Các bài suy niệm Chúa Nhật 27 Thường Niên Năm A

1961

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Is. 5, 1-7; Pl. 4, 6-9; Mt. 21, 33-43

——- 

Mục lục

  1. Vườn nho cuộc đời  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Xin Chúa Thăm Nom Vườn Nho Cũ (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  3. Sự Tin Tưởng Của Thiên Chúa(Thiên San,  MTG.Thủ Đức)
  4. Vườn nho Giáo hội  (Jorathe Nắng Tím)
  5. Công trình của Chúa (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  6. Không có gì là vô ích (Anna Cỏ May,MTG.Thủ Đức)
  7. Sinh hoa lợi  (Thiên San,  MTG.Thủ Đức)
  8. Được gọi làm vườn nho của Chúa  (Lm. Trần Bình Trọng)
  9. Vườn nho  (Lm. Vũ Đình Tường)
  10. Ghen tức  (Trầm Thiên Thu)
  11. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 27 Thường niên_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

1. Câu chuyện vườn nho – Câu chuyện đời ta (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

2. Khôn quá hóa dại  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Dụ ngôn chủ vườn nho (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Tảng đá bỏ đi  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Chỉ mình Thiên Chúa (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

6. Bài ca tình yêu  (Hoa Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

7. Chúa là Đấng Trung tín (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Chăm sóc vườn nho  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Sứ mệnh  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật 27 Thường niên_A (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

11. Lương tâm  (Trầm Thiên Thu)

12. Đừng bưng tai bịt mắt  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

13. Đá góc (Lm. Vũ Đình Tường)

14. Thu và nộp hoa lợi  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

15. Cách hành xử khác thường của Thiên Chúa (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

16. Bất nhân  (P.Trần Đình Phan Tiến)

17. Thợ vườn nho trung thành (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

18. Vang vọng tiếng yêu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

19. Sinh hoa lợi  (Phạm Anh,  MTG.Thủ Đức)

20. Suy niệm Chúa Nhật 27 Thường niên. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)

21. Bài ca vườn nho  (JM. Lam Thy, ĐVD)

22. Nước Thiên Chúa  (Fx.Đỗ Công Minh)

23. Sinh hoa lợi là điều kiện để vào Nước Thiên Chúa  (Lm. Đan Vinh)

24. Người tá điền của Chúa  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

25. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

26. Tá điền và vườn nho Nước Thiên Chúa  (Lm. Antôn Vũ Thanh Lịch)

27. Tình yêu chiến thắng sự dữ (Lm. Giuse Nguyễn)

28. Sự nhẫn nại của Thiên Chúa  (Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa)

29. Chúa Nhật 27 Thường niên_A (Lm. Antôn)

 

VƯỜN NHO CUỘC ĐỜI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Cha mẹ sinh con bao giờ cũng đặt niềm kỳ vọng nơi con cái, với ước mong chúng sẽ thành đạt và là người có ích cho xã hội. Có những người cha mẹ được toại nguyện và tự hào về con cái mình; nhưng cũng có những người cha mẹ đau khổ vì những đứa con bất hiếu, thậm chí còn là nỗi hổ nhục cho bậc sinh thành. Thiên Chúa là Cha của hết thảy mọi người. Cũng như những bậc cha mẹ ở trần gian, Ngài luôn muốn cho chúng ta được những điều tốt lành. Khi tạo dựng con người và vũ trụ, Thiên Chúa muốn san sẻ cho họ một phần vinh quang và sự tốt lành của Ngài cho mọi tạo vật. Có nhiều người đã cậy dựa vào ơn Chúa, cố gắng vượt qua những cám dỗ thử thách để nên thánh, như những đứa con sống đẹp lòng cha mẹ, hiếu thảo với đấng sinh thành; nhưng cũng có những người khước từ lời mời gọi của Ngài, cố tình sống trong ích kỷ và tội lỗi, giống như những người con bất hiếu phản nghịch. Tình trạng này được diễn tả trong đoạn trích sách ngôn sứ Isaia.

Israen là một đất nước nghề trồng nho phát triển, vì thế những chi tiết liên quan đến cây nho, cành nho, vườn nho, người trồng nho, việc cắt tỉa chăm sóc cây nho được nhắc tới nhiều lần trong Cựu Ước. Đây là Chúa nhật thứ ba liên tiếp, Phụng vụ dùng hình ảnh vườn nho để giáo huấn chúng ta về lòng thương xót của Chúa. Đặc biệt trong Chúa nhật XXVII này, Bài sách thánh thứ nhất và bài Tin Mừng cùng nói về vườn nho. Trước hết chúng ta thấy Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia, vừa như một lời than vãn, vừa như một lời trách móc giận hờn. Quả vậy, Thiên Chúa giống như người trồng nho, thế gian này là một cánh đồng nho mênh mông rộng rãi. Người trồng nho chăm bẵm chuyên cần, mong thu được những hoa thơm trái ngọt. Tuy vậy, khi đến mùa hái nho, trái ngọt đâu chẳng thấy, chỉ thấy nho dại và trái đắng. Tâm huyết và kỳ vọng của chủ vườn nho đã trở nên vô nghĩa. Người trồng nho thất vọng và sẽ để cho vườn trở thành tan hoang tiêu điều. Ngôn sứ Isaia đã được sai đến để chuyển tải cho người Do Thái một thông điệp: họ là những kẻ bất trung. Họ không đền đáp cân xứng tình yêu thương và bao dung nhân hậu của Chúa. Họ sẽ phải lãnh lấy những án phạt xứng với tội ác họ đã phạm. Đất nước sẽ ra hoang vu, vì tội lỗi và bất trung của dân phản nghịch.

Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Đức Giêsu trong Tin Mừng Thánh Matthêu cũng dùng hình ảnh vườn nho. Dụ ngôn nhấn mạnh đến mối tương quan giữa ông chủ vườn và những người thợ làm vườn, cũng gọi là những tá điền. Trong câu chuyện này, những tá điền được diễn tả như những người bất lương, tham lam mưu mô chiếm đoạt tài sản của ông chủ, là người đã cưu mang và tạo việc làm cho mình. Từ thân phận người làm thuê, họ muốn thay ngôi đổi chủ để trở thành người giàu có. Họ cố tình chiếm hữu tài sản không phải là của mình. Họ vừa cướp của, vừa giết người. Mà người bị giết là con của ông chủ, tài sản bị cướp là tài sản của ông chủ, người rất tốt với họ, sẵn sàng đón nhận họ kể cả ở giờ thứ mười một và trả lương cho họ cách hào phóng (Tin Mừng chúa nhật trước). Những chi tiết này của câu chuyện đã nêu bật sự gian ác bất lương của họ.

Với một dụ ngôn ngắn, Chúa Giêsu đã phác họa toàn bộ lịch sử cứu chuộc với những can thiệp của Thiên Chúa, vào những giai đoạn khác nhau nhằm đem lại cho con người hạnh phúc. Tuy vậy, con người đã khước từ tình thương của Thiên Chúa. Đối lại với những lời giảng dạy nhằm thiết lập tình bác ái, những thượng tế, luật sĩ,biệt phái và một số người Do Thái đã lên án tử cho Chúa. Chúa Giêsu là Con Một của Thiên Chúa, đã bị kết án tử hình thập giá và đã chết ngoài thành Giêrusalem, như người con thừa kế bị giết bên ngoài vườn nho.

Nếu Thiên Chúa luôn luôn ban ơn và hướng dẫn hầu đem lại cho con người hạnh phúc, thì con người lại khước từ và phản bội Chúa. Thái độ của những người tá điền cũng là thái độ của con người nói chung, nhất là của những tội nhân. Nhiều lần chúng ta khước từ lời mời gọi của Chúa. Thay vì làm theo ý Chúa thì chúng ta lại làm theo ý mình, thậm chí làm những điều trái ngược với lời dạy của Người.

Như thế, hình ảnh vườn nho diễn tả cuộc sống trần gian của chúng ta. Thiên Chúa đã đặt chúng ta trong “vườn-cuộc-đời”. Ngài thường xuyên chăm sóc, tỉa cảnh để chúng ta đem lại những hoa thơm trái ngọt cho đời.. “Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại… Chúa chỉ mong con người sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (Bài đọc I).

Cả bài Sách Thánh trích ngôn sứ Isaia cũng như bài Tin Mừng của Chúa nhật này đều có phần kết không mấy sáng sủa: đó là những lời cảnh cáo và trừng phạt vì một lối sống bất nhân, thiếu đạo đức, lỗi công bằng. Phải chăng cả hai bài đọc Lời Chúa này đều diễn tả thực trạng của xã hội hôm nay: đó là sự bất trung và coi nhẹ Thượng đế cũng như các giá trị thần linh. Giống như những tá điền bất lương, con người hôm nay muốn thay thế vị trí của Thiên Chúa. Họ còn dám coi mình là thượng đế, có thể giải đáp được mọi vấn nạn và đáp ứng mọi nhu cầu của con người. Những thông tin thời sự gần đây cho thấy nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn tiếp tục thi hành chiến dịch đập phá nhà thờ, xúc phạm các nơi thiêng thánh của các tôn giáo, trong đó có những nơi thờ tự thiêng liêng của Phật giáo đã tồn tại trên ngàn năm. Theo một nguồn tin cho biết, trong năm 2019, chính quyền Trung Quốc đã triệt hạ khoảng 900 nhà thờ Kitô giáo. Họ còn báng bổ tôn giáo đến nỗi xây nhà vệ sinh trên những nền cũ của nhà thờ, nhà chùa, đốt sách vở tôn giáo và đập phá ảnh tượng. Những hành động phỉ báng thần linh chắc chắn sẽ phải lãnh nhận hậu quả.

Nếu cuộc đời này được sánh như một vườn nho, thì mỗi chúng ta, dù ở địa vị xã hội hay trình độ văn hoá nào, thì cũng đang là người tá điền trong vườn nho đó. Có những tá điền bất trung nhưng chắc chắn cũng có những tá điền tốt lành, nhân hậu, lắng nghe ý kiến và trung thành với chủ của mình. Quả vậy, Thiên Chúa sẽ đến gặp gỡ chúng ta vào lúc cuối đời, để đón tiếp chúng ta như một người Cha. Tuy vậy, một người sống tội lỗi và đầy mưu mô phản loạn không thể xứng đáng ra trình diện trước nhan Chúa. Cũng như ông chủ vườn nho sai con mình đến thu hoa lợi, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến để phán xét chúng ta vào ngày tận thế. Chúa Giêsu đã nói về ngày phán xét chung ở tận cùng của lịch sử. Lúc đó, mọi người sẽ bị xét xử về những công việc họ đã làm cũng như về thái độ đối với anh chị em mình, khi họ còn sống trên dương gian.

Ngẫm chuyện xưa để học những bài học cho đời nay, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống tốt lành, năng cầu nguyện cùng Thiên Chúa và chuyên tâm thực hành lời Ngài dạy. Thánh nhân nêu cụ thể những thực hành đạo đức như sau: “Những gì chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý thực hành”. Khi thực hành như thế, sự bình an của Chúa sẽ ở với chúng ta. Những thực hành đó sẽ giúp chúng ta kết hợp với Đức Giêsu và sẽ đạt được sự bình an đích thực là quà tặng của Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài (Bài đọc II).

Kính thưa anh chị em, chúng ta vừa bước vào tháng Mân Côi. Mỗi khi Đức Mẹ hiện ra tại một nơi nào, Mẹ thường gửi đến cho nhân loại thông điệp sám hối và lời mời gọi đọc kinh Mân Côi. Đó cũng chính là thông điệp của Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng lời mời gọi sám hối. Khi đọc kinh Mân Côi là chúng ta cùng với Đức Trinh nữ Maria suy niệm cuộc đời và giáo huấn của Chúa Cứu thế. Vì vậy, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi kinh Mân Côi là cuốn Tân Ước rút gọn. Vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quả quyết: Kinh Mân Côi là kinh cầu nguyện mà ngài ưa thích nhất. Vào thế kỷ 13, nhờ kinh Mân Côi, mà Giáo Hội được cứu khỏi cơn khủng hoảng và những mâu thuẫn. Trong tháng này, chúng ta hãy suy niệm kinh Mân Côi với tâm tình của Đức Mẹ, để qua Đức Mẹ, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Hai mươi mầu nhiệm Mân Côi giúp chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, đồng thời học hỏi nơi Người sự khiêm nhường, vâng lời và phó thác nơi Thánh ý Chúa Cha. Trong tất cả các mầu nhiệm ấy, Đức Trinh nữ luôn hiện diện để lắng nghe, suy niệm và thực thi Lời Chúa. Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đã thông phần đau khổ và đã đạt được ngành thiên tuế của phúc tử đạo. Ước chi mỗi chúng ta biết sống các mầu nhiệm Mân Côi như Đức Mẹ, để cùng với Mẹ hưởng vinh quang Thiên quốc.

Về mục lục

 

XIN CHÚA THĂM NOM VƯỜN NHO CŨ

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXVII Thường Niên , Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Những ơn lành Chúa ban thật cao cả, vượt quá mọi công trạng và ước muốn của chúng ta. Ấy thế mà, chúng ta lại phạm tội, phản nghịch cùng Chúa, để rồi, đánh mất những ân huệ cao quý Chúa ban, vì thế, chúng ta hãy xin Chúa thứ tha những lầm lỗi và ban lại cho chúng ta những ơn cao trọng, mà chúng ta chẳng dám mơ tưởng tới bao giờ.

Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa (Rm 3,23), cho nên, trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô đã nói với ông Timôthê rằng: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời…

Bài đọc một và Thánh Vịnh 79 của bài Đáp Ca hôm nay cho thấy: Ítraen chính là vườn nho của Thiên Chúa: Gốc nho này, Chúa bứng từ Aicập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng. Thiên Chúa những mong nó sinh trái tốt, nhưng, nó lại sinh nho dại. Cho nên, vườn nho bị tan hoang, bị giày xéo, trở thành mảnh đất hoang, gai góc mọc um tùm. Đứng trước cảnh tang thương này, vịnh gia đã cầu xin: Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, xin phục hồi chúng con, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ.

Ơn cứu độ Chúa đã hứa ban, không bao giờ Người rút lại, cho dẫu, chúng ta có bội phản bất trung, bằng chứng là, Người luôn gửi các ngôn sứ, các Tông Đồ và các mục tử đến, để nhắc nhở, và dạy dỗ cho những người tội lỗi: biết quay về nẻo chính đường ngay. Các mục tử là những người mà Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay.

Các mục tử là những người nhắc nhở và dạy dỗ Dân Chúa, cho nên, trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Cả đã khiển trách nặng nề các mục tử sợ không dám sửa lỗi, không mở mắt cho những người có tội nhìn thấy điều gian ác của họ, bởi vì, bổn phận của các mục tử là: Lạy Chúa, đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài. Bài đọc hai của Thánh Lễ cho thấy: thánh Phaolô quả thực là một mục tử chân chính, khi ngài đã mạnh dạn nói cho các tín hữu Philipphê biết: Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở giữa họ, nếu họ đem ra thực hành những gì thánh nhân khuyên bảo: những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến, đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen.

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã cảnh báo cho các thượng tế và kỳ mục trong dân biết rằng: Nếu họ không sinh lợi cho vườn nho của Thiên Chúa, thì: Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.

Ítraen là vườn nho của Thiên Chúa, Hội Thánh là vườn nho của Thiên Chúa, mỗi người trong chúng ta cũng chính là vườn nho của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc, giữ gìn; bổn phận của chúng ta là: sinh lợi cho vườn nho của Chúa. Chúa ban cho chúng ta vườn nho, tức ơn cứu độ của Chúa, một ân huệ hoàn toàn nhưng không, vượt quá mọi công trạng và ước muốn của chúng ta. Chúa mới là chủ vườn, còn chúng ta chỉ là tá điền cộng tác với Chúa để chăm sóc vườn nho. Không ở đúng vị trí của mình, không ý thức được chỗ đứng của mình trong công trình cứu độ của Chúa, chúng ta sẽ tự đánh mất mình, bị loại ra khỏi vườn nho. Chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa: nếu ví Thiên Chúa như một người đang soi gương, thì chúng ta chỉ là hình ảnh trong gương mà thôi, ấy thế mà, chúng ta lại muốn tiếm quyền, thủ tiêu người đang soi gương, thì hình ảnh trong gương làm sao có thể tồn tại được? Ước gì chúng ta biết ngoan ngùy, luôn trung thành sinh lợi cho vườn nho của Chúa, nếu lỡ, có lầm đường lạc lối, thì biết mau mắn quay về xin Chúa thứ tha, để được nhận lại những ân huệ cao trọng mà chúng ta chẳng dám mơ ước đến bao giờ.

Về mục lục

SỰ TIN TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA

Thiên San, MTG. Thủ Đức

 Hôm nay, Đức Giêsu kể cho chúng ta một dụ ngôn nói về “Những tá điền sát nhân”. Ông chủ trong câu chuyện quả là người hết sức kiên nhẫn, đặt trọn niềm tin tưởng vào các tá điền. Ông cẩn thận trong cách chăm sóc vườn nho: khoét bồn đạp nho, rào dậu, xây tháp canh và cho tá điền canh tác. Ông không trực tiếp dám sát công việc của các tá điền, đến mùa cho người đến thu hoa lợi. Ấy vậy, điều ông nhận được chỉ là sự bất trung của các tá điền. Dường như sự tin tưởng của ông dành cho các tá điền bị đặt sai chỗ. Thay vì đem hoa lợi nộp cho chủ, họ đã xử rất tàn nhẫn với những kẻ được ông chủ sai đến, thậm chí giết luôn cả con trai của ông. Chuyện thật buồn.

Tin Mừng nói rõ cho chúng ta biết, khi kể câu chuyện này, Đức Giêsu nhắm đến các thượng tế và các kỳ lão trong dân. Ông chủ trong câu chuyện chính là Thiên Chúa, các tá điền là dân Israen, các đầy tớ của ông chủ là các ngôn sứ. Đọc lại lịch sử Israen, chúng ta có thể phần nào thấy rõ điều đó. Các ngôn sứ lần lượt được Thiên Chúa kêu gọi, gửi đến cho dân và nói cho họ biết về ý định của Thiên Chúa, kêu mời họ từ bỏ con đường tội lỗi mà trở về cùng Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ đã xử với các ngôn sứ y như các tá điền đã xử với các đầy tớ của ông chủ trong câu chuyện. Họ không những không từ bỏ con đường tội lỗi mà còn lấn sâu vào con đường ấy. Cuối cùng, ông chủ vườn nho đã sai chính con trai của mình vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con ta.” (Mt 21, 37). Một lần nữa, ông chủ lại đặt niềm tin tưởng của mình vào các tá điền. Thật phũ phàng, bọn tá điền vừa thấy người con trai của ông chủ liền hùa với nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt 21, 38). Họ đã giết anh ta và đem vứt ra ngoài vườn nho.

Kể đến đó, Đức Giêsu mới hỏi những người đang nghe rằng: “Vậy xin hỏi: ‘Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?’. Họ đáp: ‘Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông’.”  (Mt 21, 40 – 41). Đức Giêsu đã biết rõ câu trả lời nhưng Ngài vẫn cố tình hỏi họ để như một lời thức tỉnh họ. Đoạn Người nói tiếp: “Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”. Nói đến đây, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người có ý nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.” (Mt 21, 46).

Khi nghe câu chuyện trên, chúng ta thấy mình đang đứng ở đâu? Chúng ta có thấy được khuôn mặt của ông chủ? Có không ít người trong chúng ta sẽ nghĩ rằng, câu chuyện trên là câu chuyện của dân Israen xưa, câu chuyện nhắm đến các thượng tế và người Pharisêu thời ấy, nó chẳng liên quan gì đến tôi. Nhưng cũng có người đâu đó sẽ thấy được mình trong từng nhân vật của câu chuyện. Có khi ta cũng chỉ là những tá điền bất trung, coi thường “Ông chủ”, xử tệ với những người “Ông chủ” sai đến với ta. Là các tá điền trong vườn nho của Chúa, chúng ta được mời gọi trung tín với ông chủ khi biết nỗ lực sinh hoa lợi, sẵn sàng giao nộp hoa lợi khi “ông chủ” mời gọi. Ta có nhận ra khuôn mặt của “Ông chủ”. Mỗi ngày Chúa vẫn gửi các đầy tớ của Ngài đến với ta và mời gọi ta giao nộp hoa lợi. Ta có nhận ra điều đó? Thực ra, Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn, yêu thương và tin tưởng ở mỗi người chúng ta. Hãy là những tá điền trung tín của Chúa. Đó là cách chúng ta bày tỏ lòng kính trọng, yêu mến đối với Người.

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô Tông đồ đã dạy rằng: “Thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý.” (Pl 4,8). Thực vậy, chỉ những ai biết sống chân thật, ngay thẳng, sống hết mình sẽ luôn được trọn niềm tin tưởng của “Ông chủ”. Khi sống như vậy, chúng ta đang góp phần giúp ông chủ đặt đúng niềm tin tưởng vào chúng ta. Đừng làm ông chủ thất vọng, phải lấy đi không cho chúng ta canh tác nữa như các tá điền đã làm.

Về mục lục

VƯỜN NHO GIÁO HỘI

Jorathe Nắng Tím

Qủa thực, ông chủ vườn nho rất hạnh phúc với vườn nho của mình và hãnh diện nói với mọi người : “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (Is 5,4). Và tương quan gắn bó mật thiết giữa ông chủ và vườn nho chính là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Ngài, như ngôn sứ Isaia đã qủa quyết : “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh, chính là nhà Ítraen đó ; cây nho Chúa mến yêu qúy chuộng ấy chính là người xứ Giuđa” (Is 5,7). Nhưng rồi, chính “vườn nho – dân riêng” ấy đã làm thất vọng ông chủ của mình khi sinh ra “những trái nho dại” do làm những điều bất chính (x. Is 5,2.7).

Tin Mừng Mathêu cho chúng ta thấy : đứng trước những khước từ, tẩy chay, chống đối ngày càng dồn dập, và những âm mưu hãm hại, thủ đọan triệt hạ ngày càng bủa vây quyết liệt của người Do Thái được các Thượng tế, Kinh Sư và những người thuộc nhóm Pharisêu cực đoan dàn dựng, đạo diễn, Đức Giêsu đã không ngần ngại so sánh họ với bọn tá điền gian ác, bất trung đã bắt bớ, đánh đập, ném đá, giết chết những đầy tớ của chủ được sai đến gặp họ để thu hoa lợi trong vườn nho của ông, khi  mùa hái nho đến. Sau nhiều lần hành hung, hãm hại một số rất đông đầy tớ của chủ được sai đến, chủ quyết định sai chính đứa con thừa tự vô vàn yêu qúy của mình đến gặp đám tá điền hung dữ, với hy vọng họ sẽ không làm gì cậu. Nhưng ông chủ đã lầm, vừa thấy người con, bọn chúng bảo nhau : “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết qúach nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!. Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho và giết đi” (Mt 21, 38-39).

Thẳng thừng so sánh họ với bọn tá điền ác ôn, vô ơn, phản bội, Đức Giêsu chẳng khác nào đổ dầu vào lửa. Ngài còn nghiêm khắc bảo : “Tôi nói cho các ông hay : Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” vì thế “họ tìm cách bắt Người” (Mt 21,43.46).

Thực vậy, chương trình của Thiên Chúa là Ítraen, dân Chúa sẽ đón nhận Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, Đấng Thiên Chúa sai đến, Đấng mà các ngôn sứ đã loan báo từ bao đời trước, nhưng rất tiếc, Ítraen, dân riêng của Thiên Chúa đã không mở lòng đón nhận Ngài, bởi thế, Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, người con thừa kế được sai đến Vườn Nho – Dân Chúa đã bị hành hình, đóng đinh bởi chính dân Ngài. Và lời Kinh Thánh đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu : “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 117,22-23).

Công trình kỳ diệu ấy là Giáo Hội được khai sinh, khi Đức Giêsu xây Giáo Hội  trên tảng đá Phêrô để làm thành một dân mới biết làm cho Vườn Nho đơm hoa kết trái, “biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21,43) ; là hạt cải vốn “là loại nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất ; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được” (Mt 13,32) ; là “thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời” ; là đại hội của những người “đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới” (Dt 12,22.24).

Là “Vườn Nho mới” được Thiên Chúa làm giậu, xây tường và tiả cành, nhổ cỏ cho tươi thắm, Giáo Hội mang sứ mệnh loan báo Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ đích thực và duy nhất của nhân loại được Chúa Cha sai đến, Đấng “đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Dầu vậy, Ngài vẫn yêu thương để “những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,11-12) trong Vườn Nho Giáo Hội của Ngài.

Về mục lục

CÔNG TRÌNH CỦA CHÚA

Bông hồng nhỏ

Khởi công xây dựng một công trình, ai cũng mong muốn cho công trình của mình được hoàn tất. Hạnh phúc biết bao khi công trình ấy trở thành một công trình vĩ đại mà ai cũng thán phục. Công trình nào cũng cần ta phải nỗ lực xây dựng. Vậy, đâu là công trình kỳ diệu nhất trong cuộc đời ta? Đó phải chăng là những hoa trái của thành công? Không phải chỉ có những thành công mới đem lại cho cuộc đời ta hạnh phúc, nhưng từ những thất bại hay những gì được coi là kém cỏi trong cuộc đời, ta sẽ khám phá ra ý nghĩa sâu thẳm của một công trình rất kỳ diệu. Thiên Chúa là tác giả của công trình ấy. Chỉ có Thiên Chúa mới mang đến cho ta niềm hạnh phúc thật sự. Ta có tin thế không?

“Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Mt 21, 42). Lặng nghe lời Chúa Giêsu, ta ngẫm lại cuộc đời của mình. Đã bao lần ta cảm thấy buồn rầu, chán nản và sợ hãi khi bị người khác loại ra ngoài: không cho chơi chung, không được tín nhiệm, bị chê trách vì không có khả năng, bị hiểu lầm, … Có biết bao đau khổ đã ập đến trong đời, ta đã chao đảo “giữa ba đào sóng gió bủa vây”. Nước mắt là liều thuốc giảm đau, để sau khi đã khóc cho những thất bại hay những tổn thương, nhờ ơn Chúa, ta lại đứng dậy để bước những bước đi mới. Ta đâu có ngờ được rằng, Thiên Chúa đã dùng cả những gì mà ta xem là hèn kém, thua thiệt ấy để làm cho cây đời ta trổ sinh hoa trái.

Hãy nhìn lại và ngẫm kỹ xem, vì đâu mà ta có được lòng cảm thông với người khác? Vì đâu mà ý chí của ta ngày một kiên cường và mạnh mẽ hơn? Vì đâu mà ta có được lòng kiên nhẫn, lòng yêu mến Chúa và tín thác vào Chúa hơn? Nhìn thấy những đứa trẻ chưa kịp lớn đã phải “bon chen” giữa chợ để bán vài mớ rau, ta cũng nhớ đến quãng thời gian ta cũng phải “bon chen” như thế. Ta thương các em. Nhìn những cô bác bán hàng rong, chiều chiều đẩy chiếc xe với những loại bánh trái khác nhau, họ phải vội vã tìm chỗ trú mưa khi trời Sài Gòn “trở chứng” đổ mưa, ta nhớ đến người mẹ của ta cũng đã vất vả cả đời để nuôi dạy ta khôn lớn…  Khi một em học trò đến với ta, kể cho ta nghe về nỗi buồn của em, ta cũng đã ngậm ngùi và hiểu được phần nào nỗi buồn của em. Mỗi lần thất bại trong công việc, ta đã mạnh mẽ hơn để đón nhận thực tế, đã biết kiên nhẫn hơn để bắt đầu lại, kiên trì hơn để tìm kiếm một giải pháp mới. Nhờ thế, ta hiểu mình hơn và cũng hiểu người hơn, nhất là hiểu rằng Thiên Chúa rất yêu ta. Chính Thiên Chúa đã bày tỏ cho ta hiểu được kế hoạch yêu thương Ngài dành cho ta. Sau những vấp ngã đau thương, sau những thất bại trong học tập và trong công việc, ta đã luôn luôn tìm gặp Chúa để giãi bày tâm sự, để tìm kiếm ánh sáng cho tâm hồn, để tìm kiếm nguồn an ủi vô biên và tìm lại niềm tin yêu đã phai nhòa. Rồi một hôm, ta cảm nhận và thấu hiểu phần nào kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12:1-21). Không phải những gian khổ đem lại cho ta hạnh phúc nhưng vì tình yêu Đức Kitô hiện diện trong tâm hồn ta, Người làm cho bàn tay bủn rủn và đầu gối rã rời của ta nên mạnh mẽ (x. Dt 12,12).

 Đã bao giờ ta tự hỏi lòng mình rằng, những hoa trái có được của ta là từ đâu và thuộc về ai không? Cố gắng học hành để thi đậu, ta là người đầu tiên đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy. Sau bao nỗ lực, vất vả và kiên trì trong những thử thách của cuộc đời, ta mới đạt được những hoa trái của thành công. “Trái ngọt nào cũng được sinh ra từ những cái rễ đắng cay”, những cái rễ đã miệt mài chắt chiu dưỡng chất trong suốt một hành trình gian khổ để mang lại vị ngọt lành. Dù thành công hay thất bại, ta hãy đón nhận như từ Thiên Chúa mà đến. Cuộc đời ta chính là công trình kỳ diệu của Thiên Chúa. Hãy sống hết mình và không ngừng để cho Thiên Chúa thi thố quyền năng và tình thương của Người trong cuộc đời ta.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa chính là “tảng đá bị thợ xây loại bỏ”. Xin Chúa dạy con biết bước đi theo thánh ý của Ngài. Mỗi ngày, mỗi phút giây trong cuộc đời con, xin Chúa hướng lòng con nghiêng về thánh ý Chúa (x. Tv 119, 36). Amen.

Về mục lục

KHÔNG CÓ GÌ LÀ VÔ ÍCH

Anna Cỏ may   

 “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Mt 21,42).

Vâng, tảng đá đã bị những chú thợ xây nhà loại bỏ vì có thể nó quá to, quá nặng hay vì nó xấu. Nhìn vào bản thân mình, có bao giờ bạn thấy mình lạc lõng giữa đám đông, bị sỉ nhục trước lớp học, bị khinh chê trong buổi tiệc hay bị coi là kẻ yếu kém trong công việc…? Rơi vào các trường hợp đó, bạn đã làm gì để vượt qua?

 Chúa Giêsu đã nói: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Mt 21,42). Ngài ví tảng đá là những yếu kém của con người và nơi con người. Những yếu kém đó sẽ là tảng đá trở nên viên đá trụ cột chính của ngôi nhà Nước Trời. Sâu xa hơn, Ngài muốn ám chỉ tảng đá sẽ bị người đời loại bỏ chính là Ngài (x. Ep 2,19-22). Khi sống ở trần gian, Ngài đã bị khinh chê là con nhà nghèo (x Lc 2,6); bị nhạo báng, sỉ nhục bởi các Kinh sư và các Thượng tế; bị bỏ rơi bởi các môn đệ; bị phản bội, bị bán đứng, bị khước từ bởi người môn đệ (x. Lc 22, 47-60) và bị kết án tử hình, chịu  đóng đinh vào thập giá (x.Ga 19, 15-17). Ngài dùng những đau khổ, sự khinh chê đó để đem ơn cứu độ cho con người. Vì vậy, Ngài mời gọi những ai đang chịu những sự đau khổ, sự khinh chê và loại bỏ của thế gian hãy lấy làm vui mừng vì được nên giống Chúa, được thông dự vào công trình cứu chuộc của Ngài ở trần gian.

Mỗi người chúng ta sẽ trở nên viên đá góc khi biết hiến dâng, phó thác và cảm tạ Chúa vì những yếu kém bởi bẩn thân ta hay bởi người khác vì chính Ngài sẽ xoa dịu, sẽ bồi dưỡng cho những ai đang vất vả và sầu khổ (x. Mt 11,30). Các thánh tử đạo cũng đã phải sống dưới sự khinh chê và loại trừ của thế gian để đi theo Chúa đó sao. Bên cạnh đó, Ngài cũng kêu gọi những người có uy thế ở trần gian hãy đón nhận, tôn trọng những anh em yếu đuối như Đức Kitô đã đón nhận những lỗi lầm của con người (x. Rm 15,7). Mặt khác, chúng ta đều là thân phận con người, là bụi tro trong đám bụi tro. Trong ngày phán xét, Thiên Chúa không hỏi một điều gì ngoài tình yêu và sự bác ái chúng ta dành cho nhau (x. Mt 25, 31-46). Ai có tình yêu nơi Thiên Chúa và nơi tha nhân sẽ được hưởng sự sống ở trên Nước Trời. Vậy sao chúng ta còn kì thị và loại trừ nhau? Chúng ta được lời lãi ở thế gian nhưng lại mất cuộc sống trên Nước Trời nào được ích chi (x. Lc 9,25)

Là những người yếu kém và bị khinh chê, chúng ta hãy bắt chước Thánh Phaolô. Ngài nói: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Cuộc sống chúng ta rất ngắn, đừng lãng phí bởi những gì thuộc về thế gian, nhưng hãy là chính mình và vui vẻ bước đi theo Chúa, sống với Chúa bởi chính Ngài là Đấng dựng nên ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn như Chúa, nghĩ như Chúa và cảm nhận như Chúa để trong mọi người, mọi sự, con đều thấy giá trị, vẻ đẹp và sự tuyệt hảo của Chúa. Amen.

Về mục lục

SINH HOA LỢI

Thiên San

Thiên Chúa có một vườn nho. Sau khi đã rào dậu, khoét bồn đạp nho và xây một tháp canh, Người cho chúng ta là những tá điền vào canh tác vườn nho rồi trẩy đi xa. Trong thời gian ông chủ “trẩy đi xa”, chúng ta đã làm gì để sinh hoa trái? Hoa trái đó là gì? Khi ông chủ sai người đến thu hoa lợi, chúng ta có sẵn sàng đem nộp cho ông?

Mỗi người chúng ta là nhưng tá điền may mắn được Thiên Chúa – ông chủ vườn nho cho vào canh tác. Vườn nho ấy chính là Nước Thiên Chúa và là cuộc đời của mỗi người chúng ta. Chúng ta có muôn vàn cách thức, phương thế để sinh hoa trái. Mỗi người tuy được sinh ra trong hoàn cảnh, gia đình khác nhau nhưng tất cả đều được mời gọi sinh hoa trái. Khi làm bất cứ việc gì, ai cũng mong đến ngày thu lượm thành quả. Thiên Chúa cũng vậy. Khi trao vườn  nho cho mỗi người chúng ta, Ngài mong mỏi từng ngày, chờ đợi từng ngày cho cây đời ta sinh trái tốt. Chúng ta thật may mắn và hạnh phúc khi được Thiên Chúa tin tưởng, trao toàn quyền canh tác vườn  nho: “Ông cho tá điền vào canh tác rồi trẩy đi xa” (Mt 21,33). Trong khoảng thời gian ông chủ “trẩy đi xa” chúng ta đã làm gì? Hẳn là ai cũng nỗ lực hết mình để canh tác sao cho vườn nho sinh trái tốt. Thiết nghĩ, khoảng thời gian ông chủ “trẩy đi xa” là cơ hội để mỗi người chúng ta phát huy khả năng, sự sáng tạo, bản lãnh của mình. Thật vậy, sống ở đời, ai cũng mong được thành công, được “nở mặt nở mày”. Khi còn là học sinh, chúng ta nỗ lực học tập để có được tấm bằng; khi ra đời, chúng ta lại nỗ lực để có được một công việc ổn định, đồng lương cân xứng. Tất cả những nỗ lực ấy đòi hỏi chúng ta phải trả giá, phải bỏ công sức. Thiên Chúa nhìn thấy tất cả những nỗ lực, cố gắng của ta. Nhưng phải chăng những nỗ lực trong học tập, công việc, sự nghiệp là những hoa trái Thiên Chúa mong đợi?

“Người những mong họ sống công bình, đợi chờ họ làm điều chính trực” (x.Is 5,7). Nếu chỉ loay hoay trong những thành công theo cái nhìn của người đời, ta sẽ dễ bị thất vọng khi không đạt được điều ta mong muốn, và tệ hơn khi ta bất chấp mọi thủ đạt để đạt được nó. Nhưng nếu ta nỗ lực tìm kiếm và thực thi điều Thiên Chúa muốn, ta sẽ có được bình an, hy vọng. Bởi hoa trái mà Thiên Chúa chờ đợi chẳng phải là công bình và chính trực như sách Isaia nói tới sao? Hay như thánh Phaolô đã khẳng định: “Hoa quả của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22). Hoa quả đời ta phải là những gì thuộc về Nước Thiên Chúa, là những trái tốt được sinh ra trong Thần Khí. Khi ta sống theo các giáo huấn của Giáo hội, nhất là các giáo huấn của Đức Giêsu Kitô trong sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, chắc chắn ta sẽ sinh trái tốt. Nhưng một nghịch lý xảy ra đó là khi ta sinh được những trái tốt, ta lại lầm tưởng nó là của ta để rồi khi “Ông chủ” sai đầy tớ đến thu hoa lợi, ta không chịu “mang nộp”. Thánh Phaolô đã từng nói: “Tôi có là gì cũng là nhờ ơn Chúa” (1Cr 15,10). Sinh trái tốt là điều đẹp lòng Chúa nhưng để đẹp hơn, ta cần sẵn sàng giao nộp hoa lợi trong mọi lúc, chỉ cần “Ông chủ” yêu cầu. Ý thức được mình chỉ là những tá điền chứ không phải “Ông chủ”, ta sẽ không vênh vang, không tự đắc nhưng luôn khiêm tốn và sẵn lòng giao nộp những gì ông chủ cần.

Lạy Chúa! Chúng con tạ ơn Chúa đã cho chúng con cơ hội cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo khi giao cho chúng con vào canh tác trong vườn nho của Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn ý thức được rằng tất cả những gì chúng con có đều là của Chúa, chúng con chỉ là người canh tác. Nhờ đó, chúng con sẽ biết nỗ lực  mỗi ngày để làm cho vườn nho của Chúa sinh nhiều trái tốt và sẵn lòng dâng lại cho Chúa những gì thuộc về Ngài. Amen.

Về mục lục

ĐƯỢC GỌI LÀM VƯỜN NHO CỦA CHÚA

Lm Trần Bình Trọng

Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa nói với loài người qua các tổ phụ và ngôn sứ. Chúa sai các ngôn sứ loan báo sứ điệp của Người cho dân tộc mà Chúa tuyển chọn. Dân tộc của Chúa thường được ví như vườn nho mà Chúa vun trồng. Vào thời Chúa Giêsu, những người giàu có thường đầu tư vào vườn nho. Họ không phải đích thân canh tác vườn nho mà chỉ cần thuê người làm quản lí vườn nho cho họ. Theo luật lệ Do thái thời bấy giờ thì nếu ông chủ vườn nho chết đi mà không có con thừa tự, thì vườn nho sẽ thuộc về người nào chiếm được trước tiên.

Phúc âm hôm nay cho thấy Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh vườn nho để dạy loài người bài học luân lí. Theo cốt chuyện dụ ngôn, thì vườn nho được coi là dân tộc của Chúa. Thiên Chúa là chủ vườn nho và cũng là người trồng nho; tá điền là những thượng tế, kì lão và những nhà lãnh đạo dân; đầy tớ của chủ được hiểu là các ngôn sứ; Con một ông chủ là Ðấng Cứu thế. Tá điền khác là dân ngoại đến sau này, là dân tộc biết làm trổ sinh hoa trái. Như vậy mỗi nhân vật trong ngụ ngôn đều có vai trò để đóng với ý nghĩa riêng.

Những tá điền làm vườn nho đã hành hạ hoặc giết hại các đầy tớ của ông chủ. Họ còn căn cứ vào luật thừa tự để âm mưu chiếm đoạt vườn nho của chủ mà nói với nhau: Ðây là đứa con thừa tự, chúng ta hãy giết hắn đi để chiếm đoạt vườn nho này (Mt 21:38). Rồi họ giết chết con ông chủ. Họ hiểu rằng họ là những tá điền làm vườn nho của chủ. Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi họ xem ông chủ vườn nho sẽ xử tội thế nào với bọn tá điền? Họ đành lòng trả lời: Ông sẽ tru diệt chúng và trao cho các tá điền khác canh tác vườn nho (Mt 21:41). Cuối Phúc âm Chúa áp dụng sách lược gậy ông đập lưng ông đối với họ khi Chúa nói vườn nho sẽ được trao cho dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa trái.

Ðọc lịch sử cứu độ, Thánh kinh chỉ cho thấy Thiên Chúa mong mỏi được thông đạt với dân Người. Chúa sai các ngôn sứ đến để làm việc thông đạt. Ngôn sứ là người có thể nói tiên tri, nghĩa là tiên báo những biến cố xẩy ra trong tương lai. Tuy nhiên ngôn sứ không nhất thiết phải nói tiên tri. Ðúng hơn, ngôn sứ là người phát ngôn viên của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của ngôn sứ là nhắc nhở cho dân chúng biết họ là ai, họ phải sống như thế nào và phải làm gì cho xứng đáng là dân được chọn. Khi vị ngôn sứ nhắc nhở cho dân chúng như vậy, thường mang một sứ điệp, không làm dân chúng hài lòng. Khi vị ngôn sứ phải cảnh giác dân chúng về tội như gian tham, không sống theo đường lối của Chúa, lại còn thờ tà thần, ngẫu tượng, thì không được dân chúng đón tiếp và chấp nhận, bởi vì sứ điệp mà người ngôn sứ loan báo, là sứ điệp cảnh giác và kết án.

Các thượng tế và kì mục là những người lãnh đạo tôn giáo, chính trị và dân sự trong dân. Thay vì hướng dẫn dân chúng sống theo đường lối của Chúa, họ lại đưa dân đi lạc đường của Chúa. Họ hành hạ, đánh đập hoặc sát hại các ngôn sứ mà Chúa sai đến. Khi Chúa Cứu thế đến giảng dạy đường lối của Chúa, họ không chấp nhận Người. Những thiên kiến và ước vọng sai lầm của họ về Ðấng Cứu thế làm cản trở bước đường của họ đến với Chúa. Vì thế họ từ khước sứ điệp của Người. Cuối cùng họ lên án tử hình Con Một Chúa.

Mỗi người tín hữu được gọi để làm tá điền trong vườn nho của Chúa. Mỗi người đều có phận vụ khác nhau trong việc làm vườn nho của Chúa hoặc là xếp, cai hay thợ vườn nho. Mỗi người cũng có thể được trao cho vườn nho hoặc lớn hay nhỏ để canh tác. Vườn nho đó là Giáo hội, giáo xứ, cộng đồng, trường học, gia đình, hoặc tổ chức công giáo tiến hành. Vườn nho đó còn là những tài năng vật chất, trí tuệ và tinh thần Chúa ban. Vườn nho đó cũng chính là nhà linh hồn của ta. Thánh Phaolô dạy ta canh tác vườn nho bằng cách thực hành những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen (Pl 4:8).

Vườn nho mà ta được trao phó để canh tác có sinh hoa trái tốt hay không thường tuỳ thuộc vào cách thế ta canh tác. Chủ vườn nho trong sách ngôn sứ Isaia phải cho cuốc đất nhặt đá, trồng giống nho qúi, xây vọng gác giữa vườn, rồi khoét bồn đạp nho (Is 5:2). Ðể canh tác vườn nho của Chúa, ta phải làm gì? Vườn nho là linh hồn ta có được nuôi dưỡng bằng của ăn thiêng liêng hay đã bị đói lả? Nếu như vậy thì hôm nay ta cần lắng nghe lời Chúa cảnh giác: Nước Thiên Chúa sẽ được cất khỏi các ông, để trao cho dân tộc khác, biết làm trổ sinh hoa trái (Mt 21:43). Ðó cũng là ý nghĩa của lời ngôn sứ Isaia tiên báo là vườn nho nhà Ít-ra-en (Is 5:7a) sẽ bị biến thành mảnh đất hoang vu (Is 5:6). Vườn nho của nước Chúa được trao cho Giáo hội của Chúa mà chính Chúa Giêsu là tảng đá góc tường của Giáo hội (Mt 21:42). Là những tá điền canh tác vườn nho của Chúa, ta phải làm gì và làm sao cho vườn nho của Chúa được trổ sinh hoa trái?

Lời nguyện xin cho được trung thành canh tác vườn nho của Chúa:

Lạy Chúa, Chúa là chủ vườn nho bao la bát ngát.

Vườn nho của nước Chúa là Giáo hội rộng mêng mông

với những thửa vườn và luống nho đủ cỡ.

Chúa gọi mỗi người canh tác những khu vườn khác nhau,

người làm việc này, người làm việc nọ:

nhổ cỏ, quốc đất, bón phân, tưới cây, làm dàn, rào dậu…

trong tinh thần cộng tác và liên đới trách nhiệm.

Xin dạy con phải canh tác vườn nho thế nào

cho vườn nho của nước Chúa được sinh hoa kết quả. Amen.

Về mục lục

VƯỜN NHO

Lm Vũđình Tường

Khó có thể xác định chính xác tâm tính con người bằng nhận xét bề ngoài. Qua cộng tác, nhất là về thương mại, kinh doanh liên quan đến tiền, tài, lợi lộc, người ta hiểu rõ hơn bản chất thật của người đó. Bởi bản tính thật từ trong tâm khảm được lộ ra. Ba dụ ngôn về vườn nho trong ba tuần qua cho thấy mỗi dụ ngôn đều nói lên một tính xấu tiềm ẩn trong con người. Dụ ngôn vườn nho thứ nhất Mt 20:1-16, nói lên tính ghen tị. Nhóm thợ thuê sáng sớm đồng í tiền công một ngày một đồng, đến khi nhận đủ một đồng họ phàn nàn nhóm thợ thuê gần tối làm có một giờ mà cũng nhận công như họ, như thế là thiếu công bằng. Chủ đáp, đã đồng í một đồng, nhận đủ, còn phàn nàn gì nữa. Tại sao lại ghen tị vì tôi nhân lành. Dụ ngôn vườn nho thứ hai Mt 21:28-32, người cha sai hai con đi làm vườn nho. Người con đáp ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ nhưng anh ta thưa cho vui lòng cha mình mà không thực hành điều anh hứa. Như thế không những anh vừa thất hứa với cha anh, vừa tự dối lòng mình. Dụ ngôn vườn nho thứ ba Mt 21:33-43 cho thấy nhóm người thuê đất, chủ trương cướp đất của chủ. Họ không muốn trả tiền thuê đất, còn bàn nhau giết chết con của chủ hy vọng hưởng gia tài cha anh để lại cho anh. Như thế họ chủ trương giết người, cướp của. Tiên tri Isaiah 5,7 cho biết vườn nho là nhà Israel and Juda. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Công việc xảy ra tốt đẹp, mọi sự coi như yên ổn cho đến khi mùa thu hoạch đến lúc đó vấn đề mới phát sinh. Vườn nho mọc tươi tốt, hoa trái rũ cành là nguyên nhân gây nên lòng tham cướp của. Theo luật thuê vườn thời đó thì đến mùa thu hoạch, chủ vườn có quyền hưởng một phần hoa trái thu hoạch. Người thuê vườn không làm tròn bổn phận người thuê mà còn muốn cướp vườn của chủ. Cho đến lúc này nhóm lãnh đạo Đền Thờ và Trưởng Lão không biết dụ ngôn Đức Kitô nói ám chỉ về cách hành xử xấu xa, tồi tệ của họ. Khi Đức Kitô hỏi í kiến họ nên đối xử thế nào với người thuê vườn bất lương đó. Họ đáp, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông. Mt 21,41. Câu kết luận của bài đọc cho biết Đức Kitô đối xử với nhóm lãnh đạo Đền Thờ và Trưởng Lão đúng hệt như họ đề nghị. Như thế chính họ tự kết án hành động của họ. Nước Thiên Chúa sẽ lấy khỏi các ông và trao cho dân biết làm cho nước ấy sinh hoa trái Mt 21,43

Tự cao, tự ngạo khiến nhóm lãnh đạo Đền Thờ và Trưởng Lão che mất cái khôn ngoan của họ, khiến họ không nhận ra sự khác biệt giữa chức vụ và bản tính. Chức vụ con người luôn thay đổi; nay chức này, mai tước nọ. Bản tính cá nhân thì không. Chức vụ của nhóm lãnh đạo ĐềnThờ và Trưởng lão là đại diện dân chúng. Đúng ra họ có trách nhiệm phục vụ vườn nho, có nghĩa là phục vụ dân chúng. Họ đã không phục dân chúng mà còn bắt dân chúng phụng sự họ. Nhóm này đưa ra rất nhiều luật lệ đến độ luật họ đưa ra trở thành gánh nặng cho cuộc sống hàng ngày của người dân. Thay vì đón nhận Đức Kitô, Con Thiên Chúa, họ không làm điều đó còn tìm cách xua Ngài ra khỏi Đền Thờ và lập mưu giết chết, treo Ngài trên thập tự. Như thế rõ ràng Đức Kitô tiên đoán cái chết của Ngài, đồng thời cũng nói cho lãnh tụ Đền Thờ biết tâm tính ác độc của họ. Họ không tôn thờ Thiên Chúa còn cấm người khác thi hành í Chúa, giết chết nhóm tá điền đến thực hành điều ông chủ mong đợi. Chối bỏ Đức Kitô chính là chối bỏ nững gì Ngài ban phát, đó là sống trong bình an, ơn làm con Thiên Chúa và sự sống trường sinh. Con người dù tài giỏi đến đâu cũng không đủ khả năng ngăn cản điều Thiên Chúa muốn thực hiện. Bởi nhóm lãnh đạo Đền Thờ không đón nhận nước Thiên Chúa nên nước đó được trao ban cho mọi dân, mọi nước. Bất cứ ai mở lòng đón nhận nước Thiên Chúa người đó sẽ được Chúa đón nhận, trở thành con Thiên Chúa, thành dân riêng của Chúa. Chúng ta chung lời cảm tạ Chúa đã cho phép chúng ta trở thành môn đệ, dân riêng Ngài.

Về mục lục

GHEN TỨC

Trầm Thiên Thu

Ghen Ăn Tức Ở Mang Thêm Khổ Sở

Nhịn Nhục Yêu Thương Nhận Lấy An Vui

Đó là lẽ tất nhiên, không chỉ trong đạo mà ngoài xã hội cũng vậy. Nhưng đâu dễ mấy ai thanh thản sống được như vậy, bởi vì cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê, luôn phải cố gắng không ngừng để chiến thắng chính mình.

Thật hay khi Việt ngữ nói Ghen Tức – vì GHEN và phát TỨC. Thật vậy, ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét; nịnh hót thì đắc thắng, nói thẳng thì thua oan. Vấn đề “ghen ăn, tức ở” là chuyện thường thấy trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống đời thường – kể cả trong tôn giáo. Ghen tương (ghen tuông) là trạng thái cảm xúc bình thường. Nó chỉ bất thường khi người ta không kiểm soát được sự bùng phát dữ dội của nó, khiến bản thân và đối tác kiệt sức.

Tacitus (56–117 TCN), nhà sử học lỗ lạc của đế quốc Rôma cổ đại, nói: “Khi đầy lòng ghen tị, người ta chê bai mọi thứ, dù tốt hay xấu.” Thật vậy, “béo chê béo trục béo tròn, gầy chê xương sống xương sườn giơ ra.” (ca dao) Thế thì cỡ nào cũng… “chết.” Nếu người ta không ghen ghét ai, không cầu cạnh ai, không chờ đợi sự khen ngợi, không cho “cái tôi” vùng lên, chắc chắn làm gì cũng tốt lành.

Một số người cho rằng ghen tuông là cách thể hiện để người khác biết rằng họ muốn được yêu thương, được chăm sóc – giống như đứa trẻ hờn dỗi hoặc tức giận. Tuy nhiên, có mặt tiêu cực của ghen tuông: nó cho thấy sự kém tự tin, tự đánh giá thấp giá trị bản thân, hoặc các vấn đề tiềm ẩn trong mối quan hệ giữa đôi bên.

Trong cuộc sống, chúng ta thường nghe nói tới luật “Nhân – Quả.” Luật gì? Nhân Quả là một phạm trù dùng để chỉ mối liên hệ nguồn gốc tất yếu của các hiện tượng, trong đó hiện tượng này (nguyên nhân) sản sinh ra hiện tượng khác (kết quả). Người Việt cũng có khái niệm Nhân Quả khi nói: “Ở hiền gặp lành” (tích cực), “Gieo gió gặt bão” (tiêu cực), hoặc “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.” Người Anh cũng có cách nói tương tự: “You reap what you sow.” (Bạn gặt những gì bạn gieo.) Có lẽ cũng có thể so sánh luật Nhân Quả tương tự loại vũ khí Boomerang của thổ dân Úc, ném đi rồi nó lại quay về mình. Người Việt gọi là “gậy ông đập lưng ông.”

Trong đời sống, nguyên lý Nhân Quả diễn ra theo quá trình mà “phần biết” và “phần được biết” chỉ là sự phân lập từ một tổng thể là “cái biết,” vì thế hiện tượng mà nó tạo ra được gọi là “hiện tượng nội sinh” – loại hiện tượng gọi là “karma” (nghiệp, nghiệp chướng – theo Phật học). Phật giáo quan niệm rằng hiện tượng này không do đấng quyền năng tối cao hoặc thế lực siêu nhiên chi phối, cho nên “nhân quả” được xem là nguyên lý quan trọng nhất của đời sống, khi các vấn đề trong đời sống được tìm hiểu từ bản chất của nó. Tất nhiên không phù hợp với Công giáo.

Theo hướng đó, chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo.” Câu này được  rút gọn từ câu ngạn ngữ Trung Hoa: “Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai.” Trong đó, “ác giả” là người xấu, sự dữ; “ác báo” là sự xấu đáp lại; “thiện giả” là người tốt, việc tốt; “thiện lai” là điều lành đáp lại. “Ác giả ác báo” nghĩa là người làm việc ác thì gặp điều ác báo lại, hoặc việc ác này sẽ bị việc ác khác báo lại – thường gọi là “quả báo.” Câu này nêu lên sự ảnh hưởng tương tác của hành động, ngụ ý khuyên người ta chớ làm việc ác để tránh sự dữ, và nên ăn ở hiền từ để gặp sự lành: “Ở hiền gặp lành.” Người Tây phương cũng có một câu theo tinh thần Kinh Thánh: “Kẻ nào đào hố bẫy ai thì kẻ đó sẽ rơi xuống hố.” Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Rõ ràng thực chất con người rất tâm linh.

Trình thuật Is 5:1-7 là “Bài Ca Vườn Nho,” với ca từ giản dị: “Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình. Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, Giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho. Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi, Xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho. Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại? Vậy bây giờ, tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: Hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo.”

Đời nông dân vất vả khổ cực nên luôn muốn điều tốt, thế mà điều xấu lại xảy ra với họ. Họ luôn muốn lúa và hoa màu tốt tươi để có vụ bội thu, thế mà có khi mùa màng lại thất bát, thậm chí có khi bị trắng tay vì bão lụt hoặc bị kẻ xấu chặt phá. Thật oan ức khi phải chịu bất công, cứ phải cắn răng sống chung với “cỏ lùng.” (Mt 13:24-30) Tác giả “Bài Ca Vườn Nho” kể cho người bạn thân nghe biết về vườn nho của mình, muốn có nho tốt mà lại chỉ thấy nho dại. Thất vọng ê chề, nhưng đành phải chặt phá hàng giậu cho “vườn bị tan hoang” và đập đổ tường cho “vườn bị giày xéo.” Khổ tâm lắm!

Kinh Thánh ví Nước Trời với nhiều thứ, “vườn nho” là một trong các thứ đó. Thánh Vịnh gia cho biết: “Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai Cập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng.” (Tv 80:9) Vì là giống tốt nên “bóng um tùm phủ xanh đầu núi, cành sum sê rợp bá hương thần, nhánh vươn dài tới phía đại dương, chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả.” (Tv 80:12) Thế nhưng bất ngờ xảy ra điều khác thường: “Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang.” (Tv 80:13-14)

Thế là vườn hoang, nhà trống, nhưng không phải bởi chủ nhân bất cẩn hoặc bỏ mặc, mà vì kẻ xấu. Ai vậy? Chẳng còn ai trồng khoai đất này nữa, chính các tội nhân chúng ta đã làm hư hại Vườn Nho của Thiên Chúa. Với tâm tình yêu thương của Đấng giàu lòng thương xót, Thánh Vịnh gia vẫn chân thành cầu xin: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh.” (Tv 80:15-16) Lời trần tình tha thiết và da diết lắm!

Và không chỉ cầu nguyện với tư cách cá nhân, Thánh Vịnh gia còn đại diện cho cả nhân loại mà thề hứa trước Tôn Nhan Thiên Chúa: “Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài. Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ.” (Tv 80:19-20) Thiên Chúa đã thương xót mà bỏ qua tất cả, chúng ta lại diễm phúc được làm con cái Ngài và được thừa kế gia nghiệp của Ngài. Chúng ta không thể không tạ ơn Ngài, đó cũng là trách nhiệm của mỗi chúng ta.

Thiên Chúa uy quyền, thẳng thắn và không thiên vị, nhưng Ngài rất nhân hiền, không chấp lách, chỉ cần chúng ta biết chân thành nhận lỗi là Ngài tha thứ ngay. Thật vậy, Thánh Phaolô động viên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu.” (Pl 4:6-7) Ôi, thế thì còn gì bằng, không lo chẳng sợ chi nữa. Noi gương Thiên Chúa, Thánh nữ Clara cũng đã từng nói với các nữ tu: “Đừng sợ! Hãy tín thác vào Chúa Giêsu!” Tuy nhiên, chớ thấy vậy mà ỷ lại hoặc ảo tưởng, vì đó là kiêu ngạo. Thiên Chúa không muốn ở gần kẻ kiêu ngạo.

Ngoài ra, Thánh Phaolô còn căn dặn: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.” (Pl 4:8-9) Hai mệnh lệnh cách “hãy để ý” và “hãy đem ra thực hành” rất quan trọng. Đó là điều chúng ta phải cố gắng ý thức và ghi nhớ. Ngắn gọn và đơn giản nhưng không dễ thực thi chút nào!

Trình thuật Mt 21:33-43 (≈ Mc 12:1-12 và Lc 20:9-19) là dụ ngôn “Những Tá Điền Sát Nhân.” Đó là câu chuyện rất thực tế. Trong đó cũng có vấn đề liên quan lòng đố kỵ và ghen tức. Con gà còn tức nhau tiếng gáy huống chi con người – sinh vật cao cấp có lý trí và tự do. Cái “ghen tức” của con người rất đáng sợ, bất chấp và dám làm mọi việc ác – kể cả sát hại – để cái tôi của mình lấn át người khác.

Chúa Giêsu kể một dụ ngôn liên quan sự ác độc của con người: Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền lần lượt bắt các đầy tớ của ông: Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng chúng sẽ nể người con đó. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. Đúng là “trẻ không tha, già không thương, thấy ai cũng xốn con mắt.”

Khi đó, Chúa Giêsu thản nhiên hỏi họ: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Họ đồng thanh: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” Có lẽ lúc đó Đức Giêsu vừa cười vừa gật đầu vì thấy họ nói đúng, rồi Ngài đặt vấn đề: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” Ngài biết họ là những kinh sư và thầy thông luật, thuộc Cựu Ước làu làu, dẫn chứng câu nào đoạn nấy rất rạch ròi, thế nên Ngài “nhắc khéo” họ về Thánh Vịnh: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường.” (Tv 118:22) Họ có tiếng là “có cả bụng chữ” nhưng họ chỉ thuộc mặt chữ chứ chẳng hiểu ý nghĩa thâm sâu.

Cuối cùng Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, KHÔNG cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” (Mt 21:43) Đó cũng là lời Đức Giêsu Kitô đang “nhắc khéo” mỗi chúng ta về cách hành xử với Thiên Chúa và với tha nhân, đặc biệt là những người “yếu kém” hơn mình, về cả vật chất lẫn tinh thần. “Đá Tảng” đó là gì hoặc là ai? Không còn ai trồng khoai đất này, đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết để cứu độ chúng ta, mà chính tay chúng ta cũng nhúng chàm, mỗi chúng ta cũng là thủ phạm đã giết Con Thiên Chúa. Chúng ta không trực tiếp đóng đinh Ngài, nhưng chúng ta trực tiếp sát hại Ngài khi chúng ta “giết” tha nhân bằng nhiều loại đinh nhọn và sắc bén: Lời nói, ánh mắt, cử chỉ, thái độ, mưu mô,… thậm chí là hành động.

Ngày nay, chính Chúa Giêsu lại một lần nữa cảnh báo mỗi chúng ta: “Ai ngã xuống ĐÁ này, kẻ ấy sẽ tan xương; ĐÁ này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt.” (Mt 21:44) Thật đáng sợ, không là lời ngăm đe hoặc hù dọa. Đúng là đáng sợ thật, bởi vì Chúa Giêsu đã có lần cảnh cáo: “Nếu không sám hối thì sẽ chết hết.” (Lc 13:3) Ai cũng là tội nhân, vấn đề hơn thua nhau chỉ là biết nhận lỗi và có sám hối hay không. Chỉ có cách là xì hơi “bong bóng cái tôi” để có thể không Ghen và không Tức.

Các hiền triết cũng có quan niệm giống nhau về khái niệm “ác giả, ác báo.” Đó là một dạng ý thức hệ. Khổng Tử nói: “Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, thiên báo chi dĩ họa.” (Người làm điều tốt lành thì trời lấy phúc báo đáp lại người đó, kẻ làm điều không tốt lành thì trời lấy họa báo đáp lại kẻ đó.) Còn Trang Tử nhận định: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác tự giai khởi.” (Nếu một ngày không nghĩ đến điều thiện, mọi điều ác sẽ tự dấy lên.) Và sách “Minh Tâm Bửu Giám” ghi: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác.” (Làm việc thiện sẽ được điều tốt, làm việc ác sẽ gặp điều xấu.) Các hiền triết cũng chỉ là phàm nhân mà họ vẫn có thể nhận biết như vậy, tư tưởng gần gũi với Đức Kitô, họ đúng là thánh nhân rồi, thật đáng khâm phục và đáng để chúng ta noi gương. Các tư tưởng lớn sẽ “gặp nhau” vào một lúc nào đó.

Sự ghen tức liên quan cơn nóng giận. Kinh Thánh nói: “Người chậm giận thì đầy sáng suốt, kẻ nóng tính để lộ cái dại khờ. Áp bức người yếu thế là sỉ nhục Đấng tạo thành nên họ, thương xót kẻ khó nghèo là tôn kính Đấng dựng nên người đó.” (Cn 14:30 và 31)

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận ra con bất trác và bất túc để không ảo tưởng, Xin giúp con biết khiêm hạ và sẵn sàng hành động theo Ý Ngài. “Xin giúp con đơn giản hóa cuộc sống bằng cách nhân biết Ngài muốn con là gì và trở thành con người đó.” (Thánh Teresa Hài Đồng) Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Từ Bài Đọc I đến Tin Mừng cách nhau khoảng tám trăm năm, nhưng cả hai đối đáp với nhau qua dụ ngôn vườn nho với cung điệu bi thương.

Is 5: 1-7

Trong bài thi ca trữ tình theo thể hát đối, ngôn sứ I-sai-a ca ngợi vườn nho được người chủ hết lòng chăm sóc, nhưng vườn nho lại sinh trái nho dại ngược với lòng mong ước của ông. Lúc đó, lời oán trách của vị ngôn sứ vang lên: vườn nho vô ơn bạc nghĩa, “chính là dân Ít-ra-en”.

Pl 4: 6-9 

Những lời thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê thì ngược lại, đây là sứ điệp tràn ngập bình an, chan chứa tin tưởng và đầy nhân ái.

Mt 21: 33-43

Tin Mừng là dụ ngôn “các tá điền gian ác”: sau khi bách hại các tôi tớ của ông chủ vườn nho, chúng giết cả người con một của ông để mong chiếm đoạt vườn nho.

BÀI ĐỌC I (Is 5: 1-7)

Bài thi ca của ngôn sứ I-sai-a rất nổi tiếng mô tả dân Ít-ra-en là vườn nho của Đức Chúa. Trước đây, hình ảnh dân Ít-ra-en là vườn nho của Chúa được ngôn sứ Hô-sê phác họa vài nét đơn sơ, nay được ngôn sứ I-sai-a lấy lại với một nguồn thi hứng phong phú. Vì thế, hình ảnh nầy được lập lại nhiều lần trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 32: 32), Thánh vịnh (Tv 80), bởi ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 2: 21; 5: 10; 6: 9; 12: 10), ngôn sứ Êdê-ki-en (Ed 15: 1-8; 19: 10-14), vân vân. Dụ ngôn vườn nho của Đức Giê-su (Mt 21: 33-41) rõ ràng quy chiếu đến bài thi ca của I-sai-a.

  1. Ngữ cảnh

Khoa chú giải có thể định vị niên biểu của bài thi ca vườn nho nầy vào khoảng năm 737 trước Công Nguyên, nghĩa là vào giai đoạn đầu sứ vụ của ngôn sứ I-sai-a ở Giê-ru-sa-lem trước khi thành thánh bị vương quốc Sy-ri liên minh với vương quốc phương Bắc vây hãm.

Trước đó, ngôn sứ I-sai-a đã lên án tội thờ ngẫu tượng của vương quốc phương Bắc, vương quốc Ít-ra-en, mà thủ đô là Sa-ma-ri. Khi hướng nhìn về vương quốc phương Nam, vương quốc Giu-đa, mà thủ đô là Giê-ru-sa-lem, ngôn sứ I-sai-a thất vọng theo cách khác: bất công, áp bức những kẻ nghèo hèn cô thế, bạo lực, máu và nước mắt, giả nhân giả nghĩa, vân vân. Bài thi ca vườn nho của ông là một lời cảnh báo.

Chúng ta có thể hình dung vị ngôn sứ ngâm hay hát bài thi ca của ông trên hành lang đền thờ vào dịp lễ hội thu hoạch nho (sau nầy được gọi lễ Lều). Lễ hội nầy kéo dài một tuần lễ. Vào ngày khai mạc và ngày kết thúc, các nghi lễ diễn ra trong khuôn viên đền thánh. Dù thế nào, Pa-lét-tin là miền đất trồng nho, vì thế, bài thi ca của ngôn sứ I-sai-a gây tác động mạnh độ nhạy cảm của một dân trồng nho.

  1. Cấu trúc

Bài thi ca được xây dựng theo hình thức một bài thi ca trữ tình, nhưng tình phụ bạc. Thiên Chúa là hôn phu và là người trồng nho, còn Ít-ra-en là hôn thê và là cây nho hoặc vườn nho. Trong bài thi ca nầy, hai hình ảnh “người trồng nho và cây nho” và “hôn phu và hôn thê” được lồng vào nhau một cách mật thiết. Sự ân cần chăm sóc của người chồng được đền đáp bởi sự bất trung của người vợ. Người chồng bị tình phụ xin đám đông phân xử. Như trong các bài thi ca trữ tình, bài thi ca nầy được sáng tác theo thể hát đối.

Trước hết, vị ngôn sứ, đại diện bạn mình là người trồng nho, cất tiếng hát (5: 1-2). Đoạn, đến phiên mình, người chủ vườn nho thổ lộ nỗi niềm tâm sự và bừng bừng nổi giận (5: 3-6). Sau cùng, vị ngôn sứ tiếp lời (5: 7), chính lúc đó mặc khải gây choáng váng: ông chủ vườn nho không ai khác chính là Đức Chúa; vườn nho không sinh trái tốt chính là Ít-ra-en, dân bất trung sẽ bị trừng phạt vì phụ tình bạc nghĩa của nó.

  1. Bạn của người chủ vườn nho (5: 1-2)

Vị ngôn sứ tự xưng mình là “bạn của người chủ vườn nho”, chắc chắn tước hiệu nầy được gợi hứng bởi “bạn của chàng rể” trong những bài tình ca được hát trong đám cưới (tước hiệu này thánh Gioan Tẩy Giả sẽ áp dụng cho mình). Bài thi ca mô tả người chồng hết mực trìu mến chăm lo cho người vợ của mình như ông chủ vườn nho ân cần chăm sóc vườn nho của mình, rào giậu chung quanh, trồng giống nho tốt “trên sườn đồi màu mỡ”.

Đức Giê-su sẽ trích dẫn đúng nguyên văn vài chi tiết của bài thơ trong dụ ngôn của mình về “bọn tá điền sát nhân”“Có một gia chủ kia trồng được vườn nho; chung quanh vườn, ông rào dậu; ông khoét bồn đạp nho, và xây một vọng gác” (Mt 21: 33). Một vọng gác được xât trong vườn nho nói lên tấm lòng ân cần chăm sóc hết mức của người chủ đối với vườn nho của mình: canh giữ ngày lẫn đêm, trông chừng những tên hái trộm, những con thú phá hoại … Than ôi, cho dù được ông chủ vườn nho ân cần săn sóc đến như thế, vườn nho chỉ sinh trái nho dại!

  1. Người chủ vườn nho (5: 3-6)

Đến phiên mình, người chủ vườn nho thổ lộ tâm can của mình. Ông xin toàn thể dân chúng làm chứng cho những công sức đổ ra vô ích của mình:

Vậy bây giờ,

dân Giê-ru-sa-lem, và người Giu-đa hỡi,

xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho” (5: 3).

Dụ ngôn trở nên rõ nét hơn. Theo hình ảnh nầy, độc giả nhận ra ông chủ vườn nho thật sự là ai. Vườn nho vô ơn bạc nghĩa sẽ đón nhận sự trừng phạt đích đáng:

“Tôi biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu,

không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm;

sẽ truyền lệnh cho mây, đừng để mưa tưới xuống” (5: 6).

Đây là lối nói ngoa dụ, nhưng cũng để cho thoáng thấy một ông chủ vườn nho quyền năng.

  1. Ngôn sứ (5: 7)

Vị ngôn sứ lại cất tiếng hát. Mặc khải của ông được chuẩn bị khéo léo. Dân chúng tự kết án mình vì họ không còn cách nào ngoài thú nhận mình là vườn nho được vun trồng chăm sóc hết mực nhưng chỉ sinh những trái nho dại.

Phương pháp tâm l‎ý nầy nhắc nhớ phương pháp mà ngôn sứ Na-than áp dụng cho vua Đa-vít, khi vua cướp đoạt vợ của tướng U-ri. Na-than xây dựng một dụ ngôn kể về người giàu cướp đoạt con chiên độc nhất của người nghèo. “Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy”. Na-than nói với vua: “Kẻ đó chính là Ngài” (2Sm 12: 1-7). Dụ ngôn của ngôn sứ I-sai-a cũng theo một cách như vậy:

“Vườn nho của Đức Chúa, các đạo binh,

chính là nhà Ít-ra-en đó;

cây nho Chúa mến yêu quý chuộng,

ấy chính là người xứ Giu-đa” (5: 7).

BÀI ĐỌC II (Pl 4: 6-9)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh nhân đề nghị một khuôn mẫu sống theo đó di sản Do thái giáo, mặc khải Ki-tô giáo và lý tưởng Hy-lạp hòa hợp với nhau.

  1. Di sản Do thái giáo

“Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”. Nét đặc trưng của lời cầu nguyện Do thái giáo là lập đi lập lại những lời ngợi ca cảm tạ tri ân: “Ngợi khen Thiên Chúa…Chúc tụng Thiên Chúa…”, theo đó các tín đồ khẩn khoản nài xin Thiên Chúa luôn rủ lòng thương. Mặt khác, lời ngợi ca được xen kẻ với những lời thỉnh nguyện. Các Thánh Vịnh minh chứng rất rõ nét điều nầy. Thánh Phao-lô, trung thành với truyền thống nầy, dễ dàng thích ứng truyền thống nầy vào trong lời cầu nguyện Ki-tô giáo và khuyên bảo các tín hữu Phi-líp-phê thực hành như thế.

  1. Mặc Khải Ki-tô giáo

“Bình an của Thiên Chúa, là bình an không ai hiểu thấu, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Ki-tô”: Chúc bình an cũng thuộc vào truyền thống Do thái giáo. Ở đây, không chỉ cầu xin “bình an”nhưng còn những ơn khác nữa. Theo gương Đức Giê-su, thánh Phao-lô đem đến cho chữ “bình an” một chiều kích mới. Đối với thánh nhân, bình an của Thiên Chúa, chính là bình an mà hy tế của Đức Giê-su đã mang lại cho chúng ta. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã hòa giải muôn loài muôn vật với mình. Nhờ Thánh Thần của Ngài, Ngài toả rạng bình an giữa các Ki-tô hữu với nhau và giữa các Ki-tô hữu với muôn dân. Bình an là một khía cạnh của cuộc sống đời đời, được khởi sự từ dưới thế nầy.

  1. Lý tưởng Hy lạp

Thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Thánh nhân bảo họ đừng từ bỏ, nhưng hãy thấm nhập vào trong con người họ những đức hạnh mà truyền thống cha ông của họ đã dạy: “Những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý”.

Như vậy, thánh Phao-lô đã không dửng dưng trước l‎ý tưởng luân lý của truyền thống văn hóa Hy lạp. Ki-tô giáo không nhằm loại bỏ “những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt”. Thánh nhân đã hình thành nên “học thuyết nhân bản Ki-tô giáo”. Nhưng học thuyết nầy để thực sự là Ki-tô giáo phải dựa vào lời dạy tông đồ để không có bất kỳ kiếm khuyết nào và sai lệch nào: “Những gì anh em đã học hỏi, đã hấp thụ, đã nghe, đã thấy nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành”.

TIN MỪNG (Mt 21: 33-43)

Tiếp theo dụ ngôn “hai người con” mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Mát-thêu tiếp tục kể dụ ngôn “những tá điền gian ác” trong cùng một chiều hướng và cùng nhắm đến một đối tượng: “Các thượng tế và các kỳ mục”.

  1. Dụ ngôn

Đức Giê-su mượn ở nơi bài thi ca của ngôn sứ I-sai-a hình ảnh về một gia chủ “trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; ông khoét một bồn đạp nho, và xây một vọng gác”, nhưng lại triển khai theo một chiều hướng khác với I-sai-a. Trong sấm ngôn của I-sai-a, đối tượng được nhắm đến là vườn nho. Dù được chăm sóc chu đáo, nhưng vườn nho lại sinh những trái nho dại, vì thế, bị bỏ rơi thành hoang phế. Trái lại, trong dụ ngôn, đối tượng được nêu bật là thái độ gian ác của bọn tá điền.

Ông chủ vườn nho “trẩy đi xa” và để vườn nho cho bọn tá điền thuê. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai gia nhân của mình đến thu hoạch huê lợi. Các tá điền không chỉ không giao nộp huê lợi như đã giao ước, trái lại “chúng đánh người nầy, giết người kia, ném đá người nọ”.

Vẫn một mực nhẫn nại, ông chủ vườn nho cố thử thêm một lần nữa: “sai một số đầy tớ khác đông hơn trước; nhưng bọn tá điền vẫn cư xử với họ y như vậy”. Cuối cùng, ông quyết định liều sai đứa con trai một của mình: “Thế là chúng bắt lấy cậu, lôi ra ngoài vườn nho và giết chết cậu”.

  1. Ý nghĩa của dụ ngôn đối với lịch sử cứu độ

Dụ ngôn nầy diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Vườn nho của Thiên Chúa chính là dân Ít-ra-en. Ngài đã trao cơ nghiệp của Ngài cho các giai cấp lãnh đạo Do thái để họ vun xới và làm trổ sinh hoa trái. Biết bao lần, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ phải trung thành tuân giữ giao ước, nhưng họ đã ngược đãi, bách hại và giết chết các ngài. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn sai lần lượt các ngôn sứ này đến các ngôn sứ khác, nhưng họ không hề thay đổi, vẫn cư xử các ngài theo cùng một cách như thế. Nhưng sự nhẫn nại của Thiên Chúa vẫn không hề vơi, cuối cùng Ngài sai chính con một của Ngài với hy vọng: “Chúng sẽ nể con ta”. Nhưng lòng gian ác của họ đã đạt đến cực điểm. Họ đã tra tay bắt lấy người Con Một của Ngài và lôi ra ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem mà giết đi để mong chiếm đoạt gia sản của Ngài.

Qua dụ ngôn nầy, Đức Giê-su quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn “hai con trai” trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Một Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi sự gian ác của họ.

  1. Ý nghĩa dụ ngôn đối với Giáo Hội

Như vị ngôn sứ trong bài thi ca vườn nho, Đức Giê-su xin thính giả của Ngài, tức giai cấp lãnh đạo Do thái, phân xử. Những người nầy phẩn nộ trước cách hành xử gian ác của bọn tá điền, không ngờ chính họ lại tự kết án mình. Và như dụ ngôn “hai người con” trước đây, ở đoạn cuối, ý nghĩa của dụ ngôn được Chúa Giê-su giải thích rõ ràng.

Đức Giê-su trích dẫn Tv 118: “Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh Vịnh nầy ca ngợi cuộc chấn hưng của dân Ít-ra-en trong tương lai và được giải thích như Thánh Vịnh thiên sai. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở nơi Thánh Vịnh này lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Ki-tô (x. Cv 4: 11 và 1Pr 2: 7).

Con Thiên Chúa can thiệp và bị giết chết, xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người Con nầy, một dân mới chào đời, dân mới này được biểu thị không còn bởi hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà nầy, Đức Giê-su sẽ là viên đá góc tường hay viên đá chóp đỉnh, sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt. 16: 18).

Về mục lục

 

CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO – CÂU CHUYỆN ĐỜI TA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.

Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.

Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.

Các con, sinh viên học sinh thân mến,

Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.

Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.

Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?

2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?

3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?

Về mục lục

.

KHÔN QUÁ HÓA DẠI

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người ta nói: “khôn quá hoá dại”. Đôi khi ta tưởng mình hơn người nhưng lại là lúc người đời đang cười về sự ngu dốt của ta. Đôi khi ta tưởng mình thắng người nhưng lại là lúc ta thất bại chua cay. Và đôi khi ta tưởng rằng với tài trí của mình có thể lừa được người khác, nhưng chính mình lại bị “gậy ông đập lưng ông”.

Có một nhà mua bán đồ cổ đến làng quê nọ, thấy bác thợ mộc có chiếc tủ cổ cũ kỹ mà hắn nghĩ là có thể đem về tỉnh bán lại với giá hơn chục ngàn, nhưng lại ma giáo, không muốn cho bác thợ mộc biết giá trị của chiếc tủ, hắn gạ mua với giá rẻ mạt:

– Tôi trả cho ông 5 francs chiếc tủ này, nó chẳng dùng đựng được gì cả, nhưng tôi chỉ cần củi để đốt lò sưởi thôi.

Sáng hôm sau, hắn hớn hở vác xe cam nhông đến để chở chiếc tủ, thì thấy đống gỗ cưa ngắn lù lù trước cửa, hắn ngạc nhiên hỏi:

– Cái gì thế này ?

– Gỗ của ông đấy, bác thợ mộc đáp, hôm qua tôi hối hận qúa vì bán cho ông những 5 francs, nên bèn phải cưa nhỏ ra giúp ông!

Quả là khôn quá hoá dại. Có những việc trời cho mình hưởng nhưng vì quá ích kỷ, quá khôn ranh tưởng sẽ được nhiều hơn, ai ngờ lại trắng tay, như người ta nói “tham thì thâm”. Tay trắng lại hoàn trắng tay.

Người Do Thái năm xưa cũng được hưởng rất nhiều đặc lợi vì là dân được tuyển chọn, nhưng họ lại muốn nhiều điều hơn nữa. Họ muốn Thiên Chúa còn phải làm theo ý của họ. Họ muốn một Đấng Messia mang lại cho họ vinh dự bá vương thiên hạ và những vinh quang trần thế. Chính vì muốn Thiên Chúa làm theo ý mình, nên họ bắt bớ các ngôn sứ, hãm hại các ngôn sứ . . . Và cũng chính họ đã đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá vì Ngài đã không làm vua theo ý họ.

Nói người cũng nghĩ đến ta. Con người ngày nay vẫn đang tính toán với Chúa. Họ nhận của Chúa rất nhiều nhưng lại ít nghĩ đến việc cảm tạ Thiên Chúa. Họ đến với Chúa để nài xin Chúa làm theo ý họ. Họ cầu nguyện để xin Chúa thực hiện những điều đẹp lòng họ. Họ được voi đòi tiên nên chẳng bao giờ bằng lòng về những gì mình đang có. Thế nên, khi việc chẳng xong, cầu chẳng được, họ lại hồ nghi về Chúa, có khi còn quay lưng lại với Chúa.

Con người ngày nay vẫn sống vô ơn khi tìm cách hãm hại các ngôn sứ là cách linh mục tu sĩ. Họ theo Chúa chỉ để tìm kiếm bổng lộc. Họ sẵn sàng vu khống, đặt điều đặt chuyện, tìm cách loại trừ những người đại diện của Chúa nếu quyền lợi của họ bị mất, điều họ muốn không thành.

Con người hôm nay luôn nhân danh quyền tự do để hành xử theo ý mình. Điều gì có lợi cho mình thì họ cho là ý Chúa, còn nếu bất lợi họ sẽ quay lưng lại với Chúa, có khi bỏ Chúa để sống theo ý riêng.

Con người ngày nay luôn cho mình là trung tâm, luôn lấy quyền lợi mình là trên hết, thế nên, xã hội loạn lạc vì tranh dành quyền lực, tiền tài và lợi lộc.

Con người ngày nay cũng như dân Do Thái xưa, vì ích kỷ bản thân mà sống xa rời Chúa và anh em, đôi khi còn làm hại lẫn nhau vì quyền lợi bản thân.

Xin cho chúng ta đừng quá tham lam ích kỷ, nhưng luôn khiêm tốn nhận ra tất cả là hồng ân để biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì đời sống chúng ta luôn là một lời tạ ơn vì biết bao ơn lành Chúa đã ban xuống trên cuộc đời chúng ta. Amen

Về mục lục

.

DỤ NGÔN CHỦ VƯỜN NHO

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc dụ ngôn chủ vườn nho hôm nay, chúng ta nhận ra một bản tóm lược lịch sử Chúa cứu độ loài người, con người và chúng ta.

Nhân loại đang sống trong một thế giới văn minh với nền kỹ thuật rất cao, mọi ngành khoa học xem ra tiến bộ vượt bực.Tuy nhiên, càng tiến bộ, nhân loại càng chối bỏ Thiên Chúa. Phần Ngài, Thiên Chúa luôn yêu thương con người, luôn muốn con người có thái độ sám hối, ăn năn, quay trở lại với Ngài để lãnh nhận ơn tha thứ và ơn cứu độ của Ngài.

Rõ ràng, Chúa Giêsu lên án thái độ chối bỏ, xa lìa Thiên Chúa của những người Do Thái ngày xưa. Nhìn vào các nhân vật đóng vai trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu có ý định để cho các nhân vật này đại diện đám người nào đang sống thực tế ngoài xã hội. Chúa Giêsu đặc biệt ám chỉ các Tư tế và Biệt phái.Các tá điền vườn nho là các lãnh đạo Israel. Vườn nho theo như bài đọc thứ nhất hôm nay là dân tộc Do Thái. Mặc dù, canh tác trên vườn nho của ông chủ, nhưng các tá điền đã không trả tiền hoa lợi, mà còn sát hại đầy tớ và con trai duy nhất của ông chủ. Họ đã có tham vọng rất lớn là chiếm lấy gia tài của ông chủ, và cũng là phần thừa kế của con trai ông chủ. Đây cũng là thái độ các thượng tế, kỳ mục của dân Do Thái khi đang tâm giết các tiên tri Thiên Chúa sai đến và âm mưu ám hại Chúa Giêsu. Nhóm nô lệ thứ hai là các tiên tri kế tiếp, Thiên Chúa cũng tiếp tục sai đến với dân tộc Israel. Con trai của chủ vườn nho là chính Chúa Giêsu, kẻ bị dân Do Thái và các Thượng tế, Biệt phái và Kỳ mục giết chết. Đám nông gia mới là các tông đồ của Chúa Giêsu. Họ là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa. Thực tế những Thượng tế, các nhà lãnh đạo lúc đó và các Biệt phái biết Chúa Giêsu ám chỉ họ và chính họ cũng nhận ra họ khi đọc dụ ngôn này.Đáng lẽ họ phải hoán cải, thay đổi nhưng họ không sám hối, ăn năn, vẫn tiếp tục đi vào đường nẻo sai lầm của họ.

Chúa ban cho con người tự do nhưng tự do để biết phân định cái phải cái trái.Tự do để hiểu, để nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa. Chứ không phải tự do để chối bỏ Thiên Chúa, tự cho mình là “ thiên chúa “ nhưng là một “thiên chúa “ sai lầm. Khi khước từ Thiên Chúa, chối bỏ Ngài, con người biến trần gian thành hỏa ngục, không có yêu thương mà chỉ có hận thù mà thôi.

Như vậy, dụ ngôn tóm lược toàn bộ Kinh Thánh nói về ơn cứu độ, nêu rõ những qui chiếu về Giao ước cũ và Giao ước mới, xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhân vật cuối cùng được sai đến với các tá điên là chính Chúa Giêsu. Các tông đồ của Chúa Giêsu là các nhà lãnh đạo mới của dân Chúa. Cuối cùng, dụ ngôn nói đến sự nhẫn nại của Chúa dành cho con người, dành cho chúng ta và trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa.

Vâng, Chúa ban cho con người sự tự do để chọn lựa, để phân định như Tin Mừng nói “ Chúa kiên nhẫn chờ đợi như ông chủ đã kiên nhẫn chờ đợi các tá điền thay đổi, nhưng Ngài biết rằng có chờ đợi thêm cũng vô ích, nên Ngài đã ra tay xử họ và bắt họ phải chịu trách nhiệm về các hành vi của họ.Phần chúng ta, Thiên Chúa cũng luôn kiên nhẫn với chúng ta, nhưng nếu chúng ta không thay đổi, không ăn năn, không trở về,Thiên Chúa cũng sẽ cư xử với chúng ta như ông chủ vườn nho đã cư xử với các tá điền và chúng ta phải chịu hoàn toàn về trách nhiệm, hành vi của chúng ta đã lỗi phạm.

Thiên Chúa ban cho chúng ta tự do để chúng ta trở nên giống Ngài và chúng ta chỉ trở nên hình anh, trở nên giống Ngài khi chúng ta biết nói lời “ Xin vâng “ với Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết dùng tự do để chọn cho mình một hướng đi đứng đắn đúng theo ý của Chúa. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1. Ông chủ vườn nho ám chỉ ai ?
2. Lần giao vườn thứ nhất ám chỉ đến gì ?
3. Lần giao vườn thứ hai ám chỉ đến gì ?
4. Các tá điền là ai ?
5. Vườn nho là gì ?
6. Các nông gia mới là ai ?
7. Dụ ngôn “ Ông chủ vườn nho “ nói đến điều gì ?

Về mục lục

.

TẢNG ĐÁ BỎ ĐI

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Có rất nhiều bạn trẻ khởi nghiệp từ những thứ bỏ đi, thu gom đồ cũ, chế tác lại hoặc theo cách người thừa bù cho người thiếu. Những nơi công tác Caritas một số giáo xứ có kế hoạch thu gom ve chai về bán lại giúp người nghèo…
Chúa dùng người cũng theo cách tảng đá bỏ đi để trở nên tảng đá trọng dụng trong công trình của Người.

Năng lực từ khiếm khuyết.

Mỗi người đều không hoàn hảo, cái không hoàn hảo thường là cái không được ưa thích. Thế nhưng, chấp nhận cái không hoàn hảo như thế nào mới là cách mà mỗi người cần xử lý.

Chấp nhận không hoàn hảo để nên hoàn hảo hơn, kinh nghiệm của Steve Jobs khi chọn logo quả táo bị cắn một miếng cho hãng Apple, thúc đẩy hãng ra sản phẩm mỗi lần tốt hơn.

Luôn có sức mạnh từ những khiếm khuyết nếu biết dùng nó.

Démosthène là một nhà hùng biện nổi danh cổ xưa. Ông là đứa trẻ ốm yếu, nói lắp. Ông đã cố gắng ngậm sỏi để tập diễn thuyết trước sóng biển.

Beethoven, nhà soạn nhạc vĩ đại, thưở nhỏ bị khiếm thính và sau bị điếc hoàn toàn.

Hiệp sĩ công nghệ thông tin, Nguyễn Công Hùng, bị bại liệt tòan thân từ năm lên 2. Anh đã nỗ lực vướt qua những khó khăn của mình và thành lập trung tâm “Nghị lực sống” để giúp cho nhiều người khuyết tật có khả năng làm việc và thu nhập ổn định.

Còn nhiều và rất nhiều những gương nghị lực vươn lên từ trong những khiếm khuyết để học hỏi và cố gắng hoàn thiện chính mình.

Chúa dùng người.

Chúa đã dùng ông bà Abraham son sẻ trong tuổi già để gầy dựng nên đoàn con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biể, nên tổ phụ dân tộc trong đức tin

Moise, một người khá nóng nảy, ông đã từng giết chết một người Ai Cập, đập vỡ bia đá khi thấy dân chúng thờ bò vàng dưới chân núi, ăn nói ngọng nghịu, để trở thành con người biết chịu đựng những phàn nàn của dân Israel khi ra khỏi Ai cập, biết dùng lời lẽ khôn ngoan để dẫn đưa dân Chúa.

Chúa dùng Đavid một đứa trẻ để giết chết tướng binh hùng mãnh Goliat bằng cái trò chơi của con nít.

Chúa dùng người phụ nữ mọn hèn, chẳng bao giờ được tính vào số người theo cách tính của người Do Thái là Mẹ của Thiên Chúa làm người.

Chúa dùng Phêrô, một con người bộc trực, để trở nên người lãnh đạo.

Một người từng đi bắt Chúa để làm tông đồ dân ngoại là Phaolô.

Tảng đá bị loại bỏ xem chừng vẫn có nhiều khía cạnh tích cực trong cuộc đời.

Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.

Về mục lục

.

CHỈ MÌNH THIÊN CHÚA

Anna Cỏ may

Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục cho chúng ta nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”, để nói lên lòng thương yêu bao bọc và chăm sóc của người cha dành cho con cái mình. Đáp lại tình yêu ấy, những người con đã làm gì với người cha của mình?

Vâng, một vườn nho được tươi tốt đã thẫm đẫm bao mồ hôi, bao sự vất vả, lo âu của con người. Ông chủ vườn nho không muốn vườn nho ấy lọt vào tay người khác và bị tàn phá, nên ông đã rào giậu xung quanh. Ông xây một tháp canh đặt ở giữa. Đến mùa thu hoạch, ông sai các đầy tớ đến gặp những tá điền để xem xét, thu lợi. Nhưng bọn tá điền đã trở nên ngạo mạn, giết các đầy tớ và ném đi. Ngay cả người con một của ông, chúng cũng chẳng tha (Mt 21, 33-39). Ông chủ sẽ làm gì với họ?  Nếu trong cuộc sống hiện nay, chúng ta sẽ rất tức giận và trả thù những kẻ hại chúng ta và bắt chúng phải trả lẽ việc chúng làm. Nhưng với dụ ngôn này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tình yêu của Chúa Cha dành cho dân Ngài. Chúa Cha đã cứu thoát họ khỏi ách nô lệ, chăm sóc họ mỗi ngày. Ngài sợ quân địch, sự dữ tấn công nên đã rào giậu xung quanh bằng những lề luật, giao ước của Ngài. Ngài xây tháp canh cho họ là Lời Chúa để giúp họ có một cuộc sống hạnh phúc. Các đầy tớ được sai đến là các tiên tri, các ngôn sứ để giúp họ. Nhưng họ lại không đón nhận, còn có thái độ kêu căng, tìm cách xua đuổi và giết các ngôn sứ. Biết làm sao với những đứa con cứng lòng như vậy, Chúa Cha đã sai Con Một của mình đến để giúp họ trở lại. Nào ngờ, họ chẳng trở lại, mà còn ra tay muốn giết Người Con của Ngài. Họ không còn muốn Thiên Chúa làm chủ, làm người bảo vệ hướng dẫn chăm sóc họ. Họ muốn làm chủ và có quyền trên tất cả những gì họ đang hưởng dùng, đúng như câu ông bà ta nói “Ăn cháo đá bát”. Họ quên rằng những gì của Thiên Chúa thì sẽ thuộc về Thiên Chúa.

Không chỉ riêng gì dân Do thái xưa kia, ngày nay Lời Chúa cũng muốn nhắc nhở thái độ của chúng ta với Thiên Chúa. Bởi vì, vườn nho của Chúa chính là Giáo Hội, là gia đình, các dòng tu và trường học. Đó là những môi trường cho chúng ta được sống và sống hạnh phúc. Nơi đó, Ngài bảo vệ chúng ta qua những nội quy và lề luật. Ngài ban ân sủng cho chúng ta qua các Bí tích, Lời Chúa và hiện diện với chúng ta trong Thánh lễ mỗi ngày. Có lẽ, mỗi người chúng ta đã cảm nhận được tình yêu và đang cố gắng xây dựng đất nước, xây dựng Hội Thánh và mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc hơn. Nhưng những việc ấy có đúng với chân lý, đúng sự thật và đúng ý Thiên Chúa không, hay như Kinh Thánh đã viết “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Mt 21, 42). Tảng đá chính là Chúa Giêsu, còn thợ xây là chúng ta. Và tảng đá ấy đang hiện diện với chúng ta trong và nơi những người nghèo, trẻ em bị bỏ rơi, người cô đơn hay những người sống lang thang trên đường phố…  Và khi gặp họ, chúng ta sẽ làm gì?

Không ít lần chúng ta đã nghe “Đạo Thiên Chúa khó lắm, phải giữ điều này, điều kia”. Vâng, điều đó là đúng, không sai. Và đạo nào cũng có cái khó riêng. Vậy, chúng ta hãy nhìn lại mình xem, hiện nay bạn đang yêu ai? Bạn làm gì để giữ người yêu của bạn? Có lẽ, bạn đã suy nghĩ và đưa ra những điều kiện với người ấy như phải yêu chỉ mình bạn, phải thường xuyên gọi điện thoại cho bạn, không được nhìn ngó xung quanh…  Và khi ai nói xấu về người yêu bạn, bạn có dễ dàng bỏ qua? Đối với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài yêu chúng ta nên Ngài cũng tìm cách gìn giữ, bảo vệ chúng ta. Chúng ta còn nhận được nhiều sự bất ngờ hơn thế nữa. Mặt khác, Ngài cho chúng ta tự do chọn lựa mọi việc. Ngài chỉ đau khổ khi mất một người con mà Ngài yêu thương thôi. Và đó cũng là lúc Ngài thực hiện lời nói “Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21,43).

Lạy Chúa, vì yêu thương chúng con, Ngài tìm mọi cách để bảo vệ chúng con. Nhưng chúng con muốn tung tăng, muốn thoát khỏi bàn tay yêu thương của Chúa, muốn làm chủ tất cả những gì nơi thế gian này cho riêng mình. Xưa kia Chúa đã cứu dân Do thái thế nào, thì nay xin Chúa cũng cứu chúng con thoát khỏi lối sống này. Vì lạy Chúa, chỉ mình Chúa mới cứu chúng con được thôi. Amen.

Về mục lục

.

BÀI CA TÌNH YÊU

Bông hồng nhỏ

Khi có tình yêu, ta luôn tìm được ý nghĩa của cuộc đời mình. Có một cái gì đó cho ta muốn sống, muốn cống hiến và muốn cho đi. “Hương hoa hồng còn lưu lại trên bàn tay người trao ban”, câu ngạn ngữ của người Bungari cũng nói về một tình yêu cho đi thật đẹp. Có một món quà rất đẹp, một bông hoa đẹp nhất mà Thiên Chúa đã hái và tặng cho nhân loại đó chính là bông hoa Giêsu.

Hôm nay, Chúa Giêsu lại dùng một dụ ngôn khác để diễn tả về Nước Trời: dụ ngôn những tá điền sát nhân. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Ngài sáng tạo thế giới xinh đẹp và trù phú, cho con người hưởng dùng và truyền cho họ “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1, 28). Đến mùa hái nho, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoa lợi nhưng những tá điền lại “đánh người này, giết người kia và ném đá người nọ.” Những đầy tớ ấy chính là những ngôn sứ là “những người nói thay Thiên Chúa”, nhưng họ không thèm nghe mà lại giết đi. Rồi Thiên Chúa đã sai Con Một đến nhưng rồi họ cũng giết luôn hòng đoạt lấy tài sản. Chúa Giêsu hỏi những người Biệt phái và các nhà Thông luật về cái giá mà những người tá điền phải trả và họ trả lời “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và giao cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông” (Mt 21, 41). Đó là cái nhìn hạn hẹp, ích kỷ của con người nhưng Thiên Chúa không hành xử giống con người. Người thực hiện công trình kỳ diệu bằng tình yêu. Những gì thế gian cho là đồ bỏ, không giá trị gì, thì Ngài lại đặt để nơi đó một công trình kỳ diệu. Thiên Chúa không tru diệt con người nhưng lại cứu chuộc con người bằng giá máu của Người Con Một yêu dấu. Chúa Giêsu chính là “Đá tảng góc tường”, viên đá mà những người Biệt phái và các nhà Thông luật muốn loại bỏ. Thiên Chúa đã thứ tha cho muôn vàn tội lỗi của nhân loại và cứu chuộc họ khỏi ách tội lỗi nặng nề. Chính trên thập giá, Đức Giêsu đã thốt lên trong hơi thở yếu ớt “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc 23, 34). Không những thế, Chúa Giêsu còn hiến trao chính Máu Thịt của mình làm của ăn dưỡng nuôi nhân loại và ở cùng ta mọi ngày cho đến tận thế. Được Chúa Giêsu Thánh Thể ở bên, ta có cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài trong cuộc sống của mình không?

Quả thật, giữa những bất trắc và những khó khăn của cuộc sống, để nhận ra được hồng ân của Chúa là điều rất khó. Ta vẫn thường than thân trách phận, trách cứ ông trời sao quá bất công, ban cho người này người kia có quá nhiều thứ mà trong khi tôi chẳng có gì. Có nhiều khi, ta để mình chết khát ngay bên cạnh dòng suối mát chỉ vì ta nghĩ mình không có lấy một cái xô để múc nước. Nhận ra hồng ân của Chúa trên chính cuộc đời mình đòi hỏi mỗi chúng ta bỏ đi lối nhìn hạn hẹp của mình để phóng tầm mắt ra xa hơn, đến những người xung quanh mình, nhìn cuộc đời với ánh nhìn của Chúa, ta sẽ thấy được nhiều điều tốt đẹp mà cuộc đời mang lại cho ta. Có khi nào ta để ý đến bầu không khí ta đang hít thở? Điều tưởng chừng như rất bình thường và là lẽ đương nhiên ấy lại chính là một hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban tặng. Những người bị ngạt mũi chắc chắn họ sẽ biết giá trị của cái mũi của mình. Những người bị hỏng mất đôi mắt sẽ biết được giá trị của ánh sáng. Hãy sinh hoa lợi bằng chính cuộc sống của mình. Khi về với Chúa, Ngài không hỏi những thành tích ta đạt được trên đời nhưng chỉ hỏi tình yêu ta đã có và cho đi. Thời gian không dừng lại để đợi ai, hãy biết trân quý thời giờ mà Thiên Chúa ban tặng cho ta và hãy học mãi bài học yêu thương. Chính Chúa Giêsu khi nhập thể cũng đã sống và hát mãi một bài ca về tình yêu tự hiến. Ngài cũng dạy ta hát mãi và sống mãi một bài ca “Mến Chúa yêu người”. Sẽ đến ngày Thiên Chúa hỏi về hoa lợi ta đã thu hoạch được sau một kiếp sống miệt mài. Ta có gì để dâng Chúa trong ngày ấy? Ta có trở thành công dân Nước Trời, những người biết sinh hoa lợi không?

Lạy Chúa! Mỗi khi nghĩ mình trở nên như đồ bỏ đi, xin Chúa hãy cho con nhớ rằng Công trình của Chúa xiết bao kỳ diệu. Xin cho con biết quý trọng thời gian Chúa ban và không ngừng trổ sinh hoa trái của tình yêu, và lưu lại hương hoa yêu thương trên chính những nơi con đặt chân đến. Để khi về trời, hương hoa ấy vẫn mãi mưa xuống cho nhân loại như gương sống của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. “Khi lên trời con sẽ làm mưa hoa hồng cho trần thế.” Xin Chúa cho con nhớ rằng:

“Muốn biết giá trị thật sự của 1 năm, hãy hỏi 1 học sinh thi rớt Đại học.

Muốn biết giá trị thật sự của 1 tháng, hãy hỏi người mẹ đã sanh con non.

Muốn biết giá trị thật sự của 1 tuần, hãy hỏi biên tập viên của 1 tạp chí ra hàng tuần.

Muốn biết giá trị thật sự của 1 giờ, hãy hỏi những người đang yêu chờ đợi để được gặp nhau.

Muốn biết giá trị thật sự của 1 phút, hãy hỏi người vừa lỡ chuyến tàu.

Muốn biết giá trị thật sự của 1 giây, hãy hỏi người vừa thoát khỏi 1 tai nạn hiểm nghèo.

Muốn biết giá trị thật sự của 1/100 giây, hãy hỏi vận động viên điền kinh vừa đoạt huy chương bạc tại Olympics.”

Và muốn biết giá trị của yêu thương, xin cho con biết ngắm nhìn Đấng Chịu Đóng Đinh.

Amen.

Về mục lục

.

CHÚA LÀ ĐẤNG TRUNG TÍN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay chúng ta quan sát điều gọi là mầu nhiệm khước từ Thiên Chúa nói chung và cụ thể là Chúa Giêsu Kitô . Ngạc nhiên thay cho sự cứng đầu cứng cổ của con người trước tình yêu bao dung của Thiên Chúa.

Điều ấy ngụ ý nói, dụ ngôn này liên quan đến việc người Do Thái khước từ Chúa Giêsu: “Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: ‘Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó’. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết.” (Mt 21, 37-39) Thật không thể hiểu nổi : Chúa Giêsu Kitô “Đấng Mêsia”, Đấng mà người Do thái mong đợi đến cứu dộ trần gian. Vậy mà khi Người đến, họ lại khước từ.

Khi tôi ở Đất Thánh, người ta có phát cho tôi một tờ hướng dẫn du lịch, trong đó có in thông tin về những người Do Thái nổi tiếng nhất trong lịch sử Do thái: từ Maisen, Giêđêôn và Giôsuê đến Ben Guriôn, người sáng lập Nhà nước Israel. Tuy nhiên, lại không có một chút thông tin nào về Chúa Giêsu. Dù Chúa Giêsu là người nổi tiếng nhất trong lịch sử Do thái : dầu đã chết cách đây gần 2000 năm, nhưng hôm nay cả thế giới biết đến.

Theo dòng thời gian những bậc vĩ nhân ấy luôn được tôn trọng nhưng không còn được yêu nữa. Ngày nay, người ta không thích Cervantê hay Michel Angelô. Trái lại, Chúa Giêsu là người được yêu thích nhất trong lịch sử. Trên thế giới có hàng ngàn người nam cũng như nữ đã hiến dâng mình cho Chúa. Có những người đã đổ máu đào vì Chúa, một số khác sống từng ngày cho Chúa.

Chúa Giêsu là người có ảnh hưởng nhất trong lịch sử. Các giá trị đạo đức có hiệu lực ở mọi nơi đều có nguồn gốc Kitô giáo. Không chỉ vậy, mà còn hơn thế nữa, ngày nay Chúa Giêsu rất gần với thời đại chúng ta, ngay cả những người Do Thái, (“người anh cả của chúng ta trong đức tin”, nói theo kiểu Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II). Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách riêng cho người Do Thái đã hoán cải theo Chúa Kitô, những nhân vật vĩ đại này sẽ có lợi cho toàn thể thế giới.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa với người Do thái, đồng thời phác họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại chúng ta. Chúng ta có thể trách cứ dân Israel hay cha ông họ là những tá điền sát nhân, vì chẳng những từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa mà còn giết hại chính Con Một Ngài. Coi chừng câu nói : “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó” (Mt 21,38) lại là của chính chúng ta. Bởi lẽ, ngày hôm nay chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài bởi những người xưng mình là Kitô hữu, hay là có khi phản Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho dội lên không bằng lời thì cũng ít nhất bằng những việc làm trong xã hội tục hóa ngày nay. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ.

Chúng ta tự hỏi: Tôi đã chuẩn bị thế nào để Chúa Kitô sống trong tôi? Tôi đáp trả tình yêu vô biên của Chúa dành cho tôi bằng cách nào? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô chăng?

Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Tình yêu của Ngài mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung của con người. Ngài tiếp tục sai chính Con Một Ngài đến trao nộp vì chúng ta để bảo đảm cho tới cùng tình yêu trao ban cứu độ thế gian.

Lịch sử nhân loại được hoàn tất nhờ cái chết trên Thập giá. Nhờ cái chết, Chúa Giêsu đã tiêu diệt sự dữ. Nhờ phục sinh, Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng sức mạnh của tình yêu, Người đã tiêu diệt hận thù. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc ” (Mt 21, 42), đền thờ Thiên Chúa được phục hồi. Vườn nho trở nên Vương Quốc của Giao Ước Mới, vì Nước Trời không bị phá hủy, từ nay “ Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21, 43).

Ông chủ vườn nho nói : “Chúng sẽ nễ con Ta” (Mt 21, 37). Giờ đây, Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với chúng ta trong Bí tích Mình và Máu Người. Ta có hiểu sự cao trọng lúc này không? Ta có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính mà Chúa Cha mong đợi không?

Hôm nay chúng ta đọc lại lịch sử dân Chúa chọn để lên án sự loại bỏ Đức Kitô do Chúa Cha sai đến. Nhưng cũng ý thức về sự khốn cùng của chúng ta khi loại bỏ “viên đá góc”, lúc chúng ta có ý xây dựng thế giới này theo tiêu chí của chúng ta, tự coi mình là những ông chủ vườn nho của Chúa.

“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ” (Lời nguyện Nhập lễ). Amen.

Về mục lục

.

CHĂM SÓC VƯỜN NHO

Lm.Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng Matthêu chương 21 kể: sau cuộc đối thoại với những kẻ tự bưng tai, che mắt, bịt miệng, Chúa Giêsu lay tỉnh họ bằng ba dụ ngôn: “Hai người con”, “Những tá điền sát nhân” và “Dụ ngôn tiệc cưới” để vạch trần tâm địa của họ và cho họ biết cái gì chờ họ ở cuối con đường họ đang đi.

Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con” (Chúa Nhật 26), Chúa Giêsu kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”. Chúa vẫn dùng phương pháp kể chuyện rồi đặt câu hỏi, bắt họ rút ra kết luận, sau đó Chúa dùng chính kết luận ấy áp dụng vào bản thân họ. Chúa nói về những tá điền làm vườn nho, tức là những thành phần lãnh đạo trong lịch sử đã hành hạ, bắt bớ, giết chết các ngôn sứ và giết chính con ông chủ, quăng ra ngoài vườn nho. Chúa hỏi họ xem họ nghĩ ông chủ sẽ xử thế nào với bọn tá điền. Họ trả lời rất thỏa đáng. Chúa quay sang áp dụng vào bản thân họ, đồng thời trích lời TV 118,22-23, vạch cho họ thấy rằng người con ông chủ sai đến chính là Đấng mà họ sắp giết.

Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri.

Ông chủ vừa trồng xong vườn nho. Ông rất yêu qúy vườn nho của mình. Chung quanh vườn, ông rào cẩn thận. Ở giữa vườn, ông cho đào một bồn ép làm rượu. Ông còn cho xây một cây tháp cao để canh giữ kẻ gian. Ông chăm sóc vườn nho thật chu đáo.

Ông chủ có lòng nhân ái với các tá điền. Họ vốn là những người nghèo khổ, không “một tấc đất cắm dùi” nên ông thương tình và muốn giúp họ sinh sống. Ông chủ thật quảng đại, thay vì chỉ thuê và trả theo lương công nhật, ông lại tin tưởng và giao toàn quyền vườn nho cho họ chăm sóc và trẩy đi phương xa. Các tá điền vui mừng được canh tác theo ý mình. Đến mùa, họ chỉ cần nộp một phần nhỏ hoa lợi cho chủ là xong trách nhiệm. Nhưng con người có lòng tham không đáy “được voi đòi tiên”. Dù đã được hưởng phần lớn hoa lợi nhưng họ còn muốn sở hữu luôn cả vườn nho để khỏi phải nộp một phần hoa lợi nào cả! Do đó, khi thấy các đầy tớ ông chủ sai đến để thu hoa lợi như đã hợp đồng, chẳng những họ đã không nộp mà còn hành hạ đánh đập, thậm chí ném đá để giết hại các người đầy tớ đó. Thấy vậy, ông chủ vẫn kiên nhẫn sai thêm một số đầy tớ khác đông hơn trước đến, nhưng số phận của những người này cũng không khá hơn những đầy tớ đến trước. Cuối cùng, ông chủ còn sai người con trai duy nhất đến, với hy vọng bọn tá điền sẽ tôn trọng con trai mình. Nhưng bọn tá điền thấy con trai ông chủ liền bàn nhau giết luôn người thừa tự kia để chiếm đoạt vườn nho cho mình.

Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi về thái độ của ông chủ vườn đối với bọn tá điền bất nhân ác đức kia là gì? Các thính giả nghe dụ ngôn đã đồng thanh trả lời : “Ác giả ác báo, ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, nộp phần hoa lợi cho ông”. Chúa Giêsu kết luận bằng cách áp dụng vào chính họ : “Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.

Dụ ngôn này diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Đức Chúa và dân Ngài. Dụ ngôn là tóm lược toàn bộ Thánh Kinh về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vườn nho ám chỉ nước Thiên Chúa được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Thiên Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công Giáo, sẽ lan rộng đến tất cả mọi quốc gia. Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn hai con trai trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi lòng dạ gian ác của họ.

Dụ ngôn vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Dụ ngôn diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng như Êlia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha.

Dụ ngôn nói tiên tri về Đạo Chúa sẽ lan rộng khắp các dân tộc. Chúa Giêsu giải thích khi trích dẫn Tv 118: “Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh vịnh này ca ngợi việc chấn hưng dân Ítraen tương lai và được giải thích như Thánh vịnh thiên sai. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở đây một lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Kitô (x. Cv 4, 11 và 1Pr 2, 7). Con Thiên Chúa bị giết chết xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cái chết của Người Con ấy, một dân mới, được biểu thị không còn qua hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà này Chúa Giêsu sẽ là viên đá góc tường sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18).

Mỗi người chúng ta là một tá điền, Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho. Đó là những ơn phúc. Mỗi người có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Mỗi người hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc mình làm.

Những ơn phúc Chúa ban như sự sống, tài năng, sức khỏe, của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng đó.

Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài. Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả đến để nhắc nhở hãy tích cực chăm sóc vườn nho. Vì thế mỗi người có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày.

Xin Chúa giúp chúng con luôn biết siêng năng làm việc, chu toàn bổn phận hàng ngày. Xin cho chúng con biết sử dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên Nước Trời. Amen.

Câu chuyện suy gẫm.

Khi giảng về việc giữ ngày Chúa Nhật, một linh mục Trung hoa đã minh họa bằng câu chuyện sau đây : “Một bà kia đi chợ mang theo 7 quan tiền trong túi áo. Khi tới chợ, bà trông thấy một người đàn ông bị què, áo quần rách nát, đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Bà thấy tội nghiệp nên đã móc túi ra cho hắn 6 quan tiền và chỉ giữ lại duy một quan đi chợ. Nhưng tên ăn mày này vốn tham lam, thấy bà ân nhân vẫn còn một quan tiền ở trong túi, hắn ta liền bám sát theo và nhân cơ hội bà sơ ý, hắn ta đã ăn cắp nốt quan tiền còn lại. Khi nghe câu chuyện về tên ăn mày tham lam này, có lẽ ai trong chúng ta cũng nghĩ hắn ta đúng là một tên mạt rệp đáng khinh bỉ và trừng phạt !”.

Rồi vị linh mục đặt vấn đề với cộng đoàn : Còn chúng ta thì sao ? Trong một tuần lễ, Chúa đã ban cho chúng ta 6 ngày lao động kiếm ăn, thế mà còn duy một ngày Chúa Nhật để ta dành ra mà nhớ đến Chúa, làm các việc thờ phượng kính mến Chúa và các việc bác ái phục vụ tha nhân, nhưng nhiều khi chúng ta đã tiếc xót, vẫn làm việc thêm mong kiếm nhiều tiền cho đầy túi tham ! Như vậy, chúng ta sẽ là hạng người nào ?

Về mục lục

.

SỨ MỆNH

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Vườn nho ông chủ mới trồng,
Chung quanh rào dậu, ra công xây tường.
Đào hầm ép rượu đo lường,
Tháp canh kiểm soát, ngõ đường lối đi.
Tá điền thuê mướn lo chi,
Tới mùa thu lợi, thực thi công bình.
Chủ sai đầy tớ về trình,
Thu phần lợi tức, phân minh rõ ràng.
Lòng tham dạ ác bẽ bàng,
Bắt giam đánh đập, chẳng màng quản cai.
Số đông thân cận được sai,
Tệ hơn ứng xử, họa tai từng người.
Con trai yêu quí trong đời,
Cha sai con đến, gọi mời nghĩ suy.
Tá điền lòng dạ vong suy,
Đứa con thừa tự, gây nguy gia tài.
Lôi ra giết bỏ bên ngoài,
Vườn nho chiếm lấy, lỗi sai phạt bù.
Chủ nhà tru diệt bỏ tù,
Tìm người công chính, trùng tu xóm làng.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao sứ vụ và quyền năng cho các tông đồ, để các ngài tiếp tục mở mang Giáo Hội. Chúa dùng dụ ngôn để nói lên hiện trạng của Nước Chúa ở trần gian.

Để chuẩn bị thiết lập Giáo Hội, Chúa đã chọn một dân tộc và đã chuẩn bị họ để đón nhận Đấng Cứu Thế. Trải qua lịch sử Cứu Độ, dân tộc được Chúa chọn làm dân riêng đã quay lưng lại với Chúa. Họ từ khước các tiên tri và chối bỏ chính người con yêu được sai đến với họ. Họ muốn được tự lập và muốn chiếm đoạt gia sản của Chủ.

Xã hội nơi chúng ta đang sinh sống cũng có những chiếm đoạt như thế. Nhiều người muốn loại trừ Chúa ra khỏi xã hội và cuộc sống. Họ tìm mọi cách để thoát ra khỏi ràng buộc của các luật lệ và giới răn. Con người muốn làm chủ sự sống và muốn được quyết định cho sự sống mình. Họ coi mạng sống con người chỉ là những con số. Hàng năm, với mức độ phá thai trên khắp thế giới đã đến mức kỷ lục.

Truyền thông lên tiếng bảo vệ con người, nhưng cùng lúc tìm cách hạn chế và giết chết thai nhi khi còn trong cung lòng người mẹ. Họ không muốn chia xẻ niềm vui với người khác để được làm con người và con Chúa. Họ muốn ôm đồm mọi cái là của riêng. Họ muốn tẩy chay các huấn lệnh của Chúa và Giáo Hội, rồi hủy bỏ niềm hy vọng của tin mừng sự sống.

Qua các thời đại, Chúa vẫn tiếp tục gởi các ngôn sứ để mời gọi con người ý thức sứ mệnh của mình. Mỗi người chúng ta có bổn phận bảo vệ sự sống và xây dựng một xã hội tốt đẹp, một Giáo Hội thánh thiện và mong ngày sau cùng chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến.

Chúng ta vừa nghe một dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để nói về những gì mà người Do Thái đã và đang dự tính làm đối với Chúa.

Có thể nói đọc ngôn này, ai cũng hiểu ý Chúa muốn nói gì. Ai cũng hiểu những nhân vật Chúa dùng trong dụ ngôn ám chỉ về những người nào. 

Ngày xưa, vườn nho là nước Do thái. Chủ vườn nho là chính Thiên Chúa. Những kẻ trồng nho mướn là những giới chức tôn giáo Do thái, là những kẻ chịu trách nhiệm với Thiên Chúa về sự hưng thịnh của quốc gia. Những đầy tớ lần lượt được sai đến là các tiên tri. Họ được Chúa sai đến nhưng đã bị chối bỏ và giết đi. Người con trai đến sau cùng không ai khác hơn là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng bị bọn thuê mướn vườn nho giết chết. Việc này chửa xảy ra nhưng chắc sẽ xảy ra. Và quả như lời Chúa tiên báo Chúa Giêsu cũng đã cùng chung một số phận như các tiên tri thuở trước. Đây là câu chuyện Chúa dùng để tiên báo về chính cái chết của Ngài. 

Chúng ta thử hỏi qua dụ ngôn này Chúa muốn nói với chúng ta về những điều gì? 

A. Việc đầu tiên Chúa muốn cho mọi người thấy.

  1. Trước hết về Thiên Chúa.Chúng ta có thể thấy ngay:

a) Thiên Chúa tin cậy con người. Như ông vườn nho trao cho kẻ trồng nho muớn. Ông không đứng canh họ như cảnh sát, ông đi xa, để họ tự giác làm việc. Thiên Chúa cũng tôn trọng con người như thế. Người trao phó cho họ công việc của Ngài. Mỗi một công tác chúng ta nhận đều bởi Chúa trao cho chúng ta làm.

b) Thiên Chúa là Đấng nhẫn nhục. Như người chủ sai hết người đại diện này đến người đại diện khác đến với họ. Ông không báo thù ngay khi người đại diện ban đầu bị ngược đãi. Ông cho những người làm mướn trong vườn nho hết cơ hội này đến cơ hội khác để đáp ứng đòi hỏi của ông. Thiên Chúa cũng nín chịu hết mọi tội lỗi của con người và cho con người có cơ hội để ăn năn.

c) Sau cùng Thiên Chúa mới là Đấng phán xét. Cuối cùng, người chủ vườn nho đã lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác. Cũng tương tự như thế, Thiên Chúa phán xét thật nghiêm khắc. Điều nghiêm nhất là khi Chúa lấy khỏi tay chúng ta những công tác Ngài muốn chúng ta làm. Khi đó những người bị Chúa phán xét sẽ trở nên vô dụng đối với Chúa.

2. Tiếp đến, dụ ngôn cho chúng ta thấy nhiều đều về con người:

a) Đặc quyền của con người: Vườn nho được sắp sẵn mọi thứ, có hàng rào, có hầm ép rượu và tháp canh, để giúp cho việc canh tác được dễ dàng. Thiên Chúa không những giao công tác để làm mà còn giao phương tiện để làm nữa.

b) Sự tự do của con người: người chủ vườn để những người thuê mướn được hoàn toàn làm việc theo ý thích. Thiên Chúa không phải là người độc đoán, Ngài như một vị chỉ huy khôn ngoan trao phó công tác rồi để cho họ làm.

c) Con người phải trả lời về hành vi của mình. Tất cả mọi người đều sẽ có một ngày phải tính sổ. Chúng ta phải trả lời Thiên Chúa về cách chúng ta thi hành công tác mà Ngài trao cho.

d) Con người cố tình phạm tội: trong dụ ngôn những người làm mướn trong vườn nho đã cố tình thực hiện kế hoạch chống lại và không vâng phục ông chủ. Tương tự như, thế tội lỗi là cố ý chống lại Thiên Chúa, là cố tình theo đường lối riêng dù đã biết rõ đường lối Chúa như thế nào.

3. Cuối cùng dụ ngôn nói cho chúng ta về Chúa Giêsu.

a) Chúa Giêsu là ai? Dụ ngôn cho chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu là ai. Ngài là Đấng hơn các tiên tri đi trước. Những người đã đến trước Ngài chỉ là những sứ giả của Thiên Chúa, không ai có thể phủ nhận vinh dự đó của họ, nhưng họ chỉ là tôi tớ, còn Ngài mới là Con. Ví dụ này là một lời tuyên xưng rõ rệt nhất về Chúa Giêsu, về địa vị độc đáo của Ngài và xác định rõ ràng Ngài hơn các vĩ nhân đã đến từ trước.

b) Sự hy sinh của Chúa Giêsu: dụ ngôn rõ ràng cho thấy những gì đang ở phía trước. Những kẻ làm vườn gian ác đã giết con trai của chủ. Chúa Giêsu không nghi ngờ gì về những việc đang chờ đợi Ngài. Ngài không chết vì bị bắt buộc phải chết nhưng Ngài sẵn lòng đi tới và đối diện với cái chết.

B.  BÀI HỌC.

Bài học cụ thể nhất mà mọi người có thể thấy: Đó là Thiên Chúa có chương trình của Ngài.

Đây là chương trình do chính Thiên Chúa Cha hoạch định và Chúa phải thi hành. 

Không ai có thể cản trở được chương trình của Thiên Chúa. 

Con người đừng có ảo tưởng có thể làm cho công trình của Thiên Chúa phải thất bại. 

Mọi âm mưu của con người sẽ thất bại khi Thiên Chúa ra tay uy quyền. 

Họ chớ có tưởng khi giết được Chúa Giêsu là họ đã có thể ăn mừng chiến thắng. 

Thiên Chúa sẽ cho họ thấy quyền năng của Chúa. “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.(Mt 21,42) 

Malebon là tên của một tảng đá rất nổi tiếng tại tiểu bang California. Tên của tảng đá này được người ta nhắc đến do một sự tinh cờ: Ngày nọ, có một người dân làm đơn khiếu nại Sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có thể đổ xuống làm hư nhà; và thế là hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu loại lớn, người ta đã đưa tảng đá ra xa lộ. 

Theo dõi câu truyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đến mua tảng đá đó với giá 100 Mỹ kim. Sở Kiều lộ của thành phố mừng thầm vì ít ra cũng có người giúp họ di chuyển cái của nợ ấy ra khỏi xa lộ. Sau đó, người Úc bỏ ra 20.000 Mỹ kim để thuê xe chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài, anh đã tạc được chân dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà qúi nhất mà người Úc đã dành cho tài tử này truớc khi nhắm mắt lìa đời. Không bao lâu sau đó, tác phẩm đã được bán cho một người chuyên sưu tầm với giá một triệu Mỹ kim. 

Tảng đá Melebon trên đây đã bị nhiều người xem như là một của nợ cần vứt đi, nhưng một người Úc đã nhìn ra nó như một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Sự thành công trong cuộc sống thường được nhiều người gán cho là một sự ngẫu nhiên hay một vận may nào đó. Nhưng người có niềm tin thì xem đó là sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Trước Công nghị Do thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá góc tường”. Cái chết của Chúa Giêsu quả thực là một hành động đê hèn dã man của người Do thái, nhưng Thiên Chúa đã biến cái chết ấy trở thành biểu tượng của tình yêu, và nguyên nhân cứu rỗi của con người. Đó là điều quan trọng mà mọi người có thể học được qua bài dụ ngôn hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

LƯƠNG TÂM

Trầm Thiên Thu

Là con người, ai cũng có lương tâm – giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về nội dung, tức là khác nhau về chất lượng TỐT hay XẤU. Để phân biệt, người ta gọi là Thiện Tâm và Tà Tâm (4 mẫu tự T).

Lương tâm là khả năng tự giác của con người, có thể tự giám sát mọi động thái, biết khó với chính mình chứ không khó với người khác, luôn ý thức về nghĩa vụ và trách nhiệm với chính mình, với xã hội, Giáo hội và tha nhân.

“Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”. Sự tức giận khiến người ta làm điều xấu, thế nên phải biết “tu thân” trước. Tu thân là sửa mình, trước hết là làm cho lòng mình ngay thẳng: “Sở vị tu thân tại chính kỳ tâm giả”. Thánh Phaolô nói: “Anh em nổi nóng ư? ĐỪNG PHẠM TỘI: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4:26).

Lương tâm ngay chính và trong sạch rất quan trọng. Kinh Thánh cho biết: “Phúc thay kẻ không ăn nói lỡ lầm, và không phải khổ vì hối hận. Phúc thay ai KHÔNG bị lương tâm cắn rứt, và kẻ không rơi vào thất vọng” (Hc 14:1-2). Đó là người có lương tâm tốt, còn người có lương tâm không tốt thì tự đày đọa mình, như sách Khôn Ngoan cho biết: “Kẻ gian ác tự đưa ra bằng chứng để lên án chính mình là hèn hạ: bị LƯƠNG TÂM DÀY VÒ, nó luôn cảm thấy mình khổ sở” (Kn 17:11).

Ngày nay, người ta có kiểu nói “chí công vô tư”. Đây là câu nói hay, nhưng nó lại hóa dở bởi vì đó chỉ là “khẩu hiệu” chứ không được thực hành đúng mức. Nhà toán học Albert Einstein nói: “Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu bạn”. Tại sao? Đây là lý do: “Bạn không chỉ phải chịu trách nhiệm với những gì mình nói, mà cả những gì mình không nói (Martin Luther).

Cuộc đời luôn có những điều tất yếu. Và chúng ta thường nghe nói về luật “Nhân – Quả”. Nhân Quả là một phạm trù đề cập mối liên hệ nguồn gốc tất yếu của các hiện tượng, trong đó hiện tượng này (nguyên nhân) sản sinh ra hiện tượng khác (kết quả hoặc hậu quả). Người Việt cũng có khái niệm Nhân Quả khi nói: “Ở hiền gặp lành” (tích cực), “gieo gió gặt bão” (tiêu cực), hoặc “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”,… Người Anh cũng có cách nói tương tự: “You reap what you sow – Người ta gặt những gì mình gieo”. Có lẽ cũng có thể so sánh luật Nhân Quả tương tự loại vũ khí Boomerang của thổ dân Úc – loại vũ khí này cứ được ném đi rồi nó lại quay về nơi xuất phát. Còn người Việt có cách nói là “gậy ông đập lưng ông”.

Trong cuộc sống đời thường, nguyên lý Nhân Quả diễn ra theo quá trình mà “phần biết” và “phần được biết” chỉ là sự phân lập từ một tổng thể là “cái biết”, cho nên hiện tượng nó tạo ra sẽ được gọi là “hiện tượng nội sinh” – một hiện tượng mà Phật học gọi là “nghiệp” hoặc “nghiệp chướng” (karma). Theo Phật giáo, hiện tượng này không do một đấng quyền năng tối cao hay một thế lực siêu nhiên nào chi phối, nên “nhân quả” được xem là “nguyên lý quan trọng nhất” của đời sống, khi các vấn đề của đời sống được tìm hiểu từ bản chất của nó.

Với kinh nghiệm sống, chắc hẳn không ai lạ gì với cách nói: “Ác giả ác báo”. Đó là cách nói rút gọn của câu ngạn ngữ Trung Hoa: “Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai”. “Ác giả” là người xấu, việc ác; “ác báo” là điều ác đáp lại. “Thiện giả” là người tốt, việc tốt; “thiện lai” là điều lành đáp lại. “Ác giả ác báo” nghĩa là người làm việc ác thì gặp điều ác báo lại, hoặc việc ác này sẽ bị việc ác khác báo lại – thường gọi là “quả báo”. Câu này nêu lên sự ảnh hưởng tương tác của hành động, ngụ ý khuyên người ta chớ làm việc ác để tránh điều ác, và nên ăn ở hiền lành để gặp sự lành: “Ở hiền gặp lành”. Người Tây phương có một câu nói theo tinh thần của Kinh Thánh: “Kẻ nào đào hố bẫy ai thì kẻ đó sẽ rơi xuống hố”.

Tuy nhiên, đôi khi chúng ta thấy có những trường hợp có vẻ nghịch lý, như sách Giảng Viên cho biết: “Người công chính thì gặp phải những chuyện như thể họ đã làm điều gian ác, trong khi người gian ác lại gặp được những chuyện như thể họ đã làm điều ngay chính. Đó cũng là một chuyện phù vân!” (Gv 8:14). Thực tế chúng ta cũng đã và đang thấy như vậy. Và chẳng cần nhìn đâu xa, cụ thể và rõ ràng nhất là Đức Kitô Giêsu. Ngài là Đấng Thánh thế mà lại bị coi như phường trộm cướp để rồi bị giết chết thê thảm.

Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn tha thứ, và Ngài nói gì với chúng ta? Ngài khuyến cáo chúng ta phải sống “nhân từ” (Lc 6:36) và cố gắng “hoàn thiện” (Mt 5:48), dù có bất cứ chuyện gì xảy ra. Tuy đó là hai điều nhưng cũng chỉ là một: NÊN THÁNH. Thương thì Tha – Tha Thứ thì Thành Thánh. Điều này có thể coi là dạng “luật nhân quả” theo tâm linh.

Tin Mừng hôm nay nói về công việc làm vườn nho, với những tá điền ác tâm. Trình thuật Is 5:1-7 là “Bài Ca Vườn Nho”, một bài ca ngắn mô tả vườn nho nhưng có những ca từ súc tích như sau:

Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình.

Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ.

Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng,

Giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho.

Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại.

Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi,

Xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho.

Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?

Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?

Vậy bây giờ, tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi:

Hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo.

Công việc nhà nông phải cẩn thận chọn giống để có thể hy vọng cây lành, trái ngọt, nhờ vậy mà vụ mùa bội thu. Người gieo trồng luôn mong muốn điều tốt, thế mà điều xấu lại xảy ra với họ. Người Việt không xa lạ gì với nông nghiệp, nông dân luôn muốn lúa và hoa màu tốt tươi đạt năng suất, hy vọng một vụ mùa thu hoạch cao, thế mà có khi mùa màng lại thất bát, thậm chí có khi bị trắng tay. Tương tự, có lần Chúa Giêsu cũng đã kể dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” (Mt 13:24-30). Tác giả “Bài Ca Vườn Nho” kể cho người bạn thân nghe biết về vườn nho của mình. Tác giả (tức là chủ nhân) muốn có nho tốt mà lại chỉ thấy nho dại. Thất vọng ê chề, chủ nhân đành phải chặt phá hàng giậu cho “vườn bị tan hoang” và đập đổ tường cho “vườn bị giày xéo”.

Chúa Giêsu ví Nước Trời với nhiều thứ, một trong những cách ví von Ngài đưa ra là hình ảnh “vườn nho”. Thánh Vịnh gia cho biết: “Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai-cập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng” (Tv 80:9). Vì là giống tốt nên “bóng um tùm phủ xanh đầu núi, cành sum sê rợp bá hương thần, nhánh vươn dài tới phía đại dương, chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả” (Tv 80:12). Nhưng rồi có điều khác thường bất ngờ xảy ra nên Thánh Vịnh gia thắc mắc: “Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang” (Tv 80:13-14).

Thật thê thảm khi nhìn cảnh vườn hoang, nhà trống. Buồn lắm. Càng buồn hơn vì đó không là lỗi của mình, không là lỗi của chủ nhân bất cẩn hoặc bỏ mặc, chắc chắn là do kẻ xấu bụng, ác ý. Những kẻ xấu xa đó lại chính là chúng ta, những tội nhân đã làm hư hại Vườn Nho của Thiên Chúa. Nhưng mặc lấy tâm tình yêu thương của Đấng giàu lòng thương xót, Thánh Vịnh gia vẫn chân thành và tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin TRỞ LẠI, tự cõi trời, xin NGÓ XUỐNG mà xem, xin Ngài THĂM NOM vườn nho cũ, BẢO VỆ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” (Tv 80:15-16).

Và không chỉ có như vậy, Thánh Vịnh gia còn đại diện cho cả nhân loại mà thề hứa trước Tôn Nhan Thiên Chúa: “Chúng con nguyền CHẲNG xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài BAN cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài. Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin PHỤC HỒI chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ” (Tv 80:19-20). Và rồi Thiên Chúa đã thương xót mà bỏ qua tất cả, để chúng ta lại được làm con cái Ngài và được thừa kế gia nghiệp của Ngài. Quả thật, tội nhân chúng ta còn diễm phúc lắm! Vậy chúng ta phải làm gì để tạ ơn Ngài? Đó là điều mỗi chúng ta phải tự trả lời cho rạch ròi và dứt khoát.

Vì ngang ngược mà NÔNG NỔI, vì nông nổi mà hóa NÔNG NỖI. Và thật đáng sợ khi đọc câu này: “Tai hoạ thảm hại nhất trong tất cả những gì xảy ra dưới ánh mặt trời là hết mọi người đều chịu chung một SỐ PHẬN NHƯ NHAU. Cũng vì thế mà lòng dạ con cái loài người ĐẦY những điều gian ác, tâm địa luôn ẤP Ủ chuyện điên rồ bao lâu còn sống trên trần gian, để rốt cuộc rơi vào CÕI CHẾT. Thế nhưng chỉ những ai còn sống trong cõi dương gian mới có hy vọng mà thôi, vì CON CHÓ SỐNG thì hơn CON SƯ TỬ CHẾT” (Gv 9:3-4).

Tuy nhiên, đừng run sợ mà bạt vía kinh hồn, vì Thiên Chúa nhân hiền, không chấp lách chi đâu, chỉ cần chúng ta biết CHÂN THÀNH NHẬN LỖI thì Ngài sẵn sàng rộng lượng thứ tha ngay. Thánh Phaolô cũng chân thành động viên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7). Ôi, thế thì còn gì bằng, chả lo sợ chi nữa. Thiên Chúa là thế đấy! Thánh Clara cũng đã từng nhắn nhủ các nữ tu của bà điều này: “Đừng sợ! Hãy tín thác vào Chúa Giêsu!”. Thế nhưng cũng đừng vội thấy vậy mà ỷ lại kẻo khốn hơn trước, không nghe lời Chúa sẽ bị phạt “gấp bảy lần vì tội lỗi” (Lv 26:18, 21, 24, 28). Ỷ lại hoặc ảo tưởng là chết chắc!

Chưa thể dừng lại, chưa thể an tâm, Thánh Phaolô còn dặn dò thêm: “Ngoài ra, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em” (Pl 4:8-9). Hai cụm từ “hãy để ý” và “hãy đem ra thực hành” là hai mệnh lệnh rất quan trọng. Các mệnh lệnh đó phải được nhận thức và ghi nhớ nằm lòng. Nghe ngắn gọn và đơn giản nhưng lại không dễ dàng thực hiện!

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 21:33-43, đề cập dụ ngôn “Những Tá Điền Sát Nhân” (tương đương Mc 12:1-12 và Lc 20:9-19). Một câu chuyện rất thực tế, đồng thời cũng liên quan lòng đố kỵ, ganh tị và ghen ghét. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Đó là tình trạng đố kỵ và ghen ghét. Thật đáng quan ngại!

Rồi một ngày kia, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn khác về những ác nhân, những kẻ lòng lang dạ thú. Ngài ôn tồn: Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng chúng sẽ nể người con đó. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!”. Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi.

Nói xong, Ngài điềm nhiên chất vấn họ về phản ứng của chủ vườn nho đối với bọn tá điền kia. Họ đồng thanh: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”. Chắc hẳn ai cũng sẽ phản ứng như họ, nếu được hỏi. Có lẽ lúc đó Đức Giêsu cười và gật gù vì thấy họ nói đúng, nhưng rồi Ngài chất vấn tiếp: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Ngài biết họ là những kinh sư và thầy thông luật, thuộc Cựu Ước vanh vách, dẫn chứng câu đoạn rất rạch ròi, thế nên Ngài “nhắc khéo” họ về Thánh Vịnh: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Họ bị “cà khịa” thế mà vẫn tỉnh bơ. Thường thì những kẻ ác tâm vẫn “tự tin” thế đấy!

Sau đó, Chúa Giêsu kết luận: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21:43). Đó cũng là lời Đức Giêsu Kitô đang “nhắc khéo” mỗi chúng ta về cách hành xử với Thiên Chúa và với tha nhân, đặc biệt là những người “yếu thế” hơn mình, về cả vật chất lẫn tinh thần. “Đá Tảng” đó là vật gì hoặc người nào? Không còn ai trồng khoai đất này, đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết để cứu độ chúng ta, mà chính tay chúng ta cũng nhúng chàm, mỗi chúng ta cũng là thủ phạm đã giết Con Thiên Chúa. Chúng ta không trực tiếp đóng đinh Chúa Giêsu, nhưng chúng ta trực tiếp sát hại Ngài khi chúng ta “giết” tha nhân bằng nhiều loại đinh nhọn và sắc bén: Lời nói, ánh mắt, cử chỉ, thái độ, hành động,… Vâng, sát nhân không ồn ào, không vũ khí.

Và một lần nữa, hôm nay chính Chúa Giêsu lại tiếp tục cảnh báo mỗi chúng ta: “Ai ngã xuống ĐÁ này, kẻ ấy sẽ tan xương; ĐÁ này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt” (Mt 21:44). Ôi, thật đáng sợ biết bao! Đúng là đáng lưu tâm, bởi vì Chúa Giêsu cũng đã cảnh cáo: “Nếu KHÔNG sám hối thì sẽ CHẾT hết” (Lc 13:3). Tất cả chúng ta, không ngoại trừ ai, đều là tội nhân, vấn đề hơn thua nhau chỉ là biết nhận lỗi và có sám hối hay không.

Thông thường, các tư tưởng lớn sẽ có lúc “gặp nhau”. Các hiền triết cũng có quan niệm giống nhau về khái niệm “ác giả, ác báo”. Đó là một dạng ý thức hệ. Khổng Tử nói: “Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, thiên báo chi dĩ họa” (Người làm điều tốt lành thì trời lấy phúc báo đáp lại người đó, kẻ làm điều không tốt lành thì trời lấy họa báo đáp lại kẻ đó). Còn Trang Tử nhận định: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác tự giai khởi” (Nếu một ngày không nghĩ đến điều thiện, mọi điều ác sẽ tự dấy lên). Trong sách “Minh Tâm Bửu Giám” có ghi câu này: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác” (Làm việc thiện sẽ được điều tốt, làm việc ác sẽ gặp điều xấu). Là hiền triết nhưng họ cũng chỉ là phàm nhân, thế mà họ vẫn có thể nhận thức độc đáo như vậy, tư tưởng của họ trất gần gũi với giáo huấn của Đức Kitô – Chúa chúng ta, thế thì họ đúng là thánh nhân rồi, thật đáng khâm phục và đáng để chúng ta noi gương, không thể phủ nhận sự thật minh nhiên này!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết chân nhận mình là kẻ xấu để không ảo tưởng, vì chính Chúa Giêsu đã bảo vậy (Lc 11:13), nhờ đó mà con biết mở mắt-đức-tin to ra để có thể nhìn thấy cái-xà-tội-lỗi của mình chứ không nhìn thấy cái rác nơi tha nhân. Xin giúp con biết tích đức chứ không tích ác để hoàn thiện từng giây phút cho đúng Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

ĐỪNG BƯNG TAI BỊT MẮT

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Để cảnh giác nhiều người Do-thái xưa nay không muốn nghe lời Thiên Chúa, cũng chẳng tiếp nhận và thậm chí còn bách hại các ngôn sứ Chúa gửi đến rao giảng cho họ, Chúa Giê-su kể dụ ngôn sau đây:

 “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho… Ông trao cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi.”

 Gia chủ trong câu chuyện này ám chỉ Thiên Chúa; vườn nho tượng trưng cho dân Do-thái là dân được Chúa chọn; bọn tá điền là các cấp lãnh đạo Do-thái; còn các tôi tớ tượng trưng cho các ngôn sứ Chúa sai đến để chỉ dạy cho dân trung thành với Thiên Chúa, đừng chạy theo tà thần.

 Thế rồi các thủ lãnh của người Do-thái đã đối xử thế nào với các vị ngôn sứ này?

 Không những họ bác bỏ lời dạy của các ngài, mà còn ra tay bách hại các ngài.

 Chúa Giê-su nói về họ như sau: “Bọn tá điền bắt các đầy tớ của ông chủ: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy.”

 Trước sự việc đó, chủ vườn là Thiên Chúa đã sai chính người Con yêu quý của mình đến với họ, may ra họ sẽ kiêng nể Ngài mà đón nhận và vâng nghe. Thế nhưng số phận người Con này lại càng bi đát hơn. Chúa Giê-su nói về họ như sau:

“Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó! ” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi.”

Dụ ngôn này nêu lên hai thực trạng đau lòng:

 – Điều thứ nhất: Nhiều người Do-thái thời cựu ước đã không đón nhận lời các ngôn sứ là những sứ giả Chúa gửi đến để chỉ dạy cho họ biết làm lành, lánh ác; đã thế, họ còn bách hại các vị ngôn sứ này.

 -Điều thứ hai: Nhiều người Do-thái thời Chúa Giê-su cũng bưng tai bịt mắt trước lời rao giảng của Ngài, lại còn ra tay giết hại Ngài.

 Như thế, nhiều người Do-thái đã cố tình nhắm mắt lại nên không nhận ra Chúa cứu thế đến với họ. Họ đã bịt tai lại nên không nghe được lời hằng sống Chúa Giê-su trao ban. Họ đã bị Chúa Giê-su khiển trách và lên án.

            Hôm nay, kịch bản đau lòng đó vẫn đang tiếp diễn giữa chúng ta.

Cũng như người Do-thái xưa, hiện nay vẫn còn rất nhiều người bịt tai lại trước lời Chúa, nhắm mắt không nhìn nhận những kỳ công Chúa làm trong vũ trụ.

 Vì thế, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng để cho sự việc đau lòng đó diễn ra trong đời mình. Muốn được như thế, chúng ta ghi nhận 2 điều:

  1. Đừng bịt mắt để khỏi thấy ánh sáng

 Một thuyền trưởng đang lái tàu giữa đại dương mênh mông trong đêm tối mịt mù, không còn nhìn ra phương hướng, lại gặp cơn bão lớn đang ào ào xông tới, mà cứ chủ quan xem thường, không thèm hướng nhìn về ánh sáng của ngọn hải đăng từ xa để đưa thuyền vào bến cách an toàn, thì nguy cơ chết chìm vì bão lớn chắc chắn sẽ xảy ra.

 Tương tự như thế, Lời Chúa cũng như lời dạy của các ngôn sứ Chúa gửi đến cũng như ngọn hải đăng soi đường, dẫn lối cho chúng ta đi đúng đường đúng hướng, giúp vượt qua biển đời đầy sóng gió gian nguy.

 Nếu chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước những tia sáng do Chúa Thánh Thần chiếu dọi vào tâm hồn qua những trang Tin mừng, qua lời các ngôn sứ, thì chúng ta cũng sẽ lâm nạn như viên thuyền trưởng ngoan cố trên đây. 

  1. Đừng bịt tai để khỏi nghe

 Nhiều tài xế lái xe băng qua điểm giao cắt giữa đường bộ và đường sắt không rào chắn, đang khi hai tai họ bị bít kín vì đang sử dụng tai nghe nhạc (phone) nên không nghe tiếng còi cảnh báo của đoàn tàu đang lao tới. Thế là các anh đã lao vào cái chết thảm khốc.

 Tương tự như thế, nếu đôi tai của ta bị bít kín trước những lời giáo huấn của Tin mừng, của các ngôn sứ Chúa gửi đến, hoặc để cho những lời đường mật chứa đầy nọc độc của thế gian ru ngủ tâm hồn và lấn át tiếng lương tâm, thì thảm hoạ tinh thần sẽ chụp xuống bất cứ lúc nào.

Lạy Chúa Giê-su,

 Chúa rất buồn phiền và đôi khi tỏ ra phẫn nộ với các luật sĩ và biệt phái vì họ đã từ khước lời Chúa phán dạy. Chúa cũng đã lên án mạnh mẽ những người Do-thái ngày xưa đã không đón nhận và thực thi lời Ngài. Trái lại, Chúa rất đỗi mừng vui và khen ngợi những ai làm theo lời Chúa truyền dạy.

 Xin cho chúng con đừng ngoan cố như những người Do-thái ngày xưa đã từ khước lời Chúa dạy, nhưng sẵn sàng đón nhận và thực thi lời vàng của Chúa, để sống đẹp lòng Chúa và được hạnh phúc muôn đời.

Về mục lục

.

 

ĐÁ GÓC

Lm Vũdình Tường

Xây dựng nhà cửa thì nền móng đóng một vai trò tối ư quan trọng bởi nền móng vững chắc mới bảo đảm căn nhà được an toàn. Nền móng không vững chắc nhà sẽ bị nứt chỗ này, rẽ chỗ nọ, hình ảnh cụ thể báo trước tai nạn đang âm thầm tiến đến. Không có nềm móng vững chắc, mưa to, gió lớn căn nhà đó sẽ xụp đổ gây tai nạn cho người cư ngụ trong nhà và rất có thể làm sụp đổ nhà hàng xóm. Đức Kitô ví mình như đá góc bị thợ xây loại bỏ. Người thợ thiếu kinh nghiệm căn bản cần thiết trong vấn đề xây cất coi thường nền móng. Đá tảng Đức Kitô muốn nói đây chính là nền móng đức tin cần thiết của các Kitô hữu. Nhận mình là Kitô hữu mà không có Đức Kitô làm chủ cuộc đời, giáo huấn của Ngài không tỏa lan qua hành động yêu thương thì người đó chỉ là Kitô hữu trên văn bản. Kitô hữu thực thụ là người đời sống của họ được chính tình yêu Chúa hướng dẫn, lời nói và việc làm của họ đi chung như bóng với hình và điều đó làm sáng danh Chúa, làm cho tình yêu Chúa lan toả qua cuộc sống thường ngày của họ. Đá góc thường ẩn mình dưới đất nhưng lại quan trọng trong việc xây dựng từ lúc khởi sự cho đến khi hoàn thành và còn cần thiết lâu dài, giữ vững căn nhà trong nhiều năm trong tương lai.

Để trở thành Kitô hữu thực thụ người đó cần có đức tin vững chắc, có chiều sâu trong Đức Kitô làm nền tảng cho hành trình rao giảng Tin Mừng. Không có đức tin sâu đặm trong Chúa người đó sẽ dễ bị ngoại cảnh chi phối, lung lạc trước lí luận nghe có vẻ hợp lí của loài người và đức tin từ đó bị lung lay tận gốc rễ bởi gốc rễ đó không được bám chặt vào Đức Kitô. Bởi bị lung lay như thế nên lời rao giảng của họ có thể bị lạc đường, thuộc về cách suy nghĩ của loài người nhiều hơn là thuộc về Chúa. Rao giảng điều tự mình hiểu là thiếu linh ứng và hướng dẫn của Thánh Thần Chúa và như thế có ngầm chứa sai lầm, lệch lạc. Rao giảng có uy quyền khi lời đó do chính Thánh Thần Chúa hướng dẫn và là bảo chứng cho điều rao giảng, để làm được điều này cần có nền tảng đức tin mạnh mẽ, sống động trong Đức Kitô. Người ta lí luận dựa vào lương tâm để phán đoán. Điều này chỉ đúng trong trường hợp lương tâm đó được giáo huấn theo đường lối Chúa. Phán đoán của một lương tâm không nhận lời Chúa làm căn ản thì phán đoán đó thuộc về cá nhân ảnh hưởng bởi xu hướng xã hội và chính trị như thế phán đoán đó dù thành thật đến đâu cũng chỉ là phán đoán thuộc về đường lối xã hội nhiều hơn là thuộc về đường lối Chúa. Đường lối xã hội thường bị ảnh hưởng, lung lạc bởi những bộ óc có tài thuyết pháp. Họ lí luận hợp lí và căn bản nên ảnh hưởng đến người nghe và như thế í kiến cá nhân cách nào đó bị lung lạc bởi khối óc thông minh. Chính vì thế mà ngoài xã hội thấy cổ võ nhiều loại tình yêu khác nhau. Chỉ có một tình yêu chân chính là tình yêu Đức Kitô rao giảng bởi chính Ngài hy sinh chết và sống lại cho tình yêu đó. Tất cả các loại tình yêu được xã hội cổ võ đều mang tính cách con người mà con người thường lệ thuộc vào cảm xúc thể lí và ước muốn. Chính những điều này khiến nhiều người rất sốt sắng và mạnh dạn cổ võ cho tình yêu do con người tạo ra với chiêu bài ‘tận hưởng thời gian tuyệt vời’. Chính điều quảng bá đó tự xác nhận loại tình yêu họ cổ võ vừa mang lại lợi ích cá nhân kèm thêm ích kỉ cho bản thân.

Đức Kitô cổ võ tình yêu tha thứ, vị tha và phục vụ không đòi lợi ích cá nhân. Khi đức tin hướng dẫn tư tưởng và hành động của ta thì chính những hành động đó làm cho đức tin của ta sáng chói và do đó làm Sáng Danh Chúa. Đá góc tường không những giữ cho căn nhà được vững vàng trước bão tố nó còn là trung tâm điểm giúp xây căn nhà hài hoà. Nó cũng giới hạn về chiều cao được phép xây và chiều rộng có thể xây. Tình yêu Chúa trong ta cũng giúp ta biết giới hạn đâu là thuộc về Chúa và đâu là thuộc về thế gian. Bởi thiếu tình yêu Chúa hướng dẫn, tác động mà người ta lầm tưởng hễ yêu là làm theo í Chúa. Không phải thế. Tình yêu chân chính cần được đặt nền móng trên tình yêu Chúa. Tình yêu con người thường mang tính cách địa phương bởi do khuynh hướng địa phương đòi hỏi, ước muốn. Tình yêu Chúa là tình yêu hoàn vũ, không giới hạn về thời gian và không gian. Tình yêu Chúa đến từ trời cao nên sống theo tình yêu Chúa chúng ta được hướng dẫn vượt lên trên ảnh hưởng vật chất trần thế và không bị lệ thuộc vào điều kiện xã hội. Sống theo tình yêu Chúa là sống phục vụ tha nhân không vụ lợi và không tìm thoả mãn ước muốn cá nhân.

Về mục lục

.

 

THU VÀ NỘP HOA LỢI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Ngụ ý của câu chuyện dụ ngôn xem ra không có gì khó hiểu cho lắm! Đức Giê-su kể nó cho  đối tượng thính giả là các thượng tế và kỳ mục trong dân nói riêng, và cho toàn dân Do Thái nói chung, vì thái độ của họ thờ ơ khước từ các ân huệ mà Đức Chúa ban cho, hầu giúp họ chu toàn sứ mạng được trao phó trong tư cách là dân riêng. Sự chối từ đạt tới đỉnh điểm trong việc chối bỏ chính đầng Thiên Sai là Con Thiên Chúa được gởi đến với họ; “Đứa con thừa tự đây rồi, nào ta giết quách nó đi và đoạt lấy gia tài nó!” Đó là lý do để dân riêng sẽ bị loại trừ và tiêu diệt trong đại họa lịch sử năm 70, và vườn nho sẽ được trao phó cho một dân khác. Dụ ngôn hàm ý như sau: một tập thể mới là Hội Thánh Chúa Ki-tô được hình thành để thay thế tập thể cũ là dân riêng Do Thái. Người đưa ra lý do để phế trừ là, họ đã không ‘nộp hoa lợi cho ông’, đồng thời cũng xác định lý do thành lập đoàn dân mới; ‘ông cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông. Tư tưởng chung chung là như thế, nhưng ý nghĩ lởn vởn trong đầu tôi mấy ngày này lại là: ‘thu hoa lợi và nộp hoa lợi’có nghĩa là gì, và có gì khác nhau giữa hai việc này? Chính dựa vào lời giải đáp vấn nạn trên mà tôi mới xác định được lý do của việc phế bỏ dân cũ và thiết lập dân mới, cũng có nghĩa là xác định được mục đích cũng như sứ mạng đích thực mà Hội Thánh (trong đó có tôi) phải chu toàn.

Để có hoa lợi, gia chủ đã ‘trồng một vườn nho: chung quanh vườn ông rào giậu; trong vườn ông khoét bồn đạp nho, và ông xây tháp canh…’ tức là ông đã làm mọi việc cần thiết để bảo đảm có được hoa lợi là sản xuất ra rượu nho thơm ngon. Khi phải ‘trảy đi xa’, ông chủ trao công việc chăm sóc cho tá điền, để chắc chắn vườn nho ông sinh hoa lợi; điều này đã được nhóm tá điền chu toàn, và có lẽ còn rất xuất sắc nữa là đàng khác. Họ thu được hoa lợi, rất nhiều hoa lợi là đàng khác, nhờ vào việc canh tác vườn nho của ông chủ. Vấn đề chính là ở chỗ: thu được nhiều hoa lợi như thế, nhưng các tá điền lại công khai từ chối ‘nộp hoa lợi’ lại cho ông chủ thứ mà ông chờ đợi. Họ chỉ muốn chiếm đoạt cho mình. Đây chính là sai lầm lớn cần bị trừng trị, thế nhưng ông chủ đã kiên nhẫn…. làm hết cách để thuyết phục họ không nên mắc phải sai lầm chết người đó. Đỉnh điểm của quá trình chống đối dai dẳng là khi, ‘ông sai chính con trai mình đến gặp chúng vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con trai ta”, nhưng họ đã ra tay hạ sát cậu con. Như vậy đã rõ ràng: không nộp hoa lợi là lý do chính để ông chủ buộc phải phế bỏ bọn tá điền bất lương, và trao vườn nho cho nhóm tá điều khác “để cứ đúng mùa họ nộp hoa lợi cho ông”.

Khi học bộ môn Kinh Thánh, giáo sư đã cho sinh viên chúng tôi biết: mọi biến cố lịch sử của dân Do Thái nói riêng và của toàn nhân loại nói chung đều hướng về mục tiêu duy nhất là làm cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ lộ và nhận biết (thứ rượu nho thơm ngon). Trong lối nhìn này ta hiểu ngay: Đức Chúa đã chọn một dân riêng (trồng vườn nho), bảo vệ dân đó (rào giậu), thử thách và tôi luyện họ (khoét bồn đạp nho), ra lề luật để canh giữ họ (xây tháp canh)…,rồi Ngài trao cho các thượng tế và kỳ mục trách nhiệm thi hành các điều trên (công việc chăm sóc vườn) chỉ là để tình yêu Người được nhận biết. Cho tới thời Đức Gê-su, các vị lãnh đạo dân ch8án chắn đã duy trì được tất cả các điều đó, có nghĩa là, họ đã làm cho vườn nho dân riêng được bảo vệ, được phát triển và củng cố nhờ lề luật; chỉ có điều là…, chính khi Người muốn họ giao nộp lại cho Người thứ tình yêu nhân ái mà Người đã thực hiện – là điều mà Đức Chúa trong suốt lịch sử, đã luôn chờ đợi dân nhận biết và duy trì, thì…, họ lại từ chối. Các tiên tri hết đợt này tới đợt khác, được gởi tới để kêu gọi dân đón nhận Thiên Chúa thương xót cứu độ, thì thay thảy đều bị họ xử tệ; ‘Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ’. Hoa lợi gia chủ yêu cầu và mong đợi đã không được họ giao nộp sòng phẳng. Sau hết Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô đã được sai đến với sứ mạng rõ rệt là kêu mời họ nhận ra và đón lấylòngthương xót Chúa, thìhọ đã ‘bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho và giết đi’. Chính vì hành động khước từ dã man và độc ác này, mà gia chủ, ‘chu diệt bọn chúng, và chocác tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa họ nộp hoa lợi cho ông’. Như vậy mục tiêu để Thiên Chúa phế bỏ Dân Cũ và thiết lập Dân Riêng Mới chính là để được ‘nộp hoa lợi’. Hội Thánh nếu là Dân Riêng mới, sẽ có bổn phận chính là, hoàn lại cho Thiên Chúa tình yêu mà Người muốn bày tỏ và đã thi thố nơi trần gian, qua việc… Hội Thánh chứng tỏ mình là một tập thể tin vào Đức Ki-tô Giê-su, là  hiện thân của Thiên Chúa tình yêu, và đón nhận Người. 

Nếu quả là như thế thì Hội Thánh được Đức Ki-tô thiết lập, nhất là các ‘thượng tế và kỳ mụcmới’ của Hội Thánh này, sẽ không được coi việc xây dựng một nền luân lý cao đẹp vững chắc, hay một sự thánh thiện nào đó như là mục tiêu tối thượng của mình. Làm như thế họ mới chỉ đang chu toàn công việc canh tác vườn nho và làm nó sinh hoa lợi, là điều họ đương nhiên phải làm. Hội Thánh này không được phép đi vào vết xe đổ của Dân Cũ là cứ khư khư lo canh tác và thu hoa lợi vườn nho, qua việc làm cho giáo dân nắm giữ cặn kẽ các lề luật. Trên hết, các thượng tế và kỳ mục mới phải coi việc tin nhận Đức Ki-tô cứu độ và đón lấy lòng nhân ái xót thương của Người như hoa lợi mà mình phải giao nộp, đó mới là trách nhiệm chính mà các ngài phải chu toàn sau tất cả các công việc quản trị chăm sóc. Nếu không giao nộp thứ hoa lợi này lại cho Chủ, thì Hội Thánh, cho dầu có chăm sóc vườn nho tươm tất và trù phú tới mấy, cũng vẫn bị coi là bọn tá điền bất lương mà thôi.

Với chức linh mục được trao cho trong suốt hơn 40 năm qua, chính tôi là một ‘thượng tế và kỳ mục’trong Dân Riêng Mới của Chúa Ki-tô. Tôi cũng đã từng đổ mồ hôi, sôi nước mắt làm việc trong vườn nho Hội Thánh của Chúa suốt nhiều năm tháng…, tôi đã nỗ lực giúp các giáo hữu ăn ngay ở lành, giữ đạo đầy đủ…, nhưng thử hỏi, tôi đã thực sự trao nộp lại cho Chủ phần hoa lợi đích thực mà Người hằng mong đợi hay chưa? Nói cách khác: tôi có thật sự cùng với giáo dân đón nhận và ca ngợi lòng thương xót Chúa hay không? “Nghe những dụ ngôn Người kể. các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là: Người nói về họ”, vậy thì hôm nay, tôi có nhận ra là Chúa cũng đang nói cho chính tôi hay không?

Lạy Chúa là Gia Chủ đầy lòng nhân ái và xót thương, xin hãy soi sáng cho con biết rõ thứ hoa lợi mà Gia Chủ đang thực sự mong đợi con giao nộp lại cho Người là cái gì. Xin cho toàn thể Hội Thánh, nhất là các vị chủ chăn, hiểu được bài học Chúa muốn dạy qua dụ ngôn hôm nay, hầu xác định được rõ sứ mạng và mục tiêu tối hậu của việc mục vụ họ phải chu toàn. Xin đừng để con chỉ biết chăm sóc vườn nho cho thật tốt tươi, nhưng lại khước từ nộp cho Chúa phần hoa lợi mà chính Người Con chí ái đã đến để trần gian để nhắc nhở và thu gom, đó là Tin Mừng nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ nhân loại tội lỗi. A-men 

Về mục lục

.

 

CÁCH HÀNH XỬ KHÁC THƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA

 Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Trong một lần được mời giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Đức Thánh Cha và giáo triều Roma, Đức Tôi Tớ Chúa- Hồng Y PhanxicôX. Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ: Chúa Giêsu không biết làm kinh tế, không biết tính toán, vì không ai lại để chín mươi chín con chiên lại trong hoang địa để đi tìm một con chiên lạc. Chúa Giêsu có trí nhớ rất kém, vì tên trộm trên thập giá đã phạm tội trộm cướp giết người, vậy mà chỉ một lời cầu xin: Thưa Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi, Chúa Giêsu đã quên hết quá khứ của anh và tha thứ cho anh. Chúa Giêsu cũng không làm ruộng được, vì không ai lại để cỏ lùng và lúa cùng mọc lên cho đến mùa gặt… Hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn các tá điền độc ác, lại cho thấy Thiên Chúa có cách phán đoán và hành xử “không bình thường”.
Một ông chủ có một vườn nho, ông rào giậu chung quanh, làm bồn ép nho, xây tháp canh, ông giao cho tá điền canh tác rồi trẩy đi phương xa. Lời giới thiệu vắn gọn như thế cũng đủ cho thấy ông chủ này đã dồn hết công sức, ưu tư, tiền của cho vườn nho. Vườn nho là tài sản, là hy vọng của ông. Đối với người Do Thái, vườn nho không chỉ là mảnh vườn trồng cây, mà nó còn biết bao tình yêu thương người chủ đặt vào đó: Bạn tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ, anh cuốc đất, nhặt đá, đem giống nho quý trồng vào trong vườn. Anh mong nó sinh trái tốt, nhưng trớ trêu thay, nó lại sinh ra nho dại, nho chua.
Vườn nho trong bài ca của Isaia và vườn nho trong dụ ngôn của Chúa Giêsu trước hết muốn ám chỉ đến dân Israel. Israel là vườn nho của Chúa, Thiên Chúa đã hết lòng yêu thương chăm sóc, đầu tư cho Israel. Ngài đã dùng cánh tay quyền năng để bênh vực, bảo vệ Israel. Từ Aicâp, Thiên Chúa đã đưa Israel trở về, đuổi chư dân và ban đất hứa cho họ làm sản nghiệp. Thiên Chúa đã trồng Israel vào đất ấy và không ngừng vun tưới chăm sóc. Tuy nhiên, Israel đã không sinh trái ngon, quả ngọt, mà lại sinh nho dại trái chua. Thiên Chúa mong vườn nho Israel sẽ trổ sinh hoa trái công bình chính trực, mà chỉ toàn thấy điều tội lỗi bất công. Vị tiên tri tiên báo: Sẽ đến lúc Thiên Chúa sẽ bỏ mặc vườn nho cho cỏ rậm, gai góc, cho heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang, tường rào bị xụp đổ, người qua kẻ lại giày xéo và trở nên vùng đất hoang tàn. 
Dụ ngôn của Chúa Giêsu cho thấy cách hành xử hết sức bất thường của ông chủ. Ông đã kiên nhẫn đến đến mức cuối cùng và cũng đã quá tin vào những tá điền. Câu chuyện nhắm đến các tá điền, là những người được trao trực tiếp chăm sóc vườn nho. Thiên Chúa là ông chủ đã hoàn toàn tin tưởng trao phó tài sản, cơ nghiệp của mình cho bọn tá điền là các lãnh đạo Do Thái, đến mùa, ông sai đầy tớ đến để thu hoa lợi. Bọn tá điền đã tráo trở không những không nộp hoa lợi, chúng còn đánh đập, nhục mạ các đầy tớ do chủ sai đến. 
Không những ông chủ không phản ứng, không trừng phạt tá điền, mà còn sai các nhóm đầy tớ khác đến với chúng, vì hy vọng chúng còn một chút lương tâm chân chính. Nhưng kết cục không như ông hy vọng, họ không thay đổi suy nghĩ và hành động. Họ đối xử với những người được ông sai đến còn tồi tệ hơn trước. Đến lần thứ ba, ông vẫn còn hy vọng vào sự thay đổi của những tá điền. Ông sai chính con trai của mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng chúng sẽ nể con ông. Nhưng bọn tá điền không kiêng nể ông chủ và cũng chẳng kiêng nể con trai ông, chúng nổi lòng tham và sự thù hận đối với ông. Khi thấy con ông từ xa, chúng đã có ý định giết nó và đoạt lấy gia tài của nó. Chúng đã bắt con trai ông, tống ra khỏi vườn và giết chết.
Hình ảnh ông chủ trong câu chuyện chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trao vườn nho Israel của Ngài cho các tư tế và kỳ lão trong dân, họ là những người có trách nhiệm hướng dẫn dân Chúa đi theo giới răn lề luật của Chúa. Tuy nhiên, những người này đã không chu toàn nhiệm vụ, đã để cho vườn nho Isarel của Chúa bị cỏ dại là những lối sống của dân ngoại bao phủ, để cho cây nho sinh ra nho chua là sự gian ác bất công. Chính các tư tế và luật sĩ lại trở nên gương xấu cho dân, họ trở thành những con người sống hình thức, tìm kiếm tiền bạc, bổng lộc hơn là phục vụ dân Chúa. Thiên Chúa đã nhiều lần sai các tổ phụ, các tiên tri đến để cảnh báo, chấn chỉnh lại đời sống của họ. Không những các người này không nghe,  mà họ còn ra tay hãm hại các người được sai đến. Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của Ngài đến, với hy vọng họ nể Con của Ngài. Tuy nhiên, những luật sĩ, biệt phái và thượng tế lại tỏ ra ghen tức với Người Con của Chúa và đã thể hiện sự gian ác đến tột cùng khi tống cậu con trai là chính Chúa Giêsu ra ngoài và giết chết Ngài bằng cái chết đau đớn trên thập giá.
Khi Chúa Giêsu hỏi họ: Theo các ông, ông chủ sẽ làm gì bọn tá điền khi ông đến? Họ trả lời: Ông sẽ tru diệt bọn chúng và cho các tá điền khác canh tác vườn nho. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa sẽ cư xử cách khác, Thiên Chúa có thể biến điều xấu thành điều tốt, biến điều dữ nên điều lành, biến những hành động xấu xa của con người nên những cơ hội mới cho con người. Các luật sĩ, thượng tế và và biệt phái đã để lòng thù ghét dâng lên cao độ, đã tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu và cuối cùng, họ đã thực hiện được âm mưu đen tối đó khi mượn tay người Roma để giết Chúa Giêsu bằng cái chết thập giá. Thiên Chúa quyền năng vô biên, lại dùng chính cây thập giá để biến nó thành dụng cụ đem lại ơn cứu độ, biến cái chết của Chúa Giêsu trở thành khởi đầu cho sự sống lại của nhân loại, biến sự gian ác của con người thành tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa, biến cái chết treo ghê sợ trên thập giá trở thành biểu tượng của tình yêu thương tha thứ đến tận cùng.
Thiên Chúa không bao giờ mất kiên nhẫn trong việc chờ đợi con người hoán cải, Ngài cũng không bao giờ chịu thua trước tội lỗi và sự ác của con người. Cho dù tội con người có chất cao như núi, thì tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa còn cao hơn trời mây. Ngài sẵn sàng tha thứ khi con người hối hận và quyết tâm sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là người cha nhân hậu, Ngài luôn tạo điều kiện  và cho chúng ta cơ hội để trổ sinh hoa thơm trái ngọt trong đời sống của mình. Vì thế, hãy tận dụng tất cả thời gian và điều kiện hiện tại để làm nhiều việc lành việc tốt, việc phúc đức, đó chính là hoa trái Thiên Chúa mong đợi nơi mỗi chúng ta.
Các bậc cha mẹ chính là những tá điền được Chúa trao cho chăm sóc vườn nho gia đình. Thiên Chúa cũng sẽ đòi các cha mẹ phải làm cho gia đình mình trổ sinh hoa thơm trái ngọt nơi con cái. Vì thế, đừng bao giờ để cho vườn nho gia đình mình bị cỏ dại là những đam mê tật xấu bao phủ, cũng đừng để những con thú nóng nảy rượu chè, cờ bạc, cá độ, đề đóm vào phá hoại vườn nho gia đình. Hãy biết xây rào bảo vệ con cái mình bằng các việc đạo đức, bằng giờ kinh sớm tối, bằng việc chuyên chăm học giáo lý và gẫm suy Lời Chúa. Hãy bảo vệ và vun tưới cho gia đình bằng sự yêu thương và hy sinh. Có chuyên chăm hy sinh miệt mài như thế, vườn nho gia đình mới có thể sinh trái tốt cho Chúa được.
Xin Chúa cho mỗi người luôn tin vào sự kiên nhẫn quảng đại và hay tha thứ của Chúa, để biết chỉnh sửa lại bản thân và trổ sinh hoa trái thiêng liêng tốt lành trong đời sống hằng ngày. Amen.

Về mục lục

.

 

BẤT NHÂN

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, “bất nhân” là hành động không còn nhân tính, có thể nói : “Dụ ngôn những tên tá điền sát nhân” hôm nay (Mt 21, 33-43 ) dường như là Đoạn Tin Mừng mang “hình ảnh” rõ nét nhất về nhân tính của con người. Dù vậy, Đoạn Lời Chúa hôm nay chính là một Đoạn mang ý nghĩa “tiên trưng” nhất về “cuộc Khổ Nạn” của Chúa Giêsu.

Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay có thể chia làm ba phần rõ ràng:

  • Phần thứ nhất : Hình ảnh trần gian (Từ câu 33 đến 36 ) nói lên tính nhân trần cảu nhân thế.
  • Phần thứ hai : Hình ảnh Đấng Cứu Thế (từ câu 38 – 39) , nói lên Cuộc khổ nạn của Đức Kitô.
  • Phần thứ ba : Hình ảnh cuộc phán xét ( Từ câu 40 -43), nói lên sự chung thẩm công minh của Thiên Chúa.

Thưa quý vị, ngôn ngữ Tiếng Việt xưa có câu : “ Thiện Ác đáo đầu chung hữu báo “, hay là ” Ác giả, ác báo “ cũng thế. Vâng, thiện và ác luôn “song hành”, chung đôi, nhưng không “chung đường”, bởi vì, cũng dễ làm thiện, mà cũng dễ làm ác, “chung đôi” có nghĩa là “kề bên”, ngay bên cạnh nhau, gần gũi với chính chúng ta. Trong một phút thiếu suy nghĩ, có thể chúng ta làm điều ác, nhưng , nếu biết suy nghĩ, “kiềm chế”, chúng ta sẽ làm điều thiện. Ngay như các bậc thánh nhân cũng phải thừa nhận rằng : “ Khốn thân tôi, điều thiện tôi muốn làm, nhưng tôi lại không làm, trái lại điều ác tôi muốn tránh nhưng tôi lại làm”. (thánh Phaolo)

Vâng, chúng ta thấy “thiện và ác” rất gần chúng ta, vì chúng rất gần nhau , mà người ta gọi là “song hành”, nhưng, không “ chung đường”, bởi vì,  “gieo gì , gặt nấy”, quy luật tự nhiên, cũng như quy luật siêu nhiên,  “có gieo, có gặt”. Gieo điều lành, thì mặc nhiên gặt quả phúc, gieo điều dữ, tất nhiện gặt tai họa. Vâng, tóm lược nội dung Tin Mừng hôm nay là thế. Nhưng, xin phân tích ba đọạn, đồng thời là ba “Hình ảnh” rõ nét nhất về Đoạn Lời Chúa hôm nay.

Hình ảnh thứ nhất : Về Trần gian rõ nét nhất, một cảnh tượng vườn nho và những tá điền, tức người làm công, mặc nhiên hình ảnh nầy là “ trần gian “ nói chung, nhưng cụ thể là “thời Cựu Ứơc”, dân Israel, dân riêng của Thiên Chúa, vì Ngài kêu gọi họ vào làm vườn nho cho Ngài trước các dân tộc khác. Đồng thời, cũng là hình ảnh Hội Thánh hữu hình trần gian.

Chúng ta không “bới móc” những điều “bất nhân”, nhưng trong “vườn nho” trần gian, không thể tránh khỏi những điều ghi trong Tin Mừng hôm nay.

Như vậy, tuy là Dụ ngôn, nhưng mang ý nghĩa tiên trưng về ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa, vì vậy, tuy một hình ảnh “bất nhân “ từ  “vườn nho trần gian”, nhưng, Thiên Chúa vẫn sai Con của Ngài là Đức Giêsu – Kitô đến trần gian để mang ơn Cứu Độ cho loài người.

  • Hình ảnh Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô, Con Một Thiên Chúa.

Chúa Giêsu, Đấng chịu đau khổ được sai đến, khi Người được Thiên Chúa là Cha sai đến trần gian là để “kiện toàn  vườn nho“, tức xây dựng “Nước Chúa” giữa trần gian, nhưng những “kẻ bất nhân” cũng không nể mặt, vẫn xúc phạm Người rồi giết đi.

Từ đó suy ra, Cuộc Khổ Hình sinh ơn Cứu Độ được Thiên Chúa biết trước và báo trước qua Dụ Ngôn hôm nay, nhưng, dù vậy vẫn nói lên  sự “ bất nhân “ của nhân loại qua dân tộc Israel là dân riêng của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu biết trước điều đó, và tiên báo cuộc “ khổ hình” của Người và sự luận phạt chắc chắn của Thiên Chúa. Chúng ta thấy, hình ảnh quá đau khổ và thiệt thòi của “Ông Chủ vườn nho”, nói lên “Lòng Thương Xót” và nhẫn nại của Thiên Chúa, nhưng, nếu là một hình ảnh thật của nhân thế, chúng ta thấy sự nổi loạn vì tội lỗi chúng ta dẫn đến một điều “bất nhân”, mà luật “ nhân quả” không thể tha thứ.

Chúng ta thấy, Thiên Chúa nhẫn nại trao ban chính Con Một của Ngài, nhưng “kẻ ác tâm” không khoan nhượng, như vậy, ơn Cứu Độ sẽ “đòi nợ” những kẻ gây ra cuộc khổ hình của Đấng Cứu Thế.

Hình ảnh thứ ba : Hình phạt cánh chung  của Thiên Chúa.

Như vậy, “Gieo gì, gặt đó”, trong Đoan Tin Mừng (Mt 21, 33- 43) hôm nay là điều hiển nhiên không thể phủ nhận. Mặc nhiên, ơn Cứu Độ là “cán cân công lý” của Thiên Chúa. Thiên Chúa không “bỏ qua” nghĩa nộ của Người sau khi đã hết thời giờ “đã định”, giống như sự chết của thân xác vậy. Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, nhưng sự bất nhân theo nghĩa đen vẫn phải chịu sự trừng phạt cuối cùng.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng giàu lòng thương xót, Cha đã kiên nhẫn vì yêu thương kẻ “bất nhân”, và đã ban Thánh Tử Giêsu  cho nhân thế, nhưng thế nhân vẫn thờ ơ lãnh đạm, còn hạ sát Người. Vì thế, Cha đã đoán phạt thế gian. Xin thương ban cho những ai biết hồi tâm, cải tà quy chánh, thì cũng được hưởng nhờ ơn Cứu Độ muôn đời bởi Đức Kitô – Giêsu ./. Amen

Vào lúc 10 giờ 20 ngày 04/10/2017, một tai nạn giao thong đã xảy ra tại một giao lộ tại Giáo Phận Vinh, một chiếc xe bồn đã tránh hai học sinh đi học về bằng xe đạp điện, đã đánh tay lái sang trái quá mạnh, khiến một nữ tu đi đúng phần đường tử vong,( Soeur Anna đang trên đường mua bánh trung thu để về tổ chức tết trung thu cho trẻ em nghèo tại nhà dòng) sau khi được đưa đi cấp cứu, nhưng soeur không qua khỏi. Soeur là ANNA TRẦN THỊ PHƯỢNG, dòng Mến Thánh Gía Vinh. Theo đó, có thế nói Soeur Anna đã  “thế mạng” cho hai em học sinh nói trên.

Xin cầu cho LH ANNA , nữ tu TRẦN THỊ PHƯỢNG chóng được hưởng phúc vinh quang muôn đời trong Nước Hằng Sống./. Amen

Về mục lục

.

 

THỢ VƯỜN NHO TRUNG THÀNH

Bs. Nguyễn Tiến Cảnh

Trước khi câu chuyện trong bài Phúc Âm hôm nay xẩy ra, đức Giesu đã trở lại đền thờ (Mt 21:23a) và tuyên bố đền thờ là đất thánh dùng để cầu nguyện và làm mục vụ chữa lành (Mt 21:14). Lới Chúa Giesu như thách thức những kẻ đối kháng Chúa. Họ là các thượng tế và kỳ mục trong dân luôn luôn tạo áp lực để bắt bí Người:“ Ông lấy quyền gì mà làm những điều đó, và ai ban cho ông quyền ấy?”(21:23b). Chính Thiên Chúa là nguồn mạch quyền uy của đức Giesu, nhưng nếu nói ra thì chẳng ích lợi gì mà còn là cớ cho họ xúc phạm Người. Thay vì trả lời thẳng câu hỏi, đức Giesu hỏi ngược lại họ về phép rửa của ông Gioan Tiền Hô. Vì không tin Chúa qua hành động mục vụ của Gioan nên họ không trả lời Chúa. Niềm tin vào Thiên Chúa và đức Giesu của những kẻ đối kháng Chúa đã thể hiện qua phản ứng của họ về ông Gioan Tiền Hô.

Ý NGHĨA BÀI PHÚC ÂM HÔM NAY 

Câu chuyện người cha sai hai người con đi làm vườn nho trong bài Tin Mừng hôm nay (Mt 21:28-32) thì đối với những người Do Thái biết chuyện kinh thánh của họ thì câu chuyện này đã có giải đáp rồi. Chuyện nói về những người anh em, trong Kinh Thánh thường là những chuyện gây cấn, xung đột, bán mua, hiểu lầm, tranh đua như chuyện hai anh em Jacob và Esau, Isaac và Ishmael hay Joseph và các anh em ông. Tài kể chuyện của Đức Giesu đã thu hút người nghe và buộc họ phải suy nghĩ về hành động của hai người con.

Sau khi ra lệnh, người cha kỳ vọng vào việc trả lời của các con, không phải chỉ tiếng “vâng”, mà là một cam kết hành động thực sự. Người con đầu trả lời “không” nhưng nghĩ lại, hối hận đã đổi ý và đi làm. Người con thứ hai nói “vâng”  cho xong chuyện nhưng không giữ lời. 

MÙ QUÁNG TRƯỚC HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚA  

Hai người con tượng trưng cho các vị lãnh đạo tôn giáo và những người theo lời kêu gọi thống hối của Gioan. Qua câu họ trả lời chúa Giesu (Mt 21:31), họ đã tự kết án mình. Là những người lãnh đạo tôn giáo, họ tuyên bố trung thành và vâng lời Thiên Chúa, nhưng lại mù quáng, không hiểu rằng vâng lời thực sự là phải tin những điều mới lạ mà Thiên Chúa đang làm. Cuối cùng, những kẻ tội lỗi như những người thu thuế và gái làng chơi là những kẻ chẳng biết những đòi hỏi của đạo giáo lại được nhận vào nước trời, còn những kẻ chống đối đức Giesu lại bị loại. Ngoài ra, những kẻ chỉ tìm kiếm ơn cứu chuộc ở đâu đó vì họ không chấp nhận những hình thức đạo giáo bề ngoài lại là những kẻ rất nhậy cảm với hồng ân Thiên Chúa, do đó họ đã ăn năn thống hối và phục vụ Thiên Chúa một cách rất chân tình. Cũng bất ngờ như vậy, ta thấy cách thức của Thiên Chúa và của người dân hoàn toàn trái ngược nhau như nói trong bài đọc 1 (Ed18:25-28). 

SUY NIỆM VỀ NƯỚC TRỜI 

Bài dụ ngôn hôm nay mới chỉ là khái niệm về đặc tính của vương quốc Thiên Chúa. Dù bài dụ ngôn đưa ra một phán xét về những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái, nhưng sứ điệp này  cũng áp dụng cho cả chúng ta. Đã có lúc chúng ta cũng mù quáng,không muốn nhận biết những việc Chúa làm ở chung quanh ta. Bài dụ ngôn này phải chăng nói về những kẻ đạo đức giả, bề ngoài xem có vẻ khiêm nhường và khúm núm biểu lộ vâng phục ngay từ đầu, nhưng thực tế họ chẳng nghĩ tới Chúa, chẳng thèm nhận biết lòng Chúa thương sót họ bao la thế nào! Đây là hình ảnh những kẻ xưng mình là người Công giáo, nhưng không sống với niềm tin, không thờ phượng Chúa, không đi nhà thờ đọc kinh xem lễ. Trái ngược với những người trở lại với Chúa họ chẳng bao giờ nói mình là người công chính. 

Thực ra nói minh là gì không quan trọng, quan trọng là cách mình nghĩ và sống có phù hợp với lòng mình không. Nói lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi ơi ở đầu môi chóp lưỡi để ngoại giao, làm đẹp lòng người đối diện hoặc tỏ ra mình đạo đức mà lòng trí trống rỗng, không nhận biết và thực hành sứ điệp Chúa, tỏ lòng ăn năn thống hối thì chẳng có giá trị gì. Điều Chúa muốn chính là cuộc sống của chúng ta. Thiên Chúa nhẫn nại vô cùng, chắc chắn sẽ tha thứ cho tiếng “Không” lúc ban đầu, nhưng trên bước đường dài, kết thúc phải là tiếng “Vâng”.bằng hành động.

PHÚC ÂM HÓA VÀ HĂNG SAY ĐỔI MỚI

Cố gắng để đạt kết quả tốt dù chỉ chút xíu cũng còn hơn là chỉ giữ cái tên xứ này, cộng đồng nọ, hội đoàn kia cho có vẻ hoặc chỉ lo rước sách um sùm bề ngoài nhưng lại không dùng ân sủng Chúa ban để đổi mới và rao truyền Tin Mừng, tuyên xưng niềm tin trong đời sống xã hội. Hứa sẽ làm việc trong vườn nho, nhưng không làm cỏ, hái nho mà đi chọi đá dọc đường, chẳng thèm để ý đến những thành quả dồi dào Chúa ban ở quanh ta mà vui mừng tung hô Chúa. 

LÒNG TRÍ VÀ CÁI NHÌN CỦA ĐỨC GIESU KITO 

Thư thánh Phaolo gửi tín hữu Philiphe trong bài đọc 2 (Pl 2:1-11) là một trong những bài thánh ca tuyệt đẹp trong Tân Ước. Bài được chia làm 2 phần: Ở các câu 6-8 đức Giesu là chủ thể của mỗi động từ; các câu 9-11 đức Giesu là túc từ. Nhìn tổng quát cho thấy đức Kito hạ mình/khiêm nhường để rồi được tôn vinh. 

Dù Phaolo đang bị giam trong tù, không được thăm viếng và giảng phúc cho cộng động Philiphe yêu quí của ngài, nhưng không vì vậy mà cộng đồng không thể hiệp thông và giúp đỡ ngài. Từ trong tù, Phaolo xin họ cầu nguyện cho niềm vui của ngài được trọn vẹn bằng cách có “cùng một cảm nghĩ”, “cùng một tinh yêu mến” (2:2). Đừng để bị lôi kéo, tâng bốc lên tận mây xanh theo trào lưu kiểu thế tục, chúng ta hãy làm theo khuynh hướng “đi xuống” của đức Giesu Kito tự làm cho mình trở nên hèn mọn với tâm hồn khiêm cung để rồi có được tràn đầy hống ân Thiên Chúa.  

SÁCH GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VÀ CHÚA GIESU 

Giáo Lý đã nêu lên những liên hệ giữa đức Kito và lề luật qua những câu sau đây: 

 #580- Chu toàn lề luật không phải là ai khác ngoài đấng làm ra luật là Thiên Chúa, đấng sinh ra vì luật trong con người của Chúa Con. Nơi Chúa Giesu, luật không còn ghi trên bảng đá nhưng tận “đáy lòng” của người đầy tớ đã trở thành “giao ước của dân”, bởi vì Người “trung thành theo luật pháp /công lý”.  Chúa Giesu chu toàn lề luật đến độ đã lãnh lấy cho mình “sự chúc dữ của lề luật” mà những kẻ không thi hành giới răn luật phải gánh chịu. Cái chết của Chúa Giesu là để cứu chuộc họ vì đã “vi phạm giao ước thứ nhất”. 

#581-Dưới mắt dân Do Thái, chúa Giesu là một rabbi. Người thường tranh luận về cách giải thích luật của các rabbi, nhưng Người không thể chấp nhận nên đã phải đụng chạm đến các tiến sĩ/thầy dạy luật, bởi vì Người không chỉ đề ra những cách giải thích như họ, mà “Người còn giảng dạy như một người có uy quyền, chứ không như các luật sĩ của họ”. Nơi chúa Giesu, cũng vẫn Lời Thiên Chúa xưa đã từng vang dội trên núi Sinai để viết ra thành luật Maisen, nay lại được nghe lại tại núi Tám Mối Phúc Thật. Chúa Giesu không dẹp bỏ lề luật, nhưng kiện toàn bằng cách đưa ra những giải thích tối hậu theo đường hướng của Thiên Chúa: “Các ngươi đã nghe có lời dạy người xưa rằng…., còn ta, ta bảo các ngươi rằng…”(Mt 5:33-34) Với uy quyền Thiên Chúa như thế, Người không chấp nhận một số truyền thống loài người của những người biệt phái vì chúng “phá bỏ Lời Thiên Chúa”. 

SUY NIỆM TRONG TUẦN: 

1-  Thế giới quanh ta đang khao khát Tin Mừng thực sự từ những người thợ làm việc trong vườn nho của Chúa là những người rao truyền Tin Mừng không mệt mỏi,  không buồn nản, nhưng là những thừa tác viên / mục tử của Phúc Âm mà cuộc sống sáng ngời đầy nhiệt khí, là những người đã nhận niềm vui chúa Thánh Thần trước tiên, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để cho nước Trời được tuyên xưng, Giáo Hội được thiết lập giữa lòng thế giới. Chúng ta phải rao truyền Phúc âm như thế nào? Chúng ta có vui mừng tiếp nhận việc Tân Phúc Âm hóa không?

2-  Cái gì ngăn cản chúng ta trở thành những cộng đồng thực sự, tình nghĩa huynh đệ thực sự và  một hội đoàn sống động hơn là một cơ chế tổ chức máy móc, nặng phần trình diễn?

3-  Nhờ một số biến cố xẩy ra trên thế giới và trong Giáo Hội, chúng ta gạn lọc và xét lại lời tuyên xưng của chúng ta thế nào? Chúa Thánh Thần đã nói gì với Giáo Hội qua những biến cố ấy? Những hình thức mới nào vể việc phúc âm hóa mà Chúa Thánh Thần dạy bảo và đòi hỏi chúng ta phải theo ?

4-  Chúng ta có phải là những người thợ làm việc trong vườn nho của Chúa, đầy niềm tin, quảng đai, nhiệt tình và tràn trề hy vọng không?  Tại sao?

Về mục lục

.

VANG VỌNG TIẾNG YÊU

Lm. Jos. DĐH.

Triết lý ở đời cho rằng: nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng, nếu tư tưởng ban đầu đã có ý phản loạn, làm sao trong hành xử kẻ đó lại không gian ác ? Kinh nghiệm dân gian chẳng hề vô tình khi nói: trời cao có mắt, gieo nhân nào sẽ gặt được quả ấy ; vì thế người xưa vẫn có ý đặt chữ tâm, chữ đức, làm tiêu chuẩn soi dẫn con cháu: hữu tâm, tất thành tựu ; vô đức, bất thành nhân. Mang trọng trách làm cha mẹ ở gia đình, hay có chức vị trong xã hội, người ta được quyền mơ ước tài năng đức độ, thành toàn một cách xuất sắc cho vị trí hiện tại của mình. Nguồn gốc gia đình, điều kiện kinh tế, chưa phải là yếu tố quyết định đem lại danh thơm tiếng tốt, đúng hơn, người đủ tâm đủ tầm, có thực thi đức ái, có sống đạo làm người, mới đáng được con cháu hậu duệ nể phục lưu danh.

Đức Giêsu hôm xưa không ngần ngại trưng dẫn dụ ngôn “những tá điền sát nhân”, nhằm cảnh tỉnh một số bậc kỳ lão trong dân sai lạc, đang sống thất đức, vô tâm, vô tình. Đức Kitô hôm nay, bằng nhiều phương thế, bằng hành động yêu thương, Ngài vẫn đang thức tỉnh, lưu ý, đến từng tâm hồn, đừng phản loạn, đừng làm hư hỏng hồng ân làm con cái Nước Trời. Ngày hôm nay, chủ ý giết hại các ngôn sứ để chiếm đoạt vườn nho như những tá điền thì không, nhưng ích kỷ, mưu mẹo, chèn ép người anh chị em mình nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất không phải là không có ! Được sinh ra rồi trưởng thành, tiếng dịu ngọt rất cụ thể hằng nhắc nhớ: bản chất yêu thương của cha mẹ đối với con cháu không bao giờ thay đổi. Như lá rụng về cội, nước chảy về nguồn, đó là chân lý, mỗi người không thể không nghe, không biết, không hiểu, hoặc chỉ lơ mơ về lòng bao dung của Thiên Chúa.

Sống trên đời, kẻ có tình, rình người vô ý, thật nguy hiểm biết bao, nếu không mặc lấy tâm tình khiêm tốn, khó mà chúng ta thấy được bổn phận phải trung thành với Thiên Chúa, phải sống mẫu mực yêu thương đối với đồng loại. Áp lực công việc, khả năng hiểu biết có chừng mực, nếu không có giây phút để tâm trí nghỉ ngơi, làm sao chúng ta nghe được lời nhắn nhủ của Đấng yêu thương ? Tính hung ác tàn bạo của những tá điền xưa kia, họ không nương tay với người con duy nhất của ông chủ, Đức Giêsu gợi lên sự bất trung là đầu mối làm sai lạc, dẫn tới bất hạnh mà thôi. Tình tiết câu truyện dụ ngôn không mới đối với bậc kỳ lão trong dân, nhưng do người kể và hoàn cảnh, không thể không mang tính “thời sự”, thôi thúc tâm tư vốn nhạy bén của từng cá nhân, tập thể, trước ơn gọi làm công dân của “vườn nho” mai sau.

Người xưa có câu: sấm bên đông, động bên tây, thực tế thì vì yêu, vì muốn con cái nên người hữu ích, bậc cha mẹ phải sửa dạy con cháu, hoặc cho roi cho vọt. Đức Giêsu là cội nguồn yêu thương, Ngài không đến để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi kẻ tội lỗi bất trung. Dụ ngôn tố cáo tội ác của các tá điền, lên án những người quản lý bất nhân, thất đức ; ray rứt đó, giống như câu tục ngữ: thuốc đắng giã tật. Các thượng tế và kỳ lão trong dân, họ không thể ngây thơ đến độ không biết cha ông họ đã từng cư xử bất nhân bất nghĩa, đã giết các ngôn sứ, bởi họ cũng đang đi theo lối mòn đó. Làm người ai cũng thế thôi, có thành công, được bình an, hạnh phúc, tất phải đối diện với sự thật, phải nếm mùi đau khổ, mấy ai trên đời không hiểu, có dại mới nên khôn.

Xã hội thời nào cũng thế, không ít người rất bén nhạy, họ có tai thính, mắt tinh thông, đầu óc bác học, do đó, chỉ một gợi ý nhỏ, họ dám buông bỏ tất cả để tu thân, tích đức. Đức Giêsu không “dương đông, kích tây”, nhưng Ngài đã nói sự thật, các thượng tế và kỳ lão trong dân họ phải hiểu hành động đúng, sai, của tiền nhân, vấn đề là thời gian họ đón nhận tiếng yêu thương của Thiên Chúa ? Hôm nay, khi nghe đọc dụ ngôn những tá điền sát nhân, liệu tâm hồn chúng ta có còn rung động gì nữa không ? Hoặc vì câu truyện tá điền hay người quản lý xưa quá rồi ? Ca dao có câu: trăm năm tóc cũng đổi mầu, chữ tâm sáng mãi giữa mầu thời gian; hy vọng chữ tâm và thời gian, sẽ giúp chúng ta tạo nên chữ đức.

Ngày hôm nay, ai cũng hiểu cội nguồn là tổ tiên ông bà, là Thiên Chúa làm người, vậy chúng ta có nghe được vang vọng tiếng yêu thương của các ngài không ? Cho dù tâm hồn cứng cỏi, đôi mắt tâm trí, mỗi người không tinh thông vì ảnh hưởng môi trường “ô nhiễm”, nhưng lời ru à ơi: con khôn đẹp mặt mẹ cha, con hư con dại nhuốc nha trăm đàng, vẫn là cơ hội giúp chúng ta nhớ đến cội nguồn. Con người thời đại rất tinh thông đủ điều, ai cũng biết cần phải sử dụng cái đầu thông thái để tâm để đức cho hậu thế, nên sử dụng tấm lòng quảng đại mà chia sẻ bình an, niềm vui cho anh chị em mình. Đức Giêsu rất trân trọng tự do của mỗi người, nhưng Ngài luôn thao thức trí lòng chúng ta nghe được tiếng vang vọng của tình yêu ơn Chúa cứu độ. Ngài rất cần chúng ta tin và sống niềm tin như người quản lý biết trung thành và quán xuyến công việc, phát sinh đức ái như lòng Chúa chờ mong. Amen.

Về mục lục

.

SINH HOA LỢI

Phạm Anh

Người kinh doanh bỏ vốn, bỏ công, ai cũng muốn thu lời. Trong “dụ ngôn những người tá điền sát nhân” (Mt 21, 33-43) thì sao ? Ông chủ vườn nho giao cho các tá điền canh tác vườn nho, nhưng khi đến mùa thu hoạch, họ không nộp hoa lợi lại còn giết đầy tớ và cả con trai của ông. Ông đã làm gì : “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43).

Ông chủ vườn nho đã làm tất cả những gì tốt nhất cho việc canh tác, đảm bảo sự an toàn, thuận lợi trong việc chăm sóc cây. Nào là ông rào giậu, khoét bồn đạp nho, xây một tháp canh. Những công việc ấy đáng ra phải là những công việc của các tá điền, nhưng ông đã chuẩn bị sẵn. Điều lạ hơn, ông giao vườn nho cho các tá điền chăm sóc, rồi trẩy đi phương xa. Thật khó hiểu, ông chủ phải là người giám sát công việc, nhưng ông đã để các tá điền tự do chăm sóc vườn nho tùy theo khả năng mỗi người. Như vậy, ông chẳng coi họ như những người làm, nhưng là những người bạn. Thật đúng khi nói rằng chẳng có ông chủ nào tốt bụng bằng. Hình ảnh ông chủ trong vườn nho là Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương, luôn dành sẵn những gì tốt đẹp nhất cho từng người.

Thật vậy, Thiên Chúa mời gọi mỗi người vào canh tác vườn nho cho Chúa khi Người sinh chúng ta vào thế giới này. Người đã chuẩn bị tất cả cho chúng ta. Người ban cho chúng ta sức khỏe, thời gian, gia đình, bạn bè, nghề nghiệp, mỗi người sẽ có những tài năng riêng, những người dẫn dắt giúp đỡ, và những hồng ân của Người tuôn xuống cho ta trong từng giây phút. Đặc biệt, Người để ta tự do sử dụng những gì ta có, tùy theo mỗi người. Như thế, ta chẳng còn là đầy tớ, nhưng là con cái của Thiên Chúa. Vấn đề đặt ra rằng : con người có những điều kiện tốt như thế, tại sao lại không sinh hoa lợi?

Phải chăng con người luôn đặt mình làm trung tâm, chỉ nhìn vào chính mình, luôn muốn tốt cho mình trong sự hưởng thụ, ích kỷ. Trong xã hội đã có rất nhiều vụ án gây bao nhiêu nỗi đau, xót xa. Trên báo Tiền Phong, ngày 04/05/2012 đã đăng tin, cháu trai giết bà nội chỉ vì 20.000 đi chơi game. Tại sao, bà đã nuôi nấng, chăm sóc bao lâu nhưng chỉ vì phút túng bách mà lại dám giết chính người thân nhất, thương nhất. Chúng ta có khi nào giống những người tá điền sát nhân kia, giống người cháu kia không? Đã bao lần chúng ta nghi ngờ, phản bội lại chính Thiên Chúa, chẳng sinh lời những khả năng Chúa ban, luôn đòi hỏi Thiên Chúa chiều theo ý muốn của bản thân ? Đã có lúc chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta điều này điều kia, Người không làm cho sự việc xảy ra như ý chúng ta muốn, chúng ta quên Chúa. Con người yếu đuối là thế. Có thể do chúng ta chưa nhận ra bàn tay của Chúa dẫn dắt, hoặc do hoàn cảnh, mất định hướng mà chúng ta chưa sinh lời những gì Chúa ban. Nhưng từ tận sâu trong đáy lòng mỗi người luôn khao khát được nên tốt hơn, hoàn hảo hơn như Chúa muốn.

Lạy Chúa, mỗi người có thể sinh lời khi chúng con gắn bó với Chúa như thân nho gắn liền với cành nho. Xin cho chúng con đừng trì hoãn thêm phút giây nào nữa, nhưng biết nhanh nhẹn nỗ lực hằng ngày làm trổ sinh hoa trái trong tình yêu Chúa. Xin Chúa cho chúng con thêm cơ hội và thời gian. Lạy Chúa, Người sẽ luôn kiên nhẫn, chờ đợi chúng con làm nên những hoa trái đẹp nhất. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Dụ ngôn “Các tá điền sát nhân” mà Tin mừng hôm nay kể lại cho chúng ta thấy sự tương phản giữa Tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa và sự vô ơn, phản bội của dân Do thái.

Thật vậy, Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Do thái làm dân riêng và coi họ như là “vườn nho” mà Ngài luôn chăm sóc giữ gìn. Qua các thời kỳ, Ngài sai các thủ lĩnh, các tiên tri và chính Con Một của Ngài đến để chăm sóc, dạy dỗ và hướng dẫn họ. Ngài chăm sóc họ giống như ông chủ chăm sóc vườn nho: rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn. Ngài mong muốn họ sinh quả nho thì họ lại sinh nho dại (x. Is 5,2). Ngài mong muốn điều chính trực, thì lại toàn sự gian ác. Ngài mong muốn đức công bình, thì lại toàn là tiếng kêu oan (x. Is 5,7).

Không những thế, họ còn nổi lên chống lại Ngài. Họ bắt các đầy tớ là các tiên tri mà Ngài sai đến: “đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác” (x. Mt 21,35). Cuối cùng, họ giết luôn cả Con Một của Ngài là chính Đức Giêsu. Vì sự vô ơn và phản bội của họ nên Thiên Chúa “cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi” (x. Mt 21,41). Cuối dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định với người Do thái: “Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái.”(Mt 21,43).

Người khác hay dân tộc khác ở đây chính là Giáo hội. Thiên Chúa trao vườn nho cho Giáo hội. Giáo hội là vườn nho và cũng là người coi sóc vườn nho. Giáo hội có sứ mạng làm cho vườn nho sinh hoa trái. Đó là nhiệm vụ bảo quản và trao ban. Giáo hội bảo quản và trao ban những kho tàng thiêng liêng là Lời Chúa và các Bí tích thông qua sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử.

Với sứ mạng ngôn sứ, Giáo hội có trách nhiệm rao giảng Lời Chúa. Đây là lệnh truyền mà Giáo hội lãnh nhận từ Đức Giêsu trước khi Ngài về trời: “Anh em phải đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Lệnh truyền này được áp dụng với hết mọi thành phần trong Giáo hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Giáo hội có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, bằng chứng tá cuộc sống, trong nhà thờ, nơi các lớp giáo lý, nơi mọi môi trường sống và trong mọi hoàn cảnh. Thánh Phaolô nói: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4, 2).

Với sứ mạng tư tế, Giáo hội có trách nhiệm cử hành phụng vụ nhất là phụng vụ các Bí tích. Bảy Bí tích là máng chuyển thông ơn Thiên Chúa qua Giáo hội để đến với mọi người: Bí tích Rửa tội tha tội nguyên tổ và tội riêng; Bí tích Giao hòa tha các tội ta đã phạm từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội về sau cùng giao hòa tội nhân với Chúa và Giáo hội; Bí tích Thánh Thể là của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn các kitô hữu; Bí tích Thêm Sức ban cho người lãnh nhận bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần, tăng cường đời sống siêu nhiên, gắn bó ta cách mật thiết hơn với Giáo hội ; Bí tích Xức dầu ban ơn nâng đỡ bệnh nhân phần hồn, phần xác và chuẩn bị bước vào đời sau; Bí tích Hôn nhân kết hợp hai người nam nữ thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và mọi người, cùng ban ơn để họ sống xứng đáng ơn gọi của mình ; Bí tích Truyền chức thánh hiến những vị mà Chúa muốn trao ban cho tác vụ thánh trong dân Chúa.

Với sứ mạng mục tử, Giáo hội có sứ mạng chăm sóc Vườn nho. Trách nhiệm chung đối với Giáo hội hoàn cầu là Đức Giáo Hoàng; trách nhiệm đối với các Giáo phận là các Giám mục; trách nhiệm đối với các giáo xứ là các linh mục quản xứ; mỗi cộng đoàn có các Bề trên…Trong Giáo hội, Giáo phận, Giáo xứ, cộng đoàn còn có nhiều chức vụ khác nhau để ai nấy cũng có thể thông phần sứ mạng mục tử của Giáo hội. Thánh Phaolô khẳng định: “Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ.” (Ep 4,11).

Tất cả mọi thành phần trong Giáo hội, không chỉ coi Giáo hội là vườn nho để hưởng hoa lợi qua Lời Chúa và các Bí tích mà còn được mời gọi để thông phần sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử của Giáo hội. Đặc biệt, các thành phần trong Giáo hội phải có bổn phận đối với vườn nho được giao phó cách riêng cho mình: Giám mục có bổn phận với Giáo phận; cha xứ có bổn phận với giáo xứ; bề trên có bổn phận với cộng đoàn; cha mẹ có bổn phận với con cái… Ngoài ra, mỗi kitô hữu cũng là vườn nho của Chúa nên phải có bổn phận tự chăm sóc giữ gìn để làm cho vườn nho của mình được phát sinh hoa trái. Để vườn nho của mình được sinh hoa trái, các kitô hữu cần phải gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, liên đới với anh chị em qua việc thực thi bác ái. Đặc biệt, các kitô hữu cần phải dọn mình lãnh nhận các Bí tích và chu toàn bổn phận mà các Bí tích đòi hỏi : Bí tích Rửa tội mời gọi chúng ta từ bỏ ma quỉ, xa lánh tội lỗi, tin theo Chúa Kitô và tuân giữ lề luật của Người; Bí tích Giao hòa mời gọi chúng ta thực hành 4 việc là xét mình, ăn năn tội, xưng tội, và đền tội; Nơi Bí tích Thánh Thể có Chúa Giêsu hiện diện nên mời gọi mọi người chúng ta hết lòng yêu mến và tôn kính Bí tích cực trọng này; Bí tích Thêm sức mời gọi chúng ta can đảm thực hành Lời Chúa để làm chứng cho Chúa trong cuộc sống thường ngày, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin Mừng và tích cực bênh vực và truyền bá đức tin cho mọi người; Bí tích Truyền chức thánh mời gọi người lãnh nhận phải giữ luật độc thân và khiết tịnh; Bí tích Hôn phối mời gọi hai người phối ngẫu phải giữ luật đơn hôn và vĩnh hôn, đồng thời phải yêu thương nhau, sinh sản và giáo dục con cái.

Từ khi được Đức Giêsu trao phó Vườn nho, Giáo hội đã cố gắng chu toàn bổn phận chăm sóc và giữ gìn qua sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử. Nhưng chắc chắn trong lòng Giáo hội vẫn còn có những vị lãnh đạo chưa chu toàn bổn phận của mình, vẫn còn có những con dê đội lốt chiên. Đặc biệt, nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta, nhiều khi chúng ta vẫn chưa sử dụng hết khả năng và ơn lành của Chúa để sinh hoa kết trái trong cuộc đời: Đó là những khi chúng ta không chu toàn bổn phận làm linh mục, bổn phận tu sĩ, bổn phận vợ chồng, bổn phận cha mẹ, bổn phận làm con cái, bổn phận ngôn sứ, tư tế và mục tử. Trái lại, nhiều người trong chúng ta vẫn còn sinh ra những thứ hoa dại : Đó là tội lỗi, gương mù gương xấu, làm thiệt hại cho Giáo hội, cho Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi thành phần trong Giáo hội biết chu toàn bổn phận ngôn sứ, tư tế và mục tử. Xin cho mỗi chúng con luôn biết sử dụng những nén bạc Chúa giao để sinh lợi cho Chúa bằng những việc lành phúc đức, góp phần làm cho vườn nho của Giáo hội và của chính mỗi người chúng con được sinh bông hạt. Amen.

Về mục lục

.

BÀI CA VƯỜN NHO

JM Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVII/TN-A – Mt 21, 33-43) trình thuật dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” cũng liên quan đến vườn nho như bài Tin Mừng tuần trước (CN XXVI/TN-A) trình thuật dụ ngôn “Hai người con” (Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho của ông – Mt 21, 28-32). Ngoài ra, Đức Giê-su còn kể dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” (Mt 20, 1-16), và Người còn tự xưng “Thầy là cây nho và anh em là cành” (“Cây nho thật” – Ga 15, 1-9). Vì sao lại có nhiều sự kiện liên quan đến vườn nho như vậy? Cũng bởi vì dân It-ra-en được Thiên Chúa tuyển chọn và coi như một vườn nho được Người chăm sóc, bảo vệ. Bài đọc 1 hôm nay (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một ví dụ. Không phải chỉ một mình ngôn sứ Isaia ví Dân Chúa là vườn nho, mà ngôn sứ Hô-sê cũng gọi Ít-ra-en là cây nho um tùm, trổ ra hoa trái (Hs 10, 1); đến ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn sử dụng hình ảnh này nhiều hơn (Gr 2, 21; 5, 10; 6, 9; 12, 10); và Ê-dê-ki-en cũng không tiếc lời (Ed 15, 1-8; 17, 3-10; 19, 10-14).

Trong “Bài ca vườn nho”, ngôn sứ Isaia khẳng định: “Vườn nho của ĐỨC CHÚA các đạo binh, chính là nhà Ít-ra-en đó; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy chính là người xứ Giu-đa.” (Is 5, 7). Điều đó cho thấy vườn nho It-ra-en là Dân Giao Ước, Dân của mối tình thắm thiết mà Thiên Chúa đã dành cho dòng dõi Ap-ra-ham. Như người trồng nho cần cù, Người đã không tiếc công vỡ đất, nhặt đá trước khi đem trồng một thân nho đan tử, rồi còn cất tháp canh và khoét sẵn một bồn đạp nho. Người đã làm tất cả mọi việc với chan chứa hy vọng vườn nho sẽ sinh hoa kết quả tốt tươi. Thật vậy, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã muốn cho dòng dõi Ap-ra-ham “nhiều như sao trên bầu trời và như cát ngoài bãi biển” (St 22, 17), Người mong muốn mọi dân nước nhờ đấy mà được hưởng phúc.

Thật đáng tiếc, vườn nho It-ra-en lại trổ sinh toàn một thứ “nho dại”. Điều tất yếu xảy ra là ông chủ sẽ “hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo. Tôi sẽ biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; sẽ truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống.” (Is 5, 5-6). Ngụ ý của tác giả thật rõ ràng: Thiên Chúa “những mong họ (dân It-ra-en) sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than.” (Is 5, 7). Nhìn theo nhãn quan trần thế thì tất nhiên cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống It-ra-en, vì quả thật thời Lưu Đày ở Ba-by-lon đã xảy ra (vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên). Tuy nhiên, Thiên Chúa là Đấng “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9), bởi “Quả thật, Ta không vui thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Vậy hãy trở lại và hãy sống.” (Ed 18, 32). Và vì thế, Người mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc. Tới đây thì lại bước vào thời điểm của dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (Mt 21, 33-43) ứng nghiệm. 

Để vườn nho tự phát triển thì vườn nho sinh toàn nho dại. Tức giận và triệt phá vườn nho thành đất hoang vu, ông chủ cũng chẳng vui thích gì. Cuối cùng, vườn nho được giao cho tá điền canh tác với hy vọng sẽ bội thu hoa lợi. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai đầy tớ đến để thu hoa lợi. Bọn tá điền không thèm đếm xỉa đến các đầy tớ, đánh người này, giết người kia. Sau cùng ông chủ sai con trai mình đến, hy vọng chúng sẽ nể con ông. Thế nhưng, các tá điền giết luôn cả người con, nghĩ rằng giờ đây chúng sẽ có thể chiếm đoạt được vườn nho. Kể tới đây, Đức Giê-su bất ngờ đặt câu hỏi: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Đám thượng tế với tâm địa chẳng tốt lành gì, đồng thời lại được giáo dục bởi một lề luật “mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân…” (Xh 21, 23-25), nên ngay lập tức họ trả lời: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” 

Đám người Do Thái trả lời mà không ý thức được “mình đang phán xét, đang kết án chính mình”, bởi đám tá điền sát nhân đó không ai khác hơn là chính đám người đang nghe dụ ngôn và trả lời câu hỏi của Đức Giê-su; họ sẽ nhận được bản án mà chính họ đã đưa ra. Vì đám người này chuyên vỗ ngực xưng mình là người thông thạo lề luật, nắm vững Kinh Thánh trong lòng bàn tay, nên Đức Giê-su đã đặt một câu hỏi khác (“Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao?”) để lái câu chuyện theo ý của Người là dẫn lời Thánh vịnh 118 (câu 22-23), nhằm xác định chính Người là con trai ông chủ: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của CHÚA, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Mt 21, 42). Như vậy thì Vườn nho ấy chính là “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt.” (Mt 21, 43-44). 

Rõ ràng đây là một cơ hội tốt để các nhà lãnh đạo tinh thần Do Thái giáo thức tỉnh và hối cải (“trở lại và hãy sống” – Ed 18, 32), nhưng vì họ không tin vào ngụ ý trong dụ ngôn thức tỉnh họ, nên đã từ chối và tiếp tục theo con đường mù quáng, đi tới chỗ thực hiện đúng như lời dụ ngôn tiên báo: Không chỉ tàn sát các tôi tớ của ông chủ (những ngôn sứ Thiên sai), mà còn giết luôn cả con ông chủ (Đức Giê-su Con Thiên Chúa). Con ông chủ vườn nho – “Tảng đá” bị thợ xây (là những tá điền sát nhân) loại bỏ; không ngờ “lại trở nên đá tảng góc tường” làm nền móng cho Vườn Nho Giao Ước Mới, và “Đó chính là công trình của CHÚA, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Tv 118, 23). Đâu ai có thể ngờ được con ông chủ bị giết chết lại trở thành ơn cứu rỗi cho vườn nho, viên đá tảng bị loại bỏ lại trở thành Nền Móng kiên cố xây dựng Vườn Nho Nước Chúa vĩnh hằng.  

Thật là mầu nhiệm, thật là kỳ diệu, ngay cả những hành động gian ác của con người lên đến đỉnh điểm cũng không ra ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa – Người cho phép có sự ác nhưng cuối cùng Người xoay chiều cái ác thành cái thiện (“Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt” – St 50, 20). Giáo Lý HTCG (số 312) đã lý giải rõ ràng: “Thiên Chúa trong sự quan phòng toàn năng có thể rút sự lành từ hậu qủa của một sự dữ, cho dù là sự dữ luân lưu do thụ tạo gây nên: “Giu-se nói với anh em: không phải các anh đã đưa đẩy tôi đến đây nhưng là Thiên Chúa, … sự dữ mà các anh đã định làm cho tôi, ý định của Thiên Chúa đã chuyển thành sự lành… để cứu sống một dân đông đảo.” (St 45, 8; 50,20). Từ việc Ít-ra-en chối bỏ và hạ sát Con Thiên Chúa là sự dữ luân lý lớn nhất chưa từng có do tội lỗi của con người gây nên, Thiên Chúa đă rút ra được sự lành lớn nhất do sự sung mãn của ân sủng (x. Rm 5, 20): Đức Ki-tô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên, không vì thế mà cái xấu trở thành cái tốt được.” 

Đức Giê-su kể dụ ngôn này để cảnh cáo các nhà lãnh đạo tinh thần Do Thái giáo, đồng thời cũng để nhắc nhở tất cả mọi tín hữu: Tội nặng nhất của các tá điền không những là từ chối đón tiếp, mà còn giết hại những người được ông chủ sai đến. Trước những tá điền bất trung và sát nhân, ông chủ vẫn cứ kiên nhẫn, sai hết người này đến người nọ, ngày càng nhiều hơn và cuối cùng sai chính con của mình đến với họ. Chung quy thì tội ấy bắt nguồn từ chỗ họ muốn chiếm lấy vườn nho. Nói cách khác, các tá điền (những thượng tế, kinh sư, kỳ mục Do Thái) đã “dĩ công vi tư” (lấy chuyện công làm chuyện riêng) muốn chiếm hữu cả vườn nho để tỏ ra là mình quan trọng, là tạo một ảnh hưởng có lợi cho bản thân. Đó phải chăng là họ đang phục vụ chính mình dưới cái vỏ bề ngoài là sự tận tụy và đạo đức phục vụ công ích? 

Bài học rút ra được cho người tín hữu ngày hôm nay là tùy theo phận vụ của mình trong Giáo hội, mỗi Ki-tô hữu là những tá điền được Chúa ủy thác làm vườn nho Giao Ước Mới của Chúa là xây dựng Nước Trời, xây dựng Giáo hội thành cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Hãy thẳng thắn nhìn lại bản thân xem mình có làm vì lợi ích Nước Trời, vì lợi ích cho anh em hay chỉ vì quyền lợi của cá nhân mình? Làm công tác Tông đồ bác ái có thật lòng hay chỉ thích đứng ở ngã ba ngã tư, súng sính trong trang phục lộng lẫy, khua chiêng gõ mõ ồn ào (Mt 6, 1-6) cốt cho thiên hạ thấy mình là nhân vật quan trọng? Yêu cầu tất yếu dành cho tất cả mọi thành phần tá điền (lớn nhỏ tuỳ từng nhiệm vụ) là phải biết luôn luôn nhìn lại mình xem có thực sự xứng đáng với trách vụ của mình được Chủ vườn nho uỷ thác, hay không. 

Vì Tình Yêu, Ông Chủ vườn nho luôn đối xử rất công bằng với tất cả, vậy không còn lý do nào để biện mình cho những cá tính kiêu ngạo, đố kỵ, ghen tức, hận thù; mà phải là “sống hiền hoà rộng rãi…  và trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su. Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.” (Pl 4, 5-9). 

Tóm lại, dụ ngôn nói về dân Do Thái và những hệ luỵ do con người tự gây ra cho mình và cho đồng loại, nhưng ngoài ý nghĩa cụ thể ấy, còn hàm chứa một ý nghĩa chung cho tất cả mọi Ki-tô hữu. Vườn nho ấy chính là Giáo hội và cộng đồng dân Chúa là những tá điền được Chúa trao cho trách vụ chăm bón, vun sới cho vườn nho phát triển và sinh nhiều hoa trái. Những tá điền làm việc luôn có người con của chủ vườn nho (là chính Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa) sát cánh, đồng hành trong mọi tình huống (”Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” – Mt 21, 42). Yêu cầu tất yếu dành cho tất cả mọi thành phần tá điền (lớn nhỏ tuỳ từng nhiệm vụ) là phải biết luôn luôn nhìn lại mình xem có thực sự xứng đáng với trách vụ của mình được chủ vườn nho uỷ thác, hay không. Vì Tình Yêu, Chủ vườn nho (là Thiên Chúa) luôn đối xử rất công bằng với tất cả, vậy không còn lý do nào để biện mình cho những cá tính kiêu ngạo, đố kỵ, ghen tức, hận thù; mà phải là sống và thực hành đều răn trọng nhất: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng,  hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực; và yêu người thân cận như chính mình.” (Mc 12, 30-31).   

Cuối cùng thì xin hãy “Sống khiêm nhường và bác ái trong cộng đoàn” (Rm 12, 3-13), “Bác ái đối với mọi người, kể cả thù địch” (Rm 12, 14-21). Ấy cũng bởi vì và trên tất cả “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình. Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ, và để xây dựng. Thật vậy, Đức Ki-tô đã không chiều theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu. Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” (Rm 15, 1-4). Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

NƯỚC THIÊN CHÚA

  Fx Đỗ Công Minh 

       Tin Mừng Chúa nhật thứ XXVII Thường niên, Thánh Matthêu thuật lại một dụ ngôn người chủ vườn nho ra công gầy dựng cơ sở của mình, tạo công ăn việc làm cho các tá điền, mang cho họ cơm ăn áo mặc. Những tưởng khi đến mùa thu hoạch, những người làm cho ông sẽ thu lại sản phẩm huê lợi của chủ, sau khi đã trừ công cho người làm thỏa đáng. Thế nhưng, trớ trêu thay, những người hàm ơn lại phản lại ông chủ, thậm chí còn hành hung, xua đuổi những người đấy tớ chỉ làm theo lời chủ, đến thu huê lợi chính đáng, do người chủ vườn nho đã đầu tư vốn liếng, cơ sở vật chất, một sự công bằng phải lẽ. Sau nhiều lần nghe tin các đầy tớ bị đối xử oan nghiệt, ông chủ sai chính con mình đến, mong rằng các tá điền sẽ nể vì người con của ông mà đáp đền cho xứng hợp. Bọn tá điền không hề coi trọng con ông, lại đuổi khỏi vườn nho và giết đi. 

       Câu chuyện dụ ngôn trong tin mừng không phải hiếm gặp trong thế giới ngày nay. Người hàm ơn không đền đáp công ơn của ân nhân mà trái lại, tìm mọi cách chiếm đoạt, thậm chí phủ nhận mọi công lao của người đã ra tay cứu mình trong cơn hoạn nạn. Những chuyện thường nghe hôm nay như người cho ở nhờ nhà, cho mượn đất đai canh tác rồi giả mạo giấy tờ chiếm đoạt tài sản của chủ nhà, chủ đất đang diễn ra nhan nhản. Thậm chí con cái về ở lại nhà cha mẹ sau khi đã trưởng thành ra riêng, đánh đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, hay đầu độc cho cha mẹ chết rồi chiếm đoạt nhà cửa, đất đai không còn là chuyện lạ trong xã hội. 

      Đức Giêsu muốn nói gì khi đề cập đến dụ ngôn này? Người muốn cho chúng con biết về chính Người là người con của ông chủ vườn nho. Người đã phải chết vì tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian, khiến con người không nhận ra tình yêu thương, lòng thương xót của người chủ vườn nho là Cha nhân từ, đấng ngự trên trời. Đức Giêsu đã bị giết đi nhưng Người đã được phục sinh để mở ra một trang sử mới của lịch sử nhân loại. Từ đây một Nước Thiên Chúa sẽ được ban cho những con người biết sống yêu thương, chân thành, tín trung. “Tảng đá người  xây nhà loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường. Đó chính là công trình của Thiên Chúa, công trình kì diệu trước mặt chúng ta”.Tảng đá ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

      Xin cho chúng con trở thành những công dân củaNước Thiên Chúa, biết bảo nhau chăm lo vun giữ vườn nho yêu thương, bác ái. Sống tình yêu thương, huynh đệ, đáp đền lòng thương xót của người chủ vườn nho, để trổ sinh hoa lợi một cách xứng đáng ở trần gian này, biết tránh xa thái độ vô ơn, vướng vào tội ác của những tá điền bất xứng hầu sẵn sàng đón tiếp Thánh Tử Giêsu, Người sẽ đón chúng con vào vương quốc vĩnh cửu nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

SINH HOA LỢI LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 21,33-43

(33) Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho. Chung quanh vườn, ông rào dậu, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. (34) Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. (35) Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông. Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. (36) Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước. Nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. (37) Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con ta”. (38) Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi ! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó !”. (39) Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. (40) Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia ?”. (41) Họ đáp: “Ác giả ác báo ! Ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”. (42) Đức Giê-su bảo họ: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao ?: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. (43) Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân tộc biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.

  1. Ý CHÍNH: DỤ NGÔN NHỮNG TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN

Đức Giê-su đã dùng du ngôn “Những tá điền sát nhân” này để cảnh cáo các đầu mục Do Thái. Câu chuyện kể về bọn tá điền gian ác, đã được chủ vườn ưu ái trao quyền canh tác vườn nho, nhưng lại rắp tâm chiếm đọat khi không chịu nộp phần hoa lợi như đã thỏa thuận. Ho đã bách hại các đầy tờ do chủ sai đến và còn giết chết chính cậu con trai ông chủ. Số phận của bọn tá điền gian ác là sẽ bị tru diệt và vườn nho sẽ được trao do người khác biết chu tòan thỏa thuận đã ký kết.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 33: + Các ông: Ở đây ám chỉ các thượng tế và kỳ mục Do Thái ở Giê-ru-sa-lem. + Gia chủ và vườn nho: Trong sách ngôn sứ I-sai-a, vườn nho ám chỉ dân Ít-ra-en và chủ vườn nho là Thiên Chúa (x. Is 5,1-4). Còn trong dụ ngôn này, vườn nho lại ám chỉ Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập. + Rào giậu chung quanh, khoét bồn đạp nho và xây một tháp canh: Khi liệt kê các việc ông chủ đã làm cho vườn nho, Đức Giê-su nhấn mạnh sự quan tâm và quyền sở hữu tuyệt đối của chủ vườn nho: rào giậu là cách bảo vệ khỏi bị người khác lấn chiếm; bồn đạp nho hay hầm ép rượu là một cái hố được đục khoét sâu vào tảng đá lớn, nho được đạp dập cho chảy ra nước cốt. Nước cốt này chảy qua máng vào một thùng lớn và được ủ trở thành rượu. Tháp canh là vọng gác luôn có người canh để đề phòng kẻ trộm. + Cho tá điền canh tác: Tá điền ám chỉ các đầu mục dân Do thái đã được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăn dắt dân Ít-ra-en. Nhưng họ đã đưa dân này vào con đường thất tín và bất trung với Giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.

– C 34: + Gần đến mùa hái nho: Gần đến nhắc ta nghĩ đến lời giảng “Nước Trời đã đến gần” của Gio-an Tẩy Giả và của Đức Giê-su (x. Mt 3,2; 4,17). Mùa hái nho là thời gian Thiên Chúa sẽ đến tính sổ với dân Ngài. + Ông sai đầy tớ đến gặp tá điền để thu hoa lợi: Đầy tớ ám chỉ các ngôn sứ Cựu Ước đã được Thiên Chúa sai đến kêu gọi dân Ít-ra-en sám hối để làm con dân của Thiên Chúa.

C 35-36: + Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: Dân Ít-ra-en đã bắt bớ giết hại các ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến kêu gọi họ giữ Giao ước. + Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ: Các hình khổ của bọn tá điền làm đối với những gia nhân do chủ sai đến theo thứ tự từ nhẹ đến nặng: Đánh, giết, ném đá. Ném đá cũng là một cách giết chết, nhưng kèm thêm sự nhục nhã và đau đớn hơn nhiều. Điều này cho thấy sự chống đối của dân Ít-ra-en đối với các ngôn sứ ngày một gia tăng. Đó là thứ tội bất trung và xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. + Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước. Nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy: Qua câu này ta thấy có hai loại ngôn sứ là ngôn sứ tiền và ngôn sứ hậu. Việc gửi các ngôn sứ sau đông hơn ngôn sứ trước cho thấy lòng khoan dung kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với dân Ít-ra-en. Dù bị họ phản bội bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi, mà vẫn tiếp tục sai các ngôn sứ khác đến giúp họ hồi tâm sám hối. Nhưng họ vẫn cố chấp tiếp tục giết hại các ngài.

– C 37-39: + Sau cùng: Đây là cơ may cuối cùng để bọn tá điền hồi tâm sám hối. + Ông sai chính con trai mình đến: Con trai ông chủ ám chỉ Đức Giê-su, vì nhiều lần Người đã xưng mình là Con Thiên Chúa (x. Mt 14,32; 16,16). + Đứa con thừa tự đây rồi: Khi thấy con ông chủ đến, bọn tá điền lập tức nhận ra kẻ thừa tự. Họ đã hành động với đầy đủ ý thức và tự do nên tội của họ rất nặng. Còn về các đầu mục dân Ít-ra-en tuy không tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa vì lầm chẳng biết (x Lc 23,34), nên tội của họ có thể được nhẹ đi phần nào. + Nào ta giết quách nó đi và đoạt lấy gia tài nó: Lỗi nặng nhất của các tá điền là không bhững không tiếp nhận mà còn giết hại các đầy tớ và chính người con thừa tự do chủ vườn sai đến với họ. Tội đó phát xuất từ ý muốn chiếm đoạt vườn nho. Đây cũng là lời cảnh báo chúng ta: Mỗi lần ta biến các việc thuộc về Chúa trở thành việc riêng của mình để trục lợi, là ta đã chiếm đoạt vườn nho của Chúa làm của riêng ta, như bọn tá điền trong Tin Mừng hôm nay. + Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi: cái chết của người con trai ông chủ do bọn tá điền làm, ám chỉ cái chết của Đức Giê-su ngoài thành Giê-ru-sa-lem lúc cuối đời Người.

– C 40-41: + Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia ?: Đặt câu hỏi này, Đức Giê-su muốn cho các đầu mục dân Do Thái nhận định điều gì phải quấy. + Họ đáp: “Ác giả ác báo !: Họ cũng trả lời đúng với ý của ông chủ là phải trừng phạt bọn tá điền gian ác kia. + Cho các tá điền khác canh tác vườn nho: Tá điền khác ám chỉ dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Hội Thánh sẽ thay thế dân riêng Ít-ra-en để thừa hưởng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.

– C 42-43: + Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao ?: Đây là câu trích trong sách Thánh vịnh (x. Tv 118,22-23), gần giống với lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a (x Is 28,16). Sau này thánh Phê-rô đã ám chỉ câu này về mầu nhiệm Đức Giê-su Phục sinh, Đấng sẽ thiết lập dân mới của Thiên Chúa (x. Cv 4,11; 1 Pr 2,4-8). + Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ…: Tảng đá bị thợ xây loại bỏ ám chỉ Đức Giê-su bị bọn đầu mục Do thái sát hại, đã được Thiên Chúa nâng lên địa vị làm “Chúa” muôn loài sau cuộc tử nạn và phục sinh của Người (x. Pl 2,8-11). + Mà ban cho một dân tộc: không nhất thiết là dân ngoại, nhưng một dân mới là Hội Thánh, gồm các dân tộc tin thờ Thiên Chúa và tin vào Đức Giê-su (x. Rm 9,25; 1 Pr 2,10). Chính dân mới này sẽ thay chỗ của dân Ít-ra-en bất trung. + Biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi: Hoa lợi là phần rỗi đời đời. Tóm lại: Giao ước mới (Tân ước) sắp được ký kết giữa Thiên Chúa với loài người trong Máu Con Chiên Thiên Chúa là Đức Giê-su, sẽ thay thế Giao ước cũ (Cựu ước) được ký kết giữa Thiên Chúa với dân Ít-ra-en trong máu chiên bò thời Mô-sê.

  1. CÂU HỎI:

1) Ý nghĩa của vườn nho trong sách ngôn sứ I-sai-a và vườn nho trong Tin mừng Mat-thêu khác nhau thế nào ? 2) Trong dụ ngôn, ông chủ vườn nho đã biểu lộ lòng yêu mến dành cho vườn nho của mình qua những hành động nào ? 3) Bọn tá điền trong dụ ngôn ám chỉ những ai và họ đã thi hành nhiệm vụ ra sao ? 4) Đầy tớ được chủ sai đến để thu hoa lợi vườn nho ám chỉ những ai ? 5) Bọn tá điền đã đối xử thế nào đối với các đầy tớ do chủ vườn sai đến ? 6) Sự khoan dung nhẫn nhịn của chủ vườn nho thể hiện qua hành động nào ? 7) Sau cùng chủ vườn nho đã sai ai đến và đến để làm gì ? 8) Tại sao bọn tá điền lại hè nhau giết hại con trai ông chủ ? Cái chết của con trai ông chủ vườn có liên quan đến cái chết của Đức Giê-su sau này không ? 9) Câu “Ác giả ác báo” ám chỉ về ai trong dụ ngôn ? 10) Tảng đá bị bọn thợ xây lọai bỏ ám chỉ ai và điều gì sẽ xảy ra ? Dân tộc khác trong dụ ngôn ám chỉ dân nào ? Làm phát sinh hoa lợi nghĩa là làm gì ?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Tôi nói cho các ông hay: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21,43).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CẬU ĐÃ LÀM LỢI GÌ CHO CHÚA GIÊ-SU CHƯA?

Một buổi tối nọ, viên sĩ quan trẻ tuổi người Pháp tên SÁC-LƠ ĐƠ PHU-CÔN (Charles de foucauld) say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm ở Marốc  (Phi châu). Mọi người chăm chú theo dõi câu chuyện của anh, nhất là cô cháu bé chưa tròn 10 tuổi. Khi anh vừa chấm dứt câu chuyện thì cô bé bất thần hỏi anh một câu : “Thưa cậu, cháu đã thấy cậu làm được nhiều việc vĩ đại cho tổ quốc… thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa ?”

Câu hỏi như một luồng điện giật khiến ảnh trở nên bất động. Từ bao lâu nay chưa có ai khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế ! “Mình đã làm gì cho Chúa Giêsu chưa ?” Sác-lơ lục soát trong lương tâm của mình nhưng chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời giờ sức lực cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng phù phiếm. Anh nhận thấy con người khốn khổ nghèo hèn của mình.

Hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục, rồi từ bỏ mọi sự vào dòng khổ tu, rồi tình nguyện đến vùng sa mạc Sahara để truyền giáo và sống trọn vẹn những năm tháng còn lại cho Chúa Giêsu.

2) KẺ CHỐI BỎ THIÊN CHÚA SẼ ĐỐI XỬ TÀN BẠO VỚI ĐỒNG LOẠI:

Theo bản thống kê thì trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, Đức Quốc Xã đã thiết lập 200 trại tập trung để giam giữ tù binh và các chính trị phạm. Đặc biệt, người ta nhắc đến hai trại tập trung khủng khiếp nhất là Dachau ở Đức và Auschwitz ở Ba lan. Đã có khoảng 9 triệu người thuộc 23 quốc tịch khác nhau bị giết chết trong 2 trại tập trung này, mà riêng người Do thái bị giết đã là 6 triệu.

 Khi quân đồng minh đến giải phóng một trong các trại tập trung nọ, họ thấy ngoài cổng có dòng chữ như sau: “Ở đây không có chỗ cho Thiên Chúa”. Thấy cảnh tượng ghê tởm ấy, đạo quân chiến thắng đã cho đắp một núi nhân tạo, trên đó dựng một cây Thánh Giá lớn để nói lên rằng: Khi con người chối bỏ Thiên Chúa thì cũng đối xử với nhau tàn bạo hơn cả dã thú.

3) HẬU QUẢ TỆ HẠI CỦA THÁI ĐỘ THÁCH THỨC THIÊN CHÚA: 

Khi con tàu khổng lồ mang tên TITANIC vừa được xuất xưởng và hạ thủy, người ta đọc thấy dọc theo sườn con tầu những câu rất mực kiêu căng chống lại Thiên Chúa như sau:

No God, No Pope! Nghĩa là « Không có Chúa, cũng chẳng có Giáo Hoàng! ». Theo chủ tàu này thì ngay cả Đức Ki-tô cũng không thể đánh đắm nó. Cả đất trời cũng không thể làm gì chúng ta!

Bấy giờ, một trong các công nhân đóng tàu, vốn là một người Công Giáo ở Dublin đã ghi vào trong nhật ký một lời mang tính tiên tri như sau: “Vì những tội xúc phạm ghê gớm đó, tôi tin con tàu Titanic sẽ không bao giờ có thể tới được New York”. 

Và quả thật : vào lúc 0 giờ 5 phút ngày 14.4.1912, nhằm Chúa Nhật Quasimodo sau lễ Phục Sinh, tàu Titanic đã bị va mạnh vào một tảng băng ngầm giữa đại dương thủng một lỗ to khiến nó bị nước tràn vào khoang và bị gãy ra làm đôi. Người ta chỉ vớt được 705 người sống sót, còn lại 1.502 người đã bị chết chìm theo với con tàu kiêu hãnh…

Bất cứ sự chối bỏ Thiên Chúa nào cũng hàm chứa sự chối bỏ con người; và ngược lại, bất cứ sự chối bỏ và chà đạp nào đối với con người cũng thể hiện sự chối bỏ niềm tin vào Thiên Chúa.

4) KẺ CHỐI BỎ THIÊN CHÚA THẬT KHÔNG ĐÁNG TIN:

Một thượng nghị sĩ có thế giá ở miền Nam nước Pháp đến Paris. Ông thuê một phòng trong một khách sạn nổi tiếng và trả tiền phòng trước số tiền thuê một tháng. Viên quản lý khách sạn hỏi:

– Ông có muốn được ghi biên nhận không?

Thượng nghị sĩ đáp:

– Không cần thiết đâu, vì có Thiên Chúa chứng giám mà.

Viên quản lý tỏ vẻ ngạc nhiên :

– Cái gì ! Thời đại này mà ông còn tin có Thiên Chúa ư?

– Ô, tôi tin chứ. Vậy ông không tin có Chúa hay sao?

– Tôi không tin, thưa ngài. Viên quản lý đáp.

– Nếu thế thì tốt hơn là ông hãy ghi biên nhận cho tôi đi.

5) MỘT HÀNH ĐỘNG VÔ ƠN TỘT CÙNG

Một bản tin trên báo đã gây xôn xao dư luận như sau: Một thiếu niên tội phạm kia được trả tự do trước thời hạn nhờ có hạnh kiểm tốt trong thời gian tạm giam. Vì không còn cha mẹ và người thân, nên em đã được một người giàu lòng nhân ái trong vùng nhận làm con nuôi. Trong gia đình này em đã được đối xử giống như năm người con khác. Cha mẹ nuôi cũng như các anh chị em nuôi đều muốn cho em cảm nhận được tình thương yêu chân thành của mọi thành viên gia đình.

Một hôm, em xin cha mẹ nuôi đi tham dự tiệc bữa sinh nhật của người bạn thân trong nhóm bạn tù được tha. Trước khi đi, em được mẹ nuôi nhắn nhủ “hãy về nhà trước 11 giờ khuya”. Nhưng sau đó 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người đều đi ngủ trừ cha mẹ nuôi thức đợi em về trong nỗi bồn chồn lo lắng. Rồi cuối cùng đến 2 giờ sáng thì em đã về với thái độ lầm lì và không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ. Thấy con vào nhà, bà mẹ chỉ trách nhẹ: “Này con, lần sau nếu có đi chơi khuya thì con phải về đúng giờ, để cha mẹ khỏi lo lắng chờ cửa nhé”.

Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia đình đã đi làm đi học, chỉ còn lại mình bà mẹ nuôi ở nhà. Một án mạng đã xảy ra: Đứa con nuôi đã dùng một cây sắt bất ngờ từ phía sau đập vào đầu mẹ nuôi khiến bà bị chết vì chấn thương sọ não. Trước quan toà, tên giết người này vẫn ngoan cố không chút hối hận. Còn người cha nuôi khi được tòa cho phát biểu, trong cơn đau khổ tột cùng ông đã nói với quan tòa: “Nó đã giết chết người mẹ đã nhận nuôi nấng bao bọc nó. Đây là hành động của một kẻ vô ơn tột cùng”.

6) SỐ PHẬN BI ĐÁT CỦA NHỮNG KẺ DÁM ĐỐI NGHỊCH VỚI THIÊN CHÚA:

Một triết gia vô thần là VÔN-TE (Voltaire) người Pháp chủ trương phải hạ bệ Thiên Chúa và tiêu diệt Giáo hội. Vào năm 1753, Voltaire đã tuyên bố như sau: “Đã đến lúc Thiên Chúa phải về hưu vì hết thời rồi !”. Đúng hai mươi năm sau, vào năm 1773, Voltaire đã chết thê thảm: Khi sắp chết ông tru trếu như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc đã phải thốt lên: “Nếu quỉ có thể chết được, thì cũng không chết dữ hơn Voltaire”.

Thiên Chúa vẫn trường tồn đang khi những kẻ chống đối Ngài đều chết hết, ứng nghiệm lời Chúa phán với Sau-lô: “Giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho ngươi !” (Cv 9,5).

  1. SUY NIỆM:

Để cảnh cáo âm mưu của các đầu mục dân Do Thái đang tìm cách giết hại mình, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về các tá điền tham lam và gian ác. Vậy dụ ngôn ấy có ý nghĩa ra sao và chúng ta có thể rút ra bài học gì áp dụng trong cuộc sống hôm nay:

1) DỤ NGÔN VỀ LỊCH SỬ ƠN CỨU ĐỘ :

Dụ ngôn về bọn tá điền hung ác chính là bản tóm lược lịch sử ơn cứu độ, trong đó mỗi chi tiết đều mang một ý nghĩa riêng: Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Ít-ra-en được Thiên Chúa chọn làm dân riêng: Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước Xi-nai gọi là Cựu ước với dân này qua trung gian ông Mô-sê, để hứa sẽ bảo vệ và chăm sóc họ, giống như ông chủ vườn nho đã làm với vườn nho là rào giậu, làm bồn đạp nho và vọng gác. Bọn tá điền sát nhân ám chỉ các mục tử dân Do thái đã dẫn đưa dân này vào con đường bội nghĩa bất trung. Các đầy tớ của chủ vườn là các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến đã bị các đầu mục đối xử tàn tệ. Cuối cùng khi Thiên Chúa sai Con Một là Đức Giê-su đến thì cũng bị họ hè nhau giết chết bằng cách đóng đinh Người trên núi Sọ rồi chôn ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Các đầu mục Do Thái tưởng rằng sau khi giết được Đức Giê-su, thì họ sẽ có trọn quyền lãnh đạo dân Do thái. Nhưng trái lại, họ đã bị Thiên Chúa truất quyền và dân Do thái cũng bị vạ lây khi thành Giê-ru-sa-lem bị vây hãm và sụp đổ vào năm 70 sau Công Nguyên. Còn Nước Thiên Chúa đã được giao cho một dân mới biết làm phát sinh hoa lợi là Hội Thánh Công giáo sau này. Hội Thánh được ký giao ước mới với Thiên Chúa, nhờ máu con chiên Thiên Chúa là Đức Giê-su trên bàn thờ thập giá: “Tảng đá bọn thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”. Người là Con Thiên Chúa, là Tảng đá đã bị dân Do Thái là bọn thợ xây loại bỏ giết hại. Nhưng đến ngày thứ ba Người đã từ cõi chết sống lại. Người được “Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban Danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu. Để khi nghe Danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ. Và để tôn vinh Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,10-11).

2) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ? :  

– PHẢI TRÁNH THÓI THAM LAM: Sự tham lam là thói thường của con người: “Lòng tham vô đáy”. Lòng tham được biểu hiện qua thái độ: “Được voi đòi tiên”, “Theo đạo lấy gạo mà ăn”, hoặc “Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”, “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi, cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ”…

Tội lỗi của những người tá điền không phải là không làm cho vườn nho sinh hoa kết trái mà là họ muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ làm của riêng mình. Thiên Chúa đã lần lượt sử dụng các phương thế để cứu độ loài người. Cuối cùng Người đã hy sinh chính Con Một của Người để thức tỉnh con người. Nhưng con người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình để có thể sử dụng cuộc đời, để định đoạt mọi sự theo ý mình muốn. Chúng ta làm việc này việc khác không phải vì quyền lợi của Thiên Chúa mà chỉ vì ích lợi của bản thân mình. Chúng ta muốn chiếm đoạt những gì thuộc về Thiên Chúa để làm của riêng mình.

Chúa trao trách nhiệm coi sóc vườn nho của Ngài cho ta và chỉ cần ta dâng lại một một phần nhỏ hoa trái làm ra. Thực ra Ngài không cần những thứ ta dâng, vì Ngài hoàn toàn sung mãn. Nhưng qua hành động dâng tiến đó, ta mới chứng tỏ được lòng mến Chúa và sẽ được Chúa ban thêm nhiều hồng ân, nhất là ơn cứu độ đời đời. Vậy tôi đang theo đạo nhằm mục đích gì?

– “ÁC GIẢ ÁC BÁO”: là lời cảnh cáo các tín hữu tham lam, lợi dụng tôn giáo để mưu cầu ích lợi cho bản thân mình. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn trước những sự bất trung của con người. Nhưng sẽ đến ngày sự kiên nhẫn ấy nhường chỗ cho sự xét xử công minh. Đó là giờ chết của mỗi người hay là ngày tận thế chung của toàn nhân loại. Vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì ? Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê cũng là khuyên chúng ta về cách ăn nết ở như sau: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (PI 2,14-15).

– PHẢI LÀM PHÁT SINH HOA LỢI CHO CHÚA: Thiên Chúa là chủ vườn nho, đã ban cho loài người chúng ta biết bao hồng ân như thánh Phao-lô đã viết: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh ?” (1 Cr 4,7). Chúa trao cho mỗi người chúng ta mỗi người một số nén vàng và chúng ta có bổn phận phải làm lợi ra gấp năm gấp mười. Ngài trao cho chúng ta làm chủ vườn nho là mạng sống, sức khoẻ, tài năng, phương tiện sinh sống, thời giờ và cả gia đình con cái hay những người mà chúng ta phải chăm sóc… Sau này chúng ta sẽ phải trả lẽ về những việc lành là hoa lợi phải nộp lại cho Ngài. Vậy chúng ta có thể nộp cho Chúa những kết quả nào trước tòa phán xét sau này ?

– LÀM LỢI CHO CHÚA BẰNG CÁCH NÀO ? :

Ai trong chúng ta cũng đều được Chúa trao cho nhiệm vụ quản lý vườn nho là gia đình, học đường, đoàn hội… và chúng ta có nhiệm vụ làm phát sinh hoa lợi như sau:

+ Cha mẹ biết hy sinh dành nhiều thời gian để chăm sóc, giáo dục con cái. Con cái biết kính trọng, vâng lời, và thảo hiếu với cha mẹ…

+ Vợ chồng sống hòa thuận, yêu thương, kiên nhẫn, tha thứ, giúp đỡ nhau, trung tín với lời thề hứa chung thuỷ với nhau trọn đời.

+ Mỗi người biết: “Ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối” (2 Cor. 6:6); “Ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại… lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau… duy trì sự hiệp nhất… cư xử thuận hoà và gắn bó với nhau” (Eph. 4:2-3); “chừng mực, nhã nhặn, hiếu khách, có khả năng giảng dạy, không nghiện rượu, không hiếu chiến, nhưng hiền hòa, không hay gây sự, không ham tiền, biết điều khiển tốt gia đình mình, biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh” (x. 1 Tm 3,2-4)… Nếu chúng ta làm phát sinh nhiều hoa lợi cho Chúa thì chúng ta sẽ được Ngài ban thưởng hạnh phúc Nước Trời vào ngày phán xét như sau: “Khá lắm! hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành!… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21.23).

  1. THẢO LUẬN:

1) “Tất cả đều là hồng ân”. Bạn có đồng ý với câu khẳng định đó không khi bản thân bạn liên tiếp gặp phải những tai nạn rủi ro và những điều trái ý cực lòng ?

2) Ngày nay chúng ta sẽ trở thành bọn tá điền gian ác qua các hành động nào đối với Thiên Chúa và tha nhân?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA CHA TỪ ÁI. Mỗi người chúng con đều là những tá điền được Cha trao sứ vụ canh tác vườn nho của Cha. Vườn nho đó chính là những người thân yêu trong gia đình ruột thịt của chúng con, là bà con chòm xóm, là đất nước và Hội Thánh mà chúng con được mời gọi phục vụ.

– Xin cho chúng con biết luôn chiếu ánh sáng đức tin như những vì sao trên trời. Xin cho đức tin nơi chúng con luôn kèm theo đức cậy là lời cầu nguyện phó thác, kèm theo đức ái là thái độ khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là chia sẻ bác ái với những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi… Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được hạnh phúc trong Nước Cha muôn đời.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

NGƯỜI TÁ ĐIỀN CỦA CHÚA

Lm. Bosco Dương Trung Tín

Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”(Pl 4,6).

  Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy lo âu và sợ sệt. Nào là động đất, mưa bão; nào là nào là lụt lội, hạn hán; nào là kinh tế bấp bênh, nào là biết bao những khó khăn trong cuộc sống. Nói tóm là nào là thiên tai, nào là nhân tai, không biết lúc nào xảy ra, không biết lúc nào tới,làm cho cuộc sống của ta bất an, lo sợ. Thế thì ta phải làm sao?

  Quả thật, con người chúng ta như những tá điền làm vườn nho vậy. Vườn nho là thế gian này. Chủ vườn nho, chủ thế gian này là Thiên Chúa. Quả vậy, Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài, muôn vật, trong đó có cả con người. Thiên Chúa dựng nên mọi sự cho con người chúng ta hưởng dùng. Mọi sự đều là của Chúa và Chúa cho con người làm thuê. Vậy thì con người chúng ta sẽ trả lại gì cho Thiên Chúa đây ? Tiền hay vàng bạc ? Những thứ này Chúa không cần. Đối với Chúa, tiền cũng như giấy thôi; vàng hay bạc thì cũng như sắt hay đất thôi. Vậy Chúa muốn gì?

  Chúa chỉ mong con người chúng ta sống công bình và đợi chờ chúng ta làm điều chính trực thôi.(x.Is 5,7). Thế nhưng, Chúa những mong muốn con người chúng ta sống công bình nhưng chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ chúng ta làm điều chính trực, nhưng chỉ nghe văng vẳng tiếng khóc than. Tại sao vậy? Vì con người chúng ta làm toàn là vì ganh tị và hư danh và coi mình hơn người khác. (x.Pl 2,3)

  Vì luôn ganh tị nhau và ham danh, ham lợi nên có chiến tranh, nên chém giết lẫn nhau, dù là cha mẹ hay là anh chị em với nhau. Vì luôn luôn coi mình hơn người khác nên có sự tranh cãi, hơn thua, gây bao đau khổ. Vậy ta phải làm gì ? Ta phải cầu nguyện, van xin và tạ ơn.

  Cầu nguyện để ta nhớ đến Chúa là Đấng đã ban cho chúng ta mọi sự. Van xin những khi ta cần, những khi ta thiếu. Tạ ơn vì những ơn lành Chúa luôn ban cho ta: khi ta vui, ta thành công, ta hạnh phúc. Nghĩa là, trong cuộc sống hằng ngày, “Những gì là chân thật, cao quí; những gì là chính trực, tinh tuyền; những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt; những gì là đức hạnh, đáng khen”, ta hãy để ý học hỏi và thực hành.(x.Pl 4,8-9)

  Những điều chân thật chính là những bổn phận của ta. Ta có nhiều bổn phận lắm, nào là bổn phận đối với Chúa, bổn phận đối với gia đình, bổn phận đối với xã hội, Giáo Hội và nhất là bổn phận với chính mình. Ta phải sắp xếp cho hợp lý và lo chu toàn.

  Những gì là cao quí. Việc cao quí của chúng ta là cầu nguyện. Ta cầu nguyện cho gia đình, cho xã hội, cho Giáo Hội, cho người còn sống cũng như đã qua đời. Nhất là ta cầu nguyện cho chính ta, ta nói với Chúa tất cả những gì ta muốn nói; những lúc ta gặp những khó khăn, gian truân trong cuộc sống; những lúc thất bại, những lúc bị chê bai; những lúc bị nói hành, nói xấu; những lúc ta bệnh tật, cô đơn, buồn sầu.

  Những gì là chính trực, tức là những việc ta làm hay đối xử phải làm sao cho công bằng. Công bằng trong phân phối, cũng như công bằng trong hưởng lợi. Nghĩa là ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít. Người mạnh thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ. Mỗi người sẽ được hưởng phù hợp với công sức mình đã bỏ ra.

  Những gì là tinh tuyền, tức là những gì ta làm, nó xuất phát từ con tim, từ cõi lòng của ta và ta làm những việc tốt lành cho mình và cho người khác. Không có mưu đồ đen tối, cũng không mưu mô xảo quyệt.

  Những gì là đáng mến, tức là những gì ta làm vì mến Chúa yêu người. Ta giúp đỡ người nghèo, ta giúp đỡ người bệnh, người già; ta giúp đỡ người đang gặp những khó khăn, bằng tiền, bằng của, bằng lời khuyên, bằng lời góp ý, bằng sức lực, bằng thì giờ.

  Những gì đem lại danh thơm tiếng tốt, không chỉ trước mặt người đời mà nhất là trước mặt Chúa. Đó là việc ta có ý đại diện cho mọi người khi thờ lạy Chúa. Vì có biết bao người trong sự sô bồ của cuộc sống, họ không có thì giờ nhớ đến Chúa và thờ lạy Chúa đâu. Ta hãy thay mặt họ mà thờ lạy Chúa. Làm người đại điện như thế cũng oách lắm chứ bộ; nhưng điều này chỉ có Chúa biết thôi.

  Những gì là đức hạnh, đáng khen, đó là những đức tính quí báu của con người như là khiêm nhường, chịu khó, chăm chỉ, chuyên cần, tiết độ; đơn sơ, giản dị; chân thành, chân tình, thật thà, ngay thẳng,….Những việc này chẳng cần nói nhiều, chẳng cần nổ, ai cũng thích, ai cũng thương hết.

  Có làm được như thế thì bình an của Chúa sẽ đến trong ta và Thiên Chúa bình an sẽ ở với ta. Có Chúa ở với ta, thì ta còn sợ gì nữa. Trời có sập xuống ngay trên đầu ta cũng chẳng sợ. Đất có thụt xuống chân, ta cũng không nao núng. Ta sẽ là người tá điền tốt lành và trung tín của Chúa.

Về mục lục

.

TỪ VƯỜN NHO ĐẾN CÁC TÁ ĐIỀN: HÃY LÀ CHÍNH MÌNH

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5,1-7) mà Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.

Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu rộng thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x.Ga 15,1-17). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh…thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái.

Để hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thì Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.

Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước… Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội Thánh hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1).

Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.

Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.

Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ đang nắm giữ công quyền của các quốc gia mà không vuông tròn phận vụ. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử trong Hội Thánh phải biết giật mình tự kiểm. Phải chăng mình tuy không phải là kẻ cướp nhưng mình chỉ là kẻ chăn thuê không hơn không kém?

Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, sẽ bị giam vào nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).

Về mục lục

.

TÁ ĐIỀN VÀ VƯỜN NHO NƯỚC THIÊN CHÚA

Lm Antôn Vũ Thanh Lịch

Tôi đang đi trong vườn cà phê. Cây cà phê được mưa thuận gió hòa, được chăm bón kỹ lưỡng, cắt tỉa kỹ thuật, rất sai trái. Ngắm nhìn vườn cà phê đỏ rực, tôi thầm ca ngợi Thượng Đế đã ban cho nhân loại một loại thức uống rất đặc biệt. Nó làm cho đầu óc con người tỉnh táo, sáng suốt. Gợi hứng cho các văn nghệ sĩ hoàn thành nhiều tác phẩm để đời.

Lặng lẽ bên ly cà phê nóng, nhìn từng giọt nhỏ xuống với mùi hương thơm ngát hoang sơ núi rừng, tôi thầm suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời, về thăng trầm thế sự: Phải làm gì cho xã hội, cho đồng loại, cho Giáo-hội-được-ví-như-vườn-nho trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúng ta thuộc loại tá điền nào

Mỗi người chúng ta là tá điền được Chúa gởi đến vườn nho, hay là được trao cho một vườn nho để canh tác, thu hoạch những sản phẩm nặng trĩu chất lượng. Những sản phẩm này ông chủ không lấy hết, chỉ lấy một phần theo giao kèo. Tá điền càng lao động hết mình, càng thu hoạch lớn. Điều này chứng tỏ chủ vườn rất hào phóng, thương lớp người nghèo vô sản, muốn họ đổi đời. Ông còn trao cho họ hy vọng khai thác vườn nho vô thời hạn, hoặc một thời gian lâu dài. Thế nhưng, lòng tham con người vô đáy, mau quên và vô ơn. Lợi dụng lòng tốt, tá điền muốn chiếm đoạt, lại còn tàn ác đánh đập, giết người nhà của chủ. Ta nhận thấy sự hiền từ nhẫn nhục của ông chủ, không ra tay trừng phạt ngay, mà còn lạc quan đợi chờ sự hồi tâm, sự nể trọng của bọn tá điền khi “liều lĩnh” sai con của mình vào “hang sư tử”. Lòng bao dung tuy vô bờ vô bến, nhưng đức công chính của ông không thể biến thành nhu nhược. Những tá điền vô ơn vô phước đã bị trừng phạt đích đáng theo công lý.

Dụ ngôn này cho thấy công chính là phẩm tính của Thiên Chúa (x. Is 5, 16) biểu hiện qua việc Ngài chống lại sự ác (x. Kb 1, 13). Điều này chính người Pharisiêu cũng công nhận khi họ nói “Ác giả ác báo” (Mt 21, 41).

Chúng ta là những tá điền bị loại bỏ ?

Nước Thiên Chúa là “vườn nho sẽ được lấy đi không trao cho các ông nữa, mà trao cho một dân (cá nhân, tập thể, tổ chức, dân tộc, quốc gia…) biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43). Chúng ta đừng lầm tưởng Lời của Chúa chỉ liên quan đến dân Do Thái đương thời. Đức Giêsu còn lập lại với chúng ta những lời ấy khi chính chúng ta đang bị lão hóa và cằn cỗi về phương diện đức tin, khi chấp nhận cho đủ thứ dâm loạn và lòng mê hám tiền bạc, giết chết định chế gia đình, và bóp nghẹt mọi lẽ sống. Và chúng ta nghĩ sao, nếu trong kế hoạch của Thiên Chúa, Người phải ban Nước Trời – Vườn Nho cho những dân tộc khác, vì chúng ta đã không xả thân phục vụ cho vương quốc ấy.

Lịch sử cho thấy rằng, ngày nay Giáo hội vắng mặt tại nhiều nơi, hay nhiều môi trường xã hội mà trong quá khứ, đã có nhiều cộng đoàn Kitô hữu nổi tiếng (như tình trạng tôn giáo ảm đạm tại nhiều nước châu Âu…). Trước hoàn cảnh như vậy, người ta hay tìm những “nguyên nhân lịch sử” để lý giải. Điều này dễ làm hơn là tự tra vấn mình về sự sa sút tinh thần Phúc Âm của cộng đoàn.

Khủng bố, bạo lực trong thời đại chúng ta

Bài Tin Mừng hôm nay còn nói đến bạo lực, bắt bớ, ném đá, giết người… Những tá điền là những kẻ ích kỷ và bạo lực. Họ giết các sứ giả của Thiên Chúa là các tiên tri được Thiên Chúa sai đến để xây dựng một thế giới công bình, yêu thương. Họ là ai trong thời đại chúng ta? Họ là những chủ nhân làm giàu qua việc sản xuất vũ khí, thay vì giúp đỡ những quốc gia kém phát triển, chống lại nghèo đói, bệnh tật, bất công. Họ ngầm ủng hộ những chế độ độc tài khai thác tàn bạo tài nguyên thiên nhiên, bóc lột dân chúng vì quyền lợi riêng tư. Họ là những giám đốc xí nghiệp, công ty khai thác sức lao động của công nhân với tiền lương rẻ mạt. Quả đúng như lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Thế kỷ XX được coi như thời đại mưu sát khổng lồ sinh mạng con người” (Tiến về ngàn năm thứ 3, chương 9, trang 236).

Cùng nhau xây dựng vườn nho thế giới

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên những tá điền trung tín của Thiên Chúa. Xây dựng Vườn Nho bằng tình yêu thương và sự hy sinh của chính bản thân mình cho tha nhân, như chính Ngài đã cầm tấm bánh bẻ ra và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy” (Mc 14, 22).

Để xây dựng trật tự xã hội, phải lấy chính nhân phẩm con người như một tạo vật “giống hình ảnh Thiên Chúa” làm trọng tâm, như Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Chính tự giá trị con người mới phát sinh ra giá trị xã hội, chứ không phải từ giá trị xã hội mà có giá trị con người” ( sđd, x. chương 9, 76).

Về mục lục

.

TÌNH YÊU CHIẾN THẮNG SỰ DỮ

Lm. Giuse Nguyễn

1.  Lời Chúa Chúa Nhật 27 Thường Niên Năm A hôm nay vang lên trong bối cảnh thế giới có quá nhiều sự dữ. Nào là tình hình chiến sự căng thẳng với sự đe dọa vũ khí hạt nhân của Triều Tiên làm cho thế giới phải lo sợ. Nào là động đất ở Mêxicô khiến hàng trăm người thiệt mạng. Và mới đây nhất, chắc hẳn người dân nước Mỹ vẫn còn kinh hoàng trong vụ xả súng tồi tề nhất lịch sử nước Mỹ hôm Chúa Nhật ngày 01/10/2017 vừa qua ở một sân khấu lớn tại thành phố Las Vegas khi hàng chục ngàn người đang thưởng thức đêm nhạc đồng quê, làm cho 59 người thiệt mạng và 527 người khác bị thương…

Tại Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư chung gởi cộng đồng dân Chúa vào tháng 10 năm 2016 cũng đã nói lên những lo âu cho xã hội Việt Nam: “Làm sao không lo âu trước tình hình đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, tội ác gia tang không những về số lượng mà cả về mức độ dã man, phá thai và nghiện ngập tràn lan, nhất là nơi giới trẻ! Làm sao vui được trước sự hoành hành của tệ nạn tham nhũng. Làm sao không lo lắng trước tình trạng ngập ngặn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, hạn hán ở các tỉnh Tây Nguyên, thảm họa môi trường biển tại miền Trung! Đó là chưa kể đến mối đe dọa hằng ngày từ các thực phẩm bẩn và độc hại, có thể ngay trong các quầy hàng và trên các bàn ăn của mỗi gia đình.”

2.  Tất cả những điều đó gọi là sự dữ. Thực ra sự dữ đã có từ thời Adam và Eva, nó làm khuấy động cuộc sống vốn bình yên hạnh phúc của con người. Sự dữ đã làm cho ông bà nguyên tổ mất đi hạnh phúc khi dám làm điều trái nghịch với ý Chúa; cũng chính nó gây nên thảm kịch trong gia đình của hai ông bà khi Cain đã giết chết chính đứa em ruột của mình là Aben vì sự ganh tị. Sự dữ đã làm cho giới lãnh Do Thái khước từ ơn cứu độ và giết chết Đức Giêsu, vì ảnh hưởng của Ngài làm họ mất đi những quyền lợi cá nhân… Sự dữ thể hiện rõ ràng trong sự gian ác của những tá điền trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ đã được ông chủ giao cho vườn nho để canh tác, lẽ ra họ phải biết ơn để gìn giữ vườn nho và nộp hoa lợi cho ông chủ. Nhưng không, họ đã chiếm đoạt vườn nho và còn đối xử thậm tệ với ông chủ.

Qua đó chúng ta thấy được sự dữ xuất phát từ việc con người bị cám dỗ để chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của mình mà quên đi Thiên Chúa, Đấng đã ban phát một cách nhưng không tất cả mọi sự cho con người; quên đi những người đang sống chung quanh để sẵn sàng hạ bệ tất cả những ai dám cản trở hoặc làm mất đi quyền lợi của họ.

3.  Tuy nhiên, phát biểu ngay sau vụ xả súng kinh hoàng tại Mỹ hôm Chúa Nhật 01/10/2017, Tổng Thống Mỹ Donald Trump đã nói: “Thánh Kinh cho chúng ta biết Thiên Chúa rất gần với những tâm hồn tan nát và những người đau khổ. Chúng ta tìm an ủi nơi những Lời này vì chúng ta biết Thiên Chúa cùng đồng hành với những người khốn khổ… Trong những giây phút đau buồn này, tôi biết chúng ta đang cố tìm xem sự hỗn loạn này có ý nghĩa gì, một chút ánh sáng trong đêm tối. Câu trả lời không dễ dàng chút nào, nhưng chúng ta cần an ủi. Chúng ta cũng biết rằng ngay cả những lúc đen tối nhất vẫn còn tia sáng nhỏ để thắp sáng đêm đen và ngay cả những lúc thất vọng nhất vẫn còn tia hy vọng để thắp lên niềm tin.”

4.  Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã không bỏ con người, mà đã ban Con Một của Ngài để chuộc lấy lỗi lầm của nhân loại, đó là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Điều đó chứng minh rằng: Tình yêu đã chiến thắng sự dữ.

Sau khi kể dụ ngôn những tá điền sát nhân, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi để chính“các thượng tế và kỳ mục trong dân” trả lời. Chính họ đã tự lên án cho hành động gian ác: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông” (Mt 21, 41). Còn Đức Giêsu thì cho họ thấy hành động của Thiên Chúa khác hẳn với con người, Ngài không tiêu diệt, nhưng: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”. Con người hành xử gian ác với Thiên Chúa, họ đã khước từ tình yêu thương của Ngài, nên Ngài đã lấy tình yêu thương đó để trao cho những người biết đón nhận: “Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43). Trong những người biết đón nhận đó, Thiên Chúa hy vọng có những người đã từng sống gian ác với Chúa, đã khước từ tình yêu Chúa, biết ăn năn hối lỗi quay trở về để được sống.

5.  Phát biểu trong buổi gặp gỡ Hội đồng Tòa thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng ngày 29/09/2017, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người tiếp tục loan báo lòng thương xót Chúa cho thế giới hôm nay: “Việc loan báo lòng thương xót trở nên cụ thể và hữu hình qua lối sống của các tín hữu, sống dưới ánh sáng của nhiều công việc từ bi bác ái; việc loan báo ấy là điều nòng cốt thuộc về sự dấn thân của mỗi người loan báo Tin Mừng: họ đích thân khám phá ơn gọi làm tông đồ do lòng thương xót đã dành cho họ”.

Tình yêu sẽ chiến thắng sự dữ. Trong khi có nhiều người tham nhũng, hối lộ, chỉ lo cho đầy túi tham của mình, thì vẫn còn nhiều người tích cực trong các công tác từ thiện, bác ái. Trong khi có những người cha, người mẹ nhẫn tâm bỏ đứa con của mình, để nhân viên y tế sau khi “giải quyết hậu quả” đã vứt bỏ những hài nhi vào thùng rác như là rác thải, thì vẫn còn nhiều người tìm kiếm những hài nhi đó để các em có một nơi an nghỉ xứng đáng hoặc ít ra là ấm áp hơn ở trong những bãi rác. Trong khi nhiều bạn trẻ tìm kiếm thỏa mãn những đam mê của thân xác trong những chất gây nghiện hay thú vui nhục dục, thì vẫn còn nhiều những thanh niên thiếu nữ tận hiến cuộc đời mình để sẵn sàng ra đi phục vụ bất cứ nơi nào Giáo hội cần đến…

Lời Chúa hôm nay cho thấy sự gian ác của con người, nhưng cũng cho thấy tình yêu của Thiên Chúa. Chính tình yêu đó đã chiến thắng qua sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Từ đó nhắc nhở con người chúng ta bỏ đi những hành động gian ác, nghĩa là những ích kỷ của bản thân để trả lại cho Thiên Chúa những gì là của Ngài; mà những giá trị của Thiên Chúa là những điều tốt đẹp được thực hiện trong cuộc sống.

Xin Mẹ Maria giúp chúng con biết ăn năn đền tội, cải thiện cuộc sống, siêng năng lần hạt Mân Côi để được Mẹ đưa đến gần Đức Giêsu, Con Mẹ, để được sống trong vương quốc tình yêu của Ngài.

Về mục lục

.

SỰ NHẪN NẠI CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa

Nước trời không phải là dành riêng cho một số người được đặc tuyển, cho riêng những người kitô chúng ta. Nước trời là cho tất cả những ai trở nên người phục vụ công trình của Chúa Kitô, chứ không phải là những ông chủ.

Isaia, vị tiên tri sống vào thế kỷ VIII trước Chúa Giêsu. Ông là một nhân vật quan trọng của triều đình. Khi thấy dân tộc ông suy đồi, ông tiên báo dân tộc ông sẽ bị tiêu diệt bằng cách so sánh dân tộc ông như một vườn nho không sinh hoa trái. Thiên Chúa chờ đợi dân Ngài thực hành điều chính trực, nhưng chỉ thấy toàn sự gian ác. Thiên Chúa chờ đợi dân thực hiện đức công bình, nhưng chỉ thấy toàn là tiếng kêu oan.

Tác giả Thánh Vịnh đáp ca kêu cầu Thiên Chúa đừng phá hủy vườn nho. Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và viếng thăm khóm nho này..

Thánh Phaolo mô tả điều mà cộng đoàn kito hữu phải trả lời cho lòng mong đời của Thiên Chúa là: Hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, và sống trong hoạt động của ơn thánh và sự bình an của Người. Hãy tìm kiếm những gì là danh thơm tiếng tốt. Như thế là mang lại hoa trái như lòng Chúa mong ước.

Tại quê hương Chúa Giêsu, người ta rất thạo việc trồng nho. Vì thế Chúa dùng hình ảnh này để làm sáng tỏ một số chân lý mà Ngài muốn đề cập đến.

Vườn nho trong dụ ngôn hôm nay buộc phải sinh hoa trái, ám chỉ tất cả những gì mà Thiên Chúa đã đặt vào trong chúng ta, để cuộc sống chúng ta đừng trở nên vô ích trên trái đất này. Chúng ta sẽ mang lại hoa trái mà Thiên Chúa đã chờ đợi trong môi trường sống của chúng ta. Người đã gieo trồng biết bao điều tốt đẹp vào trong chúng ta để chúng ta sinh lời gấp trăm.

Ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Thiên Chúa đã gieo Đức Tin vào trong chúng ta như một món quà quý giá mà chúng ta phải phát triển trong suốt cuộc đời. Người ban cho chúng ta tài năng và đặc sủng để chúng ta phải làm giàu cho người khác nữa.

Cụ thể như lời chủ chăn của Giáo phận Hưng Hóa trong tháng 10 này, là: “Nhiều giáo xứ vững mạnh do biết bao công lao của các vị thừa sai truyền giáo tiền bối gầy dựng nên, nay trở thành ‘vùng đất tiện nghi’, trên có cha xứ, dưới có ban hành giáo, giáo lý viên, các hội đoàn, cộng tác viên đề huề; có đủ cơ sở vật chất: nhà thờ hoành tráng, nhà xứ, nhà giáo lý khang trang. Đã đến lúc phải lên đường đến với những giáo xứ đàn em ở các vùng ngoại vi xa xôi miền Tây-Bắc, yểm trợ nâng đỡ cho những giáo họ, giáo điểm mới gầy dựng còn yếu kém thiếu thốn nhiều mặt. Chúng tôi thiết nghĩ ngay trong tháng 10 này Giáo phận ta nên bắt đầu tiến trình kết nghĩa chị em cụ thể giữa một giáo xứ giáo họ miền xuôi với một giáo họ giáo điểm miền rừng núi, như Hội nghị Mục vụ toàn Giáo phận cuối năm 2016 đã nêu lên. Với con số 116 giáo xứ và gần 500 giáo họ giáo điểm trong toàn Giáo phận, ta được thách thức đạt tới chỉ tiêu bước đầu là 20% số giáo xứ kết nghĩa chị em, tức là 120 cặp đôi giáo xứ giáo họ tiến tới ký kết vào dịp Hội nghị Mục vụ toàn Giáo phận cuối năm 2017 này. Mỗi giáo xứ giáo họ nề nếp ngày nay, nhớ lại xưa kia mình cũng chỉ bắt đầu là một giáo điểm èo ọt dăm ba gia đình đạo mới, được các giáo xứ vững mạnh nâng đỡ vun đắp mới nên trưởng thành. Do đó lòng biết ơn tiền nhân thúc đẩy họ đến lượt mình tiếp nối linh đạo lên đường như lời Đức Phanxicô chỉ dạy (x. số 6, SĐ 2017).”

Thiên Chúa yêu chúng ta trước. Dụ ngôn vườn nho hôm nay có thể được gọi là “Dụ ngôn về Tình yêu bị trao nộp” được lặp đi lặp lại trong suốt cuộc đời chúng ta, nếu chúng ta muốn cùng làm việc với chương trình của Thiên Chúa trên mỗi người chúng ta.

Tin mừng hôm nay muốn chúng ta nhận ra những quà tặng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không phải là để chúng ta phân tán những quà tặng đó mà không sinh hiệu quả gì, nhưng là để sinh lời gấp trăm. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ chúng ta.

Đối với mỗi người chúng ta, Thiên Chúa phó thác cho một sứ mệnh trên trái đất để vườn nho rộng lớn trái đất này sinh nhiều hoa trái theo kế hoạch của Ngài.

Cần phải thường xuyên xin Ngài cho chúng ta biết trung thành với lời mời gọi của Ngài, ngay tại gia đình chúng ta hoặc trong môi trường làm việc cũng như trong học tập của chúng ta.

Ngài gửi đến cho chúng ta những người giúp việc hoặc để giúp chúng ta hoặc cho chúng ta biết ý muốn của Ngài. Chúng ta sẽ tiếp nhận họ thế nào? Hạt giống mà họ gieo trên mảnh đất nào có sinh sôi nảy nở không?

Mỗi người kitô đích thực phải là một nhà truyền giáo và gánh vác một trách nhiệm bên cạnh người anh em nhân loại của mình. Người kitô sẽ chu toàn sứ mệnh này bằng sự khéo léo, hoặc bằng sự phục vụ nhiệt tình, hoặc bằng sự cởi mở của con tim. Chúng ta đã làm được gì và sẽ làm gì?

Tất cả những quà tặng mà chúng ta đã lãnh nhận từ lúc sinh ra có thể được phát triển, nếu chúng ta đặt những quà tặng đó vào khí hậu thuận tiện…

Hãy tạ ơn Chúa vì những gì Người đã ban cho chúng ta!

Chúa Giêsu tóm tắt toàn bộ lịch sự cứu độ dưới cái nhìn của Thiên Chúa qua một số hình ảnh. Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại bằng mọi giá và Ngài sẵn sàng trả giá đó bằng cả cái chết của con Ngài trên Thập giá.

Nhưng Thiên Chúa cũng không làm được gì trước sự tự do mà Ngài đã ban cho con người. Tình yêu bị sai khiến hoặc để sai khiến thì không còn gọi là tình yêu nữa. Nhiều cha mẹ rất có kinh nghiệm này vì có khi con cái sử dụng tự do của nó mà chối bỏ tình yêu cha mẹ.

Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Tình yêu thì luôn luôn sáng tạo. Khi không sử dụng sức mạnh, thì Thiên Chúa lại chọn trở nên người nhẫn nại.

Thế nhưng, lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con quá nhiều rồi! Giờ đây, chúng con chỉ xin Chúa một điều nữa là: đừng bao giờ chúng con lạm dụng sự nhẫn nại của Chúa. Amen!

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Tháng Mười trong lịch Phụng vụ có 2 chủ đề quan trọng.  Thứ nhất là tháng kính Đức Mẹ Mân Côi và thứ nhì chú trọng tới việc truyền giáo hay rao giảng Tin mừng. Chúng ta thấy ý nghĩa của lời kinh Mân côi liên quan và kết hợp với sự việc truyền giáo cũng như với đời sống tông đồ phục vụ. Đức Maria mà chúng ta sùng kính trong tháng Mân côi này là một mẫu gương sáng cho chúng ta về truyền giáo và phục vụ.  Đức Maria đã can đảm sống hai tiếng “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời.  Mẹ cũng đã hoàn toàn phó thác và trung thành theo chân Chúa Giê-su trong suốt cuộc hành trình rao giảng Tin mừng Nước Trời, cho đến khi đứng dưới chân Thánh giá trên ngọn đồi Can vê, nơi mà Con của Mẹ đã giang 2 tay để cứu chuộc loài người chúng ta. Mẹ vẫn còn tiếp tục phục vụ Chúa và thi hành sứ mệnh truyền giáo cho đến hôm nay và mãi mãi bằng cách giúp đỡ và hướng dẫn chúng ta là con Mẹ, sống đời sống tốt lành, thánh thiện, bác ái, quảng đại và luôn trung thành với con Mẹ là Chúa Giêsu. 

Qua những lần hiện ở Fatima cách đây 100 năm, Mẹ đã ban cho nhân loại chúng ta 3 sứ điệp: Cải thiện đời sống; tôn sùng Mẫu Tâm và lần hạt Mân côi.  Đây là 1 chủ đề cần thiết mà Giáo hội kêu gọi chúng ta cố gắng thi hành trong tháng 10 này, để đời sống của chúng ta sinh hoa trái tốt cho Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa hơn. Do đó một lần nữa, tôi kêu gọi mọi người hy sinh thời giờ và siêng năng lần hạt Mân Côi, nhất là trong gia đình để xin Đức Mẹ ban yêu thương và hòa thuận cho gia đình, cũng như cầu nguyện cho tinh thần hiệp nhất trong giáo xứ chúng ta, để mọi người có lòng quảng đại trong công việc xây dựng ngôi thánh đường mới.  Và sau đó là thành tâm lắng nghe và sống lời Chúa dạy, cầu nguyện cho công việc rao giảng Tin mừng của Giáo hội, và cho hoà bình trên thế giới.   Chúng ta thấy thế giới, quốc gia và xã hội chúng ta đang sống, đang ở một khúc quanh khó khăn và nguy hiểm, những cuộc bạo động, tranh chấp, khủng bố, cướp của giết người xảy ra hằng ngày, như cuộc tàn sát giã man mới xảy ra ở Las Vegas.  Xin Đức Mẹ thương che chở phù hộ cho mọi người chúng ta.  

Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay rất đặc biệt vì cho chúng ta thấy được 2 đặc tính rõ ràng của Thiên Chúa.  Thiên Chúa là người Cha yêu thương và nhân từ, nhưng Thiên Chúa cũng là một vị thẩm phán công minh chính trực. Một ngày nào đó, tất cả chúng ta sẽ phải đứng trứơc mặt Chúa, trả lời về những hành động, việc làm của chúng ta ngày hôm nay.  

Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho chúng ta biết chính Thiên Chúa là người chủ, còn mỗi người chúng ta chỉ là người quản lý hay tá điền của Thiên Chúa.  Chúng ta được Chúa ban cho cơ hội vào làm việc trong vườn của Chúa, ám chỉ trần gian, Giáo hội và giáo xứ, để chúng ta canh tác có công ăn việc làm, có cuộc sống, để sở hữu những gì chúng ta đang có, cũng như chăm sóc vườn cho chủ.  Đến mùa gặt, ngày ông chủ trở về hay ngày chết của chúng ta, chúng ta phải tính sổ, chúng ta phải báo cáo công việc và nộp hoa lợi cho Chúa.  Chúa còn ban cho chúng ta Lời Chúa để chỉ dẫn chúng ta sống chăm chỉ, sốt sắng và biết hy sinh, hướng dẫn chúng ta đi trong đường ngay nẻo chính, sống công chính, ngay thẳng, bác ái và quảng đại. Nhưng trong thực tế có những người sống ích kỷ, lười biếng và theo đường lối xấu và gian dối. Vì yêu thương không muốn họ hư mất và để cứu giúp họ, Chúa đã sai nhiều người đến để cảnh tỉnh và khuyên bảo.  Nhưng nếu họ từ chối không muốn nghe Lời Chúa ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, thì khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ xử lý như thế nào?  Tin mừng cho chúng ta câu trả lời: “Ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” 

Ông bà anh chị em thân mến. Thiên Chúa không những thương yêu, giàu lòng nhân từ và nhẫn nại đối với chúng ta hôm nay.  Chúa ban cho chúng ta nhiều cơ hội và dùng nhiều phương cách để chúng ta sống trong an bình, ơn sủng và hạnh phúc của Chúa.  Nhưng chúng ta cũng biết Chúa còn là một thẩm phán công minh, chính trực.  Người sẽ phán xét theo thái độ, hành động và việc làm của chúng ta trước những ơn sủng của Người.  Chúng ta nhận ra 2 chiều kích đặc biệt này của Thiên Chúa nơi con người của Chúa Giê-su.  Cùng một Chúa Giêsu nhân từ, đầy lòng thương xót, nói với dân chúng: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức” cũng là Người nói với những người đã nguảnh mặt đi, từ chối không sống lời Người dạy bảo:  “Hỡi những phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào ngọn lửa muôn đời.”  Thêm vào đó, chúng ta thấy cùng một Chúa Giêsu hiền lành nói với dân chúng: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, cũng là Người ‘’chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò lừa ra khỏi đền thờ.” Và cũng là một Chúa Giêsu thương yêu đã phán rằng: “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời.  Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ trối nó trước mặt Cha Thầy.”    

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúa ban cho chúng ta cơ hội này qua cơ hội khác, ban cho chúng ta cách này hay cách khác để chúng ta nhận ra lòng nhân từ, yêu thương và quảng đại của Chúa.  Chúa đã dùng nhiều phương cách để tưới đổ ơn lành là Lời Chúa và Thánh Thể xuống cho chúng ta, để đời sống chúng ta sinh hoa trái tốt cho Chúa.  Nếu như hôm nay, Chúa đến để thu hoạch hoa lợi thì chúng ta phải trả lời với Chúa như thế nào?  Chúng ta hãy tự nghĩ Chúa sẽ xử trí với chúng ta làm sao? 

Xin Chúa giúp chúng ta dùng thời điểm này để lắng nghe và chân thành sống những mệnh lệnh của Mẹ Maria là người Mẹ luôn yêu thương và chú ý đến đời sống của mỗi người chúng ta, Xin Mẹ cầu bầu và giúp mỗi người chúng ta có đời sống tốt lành thánh thiện và bác ái và quảng đại để một ngày kia, chúng ta được chủ vườn nho đón chào vào vườn nho Thiên Quốc. 

Về mục lục

.