì nuôi hai đứa cháu. Ngài Baliff, ông hãy đi thu tiền phạt và trao số tiền đó cho bị cáo”.
Bầu khí im lặng hoàn toàn. Mọi người tự động móc ra 50 xu. Tổng số tiền thu được là 47,5 đô-la. Ngài thị trưởng được người dân rất quý mến và dân chúng vẫn thường gọi ông là Fiorello, có nghĩa là ‘Bông hoa nhỏ’.
Có bao giờ chúng ta đã tỏ ra vô cảm trước nỗi đau của những cận nhân chung quanh chưa? Sự ích kỷ và vô tâm chính là chiếc áo bẩn thỉu mà chúng ta cần phải loại bỏ để mặc lấy y phục tiệc cưới, khi đến tham dự bàn tiệc Nước Trời.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Vẫn với nhóm thính giả chủ yếu là các thượng tế và kỳ mục trong dân, Đức Giê-su kể câu chuyện dụ ngôn thứ ba ‘tiệc cưới’, sau hai dụ ngôn ‘sai hai người con đi làm vườn nho’ và ‘bọn tá điền sát nhân’, với cùng một tư tưởng suyên suốt: phế bỏ nhóm này để thiết lập một nhóm khác. Ở dụ ngôn ‘tiệc cưới’ này, ‘ông vua kia’ gạt bỏ những khách được mời để mở rộng bàn tiệc đón các kẻ đầu đường xó chợ. Nếu Phúc âm Mát-thêu được viết cho các độc giả tín hữu gốc Do Thái thì nhấn mạnh về đề tài này như thế là điều không những thích hợp mà còn cần thiết nữa; dân riêng Cựu Ước của Đức Chúa cần phải hiểu rõ, tại sao Tin Mừng không còn dành riêng cho họ nữa, nhưng đã rộng mở cho một dân mới là Hội Thánh gồm hết thảy mọi dân nước.
Đối với tôi là một phần tử bên trong Hội Thánh, thì dụ ngôn này xem ra có phần quan trọng hơn hẳn hai dụ ngôn trước, vì nó dành cả phần sau để nói sâu hơn về thành phần thứ hai này: các vị khách không mời mà được dự: họ là ai và họ phải ứng xử ra sao?
– Họ là ai?
Dụ ngôn hầu như muốn chỉ cho thấy rõ: tự bản thân, họ chẳng là gì hết! ‘Vậy các ngươi hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới… bất luận tốt xấu’. Điều lạ lùng hơn cả là hình như dụ ngôn này còn nhấn mạnh, lý do bàn tiệc phải đầy khách dự hoàn toàn không do yêu cầu hay lựa chọn của khách cho bằng, đó là mệnh lệnh của chính ông vua; bàn tiệc không còn dành riêng cho một đối tượng nào, nhưng bất cứ ai cũng có thể vào dự. Lu-ca, trong trình thuật của mình, xem ra còn nhấn mạnh điều này cách sắc nét hơn nữa: ‘…Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật và đui mù, què quặt vào đây… Đầy tớ nói: Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ… Ông chủ bảo đầy tớ: Ra các đường làng đường xóm, ép người ta vào cho đầy nhà cho ta’ (Lc 14:21-24). Thật kỳ lạ, vẫn tưởng rằng Tiệc cưới Nước Trởi chỉ dành cho những con người xứng đáng, và cần phải phấn đấu gian khổ lắm mới được vào dự! Ở đây trái ngược hẳn, tham dự là hoàn toàn do ước muốn của Vua, thậm chí Ngài còn cất công nài ép. Khách được vào dự tiệc đâu phải vì họ đã nỗ lực cố gắng, đã chuẩn bị sẵn sàng, càng không phải vì họ trọng vọng hay có thế giá…, đơn giản chỉ vì họ đáp lại ý muốn của Đức Vua nhân ái: bàn tiệc cưới của Hoàng Tử phải đông vui vì đã được dọn ra cho mọi người tham dự.
– Và họ phải ứng xử ra sao?
Sau khi đã chấp nhận lời mời vào dự tiệc cưới để cho bàn tiệc được đông vui theo ước muốn của vua, các khách dự tiệc trong dụ ngôn chỉ cần làm một công việc quá dễ dàng và đơn giản: họ lãnh lấy y phục lễ cưới và mặc vào để thể hiện sự hiệp thông chấp nhận. Thật thế sao? Y phục cưới họ đâu buộc phải tự sắm cho mình, thậm chí họ đâu cần phải tự mang tới… vì theo tục lệ thời đó, người ta phát cho tất cả các thực khách y phục mà họ sẽ mặc trong bữa tiệc; chính vì thế mà kẻ không mặc sẽ chẳng có cách nào chống chế ‘Người ấy câm miệng không nói được gì’. Anh chẳng mất công sức gì để vào dự tiệc cưới, điều duy nhất gia chủ đòi anh là, nếu anh muốn hòa mình vào niềm vui của chủ, anh hãy nhận lấy áo cưới gia nhân trao cho và mặc nó vào… Theo xác định của sách Khải Huyền; y phục cưới trắng toát đó, anh cũng chẳng cần cất công may dệt hay gìn giữ… nó có thể đã bị nhàu nát và bụi bẩn bám đầy… nhưng nó vẫn xứng đáng mặc trong lễ cưới Nước Trời, vì đã được ‘giặt sạch và tẩy trắng… trong máu Con Chiên’. “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy?… Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên… Vì Con Chiên đang ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:13-17).
Thật không thể hiểu nổi, tham dự bàn tiệc cưới Nước Trời lại dễ dàng như thế sao? Nhờ mạc khải Kinh Thánh, nhất là qua xác định của chính Đức Ki-tô Giê-su, chúng ta mới được biết ước nguyện tha thiết nhất của Thiên Chúa chính là: bàn tiệc tình yêu nhân hậu của Ngài phải được thật nhiều người tham dự, kể cả những con người thấp hèn và tội lỗi nhất. Điều kiện Ngài đòi hỏi không nhiều và không khó, chỉ cần nhận biết lòng nhân hậu của Ngài và sẵn lòng đón lấy tình xót thương cứu độ. Thì ra con đường cứu rỗi Đức Ki-tô mở ra thật quá đơn giản hơn mọi người chúng ta từng tưởng tượng rất nhiều.
Chớ gì cá nhân tôi cũng hiểu rõ và thâm tín được điều này, rồi trong tư cách linh mục của Đức Ki-tô, tôi có thể làm cho thật nhiều người cùng nhận thức được điều đó. Phải chăng đây mới đích thị là Tin Mừng mà mọi người trên trần gian này đều muốn đón nghe?
Lạy Vua của bàn tiệc Nước Trời, thật đau xót cho Vua khi tiệc cưới vui của hoàng tử trống trơn vì các khách đã được mời đều kiếu từ. Xin cho con được cùng Vua đau xót nhìn thấy bàn tiệc còn trống vắng, để rồi cùng Vua tham gia vào việc nài ép thật nhiều người ngồi vào dự tiệc. Công việc rao giảng Tin Mừng và mục vụ của con sẽ không nhằm mục đích nào khác hơn là làm cho thật nhiều người đón nhận lòng nhân hậu của Vua để tham gia đông đủ vào bàn tiệc Nước Trời. Và xin cho phẩm trật Hội Thánh là các gia nhân của Vua thành công trong việc nài ép người ta vào cho đầy Nhà Cha trên trời. A-men.
.
SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_A
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến,
Chúng ta vừa được nghe một dụ ngôn nữa của Chúa Giêsu.
Thử hỏi Chúa muốn nói gì với người nghe Chúa lúc đó và chúng ta hôm nay?
I. Đây là dụ ngôn có tính cách đặc biệt. Ý nghĩa của nó tương đối cũng dễ hiểu.
– Vua ở đây là Thiên Chúa
– Tiệc cưới là Nước Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước các ngôn sứ thường diễn tả giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Do thái như một cuộc hôn nhân mầu nhiệm. Tân Ước cũng lấy lại ý tưởng này và áp dụng vào sự liên kết giữa Chúa Giêsu và Giáo Hội của Ngài.
– Đầy tớ là các sứ giả của Chúa. Trong Cựu Ước là các ngôn sứ. Trong Tân Ước là các tông đồ.
– Khách được ưu tiên mời gọi trước hết là dân tộc Do Thái.
– Những người đến sau là mọi dân tộc.
– Áo cưới chỉ ơn thánh được coi như trang sức cho tâm hồn.
Theo câu truyện trong bài dụ ngôn thì chúng ta thấy có 3 lần mời…ba lần mời hay ba lần đi mời cũng vậy.
* Lần mời thứ 1 dành cho những người được tuyển chọn nhưng họ đã không tới.
* Lần mời thứ hai lặp lại lời mời lần thứ nhất và đối tượng được mời cũng y hệt như lần thứ nhất. Và những người được mời vẫn từ chối. Lần từ chối này có tính cách quyết liệt hơn.
* Lần mời thứ ba là một lần mời đặc biệt. Thông thường thì chúng ta thấy trong thực tế khó mà có truyện như vậy. Thế nhưng chúng ta phải nhớ đây là một dụ ngôn. Và trong dụ ngôn thì có thể có nhiều truyện kể cả những truyện mà thực tế không thể xẩy ra được. Ở đây chúng ta thấy nhà Vua đã làm một việc hơi khác thường. Sau khi những người được nhà vua mời để dự tiệc cưới của hoàng tử đã không ai tới mặc dầu nhà Vua đã kiên trì nhẫn nại mời họ đến lần thứ hai.
Tới đây thì sự kiên nhẫn của nhà vua dường như đã đến cái giới hạn của nó. Nhà vua không thèm để ý đến những người đã dược mời trước nữa. Nhà Vua đã ban lệnh cho các thuộc hạ của mình để họ đi ra các ngã ba đường mời tất cả mọi người, phải…tất cả mọi người bất kể họ là hạng người như thế nào để họ vào cho đầy phòng tiệc. Phải nói là thái độ của nhà vua lúc này đã có một cái gì khác lạ…
II. Ý nghĩa câu truyện như thế nào?
Các nhà chú giải Kinh Thánh hầu như đã có một sự nhất trí rất cao về ý nghĩa của dụ ngôn này.
Ba lần này tương đương với ba giai đoạn trục trong lịch sử Cứu độ.
– Giai đoạn 1 bắt đầu từ khi Chúa chọn dân Do Thái cho tới cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.
– Giai đoạn thứ 2 bắt đầu từ Ngày lễ Ngũ tuần cho tới cái chết của tông đồ cuối cùng.
– Và giai đoạn thứ ba tiếp liền sau đó. Đó là thời kỳ lương dân được kêu gọi.
* Ở giai đoạn thứ nhất chúng ta thấy dân Do Thái là một dân được tuyển chọn để chuẩn bị cho sự xuất hiện của Chúa Cứu thế. Việc Chúa Cứu thế đến với con nguời là một hồng ân. Lý ra thì những người Do Thái phải là những người đầu tiên được hạnh phúc đón nhận hồng ân đó. Thế nhưng thực tế đã không xảy ra như vậy. Họ đã từ chối những ơn Chúa ban cho.
* Tới giai đoạn thứ hai chúng ta thấy, sau khi Chúa Giêsu về trời rồi thì đối tượng ưu tiên cho việc rao giảng Tin Mừng cũng vẫn là những người Do Thái, những người Do thái ở quê hương cũng như những người Do Thái hải ngoại. Thế nhưng lần này cũng như lần trước, những người Do Thái vẫn lãnh đạm với Tin Mừng. Thậm chí họ còn bắt các tông đồ mà giết đi.
Xin mở một dấu ngoặc ở chỗ này.
Rõ ràng ở đây chúng ta thấy: Những lý do khiến người ta khước từ lời mời gọi của Thiên Chúa không phải là những lý do xấu. Người thì ra ruộng, kẻ đi buôn, người thì làm nhưng công việc khác cần thiết cho đời sống của mình. Không ai khước từ để đi chơi bời, nhậu nhoẹt say sưa hay làm những việc vô đạo đức. Vậy phải chăng làm như thế là có lỗi? Ở dây chúng ta phải để ý đến điều này: Rất nhiều khi trong cuộc sống, con người thường hay để ý đến những điều tạm bợ và quên đi những giá trị cao hơn. Và thảm kịch của đời sống nhiều khi không phải là cái xấu nhưng nhiều lúc lại chính là cái tốt. Rất nhiều khi ta vì quá bận rộn mưu sinh mà quên lo cho chính cuộc sống, quá bận rộn vào việc tổ chúc đời sống mà quên đi chính đời sống của mình. Ngày xưa đã thế và ngày nay cũng vậy. Đức Thánh Cha Phanxicô gọi cuộc sống như vậy là cuộc sống nông cạn.
Ở đây Chúa đã không nhấn mạnh đến hình phạt. Ngoại trừ đối với những kẻ quá ác nhân ác đức: Bắt giết cả các đầy tớ của vua. Hình phạt thì ai cũng rõ: Thành Giêrusalem đã bị tàn phá vào năm 70.
* Và bây giờ xin được tiếp sang giai đoạn thứ ba. Đây là giai đoạn của lương dân nghĩa tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc được mời gọi….Trong số những người này có cả chúng ta nữa.
Tất cả được mời gọi do lòng quảng đại của vua.
Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta vào Hội thánh Ngài và chúng ta đã chấp nhận bằng cách lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Bí tích Rửa tội làm cho con người chúng ta thành Con Thiên Chúa.
Trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội Giáo Hội trao cho chúng ta một chiếc áo trắng với lời nhắn nhủ: Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận lấy chiếc áo trắng này và hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước tòa Đức Kitô Chúa chúng ta để được sống đời đời.
Bí tích Rửa tội là một hồng ân. Nhưng chỉ lãnh nhận mà thôi thì chưa đủ mà còn phải sống ơn Bí tích Rửa tội nữa. Nói thế có nghĩa là chúng ta phải thay đổi nếp sống cũ, thói quen xấu, tội lỗi trước đó, để sống đời sống mới theo gương của Chúa Giêsu như thánh Phaolô nói: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, (Rm 13,14) và trở nên đồng hình đồng dạng với Người (Phil 3,10). Nói khác đi, không phải cứ ghi tên vào sổ Rửa tội và Thêm sức là đương nhiên được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Cũng như khách được mời dự tiệc, tuy đã được vào phòng tiệc, không những không được ăn mà còn bị đuổi ra ngoài vì không mang lễ phục tiệc cưới thì những người đã được Rửa tội cũng tương tự như thế. Nếu không giữ được chiếc áo trắng tinh tuyền nghĩa là không có tâm hồn trong sạch thì họ không xứng đáng với những hồng ân Chúa ban.
Ơn Chúa ban là một hồng ân nhưng không, nhưng không phải là một hồng ân vô điều kiện. Muốn được hưởng hồng ân của Chúa con người tối thiểu phải có một số điều kiện nào đó.
Xin được kết thúc bằng một câu truyện nhỏ:
Alexandre đại đế lúc còn làm hoàng đế đã xây dựng đế quốc Hy lạp hùng mạnh vào thế kỷ IV trước Công Nguyên. Một ngày kia thấy một người lính lỗi bổn phận bị điệu đến trước mặt. Hoàng đế hỏi:
– Ngươi tên gì ?
– Thưa bệ hạ, thần tên là Alexandre.
– Như vậy là ngươi mang cùng một tên với ta!
Và Đại đế thịnh nộ nói lớn :
– Nhà ngươi hãy sống xứng đáng với tên của mình, nếu không thì hãy đổi tên đi!
Vâng hãy làm một cái gì đó cho xứng với hồng ân của Thiên Chúa. Tình thương của Chúa như giòng suối không bao giờ cạn. Cửa Trời chỉ rộng mở cho những ai vẫn luôn giữ được chiếc áo trắng tinh tuyền ngày họ được trở thành con Thiên Chúa. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_A
Lm Giuse Nguyễn Văn Nam
Trong Thánh kinh, hình ảnh “bữa tiệc” ám chỉ hạnh phúc Nước Trời và hình ảnh “được dự tiệc” chỉ việc được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Qua dụ ngôn “tiệc cưới hoàng tử”, Đức Giêsu hướng chúng ta về bữa tiệc Nước Trời được Thiên Chúa dọn sẵn và Ngài mời tất cả mọi người vào dự tiệc. Thiên Chúa muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời với Chúa. Thiên Chúa yêu thương hết mọi người “các đầy tớ ra các ngả đường, gặp ai bất luận tốt xấu mời vào dự tiệc”.
Những người đã được mời trước hết, nhưng họ không đáp lại lời mời của chủ tiệc, đó là những người Do Thái: những tư tế, luật sĩ, biệt phái… là những người được các tiên tri loan báo và chuẩn bị, họ được mời dự tiệc cưới Nước Trời là gia nhập vào Giáo hội của Chúa Kitô. Tin theo Chúa Kitô để được cứu độ, nhưng họ đã không chịu đến, không chấp thuận. Được mời dự tiệc là một ân huệ, vinh dự to lớn vì đây là tiệc cưới Hoàng tử, chính vua mời. Họ đã coi thường, khinh rẻ lời mời, xúc phạm đến nhà vua. Họ coi trọng công việc làm ăn, ham mê của cải vật chất: đi thăm trại, buôn bán, cưới vợ… Hơn nữa họ còn cả gan chống đối nhà vua bằng cách bắt các đầy tớ vua, nhục mạ và giết đi. Những hành vi từ chối này là trọng tội. họ phải chịu hậu quả khủng khiếp là bị tiêu diệt và thành phố của họ bị phá hủy. Việc cố chấp từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa thì không thể được ơn cứu độ.
Lòng yêu thương và sự kiên trì bao dung của Thiên Chúa vượt qua mọi sự thù nghịch ích kỷ ác tâm của con người. Thiên Chúa vẫn kêu mời con người đến dự tiệc cưới bất luận tốt xấu. Thế là phòng tiệc chật ních khác dự tiệc, đủ mọi hạng người. Đáp lại lời mời của chủ tiệc và đến tham dự. Đó là những người được mời sau. Còn những người trước không xứng đáng dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là người cha nhân từ, tình thương của Ngài thật bao la, những người tội lỗi là đối tượng của Lòng Chúa thương xót. “Những người từ phương đông phương tây dự tiệc Thiên Chúa với Abraham, Isaac và Giacob, còn con cái trong nhà bị loại ra ngoài” (Mt 8, 11).
Điều làm chúng ta ngạc nhiên là sự kiện nhà vua vào phòng tiệc quan sát thực khách và phát hiện một người không mặc y phục lễ cưới. Sự kiện này muốn nói đến sự phán xét cuối cùng mà Thiên Chúa nhận định người lành kẻ dữ và xét xử công minh. Người lành được hưởng hạnh phúc, kẻ dữ phải trừng phạt. Muốn được vào dự tiệc cưới Nước Trời, cần phải mặc áo cưới. Áo cưới ám chỉ những hoa quả Nước Trời, sự công chính, lương thiện, những hành vi bác ái yêu thương. Đó là những hành trang để được vào quê trời. Người thực khách không mặc áo cưới khi vua xét hỏi, anh ta im lặng vì không tìm được cớ để bào chữa cho mình, chính vì anh ta không làm việc lành phúc đức, không sống tốt.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc chúng ta tuy đã được gia nhập Giáo hội qua bí tích Rửa tội, nhưng chưa bảo đảm được ơn cứu độ, cần phải mặc áo cưới; nghĩa là phải sống đạo đức, lương thiện công chính… mới được chấp nhận vào dự tiệc Nước Trời ngày phán xét để được sống đời đời với Thiên Chúa.
Khát mong tha thiết nhất của Đức Giêsu là mọi người được cứu độ, được hạnh phúc đời đời: “Thầy đi dọn chỗ cho các con, Thầy ở đâu, các con ở đó với Thầy”. Chúa luôn mời gọi chúng ta dự tiệc Nước Trời. Điều quan trọng là chúng ta đáp lại lời mời gọi của Chúa vào dự tiệc để chia sẻ niềm vui cứu độ và hiệp thông với Ngài trong tình thương.
Nhìn vào cuộc sống người Kitô hôm nay, có rất nhiều người như những người Do Thái xưa thờ ơ lãnh đạm, coi thường lời kêu mời của Chúa, hơn nữa còn có thái độ chống đối, kiêu căng, bất công… bắt Thiên Chúa phục vụ mình thay vì phải yêu mến, tôn thờ và phục vụ Thiên Chúa. Địa vị, của cải trần gian đã cuốn hút họ, họ đi tìm thiên đàng trần gian mà quên đi hạnh phúc vĩnh cửu. Nhiều người luôn tự hào mình đạo gốc, đạo dòng, mà không sống đạo tốt, sống bất lương… Họ là những người đi dự tiệc mà không mặc áo cưới.
Hôm nay Đức Giêsu Kitô đến quan sát phòng tiệc, các thực khách, trong đó có cả chúng ta, tất cả mọi người vào ngày sau hết. Chúng ta có mặc áo cưới không? Có đủ hành trang vào dự tiệc Nước Trời để hưởng hạnh phúc đời đời không? Số phận mai sau của chúng ta tùy thuộc vào cuộc sống hôm nay: phấn đấu mỗi ngày để trung thành với Thiên Chúa, vì như lời Chúa phán: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”.
.
Trầm Thiên Thu
Vì lòng thương xót vô hạn, chính Chúa Giêsu đã xác định với các tội nhân chúng ta: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, KHÔNG MUỐN cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18:14). Thuở xưa, qua ngôn sứ Êdêkien, Thiên Chúa đã thề hứa: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề, Ta CHẲNG VUI gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng VUI khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33:11). Câu này chúng ta quen với cách nói này: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”.
Và rồi ngay trong thời đại chúng ta, Chúa Giêsu tiếp tục tái minh định qua Thánh nữ Maria Faustyna Kowalska: “Ta KHÔNG MUỐN phạt nhân loại, mà chỉ muốn CHỮA LÀNH, đưa nhân loại vào trái tim thương xót của Ta” (Nhật ký, số 1588). Đó là điều động viên chúng ta đừng thất vọng, chỉ cần chân thành tin tưởng và nỗ lực tu thân. Thất vọng về chính mình cũng có thể là một dạng kiêu ngạo!
Có ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi để chúng ta biết phải đi theo con đường nào và phương hướng nào: “Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh quang huy của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 60:19).
Tất cả chúng ta đều nhận được Thiệp Mời Thương Xót để tham dự Thánh Tiệc Thiên Quốc, nhưng đi hay không là quyền tự do của mỗi chúng ta, Ngài không ép buộc. Người Việt chúng ta thường nói: “Ăn có mời, làm có khiến”. Ở đây không có ý tiêu cực hoặc thụ động, nhưng có ý nói phép lịch sự tối thiểu trong giao tiếp thường nhật. Và người ta cũng so sánh: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Chắc hẳn ai cũng đã hơn một lần đi dự tiệc, dù là trẻ em, vì xã hội càng phát triển, người ta càng có nhiều loại tiệc: Cưới hỏi, tân gia, đầy tháng, thôi nôi, khai trương,… Không mặn nhiều cũng mặn ít, đơn giản nhất cũng là buổi tiệc trà. Trẻ em ngày nay cũng “luân phiên” mời nhau dự tiệc sinh nhật. Đúng là “phú quý sinh lễ nghĩa”, nhưng đôi khi cha mẹ đã lợi dụng dịp vui của con cái như thế để… “làm tiền”. Tốt hóa Tệ!
Khi đề cập “tiệc tùng” thì mặc nhiên nói đến “ăn uống”, vì bữa tiệc không thể không có ẩm thực. Và đó cũng là cách người ta ngụ ý rằng “chuyện ăn uống” là quan trọng, chứ không là “chuyện ăn uổng”, đúng như thành ngữ có câu: “Dân dĩ thực vi tiên”. Câu này ý nói rằng “nhân dân coi vấn đề ăn là vấn đề to lớn nhất, cơ bản nhất trong cuộc sống” (tr. 123, “Từ điển Thành ngữ Điển cố Trung quốc”, GS Lê Huy Tiêu biên dịch, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993), và câu này có nguồn gốc trong Hán Thư: “Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên” – Vua chúa lấy dân làm trời, nhân dân lấy (cái) ăn làm trời”. Quả thật, ăn là vấn đề cần thiết, vì liên quan vấn đề sinh tồn: “Có thực mới vực được đạo”. Chuyện ăn uống bình thường mà khác thường, cũng cần có văn hóa, và là bài học thứ nhất trong bốn thứ phải học đầu tiên trong đời người: Học ĂN, học NÓI, học GÓI, học MỞ. Có thể nói rằng miếng ăn cần thiết tương tự khí trời để hít thở, như điều kiện “ắt có và đủ” vậy. Nhưng hãy lưu ý, bởi vì miếng ăn có thể là miếng VINH hay miếng NHỤC. Như thế thì chuyện ăn uống không còn bình thường nữa!
Trong cuộc sống đời thường, mỗi khi gặp ưu sầu hoặc đau khổ, người ta phải cố gắng chịu đựng, hy vọng hạnh phúc sẽ đến sau. Về tôn giáo, các vị tuẫn đạo không sợ đau khổ, dám thí mạng vì vững tin vào Đức Kitô, và họ được Thiên Chúa thưởng công xứng đáng. Hai người yêu nhau, chung thủy và tin tưởng trong khoảng chờ đợi nhau, hạnh phúc sẽ mỉm cười với họ. Hệ lụy tất yếu là ai kiên trì sẽ được đền đáp xứng đáng.
Thuở xưa, ngôn sứ Isaia đã thông báo: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ ĐÃI muôn dân MỘT BỮA TIỆC: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25:6). Toàn là cao lương mỹ vị, rất ngon lành, đáng mơ ước lắm. Không chỉ vậy mà còn hơn thế nữa, niềm vui nhân lên gấp bội: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người” (Is 25:7-8). Thiên Chúa hứa như vậy, và chắc chắn xảy ra như thế.
Vì thế, thiên hạ sẽ cùng nhau râm ran vào ngày trọng đại ấy: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ” (Is 25:9). Rạch ròi hai năm rõ mười: “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ. Còn Mô-áp sẽ bị giày đạp ngay tại chỗ, như rơm bị nghiền nát trong hố phân” (Is 25:10).
Đức Tin luôn cần thiết, đó không chỉ là một nhân đức mà còn là một hồng ân. Tin có Chúa là có Chúa trong lòng, có Chúa rồi thì chẳng còn gì phải lo lắng, xao xuyến: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Một sự thật minh nhiên, đúng như Thánh Vịnh gia cũng đã từng xác định: “Hãy KÝ THÁC đường đời cho Chúa, TIN TƯỞNG vào Người, Người sẽ RA TAY” (Tv 37:5). Đó là hành động của Đức Tin, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa, Đấng quan phòng và tiền định. Những người thực sự tín thác vào Chúa thì chẳng còn gì làm họ sợ hãi, họ luôn hướng về Chúa mọi nơi và mọi lúc: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23:4). Lo cũng chẳng được, sợ cũng chẳng thoát, thế thì dại gì mà lo sợ, mà không tín thác?
Cuộc sống luôn biến động, nếu cuộc đời cứ bình lặng sẽ gây nhàm chán. Chính gian khổ khiến người ta nên khôn ngoan, và là tiêu chí để biết ai hơn ai kém. Sau gian truân, thử thách, đau khổ,… ai trung tín sẽ được Thiên Chúa tuyên dương công trạng: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:5). Như thế thì thật hạnh phúc biết bao, chắc hẳn người ta không thể trì hoãn niềm vui sướng đó, đến nỗi phải chia sẻ để người khác cùng biết: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6).
Có Chúa trong lòng, các tín nhân khả dĩ chấp nhận mọi thứ mà không than thân trách phận, giống như Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải” (Pl 4:12-14). Đối với những người có đức tin sâu sắc và mạnh mẽ, chắc chắn không gì có thể tách rời họ khỏi tình yêu của Đức Kitô (x. Rm 8:35), vì họ luôn tâm niệm lời của Ngài nhắn nhủ và động viên: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian!” (Ga 16:33). Ai cũng sợ đau khổ, nhưng được Thiên Chúa báo trước và quyết tâm theo Ngài, người ta sẽ có thêm can đảm.
Đã từng trải và với niềm tín thác kiên vững, Thánh Phaolô minh định để động viên các tín nhân: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu. Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta, đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Pl 4:19-20). Thiên Chúa là Đấng tín thành, mọi lời hứa của Ngài đều được hoàn tất.
Cũng là người đầy kinh nghiệm tâm linh, Thánh Vịnh gia khuyến khích bằng cách mời gọi mọi người: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9). Đối với bất cứ ai đã từng có ít nhiều cảm nghiệm về sự ngọt ngào của Thiên Chúa, họ hoàn toàn thay đổi lối sống, khác hẳn trước đó. Nhiều vị thánh đã chứng tỏ điều đó, chẳng hạn Chân phước Bartolo Longo (1841-1926, lễ ngày 5-10) đã từng theo giáo phái Satanist (tôn thờ ma quỷ) và tự phong mình là linh mục của Satan, nhưng ngài đã trở lại nhờ cảm nghiệm sự ngọt ngào của Thiên Chúa, hoặc như Thánh Augustinô đã phải nuối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng”. Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người đến với Ngài, bất cứ lúc nào, càng sớm càng tốt. Lòng Thương Xót của Ngài không thay đổi, chúng ta có được thương xót hay không là tùy thuộc chính mình.
Một trong các dạng xác định lời mời gọi chân thành của Thiên Chúa dành cho mọi người là dụ ngôn Tiệc Cưới, Ngài không muốn ai phải hư mất (Mt 18:14), Ngài rất muốn tất cả chúng ta trở nên hoàn thiện để xứng đáng đồng hưởng phúc trường sinh với Ngài mãi mãi.
Kể chuyện dụ ngôn là đặc điểm mỗi khi Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời hoặc giáo huấn. Một hôm, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn Tiệc Cưới mà nói với dân chúng. Ngài nói rằng Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Ông sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. Ông lại sai gia nhân đi mời quan khách đã được mời, nói rõ rằng cỗ bàn đã dọn xong, cao lương mỹ vị đã sẵn sàng. Nhưng rồi họ cũng không thèm đếm xỉa tới – kẻ đi thăm trại, người đi buôn bán, kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.
Khi nghe gia nhân tâu lại, nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã ĐƯỢC MỜI lại KHÔNG XỨNG ĐÁNG. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (Mt 22:8-9). Tuân lệnh vua, các đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp bất kỳ ai cũng mời cả vào phòng tiệc cưới, không phân biệt họ là người xấu hay người tốt.
Giờ G đã điểm, thời điểm quan trọng là cử hành hôn lễ. Khi đó, nhà vua tiến vào và quan sát các thực khách trong phòng tiệc, ông chợt thấy ở đó có một người KHÔNG mặc y phục lễ cưới nên hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22:12). Người ấy cúi đầu lặng thinh, không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục vụ: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được GỌI thì nhiều, mà người được CHỌN thì ít” (Mt 22:13-14).
Ôi, thật đáng sợ biết bao! Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Gọi nhiều, chọn ít”. Vậy là ít người được vào Nước Trời? Rất có thể. Bởi vì người ta chỉ “giật mình” khi nghe lời Chúa “chạm” đến mình, nhưng rồi đâu lại vào đấy. Con người vốn yếu đuối, dễ “lờn thuốc”, không cố gắng thì lại “ngựa quen đường cũ”, lại sa đà ngay thôi. Có phải chúng ta đã được “cài đặt” mặc định với cái tên “Nguyễn Y Vân” (vẫn y nguyên) hoặc “Vũ Như Cẩn” (vẫn như cũ) chăng? Tương tự, người ta cũng thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”. Thực sự rất khó để “cởi bỏ” con-người-cũ để có thể “mặc lấy” con-người-mới. Vì thế mà phải tỉnh thức và nỗ lực rất nhiều, nỗ lực không ngừng, nỗ lực triền miên. Ước gì chúng ta được là người có tên trong danh sách “số ít được chọn” ấy!
Ngay ở thế gian này, hằng ngày chúng ta cũng vẫn được mời gọi tham dự hai bữa tiệc: Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Thật vậy, trong mỗi Thánh Lễ, linh mục đại diện Chúa Giêsu vẫn tha thiết mời gọi: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Thật là diễm phúc nếu chúng ta đón nhận chính Đức Giêsu Kitô vào lòng để được hòa tan vào Ngài, tâm sự với Ngài. Sau khi rước lễ, hãy dành những giây phút ngắn ngủi mà quý giá đó để “hòa tan” vào Đức Giêsu Kitô – hòa tan cả linh hồn và thể lý.
Vì yêu thương chúng ta đến cùng nên Chúa Giêsu luôn rất muốn ở gần chúng ta, Ngài không muốn chúng ta xa rời Ngài dù chỉ trong tích tắc, thế nên Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể để được ở trong chúng ta, đúng như lời hứa của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Tình yêu của Chúa Giêsu quá lớn, chúng ta không thể hiểu thấu. Lời hứa đó của Chúa Giêsu cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, và cũng chỉ có Phúc Âm này ghi lại câu này.
Kinh Thánh nói: “Người no, tảng mật cũng coi thường, kẻ đói thấy đắng cay cũng ngọt” (Cn 27:7). Chúng ta phải nhận biết mình “đói khát” thì mới mau mắn chấp nhận lời mời dự tiệc của Lòng Chúa Thương Xót, Tiệc Cưới Nước Trời vĩnh hằng, nếu không nhận biết mình “đói khát” thì không muốn đi dự tiệc mặc dù tấm thiệp đã cầm trong tay.
Lạy Thiên Chúa hằng hữu chí thánh, con chân thành cảm tạ Ngài luôn cho con tận hưởng Yến Tiệc Hồng Ân Thương Xót, xin giúp con biết chuẩn bị “áo cưới” để xứng đáng tham dự Tiệc Lời Chúa, Tiệc Thánh Thể, và cuối cùng là Tiệc Nước Trời. Xin đốt lửa tình mến trong linh hồn con để con có thể say sưa yêu mến Thánh Thể, Con Yêu Dấu của Cha, không phải để bù đắp, vì con không thể bù đắp, nhưng là để con được hưởng Nguồn Sống dồi dào và vô biên của Thánh Thể. Lạy Thánh Phụ, không có Thầy Chí Thánh Giêsu thì con chỉ là kẻ hoàn toàn vô duyên và vô dụng mà thôi, xin giúp con sống khiêm nhường thực sự. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
CẦN CÓ Y PHỤC XỨNG HỢP KHI DỰ TIỆC HOÀNG TỬ GIÊSU
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Theo truyền thống, phong tục của nhiều dân tộc xưa, mỗi khi nhà vua cưới cho hoàng tử, thì các đại thần được ưu tiên mời, đồng thời mọi người dân cũng được hưởng ân lộc đó của nhà vua.
Còn với chúng ta hiện nay, không nhiều thì ít, hẳn mỗi người cũng đều được mời đi dự tiệc cưới của một ai đó.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật câu chuyện Vua mở tiệc cưới cho Hoàng Tử. Một đám cưới rất đặc biệt cho cả người thiết đãi lẫn khách dự tiệc! Cách hành xử của Vua cũng như quan khách lại rất khác thường!
- Ý nghĩa dụ ngôn
Trong dụ ngôn, chúng ta thấy Đức Giêsu đã khéo léo trình bày dung mạo của Thiên Chúa với lòng bao dung, độ lượng; đồng thời thấy được sự ích kỷ của khách mời. Mặt khác, Đức Giêsu còn mặc khải cho chúng ta biết rằng: hết mọi người đều được mời đến tham dự tiệc Nước Trời. Tuy nhiên, khi được mời thì cần phải có y phục xứng đáng.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn:
Trước tiên, ông Vua chính là Thiên Chúa Cha: “Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25, 6). Người luôn chuẩn bị sẵn sàng: “Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng”. Tuy nhiên, không chỉ những người ưu tuyển, mà Người còn quan tâm, để ý đến mọi người: “Hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”.
Qua hình ảnh này, thần dân sẽ cảm thấy Người là vị Vua nhân hậu, hay thương xót và quảng đại với hết mọi người.
Thứ đến, Hoàng Tử chính là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Đây là hình ảnh đẹp tuyệt vời diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Hoàng Tử sẽ sống hết mình vì Hôn Thê. Chàng Rể này vì vâng lời Cha và yêu Hôn Thê của mình, mặc dù nhiều khi Hôn Thê phản bội, cố chấp, do sự hận thù, ích kỷ, bảo thủ, bất trung, bội nghĩa. Nhưng vị Hoàng Tử đặc biệt này đã sẵn sàng đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả, yêu thương tất cả, đến nỗi chết cho người mình yêu.
Tiếp theo, khách được mời là dân Dothái, tuy nhiên họ đã khước từ và lấy lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”, vì thế, nhà Vua đã quyết định mời hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà Vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!
Cuối cùng là y phục lễ cưới: tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục của lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.
Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây chính là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.
Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tuy nhiên, thật tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.
Như vậy, qua bài Tin Mừng, Đức Giêsu trình bày dung mạo một vị Vua hiền hậu lạ lùng: Ông tự ý mở tiệc và cho các đầy tớ hết lớp này đến lớp khác đi mời, dù khách được mời không thèm đến, lại còn giết các sứ giả được sai đến với họ.
Dung mạo vị Vua càng hiền hậu bao nhiêu thì càng làm nổi bật sự vô ơn bất xứng của khách được mời bấy nhiêu. Họ tỏ ra khinh mạn, hỗn xược với tấm lòng quảng đại của nhà Vua.
- Thái độ của chúng ta trước lời mời gọi của Chúa
Trong đời sống Đạo của chúng ta hiện nay, nhiều khi không khác gì những người Dothái. Nên vẫn còn đó tình trạng: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”; hay không quan tâm đến việc sống đạo, mà chỉ quan tâm đến chuyện bề ngoài; hoặc không muốn nghe những lời giáo huấn của Chúa qua các đấng bậc trong Giáo Hội.
Tất cả đều khởi đi từ sự kiêu ngạo và ích kỷ. Họ để cho cái tôi quá lớn và coi mình đã đạo đức đủ nên không cần nghe và cũng chẳng có gì phải sửa!
Vì kiêu ngạo, nên không thể chấp nhận sửa sai, dù đó là Lời Chúa dạy.
Vì ích kỷ nên khó lòng chấp nhận ngồi lại với nhau để làm việc… bởi nghĩ rằng người anh chị em chúng ta không xứng tầm với mình, nên chẳng cần quan tâm.
Những người như vậy, họ như ly nước đã đầy, nên không thể tiếp thêm cho dù chỉ một giọt nước. Hay như mảnh đất quá khô cằn, nhưng khi mưa xuống thì họ lại che đậy lại, khiến nước mưa không thể tiếp xúc…
Sự hóng hách, khinh thường, chê bai, chỉ trích, bè phái… luôn luôn thường trực trong trái tim vốn đã hóa đá của họ, vì thế, nơi họ, không ai lấy đi được khỏi mắt họ cặp kính râm, vì thế họ nhìn mọi sự trước mắt đều là màu đen… tiêu cực.
Quả thật, họ đâu nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho mình, nên việc khước từ ơn Chúa đến như những người được mời dự tiệc mà không hề để ý đến thiện tình của ông chủ là lẽ đương nhiên nơi những con người này.
- Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đến tham dự bàn tiệc Nước Trời. Một cách cụ thể, đó là chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa hằng ngày nơi thánh lễ. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!
Mỗi khi chúng ta hiệp dâng thánh lễ, ấy là lúc chúng ta được Thiên Chúa mời gọi vào dự bữa tiệc của tình yêu, chia sẻ, hiệp nhất. Khi được mời gọi như thế, hẳn chúng ta phải có một tâm hồn trong sạch để xứng đáng với hồng ân cao trọng này.
Đồng thời mỗi người chúng ta khi tham dự tiệc Thánh Thể, cần mặc lấy tinh thần tự hủy, liên đới vì tha thân để noi gương Đức Giêsu yêu thương hết mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn “hai người con” (CN 26 A) và “các tá điền sát nhân” (CN 27 A) thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi vì gọi thì nhiều mà chọn thì ít.
1. Tính phổ quát của ơn cứu độ
Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt. Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).
a. Điều khó hiểu
– Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện. Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử. Vậy mà các khách được mời đều từ chối. Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán”. Thánh Luca thì ghi tới ba lý do: “Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19). Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân. Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người. Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.
– Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông đòi ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc.
b. Ý nghĩa dụ ngôn
Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn “hai người con” (21,28-32) và “các tá điền sát nhân” (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và pharisiêu.Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống. Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.
2. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc
Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng, họ đã từ chối đặc ân. Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới :người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…
Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.
Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rễ. Chúa Giêsu là chàng rễ, Giáo hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đền bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).
Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.
Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Những người tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa Nhật.
Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh họat xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự thánh lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa. Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những tiêu cực. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi bận bịu.
Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.
3. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.
Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo, trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là
Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”
Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa Nhật, các Kitô hữu mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.
Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi; y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.
Rất nhiều khi chúng ta đã coi thường bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta đến nhà Chúa với một tâm hồn không chuẩn bị gì, chẳng có tâm tình cầu nguyện, và cũng không chịu lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa hôm nay cảnh cáo thái độ khinh thường đó rằng: “Trói chân tay nó lại, ném nó vào nơi khóc lóc nghiến răng ! Vì những kẻ được mời gọi thì nhiều, còn những người được chọn thì ít”.
Y phục phải xứng với kỳ đức. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với anh chị em đồng loại.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Augustinô)
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Dụ ngôn tiệc cưới Nước Trời,
Thành hôn hoàng tử, thiệp mời đã trao.
Đức vua chuẩn bị khai mào,
Gia nhân đón tiếp, mời vào tiệc vui.
Khách mời xin khất rút lui,
Lý do thăm trại, không lùi được đâu.
Kẻ thì buôn bán hoa mầu,
Anh kia cưới vợ, cau trầu phải lo.
Dân làng bắt bớ giằng co,
Khinh khi nhục mạ, giở trò xấu xa.
Sẵn sàng tiệc rượu mở ra,
Số người không xứng, tâm tà bỏ qua.
Ra đường mời gọi người ta,
Gặp ai bất luận, vào nhà chúc khen.
Kẻ giầu, người khó, sang hèn,
Phòng ăn chật ních, bon chen số người.
Vua vào quan sát mọi nơi,
Có người khách lạ, không lời trình thưa.
Chẳng đồng y phục giả lừa
Đức vua kết tội, kéo đưa ra ngoài.
Mọi người đều được mời vào dự tiệc cưới Nước Trời. Tiệc đã sẵn sàng, thịt thì béo và rượu thì ngon. Ấy thế mà nhiều người đã từ chối dự tiệc.
Dụ ngôn trong bài Phúc âm rất hay. Vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Các thiệp đã được mời từ sớm, vậy mà đến ngày hôn lễ, nhiều người đã không đến tham dự. Mỗi người một lý do chối từ. Người thì đi buôn, kẻ thì mới cưới vợ và người thì mới tậu ruộng cần đi thăm. Họ có đủ lý do để từ chối không dự tiệc. Có nghĩa là họ không có thời giờ, bận quá mà.
Trong cuộc sống, chúng ta cũng không tránh khỏi những lúc bận bịu lo công việc. Chúng ta không có thời giờ cho gia đình, cho con cái và cho các sinh họat cộng đoàn. Thậm chí không có giờ đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày 24 giờ, nhưng hình như qúa ít, không đủ để sống. Chúng ta muốn có nhiều giờ hơn cho chúng ta.
Chuyện kể: Một buổi sáng trời tuyết lạnh, có hai bà đứng nói truyện ngòai trời tuyết gần 2 tiếng đồng hồ. Khi bà xã vào nhà, chồng hỏi: Nãy giờ em nói truyện với ai thế. Vợ trả lời: Em nói truyện với bà hàng xóm. Chồng nói: Tại sao em không mời bà ấy vào nhà nói truyện cho khỏi lạnh. Chị ta trả lời: Không có thời giờ. Không có giờ là thế đấy!
Chúa mời gọi chúng ta vào dự tiệc cưới Nước Trời. Cũng như Chúa mời gọi chúng ta tham dự Bí Tích Thánh Thể. Chính Chúa hiến thân làm của lễ và của ăn nuôi dưỡng chúng ta.
Rước Mình và Máu Chúa là được thông hiệp vào màu nhiệm cứu độ. Thánh lễ là hình ảnh tiệc cưới Nước trời mai sau. Mỗi người chúng ta hãy cố gắng dành thời giờ tham dự thường xuyên tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể.
.
Lm. Jos. DĐH.
Ngơ ngác như kẻ mất hồn, có thể hiểu kẻ đó đang yêu hoặc thất tình, người không có tâm hồn ăn uống, hoặc là no bụng, hoặc là đau bệnh. Mức độ trầm trọng hơn, không tha thiết ăn uống, dư luận còn xem là bất thường, chán đời, đối với họ, hiện tại, tương lai, chỉ một mầu xám ! Đại đa số chúng ta đều thuộc câu thành ngữ: ăn có mời, làm có khiến, nói văn hoa một chút: lời chào cao hơn mâm cỗ, do đó nếu đã mời chào, mà họ không hưởng ứng, dửng dưng chuyện ăn uống, dù vô tâm, kiêu căng hay chảnh, đều bất lịch sự. Khi đứng ra tổ chức tiệc mừng, tiệc vui, nếu số khách mời và cỗ bàn tương ứng, thường được gọi là tài giỏi, biết tính toán, dù người chủ tiệc không thích khen.
Vua Hùng Vương thứ 18 có một người con gái tên Mỵ Nương, xinh đẹp toàn diện. Nhà vua rất muốn kén chọn cho công chúa người chồng thật xứng đáng. Nhưng một hôm có hai chàng trai cùng xuất hiện, xin cưới Mỵ Nương, vì cả hai rất tài giỏi, nên vua cha đã ra điều kiện, sáng hôm sau ai mang lễ vật tới trước sẽ được cưới công chúa. Hôm sau, Sơn Tinh đã mang tới đủ lễ vật: voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, và Sơn Tinh đã cưới được công chúa xinh đẹp. Cánh cửa nên vợ thành chồng của truyền thuyết quả là chật hẹp, Sơn Tinh được thì Thuỷ Tinh mất, hoặc cánh cửa “phu thê” không thể có ba người, nên đã có thắng có thua. Truyền thuyết chỉ muốn nói tới một thông điệp: trai tài gái sắc chính là cơ duyên, là động lực giúp họ nên mạnh mẽ và sẽ suốt đời sống bên nhau, dù phải vượt qua nhiều khó khăn thách thức.
Khác với dụ ngôn nhà vua mở tiệc cưới cho hoàng tử, trước hết nhà vua sai các sứ giả đi mời khách đến tham dự bàn tiệc. Sau đó nhà vua lại cho người đi loan tin: “này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng, xin mời các ông đến dự tiệc cưới”. Dụ ngôn cho thấy cánh cửa hạnh phúc luôn rộng mở chờ đón mọi thành phần, tiệc cưới của hoàng tử không giới hạn một số ít người tài sắc, hay xinh đẹp, có vị thế xã hội. Cửa phòng tiệc rộng mở không nhằm phô trương sự sang giầu của nhà vua, nhưng có ý giới thiệu về tấm lòng quảng đại với tất cả mọi người, bất luận giầu nghèo sang hèn. Vì tiệc cưới của hoàng tử chỉ là hình bóng của “tiệc nước trời”, do đó đã có sự thờ ơ, xem tiệc nước trời giống như bữa tiệc trần gian, coi cơm áo gạo tiền, của cải vật chất hơn tất cả !
Dụ ngôn nhà vua mở tiệc cưới cho hoàng tử, phản ánh một thực tại, con người thường có nhiều lý do đến độ vô tâm vô tình, từ chối vinh dự, dù là tiệc nhà vua mời. Người chủ tiệc có vị thế, có uy tín, cũng khó lòng thu hút được số khách mời như ý. Dụ ngôn không có ý giới thiệu nước trời chỉ là chuyện ăn uống, muốn hưởng ứng hoặc từ từ rảnh rỗi sẽ tham dự sau. Từ chối hay nhận lời hiện diện với chủ tiệc không phải là một ràng buộc, đúng hơn là một minh chứng ông chủ rất quảng đại, và luôn trân trọng tự do của người tham dự. Hạnh phúc nước trời hằng rộng mở cho mọi đối tượng, nhưng để đạt tới niềm vui hạnh phúc trọn vẹn, tất cả đều phải tuân thủ quy định, “mặc áo cưới”.
Cách sống thực dụng của người ta hôm nay là lo bồi bổ tri thức, mở rộng tầm nhìn, dao dịch làm ăn với đối tác, cùng nhiều những thoả thuận ngầm, hầu thu về lợi nhuận kinh tế tốt nhất, lúc nào cũng hấp dẫn. Thực ra thì cơ hội làm giầu vất chất, và thời gian để làm con cái nước trời hoàn toàn trái nghịch nhau, đi ăn tiệc rượu ở trần gian người ta cần phải có quà mừng, tiền mừng ; đi tham dự tiệc nước trời ai cũng cần phải hiểu, biết, và sống đức ái Kitô. Ngày hôm nay, nghe dụ ngôn nhà vua mở tiệc cưới cho hoàng tử, chúng ta vẫn nghe, còn việc tự do nhận lời đến tham dự bàn tiệc thiên quốc hàng ngày, hàng tuần, đó chính là cơ may Thiên Chúa hằng ưu ái rộng mở tình thương yêu cho từng người chúng ta.
Xã hội thời nào cũng có những người mua sắm, trưng diện, kiếm tiền, và cuộc sống không phải chỉ có ăn uống, tiệc rượu hoặc tìm kiếm cánh cửa hạnh phúc một vài năm hoặc vài chục năm. Cha ông chúng ta có câu: khôn đâu đến trẻ, khoẻ đâu đến già, các ngài hẳn có ý nhắc hậu thế, khôn ngoan và kinh nghiệm rất quý báu, sức khoẻ và thời gian sẽ có giá trị biết bao, cần phải biết tận dụng. Khi kể dụ ngôn mời dự tiệc cưới, Chúa Giêsu muốn mọi người hiểu rằng, đừng bao giờ ỉ nại tôi là người công giáo, đương nhiên tôi sẽ phải có chỗ trong bàn tiệc nước trời. Chúa Giêsu xưa và nay Ngài vẫn sai các sứ giả đến trực tiếp thức tỉnh mỗi người, đừng quá bận rộn với nhu cầu vật chất để rồi quên lời mời của Chúa hoặc từ chối bàn tiệc nước trời.
Đến với bàn nhậu, người ta chỉ cần quý mến nhau một chút là đủ không say không về. Đến với bàn tiệc Thánh Thể, người kitô hữu phải mang “chiếc áo tâm hồn” thanh sạch ; để tham dự tiệc Thiên Quốc, mỗi người phải có sự chuẩn bị, và tuân thủ giáo huấn mà Chúa Giêsu đề nghị. Đi dự tiệc cưới của con cháu, bạn bè, chúng ta phải có thủ tục tặng quà…, đi dự tiệc cưới, tiệc sinh nhật, người ta có trang phục hợp thời để được kính trọng ; đi dự tiệc nước trời, Chúa Giêsu cho biết là phải mặc áo cưới, có tâm hồn sạch đẹp nghiêm túc. Cánh cửa nước trời lúc nào cũng rộng mở, dĩ nhiên, Chúa Giêsu không nói đến chiếc áo theo nghĩa thông thường, mà có ý nói tới thái độ và đức tính bên trong, đúng hơn là tinh thần yêu mến mà chúng ta phải thực hiện. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có 3 người được diễm phúc gia nhập Hội thánh Công giáo. Trong số một trăm người đang sống trên giải đất Việt Nam, chỉ có 7 người có cơ may gia nhập Hội thánh Công giáo. Chúng ta cũng được may mắn thuộc về thiểu số nầy. Đây là hồng phúc lớn cho chúng ta. Qua dụ ngôn “Tiệc cưới” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su yêu cầu chúng ta, với tư cách là những vị khách được mời dự tiệc, phải bận y phục lễ cưới.
Khi mặc đồ tang chế mà đi dự tiệc cưới, người ta nghĩ là bạn bị khùng và xua đuổi bạn tức khắc. Khi bước vào bệ kiến Đức Vua mà còn mặc nguyên bộ đồ ngủ thì không khỏi bị kết tội khi quân. Khi bước vào quân ngũ mà ăn mặc rách rưới như kẻ bần cùng, thiếu tác phong quân nhân, thì bạn sẽ bị tống cổ ra ngay vì làm ô danh quân đội.
Hội thánh của Chúa luôn mở rộng cửa tiếp nhận tất cả mọi người từ khắp muôn phương bất kể sang hèn tốt xấu, nhưng một khi đã gia nhập đại gia đình nầy, các thành viên phải cởi bỏ tấm áo xấu xa để khoác lên người trang phục xứng đáng, nghĩa là phải có những phẩm chất phù hợp với Tin mừng.
Một con sâu tuy nhỏ nhưng cũng đủ để làm rầu nồi canh. Vài ba giọt mực tuy không nhiều nhưng cũng đủ để làm hư tấm vải trắng. Chỉ một ít tín hữu sống trái nghịch với Tin mừng và giáo huấn Hội Thánh, cũng đủ để làm cho khuôn mặt của Giáo hội trở nên khó thương trước mặt người khác.
Vì thế, một khi đã gia nhập Hội thánh mà cách ăn thói ở không phù hợp thì chúng ta sẽ bị Thiên Chúa lên án nặng nề. Đoạn Tin mừng sau đây nhắc nhở chúng ta điều đó.
“Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô
Trong cuốn “Tự thú”, Augustino thuật lại kinh nghiệm đáng nhớ sau đây: Hôm đó, Anh bị giằng co xâu xé mãnh liệt trong nội tâm giữa một bên là cải thiện đời sống để trở về với Chúa và một bên là đừng vội trở về với Chúa để hưởng thêm lạc thú trần gian. Sự xung đột nội tâm nầy gay gắt đến độ Augustino gào khóc cách cay đắng và nài xin Chúa ban ơn giải thoát.
Ngay lúc bấy giờ, Augustino nghe có tiếng như tiếng hát trẻ con từ nhà bên cạnh vọng lại: “Hãy cầm lấy mà đọc, hãy cầm lấy mà đọc…”
Nhận ra đó là tiếng Chúa nói với mình, Augustino vào phòng, chộp lấy Thánh thư của thánh Phao-lô và đọc ngay đoạn đang mở ra trước mắt: “Anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).
Augustino bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy đây quả là những lời Chúa nói riêng với mình. Thế là từ đây, Anh từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô. Anh được lãnh bí tích Thánh tẩy vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa để trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên giám mục và trở thành vị thánh chói ngời, đồng thời cũng là tiến sĩ Hội thánh.
Trong ngày chúng ta lãnh bí tích Thánh tẩy, ngày chính thức gia nhập Hội thánh, chúng ta cũng được mời gọi mặc lấy Chúa Ki-tô. Bấy giờ, linh mục chủ sự thay mặt Hội thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Ki-tô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời”.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con đừng luyến tiếc áo cũ đã hoen ố vì vô vàn thói xấu tật hư. Xin ban thêm sức mạnh để chúng con dứt khoát cởi bỏ nó để quyết tâm mặc lấy áo mới, mặc lấy Đức Ki-tô, mang những tâm tình cao đẹp như Chúa, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa… Nhờ đó, chúng con sẽ được cùng với Chúa dự tiệc vui muôn đời.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Một trong những cung cách giảng dạy của các danh sư là dùng các câu chuyện kể. Khi sinh thời, Chúa Giêsu cũng đã từng làm người kể chuyện. Cách kể chuyện của Chúa hẳn rất có duyên khiến cho đám đông thính giả say sưa nuốt từng lời, từng câu nói. Chúa Nhật XXVIII TN A này, Mẹ Hội Thánh cho chúng ta nghe lại câu chuyện Chúa Giêsu kể năm nào: “Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử. Đến hẹn, vua sai gia nhân đi mời quan khách…”. Ngày xưa, đi dự tiệc cưới của hoàng cung có phải mang theo quà cáp hay phong bì chăng? Ngày nay rất nhiều người cứ đến mùa cưới là như trong tư thế sẵn sàng đi trả nợ đời. Cứ mỗi tấm thiệp mời ăn cưới là một tờ giấy báo nợ không bằng. Tìm được cớ hợp lý để thoái thác tham dự một tiệc cưới kể như lập một chiến công, dù không trọn vẹn, vì cũng phải nhờ người gửi quà biếu, nhưng chí ít cũng tiết kiệm được một buổi công làm. Tuy nhiên hầu hết đây là những trường hợp “được hoặc bị mời”, kiểu phải đáp lễ, ít có liên hệ họ hàng hay thân thuộc.
Trở lại với câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể. Được đức vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử quả là một vinh dự to lớn mà nhiều người thời phong kiến hằng ước ao. Không chỉ vì mình được nhà vua sủng ái mà còn có nhiều vận hội lớn, mỗi khi được dịp vào hoàng cung thì được dịp gặp gỡ nhiều vị quyền chức cao trọng. Hơn nữa, ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rõ sự hào phóng của đức vua: Thịt thì béo, rượu thì ngon mà khỏi phải trả đồng nào (x.Is 25,6; 55,1). Thế mà những người được mời lại hờ hững và từ chối với những lý do không chút gì tương xứng: đi thăm nông trại, đi buôn bán. Có kẻ lại bắt đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết! Không thể hình dung và cũng chẳng thể hiểu được. Đây là chuyện như không tưởng vì đáng bị tru di cửu tộc.
Chuyện hình như không thể xảy ra trong đời thường thì lại rất có thể có trong đời sống đức tin, và thực sự đã hiển nhiên với lịch sử đoàn dân được tuyển chọn ngày xưa. Israel được Thiên Chúa ưu ái mời gọi đến hưởng nhận bao ân phúc của Người, dù họ chỉ là một dân nhỏ bé giữa các dân, chẳng có gì xứng đáng. Tất thảy chỉ vì tình Chúa bao la. Chúa sủng ái họ cách đặc biệt hơn các dân. Thế mà khi sai các đầy tớ là các sứ ngôn đến mời gọi thì họ lại chối từ và còn nhẫn tâm hãm hại các ngài. Chính sự vô tình và sự nhẫn tâm của họ đã kết án họ, đã loại họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và rồi muôn dân khắp thiên hạ đã được mời vào dự tiệc của Thiên Chúa. Thiên hạ sẽ từ Đông chí Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc Nước Thiên Chúa, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài. Người ta bị loại ra chỉ vì thiếu một tấm lòng.
Chúa Giêsu kể thêm một câu chuyện khác cũng về tiệc cưới của hoàng tử. Khi đức vua vào phòng tiệc thì thấy một người không mặc y phục lễ cưới. Đi dự một đám cưới mà trên người chỉ có chiếc “may – ô” và cái quần cộc hay với bộ đồ đen của “đám tang” thì quả là xấc xược với đôi tân hôn, với chủ tiệc và với cả quan khách. Lại còn ương ngạnh, không thèm trả lời khi được chất vấn, thì quả là người chẳng coi ai ra gì, đúng hơn là chẳng biết nghĩ đến kẻ khác. Đi dự một lễ hội, tiệc tùng hay đình đám thì chuyện mặc y phục gì, kiểu dáng ra sao, màu sắc thế nào…không nguyên là để làm đẹp bản thân mà tiên vàn là để tôn trọng chủ nhà, tôn trọng nội dung, bầu khí buổi lễ, buổi tiệc…Đã là người biết nghĩ, thì không ai ăn mặc hở hang, lòe loẹt đi dự đám tang và cũng chẳng có ai mặc toàn màu đen đi dự đám cưới.
Nguời không biết nghĩ đến kẻ khác thì không xứng đáng dự tiệc nước trời, vương quốc của tình yêu. Vào đạo, gia nhập Hội Thánh…mà chỉ biết lo cho bản thân mà thôi, cho dù là phần rỗi linh hồn mình, thì không xứng đáng lãnh nhận ân tình của Chúa. Chốn khóc lóc và nghiến răng là nơi dành cho những kẻ chỉ biết sống cho riêng mình.
Được làm con cái Chúa thì phải lấy danh Chúa làm trọng. Nguyện xin cho danh Cha cả sáng. Được làm tín hữu trong Hội Thánh thì phải mến yêu người mẹ sinh ta trong đức tin. Xin gìn giữ Hội Thánh Chúa trong chân lý và bình an. Được làm con dân nước Việt thì phải đồng hành với dân tộc trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Xin cho quê hương được thái bình thịnh vượng trong công lý. Những lời cầu xin cũng là những ý chỉ giúp định hướng cuộc đời chúng ta, hành vi của chúng ta.
Đã từng có những ngày, truyền thông đại chúng nước nhà đất Việt chúng ta dùng xảo kế làm méo mó chân dung một vài đấng bậc trong Hội Thánh, gieo rắc ác cảm nơi tâm hồn nhiều bà con lương dân và khác đạo. Tín hữu Công giáo bị đàn áp, bị đối xử bất công nơi này nơi kia trên thế giới và cả trên quê hương mình. Là người đang cùng chung bữa căn nhà Hội Thánh, chúng ta hẳn đau xót. Thế nhưng, sau một vài ngày, một vài tuần, lòng ta có lại dửng dưng như chưa có chuyện gì xảy ra? Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai tự bằng lòng với một vài lời kinh hiệp thông cầu nguyện để che dấu tấm lòng ích kỷ chỉ lo cho riêng mình, sợ bị phiền toái, sợ bị bách hại hay sợ ảnh hưởng đến đường thăng tiến tương lai.
Trước tình cảnh đất nước nhiễu nhương vì nạn tham nhũng, gian dối, bạo lực, bất công… là đồng bào, là người con cùng một dạ mẹ tổ quốc, chúng ta có dừng lại ở một vài xuýt xoa, than thở, tán gẫu vỉa hè…để rồi phủi tay xem như chuyện của người khác phải lo, phải liệu, chứ không phải của tôi? Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai đóng khung các mối lo toan bằng vòng tay của bản thân hay các cánh cửa gia đình riêng mình.
Lạy Chúa xin cho chúng con có một tấm lòng.
.
JM. Lam Thy
Dụ ngôn về tiệc cưới được coi là những hình ảnh sống động nhất trong các dụ ngôn mà Chúa Giê-su nói về Nước Trời. Bởi tiệc cưới là sự vui mừng, thân thiện và nhất là đề cập tới hạnh phúc của gia đình. Tiệc cưới dân dã nơi một vùng quê, bình thường thì chủ hôn mời cả làng đến dự cho đông vui và cũng thể hiện tình làng nghĩa xóm vui buồn ấm lạnh có nhau. Tuy nhiên, tiệc cưới ở thành thị có khác hơn, khách mời được chọn lọc từ những mối dây thân tình, thân tộc; thậm chí nhiều khi ở liền vách với nhau cũng không được mời vì lý do này nọ. Đến như tiệc cưới cung đình thời phong kiến tuy cách tổ chức thật lộng lẫy xa hoa, nhưng khách được mời lại càng được chọn lọc kỹ càng, dân đen đừng hòng được tham dự. Như thế để thấy được cái lạ lùng nơi tiệc cưới trong bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVIII/TN-A – Mt 22,1-14).
Cái la lùng thứ nhất không phải ở chỗ nhà vua chọn lọc khách mời, nhưng ở chỗ khách được mời thay vì vui mừng hãnh diện, mau mắn áo quần bảnh bao tới dự, thì lại tỏ ra thờ ơ, lơ là chẳng thèm để ý. Đến khi được nhắc nhở, không những đã không nhìn thấy cái sai của mình, mà còn chống đối lại chủ tiệc bằng cách sỉ nhục và giết chết những đầy tớ được sai đi nhắc lại lời mời dự tịêc. Chính vì thế, nhà vua mới giận dữ tru diệt những khách mời hết sức lạ lùng ấy, và sau đó nhà vua hạ lệnh mời tất cả mọi người bất kể quan hay dân, nội hay ngoại. Đó chính là cái lạ lùng tiếp theo của tiệc cưới này. Những cái lạ lùng ấy cho thấy đây không phải là một tiệc cưới ở trần gian, dù cho đó có là một tiệc cưới đặc biệt nơi cung đình những triều đại phong kiến đầy xa hoa kiểu cách.
Khi kể dụ ngôn này, Đức Giê-su Ki-tô muốn nói đến tiệc cưới Nước Trời. Và cũng chính điều đó đã cho thấy cái ngụ ý trong dụ ngôn, Đức Giê-su Ki-tô muốn nói đến lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa đối với nhân loại, mà chính Người đóng vai trò chủ yếu. Có thể thấy được 2 giai đoạn lịch sử cứu độ qua dụ ngôn: Giai đoạn đầu là giai đoạn dân It-ra-en được chọn mời, nhưng họ không những đã khước từ, mà còn có thái độ chống đối thô bạo (giết hại những ngôn sứ, tiên tri là những người được sai đi loan truyền Ơn Cứu Rỗi). Tuy rất thịnh nộ vì kẻ được chọn mời đầu tiên, nhưng Tình Yêu của Thiên Chúa vẫn không vì thế mà suy giảm. Và nhờ thế, lịch sử cứu độ bước sang giai đoạn hai: Tất cả các dân nước trên thế giới đều được mời gọi và chỉ với một điều kiện duy nhất là phải mặc áo cưới khi dự tiệc.
Mới nghe qua, chắc có lẽ ai trong chúng ta cũng mỉm cười: “Tưởng gì chứ khi được mời dự tiệc cưới, vấn đề mặc áo cưới đương nhiên là “chuyện nhỏ”, có gì khó mà không thực hiện được.” Tuy nhiên, khi thành tâm “diện bích”, mới thấy không dễ thực hiện đâu, bởi bộ áo cưới ấy hoàn toàn không phải là những soirées, những complets loè loẹt kiểu cách, mà lại là tinh thần “canh tân và sám hối”. Nói đến canh tân và sám hối là nói đến chuyện vượt qua chính mình. Trèo đèo, lội suối, vượt qua sông này, biển nọ, có thể thực hiện được, chớ “vượt qua chính mình” mới là thiên nan vạn nan. Kẻ viết bài này cứ thích nhắc đi nhắc lại cho bản thân câu nói rất hay của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Vâng, khi được mời gọi, hãy chân thành nhìn lại mình với cái quá khứ chắc chắn không ít thiếu sót sai lầm của bản thân, quyết tâm sửa chữa (sám hối) để đổi mới (canh tân) toàn bộ con người của mình. Chỉ có như thế mới tránh được “vết xe đổ It-ra-en”, hầu xứng đáng là thực khách diễm phúc trong tiệc cưới Nước Trời.
Là Ki-tô hữu, tức là những người “được mời gọi”, phải chân nhận đó là một hồng ân, một đặc sủng, phải quyết tâm cố gắng làm sao để có thể trở thành người “được chọn”, bởi vì “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 22, 14). Muốn được như vậy, thì đừng ỷ tài, cậy sức mình, mà phải biết cậy nhờ vào sức mạnh của Thần Khí Chúa, cũng bởi vì “Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ.” (Cv 2, 18). Mà muốn đến được với Chủ nhân Tiệc Cưới để Người “đổ Thần Khí” cho, thì đừng quên chạy đến với Đức Maria trong tiệc cưới Ca-na, xin Mẹ ban cho “Áo Đức Bà” (*) cùng với tràng chuỗi Mân Côi huyền nhiệm làm vũ khí lợi hại để hộ thân, trước khi tiến vào Tiệc Cưới Nước Trời. Hãy tuyệt đối tin tưởng và kiên trì vững bước theo hành trình ấy, chắc chắn sẽ đạt được ước nguyện.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN.XXVIII/TN-A).
————————
Chú thích: (*) xc “Áo Đức Bà Ca-mê-lô” trong “Tài liệu về Mẹ Maria” (Thanhlinh.net): KINH ÁO ĐỨC BÀ: Lạy Rất Thánh Đức Bà Maria là Quan Thầy họ Áo Đức Bà, chúng con dốc lòng vào họ Áo Đức Bà, cùng mặc Áo Đức Bà cho đến trọn đời. Khi chúng con chết, thì Đức Bà sẽ lấy Áo thánh ấy ở nơi mình chúng con mà nhận chúng con là con cái Đức Bà, và đưa chúng con về thiên đàng mà chầu chực Đức Giê-su cùng rất thánh Đức Bà đời đời chẳng cùng. Amen.
.
Bs. Nguyễn Tiến Cảnh
Dụ ngôn tiệc cưới tuần này (Mt 22:1-14) là cậu chuyện cuối cùng trong ba chuyện liên tiếp được trình bày trong ba tuần nói về Chúa phán xét dân Israel, đặc biệt những người thủ lãnh (bắt đầu ở 21:28). Ba dụ ngôn này liên hệ với nhau khá rõ ràng. Mỗi chuyện đều đưa ra một “hình ảnh về uy quyền” (như người Cha, Chủ vườn nho và ông Vua). Hình ảnh “những người con” hay “một người con” đều có cả trong ba dụ ngôn. Riêng dụ ngôn 2 và 3 thì bàn về những người nô lệ cùng với những phán xét găy gắt đối với những kẻ chống đối người con.
Trong bài dụ ngôn hôm nay, Vua tượng trưng cho Thiên Chúa, người Con là đức Giesu. Tiệc cưới, là thời gian vui mừng giữa Thiên Chúa và Loài Người là biểu tượng của Vương Quốc Nước Trời. Hình ảnh vợ chồng tươi đẹp giữa Thiên Chúa (YHWH) và Israel (Hosea 2:19-20); Isaiah (54:4-8; 62:5) đưa ra một hậu cảnh kinh thánh khá phong phú. Câu chuyện là một phối hợp khá tài tình giữa cựu và tân ước tạo thành một dạ tiệc huy hoàng cho một hôn nhân.
Mathieu đã đưa vào câu chuyện nhiều nét đặc thù khá rõ ràng, như đốt cháy cả thị trấn của những khách được mời mà từ chối không đi (22:7). Hình ảnh này nói lên việc đền Jerusalem bị quân La Mã phá hủy năm 70AD. Cũng tương tự như dụ ngôn tuần trước về những tá điền sát nhân: Chủ vườn nho gửi hai toán đầy tớ đến để thu hoa lợi (22:3-4), đều bị kẻ sát nhân giết hết (22:6), những tên sát nhân bị hình phạt (22:7), và một nhóm mới vào thế chỗ của những kẻ được ưu tiên nhưng lại chứng tỏ là bất xứng (22:8-10). Câu chuyện kết thúc rất đặc thù kiểu Mathieu (22:11-14) .
Hình thức câu chuyện của Mathieu có vẻ khác với chuyện của Luca 14:16-24. Câu chuyện rất có thể lấy từ “Q”, một nguồn giả thuyết cho Phúc Âm của Mathieu và Luca. “Q” ( là viết tắt của chữ Quelle tiếng Đức, có nghĩa là nguồn) được coi là nguồn tài liệu “chung” của Mathieu và Luca, nhưng không thấy trong Marco. Bản cổ này đúng ra phải là bản trích dẫn / logia từ chúa Giesu.
TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA
Trong câu chuyện hôm nay, nhà vua đã chuẩn bị tiệc cưới cho hoàng tử rất linh đình, bò non bê béo đã giết, những món ăn tuyệt vời đã sẵn sàng cho hàng trăm thực khách. Thiệp mời được gửi đi bằng hai cách: Trước ngày cưới một thời gian dài, vào đúng ngày tiệc mừng hay trước đó một ngày; một loạt giấy mời khác cũng được gửi đi để nhắc nhở thực khách. Nhưng buồn thay, khách được mời không những từ chối không tham dự mà một số còn bắt sứ giả của vua mà giết. Tức giận, vua sai lính đốt hết cả thành, đoạn cho mời một loạt người khác, bất kể “xấu” “tốt” đều được vào dự tiệc cưới.
Hai đợt mời nói lên sự thật liên quan đến vương quốc Nước Trời và Con Một Thiên Chúa mà Người đã phán: trước nhất là cho dân Israel, sau là các quốc gia dân ngoại. Mathieu trình bày Vương Quốc dưới hai hình thức: Ngay lúc đó có những người được phép vào tham dự liền (22:1-10), và trong tương lai là những người hiện diện lúc đó có thể vượt qua được những phán xét gay gắt vào ngày luận tội chung (22:11-14).
Y PHỤC TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA
Mathieu thêm vấn đề thực khách phải mặc y phục tiệc cưới (22:11-14) làm cho người đọc thắc mắc. Riêng tôi cảm thấy tội nghiệp cho người không có y phục thích hợp với bàn tiệc, và ai là ông vua đã hạch hỏi con người tội nghiệp ấy: “Bạn ơi, sao bạn vào đây mà lai không mặc áo dự tiệc cưới?” Phải chăng nhà vua đã sai thần dân ra ngoài đường phố, xa lộ, hang cùng ngõ hẻm, gặp bất cứ ai cũng mời vào dự tiệc cưới? Rồi bất ngờ lại lạnh lùng, khó khăn với họ chỉ vì họ không có y phục đúng cách của tiệc cưới hoàng gia? Họ cũng đâu có đủ thời giờ để chuẩn bị y phục nhỉ?
Đây là câu chuyện dụ ngôn, có tính tượng trưng, không nên hiểu theo nghĩa đen. Một số học giả kinh viện tin rằng nhà vua đã cung cấp cho thực khách đầy đủ y phục thích hợp rồi. Cho nên chẳng ngạc nhiên gì nhà vua nổi sùng khi thấy có người không chịu mặc y phục đúng tiêu chuẩn. Họ đã từ chối không chấp nhận phong tục cung cách lễ nghi của hoàng gia.
Y PHỤC CÔNG CHÍNH VÀ Y PHỤC THÁNH
Câu chuyện dụ ngôn tiệc cưới không phải chỉ nói lên phán quyết của Thiên Chúa về dân Israel mà còn là một cảnh cáo đối với Giáo Hội của Mathieu. Vào đầu thế kỷ II, Irenaeus coi áo cưới là những việc làm, hoạt động công chính, là sự ăn năn thống hối và cải đổi tâm hồn. Đây là điều kiện để được vào Vương Quốc Nước Trời và phải được tiếp tục suốt đời.
Lời nói: “Người gọi thì nhiều, kẻ chọn thì ít” (22:14) không nên hiểu theo nghĩa đen, tỷ lệ giữa người được cứu rỗi và kẻ bị luận phạt, mà nên hiểu là một khuyến khích phải phấn đấu căm go, gian khổ và liên tục để sống một cuộc sống của người Kito hữu thực sự. Tiệc cưới không phải là Giáo Hội mà là thời đại sắp tới. Dụ ngôn của Mathieu cho chúng ta thấy cái nghịch lý giữa lời mời tham dự tiệc cưới miễn phí không một ràng buộc và đòi hỏi của Thiên Chúa là phải có một cái gì xứng hợp với lời mời gọi. Ai thuộc trong đám “nhiều người” và ai thuộc đám “ít người” liên quan tới áo cưới? Có những người mà Chúa không chọn? Người được chọn khác với người được gọi như thế nào?
ÁO CƯỚI TÌNH YÊU
Chúng ta thử áp dụng bài giảng của thánh Âu Tinh thành Hippo (#90) vào bài Phúc Âm hôm nay:
Áo cưới trong bài Tin Mừng hôm nay là gì? Là những gì mà chỉ những người tốt lành mới có, những người tham dự tiệc cưới? Nó có thể là những bí tích? Phép rửa chăng? Không phép rửa, không ai có thể đến được với Chúa, nhưng có những người đã nhận bí tích rửa tội mà không đến với Chúa… Có lẽ, đó là bàn thờ hay cái gì mà người đó nhận ở trên bàn thờ? Nhưng khi nhận mình thánh Chúa, có người đã ăn và uống chính án phạt của mình (1Cr 11:29). Vậy thì, đó là cái gì? Nhịn, không ăn không uống? Thiếu gì kẻ gian ác tội lỗi cũng nhịn. Đi nhà thờ thường xuyên chăng? Kẻ gian ác cũng đi nhà thờ như nhiều người khác vậy…..
Vậy, áo cưới này là cái gì? Thánh Phaolo Tông đồ nói: “Điều mà ta đang nhắm tới…là tình yêu, nó nảy nở từ cõi lòng trinh nguyên, một lương tâm trong sáng và niềm tin chân thành” (1Tm 1:5). Cái đó chính là áo cưới. Phaolo không nói riêng về một loại tình yêu nào cả, cho bất cứ người nào thường xuyên thấy những kẻ bất lương yêu thương tha nhân…, nhưng cho những người không thấy giữa họ cái tình yêu thương đó “nó đang nảy nở từ cõi lòng trinh nguyên, một lương tâm trong sáng và một niềm tin chân thật.”Bây giờ, cái đó chính là tình yêu, là áo cưới.
Thánh Phaolo Tông đồ đã nói: “Nếu như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của cả các thiên thần nữa mà tôi không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng chũm chọe. Nếu tôi được ơn nói tiên tri và biết hết mọi điều huyền bí, mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin có thể chuyển núi rời sông, mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng là gì cả (1Cr 13:1-2). Ngài nói: Ngay cả khi tôi có tất cả mọi sự đó mà không có Chúa Kito thì “Tôi cũng chẳng là gì cả”. Nó sẽ vô dụng, bởi vì tôi có thể hành động theo cách đó vì yêu danh vọng… “Nếu tôi không yêu, nó trở thành vô dụng.” Cái đó là áo cưới. Hãy tự xét mình: Nếu tôi có áo đó, tôi đi dự tiệc liên hoan của Chúa không ngần ngại gì cả.
XIN MỜI MỌI NGƯỜI NGỒI VÀO BÀN TIỆC
Truyền giáo cũng là một hình thức dự tiệc cưới hoàng gia. Chúng ta thử đọc lại đoạn #22 nói về “Những người truyền bá Tin Mừng và những nhà giáo dục” trong LINEAMENTA của Thượng Hội Đồng các Giám mục năm 2012 về Tân-Phúc-Âm-Hóa:
Huấn luyện và những ưu tư cần thiết để bảo toàn những cam kết trong việc phúc âm hóa và tuyển chọn những nguồn lực mới có lẽ không nên giới hạn trong việc chuẩn bị thi hành dù là cần thiết. Thay vào đó, huấn luyện và săn sóc mục vụ phải là ưu tiên về mặt thiêng liêng, nhất là vấn đề đức tin, được soi sáng bởi Tin Mừng Chúa Giesu Kito và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, thầy dạy muôn dân về những cảm nghiệm liên hệ tình Cha của Thiên Chúa. Giáo dân thì có thể rao truyền Tin Mừng chỉ khi nào họ đã được truyền dạy và tự mình chấp nhận để được truyền dạy, nghĩa là, tinh thần được đổi mới qua cuộc gặp gỡ cá nhân và sống hiệp thông với Chúa Kito. Những người như vậy mới có sức mạnh chuyển hóa niềm tin, như thánh Phaolo tông đồ đã nói: “Tôi đã tin, nên tôi đã nói”(2Cr 4:13).
Lúc bấy giờ, Tân Phúc Âm Hóa -một công tác phải được hoàn thành- chính là trách nhiệm của tất cả mọi Kito hữu muốn theo đuổi việc thánh thiêng một cách đứng đắn. Trong khung cảnh này và với sự am hiểu về huấn luyện, cần phải có thời gian để xem xét những cơ sở và phương tiện hiện có ở các Giáo Hội địa phương để dạy cho các tín hữu (những người đã chịu phép Thánh Tẩy) ý thức hơn về sứ mạng truyền giáo và phúc âm hóa của họ. Để lời chứng của chúng ta có giá trị, khi chúng ta trả lời cho một trong những phạm vị đòi hỏi việc tân phúc âm hóa này, chúng ta phải biết nói làm sao cho dễ hiểu, thích hợp với thời đại của chúng ta và tuyên xưng, trong những phạm vi này, những lý do để chúng ta hy vọng hầu bảo vệ lời chứng của chúng ta (cf 1Pt 3:15). Một bổn phận như vậy không thể hoàn thành được nếu không cố gắng, nhưng đòi hỏi phải chăm chú, học hỏi và ưu tư.
SUY NIỆM TRONG TUẦN:
1- Cộng đồng Công giáo chúng ta có kế hoạch hoạt động mục vụ đặc biệt nào với chủ đích giảng dạy để thích ứng với Phúc Âm hầu mang người ngoại trở lại Công giáo không?
2- Mỗi cộng đồng hay toán nhỏ chọn ưu tiên nào trong những phương pháp mới về việc phúc âm hóa? Sáng kiến nào thành công nhất để cho cộng đồng dễ dàng chấp nhận công tác truyền giáo?
3- Các xứ đạo có coi bổn phận tuyên xưng niềm tin là cần thiết và quan trong để phát triển thêm niềm tin và chương trình Thánh Tẩy không?
4- Các cộng đồng Công Giáo chúng ta có nhận biết sự cần thiết và cấp bách phải chiêu mộ, huấn luyện và yểm trợ những người rao truyền Tin Mừng và huấn luyện viên qua chứng tá cuộc sống của họ không?
.
Anton Lương Văn Liêm
Qua dụ ngôn tiệc cưới, Chúa cho chúng thấy được rằng: Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa luôn mở toang cửa để đón và nhận tất cả mọi người. Dẫu là người Công Giáo, Phật Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo, Hồi Giáo và cả người vô thần đều có thể bước vào Nước Thiên Chúa, nếu như nơi người đó thuận lời mời và mong được thừa hưởng, mong được nếm hương vị ngon ngọt từ bàn tiệc Nước Trời.
Nước Trời luôn rộng cửa để mọi người, từ quan, dân, từ kẻ sang lẫn người hèn, từ người thiện đến người ác đều có thể tiến vào. Thế nhưng, để được ở lại trong Nước Trời, được cùng tham dự tiệc vui nơi Nước Trời, người ấy phải tuân thủ những quy tắc, những đòi buộc cách sống của Nước Trời. Người khách bị tống cổ ra khỏi bàn tiệc vì không mặc y phục khi dự tiệc đã minh chứng điều ấy.
Khi được mời tham dự tiệc cưới, tiệc sinh nhật, tiệc thôi nôi, đầy tháng…của một ai đó. Nếu như, khi đến dự tiệc, ta không chuẩn bị chút quà bằng hiện kim hay hiện vật để chúc mừng, để đáp trả mối thân tình với người tổ chức. Trước tiên, ta cảm thấy ngượng ngùng với người cùng tham dự, ta cảm thấy xấu hổ với chính mình, với người cùng bàn và như điều thất lễ với chủ tiệc. Nếu như, ta thuộc típ người “mặt dày”, thuộc típ người bị khiếm khuyết “dây thần kinh xấu hổ”, thì việc ta đi dự tiệc mừng ai đó với đôi bàn tay trắng là điều bình thường.
Tình thương và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, Đấng là Vua Nước Trời, Đấng thiết lập tiệc vui. Qua tiệc vui, Thiên Chúa ban tặng sự bình an, Ngài cất đi vành khăn sô và đem lại cho con người nhân loại niềm vui miên viễn như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia mà bài đọc I đã trình thuật. Thánh Phao lô qua bài đọc II, thánh nhân đã minh định rằng:” Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi…”, thánh nhân cũng đã khẩn cầu Thiên Chúa ban sự sung túc, dư dật cho tất cả những ai đã thi ân cho ngài.
Là người Ki – tô hữu, bàn tiệc Nước Trời mà hôm nay Tin Mừng trình thuật, là bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Thể, các bí tích mà Giáo Hội cử hành hằng ngày. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta qua quý Mục Tử, qua cha mẹ, người thân và bè bạn. Với Chúa, chúng ta là khách quý. Thế nhưng, rất nhiều lần chúng ta thoái thác, khước từ vì nhiều lý do: Tham công tiếc việc, sợ bỏ lỡ cuộc hẹn vì giao thương, ký kết hợp đồng, vì bộ phim hay, niềm vui cùng bè bạn nơi quán cà phê, bar, bận đi soppinh…
Đôi khi, chúng ta cũng đến dự, nhưng không vì lòng yêu, mà là đến vì sợ lỗi luật, vì sợ người thân, người đời dị nghị; đến để phô diễn thời trang, tìm mối tương quan công việc, tình yêu, tình bạn… Cách đến tham dự bàn tiệc mà Chúa thiết lập và mời gọi như thế, chúng ta vô tình trở thành người khách không mặc y phục tiệc cưới mà Tin Mừng hôm nay trình thuật.
Tin chắc lòng từ nhân của Chúa sẽ không tống cổ chúng ta ra khỏi bàn tiệc, nhưng cách tham dự tiệc thánh của chúng ta như thế chỉ mất thời gian một cách vô ích. Tệ hơn nữa, chúng ta trở nên gương mù gương xấu cho anh em và là rào cản cho những ai đang chập chững trong hành trình tìm đến Chúa. Đặc biệt là những người chưa nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì Chúa đa yêu thương ban tặng cho chúng con bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Qua những bàn tiệc thánh, Chúa nâng đỡ, nuôi dưỡng và dạy dõi chúng. Xin giúp chúng con luôn biết trân quý và thường xuyên đến tham dự. Xin giúp chúng con khi tham dự bàn tiệc thánh bằng niềm tin, lòng yêu mến một cách chân thành. Nhờ đó, chúng con sẽ được thừa hưởng và vui say trong bàn tiệc nơi Nước Trời. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Thiên Chúa là tình yêu. Vì tình yêu, Ngài đã dựng nên con người. Vì tình yêu, Ngài đã dựng nên mọi loài mọi vật để phục vụ con người. Không những thế, Ngài còn muốn con người được hưởng hạnh phúc đời đời. Chính vì vậy, qua mọi thời đại, Ngài mời gọi tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Dụ ngôn tiệc cưới hôm nay diễn tả tâm tình đó của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa mời gọi hết thảy mọi người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời
Trước hết là người Do thái: Thiên Chúa đã ưu tiên cho dân Do thái. Ngài tuyển chọn họ làm dân riêng. Qua các thời kỳ lịch sử, Ngài đã chăm sóc họ bởi các thủ lĩnh, các ngôn sứ và cuối cùng Ngài sai chính Con Một của Ngài. Nhưng biết bao nhiêu lần, họ đã từ chối tình thương và sự chăm sóc của Thiên Chúa. Thậm chí, họ còn giết các tiên tri và giết chính Con Một yêu dấu của Ngài.
Khi dân Do thái từ chối, Thiên Chúa mở rộng đối tượng được mời, đó là hết thảy mọi người, không phân biệt tốt xấu, màu da, chủng tộc. Thánh Mathêu cho biết: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc”(Mt 22,8-10). Chính Đức Giêsu, trong ba năm rao giảng Tin mừng, Ngài không chỉ rao giảng cho riêng người Do thái mà còn rao giảng cho cả vùng dân ngoại. Ngài không chỉ rao giảng cho những người “đạo đức” mà còn rao giảng cho những kẻ “tội lỗi”, đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tiếp nối sứ mệnh của Đức Giêsu trao phó, Giáo hội trong suốt hai ngàn năm qua, luôn đi khắp tứ phương thiên hạ và mời gọi mọi người gia nhập Giáo hội. Từ con số 12 nay đã có khoảng 1,2 tỷ người Công Giáo trên thế giới. Họ thuộc mọi tầng lớp, màu da, chủng tộc.
Như vậy, dầu trực tiếp hay gián tiếp, Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người để họ được hưởng hạnh phúc với Ngài trong Nước Trời.
2. Thiên Chúa mời một cách tha thiết và chu đáo
Qua “dụ ngôn tiệc cưới” hôm nay cho chúng ta thấy, ông chủ không chỉ mời qua loa chiếu lệ, nhưng ông mời một cách tha thiết và hết sức chu đáo. Cụ thể, ông cho người mời thành hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất, thiệp mời được gửi đi. Thời gian này cách xa ngày mở tiệc cưới khoảng ít lâu, có lẽ khoảng chừng một tháng. Ông chủ làm như vậy để giúp người được mời có thời gian sắp xếp công việc, chuẩn bị áo cưới và có thể những thứ cần thiết để mừng cô dâu chú rể. Cách làm này thể hiện sự quan tâm của ông chủ.
Gian đoạn thứ hai, là thời gian cận kề bữa tiệc cưới. Ông chủ cho người đi mời lại một lần nữa: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới”(Mt 22,4). Ông chủ sợ khách mời quên chăng? Dẫu sao cử chỉ này cũng thể hiện sự nhiệt tình, chu đáo của ông chủ. Cử chỉ này cũng rất phù hợp với phong tục cưới hỏi nhiều nơi ở người Việt Nam chúng ta. Ở nhiều địa phương tại Việt Nam, chủ nhà có đám cưới thường gửi thiệp mời trước ngày cưới cả tháng. Và đương nhiên trước ngày dọn tiệc, chủ nhà còn “nhắc khéo” người được mời một lần nữa để họ nhớ đi tham dự đám cưới cách đầy đủ. Đó là mong muốn của ông chủ.
Thái độ của ông chủ cũng là thái độ của Thiên Chúa khi Ngài mời con người đến dự tiệc cưới Nước Trời. Ngài mời lần này lượt khác. Ngài mời qua các tiên tri. Ngài mời qua chính Con Một của Ngài. Ngài mời qua Giáo hội. Ngài mời một cách nhiệt tình và chu đáo. Hầu mong muốn ai ai cũng có mặt trong tiệc cưới mà Ngài dọn sẵn là Nước Trời.
3. Thái độ của khách mời
Thái độ thứ nhất của khách mời là từ chối lời mời gọi của ông chủ: Ông chủ tiệc cưới ở đây lại là một vị vua. Đám cưới ở đây là của hoàng tử. Đáng lý ra khách được mời phải cảm thấy vinh dự to lớn và phải đáp trả lại lời mời gọi một cách mau mắn. Nhưng than ôi, họ không làm như vậy. Trái lại, họ đã từ chối một cách ra mặt. Từ chối lần mời đầu tiên “Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến.” (Mt 22,3). Từ chối lần mời thứ hai: “Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán;” (Mt 22,5). Những lý do họ đưa ra để từ chối không đủ thuyết phục: bởi vì, những công việc như thăm trại, buôn bán thì không quan trọng cho lắm so với tiệc cưới của hoàng tử, được nhà vua đích thân mời. Hơn nữa, những công việc đó có thể chuyển sang một thời gian khác. Thậm chí, “một số người còn bắt các đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi” (Mt 22,6).
Thái độ của khách mời trên cũng là thái độ của người Do thái: Dân Do Thái đã từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa, của Đức Giêsu; Họ đã giết chết các tiên tri; Họ không tin vào Đức Giêsu và thậm chí đã giết chết Người. Thái độ của khách mời cũng là thái độ của con người qua mọi thời đại: Họ viện vào nhiều lý do không đâu để từ chối lời mời của Đức Giêsu, lời mời của Giáo hội. Thậm chí, họ còn bắt bớ, đánh đập những người được Chúa và Giáo hội sai đến. Các cuộc bách hại Giáo hội qua các thời kỳ làm chứng cho chúng ta thấy điều đó.
Chắc chắn số phận của những người từ chối lời mời gọi của ông chủ, của Thiên Chúa sẽ không có chỗ trong Nước Trời.
Thái độ thứ hai của khách mời là không mặc y phục lễ cưới: Điều kiện duy nhất mà ông chủ đòi hỏi nơi khách mời là phải mặc y phục lễ cưới. Y phục lễ cưới ở đây ám chỉ lòng sám hối của con người và những việc lành phúc đức mà con người thực hiện. Trong số những người đã ngồi vào phòng tiệc, nhà vua nhận ra một người không mặc y phục lễ cưới. Nhà Vua liền nói với người ấy rằng: “Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!” (x. Mt 22,12-13). Khung cảnh này làm chúng ta nhớ tới khung cảnh về ngày phán xét chung mà Thánh Mathêu kể lại ở chương 25, nhà vua cũng nói với những kẻ bên tả là những kẻ không thực hành việc bác ái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25,41-43).
Như vậy, y phục lễ cưới ở đây không chỉ là lòng sám hối mà còn là những việc lành bác ái yêu thương. Số phận của những người không có y phục lễ cưới, tức là không có lòng sám hối và không có lòng bác ái yêu thương sẽ không cố chỗ trong Nước trời.
Thái độ thứ ba của khách mời là mặc y phục lễ cưới: Trong phòng tiệc cưới, chỉ có duy nhất một người không mặc y phục lễ cưới. Số còn lại đều mặc y phục lễ cưới. Điều này cho chúng ta thêm niềm hy vọng. Nhưng hy vọng mà thôi chưa đủ. Để đảm bảo chắc chắn có chỗ trong Nước Trời, chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng: Đó là lòng sám hối và các việc lành phúc đức, nhất là những việc bác ái yêu thương; Đó là thực hành những đòi buộc của Bí tích Rửa tội: “từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin”; Đó là luôn giữ gìn chiếc áo ngày rửa tội được “tinh tuyền”; Đó là siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, suy niệm và thực hành Lời Chúa.
Tóm lại, Thiên Chúa là tình yêu. Ngài luôn mời gọi và mong muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Xin cho tất cả mọi người chúng ta luôn biết đáp trả lại lời mời gọi của Chúa, đồng thời biết chuẩn bị cho mình những chiếc áo cưới đẹp, đó là sự hoán cải tâm hồn và những việc lành phúc đức. Amen.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, từ ngữ “ y phục lễ cưới” trong đoạn Tin Mừng (Mt 22, 1-14) hôm nay, dường như “xa lạ” với người nghe mỗi khi được nghe, hay đọc.
Nhưng, kỳ thật nó là “cụm từ” quan trọng nhất trong Đoan Lời Chúa hôm nay. Tại sao vậy ? Thưa quý vị, thưa bởi vì là “yếu tố” chính trong điều “trọng đại” đó là “điều kiện “ để được vào Thiên Quốc, tức Nước Trời.
Vâng, theo đó , Đoạn Lời Chúa hôm nay có thể chia làm ba ý chính :
- Nước Trời là ơn Cứu Độ cho dân tộc Israel. “Tiệc Cưới “ của nhà Vua dành cho dân tộc Israel
- Nước Trời là ơn Cứu Độ phổ quát. “Tiệc Cưới “ ấy dành cho hết mọi dân tộc.
- Nước Trời là ơn Cứu Độ “có điều kiện”. “Tiệc Cưới” ấy phải có “ y phục lễ cưới”.
Đọc nội dung Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy phần đầu từ câu 2 đến 6 , Chúa Giêsu đã dùng Dụ Ngôn nói với họ về nước Trời. Theo đó, Nước Trời là “Tiệc Cưới” của nhà Vua tổ chức cho “Hoàng Tử” và Nhà Vua đã hai lần cho mời các qua cận thần và khách mới đến, nhưng họ đã khước từ, xem thường và lần thứ hai thì còn xúc phạm nặng nề là đánh đập các đầy tớ của Vua, những người đã đi mời khách dự tiệc. Còn những quan khách khác thì từ chối không đi, viện cớ công việc làm ăn.
Mặc nhiên, đây không phải “tiệc cưới” theo nghĩa đen, mà là “sự mời gọi” sống đời “công chính”, nhưng đã bị từ chối. mặc nhiên, Nhà Vua nổi cơn thịnh nộ, vì đây là một hành động bất lương, không có vị Vua nào nhân từ đến nỗi không nổi cơn thịnh nộ.
Nếu xét theo nghĩa đen, một Vị Vua trần thế tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử của mình, rồi mời tất cả các bá quan văn võ và quần thần đến chung vui, thử hỏi có ai mà “dám” không đến, hoặc từ khước không, lại còn dám bắt gia nhân của vua mà giết chết. Như vậy, nhà vua trần thế không nổi cơn lôi đình mới là lạ.
Như vậy, rõ ràng dân tộc Israel đã khước từ ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, đánh đập các tiên tri và ngôn sứ, vị Ngôn Sứ Tối Cao là Đức Kitô, đồng thời là Vị Hoàng Tử của Đức Vua cũng đã bị giết chết.
Theo đó, chúng ta thấy, Thiên Chúa vô cùng nhẫn nại và nhân hậu đối với dân của Ngài, nhưng một dân tộc thật bất trung, ngỗ nghịch, cứng đầu không hoán cải. Như vậy, đây cũng là hình ảnh của chúng ta, những người có đức tin, hay là tín hữu, hoặc là đạo gốc, đạo dòng.
Bước kế tiếp, Nhà Vua cho mời tất cả các khác mời ở khắp nơi, đầu đường, xó chợ, thường dân, vô danh, tiểu tốt đều được mời vào dự tiệc cưới. Như vậy, bước thứ hai, Nước Trời là Ơn Cứu Độ phổ quát. Có nghĩa là tất cả mọi người, mọi dân, mọi nước đều được kêu mời đón nhận Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Đến thời viên mãn, nghĩa là ơn Cứu Độ không còn dành riêng cho dân tộc nào, mà là cho hết mọi phàm nhân. Cuối cùng, số người được đón nhận ơn Cứu Độ đã đông nghịt, không còn chổ. Nếu nói theo ngôn ngữ “ kinh doanh” thì không còn “ế`” nữa.
Ý nghĩa thứ ba: Y phục lễ cưới.
Y phục lễ cưới theo phong tục người Dothai là chiếc áo dành cho khách mời dự tiệc, để tránh sự nhầm lẫn, lộn xộn, trà trộn, để gia chủ dễ nhận ra từng “ loại khách”. Như linh mục phải mặc áo chùng thâm, giúp lễ phải mặc áo giúp lễ, áo Abba hay dây Stola chẳng hạn.. v.v…
Đây là phần quan trọng liên hệ đến câu số 14, nếu đọc đến đoạn nầy, chúng ta thấy có sự “đối lập” với đoạn ở trên, vì một “ Ông Vua” rộng lượng ,tại sao bây giờ lại “khắt khe” với thực khách ? Sai gia nhân đuổi những người không mặc “y phục lễ cưới”. Vậy “Y phục lễ cưới “ theo Tin Mừng là gì? Thưa, đó là “ các Bí Tích”, các Bí Tích là “dấu ấn” tình yêu của Thiên Chúa ban cho người được kêu mời, thứ đến là “tâm tình” của Thiên Chúa.Mặc lấy tâm tình của Thiên Chúa là mặc lấy ân sủng và điều thiện, như ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy , linh mục trao chiếc áo trắng và đèn cháy sáng cho thụ nhân và đọc: “Con hãy nhận lấy chiếc áo trắng nầy và giữ mãi tinh tuyền cho đến ngày ra trước tòa Đức Kitô, Đấng thẩm phán chí công …”
Như vậy, mặc y phục lễ cưới là mặc “chính Đức Kitô – Giêsu”, Đấng Cứu Độ duy nhất. VẬY NẾU VÀO DỰ TIỆC CƯỚI, mà không mặc y phục lễ cưới như phong tục người Dothai, thì sẽ bị đuổi ra ngoài. Thì mặc nhiên, nếu được mời vào dự TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI mà không mặc lấy “tâm tình” của Thiên Chúa, mặc lấy nhân đức của Đức Kitô. Để dễ hiểu chúng ta hãy thử nghĩ xem, nếu vào Nước Trời mà mặc lấy” tâm tình của satan”, thì làm sao vào được Nước Trời.
Cụ thể, nếu muốn vào Nước Trời mà mặc lấy “tâm tình” của Tần Thủy Hoàng, Mao Trạch Đông, KarxMac, Lê-nin , Hồ Chí Minh , Hit-ler , và những người mang đầy tội ác thì làm sao vào được Nước Trời.
Nước Trời là Nước của Thiên Chúa, mặc nhiên phải mặc lấy Thiên Chúa, vâng, đó là “Y PHỤC LỄ CƯỚI NƯỚC TRỜI “ vậy. Như thánh Phaolo nói đó là :” Tâm tình từ bi nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, tha thứ…”
Lạy Chúa Giêsu , Chúa đã dạy cho chúng con ý nghĩa dụ ngôn “ Y Phục Lễ Cưới Nước Trời:”, xin cho những ai đón nhận nghe theo và thực thi hầu mang lại cho họ phúc trường sinh ./. Amen
.
ĐÁP LẠI LỜI MỜI VÀO DỰ TIỆC NƯỚC TRỜI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Mỗi lần tổ chức tiệc cưới, một trong những điều gia chủ lo lắng nhất là vấn đề cỗ bàn: Làm bao nhiêu cho vừa? Vì làm dư thì xấu hổ, làm thiếu thì ngại. Thật khó xử cho gia chủ khi một đám cưới mà khách mời không đến, cỗ bàn dư thừa. Ngày xưa, việc cưới hỏi là dịp vui cho gia đình, họ hàng và cho cả xóm. Đi đám cưới là dịp gặp gỡ trò chuyện, hỏi thăm, tâm sự. Ngày nay, đi đám cưới có quá nhiều âm thanh, đến nỗi không thể nói chuyện. Các thực khách ngày nay, có người đi dự đám cưới chỉ để trả nợ, để khoe quần áo, có người vì lý do sức khỏe, đến đám cưới chỉ ăn tượng trưng. Vì thế, thức ăn từ các bàn cỗ dọn xuống, có những món hầu như chưa đụng đũa, hoặc chi mới gắp một hai miếng, đành đổ bỏ gây phí phạm.
Hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn về Nước Trời giống như một vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử. Nhà vua sai người đi đón các quan khách đã được mời đến dự tiệc, nhưng họ không đến. Thông thường trong xã hội, người được mời rất vinh dự và không bao giờ vắng mặt khi chủ tiệc là quan chức cấp cao, là thủ trưởng cơ quan hoặc là thủ tướng. Những người được mời trong những bữa tiệc như thế thường đến sớm để gặp gỡ và kèm theo những món quà mừng đắt tiền. Nhưng trong câu chuyện dụ ngôn này, những người đã được mời hầu như không quan tâm đến lời mời, họ tỏ ra khinh thường lời mời của Đức vua, khinh thường những người được sai đi mời. Nhà vua trong câu chuyện đã phải hạ mình xuống một lần nữa, sai người đi năn nỉ khách đến dự tiệc. Nhà vua còn đưa ra lý do: Mọi thứ đã xong, bò tơ đã thịt, cỗ bàn đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới. Nếu như nhóm người được mời trước đây cố tình làm ngơ trước lời mời của nhà vua, thì nhóm người thứ hai đã có những phản ứng tiêu cực, khước từ, chống đối rõ ràng. Họ không đếm xỉa gì đến lời mời và lấy lý do kẻ đi thăm ruộng, người thì đi buôn. Chứng tỏ rằng, những người này xem những lợi lộc vật chất hơn lời mời và thế giá, địa vị của nhà vua. Những kẻ khác còn tỏ thái độ chống lại nhà vua, họ bắt bớ, nhục mạ và giết các đầy tớ nhà vua. Sự kiên nhẫn của nhà vua cũng đã tới hạn cuối cùng. Nhà vua thịnh nộ sai người đi tiêu diệt bọn sát nhân và tiêu hủy thành phố của chúng.
Đức vua không muốn để bữa tiệc cưới hoàng tử trở nên tẻ nhạt lạnh lẽo, ông đã mở cửa cung điện cho mời tất cả mọi người giàu nghèo, sang hèn vào dự tiệc cưới hoàng tử. Nhà vua còn hào phóng chuẩn bị áo đẹp cho mọi thực khách với điều kiện những ai vào dự tiệc cưới đều phải mặc bộ y phục xứng đáng này. Tuy nhiên đã có những người cố chấp, muốn thể hiện sự ngang bướng của mình, anh ta vào dự tiệc nhưng nhất định không mặc áo đẹp vua đã chuẩn bị. Khi vua đi thăm các thực khách, đã phát hiện một người không mặc áo cưới. Nhà vua đã trách anh ta: Này anh, sao anh vào đây mà không mặc áo cưới? Nhà vua trách anh vì anh cố chấp theo lối sống ngang tàng của mình, gia nhập bữa tiệc của hoàng cung nhưng lại từ chối phẩm giá và điều kiện quy định của hoàng cung. Thay vì được chung niềm vui với mọi người trong cung điện, anh bị ném ra ngoài; thay vì được đầy ắp niềm vui tiếng cười cùng với rượu mừng thì anh bị ném vào nơi khóc lóc nghiến răng.
Ngày xưa, Kinh Thánh thường dùng hình ảnh bữa tiệc hoặc tiệc cưới để diễn tả niềm vui hạnh phúc Nước Trời. Vì trong bữa tiệc, người ta không chỉ ăn no uống say, mà còn được sống trong bầu khí vui tươi, huynh đệ, gặp gỡ trò chuyện với nhau và nhất là được chiêm ngắm cô dâu và chú rể. Bài đọc một tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh một buổi đại tiệc để diễn tả niềm vui và hạnh phúc mà Thiên Chúa thiết đãi dân Người: Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc, tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon. Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang bao trùm muôn dân và vứt bỏ chiếc khăn liệm phủ trên mọi nước.
Hình ảnh tiệc cưới hoàng tử Chúa Giêsu nói đến chính là hình ảnh của hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa đã mở ra để mời gọi mọi người vào chung hưởng. Những luật sĩ, thượng tế và dân Do Thái là những người được ưu ái mời trước, nhưng họ đã làm ngơ trước lời mời gọi của Thiên Chúa, không muốn bước vào nhà của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nhiều lần sai các tổ phụ, các tiên tri đến để kêu gọi, năn nỉ dân Do Thái trở về chung hưởng niềm vui và hạnh phúc với Chúa, nhưng họ đã mải mê chạy theo lối sống dân ngoại, của cải vất chất và đã giết hại các ngôn sứ. Sau cùng, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã mở toang cánh cửa Nước Trời để mời gọi mọi người, mọi dân tộc không phân biệt giàu nghèo, sang hèn cùng vào dự tiệc Nước Trời.
Tiệc cưới hoàng tử còn là hình ảnh của Giáo Hội. Qua Giáo Hội, Thiên Chúa đang dọn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể mỗi ngày và mời gọi mọi người gia nhập vào Giáo Hội để cùng dự tiệc với Hoàng Tử Giêsu. Chính trong Giáo Hội, chúng ta sẽ trở nên anh em với nhau, cùng chia sẻ cho nhau những ân phúc của Chúa và nâng đỡ nhau trong những khó khăn của cuộc sống. Cũng từ nơi bàn tiệc Thánh Lễ mỗi ngày, chúng ta được gặp chính chàng rể Giêsu, được nghe lời dạy bảo của Ngài, được nuôi dưỡng bằng lương thực thần linh là chính máu thịt của Ngài. Ai đến lãnh nhận sẽ thoát khỏi sự buồn chán, tìm lại được niềm vui và nhất là Ngài sẽ cất khỏi chúng ta sự đau khổ và chết chóc.
Trong cuộc sống, nhiều người hãnh diện khoe mình quen với quan chức này, với cán bộ kia, nhưng lại không bao giờ cảm thấy hãnh diện vì là người nhà của Vua Giêsu. Nhiều người hãnh diện vì được cùng đi ăn uống với người có quyền lực, dự đám cưới con quan chức, nhưng lại không cảm thấy vinh dự vì Thiên Chúa đang mời mỗi người vào dự tiệc cưới Nước Trời. Thánh lễ mỗi ngày, đặc biệt mỗi Chúa nhật là bữa tiệc được Giáo Hội dọn ra và Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến dự. Khi được mời đám cưới, người được mời không đến vì tình, thì cũng đến vì quan hệ xã hội, vậy mà khi được Chúa mời, nhiều người vì lý do vật chất, hoặc một lý do bận rộn nào đó, đã bỏ qua việc tham dự tiệc của Chúa.
Không ai đi dám cưới mà chỉ đứng nhìn, vậy mà có người đến dự tiệc Thánh Thể, dự Thánh lễ một cách hờ hững, đứng bên ngoài hoặc từ xa, như là người không có liên quan, không trách nhiệm. Nhiều người đi dự tiệc Thánh Thể mà không ăn uống, không lắng nghe, họ tham dự cách thụ động cho hết giờ rồi ra về. Cứ đặt mình vào tâm trạng của người chủ mời tiệc, chúng ta sẽ cảm thấy buồn thế nào khi người được mời đối xử với ta như thế.
Chúa vẫn ban ơn trợ giúp chúng ta từng giờ từng phút, một tuần chúng ta chỉ có một giờ đến với Chúa, như con cái về bên cha mẹ, như người đi xa trở về gia đình. Vì thế, hãy cố gắng làm cho việc trở về với Chúa mỗi ngày Chúa nhật thật sự trở thành ngày hân hoan, gặp gỡ với Thiên Chúa là Cha, kể cho Chúa nghe những ưu tư khắc khoải và biến cố đã xảy ra trong tuần sống. Đến với tiệc Thánh Thể mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta còn được nghe những lời an ủi chỉ bảo của Chúa, được cùng anh chị em xum họp chung quanh bàn tiệc của Chúa và sống tình gia đình trong nhà của Chúa.
Trong ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, chúng ta được Giáo Hội trao cho chiếc áo cưới. Mỗi người có quyền tự hào mình là người thân của Chúa, được Chúa mời gọi vào cung điện của Ngài là Nước Trời. Xin cho chúng ta luôn biết gìn giữ chiếc áo linh hồn luôn trong trắng sạch sẽ, tránh bị vấy bẩn bởi tội lỗi, dục vọng, đam mê và những hành động xấu. Nếu vì yếu đuối khiến cho chiếc áo linh hồn bị vấy bẩn, xin cho chúng ta mạnh dạn giặt và tẩy rửa vết nhơ qua Bí tích Giải Tội, chúng ta sẽ được tẩy sạch bởi lòng thương xót và tha thứ của Chúa. Amen.
.
Lm Vũdình Tường
Mấu chốt ảnh hưởng đến hiểu biết về đời sống gia đình chính là kinh nghiệm sống trong gia đình và những ảnh hưởng xã hội quanh cuộc sống. Thành phần trẻ trong xã hội Tây Phương đang vận động để có một định nghĩa mở rộng truyền thống gia đình. Một số cho định nghĩa đời sống gia đình truyền thống vừa cổ hủ vừa khắt khe, cần thay đổi. Theo họ yêu nhau là đủ dù hai người đồng phái cũng được miễn là họ yêu nhau. Truyền thống gia đình có từ thời có con người trong đó một người nam kết hôn với một người nữ và chính cuộc sống gia đình này mang lại vô vàn hạnh phúc cho nhân loại. Đại đa số sống hạnh phúc trong gia đình truyền thống, tuy nhiên cũng có nhiều bà vợ bị hất hủi, kẻ khác phải đau khổ vì cha mẹ khắc nghiệt, kẻ khác chồng nghiện ngập và kẻ khác nữa chồng bạo động sống trong đau thương, sợ hãi. Thực tế truyền thống gia đình không phải là nguyên nhân gây nên những đổ vỡ và đau khổ mà chính là thành viên trong gia đình lạm dụng vai trò trong gia đình để làm khổ người khác. Như thế đau khổ trong gia đình gây nên không phải do cơ cấu truyền thống thành lập gia đình mà do các thành viên trong gia đình không làm đúng chức năng của mình. Điều cần thay đổi chính là con người chứ không phải cơ cấu, tổ chức hay truyền thống. Bất cứ thay đổi hình thức nào về gia đình đều không làm giảm đau khổ, bớt bạo động và ít xung khắc. Điều có thể làm cho gia đình trở thành nơi an toàn cho mọi người, tình yêu lan toả và tình thương chan hoà chính là tha đổi cách xử thế với nhau. Thay đổi bằng giáo huấn, giáo dục, học hỏi. Làm cách nào hướng dẫn các thành viên trong gia đình làm đúng chức năng của mình thì gia đình đó ổn thoả, lạm dụng chức năng trong gia đình là gây hoạ cho mọi người. Xã hội chúng ta đang sống đòi có bằng chuyên môn về mọi ngành nghề nhưng không đòi cách học làm cha mẹ. Giới trẻ Tây Phương dời nhà rất sớm, nhiều em không có cơ hội sống trong gia đình bởi họ sống nội trú xa nhà hoặc vừa học vừa làm và nhà trọ là chỗ ngủ qua đêm, không phải là mái ấm gia đình. Kinh nghiệm sống trong gia đình rất nghèo nàn, thời gian gần cha mẹ cũng hiếm. Khi họ trở thành cha mẹ họ thiếu kinh nghiệm sống trong gia đình.
Đau thương ở tuổi thơ trở thành mối sầu âm thầm gặm nhấm tâm trí người đó và điều này ảnh hướng lớn đến quan niệm đời sống gia đình. Một số may mắn cố gắng tránh làm thế nào cho con cái mình sanh ra sau này không bị đau khổ, thiệt thòi như chính mình đã trải qua. Họ tạo cho con cái họ cơ hội sống an vui trong gia đình. Số khác lại rập khuân giống hệt như chính họ đã trải qua và bây giờ đến lượt con cái họ. Chối bỏ truyền thống gia đình để thay vào một khuôn mẫu gia đình mới đang được bàn thảo sôi nổi nơi công chúng. Điều nguy hiểm là hầu như có rất ít tìm hiểu và dữ kiện cần thiết tin tưởng được cho việc chọn lựa khuôn mẫu gia đình mới đang được cổ võ. Khuôn mẫu gia đình mới tốt cho xã hội hay là một đại hoạ là điều ít được bàn tới. Bỏ qua kiến thức này là thiếu sót trọng đại trong việc chọn lựa hỗ trợ hay từ chối cho việc thay đổi.
Lịch sử cận đại cho biết có thời rất nhiều người cổ võ, ủng hộ cho phong trào cộng sản hoá thế giới bởi những lí luận nghe thuận tai, hợp lí. Thực tế cho thấy hình ảnh búa liềm đại diện cho giới công nông trở thành hình ảnh kinh hoàng biến nhiều triệu người thành nạn nhân. Cái búa kia hàng đêm vung lên làm nứt sọ hàng triệu người và cái liềm kia sau bức tường che phủ đã cứa cổ hàng triệu con người khác. Oan khiên, uất hận chỉ vì nghe lời cổ võ ngon ngọt của những miệng lưỡi tuyên truyền ngọt bùi, thuận tai, hợp lí của lời lẽ đanh thép nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược với lời đường mật. Ban bố chính sách xã hội dựa vào í kiến đa số, hợp yêu cầu của công chúng chắc chắn là thuận lợi nhưng rất có thể là thiếu khôn ngoan bởi công chúng thường hùa theo người khác. Như thế không phải là lãnh đạo mà là chiều theo đa số mong ủng hộ và kiếm thêm phiếu. Nguy hiểm hơn nữa nếu í kiến đó được thúc đẩy bởi những người có kinh nghiệm đau thương ở tuổi thơ bởi nó ảnh hưởng đến hiểu biết về đời sống gia đình.
Các bài đọc hôm nay cho thấy con người hưởng an bình, hoan lạc khi đời sống đó sống không chiều theo í mình nhưng sống theo í Chúa. Họ sẽ được hưởng an bình như tiên tri Isaiah 25,6-10 viết: ‘Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: thịt hảo hạng, rượu tinh tuyền. Người xé bỏ chiếc khăn che phủ muôn dân, tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần và lau khô dòng lệ trên khuôn mặt con dân’.
Thánh vịnh 22 còn cho biết Thiên Chúa coi sóc dân Ngài với lòng thương yêu bởi: Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trong đồng cỏ xanh tươi Ngài cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường công chính.
Đức Kitô tham dự tiệc cưới truyền thống và Ngài lên tiếng hỗ trợ, bảo vệ gia đình truyền thống. Ngài dùng hình ảnh gia đình truyền thống để nói lên hình ảnh nước trời.
.
LÀ LÒNG SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 22,1-14
(1) Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: (2) “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. (3) Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. (4) Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: “Này cỗ bàn, ta đã dọn xong. Bò tơ và thú béo đã hạ rồi. Mọi sự đã sẵn. Mơi quý vị đến dự tiệc cưới !” (5) Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại, người thi đi buôn. (6) Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. (7) Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy, và thiêu hủy thành phố của chúng. (8) Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. (9) Vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới. (10) Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. (11) Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát thực khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục tiệc cưới (12) mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?” Người ấy câm miệng không nói được gì. (13) Bấy giờ, nhà vua bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng ! (14) Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”.
- Ý CHÍNH: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI
Đức Giê-su trình bày dụ ngôn tiệc cưới, ám chỉ lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa qua hai giai đoạn chính như sau: Đầu tiên Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi dân riêng Ít-ra-en gia nhập vào Nước Trời do Đấng Thiên Sai thiết lập, nhưng họ đã từ chối tình thương cứu độ của Người. Tiếp đến, Thiên Chúa mời gọi tất cả các dân tộc gia nhập Nước Trời. Tuy nhiên muốn được tham dự vào bàn tiệc Nước Trời đời sau, đòi người ta phải mặc y phục lễ cưới, tức là phải có “lòng ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng” do Chúa Giê-su rao giảng. Ai cố tình không mặc y phục lễ cưới sẽ không được vào dự tiệc Nước Trời.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình: Thiên Chúa khai mở bữa tiệc thời Thiên Sai bằng việc cho Con Một Người xuống thế làm người (x. Mt 24,1-12; Kh 19,9). Tuy dụ ngôn về tiệc cưới của hoàng tử, nhưng lại đề cập nhiều đến thái độ phải có của các khách được mời đến tham dự. + Nhà vua sai đầy tớ: Đầy tớ ám chỉ các ngôn sứ (x. ls 25,6). + Đi thỉnh các quan khách đã được mời trước: Quan khách ám chỉ dân Ít-ra-en được Thiên Chúa ưu tuyển. + Nhưng họ không chịu đến: Các đầu mục đã hướng dẫn dân Ít-ra-en khinh thường lời mời của Thiên Chúa.
– C 4-6: + Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi: Điều này cho thấy lòng khoan dung của Thiên Chúa. Ngài luôn kiên nhẫn trước thái độ bất trung ngỗ nghịch của Ít-ra-en dân riêng của Ngài. + Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: Họ không đếm xỉa tới lời mời vì không tin vào các ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến. + Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn: Đi thăm trại hay đi buôn bán là những lý do biện minh cho hành động không đến tham dự bữa tiệc cưới, cho thấy dân ít-ra-en đã coi trọng của cải vật chất và các việc trần gian hơn lời hứa cừu độ của Thiên Chúa. + Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết: Các đầu mục đã xúi dân bắt bớ giết hại các ngôn sứ là những gia nhân do Thiên Chúa sai đến. Điều này cho thấy tội bất trung của họ đã lên đến tột cùng và đáng bị trừng phạt.
– C 7-8: + Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ: Sự dửng dưng, từ chối và còn giết hại các ngôn sứ thời Cựu ước và các Tông đồ thời Tân ước khiến cho Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ. + Sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy: Sự cố chấp chống lại tình thương cứu độ, khiến dân Do Thái không còn xứng đáng được hưởng sự khoan dung nữa và đáng bị trừng phạt. + Và thiêu hủy thành phố của chúng: Việc thiêu hủy thành phố ám chỉ biến cố thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy bình địa vào năm 70 sau Công nguyên. Điều này cho thấy Tin mừng Mát-thêu được biên sọan vào sau năm 70, khi ấy tác giả đã được chứng kiến cảnh hoang tàn đổ nát của thành Giê-ru-sa-lem. + Những kẻ đã được mời lại không xứng đáng: Ơn cứu độ đã được hứa ban cho dân Ít-ra-en, nhưng họ lại không đáng được hưởng do thái độ dửng dưng và từ chối Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.
– C 9-10: + Vậy các ngươi đi ra các ngả đường: Nhắc lại lệnh của Đức Giê-su truyền cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Ra các ngả đường còn nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ như lời Đức Giê-su: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngòai, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). + Gặp ai bất luận xấu tốt cũng tập hợp cả lại: Câu này cho thấy ý của Thiên Chúa là muốn cho tất cả mọi người đều được vào Nước Trời (x. Mt 9,13). + Phòng tiệc cưới đã đầy thực khách: Từ nay Hội thánh gồm đủ mọi dân tộc và mọi thành phần tốt xấu trong xã hội. Ở đây cũng nhắc lại ý nghĩa của dụ ngôn Cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) và Chiếc lưới (x. Mt 13,47-50).
– C 11-12: + Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc: Sự quan sát ám chỉ cuộc phán xét cuối cùng của Đức Giê-su, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm “Chúa” (x. Pl 2,6-11) và làm “Vua” xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). Tuy “Hội thánh lữ hành” ở trần gian còn bao gồm cả người tốt lẫn kẻ xấu, nhưng “Hội thánh chiến thắng” trên trời lại chỉ gồm những người đã trải qua cuộc phán xét chung. Khi ấy chỉ những người có đức tin, thể hiện qua lối sống khiêm tốn phục vụ mới được tham dự bàn tiệc Nước Trời. + Có một người không mặc y phục lễ cưới: Trong Thánh Kinh không chỗ nào đề cập đến tục lệ chủ nhà sắm quần áo cưới cho quan khách đến dự tiệc mặc trước khi vào phòng tiệc nhưng chỉ cần họ ăn mặc lịch sự là đủ. Y phục lễ cưới ở đây ám chỉ chiếc áo trắng chiến thắng (x. Kh 7,9b), áo chính trực công minh (x. Is 61,10) và công chính (x. Mt 5,16.20), tượng trưng con người mới công chính thánh thiện (x. Ep, 4,24), giống như Hiền thê được trang điểm và được mặc áo sáng chói tinh tuyền đi đón Con Chiên (x. Kh 19,8). Tóm lại, y phục lễ cưới chính là chiếc áo trắng tinh khi chịu phép rửa tội. + Người ấy câm miệng không nói được gì: Người không mặc y phục lễ cưới đã không thể biện minh cho thái độ khinh thường chủ tiệc của mình.
– C 13-14: + Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: Đây là những hình phạt tượng trưng cho hỏa ngục, nơi dành cho những kẻ sống bất chính và thù ghét Thiên Chúa. Nơi đó họ sẽ phải khóc lóc đau khổ và nghiến răng tủi hờn. + Kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít: Nhiều ít không phải về số lượng, nhưng đúng hơn là sự non kém. Nên câu này có thể được dịch lại như sau: “Kẻ được gọi thì đông hơn, và người được chọn thì ít hơn”. Câu này lẽ ra được đặt ngay sau dụ ngôn Tiệc Cưới. Vì người được gọi thì rất nhiều “chật ních phòng tiệc”, và chỉ có người được mời trước từ chối và “một người không mặc áo cưới bị loại ra mà thôi (x. Lc 13,22-30). Việc người được gọi thì nhiều mà được chọn thì ít không phải do Thiên Chúa không mời, nhưng tại loài người đã cố tình từ chối lời mời của Thiên Chúa, hay vì không mặc áo cưới công chính tinh tuyền, không sống giới răn yêu thương của Chúa Giê-su (x. Mt 3,8 ; 5,20 ; 7,21 ; 13,48 ; 21,32).
- HỎI ĐÁP:
– Hỏi 1: So sánh dụ ngôn Tiệc cưới trong hai Tin mừng Mát-thêu (22,1-14) và Lu-ca (14,16-24), ta thấy Tin mừng Lu-ca không nói đến việc ông vua phát hiện ra có một kẻ không mặc áo cưới và trừng phạt y. Vậy Tin mừng nào thuật lại đúng hơn ?
ĐÁP:
Ngày nay một số nhà chú giải nghĩ rằng: dụ ngôn Tiệc Cưới do Đức Giê-su giảng thực ra đã chấm dứt ngay sau khi vua cho mời những kẻ nghèo khó, tàn tật mù què vào đầy phòng tiệc, để thế chỗ cho những kẻ được mời mà không đến (x. Lc 14,16-24; Mt 22,1-10). Còn phần sau trong Tin mừng Mát-thêu (22,11-14) thực ra là một dụ ngôn khác, là dụ ngôn “Áo Cưới”, nhưng đã được đặt liền sau dụ ngôn “Tiệc Cưới”.
– Hỏi 2: Ông vua có bất công không khi phạt một người khách không mặc y phục lễ cưới chỉ vì bất ngờ được mời, nên không có thời gian chuẩn bị trước. Hơn nữa, do được mời ở ngã ba đường và bị ép vào phòng tiệc, thì lấy đâu ra áo cưới ?
ĐÁP:
Những ai nhận đây là hai dụ ngôn được ghép lại thành một thì sẽ không có thắc mắc gì về vấn đề áo cưới, vì ai cũng có thời giờ chuẩn bị trước ở nhà. Tuy nhiên ngay cả trường hợp được mời đột xuất thì việc phạt người không mặc áo cưới cũng không bất công. Vì tại sao bao nhiêu người khác cũng được mời bất ngờ như vậy mà vẫn có thể mặc y phục lễ cưới ? Hơn nữa, khi bị hạch hỏi, người không mặc áo cưới này lại làm thinh, không bào chữa gì được cho hành vi của mình. Tuy nhiên, đây chỉ là một câu chuyện dụ ngôn, nên cần quan tâm đến bài học dụ ngôn muốn dạy, hơn là để ý đến các chi tiết khác. Điều dụ ngôn muốn dạy là: Kẻ không mặc áo cưới là kẻ cố tình không chịu sám hối và tin vào tin Mừng, nên không đủ điều kiện vào dự tiệc mà còn bị quăng vào hỏa ngục đời đời.
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?” Người ấy câm miệng không nói được gì (Mt 22,11-12).
- CÂU CHUYỆN:
1) HÃY LUÔN HƯỚNG VỀ TRỜI CAO:
Một con gà rừng mẹ đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ trứng của nó có một trứng to của chim đại bàng. Khi đến ngày giờ, các quả trứng đều nở ra thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên các chú gà rừng như anh chị em ruột trong gia đình gà rừng.
Một ngày kia, khi đang bới móc trong đống rác kiếm ăn giun đất chung với đàn gà rừng, đại bàng con chợt thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không với dáng vẻ oai phong đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ rằng:
– Mẹ ơi, sao bọn mình lại không bay lên cao như chim đại bàng trên trời kia hả mẹ ?
– Chúng ta không phải đại bàng nên không thể bay lên được con ạ !
– Thế chúng ta là ai hả mẹ ? Đại bàng con hỏi tiếp.
– Chúng ta chỉ là loài gà rừng mà thôi !
Rồi vài ngày sau đó, khi đang khi bươn chải kiếm ăn trên đống rác, đại bàng con lại thấy chim đại bàng mẹ bay lượn trên cao gọi cậu:
– Hãy bay lên cao với mẹ hỡi con yêu của ta ! Thế giới của con là trời cao biển rộng, chứ đâu phải đống rác nhơ bẩn dưới đó ! Mau bay lên với mẹ đi con.
Đại bàng con cố đập cánh bay lên theo lời mẹ gọi, nhưng bay được vài cái là lập tức bị rơi xuống đất giữa tiếng cười chế nhạo của anh em gà rừng. Bọn chúng bảo đại bàng con rằng:
– Chú chỉ là loài gà rừng, làm sao bay lên cao được hả chú bé ?
Đại bàng con tự nhủ : Nếu ta chỉ là gà rừng thì sao mẹ đại bàng trên cao kia cứ gọi ta là đại bàng con ? Đàng khác, ta thấy bay lên cao cũng đâu phải quá khó ! Có lẽ tại ta chưa tập thành thạo đó thôi. Vậy bây giờ ta thử bay thêm lần nữa xem sao.
Thế là đại bàng con đủ lông đủ cánh đã bay được lên trời và cứ tiếp tục bay lên cao mãi. Cậu bay theo sau đại bàng mẹ tiến về một phương trời mới. Lần đầu tiên trong đời, đại bàng con được nhìn xuống đất từ trên cao. Cậu cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui vẻ hạnh phúc.
2) Y PHỤC NƯỚC TRỜI LÀ CUỘC SỐNG HÂN HOAN, YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ
Để trả lời cho những người muốn biết Nước Trời ở đâu, Đức Giê-su đã dạy: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21). Như vậy, mỗi gia đình, cộng đoàn hay bất cứ tập thể nào cũng có thể trở thành thiên đàng hay hỏa ngục. Có người đã nằm mơ thấy mình được dự hai bữa tiệc: một tiệc trên thiên đàng và một tiệc trong hỏa ngục và thuật lại sự khác biệt giữa hai nơi như sau:
Cả hai bàn tiệc trên thiên đàng hay dưới hỏa ngục đều có đầy thức ăn ngon, và mỗi người đều được phát một đôi đũa. Có điều các đôi đũa đều dài quá khổ, đến nỗi tuy người ngồi ăn có thể gắp được đồ ăn trên bàn, nhưng lại không sao đưa được đồ ăn vào miệng của mình. Trong bàn tiệc trên thiên đàng thì mọi người đồng bàn đều có lòng vị tha bác ái, nên biết quan tâm đến người khác và muốn làm vui lòng người khác, nên họ gắp đồ ăn phục vụ cho nhau, nên mọi người đều được ăn no và không khí bàn tiệc rất vui vẻ bình an và hạnh phúc. Ngược lại, tại bàn tiệc trong hỏa ngục thì mọi người đều ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Vì không thể tự gắp đồ ăn cho mình, và do thói ganh tị nên họ cũng không muốn phục vụ người khác, nên mọi người đều bị đói và thù ghét đánh lộn nhau. Kết quả là người thì đau khổ khóc lóc, kẻ lại nghiến răng giận hờn.
3) CHUẨN BỊ TIỆC NƯỚC TRỜI ĐỜI SAU BẰNG VIỆC NĂNG DỰ TIỆC THÁNH ĐỜI NÀY:
Một bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi, em gọi cha mình lại để nói chuyện. Người cha này rất nguội lạnh, lại hay ăn nhậu và không bao giờ đến nhà thờ. Em hỏi: – “Cha có thương con không?”. Người cha cảm động nói: – “Sao con lại hỏi thế, cha rất yêu con!”. – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về với Chúa rồi!”. – “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!”. Người cha ôm con khóc nức nở. – “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con cũng yêu cha, con không muốn xa cha, cha có muốn gặp lại con và sống mãi bên con không?” – Người cha nghẹn ngào đáp: – “Có, con yêu!”. – “Vậy cha hãy hứa với con là cha sẽ năng đi lễ nhà thờ nhé! Con muốn được gặp lại cha trên Thiên Đàng”. Người cha trả lời trong nước mắt: – “Cha hứa!”. – “Con vui lắm rồi, con hẹn sẽ gặp lại cha nhé!”. Bé gái nhìn cha mỉm cười và sau đó ít phút, em nhắm mắt ra đi. Sau ngày an táng con gái thân yêu, người cha đã giữ lời hứa để trở thành một con chiên ngoan đạo hằng ngày dự lễ rước lễ. Ông còn tình nguyện tham gia vào ban phục vụ nhà thờ. Cuối cùng ông đã chết trong bình an với niềm hy vọng được hưởng hạnh phúc Nước Trời với người con gái thân yêu.
Muốn được vào dự tiệc Nước Trời, đòi người ta phải “mặc áo cưới” là có lòng sám hối tội lỗi và năng kết hiệp với Chúa Thánh Thể. Rồi biết phục vụ Chúa trong những người nghèo khổ bất hạnh như lời Chúa phán với người lành trong Ngày Phán Xét : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom, Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-36.40).
- SUY NIỆM:
1) THIÊN CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ LOÀI NGƯỜI QUA HAI GIAI ĐOẠN:
Giai đoạn một: Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến với dân It-ra-en báo tin về một Đấng Thiên Sai sẽ đến thiết lập một “Triều Đại của Thiên Chúa”, và mời dân này gia nhập. Khi gần đến ngày đã định, Thiên Chúa lại sai Gio-an Tẩy Giả là vị tiền sứ của Đấng Thiên Sai đến nhắc lại lời mời gọi ấy như sau: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Nhưng dân Ít-ra-en vẫn tỏ thái độ thờ ơ và vua Hê-rô-đê đã giết hại Gio-an. Về sau dân này còn hè nhau giết hại chính Người Con do Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su.
Giai đoạn hai: Ttrước sự cứng lòng của dân Ít-ra-en đã từ chối ơn cứu độ, Thiên Chúa đã mời mọi dân tộc khác vào dự tiệc cưới Nước trời, qua lời Đức Giê-su truyền cho các môn đệ sứ vụ truyền giáo như sau: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Rồi nhờ ơn Thánh Thần ban, các Tông đồ đã chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng khắp muôn dân. Nhờ Thánh Thần tác động mà số người gia nhập vào Hội thánh ngày một gia tăng.
2) ĐÁP LẠI LỜI MỜI GỌI CỦA THIÊN CHÚA THẾ NÀO ? :
– Hãy luôn hướng lòng trí về những sự trên trời:
Kitô hữu là «Giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa» (1 Pr 2,9). Tuy sống trong thân phận con người trần gian, nhưng phải ý thức mình không thuộc về trần gian. Chúng ta đừng nghĩ mình là loài gà rừng hèn hạ, để chỉ biết cúi đầu bươi chải đống rác hôi thối tìm kiếm thức ăn, chỉ biết bằng lòng với những hạnh phúc tầm thường chóng qua do tiền tài danh vọng sắc dục mang lại. Chúng ta cần phải nhìn lên cao, cố gắng tập vươn tâm hồn lên những gì là cao thượng, phù hợp với Thiên đàng vinh phúc như lời thánh Phao-lô dạy: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
– Phải mặc y phục lễ cưới là một tâm hồn thanh sạch và sống đức Tin, Cậy, Mến:
Chúng ta vốn là dân ngoại, nhưng đã đáp lại lời mời của Đức Giê-su để gia nhập vào Hội thánh (x. Mc 1,15). Nhưng muốn được tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau, chúng ta cần mặc chiếc áo trắng khi chịu phép rửa tội là “Ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (x. Mt 7,21; Lc 11,28). Thánh Phao-lô cũng khuyên đồ đệ Ti-mô-thê : “Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến, phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng, và đức tin không giả hình” (1 Tm 1, 5). Đó chính là y phục lễ cưới phải có để vào Nước Trời.
– Chu toàn sứ mệnh tông đồ là đổi mới trần gian thành Thiên Đàng yêu thương:
Đổi mới bản thân ngày một thanh sạch hơn: “Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17,21). Do đó, chúng ta hãy năng xin Chúa cho mình ngày một nên giống Đức Giê-su hơn.
Đổi mới môi trường sống là phúc âm hóa gia đình, khu xóm, trường học, nhà máy, công sở… ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn… để trở nên “Trời Mới Đất Mới”.
Cần ăn năn sám hối tội lỗi mỗi ngày, quyết tâm sống khiêm hạ, yêu thương và phục vụ Chúa qua tha nhân, nhất là chia sẻ với những người bệnh tật, nghèo khổ và bị bỏ rơi (x. Lc 17,10; Mt 25,34), và luôn ý thức chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng (x. 1 Cr 9,16).
Hãy luôn thao thức hướng lòng về với Chúa như thánh Au-gút-tinô đã thưa với Chúa: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa. Và tâm hồn con vẫn còn thao thức mãi, cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.
Mỗi tối trước khi đi ngủ, chúng ta hãy tự hỏi: Hiện giờ tấm áo trắng rửa tội của tôi có còn tinh tuyền không ? Hôm nay tôi đã sống giới răn mến Chúa yêu người thế nào ? Giả như đêm nay Chúa gọi tôi về trình diện, tôi có đủ điều kiện để được tham dự bàn tiệc Nước Trời hay không ?
- THẢO LUẬN:
1) Thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16b). Vậy thiên đàng ở đâu ?
2) Bạn sẽ làm gì để biến đổi gia đình hay cộng đoàn của bạn trở nên thiên đàng yêu thương ngay từ ngày hôm nay ?
- NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. “Xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con”. Xin cho con biết luôn quên mình để làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa. Xin cho con biết khiêm hạ, luôn làm việc để tôn vinh Thiên Chúa và để góp phần cứu rỗi các linh hồn. Ước gì con biết hãm mình và luôn sống trong tình thương của Chúa. Ước gì con biết đón nhận tất cả những gì xảy đến cho con và trung thành vác thập giá mình để bước theo Chúa đến cùng. Xin đừng để điều gì thuộc về trần gian quyến rũ con lạc xa Chúa. Xin thương xót con và giúp con thêm lòng tin yêu Chúa, hầu sau này con đáng được vào dự bàn tiệc Nước Trời hạnh phúc đời đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh lôi kéo sự chú ý của chúng ta, đó là tiệc cưới và áo cưới. Chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa của những hình ảnh này.
1. Tiệc cưới
Trong các nền văn hóa, tiệc tùng, ăn uống đóng vai trò quan trọng trong đời sống nhân sinh.
Người Pháp có câu: “On s’attache par le repas,” nghĩa là người ta gắn bó với nhau qua bữa ăn. Người Việt thì nói: “Khách đến nhà không gà thì vịt.” Quả thế, bữa ăn là nơi gặp gỡ, chia sẻ và sống thân tình với nhau. Bữa ăn cũng nơi bày tỏ quý mến với nhau chứ không phải là nơi tranh cãi và chửi bới nhau, như cha ông ta đã khôn ngoan dặn dò: “Trời đánh tránh bữa ăn.”
Hình ảnh bữa ăn hay bữa tiệc cũng được Kinh Thánh nhiều lần nói tới. Cựu Ước nói tới bữa ăn mà tổ phụ Abraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải ở Mamrê (x. St 18,1-8), hay như hình ảnh bữa tiệc được tiên tri Isaia loan báo trong bài đọc I (x. Is 25,6-10). Tân Ước cũng nói nhiều đến bữa tiệc như bữa tiệc người cha già tổ chức mừng người con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Những biến cố lớn liên quan đến Chúa Kitô đều gắn liền với bữa tiệc như Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai với việc đến dự tiệc cưới ở Cana (Ga 2,1-10); Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để thiết đãi dân chúng ăn no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá (x. Ga 6,5-15). Trước khi đi chịu tử nạn, Chúa Giêsu đã dự Tiệc Ly với các môn độ (Ga 13,1-15). Sau khi phục sinh, Người dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14). Như thế, bữa ăn và bữa tiệc là “môi trường” Kinh Thánh.
Trở lại với bài đọc I, với ngôn ngữ khải huyền hướng về tương lai, tiên tri Isaia nói tới việc Thiên Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thì béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (x. Is 25,6-10). Trong một bối cảnh mà dân Do Thái đang lưa đày ở Babilon, vua Ba Tư là Cyrus đã ký sắc lệnh cho họ trở để tái thiết cuộc sống mới ở Giêrusalem. Viễn tượng mới mà Isaia mô tả chan chứ niềm vui, hy vọng và hạnh phúc mà Thiên Chúa sẽ ban cho dân Người, trong đó, mọi người sẽ được ăn uống no nê, có một cuộc sống bình an, ổn định, Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ và xóa tan mọi nỗi ô nhục của họ.
Đó là hình ảnh tiên báo về Nước Trời được Đức Giêsu rao giảng và thực hiện với sự xuất hiện của Người như được nói trong bài Tin Mừng.
Trước hết, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để diễn tả chân lý này: Thiên Chúa muốn ban hạnh phúc Nước Trời cho dân Do Thái, dân riêng, nhưng tiếc rằng họ là những người khách được mời đã từ chối lời mời gọi của Chúa và viện cớ vì nhiều lý do khác nhau như “kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết” (Mt 22,5-6). Họ là đại diện cho tất cả những ai đã ưa chuộng và chạy theo những giá trị trần gian mà khước từ những giá trị đạo đức và vĩnh cửu của Nước Trời. Trước sự từ chối đó, ông chủ đã sai các đầy tớ ra các ngã đường, gặp ai cũng mời vào tiệc cưới, bất luận tốt xấu, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách (x. Mt 22,5-10).
Qua đó, dụ ngôn muốn nói rằng: Bữa tiệc nói lên tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho dân Người. Bữa tiệc cũng là hình ảnh để diễn tả ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người. Đây cũng là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể, là bữa tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi dân Người trong giao ước mới. Thiên Chúa đã kết giao ước hôn phối với loài người qua Con Một chí ái của Người. Qua giao ước này, Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người vào dự tiệc cưới đó. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang lại là phổ quát, chứ không chỉ dành cho một số người được ưu tiên và xứng đáng. Như thế, Thiên Chúa không chỉ mời gọi mọi người vào làm việc trong vườn nho của Chúa, nhưng còn mời gọi họ vào tận hưởng niềm vui cứu độ trong tiệc cưới với Chúa Con. Hạnh phúc cho những ai được mời vào dự tiệc cưới của Chúa!
2. Áo cưới
Như thế cho thấy Thiên Chúa quảng đại mời hết mọi người vào tham dự tiệc cưới. Tuy nhiên, ở phần cuối bài Tin Mừng, có một chi tiết cần phải dừng lại để suy nghĩ, đó là chi tiết: “Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới,” ông thắc mắc và lệnh bắt người đó và quăng vào chổ khóc lóc nghiến răng (x. Mt 22,11-14). Chi tiết này làm chúng ta phải ngạc nhiên và xem ra bất công, bởi lẽ, ban đầu nhà vua bắt các đầy tớ ra đường đột xuất mời người ta vào dự tiệc, giờ sao lại bắt nạt người này không có áo cưới. Nhưng cần lưu ý rằng đây là chi tiết mang tính dụ ngôn và biểu tưởng. Theo đó, áo cưới đây muốn ám chỉ đến những điều kiện tối thiểu mà người dự tiệc phải có khi vào dự tiệc theo phong tục Do Thái. Điều đó muốn nói rằng, một đàng, Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người, nhưng đàng khác, những ai được mời vào dự tiệc phải có sự đáp trả, chuẩn bị chiếc áo cưới của mình, để xứng đáng dự tiệc cưới.
Chiếc áo cưới ở đây là biểu tượng của sự đáp trả cách tự do của mỗi người trước phần rổi mình. Đây là điều kiện cần thiết để được cứu độ và để dự tiệc cưới Nước Trời. Như thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa sáng tạo nên con, không cần có con, nhưng để cứu độ con, thì cần có con cộng tác.”
Theo chiều hướng đó, thánh Phaolô nói đến một chiếc áo mà mỗi người Kitô phải mặc, đó chính là Đức Kitô. Ngài mời gọi: “Anh em hãy mới lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14). Mặc áo xanh hay mặc áo đỏ, mặc áo nọ mặc áo kia, nhưng ta tin rằng ta đẹp nhất khi ta mặc áo Chúa Kitô. Nơi khác, thánh Phaolô khích lệ: “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Pl 2,5). Nghĩa là phải từ bỏ những thói quen của con người củ, canh tân và mặc lấy con người mới là Chúa Kitô (Ep 4,22-24). Chính ngài đã để cho Chúa Kitô sống và hướng dẫn ngài, nên ngài chia sẻ nơi bài đọc II: “Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng thiếu, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu đựng được hết” (Pl 4,12-13).
Thánh Grêgiôriô Cả giải thích theo một chiều hướng khác: “Áo cưới đây chính là lòng bác ái. Bởi vì Đấng Cứu Độ chúng ta đã mặc áo đó khi Người đến để kết hợp với Giáo Hội như là hiền thê của mình.” Theo ý nghĩa này, áo cưới chính là lòng bác ái và những việc lành mà chúng ta thực hiện đối với tha nhân, nhất là với những người nghèo khổ. Vì ngày phán xét, Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta dựa trên tình yêu và lòng bác ái đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46). Đó là áo cưới mà mỗi người cần có để mặc trong tiệc cưới cánh chung. Nếu không có bác ái là không visa, không có áo cưới để dự tiệc cưới, chúng ta sẽ bị đuổi ra ngoài, phải chịu cảnh khóc lóc và nghiến răng.
Như thế, Lời Chúa hôm nay một đàng mời gọi chúng ta xác tín vào ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người, và đàng khác, nhắc nhở chúng ta ý thức bổn phận của mình để cộng tác với ơn Chúa, biết chuẩn bị cho mình chiếc áo cưới đẹp nhất, bằng những việc bác ái để xứng đáng dự tiệc cưới Nước Trời mai sau. Amen!
.
Lm. Giuse Nguyễn
Tại Việt Nam, những buổi tiệc mừng đã trở thành nếp sinh hoạt không thể thiếu trong xã hội. Nó thể hiện tính cộng đồng, sự chia sẻ, hiệp thông giữa người với người. Tuy nhiên, người ta đã lạm dụng để biến nó thành cơ hội để vui chơi giải trí, nhậu nhẹt say sưa, kể cả những dịp tang ma…. Bữa tiệc mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu là bữa tiệc cao trọng hơn nhiều, bữa tiệc thiên thu, bữa tiệc Nước Trời.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I:
Tiên tri Isaia cho chúng ta thấy một bữa tiệc với những nét sau đây: Người dọn tiệc là “Chúa các đạo binh”, khách mời là “muôn dân”, nơi dọn tiệc là “trên núi”. Bữa tiệc có thịt, rượu đầy đủ, mà không phải thịt, rượu bình thường đâu, nhưng rượu ngon, thịt béo đàng hoàng. Trong bữa tiệc này có một chuyện rất đặc biệt, đó là chủ tiệc sẽ cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trãi trên mọi nước, Người sẽ lau khô mọi dòng lệ, sẽ cất đi sự tủi nhục của dân. Qua đó tiên tri Isaia muốn cho chúng ta thấy hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa sẽ ban như một bữa tiệc, bữa tiệc dành cho tất cả mọi người chứ không phân biệt một ai.
- Tin Mừng:
Bài Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh CG tiến vào thành Giêrusalem với tư cách Đấng Messia của Thiên Chúa. Thế nhưng những người biệt phái và Pharisêu thì phủ nhận uy quyền của Ngài, nên khi thấy Ngài giảng dạy và làm những dấu lạ, họ đã chất vấn Ngài: “Ông lấy quyền gì mà làm những điều đó?”Trong bối cảnh gay cấn như vậy, CG kể cho họ nghe một loạt 3 dụ ngôn như một lời cảnh báo cho họ. Dụ ngôn thứ nhất vào Chúa nhật 26 TN là dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho, một đứa nói không nhưng sau lại đi; một đứa nói đi nhưng sau lại không. Dụ ngôn thứ hai vào Chúa Nhật 27 TN kể về việc có những người được ông chủ thương cho làm vườn nho, nhưng khi ông chủ cho người đến lấy hoa lợi thì họ đã đánh đập, đuổi đi. Ông chủ sai cả đứa con trai của ông đến, nhưng không ngờ chúng còn hung bạo hơn, giết cả đứa con độc nhất của ông chủ nữa. Dụ ngôn thứ 3 mà chúng ta vừa nghe đọc kể về việc nhà vua làm tiệc đãi khách nhưng không thấy ai đến. Nhà vua sai người đi mời một lần nữa, họ cũng từ chối. Cuối cùng vì tiệc đã dọn sẵn sàng nên nhà vua kêu gia nhân đi mời tất cả mọi người ngoài đường vào dự tiệc. Cả 3 dụ ngôn đều nói về thái độ từ chối hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa ngay từ đầu đã có ý định ban cách riêng cho dân Do Thái. Nhưng chính vì họ khước từ nên họ đã không được hưởng hạnh phúc đó. Thiên Chúa đã mời gọi tất cả mọi người, trong đó có chúng ta đến hưởng hạnh phúc Nước Trời với Ngài, hạnh phúc mà những người biệt phái và Pharisêu đã khước từ.
Qua dụ ngôn này cho chúng ta thấy được tình yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu thương nhưng không dành cho mọi người. Nhưng đặc biệt hơn là cách Người cư xử với những người tội lỗi và lên án thói kiêu ngạo của giới lãnh đạo Do Thái. Chúa Giêsu của chúng ta đã biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với những người bé nhỏ, đồng thời Người cũng tố cáo những kẻ từ chối lời mời gọi của Tin Mừng, và như thế họ bị loại khỏi bữa tiệc Nước Trời mà CG đã đến khai trương.
II. TỪ CHỐI THIÊN THÚA
- Lý do:
Chúng ta để ý đến lý do khách mời từ chối bữa tiệc của nhà vua. Thánh Matthêu trong bài Tin Mừng hôm nay ghi lại 2 lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán”. Cả hai lý do đều quy về việc người ta quá lo đời sống vật chất mà từ chối lời mời đi dự tiệc. Trong đoạn Tin Mừng song song của thánh Luca thì ghi có tới 3 lý do: “Người thứ nhất nói tôi mới mua một thửa đất, phải đi thăm. Người thứ hai nói tôi mới tậu bò, phải đi thử. Người thứ ba nói tôi mới cưới vợ nên không thể đến được”. Ba lý do trên có thể gom thành 2 loại, đó là bận rộn với đời sống vật chất (mua đất, mua bò), và lo hưởng thụ (cưới vợ). Tự bản chất những việc trên không phải là xấu, nó chỉ xấu khi con người ta vì nó mà sẵn sàng từ chối ơn thánh của Chúa.
- Nền tảng Thánh Kinh
Về đời sống vật chất, trong Kinh Thánh cựu ước, ngay từ khi sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật cho con người hưởng dùng. Thời các tổ phụ, gia tài của họ được thể hiện qua những đàn xúc vật đông đảo. Và giàu sang là dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành. Đến thời tân ước, CG không đả phá những người giàu sang, có của, nhưng ngược lại, Ngài đề cao những người giàu sang mà biết từ bỏ vì Nước Trời. Đó là những phụ nữ đã dùng tài sản mình mà giúp đỡ CG và các môn đệ, đó là ông Giakêu đã dùng một nửa tài sản mình mà bố thí cho người nghèo. Nhưng nhất là CG đã đưa ra một mối phúc: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Chính bản thân Ngài đã làm gương cho tinh thần nghèo khó đó một cách tuyệt đối: Sinh nghèo, sống nghèo, yêu thương người nghèo và chết nghèo.
Về việc tận hưởng cuộc sống cũng vậy, ngay khi mới tạo dựng con nguời, Thiên Chuá thấy ông Ađam một mình có vẻ buồn, nên Ngài đã dựng nên cho ông bà Eva để cuộc sống của ông thêm phần vui tươi, hạnh phúc. Đến thời CG, ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai Ngài đã đi dự tiệc cưới tại Cana, và nâng hôn nhân lên hàng Bí tích. Điều đó cho thấy Ngài không phủ nhận việc hưởng thụ cuộc sống, nhưng Ngài còn cho nó là tốt đẹp nếu qua đó con người biết làm vinh danh Chúa
III. CON NGƯỜI TỪ CHỐI THIÊN CHÚA
Trong cuộc sống ngày hôm nay, có lẽ chúng ta không đến nỗi giống như người Do Thái ngày xưa từ chối Chúa một cách thẳng thừng. Thế nhưng là những người Kitô hữu, khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta đã được mời đến dự bữa tiệc Nước Trời, chung ta vẫn có nhiều hình thức từ chối Chúa.
- Hình thức từ chối Chúa
Hình thức thứ nhất là gia đình tôi có thờ hình Chúa, tượng Chúa, nhiều khi còn nhiều hơn những gia đình khác nữa, nhưng tôi không hề giữ luật Chúa, không hề đến nhà thờ dự lễ, không hề tham gia các sinh hoạt của họ đạo. Đến khi dựng vợ gả chồng thì cũng ráng đến nhà thờ học giáo lý, cũng làm phép cho có với người ta, nhưng sau đó lại trở về nếp sống cũ, nếp sống không biết gì đến Chúa. Đến khi qua đời, cũng báo cho nhà thờ biết để giật chuông; cũng nhờ cha và cộng đoàn đến đọc kinh cầu nguyện, cử hành các nghi thức…, nhưng phải theo giờ thầy đã coi; cũng đem vào nhà thờ làm lễ, nhưng chỉ có quan tài với vài người quen, phần đông ngồi đâu đó đợi giờ chôn; đến đất thánh đọc kinh xong hỏi sao chưa hạ huyệt? Nói chưa tới giờ… Rồi cũng xong một kiếp người, nhưng thử hỏi cách sống đạo như vậy thì sự sống đời sau của chúng ta như thế nào? Hạnh phúc hay đau khổ đây?
Hình thức thứ hai phổ biến hơn, tôi có giữ đạo, nhưng theo hứng, theo thời, nói tôi bỏ đạo là không được. Một năm tôi đến nhà thờ được vài lần: Giáng Sinh, Tết, Phục Sinh, và những lần con cái tôi lãnh bí tích… Hoặc tôi có giữ đạo nhưng theo cái nhìn sai lầm của tôi chứ không theo Chúa dạy và hướng dẫn của Hội Thánh. Tôi nghe một người nói rõ ràng, mẹ chị ta hỏi sao lâu quá không thấy mày đi lễ? Chị ta nói: “Bà đi lễ, tôi đi làm để kiếm tiền làm việc bác ái. Chứ tôi với bà đi lễ hết thì lấy tiền đâu làm việc bác ái!?”. Và đối với chị ta giữ đạo là làm 3 việc này: thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống, thứ 3 cho khách đổ nhà, như vậy là quá đủ rồi. Một cách ngụy biện mà chúng ta nghe nhiều nhất đó là “đạo tại tâm”. Tôi thờ Chúa trong tâm của tôi. Hay có những người đi lễ thì không đi, nhưng nghe nói nơi nào Đức Mẹ hiện ra, Đức Mẹ khóc là có mặt ngay. Ngày nào cũng lại đốt nhang cho cha Diệp, nhiều khi quỳ nửa tiếng đồng hồ để cầu nguyện, nhưng chẳng thấy đi lễ bao giờ… Những cách sống như vậy là những cách sống đạo sai lầm, sống đạo theo ý của tôi chứ không theo ý Chúa và sự hướng dẫn của Hội Thánh.
- Lý do
Cũng như những vị khách được mời đến dự tiệc ngày xưa, họ đều có lý do để từ chối. Tất cả lý do của họ đều vì quá bận rộn với đời sống vật chất và lo hưởng thụ. Lý do để dẫn đến những hình thức từ chối Chúa mà tôi vừa gợi ý ở trên cũng vì con người ta quá bận rộn với đời sống vật chất và lo sống hưởng thụ mà thôi.
Tuy nhiên nguyên nhân sâu xa của việc người ta quá bận rộn với đời sống vật chất và lo hưởng thụ mà quên đi đời sống đạo là bởi vì người ta chỉ nhìn thấy những giá trị trước mắt mà không nhìn thấy được giá trị sâu xa của cuộc đời. Thử hỏi đối với những người có đạo mà chỉ lo làm ăn kiếm tiền hoặc lo ăn chơi trác táng, mà biết được rằng ngày mai mình sẽ chết thì họ có còn dám tiếp tục sống như vậy hay họ sẽ lo đi xưng tội, đọc kinh, dự lễ cho đàng hoàng? Vì vậy, chỉ tại những cái giàu có, những cái sung sướng trước mắt làm che mờ đi những giá trị vững bền mà người ta đã từ chối Chúa bằng nhiều cách.
Vì vậy, khi suy niệm lời Chúa hôm nay, chúng ta xin Chúa cho mình biết được đâu là giá trị thật để chúng ta đeo đuổi trong cách sống của mình. Đồng thời chúng ta cũng hãy biết cầu nguyện cho những người từ chối Chúa cách này hay cách khác, nhất là những người trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta được sớm quay trở lại cùng Chúa. Một cách đặc biệt trong tháng 10 này với sức mạnh của kinh Mân Côi, mỗi ngày chúng hãy dành một kinh kính mừng để nhờ Mẹ Maria cầu nguyện cho những người từ chối Chúa biết quay trở lại để dự bữa tiệc Chúa đã dọn sẵn, dù có muộn màng nhưng không bao giờ trễ, vì Chúa luôn mời gọi và chờ đón mọi người chúng ta.
.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4,12).
Cuộc sống nhân sinh, con người phải làm lụng vất vả, khi đói, khi no; khi thì dư giả, khi thì thiếu thốn. Người mà “trong mọi hoàn cảnh no hay đói; dư dật hay túng bấn; sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được (x.Pl 4,12), không có nhiều. Điều này không phải ai ai cũng có thể sống được. Ta chỉ có thể sống được như thế khi nhờ ơn sức mạnh Chúa ban và ta phải luyện tập. Phải luyện tập từ nhỏ, luyện tập hàng ngày và luyện tập mãi mới được. Tập làm sao cho mình có thói quen, thành một nhân đức. Nhân đức chịu đựng.
Ta chịu đựng cảnh no đủ, cảnh dư dật thì được chứ chịu đựng cảnh đói nghèo, cảnh thiếu thốn thì hơi khó. Thế nhưng trong cảnh đói nghèo; trong cảnh thiếu thốn mà mà chịu đựng được mới là giỏi, mới có ích lợi. Vì khi ĐÓI ta mới biết NO là gì. Khi NGHÈO ta mới biết GIÀU là gì. Khi THIẾU THỐN ta mới biết quí từng đồng tiền, từng hạt gạo; để khi no đủ ta không tự mãn; khi dư dật ta không phung phí.
Có nghĩa là ta sống thiếu thốn cũng được mà ta sống dư dật cũng được. Ta biết cách sống; biết tiên liệu và biết phòng thân; biết tấn công mà cũng biết phòng thủ. Người chỉ biết tấn công mà không biết phòng thủ thì thua là cái chắc, vì người ta đâu dễ để cho mình thắng. Người không biết tiên liệu sẽ sài xả láng, có lúc sẽ cháy túi. Người không biết phòng thân, có ngày sẽ đi ăn mày. Do đó ta phải tập làm sao để có ít không thiếu, có nhiều cũng không dư. Muốn vậy ta phải : có ít xài ít, có nhiều xài nhiều, không có khỏi xài.
Có ít mà ta xài nhiều thì của đâu cho ta xài; có nhiều ta xài nhiều chứ không phải xài hết; không có khỏi xài, không phải đi vay, đi mượn. Vì đi vay, đi mượn thì cũng phải trả cho người ta chứ. Ông bà ta nói: “Liệu cơm gắp mắm” mà. Đó không chỉ là sự khôn ngoan của con người mà còn là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Không chỉ có sức riêng của ta, mà còn có sự trợ giúp của Chúa nữa.
Sống được như thế là ta chẳng nghèo, mà cũng chẳng có giàu, hằng ngày dùng đủ; lúc nào cũng đủ, cũng vừa; không thiếu, không dư. Tại sao ta phải tập sống như vậy ? Vì ta không sống mãi ở đời này.
Ta còn hy vọng sống sự sống đời đời ở trên thiên đàng nữa. Ta hy vọng sẽ dự tiệc cưới của Con Thiên Chúa trên thiên đàng nữa. Thế nhưng ai sẽ là người vào Nước Trời để dự tiệc cưới đây?
Những người lo đi thăm trại, lo đi buôn bán, lo làm giàu; lại vì tiền, vì của mà hiếp đáp người này; làm hại người kia, chắc chắn sẽ không được vào Nước Trời dự yến tiệc rồi. Trong dụ ngôn “Một Vua kia mở tiệc cưới cho con mình”, sau khi những người kia đã không thèm tham dự, Nhà Vua đã ra lệnh cho các đầy tớ: “Các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”(x.Mt 22,9). Điều đó có nghĩa là bất luận tốt xấu, ai cũng “BỊ” ép vào dự tiệc cưới.
Đó là ý của Chúa, Ngài muốn cho mọi người được vào Thiên Đàng dự tiệc cưới, dù tốt hay xấu. Như thế nghĩa là gì ? Người tốt thì OK; còn người xấu thì sao? Đã có một người Nhà Vua thấy không mặc áo cưới. Anh ta bị “trói chân trói tay và bị quăng ra bên ngoài, ở đó phải khóc lóc và nghiến răng”(x.Mt 22,12).
Người xấu là người không mặc áo cưới, nghĩa là chưa ăn năn hối cải, chưa đền bù những gì mình đã gây và làm thiệt hại cho người khác. Có cố gắng tìm cách vào, cũng bị ném ra ngoài thôi. “Kẻ được mời thì nhiều, kẻ được chọn thì ít”(x.Mt 22,14). Nghĩa là Chúa mới tất cả, mời nhiều, nhưng không có mấy ai được vào. Lên thì nhiều nhưng vào thì ít. Vì không đủ tiêu chuẩn.
Điều đó được ví như “Lên núi”. Chúa thiết đãi một bữa tiệc trên núi”(x.Is25,6). Lên núi dự tiệc, nhưng trên núi có nhà, có phòng ăn để đãi tiệc chứ không ăn ngoài trời. Lên núi thì được nhưng có vào được trong phòng để ăn tiệc không mới là quan trọng. Cũng vậy, lên trời nhưng có vào được thiên đàng không lại là chuyện khác. Giống như đi thi thì nhiều, nhưng đậu đâu được bao nhiêu.
Ai là người có đủ tư cách để vào thiên đàng ? Đó là người như thánh Phao-lô nói, “Với sức mạnh Chúa ban, biết chịu đựng được hết”, dù dư hay thiếu; dù đói hay no. Đó là người nghèo mà không than; giàu mà không lên mặt. Đó là người thiếu thốn không kêu; dư dật không phung phí. Đó là người đói không làm càn, làm bậy; no không “rửng mỡ”, ta đây. Họ luôn sống theo lời Chúa dạy, không bám víu vào tiền của đời này, nhưng biết dùng đời này để lên trời và vào thiên đàng.Vậy ta hãy cố gắng tập sống cho quen trong mọi hoàn cảnh nhờ sức mạnh Chúa ban. Vì người lên trời thì nhiều nhưng vào thiên đàng thì ít. A-men.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để ám chỉ Nước Trời. Và qua dụ ngôn này, Chúa cũng muốn cho chúng ta biết tình yêu thương cao cả của Thiên Chúa, và dạy chúng ta hãy thành tâm tiếp nhận lời mời của Chúa.
Chúng ta biết dụ ngôn thường có ít nhất 3 lớp ý nghĩa. Dụ ngôn tiệc cưới trong bài Tin mừng hôm nay cũng vậy. Lớp nghĩa thứ nhất là nghĩa đen. Đơn giản là câu chuyện Chúa kể. Một vị vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Khi những người khách được mời không đến dự, vị vua đã sai đầy tớ ra ngoài đường mời tất cả mọi người, không trừ một ai.
Lớp nghĩa thứ 2 của dụ ngôn còn được gọi là nghĩa bóng, đó là Chúa Giêsu muốn dạy điều gì cho con người nhân loại. Thí dụ hình ảnh tiệc cưới để ám chỉ điều gì? Vị vua biểu hiệu cho ai? Ai là những khách được mời mà không đến? Ai là những khách thay thế họ? Chúng ta biết tiệc cưới ám chỉ Nước Trời. Vị vua ám chỉ Thiên Chúa. Hoàng tử là Chúa Giê-su. Những khách được mời là “Dân riêng” hay dân Do thái, được Thiên Chúa chọn. Khách thay thế là những người tội lỗi và ngoại giáo thời đó. Bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy là: Nước Trời được mở ra cho mọi người, không phải chỉ cho Dân riêng mà thôi.
Đến đây chúng ta chú ý đến lớp nghĩa thứ ba của dụ ngôn, và đó cũng là bài học quan trọng có tính cách cá nhân và thực tế cho mỗi một người chúng ta đang sống trong thế giới và xã hội hôm nay. Hay nói một cách khác, chúng ta phải áp dụng bài dụ ngôn này vào đời sống Ki-tô hữu của chúng ta hôm nay như thế nào?
Tôi phải thú nhận, khi đọc bài dụ ngôn này tôi rất ngỡ ngàng trước tình yêu cao cả của Thiên Chúa. Thiên Chúa là vị vua cao sang, quyền quí, cho nên, những khách được mời dự tiệc cưới của hoàng tử thì chắc chắn phải là những người trong hoàng tộc, những người giàu sang, quyền quí hay có danh vọng. Còn chúng ta chỉ là những người dân không những hèn hạ, đầu đường xó chợ, mà còn què quặt, đui mù và hôi hám nữa, thế mà Chúa lại mời chúng ta. Chúa có được lợi gì đâu khi mời chúng ta. Chúng ta có gì để đền đáp lại cho chủ nhân.
Chúng ta thấy ngày nay, khi đi dự đám cưới thì phải mang theo một phong bì tiền tương xứng và trội hơn phần ăn cho chủ mời, để tỏ tình thân hữu. Chúng ta chẳng có gì để đền đáp đủ lại cho Chúa và cũng chẳng đem lại vinh dự gì cho Chúa, mà Chúa lại mời chúng ta. Rõ ràng là do tình yêu cao quí của Chúa, và đó cũng là tình yêu nhưng không. Vì tình yêu, Chúa muốn nâng loài người hèn mọn chúng ta lên bậc thượng khách đồng bàn cùng với các thánh và thiên thần. Chúa muốn chia sẻ niềm vui mừng và hạnh phúc Nước Trời với chúng ta khi sai Con Thiên Chúa xuống trần mặc lấy bản tính loài người chúng ta. Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ và hành động của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào hiểu thấu được thánh ý Chúa. Tất cả chỉ vì tình yêu vô cùng cao quí và hoàn toàn vô vị lợi, nhưng không của Chúa.
Đến đây chúng ta trở về câu hỏi, chúng ta phải áp dụng ý nghĩa dụ ngôn vào đời sống Ki-tô hữu như thế nào? Hay áo cưới ám chỉ điều gì? Thứ nhất, chúng ta là những người khách thay thế được Thiên Chúa mời vào dự tiệc cưới Nước Trời, ngồi đồng bàn với các thiên thần, các thánh, với Đức Maria và Chúa Giêsu. Nhưng Chúa muốn chúng ta hiểu rõ là nếu chúng ta muốn dự tiệc cưới thì phải mặc áo cưới, đó là phải sống đời sống Ki-tô chính đáng. Phải sống đúng với nhân phẩm của 1 Ki-tô hữu chân chính. Phải thay đổi cuộc sống, cởi bỏ chiếc áo bẩn thỉu tội lỗi và xấu xa của xã hội, để sống theo thánh ý Chúa, không phải theo ý chúng ta. Chúng ta phải mặc cho mình một chiếc áo cưới là chính Chúa Giê-su Ki-tô, bằng cách sống lời Chúa dạy để trở nên đồng hình đồng dạng với Người.
Chúng ta còn tìm được ý nghĩa của chiếc áo cưới trong dụ ngôn Ngày Tận Thế mà tất cả chúng ta đều quen thuộc. Trong ngày tận thế phán xét chung, tất cả mọi người nhân loại được chia làm hai nhóm bên hữu và bên tả trước mặt đức vua là Thiên Chúa. Đức vua nói với những người đứng bên hữu: “Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi, vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta không chỗ ở, các người đã cho ở, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta bị tù đày các ngươi đã thăm viếng.” Và đức vua nói với những người bên tả: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỉ. Vì xưa Ta đói, các người không cho ăn, Ta khát, các người không cho uống, ta khách lạ, các người chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các người không cho đồ mặc, Ta đau yếu và ở tù, các người đâu có viếng thăm Ta.” Như vậy chúng ta thấy áo cưới ám chỉ những việc bác ái, yêu thương đối với tha nhân, nhất là đối với những người nghèo khổ và sống trong sự khó khăn. Hay nói một cách khác, chúng ta phải sống yêu thương, bác ái, biết hy sinh phục vụ, và có lòng quảng đại để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su Ki-tô, trở thành những chứng nhân cho Chúa, làm sáng danh Chúa và xây dựng Nước Chúa trần gian.
Hôm nay, chúng ta được Chúa mời đến dự bàn tiệc Thánh Thể trong ngôi thánh đường này. Và trong giây phút nữa chúng ta sẽ lãnh nhận chính Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn. Xin Chúa giúp chúng ta can đảm lột bỏ chiếc áo nhơ bẩn tội lỗi, tánh hư nết xấu, để can đảm sống thánh ý Chúa dạy, mặc vào một chiếc áo cưới Chúa đòi hỏi. Và ngày nào đó khi đứng trước mặt Đức Vua, chúng ta được nghe Người nói: “Hãy vào hưởng bàn tiệc Nước Trời đã dành sẵn cho ngươi.”
.