CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Kb 1, 2-3.2,2-4; 2Tm 1,6-8.13-14; Lc 17, 5-10
——-
1. Niềm tin thương mại (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
2. Đức tin bằng hạt cải (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
3. Đức tin (Lm. Trần Việt Hùng)
4. Kiên trì trong đức tin (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
5. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ? (Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)
6. Trải nghiệm cụ thể đức tin (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
7. Vun trồng đức tin (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
8. Đức tin sống động (Lm. Minh Vận, CRM)
9. Xin thêm niềm tin cho chúng con (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
10. Tin tưởng vào Chúa (An Phong)
11. Đức tin và người đầy tớ vô dụng (Phêrô Trần Đinh Phan Tiến)
12. Chiếc bình trống rỗng (Thiên Phúc)
13. Xin ban thêm đức tin (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
14. Chỉ là người tôi tớ (Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
15. Đầy tớ vô dụng (Lm. G. Phạm Văn Phượng)
16. Cần một niềm tin (Lm. Bùi Mạnh Tín)
17. Gian nan cho một niềm tin (Lm. Bùi Quang Tuấn)
18. Máy thời gian (Lm. Vũ Minh Nghiễm)
19. Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải (Lm. Bùi Thượng Lưu)
20. Sức mạnh “dời non lấp bể” của lòng tin (JM. Lam Thy, ĐVD)
21. Xin thêm đức tin (Lm. Vũ Đình Tường)
22. Tại sao phải xin thêm lòng tin? (Giuse Vinc. Ngọc Biển, SSP)
23. Sức mạnh của đức tin (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
24. Cộng tác viên (Trầm Thiên Thu)
25. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 27 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Đức tin và những điều kỳ diệu (TGm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Xin ban thêm lòng tin (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
3. Sức mạnh và tính phi lý của niềm tin (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
4. Đức tin đi đôi với sự khiêm hạ (Lm. Gioan Trần Văn Hào, SDB)
5. Nhỏ bé (Trầm Thiên Thu)
6. Chỉ là đầy tớ vô dụng (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
7. Xin ban thêm lòng tin cho chúng con (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
8. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
9. Đức tin và tinh thần phục vụ vô vị lợi (Lm. Anthony Trung Thành)
10. Chúa Nhật 27 Thường niên_C (Lm. Antôn)
11. Xin thêm lòng tin (JM. Lam Thy, ĐVD)
12. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con (Dã Quỳ)
13. Tin yêu và khiêm nhường phục vụ (Lm. Đan Vinh)
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Ca dao có câu: Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Câu ca ngàn đời này ca ngợi công lao của cha mẹ lớn như trời biển, khi sinh thành và dưỡng dục con cái nên người. Và cũng từ đó giáo dục cho các thế hệ sau phải biết: “Một lòng thờ mẹ, kính cha – cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con”.
Thế nhưng, cuộc sống bộn bề những gánh nặng chồng chất bởi cơm áo gạo tiền, bởi kiếm kế sinh nhai khiến con cái ngày nay xem ra thực dụng hơn. Họ toan tính thiệt hơn khi phải chăm sóc mẹ cha và đôi khi tàn nhẫn phủi tay trách nhiệm với cha mẹ. Có những người con coi khinh cha mẹ già yếu, thậm chí còn ngược đãi, hành hạ cha mẹ… .
Có một câu chuyện mang tựa đề “Ngày thứ 31” viết về một gia đình sinh ra được ba, bốn người con. Tuy điều kiện kinh tế khó khăn, nhưng đôi vợ chồng này vẫn cần mẫn nuôi con khôn lớn. Tới khi con cái trưởng thành, cũng là lúc ông bà kiệt sức bởi tuổi già và bệnh tật.
Việc chăm sóc nuôi dưỡng bố mẹ già dường như đã trở thành gánh nặng với các con, chúng đùn đẩy cho nhau. Không ai chịu ai nên chúng bổ đều mỗi người phải nuôi bố mẹ ba mươi ngày luân phiên, bi kịch đã xảy ra khi vào tháng có 31 ngày, không đứa con nào chịu nuôi bố mẹ cái ngày dôi ra ấy, ông bà đành chịu đói nằm chờ qua ngày để đến tháng tiếp theo.
Gần đây có biết bao chuyện đau lòng khi con cái bất hiếu với mẹ cha. Thí dụ như chuyện một đôi vợ chồng già do con cái tranh chấp nhà cửa mà bị đẩy ra sống vất vưởng ngoài đường. Rồi chuyện đứa con ngang ngược hành hạ mẹ già, chỉ vì không cấp đủ tiền cho chúng ăn chơi, hoặc đau lòng hơn, vì mâu thuẫn mà có những đứa con nhẫn tâm đoạt cả mạng sống của chính người đã sinh ra mình… Để lại vết thương lòng nhức nhối trong xã hội.
Đây là kiểu sống không có tình ; chỉ có tính thương mại. Đúng như người xưa nói: ‘Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày’.
Đây cũng là lối sống đạo đầy toan tính của con người thời đại hôm nay. Theo đạo để tìm lợi lộc vật chất như có người vẫn mong cầu trúng số, trúng thưởng hay được trả công bội hậu. Và cũng không thiếu những người xa rời đạo vì theo đạo chẳng được lợi lộc gì! Có người còn toan tính thiệt hơn khi cho Chúa, cho Giáo Hội họ sẽ nhận lại điều gì?
Các tông đồ năm xưa cũng từng hỏi Chúa Giê-su, họ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, họ sẽ nhận lại điều gì? Họ vẫn toan tính thiệt hơn theo kiểu thế gian “có qua có lại cho vừa lòng nhau”. Đây là loại người đức tin còn non yếu. Một đức tin chưa đủ trưởng thành để có thể tin tưởng hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Một đức tin chưa đạt đến mức độ dấn thân để bước đi theo đường lối của Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: đức tin sẽ giúp chúng ta đạt được những điều ngoài sức tưởng tượng và ngoài khả năng của chúng ta. Một đức tin có thể chuyển núi dời non. Một đức tin có thể làm những chuyện phi thường. Niềm tin chân thành cũng đòi hỏi chúng ta dấn thân hoàn toàn cho Chúa. Một sự dấn thân phó thác mọi sự trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm mọi sự theo ý Ngài, thế nên hãy để ý Chúa được hiển trị trong cuộc đời chúng ta khi chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Hãy để quyền năng Chúa hiển trị trên sự yếu hèn của chúng ta khi chúng ta tín thác nơi Chúa.
Điều quan yếu để đức tin mang lại hoa trái cho cuộc đời chúng ta chính là nhìn nhận sự nhỏ bé, bất toàn của mình để cậy trông vào Thiên Chúa. Nhìn nhận mình chỉ là một đầy tớ vô dụng nhưng được Thiên Chúa yêu thương ân ban biết bao ơn lành hồn xác. Sức khỏe, trí tuệ, sắc đẹp, công việc đều là ân ban của Thiên Chúa. Thử hỏi:
– Trí óc ta thông minh ư ? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
– Sức khoẻ ta dồi dào ư ? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
– Ta có nhiều năng khiếu ư ? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
– Ta đẹp ư ? : cũng thế.
– Ta làm nhiều việc thành công ư ? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi. Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra sự yếu hèn của mình để biết trông cậy vào ơn Chúa và biết tạ ơn mỗi khi được nhận lãnh. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đức tin là điều cốt yếu để chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa và đi theo Người. Các môn đệ khi xưa, nghe tiếng Chúa gọi, các Ngài bỏ tát cả mà đi theo Chúa.Họ đã đến, xem chỗ ở của Chúa, và rồi quyết tâm sống với Ngài.Cái trớ trêu đối với các Tông đồ là dù đã đi theo Chúa, sống thân mật với Chúa, nhưng các Ngài vẫn chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Do đó, các môn đệ một hôm thưa với Chúa :” Thưa Thầy xin thêm lòng tin cho chúng con “ ( Lc 17,5 ).
Vâng, thời gian theo Chúa mặc dầu chưa lâu lắm, nhưng các môn đệ đã chứng kiến việc làm của Chúa, các phép lạ,trừ quỷ, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, đặc biệt các Ngài được chính Chúa đào tạo, huấn luyện, uốn nắn vv…Gương cầu nguyện của Chúa, kỷ luật bản thân của Ngài, đời sống thiêng liêng đối với Thiên Chúa Cha, đời sống nhân bản, cách cư xử, ứng xử của Chúa Giêsu đối với các Ngài và đối với dân chúng đã là sự đào tạo liên lỉ và vững chắc, tuyệt hảo của Chúa đối với các Ngài. Tuy nhiên, các mon đệ vẫn còn cảm thấy thiếu, nếu không nói được là các Ngài chưa hiểu, chưa nhận ra Chúa, chưa tin tuyệt đối vào Ngài. Chúa trả lời :” Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dầu anh em có bảo cây dâu này:” Hãy bật rễ lên,xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em “ ( Lc 17, 6 ). Khi Chúa trả lời với các môn đệ như vậy, Ngài không né tránh vấn đề, Ngài cho hay “ Đức tin là điều tối cần, là điều kiện tiên quyết để các Ngài tin và nhận ra chân tướng đích thực của Chúa “. Đức tin cần thiết cho mọi người. Đức tin quan trọng nơi hiệu năng của nó. Nếu không có đức tin, con người không thể nhận ra Chúa và tin tuyệt đối vào Ngài. Chúa đưa ra ví dụ “Hạt cải “ để cho thấy :” Hạt cải tuy nhỏ bé, nhưng gieo vào đất tốt, vun xới, chăm sóc, hạt nẩy mầm, cây lớn lên và chim trời có thể tới làm tổ. Chúa đưa ra dụ ngôn và sự ví một cách rất dí dỏm như thế để thấy đức tin cần thiết như thế nào. Cây cải được Chúa coi là Giáo Hội, Nước Trời :” Giáo Hội, Nước Trời tuy nhỏ bé giống như hạt cải, nhưng cứ tiệm tiến lớn lên đến nỗi quy tụ được mọi dân mọi nước “.Như mẻ cá 153 con mà các môn đệ theo lệnh Chúa Phục Sinh đã thả xuống bên phải mạn thuyền, họ kéo lên được mẻ cá nhiều đến gần rách cả lưới. Chúa ám chỉ muôn dân nước sẽ nhập Giáo Hội, sẽ vào Nước Trời. Chúa cũng đã khen viên bách quản :” Ta chưa thấy lòng tin mạnh mẽ và lớn lao nơi dân Israen “.Hay người nữ bị băng huyết, Chúa cũng đã khen ngợi lòng tin mạnh mẽ, nhưng kín đáo của bà…Nhờ lòng tin mà nhiều người đã nhận ra Chúa và đi theo Ngài…” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “ biểu tỏ cho mọi người :” Đức tin cần phải tỏa chiếu bằng những việc làm tỏa sáng “. Các thánh là mẫu gương về đức tin cho chúng ta noi theo, bắt chước. Các thánh tử đạo đã can đảm, cương quyết làm chứng cho Chúa tới cùng. Một thánh Phanxicô Át Xi Di đã sống khó nghèo để làm chứng cho Chúa khó nghèo. Thánh Phanxicô Xavie, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm chứng cho Chúa bằng việc cầu nguyện truyền giáo. Thánh Têrêsa thành Calcutta đã yêu thương người nghèo vì họ chính là hiện thân của Thiên Chúa. Tất cả các thánh đã sống đức tin, làm chứng cho Chúa bằng chính những việc làm tỏa sáng của mình. Do đó, đức tin dù nhỏ bé nhưng nó lại lớn mạnh, cần thiết cho chính đời sống của người Kitô hữu.
Hôm nay, Giáo Hội cũng mừng lễ Mẹ Mân Côi. Mừng lễ Mẹ Mân Côi chúng ta hãy nghe lời Mẹ khuyên và thực hành điều Mẹ truyền dạy, xưa Mẹ đã hiện ra với ba em : Lucia, Phanxicô và Giacinta, Mẹ đã tự xưng Mẹ là Mẹ Mân Côi và khuyên ba em và thế giới :” Hãy năng lần chuỗi Mân Côi, ăn năn, hối cải, quay trở về với Thiên Chúa để Thiên Chúa thứ tha “.
Chuỗi Mân Côi là mối giây liên kết, ràng buộc chúng ta với Thiên Chúa, với Mẹ và với mọi người. Lời kinh Mân Côi là lời kinh tuyệt vời vì Chuỗi Mân Côi là mối giây bền đỗ của mọi người chúng ta.
Lạy Mẹ Maria tước hiệu nào Thiên Chúa và Giáo Hội tặng ban cho Mẹ cũng cao quý, tuyệt vời, xin Mẹ giúp chúng con luôn noi gương bắt chước Mẹ lần chuỗi Mân Côi vì kinh Mân Côi mang lại phần rỗi cho chúng con.Amen.
.
Trần Việt Hùng
Đức tin ân sủng Chúa ban,
Nguồn thiêng cao quý, chứa chan ân tình.
Niềm tin hạt cải nhỏ xinh,
Cậy trông phó thác, an bình tâm can.
Ai mà tin tưởng nài van,
Ơn trên đổ xuống, tràn lan tâm hồn.
Khiến dâu bứng rễ ra cồn,
Nó liền vâng lệnh, trồng chôn biển này.
Lòng tin củng cố mỗi ngày,
Trau dồi học hỏi, sống ngay giữa đời.
Dụ ngôn đầy tớ gọi mời,
Là người vô dụng, một thời lao công.
Giúp cho ông chủ ruộng đồng,
Chu toàn bổn phận, kể công làm gì.
Nấu cơm dọn bữa thường khi,
Hoàn thành trách nhiệm, thực thi mọi điều.
Trả công sòng phẳng chi tiêu,
Chủ không mắc nợ, bao nhiêu việc nhà.
Các con đầy tớ thật thà,
Thi hành ý Chúa, mới là tôi trung.
Các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con. Đức tin là nguồn sức mạnh giúp ta làm những việc phi thường. Các Tông đồ là những người được Chúa gọi, chọn, theo và nghe Chúa cùng chứng kiến nhiều phép lạ, thế mà các ngài vẫn cảm thấy thiếu niềm tin. Các ngài xin Chúa thêm đức tin để chu toàn sứ vụ.
Chúa ví đức tin như hạt cải bé nhỏ, nhưng qua thời gian nó sẽ phát triển và lớn mạnh. Đức tin chỉ bé bằng hạt cải cũng có thể bứng cây dâu đi trồng dưới biển. Đức tin là tin tưởng và phó thác hoàn toàn trong quyền năng của Chúa. Đức tin không do học hỏi hay kiến thức mà có được. Đức tin là ơn Chúa ban. Có biết bao người trí thức, có bằng cấp nhưng họ không có đức tin. Trong khi những người quê mùa, thất học, đơn sơ lại có đức tin mạnh mẽ. Nếu đòi mọi sự sáng tỏ rồi ta mới tin, thì không còn là đức tin nữa.
Chúng ta thừa hưởng kho tàng đức tin qua Giáo Hội. Chúng ta nhận lãnh đức tin trong Bí tích Rửa Tội. Đức tin cần được trau dồi, học hỏi và cần sống niềm tin. Thánh Giacôbê nói rằng: Đức tin không việc làm là đức tin chết. Chúng ta không thể lãnh nhận đức tin rồi đem cất dấu nhưng cần được tỏa sáng ra bằng việc phục vụ.
Thánh Tôma Thiện mồ côi cha từ nhỏ. Thời Vua Minh Mạng ra lệnh cấm đạo và muốn tiêu diệt tận gốc người tin Chúa. Họ bắt người Công Giáo phải đạp ảnh thánh giá để tỏ dấu bỏ đạo. Năm 18 tuổi, Tôma bị bắt và bị đeo gông cùm giải về Quảng Trị và bị đánh đập tra tấn. Quan hứa rằng: Nếu chịu bỏ đạo sẽ được tha. Cậu trả lời: Đạo dậy tôi thờ kính Thiên Chúa là đạo thật, tôi không thể bỏ đạo. Quan lại nói: Có lệnh Vua, nếu không bỏ đạo, sẽ bị chém đầu. Cậu trả lời: Tôi sẵn sàng chịu chém đầu chứ không bỏ đạo. Dù quan có hứa đủ điều và dạy cách giả vờ chối đạo, cậu kiên trung không sợ chết để giữ vững đức tin và lãnh triều thiên tử đạo.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Có đức tin vào Thiên Chúa chúng ta sẽ vững tâm và sống an bình. Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và bình tâm trước mọi sự thử thách. Có người đến gặp bà hy vọng học được bí quyết để sống hạnh phúc. Ông hỏi bà: Thưa bà, có phải bà có đức tin lớn lao. Bà trả lời: Ô, không đâu, tôi không có đức tin lớn lao mà tôi có một đức tin nhỏ bé đặt vào Thiên Chúa lớn lao.
.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Kb 1:2-3; 2:2-4; 2 Tm 1:6-8, 13-14; Lc 17:5-10)
Sống trong một thế giới đầy bất công, tội ác và đạo đức bị khinh thường, như Lời Chúa đã trình bày trong mấy Chúa Nhật trước, Ki-tô hữu chúng ta phải làm gì? Hãy kiên trì trong đức tin. Đó là câu trả lời chúng ta có thể gặp thấy trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Đáp lại câu hỏi của ngôn sứ Kha-ba-cúc: “Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau?”, Thiên Chúa phán: Cứ an tâm, giờ của Ta chưa đến thôi, vì kẻ ác sẽ ngã gục và người công chính sẽ được sống! Còn thánh Phao-lô thì khuyên môn đệ thân tín Ti-mô-thê cứ “đồng lao cộng khổ” với ngài để loan báo Tin Mừng. Sau hết, Chúa Giê-su cũng dạy môn đệ Người hãy tiếp tục chu toàn việc bổn phận mà “ông chủ” là Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta.
Chắc chắn đã nhiều lần chúng ta thắc mắc: tại sao những kẻ ác vẫn sống nhởn nhơ mà không bị Thiên Chúa trừng phạt? Rồi từ đó nhiều khi chúng ta nghi ngờ Chúa không công bằng. Đây không chỉ là thắc mắc của chúng ta thời nay. “Trong Kinh Thánh, ngôn sứ Kha-ba-cúc là người đầu tiên dám cật vấn Thiên Chúa. Suốt nhiều thế kỷ, đức tin vẫn tuyên xưng công lý của Thiên Chúa. Tuy nhiên, công lý ấy không phải bao giờ cũng rõ ràng, và nhiều người phải im lặng giấu đi mối ngờ vực của mình. Ngôn sứ Kha-ba-cúc là người đầu tiên đặt câu hỏi: Tại sao Đức Chúa cho phép sự bất công chiến thắng? Khi Người trừng phạt một kẻ áp bức, tại sao Người lại thay thế kẻ ấy bằng một người khác tệ hại hơn?” (Dẫn nhập sách Kha-ba-cúc, Bản dịch Kinh Thánh cho mọi người, do nhóm Các Giờ kinh Phụng vụ). Để giúp chúng ta bỏ đi mối nghi ngờ, câu trả lời của Thiên Chúa qua ngôn sứ Kha-ba-cúc nhấn mạnh đến hai điểm: thứ nhất, công lý của Thiên Chúa nhất định sẽ được thực hiện “vào thời ấn định”, vậy nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ; thứ hai, trong khi chờ đợi, kẻ nào không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình. Hôm nay hoặc bất cứ thời nào, nếu chúng ta phải chứng kiến những kẻ ác, nhất là những kẻ có quyền thế, hà hiếp bóc lột người khác, thì đừng vội nản lòng. Chúng ta cứ tiếp tục sống công chính trong đức tin Ki-tô giáo và tích cực hơn nữa, cứ tiếp tục cầu nguyện cho họ biết sám hối và cho tình thế được mau thay đổi.
Nói về đức tin, một đề tài Chúa Giê-su rất yêu thích khi rao giảng Tin Mừng, hôm nay Người đã trả lời các môn đệ xin Người “thêm lòng tin” cho họ: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải…” Chúa lấy hình ảnh hạt cải để mô tả sức mạnh của đức tin. Một đức tin cỡ hạt cải, nghĩa là chỉ lớn bằng cái đầu mũi kim, mà lại có sức mạnh sai khiến được một cây dâu to lớn. Làm sao chúng ta có được một đức tin dù chỉ bằng tầm cỡ ấy? Ai sẽ ban cho đức tin chúng ta một sức mạnh kinh hồn như vậy? Để trả lời, chúng ta cứ đọc lại lời các tông đồ thưa với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Quá rõ ràng rồi nhé! Lòng tin phát xuất từ Chúa chứ không phải từ chúng ta. Chắc chắn Chúa có tất cả những gì khiến chúng ta dám đặt mọi sự tin tưởng của chúng ta vào đó. Nếu các tông đồ không nhận biết Chúa là ai thì các ông đâu có đến xin Chúa thêm lòng tin cho họ! Sau này, chúng ta còn thấy ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin vào Chúa khi ông thưa: Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Nói theo ngôn từ thần học, chúng ta gọi “đức tin là nhân đức đối thần”, nghĩa là trong đức tin, Thiên Chúa là đối tượng. Chúng ta tin Chúa không phải là hành vi chủ động phát xuất từ chúng ta đối với Chúa, nhưng là hành vi đáp trả của chúng ta khi Chúa tỏ ra cho chúng ta biết những đức tính cao cả của Người. Trở lại với trường hợp ông Phê-rô, chúng ta thấy vì Chúa “có những lời ban sự sống đời đời”, nên ông nhận ra mình thật diễm phúc được đón nhận những lời ban sự sống từ nơi Chúa mà ông không bao giờ nhận được từ một người nào khác, do đó Chúa đã làm cho ông tin vào Người. Càng nhận biết Chúa tốt lành, nhân hậu, quyền năng…, thì đức tin chúng ta càng mạnh. Nhưng còn một vấn đề không kém quan trọng, đó là sống đức tin ấy thế nào? Dễ thôi. Chúa Giê-su cho chúng ta một hình ảnh cụ thể: cứ làm giống như người đầy tớ làm cho ông chủ mình. Sau khi anh ta đi cày hoặc đi chăn chiên về, thì anh lại tiếp tục phục vụ ông chủ theo lệnh của ông. Chẳng những anh phục vụ chu đáo, mà còn phục vụ với thái độ thật khiêm tốn khi anh thú nhận: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Mục đích anh phục vụ không phải để được thưởng, nhưng để chu toàn bổn phận.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta gặp được gương mẫu sống đức tin rất sống động qua đoạn thư thánh Phao-lô gửi anh Ti-mô-thê. Trước hết là gương thánh Phao-lô. Vì rao giảng Tin Mừng, Phao-lô đã bị cầm tù như một tội phạm của xã hội. Ngài hãnh diện là bị giam cầm vì Chúa Ki-tô. Hơn nữa, ngài còn khuyên Ti-mô-thê “cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa” và khuyên anh hãy đồng lao cộng khổ với ngài để loan báo Tin Mừng. Làm sao các ngài giữ vững đức tin? Phao-lô trả lời Ti-mô-thê: “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy”. Phải, chính sự kết hợp với Chúa Giê-su là nguồn sức mạnh giúp ta thể hiện đức tin trong cuộc sống!
.
ĐỨC TIN BẰNG HẠT CẢI LÀ ĐỨC TIN LỚN HAY NHỎ?
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh
Có lẽ để chọc quê các tông đồ mà Chúa Giêsu đã có một so sánh kỳ lạ: râu ông cắm cầm bà! Khi các tông đồ xin thêm đức tin, Chúa Giêsu đã so sánh: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải…”
Ngài có so sánh kỳ lạ, bởi vì làm sao so sánh đức tin với hạt cải được, làm sao so sánh phẩm chất với khối lượng được. giống như làm sao ta có thể nói nếu ngươi đẹp bằng 200g thì ngươi sẽ thành tiên. Nếu ngươi có lòng tốt dài 5cm thì ngươi sẽ thành thánh. Nếu ngươi có lòng đạo đức hình tròn thì ngươi sẽ được vào Nước Chúa. Vậy khi Đức Giêsu nói: nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, Ngài có lộn phạm trù không? Có phải Ngài chọc quê các tông đồ không vì chính các ông cũng có lẽ hiểu như vậy: xin thêm đức tin ; có một ít rồi, xin thêm nữa, nên Ngài hùa theo coi đức tin là vật có thể cân đo đong đếm giống như một hạt cải, hai hạt cải…
Có lẽ Đức Giêsu không lộn phạm trù, không chọc quê các môn đệ đâu. Vậy Chúa Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải.”
Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm
Không biết có phải Đức Giêsu tiên báo trước hay không, chứ sau này chính nhà bác học Einstein đã tìm ra công thức liên hệ giữa phẩm chất và khối lượng, giữa ánh sáng và vật chất. Công thức E = mc2 nổi tiếng của Einstein được dùng để tính toán năng lượng phát ra khi nguyên tử (vật chất) biến thành ánh sáng (phẩm chất). E = mc2 (trong đó E là năng lượng phát ra, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Vận tốc ánh sáng mà bình phương lên sẽ là 90 ngàn triệu triệu. Vì thế tuy khối lượng rất nhỏ – ta ví những hạt cải – nhưng giải phóng một năng lượng rất lớn (nhờ nhân với vận tốc ánh sáng bình phương). Ta thấy các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân, chỉ cần một khối lượng nhỏ bé, mà phát ra một sức nổ kinh khiếp, một sức nóng trên một triệu độ. Các nhà máy điện nguyên tử chỉ cần một thỏi nhỏ Plutanium mà phát ra biết bao năng lượng, biết bao điện lực thay cho bao nhiêu triệu triệu tấn dầu, bao nhiên tỉ tỉ mét khối hơi đốt. (Việt Nam cũng đang muốn ngấp nghé làm nhà máy điện nguyên tử tại Bình Thuận). Ngược lại cũng thế, để phẩm chất có thể kết thành khối lượng, cho dù rất nhỏ cũng đòi hỏi một năng lượng lớn lao. Cha ông chúng ta thường kể khi sấm sét (tia sáng) đánh xuống một nơi nào đó, tia chớp đó phải mạnh lớn lắm mới để lại trên đất một lưỡi tầm sét. Ánh sáng phải lớn lắm phải nhiều lắm mới có thể kết tinh thành một vật, một khối (tức có thể cân đo đong đếm).
Đức tin ví như ánh sáng, như phẩm chất. Để có thể kết tinh lại, cho dù là kết tinh lại chỉ bằng một hạt cải thôi, cũng phải có “nhiều” đức tin lắm mới thành được. Chẳng thế mà ít ai có được đức tin bằng hạt cải để có thể bảo cây dầu to lớn nhổ rễ mọc dưới nước, hay kiểu nói của Matthêu: chuyển núi dời non, khiến cả ngọn núi lớn to nhào lăn xuống biển.
Tuy nhiên đức tin bằng hạt cải cũng có nghĩa là đức tin nhỏ bé.
Đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ lắm.
Cắt nghĩa này xem ra nghịch với giải thích chúng ta vừa phân tích: đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm. Ở đây đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Ta thử tìm hiểu.
Nếu Đức Giêsu là người Việt Nam, thì Ngài sẽ nói: Nếu đức tin của anh em bằng con kiến. Khi người Việt Nam ta so sánh cái gì với vật nhỏ nhất thì ta thường đem con kiến ra. Nhỏ như con kiến. Mỗi dân tộc có lối sánh vì riêng. Việt Nam nói: câm như hến. Tây nói: câm như cá chép. Ta nói điếc như trâu, thì Tây nói: điếc như hũ (sourd comme un pot). Vậy ta nói nhỏ như kiến, thì người Do thái ví nhỏ như hạt cải.
Đức tin bằng hạt cải, tức là đức tin nhỏ bé. Nếu anh em có một chút xíu đức tin thôi, cho dù là một chút xíu, nhưng nó là có, chứ không phải là không, Nó là ranh giới giữa có và không.
Tin Mừng Marcô 9,17tt ghi: Một người cha có đứa con bị quỉ ám từ bé. Quỉ làm cho đứa bé xùi bọt mép, đổ nhào xuống đất, nhiều lần quỉ dẫn bé xuống nước để bé suýt chết chìm, dẫn vào lửa suýt chết cháy. Người cha chữa chạy nhiều nơi mà không khỏi. Cuối cùng mới dẫn tới Chúa Giêsu với lời xin: Nếu Thầy có thề, xin thương tình cứu giúp chúng tôi. Chúa Giêsu nói: Nếu có thể thôi à, mọi sự đều có thể cho kẻ nào tin. Và người cha thưa lại: Thưa Thầy, tôi tin, nhưng xin Thầy giúp tôi vì lòng tin của tôi còn yếu lắm. Và Chúa Giêsu đã chữa lành. Ngài không cần chờ đến lúc đức tin của người cha lớn mạnh lên rồi mới chữa. Miễn là tin, dù một chút xíu thôi, bằng hạt cải, bằng râu của con kiến cũng đủ.
Khi Chúa Giêsu nói: đức tin bằng hạt cải, ta giải thích là đức tin lớn lắm. Rồi ta lại giải thích đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Làm sao dung hoà? Dung hoà là: đức tin nhỏ bé như hat cải nhưng phải lớn lên không ngừng. Lúc khởi sự thì bé nhỏ như hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các thứ hạt (đức tin nhỏ bé), nhưng khi mọc lên thì trở thành cây to lớn đến nỗi chim trời có thể đến nương náu (đức tin lớn lao). Ta có thể xem lối giải thích này như một dung hoà cho hai cực mà chúng ta vừa tìm hiểu trên. Nhà giảng thuyết nổi tiếng của Mỹ H.Spurgeon đã nói: “Anh em hãy có đức tin. Đức tin nhỏ bé sẽ đưa anh em về Thiên đàng. Đức tin to lớn sẽ đưa thiên đàng đến với anh em.” Rõ ràng cả hai cùng đưa tới một mục tiêu, một cùng đích.
Tại Lộ Đức, người ta thấy bức tượng cẩm thạch tạc một người mù được phép lạ của Đức Mẹ chữa cho sáng mắt. Nhưng bức tượng này không phải do người mù được sáng mắt trở lại dâng tặng tạ ơn, mà do một bà quí phái cho tạc và dựng tại Lộ Đức, với dòng chữ đáng lưu ý: “Tìm lại được đức tin còn vĩ đại hơn là được sáng mắt.” Bà này đã mất đức tin. Tình cờ đi qua Lộ Đức thấy cảnh tượng nhiều người tin tưởng chạy đến với Đức Mẹ, nên bà tìm lại được niềm tin. Chúng ta những kẻ đến nhà thờ đây, có lẽ không phải là kẻ mất đức tin. Chắc là còn, dẫu một chút như hạt cải. Lời xin của chúng ta sẽ là bắt chước các tông đồ: xin thêm đức tin, đặc biệt trong hai tháng cuối của Năm Đức Tin này, để ta có thể tin trọn vẹn, tin mạnh mẽ những điều ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính đây.
.
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Chủ đề của Lời Chúa tuần này là về đức tin và khởi đầu với lời cầu xin của các tông đồ xin thầy gia tăng đức tin cho các ông: “Xin thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Đáp lại lời cầu xin của các tông đồ, Chúa Giêsu đã nhắc nhở hãy thực hành sống đức tin sẽ thấy hiệu quả lớn lao: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải thì các con có thể khiến cho cây dâu bứng rễ đi và mọc dưới biển, nó sẽ nghe lời các con”. Người môn đệ là người đặt lòng tin vào Thiên Chúa, nhất là vào Chúa Giêsu, vào lời của người và bắt đầu khai triển khả năng tiềm tàng của đức tin qua đời sống trung tín phục vụ của mình. Tin luôn là một tương quan, một thái độ và hành động kiên nhẫn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa là Đấng luôn muốn những điều tốt đẹp cho những người Thiên Chúa tuyển chọn dù hiện tại nhiều khi làm cho người ta có cảm tưởng như Thiên Chúa thinh lặng. Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu nhắc nhở người tin cũng là người tôi tớ, phải luôn biết trung tín phục vụ theo ý của chủ. Chính khi trung tín phục vụ cần mẫn theo ý của chủ mà đức tin của họ càng được vững vàng và gia tăng và đạt được những hiệu quả lớn lao.
Ngược dòng lịch sử trở về với dân Chúa trong Cựu ước. Sách tiên tri Habacúc trình bày vấn nạn gay gắt vào thời của ông. Tại sao Chúa lại để cho quân thù xâm lăng và dày xéo lên đất nước của dân Chúa. Tại sao con kêu lên Chúa mà Chúa không lắng nghe, để cho biết bao nhiêu cướp bóc, bất lương diễn ra trước mắt và để cho quân thù thắng thế. Vấn nạn nhiều lúc rất căng thẳng khi nêu lên những vấn đề mà vị tiên tri cảm thấy khó hiểu như tại sao Thiên Chúa là Đấng thánh thiện lại để cho những người ngoại xứ Canđê là những đứa gian ác hành hạ con dân của Chúa, trừng phạt ác nhân bằng những đứa ác hơn. Câu trả lời của Thiên Chúa là dù cho có nhiều điều bất công xảy ra, những kẻ gian ác có chiến thắng, nhưng rồi thì suy cho cùng mọi kẻ bất lương, ác nhân rồi sẽ bị trừng phạt tất cả, chỉ có những người công chính có đức tin sẽ sống nhờ trung tín. Qua nhiều đường lối xem ra nghịch lý, Thiên Chúa là Đấng toàn năng chuẩn bị cho chiến thắng quyết định sau cùng của người ngay thẳng và người công chính sẽ sống nhờ bởi sự trung tín và lòng tin.
Như thế, suy tư về đòi hỏi của lòng tin và sự trung tín không chỉ liên hệ với chính mình mà còn với Thiên Chúa là Đấng toàn năng làm chủ lịch sử và vận mệnh con người. Chúa Giêsu khẳng định lại với các tông đồ hiệu quả của lòng tin dù là bé nhỏ, vẫn có thể thực hiện những điều lớn lao kỳ diệu. Bất cứ ai có lòng tin thì đều có thể làm được điều bất khả như khiến cho cây dâu được bứng đi và được trồng dưới biển. Xem chừng như các môn đệ cảm thấy thúc bách phải xin Chúa Giêsu ban thêm cho họ đức tin vì dường như họ nghĩ rằng Chúa phải ban thêm lòng tin để họ trải nghiệm hiệu quả một cách cụ thể hơn. Chúa Giêsu như muốn nhắc nhở các ông hãy trải nghiệm đức tin vốn đã được ban cho các ông, dù bé nhỏ nhưng hiệu quả sẽ rất lớn lao. Vấn đề quan trọng là ở chỗ người ta chưa thực sự sống và khai triển đức tin mình vốn có. Đức tin là sống tương quan với Thiên Chúa, đặt tin tưởng vào Thiên Chúa cách cụ thể chứ không phải vào một điều gì đó và chờ đợi hiệu quả mà mình chưa thực sự bắt đầu cách cụ thể, hay nhiều khi hình dung hay chờ đợi Thiên Chúa thực hiện những điều lớn lao mà chính mình không bắt đầu bằng những việc phục vụ bé nhỏ. Để giải thích, Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều về thái độ của người tin nơi hình ảnh của người tôi tớ phục vụ chuyên cần. Người tin, giống như một người tôi tớ chuyên cần luôn sẵn sàng phục vụ tức là bắt đầu trải nghiệm cụ thể qua những công việc phục vụ của mình. Đối diện với nhiều vấn đề đặt ra, người tôi tớ này không được phép để cho mình bị chao đảo, nghi ngờ hay bi quan thất vọng mà vẫn luôn vững vàng trung tín phục vụ. Người tôi tớ là người có bổn phận phục vụ, dù là mới đi làm vất vả ngoài đồng trở về, anh vẫn phải phục vụ bàn ăn cho chủ cho đến khi chủ ăn uống xong. Tình tiết Chúa Giêsu nêu ra có vẻ thiếu gần gủi thân thiện giữa chủ và tớ, nhưng gần với những dụ ngôn khác mà Chúa Giêsu đã đưa ra như những người tôi tớ trung tín cần mẫn chu toàn công việc phục vụ khi chủ vắng nhà, hay tỉnh thức đợi chủ trở về muộn. Những người tôi tớ ở trong nhà chủ luôn phải sẵn sàng phục vụ tận tụy theo bổn phận của mình. Chúa Giêsu còn khẳng định hơn nữa khi xác định rõ chủ không hề mang ơn người đầy tớ khi người đầy tớ phải nghe theo lệnh chủ và tâm niệm của người đầy tớ phải luôn là phục vụ và nghĩ rằng đó chính là những công việc mà mình phải chu toàn như là những người tôi tớ bất xứng.
Sống đức tin là sống tương quan với Thiên Chúa, và cụ thể là sống tương quan tin tưởng phục vụ của người tôi tớ trung tín và cần mẫn phục vụ đối với Thiên Chúa là chủ cuộc đời của con người. Anh là người ở trong nhà của chủ, được tin tưởng và có trách nhiệm chứ không phải chỉ là một người làm công hết giờ. Chính lòng trung tín phục vụ làm cho anh vững vàng và sẽ thực sự trải nghiệm và gia tăng tương quan với chủ hơn. Như thế, đức tin được trải nghiệm cụ thể qua việc làm, không nhất thiết phải là những việc làm to lớn vĩ đại mà là những việc bé nhỏ hằng ngày khi chuyên cần phục vụ, khi có những chọn lựa can đảm và hy sinh theo sự thúc đẩy của Thánh Thần. Thánh Phaolô nhắc lại cho Timôthêô ân sủng mà ông đã lãnh nhận do bởi việc đặt tay. Chính Thiên Chúa, khi trao ban sứ vụ cho mỗi người, đã rộng rãi ban ơn Thánh Thần để làm cho họ có được ơn sức mạnh nâng đỡ để chu toàn công việc được trao phó. Ân sủng này là ơn sức mạnh, tình yêu và lòng tự chủ chứ không phải là sự hèn nhát, nhờ đó Timôthêô trở nên người làm chứng cho Chúa Giêsu như Phaolô vốn cũng là người chứng của Chúa Giêsu và Tin mừng.
.
Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Đức tin rất cần thiết cho ơn cứu độ của chúng ta. Vì như lời Đức Giêsu khẳng định: “Thiên Chúa yêu thương thế giam đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).
Các tông đồ là những người được Đức Giêsu tuyển chọn. Các ông ở với Chúa, đã từng nghe lời Chúa giảng, từng thấy phép lạ Chúa làm, ấy thế mà họ vẫn thấy đức tin còn yếu kém, nên ngỏ lời xin Chúa “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Trong ba năm đi rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ, điều đó chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Thế nhưng, để phép lạ xảy ra, thì Chúa lại đòi lòng tin nơi con người, vì sau khi mỗi phép lạ xảy ra, thì Đức Giêsu thường nói : “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
Anh chị em thân mến,
Trong buổi họp với các nhân viên Bộ Giáo Lý Đức Tin, đức thánh cha Bênêđictô 16 nói rằng: “Hiện nay nhiều nơi đức tin có nguy cơ bị dập tắt như một ngọn lửa đang tàn. Những khủng hoảng đức tin sâu xa nhất chính là mất ý thức tôn giáo trong đời sống”. Thế thì căn cứ vào đâu mà ngài nói lên điều đó?.
Thưa, với kinh nghiệm hơn 20 năm làm Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin và 5 năm trên ngôi Giáo Hoàng, Ngài thấy nhiều nơi và mọi tầng lớp trong Giáo hội cũng như ngoài Giáo hội đức tin đã bị lung lay.
Ngoài Giáo hội đây, là những tôn giáo bạn, những tôn giáo tin vào Chúa, nhưng chưa hiệp thông với Giáo hội Rôma. Những tôn giáo này ngày nay cũng đang gặp những thử thách về đức tin.
Rồi trong Giáo hội, số tín hữu hiện tại trong Giáo Hội Công giáo hơn 1 tỉ người, nhưng thử hỏi trong số những tín hữu này sống đức tin như thế nào?
Chúng ta biết rằng trước đây các nước Châu Âu có thể nói là chiếc nôi đức tin, vì máu các thánh tông đồ và các vị tử đạo đã đổ ra tưới thấm không biết bao nhiêu trên mảnh đất này, từ đó phát sinh ra các Kitô hữu. Và cũng từ đó các nhà truyền giáo mang hạt giống đức tin gieo vãi trên các xứ truyền giáo khác. Vậy mà ngày nay Châu Âu một số tín hữu đã không sống đức tin. Chính vì thế Đức Thánh Cha đã hô hào để tái “Phúc Âm hóa” và ngài nhắm vào Châu Âu một cách đặc biệt hơn, bởi vì họ là trưởng nữ của Giáo Hội.
Mặc dầu họ vẫn tin có Thiên Chúa, nhưng dường như họ sống không cần Thiên Chúa nữa. Hay nói cách khác, họ loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ sống tự do, muốn tin gì thì tin, muốn giữ thì giữ… chứ không theo một luật nào và cũng không theo một Đấng nào có quyền trên họ cả.
Vì đối tượng của đức tin, là tin những chân lý Chúa mặc khải được qui tóm trong Kinh Tin Kính, nhưng còn phải thực hành đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Vì như lời thánh Giacôbê nói: “Đức tin không hành động là đức tin chết”(Gb. 2,17). Vậy để vun trồng đức tin, chúng ta cần làm những việc sau đây:
Trước hết, chúng ta thường ca tụng Chúa danh hiệu này hay ưu phẩm kia, nhưng trong thực tế, Ngài có quan trọng với chúng ta không? Nếu Chúa quan trọng nhất, không gì quan trọng hơn Chúa, thì phải coi thánh ý Chúa quan trọng, giới răn Chúa quan trọng.
Vì Chúa quan trọng, nên chúng ta dành thời giờ, tài năng, sức khỏe… mọi sự tốt đẹp nhất ưu tiên cho Chúa mà không tính toán, bởi vì Chúa quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tiếp đến, tham dự Thánh lễ, là chúng ta cử hành mầu nhiệm đức tin. Chúng ta cố gắng cử hành với tất cả ý thức – trang nghiêm- linh động và đầy đủ theo ý Giáo Hội dạy. Đặc biệt, lúc rước lễ về, chúng ta nhớ cám ơn Chúa về hồng ân đức tin này. Đồng thời, noi gương các tông đồ, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.
Cuối cùng, thưa anh chị em, làm Dấu Thánh giá là dấu chỉ người đó thuộc về Chúa Kitô – Dấu Thánh giá là biểu lộ đức tin. Vì thế, chúng ta nên ý thức hơn khi làm Dấu Thánh giá.
Xin Đức Mẹ Mân côi, là Mẹ của những kẻ trên đường lữ hành đức tin. Xin Mẹ giúp chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa, để vun trồng đức tin mỗi ngày cho được lớn mạnh hơn vào Chúa. Amen.
.
Lm. Minh Vận
Trên một chuyến xe lửa từ Lion đến Paris, có một chàng sinh viên trẻ tuổi ngồi bên cạnh một cụ già có vẻ quê mùa chất phác, mặc một bộ đồ bình dân, mang một đôi giầy cũ kỹ, mái tóc cắt vắn và gương mặt nhân từ đạo hạnh. Điều làm cho chàng sinh viên này khó chịu là thấy trên tay cụ già một cỗ tràng hạt, lộ vẻ đạo đức sùng mộ, miệng lâm râm cầu nguyện. Chàng ta không nén nổi lòng bực rọc khó chịu, lên tiếng hỏi móc cụ già:
– Tôi thấy cụ còn tin tưởng những điều có từ thời trung cổ về chuỗi tràng hạt? Chắc cụ cũng tin Bà Maria Đồng Trinh và một mớ tín điều tôn giáo, do mấy ông cố đạo dạy chứ gì?
– Đúng thế, còn cậu thì sao? Cụ già điềm tĩnh trả lời.
– Tôi mà lại tin những điều vô lý và dị đoan như thế à! Chàng sinh viên cười rộ lên cách ngạo nghễ đáp lời, tôi đã tìm được sự thật nơi trường đại học. Nếu cụ muốn sống hợp thời hơn, cụ hãy ném xâu chuỗi này đi và ghi tên học một vài khoa học tân tiến của thời hiện đại.
– Khoa học tân tiến à? Cụ già hỏi lại và nói tiếp: Tôi sợ tôi không hiểu nổi khoa học, chắc cậu có thể giúp tôi được chứ?
– Được, nếu cụ biết đọc, chàng sinh viên cao hứng nhận lời, tôi rất sung sướng được gởi tặng cụ một số sách.
– Tôi cũng biết đọc sách mà, cụ già khiêm tốn đáp lời.
– Tốt, vậy tôi phải gởi theo địa chỉ nào? Chàng sinh viên hỏi lại.
Cụ già lấy trong túi áo ra một tấm danh thiệp trao cho cậu. Trên tấm danh thiệp ghi rõ địa chỉ, số phone, với danh tánh và chức vị như sau:
LOUIS PASTEUR
Viện Nghiên Cứu Khoa Học Paris
Phải chăng khi đọc mấy hàng chữ trên tấm danh thiệp, chàng sinh viên trẻ tuổi kiêu hãnh này đã phải đứng tim và hối hận, vì cái thông thái rởm và thái độ tự kiêu lố bịch của mình, trước sự hiện diện của Louis Pasteur, một nhà bác học nổi danh của thế giới trong thời hiện đại.
- ĐỨC TIN CẦN THIẾT CHO CUỘC SỐNG
Nhìn vào thực trạng của thế giới ngày nay, nhất là nơi những người theo thuyết vô thần duy vật và hiện sinh; hẳn chúng ta thấy không thiếu những hạng người thông thái rởm, họ tự hào mình thông biết mọi sự, họ chỉ cậy dựa vào trí khôn hữu hạn và nông nổi của mình, mọi sự đều phải được khoa học giải quyết, điều gì khoa học không chứng minh được, họ cho là mê tín dị đoan. Do đó, họ từ chối tất cả những chân lý siêu nhiên như linh hồn bất tử, hạnh phúc đời sau, Thiên Chúa hiện hữu và các phép lạ Ngài đã thực hiện, những ơn phúc Ngài đã ban cho nhân loại… Chính vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã ra tối tăm mê muội, trở nên nô lệ cho thú tính, cho đam mê, cho dục vọng. Chính vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã chúi đầu xuống với kiếp sống thú vật, họ chỉ biết tận hưởng cho thỏa mãn những thú vui đê hèn, những cảm giác mau qua, những của cải tạm bợ phù ảo đời này. Chính vì thiếu niềm tin mà xã hội đã phát sinh biết bao tội ác, gây nên biết bao đồi phong bại tục, phá đổ nền luân lý lành mạnh của các dân tộc… Lòng con người đã ra đồi bại, họ dùng mọi mánh lới quỉ quyệt, man trá, lừa đảo, tranh dành, giết người cướp của… Đó là cái ác quả bi đát của sự thiếu niềm tin nơi Thiên Chúa và các giáo huấn của Ngài.
Vì vậy, niềm tin rất cần thiết cho cuộc sống con người trên trần gian. Chính niềm tin nâng cao phẩm giá con người, giúp chúng ta hiểu biết giá trị đích thực của cuộc sống, nó mở rộng trí khôn, tăng triển lòng muốn, củng cố ý chí; nó đưa chúng ta lên cao, vượt lên trên vạn vật, xứng danh một thụ sinh siêu đẳng, được Tạo Hóa ban quyền thống trị vạn vật do Người tạo dựng. Nhờ niềm tin, chúng ta có thể hướng tâm hồn lên cao, khát khao những sự cao siêu trên trời, những chân lý vĩnh cửu của cuộc sống và đạt được hạnh phúc trường tồn của đời sống mai hậu, mà Thiên Chúa đã hứa ban cho các con cái trung thành của Người.
Đức Giám Mục Gay đã rất hữu lý khi quả quyết rằng: “Nhờ Đức Tin, sự thông sáng của Chúa nên sự thông sáng của chúng ta, sự khôn ngoan của Chúa nên sự khôn ngoan của chúng ta, tinh thần của Chúa nên tinh thần của chúng ta, sự sống của Chúa nên sự sống của chúng ta”.
2. MÃNH LỰC VÔ SONG CỦA ĐỨC TIN
Thánh Công Đồng Tridentinô đã dạy: “Đức Tin là phương thế khẩn thiết, vì mọi người cần có Đức Tin thường xuyên, đến nỗi thiếu nó, con người không thể được cứu độ” (Dz # 1793). Do đó, Thánh Phaolô Tông Đồ đã quả quyết: “Không có Đức Tin, chúng ta không thể đẹp lòng Thiên Chúa” (Heb 11:6). Còn Thánh Gioan lại nhấn mạnh với chúng ta rằng: “Đức Tin của anh chị em là một chiến công thắng được cả trần gian” (I Jn 5:4). Quả thật, nếu chúng ta đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban cho chúng ta một sức mạnh vô song, chiến thắng được cả trần gian, chiến thắng mọi mưu thâm chước độc của Satan hỏa ngục; và hơn nữa, chúng ta còn có thể thắng được cả Thiên Chúa, vì Chúa không bao giờ từ chối ban những ơn cần thiết cho con cái hết lòng tin tưởng nơi Người, lại ban chính mình Người là nguồn mọi ơn phúc cho chúng ta nữa.
Biết bao phép lạ Chúa đã thực hiện do niềm tin tưởng con người đặt nơi Chúa. Biết bao ơn phúc Chúa ban xuống cho nhân loại do lời cầu bầu của Đức Mẹ và các Thánh, cũng như của những tâm hồn đẹp lòng Chúa. Mở sách Tin Mừng, đọc hạnh tích các Thánh, tìm hiểu các sự lạ xảy ra tại các trung tâm hành hương trên thế giới, chúng ta sẽ thấy biết bao sự lạ lùng, cả trong lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên, Chúa đã thực hiện do lòng tin tưởng con người đặt nơi Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chính Chúa đã quả quyết: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con có thể truyền cho cây dâu bứng rễ lên, đem trồng dưới đáy biển, nó cũng sẽ vâng nghe” (Lc 17:6). Nơi khác, Chúa còn quả quyết: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con còn có thể chuyển rời cả núi đồi nữa”. Tóm lại, nếu chúng ta hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa, tín thác và hy vọng mọi sự nơi Chúa, sống đẹp lòng Người; chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng trọn vẹn lời Chúa hứa: “Chẳng có việc gì mà các con không làm được” (xem Mt 17:19).
Thánh Benedictô dự định xây cất một Tu Viện trong khu đất của Hội Dòng, nhưng lại bị một quả đồi cản trở; hồi đó đâu có xe ủi như ngày nay. Ngài sực nhớ lại lời Chúa phán: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con có thể chuyển rời được núi đồi”. Rồi ngài đi cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào Chúa, ngài truyền: “Quả đồi này hãy rời đi chỗ khác, để chúng ta có chỗ xây cất Tu Viện”. Ngài rất tin tưởng lời truyền đó sẽ được thực hiện, rồi ngài an tâm đi nghỉ đêm. Sáng hôm sau khi thức dậy, ngài thấy quả đồi đã chuyển đi chỗ nào không rõ.
3. ĐỨC TIN TRONG CUỘC SỐNG CHÚNG TA
Thánh Giacobê dạy: “Nếu ai trong anh chị em xưng mình có Đức Tin, mà không hành động theo Đức Tin thì nào có ích gì? Đức Tin như thế có cứu họ được không?” (Jac 2:14). Thánh nhân còn quả quyết: “Cũng như xác không hồn là xác chết, thì Đức Tin không việc làm cũng là Đức Tin đã chết tận gốc rễ” (Jac 2:17).
Vậy làm thế nào để Đức Tin được sống động, được duy trì và tăng triển trong bản thân và trong cuộc sống của chúng ta? Chúng ta cần sống theo các nguyên tắc Đức Tin, để Đức Tin trở nên hồn sống, chỉ huy, hướng dẫn và điều khiển mọi tư tưởng, ngôn ngữ và hành động của chúng ta trong trót cuộc sống, xứng với danh nghĩa chúng ta là con cái Chúa; hơn nữa, còn là những linh hồn đã được Chúa tuyển chọn sống Đời Thánh Hiến, được Chúa ủy thác sứ mạng làm tông đồ, trở nên chứng nhân và nên ánh sáng chiếu soi các linh hồn, để chinh phục họ trở về với Chúa, bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của chúng ta.
Đức Tin sống động đó phải được hiện thực qua các tư tưởng, lời nói và việc làm hằng ngày của chúng ta:
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra thánh ý Chúa nơi luật pháp, nơi tinh thần Dòng, nơi giáo huấn của Giáo Hội, nơi mệnh lệnh của các vị Đại Diện Chúa, nơi tiếng lương tâm chân chính, để chúng ta biết mau mắn thi hành sao cho Chúa được hài lòng.
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng khôn ngoan của Chúa, nơi các biến cố may rủi xảy đến cho bản thân, cho gia đình, cho Hội Dòng, cho dân tộc, để chúng ta biết vui lòng chấp nhận và thuần phục thánh ý Chúa, đồng thời nhận ra tình thương của Người.
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khó tàn tật, để yêu mến và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa đang ẩn thân nơi họ.
* Đức Tin sống động đó sẽ giúp chúng ta không tin kiêng dối trá, không mê tín dị đoan, không tin bói toán, đồng bóng, hên xui như dân ngoại… Ví dụ: Tin thần tài, tin thầy bói nói mò, tin hên xui tốt xấu, tin ngày lành tháng tốt, tin phương hướng mồ mả, hoặc nhiều điều nhảm nhí khác tương tự.
Kết Luận
Cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta hãy cầu xin Chúa: “Lạy Chúa xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con được hân hoan hạnh phúc sống theo thánh ý Chúa; can đảm đón nhận những khó khăn nghịch cảnh, Chúa quan phòng khôn ngoan gởi đến, như những món quà Chúa yêu thương ban tặng, hầu chứng tỏ được lòng chúng con yêu mến Chúa”.
Lạy Mẹ là Mẹ của niềm tin, xin Mẹ củng cố niềm tin cho chúng con, để chúng con được noi theo gương Mẹ, sống vững mạnh trong niềm tin, ngay cả những lúc theo lý trí tự nhiên của con người không còn lý do để tin, hầu chúng con được Chúa chúc phúc: “Phúc cho những ai đã không thấy mà vốn vững niềm tin“.
.
XIN THÊM NIỀM TIN CHO CHÚNG CON
Lm. Giuse Nguyễn An Khang
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Đây là lần duy nhất, các tông đồ xin Đức Giêsu một điều như thế. Tại sao các Tông đồ không xin quyền cao chức trọng, giàu có mà lại xin đức tin? Đối với các Tông đồ, đức tin là điều quan trọng nhất, không có đức tin, các ông không thể là tông đồ, không hoàn thành sứ mạng. Bởi lẽ, sứ mạng của các tông đồ là rao truyền cho mọi người biết: Giêsu Nagiaret bị đóng đinh, chết, đã sống lại vì Người là Thiên Chúa. Điều đó ngược với trí khôn của con người không bao giờ xảy ra trong lịch sử, muốn chấp nhận thì phải có Đức tin. Đức tin là ân ban của Thiên Chúa. Dĩ nhiên cũng cần có sự cộng tác của con người. Tựa như muốn có ánh sáng vào nhà, bạn phải mở cửa, muốn có Đức tin, bạn phải mở cửa lòng mình. Ơn Chúa được ban nhưng không, nhưng phải cầu xin. Lời cầu nguyện là cánh cửa của đức tin, phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa.
Để nói về đức tin, Đức Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: “Chỉ cần có đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển”.
Dĩ nhiên, Đức Giêsu không khuyên ta cầu xin những phép lạ lẫy lừng. Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển. Nhiều lần Người đã từ chối các dấu chỉ kỳ diệu người Dothái yêu cầu. Nhưng bằng hình ảnh hạt cải và cây dâu, cũng như hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim, Đức Giêsu mạnh mẽ nói với ta, điều con người không thể, đức tin mở cho ta thấy lại dễ dàng với Thiên Chúa.
Chỉ cần một đức tin nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một trinh nữ, sinh con.
Bessière kể: Tôi biết một người nhờ ngọn cỏ mà sống. Một cô gái đã bị tai ương hoạn nạn đè bẹp cô. Trước mặt cô chỉ là một tương lai xám xịt, dễ chịu nhất đối với cô là được ra đi cho rảnh nợ đời. Những bước chân vô hồn vô định trên hè phố, đã tình cờ dẫn cô đến một cọng cỏ. Cọng cỏ xanh non đang cố trổi lên khỏi kẽ nứt bê tông để vươn lên ánh sáng. Sự sống nhỏ nhoi yếu ớt nhưng xanh tươi có vẻ mạnh hơn cả tấm xi măng nặng nề, đã cho cô một dấu chỉ. Cô lấy lại can đảm, để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận ra từ cọng cỏ ấy một sứ điệp. Cọng cỏ đã cứu sống cô.
Trong các nhân đức đối thần: Đức tin, đức cậy, đức mến, Thánh Phaolô dậy: đức mến là cao trọng hơn cả, bởi lẽ về thiên đàng, không có đức tin và đức cậy chỉ còn đức mến. Nhưng trong cuộc sống trần thế, đức tin lại cần thiết, bởi không có đức tin thì không có đức cậy và đức mến. Đức tin khai mở cho người ta được lãnh các bí tích, là căn cước để vào được Thiên đàng. Bởi thế, khi ban bí tích rửa tội, linh mục chủ sự hỏi người dự tòng: “Con xin sự gì cùng Hội thánh?” Người dự tòng thưa: “Con xin đức tin”. Linh mục hỏi tiếp: “Đức tin sinh ơn ích gì cho con?” Người dự tòng đáp: “Thưa đức tin đem lại cho con sự sống đời đời “.
Thật may mắn cho ta, được sinh ra trong đức tin từ nhỏ. Đức tin không phải là tĩnh tại, đức tin cần phát triển. Để lớn mạnh trong đức tin, người tín hữu cần phải nuôi dưỡng, bằng việc làm, cầu nguyện, học hỏi lời Chúa, đặc biệt với người trí thức trình độ văn hóa và giáo lý phải cân xứng. Họ phải có khả năng biện bạch đức tin của mình cho người khác, cũng như cho chính mình. Họ cũng cần có khả năng đó khi mỗi ngày phải chạm trán nhiều hơn với thuyết vô thần và thái độ dửng dưng đối với tôn giáo. Họ buộc lòng phải lý giải niềm tin đối với Thiên Chúa của mình.
Bởi thế, đức tin không chỉ được khẳng định suông, nó đòi lý lẽ. Đức tin có lý lẽ là một đức tin vững mạnh. Đức tin đó giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng sao. Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.
Tuy nhiên, ta đừng mong rằng, đức tin làm sáng tỏ mọi điều. Ta sống trong một thế giới có biết bao cuộc tìm kiếm hão huyền, nhằm tìm ra mọi lời giải đáp. Ta có đức tin, không có nghĩa ta hiểu biết mọi điều. Mà ta cũng không cần biết mọi lời giải đáp. Một điều cần, ta phải vững niềm tin. Và như các Tông đồ đã xin: “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”.
.
An Phong
Ngôn sứ Kha-ba-cúc thốt lên lời than thở như một người gặp hoạn nạn mà không được Thiên Chúa đoái nhìn: “Lạy Chúa, đến bao giờ con kêu cứu mà Chúa chẳng đoái nghe: con kêu la trước cảnh hung tàn mà Chúa không cứu vớt?”
Và Thiên Chúa, qua miệng ngôn sứ Kha-ba-cúc đã trả lời: “Kẻ nào không có tâm hồn ngay thẳng thì ngã gục; còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình”.
Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng vậy, các ngài thấy mình bơ vơ, yếu đuối và cầu xin: “Thưa Thầy, xin cho chúng con được thêm lòng Tin”. Chúa Giêsu nhắc nhủ các ông cứ kiên tâm thi thành những điều Người truyền dạy, không phải để đổi chác, để đòi lấy công lênh của mình, nhưng như người đầy tớ trung tín, tận tâm thi hành những điều thuộc trách vụ của mình.
Nhìn lại chính mình, chúng ta cũng nhận thấy đời mình chẳng thiếu những khó khăn, cũng bao lần đầy đau khổ; và có lẽ cũng không ít lần chúng ta phàn nàn kêu trách Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhủ: “Nếu anh em có đức Tin lớn bằng hạt cải thôi…”. Nếu chúng ta nhận ra đức Tin của mình, đức Tin chỉ bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể làm được mọi sự; nếu chúng ta tín trung với Niềm Tin của một người đầy tớ “làm việc bổn phận mình”, thì Thiên Chúa sẽ chẳng “thua” lòng trung tín của chúng ta.
Thiên Chúa không ban cho chúng ta một “kho Đức Tin” để dành ở đó, để khoe mẽ hay để trang trí mà thôi. Nếu chúng ta biết khởi sự sống niềm Tin bằng hạt cải, Người sẽ làm tăng trưởng Niềm Tin trong ta; nếu chúng ta biết thể hiện Niềm Tin của mình trong việc bổn phận thường ngày, thì dù là không xứng đáng… “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12,37).
Lạy Chúa Giêsu,
Chẳng có chi của chúng con xứng đáng dâng cho Chúa, nhưng Chúa lại sẵn sàng đón nhận tất cả.
Chẳng có chi trong chúng con có thể “chứa đựng” được Chúa; nhưng Chúa lại ban đầy tràn, khởi sự từ một “Đức Tin bằng hạt cải” của chúng con.
Chẳng có chi do chúng con, để được phép đòi công lênh, nhưng Chúa đã vui lòng ban tặng cho chúng con chính “Thịt và Máu” Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mãi mãi là người tôi tớ tín trung của Chúa.
.
ĐỨC TIN VÀ NGƯỜI ĐẦY TỚ VÔ DỤNG
Phêrô Trần Đình Phan Tiến
Chúa nhật XXVII thường niên hôm nay, được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là Chúa nhật đầu tháng Mân Côi, nên chi ý nghĩa đoạn Tin Mừng (Lc 17,5-10) được phép suy tư về Đức Mẹ. Theo đó, đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần:
– Sức mạnh của ĐỨC TIN
– Khiêm tốn khi phục vụ
Hai chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay thật là ăn khớp (logic) với nhau. Có thể nói, chủ đề thứ nhất là chủ đề của sự cần thiết trong năm Đức Tin nầy. Đức Tin là một chủ đề không dễ suy tư, nhưng giá trị của nó rất lớn lao, vì qua sự giải thích của Chúa Giêsu, thì đức tin không cần “to lớn”, chỉ cần như hạt cải là đủ. Kích thước và sự đo đếm của đức tin, được Chúa Giêsu công khai một cách cụ thể. Theo đó, lòng tin của con người thật là quá nhỏ bé, không bằng hạt cải. Đức tin là một khái niệm trừu tượng, nhưng được chính Chúa Giêsu đánh giá cụ thể bằng một hình ảnh rõ ràng. Ai cũng biết, hạt cải nhỏ bé như thế nào. Nhưng cây cải bên Israel thì không nhỏ, nó có cành cây rất to, không phải như cây cải ở Việt Nam, nó có cành lá đến nỗi chim trời đến làm tổ được. Có lần Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em’ (Lc 17, 6). Từ đó, chúng ta hiểu rằng, đức tin của chúng ta không bằng hạt cải. Điểm quan trọng của việc bước theo Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính là niềm tin. Niềm tin mà không đủ lớn mạnh, thì như hạt giống bị thối, không vươn mầm được, vì mọi nhân tố sống đạo được hệ tại bởi niềm tin. Tại sao vậy? Thưa, vì tất cả mọi sự thiêng liêng đều thuộc về mầu nhiệm, mà mầu nhiệm là điều không thể nhìn thấy qua con mắt thể xác. Từ đó, nếu muốn xác tín những mầu nhiệm thiêng liêng, chúng ta cần đến đức tin. Hơn nữa, bản thân đức tin cũng là một mầu nhiệm. Như vậy, theo đoạn Tin Mừng hôm nay, các Tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho các ông. Chúa Giêsu đã ban thêm lòng tin cho các Tông đồ bằng cách nào? Rõ ràng, chúng ta thấy Chúa ban thêm lòng tin cho các Tông đồ không phải như cho thêm bánh, hoặc cho thêm đường vào bánh. Mà là Chúa đã ban thêm cho các ông bằng cách mạc khải cho các ông biết chiều kích của đức tin.
Theo đó, đức tin càng lớn thì sự khiêm tốn càng cao, nên chi giá trị của đức tin thì không thể đo lường được. Vì đức tin là sức mạnh có thể làm được những việc phi thường. Qua đó, chúng ta thấy chưa ai đạt đến niềm tin bằng hạt cải như Chúa Giêsu nói, ngoại trừ chính Thân Mẫu của Người, Đức Maria, Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi. Mẹ Maria là người đã thể hiện niềm tin sắt son, một niềm tin hạt cải thôi, cũng đủ chứng minh được Lời Chúa nói. Hành trình bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ là một hành trình đầy chông gai thử thách, nếu không có niềm tin và không giữ vững đức tin, Mẹ dễ dàng chối bỏ Chúa. Cùng với nhiều áp lực của xã hội đương thời, đa số chống lại Chúa Giêsu. Nhưng chính trong những giây phút đó, từ lúc Mẹ thưa tiếng xin vâng, Mẹ đáp Lời Sứ thần, cũng chính là Lời của Thiên Chúa, Mẹ luôn trung thành bước theo, và luôn trung tín trong sứ mạng cứu rỗi nhân loại của Con Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa. Một đức tin bằng hạt cải thôi, của Mẹ đã đủ minh chứng Lời của Con Mẹ. Vì thế, cho đến ngày nay, Đức Maria luôn là người dẫn đầu, “người có đức tin bằng hạt cải”, bởi vì sao? Thưa, vì tất cả những gì Mẹ có thể làm được cho nhân loại trong hành trình cứu chuộc của Con Mẹ, đều do đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Điều nầy, cho thấy sự công bằng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không thiên vị Đức Mẹ. Một sự nổ lực nơi Mẹ cùng với Thánh ân mà Mẹ đã đón nhận nơi Thiên Chúa đã cho Mẹ một đức tin bằng hạt cải.
Phần hai của Đoạn Tin Mừng: Khiêm tốn khi phục vụ
Tuy đoạn hai có nhiều câu hơn, nhưng ý dễ diễn đạt hơn, đó là: khi làm việc thiêng liêng chúng ta đừng câu nệ về công trạng của mình. Vì không có người đầy tớ nào đòi dùng bữa trước khi chủ mình chưa dùng bữa. Tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu để phục vụ Hội Thánh, dù phẩm trật cao thấp đều là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm việc theo bổn phận. Vì Ông Chủ chính là Thiên Chúa chứ không phải là chúng ta, Thiên Chúa toàn quyền trên mọi sự, và là Đấng công bằng, công minh cho mọi loài thụ tạo, nên chi, khi con người được kêu mời phục vụ, thì nên làm vì mục đích khiêm tốn, chứ không nên tự cao, tự mãn.
Hai chủ đề riêng biệt, nhưng được bổ túc cho nhau để đón nhận và phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân là lý tường cao đẹp của người môn đệ Đức Kitô. Được vậy, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Để minh chứng cho sự khiêm tốn phục vụ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết kich thước của “Đức Tin”.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con.
Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen
.
Thiên Phúc
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không? – Có.
– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?
Vị Rabbi than phiền: – Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?
Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là Đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “Đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “Mến Chúa yêu người”, có ai dám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.
Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xóa mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Các Tông đồ đã đi theo Đức Giêsu, nghe Ngài giảng dạy, xem những phép lạ Ngài làm và được trao trách nhiệm đi rao giảng Tin mừng. Trước sứ mạng mở rộng Nước Thiên Chúa và trước những đòi hỏi của Luật mới (x. Lc 17.1-4) cũng như trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn, các ông cảm thấy mình còn yếu kém và bất lực nên các ông đã xin Đức Giêsu ban thêm lòng tin cho các ông, lòng tin mà trước đó các ông bị Chúa trách là yếu kém :”Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”(Lc 17,5).
Đức Giêsu hài lòng với lời cầu xin đó và Ngài cho biết : với đức tin nhỏ bé thôi, các ông có thể làm được những việc lớn lao. Với đức tin, các ông có thể biến cái không thể trở thành có thể, cái tầm thường trở nên phi thường. Bởi vì với lòng tin, các ông đặt niềm tín thác vào Chúa, cậy dựa vào quyền năng của Ngài và Chúa dùng quyền năng ấy mà làm được mọi sự, chứ không phải do quyền năng của các ông :”Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”(Lc 1,37).
Nhân dịp này, Đức Giêsu muốn ngầm nối kết đức tin của các ông với sự phục vụ (Ga 12,26), điều mà các ông không nghĩ như vậy. Trong tâm thức của các ông, đức tin đồng nghĩa với quyền lực (Cv 1,6). Các ông chứng kiến Đức Giêsu làm các phép lạ lớn lao bằng đức tin. Các ông cũng muốn làm như vậy. Các ông muốn sự vinh quang của quyền lực (Lc 9,49). Do đó, khi cắt nghĩa về đức tin, Đức Giêsu dùng hình ảnh của người đầy tớ hết lòng phục vụ chủ của nó. Hình ảnh này nhắc cho các ông biết rằng các ông không được kể công với Chúa như người biệt phái cầu nguyện nơi Đền thờ mà phải phục vụ Thiên Chúa và anh em mình như những người đầy tớ với tình con thảo đối với Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hb 1,2 ; 2.2-4.
Trong một thời buổi đặc biệt nhiễu nhương, tiên tri Habacúc than thở và cũng như chất vấn Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và người ác cứ nhởn nhơ, không bị phạt. Và Chúa đã trả lời, đã chỉ ra con đường duy nhất đưa đến giải thoát : ấy là tin tưởng vào Chúa và trung tín với Giao ước trong suốt cuộc đời của mình, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 1,6-8.13-14.
Thánh Phaolô khuyên Timôthêô hãy kiên vững trong đức tin. Thánh Thần Thiên Chúa mà Timôthêô nhận trong ngày thụ phong sẽ giúp ông trở nên chứng nhân của Chúa ngay trong những gian nan thử thách. Không được sống trong tinh thần nhát sợ nhưng phải sống trong tinh thần mạnh mẽ hiên ngang, và hãy cậy dựa vào Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.
+ Bài Tin mừng : Lc 17,5-10.
Bài Tin mừng hôm nay có hai lời giáo huấn :
a) Đức tin: Đức Giêsu muốn các tông đồ trông cậy tuyệt đối vào quyền năng cũng như lòng nhân hậu Chúa. Câu nói về cái cây bật rễ không nên hiểu theo nghĩa đen. Đây là cách nói diễn tả mạnh mẽ của người Đông phương và có ý nghĩa là đức tin có sức mạnh lớn lao, với đức tin việc gì xem ra không thể lại trở thành có thể.
b) Phục vụ: Đàng khác, một đức tin trần trụi không tính toán thì đặt tất cả tin yêu vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức mình, rồi đòi trả công. Như thế mọi chức vụ trong Giáo hội chỉ là một việc làm nhỏ bé để kéo ơn Chúa xuống cho mọi người. Đừng lấy đó làm vênh vang, vì ta chỉ là đầy tớ vô dụng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. CÁC TÔNG ĐỒ XIN THÊM ĐỨC TIN.
- Hoàn cảnh.
Trên đường tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu vừa mới giảng cho các môn đệ nhiều bài học như nguy hiểm của tiền bạc, cớ vấp phạm cho người khác, bác ái huynh đệ và tha thứ. Các tông đồ, ở đây chỉ là 12 ông, chứ không phải nói chung các môn đệ – là những người đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đứng trước những đòi hỏi của luật mới (x. Lc 17,1-4) và sứ mạng mở rộng Nước Thiên Chúa, các ông cảm thấy bất lực. Các ông đã xin Đức Giêsu ban thêm lòng tin. Lòng tin mà trước đó các ông đã bị Ngài khiển trách yếu kém. Là những người gánh trách nhiệm của cộng đoàn, các ông trăn trở về cách thế để thực hiện đời sống huynh đệ này, nên các ông cầu xin Chúa:”Xin Thầy thêm lòng tin cho chúng con”.
- Đức tin và hạt cải.
Đức Giêsu không trực tiếp trả lời mà chỉ dùng một hình ảnh rất sống động để nói lên ý kiến của Ngài:”Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dù các con có bảo cây dâu này :”Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời các con”(Lc 17.5-6).
Hạt cải là hạt giống nhỏ nhất (x. Mt 13,32). Đức Giêsu so sánh đức tin với hạt cải, là có ý nhấn mạnh về mặt phẩm chất hơn là về số lượng của đức tin. Hạt cải đây không phải là cải bẹ, cải bắp hay cải hoa, mà là một thứ cải đặc biệt ở Palestine, hạt nhỏ hơn cả hạt quả của cây trứng cá, mà cây thì tương đương với cây trứng cá cao khỏang 4-5 mét. Hình ảnh đó nói lên một sự phó thác dù nhỏ đến đâu, nếu được thực hiện trong đức tin, thì vẫn có thể làm được những điều lớn lao kỳ diệu. Vì bấy giờ người ta làm không phải do sức riêng mình, nhưng nhờ quyền ăng của Thiên Chúa.
- Sức mạnh của Đức tin.
Hôm nay Đức Giêsu khuyên các tông đồ nên dùng cái đức tin nhỏ bé sẵn có để đối phó với những thử thách của cuộc sống và làm những việc vĩ đại :”Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, thì dù các con bảo cây dâu này :”Hãy bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc, nó sẽ vâng lời các con”(Lc 17,6).
Cây dâu là một cây đại thụ, rễ rất lớn, có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, thì cũng có thể bứng cây đó khỏi đất để xuống mọc trong lòng biển. Ở đây, Đức Giêsu không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân. Chắc chắn Ngài không khi nào thực hiện việc dời cây dâu trồng xuống biển. Nhiều lần Ngài đã từ chối làm các phép lạ để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa như các đầu mục yêu cầu. Tóm lại, đây là một kiểu nói chỉ nhằm để đề cao sức mạnh của lòng tin mà thôi.
Những người có đức tin mạnh cũng đã làm được những việc tương tự cả thể. Chẳng hạn thánh Grêgôriô đã có lần di chuyển núi non để xây nhà thờ. Thánh Raymunđô có lần lấy áo làm thuyền vượt qua biển cả. Còn thánh Phêrô đã theo lệnh Chúa đi trên mặt biển. Ông ta chỉ chìm xuống khi bắt đầu hồ nghi mà thôi.
Nhìn vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông đã thực hiện : một đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi công việc của con người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin của các tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí, truyền hình, tóm lại là không gì cả… thế mà họ đã thay đổi dòng lịch sử.
Trong Kinh thánh, có nhiều tấm gương của những con người bé nhỏ, hay một nhóm nhỏ, với đức tin đã làm nên những việc vĩ đại. Đavít, cậu bé chăn chiên đã hạ tên khổng lồ Golíat bằng dây phóng và hòn đá (1Sm 17,50) Trong sách Công vụ Tông đồ, những nhóm nhỏ người Kitô hữu đầu tiên họp nhau lại, cầu nguyện, chia sẻ của cải, đã làm cho con số Kitô hữu gia tăng (Cv 2,43-45). Timôthêô được thánh Phaolô nhắc nhở rằng mặc dù còn trẻ, anh có thể làm một người lãnh đạo cộng đòan vì đức tin và lòng đạo hạnh của anh (1Tm 4,12). Thánh Phaolô coi mình là “kẻ hèn mọn nhất”, và các Tông đồ xưng mình là “rác rưởi của thế gian”(1Cr 4,13).
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu tự coi mình như “bông hoa nhỏ bé của Chúa Giêsu” với đường lối nên thánh rất đơn sơ, nhỏ bé, đã trở nên thánh Tiến sĩ của Hội thánh. Thánh Phanxicô Assisi đã đặt tên cho các môn sinh của mình là “Dòng Anh em Hèn mọn”.
Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các phương pháp và phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất… để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện .
- Đức tin trong cuộc sống.
Đức Giêsu nói về đức tin khi các môn đệ xin Ngài “gia tăng đức tin” của họ. Ngài không đòi đức tin của họ phải to lớn, chất đầy chiếc xe tải. Ngài chỉ cần bằng hạt cải thôi nhưng phải được sử dụng. Làm thế nào để sử dụng nó ? Qua việc trở nên những người đầy tớ vâng lời và trung kiên của Thiên Chúa (Dt 5,8-9). Bởi “Tin là gắn bó bản thân của con người với Thiên Chúa”(Giáo lý Công giáo, số 150).
Với đức tin, chúng ta có thể biến cái không có thể thành cái có thể. Thiên Chúa dùng quyền năng của mình để biến tất cả mọi sự thành có thể cho những ai có đức tin. Ngay trong lãnh vực khoa học, những người trong những thế kỷ trước không thể tin được những phát minh kỳ diệu trong những thế kỷ sau. Chúng ta thử nói chuyện với những người cách đây 3 thế kỷ
Bây giờ, giả sử họ hỏi bạn truyền hình là gì ? Chắc hẳn bạn sẽ nói rằng đó là một phương cách nhìn xem một chuyện gì đó ở tận Trung hoa đúng lúc nó đang thực sự xẩy ra tại đó. Giả sử họ hỏi bạn hỏa tiễn hạch nhân tầm xa là gì ? Chắc hẳn bạn sẽ trả lời đó là dạng một trái đạn khổng lồ bắn tại Mỹ, nhưng lại tiêu diệt được bất cứ thành phố nào ở Nga mà bạn muốn. Giả sử họ lại hỏi bạn đổ bộ lên mặt trăng là sao thì hẳn bạn sẽ diễn tả cho họ là có người trên mặt đất leo vào phi thuyền không gian bay tới mặt trăng rồi đổ bộ ở trên đó.
Chà ! Bạn thử nghĩ xem dân chúng ở cách đây 300 năm đó sẽ nói gì với bạn ? Chỉ cần hiểu biết chút ít thì họ cũng đã cho bạn là điên cuồng, mất trí rồi, vì bất cứ người nào còn tỉnh táo đều cho rằng bạn không thể nào ngồi tại một phòng khách ở New York mà lại thấy được một chuyện nào đó đang xẩy ra tại Trung hoa. Bất cứ ai khờ mấy thì cũng cho rằng một trái đạn bắn từ Mỹ thì dù to bự đến đâu cũng không thể nào tiêu hủy toàn thành phố Matscơva được. Và họ cũng cho rằng bạn không thể nào bay được như một con chim lên tới tận mặt trăng trong một phi thuyền giống như cỗ xe ngựa kéo, rồi bước ra đi bộ vòng vòng, và sau đó lại trở về trái đất được.
Chủ điểm của trò chơi trên cho thấy điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thương, điều mà dân thế kỷ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân ở thế kỷ khác lại là chuyện rất bình thường(M. Link).
Bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn dạy chúng ta : “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, các con cứ nói với cây dâu này :”Hãy nhổ gốc lên và xuống mọc dưới biển”, nó sẽ nghe lời các con”. Tin mừng hôm nay cho thấy nhờ đức tin mà chúng ta có được quyền năng Chúa nằm nơi tầm tay của mình. Từ đó, không có điều gì là không thể được – kể cả một thế giới không có chiến tranh, không còn nghèo đói, không còn hận thù.
Đức tin mở cho chúng ta cánh cửa đi vào thế giới mới, thế giới khác, thế giới của Thiên Chúa mà mắt phàm không thể thấy được. Cái nhìn của đức tin là cái nhìn luôn hướng về Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp của con người, mới có sức mạnh chuyển núi dời non, mới phát sinh hiệu quả kỳ diệu. Nhưng khốn thay, đức tin của chúng ta thường mang tính quá chủ quan, nặng cái tôi kiêu căng : nghĩa là để tin và chấp nhận được chúng ta hay đòi hỏi đức tin phải hợp tình hợp lý, phải rõ ràng minh bạch, phải đúng như lòng trí ta suy tưởng. Thế thì ta coi cái tôi, ý riêng mình quan trọng hơn ý Chúa, làm sao có thể gọi đó là đức tin chân chính được.
Tóm lại, bao lâu chúng tin và yêu Chúa mà không nhìn vào Chúa như cùng đích của đời mỗi người, mà lại nhìn vào tấm gương phản chiếu cái tôi của mình thì bấy lâu chúng ta mãi mãi là những kẻ khốn khổ và bất hạnh nhất trên đời.
II. ĐỨC TIN VÀ PHỤC VỤ.
- Ý nghĩa “người đầy tớ”.
“Ai trong các con có người đầy tớ đi cầy hay đi chăn chiên, mà khi ở ngoài đồng về, lại bảo nó :”Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo :”Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn xong đã rồi anh hãy ăn uống sau”(Lc 17,7-8). Thường các bản văn dịch chữ “Servus” của tiếng La tinh là “đầy tớ”, nhưng ngày xưa chữ servus của tiếng La tinh còn có nghĩa là ‘nô lệ”. Hoàn cảnh của nô lệ ở Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở thế giới La Hy vào thời của thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát, đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là vật sở hữu của ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.
Như vậy, theo tập tục thời đó, người đầy tớ không được tự do làm việc theo ý mình, nhưng phải luôn làm theo ý chủ. Ở đây, người đầy tớ vừa cầy ruộng về, hay dẫn đàn chiên từ đồng cỏ về, ông chủ đòi anh ta phải tiếp tục phục vụ ông ăn bữa tối trước đã. Bổn phận của người đầy tớ là làm theo ý chủ dạy, làm hết việc này sang việc khác mà không có quyền đòi hỏi chủ phải biết ơn.
- Người đầy tớ vô dụng.
“Chẳng lẽ ông chủ phải biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao”? Đối với các con cũng vậy : khi đã làm hết tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã làm việc bổn phận đấy thôi”(Lc 17,9-10). Khi dùng hình ảnh “đầy tớ vô dụng” thì chỉ là kiểu nói khiêm tốn. Nhưng xét cho cùng, con người chỉ là vô dụng đối với Thiên Chúa. Vì Ngài là Đấng trọn hảo và quyền năng vô biên. Ngài chẳng cần chúng ta ca tụng, và cũng chẳng cần chúng ta cộng tác. Tuy nhiên, vì thương yêu chúng ta mà Ngài đã liên kết và còn trở thành người phục vụ chúng ta.
Qua hình ảnh đầy tớ, Đức Giêsu muốn dạy các tông đồ đừng bao giờ vênh vang như thể mình có quyền đòi hỏi Chúa phải biết ơn sau khi mình đã làm xong bổn phận. Khi nói “Đầy tớ vô dụng” không có nghĩa là không làm được việc gì. Các tông đồ cũng làm cho nhiều người tin theo Chúa. Tuy nhiên ở đây, “đầy tớ vô dụng” chỉ là kiểu nói có tinh cách cường điệu và có nghĩa là “thân phận hèn kém”. Người tông đồ cần tránh thái độ “công thần”. Vì thành quả tuy do các ông làm, nhưng đều nhờ Chúa ban ơn trợ giúp, như là Ngài phán:”Không có Thầy, các con không thể làm được gì”(Ga 15,5).
- Người đầy tớ và phục vụ.
Đức tin đi đôi với sự trung thành phục vụ (Ga 12,26). Có lẽ các môn đệ đã không nghĩ như vậy. Trong tâm thức của họ, đức tin đồng nghĩa với quyền lực (Cv 1,6). Họ chứng kiến Đức Giêsu làm các phép lạ lớn lao bằng đức tin. Họ cũng muốn làm như vậy. Họ muốn sự vinh quang của quyền lực (Lc 9,49). Do đó khi cắt nghĩa về đức tin, Đức Giêsu dùng hình ảnh của người đầy tớ hết lòng phục vụ chủ của nó, nếu hiểu rõ, có lẽ các ông không vui vẻ cho lắm:”Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng :”Chúng tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều phải làm”.
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta bị đòi buộc phải phục vụ Thiên Chúa và phục vụ anh chị em mình như những đầy tớ. Đức Giêsu đã đến phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Ngay cả Ngài là chủ, là Chúa mà Ngài còn rửa chân cho các môn đệ. Ngài cũng mời gọi chúng ta buớc theo con đường phục vụ khiêm tốn. Nếu chúng ta có đức tin bằng hạt cải, chúng ta có thể di chuyển cả núi đá kiêu hãnh cản trở chúng ta sống như những “đầy tớ của các đầy tớ Thiên Chúa” (Nguyễn văn Thái).
Truyện : Nghệ nhân và cục đất sét.
Pete là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai ông bà đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tách và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đàng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Khi ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt, đã viết câu này :”Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã làm ra nó hay sao” ?
Và khi ông muốn bàn thêm, vị đạo sư đã nhắc lại một câu chuyện của một học giả người Âu với một đạo sĩ Đông phương. Học giả này mới hoàn tất được một quyển bách khoa tự điển lớn, các bạn của ông xúm lại khen tặng rằng đó là một công trình lớn lao phi thường. Trong chuyến viếng thăm An độ, học giả hỏi đạo sư xem liệu ông ta có xứng đáng được hưởng những danh dự đó không, thì được đạo sư hỏi :”Ông dùng phương tiện nào để viết : bút, máy chữ hay điện toán” ? Ông cho biết ông luôn sử dụng bút. Đạo sư nói ngay :”Khi viết xong cuốn sách, ông có thường cảm ơn cây bút mà ông đã dùng không” ?
Đó là câu trả lời cho mỗi người chúng ta khi thấy mình làm được một việc lành nào.
Còn thánh Phaolô trong thư gửi cho Timôthêô (bài đọc 2) căn dặn ta phải canh giữ đức tin và bền vững trong việc tuân giữ lời hứa khi chịu phép Rửa tội. Tin vào lời Chúa là sẵn sàng làm theo ý Chúa, để Chúa làm chủ đời sống và tìm vinh danh Chúa. Tuy nhiên trong thực tế ta thường giữ đạo theo lối tính tóan : có đi có lại. Đó là những khi chúng ta mặc cả hoặc đòi điều kiện với Chúa như khi nói : Nếu con phụng sự Chúa, nếu con làm việc này việc nọ cho Chúa, thì con sẽ được phần thưởng gì ? Người ngọai giáo trong đế quốc La mã thời xưa tôn thờ, khấn vái chư thần của họ trong lối mặc cả có đi có lại “DO UT DES”. Còn bổn phận người con hiếu thảo với Chúa không thể nằm trong cái lối mặc cả ti tiện đó. Nếu cha mẹ không thích lối mặc cả của những đứa con khi làm việc nọ việc kia như quét nhà, đổ rác để nhận phần thưởng, thì Thiên Chúa cũng không ưa gì lối mặc cả đó của ta. Cha mẹ nào mà thí dỗ con làm việc để lãnh phần thưởng, có thể sẽ tạo ra những đứa con sau này cũng mặc cả với Chúa khi làm việc phụng sự Chúa và phục vụ đồng lọai (TBT).
Nếu ta sống trọn niềm tin thì khi làm việc phụng sự Chúa hay phục vụ đồng lọai, ta không được nghĩ rằng ta làm ơn cho Chúa, mà chỉ tâm niệm rằng mình đang làm bổn phận người con thảo. Bổn phận người con thảo là không cần mặc cả, cũng không đặt điều kiện. Nếu người cha ruột thịt thương và lo liệu săn sóc cho đứa con hiếu đễ, thì Thiên Chúa cũng thường lo liệu, săn sóc cho những người con hiếu thảo và quảng đại.
Truyện: Thánh Phanxicô Assisi.
Có người hỏi thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà Ngài đã làm được những việc làm to lớn như thế ? Thánh nhân trả lời :”Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống cõi trần và tự hỏi :”Ta tìm đâu ra một người yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ nhất để Ta sai làm việc đây”? Thế rồi Thiên Chúa đã tìm thấy tôi. Người lại tự nhủ :”Ta đã tìm được đứa đó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ với những việc nó đã làm, vì nó biết rằng : Sở dĩ ta dùng nó chỉ vì nó là đứa yếu đuối nhỏ bé và hèn hạ mà thôi”.
- Phục vụ trong khiêm nhường và thành thật.
Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về tinh thần phục vụ. Trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói:”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8). Đức Giêsu đã thực sự trở nên người phàm như chúng ta mà còn hạ mình xuống làm nô lệ để phục vụ phần rỗi cho chúng ta. Đúng là Chúa đã xuống thế làm người để chúng ta làm Thiên Chúa, Ngài đã hoán đổi địa vị cho chúng ta, thử hỏi còn thái độ nào khiêm nhường hơn được nữa không ?
Truyện : Khiêm nhường giả tạo.
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lòng ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói :”Từ thời Salômôn đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói :”Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của Abraham”. Người thứ ba nói :”Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua kém sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào :”Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi :
– Ông có nghe họ ca tụng ông không ?
– Có.
– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế ?
Vị Rabbi than phiền :
– Vì không có ai nhắc đến sự khiêm nhường của tôi.
Câu trả lời của vị Rabbi muốn các đồ đệ ca tụng sự khiêm tốn của ông cho thấy ông chẳng khiêm nhường chút nào. Vì nếu người ta làm việc tốt với thái độ khoe khoang thành tích như người biệt phái đã làm trong đền thờ, thì họ thực sự không phải là người khiêm tốn ! Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy cần Chúa. Họ luôn tự mãn với thành quả đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do công khó của họ. Trái lại, người khiêm tốn luôn hãnh diện về những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Vì ý thức mình còn thiếu sót nên họ lại càng cậy nhờ vào ơn Chúa trợ giúp. Do đó, khi được thành công thì họ coi đó là món quà Chúa ban, chứ không nghĩ là công lao tài sức của mình.
Vấn đề đức tin còn phải đặt ra mãi cho mọi thời đại và cho mỗi người chúng ta, nhất là cho thời đại chúng ta đang sống. Tìm đâu ra lối thoát cho cơn khủng hoảng đức tin hôm nay ? Không còn cách nào khác nếu không phải dựa vào Lời Chúa và ơn thánh của Ngài. Chúng ta sẽ bị thử thách vì đức tin như các tông đồ xưa. Bởi đó, lúc bị thử thách gian truân, chúng ta đừng khép kín, đừng thất vọng. Lời cầu nguyện cũng như đức tin của cộng đoàn, của Hội thánh là những chiếc phao trong cơn bão tố, khi chiếc tầu hòng chìm xuống. Các tông đồ đã thưa với Chúa:”Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”.
Trong bất cứ thử thách và đau khổ nào, chúng ta đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Vì đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Nếu đức tin bị thử thách, thì chính ơn Chúa sẽ là sức mạnh củng cố chúng ta. Cũng như nguồn nước tuôn chảy xuống thung lũng để làm cho đất thêm phì nhiêu và cây cối xanh tươi, ơn thánh Chúa sẽ tràn đổ xuống tâm hồn khiêm nhường:”Phần các con, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng : chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi làm những điều chúng tôi phải làm”.
.
Lm G. Nguyễn Cao Luật
Xin thêm lòng tin cho chúng con
Các tông đổ xin với Đức Giêsu: “Xin cho chúng con thêm lòng tin!” Sao lại xin thêm lòng tin? Tin là thuộc lãnh vực phẩm chất, đâu thuộc lãnh vực số lượng mà lại xin thêm lòng tin. Có lẽ do tại cách nhìn về sự việc.
Và cũng như mọi lần, Đức Giêsu trả lời theo một đường lối khác, một cái nhìn ngược lại.
Một hạt cải trở thành một cây to lớn … một cây dâu mọc giữa biển … một ngọn núi di chuyển. Siêu thực: một từ ngữ có thể diễn tả đặc tính của bức tranh về một thế giới mới, một thế giới do Đức Giêsu công bố và trở thành hiện thực nhờ lòng tin. Người ta có cảm tưởng như đang chiêm ngắm một bức tranh của những nhà danh hoạ về siêu thực.
Đức tin quả là có tính “siêu thực”. Tin là một cái nhìn khác về điều có thể. Tin là vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, vượt qua trật tự tự nhiên, để thấy được một hiệu quả khác. Nhờ tin, con người đạt tới một đời sống hoàn toàn mới mẻ, không chỉ là kết quả của những nguyên nhân vật chất, nhưng là một cuộc sống được tặng ban, một sự trào vọt, một cuộc sáng tạo phát xuất từ Thiên Chúa.
Quà tặng! Phải nhấn mạnh đến điều này. Tin là một hồng ân vô thường và nhờ tin mà nhận được những hồng ân khác. Thế nhưng, có lẽ người ta quá chú trọng đến quà tặng mà không chú ý đến chính việc làm. Người ta chờ có thể truyền lệnh cho núi non, người ta muốn thấy cây dâu mọc giữa biển khơi. Nhưng ít khi người ta làm việc với lòng tin, ít khi người ta biết đón nhận những điều giáo huấn. Người ta muốn có những kết quả lạ lùng trước khi thi hành những lệnh truyền của Chúa.
Chỉ là người tôi tớ
Chất liệu của dụ ngôn này dựa trên mối liên hệ giữa người nông dân và người đầy tớ của ông. Chắc chắn rằng người đầy tớ không có quyền gì đối với ông chủ. Sau những giờ làm việc cực nhọc ở ngoài đổng, người đầy tớ không được phép nhớ đến việc ăn uống, nghỉ ngơi. Người chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm, hay hầu hạ để cám ơn. Người đấy tớ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho chủ. Đến khi nào người chủ không còn sai khiến gì cả, thì người đầy tớ mới được nghỉ ngơi. Người đầy tớ không hề nghĩ đến việc tham dự vào thế giới của người chủ mà anh có bỗn phận phải phục vụ. Đối với anh, một món tiền gọi là lương, được ăn uống, chừng đó là tất cả.
Tại sao Đức Giêsu lại nói dụ ngôn này?
Từ trước tới nay, người biệt phái vẫn nghĩ rằng tất vả việc lành, việc thiện, việc đạo đức của họ đều là những công nghiệp trước mặt Thiên Chúa mà người đời phải suy tôn và Thiên Chúa phải tính công. Đoạn văn Tin Mừng kể về chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện (xem Lc 18,11-12) cho thấy rõ ý tưởng này. Họ tưởng rằng những việc họ làm đã biến họ thành con người thánh thiện, đạo đức, và không cần đến Thiên Chúa, không cần sự can thiệp của Người. Chính sự tính toán này, thay vì làm cho họ trở thành những người thánh thiện, lại phá đỗ tất cả mọi việc họ đã làm. Họ ra về mà chẳng được tha tội, chẳng được Thiên Chúa xót thương. Trong khi đó, người thu thuế nhận biết mình là người tội lôỵi, nên trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa, và anh đã trở thành người công chính.
Thiên Chúa không hề mắc nợ ai. Con người chẳng có gì để tự hào trước Thiên Chúa, chẳng có gì để khoe khoang. Thực ra, tất cả mọi hành vi của con người đều là hồng ân của Thiên Chúa. “Không có Thầy, chúng con sẽ không làm gì được.” Vậy thì, con người có gì để mà kể công, để mà tự hào. Họ đừng ảo tưởng, đừng coi đó như công trạng, nhưng phải nhận ra rằng đó chỉ là bỗn phận, là trách nhiệm của mình. Mọi hành động phượng tự, mọi hành vi bác ái, thật ra vẫn chưa đủ để cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và của người khác. Con người có tạ ơn Thiên Chúa suốt cả đời mình cũng vẫn chưa đủ, vậy thì có gì mà tự hào, mà kể công. Cho dù có đem cả sức lực của mình để phục vụ người khác, con người cũng chỉ thực hiện những điều trong ơn gọi Ki-tô hữu của mình, cũng chỉ là để đáp lại hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình. Có gì đâu để khoe khoang, để kể công.
Bởi đó, nếu có ai tưởng rằng mình hữu dụng, nếu có ai nghĩ rằng mình đã thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, nếu có ai nghĩ rằng mình đã làm tròn bỗn phận của mình, thì rõ ràng người đó không hiểu gì về Ki-tô giáo, về sự thánh thiện và công chính của người môn đệ Đức Ki-tô.
Hồng ân của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người đều không chấp nhận sự tính toán. Bởi vì khi tính toán, con người không phân biệt được vẻ lớn lao của Thiên Chúa và sự thấp hèn của người phàm, không phân biệt được quà tặng với bỗn phận; họ là những con người hữu hạn, nhưng lại muốn cân đo cái vô biên.
Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là người chủ độc tài, hà khắc, luôn áp bức những người tôi tớ của mình. Trái lại, Người là Cha yêu thương. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu chỉ muốn cho con người, nhất là những người Biệt phái, hiểu rằng: Họ đã được Thiên Chúa trao ban những quà tặng lớn lao, lớn lao hơn những việc họ làm. Con người có làm gì chăng nữa cũng chưa xứng hợp với hồng ân đã lãnh nhận. Và để đón nhận thêm những hồng ân khác, họ phải khiêm tốn, phải nhận ra sự yếu hèn của mình.
Theo gương Người Tôi Tớ
Hơn một lần, Đức Giêsu đã trình bày yêu cầu đặc biệt của Nước Thiên Chúa: thực hiện trọn vẹn lề luật. Chính Người cũng cẩn thận thi hành những điều được coi là bỗn phận của người được sai đến trần gian. Và trên thập giá, Người đã hoàn tất lề luật, hoàn tất bỗn phận: “Mọi sự đã hoàn tất.”
Chính Đấng Thiên Sai cũng là người khắt khe với chính mình: là người chăn chiên, Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên; là người trổng nho, Người dành mọi nôỵ lực cho vườn nho.
Như thế, Đức Giêsu có quyền để nói với chúng ta là những người tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta phải thể hiện trọn vẹn ơn gọi của mình, phải thi hành đầy đủ, đúng đắn những lời của Thiên Chúa đã đặt nơi chúng ta. Chúng ta phải đem hết cả năng lực đã được Thiên Chúa trao ban, để hoạ theo hình ảnh của Đấng đã gọi và chọn chúng ta. Có người cho rằng lời mời gọi vượt qua và đạt tới sự thánh thiện này không phải là đặc trưng của Ki-tô giáo. Thế nhưng, nên nhớ cho rằng, Tin Mừng có tính cách tuyệt đối và một hình ảnh độc đáo là Đức Giêsu Ki-tô, mà không đâu có được.
Như thế, trong cách diễn tả của Đức Giêsu, chúng ta là những người thợ, những người bị giới hạn vì thời gian, vì không đủ khéo léo, và cũng có thể vì chất liệu kém. Kiêu căng, tức là không nhận ra giới hạn của mình, và điều ấy làm chúng ta thành dị dạng, bị méo mó. Chúng ta cần nhớ thân phận của mình như Đức Giêsu nhắc nhở: những đầy tớ vô dụng, tầm thường. “Các con không thể làm cho mình cao hơn một tấc được”, và Người cũng thêm: “Cha trên trời biết rõ các con cần gì”, “Người sẽ trả lại cho các con gấp trăm.”
Khi đưa ra dụ ngôn để dạy bảo con người, Đức Giêsu đã thực hiện nơi chính mình. “Tôi đến không phải để được hầu hạ, nhưng để phục vụ mọi người.” Chính điều đó đã đưa Người tới vinh quang, tới sự phục sinh. Đó là kết thúc của con người đã “làm việc bỗn phận”.
Vậy, tin không phải là gì khác hơn là tín trung với bỗn phận của mình. Nhờ tín trung và khiêm tốn, mọi sự đều trở thành có thể.
* * *
Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, xin ban cho con luôn khát khao điều làm vui lòng Cha.
Xin ban cho con một tâm hồn thức tỉnh để không một tư tưởng hão huyền nào kéo con xa Cha.
Xin ban cho con tâm hồn tự do mà không một đam mê mãnh liệt nào có thể lấn át được. … (theo thánh Tô-ma A-qui-nô).
.
Lm. G. Phạm Văn Phượng
Bài Tin Mừng có hai phần và cũng là hai vấn đề Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp khác nhau: phần đầu Chúa nói trực tiếp cho các môn đệ về khả năng của lòng tin: với lòng tin, con người có thể làm được những việc có vẻ như không thể thực hiện nổi. Phần sau Chúa nói chung cho mọi người về thái độ phục vụ vô kỷ, vô công đối với Chúa.
Trước hết, chúng ta thấy các tông đồ xin Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Đây là một ước nguyện hợp lý, cần thiết cho đời sống đạo đức cá nhân cũng như cho hoạt động tông đồ. Các tông đồ nói riêng và mọi Ki-tô hữu mọi thời nói chung đều cần có lòng tin. Các tông đồ xin như vậy, nhưng Chúa Giêsu lại trả lời một câu có vẻ lạc đề: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Chúng ta phải hiểu thế nào về câu trả lời bất ngờ này? Có hai hướng giải thích:
Cách thứ nhất, có thể các tông đồ đã đánh giá lòng tin theo số lượng. Các ông nghĩ rằng: cần phải có nhiều lòng tin, theo kiểu đó là đơn vị đếm được, nên Chúa Giêsu đã điều chỉnh cách nhìn theo lượng bằng câu trả lời nhấn mạnh vào phẩm: nếu là lòng tin đích thực thì không còn là chuyện nhiều hay ít nữa, vì với một lòng tin đích thực thì giả như lòng tin ấy chỉ bằng hạt cải thôi cũng đủ cho người ta khả năng trên các sự vật, và có thể làm được những việc có vẻ như không thể nào thực hiện được.
Cách thứ hai, hoặc là Chúa Giêsu xác nhận điều các tông đồ xin là đúng. Các ông có lý khi ao ước đạt tới một lòng tin đích thực, trọn vẹn và trưởng thành. Xác nhận, nhưng Chúa không khẳng định trực tiếp mà khẳng định gián tiếp, qua việc nói lên hiệu nghiệm của lòng tin, nghĩa là chúng ta có thể hiểu ngầm Chúa đã trả lời thế này: anh em xin vậy là hợp lý lắm, với một lòng tin đích thực thì giả như nó chỉ bằng hạt cải thôi, anh em sẽ có được một khả năng phi thường.
Dù hiểu theo cách giải thích nào thì ý chính vẫn là diễn tả hiệu lực của lòng tin. Lối so sánh giữa một bên là số lượng rất nhỏ: hạt cải, hạt nhỏ nhất, và một bên là một việc làm rất khó, phi thường: dời chỗ một cây dâu, loại cổ thụ, từ trên đất cho mọc xuống lòng biển. Lối so sánh này cốt ý để làm nổi bật ý tưởng then chốt chúng ta vừa nói, tức là để diễn tả hiệu lực của lòng tin.
Phần thứ hai, chúng ta thấy Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ trong xã hội phong kiến thời đó để nói về thái độ của người phục vụ. Thói thường chẳng có chủ nhà nào coi đầy tớ hơn mình, đến nỗi khi người đầy tớ đi chăn chiên hay đi làm đồng về lại giục người ấy: “Mau vào ăn cơm đi”, rồi phục vụ người đầy tớ ấy. Trái lại, người đầy tớ đi làm về vẫn là đầy tớ, vẫn phải lo hầu bàn cho chủ ăn xong rồi mới đến lượt mình. Đó là bổn phận của người đầy tớ trong xã hội phong kiến, người chủ không cần phải biết ơn người đầy tớ ấy. Chúa Giêsu nêu sự việc quen thuộc của đời sống hằng ngày ra đây không phải để phê phán, nhưng để làm thí dụ soi sáng cho thái độ của người phục vụ trong cộng đoàn Giáo hội, đó là phải có một thái độ phục vụ vô kỷ, vô công, vô danh: nếu một ông chủ trần thế, chỉ vì trong tương quan chủ – tớ của xã hội mà đã có quyền không cần phải mang ơn đầy tớ của mình, thì Thiên Chúa, người chủ tuyệt đối, lại không có quyền đó một cách tuyệt đối hay sao? Cho nên, người phục vụ trong Giáo hội, dù làm gì cũng chỉ là người làm việc phải làm, vì đã được ơn Chúa để làm việc ấy, và khi đã làm hoàn hảo mọi việc Chúa giao cho, vẫn phải khiêm tốn nhìn nhận mình chưa làm được gì cả, nghĩa là phải thực sự sống trong thái độ vô kỷ, vô công, vô danh đối với Chúa.
Hai phần trên ở hai vị trí độc lập nhau, nhưng vẫn có thể diễn tả được đầy đủ ý nghĩa và chủ đích giáo huấn của Chúa, nghĩa là mẩu đối thoại về sức mạnh của lòng tin được kèm theo ngay sau đó giáo huấn về thái độ phục vụ khiêm tốn, vô kỷ, vô công, vô danh, đã mang tính cách giáo huấn rất thực tiễn và quý giá. Cả hai phần đó có tương quan với nhau mà chúng ta có thể diễn tả như sau: anh em hãy vững tin vào Thiên Chúa để được sức mạnh phi thường. Nhưng khi đạt được những thành công, hoặc khi dấn thân phục vụ, hãy nhớ luôn luôn khiêm tốn, nhận mình yếu kém, chứ đừng vênh vang, tự đắc hoặc kể công.
Chúng ta hãy có tinh thần ấy trước Thiên Chúa. Mỗi người là một đầy tớ Chúa gửi nơi từng gia đình, từng quê hương, cánh đồng, xưởng thợ, nhà máy. Áp-ra-ham còn tự xưng mình là tro bụi, Đức Ma-ri-a là tôi tớ Thiên Chúa, Phaolô tự thú mình là nô lệ bất xứng của Chúa, Chúa Giêsu được mô tả là tôi tớ đau khổ đến để phục vụ, các Đức Giáo Hoàng thường tự xưng là “tôi tớ của các tôi tớ”… Còn chúng ta là ai mà dám vênh vang trước Thiên Chúa? Tài ba chúng ta là gì trước Thiên Chúa toàn năng?
Trong thực tế, từ bỏ được cái tôi của mình thật là khó. Chúng ta dễ kể công, dễ tự hào về những việc mình đã làm, dễ đề cao ca tụng chính mình. Hoặc nói theo kiểu bình dân: “mèo khen mèo dài đuôi”, “mẹ hát con khen hay”. Vì thế, bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta: không phải vì chúng ta có công trạng gì nên được Chúa thương yêu. Chúng ta không thể dựa vào mình, chúng ta phải cậy dựa vào Chúa, vì không có Chúa giúp đỡ, ban ơn, chúng ta không thể làm được gì. Phải cậy dựa vào Chúa và luôn cầu xin Chúa ban thêm lòng tin, luôn sẵn sàng quên mình đi, để Chúa hoàn toàn hành động nơi mình theo ý Chúa. Sau hết, chúng ta hãy khiêm tốn tạ ơn Chúa, vì Chúa đã đặt chúng ta trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, dù là hoàn cảnh nào cũng là hoàn cảnh riêng của chúng ta, chúng ta đừng phàn nàn, than van, vì đó là hoàn cảnh Chúa muốn chúng ta phục vụ Ngài, qua vai trò nhỏ bé và trong hoàn cảnh mưu sinh của chúng ta.
Để cứu rỗi và để giải phóng con người, Thiên Chúa đã không hành động từ trời cao, nhưng Ngài đã nhập thể và nhập thế để chia sẻ với con người và sống với con người hoàn toàn và chấp nhận chỗ đứng sau hết. Là môn đệ của Chúa, chúng ta không thể sống hơn Thầy. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu và chia sẻ về mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa, để mỗi người chúng ta không sống đóng kín trong vỏ sò ích kỷ của mình, nhưng biết sống cho người khác và vì người khác.
.
Lm. Bùi Mạnh Tín
Mọi tôn giáo đều được đặt nền trên một niềm tin, dù niềm tin ấy rõ ràng hay mơ hồ, có hệ thống hay chắp nối góp nhặt. Không có niềm tin, sẽ không có tôn giáo. Chính vì thế, những người chấp nhận và bước theo một tôn giáo được gọi là tín đồ hay tín hữu. Vì tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành những tín đồ Kitô giáo. Niềm tin Kitô này mỗi ngày thêm mạnh mẽ cứng cát hay yếu kém mong manh, phần lớn tùy thuộc vào sự cộng tác của mỗi tín hữu đối với ơn Chúa. Chính qua sức mạnh của lòng tin, chúng ta có thể thực hiện được những công việc lạ lùng, vượt trên khả năng và lý luận của con người như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải, chúng con có thể nói với cây dâu: hãy bứng rễ lên và đi trồng dưới biển, nó liền nghe lời chúng con”. Ở đây, chúng ta nhắc lại một số phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện liên quan đến đức tin:
– Khi người đàn bà bị băng huyết đến xin Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9:22).
– Khi gặp những người nhà của ông trưởng hội đường có đứa con gái vừa chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5:39), và Người đã làm cho em bé gái sống lại.
– Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và nói: “Thầy có thể làm được gì thì xin thương cứu giúp chúng tôi”, Ngài đáp: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Đối với một người tin, điều gì cũng có thể…” (Mc 9:23), và Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành.
– Không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mắt Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ và hành động của họ, Luca nói: “Thấy họ có lòng tin như thế, Chúa Giêsu bảo “Này Anh, Anh đã được tha tội rồi” (Lc 5:20)
– Trước khi cho Lazarô sống lại, Chúa đã ‘khảo sát’ đức tin của Matta. Khi đã thấy rõ niềm tin của cô, Chúa mới thực hiện một phép lạ lớn lao: cho Lazarô sống lại (Gio 11:26-27).
Tất cả phép lạ đều được thực hiện do quyền năng và lòng nhân hậu của Chúa, đúng vậy. Nhưng đối với Chúa, “hình như “ các phép lạ không tùy thuộc vào Ngài cho bằng tùy thuộc vào lòng tin nơi con người, nên trước khi thực hiện một phép lạ, Chúa Giêsu thường nói: “Đức tin của con đã cứu con”. Nói thế, Chúa muốn nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của con người trong lãnh vực đức tin. Đàng khác, khi nói đến đức tin, chúng ta cũng không chỉ hiểu đó như một sự chấp nhận các tín điều lý thuyết, trong tư tưởng, hoặc việc đọc thuộc lòng một công thức nào đó như kinh Tin Kính, kinh Tin Cậy Mến mà thôi, nhưng hơn thế, đức tin còn phải được thực hành qua cuộc sống hằng ngày. Chính qua việc thực hành và những thử thách hy sinh, mà đức tin trở nên mạnh mẽ, sống động. Không vậy, đức tin sẽ chẳng tồn tại. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Tuy nhiên, trong cuộc sống hằng ngày, việc thực hành này không dễ dàng, vì đức tin luôn hướng tới những điều cao siêu, thánh thiện, trong khi con người lại yếu đuối, hạn hẹp và dễ dàng lầm lạc. Do đó, ước gì chúng ta luôn biết bắt chước các tông đồ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Thầy, xin ban thêm lòng tin cho chúng con.”
.
Lm. Bùi Quang Tuấn
“Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng tôi” (Lc 17:5).
Khi trở thành người Công giáo cũng có nghĩa là dám mất đi tất cả. Đây là tựa đề bài phóng sự của ký giả Tim Drake trên tờ National Catholic Register, số ra tháng 2 năm 2001, nói về những khó khăn mà một số các vị mục sư phải đương đầu khi trở lại với niềm tin Công giáo. Chẳng hạn, mục sư tiến sĩ Kenneth Howell, thuộc phái Tin lành Trưởng lão (Presbytarian church), đã tâm sự: “Sau khi nghiên cứu và học hỏi về Bí tích Thánh Thể, tôi nhận ra rằng các giáo phụ thời Giáo hội sơ khai đã cùng đồng nhất trong niềm tin vào Mình và Máu Đức Kitô.” Việc nhận biết này kèm với những khám phá về nền tảng của thiên chức linh mục và tinh thần hiệp nhất Kitô hữu đã khiến Kenneth tiếp cận thân thiết hơn với đạo. Tuy nhiên vì có những khác biệt trong thực hành nên phải đến bốn năm sau Kenneth mới thật sự trở lại.
Nói đến trở lại là nói đến những tác động khủng khiếp trên đời sống, nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình, bạn bè, thân hữu. Có những người từng là mục sư lâu năm như Kenneth, bây giờ trở thành người Công giáo, ông ta sẽ làm gì để sống? Có ai trọng dụng tài năng của ông? Làm thế nào để trợ cấp cho gia đình? Việc chịu chức của họ trong các giáo hội trước đây có còn ý nghĩa gì nữa chăng?
Biết bao vấn đề được nêu lên. Nhưng vấn đề lớn nhất là sự thiếu cảm thông trong gia đình và nơi bạn bè. Maricus Grodi, 59 tuổi, một cựu mục sư phái Tin lành Trưởng lão tâm sự: có lắm điều mà vợ con hay giáo hữu của mình không thể chấp nhận, có khi vì thành kiến với Đạo, nhưng cũng có khi vì họ thiếu cơ hội nghiên cứu học hỏi. Họ không thấy được những gì mình được thấy.
Ngoài những thách đố trong niềm tin và liên hệ gia đình, còn có thách đố về nghề nghiệp sinh sống. Như Kenneth từng dạy tại một chủng viện Trưởng Lão suốt 7 năm. Bắt đầu mỗi niên học, các giáo sư thường được yêu cầu ký vào bản tuyên xưng niềm tin căn bản của Giáo hội Trưởng lão. Nhưng đến một ngày, Kenneth đã không thể làm điều đó và quyết định nghỉ việc. Nghỉ việc là phải đương đầu với bao khó khăn tài chánh gia đình.
Khi đọc qua những thách đố mà bao vị mục sư đã gặp phải khi trở lại với niềm tin Công giáo, tôi tự hỏi: động lực nào đã khiến họ dám đánh đổi tất cả cho niềm tin Công giáo như vậy? Họ nhận được gì, khi mà dưới cái nhìn khách quan thì dường như họ đang mất đi rất nhiều: mất nghề nghiệp, giáo dân, bạn bè, và có khi còn mất cả tình cảm cha mẹ, vợ con?
Phải chăng vì những con người đó đang có cùng một tâm tư như Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại: “Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài” (Phil 3:8-9).
Lợi được Đức Kitô, và là một Đức Kitô đang hiện hữu trọn vẹn trong Bí tích Thánh Thể, được thuộc về Đức Kitô, và là thuộc về một Đức Kitô hiệp nhất, không bị xé mảnh, không bị phân tán hay méo mó, đó là con đường giải thoát chân chính mà Thánh Phaolô đã khám phá và không ngừng viết đi viết lại vì lợi ích của các Kitô hữu.
Thánh Phaolô là người đã khám phá dung mạo tuyệt vời của Đức Kitô để sau đó làm một cuộc trở lại, tiên phong cho bao cuộc trở lại khác. Việc trở lại của Phaolô, trước hết là một sự hoán đổi cái nhìn về Đạo. Sự kiện mắt ông bị loà không thấy được gì trên đường đi Đamas, để rồi sau đó được chữa lành và tiếp nhận một khả năng nhìn mới, đã khẳng định: cái nhìn của Phaolô về Đạo đã được đổi thay, và từ đây một đời sống mới bắt đầu.
Ngày hôm nay, được chứng kiến bao cuộc trở lại, tôi tự hỏi: Có nhiều người thấy được những giá trị vô biên của niềm tin Công giáo, của Bí tích Thánh Thể, của sứ mạng hiệp nhất Kitô hữu, và đã dám đánh đổi những gì đáng yêu nhất trên thế gian hầu có được những điều họ vừa tìm gặp. Phần tôi, người mang danh có Đạo, liệu tôi có thật sự trân quí niềm tin của mình và nhiệt tâm chia sẻ sức sống múc được từ niềm tin đó cho kẻ khác không? Tôi có dám đánh đổi chút gì trong đời để giữ gìn và làm tăng trưởng niềm tin, nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể… hay tôi đã đánh mất tất cả từ lâu rồi?
“Lạy Chúa, xin củng cố đức tin còn đang yếu kém của chúng con.” Xin cho chúng con gặp được Chúa như Thánh Phaolô đã gặp trên đường Đamas. Xin cho chúng con luôn biết trở lại mỗi ngày trong tâm tình yêu mến Thánh Thể và Giáo hội. Để nhờ đó đời chúng con luôn tràn đầy sức sống của trời cao và không ngừng trao ban tình Chúa cho mọi người. Xin Chúa Thánh Thần kiện toàn đời sống và lời nguyện xin của chúng con. Amen.”
.
Lm. Vũ Minh Nghiễm
“Nếu đức tin bằng hạt cải”
Hôm nay, kính mời bà con cô bác cùng làm một chuyến du hành.
Chúng ta hãy ngồi vào máy điện toán thời gian, và đi giựt lùi trở lại vào lịch sử. Đi đến năm 1776, trong tay không quên mang theo một tờ nhựt báo hôm nay.
Đến nơi rồi, chúng ta hãy dâng tặng cho tổ tiên của chúng ta tờ báo mang theo. Chúng ta thấy các ngài mới vừa đọc là đã chau mày lại, vì có nhiều danh từ trên tờ bác các Ngài không hiểu nổi. Ví dụ: xe hơi, máy bay, phi hành gia, radio, TV, vân vân…
– Nầy các cháu, xe hơi nghĩa là gì? các ngài hỏi.
– Kính thưa tiên tổ, xe hơi là thứ xe chạy bằng dầu, bằng xăng, hay một thứ nhiên liệu nào khác, không cần người đẩy hoặc ngựa kéo.
– Xe mà không cần ngựa hoặc người kéo hay đẩy, làm sao có thể chạy được? Chứ máy bay nghĩa là gì?. Tiên tổ hỏi tiếp.
– Thưa tiên tổ, máy bay là một thứ máy xe hay tàu, ngồi lên là nó nổ ầm ầm, rồi cất mình bay bổng lên thượng tầng không khí, mang hành khách đi thật mau, thật xe, nước nầy sang nước khác, châu họ sang châu kia.
– Xe hay tàu, bay sao được? Bay là phải có cánh. Chim nhờ có cánh mới bay, chứ xe, hay tàu, làm thế nào mà bay? Các cháu khùng rồi. Chứ TV nghĩa là gì?
– Thưa, TV là một cái máy truyền hình. Người ta ngồi ở nhà mà có thể xem được và nghe được những việc đang xảy đến cách xa ngàn vạn dậm, như bên Tàu chẳng hạn.
– Thôi! Thôi! Tổ tiên các cháu hiểu cả rồi. Các cháu khùng khùng hạng nặng! Xe không người đẩy, không ngựa kéo mà có thể chạy được. Tàu mà có thể bay được, máy mà có thể chiếu hình sống động xa từ bên Trung Quốc, chiếu vào tận trong nhà được! Quả thực, các cháu đau bệnh thần kinh nặng lắm. Nghe nói ở VN có những nhà thương Dưỡng Trí tại tỉnh Biên Hoà, hay chỡ Rẫy gì đó. Các cháu nên đến ghi tên vào gấp trước khi quá trễ.
Thấy ông bà tổ tiên chẳng ai hiểu được chúng ta, đi tới đâu chúng ta cũng bị các ngài mắng cho là điên là khùng, chúng ta buồn rầu, lại ngồi vào máy thời gian, trở về với vị trí hiện thời của chúng ta.
Bấy giờ chúng ta thấy rõ rằng những điều mà người một thế hệ coi là tầm thường thì người của thế hệ khác lại cho là lạ lùng không thể có được. Điều mà người của thế kỷ kia không bao giờ dám mơ tưởng đến thì người của thế hệ này lại coi như dĩ nhiên.
Và đây là bài học của chuyến du hành đi về quá khứ.
Sống trên đời, nếu chúng ta có được thái độ tin tưởng rằng một việc nào đó có thể thực hiện được, chúng ta sẽ có cơ may thành công. Trái lại, nếu chúng ta giữ cái thái độ chủ bại, hoài nghi rằng việc đó không thể thực hiện được, thì hầu như chắc chắn là chúng ta sẽ thất bại.
Bây giờ mời bà con cô bác lại tiếp tục cuộc thử nghiệm của chúng ta.
Nầy đây có một đứa chắt chút của chúng ta từ năm 3000 cũng ngồi máy thời gian trở về thăm chúng ta là những người đang sống trên quả đất nầy hôm nay. Khi ngồi máy thời gian trở về, người chắt chút nầy cũng mang theo trong tay một tờ nhựt báo biếu cho chúng ta. Khi đọc, chúng ta tuyệt nhiên không thấy có một chỗ nào nói đến nạn cao bồi du đãng, ma túy nghiệm ngập, cướp của giết người. Không có chỗ nào nói đến nghèo khổ, giặc giã chiến tranh giữa phe nầy với phái khác, giữa nước nọ với nước kia. Không có những chuyện đau thương, hỗn loạn như chúng ta đang mục kích trong thế kỷ 21 nầy. Tờ nhựt báo chỉ nói toàn những chuyện an bình thịnh vượng, tương trợ, tương ái, tương thân.
Đọc qua tờ báo, chúng ta có cảm tưởng như thế nào?
Hẳn chúng ta sẽ nói với người cháu chắt chút từ năm 3000 trở về thăm chúng ta là tổ tiên rằng:
– Này cháu, những gì nói trong tờ báo của cháu đây toàn là chuyện hoang đường, đầy luận điệu tuyên truyền cho những người của thế kỷ 21. Một thế giới an bình thịnh vượng, và người người được lạc nghiệp an cư, trong yêu thương thân thiện… thế giới đó chỉ có trong giấc mơ mà thôi, cháu ạ. Một người có chút lương tri thấy rõ như ban ngày rằng, ở đâu có con người, thì ở đó có giàu nghèo, có tranh chấp; ở đâu có nước nầy nước nọ thì ở đó có bạo động, giặc giã chiến tranh…
Thấy chúng ta là tổ tiên, không hiểu nổi những chuyện viết trên tờ nhựt báo, người chắt chút của chúng ta buồn rầu từ giã ra về với thế giới năm 3000. Còn chúng ta ở lại với thế giới năm 2000, trí lòng đầy suy tư…
Sau hai cuộc thử nghiệm trên, chúg ta nhận thấy rằng những việc mà tổ tiên chúng ta của năm 1776 cho là hão huyền, như xe hơi, máy bay, radio, TV, thì chúng ta, con cháu của năm 2000 nầy thấy đó là sự thật.
Vậy những điều người chắt chút của năm 3000 nói về một thế giới an bình, thịnh vượng, mọi người đều tương trợ, tương ái tương thân, hôm nay chúng ta cho là chuyện hoang đường, biết đâu ngày mai sẽ thành sự thật?
Bài học quan trọng của hai cuộc thử nghiệm trên là đây:
Trước hết, nếu chúng ta sống với tâm trạng này rằng hòa bình trên quả đất hôm nay không thể có được, chúng ta sẽ thất bại trong công việc kiến tạo hòa bình trên quả đất.
Thứ hai, nếu chúng ta sống với tâm trạng nầy rằng thiên hạ chung quanh chúng ta toàn là người vô tâm vô tình, vị kỷ, khó thương. Chúng ta sẽ thất bại trong công việc xây dựng một xã hội tận tình, vị tha, dễ thương dễ mến.
Sau cùng, nếu chúng ta sống với thái độ nầy rằng các nước thiên hạ, ngàn đời, cha truyền con nối, tiếp tục bạo động, hận thù ghen ghét nhau, chúng ta sẽ thất bại trong cố gắng hòa giải. Và Liên Hiệp Quốc vẫn bị mang tiếng xưa nay là con chó chết mà thôi.
Vậy, chúng ta phải kết luận rằng:
– Hoà bình trên quả đất nầy có thể có được.
– Tình tương thân tương ái giữa những người chung quanh chúng ta có thể thành sự được.
– Sự thuận an giữa các quốc gia có thể kiến tạo được.
Lý do khiến những viễn tượng trên đây có thể thành sự thật là vì Chúa Yêsu đã đến với chúng ta, đang ở giữa chúng ta, đang dạy bảo chúng ta phải ăn ở như thế nào cho hợp đạo làm người.
Lý do khiến giấc mơ hòa yêu thương giữa loài người nói chung, giữa những người chung quanh chúng ta nói riêng, có thể thành tựu được là vì chính Chúa đã hứa với chúng ta như vậy. Bằng không, Ngài đã chẳng hề dạy chúng ta cầu xin trong kinh “Lạy Cha” rằng: Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời vậy. Ngài đã chết để làm cho “Nước Cha trị đến” được thành sự thật. Ngài đã sống lại để khiến cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Đây cũng là chính điều Chúa Yêsu dạy chúng ta trong bài Phúc âm hôm nay.
“Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dầu có bảo cây dâu này: hãy bật gốc lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời.”
Tin Mừng của Phúc Âm hôm nay là đây: “Nhờ đức tin, quyền lực của Thiên Chúa ở trong tay chúng ta.” Do đó, không còn việc gì gọi là không thể thực hiện được nữa. Dầu là một thế giới trong đó không còn chiến tranh nữa, không còn đói khổ nữa, không còn hận thù nữa.
Chúng ta hãy nhớ lại cuộc du hành không gian. Những điều mà người thế kỷ trước coi như không thể có, thì người thế kỷ sau cho là tầm thường. Và ngay trong cùng một thế kỷ, điều mà người nầy cho là không có thể làm, thì ngươi khác lại làm được. Thánh Grê-go-ri-ô đã chuyển một hòn núi đi nơi khác, lấy chỗ mà làm nhà thờ. Thánh Raymond Pennafort lần kia đã lấy áo làm thuyền đi qua mặt biển…
Chỉ vì các Ngài đã có lòng tin kiên vững vào lời Chúa phán trong ngày hôm nay: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải thôi…”
Vậy trong tất cả mọi sự, làm được hay không làm được, và làm được thì làm đến mức nào, tất cả đều do nơi lòng tin của chúng ta mạnh hay yếu mà thôi.
Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa thêm đức tin cho con. Nếu không lớn bằng hạt cải, thì bằng nửa hạt cải cũng tạm được cho con hôm nay.
.
NẾU CÁC CON CÓ LÒNG TIN BẰNG HẠT CẢI
Lm. Bùi thượng Lưu
Ngôn sứ Khabacúc rao giảng cùng thời với ngôn sứ Giêrêmia. Ông than thở và chất vấn Thiên Chúa vì Chúa để cho dân hung ác đe dọa Dân Chúa:
“Lạy Chúa, tôi kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Tôi phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu tôi sao? Cớ sao Chúa tỏ cho tôi thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt tôi? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.”
Thiên Chúa đã trả lời Ông: “Người công chính sẽ được sống nhờ lòng trung tín.” Tiếng kêu của ngôn sứ Khabacúc cũng là những nỗi lòng ai oán của con người trước cuộc sống đầy bất công và phi lý. Thi hào Nguyễn Du đã diễn tả nỗi niềm bi thương ấy qua hai vần thơ sau:
“Trải qua những cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Ai trong chúng ta mà không phẫn uất trước cái chết tức tưởi oan trái của bao nhiêu nạn nhân trong các tai nạn máy bay, trong các thiên tai, hạn hán, động đất khủng khiếp vẫn hằng xẩy ra đó đây trên thế giới? Hàng trăm ngàn trẻ em vô tội bị sát hại trong những cuộc chiến đẫm máu. Hàng ngàn vạn những thuyền nhân Việt Nam vượt biển tìm tự do đã bị chôn vùi xuống lòng đại dương… Bút mực nào ghi hết cảnh khốn cùng của cuộc sống, những ngang trái đoạn trường mà mỗi người chúng ta cảm nghiệm được.
Phản ứng tự nhiên của mỗi người chúng ta trước những gian truân thử thách là những lời than vắn thở dài hoặc kêu trách Thiên Chúa. Đức tin chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội bị lung lay. Những nghi vấn về sự hiện hữu và lòng nhân lành của Thiên Chúa bắt đầu xuất hiện trong tâm trí chúng ta. Dần dần, người tín hữu bỏ đọc kinh cầu nguyện, lơ là việc chịu phép bí tích, mất niềm tin vào Chúa!
Tìm đâu ra lối thoát cho cơn khủng hoảng đức tin ấy, nếu không phải là chính Lời Chúa và ân thánh của Người. Timôthê, người môn đệ thân tín của thánh Phaolô, sắp bị ngã quỵ vì thử thách và thất vọng, đã bừng tỉnh lại nhờ những lời khuyên của Phaolô:
“Cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của Cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mãnh, bác ái và tiết độ. Con hãy lấy những lời lành lẽ phải con đã nghe Cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô. Con hãy cậy nhờ Thánh Thần là Đấng ngự trong chúng ta mà gìn giữ kho tàng tốt đẹp.”
Lời khuyên cũng như gương sáng của những người công chính sẽ nâng đỡ những tâm hồn đang bị thử thách: Chị ngã em nâng. Bởi đó, lúc bị thử thách gian truân, chúng ta đừng khép kín, đừng thất vọng. Lời cầu nguyện cũng như đức tin của cộng đoàn, của Hội Thánh là những chiếc phao trong cơn bão tố, khi chiếc tàu hòng chìm xuống. Các tông đồ đã thưa với Chúa: “Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con.” Trong bất cứ thử thách và đau khổ nào, chúng ta đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Vì đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Nếu đức tin bị thử thách, thì chính ân Chúa sẽ là sức mạnh củng cố chúng ta. Cũng như nguồn nước tuôn chảy xuống thung lũng để làm cho đất thêm phì nhiêu và cây cối xanh tươi, ân thánh Chúa sẽ tràn đổ xuống tâm hồn khiêm nhường: “phần các con, khi các đã làm xong mọi điều đã truyền dậy các con, thì các con hãy nói rằng: chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm những điều chúng tôi phải làm.”
.
SỨC MẠNH “DỜI NON LẤP BỂ” CỦA LÒNG TIN
JM. Lam Thy
Đức Giê-su đã có lần dạy về lòng tin có thể “dời non lấp bể” (“Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia” nó cũng sẽ qua.” – Mt 17, 20). Các tông đồ đã được mạc khải nhiều lần về Đức Giê-su qua những lời giảng dạy cùng với những dấu lạ, điềm thiêng. Nhằm củng cố niềm tin cho họ, Người lại còn ban quyền năng để dẹp trừ những thần ô uế và chữa lành bệnh tật (Mt 10, 1-2). Tuy nhiên, vì mang trong mình thân phận con người, các tông đồ thấy có những lúc còn quá yếu đuối, nên các ông mới cất tiếng xin với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lời cầu xin này toát lên nỗi trăn trở trước sứ mạng và sự lo sợ trước những thách đố lớn lao của sứ vụ mà các tông đồ sẽ đón nhận.
Suy niệm Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay (CN XXVII/TN-C – Lc 17, 5-10) trình thuật lời cầu xin của các tông đồ (-nt-), tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Lòng tin xuất phát từ chủ thể khi nhìn nhận một vấn đề, một sự kiện hay một nhân vật. Theo từ nguyên thì lòng tin có nghĩa là: 1- Có ý nghĩ cho là đúng sự thật, là có thật; 2- Cho là thành thật; 3- Đặt hoàn toàn hi vọng vào người nào hay sự việc gì đó; 4- Nghĩ là rất có thể sẽ như vậy (Wikipedia). Như thế, tin hay không là tự chủ ý của bản thân, vậy thì làm sao lại có chuyện xin người khác ban thêm lòng tin cho mình được? Thắc mắc này chỉ có lý khi lòng tin đó xảy ra giữa con người với nhau, nhưng ở đây là lòng tin mà các Tông đồ xin Đức Giê-su Thiên Chúa, thì vấn đề lại khác.
Trước hết, phải hiểu lòng tin là một ân huệ Chúa ban. Một cách cụ thể thì phải hiểu ở đây là lòng tin của con người đặt vào thần linh, nghĩa là chính Thiên Chúa là đối tượng của lòng tin. Không có đức tin, không cậy dựa vào Thiên Chúa, con người không thể làm được gì, đúng như Đức Giê-su đã dạy: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Nhưng nếu tin vào Thiên Chúa, người tín hữu sẽ có năng lực để làm được tất cả mọi sự, như thánh Phao-lô đã từng cảm nghiệm: “Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4, 13). Ầy cũng bởi vì lúc đó, năng lực mà thánh Phao-lô sử dụng không phải đến từ bản thân bất toàn của mình; nhưng đến từ Thiên Chúa, cội nguồn của mọi sức mạnh trong vũ trụ, là Đấng Toàn Năng không có gì là không thể làm được (“đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” – Lc 1, 37).
Rõ ràng là nếu con người không có đủ năng lực, chính là vì họ chưa có đức tin đích thực. Vấn đề căn bản vẫn là ở chủ thể người tin, chớ không phải ở nơi đối tượng của lòng tin. Thật vậy, nếu con người thật sự tin nhau và hy vọng đối tượng sẽ đem đến cho mình những điều tốt đẹp, họ sẽ sẵn sàng đến với đối tượng để cầu mong được giúp đỡ. Nói cách khác, khi đã hoàn toàn tin tưởng vào nhau, người tín hữu sẽ sẵn sàng hợp tác với đối tượng để biến những điều tốt đẹp mà họ cầu mong sẽ trở thành hiện thực. Đối với Thiên Chúa thì cũng vậy, bởi “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Người.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Có lẽ cũng vì thế nên Đức Giê-su đã không trả lời thẳng vào lời cầu xin của các môn đệ, mà Người chỉ nêu bật sức mạnh của lòng tin, để các môn đệ tự trang bị và củng cố đức tin của mình.
Đức Giê-su đã lấy đức tin so sánh với hình ảnh một hạt cải nhỏ bé, để có thể ra lệnh cho một cây dâu to lớn di chuyển. Mới nghe qua thì thấy có vẻ vô lý, vì cái lòng tin nhỏ bé như vậy thì làm sao có thể đứng vững được, chớ đừng nói là có thể ra lệnh cho cây dâu di chuyển. Tuy nhiên, suy cho kỹ Lời dạy bởi một Người Thầy chuyên dùng dụ ngôn, sẽ thấy là Người muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, cho nên Người mới dùng một hình ảnh cụ thể là hạt cải nhỏ bé mà có thể ra lệnh cho một cây dâu to lớn, cốt ý để nói lên sức mạnh của lòng tin, của đức tin. Câu này có thể diễn nôm: “Nếu anh em thực sự tin vào Thầy, tin vào quyền năng tối thượng của Thiên Chúa, thì bất cứ việc gì dù to lớn tới đâu chăng nữa (“di sơn đảo hải” – dời non lấp biển, chẳng hạn), anh em vẫn có thể làm được.”
Mấu chốt vấn đề vẫn chỉ là điểm nhấn: Đức tin. Mà nói về đức tin là phải nghĩ đến mạc khải vì “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người, thì đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Thật vậy, “Kẻ chú tâm vào Lời Chúa dạy sẽ gặp chuyện tốt lành, người đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA thật hạnh phúc dường bao.” (Cn 16, 20); “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân.” (Gr 17, 7). Khi về Na-da-rét, Đức Giê-su không làm được phép lạ nào, chỉ vì dân đồng hương không tin (Mt 13, 58). Khi chữa lành bệnh cho ai, Đức Giê-su không nói rằng Người đã chữa lành bệnh cho họ, mà là “Đức tin của con đã chữa lành con” (Mt 9, 22; Mc 5,34; Lc 8,48; Lc 17,19). Đức Maria được bà Ê-li-da-bet khen: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45), và chính Mẹ cũng được tôn xưng là “Mẹ đức tin”.
Thánh Phê-rô là mẫu gương nổi bật về vấn đề đức tin. Cùng với các môn đệ khác, khi Phê-rô đi theo Đức Ki-tô, vì đã tin Người có thể giúp thánh nhân “lưới người như lưới cá”. Được sống liền bên với Người Thầy mà mình tin tưởng, được nghe dạy và nhất là được chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ Người đã làm, vậy mà khi thì tuyên xưng “Thầy là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa hằng sống”, khi lại tưởng Thầy là ma khi thấy Thầy đi trên mặt biển, nhất là khi Thầy đã Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ (Lc 24, 37). Vừa mới khẳng định chắc nịch: “Dù có phải chết, con cũng không chối Thầy”, ấy vậy mà chỉ một đứa tớ gái nhà Cai-pha gạn hỏi, đã chối Thầy không chỉ một lần mà tới 3 lần trong một đêm: “Tôi thề là không biết Người ấy” (Mt 26, 72). Nếu đức tin của Phê-rô đã kiên định thì có thể xảy ra trường hợp tréo cẳng ngỗng như vậy không?
Câu chuỵên đi trên mặt biển đã minh hoạ về đức tin của con người bộc trực Phê-rô: Khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển, ông tin rằng ông cũng có thể đi trên mặt biển đến với Người, và với niềm tin ấy, ông đã đi trên mặt nước không khác gì đi trên mặt đất. Nhưng khi thấy gió thổi mạnh thì ông đâm ra nghi ngờ, đức tin của ông bị chao đảo, vì thế ông bị chìm xuống và la lên cầu cứu: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14, 22-33). Rõ ràng việc Phê-rô đi được trên mặt nước hay bị chìm xuống là do đức tin của ông có mạnh mẽ hay không. Trường hợp này có thể nói: ông đi trên đức tin của ông, hay đức tin của ông chính là nền tảng nâng đỡ bước chân ông đi, cũng như nâng đỡ toàn bộ cuộc đời ông. Quả thật, khi có một đức tin vững vàng, thì đời sống nội tâm luôn luôn an bình hạnh phúc, bất chấp nghịch cảnh; nhưng khi đức tin bị chao đảo, thì đời sống cũng bị chao đảo theo.
Phân tích những sự kiện Kinh Thánh nêu trên, thấy nổi bật một chân lý: Để thành tựu được một phép lạ, phải có hai yếu tố quan trọng: Quyền năng của Thiên Chúa và lòng tin của con người. Thiếu một trong hai thì phép lạ không thể thành tựu được (một minh hoạ sống động là câu chuyện “Đức Giê-su về thăm Na-da-ret”, nhưng những người đồng hương và cả thân nhân của Người vì không tin nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” (Mc 6, 5). Tuy nhiên, quyền năng của Thiên Chúa thì bao giờ cũng có, lúc nào cũng sẵn sàng tác động, không bao giờ thay đổi hay mất đi, nên yếu tố hiển nhiên ấy không cần bàn cãi. Vấn đề còn lại chỉ là lòng tin của con người. Phép lạ hay điều con người cầu xin Thiên Chúa có xảy ra hay không, hoàn toàn do con người có thật sự tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa hay không.
Người Ki-tô hữu nhiều khi hoang mang lo sợ trước viễn cảnh tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Từ chỗ mất niềm tin ấy, người tín hữu có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi, phó mặc cho số phận đẩy đưa, không còn sống theo những điều Chúa và Giáo hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm hy vọng vào ơn cứu độ Đức Ki-tô đem đến. Mà cũng “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5, 2). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Hãy nhìn vào đích điểm của hành trình đức tin là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc sống trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần hoan hỷ vì ngày Chúa quang lâm đã gần kề.
Tiếp theo lời dạy về niềm tin, Đức Giê-su lại đưa ra hình ảnh một người đầy tớ trung tín. Người đầy tớ làm xong việc ông chủ trao phó đã không hợm hĩnh như kiểu anh chàng Pha-ri-sêu cầu nguỵên trong Đền Thờ (“Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế” – Lc 18, 11-12), mà biết thưa với chủ “chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Quả thật, đừng khoe khoang, chớ hợm hĩnh, mà hãy khiêm tốn phục vụ, bởi “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên .” (Mt 23, 11-12). Tốt hơn cả là hãy làm, đừng nói suông kiểu những ông kinh sư thích ngồi trên toà ông Mô-sê (Mt 23, 1-6) và nhất là đừng bao giờ “làm láo báo cáo hay”. Cũng bởi vì “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.” (2Tm 1, 13-14).
Tóm lại, bài học rút ra được khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay phải là: Đừng hãnh diện cho rằng mình đã có một đức tin vững mạnh, mà hãy nhìn lại mình để thấy được sự bất toàn của bản thân mà cầu xin: “Lạy Chúa! Xin thêm lòng tin cho chúng con.” Ôi! Lạy Chúa! Chúng con chỉ biết hãnh diện khoe thành tích này, việc tốt nọ, mà không biết rằng những thành tích ấy, những việc làm ấy, nếu không được Thần Khí Chúa soi sáng và thúc đẩy, thì rốt lại cũng chỉ là con số không. Chúng con biết rằng chúng con luôn hão huyền tự đắc cho rằng mình được làm con cái Thiên Chúa, được làm bạn hữu của Con Thiên Chúa, thì chắc chắn lòng tin sẽ vững mạnh. Đó quả thực là điều không tưởng! Vâng, lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho chúng con, “xin thêm lòng tin cho chúng con”, để chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
.
Lm Vũđình Tường
Môn đệ Đức Kitô xin Ngài ban thêm đức tin cho các ông. Không rõ lí do vì sao các ông xin điều trên. Điều chắc chắn là sau khi nghe Đức Kitô nói với các ông phải tha thứ cho anh em khi họ xin tha. Không phải tha một lần mà hàng trăm lần Luca 17,4. Ngay sau đó các ông xin Đức Kitô ban thêm đức tin cho các ông. Có lẽ các môn đệ tin là với một đức tin mạnh mẽ các ông sẽ tránh được nhiều cơn cám dỗ và sẵn sàng hơn trong việc tin theo Đức Kitô và phục vụ dân Ngài.
Tha thứ là điều nói dễ khó làm. Lí thuyết dễ, thực hành khó. Càng khó hơn khi người kia làm cho mình thừa chết, thiếu sống, đứt ruột, tím gan. Nhổ tận gốc rễ cảm xúc đau đớn trong tâm chính là tự giải thoát mình khỏi đau khổ, thoát được ràng buộc của hận thù. Càng suy nghĩ về hận thù càng bị nó dần vật, trở nên nô lệ cho hận thù. Xã hội chúng ta đang sống kêu gọi con người nên xả bỏ hận thù bằng cách giải toả chúng với tâm lí gia chuyên về xúc cảm, hầu tìm giải pháp mang chúng xuống tuyền đài.
Mọi người thợ đều biết, dụng cụ đóng một phần nhỏ, không phải dụng cụ tốt giúp họ làm những kiệt tác để đời, mà chính là tài năng của người thợ. Không phải do đức tin mạnh mà ta có khả năng đạt được những kì công vĩ đại, mà chính là qua ta, Thiên Chúa là Đấng làm những kì công vĩ đại qua đức tin nhỏ bé, yếu đuối của ta. Đức kitô không ban thêm đức tin cho các môn đệ như điều các ông xin. Ngài giải thích cho các ông biết đức tin, dù nhỏ bé bằng hạt cải, yếu đuối, nhưng với lòng tin, tâm tình phó thác cộng với đức khiêm nhường của các môn đệ, các ông thực hiện được nhiều điều vĩ đại cho muôn dân. Kitô hữu chân chính là người trở thành dụng cụ trong tay Thiên Chúa. Không thể đong đo đức tin, lớn nhỏ, nhiều ít bởi đức tin xuất phát từ lòng mến, tình yêu và phó thác trong Chúa. Khiêm nhường và sẵn sàng trở thành dụng cụ trong tay Chúa là điều cần thiết để phục vụ nước trời. Cuối bài Phúc Âm Đức Kitô giải thích thêm về liên hệ giữa chủ và người làm công. Chủ nhân là người ra lệnh và công nhân là người thi công, làm công việc chủ giao. Hoàn thành công việc tốt đẹp là làm tròn nhiệm vụ của người làm công chân chính. Người làm công không có gì để khoe khoang, nếu có thì người đó hãnh diện về tài năng chủ mình. Bởi chính chủ là người ra kế hoạch cho người công nhân thi hành. Mọi tính toán, khôn ngoan đều đến từ chủ; thợ chỉ thi hành điều chủ hướng dẫn, chỉ bảo. Tin vào Đức Kitô chính là khiêm nhường phục vụ theo hướng dẫn của Ngài. Làm theo điều Ngài hướng dẫn sẽ gặt hái kết quả ngoài sức tưởng. Thánh Luca cho biết thực hành í Chúa sẽ chuyển được cây; thánh Marco 11,22-23 cho biết đức tin chuyển núi, dời non.
Chúng ta thường hay xin Đức Kitô ban thêm đức tin cho chúng ta bởi chúng ta tin là đức tin có sức mạnh biến đổi cuộc sống của chính mình, và cảm hoá người thân. Chúng ta tin đức tin làm những việc trọng đại trong đời và giúp cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Phúc âm Đức Kitô nói ‘đức tin con đã cứu,chữa, con’. Tự đức tin không thể làm phép lạ. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa là Đấng thực hiện điều kì lạ. Người nhận ơn lạ cần có đức tin để Thiên Chúa thực hiện điều kì diệu. Rõ hơn phải hiểu là bởi lòng tin của ta mà Đức Kitô thực hiện điều kì lạ. Đức tin là điều kiện căn bản để nhận ơn lạ.
.
TẠI SAO PHẢI XIN THÊM LÒNG TIN?
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
Các Tông đồ đã được Đức Giêsu mạc khải nhiều lần về Ngài qua những lời giảng dạy và nơi các dấu lạ điềm thiêng. Ngài lại còn ban cho các ông quyền năng để dẹp trừ những thần ô uế và chữa lành bệnh tật (x. Mt 10, 1-2), nhằm củng cố niềm tin cho họ. Tuy nhiên, vì mang trong mình thân phận con người, các Tông đồ thấy có những lúc còn quá yếu đuối, nên các ông mới cất tiếng xin với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5).
Lời cầu xin này toát lên nỗi trăn trở trước sứ mạng và sự lo sợ trước những thách đố lớn lao của sứ vụ mà các Tông đồ sẽ đón nhận sau này. Đây cũng là tâm tình của mỗi chúng ta ngày hôm nay.
- Tại sao phải xin thêm lòng tin?
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lời cầu xin đó của các Tông đồ cho thấy đức tin không phải do cố gắng của con người mà đạt được, nhưng nó được xuất phát từ Thiên Chúa và do tình thương của Ngài. Vì vậy, Ngài trao ban cho ai tùy ý. Hệ quả chân thực của đức tin chính là lòng kiên trì, trung thành, can đảm và phó thác nơi Thiên Chúa (x. Mt 6, 25 -34).
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó của đức tin: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Lời cầu xin này được cất lên phát xuất từ con tim của các Tông đồ. Các ông được chứng kiến nhiều phép lạ Thầy mình đã làm, nhưng cũng cảm nghiệm được sự khó khăn, phức tạp trong quá trình loan báo Nước Trời của Đức Giêsu. Đồng thời, các ông cũng thấy được trách nhiệm quá lớn lao nơi sứ vụ mà rồi đây các ông sẽ tiếp nhận. Bên cạnh đó là những đòi hỏi quá khắt khe của luật mới nơi người môn đệ Đức Giêsu. Vì thế, các ông không khỏi những lo lắng trước trách nhiệm to lớn đó. Các ông xin Chúa ban thêm lòng tin là để giúp các ông đứng vững trước mọi cuồng phong bão tố trên hành trình loan báo Tin Mừng và để xứng đáng trong tư cách là người môn đệ chân chính.
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5) còn là một cách minh chứng cho thấy đức tin của các ông chưa đủ lớn. Và như thế, không thể đối diện với những nghịch cảnh trên hành trình theo Chúa cũng như loan truyền sứ vụ. Một cách gián tiếp, chúng ta nhận thấy các Tông đồ đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Khó khăn lớn nhất đối với các ông lúc này là thử thách về niềm tin vào chính con người Đức Giêsu. Có lẽ các ông ít nhiều vẫn mang trong mình những tâm trạng hoài nghi và tự hỏi về vị Thầy mà các ông đã bỏ mọi sự để đi theo: Đức Giêsu này có phải là Đấng mà muôn dân mong đợi hay không? Tại sao Ngài là Thiên Chúa mà vẫn chấp nhận bị người ta xua đuổi, khinh thường…? Tại sao Ngài không thiết lập và tổ chức triều đình để đem lại sự giàu sang, phồn thịnh cho nhân loại…?
Đức Giêsu thấy được tâm trạng hoang mang cũng như cái tôi ích kỷ của họ nổi lên, điều này được biểu hiện qua việc tranh nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời, rồi bà mẹ của Giacôbê và Gioan đến xin cho một ngồi bên tả, một bên hữu…! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã dạy cho họ bài học yêu thương, khiêm tốn và phục vụ. Thật thế, đức tin phải đi đôi với việc làm, nghĩa là phải “hoạt động qua đức ái” (Gal 5,6) vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17). Đức tin đi đôi với sự trung thành phục vụ (x. Ga 12,26). Đức tin không phải để khoe khoang. Vì thế, Đức Giêsu đã lấy hình ảnh người tôi tớ trong vai trò phục vụ để giáo huấn cho các ông bài học về sự khiêm tốn trong phục vụ: “Ðối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
Như vậy, các ông thấy rõ những đòi hỏi của Đức Giêsu và nhận thấy con người mình yếu đuối, nên các ông cần thêm lòng tin để tin vào Chúa hơn, yêu người hơn, khiêm tốn hơn, và phục vụ cách vô vị lợi hơn.
- Sống Đức Tin trong đời thường
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Trong cuộc sống, ngoài xã hội, nơi thương trường, nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình bất lực hoặc hèn nhát không dám can đảm để làm chứng cho Chúa. Lý do là vì thiếu niềm xác tín nơi Chúa. Vì thế, lời cầu xin của cácTông đồ khi xưa cũng là lời cầu nguyện của mỗi chúng ta ngày hôm nay.
Quả thật, xã hội ngày hôm nay nhiều người sống rất vô cảm, ít tương trợ lẫn nhau, và nhiều khi còn cắn xé lẫn nhau, hệ quả xảy ra là: tham nhũng, bóc lột, đàn áp những người thấp cổ bé họng… đứng trước những bạo nạn đó, nhiều khi chúng ta thấy mình quá nhỏ bé nên không dám lên tiếng, không dám nói lên chính kiến của mình, không dám thể hiện một nghĩa cử liên đới với những anh chị em đang lâm nạn. Những lúc chúng ta cảm thấy bất lực vì sợ hãi như vậy, ấy là lúc chúng ta cần phải: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Câu nói của Karl Marx đáng để cho mỗi chúng ta suy nghĩ: “Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi đau đồng loại mà chăm chút bộ lông của mình”. Chớ trêu thay, sự thật này đang là chuyện rất bình thường trong một xã hội hiện đại. Chúng ta biết nó là không tốt, nhưng đôi khi chúng ta cũng sống không kém gì họ, hay không bao giờ dám đứng lên đi ngược dòng để tìm về sự thật và xây dựng tình liên đới chỉ vì sợ sự liên lụy. Đây chính là yếu đuối của chúng ta. Vì thế chúng ta hãy: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta xin Chúa mãi mà vẫn không được những ơn chúng ta xin. Những lúc đó, chúng ta hay phàn nàn trách móc Chúa vì Ngài không nhận lời. Ta thấy tâm trạng của mình lúc này có phần giống tiên tri Kha-ba-cúc trong bài đọc I, ông phải chịu đựng những điều nghiệt ngã tương tự: “Con la lên: Bạo tàn! Mà Ngài không cứu vớt”; “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu van mà Ngài chẳng đoái nghe?” (Kb 1,2-3). Tuy nhiên, chúng ta đâu biết được rằng: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7, 9-11). Chúng ta chưa nhận được là vì chưa có niềm tin đủ mạnh. Vì thế, chúng ta cũng cần: “Xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Trên thương trường, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ làm ăn bất chính. Vẫn biết là tội, nhưng nhiều người làm như thế, nếu chúng ta không thế thì không thể sống được, và chúng ta đã sẵng sàng thỏa hiệp với gian dối, để làm ăn bất chính. Những lúc như thế, chúng ta phải xin với Chúa như các Tông đồ: “Xin Thầy thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5).
Lạy Chúa Giêsu, lời cầu xin của các Tông đồ khi xưa cũng là lời cầu xin của chúng con ngày hôm nay: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con”, để chúng con vững bước trên con đường theo Chúa và sẵn sàng thi hành sứ vụ Chúa trao phó. Amen.
.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1–. Người ta muốn liên kết cc.5-6 với các phần trước, như thế các tông đồ, vì cảm thấy khó thi hành toàn vẹn việc tha thứ các điều xúc phạm đến mình, đã xin Chúa Giêsu thêm đức tin để vượt thắng khó khăn đó. Nhưng không chắc là có tương quan đó và cũng không chắc là tác giả phúc âm bàn đến chủ đề mới mà không có câu chuyển mạch. Chữ và (kai) ở đầu c. xem ra khẳng quyết ý tưởng đó.
2–. “Xin thêm lòng tin cho các con”. Về phía các tông đồ, là những người có sứ mệnh mở rộng Nước Thiên Chúa, lời cầu xin này rất hợp thời (cũng xin rất hợp thời đối với tất cả mọi tông đồ hiện đại và mọi Kitô hữu). Đức tin mà các Ngài ao ước hằng tăng trưởng không phải chỉ là một liên kết thuần tri thức vào sứ điệp cứu rỗi Chúa Giêsu mang đến, nhưng là niềm xác tín đặc biệt và tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, Đấng sẽ ban cho nó sứ mệnh loan truyền tin mừng trong thế giới qua việc rao giảng và làm phép lạ. Đó là đức tin toàn diện, là ân huệ căn bản của ơn cứu độ.
Câu Chúa Giêsu trả lời có thể hiểu hai cách:
a/ Khi xin thêm lòng tin, các tông đồ đã nói đến bằng các từ ngữ chỉ lượng tính điều phải được định giá bằng phẩm tính. Có lẽ Chúa Giêsu muốn sửa sai cái nhìn đó: khi có đức tin đích thực, toàn diện, thì vấn đề lượng tính không quan trọng; nhưng nếu chỉ có một số lượng đức tin nhỏ nhoi như hạt cải, người ta cũng đủ năng lực để hoàn tất các công việc xem ra không thể làm được.
b/ Khi xin thêm lòng tin, các tông đo nhắm đến niềm tin – phó thác hoàn toàn của một tín hữu hoàn thiện. Câu Chúa Giêsu trả lời có lẽ cho thấy các Ngài đã có lý khi nghĩ rằng một đức tin như thế thật đáng ước ao chừng nào vì đức tin đó thật mạnh mẽ, quyền uy. “Nếu các con có đức tin lớn như hạt cải”, nếu các con có được một chút đức tin toàn thiện mà các con cầu xin, điều đó đã đủ để cây dâu tróc rễ, xuống mọc dưới biển, theo lệnh các con truyền… Vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được.
Khó mà theo cách chú giải nào. Dù sao, hình như tác giả muốn nhấn mạnh đến phẩm tính của đức tin hơn là lượng tính, vì ông đã cố ý lựa một hình ảnh thật qua đáng (hạt cải chỉ lớn bằng đầu cái kim). Một sự phó thác dù nhỏ mọn đến đâu, miễn là được thể hiện trong đức tin, có thể chiếm hữu được nhiều điều lớn lao do Thiên Chúa ban. Cây dâu là một cây đại thụ: rễ rất lớn, có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác đích thực vào Thiên Chúa cũng có thể bứng cây dâu này khỏi đất để mọc trong lòng biển Galilea.
Mt 17,20 và Mc 11,23 diễn tả cùng một giáo huấn này, bằng nhiều câu khác biệt, ví dụ thay cây dâu bằng hình ảnh một ngọn núi tróc chân và xuống mọc dưới biển. Tuy nhiên những lời đó không có nghĩa theo lối tả chân đó. Phải hiểu chúng trong một nghĩa rộng rãi hơn. Những lời đó cho thấy phép lạ vĩ đại nhất của lòng tin sẽ được thể hiện nhờ vào sức mạnh chinh phục của Phúc âm, phép lạ đó không những chỉ dời cây dâu hay ngọn núi, nhưng toàn thế giới. Dù sức mạnh ấy chỉ ở trong con người, và con người chỉ ở trong một góc bé nhỏ của vũ trụ, sức mạnh của đức tin sẽ chiếu sáng bằng những chuỗi công trình kỳ diệu. Một Kitô hữu đích thực bất cứ ở đâu cũng là một sức mạnh. Môi trường của người Kitô hữu đó sẽ thế nào nếu người đó là một vị thánh? Vì thế cha sở xứ Ars đã nói với Đức Giám mục của Ngài: để biến đổi toàn giáo phận, chỉ cần đặt ở mỗi xứ một cha sở thánh thiện là đủ.
3–. Lc đặt dụ ngôn về “người tôi tớ hèn mọn” trong một loạt câu chuyện xem ra không liên hệ gì với nhau. Các câu chuyện này tản mác nhiều chỗ trong Mt và Mc.
“Nào ai trong các ông …” là câu hỏi đưa ra cách tổng quát một sự kiện thường có trong cuộc sống hàng ngày, trong đó có nhiều điểm để so sánh. Lý chứng cho thấy câu chuyện Chúa Giêsu nói không phải là một ẩn dụ, nằm trong câu áp dụng (“các ông cũng thế…”). Rõ ràng là Chúa Giêsu so sánh hai toàn cảnh, chứ không lấy một thực tại này thay thế một thực tại kia. Trình thuật đưa ra trường hợp của ông chủ, còn việc áp dụng dựa trên các sự kiện thái độ của người tôi tớ: hình ảnh xem ra không được cân đối, nhưng có thể hiểu được nhờ một lý do tâm lý. Cử tọa đang nghe Chúa Giêsu rất có thể gồm những người nuôi tôi tớ, hơn là gồm chính những người tôi tớ. Vì thế ngài bắt đầu bằng câu: “Ai trong các ông, có một người tôi tớ”, chứ không nói: “Ai trong các ông là nông dân hay mục đồng…”
Dụ ngôn giới thiệu một ông chủ đã hai lần gặp thấy tôi tớ mình chu toàn tốt nhiệm vụ. Lần thứ nhất, khi người tôi tớ đi cày ruộng về hay dẫn gia súc của chủ từ đồng cỏ về. Phải chăng ông sẽ quên ai là chủ ai là tớ? Không, ông chủ sẽ đòi người tôi tớ tiếp tục phục dịch ông. Do đó người tôi tớ sẽ lo dọn bữa cho chủ trước khi nghĩ đến bản thân mình. Sau đó, người tôi tớ sẽ có quyền đòi thay đổi địa vị ? Không, chủ luôn luôn xem y như là tôi tớ của ông.
Người ta chờ câu áp dụng cho Thiên Chúa và câu áp dụng tương phản, như các dụ ngôn khác đã làm. Ông chủ trần thế đã xử sự như thế, còn Cha các con trên trời sẽ hành động khác. “Ông chủ sẽ làm gì ? Thật, Ta nói thật chủ sẽ thắt lưng, sẽ đặt người tôi tớ vào bàn tiệc, và đi lại hầu hạ nó” (theo cách nói của Lc 12,37).
Nhưng ở đây Chúa Giêsu không muốn đưa ra bài học về cách thức mà Cha trên trời tưởng thưởng các tôi tớ Ngài. Ngài muốn dạy các tôi tớ phải phục vụ trong tâm tình khiêm tốn nào? Như thế Chúa Giêsu đi từ việc quan sát ông chủ, đến việc chú ý đến người tôi tớ và so sánh dựa trên lối cư xử của người tôi tớ.
Theo tập tục thời đó, tôi tớ không được thuê làm ban ngày, nhưng vẫn ở nhà, thì không được tự do sử dụng thì giờ theo ý mình, ông luôn luôn bị đặt dưới sự xử dụng của chủ. Khi làm xong một công việc chủ trao người tôi tớ phải sắp sẵn để làm một việc khác. Ông luôn luôn là một tùy viên không khi nào vượt qua khỏi thân phận tôi đòi của mình.
Dù làm nổi bật ông chủ, dụ ngôn cũng mô tả vừa đủ thân phận người tôi tớ để đưa ra một cách áp dụng dựa trên thân phận đó. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng bao giờ vênh vang trước mặt Thiên Chúa như thể chúng ta có quyền đòi Thiên Chúa đặc biệt tưởng thưởng, sau khi đã làm xong một vài công việc; trái lại Ngài cho thấy chúng ta phải luôn ý thức thân phận tôi tớ của mình, và khi đã làm xong một việc gì, chúng ta phải vui lòng chấp nhận việc Chúa sẽ gởi công việc khác cho chúng ta thi hành. Dụ ngôn hoàn toàn không nhắm đến hậu kết của thái độ như thế (như trong Lc 12,37). Đây không phải là giáo huấn về thưởng phạt, nhưng là bài học khiêm tốn.
Bài học khiêm tốn này còn rõ ràng hơn nếu chúng ta dịch đúng tĩnh từ axhreios là chữ được ghép cho các tôi tớ trong bài học mà Chúa Giêsu rút từ c.10. Đa số các bài chú giải đều dựa trên bản dịch: “chúng tôi đều là những tôi tớ vô dụng”, và khai triển ý tưởng đó cho rằng các điều chúng ta làm đều vô ích trước mặt Thiên Chúa. Đây là một ý tưởng đúng về mặt siêu hình, nhưng không được dụ ngôn trực tiếp gợi ý. Vì trong dụ ngôn, người tôi tớ không phải là vô dụng đối với chủ. Làm sao có thể tuyên bố là vô dụng, một người tôi tớ sửa soạn bữa ăn, mang thức ăn của uống theo lệnh chủ? Người ta sẽ cho rằng tĩnh từ achreios chỉ áp dụng cho người tôi tớ của Thiên Chúa, vì với Thiên Chúa không ai là người hữu dụng thực sự; đúng thế, nhưng vì người tôi tớ đó của Thiên Chúa ở đây được so sánh với người tôi tớ trong dụ ngôn đâu có vô dụng.
Do đó, tĩnh từ achreios không có nghĩa là “vô dụng” mà còn có nghĩa “bản thân hèn kém, vô nghĩa, không đáng kể…”. Cho nên người tôi tớ, vì chỉ thực hành lệnh của chủ, nên không có tham vọng được chủ biết ơn hay tưởng thưởng: vì ông đơn thuần chỉ là một người tôi tớ; ông không làm gì hơn, ngoài việc bổn phận tôi tớ của mình. Đối với Thiên Chúa, con người không phải là người đồng hàng có thể tự do ký kết với Ngài các thỏa ước hay giao dịch trao đổi; cũng không phải là kẻ ngang hàng đã phục vụ Ngài vì tình bằng hữu, nên có quyền chờ đáp trả, vì con người chỉ là tôi tớ Thiên Chúa.
KẾT LUẬN
Người tông đồ phải phục vụ Thiên Chúa với tinh thần khiêm tốn như người tôi tớ, sau khi đã chu toàn ý của chủ, không nghĩ rằng mình làm một công việc phi thường. Các môn đệ Chúa Giêsu phải giữ mình đừng kiêu ngạo vì những công việc tông đồ của mình, và phải tự xưng mình chỉ là tôi tớ: điều này không muốn nói họ là những tôi tớ không làm được gì, vì Thiên Chúa sử dụng họ, nhưng là những tôi tớ không mấy kết quả, vì thế đừng vênh mặt vì các công việc mình đã làm như thể các công việc đó là những kỳ công tầy trời. Dù có làm được gì họ phải luôn nói: “Chúng tôi đã chỉ làm điều chúng tôi phải làm”.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1–. Lời cầu xin của các tông đồ “xin thêm lòng tin cho chúng con” cũng phải là lời cầu xin của chúng ta vào thời thử thách xao xuyến, như thời chúng ta đang sống cũng như trong bất cứ thời nào. Các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại làm chúng ta tiếp xúc nhiều với biết bao sự dữ và đau khổ, khiến chúng ta phải có một đức tin dồi dào, mới có thể nhìn thấy qua tất cả các sự kiện đó Nước Thiên Chúa đang từ từ được kiến tạo. Cũng như các tông đồ ngày xưa, chúng ta hãy xin Chúa thêm sức mạnh nội tâm cho chúng ta hôm nay.
2–. Qua việc so sánh với hạt cải, Chúa Giêsu không còn cách nào tuyệt hảo hơn nói lên tầm quan trọng và hiệu năng của đức tin. Nếu bạn có đức tin, dù rất khiêm tốn, như một hạt giống nhỏ bé nhất, một đức tin không có gì đáng kể, nhưng chỉ một tiếng bạn có thể làm trốc rễ một cây đại thụ và đem trồng dưới biển. Không còn cách nói nào hay hơn để mô tả sức sáng tạo và quyền thống trị của con người trên vạn vật, nhờ đức tin. Như thế đức tin làm cho con người được thông vào một quyền năng siêu nhiên. Quả thực, sau khi lời cầu xin của các tông đồ được chấp thuận do việc Thánh linh biến đổi nội tâm các Ngài dịp lễ hiện xuống, các Ngài đã làm chứng có một đức tin không những chỉ lay chuyển các cây cối, rừng rú, mà toàn thế giới.
3–. Dụ ngôn người tôi tớ chấm dứt bài phúc âm hôm nay. Không nhằm vẽ chân dung Thiên Chúa, nhưng muốn nói lên thái độ con người đối với Ngài. Phục vụ Thiên Chúa, chính là công việc của người tôi tớ. Thiên Chúa ra lệnh con người phải tuân nghe. Luật buộc phải vâng lời như là món nợ phải của con nợ. Thiên Chúa không mắc nợ ai, chính con người mới mắc nợ Thiên Chúa. Con người không có quyền đòi buộc Thiên Chúa gì hết, vì con người là kẻ mắc nợ. Thiên Chúa không phải trả lương, không cần biết ơn con người. Ngay cả khi người tôi tớ hoàn tất tốt mọi điều chủ đã ra, nó cũng chỉ làm việc nó phải làm. Tôi tớ là tôi tớ. Nếu vì lòng tốt Thiên Chúa muốn tưởng thưởng tôi tớ, điều đó chỉ lòng tốt của Ngài mà thôi; tôi tớ không có quyền đòi được thưởng công, vì nó chỉ làm điều nó phải trong thân phận tôi tớ.
4–. Các người Biệt phái (và ai trong chúng ta lại không có một chút đặc tính của người biệt phái trong tâm hồn mình?) quan niệm mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người dưới hình thức một khế ước: ăn miếng trả miếng, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Khi hoàn tất lề luật, khi chu toàn điều Thiên Chúa dạy, bấy giờ chúng ta đòi tưởng thưởng, được trả công. Dụ ngôn Chúa Giêsu loại bỏ cách suy nghĩ đó. Thiên Chúa không mắc nợ chúng ta, ngay cả lòng biết ơn. Con người chỉ là một tôi tớ hèn mọn. Trong bản văn Lc, dụ ngôn này, được kể cho các tông đồ nghe – dù các Ngài đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu (5,11) các Ngài đã vui lòng thực hiện các yêu sách tận căn đó. các tông đồ dù đã bỏ tất cả cũng chỉ có thể thưa lên: chúng con đã chỉ làm điều chúng con phải làm để trả nợ. Khi phục vụ Thiên Chúa, các Ngài là những tôi tớ hèn mọn, làm điều phải làm. Mọi Kitô hữu cũng phải bắt chước như thế, phải làm trọn bổn phận Kitô hữu của mình tốt hết sức có thể. Dĩ nhiên, một ngày kia họ sẽ được tưởng thưởng (và ngay đời này bằng sự bình an tâm hồn), nhưng họ biết rằng họ chả có quyền được hưởng như thế: phần thưởng chỉ do lòng tốt của Thiên Chúa mà thôi.
.
Trầm Thiên Thu
Cộng tác là cùng nhau chung tay góp sức làm một công việc nào đó, có thể không cùng chung một trách nhiệm nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm riêng phần mình. Công việc liên quan trách nhiệm, trách nhiệm liên quan con người hữu dụng hay vô dụng.
Người không chịu làm việc hoặc làm không xong phần việc được giao là người vô trách nhiệm, gọi chung là vô dụng – không có ích lợi gì cho cộng đồng, kể cả bản thân. Kẻ vô dụng là người vô tích sự, chẳng làm nên trò trống gì, chỉ thích sống bám người khác như loại ký sinh trùng nguy hại. Kẻ vô dụng là kẻ không ai ưa, chẳng ai thích, và bị người ta nguyền rủa: “Đồ vô dụng!” Kinh Thánh nói: “Hy vọng của đứa vô ơn bạc nghĩa tan chảy như sương giá mùa đông, trôi đi như dòng nước vô dụng.” (Kn 16:29)
Nhưng người dám tự nhận mình là “đồ vô dụng” (thật lòng, không giả vờ để được khen) thì hẳn là người khiêm nhường, thậm chí họ có thể là người đa năng và đa dụng. Đó là “phong cách” mà Chúa Giêsu dạy người ta không chỉ nên làm mà còn phải làm. Trong cuộc sống, người ta có thể cảm thấy mình vô dụng về một lĩnh vực nào đó. Cảm giác đó có thể là khiêm nhường, có thể là mặc cảm hoặc tự ti, cũng có thể do nhút nhát. Thật tốt khi biết khiêm nhường nhận mình là vô dụng, nhưng nên tránh cảm giác thấy mình vô dụng vì tự ti mặc cảm. Khi cảm thấy mình “yếu kém”, bất kỳ ai cũng cần được hỗ trợ hoặc cần được khuyến khích, động viên. Nhưng nếu cứng đầu cứng cổ, tôn sùng ngẫu tượng, thì đúng là vô dụng thật: “Dân xấu xa này không chịu nghe lời Ta, cứ ngoan cố cứng lòng, chạy theo các thần khác mà làm tôi và sụp lạy chúng; nó sẽ nên như chiếc đai lưng hoàn toàn vô dụng kia.” (Gr 13:10)
Chắc hẳn ngôn sứ Kha-ba-cúc là người thẳng thắn, ông không chịu nổi những điều chướng tai, gai mắt, nên ông thắc mắc với Thiên Chúa: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: ‘Bạo tàn!’ mà Ngài không cứu vớt?” (Kb 1:2) Tình thẳng thắn nên ông cảm thấy “khó chịu” trước những điều ác cứ xảy ra hằng ngày: “Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy TRANH CHẤP và CÃI CỌ. Vì thế, Luật không được tuân giữ, CÔNG LÝ CHẲNG CÒN thấy xuất hiện, vì kẻ gian ác bủa vây người công chính nên chỉ còn thứ công lý vạy vọ.” (Kb 1:3-4) Một dạng khổ rất đặc biệt của những người thẳng thắn. Tuy nhiên, thẳng thắn cũng cần phải khéo léo nữa, kết hợp giữa cương và nhu.
Ở cái cõi trần gian này thì thời nào cũng có bất công – khác chăng là về mức độ, đặc biệt là ở thời chúng ta đang sống ngày nay. Người có tính bộc trực, thích thẳng thắn thì không thể đứng lặng hoặc ngồi yên, thế nên họ bức xúc mà phải nói, đôi khi chịu thiệt thòi. “Thuận ngôn” luôn gây “nghịch nhĩ” và lời thật cũng thường làm mất lòng. Họ nói ra thì bị ghét, bị kèn cựa, bị trù dập. Thế gian quá nhiêu khê: “Dốt nát thì bị khinh, thông minh thì bị ghét.” Kiểu nào cũng khổ. Không làm sao có thể làm vừa lòng mọi người. Nhưng thà bị ghét chứ không chịu bị khinh. Cuộc đời có dạng “thực tế buồn” mà người ta thường nói: “Thẳng thắn thường thua thiệt, lươn lẹo lại lên lương.” Chính Chúa Giêsu đã nói rồi: “Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng.” (Lc 16:8) Khôn ngoan đó là khôn lỏi, khôn xảo. Tại sao vậy? Bởi vì sự công chính là kẻ thù của ma quỷ, bóp méo sự thật, bẻ cong điều thẳng thắn. (x. Cv 13:10)
Đừng lo lắng hoặc sợ hãi, cứ vững tin và vui mừng vì chúng ta có luôn có Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ nên hữu dụng chứ không vô dụng. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Niềm vui của tín nhân là thế, bởi vì “Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8b)
Thiết tưởng, đừng bao giờ thần tượng bất kỳ ai. Thần tượng người hoặc vật gì là tự biến mình thành nô lệ. Chỉ có Thiên Chúa mới chính là Thần Tượng của chúng ta mà thôi: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:6-7) Thánh Vịnh gia nói “ước gì”, nhưng thật ra là chính bổn phận và nhiệm vụ của chúng ta. Thiên Chúa vừa khuyên nhủ vừa khuyến cáo: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:8-9) Có nhiều kiểu cứng lòng, mỗi người mỗi kiểu và với mức độ khác nhau. Chúng ta vẫn phạm tội phản nghịch Ngài vì còn cứng lòng chứ chưa mềm lòng.
Thánh Phaolô hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của Timôthê, nhờ lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít và nơi bà cố Êu-ni-kê (ngoại và mẹ của Timôthê), và nói: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy ĐỒNG LAO CỘNG KHỔ với tôi để loan báo Tin Mừng.” (2 Tm 1:6-8) Đó là công vụ, là nhiệm vụ chung của mọi người. Ai cũng có trách nhiệm cộng tác bằng cách nào đó theo hoàn cảnh và khả năng của mình – mà khả năng đó là do Chúa ban chứ tự mình chẳng làm được gì. (x. Ga 15:5)
Quả thật, Thánh Phaolô giải thích chi tiết và rõ ràng: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.” (2 Tm 1:9-10) Đồng thời thánh nhân xác định trách nhiệm của mình: “Thiên Chúa đã đặt tôi làm người rao giảng Tin Mừng đó, làm tông đồ và thầy dạy.” (2 Tm 1:11) Nhận biết ý Chúa và ý thức trách nhiệm là điều tuyệt vời nhưng không dễ chút nào.
Có nhiều thứ đối lập, cụ thể là ánh sáng – bóng tối. Người nào hướng về ánh sáng thì đối nghịch với bóng tối – và ngược lại, lẽ tất nhiên là vậy, vì hai thứ không thể nhìn chung hướng với nhau. Thánh Phaolô giải thích: “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó. Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Kitô Giêsu, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.” (2 Tm 1:12-14)
Và rồi một hôm, các môn đệ thưa với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” (Lc 17:5) Ngài nói với họ: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” (Lc 17:6) Lời cầu xin đức tin rất cần thiết, nhưng đôi khi chúng ta thường quên, hoặc cho rằng đó là chuyện tất nhiên.
Quả thật, đức tin vô cùng quan trọng – mọi nơi và mọi lúc. Khi thấy cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu nguyền rủa nó và nó chết khô, Ngài xác định với các môn đệ về tầm quan trọng của đức tin: “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em TIN và KHÔNG CHÚT NGHI NAN thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: ‘Dời chỗ đi, nhào xuống biển!’, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.” (Mt 21:21-22) Đức tin thật là kỳ diệu!
Không chỉ vậy, Ngài còn phân tích chi tiết và rất cụ thể: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau’? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?” (Lc 17:7-9) Đặc biệt hơn, Ngài căn dặn rằng khi chúng ta đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: “Chúng tôi là những ĐẦY TỚ VÔ DỤNG, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (Lc 17:10) Một dạng khiêm nhường cần thiết. Mà đúng như vậy, bởi vì tất cả những gì chúng ta có được cũng đều là hồng ân của Thiên Chúa.
Nhận mình vô dụng là một động thái “nhỏ” nhưng lại rất khó thực hiện, nếu thật lòng mà nói thì đã là khó rồi, huống chi là hành động thật, bởi vì Cái Tôi không “cho phép” làm vậy. Mở ngoặc nhỏ: Có lẽ “cái tôi” của người Anh Mỹ “lớn” hơn, bởi vì chính mình luôn viết hoa là “I”, không bao giờ viết thường, dù đứng bất cứ vị trí nào trong câu. Ghê thật!
Khi nói gì hoặc làm gì, ai cũng muốn nhiều người biết, thậm chí người ta còn “nổ” dù làm chi chẳng ra hồn. Tay trái làm mà không cho tay phải biết thì chắc là… “khó chịu” lắm. Thực tế đã và đang có nhiều “cấp độ” về bảng vàng, bằng ân nhân, giấy chứng nhận,… Chuyện nhỏ mà hóa chuyện lớn chứ chẳng đùa đâu. Chắc chắn phải thực sự khiêm nhường thì mới khả dĩ nhận mình là “vô dụng” theo phong cách của Thầy Giêsu chí thánh.
Thật tuyệt khi Thánh Vịnh gia thân thưa: “Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng lạy Chúa, xin đừng, nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương.” (Tv 115:1) Lời cầu nguyện thật khiêm nhường và tốt đẹp biết bao!
Lạy Thiên Chúa, con thực sự vô dụng nhưng không muốn nhận như vậy, mà chỉ muốn tự tôn rởm. Xin Ngài thương ban ơn biến đổi để con biết sống khiêm nhường, dám nhỏ lại để Ngài được nổi bật, xin làm cho trái tim chai cứng của con trở thành mềm mại và chứa đầy máu hồng trắc ẩn, nhờ đó mà con có thể trở thành cộng tác viên của Ngài, trở nên con người theo đúng Thánh Ý Ngài, để hữu dụng cho mọi người và cho chính con nữa. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 27 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII Thường Niên Năm C nêu bật chủ đề về sức mạnh của đức tin được chứng thực ở nơi lòng thành tín.
Kb 1: 2-3; 2: 2-4
Ngôn sứ Kha-ba-cúc mời gọi hãy gìn giữ đức tin và lòng thành tín đối với Thiên Chúa, thậm chí ngay khi trí khôn phàm nhân của chúng ta không thể nào hiểu thấu những ý định khôn dò của Thiên Chúa đi nữa.
2Tm 1: 6-8, 13-14
Thánh Phao-lô khuyên ông Ti-mô-thê hãy gìn giữ đức tin cho thật tinh tuyền và vô tỳ vết trong việc trung thành tuân giữ lời cam kết và công bố toàn vẹn Tin Mừng.
Lc 17: 5-10
Bài học của Tin Mừng hôm nay là phải ra sức tăng trưởng đức tin của mình và trung thành phục vụ Thiên Chúa một cách vô vị lợi.
BÀI ĐỌC I (Kb 1: 2-3; 2: 2-4)
Sách Kha-ba-cúc là một trong những sách Cựu Ước ngắn nhất, chỉ vọn vẹn có ba chương: hai chương đầu theo hình thức đối thoại giữa vị ngôn sứ và Thiên Chúa, còn chương thứ ba là một thánh vịnh. Nhưng sách này nêu lên một vấn đề căn bản: sự chiến thắng của sự dữ và sự im lặng của Thiên Chúa.
- Bối cảnh
Chúng ta không biết chút gì về thân thế của vị ngôn sứ này, tuy nhiên bản văn cho phép chúng ta định vị niên biểu sứ điệp của ông vang lên vào năm 600 trước Công Nguyên. Đây là thời kỳ Tân Ba-by-lon chiến thắng đế quốc Át-sua: phá hủy kinh thành Ni-ni-vê vào năm 610 trước Công Nguyên và tiếp tục bành trướng thế lực của mình cho đến tận miền Pa-lét-tin. Ngôn sứ Kha-ba-cúc tiên báo cuộc xâm lăng này, vì thế ông ghi lại sứ điệp của ông giữa những cuộc xâm lăng và vây hãm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào những năm 598-597 trước Công Nguyên.
Bản văn được trích dẫn hôm nay chỉ thuật lại câu hỏi đầu tiên của vị ngôn sứ (1: 2-3) và câu trả lời thứ hai của Thiên Chúa (2: 2-4) trong cuộc đối thoại giữa vị ngôn sứ và Thiên Chúa. Để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ theo đuổi diễn tiến toàn bộ tác phẩm này.
- Thiên Chúa im lặng (1: 2-3)
Kha-ba-cúc chứng kiến chung quanh ông chỉ toàn là cảnh bạo lực, cướp bóc, tàn phá và khổ đau. Ông cầu xin Thiên Chúa ra tay cứu độ, nhưng Thiên Chúa không trả lời, như thể Ngài chẳng đoái hoài đến dân tình thế sự.
Những lời than van của con người trước việc sự ác hoành hành và sự im lặng của Thiên Chúa thường được phát biểu trong Kinh Thánh: những tiếng than van nhiều lần của các thánh vịnh gia, của ông Gióp trên giường khổ đau, của ngôn sứ I-sai-a: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống…” (Is 63: 19).
Câu trả lời của Thiên Chúa cho Kha-ba-cúc giúp cho hiểu rằng Thiên Chúa để cho con người cứ mặc sức tự tung tự tác chừng nào có thể, nhưng rồi Thiên Chúa sẽ ra tay khi cho một dân tộc khác dấy lên chống lại dân tộc này:
“Này Ta khiến cho dân Can-đê nổi lên,
một dân hung hăng tàn bạo;
nó rảo khắp mặt đất mênh mông
để chiếm đoạt nhà cửa không phải của mình” (1: 6).
Lúc đó, vị ngôn sứ hỏi Thiên Chúa về số phận mà Ngài dành cho kẻ gian ác, những kẻ vênh vang tự đắc về sự chiến thắng của mình, trong khi người công chính thường bị đè bẹp nghiền nát. Ông tìm kiếm lý do tại sao Thiên Chúa không can thiệp và nêu lên câu hỏi thứ hai:
“Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền
không thể chịu được điều gian ác,
Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn cùng,
tại sao Thiên Chúa cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh
khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?” (1: 13).
- Kiên nhẫn và trung tín (2: 2-4)
Câu trả lời của Thiên Chúa cho câu hỏi thứ hai của vị ngôn sứ là chính yếu; nó là trọng tâm sứ điệp của sách Kha-ba-cúc. Chính Thiên Chúa mặc lấy cho câu trả lời này một tính cách long trọng:
“Đức Chúa trả lời và nói với tôi: ‘Viết lại thị kiến
và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được cho xuôi chảy” (2: 2).
Thị kiến này sẽ ứng nghiệm vào thời được ấn định không một chút sai chạy. Nếu nó chậm tới, người công chính phải đợi chờ một cách thành tín:
“Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục,
còn người công chính sẽ được sống,
nhờ lòng thành tín của mình” (2: 4).
Thánh Phao-lô trích dẫn đến hai lần bản văn Kha-ba-cúc này để hỗ trợ cho luận đề của thánh nhân về ơn công chính hóa nhờ đức tin: “Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được cứu sống” (Rm 1: 17) và “Vả lại, không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Gl 3: 11). Tác giả thư gửi tín hữu Do thái cũng trích dẫn bản văn này: “Người công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta không hài lòng về người ấy” (Dt 10: 38).
Thật ra, từ Hy-lạp: “pistis” này, cũng như từ La-tin “fides”, đều có hai nét nghĩa: “đức tin” và “lòng thành tín”. Kha-ba-cúc nhấn mạnh lòng thành tín, nghĩa là người công chính phải kiên trung bền vững trong đức tin bất chấp những tăm tối mà đức tin này phải đối mặt. Trong khi đó, những lời trích dẫn của bản văn Kha-ba-cúc trong Tân Ước lại nhấn mạnh đức tin hơn lòng thành tín.
BÀI ĐỌC II (2Tm 1: 6-8, 13-14)
Đây là bức thư cuối cùng của thánh Phao-lô vào lúc thánh nhân bị giam cầm một cách nghiêm ngặt ở Rô-ma. Thánh nhân nhận thức rất rõ số phận đang chờ đợi mình: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi” (4: 6). Như vậy, bức thư này một cách nào đó là di chúc tinh thần của thánh nhân. Thánh Phao-lô ngỏ lời với người cộng tác viên thân yêu của ngài bằng cung giọng thân tình trìu mến, nhưng cũng đầy tính kiên quyết của ngài. Thánh nhân để hết tâm huyết của mình vào những lời khuyên bảo này. Ông Ti-mô-thê xem ra đã là một người nhút nhát, thêm nữa bị tác động bởi những chướng ngại nổi lên trong Giáo Đoàn Ê-phê-xô, mà thánh Phao-lô đã giao phó cho ông trách nhiệm coi sóc.
- Thần Khí đầy sức mạnh
“Anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh”. Động từ Hy-lạp được dịch ở đây là “khơi dậy”, thực ra có nghĩa “khơi lên ngọn lửa trong lòng”, tức là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mà ông Ti-mô-thê đã lãnh nhận vào lúc ông được thụ phong. Thần Khí này “không là một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh”. Lời khuyên khởi đầu này cho hiểu rằng những căng thẳng đã trở nên nghiêm trọng và ông Ti-mô-thê phải trở nên kiên quyết hơn đối với những lạc thuyết.
- Thần Khí đầy lòng mến
Những lạc thuyết này vì gây nên những bất đồng nên không thể phát xuất từ đức mến được, như thánh Phao-lô đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Khi đi Ma-kê-đô-ni-a, tôi đã khuyên anh ở lại Ê-phê-xô để anh truyền cho một số người đừng dạy một giáo lý khác…; những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết. Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình” (1Tm 1: 3-5). Ông Ti-mô-thê phải ra sức làm cho đức ái Ki-tô giáo ngự trị trong cộng đoàn.
- Thần Khí biết tự chủ
Từ ngữ được dùng ở đây “biết tự chủ” thuộc từ vựng khôn ngoan Hy-lạp; nó gợi lên phẩm chất của một tinh thần vừa biết tự kiềm chế chính mình trước sự sợ hãi hay đam mê vừa biết uốn nắn chính mình. Đối với ông Ti-mô-thê đây là tất cả chương trình hành động. Khi thực hành nhân đức này, ông sẽ làm tan biến những lạc thuyết mà xuống dưới vài dòng thánh Phao-lô sẽ xác định là “những chuyện nhảm nhí, trống rỗng” (2: 16).
- Biết làm chứng và chịu đau khổ
Thánh nhân nhấn mạnh rồi trong thư thứ nhất của ngài gửi cho Ti-mô-thê về tầm quan trọng của lời chứng, lời tuyên xưng đức tin trước các chứng nhân; thánh nhân thêm vào đây giá trị của sự đau khổ: “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác quyết rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó” (2Tm 1: 12). Ông Ti-mô-thê chắc chắn phải chịu đau khổ nhiều lắm vì những bất đồng nội bộ trong cộng đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô xin ông hãy kết hiệp những đau khổ của ông với sự đau khổ của thánh nhân – sự đau khổ của một tù nhân bị giam cầm – và nghĩ đến sự hữu hiệu tinh thần của ông và ngài: những đau khổ của họ làm cho lời loan báo Tin Mừng được trổ sinh nhiều hoa trái.
TIN MỪNG (Lc 17: 5-10)
Theo văn mạch của Tin Mừng Lu-ca, Chúa Giê-su tiếp tục giáo huấn các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem; nhiều lần Ngài đưa ra những yêu sách đối với những ai muốn bước đi theo Ngài. Đoạn trích chương 17 này là đoạn văn cuối cùng về đề tài này, không kém phần nghiêm khắc. Thánh Lu-ca đặt vào trong bối cảnh các môn đệ xin Chúa Giê-su thêm lòng tin cho họ.
- Đức tin
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Danh xưng “Tông Đồ” thì hiếm trong các sách Tin Mừng. Thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô và thánh Gioan dùng danh xưng này chỉ một lần; họ tránh dùng danh xưng này vì nó có nghĩa “người được sai đi” mà chỉ một mình Chúa Giê-su mới xứng đáng tước hiệu này: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai phái. Thánh Lu-ca dùng danh xưng “Tông Đồ” này sáu lần, nhưng có chủ ý, trong vài trường hợp. Vì thế, chúng ta được báo trước rằng câu chuyện này thì quan trọng.
Cả ba thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô và thánh Lu-ca đều thuật lại việc Chúa Giê-su chữa lành một em bé bị quỷ ám mà các môn đệ đã bất lực. Tại Mát-thêu, các môn đệ ngạc nhiên nên hỏi Chúa Giê-su: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?”. Chúa Giê-su trả lời: “Tại anh em kém tin” (Mt 17: 20). Tại Mác-cô, chính cha của đứa trẻ xin Chúa Giê-su cứu giúp khi thốt lên: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” (Mc 9: 24).
Có lẽ chính vào dịp thất bại này hay thất bại tương tự khác mà các Tông Đồ đã bày tỏ lời thỉnh nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Tuy nhiên, những ngôn từ được chọn lựa, cung giọng được ban cho lời thỉnh nguyện này, hướng tư tưởng về thời hậu phục sinh. Trước biến cố Phục Sinh, các sách Tin Mừng trình bày đức tin như một ân ban của Chúa Cha. Như vậy, sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô, Chúa Giê-su công bố: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Gần trước cuộc Thương Khó, Chúa Giê-su còn công bố cho thánh Phê-rô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22: 32).
Vì thế, xem ra khả dĩ hơn rằng lời thỉnh nguyện được thánh Lu-ca trích dẫn ở đây đã được ngỏ lời với Đấng Phục Sinh (vì thế, mới có những lời “Lạy Chúa”, “các Tông Đồ”). Thánh Lu-ca tham dự trước viễn cảnh hậu Phục Sinh, viễn cảnh Giáo Hội thường hằng lộ ra trong Tin Mừng của thánh nhân. Chính là Giáo Hội được mời gọi cầu nguyện với Đức Giê-su là “Chúa”, xin Ngài thêm lòng tin cho mọi chi thể của Ngài.
- Sức mạnh của đức tin
Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp lời thỉnh nguyện của các môn đệ Ngài. Nhưng nếu chúng ta cho lời thỉnh nguyện này một âm vang hậu phục sinh khi biện minh rằng thánh Lu-ca đặt ở đây những lời của Chúa Giê-su mà thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô trích dẫn trong một bối cảnh khác (x. Mt 13: 32; Mc 4: 31). Với những người sắp đảm nhận một công việc bao la là nâng dậy thế giới, Chúa Giê-su công bố rằng nếu anh em có lòng tin thì không gì là không thể, ngay cả truyền cho một cây cổ thụ có gốc rễ bám sâu trong lòng đất, mà xuống mọc dưới đáy biển đi nữa. Đức tin có quyền năng biến đổi mọi sự.
- Phục vụ Thiên Chúa một cách vô vị lợi
Dụ ngôn tiếp theo sau không có mối liên hệ trực tiếp với giáo huấn đi trước; chắc hẳn dụ ngôn này nguyên thủy đã là độc lập. Tuy nhiên, sau lời dạy gợi ý về những điều kỳ diệu mà những người có lòng tin có thể thực hiện, Chúa Giê-su hạ xuống sự kiêu hãnh tiềm tàng của các môn đệ.
Bức tranh mang đậm nét miền Pa-lét-tin. Một nông dân, tiểu điền chủ, chỉ có một người nô lệ. Người nô lệ phải làm hết mọi việc trong nhà ngoài đồng của chủ. Dù phải mệt nhọc sau một ngày làm việc vất vả ngoài đồng, người nô lệ không được yêu sách bất cứ điều gì, dù nghỉ ngơi hay ăn uống, trước khi phục vụ chủ mình. Đó là bổn phận của một người nô lệ phải có đối với chủ mình. Dụ ngôn thì rắn rỏi, nhưng ý nghĩa thì rõ ràng: những ai cam kết phục vụ Thiên Chúa, thì phải phục vụ cách khiêm tốn: “Khi đã làm tất cả những gì theo mệnh lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”, nghĩa là đừng tự cho mình là cần thiết.
- Bữa ăn
Tại sao Chúa Giê-su lại đưa ra một ví dụ về một bữa ăn như sự phục vụ tối hậu của người nô lệ đối với chủ mình sau khi kết thúc một ngày làm việc vất vả nhỉ? Đây không phải nhằm quy chiếu đến một bữa ăn khác sao? Thánh Lu-ca thích bức tranh bộ đôi, thậm chí nếu hai bức tranh không được kể ra trong bản văn của mình. Ở chương 12, trong bài diễn từ về việc phải sẵn sàng luôn, Chúa Giê-su gợi lên những người đầy tớ trung thành tỉnh thức đợi chủ trở về trong đêm khuya: “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12: 37). Ở bàn tiệc cánh chung, chính Thiên Chúa đích thân phục vụ những tôi trung của Ngài… Nhưng trước đó, người tôi trung phải chứng tỏ là mình phục vụ Ngài một cách khiêm tốn và vô vị lợi.
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Đức tin có một sức mạnh thật kỳ diệu. Các tác giả Tin Mừng đã chứng minh với chúng ta điều đó. Đối với những ai đến với Chúa và tín thác nơi Ngài, họ nhận được những ơn lạ lùng vượt xa sự mong đợi.
Một người bất toại đã lâu năm, nay chỉ mong có thể cử động đi lại. Khi gặp gỡ Chúa và được Người chữa bệnh, ông đã trở nên khỏe mạnh, không chỉ đi lại được như mọi người, mà ông còn vác chõng mà đi, trước sự kinh ngạc của mọi người (x. Mc 2,3-12). Một người mù từ bẩm sinh, chỉ ước mong con mắt mình sáng để được nhìn thấy mọi người và mọi vật xung quanh. Khi được Chúa chữa, anh không chỉ sáng con mắt thể xác, mà còn sáng cả con mắt tâm hồn. Anh được Ngài soi lòng mở trí để hiều biết những điều cao siêu. Những suy tư về sự thánh thiện và tội lỗi của người mù vừa được chữa lành, xem ra còn khôn ngoan hơn cả những người biệt phái và luật sĩ (x. Ga 9,1-41). Một người què, đi lại khó khăn, chỉ mong được bước đi như những người khác. Nhờ tác động và quyền năng của Chúa, thông qua trung gian của hai vị tông đồ là Phêrô và Gioan, không những anh có thể đi lại được, anh còn “vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa”. Tác giả sách Công vụ Tông đồ trình bày anh giống như một vũ công, múa nhảy ca hát để tỏ bày niềm vui trước những điều lạ lùng Thiên Chúa vừa thực hiện (x. Cv 3,1-10). Một phụ nữ tội lỗi cả thành đều biết tiếng, qua cuộc gặp gỡ với vị ngôn sứ có tên là Giêsu, chị đã sám hối ăn năn và trở nên con người mới. Không chỉ được hội nhập vào xã hội, chị còn trở nên một nữ tông đồ năng động nhiệt thành và là người đầu tiên loan báo Chúa đã phục sinh (x. Lc 8,2).
Đức tin có thể mang lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Những điều kỳ diệu ấy đến từ quyền năng của Chúa. Ngài là chủ vũ trụ, là nguyên lý của mọi nguyên lý. Quyền năng của Chúa bao trùm vũ trụ và cuộc sống con người. Trong xã hội văn minh hiện đại, con người lầm tưởng rằng họ có thể thay thế Thiên Chúa. Ý tưởng điên rồ này đã phải gánh lấy thất bại đắng cay. Một khi gạt bỏ Thiên Chúa khỏi cuộc sống, điều còn lại sẽ là bạo lực, hận thù và tội ác.
Những điều kỳ diệu của đức tin cũng đến từ nỗ lực cố gắng của con người. Đức Giêsu đã nói đến hiệu quả của đức tin: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được” (Mt 17,20). Hạt cải thật nhỏ bé và núi đồi lớn lao. Đó là hai hình ảnh tương phản nhau. Sự tương phản ấy càng làm nổi bật sức mạnh của đức tin. Tác giả thư Do Thái đã nhắc đến gương mẫu đức tin của các Tổ phụ và những nhân vật của lịch sử dân tộc, đã nhờ đức tin mà họ vượt lên biết bao gian nan thử thách để trung thành với Chúa và thực hiện tốt đẹp những sứ vụ Chúa trao (x. Dt 11). Họ là những người đã cộng tác với Chúa, nỗ lực làm cho đức tin sinh hoa kết trái nơi cuộc đời của họ cũng như nơi tha nhân. Nếu được liệt kê vào danh sách những gương mẫu đức tin trong thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta sẽ nói đến các thánh tử đạo Việt Nam. Đức tin là bí quyết đem lại cho các ngài sức mạnh. Các ngài là những người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau: từ những quan lại trong triều đình đến những nông dân chân lấm tay bùn; từ những người giàu có đến những người nghèo nàn cơ khổ. Tất cả đều tìm được nguồn sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa, thà hy sinh mọi sự còn hơn là mất ơn nghĩa với Chúa. Họ chấp nhận đánh đổi tất cả để được sự sống đời đời. Sức mạnh của đức tin kỳ diệu là thế.
Sức mạnh của đức tin còn thể hiện qua sự gắn bó của người tín hữu đối với Giáo Hội. Giáo Hội là bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Giáo Hội là chiếc thuyền chuyên chở các tín hữu đến gặp gỡ Chúa, đồng thời cũng chuyên chở Chúa đến gặp Dân của Ngài. Lịch sử hai ngàn năm đã chứng minh sức mạnh của Giáo Hội. Mặc dù thời nào cũng có những tội lỗi và gương xấu, con thuyền Giáo Hội không vì thế mà bị nhấn chìm, vì Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng đức tin, được diễn tả qua hình ảnh tảng đá góc là chính Đức Giêsu. Hãy chiêm ngắm một khung cảnh phụng vụ sẽ thấy sức mạnh của đức tin thật kỳ diệu: những cụ ông cụ bà, những em bé thiếu nhi, những người trưởng thành… tất cả đều toát lên niềm vui khôn tả, khi họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được tâm sự với Ngài. Mặc dù cuộc đời vẫn còn lắm truân chuyên, nhưng những giây phút tĩnh lặng ấy giúp họ gột bỏ bụi trần, tìm được niềm vui vì có Chúa. Chính đức tin nói với họ về sự hiện diện nhiệm màu của Chúa, đồng thời thúc đẩy họ đến với Chúa để được trang bị thêm sức mạnh và ý chí vươn lên.
Trong cuộc sống hôm nay, xung quanh chúng ta những điều kỳ diệu vẫn đang xảy đến. Biết bao người đến với Chúa đã nhận được sự an ủi đỡ nâng thể xác cũng như tinh thần. Có thể khi đến với Chúa, người què vẫn chưa tự mình đi được, người mù vẫn chưa thể thấy được, người liệt chưa thể tự mình trỗi dậy, nhưng chắc chắn một điều, khi đến với Chúa với đức tin và niềm phó thác, họ đã nhận được nghị lực và niềm vui rất lạ lùng, để họ vươn lên, vượt qua khó khăn, đón nhận thực tại, lạc quan và yêu đời hơn, vì họ tin chắc chắn rằng có Chúa cùng đi với họ trong cuộc đời này. Có thể họ bị thiệt thòi về một điểm nào đó, nhưng Chúa lại bù cho họ những khả năng phi thường ở một lãnh vực khác. Đức tin vẫn đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu là thế.
Người tín hữu còn có sứ mạng đem những điều kỳ diệu của đức tin cho anh chị em đồng loại. Hình ảnh những nữ tu dấn thân hy sinh phục vụ người phong cùi hay những trẻ mồ côi, hình ảnh những tín hữu nhiệt thành bất chấp mọi ngờ vực để đến với người nghèo, người nhiễm HIV, hình ảnh các linh mục đến với người dân tộc thiểu số hay những nơi vùng sâu vùng xa để đem ánh sáng Tin Mừng cho những anh chị em vừa nghèo về vật chất vừa nghèo về tình người. Những thực hành bác ái này là những điểm sáng trong đời sống đức tin, đồng thời thể hiện sứ mạng cao cả của người tín hữu, đó là đến với con người để mang cho họ niềm vui và góp phần củng cố đức tin nơi họ. Thiên Chúa đang qua chúng ta để ban phúc lành cho nhân thế. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên những cánh tay nối dài của Người, để làm những việc chính Người đã làm cho con người đương thời tại xứ Palêtin. Chính qua chúng ta mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu.
Chúng ta đang cùng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa thể hiện qua một trẻ thơ vừa chào đời. Hài nhi nằm trong máng cỏ lại là chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mọi sự từ ban đầu của lịch sử, nay trở nên người phàm để sống cùng, sống với và sống cho chúng ta. Hai ngàn năm đã qua, biến cố Máng cỏ Bêlem và mầu nhiệm Thập giá đồi Canvê vẫn gửi đến chúng ta những sứ điệp quan trọng. Đó là sứ điệp của tình Chúa tình người. Tình Chúa sẽ biển đổi đời ta nên cao thượng. Tình người sẽ giúp ta tìm thấy niềm vui, bởi khi cho đi là ta được nhận lãnh.
Một tác giả là Robert Schuller viết: “Việc bạn hiện hữu trên cuộc đời đã là một quà tặng lớn lao của Thiên Chúa”. Ý thức mình là điều kỳ diệu của Chúa, mỗi chúng ta cần làm cho ánh sáng và vinh quang của Chúa thể hiện nơi cuộc đời mình. Có những điều kỳ diệu được xây nền trên những điều rất bình dị của đời thường. Các thánh là những người đã nỗ lực cố gắng để nên thánh khởi đi từ những điều rất đơn giản của cuộc sống. Một người nông dân, một người ít học, một người sống trong cảnh đạm bạc thanh bần, một người cha người mẹ âm thầm nuôi dạy con cái… tất cả đều có thể làm tỏa sáng vinh quang của Chúa và làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống thân yêu của chúng ta.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi nghe giáo huấn của Chúa Giêsu về điều kiện điều kiện để vào Nước Trời, các Tông đồ cảm thầy bất xứng, xót thương cho thân phận bất toàn của chính mình, thấy cần phải có ơn phù trợ đến từ Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời, các ông đã kêu lên : “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con! ” (Lc 17,5).
Bài Tin Mừng Chúa Nhật này bắt đầu bằng lời van xin ơn lòng tin của các Tông đồ. Thay vì thỏa mãn ao ước của các ông, Chúa Giêsu muốn đức tin lớn của các ông phải lớn mạnh hơn nên nói : “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải…” (Lc 17,6).
Đức tin là chủ đề nổi bật của Chúa nhật này. Chúng ta đã nghe nói về đức tin trong bài đọc thứ I, trích sách Tiên tri Khabacúc, Thánh Phaolo lấy lại gửi cho tín tín hữu Roma và nói : “Người công chính sẽ nhờ đức tin mà được sống”(Rm 1,17).
Các môn đệ hiểu lời Thầy Giêsu dạy không phải là tư tưởng mới, nhưng kêu gọi họ hoán cái tận căn, từ bỏ hoàn toàn để theo Đấng mà họ gọi là “Chúa” và là “Thầy” mới là vấn đề. Đức Giêsu khẳng định rằng nếu có đức tin, họ sẽ tìm được câu trả lời. Vì thế, khi đối diện với lời van xin của các môn đệ là gia tăng về số lượng, Người nói : “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con” (Lc 17,6).
Đức tin không hành động theo trật tự lô gích của thế giới này. Đức tin hành động các tổng quát bất ngờ và không thể dự kiến trước được, như : “Gió muốn thổi đâu thì thổi : ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3, 8). Theo nguyên lý sự sống : “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt ; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí” (Ga 3, 6). Thế nên, đức tin đặt chúng ta vào trong tương quan trực tiếp với Thiên Chúa và cho phép chúng ta làm điều tưởng chừng như không thể.
Tiếp theo Đức Giêsu trình bày cho chúng ta một dụ ngôn có tính so sánh trong tương quan giữa chủ và tớ, đúng hơn giữa ông chủ với nô lệ của ông. Người nô lệ chu toàn bổn phận thường ngày đúng như ông chủ mong đợi như: cày bừa hay là chăm sóc đàn vật. Khi về đến nhà, ông chủ lại gọi người đầy tớ vào hầu bàn ăn, từ ‘hầu hạ’ bắt nguồn từ chữ (phó tế) trong sách Công vụ Tông đồ, ám chỉ tích đặc thù của việc bồi bàn là bằng lòng phục vụ vì đức ái.
Ông chủ được phục vụ nhưng lại không mang ơn người đầy tớ ; đây là việc đầy tớ phải làm, không có đòi hỏi khắt khe nặng nề gì cả, anh đã làm việc suốt cả ngày, nhưng là nhiệm vụ của anh, đó là sứ mệnh được ông chủ trao cho với tất cả sự tín nhiệm, ngay cả con trai ông. Khi hoàn thành nhiệm vụ, người đầy tớ được cất nhắc lên, nhưng không biết lý do tại sao. Giống như kẻ có đức tin bằng một hạt cải có thể chuyển núi, rời non cũng không hiểu tại sao.
Từ những lời dạy trên, Đức Giêsu muốn người kitô hữu chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận, từ việc nhỏ nhất, để có thể thay đổi tình trạng hiện hữu của chúng ta, điều này thật là cần thiết. Chúng ta tham dự bàn tiệc Lời Chúa hay Thánh Thể, để tái khám phá ra trong đức tin, mình không phải là quân nô lệ, mọi người vẫn còn sợ ; Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ hãi như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Ápba! Cha ơi! ” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. “Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Ðức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 15-17) ).
Qui chiếu về khổ đau có thể làm chúng ta lo sợ ; nhưng đức tin giúp chúng ta không bị chi phối bởi những thất bại của thế gian này ; vì “người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Hab 2, 4)), nghĩa là đức tin chịu thử thách. Đúng là để có thể cầm cự tốt cho đến thời đã ấn định, như Thánh Phaolô mời gọi Timôthê người con yêu quý của ngài “Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha” (2 Tim 1, 6-8). Đức tin là tham dự vào “sức mạnh của Thiên Chúa” trong Thánh Thần của tình yêu và lý trí, làm cho chúng ta trở nên người phục vụ, đầy tớ đức ái, nghĩa là tôi tớ của Tin Mừng, mà chúng ta được “ủy thác” như thánh Phaolô kêu gọi chúng ta.
Trong khi đợi chờ sự can thiệp cuối cùng của Thiên Chúa và ngày trở lại trong vinh quang của Chúa Kitô, vẫn còn hạt giống của niềm tin cho phép chúng ta tuyên xưng rằng Chúa đến là điều chắc chắn như lời Người hứa : “Người sẽ thực hiện, không chỉ với thời gian ấn định. Chắc chắn giờ sẽ đến”. Chúa không cho chúng ta biết ngày giờ khi ánh sáng Phục Sinh xua tan bóng tối Thứ Sáu Tuần Thánh, mở rộng màn che sự chết trên trái đất của chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục cuộc hành trình trên thế gian này trong tin tưởng và hy vọng vào lời Chúa hứa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con và ban Thánh Thần tình yêu xuống đầy lòng chúng con, để chúng con có sức nhổ tận gốc tất cả những ngờ vực và sống bằng lòng trung thành của chúng con. Amen.
.
SỨC MẠNH VÀ TÍNH PHI LÝ CỦA NIỀM TIN
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Rõ ràng là Đức Giê-su đang đề cập tới sức mạnh của niềm tin. “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Tôi không biết tường tận ẩn dụ cây dâu là như thế nào trong văn chương Do Thái, nhưng rõ ràng Đức Giê-su đang muốn diễn tả niềm tin như một sức mạnh gì ghê gớm lắm, đồng thời cũng cực kì phi lý, phi lý tựa ‘cây dâu xuống biển mà mọc’.
Niềm tin đưa một người đi vào tương quan với Thiên Chúa, và như mọi mối tương quan bất kì, nó có khả năng làm thay đổi vị thế và quyền lực nơi người đó. Trong Cựu Ước những ai đi vào tương quan với một Đức Chúa hùng mạnh và thánh thiện vô song chắc chắn cũng được tham dự phần nào vào vinh quang thánh thiện đó. Mô-sê từ trên núi Si-nai đi xuống với khuôn mặt sáng chói tới độ, dân không dám ngước nhìn. Sau khi Ê-li-a được Đức Chúa đưa về trời trên cỗ xe bằng lửa, chỉ một chiếc áo choàng ông ném lại đã đủ để Ê-li-sêu có quyền năng rẽ nước sông Gióc-đan… (2 V 2:13 tt.) Trong ngôn ngữ Cựu Ước đang rất phổ thông thời bấy giờ, hình như Đức Giê-su cũng muốn xác quyết cho các Tông Đồ rằng, nếu các ông có được một chút niềm tin như thế, các ông cũng sẽ nhận được một quyền năng nào đó (chưa xác định) mà Đức Chúa sẽ ban cho.
Thế nhưng các Tông Đồ lại đang là môn đệ của một Giê-su Na-da-rét, và lòng tin mà Thầy Giê-su này đang đề cập tới chắc chắn không phải là niềm tin vào một Đức Chúa hùng mạnh; niềm tin vào Thiên Chúa của Đức Ki-tô chắc phải có một điều gì khác xa hơn; và điều này hình như Đức Giê-su đã không hề dấu diếm.
Trước hết Người khảng định: môn đệ mình không được chờ đợi nơi lòng tin bất cứ một đền đáp nào, thăng quan tiến chức hay được phục dịch hưởng thụ, hay được khen ngợi ghi ơn. Hình ảnh người đầy tớ, sau khi làm lụng vất vả ngoài đồng trở về nhà, vẫn còn phải tiếp tục phục dịch ông chủ mà không được quyền đòi hỏi công lênh nào hết, quả là một minh họa rất dễ hiểu đối với mọi người; “Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?” Việc một số tổ phụ và ngôn sứ được chia sẻ quyền năng Đức Chúa thì cũng chỉ là vì kế hoạch của Thiên Chúa chứ không hề muốn nói lên công nghiệp hay ân thưởng. Vậy thì, người môn đệ của Tân Ước, một khi đi vào tương quan với Đấng “Đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45) sẽ phải nghĩ sao đây; hơn thế nữa, nếu chính Ông Chủ lại là người đang ‘thắt lưng hầu bàn’, thì người môn đệ đó sẽ có thái độ nào? Người môn đệ Ki-tô, hay bất cứ ai đặt niềm tin vào một Thiên Chúa như thế, liệu có dám đòi hỏi được phục dịch hay được trả công vì các công nghiệp mình đã cất công thu tích hay không?
Nhìn vấn đề như thế, ta mới thấy lòng tin đặt nơi Đức Giê-su là không đơn giản chút nào. Rời bỏ cái quan niệm cố hữu và rất phổ biến là giữ đạo để được phần thưởng thiên đàng, làm việc thiện hay tập tành các nhân đức để thu tích công nghiệp trước mặt Chúa, quả là một thách thức vô cùng to lớn; điều này thoạt nghe có vẻ phi lý còn hơn cả việc khiến cho ‘cây dâu… bật rễ lên… xuống biển mà mọc’. Nếu hình ảnh ‘cây dâu…’ tự nó là rất bất hợp lý, đồng thời cũng là một điều rất khó thực hiện, thì lòng tin vào Thiên Chúa từ nhân của Tân Ước, như Đức Giê-su trình bày, cũng tương tự như thế. Nó đòi phải có, hay phải tạo nên cả một đảo lộn, một hoán cải tận căn. Sau khi phải chịu đựng bao nỗi vất vả nhọc mệt, bao nhiêu từ bỏ khổ chế, bao nhiêu cố gắng hy sinh, thế mà Ki-tô hữu (nhất là tu sĩ, linh mục) vẫn phải mở miệng công bố: ‘ơn cứu độ tôi nhận được hoàn toàn là hồng ân Chúa ban nhưng không’, thì quả là khó lắm đấy; “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” là câu nói thoạt nghe có vẻ hợp lý, nhưng rồi lại rất khó nuốt trôi. Chẳng trách gì đã từng có những lời càm ràm: “Chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt… còn mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ… thế mà ông lại coi họ ngang bằng với chúng tôi” (Mt 20:1-16), những thái độ bất mãn: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh… Còn thằng con của cha đó… nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15:25-31). Tự nhiên thì lòng tin vào một Thiên Chúa ban thưởng sẽ dễ dàng khích lệ để tín hữu trung thành giữ cặn kẽ các lề luật và giới răn. Tin rằng: các khó nhọc vất vả hiện tại chỉ là nhất thời trong khi hạnh phúc vĩnh cửu mới đáng mơ ước, quả là một nâng đỡ tâm lý – tinh thần rất hữu hiệu. Nó lô-gích như: đem cây dâu trồng nơi đất tốt để có được hoa trái xum xuê, điều chẳng có gì là khác thường cũng như chẳng cần một phép lạ cả thể; ngược lại mới là điều ký lạ đáng nói. Tin vào một Thiên Chúa nhân ái thứ tha, hiến mình cho tội nhân cách nhưng không, và không mong đền đáp, để rồi tới lượt tôi, tôi cũng phải hiến mình phục vụ tha nhân không tính toán được thua, cả trước mặt Thiên Chúa lẫn trước mặt người đời, đó mới thật là điều khó tới độ gần như phi lý. Tuy nhiên một lòng tin như thế mới được Đức Giê-su mô tả như có khả năng “bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc!” Lòng tin của Ki-tô hữu là thế đó: nó có một đặc điểm để biện phân không thể nhầm lẫn. Nếu thiếu nét độc đáo đó, niềm tin này cũng sẽ trở thành tầm thường tới độ… “cả những người tội lỗi cũng làm như thế” (Lc 6:27-38).
Lạy Chúa, lúc này con muốn cầu nguyện cùng Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con!” Con xin được thứ lòng tin bằng hạt cải mà Chúa đòi các môn đệ phải có, không phải để làm phép lạ này nọ, nhưng là để thực hiện được một chút thôi điều phi lý của Tin Mừng: nhận biết Chúa yêu con vô điều kiện, để rồi sau khi đặt lòng tin vào Thiên Chúa yêu thương như thế, con cũng có một chút khả năng mở rộng cõi lòng yêu mến tha nhân mà không tính toán công lênh. Đối với con, đó đã là thực hiện được phép lạ ‘bắt cây dâu xuống mọc dưới biển” rồi đấy. A-men.
.
ĐỨC TIN ĐI ĐÔI VỚI SỰ KHIÊM HẠ
Lm. GB. Trần Văn Hào
Chúng ta vẫn được mệnh danh là tín hữu, tức là những người có đức tin. Với đức tin, nhiều người đã quảng đại từ bỏ tất cả, bỏ gia đình, bỏ quê hương xứ sở, bỏ bạn bè thân quen.. để lên đường dấn thân truyền giáo. Vì đức tin, biết bao anh hùng tử đạo đã can đảm chấp nhận cái chết để bày tỏ sự gắn kết với Đấng mà họ tín thác. Cộng đoàn quy tụ trong ngôi giáo đường để tham dự Thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật cũng để diễn bày đức tin qua việc cùng nhau hướng về Chúa và cầu nguyện. Đức tin là ngọn đèn soi dẫn hầu giúp khám phá những chân lý được mặc khải mà đầu óc con người không thể lý giải. Các bài đọc lời Chúa hôm nay, đặc biệt bài Tin mừng nhấn mạnh về đức tin. Chúa nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” Đức tin là chìa khóa then chốt để chúng ta có thể mở toang mọi cánh cửa, đi sâu vào thế giới của mầu nhiệm. Vậy đức tin là gì, và chúng ta cần hiển thị đức tin như thế nào?
Đức tin là gì?
Để trả lời câu hỏi này, Giáo hội dạy : “Tin là gắn kết trọn vẹn con người chúng ta với Thiên Chúa, đấng đã mặc khải chính mình. Đức tin được diễn bày qua 2 chiều kích: Tin vào Thiên Chúa và tin vào Chân lý đã được Thiên Chúa mặc khải (Sách Giáo lý Công giáo số 176,177). Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần và là nền tảng của đời sống Kitô hữu. Đó là một ơn nhưng không, do Thiên Chúa trao ban và con người cần mở lòng ra để đón nhận.
Trong bài Tin mừng hôm nay, các tông đồ xin Chúa tăng thêm lòng tin cho họ. Chúa Giêsu dần dần đưa dẫn các học trò đến chân trời đức tin. Chân trời này không phải chỉ tóm gọn trong một định thức giản đơn hay một bài học đơn sơ, nhưng cần phải trải nghiệm dần để tiến sâu vào trong suốt cả cuộc đời. Chúa nói với Nicôđêmô : “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).Vì vậy, đức tin là điều kiện duy nhất để được cứu độ.
Nhiều người vô thần hiện nay cho rằng tôn giáo chỉ là những gì mê tín. Karl Marx đã từng tuyên bố: “Tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ nhân dân.” Quan niệm này ngày nay đã trở nên quá lạc điệu. Con người ngày càng nhận thức nhu cầu tâm linh một cách sâu xa.
Ông Eyrien, một nhà xã hội học đã thống kê và cho thấy rằng trong số 432 nhà bác học có tên tuổi khắp nơi trên thế giới vào thế kỷ 19 và vào đầu thế kỷ 20, chỉ có 16 người tự nhận là vô thần, 34 người không có lập trường rõ ràng, còn lại 367 vị vẫn tin có Thiên Chúa. Như vậy, có đến 92% các nhà khoa học nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, tiêu biểu như Ampère, Copernic, Volte, Newton, Lavoisier, Pasteur, Pascal, J.J. Rousseau…Giáo hội vẫn khẳng định rằng đức tin không đối kháng với khoa học, nhưng ngược lại càng tìm hiểu khoa học, con người lại càng khám phá sâu hơn về Thiên Chúa.
Ông D’Alembert là một bác học vô thần đã mất niềm tin hoàn toàn. Nhưng trên giường hấp hối, ông xin gặp một linh mục để trở về với Chúa và tìm lại đức tin cho mình. Triết gia Shaupenhauer thế kỷ 19, một triết gia vô thần người Đức, suốt cuộc đời đã nguyền rủa tôn giáo và chọc giận Thiên Chúa. Lúc gần chết, ông đau đớn thốt lên: “Chúa ơi, sao tôi khổ thế này”. Vị bác sĩ săn sóc ông ta ngạc nhiên và hỏi: “Ông cũng còn tin Thiên Chúa nữa hay sao?” Ông trả lời : “Vào lúc này khi đối diện trước cái chết, cái triết lý vô thần của tôi đã hoàn toàn trở nên vô tích sự, chẳng giúp gì cho tôi được cả.” Ông Voltaire cũng vậy, ông đã chối bỏ Thiên Chúa và ra sức tấn công Giáo hội. Trên giường bệnh, ông gào thét lên: “Kìa, tôi nhìn thấy bàn tay của Thiên Chúa đang giơ ra để trừng phạt tôi, và cửa hỏa ngục đang mở toang để đón tôi vào, vì tôi đã chống lại Thiên Chúa, chống lại Giáo hội của Ngài”. Một người bạn đứng đó chứng kiến và đã kể lại : “Nếu ma quỷ có chết được, nó cũng không phải trải qua cái chết ghê sợ như cái chết của Voltaire.”
Ngược lại, chúng ta thấy rất nhiều khoa học gia tài ba vẫn thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa một cách sâu xa. Ông Louis Amstrong cùng 2 người bạn Mỹ là những người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng vào năm 1969. Khi vừa đến nơi, việc đầu tiên họ thực hiện là quỳ gối xuống, khiêm tốn cầu nguyện với Chúa và tạ ơn Ngài.
Như vậy, đức tin không đối nghịch với khoa học. Có những điều khoa học không giải thích được, nhưng chỉ với đức tin, con người mới có thể cảm thấu. Chúng ta vẫn gọi đó là những phép lạ, là những sự việc siêu thường xảy ra do sự can thiệp nhiệm mầu của Thiên Chúa. Tương tự, Chúa nói hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, anh em bảo cây dâu này dời xuống biển, nó sẽ vâng lời anh em”. Nói cách khác, với đức tin, phép lạ sẽ xảy ra.
Sống và vun trồng đức tin.
Thánh Giacôbê đã dạy : “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” Đức Hồng Y Etchegarey khi đến thăm Việt Nam vào năm 1989 đã so sánh Giáo hội Việt Nam với Giáo hội Pháp. Ngài nói, ở Pháp 90% dân chúng có đạo nhưng chỉ 10% trong số ấy thực hành đức tin, cụ thể là đến nhà thờ ít nhất mỗi tuần một lần. Còn tại Việt Nam, số người Công giáo chưa tới 10%, nhưng trong số này có đến 90% vẫn thực hành đức tin đều đặn. Song Ngài tiên báo, Giáo hội Việt Nam trong vòng 30 năm nữa cũng sẽ giống Giáo hội Pháp bây giờ. Khi con người bắt đầu lao vào cuộc sống duy vật và chỉ lo hưởng thụ, đức tin của họ sẽ dần dần bị sói mòn. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa dạy các môn đệ cách thức vun trồng đức tin, đó là phải sống thật khiêm hạ, luôn ý thức mình chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa. Chúa nói : “Khi anh em làm xong bổn phận, thì hãy thưa lên : “Chúng tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.”
Kết luận
Chúng ta nhìn vào Đức Maria như là khuôn mẫu và cũng là Thầy dạy đức tin. Mẹ đã khiêm tốn, coi mình như một tôi tớ, luôn để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và sẵn sàng thực thi những gì Chúa muốn. “Phúc cho bà là kẻ đã tin.” Xin Mẹ dạy chúng ta biết thể hiện và vun trồng đức tin giống như Mẹ năm xưa.
.
Trầm Thiên Thu
Người ta vẫn ví von: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Khinh suất điều nhỏ có thể bị hại lớn. Có những con người nhỏ bé, ở những nơi nhỏ hẹp, làm những điều nhỏ nhặt, nhưng lại có thể làm thay đổi diện mạo của thế giới. Chính những điều nhỏ mọn trong cuộc sống lại khả dĩ thể hiện tình yêu lớn lao nhất.
Nữ văn sĩ Hellen Keller (1880-1968, người Mỹ) nói: “I long to accomplish a great and noble task, but it is my chief duty to accomplish small tasks as if they were great and noble – Tôi khao khát làm được những điều vĩ đại và cao cả, nhưng trách nhiệm chính của tôi là làm được những điều nhỏ nhặt như thể chúng vĩ đại và cao cả”. Vâng, vấn đề là làm được những điều bình thường một cách phi thường. “Chuyện nhỏ” mà… không hề nhỏ. Đúng là không đơn giản chút nào!
Đoạn sách Kha-ba-cúc (*) hôm nay là lời phàn nàn thứ nhất của ngôn sứ Kha-ba-cúc về “sự công chính suy thoái”. Ông đã dám đặt vấn đề với Thiên Chúa: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: ‘Bạo tàn!’ mà Ngài không cứu vớt? Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ” (Kb 1:2-3). Có lẽ chúng ta cũng đã từng đặt vấn đề như vậy, nhất là những con người yêu chuộc công lý và hòa bình, họ không thể ngồi yên khi thấy sự ác hoành hành khắp nơi.
Ai cũng muốn sống trong một đất nước hòa bình thực sự. Muốn vậy thì phải thực thi công lý, bảo vệ sự thật. Có công lý thì mới khả dĩ có hòa bình.
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6), nhưng Ngài vẫn im lặng, đôi khi có người nghi ngờ về sự hiện hữu của Ngài. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng Ngài im lặng vì Ngài tôn trọng tự do của con người, Ngài không thay đổi ngay hoàn cảnh của chúng ta vì Ngài muốn tâm hồn chúng ta thực sự biến đổi.
Trước câu hỏi của ngôn sứ Kha-ba-cúc, Thiên Chúa đã trả lời và nói rõ với ông: “Hãy VIẾT lại thị kiến và KHẮC vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy. Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu. Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (Kb 2:2-4).
Thi sĩ Paul Claudel (1868-1955, người Pháp, kiêm nhà viết kịch và nhà ngoại giao) đã xác định: “Chúa Giêsu xuống thế không để diệt trừ khổ đau, cũng không giải nghĩa khổ đau, mà để chia sớt khổ đau”. Thật kỳ diệu biết bao! Và Thánh Teresa Lisieux phân tích chi tiết: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta và ban ơn cho chúng ta mà hoàn toàn không cần chúng ta đền đáp. Tất cả những gì của chúng ta, ngay cả cái yếu đuối, Ngài cũng yêu”.
Thế thì chúng ta không thể không yêu mến Ngài. Cảm nhận được điều quan yếu đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Thiên Chúa là Đấng nhân lành (Mc 10:18; Lc 18:19; Ga 10:11 & 14), Ngài thoải mái và tươi cười chứ không “nghiêm khắc” như chúng ta tưởng: “Thiên Chúa mến chuộng dân Ngài” (Tv 149:4a). Thế thì chắc chắn Ngài cũng rất vui khi ở giữa chúng ta. Ngài nghiêm túc chứ không khó tính.
Chúng ta “may mắn” được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như thế thì còn hạnh phúc nào bằng. Ca tụng Ngài và yêu mến Ngài là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta, nhưng cũng là niềm hãnh diện của chúng ta. Vì thế, hãy đồng tâm nhất trí với nhau mà làm việc này: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:6-7).
Ngày xưa, Thiên Chúa đã khuyến cáo dân Israel: “Các ngươi chớ CỨNG LÒNG như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi ĐÃ từng thách thức và DÁM thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:8-9). Lời khuyến cáo này cũng đang và sẽ dành cho mỗi chúng ta ngày nay, đặc biệt là về đức tin.
Ơn Chúa luôn đầy tràn, phép lạ luôn xảy ra với chúng ta mọi nơi và mọi lúc, không cần phải tìm sự lạ ở đâu xa, nhưng đôi khi chúng ta vô tình hoặc cố ý làm ngơ mà thôi. Không khí là một phép lạ về sự sống mà có lẽ ít người nhận biết mà tạ ơn. Và bất cứ chúng ta làm được điều gì có vẻ “nên trò trống” thì cũng là do Thiên Chúa tác động, đúng như Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5b). Vì thế, chớ có ảo tưởng, cậy sức mình mà vênh vang tự đắc, rồi khinh người. Chúa “nghỉ chơi” một cái là “ngu suốt kiếp” luôn đấy!
Về các ơn ông Ti-mô-thê đã nhận được, Thánh Phaolô đã nhắc nhở ông: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1:6-8).
Thánh Phaolô nói thêm: “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Kitô Giêsu, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta” (2 Tm 1:13-14). Rõ ràng có làm được việc gì – dù to hay nhỏ, dù thành công hay thất bại, chúng ta cũng phải nhờ và chỉ nhờ Thiên Chúa mà thôi. Đó là hệ quả của niềm tin, của lòng tín thác.
Biết tin là có phúc, mặc dù không hề thấy tỏ tường (x. Lc 1:45; Ga 20:29). Quả thật, đức tin rất quan trọng trong đời sống tâm linh – kể cả đời thường.
Trình thuật Lc 17:5-10 cho biết hai vấn đề: [1] sức mạnh của lòng tin, và [2] cách phục vụ khiêm tốn. Vì tin tưởng mà phục vụ: làm (hoặc không làm) bất cứ điều gì cho người khác là làm (hoặc không làm) cho chính Thiên Chúa (x. Mt 25:31-46), dù chỉ là cho người khác một chén nước lã (x. Mt 10:42; Mc 9:41). Tất cả đều được Thiên Chúa “chấm công” đầy đủ.
Có tin thì mới làm. Nghi ngờ thì không ai dám hành động. Ngày xưa, các Tông Đồ đã thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Một lời cầu nguyện thật đẹp và rất cần. Chúa Giêsu rất vui khi thấy các trò biết cầu nguyện như vậy, và còn hơn thế nữa, Ngài xác định: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em”.
Hạt đức tin nhỏ bé như lại có sức vươn cao, lớn mạnh. Những người vô danh tiểu tốt, thậm chí còn bị người đời khinh miệt, ghét bỏ, nhưng họ lại là những con người “khổng lồ” trong cách nhìn của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã từng xác định: “Người nhỏ nhất là người lớn nhất” (Lc 9:48). Đó là lời khuyến cáo đối với mỗi chúng ta, vì chúng ta có xu hướng nhìn người theo bề ngoài, ai không hợp ý mình thì gièm pha, chê bôi, triệt buộc,… Đừng quên rằng bất cứ một động thái nhỏ nào của chúng ta đều được “ghi chép”, “ghi âm” và “thu hình” từng chi tiết, rồi ngày mai Chúa sẽ tính sổ với chúng ta!
Về phong cách phục vụ, Chúa Giêsu phân tích: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau’? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?”. Bổn phận và trách nhiệm là việc phải làm, không được so đo, phân bì. Nhưng Thiên Chúa vẫn “chấm công” cho những người miệt mài phục vụ vì lợi ích của tha nhân, vì vinh danh Thiên Chúa, vì Nước Trời.
Cuối cùng, Chúa Giêsu khuyến cáo: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: chúng tôi là những ĐẦY TỚ VÔ DỤNG, chúng tôi đã chỉ làm việc BỔN PHẬN đấy thôi”. Đó là cung cách phục vụ theo đức khiêm nhường – mà khiêm nhường lại là nền tảng vững chắc của Tòa Nhà Nhân Đức.
Chân phước LM Charles Eugène de Foucauld (1858-1916, người Pháp), khi còn trẻ, một đứa cháu nói với ngài: “Cậu làm được những việc rất hay, nhưng cậu đã làm gì cho Chúa chưa?”. Một câu hỏi nhỏ nhưng hàm súc ý tưởng lớn. Và câu hỏi đó đã khiến chàng trai trẻ Charles giật mình, rồi anh đi xưng tội và xin vào dòng. Trong thời gian phục vụ tại Tuareg, thuộc vùng sa mạc Sahara ở Algeria, ngài đã bị ám sát chết. Cuộc sống thầm lặng và hèn mọn nhưng lại rất vĩ đại.
Câu hỏi của người cháu của LM Charles de Foucauld cũng là câu hỏi dành cho chúng ta hôm nay: “Bạn đã làm gì cho Chúa chưa?”. Chúng ta có thể trả lời ngay? Và câu trả lời như thế nào? Thật là khó, nhưng đừng lo, vì chúng ta có thể hành động theo cách của Mẹ Thánh Teresa Calcutta: “Không phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhoi với tình yêu vĩ đại”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con chân nhận mình là kẻ bình thường nhất trong những người bình thường, hèn mọn nhất trong những người hèn mọn, nhờ vậy mà con có thể khiêm nhường thực sự, chứ không lẻo mép, ba hoa. Xin giúp con không buồn khi người khác chỉ trích con, và sẵn sàng bỏ qua cho họ. Xin dạy con làm những gì Ngài muốn con làm, mọi nơi và mọi lúc. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(*) Habakkuk là ngôn sứ thứ tám trong 12 ngôn sứ nhỏ, tên Habakkuk có nghĩa là “ôm chặt” hoặc “vật lộn”. Tên ông chỉ xuất hiện trong Kb 1:1 và 3:1. Ông là người khác thường trong các ngôn sứ, vì ông đã hỏi về công việc của Thiên Chúa (Kb 1:3a và 1:13b).
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Khi kể dụ ngôn về ông chủ và người đầy tớ, hình như Chúa cổ võ chế độ nô lệ? Chúa không thương xót người đầy tớ sau một ngày vất vả lao nhọc để làm lợi cho chủ, chiều về đến nhà lại còn hầu hạ chủ, trong khi chủ chẳng đếm xỉa gì đến sự mệt nhọc của đầy tớ?
Thực ra, qua tương quan giữa hai hình ảnh chủ – tớ, Chúa Giêsu muốn dạy hãy loại trừ thái độ kẻ cả, thái độ vênh vang trước bất cứ một thành công nào, bất cứ một chiến thắng nào, dù lớn hay nhỏ. Hãy nhớ, trước mặt Chúa, mỗi người chỉ là đầy tớ vô dụng, chỉ là kẻ thọ ơn.
Vì thế, thấm thía lời dạy của Chúa: “Phần các ngươi, khi đã làm mọi điều truyền dạy cho các ngươi rồi, hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, không làm gì hơn là phận sự phải làm”, chúng ta cần có mấy tâm tình sau đây:
- Ý thức mọi sự tốt lành điều do Chúa.
Hãy nhớ, Chúa là chủ tể, là nguồn cội, là cùng đích của đời ta, của cả vũ trụ. Con người cần luôn luôn ý thức: không có Chúa, bản thân họ chẳng có gì và cũng chẳng làm được gì.
Sống ở đời, như nhiều anh chị em, chắc chắn, có lúc ta thực hiện được “công trình” này, hay hoàn thành xuất sắc công tác nọ, nhưng cho dù đạt đến cái mà người ta gọi là “công trình”, hay chỉ là việc tầm thường hằng ngày, tất cả đều không ngoài thánh ý Chúa.
Hãy luôn ghi khắc, tâm niệm và cầu nguyện bằng lời Thánh vịnh 127, 1-2: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm. Bạn có thức khuya hay dậy sớm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ, Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng”.
- Tập sống khiêm tốn.
Ai đó từng nói: “Tài năng thường được tỏa sáng trong im lặng. Kém cỏi thường tự lan tỏa bằng âm thanh”. Không khiêm tốn là cách dẫn đường tới sự mù tối của tâm trí. Bởi không khiêm tốn, người ta sẽ dễ tự mãn, dễ tự đắc thắng về chính mình. Người ta sẽ chẳng lãnh hội được bất cứ bài học hay kinh ngiệm nào. Không ai ưa thích kẻ thiếu khiêm tốn. Thậm chí người không khiêm tốn còn bị ghét, bị soi mói, bị xem thường…
Trước mặt người đời, đã phải khiêm tốn, thì trước mặt Thiên Chúa càng phải hạ mình. Chúa luôn đoái thương đến những ai khiêm tốn, biết hạ mình trước mặt Chúa. Chúa ban phần thưởng đời đời cho người sống khiêm nhu nghèo hèn.
Chúng ta cần khiêm tốn, đặt mình trước mặt Chúa, xin ơn soi sáng của Chúa, để tự đánh giá và có ý thức đúng mức về bản thân, để không bao giờ tự mãn, tự kiêu, không tìm cách đặt mình hơn người, hay tự cho mình hơn người. Nhờ đó, chúng ta có những lời lẽ, cử chỉ, hành động, thái độ, cách ứng xử, cách sống… khiêm tốn.
Bạn và tôi cần ghi nhớ lời sách Huấn ca: “Hỡi con, con hãy thi hành công việc con cách hiền hoà, thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quý chuộng. Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa; vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa…
Tai hoạ dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa, vì mầm mống tội lỗi đã ăn sâu vào lòng chúng mà chúng không biết. Người thông minh suy ngắm trong lòng lời dụ ngôn, chăm chỉ nghe là kỳ vọng của người khôn ngoan” (3, 19-21. 30-31).
- Luôn tạ ơn Chúa.
Càng khám phá ra mọi sự tốt lành đạt được đều là ơn Chúa, ta càng cảm nhận mạnh mẽ tình thương của Chúa dành cho, thì càng được thúc giục phải tạ ơn Chúa. Ta không chỉ tạ ơn trong một lúc nào, nhưng là mọi nơi, mọi lúc, suốt đời.
Hãy làm như ông Gióp, ngay cả lúc mất mát nhất, đau khổ nhất, tan thương nhất, ta vẫn cất lên lời tạ ơn, vẫn cảm nhận bàn tay uy quyền của Chúa: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1, 21).
Hãy luôn tâm nguyện rằng, Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử. Chỉ một mình Người có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1Sm 2, 6; Kn 16, 13). Chỉ có Người là Đấng “bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp và nhắc lên cao” (1Sm 2, 6-7).
Tuy quyền uy của Chúa là thế, nhưng Chúa vẫn chỉ một lòng yêu thương. Chúa là Đấng mà “ai quỵ ngã, Ngài đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên” (Tv 145, 13-14).
Tâm tình tạ ơn phải là tâm tình của mỗi con người sống khiêm tốn và luôn học để biết khiêm tốn hơn. Từng người hãy lắng nghe lời Thánh vịnh mà lặp đi lặp lại trong mỗi giây phút, mỗi hơi thở của đời mình: “Lạy Thiên Chúa con thờ, là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh” (Tv 145, 1-2).
- Kết.
Tôi còn nhớ, trong thánh lễ khánh thành nhà thờ Chánh tòa Phú Cường, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ, người đã bỏ nhiều công sức để xây dựng ngôi thánh đường, đã thinh lặng hoàn toàn trong suốt thánh lễ. Đến cuối thánh lễ, người ta mời Đức Cha phát biểu, Đức Cha chỉ nói một câu vỏn vẹn: “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”.
Có thể nói, đây là công trình để đời cho những thế hệ mai sau. Cùng với những ân nhân và nhiều người khác âm thầm cầu nguyện, Đức Cha có quyền nói với mọi người về những năm tháng vất vả, chạy đôn, chạy đáo để lo mọi thứ.
Đức Cha có quyền tổng kết về kết quả mà bao nhiêu ân nhân, bao nhiêu công sức của nhiều con người, cùng với Đức Cha, dù tuổi đã cao, vẫn cố gắng hoàn thành. Nhưng Đức Cha chọn cách im lặng.
Trải nghiệm cuộc đời, đã không ít lần cho ta thấm thía rằng, đời ta mong manh, cuộc sống của ta dòn mỏng. Chỉ có cách duy nhất, là phó thác vào Chúa, đặt vào bàn tay của Chúa mọi công trình, mọi việc làm và cả cuộc đời ta, mới là cách hay nhất để ta tồn tại, và tồn tại trong Chúa đời đời.
Như Đức Cha Phêrô, chúng ta hãy để Chúa đếm từng giây phút, từng bước đi trong đời ta. Chính khi sống phó thác, ta sẽ thấy mình thật an nhiên, thật tự tại. Càng phó thác, ta càng dễ khiêm tốn. Càng khiêm tốn, ta càng là kẻ cao thượng trước mặt người đời, đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời trước mặt Thiên Chúa.
Vậy hãy luôn ghi nhớ lời dạy của Chúa: “Phần các ngươi, khi đã làm mọi điều truyền dạy cho các ngươi rồi, hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, không làm gì hơn là phận sự phải làm”.
.
XIN BAN THÊM LÒNG TIN CHO CHÚNG CON
Lm Gia-cô-bê Tạ Chúc
Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần, đối tượng của đức tin chính là Thiên Chúa. Con người với tất cả nổ lực của bản thân, cùng với hồng ân đến từ Thiên Chúa, họ có thể đáp trả và tin vào Thiên Chúa. Đức tin vừa mang chiều kích cá nhân, nhưng cũng mang tính cộng đồng. Tôi tin và chúng tôi tin.
Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Mở đầu bài Tin mừng là một lời kêu xin của các Tông đồ, lời cầu xin này chắc hẳn được hun đúc, và đúc kết trong một hành trình tương đối dài, cam go, thử thách và cũng hết sức phiêu phỏng, trên con đường đi theo Chúa. Ý thức được nỗi chênh vênh của phận người bất tất, các học trò của Chúa không còn biết phải làm gì, ngoài điều kêu lên cùng Chúa. Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Ha-ba-cúc, vị tiên tri cùng thời với Giê-rê-mi-a khoảng năm 600 TCN, cũng chua chát, và dường như bất lực, trước những bất công, sự dữ, sự phản bội của dân Thiên Chúa, để thốt lên lời kêu cứu với Thiên Chúa. Dường như là một điều tất yếu, khi con người lao vào cảnh khốn cùng, thì họ chạy đến với Thiên Chúa, để được che chở, và bảo vệ. Nhưng rồi lúc thoát ra khỏi tai ương, khốn khó thì họ ngoảnh mặt, làm ngơ, có khi không còn nhớ đến Chúa nữa. Đức Giê-su chỉ đòi hỏi lòng tin, những phép lạ cứu chữa dường như xuất phát từ lòng tin. Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải, quả là phi thường cho những ai tin vào Danh Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã chứng minh điều này, tổ phụ Ap-ra-ham người được mệnh danh là Cha của các kẻ tin. Ông đã tin và dấn thân đi theo Chúa, dù phía trước vẫn là những khoảng sáng tối, mong manh kiếp người. Thế nhưng, một khi đã tin Chúa, thì bước đi cho tới cùng. Giáo hội Chúa trường tồn và phát triển, cũng là nhờ đức tin soi đường, dẫn lối. Trải qua biết bao sóng gió, thử thách cam go, nhưng người Ki-tô hữu vẫn một lòng trung kiên, phó thác vào Chúa Quan phòng.
Cuộc sống luôn dành cho những người giàu nghị lực, biết vươn lên, và tin tưởng vào những cố gắng sẽ dẫn đến những điều may mắn trong cuộc đời. Lạy Chúa Giê-su, con tín thác vào Ngài. Amen.
.
PHỤNG SỰ CHÚA CHO PHẢI ĐẠO LÀM TÔI
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Với trí tưởng tượng phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans Christian Andersen đã dựng nên một nhân vật rất độc đáo là “Chiếc Bóng.”
Ai cũng có chiếc bóng đi theo mình. Chiếc bóng hoàn toàn lệ thuộc chủ: khi chủ đi, bóng đi theo, khi chủ chạy, bóng chạy; khi chủ dừng, bóng dừng; chủ đi đâu, bóng theo đến đó.
Vậy mà nhân vật “Chiếc Bóng” trong chuyện của Andersen lại tách ra khỏi người chủ của mình vốn là một nhà khoa học, để trở thành một nhân vật độc lập, không lệ thuộc chủ, rồi dần dà y dám gọi mày xưng tao với chủ… Một thời gian sau, y lên mặt sai khiến cả chủ của mình, và thật trớ trêu, y tự tôn mình lên làm chủ và bắt chủ phải làm “chiếc bóng” của y và cuối cùng, y lập kế tống giam chủ mình vào ngục và sát hại người chủ ngay trong tù.
Tương quan giữa con người với Thiên Chúa cũng như bóng với hình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và mọi người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, nhờ Chúa con người mới tồn tại được. Chúa là chủ, con người là tôi tớ. Chúa là hình, con người là bóng. Vậy mà nực cười thay, một số người lại làm như nhân vật “Chiếc Bóng” trong tác phẩm của Andersen. Họ đòi quyền làm chủ và bắt Thiên Chúa lệ thuộc họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những đòi hỏi của họ mà không nghĩ rằng họ phải đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa trước đã.
Chẳng hạn khi yếu đau, người ta yêu cầu Chúa chữa họ mau lành. Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ. Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công!… Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!
Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước đã.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn đưa chúng ta trở về lại đúng vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ và nhiệm vụ của người tôi tớ là lo phục dịch hầu hạ chủ mình mà không được kể lể công lao.
Chúa nói: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Hai vị tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa
Một trong những nét đẹp của Mẹ Maria là Mẹ biết nhìn nhận mình là tôi tớ Thiên Chúa nên sẵn sàng vâng lệnh Chúa truyền. Khi được sứ thần Gáp-ri-en cho biết Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ một sứ mạng thật cao cả nhưng cũng đầy khó khăn, Mẹ sẵn sàng vâng phục vì ý thức mình chỉ là tớ nữ hèn mọn của Thiên Chúa. Mẹ thưa với sứ thần: “Nầy tôi là tớ nữ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.
Ngay cả Chúa Giê-su, “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,… Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự…” (Philip 2, 6-8)
Lạy Chúa Giê-su
Chúa là Thiên Chúa quyền năng mà còn hạ mình làm tôi tớ, vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho dù phải chết trên thập giá và Đức Maria là hiền mẫu của Chúa, dù được diễm phúc làm Mẹ của Chúa, mà vẫn sẵn sàng phụng sự Thiên Chúa Cha như nữ tỳ khiêm tốn, thì xin cho chúng con là người phàm hèn mọn, luôn biết nhìn nhận mình chỉ là tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa và hết lòng phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi.
.
ĐỨC TIN VÀ TINH THẦN PHỤC VỤ VÔ VỊ LỢI
Lm. Anthony Trung Thành
1. Đức Tin
Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa ban, nhưng cũng là một hành động tự do sâu xa của con người. Đức Tin là một trong ba nhân đức đối thần. Đức Tin có thể biến những cái không thể thành những cái có thể. Đức Giêsu nói với các Tông đồ, dù có Đức Tin nhỏ bé cũng có thể làm được những chuyện lớn lao. Ngài khẳng định: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dù các con có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời các con”(Lc 17, 5-6). Như vậy, Đức Tin có sức mạnh vô biên: nhờ Đức Tin, các Thánh Tử đạo vượt qua được những cực hình đau đớn; nhờ Đức Tin, các Kitô hữu vui vẻ chấp nhận những thử thách đau khổ trong đời sống đạo; nhờ Đức Tin, nhiều người kitô hữu dấn thân trong các lãnh vực từ thiện, bác ái; nhờ Đức Tin, Thánh Giáo Hoàng Giao Phaolô II đã tha thứ cho kẻ ám sát mình là Ali Agca; nhờ Đức Tin, Mẹ Têrêxa Caculta đã dấn thân không mệt mỏi để phục vụ những người bị bỏ rơi trong xã hội. Hôm nay, mỗi chúng ta có mặt trong thánh đường này để cử hành thánh lễ cũng chính là nhờ Đức Tin. Chút nữa đây, chúng ta dọn mình sốt sắng lên rước lễ, tức là rước Mình Máu Thánh Chúa qua hình bánh rượu, đó cũng là nhờ Đức Tin…
Như vậy, Đức Tin hết sức cần thiết trong đời sống đạo. Đức tin là điều kiện để các thụ nhân lãnh nhận các Bí tích. Mỗi lần làm phép lạ, Đức Giêsu thường đòi hỏi Đức Tin hoặc Ngài công bố phép lạ xảy ra là nhờ Đức Tin: “Đức tin con đã cứu chữa con.” Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bảo chứng cho những điều ta không thấy (x. Dt 11,1). Khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, vị linh mục hỏi người dự tòng: “Đức Tin sinh ơn ích gì cho con?” Người dự tòng thưa: “Đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.”
Trong cuốn sách “Mỗi Ngày Một Ý Tưởng” của MS Anhre, có đoạn viết: “Nếu bạn mất tiền, bạn sẽ mất đi một ít; nếu bạn mất đi danh dự, bạn sẽ mất đi rất nhiều; nhưng nếu mất đức tin thì bạn sẽ mất tất cả. Đức Tin là chìa khoá để bạn bước vào kho báu của Đức Chúa Trời. Đức Tin là con đường dẫn bạn đến sự chiến thắng. Đức Tin là lối sống đẹp lòng Đức Chúa Trời. Đức Tin là chìa khoá vạn năng giúp bạn mở toang những cánh cửa của Nước Trời. Đức Tin là hành động giúp bạn biến điều bất năng thành khả năng. Vì thế đừng đánh mất Đức Tin mà hãy giữ Đức Tin cho đến cuối cùng thì phần thưởng của Đức Tin đang chờ đón bạn.”
Để không đánh mất Đức Tin, chúng ta phải năng cầu xin Chúa bên thêm Đức Tin cho chúng ta (x. Lc 17,5). Đồng thời, chúng ta phải học hỏi và thực hành Đức Tin trong đời sống, bởi vì“Đức tin không việc làm là đức tin chết tận gốc rễ” (Gb 2,26). Tinh thần phục vụ vô vị lợi là cách thực hành Đức Tin một cách cụ thể nhất.
2. Tinh thần phục vụ vô vị lợi
Trong xã hội nô lệ, ông chủ có toàn quyền trên người đầy tớ. Ông có thể sai người đầy tớ làm hết việc này tới việc khác. Giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: ‘Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa’, mà trái lại không bảo nó rằng: ‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống’ (Lc 17,7-8). Dầu người đầy tớ phải làm hết công việc này đến công việc khác, nhưng luôn phải vâng theo ý ông chủ, không được đòi hỏi quyền lợi cho mình. Đức Giêsu nói tiếp: “Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không?” (Lc 17,9).
Khi đề cập đến vấn đề này, không phải Đức Giêsu tán đồng chế độ nô lệ, nhưng Ngài muốn dùng hình ảnh này để giúp chúng ta hiểu về vai trò của chúng ta đối với Thiên Chúa. Ngài nói: “Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm” (Lc 17,10).
Thật vậy, Thiên Chúa là người Cha, Ngài đặt để mỗi người chúng ta trong trần thế này với những khả năng và vai trò khác nhau. Chúng ta phải dùng vai trò và khả năng đó để chu toàn nhiệm vụ của mình. Nếu không chu toàn nhiệm vụ được giao phó, chúng ta có lỗi trước mặt Chúa, nhưng nếu chúng ta chu toàn nhiệm vụ được giao phó cũng chỉ là làm trọn bổn phận của chúng ta mà thôi, chúng ta không có quyền đòi hỏi Chúa trả công.
Những người Biệt phái nghĩ rằng, họ được Thiên Chúa ban cho ơn này ơn khác, họ được lên Thiên đàng là do công phúc của họ. Vì thế, họ thường kể công trước mặt Chúa. Thậm chí, họ còn khinh bỉ anh chị em xung quanh, nhất là những người ngoại giáo, những người họ cho là tội lỗi. Câu chuyện người Biệt phái lên đền thờ cầu nguyện cho chúng ta thấy điều đó. Ông kể lễ các công đức của mình: không tham lam, bất chính, ngoại tình, mỗi tuần ăn chay hai lần, dâng cho Chúa một phần mười thu nhập. Rồi ông còn nói, con không như người thu thuế kia (x. Lc 18,9-14).
Trong thực tế cuộc sống, nhiều người trong chúng ta cũng có thái độ như những người biệt phái: đi lễ, đi nhà thờ, ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái…Có ý để Chúa trả công chứ không phải vì lòng mến Chúa hay vì làm việc đáng phải làm. Phải nhớ rằng: chúng ta luôn được mời gọi cộng tác với ơn Chúa để làm việc lành, việc thiện. Nhưng chúng ta không có quyền dựa vào việc lành, việc thiện của mình làm để đòi Thiên Chúa trả công. Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy tình thương của Ngài. Nhưng vì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và quảng đại, nên Ngài sẽ không bao giờ quên những việc lành, việc thiện chúng ta đã làm.
Lạy Chúa, xin ban thêm Đức tin cho chúng con, để chúng con có thể tin trọn vẹn những gì Chúa dạy và Hội Thánh truyền. Xin cho chúng con luôn có tinh thần phục vụ vô vị lợi theo khả năng và sứ mạng mà Chúa trao phó. Amen.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Ngày mùng 4 tháng 9 vừa qua, Mẹ Tê-rê-sa Calcutta đã được tôn vinh lên bậc hiển thánh, và do đó, trong Giáo hội có tất cả 3 vị thánh mang tên Tê-rê-sa, hai vị thánh kia là: Tê-rê-sa Giê-su, còn có tên là Tê-rê-sa Avila, mừng kính vào ngày 15 tháng 10, và Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su mà Giáo hội mừng kính vào ngày mùng 1 tháng 10 hôm nay. Ba vị thánh nữ tuy có chung một thánh hiệu (Tê-rê-sa) và cùng chung một chí hướng, hiến dâng cuộc sống mình để rao giảng Tin mừng và tình yêu của Chúa, nhưng các vị vẫn có những nét riêng trong cuộc đời.
Hôm nay nhân ngày kính thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su, tôi xin được chia sẻ vài điểm đặc biệt trong cuộc đời của thánh nữ. Tê-rê-sa sinh ngày 2 tháng giêng năm 1873 tại nước Pháp. Ngài là con thứ chín trong gia đình. Khi mới lên bốn tuổi thì Têrêxa đã mất mẹ, bà chết vì căn bệnh ung thư. Nhưng Tê-rê-sa đã được người cha rất hiền từ đạo đức chân thật bao bọc suốt quãng thời thơ ấu. Lúc lên mười, Tê-rê-sa ngã bệnh nặng, nhưng ngài đã thấy Đức Trinh Nữ Maria hiện ra mỉm cười với mình và cơn bệnh biến mất.
Ngày từ lúc còn nhỏ, Tê-rê-sa đã có ước vọng và quyết định nên thánh và muốn được sớm tận hiến cuộc đời cho Chúa. Khi gia nhập dòng, ngài đã nhận được tên Têrêxa Của Chúa Giêsu Hài Đồng. Tê-rê-sa đã sống khiêm nhường và đơn sơ, nhưng rất sâu sắc và được nuôi dưỡng không ngừng bằng những suy ngắm. Tê-rê-sa vui mừng làm những việc nhỏ mọn và tầm thường mà các chị em trong dòng thường tránh né như quét nhà, rửa chén, lau bụi, giặt rũ, làm vệ sinh, nhưng những công việc đó lại được biến đổi trở nên gương sáng và thánh thiện bởi một tình yêu quảng đại và bao dung. Một phương thế để nên trọn lành. Ngài luôn coi những hy sinh đó như những đóa hoa hồng dâng lên trước tôn nhan Chúa. Trong tu viện, Têrêsa có một đời sống cầu nguyện chăm chỉ và sốt sắng, có lòng khao khát luôn được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Trong tâm hồn của ngài luôn bừng cháy ngọn lửa mến Chúa, luôn phó thác vào Chúa, có một nhân đức bác ái cao quí đối với mọi người và yêu mến các linh hồn. Trong mọi tình cảnh, Tê-rê-sa có một niềm cậy trông vững vàng, sắt đá vào sự phù trợ đắc lực của Đức Mẹ Maria.
Sau cơn bệnh trầm trọng, Tê-rê-sa đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 30 tháng 9 năm 1897, ở tuổi 24. Ðức Giáo Hoàng Piô XI đã phong Têrêxa lên bậc hiển thánh và đặt ngài làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Nhân dịp Ngày quốc tế giới trẻ lần thứ 12 diễn ra tại Paris, ngày 19 tháng 10, năm 1987, Đức Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô Đệ nhị đã tôn phong Thánh nữ lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh.
Ông bà anh chị em thân mến. Nhìn vào cuộc sống Ki-tô hữu, chúng ta phải thú nhận chúng ta không có một đức tin vững chắc và lòng mến Chúa và tha nhân sâu sắc như thánh nữ Tê-rê-sa. Chúng ta nhận biết cuộc sống đức tin của chúng ta ngày hôm nay như thế nào tùy theo mức độ lòng tin của chúng ta vào Chúa và lời Chúa dạy. Vì thế, như các môn đệ, chúng ta cùng cầu xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta hai bài học quan trọng cho đời sống Kitô hữu. Bài học thứ nhất phải có lòng tin mạnh mẽ, và bài học thứ hai phục vụ trong sự vui mừng và khiêm tốn. Thật vậy, muốn có một lòng tin mạnh mẽ và vững chắc thì phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, và những giáo huấn của Giáo hội. Lời Chúa được sánh ví như ngọn đèn, như ánh sáng trong đêm đen soi đường dẫn lối cho chúng ta làm những điều lành, tốt và đạo đức, cũng như tránh được những sự dữ, sự xấu trong đời sống hằng ngày. Chúng ta biết sự dữ xuất hiện trong xã hội ngày hôm nay qua nhiều hình thức cám dỗ của tiền bạc, vật chất, qua những sự gian dối, tham lam, ích kỷ, kiêu căng và tự phụ, qua những sự nghi ngờ về đức tin, coi thường và thờ ơ việc đạo đức, và nhất là bình thường hóa tội lỗi. Đó là những sự dữ rất nguy hiểm mà chúng ta thường đối diện trong xã hội ngày nay.
Như các tông đồ chúng ta cần Chúa ban thêm lòng tin. Nhưng chúng ta phải chú ý, vấn đề ở đây không phải là chúng ta cần có thêm nhiều đức tin, nhưng cần có đức tin vững mạnh và kiên trì vào Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô khuyên chúng ta hãy lấy những lời lành lẽ phải làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Ðức Giêsu Kitô, và hãy gìn giữ kho tàng đó cho tốt đẹp.
Sau khi đã dạy về bài học cần có lòng tin mạnh mẽ, Chúa dạy chúng ta bài học phục vụ trong vui mừng và khiêm nhường. Như trong cuộc đời của thánh nữ Tê-rê-sa, sự thánh thiện luôn đòi hỏi đức khiêm nhường. Một người làm được nhiều việc tốt lành, đạo đức hay hy sinh nhưng chỉ để khoe khoang, tự mãn, hay kể công với Chúa thì quả thực không còn sự thánh thiện nữa. Chúng ta biết khiêm nhượng là nền tảng của mọi nhân đức, do đó, trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu dạy chúng ta “Khi các con đã làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.”
Chúng ta thấy trong bài đọc 1 hôm nay, tiên tri Habacuc đã kiên nhẫn và khiêm tốn khẩn cầu Thiên Chúa ban cho đức tin mạnh mẽ, bởi vì Habacuc biết rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi lòng dạ con người. Tiên tri Habacuc cũng ý thức rằng ngài chỉ là đầy tớ vô dụng và là tạo vật của Thiên Chúa, phải vâng lệnh chủ làm những gì chủ sai hay cần đến, mà không được kể công, không được bắt ông chủ nhớ đền công trạng của mình.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta cầu xin Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria trong Tháng Mân côi này, và qua lời cầu bầu của thánh nữ Tê-rê-sa, giúp chúng ta học đức khiêm nhường từ Đức Maria và thánh Tê-rê-sa, vui mừng sử dụng tất cả những ơn lành Chúa ban để sống theo thánh ý Chúa, phục vụ và xây dựng làm sáng danh Chúa. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta đền tạ những gì đã và đang lỗi phạm đến Chúa, bằng cách thi hành sốt sắng 3 mệnh lệnh của Mẹ dạy: Cải thiện đời sống, Đền tạ Mẫu tâm và lần hạt Mân côi, và qua những việc hy sinh, yêu thương và quảng đại để làm sáng danh Chúa. Xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta có lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giê-su Con Mẹ trong mọi tình cảnh, tránh những sự dữ, nhất là những sự hiểm nghèo cho linh hồn và phần rỗi chúng ta.
.
JM. Lam Thy ĐVD.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVII/TN-C – Lc 17, 5-10) trình thuật: “Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lòng tin là gì và quan trọng tới mức độ nào mà các Tông đồ phải xin Thầy mình như vậy? Lòng tin xuất phát từ chủ thể khi nhìn nhận một vấn đề, một sự kiện hay một nhân vật. Theo từ nguyên thì lòng tin có nghĩa là: Có ý nghĩ cho là rất có thể sẽ như vậy, là đúng sự thật, là có thật, là thành thật, tử tế; từ đó đặt hoàn toàn hi vọng vào người nào hay cái gì đó. Trong nhãn giới xã hội học, lòng tin (hay sự tin cậy) vào người khác là một hiện tượng xã hội + tâm lý + văn hóa tổng hợp, và tâm thế này được coi là một trong những điều kiện căn bản để có thể duy trì đời sống tập thể.
Gia đình và cộng đồng xã hội (khu xóm, thôn ấp, làng xã, phường khóm…) là những tập thể mà người ta thường coi là điển hình cho mối quan hệ tin cậy giữa con người với nhau. Cuộc sống xã hội không thể ổn định và bền vững nếu mỗi cá nhân chỉ hành xử theo những tính toán thuần túy dựa trên lợi ích cá nhân. Trong phạm vi một tổ chức hay phạm vi xã hội nói chung, người ta không thể quản lý một cách có hiệu quả bằng sự hoài nghi và lại càng không thể bằng sự sợ hãi, né tránh, mà trước hết phải bằng lòng tin vào người khác, nhất là trong môi trường xã hội hiện đại. Nguồn gốc của sự tin cậy trong xã hội không phải xuất phát từ thiện ý (lòng tốt) chủ quan của từng cá nhân, mà là xuất phát chủ yếu từ các định chế xã hội. Nói cách khác, sự tin cậy tồn tại trên nền tảng của các qui ước và các chuẩn mực xã hội trong khuôn khổ của những định chế xã hội nhất định.
Trong xã hội cổ đại, người ta tin nhau vì cùng là thành viên của một định chế xã hội nào đó, như làng xã, dòng tộc hay cộng đồng tôn giáo. Mỗi thành viên yên tâm rằng các thành viên khác (trong cùng một cộng đồng) sẽ cư xử với mình phù hợp với những qui tắc và chuẩn mực mà cả cộng đồng cùng chia sẻ. Cách đây trên 2500 năm, một nhà hiền triết bậc thầy là Đức Khổng Tử (Trung Quốc) đã dạy môn đệ: “Nhân vô tín bất lập 人 無 信 不 立 ” (người không có niềm tin – lòng tin – thì không đứng được ở đời). Còn Tấn Văn Công, vua nhà Tấn – chư hầu của nhà Chu bên Trung Quốc, vào thời Xuân Thu (khoảng năm 770-476 trước Công nguyên) – thì nói: “Tín vì quốc chi bảo 信 為 國 之 寶 ” (trung tín là báu vật của quốc gia).
Thời hiện đại, ngoài những mối liên hệ trực tiếp trong gia đình hay giữa bạn bè thân thiết với nhau, người ta còn có những mối liên hệ giao tiếp rộng rãi hơn ngoài xã hội (trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội). Ngoài phạm vi gia đình và những nhóm xã hội nhỏ, cơ sở xã hội của sự tin cậy giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội lúc này phần lớn không còn dựa trên phong tục và tình cảm như trong xã hội cổ truyền, mà dựa trên luật pháp và lý tính. (nguồn: Từ điển Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia org).
Với Ki-tô giáo thì xã hội loài người có hồn và xác được Thiên Chúa Tình Yêu dựng nên, như vậy thì tất cả mọi sự từ tinh thần (hồn) tới thế chất (xác) đều đo Thiên Chúa ban tặng, nên phải hiểu lòng tin là một ân huệ Chúa ban. Một cách cụ thể thì phải hiểu ở đây là lòng tin của con người đặt vào thần linh, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối tượng của lòng tin. Không có đức tin, không cậy dựa vào Thiên Chúa, chúng ta không thể làm được gì, đúng như Đức Giê-su đã dạy: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Nhưng nếu tin vào Thiên Chúa, ta sẽ có năng lực để làm được tất cả mọi sự, như thánh Phao-lô đã từng cảm nghiệm: “Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4, 13). Ầy cũng bởi vì lúc đó, năng lực mà tôi sử dụng không phải đến từ bản thân bất toàn của tôi, mà đến từ Thiên Chúa, nguồn của mọi sứcmạnh trong vũ trụ, là Đấng Toàn Năng “không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).
Rõ ràng là nếu con người không có đủ năng lực, chính là vì họ chưa có đức tin đích thực. Vấn đề căn bản vẫn là ở chủ thể người tin, chớ không phải ở nơi đối tượng của lòng tin. Thật vậy, nếu tôi thật sự tin anh và hy vọng anh sẽ đem đến cho tôi những điều tốt đẹp, tôi sẽ sẵn sàng đến với anh để cầu mong anh giúp đỡ. Nói cách khác, khi tôi đã hoàn toàn tin tưởng vào anh, tôi sẽ sẵn sàng hợp tác với anh để biến những điều tốt đẹp mà tôi cầu mong đó sẽ trở thành hiện thực. Đối với Thiên Chúa thì cũng vậy thôi, bởi “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Người” (Thánh Au-gus-ti-nô). Có lẽ cũng vì thế nên Đức Giê-su đã không trả lời thẳng vào lời cầu xin của các môn đệ, mà Người chỉ nêu bật sức mạnh của lòng tin, để các môn đệ tự trang bị và củng cố đức tin của mình.
Đức Giê-su đã lấy đức tin so sánh với hình ảnh một hạt cải nhỏ bé, để có thể ra lệnh cho một cây dâu to lớn di chuyển. Mới nghe qua thì thấy có vẻ vô lý, vì cái lòng tin nhỏ bé như vậy thì làm sao có thể đứng vững được, chớ đừng nói là có thể ra lệnh cho cây dâu di chuyển. Tuy nhiên, suy cho kỹ Lời dạy bởi một Người Thầy chuyên dùng dụ ngôn, sẽ thấy là Người muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, cho nên Người mới dùng một hình ảnh cụ thể là hạt cải nhỏ bé mà có thể ra lệnh cho một cây dâu to lớn, cốt ý để nói lên sức mạnh của lòng tin, của đức tin. Câu này có thể diễn nôm: “Nếu anh em thực sự tin vào Thầy, tin vào quyền năng tối thượng của Thiên Chúa, thì bất cứ việc gì dù to lớn tới đâu chăng nữa (“di sơn đảo hải” – dời non lấp biển, chẳng hạn), anh em vẫn có thể làm được”.
Mấu chốt vấn đề vẫn chỉ là điểm nhấn: Đức tin. Mà nói về đức tin là phải nghĩ đến mạc khải, vì “Nhờ mạc khải, “do tình yêu vô biên, Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với con người như với bạn hữu. Người đối thoại với họ, để mời gọi cho họ hiệp thông với Người” ( x. DV 2). Đức tin là lời đáp trả thích đáng của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG sớ 142), Một vài sự kiện trong Kinh Thánh đáng suy gẫm: “Kẻ chú tâm vào lời Chúa dạy sẽ gặp chuyện tốt lành, người đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA thật hạnh phúc dường bao.” (Cn 16, 20); “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân.” (Gr 17, 7); Khi về Na-da-rét, Đức Giê-su không làm được nhiều phép lạ nào, chỉ vì dân đồng hương với Người “không tin” (Mt 13, 58). Khi chữa lành bệnh cho ai, Đức Giê-su không nói rằng Người đã chữa lành bệnh cho họ, mà là “Đức tin của con đã chữa lành con” (Mt 9,22; Mc 5,34; Lc 8,48; Lc 17,19). Đức Maria được bà Ê-li-da-bet khen: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45), và chính Mẹ cũng được tôn xưng là “Mẹ đức tin”. Nhân vật nổi bật nhất về vấn đề đức tin vẫn chỉ có thể là Thánh Phê-rô.
Cùng với các môn đệ khác, Phê-rô đi theo Đức Ki-tô chỉ vì đã tin Người có thể giúp thánh nhân “lưới người như lưới cá”. Được sống liền bên với Người Thầy mà mình tin tưởng, được nghe dạy và nhất là được chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ Người đã làm, vậy mà khi thì tuyên xưng “Thầy là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa hằng sống”, khi lại tưởng Thầy là ma (khi thấy Thầy đi trên mặt biển, nhất là khi Thầy đã Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ). Vừa mới khẳng định chắc nịch: “Dù có phải chết, con cũng không chối Thầy”, ấy vậy mà chỉ một đứa tớ gái nhà Cai-pha gạn hỏi, đã chối Thầy không chỉ một lần mà tới 3 lần trong một đêm: “Tôi thề là không biết Người ấy”. Nếu đức tin của Phê-rô đã kiên định thì có thể xảy ra trường hợp tréo cẳng ngỗng như vậy không?
Câu chuỵên đi trên mặt biển đã minh hoạ về đức tin của con người bộc trực Phê-rô: Khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển, ông tin rằng ông cũng có thể đi trên mặt biển đến với Người, và với niềm tin ấy, ông đã đi trên mặt nước không khác gì đi trên mặt đất. Nhưng khi thấy gió thổi mạnh thì ông đâm ra lo sợ, nghi ngờ, đức tin của ông bị chao đảo; vì thế ông bị chìm xuống và la lên cầu cứu: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14, 22-33). Rõ ràng việc Phê-rô đi được trên mặt nước hay bị chìm xuống là do đức tin của ông có mạnh mẽ hay không. Trường hợp này có thể nói: ông đi trên đức tin của ông, hay đức tin của ông chính là mặt đất nâng đỡ bước chân ông đi, cũng như nâng đỡ toàn bộ cuộc đời ông. Quả thật, khi có một đức tin vững vàng, thì đời sống nội tâm luôn luôn an bình hạnh phúc, bất chấp nghịch cảnh; nhưng khi đức tin bị chao đảo, thì đời sống cũng bị chao đảo theo.
Phân tích những sự kiện Kinh Thánh nêu trên, thấy nổi bật một chân lý: Để thành tựu được một phép lạ, phải có hai yếu tố quan trọng: Quyền năng của Thiên Chúa và lòng tin của con người. Thiếu một trong hai thì phép lạ không thể thành tựu được (một minh hoạ sống động là câu chuỵên “Đức Giê-su về thăm Na-da-ret”, nhưng những người đồng hương và cả thân nhân của Người vì không tin nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” (Mc 6, 5). Tuy nhiên, quyền năng của Thiên Chúa thì bao giờ cũng có, lúc nào cũng sẵn sàng tác động, không bao giờ thay đổi hay mất đi, nên yếu tố hiển nhiên ấy không cần bàn cãi. Vấn đề còn lại chỉ là lòng tin của con người. Phép lạ hay điều con người cầu xin Thiên Chúa có xảy ra hay không, hoàn toàn do con người có thật sự tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa hay không.
Là con người, Ki-tô hữu chúng ta nhiều khi hoang mang lo sợ trước viễn cảnh tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Từ chỗ mất niềm tin ấy, chúng ta có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi, phó mặc cho số phận đẩy đưa, không còn sống theo những điều Chúa và Giáo hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm hy vọng vào ơn cứu độ Đức Ki-tô đem đến cho chúng ta. Mà cũng “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5, 2). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Hãy nhìn vào đích điểm của hành trình đức tin là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc sống trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần hoan hỷ vì ngày Chúa quang lâm đã gần kề.
Tiếp theo lời dạy về niềm tin, Đức Giê-su lại đưa ra hình ảnh một người đầy tớ trung tín. Làm xong việc ông chủ trao phó đã không hợm hĩnh như kiểu anh chàng Pha-ri-sêu cầu nguỵên trong Đền Thờ (“Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế” – Lc 18, 11-12), mà biết thưa với chủ “chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” Bài học rút ra là đừng khoe khoang, chớ hợm hĩnh, mà hãy khiêm tốn phục vụ, bởi “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23, 11-12). Tốt hơn cả là hãy làm, đừng nói suông kiểu những ông kinh sư thích ngồi trên toà ông Mô-sê (Mt 23, 1-6) và nhất là đừng bao giờ “làm láo báo cáo hay”.. Cũng bởi vì “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta” (2Tm 1, 13-14).
Tóm lại, bài học rút ra được khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay phải là: Đừng hãnh diện cho rằng mình đã có một đức tin vững mạnh, mà hãy nhìn lại mình để thấy được sự bất toàn của bản thân mà cầu xin: “Lạy Chúa! Xin thêm lòng tin cho chúng con.” Ôi! Lạy Chúa! Chúng con chỉ biết huênh hoang khoe thành tích này, việc tốt nọ, mà không biết rằng những thành tích ấy, những việc làm ấy, nếu không được Thần Khí Chúa soi sáng và thúc đẩy, thì rốt lại cũng chỉ là con số không. Chúng con biết rằng chúng con luôn hão huyền tự đắc cho rằng mình được làm con cái Thiên Chúa, được làm bạn hữu của Con Thiên Chúa, thì chắc chắn lòng tin sẽ vững mạnh. Đó quả thực là điều không tưởng! Vâng, lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho chúng con, “xin thêm lòng tin cho chúng con”, để chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy. Amen.
.
LẠY CHÚA, XIN THÊM ĐỨC TIN CHO CHÚNG CON
Dã Quỳ
Đức Tin là ân huệ, là món quà quí giá Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Bí tích Rửa Tội. Món quà Đức Tin ấy đã được mở ra và cần được làm cho lớn lên từng ngày, như lời thánh Phaolô khuyên Timôthê “Hãy làm sống lại Ơn Huệ nhưng không Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha.“(2Tm 1,6) Vậy phải làm thế nào? Ngay từ khi theo Chúa, các môn đệ đã được nghe nhiều lời Chúa nhắn nhủ về những gian nan, thử thách mà tất cả những ai theo Chúa sẽ gặp. Và để có thể sống được những giới răn, những giáo lý của Chúa và theo Chúa đến cùng, chắc chắn các môn đệ cũng như tất cả chúng ta rất cần một đức tin vững mạnh.
Ý thức được những khó khăn trong cuộc sống và sứ mệnh, các môn đệ đã dâng lên Chúa lời cầu xin thật đẹp: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Cuộc đời của mỗi Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng là phải quay về cầu nguyện, xin Chúa ban thêm lòng tin, ân sủng để chúng ta có thể thực hiện được những đòi hỏi của Lời Chúa. Chúa biết rõ thân phận mỏng dòn, giới hạn của ta. Chúng ta như những kẻ nghèo nàn trước Chúa! Chân thành cầu xin Chúa ban cho ta thêm đức tin lớn bằng hạt cải và trợ giúp ta trong những lúc yếu lòng “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa giúp lòng tin yếu kém của con.“(x. Mc 9,24)
Trong đời sống thiêng liêng, đôi khi đức tin của ta sẽ bị thử thách. Ta cầu xin mà dường như chưa thấu đến tai Chúa, như lời phàn nàn của Ngôn sứ Khabacuc “Cho đến bao giờ, lạy Chúa, con kêu cầu mà Chúa chẳng đoái nghe?“(Kb 1,2) Những lúc ấy, chẳng phải là Chúa không nghe, nhưng là lúc Chúa dùng để tăng thêm lòng tin cho ta. Vì “Người công chính sẽ sống nhờ lòng trung tín của mình.”(Kb 2,4) Hãy kiên trì cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, tham dự các Bí tích, nhất là lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể-là Mầu Nhiệm Đức Tin, chúng ta sẽ được tăng thêm sức mạnh và đức tin của ta sẽ được nuôi dưỡng để lớn lên. Chính khi ta bền lòng, vững chí thể hiện lòng tin tưởng vào Chúa, gắn bó với Chúa, đức tin của chúng ta mới tăng trưởng và sinh hoa trái. Nếu không, chúng ta sẽ chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực, không sống đức tin và cũng không thể theo Chúa đến cùng.
Thật vậy, sống đức tin, đó là sống chứng nhân. Sống đức tin, đó là ta mạo hiểm, không sợ hãi trước những kỳ thị, những chế nhạo, chống đối,… nhất là trong đất nước của chúng ta, con số người Công Giáo chỉ có hơn 7% dân số. Sứ mệnh của chúng ta là đem Chúa vào cuộc đời, vào môi trường mình sống, mang ngọn lửa đức tin chiếu sáng thế gian. Chắc chắn Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, sức mạnh, lòng nhiệt thành và những tư tưởng để ta có thể nói về Chúa cho mọi người. Vậy chúng ta hãy cầu xin với Chúa những ơn huệ ấy, và với Chúa Thánh Thần hướng dẫn, giúp sức, ta có thể can đảm dấn thân trong mọi hoàn cảnh.
Đức tin của người Kitô hữu qua mọi thời, từ thuở Giáo Hội sơ khai đến nay, và trong nhiều quốc gia, vẫn mãi phải chịu thử thách, bách hại nhiều cách. Những anh em Kitô hữu tại các nước vùng Trung Đông, Bắc Triều Tiên,Trung Quốc, Ấn Độ…và ngay tại Quê hương Việt Nam, đã và đang sống tử đạo hằng ngày và kéo dài. Anh chị em của chúng ta đang bị bắt bớ, áp bức, tra tấn, ngược đãi khủng khiếp, bị giết chết khi mang danh Kitô hữu và sống đạo! Thế nhưng, đức tin và lòng can trường của anh em chúng ta vẫn vững mạnh, vẫn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô cho dù cái chết gần kề. Anh chị em đã “Không hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, nhưng đã đồng lao cộng khổ để loan báo Tin Mừng.”(x. 2Tm 1,8)
Nhìn vào những tấm gương sống đức tin cách sống động và trung tín của biết bao anh chị em tại quê hương hay trên khắp thế giới, chúng ta tạ ơn Chúa và tiếp tục kiên trì cầu nguyện, xin Chúa ban cho ta lòng tin kiên vững. Chúng ta quyết chọn Chúa là Chúa và là Chủ của đời mình, để rồi trong địa vị là con, là tôi tớ, chúng ta hân hoan phụng sự Chúa. Tất cả những gì chúng ta phục vụ Chúa, đó là trách nhiệm, là bổn phận và hơn nữa là vì tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa. Vì sự sống, khả năng, tài trí, sức khỏe, điều kiện…ta có là do chính Chúa ban. Vậy ta hãy khiêm tốn như một đầy tớ nhỏ chỉ mong làm vui lòng Chủ.
Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ nhìn nhận mình như những “đầy tớ vô dụng“. Người cũng mong mỗi Kitô hữu chúng ta biết cởi bỏ và để “Cái Tôi” của mình sang bên cạnh. Đừng tìm kiếm sự công nhận hay chờ đợi sự biết ơn, chúc mừng và khen ngợi của người khác, nhất là khi chúng ta làm những công việc phục vụ Chúa và tha nhân. Chúng ta là tôi tớ thì luôn phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa. Tất cả thuộc về Người và chúng ta cần thi hành sứ mạng một cách tốt nhất có thể, trong đức tin và trong niềm xác tín rằng Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta vô biên, và những gì chúng ta làm cho Chúa sẽ mang chiều kích vĩnh cửu.
Trong Nước Trời, chính Chúa sẽ là Chủ nhà phục vụ: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.”(Lc 12,37) Vậy chúng ta hãy sống như những đầy tớ trung tín, tỉnh thức và khiêm nhường. Vì trước Chúa, ta chỉ có đôi bàn tay trắng, ta không có quyền đòi cho mình có giá trị. Thế nên, đừng làm vinh danh mình về những công trình này, cơ sở nọ hay Nhà thờ kia trước mặt Thiên Chúa, cũng đừng tự cao tự đại, khoe khoang về những tổ chức lễ lạc hay công việc bác ái… Vì những gì ta làm được không phải tự sức riêng hay vật chất ta có, mà là do công sức và của cải tinh thần, vật chất của bao tấm lòng quảng đại góp lại, và ta đã chỉ làm theo lệnh của Chúa. Uớc gì mỗi Kitô hữu hãy biết nhiệt thành sống đức tin trong phục vụ và khiêm tốn thân thưa với Chúa: “Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” Chúng ta không bao giờ thực hiện đủ và cũng không thể hoàn tất việc phục vụ Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết dấn thân làm chứng cho Chúa và sống đức tin cách can trường trong mọi hoàn cảnh. Xin dạy chúng con biết phục vụ Chúa và tha nhân cách vô vị lợi mà không mong chờ phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng chúng con đang thi hành Ý Chúa. Amen.
.
TIN YÊU VÀ KHIÊM NHƯỜNG PHỤC VỤ
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 17,5-10
(5) Các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. (6) Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. (7) Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi !”, (8) chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !” (9) “Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ? (10) Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”.
- Ý CHÍNH: Nhân việc các Tông đồ xin Đức Giêsu ban thêm đức tin, Người đã đề cao sức mạnh của một đức tin đích thực. Qua dụ ngôn về một người đầy tớ luôn vâng lời và khiêm tốn, Người muốn các ông phải tránh thái độ công thần, đòi phải được Chúa trả công ngay ở đời náy, nhưng phải biết khiêm tốn phục vụ, chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng với tinh thần vô vụ lợi.
- CHÚ THÍCH:
– C 5-6: + Tông đồ: Ở đây đức Giêsu nói riêng với nhóm Tông đồ chứ không phải nói chung với các môn đệ. Tông đồ là tước hiệu dành riêng cho Nhóm 12 được Đức Giêsu tuyển chọn từ nhóm 72 môn đệ (x. Lc 10,1; 6,12-13). Các Tông đồ phải từ bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu và sau này sẽ được Người trao quyền lãnh đạo đoàn chiên và được sai đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa. + Xin thêm lòng tin cho chúng con: Đứng trước những đòi hỏi của Luật Mới (x. Lc 17,1-4) và sứ vụ phải mở rộng Nước Thiên Chúa, các Tông đồ cảm thấy bất lực. Các ông đã xin Đức Giêsu gia tăng thêm lòng tin vốn đang yếu kém của các ông (x. Lc 8,25). Các ông xin Người mở rộng tâm hồn để đón nhận ánh sáng đức tin. + “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải”: Hạt cải là loại hạt giống nhỏ nhất (x. Mt 13,32). Khi so sánh lòng tin với hạt cải, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh về phẩm chất hơn số lượng của đức tin. Một sự phó thác dù nhỏ bé đến đâu, nếu được thực hiện trong đức tin, thì vẫn có thể làm được những điều lớn lao kỳ diệu. Vì bấy giờ người ta làm không phải do sức riêng mình, nhưng là nhờ quyền năng Thiên Chúa. + “Thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”: Cây dâu là một cây đại thụ, rễ của nó rất lớn và nó có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, thì cũng có thể bứng cây đó khỏi mặt đất để xuống mọc trong lòng biển Galilê (x. Mt 17,20). Ơ đây Đức Giêsu không khuyến khích người ta cầu xin những phép lạ giật gân, và chắc không bao giờ Người lại di dời cây dâu để trồng xuống dưới biển. Vì Người luôn từ chối làm phép lạ để chứng minh Người là Con Thiên Chúa như các đầu mục Do thái nhiều lần yêu cầu. Đây chỉ là một kiểu nói nhằm đề cao sức mạnh của lòng tin mà thôi.
– C 7-8: + Có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên…: Theo tập tục thời đó, người đầy tớ không được tự do làm việc theo ý mình, nhưng phải luôn làm theo ý chủ. Ở đây, người đầy tớ vừa cày ngoài ruộng về, hoặc vừa dẫn chiên từ đồng cỏ về nhà. Ông chủ đòi anh ta phải tiếp tục phục vụ bữa ăn tối cho ông. Bổn phận của người đầy tớ là phải làm hết việc này sang việc khác theo ý chủ.
– C 9-10: + Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ?: Qua hình ảnh đầy tớ. Đức Giêsu muốn dạy người làm việc cho Chúa không được vênh vang đòi Chúa phải đền ơn sau khi anh ta làm xong nhiệm vụ của mình. Trái lại, họ cần ý thức thân phận tôi tớ thấp hèn của mình để sẵn sàng làm mọi việc theo lệnh Chúa truyền. + “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”: “Đầy tớ vô dụng” không có nghĩa là không làm được gì. Ở đây, “đầy tớ vô dụng” là một kiểu nói cường điệu ám chỉ “mang thân phận hèn kém”. Người Tông đồ cần tránh thái độ “công thần”. Vì các thành quả tuy bề ngoài do các ông làm, nhưng thực sự đều nhờ ơn Chúa giúp, như lời Người phán: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Thánh Phaolô cũng khiêm tốn nhận rằng: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho lớn lên” (1 Cr 3,6). Tóm lại, khi rao giảng Tin Mừng ta cần phải biết noi gương khiêm hạ của Đức Giêsu (x. Pl 2,6-8).
- CÂU HỎI: 1) Tông đồ là những ai ? 2) Tại sao các ông lại xin Đức Giêsu gia tăng thêm lòng tin ? 3) Khi so sánh đức tin với hạt cải, Đức Giêsu muốn dạy điều gì ? 4) Đức Giêsu nói về sức mạnh của một đức tin chân chính qua câu nói nào ? 5) Tại sao Người lại muốn các Tông đồ phải tránh thái độ “công thần” ? 6) Tại sao Đức Giêsu muốn các Tông đồ phải luôn tự nhủ: mình chỉ là “những đầy tớ vô dụng”?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
- CÂU CHUYỆN:
Ngày nay, trên thế giới, ít có người không biết đến tên Mẹ TÊRÊSA CAN-QUÝT-TA. Mẹ là một nữ tu đã được tặng nhiều giải thưởng cao quý nhất: Năm 1963, Ấn Độ đã tặng Mẹ giải thưởng “Bông Huệ Tuyệt Vời”; Phi-líp-pin thì tặng giải thưởng Mas-say-say; Năm 1974 Rôma tặng Mẹ giải “Hòa Bình Gioan 23” và đến năm 1979, Mẹ được tặng giải No-ben Hòa Bình thế giới. Mẹ đã qua đời vào năm 1997 hưởng thọ 87 tuổi. Dù chỉ là một nữ tu không chút địa vị quyền hành, không có bao nhiêu tiền bạc hay thế lực… thế mà khi qua đời, Mẹ đã được nhiều vị đứng đầu quốc gia như Tổng Thống, Cựu Chủ Tịch Nhà Nước của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ… hay các nước nhỏ như Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia… hiện diện hay cử đại biểu đến dự lễ an táng, tiễn đưa Mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Vào năm 1948, Mẹ đã nhìn thấy một người đàn bà đang đói ăn và đứa con nhỏ mới sinh đang nằm bên một đống rác hôi thối, ruồi nhặng bu đầy chung quanh. Cảnh ấy làm Mẹ xúc động như nhìn thấy Đức Giêsu đang bị bỏ rơi trên cây thập giá. Từ đó Mẹ đã quyết hiến trọn cuộc đời để phục vụ những người cùng khổ. Họ là những người đang bị bệnh hoạn, đói rách và nằm trên các hè phố hay bãi rác công cộng để chờ chết mà không được chăm sóc tử tế. Mẹ đã mang họ về nhà dòng và phục vụ họ thật chu đáo, cho đến khi qua đời. Nhờ lời cầu nguyện và sự cộng tác giúp đỡ của nhiều nhà hảo tâm. Mẹ và các nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái đã lập được gần 300 nhà hấp hối như thế. Cuộc đời và công việc của Mẹ Têrêsa, một nữ tu nghèo nhưng đã làm được những việc lớn lao phi thường nhờ đức tin, minh chứng cho Lời Chúa dạy hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Vậy đức tin là gì? Tại sao chúng ta phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta?
- SUY NIỆM:
Nhân việc các Tông đồ xin Đức Giêsu ban thêm đức tin, Người đã cho biết đức tin là hồng ân nên các ông phải biết cầu xin Thiên Chúa ban cho. Tiêp đen Người đề cao sức mạnh của một đức tin đích thực. Qua dụ ngôn về một người đầy tớ luôn vâng lời và khiêm tốn, Đức Giêsu muốn các ông phải tránh thái độ “công thần”, tự hào đòi Chúa phải trả công ngay, nhưng phải biết khiêm tốn phục vụ, chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng với tinh thần vô vụ lợi.
1) “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”:
– Đức tin do Chúa ban: Trong cuộc sống chúng ta thường nghe nói: “Vô tri bất mộ” – Không biết sẽ không yêu. Tuy nhiên lời Chúa hôm nay lại cho thấy về phạm vi đức tin không giống như vậy: Các Kinh sư và các biệt phái tuy am hiểu Kinh Thánh, nhưng họ đâu có tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, đang khi những người ngheo đói, bệnh tật, tội lỗi… tuy ít học, nhưng lai vững tin nơi Nguời. Như vậy cho thấy đức tin không luôn đi đôi với sự khôn ngoan thế gian nhưng là một ơn ban của Chúa, như lời Đức Giêsu đã ngợi khen Chúa Cha: “Lay Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Do đó, muốn có đức tin vững mạnh chúng ta phải cầu xin như các Tông đồ trong Tin Mừng hôm nay đã xin với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
– Sức mạnh của đức tin: Tiếp theo, Đức Giêsu đã đề cao sức mạnh của đức tin khi nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Nói câu này, Đức Giêsu không khuyến khích các Tông đồ làm phép lạ cho người ta tin, nhưng Người muốn các ông ý thức về sức mạnh của một đưc tin đích thực. Nếu có đức tin vững vàng, chúng ta sẽ làm được những việc lớn lao vượt quá khả năng giới hạn của chúng ta như Đức Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14,12-13).
– Thành quả của đưc tin: Quả thật, sau khi Đức Giêsu lên trời, nhờ quyền năng Thánh Thần, các Tông đồ đã thực hiện được nhiều dấu lạ: Sau bài giảng của Simon Phêrô, đã có ba ngàn người xin tòng giáo. Các Tông đồ còn làm nhiều phép lạ trên những người tin (x. Cv 2,41; 5,12-16). Như vậy, đang yếu đuối, các ông đã nên mạnh mẽ nhờ cậy nhờ vào ơn Chúa giúp. Về vấn đề này, thánh Phaolô viết : “Chúa quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên, tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10c).
2) Đưc tin phải đi đôi với sự khiêm tốn phục vụ:
-Phục vụ cách khiêm tốn: Người tín hữu phải biết phục vụ Chúa và tha nhân cách khiêm tốn vô điều kiện, giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày hay đi chăn chiên về, sẽ tự thấy có bổn phận phải tiếp tục phục vụ bữa tối cho chủ, rồi sau cùng mới được ăn.
-Phải tránh thái độ “công thần”: Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: “Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10). Phải tránh thái độ vênh vang “công thần”, nghĩa là tự hào về công khó của mình để đòi Chúa phải trả công như người biệt phái trong dụ ngôn hai người lên Đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,11.13).
3) Chúng ta phải làm gì ?
-Xin thêm đức tin: Noi gương các Tông đồ xưa, chúng ta hãy năng cầu xin Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Chính nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được những điều lớn lao. Chẳng hạn: Sẽ giúp cho nhiều tội nhân hồi tâm trở về; Sẽ giúp nhiều người lương nhận biết tin thờ Thiên Chúa; Sẽ kêu gọi được nhiều người rộng rãi đóng góp công sức tiền bạc để làm các việc từ thiện bác ái lớn lao, noi gương Mẹ Têrêsa Canquýtta đã làm. Đàng khác, Tin và yêu luôn phải đi đôi với nhau: Có yêu Chúa nhiều thì mới tin vững vào Chúa được. Do đó, ngoài việc năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta còn phải xin Chúa ban thêm lòng yêu mến Chúa nữa.
-Loan Tin Mừng bằng việc bác ái: Ngày nay, loan báo Tin Mừng không những phải dựa vào ơn Chúa giúp, mà còn phải khiêm nhường dấn thân phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giêsu (x. Ga 13,6.13-15). Thực tế cho thấy: Việc chia sẻ bác ái cụ thể có sức thuyết phục khiến nhiều người dễ dàng đón nhận đức tin hơn bài giảng hùng hồn, như Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã dạy: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp Evangelii nuntiandi, số 41).
-Yêu phải đi đôi với tin: Có yêu Chúa nhiều thì mới vững tin vào Chúa. Trươc khi trao quyền chăn chiên cho Simon Phêrô, Chúa Phục Sinh đã ba lần sát hạch ông về long mến dành cho Người: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” (x. Ga 21,15-17). Do đó, ngoài việc năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, mỗi tín hữu chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng mến Chúa cho chúng ta.
-Phục vụ trong khiêm hạ: khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, chúng ta cần tránh thái độ tự mãn khoe khoang thành quả đạt được, nhưng phải luôn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Phải chờ đên ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ ban thưởng cho các tôi trung của Người, cho họ được tham dự bàn tiệc Nước Trời và sẽ quan tâm phục vụ lại họ (x. Lc 12,37).
- THẢO LUẬN: 1-Khi bạn làm việc tông đồ mà cảm thấy chán nản và muốn buông xuôi tất cả thường do những nguyên nhân nào ? 2-Bạn cần làm gì để lấy lại tinh thần hăng say phục vụ Tin Mừng Nước Thiên Chúa ?
- NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Xin ban cho con một đức tin như hạt cải, để con loại bỏ các thói hư tật xấu ra khỏi lòng con. Xin cho con một đức tin can đảm, để con không sợ bị thiệt thòi khi dấn thân, sẵn sàng từ bỏ những điều con thường cậy dựa xưa nay. Xin cho con một đức tin sáng suốt, để con nhìn thấy Chúa đang hoạt động trong vũ trụ và trên thế giới, thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khổ chung quanh con. Xin cho con một đức tin quảng đại, dám hy sinh bản thân vì Chúa và tha nhân. Xin cho con một đức tin liều lĩnh, dám lội ngược dòng và khước từ những cám dỗ của ma quỷ và thế gian. Xin cho con một đức tin vui tươi, vì biết những gì đang chờ đợi con ở cuối đời, sung sướng và hy vọng vì biết mình sẽ được Chúa yêu thương đón nhận. Cuối cùng, xin cho con một đức tin trưởng thành, để con luôn kiên vững khi gặp những khó khăn gian khổ, dù phải trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng vẫn luôn cậy trông và phó thác cho một mình “Thiên Chúa Tình Yêu”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.