CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 55, 6-9; Pl. 1, 20c-24.27a; Mt. 20, 1-16a
——-
-
Luật Yêu Thương (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Sống Quảng Đại Như Thiên Chúa(Lm. Ngọc Dũng, SDB)
-
Ông Chủ Tốt Lành(Thiên San, MTG.Thủ Đức)
-
Công bằng và tình thương (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
-
Liên đới để dìu nhau qua đại dịch (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, nhân hậu (Jorathe Nắng Tím)
-
Vui với người vui, buồn với người buồn (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Vẻ đẹp của tình yêu (Maria Nguyễn Huệ, MTG.Thủ Đức)
-
Sứ mạng (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
-
Bằng lòng với của Chúa ban (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Lòng tốt (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Lòng quảng đại của Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
-
Công bằng (Trầm Thiên Thu)
-
Xin đừng lãng quên (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
1. Lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Lý lẽ của trái tim (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Sao anh lại ghen? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Giá trị một đồng (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
5. Yêu không tính toán (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
6. Những người thợ của Chúa (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Đồng lương xứng đáng (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Hãy chấp nhận hiện trạng của mình (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
9. Công bằng của lòng từ nhân (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
10. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
11. Công bằng (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
12. Phải chăng Thiên Chúa quá bất công??? (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
13. Thỏa thuận (Trầm Thiên Thu)
14. Nước Trời là lòng thương xót của Thiên Chúa (P.Trần Đình Phan Tiến)
15. Suy niệm Chúa Nhật XXV Thường niên A (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
16. Ganh tỵ (Lm. Vũ Đình Tường)
17. Bức tranh đẹp (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
18. Lòng tốt của Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
19. Suy niệm Chúa Nhật XXV Thường niên. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
20. Hơn thế nữa (Phạm Anh, MTG.Thủ Đức)
21. Chiến thắng lòng ghen tỵ (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
22. Công bằng của lòng thương xót (Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng)
23. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
24. Ghen tuông âu cũng thế gian thường tình (JM. Lam Thy, ĐVD)
25. Cả các anh nữa, hãy đi vào làm vườn nho (Fx. Đỗ Công Minh)
26. Thích thì làm thôi! (Lm. Giuse Nguyễn)
27. Tình yêu, tiêu chuẩn của Thiên Chúa (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
28. Chân dung gia chủ tốt lành (Dã Quỳ)
29. Tấm lòng của Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
30. Thiên Chúa tốt lành quảng đại – con người ghen tị nhỏ nhen
31. Ứng sử nhân ái bao dung noi gương Thiên Chúa (Lm. Đan Vinh)
32. Chúa Nhật 25 Thường niên_A (Lm. Antôn)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Tuần XXV Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã thu gọn toàn thể lề luật thánh vào giới răn độc nhất là mến Chúa yêu người, chúng ta phải xin cho mình: hằng vâng giữ điều Chúa truyền dạy, để sau này đạt tới phúc trường sinh.
Khi nghe nói tới điều răn, giới luật, chúng ta thường nghĩ ngay tới điều gì đó cứng nhắc, khuôn khổ. Tuy nhiên, giới răn yêu thương của Chúa không phải là một định đề toán học, chính xác, minh bạch, rõ ràng như: một cộng một bằng hai.
Luật yêu thương của Chúa thì luôn sống động, tươi mới, thích ứng trong mọi tình huống, ngay cả, trong những hoàn cảnh bất ngờ, vượt quá trí hiểu của loài người chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia đã nói: Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Điều này cũng được nói đến trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, khi dân chúng không hiểu những gì ngôn sứ Êdêkien đã làm theo lệnh Đức Chúa, và họ đã hỏi ông: “Ông không cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu những gì ông đã làm sao?”
Đường lối, giới luật của Chúa thật khó hiểu, nhưng vịnh gia, trong Thánh Vịnh 144 của bài Đáp Ca hôm nay, vẫn tin tưởng rằng: Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người. Bởi vì, huấn lệnh Chúa vượt quá sức hiểu của chúng ta, nên chúng ta phải xin Chúa mở lòng chúng ta, để chúng ta lắng nghe lời của Con Chúa như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay.
Trí khôn của chúng ta không có khả năng để tách bạch rõ ràng đường lối, huấn lệnh của Chúa, nên chúng ta thường bị đặt ở ngã ba đường, như thánh Phaolô trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngài bị giằng co giữa hai đàng: Ao ước của ngài là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần, nhưng, ở lại đời này thì cần thiết hơn cho các tín hữu. Thánh nhân sống giới luật yêu thương của Chúa bằng cách đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Vì Tin Mừng, ngài đã trở nên tất cả để hoà mình với mọi người, để mọi người cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng. Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh cũng cùng chung tâm tình với thánh Phaolô, khi ngài đề cập đến các Kitô đau yếu, bất toại cần được những người vững mạnh khiêng đến, dở mái nhà, và đặt xuống trước Chúa. Ngài cũng trấn an chúng ta khi gặp những thử thách, mặc dù chúng ta không thể hiểu được, nhưng, vẫn cứ vững tin rằng: Khi để chúng ta bị thử thách, Chúa sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để chúng ta có sức chịu đựng.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng gây thắc mắc cho nhiều người về việc trả công của ông chủ vườn nho, khi ông trả cho người vào làm sau hết cũng bằng với những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt. Chúa có đường lối riêng của Chúa, Chúa không hành xử theo luật của người đời, nhưng, theo luật tình yêu của Chúa.
Khi suy niệm các bản văn Lời Chúa của Chúa Nhật Tuần 25 này, chúng ta nhận thấy rằng: Chúa muốn chúng ta sống giới luật yêu thương của Chúa từ sự nhận biết, chứ không như các Kinh Sư, Pharisêu, họ không biết việc họ làm. Luật Chúa không như đường sắt để hàng ngày các đoàn tàu chạy lên. Luật Chúa như một dòng sông chảy xuống từ đỉnh núi, xuôi ra đại dương. Dòng sông sống động, không chảy theo một bản đồ nào, không nhân tạo như những con kênh đào thẳng tắp. Dòng sông chảy tự do, nhưng vẫn đi tới đại dương. Kênh đào không có những khúc ngoặt tự nhiên, bất ngờ, nó thẳng băng như hình học. Dòng sông thì ngoằn ngoèo, khi chảy xuôi phương Nam, lúc ngược về phương Bắc, khi chảy nhanh, lúc chảy chậm, chảy qua những vùng đất khác nhau, có những tính chất khác nhau, khí hậu khác nhau, chấp nhận những khúc quanh đột ngột, không bị bó buộc, không như nô lệ, tù nhân có người giám sát, nó tự do chảy, mỗi bước đi đều là vẻ đẹp riêng của nó.
Luật yêu thương của Chúa thì linh động, thích ứng với những hoàn cảnh cụ thể, đầy tràn tình yêu, và sự sống. Tuân giữ luật trọn hảo không hề có một công thức cố định nào, tất cả đều tùy thuộc vào những đòi hỏi của tình yêu đích thực, một tình yêu cứu chuộc của Đấng sẵn sàng thí mạng vì chúng ta. Ước gì chúng ta tuân giữ Luật yêu thương của Chúa với một tình yêu bao dung, rộng mở để chúng ta sau này đạt tới phúc trường sinh như Lời Tổng Nguyện mà các nhà phụng đã muốn chúng ta xin trong suốt Tuần 25 Thường Niên này.
Lm. Ngọc Dũng, SDB
Ai trong chúng ta cũng đã một lần có thái độ “ghen tỵ” khi thấy người khác hơn mình. Chúng ta thường nghĩ và nhìn sự kiện theo cái nhìn của con người. Nếu chúng ta biết nhìn mọi sự theo cái nhìn của Thiên Chúa, thì chúng ta hiểu được đường lối của Ngài và như thế chúng ta sẽ không còn so sánh mình với người khác để rồi sinh ra ghen tỵ. Trong bài đọc 1 hôm này, ngôn sứ Isaia mời gọi chúng ta tìm Đức Chúa và đường lối của Ngài hơn là sống theo đường lối mình đang theo và tư tưởng mình đang có (x. Is 55:6-7). Tư tưởng và đường lối của chúng ta thì giới hạn vì chúng ta nhìn và suy nghĩ trong thời gian, còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa thì vô hạn vì Ngài nhìn mọi sự trong vĩnh cửu. Vì vậy, “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9). Những lời này làm chúng ta suy gẫm về những gì xảy ra trong cuộc sống của mình. Không có sự kiện nào xảy ra trong ngày sống mà không có ý nghĩa riêng của nó. Nói cách khác, dưới con mắt đức tin không có gì xảy ra trong ngày sống là ngẫu nhiên. Mọi sự kiện xảy ra trong sự quan phòng của Thiên Chúa để chúng ta học biết đường lối của Ngài. Liệu chúng ta có can đảm từ bỏ lối sống theo tư tưởng của mình để sống theo đường lối của Thiên Chúa không?
Về phần mình, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 trình bày cho chúng ta cách thức tuyệt hảo nhất để sống theo đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa là hoàn toàn để “Đức Kitô tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:20c-21). Đối với Thánh Phaolô, sống là sống cho Chúa, còn chết là được kết hợp với Ngài. Vì vậy, sự chết đối với thánh nhân không phải là một cái gì đáng sợ, những là “phương tiện” để qua đó chúng ta diện kiến nhan thánh Chúa. Để sống và chết cho Chúa, Thánh Phaolô chỉ mong ước ở các tín hữu Philiphê một điều, đó là họ “phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” (Pl 1:27a). Đây là Tin Mừng của tình yêu và tha thứ, Tin Mừng về sự quảng đại và cảm thông cho những người bị loại ra ngoài xã hội.
Trong Tin Mừng Thánh Matthêu, chúng ta cũng tìm thấy một dụ ngôn về vườn nho trong chương kế tiếp (21:33-34). Bài Tin Mừng hôm nay liên kết với những bài Tin Mừng chúng ta đã đọc trong những ngày trước hầu làm sáng tỏ đề tài phần thưởng dành cho các môn đệ Chúa Giêsu đồng thời cũng nói lên sự đảo ngược về vận mệnh của những người trước hết sẽ nên sau hết và những người sau hết sẽ nên trước hết. Tuy nhiên, trong dụ ngôn này, Thánh Mátthêu đưa một đề tài mới vào trong phần thưởng dành cho những người theo Chúa Giêsu, đó là sự quảng đại của Thiên Chúa.
Hình ảnh đầu tiên mà chúng ta lưu ý là “vườn nho.” Đây là biểu tượng cho dân Israel (x. Is 5; Gr 2:10). Nhìn từ bối cảnh này, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến việc “mướn” nhiều người để “sai đến với những con chiên lạc Israel.” Sau khi đã thoả thuận với thợ mỗi ngày một quan tiền, đây là tiền công bình thường cho một ngày làm công trong thời gian đó (x. Mt 20:2). Người chủ thuê người làm vào lúc 6g sáng, 9g sáng, 12g trưa, 3g chiều, và 5g chiều. Trong khoảng thời gian đó, những người tìm việc làm thường đứng ở các ngã ba đường hoặc chợ để mong được thuê làm. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý sự khác biệt ở đây là vấn đề tiền công. Đối với những người làm công được thuê ngay từ đầu ngày là có thoả thuận một quan tiền; còn những người được thuê từ 9g sáng đến 5g chiều thì tiền công không được đưa ra để thoả thuận, nhưng lệ thuộc vào người chủ. Ông chỉ hứa là “sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng” (Mt 20:5). Như chúng ta biết, ngày sống của người Do Thái bắt đầu lúc 6g sáng và kết lúc 6g tối. Như vậy, những người làm từ 6g sáng phải làm 12 tiếng, còn những người được thuê làm sau chỉ làm 9 tiếng, 6 tiếng, 3 tiếng hoặc chỉ 1 tiếng. Điều này là lý do tại sao những người làm 12 tiếng phàn nàn vì ông chủ trả công không theo lẽ “công bằng.” Vì nếu theo lẽ công bằng, họ làm nhiều hơn sẽ nhận được nhiều hơn. Nhưng họ quên rằng tiền công của họ không được hứa trả theo lẽ công bằng, nhưng theo “thoả thuận.” Đây chính là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Nhiều lần, chúng ta đến với Chúa và “bắt” Chúa phải trả cho mình theo lẽ công bằng: con làm nhiều thì con phải được nhận lại nhiều. Con đi lễ nhiều, làm việc tốt nhiều thì con phải được thưởng nhiều. Thái độ này đã đặt giới hạn cho tình yêu và sự quảng đại của Thiên Chúa. Đồng thời cũng chỉ rõ ý hướng làm việc của chúng ta là chỉ để được thưởng hầu có thể so sánh với người khác là mình đã làm hơn người khác. Hãy chú tâm làm việc và để việc thưởng công cho Đức Chúa. Đừng so sánh và tức giận, nhưng biết tìm vui trong những gì nhỏ bé mình nhận được từ sự quảng đại của Thiên Chúa.
Một chi tiết khác chúng ta có thể suy gẫm là: “Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: ‘Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?’ Họ đáp : ‘Vì không ai mướn chúng tôi.’ Ông bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!’” (Mt 20:6-7). Những lời này cho chúng ta thấy họ muốn làm việc, nhưng lại không được ai thuê mướn. Chi tiết này biện minh cho việc “sao các anh đứng đây suốt ngày.” Điều Thánh Mátthêu ám chỉ ở đây là để dạy các tín hữu trong cộng đoàn mình về giá trị của làm việc: có một việc làm, dù nhỏ mọn hay ngắn ngủi cũng tốt hơn là không có gì để làm hay không chịu làm gì [lười biếng]. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về thái độ trước công việc. Ai cũng muốn có việc lớn, việc tốt, còn những việc tầm thường chẳng mấy ai thích. Thánh Mátthêu dạy chúng ta rằng: điều quan trọng không phải loại việc tôi làm, nhưng là thái độ làm việc của tôi. Sự vĩ đại của công việc hệ tại ở chỗ biết nhìn công việc mình như là sự đáp trả lời mời gọi vào làm trong vườn nho của Thiên Chúa, làm việc Chúa trao, chứ không phải là làm việc mình thích, theo giờ mình thích.
Câu 8 và 9 là những câu chuyển tiếp và là bối cảnh để giải thích những gì đi theo sau: “Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: ‘Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.’ Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền.” Đúng ra nếu ông chủ trả tiền cho những người vào làm trước và họ đi về thì không có vấn đề “cằn nhằn.” Tuy nhiên, điều này xảy ra để hoàn thành điều Chúa Giêsu nói trong câu cuối của chương 19 (câu 30) và cũng là câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20:16a). Chi tiết này cho thấy cách thức ông chủ làm việc khác với cách thức mà những người làm công thường nghĩ đến. Vì cách thức làm việc “kỳ quặc đó” mà những người làm trước nhất lẩm bẩm, khó chịu và cằn nhằn với ông chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20:12). Những lời này nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc sống khi không hiểu được đường lối của Thiên Chúa, chúng ta cũng thường lẩm bẩm, khó chịu, và cằn nhằn với Chúa. Nhiều người mất cả niềm tin vì họ không thể chấp nhận đường lối “bất công” của Thiên Chúa. Nhưng ông chủ cho thấy, ông không bất công với họ vì ông trả cho họ đúng với khoản tiền cả hai bên đã đồng ý: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao?” (Mt 20:13). Thiên Chúa không bao giờ đối xử bất công với chúng ta, vì Ngài “công bình” và giàu tình thương. Điều làm cho những người đến làm trước cảm thấy tức giận với ông chủ là vì họ “mong chờ điều không phải của họ.” Khi chúng ta mong chờ điều không phải là của mình thì chúng ta sẽ dễ dàng thất vọng vì chúng ta sẽ không bao giờ có được điều đó. Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ những người vào làm sau. Họ không mong chờ. Họ hoàn toàn dựa vào sự quảng đại của ông chủ và họ nhận được khoản tiền công vượt sự mong chờ của họ. Khi đến với Chúa, chúng ta ai cũng có mong ước. Nhưng điều quan trọng là liệu sự mong ước của chúng ta có giống với sự mong ước của Chúa cho chúng ta không? Hãy để sự mong ước của chúng ta tan biến trong sự mong ước của Chúa, vì sự mong ước của Ngài luôn luôn tốt hơn và hoàn hảo hơn cho cuộc đời của chúng ta.
Thiên San, MTG. Thủ Đức
Có một ông chủ kia, cất công đi tìm mướn người làm thuê trong vườn nho của mình. Ông ta có một cách làm việc lạ thường. Thay vì tính trước cần tuyển bao nhiêu người , làm bao nhiêu giờ và trả bao nhiêu tiền để có lợi cho mình, ông lại bỏ thời gian, công sức đi tìm thợ từng lần, lại còn trả công cho mọi người như nhau. Việc làm này dường như thật thiếu khôn ngoan, sáng suốt. Cách làm của ông khiến cho những người vào làm sau chót rất đỗi vui mừng. Ngày hôm ấy, họ thật may mắn khi gặp được ông chủ tốt bụng.
Câu chuyện trên kể về một ông chủ tốt bụng. Ông chủ đó là ai? Khi nói về Nước Trời, Đức Giêsu đã kể câu chuyện trên cho tất cả chúng ta (x. Mt 20, 1-16a). Ông chủ trong câu chuyện chính là Thiên Chúa. Ngài quả là nhân từ. Nhân từ khi Ngài đích thân đi tìm người làm, mời họ vào vườn nho của mình làm việc. Không chỉ một lần rồi thôi nhưng là nhiều lần trong ngày, Ngài đích thân đi tìm. Chẳng phải Ngài “rảnh”, không có việc gì nên mới làm vậy. Chúng ta sẽ đặt câu hỏi: Tại sao ông chủ vườn nho không mướn luôn một lần đi, sao phải cất công đi nhiều lần như vậy, tại sao hết ngày rồi còn mướn thêm mấy người nữa làm gì, lại còn trả tiền công ngang với những người vào làm trước nhất? Thật khó hiểu.
Thật ra, khi đi mướn người vào làm việc trong vườn nho, ông đã chẳng đặt lợi ích của mình lên trước nhất nhưng vì vốn có lòng nhân từ, ông đã đặt lợi ích của người làm công lên trên. Ông nghĩ cho họ, ông thương xót họ. Vì thương nên mới nhiều lần ra chợ tìm người, khi thấy họ ở không, không ai thuê mướn mà ngày lại sắp tàn, ông mở rộng tay đón họ vào vườn nho của mình. Vậy là ngày hôm ấy, không chỉ những người vào làm sau chót vui mà cả mấy “cái bụng” đang chờ ở nhà của họ cũng vui. Không dừng lại ở đó, ông còn rất tốt bụng khi quảng đại trả một khoản tiền lương hậu hĩnh cho họ. Những người vào làm sau chót hết sức ngỡ ngàng vì lòng tốt của ông chủ, những người vào làm trước nhất lại sinh lòng ghen tỵ. Được gọi vào làm dù ngày sắp tàn đã vui lắm rồi, chẳng dám đòi hỏi công sá bao nhiêu. Bởi đó, khi được trả nhiều như vậy họ mới ngỡ ngàng. Những người vào làm trước nhất lại cằn nhằn, khó chịu. Họ tưởng mình sẽ được trả thêm vì đã vất vả cả ngày nhưng rốt cục cũng chỉ được trả bấy nhiêu. Thực ra, họ đã nhận đúng số tiền đã thỏa thuận ban đầu.
Khi được Chúa gọi vào vườn nho cuộc đời, chúng ta đã được Thiên Chúa đoái thương. Ngài cất công đi tìm từng người chúng ta, gọi vào vườn nho của Ngài. Mỗi người được gọi vào làm một giờ khác nhau, nhưng tiền công được trả lại giống nhau. Khi nhìn về tình thương Chúa dành cho mình, không ít lần chúng ta đã tỏ ra ghen tỵ với người anh em, chị em. Thay vì vui mừng với người đó vì những gì họ nhận được, chúng ta lại cằn nhằn, khó chịu, đòi Chúa phải thương ta như ta mong đợi. Thưc ra, khi ghen tỵ với người khác về những gì họ nhận được, chúng ta đang tự so sánh mình với họ. Chúng ta quên mất lời thỏa thuận ban đầu của ta với Ngài. Ngài có quyền định đoạt và tỏ lòng nhân từ với bất cứ ai. Khi được gọi vào làm vào giờ sau chót, chúng ta đừng vội buồn, tủi thân nhưng hãy vui lên. Vui bởi chúng ta đã được Chúa thương, chọn gọi vào vườn nho của Chúa. Ngài chẳng hề tính toán với chúng ta nhưng rất quảng đại với chúng ta. Lòng quảng đại đó không ít lần khiến cho người bên cạnh phải “ghen tỵ”. Là người vào làm giờ sau chót, chúng ta hãy học lấy sự khiêm tốn, nỗ lực làm hết mình, không đòi hỏi vì tin chắc rằng, Chúa luôn quảng đại, yêu thương chúng ta.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã gọi chúng con vào làm việc trong vườn nho của Chúa. Xin cho chúng con biết vui mừng vì điều đó và biết trân quý nó. Xin giúp chúng con biết nhìn vào những gì mình đang có để dốc sức làm hiện tại. Dù được gọi vào làm giờ trước nhất hay giờ sau chót, xin giúp chúng con làm hết mình vì Chúa mà không đòi hỏi nhiều ít. Xin giúp chúng con biết vui với những ơn lành người khác lãnh nhận được. Amen.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong cuộc sống đời thường, người ta hay nói đến công bằng như một lý tưởng phấn đấu và là một điều kiện căn bản để xây dựng một xã hội phồn vinh hạnh phúc. Tuy vậy, ở đời này không bao giờ có công bằng tuyệt đối. Bởi lẽ ngay khái niệm công bằng cũng được hiểu rất khác nhau, tuỳ theo quan điểm chính trị, văn hoá và xã hội của con người.
Thiên Chúa là Đấng công bằng. Giáo huấn của Kinh Thánh khẳng định với chúng ta như thế. Tác giả Thánh vịnh đã viết: “Quả thật Chúa là Đấng công bằng, ưa thích điều chính trực; những kẻ sống ngay lành được chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv 10,7). Không chỉ công bằng, nơi Chúa còn có tình thương và lòng nhân hậu. Ở đời này, hiếm thấy công bằng và tình thương đi đôi với nhau. Dân gian ta thường nói: “Thương em anh để trong lòng, việc quan anh cứ phép công anh làm”. Điều đó cho thấy đã công bằng thì không (hoặc rất khó) mà có tình thương và không có sự nể nang tình nghĩa. Đây cũng là điều cần thiết bởi nếu không xã hội sẽ rối loạn như giao thông không có đèn hiệu.
Dụ ngôn ông chủ vườn nho hôm nay chứng minh cho thấy: Thiên Chúa vừa công bằng và tràn đầy tình thương. Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con người. Chúng ta thường có thói quen “suy bụng ra bụng của Thiên Chúa”, có nghĩa là chúng ta thường gán cho Thiên Chúa những cách xử sự nơi thế giới nhân loại, cũng hận thù và tiểu nhân. Từ đó, chúng ta phàn nàn kêu trách Chúa khi đau khổ thiếu thốn. Tệ hơn, nhiều lúc chúng ta phê phán Chúa vì Ngài tốt bụng với người khác. Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I). Những lời này dạy chúng ta phải có cái nhìn rộng lượng hơn trong cách đối xử với tha nhân, như Thiên Chúa là Đấng bao dung và quảng đại.
Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé mọn. Trong khi đó, nhiều người Do Thái, nhất là người Biệt phái và các luật sĩ lại ghen tỵ vì Chúa Giêsu. Họ phê phán Chúa vì Người gần gũi những người tội lỗi và những kẻ bần cùng. Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nhằm diễn tả lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người. Nếu Thiên Chúa là Đấng rộng rãi bao dung, thì con người lại quá nhỏ nhen ích kỷ. Những người thợ đã làm từ đầu ngày ghen tương trước lòng tốt của ông chủ, trong khi đó, ông chủ vẫn làm đúng điều ông đã cam kết. Ông không hề làm cho họ bị thiệt hại. Họ ghen tương và phàn nàn bất mãn chỉ vì ông chủ tốt với người khác. Thái độ của những người này làm chúng ta liên tưởng đến người con cả trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được Chúa nói trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15,25-32). Anh ghen tương và phẫn nộ vì cha mình xử tốt với đứa em khi nó đi hoang trở về. Đó cũng là thái độ của chúng ta, khi muốn Chúa phải xử theo ý muốn hẹp hòi của mình.
Đối lại với lời phàn nàn trách móc, ông chủ đã đặt ra hai câu hỏi: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Qua hai câu hỏi này, ông chủ muốn phê phán những người thợ tự cho mình là đáng giá hơn người khác, để dựa vào đó mà phản đối lòng tốt của ông chủ. Người chủ vườn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng bao dung nhân hậu. Ngài sai Con Một là Đức Giêsu đến trần gian để sống gần với họ. Điều này làm những người tự coi là “công chính” không hài lòng. Bởi lẽ, theo suy nghĩ của họ, chỉ có họ là được Chúa yêu thương. Việc Chúa Giêsu gần gũi những người thu thuế và những người tội lỗi được họ coi như một thiệt thòi đối với họ, vì thế mà họ nổi loạn và trách móc phàn nàn. Họ giống như một số người có thái độ “ghen ngược” trong xã hội hôm nay, kêu ca phàn nàn trách móc trong khi mình không có quyền gì để làm những điều đó. Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời. Họ là những người không ai thuê, mặc dù vào giờ thứ mười một, tức là đã xế chiều. “Không ai mướn chúng tôi!”. Lời này đã diễn tả tình trạng bi đát và khốn cùng của họ. Không ai mướn, tức là ngày đó không có lương, và như thế, cả vợ con và gia đình họ cũng không có gì sống. Ông chủ vườn nho là người thấu hiểu điều đó. Vì vậy, ông trả lương cho họ giống như những người đã làm từ sáng. Đó là đồng lương của lòng nhân hậu.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng nhân hậu đối với con người, không phân biệt sang giàu hay đẳng cấp xã hội. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: “Đâu là thái độ của tôi đối với anh chị em đồng loại?”. Vì Thiên Chúa nhân hậu bao dung, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối và bỏ đường tà, đoạn tuyệt với quá khứ, thay đổi con tim và canh tân cuộc sống: “Hãy trở về với Chúa – và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta vì Ngài rộng lòng tha thứ” (Bài đọc I).
Những lo toan bận tâm thường ngày không thể cản trở chúng ta tìm kiếm Nước Trời. “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” – Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy. Đối với thánh nhân, sự sống hay sự chết chẳng là một điều bận tâm, vì đối với những ai yêu mến Chúa thực sự thì họ chắc chắn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Lòng mến Chúa yêu người sẽ thôi thúc chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn: “Kẻ gan ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương” (Bài đọc I).
Chúa là chủ vườn nho bao dung nhân hậu. Tuy vậy, chúng ta không dựa vào lòng nhân hậu của Chúa mà trễ nải khi được mời gọi vào vườn nho của Ngài. Những người thợ được nêu trong Tin Mừng, khi được mời, đều sẵn sàng nhận lời. Vì vậy mà họ đáng được thưởng công. Vườn nho của Chúa là Giáo Hội, nơi mỗi người tìm thấy bầu khí gia đình thân thương. Vườn nho của Chúa chính là cuộc đời, nơi chúng ta được sai đến để làm chứng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ nhận ra giá trị của cuộc sống, nhất là niềm vinh hạnh vì được làm con cái Chúa.
LIÊN ĐỚI ĐỂ DÌU NHAU QUA ĐẠI DỊCH
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Ở đời người ta dễ đau xót, tiếc nuối khi mất của, mất tiền nhưng chẳng mấy ai xót thương người khổ đau. Có một câu chuyện thời trung cổ kể rằng, trong quá trình xây dựng tháp Babel, khi một người đàn ông ngã xuống và chết, không ai nói gì. Cùng lắm người ta nói: “Tội nghiệp, ông ta trượt chân và ngã.” Ngược lại, nếu một viên gạch rơi xuống, mọi người sẽ phàn nàn và tiếc của. Vì sao? Bởi vì một viên gạch tốn tiền để làm, để chuẩn bị, để nung, vv.. Người ta tiếc một viên gạch vì phải mua. Một viên gạch đáng giá hơn mạng người.
Và dường như điều đó cũng đang diễn ra trong thế giới ngày nay. Nhất là trong khủng hoảng vì đại dịch Covid. Hàng ngàn người đang chết vì đói, vì đau khổ nhưng không ai nói về họ.Các báo chí phàn nàn vì công ty phá sản, vì hàng hóa bán không được, vì sản phẩm phải vất bỏ đi. . . .
Trên trang mạng ta vẫn thấy người bị tông xe nằm đó còn người gây tai nạn thản nhiên gọi điện thoại cho ai đó? Có khi chỉ vì một con chó bị ăn cắp liền kéo cả làng hùa ra đánh chết một mạng người. Và rồi, cuộc sống ngày càng thiếu thốn khiến kẻ cướp cũng hung bạo hơn nên dễ dàng cướp đi sinh mạng một người chỉ để lấy một sợi giây chuyền với giá vài trăm đồng!
Đây cũng là điều băn khoăn của Đức Thánh Cha Phanxico về viễn tượng tương lai. Ngài nói rằng đã gọi là khủng hoảng sau Covid thì đương nhiên phải có dư chấn gây ảnh hưởng lớn cho sự thay đổi. Ngài nói: “Đại dịch là một cuộc khủng hoảng. Chúng ta sẽ ra khỏi đại dịch tốt hơn hoặc tệ hơn. Chúng ta phải chọn. Và liên đới chính là con đường để thoát khỏi đại dịch tốt hơn, không phải với sự thay đổi bên ngoài, với một lớp sơn như thế này và mọi thứ đều ổn”. Thế nên, người ky-tô hữu phải luôn đặt câu hỏi rằng: tôi có nghĩ đến các nhu cầu của tha nhân không? Nếu chúng ta nghĩ đến tha nhân thì hãy loại bỏ tính ích kỷ, ghen tương để sống liên đời và chia sẻ cho nhau.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn của tình liên đới và cảm thông với nhau. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. . . Không nên buồn rầu vì người khác học lực kém hơn mình mà lại giầu có chẳng thua ai! Hãy cùng nhau tạ ơn Chúa, và cùng giúp nhau để ai cũng có của ăn, ai cũng có đầy đủ phương tiện để sống đúng với phẩm giá con người.
Nếu chúng ta không giúp được anh em thoát khỏi cơn khủng hoảng của nghèo đói, của thất nghiệp thì hãy tạ ơn Chúa, vì Ngài quá tốt lành đã lo liệu cho con cái của Ngài đều có của ăn dư đầy.
Dụ ngôn về những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, nhưng đều được ông chủ trả cho 1 đồng tiền công. Đây là lòng tốt của ông chủ. Ông chủ đối xử với người làm công theo cái tình chứ không phải cái lý. Mà thực ra đã là thương xót thì không còn đứng trong ranh giới công bình. Ông chủ cho ai bao nhiêu là tùy lòng tốt và khả năng của mình.
Thế nhưng, trong dụ ngôn ta thấy những người làm trước lại có thái độ ghen tức với đồng loại và khó chịu với chủ. Họ làm 12 tiếng được một đồng và người làm vài tiếng, thậm chí 1 tiếng cũng được như họ. Họ đã không thể vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Họ chỉ biết mình và chỉ muốn mình có và bực tức khi anh em cũng có được như mình!
Vậy thì ông chủ có bất công không? Chắc chắn là không. Vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận tức là 1 đồng. Chính ông chủ trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông ta bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành. Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng. Trọng tâm của dụ ngôn là việc phân phát lương bổng lúc cuối ngày.
Thế giới hôm nay cần liên đới để cùng với Đấng tạo hóa mà chỉnh đốn lại những mất mát sau đại dịch. Đại dịch sẽ làm cho nhiều ngừới mất việc và đói nghèo. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy chia sẻ công việc cho anh em. Dù họ làm 1 tiếng hay hai tiếng cũng là cách để san xẻ và giúp đỡ cho nhau có cái ăn cái mặc.
Xin Chúa gíup chúng ta cũng có lòng quảng đại để xan sẻ cho nhau, để cùng dìu nhau qua khó khăn. Xin Chúa ban cho xã hội có nhiều tấm lòng quảng đại để nâng đỡ nhiều người đang rơi vào khủng hoảng của đói nghèo và thất nghiệp. Xin cho chúng ta dám loại bỏ tính ghen tương ích kỷ để cùng nhau cảm tạ về những ơn lành Chúa ban. Amen
THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG TỐT LÀNH, NHÂN HẬU
Jorathe Nắng Tím
Dòng dã lịch sử nhân loại và lịch sử dân riêng Ítraen, Thiên Chúa không ngừng nói với con người và chứng tỏ : “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương. Chúa nhân ái với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên… Ai qụy ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên” (Tv 144,8-9.14). Ngôn sứ Isaia còn công bố và nhắc nhở : “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên. Kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương” (Is 55,6-7).
Sự tốt lành, và lòng nhân hậu của Thiên Chúa tất nhiên vượt xa ý nghĩ của phàm nhân, vì “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9). Chân lý này đã được chính Đức Giêsu làm sáng tỏ qua dụ ngôn “thợ làm vườn nho” trong Tin Mừng Matthêu:
- Thiên Chúa là Đấng tốt lành và nhân hậu, vì Ngài đón nhận tất cả mọi người, không loại bỏ ai:
Đức Giêsu đã trình bày chân dung một ông chủ rất tốt lành “vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình, sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền” (Mt 20, 1-2). Thế rồi,” khoảng giờ thứ ba”, rồi “khoảng giờ thứ sáu”, cả khi chiều về, ông đều ra ngoài đường và thấy vẫn còn những người “ở không”, chưa được ai mướn. Ông chủ hỏi họ : “Sao các anh đứng suốt ngày ở đây, không làm gì hết vậy ? Họ đáp : “Vì không ai mướn chúng tôi” (Mt 20,6-7). Và ông bảo tất cả “Hãy đi vào vườn nho làm việc cho tôi !”, và với mỗi người, ông đều thoả thuận trả lương cho họ “hợp lẽ công bằng” (Mt 20,4).
Ông chủ là Thiên Chúa đã đích thân ra đường hầu như suốt ngày để mời gọi những người “ở không”, thất nghiệp vào vườn nho làm việc cho ông. Ông chủ thật tốt, vì không từ chối ai, dù trong số họ có những người chưa làm vườn nho bao giờ, tay nghề còn non nớt, cả những người sức khoẻ yếu kém, lý lịch nhân thân không bảo đảm. Bằng chứng là ông đã không đặt ra bất cứ điều kiện nào từ tuổi tác, sức khỏe, khả năng, cũng chẳng bắt ai phải xuất trình bằng cấp, hay giấy chứng nhận hạnh kiểm của phường xã, hoặc nhận xét của tổ trưởng, công an khu vực, nhưng cách chọn nhân viên, người làm của ông chủ rất hào phóng, dễ dàng, và hợp đồng lương bổng hậu hĩnh, rõ ràng, phân minh.
Qủa thực, sự tốt lành và nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện qua trái tim thương xót và đôi tay giang rộng của Ngài khi đón nhận tất cả mọi người vào vườn nho Nước Trời, không trừ ai, dù phần đông bất xứng, không đủ điều kiện.
- Thiên Chúa tốt lành và nhân hậu khi ban hồng ân dồi dào, chan chứa cho tất cả mọi người:
Thiên Chúa là ông chủ đã biểu hiện lòng tốt cách rất độc đáo, khi trả cho tất cả mọi người đã vào làm vườn nho cho ông số lương cao nhất của một ngày trọn, dù có người mới chỉ làm một giờ, vì được nhận vào muộn, ở “giờ thứ mười một”. Thấy thế, những người vào làm trước nhất tỏ thái độ bất mãn, và cằn nhằn ông chủ : “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12).
Thực vậy, dụ ngôn “thợ làm vườn nho” đã đề cập và đề cao sự tốt lành và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Trước những người tự cho mình xứng đáng, giỏi giang, đạo đức hơn người, và đang khiếu nại phần tốt nhất cho mình, Đức Giêsu muốn họ hiểu rằng lương bổng họ nhận, phần thưởng họ lãnh đều không do tài cán, công lênh, đạo đức, phẩm hạnh của riêng họ, nhưng tất cả là hồng ân từ lòng tốt, và nhân hậu của Thiên Chúa, nên thái độ phải có chính là biết chấp nhận và đón nhận tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa, Đấng không gọi những người được tuyển chọn là tôi tớ, kẻ ăn người làm, nhưng là Bạn Hữu (x. Ga 15,15); Ngài cũng ân cần căn dặn những ai đi theo Ngài: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,27), nên thái độ ghen tức khi thấy người khác nhận được hồng ân như mình, hoặc hơn mình là thái độ không xứng hợp ở người được Thiên Chúa gọi vào làm vườn nho cho Ngài.
Xin Chúa cho chúng con luôn xác tín lòng tốt và nhân hậu của Thiên Chúa hằng bao phủ cuộc đời mỗi người chúng con, và đừng bao giờ lấy tư tưởng của con người để đo đạc tư tưởng của Thiên Chúa, lấy đường lối của phàm nhân để đo lường đường lối của Ngài, vì tư tưởng của Thiên Chúa thì vô cùng tốt lành, và đường lối của Ngài thì nhân hậu vô biên.
Là người cha tốt lành, nhân hậu, Thiên Chúa chỉ nghĩ và thực hiện những gì tốt đẹp nhất cho chúng con là con cái của Ngài.
VUI VỚI NGƯỜI VUI, BUỒN VỚI NGƯỜI BUỒN
Bông hồng nhỏ
Người ta dễ mủi lòng trước một cảnh đời bất hạnh. Nhìn thấy người khác đau khổ, ai mà không thương. Lòng thương người là có thật. Nó được nuôi dưỡng qua những tháng ngày: từ tình thương yêu giữa những người thân trong gia đình, tình bạn bè, tình làng nghĩa xóm. Rồi một ngày, ta nhận thấy lòng mình càng mở ra hơn, mình cũng thương cả những con người bất hạnh thỉnh thoảng vẫn ghé vào nhà xin ta chén cơm hay ngụm nước. Thế nhưng bỗng một ngày, nhìn người ta sung sướng, ta thấy lòng mình ghen tức, khó chịu, ta hằn học trách đời bất công. Tại sao ta chỉ có thể mủi lòng trước sự đau khổ của người khác nhưng khi thấy họ sung sướng hơn ta, ta không thể chấp nhận được?
Cuộc đời của ta giống như câu chuyện của những người thợ được mướn vào làm việc trong vườn nho. Có khi ngay từ sáng sớm, ta đã may mắn kiếm được việc làm. Tuy phải làm việc nặng nhọc, vất vả cả ngày, chịu nắng nôi thiêu đốt nhưng bù lại, ta an lòng vì có được một công việc ổn định. Ông Chủ là người tốt đã trả lương cho ta, đồng lương cân xứng với việc ta đã làm. Ông thương ta, dù ta chẳng tài cán gì hơn ai nhưng Ông đã mướn ta vào vườn nho ngay từ sáng sớm. Ta ra sức làm việc, chăm chỉ từ sáng sớm đến khi chiều về, không nề hà những vất vả phải chịu. Cuộc đời đã dạy cho ta một chân lý: “Có làm thì mới có ăn”. Nếu ta biếng nhác, ta mới là người đáng trách. Khoảng giờ thứ mười một, ông chủ vườn nho trở ra và thấy những người khác đứng ở đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi” (Mt 20, 6-7). Cuộc đời của ta cũng đã từng canh cánh một nỗi lo sợ: sợ thất nghiệp. Đó là nỗi lo lắng của những người thợ phải đứng chờ mỏi cả chân mà vẫn chưa có ai thuê. Họ canh cánh trong lòng nỗi lo cơm áo gạo tiền. Không ai thuê, ta lấy đâu ra tiền đong gạo cho đàn con nheo nhóc. Ta hãy nhớ lại những lần ta phải “ở không” mấy tháng liền vì không tìm được việc làm. Ta cảm nhận được niềm vui của những người được mướn vào làm việc trong vườn nho vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, và cả giờ thứ mười một nữa. Chờ đợi điều gì quá lâu, người ta sẽ dễ chán nản và muốn bỏ cuộc, có những người đã bỏ cuộc. Ta đã thấy được sự kiên trì, nhẫn nại của những người vào làm giờ sau hết. Hãy thử nghĩ xem, họ đã phải đứng chờ ở chợ trong thời gian lâu như thế là vì điều gì. Họ mong chờ một cơ hội để được một ông chủ thuê vào làm, ít là kiếm được đôi ba đồng để trang trải trong cuộc sống. Có được việc làm, họ sẽ có được một khoản tiền dù ít ỏi nhưng cuộc sống của họ vẫn được đảm bảo hơn. Có rất nhiều người đã phải chờ đợi lâu như thế. “Không ai thuê”, đó là một nỗi lo, một nỗi đau, một thử thách mà họ thật sự đã phải trải qua.
Chiều về, kết thúc một ngày làm việc vất vả, ta sẽ được lãnh đồng lương. Nhìn thấy những người vào làm sau chót được lãnh một đồng, ta cứ nghĩ mình sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng đến lượt mình, ta cũng chỉ được lãnh một đồng. Ta hụt hẫng. Lòng tự ái của ta đang cao hơn núi. Ta nghĩ đến sự khó nhọc mình đã phải chịu. Ta đã không thể vui niềm vui của những người vào làm sau chót. Họ đã chẳng phải vất vả gì nhưng lại được hưởng số lương như ta đáng được hưởng. Ta ghen tức và thấy thương cho chính mình. Ta trách móc Ông Chủ bất công. Ta đã chân thành chia sẻ niềm vui của những người được nhận vào làm sau, nhưng ta không thể chia vui khi họ được thương hơn ta. Tình thương có thể đem ra so sánh được không? Nếu cứ đem tình thương ra cân đo đong đếm như thế, ta sẽ chẳng thấy mình được thương, vì dường như ta cứ muốn được thương hơn người khác, và vì thế khi thấy người khác “được thương hơn”, ta sẽ ghen tức, bực bội là chuyện đương nhiên. Nói khác đi, ta chưa thương người khác như Chúa Giêsu vẫn mời gọi: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 31-35).
Lạy Chúa Giêsu! Người chính là Ông Chủ tốt lành. Chúa yêu thương chúng con với một tình yêu duy nhất, tràn đầy. Chúa đã dạy con phải hết lòng yêu thương anh em mình. Chúa biết trái tim con còn chưa đủ quảng đại để có thể vui với người vui và buồn với người buồn. Xin biến đổi trái tim con, uốn nắn trí lòng con cho nên giống Chúa. Xin Chúa dạy con biết trân quý tình thương Chúa đã dành cho con, để con cũng biết hết tình yêu thương anh em như Chúa mời gọi. Amen.
Maria Nguyễn Huệ
Khi nói về tình yêu chúng ta hiện lên vô vàn những khái niệm, còn con tim rạo rực cũng như muốn “lên tiếng”! Trong kinh nghiệm, chúng ta có thể khẳng định rằng vẻ đẹp của tình yêu được xây dựng từ người trao yêu thương. Tức là tình yêu được tạo nên từ sự cho đi và nhận lãnh. Nhưng để diễn tả tình yêu bằng hành động thì thật khó! Bởi chúng ta chỉ muốn lãnh nhận mà không muốn cho hay chưa đủ khiêm tốn để đón nhận sự trao ban của người khác. Đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta nghe: “Dụ ngôn thợ làm vườn nho”(Mt 20,1-16). Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Lòng Thương Xót của Người, và khi cảm nhận về tình yêu, chúng ta cũng biết trao ban tình yêu ấy cho tha nhân.
Thiên Chúa không yêu chúng ta với những gì chúng ta có nhưng như chúng ta là. Thiên Chúa chính là người chủ vườn nho, từng khoảnh khắc đã “đi ra” và sẵn lòng đón nhận tất cả những người làm công, dù là vào giờ “chót” trong ngày. Đặc biệt, ông đã rộng lòng trả lương không những tương xứng mà còn hơn cả điều họ nghĩ, hơn cả sức lực họ làm ra. Đúng thế, từng giờ, từng giây phút, Thiên Chúa luôn tỏ lòng nhân hậu, yêu thương chờ đợi chúng ta đến với Người. Chính Người đi tìm gặp chúng ta để gửi trao yêu thương. Người không “chọn” chúng ta như những gì chúng ta “có”: là tài năng, sức khẻo, thì giờ…, nhưng Người yêu thương chúng ta “như chúng ta là”. Vậy từng giờ khắc của ngày sống, chúng ta đã đáp lại tình yêu của Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta có đang tìm gặp Chúa hay chỉ loay hoay trong khoảng không gian của mình để đạt được những gì chúng ta muốn? Người đang mong chờ chúng ta đến với Người, không phải với những công trạng, công việc to lớn nhưng với tình yêu mến. Thật vậy, xét về mặt lý trí, những người vào làm sau hết chẳng có công trạng gì nhiều. Như gương của thánh nữ Têrêxa nhặt một cọng rác cũng đủ cứu một linh hồn, một việc làm tầm thương với tình yêu phi thường. Đó là tin vào lòng nhân hậu của Chúa. Những người làm giờ đầu tiên nhận tiền xong họ đã càm ràm ông chủ “tại sao vậy?”. Phải chăng họ chỉ nghĩ đến nhu cầu và đòi hỏi những lợi ích hơn cho mình nên họ đã sinh lòng ghen tức? Đối với Thiên Chúa, Ngài biểu lộ tình yêu không chỉ dựa vào sức lực cử chúng ta nhưng bới lòng yêu thương, nhân hậu của Chúa.Vậy, chúng ta đã nhận được tình yêu của Thiên Chúa chúng ta hãy đáp lại tình yêu của Người qua việc thể hiện tình yêu ấy cho tha nhân. Chúng ta đừng ghen tức hay so bì khi nhìn thấy người khác giàu có hơn, sung sướng hơn hay có địa vị hơn. Thay vào đó, chúng ta hãy cùng cộng tác và hỗ trợ để họ chu toàn tốt những trách nhiệm, nghiệp vụ của họ. Đặc biệt, chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và cho cả chúng ta nữa, biết đáp lại tình yêu Chúa qua việc đem hết khả năng, nhiệt huyết mà làm sinh hoa trái trong đời sống đức tin thường ngày. Để cùng mọi người, chúng ta diễn tả vẻ đẹp của tình yêu Thiên Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết luôn tìm kiếm Chúa như chúng con là để chúng con đáp lại tình yêu và lòng nhân hậu Chúa dành cho chúng con. Nhờ Người, chúng con biết đón nhận và cùng nhau sống an vui, hạnh phúc. Amen.
Thiên San
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho chúng ta dụ ngôn “Thợ làm vườn nho”. Ông chủ trong câu chuyện là người “tốt bụng” cách khác thường, không giống với các ông chủ ta thường gặp. Ông ra chợ từ sáng sớm mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình, rồi nhiều lần trong ngày trở ra, thấy có những người ở không, ông gọi họ vào vườn nho và hứa sẽ trả công cân xứng. Tất cả những người được gọi đều được trả mỗi người một quan tiền bắt đầu từ người vào giờ sau chót.
Chúng ta cũng được ví như những người thợ được gọi vào làm việc trong vườn nho. Ngày chúng ta được gọi vào vườn nho cuộc đời là ngày chúng ta chào đời. Có người được gọi vào giờ thứ nhất, có người vào giờ thứ ba, thứ sáu hay thứ mười một…Có bao giờ chúng ta tự hỏi, tại sao ta lại được sinh ra vào thời này mà không phải là thời kia, là gia đình này mà không phải gia đình nọ. Về điều này, chúng ta không thể tự mình quyết định. Chính Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu đã gọi mỗi người chúng ta ở những thời điểm, hoàn cảnh rất khác nhau. Tuy thế, tất cả chúng ta đều được Người trao cho một sứ mạng là làm việc trong vườn nho cuộc đời: Có người là giáo viên, có người là linh mục, có người là công nhân… Lúc này, ta được mời gọi cộng tác với Ngài trong vai trò này, khi khác ta lại được mời gọi cộng tác trong vai trò khác. Điều quan trọng là ta phải khám phá ra sứ mạng của mình và nỗ lực cộng tác với tất cả khả năng, sức lực và tình yêu để góp phần làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Vậy làm sao ta có thể khám phá và thực thi sứ mạng của mình?
Thiết nghĩ, để từng bước khám phá và thực thi sứ mạng của mình mỗi ngày ta phải đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa, với tha nhân; mỗi suy tưởng, nói năng, hành động ta luôn hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Khi ta làm như vậy, ta sẽ bớt đi những ích kỷ, ghen tương, giận hờ ta dành cho nhau. Thiên Chúa không chỉ gọi riêng ta nhưng là gọi cả anh chị em của ta, tất cả mọi người. Cũng chẳng phải vì Ngài cần đến ta nhưng là bởi Ngài biết ta cần đến Ngài. Ngài biết ta cần được làm việc, được thể hiện mình, được góp phần nhỏ bé của mình vào vườn nho của Chúa. Bởi thế, ta được mời gọi cộng tác, liên đới với mọi người trong sứ mạng rất riêng của ta. Mỗi người đứng ở một vị trí khác nhau, nhiệm vụ khác nhau và với tất cả sức lực, khả năng, tình yêu của mình hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó trong cuộc đời mình. Khi thực thi sứ mạng rao giảng Tin Mừng Đức Kitô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy, ngài đã phải vất vả, bị giằng co giữa hai đàng: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1, 23-24). Ngài đã chọn ở lại với các anh em. Còn chúng ta, đã bao giờ chúng ta trăn trở, thao thức cho sứ mạng của mình? Nếu chúng ta hết mình với sứ mạng Chúa trao trong cuộc đời, chúng ta sẽ là những người thợ đẹp lòng Chúa. Chúng ta sẽ bớt đi thái độ cằn nhằn, so đo tính toán theo kiểu con người mà mặc lấy tâm tình phó thác, khiêm tốn đón nhận tất cả. Ta sẽ có khả năng vui mừng vì thấy người khác cũng được gọi và trả công như ta. Mỗi chúng ta, khi thực thi sứ mạng cần nhận ra lòng thương xót, sự quảng đại mà Thiên Chúa đã dành cho ta để luôn biết vui lòng với những gì mình được lãnh nhận.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương gọi chúng con vào đời, được tin tưởng trao ban sứ mạng cộng tác với Chúa trong vươn nho cuộc đời. Xin cho chúng con luôn biết khám phá, nỗ lực thực thi sứ mạng Chúa trao trong vui tươi, khiêm tốn, tin tưởng. Xin cho chúng con biết đi vào sự hiệp thông với Chúa và tha nhân, cùng nhau khám phá, thực thi sứ mạng Chúa trao; cùng giúp chúng con biết bằng lòng với những gì nhận được và không bao giờ lấy tư tưởng, suy nghĩ của mình mà áp đặt hay giới hạn tình thương của Chúa. Amen.
Lm Trần Bình Trọng
Chiều kích của thế giới mà người ta đang sống, tuỳ thuộc vào cái nhìn của mỗi người. Người ta có thể mở rộng hay thu hẹp thế giới lại trong đầu óc mình. Khi người ta thu hẹp cái nhìn đời, là người ta chọn sống trong thế giới nhỏ bé. Và khi người ta càng chọn cái nhìn hẹp hòi, người ta càng mất hạnh phúc. Ðó là cách thế cắt nghĩa cho việc bất mãn của những người làm vườn nho cả ngày từ sáng sớm tinh sương trong Phúc âm hôm nay.
Thợ làm vườn nho từ sáng sớm đã thỏa thuận với chủ về đồng tiền lương (Mt 20:2), nhưng rồi họ lại cằn nhằn vì chủ trả cho những người đến sau cũng bằng họ. Xét về một vài khía cạnh, thì dụ ngôn hôm nay cũng giống dụ ngôn người cha nhân lành đối xử khoan hậu với người con phung phá. Khi người con phung phá trở về thì người cha cho mở đại tiệc ăn mừng khiến người con trưởng nổi ghen. Ðó cũng là phản ứng tiêu biểu của loài người.
Giới học giả Thánh kinh coi những người được gọi trước để làm vườn nho tượng trưng cho dân được chọn trong Cựu ước. Họ là những người được gọi trước để sửa soạn cho việc Ðấng Cứu thế đến. Khi Ðấng Cứu thế đến, họ lại từ khước Người. Còn những người dân ngoại được gọi sau này đã chấp nhận lời mời gọi của Chúa và họ được trở nên hàng đầu (Mt 20:16a). Dụ ngôn còn ám chỉ rằng bất cứ ai đáp lại tiếng gọi của Chúa và sống theo đường lối của Người thì cũng được đối xử khoan dung và nhân hậu. Ðó là trường hợp những người thu thuế và gái điếm được vào nước Trời trước các thượng tế và kì mục như Chúa bảo (Mt 21:31). Người thu thuế và gái điếm mà Chúa nói đến cũng là người Do thái nhưng họ biết hối cải và thi hành ý Chúa.
Bài học có thể được rút tỉa trong Thánh kinh hôm nay là lời mời gọi sống đức tin vào Chúa đến với mỗi dân tộc hay mỗi cá nhân khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Có người được gọi đến đời sống đức tin từ nhỏ qua Bí tích Rửa tội. Có người lớn lên mới được gọi vào đời sống đức tin. Chính lúc mà người ta đặt tin tưởng vào Chúa và gia nhập đạo Chúa qua Bí tích Rửa tội thì họ trở nên thành phần ngang hàng với nhau trước mặt Chúa. Gia nhập nước Chúa sớm hay trễ, trước hay sau không có khác biệt. Và tất cả những người được gọi làm vườn nho của Chúa để gia nhập nuớc Trời đều phải ghi ơn lòng quảng đại của Chúa.
Dụ ngôn nhấn mạnh đến điểm là trong việc cứu độ, Thiên Chúa sẽ quyết định những gì là công bình, những gì là bác ái trong việc thưởng công cho con cái loài người. Ðường lối của Chúa là đường nẻo công chính, nhưng sự công chính của Chúa luôn nằm trong bối cảnh nhân từ và lòng xót thương của Người. Chính vì thế mà ngôn sứ Isaia trong bài Thánh kinh Cựu ước hôm nay đã ca tụng lòng nhân hậu của Chúa: Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi (Is 55:9).
Trong việc trả lương cho những người đến làm sau hết cùng một số tiền như những người đến trước, người chủ đã không làm thiệt hại, cũng không lỗi đức công bình với những người đến làm từ sáng sớm vì họ đã thỏa thuận với chủ về số tiền lương mỗi ngày một quan tiền. Ðó là mức lương của một người thợ thời bấy giờ. Việc trả lương cho những người đến sau cùng một số tiền bằng thợ đến từ sáng sớm là do lòng đại lượng của chủ. Nói cách khác, đối với những người đến trước, thì chủ thi hành luật công bình, nghĩa là không lỗi giao kèo. Còn đối với những người đến sau, chủ thi hành luật bác ái.
Theo mạch văn trong Phúc âm hôm nay thì những người đứng không ở ngoài chợ, không phải là những người nhàn cư, ăn không ngồi rồi, nhưng vì không ai mướn họ (Mt 20:7). Ra chợ tìm việc làm và đợi tới giờ mười một (1) – tức là năm giờ chiều, đến sáu giờ thì nghỉ việc – có nghĩa là họ cần việc làm. Tại đất Paléttin thời bấy giờ, chợ là nơi người thất nghiệp đến tìm việc và nhận việc, giống như tiệm 7-Eleven hay tiệm giải khát nào đó tại Hoa kỳ là nơi mà người thất nghiệp tụ họp đợi người khác đến thuê làm công vào thời gian hai mươi năm cuối thế kỉ hai mươi và cũng chừng hai mươi năm đầu thế kỉ hai mươi mốt. Theo nhà chú giải Thánh kinh William Barclay, cao độ của mùa hái nho tại Patéttin nhằm vào tháng Chín. Theo sau là mùa mưa. Vì thế chủ cần hái nho trước khi mùa mưa tới để nho khỏi bị ủng, nên ông cần càng nhiều thợ làm càng lợi ích. Như vậy xét theo kế hoạch kinh tế nông nghiệp, ông chủ là người quản lý tài sản giỏi. Còn xét theo Học thuyết Xã hội Công giáo, người ta phải khen ông chủ vườn nho có đầu óc xã hội, chứ không thể tố cáo ông mang óc thiên vị: nhất bên trọng, nhất bên khinh. Ông trả lương theo nhu cầu vật chất của thợ, chứ không dựa trên thời giờ làm việc của họ.
Khi nghĩ rằng ta tốt lành và siêng năng hơn người khác, mà người khác lại hơn ta về của cải vật chất và địa vị xã hội, ta sinh ra ganh tị, và còn hận Chúa. Do đó ta muốn đặt giới hạn cho lòng đại lượng và khoan dung của Chúa. Ðó chính là điều thắc mắc của ông chủ vườn nho: Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?(Mt 20:15). Ðáng lẽ những người làm vườn nho từ sáng sớm phải vui mừng với thợ đến sau vì họ cần tiền để độ thân hoặc nuôi gia đình. Khi đặt nặng về giá trị vật chất, mà thấy người khác hơn mình về của cải, việc làm, nhà ở thì người ta nổi máu ghen. Mà ghen tương lại làm cho người ta mất hạnh phúc. Mất hạnh phúc làm người ta khổ. Vậy thì ghen làm chi cho khổ? Còn nếu coi nhẹ giá trị vật chất thì khi thấy người khác hơn mình về những khía cạnh trên, người ta cũng không màng. Hôm nay mỗi người cần nhắc nhở cho mình rằng mọi sự ta có đều là của Chúa ban. Vì thế ta cần học để sống trong tâm tình biết ơn.
Lời cầu nguyện xin cho được bằng lòng với của Chúa ban:
Lạy Chúa, Chúa là Ðấng công minh và đại lượng
Chúng con cảm tạ Chúa về lượng công minh
và lòng đại lượng đối với loài người tuỳ theo nhu cầu cá nhân.
Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn
để con bằng lòng đón nhận những của lớn nhỏ Chúa ban.
Cũng xin cho con một tâm hồn quảng đại
để con hiểu được những đặc ân mà Chúa ban cho người khác
thay vì ganh tị với họ và kêu trách Chúa.
Và xin cho những người đến sau
cũng được mời vào làm việc trong vườn nho của Chúa. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Người ta thường nói rằng: “Lòng tốt là thứ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy”. Bởi vậy hãy bắt đầu làm điều tốt lành cho ai đó xung quanh mình, bạn sẽ thấy điều đó ở khắp nơi. Hương thơm của lòng tốt lan tỏa rất xa. Hương vị của lòng tốt chan hòa trong một cuộc sống an lành. Không cần “khắc cốt” những gì mình đã trao đi, nhưng cần “ghi tâm” những gì mình được nhận từ những người khác, đó là điều thật đáng quý.
Tin mừng hôm nay kể về Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”. Ông chủ vườn nho 5 lần trong ngày đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau, cuối ngày ông trả tiền công cho mỗi người 1 đồng. Ý nghĩa dụ ngôn diễn tả lòng tốt của Thiên Chúa. Lòng tốt vượt trên lẽ công bình. Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng nhân hậu của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông …”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật. Chúa Giêsu quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Những người được vào làm vườn nho trước nhất: “Sau khi đã thỏa thuận với họ là mỗi ngày một đồng, ông sai họ vào vườn nho làm việc”. Đây là sự công bằng.
Những người được vào làm vườn nho sau hết. Họ muốn có việc làm, họ đứng đợi từ sáng sớm. Khi nghe ông chủ nói: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”, họ rất đỗi vui mừng, vội vàng đi làm việc mà không có thỏa thuận. Đây là tình thương do lòng tốt của ông chủ.
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. Vậy mà lúc 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động cả ngày. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng nóng. Họ càm ràm với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, bởi lẽ họ không biết yêu thương.
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức?”. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Chúa Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa quảng đại vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công, không làm thiệt hại ai, Ngài luôn công bằng. Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng thi thố lòng thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Nhiều lần trong ngày ông chủ ra chợ tìm thuê thợ làm việc vườn nho là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải con người tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm con người. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người khác, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Ông chủ thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, là hình ảnh diễn tả tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
Một xã hội công bằng bác ái, ai ai cũng ước mơ và hướng tới. Công bằng luôn phải đi đôi với bác ái.Thiên Chúa là Đấng công bình và yêu thương, Ngài ân thưởng, trả công cho mỗi người đúng theo việc họ làm. Chúa Giêsu cũng đã từng dạy : làm thợ thì đáng được trả công. Tuy nhiên, tình yêu Thiên Chúa bao la, con người không thể hiểu thấu. Bài đọc 1, ngôn sứ Isaia nói: lòng nhân từ của Thiên Chúa vô biên, vượt trên mọi toan tính của con người, vượt qua mọi chuẩn mực, vượt trên tất cả những lý sự và mong ước của con người. Con đường Ngài đi là con đường tình yêu, vượt lên trên mọi luật lệ, phép tắc của con người. Tình yêu của Ngài cũng vượt lên trên cả đức công bình, vượt xa mọi ranh giới và mọi nghĩ suy của con người. Thiên Chúa không chỉ là một ông chủ mà còn là một người cha. Thiên Chúa công bình yêu thương, tốt lành. Hồng ân Ngài ban chan chứa. Con người đón nhận với lòng biết ơn.
Hồng ân thì khác với công lao. Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Có một sự khác biệt giữa lối sống đạo dựa trên hồng ân và lối giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận “giữ đạo” để được “lên thiên đàng”. Nhưng người ta cũng có thể “sống đạo” chỉ vì muốn đền đáp hồng ân bao la của Thiên Chúa. Lối giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữu trở thành “kẻ làm công”. Chẳng hạn, việc quét nhà thờ hàng tuần, nhiều người so bì cò kè tính toán, với cái nhìn ích kỷ ghen tị với người khác. Tại sao mình không nghĩ đến bao nhiêu ơn lành Chúa đã thương ban cho mình và gia đình, mỗi tháng chỉ dành 1-2 giờ quét nhà thờ làm sạch sẽ đẹp khuôn viên, công việc ấy như một tâm tình đáp lại hồng ân Chúa thương ban?
Sống đạo kiểu người làm công nên người ta hay càm ràm phản đối ông chủ: “Chúng tôi lao lực suốt cả ngày mà ông trả công cho chúng tôi bằng những người đến sau hết!”. Ông chủ trả lời: “Tôi có bất công với mấy anh đâu! Mấy anh đã thỏa thuận với tôi là một đồng một ngày, thì tôi đã trả đủ cho mấy anh rồi. Tôi muốn trả cho những người đến sau bằng các anh thì có can gì đến các anh? Hay là các anh ganh tị vì tôi rộng rãi?”. Các anh thật hẹp hòi. Đáng lý ra, các anh phải mừng cho những người đến sau, vì họ may mắn gặp được một ông chủ có lòng tốt. Tại sao các anh lại nhăn nhó vì tình thương của ông chủ đối với những người đến sau?
Lối sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình. Sống yêu thương quan tâm đến những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn.
Một xã hội tốt đẹp là mọi người ân cần giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội văn minh khi mỗi người biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình, ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật tươi đẹp và chan chứa tình người.Cuộc đời ai cũng cảm thấy ấm áp khi được quan tâm, bởi vậy lòng tốt là một nguồn năng lượng tích cực giúp cho con người xích lại gần nhau hơn.Lòng tốt giúp con người có thêm niềm tin. Tin rằng mình luôn làm điều tốt thì mình đang đi trên con đường yêu thương. Lòng tốt mang đến cho ta niềm vui, niềm hy vọng.
Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Dụ ngôn người thợ làm vườn nho của Chúa Nhật 25 thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa….
Để dân chúng hiểu rõ hơn những lời dạy của Chúa, đôi khi Chúa Giêsu cũng dùng dụ ngôn để làm sáng tỏ giáo huấn mà Chúa trao ban cho mọi người. Vì thế, dụ ngôn người thợ làm vườn nho của chúa nhật XXV thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa.
Lòng quảng đại của Thiên Chúa:
Khi nghe đoạn Tin mừng có lẽ không ít người thắc mắc về cách làm của ông chủ vườn nho. Thắc mắc là phải, bởi vì từ người đầu tiên ra làm vườn nho lúc trời vừa tảng sáng, tiếp theo là người làm lúc giờ thứ ba, kế đến người làm lúc giờ thứ sáu, rồi tiếp người làm đến giờ thứ chín, sau cùng là người làm giờ thứ mười một, tất cả những người này từ người làm giờ sau hết đến giờ trước nhất, chỉ nhận lương từ tay ông chủ có một quan tiền mà thôi. Như vậy ý của ông chủ trong việc này là như thế nào? Chỉ khi nào chúng ta giải thích và tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn, chúng ta sẽ dễ chấp nhận và sẽ kính nể cách ứng của ông chủ vườn nho với hết mọi hạng người.
Trước hết ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê làm vườn nho là tất cả mọi người, dĩ nhiên trong số này còn có anh chị em lương dân. Vườn nho là Nước Trời là Giáo Hội. Tiền lương là phần thưởng trong Nước Trời. Những người được kêu gọi làm vườn nho từ giờ trước nhất cho đến giờ cuối cùng trong ngày, nghĩa là Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người gia nhập Nước Trời qua mọi ngày tháng và mọi thời khác nhau.
Nhờ những giải thích trên đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa mạc khải cho chúng ta. Trong dụ ngôn Chúa Giêsu dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha là người Cha tuyệt vời. Đó là người Cha luôn chủ động tìm kiếm những đứa con để đón nhận Nước Trời. Một người Cha luôn thao thức đi tìm con không biết mệt mỏi. Tìm mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Một khi đã gặp được con thì người Cha ấy không đặt vấn đề thời gian, không đặt nặng kết quả của công việc. Vì bản chất là quảng đại, nên người Cha ấy luôn thúc bách con của mình hãy mau tiến vào vườn nho, để khi thời gian làm việc kết thúc thì người con ấy cũng sẽ nhận phần thưởng giống như mọi người.
Chúa Giêsu đến trần gian để dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Vì là Cha chúng ta, nên Thiên Chúa mong muốn hết mọi người được đón nhận ân huệ nhưng không của Chúa, được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc và bình an trong Nước Chúa. Vì ơn cứu rỗi được khơi nguồn từ tình thương của Thiên Chúa nên chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa. Và lời tạ ơn chỉ đẹp lòng Chúa khi chúng ta có những cách sống giống như Chúa.
Lòng quảng đại của chúng ta:
Nếu như người làm vườn nho vào giờ trước nhất cằn nhằn ông chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng thiêu đốt” (Mt 20, 12), thì đến chúng ta, một khi mong cuộc đời mình được sống quảng đại như Chúa, tất nhiên chúng ta không được phép kêu trách lòng từ bi của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người. Chúng ta là anh em với nhau. Không lẽ chúng ta được Chúa ban hạnh phúc, còn anh chị em khác cũng được Chúa ban hạnh phúc giống như ta thì mình lại khó chịu chăng? Lòng quảng đại của chúng ta chỉ thực sự lớn lên, khi chúng ta xem niềm vui của người khác là niềm vui của mình, hay những khát vọng hạnh phúc của người khác cũng là khát vọng của mình. Lòng quảng đại của chúng ta sẽ phát triển, khi chúng ta đừng bao giờ xem thất bại của người khác là trò giải trí vui chơi của mình, hay thành công của người khác là nuôi lòng căm ghét thù hận và khó chịu trong mình. Lòng quảng đại của chúng ta sẽ không có chỗ dừng, khi chúng ta có cùng thao thức giống như Chúa, nghĩa là mong muốn cho mọi người được gia nhập vườn nho của Chúa, hăng say tìm kiếm mọi người để họ được sống trong Hội Thánh của Chúa, luôn cầu nguyện cho mọi người sớm tìm gặp Nước của Thiên Chúa là hạnh phúc viên mãn. Sau cùng lòng quảng đại của chúng ta sẽ trở nên vô biên, khi đời sống của chúng ta thuộc về Chúa, tình yêu của chúng ta không bao giờ lìa xa tình yêu của Chúa. Chính tình yêu Chúa sẽ biến đổi chúng ta trở nên một con người mới, đó là người luôn thao thức dấn thân giới thiệu Nước Trời và làm cho người khác đón nhận Nước Trời. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tách rời khỏi tình yêu của Chúa. Ước gì cuộc sống của chúng ta sẽ là chuỗi ngày được hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Ước gì tâm tình của Thánh Phaolô trong bài đọc hai hôm nay được ứng nghiệm trong cuộc đời của chúng ta: “Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi” ( Pl 1, 20).
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.
Trầm Thiên Thu
Đại nhân Mahatma Gandhi xác định: “Luật lệ không công bằng thì tự nó đã là một dạng bạo lực.” Công bằng liên quan con người, Brian Tracy phân tích: “Bạn sẽ HỐI TIẾC rất nhiều điều trong đời, nhưng bạn sẽ KHÔNG BAO GIỜ HỐI TIẾC vì đã quá tốt hoặc quá công bằng.”
Tay làm, hàm nhai; tay quai, miệng trễ. Đó là tất yếu. Thật vậy, Thánh Phaolô nói: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!” (2 Tx 3:10) Đó là công bằng. Lao động chân chính là dùng sức mình để làm việc có mục đích (tốt) và có ý thức. Lao động không chỉ là cách mưu sinh mà còn là cách trau dồi sức khỏe, đặc biệt là tránh dịp tội: “Nhàn cư vi bất thiện.” Lao động chân tay hoặc lao động trí óc đều cần thiết, có giá trị nhất định, không ai hơn ai. Mỗi người một việc để bổ túc lẫn nhau. Chỉ có lòng người xấu và hèn hạ, không có nghề xấu, nghề hèn.
Làm việc gì cũng phải chịu khó, chứ đừng khó chịu. Người chịu khó lao động là người biết tự trọng, không ỷ lại vào người khác, tức là không ích kỷ, là một dạng phục vụ, và cũng là cách giúp đỡ người khác. Những người lười biếng là một dạng bóc lột sức lao động của người khác, cướp công sức của người khác.
Ngày 15-05-1891, ĐGH Lêô XIII (1810-1903) đã năm ban hành Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự) liên quan giới lao động, thông điệp này vẫn còn giá trị ngày nay. Ngày 14-09-1981, dịp kỷ niệm 90 năm ban hành Thông điệp Rerum Novarum, ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005) đã ban hành Thông điệp Laborem Exercens (Lao Động của Con Người), đề cập vấn đề Tin Mừng trong sự lao động và trong công việc. Điều đó cho thấy sự lao động là hoạt động quan trọng, cả thể lý và tâm linh, vì Chúa Giêsu cho biết: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5:17) Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua cách hoạt động của Ngài: Lao động 6 ngày, chỉ nghỉ 1 ngày cuối tuần. (x. St 1:1-31 – 2:1-3)
Công việc có liên quan luật lệ, đặc biệt là luật của Chúa. Có câu chuyện kể rằng…
Có hai người tên Tốt và Lành nói chuyện với nhau về công việc đời thường và tinh thần. Anh Tốt chê anh Lành về việc giữ ngày Chúa Nhật – cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ,… Anh Lành cười và đặt vấn đề:
– Này nhé, nếu tôi có 7 đồng, tôi ra đường và gặp một người ăn mày, tôi cho anh ta 6 đồng, anh nghĩ sao?
– Ôi, anh thật là đại lượng, đáng khen, còn người ăn mày kia chắc phải cảm ơn anh lắm.
– Đúng vậy. Thế nhưng người ăn mày kia lại đè tôi xuống để lấy nốt một đồng nữa. Vậy anh nghĩ sao?
– Cái thằng khốn nạn thật. Nó đáng chết!
– Đó là chuyện giữ ngày Chúa Nhật đấy. Anh cứ nghĩ coi: Chúa cho anh 6 ngày để làm việc, Ngài chỉ giữ lại cho Ngài một ngày là Chúa Nhật. Thế mà anh không biết ơn Chúa, không tôn trọng ý Ngài, lại còn dám cướp cả ngày Chúa Nhật. Động thái của anh có khác thằng vô ơn, độc ác và khốn nạn kia không?
Có thể câu chuyện này cũng là vấn nạn của chúng ta, bởi vì chúng ta thường có nhiều lý do để thoái thác và biện hộ cho chính mình, và theo ý mình.
Làm việc gì cũng mệt, không thể thoải mái. Chơi nhiều còn mệt kia mà. Nhưng khi lao động, chúng ta tự hoàn thiện mình qua việc tìm kiếm Chân-Thiện-Mỹ, tức là đi tìm chính Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài là Đấng chí thiện. (x. Mc 10:18) Thật vậy, ngôn sứ Êdêkien đã từng nhắn nhủ: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.” (Is 55:6) Ở dưới bầu trời này, cái gì cũng chỉ có một thời mà thôi. (x. Gv 3:1-8) Giờ Thương Xót sẽ đến lúc kết thúc. Vì thế, đừng lần lữa kẻo không kịp: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.” (Is 55:7) Đợi nước đến chân mới nhảy thì sẽ không kịp, thời gian cứ lặng trôi và đang dần thu ngắn lại. Chắc chắn có tận thế, và cái chết của mỗi người rất bất ngờ.
Hãy quyết tâm, đừng lần lữa, đừng chần chừ, đừng ngần ngại, và đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đã hứa: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban.” (Tv 91:15-16) Ngài không chỉ lắng nghe và đáp lại, mà Ngài còn ban cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta ước muốn. Thật là trên cả tuyệt vời, chắc chắn chẳng có thần linh nào ngoài Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, vì Ngài là Thiên Chúa duy nhất. (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Kn 12:13; Is 43:10-13; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20)
Là thụ tạo, là phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu hết lòng thương xót của Thiên Chúa, ngay cả tình mẫu tử của người mẹ trần gian mà chúng ta còn chưa hiểu hết huống chi tình yêu Thiên Chúa. Chính Ngài xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55:8-9) Hạt bụi phàm nhân quá bé nhỏ, li ti như loài vi trùng vậy.
Ngày xưa, người ta so sánh điều không tưởng với chuyện lên cung trăng, tức là không thể xảy ra. Nhưng ngày nay, người ta đã có thể lên cung trăng, có thể bay lượng trên bầu trời, nhưng đó chỉ là một góc nhỏ của trời mà thôi. Khoa học tiến bộ, người ta tìm mọi cách để khám phá bầu trời, nhưng càng khám phá thì người ta càng thấy thăm thẳm, còn nhiều nơi người ta không biết là gì nên gọi là “lỗ đen” – chỉ thấy tối thui. Đành chịu thua!
Thiên Chúa toàn năng, siêu việt, chúng ta chỉ còn biết xưng tụng Ngài: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu.” (Tv 145:2-3) Càng tìm hiểu vũ trụ, người ta càng nhận biết Thiên Chúa. Càng tìm hiểu Thiên Chúa, chúng ta càng kính thờ và tạ ơn Ngài. Đó chính là hành trình đức tin, là quá trình lao động tâm linh.
Tuy cao vời khôn ví, nhưng Ngài lại giàu lòng xót thương đối với mọi người, ai càng yếu thì Ngài càng thương: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.” (Tv 145:8-9) Đúng như Thánh Phaolô đã xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5:20) Nếu vấp ngã, hãy vững lòng tin và đứng dậy ngay!
Thiên Chúa vô tiền khoáng hậu, vô thủy vô chung, và yêu thương vô bờ bến, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.” (Tv 145:17-18) Vấn đề không phải là tội nhiều hay tội ít, vì ai cũng là tội nhân, chẳng ai hơn ai, nhưng vấn đề cần thiết là chân thành sám hối: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9:13) Ngài thực sự chỉ muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ. (x. Hs 6:6) Ước gì không ai trong chúng ta phải nghe lời “nói nặng” của Chúa: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mt 15:8; Mc 7:6)
Câu châm ngôn của dân Pháp rất độc đáo: “Đừng vì yêu mến Chúa mà chống đối người khác.” Vào thời Thánh Phaolô, có những kẻ rao giảng về Đức Kitô chỉ vì lòng ganh tị và tranh chấp, nhưng cũng có những người làm điều đó vì ý ngay lành, làm vì bác ái và bênh vực Tin Mừng. Lại có những người loan báo Đức Kitô vì tính ưa tranh giành, không có lòng ngay. Nhưng Thánh Phaolô vẫn bảo là “không sao,” chỉ cần Đức Kitô được rao giảng. Thánh Phaolô mừng vì điều ấy sẽ giúp ngài đạt được ơn cứu độ nhờ Thần Khí của Đức Giêsu Kitô phù trợ.
Cuối cùng, Thánh Phaolô nói: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi.” (Pl 1:20-21) Thánh nhân lý giải: “Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em.” (Pl 1:22-24) Vấn đề là miễn sao có lợi cho Thiên Chúa, tức là để “tuân phục Thánh Ý và vinh danh Chúa” mà thôi. Cũng vì thế mà Thánh Augustinô ước nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Biết Chúa là chân nhận chỉ một mình Ngài nhân lành và giàu lòng thương xót để mà tôn thờ Ngài hết linh hồn, hết sức lực; biết mình là tự ý thức yếu đuối và tội lỗi để mà khiêm hạ, quên mình.
Đại nhân Mahatma Gandhi rất thích Tám Mối Phúc của Chúa Giêsu, ông gọi đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nhân loại. Ông có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động theo tinh thần của Đức Kitô. Ông đã từng xác nhận thẳng thắn: “Tôi yêu mến Đức Kitô nhưng tôi không phục các Kitô hữu.” Tại sao? Có lần ông vào một nhà thờ Công giáo và thấy bảng ghi: “Cấm người da đen vào nhà thờ.” Ông liền quay ra và không bao giờ đến nhà thờ nữa. Là Kitô hữu, là môn đệ Chúa Giêsu và là con cái Thiên Chúa, chúng ta vô cùng xấu hổ, bởi vì chúng ta bảo người ta yêu thương mà chính mình lại kỳ thị người khác, chỉ lẻo mép nói suông mà không thực hiện. Nước Chúa chưa rộng mở là lỗi của chúng ta: “Lỗi tại tôi mọi đàng!”
Đối với cộng đoàn Philíp, Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô. Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung MỘT tinh thần, MỘT lòng MỘT dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em.” (Pl 1:27) Và đó cũng là lời khuyên dành cho chúng ta hôm nay.
Ai cũng là người lao động vì mỗi chúng ta đều là “người thợ làm vườn nho” cho Chúa. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là đừng so đo, ganh tị, liếc xéo, mỉa mai, bè phái,… Sự công bằng vừa đáng mừng vừa đáng sợ: đáng mừng vì Chúa không chấp tội, đáng sợ vì chúng ta cố chấp. Sự sống và sự chết lúc đó mang tính đời đời. Phúc và họa không thể thay đổi. Vấn đề đó được đề cập trong dụ ngôn “ông nhà giàu và Ladarô nghèo khó.” (Lc 16,19-31)
Sau khi nói về phần thưởng dành cho ai biết buông bỏ mọi sự để nhẹ bước theo Ngài, Đức Giêsu kết luận: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.” (Mt 19:30) Sự hoán vị trái ngược, rất đáng quan ngại. Rồi Ngài kể câu chuyện này: Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, rồi giờ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Với ai ông cũng bảo: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” (Mt 20:4)
Nắng nhạt, chiều buông, ông chủ bảo người quản lý gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất. Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn ông chủ bất công, họ so kè việc họ đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, nắng nôi thiêu đốt, thế mà chẳng hơn gì người vào làm muộn.
Rạch ròi và thẳng thắn, ông chủ trả lời cho một người trong đám thợ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20:13-15) Trong cuộc sống, ngay cả trong vấn đề tâm linh và bác ái, cái tôi luôn nổi dậy, thế nên chúng ta vẫn thường so đo đủ thứ, “ngụ ý” rằng mình nổi trội hơn người khác. Giả sử Chúa Giêsu cũng đặt vấn đề như vậy với chúng ta như vậy thì chắc hẳn chúng ta chỉ có “câm như hến” mà thôi. Người ta gọi người đó là “Pathological Narcissist” – Người Tự Ái Bệnh Lý, nghĩa là tự yêu mình thái quá hóa thành bệnh lý. Bệnh gì cũng phải điều trị ngay.
Khi há miệng thì mắc quai nón. Vướng víu lắm. Càng nói càng dở, càng nói nhiều càng liều lĩnh, càng lý luận càng đuối lý. Nói nhiều thì sai nhiều. Chúa Giêsu thấy họ im re nên Ngài lặp lại và nhấn mạnh: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 20:16) Cứ chảnh như vậy thì công sức lao động trở thành công cốc. Phí đời!
Chính Chúa Giêsu không ngừng mời gọi mọi người tin vào Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất để được trường sinh bất tử, nhưng chỉ ít người được chọn. Động từ “chọn” ở đây không là “thích ai thì chọn,” mà là tùy quyết định riêng của người được gọi với đầy đủ quyền tự do. Sự tự do này do Thiên Chúa ban, có thể hữu ích hoặc bất lợi cho chúng ta, tùy thuộc ý muốn của mỗi người, Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng quyền tự do này. Đó là sự công bằng, vì thế chúng ta không thể biện hộ bất cứ lý do gì.
Có phải là nhiều người không được vào Nước Trời? Rất có thể, vì người ta bướng bỉnh và cố chấp. Đó là lỗi của chúng ta chứ Thiên Chúa thực sự muốn mọi người được hưởng phúc trường sinh với Ngài, không muốn bất cứ ai phải hư mất, bị trừng phạt. Mối nguy là chúng ta ỷ lại, tự cho mình là tốt lành hơn người khác, mạo nhận là đạo đức, thánh thiện và công chính, để rồi “liếc xéo” tha nhân, cho rằng họ là người tội lỗi, xấu xa, thế nhưng chính họ lại có Visa Nước Trời trước chúng ta. (x. Mt 21:31-32) Thế thì thật khốn thay!
Thánh Thomas Aquino cho biết: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ. Nhận ra những ai là người mà chúng ta phải tránh là phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.”
Lạy Thiên Chúa chí công, xin tăng lực để chúng con kiên trì miệt mài làm việc, xin giúp chúng con biết quên mình, khiêm nhường dấn thân, hết lòng phục vụ vì yêu mến. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lm. Jos DĐH.
“Đại Việt sử ký toàn thư” ghi nhận, cha ông chúng ta bằng sức mạnh “thuỷ chiến”, đã 3 lần chiến thắng giặc ngoại xâm tại Sông Bạch Đằng, thuộc Quảng Ninh, Hải Phòng. Tên tuổi các ngài sẽ còn mãi mãi lưu danh hậu thế: Ngô Quyền (938) – Lê Hoàn (981) – Trần Quốc Tuấn (1288). Tuy không để lại lời căn dặn cụ thể, chi tiết, tiền nhân, bậc sinh thành chúng ta, các ngài đều có ý nhắc nhớ hậu duệ: cha là anh hùng, con phải hảo hán, con hơn cha, nhà mới thực có phúc. Rất nhiều người hôm nay, thích dùng câu thành ngữ: thần giao cách cảm, như muốn khẳng định “phúc lộc” của tổ tiên, sự hiện diện của đấng bậc sinh thành, dù đã khuất, tình yêu của các ngài vẫn mãi ở bên con cháu, là có thật, xin đừng lãng quên.
Nhớ và quên là cảm xúc nơi con người, nếu buông bỏ lý, sẽ thấy tình bao la rộng lớn, nếu nhớ thân phận ta mong manh, nay còn mai mất, ta cần phải sống tốt, để thấy, để biết, mọi người là anh chị em, có chung cội nguồn yêu thương, xin hãy khắc ghi vào tâm trí. Lời mời gọi đi làm vườn nho, cách diễn tả về tình yêu thương luôn hiện hữu nơi cuộc đời này, là sự thật, ai cũng có cơ hội nhận biết Thiên Chúa quảng đại với từng hoàn cảnh. Tình yêu “không bờ bến” được cụ thể hoá, từ sáng sớm đến chiều tà, kẻ trước người sau đều có cơ hội làm việc, cuối ngày, tiền thù lao họ nhận đầy đủ. Cách cư xử đầy nhân ái là thế, dù thất nghiệp, dù túng nghèo, họ đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, cuộc sống càng khó khăn đau khổ, cánh cửa hạnh phúc ở phía trước càng lộng lẫy.
Người xưa có câu: nhiệm vụ quan trọng nhất của nền văn minh nhân loại, đó là mỗi người phải biết tư duy, ý thức mình được yêu thương. Khi dắt các học trò đi vào tình huống dụ ngôn, Đức Giêsu giới thiệu “ông chủ vườn nho” có một không hai, tiền công tiền thưởng luôn sòng phẳng theo thoả thuận, giầu nghèo, chức vị hay cùng đinh, đều đáng dự phần với gia chủ. Ai có thể quên, khi đói được ăn, khát được uống, cần việc làm, tức thì gặp được gia chủ tốt bụng, làm sao các học trò lại không thương nhớ Vị Thầy nói hay làm giỏi, chân thành trong yêu thương phục vụ, tế nhị trong hoà giải. Đúng, quên và nhớ, ganh ghét và yêu thương, đối nghịch nhau, vì thế mà con người luôn cần một trọng tài công minh hoá giải. Đức Giêsu luôn mong ước những ai là môn đệ của Ngài, hãy khiêm tốn học hỏi và thực hành bài tập: muốn không ganh ghét anh chị em, đừng bao giờ để Chúa xa khỏi lòng mình.
Trong đạo đức, trong nghệ thuật, vấn đề được công chúng đón nhận, không phải là ở lời nói mới lạ, mà hệ tại ở việc làm xuất phát từ trái tim và khối óc thật tỉnh táo. Được gọi đi làm vườn nho là vui rồi, vấn đề không phải là tiền công nhiều hay ít, mà là hạnh phúc vì gặp được gia chủ tốt bụng. Được làm môn đệ Đức Giêsu, các học trò không phải nhiệt tình theo chiều hướng: thiên lôi chỉ đâu đánh đó, vì nói hay không bằng nghe giỏi, sự trưởng thành tuỳ thuộc có liên đới hiệp thông với “sư phụ” mình thế nào. Con người giới hạn, mấy ai đủ tinh tế mà nhận biết đâu là ông chủ tốt bụng, có giọng nói ngọt bùi và cách cư xử đầy tình nhân ái ? Con người có thể nhớ ơn và đền ơn những ai thương yêu mình, nhưng đâu phải ai cũng nhớ lời răn dạy: ai mà phụ nghĩa quên ơn, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Lòng biết ơn, sống quảng đại, hài lòng với những gì mình đang có, bao giờ cũng là điều ghi nhớ cần thiết cho việc thực hành yêu thương. Tất cả vì yêu, từ giờ thứ nhất đến giờ thứ 11, ông chủ vẫn ra đường tìm kiếm thợ vào làm vườn nho, vì muốn mong xã hội này, thế giới này, không ai phải phàn nàn xã hội thiếu thầy, thừa thợ. Trường đời luôn là chuỗi ngày giúp ta học, hiểu, và sống có tình có nghĩa. Những tư tưởng cao thượng, chỉ có thể toả sáng từ trái tim rộng lớn, những ân tình nặng trĩu, chỉ đến từ lẽ phải. Vì chưa hiểu công bằng yêu thương là giầu vật chất phải chia sẻ, nếu nhiều tài hay lắm đức, người ta phải có nghĩa vụ giúp nhau, cùng tiến tới bàn tiệc thiên quốc.
Đạo làm người vẫn khơi dạy điều hay lẽ phải, giúp ta sống đẹp, sống đúng, với bản thân và tha nhân: vật chất khó vay, ân tình khó trả, bạn bè dễ kiếm, còn tri kỷ thì khó tìm. Ông chủ trả tiền công cho mỗi người làm vườn nho theo thoả thuận, ông sẽ không chấp nhận, nếu cả đời người thợ cứ nông cạn như đứa trẻ con, xin đừng quên, hành trình đời người phải là quảng đại yêu thương. Mong ước được học, được hiểu, là tốt, khao khát hạnh phúc là đúng, xin ơn khôn ngoan, xin cho tâm trí dồi dào tình yêu, là hoàn toàn chính xác. Đức Giêsu sẽ vui, khi mỗi chúng ta là những môn đệ trưởng thành, sẽ không quên cùng Chúa học – hành, nhớ cùng Chúa sống quảng đại yêu thương, nhớ cùng Chúa duy trì và phát triển vườn nho Nước Trời. Amen.
.
VÀ SỰ ÍCH KỶ CỦA CON NGƯỜI
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con người. Chúng ta thường có thói quen “suy bụng ra bụng của Thiên Chúa”, có nghĩa là chúng ta thường gán cho Thiên Chúa những cách xử sự nơi thế giới nhân loại, cũng hận thù và tiểu nhân. Từ đó, chúng ta phàn nàn kêu trách Chúa khi đau khổ thiếu thốn. Tệ hơn, nhiều lúc chúng ta phê phán Chúa vì Ngài tốt bụng với người khác. Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I). Những lời này cho thấy chúng ta phải có cái nhìn rộng lượng hơn trong cách đối xử với tha nhân, đồng thời phải thận trọng trong những suy tư về lòng bao dung của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé mọn. Trong khi đó, nhiều người Do Thái, đặc biệt là người Biệt phái và các luật sĩ lại ghen tỵ vì Chúa Giêsu đi lại giao du với những người tội lỗi và những hạng bần cùng. Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” mà Chúa Giêsu kể, nhằm diễn tả lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người. Nếu Thiên Chúa là Đấng rộng rãi bao dung, thì con người lại quá nhỏ nhen ích kỷ. Những người thợ đã làm từ đầu ngày ghen tương trước lòng tốt của ông chủ, trong khi đó, ông chủ vẫn làm đúng điều ông đã cam kết. Ông không hề làm cho họ bị thiệt hại. Họ ghen tương một cách vô lý, chỉ vì ông chủ tốt với người khác. Thái độ của những người này làm chúng ta liên tưởng đến người con cả trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được Chúa nói trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15,25-32). Anh ghen tương và phẫn nộ vì cha mình xử tốt với đứa em khi nó đi hoang trở về. Đó cũng là thái độ của chúng ta, khi muốn Chúa phải xử theo ý muốn hẹp hòi của mình.
Khi khiếu nại và phàn nàn trách móc ông chủ, những người thợ dựa theo lý lẽ công bằng theo kiểu người đời, tức là người làm nhiều thì hưởng nhiều mà người làm ít thì hưởng ít. Tuy vậy, nơi Thiên Chúa không chỉ có công bằng, mà còn có tình thương. Đối lại với lời phàn nàn trách móc, ông chủ đã trả lời: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Qua hai câu hỏi này, ông chủ muốn phê phán những người thợ tự cho mình là đáng giá hơn người khác, để dựa vào đó mà phản đối lòng tốt của ông chủ. Người chủ vườn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng bao dung nhân hậu. Ngài sai Con Một là Đức Giêsu đến trần gian để sống gần với họ. Điều này làm những người tự coi là “công chính” không hài lòng. Bởi lẽ, theo suy nghĩ của họ, chỉ có họ là được Chúa yêu thương. Việc Chúa Giêsu gần gũi những người thu thuế và những người tội lỗi được họ coi như một thiệt thòi đối với họ, vì thế mà họ nổi loạn và trách móc phàn nàn. Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời. Họ là những người không ai thuê, mặc dù vào giờ thứ mười một, tức là đã xế chiều. “Không ai mướn chúng tôi!”. Lời này đã diễn tả tình trạng bi đát và khốn khổ của họ. Không ai mướn, tức là ngày đó không có lương, và như thế, cả vợ con và gia đình họ cũng không có gì sống. Ông chủ vườn nho là người thấu hiểu điều đó. Vì vậy, ông trả lương cho họ giống như những người đã làm từ sáng. Đó là đồng lương của lòng nhân hậu.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng nhân hậu đối với con người, không phân biệt sang giàu hay đẳng cấp xã hội. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: “Đâu là thái độ của tôi đối với anh chị em đồng loại?”. Vì Thiên Chúa nhân hậu bao dung, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối và bỏ đường tà, đoạn tuyệt với quá khứ, thay đổi con tim và canh tân cuộc sống: “Hãy trở về với Chúa – và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta vì Ngài rộng lòng tha thứ” (Bài đọc I).
Những lo toan bận tâm thường ngày không cản trở chúng ta tìm kiếm Nước Trời. “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” – Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy. Đối với thánh nhân, sự sống hay sự chết chẳng là một điều bận tâm, vì đối với những ai yêu mến Chúa thực sự thì họ chắc chắn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Lòng mến Chúa yêu người sẽ thôi thúc chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương” (Bài đọc I).
Chúa là chủ vườn nho bao dung nhân hậu. Tuy vậy, chúng ta không dựa vào lòng nhân hậu của Chúa mà trễ nải khi được mời gọi vào vườn nho của Ngài. Những người thợ được nêu trong Tin Mừng, khi được mời, đều sẵn sàng nhận lời. Vì vậy mà họ đáng được thưởng công. Vườn nho của Chúa là Giáo Hội, nơi mỗi người tìm thấy bầu khí gia đình thân thương. Vườn nho của Chúa chúng là cuộc đời, nơi chúng ta được sai đến để làm chứng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ nhận ra giá trị của cuộc sống, nhất là niềm vinh hạnh vì được làm con cái Chúa.
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt.
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:
1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Ở đời thường “đứng núi này trông núi kia”. Con người vì quá tham lam nên luôn muốn hơn người khác. Sự hơn thua thể hiện qua việc ganh đua, ganh ghét, đôi khi làm hại lẫn nhau.
Có cô gái nọ, ngoại hình xinh xắn, yêu một chàng trai hiền lành nhưng lại chẳng bao giờ biết bằng lòng với cuộc sống của mình. Hễ thấy có ai đó được người yêu tặng một món quà đắt tiền, là cô chạy về nũng nịu làm khổ người yêu. Hay vô tình nhìn ảnh ai đó được đi du lịch nhiều nơi, là cô lại giận dỗi chàng vì không có điều kiện đáp ứng cho mình.
Rồi từ ghen tị, cô chuyển sang gièm pha, nói xấu sau lưng từng bạn gái. Bởi cô cho rằng những người kia đâu có xinh, dịu dàng hay đặc biệt như mình mà lại nhận được những điều hơn mình. Để rồi sau cùng, tình bạn mất đi mà tiếng tăm cô cũng chẳng còn được đẹp đẽ gì nhiều. Tình yêu, đương nhiên cũng vì sự đố kị mà lung lay.
Vì ghen ghét mà con người gây nên cho nhau biết bao thị phi. Xem ra ở đời rất nhiều lần chúng ta cũng là nạn nhân của sự ghen ghét. Chúng ta cũng bị những tiếng xấu ở đời mà mình không hề có. Chúng ta cũng từng đau khổ vì những lời dèm pha đầy độc ác. Nhưng đáng tiếc, sự ghen ghét, đố kỵ hầu như có mặt ở mọi nơi. Sự ghen ghét có thể ở trong mọi thành phần, mọi giai cấp. Trong xã hội và cả trong tôn giáo. Sự ghen ghét thể hiện rất rõ trong những lần trà dư tửu hậu. Trong các quán café. Trong những quán cóc ven đường. Khi có vài người tụ tập thường là có sự ghen ghét nảy sinh. Vì dường như ai cũng có tính ghen ghét người khác hơn là khâm phục, khích lệ lẫn nhau.
Chúng ta đã từng chứng kiến khi ai đó bàn luận về một người vừa đẹp, vừa tài năng lại vừa hạnh phúc, thì sẽ có ngay kẻ phán rằng, hạnh phúc đó là tạm thời, giả tạo. Và rồi, là tìm hiểu, moi móc, rêu rao khiếm khuyết của họ.
Có những người trời ban cho nhan sắc đẹp thì vẫn có người ghen ghét bảo rằng nó xấu nết chẳng ra gì! Có những người tuổi trẻ thành công liền có người dè bửu bảo rằng chỉ là chạy chức chạy quyền có hay ho gì. Có những người sống rất độ lượng quan tâm chia sẻ đến mọi người thì vẫn bị tiếng xấu là giả hình, đánh lừa nhau thôi.
Xem ra sự ghen ghét ở mọi nơi trong mọi chốn. Sự ghen ghét khiến chúng ta không muốn người khác bằng mình và đương nhiên không bao giờ chấp nhận người khác hơn mình. Đôi khi còn đạp đổ để ai đó không có cơ hội phát triển thêm.
Hôm nay, Chúa trách những người làm công vườn nho: “chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là các ông vì thấy tôi tốt bụng mà đâm ra ghen ghét?
Chúa trách là đúng. Vì ai Chúa cũng ban cho dư đầy, nhưng lại không muốn người khác được phần bằng mình. Khi tính ích kỷ ghen ghét đã lấn át. Cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân. Ai cũng cần cuộc sống được khá hơn, được thoải mái hơn, nhưng chúng ta lại không cầu mong điều tốt đến với anh em mà đôi khi còn dèm pha và đạp đổ .
Thiên Chúa thì không như vậy. Tình yêu của Chúa vượt qua mọi tính toán thiệt hơn của con người. Ngài không ban phát theo lẽ công bằng mà do lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài ban phát cho người thợ giờ thứ nhất cũng bằng người thợ thứ mười một, miễn là họ đã hoàn thành công việc được giao, với tất cả trách nhiệm và thiện chí của mình.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích kỷ nhỏ nhoen thường tình. Amen.
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan.
Tiền quý thật nhưng quý hơn nữa nếu gói cả tấm lòng.
Thời Chúa Giêsu, một đồng có giá trị một ngày lương. Với lòng tốt của Chúa, một đồng có giá trị lớn hơn rất nhiều nữa, nếu học được bài học của lòng tốt.
Một đồng đúng giá.
Khi có ghen tỵ, một đồng chỉ có giá đúng một đồng.
Người làm từ sáng sớm đến người làm giờ cuối, mỗi người được phát một đồng từ người đến sau hơn hết. Cách thử này, Chúa đã làm bộc lộ ra nhiều tâm tư của nhiều người. Người đến từ giờ thứ nhất, cũng như ngững giờ đầu, đều nghĩ mình sẽ được nhiều hơn, vì điều chính đáng đã làm được nhiều giờ hơn. Nhưng họ cũng chỉ lãnh có một đồng và một đồng không hơn không kém giá trị một ngày lương.
Một đồng, chỉ là một đồng không hơn, không kém. Công sức bỏ ra chỉ nhận lại là giá của công sức, không gì hơn. Đó là những gì buồn tẻ trong cuộc đời, con người của ghen tỵ chỉ nhặt lại về mình những ghen tỵ mà không sao ra khỏi nỗi buồn chán của một ngày sống. Khi không có tấm lòng, con người chỉ sống niềm vui tạm bợ bằng giá của một ngày lao công nặng nhọc.
Giá thật của một đồng.
Không chỉ là một đồng mà còn nhân lên nhiều lần bởi tấm lòng. Có nhiều gương sáng để soi chiếu.
Lula xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khó. Thưở ấu thời, ông đi bán đậu phộng, đánh giầy ở những nơi phố chợ. Một hôm đi đáng giy cùng hai người bạn. Gặp một vị khách giàu có có ý định đánh giầy, nhưng lại không biết chọn ai.
Ông nói: Ai cần tiền nhất tôi sẽ trả cho hai đồng. Hai dồng thời ấy cũng lớn như hai ngày công.
Cả ba tròn xoe đôi mắt, hai người kia đều kể về hoàn cảnh nghèo khó của mình và đã mấy bữa nhịn ăn.
Lula đề nghị: Xin ông cho tôi đánh giầy, tôi sẽ chia cho hai người bạn tôi, mỗi người một đồng. Lời đề nghị quá tốt, ông nhà giàu đồng ý.
Vài ngày sau, ông nhà giàu kia tìm đến Lula và nhận ông vào làm công, dù tiền công không nhiều nhưng cũng ổ định hơn đi đánh giầy. Lula nghĩ rằng, nờ lòng tốt mà mình có thêm cơ hội khác tốt hơn một đồng.
Sau này, Lula chính là Luiz Inácio Lula da Silva đó là tên của tổng thống Brazil nhiệm kỳ 2002 – 2010 với châm ngôn “Giúp đời”.
Giá một ngày lương.
Một đứa trẻ trong gia đình, ít khi nào được bố ở nhà để cùng đi dã ngoại cùng gia đình. Chỉ có mẹ dẫn đi đây đó mà không có bố. Đứa trẻ dành tiền tiết kiệm bỏ heo mỗi khi có chút tiền.
Một hôm nó hỏi bố: Bố ơi, một ngày lương của bố, bao nhiêu hả bố?
– Bố nó hỏi lại: con hỏi làm gì?
– Con hỏi để con có thể trả lương cho bố hai ba ngày để cả nhà cùng đi dã ngoại đây đó. Bố chẳng mấy khi bỏ việc để đưa gia đình đi, con muốn có bố và mẹ.
Ông bố rất ngạc nhiên: À! Bố xin lỗi con và mẹ con, đôi công việc làm bố quên mất, bố có một gia đình còn quý hơn tiền bạc.
– Vậy cuối tuần này đi hả bố?
– Cuối tuần đi, bố sẽ đưa cả nhà đi ba hôm để chuộc lỗi..
Cái giá của lòng tốt.
Lòng tốt là một gia tài ai cũng có, chỉ có điều biết dùng lòng tốt ấy để nâng giá trị cuộc sống lên hay không? Lòng tốt như một hạt giống tốt gieo vào lòng người khác. Lòng tốt là một câu nói, là một cử chỉ, là một cách nghĩ… một ngày nào đó bất ngờ, hạt giống ấy có thêm nhiều bông hạt tốt khác. Mark Twain đã từng nói: “Lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy”.
Giá của một đồng không đo bằng vật chất mà chính tấm lòng đã làm cho một đồng trở nên ý nghĩa. Chúa Giêsu dạy về lòng tốt, cũng chính là nhận ra lòng thương xót của Chúa nơi mình để ra đi thực thi lòng thương xót ấy với anh chị em. Gieo trồng lòng tốt cũng chính là mang Chúa đến với mọi người.
.
Bông hồng nhỏ
– Các chị cấy lúa một ngày thì lấy công bao nhiêu?
– Thế anh tính thuê chúng tôi bao nhiêu?
– Một người một trăm năm chục ngàn một công.
– Ít quá. Trả hơn đi. Chúng tôi cấy một ngày ít cũng hai trăm ngàn một công.
– Vậy thì khoán theo sào vậy? Ruộng nhà tôi nhiều. Tôi thuê mấy chị cấy luôn tám sào.
– Tám sào thì sáu trăm ngàn một người. Các chị có ba người thì phải cấy xong tối đa trong ba ngày.
Người ta đi làm thuê cốt kiếm thêm đồng ra đồng vào. Người muốn thuê nhân công cũng phải lựa người, thương lượng tiền công và trả công cách sòng phẳng. Hôm nay, bài Tin Mừng kể câu chuyện về một gia chủ kia vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm vườn nho. Thuê thợ từ sáng sớm thì chắc chắn ông sẽ có quyền chọn lựa, sự thương lượng cũng dễ dàng hơn. Ông thỏa thuận với họ là mỗi ngày một quan tiền. Giờ thứ ba ông lại trở ra, gặp mấy người đứng không ngoài chợ, ông thuê họ vào làm vườn nho. Cũng có thể giờ này công việc phát sinh khá nhiều nên số lượng thợ dự tính không đủ nên ông phải đi thuê thêm thợ. Giờ này tuy đã khá muộn, nhưng tiền công sẽ tính theo thời gian làm việc và lượng sản phẩm, nên số thợ này sẽ hưởng lương ít hơn. Đến giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng thuê thêm mấy người khác nữa. Người gia chủ lại trở ra và gặp những người “không ai thuê”, ông lại thương tình gọi họ vào vườn nho. Ông thuê người ta chỉ vì ông thương họ. Những người này chắc hẳn phải có điều gì đó đặc biệt nên người ta mới không thuê. Có thể là trông họ ốm yếu, hay bị khuyết tật, cũng có thể là họ làm không có uy tín nên người ta “trừ ra”. Bây giờ đã là giờ thứ mười một rồi. Như vậy đồng nghĩa với việc số thợ này chỉ làm có một giờ. Chiều đến, ông bảo người quản lý tính tiền công để trả cho thợ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót, họ được lãnh một quan tiền. Những người vào làm trước thấy thế cũng mừng thầm, bọn họ vào làm sau mà đã được một quan tiền thì tôi là người vào làm trước chắc chắn sẽ được hơn thế. Anh quên mất rằng, từ ban sáng anh và gia chủ đã thỏa thuận là “một ngày một quan tiền.”. Thỏa thuận này có thể thay đổi vì có thể ông chủ thấy anh làm năng suất hoặc như số công việc tăng lên nên ông trả thêm. Sự thường là thế. Vậy mà các anh lại cũng chỉ nhận được một quan tiền, bằng với số tiền mà những kẻ đến sau chẳng phải vất vả đổ mồ hôi sôi nước mắt, chẳng phải chịu nắng nôi thêu đốt. Có gì đó không công bằng. Các anh so sánh và bất bình trước sự đối xử bất công của gia chủ. Khi hạnh phúc của ai đó chạm đến lòng tự ái của tôi thì làm sao tôi có thể chia vui với họ được. Trong khi tôi cố gắng hết sức để làm việc, cố gắng để thu gặt thành công mà người khác dường như chẳng phải bỏ bao nhiêu công sức, chẳng cần mấy sự cố gắng nhưng vẫn được trọng đãi, được thưởng hậu hĩnh như tôi, làm sao tôi chia vui với họ được. Quả thật, nếu ta quá yêu mình, quá coi trọng bản thân và luôn nghĩ “mình xứng đáng hơn” thì làm sao ta có thể vui với người vui được. Quả đúng là chia buồn thường dễ hơn chia vui. Không phải vì ta buồn cho nỗi buồn của ai đó cho bằng là ta mừng vì ít ra ta vẫn may mắn hơn họ nên khi chia buồn với ai đó ta dễ tỏ ra quan tâm và hỏi han. Khi người khác hơn mình, liệu ta có vượt lên trên sự ghen tỵ để chia vui với họ?
Thiên Chúa là Đấng công bình nhưng cũng là người Cha giàu tình yêu thương. Nước Trời dành cho tất cả những ai có trái tim bao la, yêu thương không tính toán và luôn biết đón nhận cả những người làm hại mình. Yêu thương đồng nghĩa với việc ta biết trân trọng người khác, không vì lòng ích kỷ, nhỏ nhen mà coi khinh thành công của người khác, không xem họ là kẻ thù.
Lạy Chúa! Con thường dễ yêu mình hơn yêu tha nhân. Lòng yêu mình quá đáng, luôn nghĩ mình ngon, nghĩ mình xứng đáng hơn người khác khiến trái tim và tâm hồn con bị méo mó. Xin cho con hiểu rằng, Thiên Chúa luôn công bình và yêu thương. Xin cho trái tim con luôn rộng mở và nhớ rằng: “Ai có Chúa thì không thiếu điều gì nữa. Mình Chúa là đủ rồi.” (Thánh Têrêsa Avila). Như thế, con sẽ không xem mình là trung tâm, nhưng luôn mở ra với Thiên Chúa và anh chị em. Thiên Chúa luôn thương xót hết mọi người. Amen.
.
Anna Cỏ may
“Lại đây tôi kể cho nghe
Đắng cay cái kiếp làm thuê cho người
Có ai chẳng muốn đổi đời
Bạn ơi tôi chịu những lời mỉa mai.”
(Kiếp làm thuê- Tác giả: Phạm Văn Long)
Đó là tâm tư của những người đi làm mướn. Họ phải đi làm từ sớm và về thật trễ mới được lương cao. Có khi, họ phải chịu đựng cả những lời mỉa mai. Nếu họ đi trễ chẳng ai thuê, có thuê họ cũng được tính theo giờ để trả lương. Cuộc sống hôm nay là vậy. Còn Chúa Giêsu lại kể cho chúng ta câu chuyện cũng nói về những người làm thuê, nhưng họ lại được đối xử với lòng xót thương. Họ không bị mỉa mai nhưng được tôn trọng.
Vườn nho đang cần người làm, và ông chủ đã ra ngoài thuê thợ từ sớm. Những người thợ đầu tiên được thỏa thuận một ngày một quan tiền. Còn người đến giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một cũng được ông thuê với sự thỏa thuận sẽ trả lương hợp lẽ công bằng. Ông chủ đã thực hiện đúng lời hứa. Khi kết thúc ngày làm việc, ông gọi những người làm sau hết đến lãnh mỗi người một quan tiền. Và những người làm giờ đầu cũng lãnh như vậy, khiến họ càu nhàu trách móc ông chủ (Mt 20, 2 -12). Chắc ai cũng thắc mắc tại sao ông chủ lại trả lương như vậy? Lẽ ra, ông phải trả lương cho những người làm sau ít tiền hơn chứ. Thật là một hành động kỳ lạ.
Mà quả thực có gì kỳ lạ đâu, ông là ông chủ mà, ông có quyền cho hay không cho. Ông cũng đã trả lương cho những người giờ đầu đúng theo thỏa thuận lúc vào làm. Còn những người làm sau, được một quan tiền vì ông thương xót họ. Ông đã thấy được nơi họ có sự chăm chỉ, có ý chí, kiên nhẫn, tràn đầy hy vọng và khao khát đi tìm việc, nên ông vừa trả lương vừa cho để động viên họ. Ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy hình ảnh ấy ngay trong đời sống hằng ngày. Đã có nhiều người từ miền quê lên thành phố xin việc. Cứ sáng sớm họ phải đến trước các cổng công ty để chờ nộp hồ sơ, hay đợi để được gọi vào phỏng vấn. Khi công ty này không được, họ lại nhanh chân đến các công ty khác xin việc. Và cứ như vậy, có người đã mất một tháng hay hai tháng, thậm chí cả năm để xin việc. Và khi xin được việc rồi, họ lại tận tâm với công việc. Còn sự càu nhàu của những người thợ đầu tiên được dựa trên nhận thức về “sự công bằng”. Thời gian họ làm dài hơn, khối lượng công việc nhiều hơn. Họ không nghĩ mình là một người làm thuê phụ thuộc vào ông chủ. Còn ông chủ thì có quyền, ông muốn cho ai thêm là tùy ông.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta cảm nhận về lòng thương xót của Ngài. Ngài muốn cho chúng ta biết Ngài là Đấng có quyền quyết định mọi việc, và hằng công bằng cũng chẳng thiên vị ai. Hội Thánh là vườn nho, những người thợ đầu tiên là những người có đức tin từ lâu hay còn gọi là đạo gốc. Còn những người thợ sau là người mới biết và bắt đầu đi theo Chúa. Ngài thấy nơi họ sự đơn sơ, thánh thiện, sống phó thác và có một đức tin mạnh, nên Ngài đã ban cho họ những ân sủng mà họ đáng lãnh nhận. Ngài muốn hòa hợp tất cả mọi người là một, cùng hưởng hạnh phúc, cùng xây dựng và làm phát triển Hội Thánh của Ngài. Mặt khác, Ngài còn muốn mọi thời, mọi thành phần và mọi lứa tuổi đáp lại tiếng Ngài một cách không chậm trễ. Ngài mong chúng ta phục vụ Thiên Chúa một cách quảng đại, không so đo, tính toán. Ngài mong muốn như thến, còn chúng ta thì cứ sống ganh tị, ích kỷ, tách biệt, và Ngài đã nói “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20, 16a).
Chúng ta cứ nghĩ mình theo Chúa lâu rồi, nhưng xem ra chẳng được bao nhiêu. Chúng ta sống với những hình thức bên ngoài, còn tâm hồn chúng ta lại trống rỗng. Chúng ta cứ phân biệt với người này người kia, mà không nhận ra rằng họ cũng là anh em mình, và là con cùng một Cha. Họ vẫn có khao khát để sống và được sống hạnh phúc. Họ còn chịu thiệt thòi là không nhận biết Chúa sớm hơn. Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta hãy sống con người của mình nhỏ bé lại, để những người xung quanh chúng ta lớn lên. Ca dao Việt Nam có câu “Lá lành đùm lá rách”. Vâng, chúng ta phải thương yêu nhau, yêu những người khổ hơn và kém may mắn hơn chúng ta, hãy cho họ những gì mình có, không nhất thiết phải là vật chất. Chúng ta phải trở nên những người thợ đích thực, trung thành với chủ và yêu mến anh em mình. Nhờ đó, Hội Thánh mới phát triển và bền vững trong Chúa Kitô. Vậy hiện tại chúng ta là những người thợ thế nào? Và Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra điều gì? Chúng ta hãy cùng với Chúa Giêsu trở thành những ông chủ nhân từ, và những người thợ đích thực trong cuộc sống.
Lạy Chúa, Ngài là một ông chủ có một không hai. Ngài luôn đồng cảm, thương xót những người nghèo khổ. Chúng con được Ngài yêu thương, nâng đỡ. Ngược lại, chúng con chẳng biết lại còn so đo tính toán, và tự biến mình thành những người thợ tham lam, ích kỷ và hay tính toán. Chúng con xin Chúa hãy cứu chúng con, và tiếp tục kiên trì với những người thợ vô dụng này, xin đừng bỏ rơi chúng con. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Nhật này, tác giả Tin Mừng muốn tiếp tục quảng diễn cho chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời. Sứ điệp sâu xa chính là ý muốn cứu độ phổ quát cả và nhân loại của Chúa Cha, nên mọi người đều được mời đến làm vườn nho của Chúa.
Điểm nổi bật trong dụ ngôn này là cuộc nổi loại của những người đến làm việc trước. Những người (thợ làm vườn nho) sống và làm việc vì Nước Trời, nhưng coi đó như một trách nhiệm nặng nề ( “chúng tôi chịu đựng nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày ” Mt 20,12) chứ không phải là hồng ân đến từ Thiên Chúa, tự coi mình như những tên đầy tớ xấu.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Tất cả chúng ta đều được Chúa mời gọi đi làm vườn nho của Chúa. Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7 ; Gr 2, 21 ; Ez 15, 4). Câu “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói : “Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta”.
Đi làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. Chúa Giêsu tự khẳng định mình: “Thầy là cây nho thật” (Ga 15, 1-5). Nên câu “Hãy đi làm vườn nho ta” còn có nghĩa là ” hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi” (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công : “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng” (Mt 20, 4). Có người hỏi : Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì ? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa “sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm” (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta : “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng “xtate” tiền cổ Hy lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra “điểm chính” trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu : “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình” (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người : “Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín”.
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng “không ai thuê”; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào “buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ ” đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng ” vào giờ thứ mười một” anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời : “Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta” (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình ; họ đi làm, nhưng “không ai thuê” (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta : “từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng”. Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn : ” Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? “
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn “tốt lành,” quảng đại và nhân đạo.
.
HÃY CHẤP NHẬN HIỆN TRẠNG CỦA MÌNH
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Việc so sánh người này với người khác dễ gây ngộ nhận, hiểu lầm và đưa đến nhiều điều không tốt đẹp mấy. Do đó, qua những bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy nhân loại, dạy chúng ta thái độ cần phải có đối với Thiên Chúa và đối với mọi người.
Tin Mừng cho thấy sự công bằng của Ông chủ bởi vì Thiên Chúa qua nhân vật Ông chủ đã hoàn toàn không thiên vị. Việc cam kết trả lương một đồng từ người làm việc ban sáng cho tới người việc giờ cuối cùng đã được những người làm công và Ông chủ thỏa thuận rõ ràng. Nên, ở đây không có sự mất công bằng vì người làm sau cũng như người làm trước. Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người, miễn là con người biết mở rộng lòng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Dân Do Thái xưa được Chúa chọn làm dân riêng của Ngài, họ lầm tưởng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho họ, nhưng thực tế, ơn cứu độ trải rộng cho mọi người. Bài Tin Mừng này cho thấy, đối với Thiên Chúa, chúng ta phải cảm tạ tri ân Ngài vì muôn vàn hồng ân Chúa đã tuôn đổ trên chúng ta. Những người thợ làm công trong vườn nho Chúa, là những người đại diện cho chúng ta. Con người và chúng ta được sinh ra, lớn lên ở đời là do Chúa, do hồng ân cao quý của Ngài, chứ không phải do công trạng của chúng ta. Nên, chúng ta phải tạ ơn Chúa mãi mãi và tạ ơn không ngừng.
Đối với những người anh em của chúng ta, được sinh ra và lớn lên trong thế gian, được làm việc trong vườn nho của Chúa. Chúng ta phải cộng tác với họ để làm cho công trình tạo dựng của Chúa luôn đẹp, luôn tươi xinh và triển nở. Chúng ta không được so đo, ganh tỵ với họ vì Chúa đều ban cho mỗi người những tài năng, những gia sản tùy theo khả năng của mình. Người làm sau giờ chót cũng được trả lương một đồng bằng người làm giờ sớm nhất không phải vì Chúa bất công, không công minh, công bằng nhưng Chúa biết từng nhu cầu của mỗi người và đáp trả cân xứng nhu cầu con người cần. Thiên Chúa ban cho con người bằng nhau, để tất cả mọi người no đủ, dư đầy. Chính vì thế, chúng ta không được ganh tỵ, so đo với người khác mà hãy bằng lòng và tạ ơn những khả năng, ơn lành Chúa đã rộng ban cho chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về lời của Thánh tông đồ Phaolô gửi tín hữu Galata : ” Mỗi người chúng ta nên suy xét về cách cư xử của mình.Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình đã làm nhưng chớ nên so sánh với điều kẻ khác đã làm “ ( Galat 6, 4 ). Điều quan trọng ở đây không phải là những gì người ta nghĩ về chúng ta nhưng Thiên Chúa nghĩ thế nào về chúng ta và tình yêu của Đức Kitô thôi thúc chúng ta làm việc.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có tấm lòng hy sinh, quảng đại để chúng ta vui khi thấy anh em chúng con thành công trong việc làm, trong cuộc sống vì :” Phaolô trồng, Apôlô tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Ông chủ trong dụ ngôn này có công bằng không ? Tại sao ?
2. Người làm từ giờ sáng sớm, với người làm giờ sau hết, tại sao mỗi người đều được trả công như nhau ?
3. Ơn cứu độ dành riêng cho ai ?
4. Thiên Chúa có công bằng không ?
5. Ta có nên ganh tỵ, so đo với người khác không ?
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”, câu chuyện dụ ngôn về tiền công trả cho các người làm vườn nho, nói gì thì nói, vẫn khó nuốt trôi nhất là khi ta tự đặt mình vào tư thế các lao động nhóm một, những người đã làm lụng vất vả ròng rã suốt 12 tiếng đồng hồ. Lời ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn…” xét về mặt pháp lý thì không ai cãi được, thế nhưng vẫn còn đó một điều gì không ổn, đăng đắng trong ruột gan… Ít nhiều phần đa chúng ta vẫn thấy lời phàn nàn của đám thợ làm sớm có phần nào chính đáng! Nếu Nước Trời thật sự giống như câu chuyện này thì quả thật, nó đang hàm chứa một điều gì quá bất thường, một điều mà bình thường không thế nào chấp nhận nổi.
Hầu như mọi tôn giáo đều tuân thủ cặn kẽ luật nhân quả: có nguyên nhân thì phải có hậu quả, ai làm thiện thì được thưởng sự lành, còn ai làm ác thì phải gánh chịu sự dữ. Người Công giáo cũng vậy, họ được dạy dỗ từ tấm bé (chẳng hạn như qua kinh ‘ngày Chúa Nhật hôm nay’), để rồi xác tín như đinh đóng cột rằng: ai làm việc lành phước đức càng nhiều thì công phúc trên thiên đàng càng lớn, còn nếu sống tội lỗi và làm điều dữ thì sẽ bị trầm luân trong hỏa ngục đến muôn đời muôn kiếp. Đó là lẽ công bằng thường tình thôi vì đó chính là định luật nhân quả hợp lý đã in sâu vào tâm khảm con người, không dễ gì xóa nhòa.
Khi kể câu chuyện dụ ngôn về ông chủ trả lương các người làm công theo cách thức đó, hẳn Đức Giê-su chủ tâm cho thấy: một đàng công bằng vẫn được tôn trọng, “Tôi đâu có xử bất công với bạn…”, đàng khác đã bắt đầu xuất hiện một yếu tố ‘cào bằng’ rất kì lạ, một đặc trưng tuyệt vời của Nước Trời đang đến: “Tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó…” Thoạt tiên việc ‘cào bằng’ này xem ra như phá vỡ nền tảng công bằng của luật nhân quả: công nhiều thì thưởng nhiều, công ít thì thưởng ít, hay dữ nhiều thì phạt nặng, dữ ít thì phạt nhẹ. Và đó là lý do ta đòi sự công bằng khi mình đã nỗ lực sống tốt lành nhân đức suốt cả một đời, ta thấy khó chịu khi có một kẻ khác chẳng tốt lành gì lại được coi trọng hơn mình. Tuy nhiên, chính sự vô lý đó mà ta khám phá ra nét độc đáo có một không hai của Tin Mừng cứu độ: “Tôi tốt bụng” – Thiên Chúa nhân lành – Chúa Cha đầy từ tâm.
Qua câu chuyện dụ ngôn Đức Giê-su đang vẽ lên diện mạo của một Thiên Chúa là Cha, rất khác với hình ảnh Đức Chúa của Cựu Ước, hình ảnh của một Ngọc Hoàng truy xét con người với tầm sét Thiên Lôi. Sự công bằng của Tin Mừng là công bằng của lòng từ nhân và thương xót là như thế đấy! Nếu không thấu hiểu và chấp nhận công bằng này, một công bằng mà chỉ mình Đức Giê-su mới có thể mạc khải cho nhận loại, và mạc khải bằng cái giá là chính cuộc sống và cái chết của Người, thì có thể ngay cả linh mục – tu sĩ – Ki-tô hữu cũng sẽ bất mãn để rồi cằn nhằn ghen tức Thiên Chúa mất thôi: “Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Còn nếu Nước Trời chính là công bằng của lòng từ ái (tốt bụng) của Thiên Chúa, thì đúng là tôi cũng sẽ bị liệt vào hạng ‘những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…’ Đáng đáng tiếc một điều là, trong dụ ngôn, các người thợ của giờ thứ nhất đã không kịp khám phá ra điều này, để rồi họ cằn nhằn với ông chủ và ghen tức với đồng bạn! Lẽ ra họ phải rất tự hào và sung sướng vì đã được diễm phúc làm lụng cho Ông Chủ tốt bụng suốt 12 tiếng đồng hồ, trong khi lấy làm tiếc cho các bạn khác vì chỉ được gần gũi phục dịch Người trong có một tiếng – một thời gian quá ngắn ngủi như thế.
Nếu không khám phá ra Thiên Chúa của Đức Ki-tô là một Thiên Chúa ‘tốt bụng’, thì niềm tin và việc giữ đạo của Ki-tô hữu chúng ta có nguy cơ trở thành một chuỗi những ‘công việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.Ta lúc đó cũng sẽ rất dễ phàn nàn và ghen tức khi thấy rằng:bất chấp các nỗ lực sống gương mẫu và đạo hạnh,mình cũng chẳng được ưu đãi hay nhận được ân huệ gì hơn những kẻ ‘tội lỗi và dân ngoại’.
Khi áp dụng các phản ứng này cho chính mình, tôi nhận ra rằng: nhiều khi tôi cũngcảm thấy vui sướng và hãnh diện tạ ơn vì nhận được các ân huệ đặc biệt như trở thành tu sĩ, linh mục…, vì cho rằng đó là phần thưởng xứng đáng cho những cố gắng tu luyện của mình; đồng thời mỗi khi gặp thử thách gian nan, tôi cũng dễ dàng chao đảo và mất lòng cậy trông. Thi thoảng khi thoáng nhận ra Thiên Chúa tốt bụng với kẻ này người nọ…, tôi cũng rơi vào tình trạng “hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Chính vì thế mà tôi vẫn thấy rất lý thuyết và xa vời cái tâm tình tạ ơn không ngừng của mình; ‘tất cả đều là hồng ân’ chỉ là khẩu hiệu đầu môi chóp lưỡi không hơn không kém…, vì nhiều lúc tôi chẳng thấy có lý do nào để mà vui mừng cảm tạ. Ôi thật đáng thương cho tôi, nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, vì Tin Mừng tôi sống sẽ chỉ là một mớ bòng bong dang dở, một chuỗi các khó nhọc vất vả, và một dẫy nhưng phiền trách than van và sợ hãi!
Lạy Chúa từ nhân, con không muốn là người thợ ‘đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót’. Xin ban cho con ơn huệ vĩ đại là không ngừng nhận biết Chúa là Ông Chủ công bằng giầu lòng xót thương, nhờ đó con sẽ có khả năng cảm tạ Chúa không ngừng trước bất cứ điều gì xảy ra trong đời sống mình; và vui mừng vì nhận ra: Chúa xót thương hết thảy mọi người, nhất là những kẻ thấp hèn tội lỗi. Xin hãy giúp con luôn biết khiêm tốn dâng lời ca khen lòng nhân hậu Chúa đến muôn đời. A–men
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong đời sống xã hội, người ta vẫn hành xử theo nguyên tắc ‘Ai làm nhiều sẽ được thưởng công nhiều, ai làm ít sẽ được thưởng công ít’. Đó là quy chuẩn thông thường về sự công bằng trong cuộc sống con người. Tuy nhiên, các bài đọc lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về một quy chuẩn cao hơn, đó là sự công bằng và tấm lòng đại lượng của Thiên Chúa, khác xa sự đo đếm theo kiểu thế gian. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu và rất quảng đại. Sự quảng đại của Ngài vượt trên tất cả những giới hạn và thước đo của lòng người. Sứ điệp lời Chúa khơi dậy nơi chúng ta một chiều kích khác của Đức ái. Đức ái Kitô giáo mời gọi chúng ta phải gạt bỏ mọi ghen tương hay tị nạnh, để học hỏi nơi Thiên Chúa sự khoan hậu và lòng quảng đại vô bờ bến.
Tình yêu Thiên Chúa luôn tuyệt đối và vô giới hạn
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia trình bày giáo huấn về lòng nhân từ của Thiên Chúa với khẩu lệnh ‘Hãy trở về cùng Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa xót thương và luôn rộng lòng tha thứ. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống như tư tưởng của con người. Đường lối của Thiên Chúa khác xa với những suy tính nơi đầu óc chúng ta’ (Is 53, 6-4). Nguyên tắc này được minh giải rõ nét hơn qua dụ ngôn những người thợ làm vườn nho mà Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội Do thái ngày xưa, tiền công nhật bình thường là 1 đồng, và ông chủ đã hào phóng trả như thế, đồng đều cho tất cả những người thợ, dù họ đến từ sáng sớm, hoặc đến vào ban trưa, thậm chí có người mới chỉ bắt đầu đến làm việc khi trời đã xế chiều. Rõ ràng ông chủ trong câu chuyện là hình ảnh ám thị về Thiên Chúa. Ngài minh xử rất công bằng, thực hiện đúng như lời đã hứa, đồng thời Thiên Chúa cũng rất mực đại lượng. Lòng quảng đại của Ngài vượt xa những giới hạn theo cách suy tính nơi đầu óc con người chúng ta.
Thiên Chúa công bằng
Qủa thật, tất cả chúng ta đều được sinh ra trong tội lỗi. Nếu đặt mình trước mặt Chúa để thẩm định về giá trị nơi mình, chúng ta thật không xứng đáng với bất cứ công trạng gì, nhất là khi cân, đo, đon, đếm với những tội lỗi mà chúng ta đã phạm. Tác giả thánh vịnh 143 đã viết : “Lạy Chúa, con người là chi mà Chúa cần biết đến. Phàm nhân là gì mà Chúa phải lưu tâm”. Monier, một nhà tu đức cũng nhận định : “Thiên Chúa yêu thương con người, không phải vì con người xứng đáng với tình yêu ấy. Nhưng, con người xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương, chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương con người”. Chúng ta hoàn toàn bất xứng, nhưng Thiên Chúa luôn quảng đại giang rộng đôi tay ôm đón chúng ta vào lòng, người giầu sang cũng như kẻ nghèo hèn, người công chính cũng như kẻ tội lỗi. Tình yêu Thiên Chúa luôn tuyệt đối, luôn là ‘một đồng’ giống nhau cho tất cả những người thợ làm vườn nho, cho dù họ đến từ sáng sớm hay chỉ đến muộn màng. Đúng hơn, đó là một tình ‘cho không biếu không’ phát xuất từ lòng quảng đại nhưng không của Thiên Chúa, chứ không phải do công trạng nơi con người chúng ta. Đối với Chúa, một đứa con đi hoang vẫn có chỗ ngồi trang trọng nơi bàn tiệc gia đình. Một cô gái điếm với quá khứ chẳng mấy sáng sủa, vẫn có thể ngồi tâm sự bên cạnh Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí, một tên trộm khét tiếng với một cuộc đời đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, nhờ tin tưởng nơi lòng thương xót Chúa vào những giây phút sám hối muộn màng. Hình ảnh ‘ông thánh ăn trộm’ cũng tương hợp với hình ảnh của những người thợ giờ thứ 11 mà Chúa nói đến hôm nay. Trong khi người khác đã vất vả suốt từ sáng sớm đến lúc chiều tối, anh thợ này đến làm việc chỉ mới có vài ba tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, ông chủ đã đối xử thật tốt, thật công bằng và rộng lượng với tất cả những người thợ đến làm vườn nho cho ông ta.
Khi quảng diễn dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn vạch mặt thói kiêu căng và giả hình của nhóm biệt phái. Thái độ tự mãn của họ cũng giống cái nhìn hẹp hòi nơi những người thợ đầu tiên, vì họ đã đến vườn nho từ sáng sớm. Rất có thể đây cũng là thói cao ngạo mà chúng ta vẫn thường hay mắc phải. Sự ghen ghét là con đẻ của tính kiêu căng, hay tự mãn về những thành tích đạo đức của mình. Những người biệt phái thời xưa thích vênh váo, khoe khoang những gì họ đã làm như việc ăn chay, bố thí, hay giữ luật một cách rất tỉ mẩn. Xét bề ngoài, tư cách đạo đức của họ đáng khen, nhưng họ thiếu một điều rất căn bản, đó là sự chân thật và lòng khiêm tốn. Biệt phái thời xưa không còn, nhưng có thể kiểu cách biệt phái như thế vẫn còn xảy ra nơi cuộc sống chúng ta ngày hôm nay. Người ta vẫn gọi đó là ‘cái tôi Kitô hữu’, khi chúng ta chỉ giữ đạo một cách hình thức, nhưng bên trong tâm hồn thì rỗng tuếch.
Sự ghen ghét là thuốc độc giết chết tâm hồn
Cha Thomas Merton đã viết : “Hỏa ngục là nơi chất đầy sự ghen ghét”. Ghen tương hay tị nạnh chính là thuốc độc bóp chết trái tim chúng ta. Sự ghen tương được nói đến trong dụ ngôn hôm nay, thể hiện nơi những người thợ đầu tiên. Họ ghen tỵ vì lòng quảng đại của ông chủ. Những người Pharisêu ngày xưa đã mắc phải căn bệnh chết người này. Chúa Giêsu nói với họ : “Những phường đĩ điếm và trộm cướp sẽ vào nước Thiên đàng trước các ông”. Ngài còn công bố cho mọi người biết : “Những người từ đông sang tây sẽ được đến dự tiệc trong nước trời, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài”. Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ có thái độ hẹp hòi như những người thợ đầu tiên đã vất vả làm việc từ ban sáng. Tâm địa hẹp hòi và sự tị nạnh nơi họ là rào cản mà họ tự xây lên, che chắn lòng thương xót của Chúa. Sự ghen tương của họ cũng giống như sự ích kỷ của người anh cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Vì ghen tương, anh ta đã không nhận ra rằng : ‘Tất cả những gì của cha đều là của con’. Cũng vậy, sự ghen ghét sẽ làm che mờ con mắt đức tin khiến chúng ta không thể nhận ra biết bao ơn huệ mà Chúa đã ban cho ta một cách nhưng không.
Kết luận
Có một bà cụ miền quê nuôi một con gà trống. Bà ta tự hào vì mỗi sáng, khi con gà của bà cất tiếng gáy, mặt trời sẽ từ từ mọc lên soi sáng cho cả làng. Một bữa nọ, bà ta có chuyện xích mích với những người hàng xóm chung quanh. Bà bực tức bỏ làng đi xa và xách theo con gà của mình. Trước khi đi, bà ta còn cay cú nói với mọi người: “Tôi sẽ mang con gà của tôi đi, để từ nay khi không còn tiếng gáy của nó, mặt trời sẽ không mọc lên và dân làng sẽ bị chìm trong bóng tối”. Bà ta hỉ hả lên đường, nhưng đợi mãi từ ngày này sang ngày khác, không có người dân nào đến năn nỉ xin bà xách con gà trở về làng cũ. Cuối cùng bà ta chết, cùng với con gà mái yêu quý. Bà ta đâu biết rằng, con gà của bà dù có gáy hay không gáy thì mặt trời vẫn mọc lên và soi sáng cho mọi người. Đức Hồng Y Suenens đã nói : “Như mặt trời mọc lên làm nở những đóa hoa đã khép lại trong đêm tối, lòng khoan dung và độ lượng cũng làm khai mở những tâm hồn đang co quắp trong cái vỏ ích kỷ của tâm hồn, do sự ghen tương và tỵ nạnh”. Chúng ta hãy tập sống quảng đại và bao dung đối với mọi người để Thiên Chúa cũng luôn quảng đại đối với chúng ta.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Dụ ngôn làm việc vườn nho,
Người thuê lao động, phát cho lương ngày.
Đồng lòng lợi tức hôm nay,
Ra vườn từ sáng, hăng say việc làm.
Nhiều người thất nghiệp khổ cam,
Không ai thuê mướn, hãm giam đợi chờ.
Ngóng tin sốt ruột hững hờ,
Chủ thương gọi tới, giúp nhờ việc đây.
Khoảng giờ thứ sáu hôm nay,
Giờ ba, giờ chín, gọi ngay ra đồng.
Vui mừng có việc ngóng trông,
Thù lao tùy chủ, trả công gọi mời.
Một đồng lương trả từng người,
Người sau, kẻ trước, xin mời lãnh công.
Số người từ sớm kể công,
Chúng tôi vất vả, mà không hơn gì.
Chủ rằng đồng ý đã ghi,
Chúng ta thỏa thuận, cầm đi số tiền.
Công bằng đối xử trước tiên,
Rộng lòng quảng đại, nhân hiền có sao.
Trong bài Phúc Âm đã kể rằng chủ vườn nho mướn những người làm việc được trả lương theo thỏa thuận. Xem ra rất công bằng. Nhưng truyện xảy ra, có những người làm ít mà lại được hưởng nhiều, đã gây nên sự ghen tương chành cạnh. Những người đến sau, làm có mấy giờ mà cũng được hưởng lương đồng đều như những người vất vả từ sáng sớm. Thật là khó chịu với cách đối xử của ông chủ. Ông chủ đã trả lương cho các người làm công theo cách thế của riêng ông với sự đại lượng từ bi.
Làm việc là cộng tác vào công trình sáng tạo của Chúa. Chúa ban cho mỗi người khả năng riêng biệt để cùng nhau góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp. Ai trong chúng ta cũng cần có công ăn việc làm. Làm việc để phát triển khả năng. Làm việc để kiếm sống. Có những người may mắn, làm ít mà hưởng nhiều. Có những người cầy sâu cuốc bẫm, làm việc cực nhọc vất vả, đổ mồ hôi, sối nước mắt mới có của ăn. Hằng ngày họ chạy lo kiếm công ăn việc làm, không có việc kể như không có của ăn.
Suy lại cuộc đời, chúng ta vào làm vườn nho của Chúa đã lâu. Chúng ta đã được những gì? Có lẽ chúng ta đã nhận lãnh vô vàn ân huệ. Còn có những người vừa mới vào làm vườn nho, mới gia nhập đạo, họ cũng được thừa hưởng những ân lộc như chúng ta, đôi khi còn có hơn nữa, chúng ta có ghen tị không?
Làm việc trong vườn nho của Chúa đã là một ân phúc. Điều quan trọng không phải làm nhiều giờ hay ít giờ, mà làm việc với lòng mến hay không? Đừng ngồi đó kể lể rằng: Tôi là đạo gốc ba bốn đời. Tôi đáng được hưởng những đặc quyền hơn những người khác. Điều so sánh này không ích lợi gì cả. Mỗi người được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là được mời vào làm vườn nho. Thời gian dài ngắn không quan trọng, tùy thuộc chúng ta thi hành với lòng bác ái và yêu thương. Mọi ân huệ đều là ơn sủng nhưng không mà Chúa đã ban. Chúa rộng lượng ban đầy dư hơn là chúng ta đáng được.
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa cho chúng ta được làm trong Vườn Nho của Chúa.
.
PHẢI CHĂNG THIÊN CHÚA QUÁ BẤT CÔNG???
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Dothái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh – Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều… Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.
Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Dothái.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào…! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không?
Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?
- Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?
Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây.
Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.
Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ… Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Dothái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Dothái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?”; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”.Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.
Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng như kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ… Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Mặt khác, cũng làm toát lên việc: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.
- Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa
Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta là người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:
Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta.
Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.
Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người “đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi:“Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.
Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không phải bất công như những người Dothái và ngay cả chúng ta đã lầm tưởng!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Trong cuộc sống có nhiều dạng thỏa thuận – dù bằng lời nói hoặc bằng văn bản (chữ “thỏa hiệp” thường dùng cho dạng không tốt), sự thỏa thuận với nhau về một điều gì đó gọi là hợp đồng – nhất là trong chuyện làm ăn. Về tâm linh cũng có dạng thỏa thuận: dạng tốt là thỏa thuận về việc làm vườn nho (Mt 20:1-16) mà Tin Mừng hôm nay đề cập, dạng xấu là “thỏa hiệp cám dỗ” của ma quỷ (với bà Eva, hoặc khi chúng ta phạm tội). Các dạng “hợp đồng ngầm” với ma quỷ đều rất nguy hiểm.
Chúa Giêsu xác định: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5:17). Chúa Cha và Chúa Con đều làm việc không ngừng, Chúa Thánh Thần cũng vẫn không ngừng tác động trong Giáo Hội. Như vậy, chắc chắn sự lao động có giá trị cao. Và tất nhiên chúng ta không thể lười biếng mà không chịu lao động.
Ai cũng phải lao động, bằng cách này hay cách khác, nhỏ làm việc nhỏ, lớn làm việc lớn, nhưng phải lao động chân chính chứ không thể lao động phi pháp. Lao động chân chính là dùng sức mình để làm việc có mục đích (tốt) và có ý thức. Lao động không chỉ là cách mưu sinh mà còn là cách trau giồi (dồi) sức khỏe, đặc biệt là tránh dịp tội, bởi vì “nhàn cư vi bất thiện”, vì rảnh quá hóa nông nổi, và vì nông nổi mà thành nông nỗi. Lao động chân tay hoặc lao động trí óc đều cần thiết, đều có giá trị nhất định, không ai hơn ai. Chỉ có lòng người xấu chứ không có nghề nào xấu. Vấn đề là có chịu làm việc hay không, chứ làm việc gì cũng là tiếp tục hoàn thiện công trình sáng tạo của Thiên Chúa – tất nhiên công việc đó hợp pháp chứ không phi pháp.
Phải công tâm mà công nhận rằng những người chịu thương chịu khó, siêng năng lao động là người có bản lĩnh, biết tự trọng, không ỷ lại vào người khác, không ích kỷ, không lợi dụng người khác. Đó là một dạng phục vụ, và cũng là một cách giúp đỡ người khác. Còn đối với những người lười biếng thì sao? Tất nhiên là đối lập với các đức tính của người lao động cần mẫn. Thánh Phaolô không hề úp mở mà nói thẳng luôn: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2 Tx 3:10).
Vào dịp kỷ niệm 90 năm ban hành Thông điệp “Rerum Novarum” (Tân Sự – ban hành ngày 15-5-1891) của Đức Lêô XIII (1810-1903), Đức Gioan Phaolô II (1920-2005) đã có Thông điệp “Laborem Exercens” (Lao Động của Con Người), ban hành ngày 14-9-1981, nói về Tin Mừng trong sự lao động, trong công việc. Điều đó cho thấy sự lao động là hoạt động quan trọng, cả thể lý và tâm linh. Thật vậy, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua cách hoạt động của Ngài: Lao động 6 ngày, chỉ nghỉ 1 ngày cuối tuần (x. St 1:1-31 – 2:1-3).
Trong khi lao động, con người tự hoàn thiện chính mình trên hành trình đi tìm Chân-Thiện-Mỹ, đó là hành trình đi tìm Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng chí thiện: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18). Thật vậy, ngôn sứ Êdêkien đã chân thành nhắn nhủ: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55:6). Thiên Chúa còn cho phép chúng ta gặp khi Ngài ở gần, đến lúc Ngài không cho gặp và đi xa thì chúng ta vô phương. Đó là thời gian Ngài còn thương xót, và sẽ tới lúc hết giờ thương xót. Chắc chắn như vậy!
Kinh Thánh cho biết rõ rằng “ở dưới bầu trời này, cái gì cũng chỉ có một thời mà thôi” (x. Gv 3:1-8). Và còn hơn thế nữa: “Bất cứ chuyện gì cũng đều có thời có buổi, và đều bị Thiên Chúa xét xử” (Gv 8:6). Vì thế, đừng lần lữa kẻo lỡ cơ hội. Cơ hội tốt không đến hai lần, thế nên hãy lắng nghe cho rõ: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ” (Is 55:7). Nước đến chân thì không thể nhảy kịp, và đừng quên rằng “Giờ Thương Xót” cũng đang dần thu ngắn lại, không ai có thể biết sẽ kết thúc lúc nào!
Tuy nhiên, đừng chần chừ, đừng ngần ngại, và cũng đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đã hứa: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban” (Tv 91:15-16). Ngài không chỉ lắng nghe và đáp lại, mà Ngài còn ban cho chúng ta hơn cả điều chúng ta mong đợi. Thật là trên cả tuyệt vời, chắc chắn chẳng có thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa chúng ta đang suy tôn thờ kính. Và đúng như thế, vì Thiên Chúa đã minh định rằng chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa và cấm chúng ta thờ bất cứ thần nào khác (x. Đnl 32:39; Is 43:10; Is 45:5-6; Is 46:9; Hs 13:4).
Là phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu hết lòng thương xót của Thiên Chúa, ngay cả tình mẫu tử của người mẹ trần gian mà chúng ta còn chưa hiểu hết thì làm sao có thể hiểu Thiên Chúa: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).
Ngày xưa, mỗi khi nói tới điều khác lạ, người ta thường so sánh với chuyện lên cung trăng hoặc Tết Công-gô, tức là chuyện không thể xảy ra. Thế mà ngày nay, người ta đã có thể lên cung trăng, có thể “lên trời”, thế nhưng đó chỉ là một góc nhỏ của trời mà thôi. Khoa học tiến bộ với mức kinh ngạc, người ta đã và đang tìm mọi cách để “khám phá” bầu trời, nhưng càng khám phá thì người ta càng thấy thăm thẳm, còn biết bao “vị trí” mà người ta không biết gọi là gì, thế nên người ta đành phải mô tả là “lỗ đen” (black holes). Càng ngày khoa học lại phát hiện thêm hành tinh mới. Cứ thế và cứ thế, càng đi xa vào vũ trụ càng thấy thăm thẳm mù mịt. Có sẵn đó mà khám phá mãi không hết!
Thiên Chúa siêu hơn cả siêu việt, tuyệt hơn cả trác tuyệt, hơn cả tuyệt luân. Chúng ta chỉ còn biết cùng với Thánh Vịnh gia mà xưng tụng Thiên Chúa: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145:2-3). Càng tìm hiểu vũ trụ, người ta càng nhận biết Thiên Chúa. Càng tìm hiểu Thiên Chúa, chúng ta càng kính thờ và tạ ơn Thiên Chúa. Đó chính là hành trình đức tin, là quá trình lao động tâm linh.
Thật lạ lùng, Thiên Chúa chí thánh, là Đấng cao vời khôn ví, nhưng Ngài lại giàu lòng xót thương với mọi người, ai càng yếu thì Ngài càng thương: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145:8-9). Quả thật, Thánh Phaolô đã dày dạn kinh nghiệm nên xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Thế thì đừng nản chí sờn lòng hoặc thất vọng – dù là thất vọng về chính mình, mà hãy vững lòng tin tưởng và mau mắn đứng dậy ngay lập tức!
Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Đấng vô tiền khoáng hậu, vô thủy vô chung, và yêu thương vô hạn, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:17-18). Vấn đề không phải là tội nhiều hay tội ít, vì ai cũng chỉ là tội nhân trước mặt Thiên Chúa mà thôi, chẳng ai hơn ai, nhưng vấn đề là có chân thành sám hối hay không. Và đó là điều Thiên Chúa mong đợi ở chúng ta: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Ngài thực sự chỉ muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ (x. Hs 6:6). Ước gì không ai trong chúng ta phải nghe lời “nói nặng” này của Thiên Chúa: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15:8; Mc 7:6).
Người Pháp có câu châm ngôn khá độc đáo: “Đừng vì yêu mến Chúa mà chống đối người khác”. Vào thời Thánh Phaolô, có những kẻ rao giảng về Đức Kitô chỉ vì lòng GANH TỊ và TRANH CHẤP, nhưng cũng có những người làm công việc đó vì Ý NGAY LÀNH, họ làm vì BÁC ÁI và BÊNH VỰC TIN MỪNG. Lại có những người loan báo Đức Kitô vì TÍNH ƯA TRANH GIÀNH, KHÔNG CÓ LÒNG NGAY. Nhưng Thánh Phaolô vẫn bảo là “không sao”, chỉ cần Đức Kitô được rao giảng. Thánh Phaolô mừng bởi vì điều ấy sẽ giúp ngài đạt được ơn cứu độ nhờ Thần Khí của Đức Giêsu Kitô phù trợ.
Và rồi Thánh Phaolô kết luận: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và CHẾT LÀ MỘT MỐI LỢI” (Pl 1:20-21). Vậy là sao? Thánh Phaolô lý giải: “Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị GIẰNG CO giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1:22-24). Vấn đề cốt lõi là miễn sao có lợi cho Thiên Chúa, mục đích là để “tuân phục Thánh Ý Chúa và vinh danh Chúa” mà thôi. Và cũng vì thế mà Thánh Augustinô đã tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con – Domine, noverim Te, noverim me”. Biết Chúa là chân nhận rằng Ngài là Đấng duy nhất và giàu lòng thương xót, nhờ vậy mà tôn thờ Ngài hết linh hồn và hết sức lực, biết mình là ý thức mình yếu đuối và đầy tội lỗi để mà sống khiêm nhường hơn.
Bát Phúc (Tám Mối Phúc, Bài Giảng Trên Núi) của Chúa Giêsu đã gây ấn tượng đối với danh nhân Mahatma Gandhi. Ông rất yêu quý, ông Bát Phúc và gọi đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nhân loại. Ông có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động theo tinh thần của Đức Kitô, ông cũng khiến chúng ta ngạc nhiên khi ông thẳng thắn nói: “Tôi YÊU MẾN Đức Kitô nhưng tôi KHÔNG PHỤC các Kitô hữu”. Tại sao vậy? Có lần ông vào một nhà thờ Công giáo, ngoài cửa có ghi: “Cấm người da đen vào nhà thờ”. Thấy vậy, ông quay ra ngay. Là Kitô hữu, là môn đệ Chúa Giêsu và là con cái Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy thật là xấu hổ, vì chúng ta bảo người ta yêu thương mà mình lại kỳ thị người khác, chỉ lẻo mép nói hay mà không thi hành điều mình nói. Nước Chúa chưa rộng mở có lỗi của mỗi chúng ta. Đúng là lỗi tại tôi mọi đàng!
Đối với cộng đoàn Phi-líp, Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Chỉ có một điều là anh em PHẢI ăn ở làm sao cho XỨNG với Tin Mừng của Đức Kitô. Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung MỘT tinh thần, MỘT lòng MỘT dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em” (Pl 1:27). Và chắc chắn đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi chúng ta hôm nay, chẳng loại trừ một người nào!
Trên hành trình tâm linh, hành trình đức tin, ai cũng là người lao động, là công nhân hoặc người thợ, hoàn toàn giống nhau và bình đẳng, hằng ngày làm việc theo sự thỏa thuận của “bản hợp đồng đức tin”, đó là làm việc trong “vườn nho” của Thiên Chúa với MỨC LƯƠNG NHƯ NHAU – đối với công nhân thâm niên cũng như tân binh. Tuy nhiên, điều cần phải luôn lưu ý là đừng so đo hoặc ganh tị để rồi liếc xéo nhau, nhìn nhau bằng nửa con mắt hoặc ngó nhau bằng “ánh mắt hình mũi tên”.
Một hôm, sau khi nói về phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Ngài, Đức Giêsu kết luận: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu” (Mt 19:30; Mc 10:31; và Mt 20:16 cũng đề cập ý này). Một câu nói thật đáng để chúng ta “quan ngại” lắm! Rồi Ngài kể câu chuyện này: Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, rồi giờ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Với ai ông cũng bảo: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh HỢP LẼ CÔNG BẰNG” (Mt 20:4).
Khi hoàng hôn buông xuống, nghĩa là hết giờ lao động, ông chủ vườn nho bảo người quản lý gọi tất cả thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất. Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại và lãnh được mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn ông chủ bất công, họ so kè việc họ đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, nắng nôi thiêu đốt, thế mà chẳng hơn gì người vào làm muộn.
Rất bình tĩnh và thản nhiên, ông chủ trả lời với họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng THOẢ THUẬN với tôi là MỘT QUAN TIỀN sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi TỐT BỤNG mà bạn đâm ra GHEN TỨC?” (Mt 20:13-15). Trong cuộc sống, ngay cả trong vấn đề tâm linh và bác ái, chúng ta cũng vẫn thường so đo đủ thứ, cứ tưởng chỉ có mình làm được công kia hay việc nọ, ý muốn nói mình “nổi trội” hơn người khác, muốn người khác phải “nể phục” mình. Và nếu Chúa Giêsu đặt vấn đề như vậy với chúng ta về vấn đề này, chắc chắn chúng ta “há miệng mắc quai nón”, phải câm họng mà thôi. Dụ ngôn “người Pharisêu và người thu thuế” (Lc 18:9-14) không bao giờ cũ, lúc nào cũng mang tính thời sự nóng bỏng!
Người ta thường nói rằng “người dốt thích nói chữ”. Thế nhưng họ càng nói lại càng dở, càng lý luận lại càng đuối lý. Chúa Giêsu biết họ đuối lý nên mới im như thóc thối, Ngài lặp lại và nhấn mạnh: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 20:16). Nói chung, chẳng qua là hội chứng ảo tưởng, và rồi không khéo thì công sức lao động trở thành công cốc. Thế thì tiêu!
Như một điệp khúc vô tận, Chúa Giêsu đã và đang không ngừng mời gọi mọi người tin nhận Ngài là Đấng Cứu Độ để được sống đời đời, nhưng chỉ ít người được chọn. Động từ “chọn” ở đây không có nghĩa là “thích ai thì chọn”, mà “chọn” ở đây là tùy vào quyết định riêng của chính người-được-mời-gọi, bởi vì Thiên Chúa trao ban quyền-tự-do-trọn-vẹn. Sự tự do này là chính Thiên Chúa ban cho chúng ta, nhưng có thể có lợi hoặc bất lợi cho chúng ta, điều đó tùy vào ý muốn của mỗi người, và Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng quyền tự do này.
Nếu thực sự như vậy, phải chăng không có nhiều người được trở thành công dân của Nước Trời? Rất có thể, và đó là lỗi của chúng ta chứ Thiên Chúa luôn mong muốn mọi người đều được hưởng phúc trường sinh với Ngài, không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Cũng có mối nguy cơ là vì chúng ta ỷ lại, tự cho mình là “ngon lành” hơn hẳn những người khác, nhận mình là đạo đức, thánh thiện và công chính, để rồi “liếc ngang liếc dọc” với những tia mắt “sắc hơn dao cau”, và cho rằng người nọ người kia là những kẻ tội lỗi, nào ngờ họ lại có Visa Nước Trời trước chúng ta (x. Mt 21:31-32). Ôi, không cái khốn nào bằng cái khốn này!
Thời Cựu Ước, ông Bơ-li-am đã tâm nguyện thế này: “Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính, và tôi được mãn phần như họ” (Ds 23:10). Mong sao mỗi chúng ta cũng biết mơ ước như vậy để có thể hoàn thiện trước phút lâm chung. Đó cũng là cách chứng tỏ rằng chúng ta hoàn tất điều thỏa thuận với Thầy Giêsu chí thánh: HOÀN THIỆN và NHÂN TỪ (Mt 5:48 và Lc 6:36).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Đấng duy nhất mà con tin kính và tôn thờ, xin giúp con biết miệt mài chuyên cần sống Đức Tin sống động, luôn biết khiêm nhường, hết lòng yêu thương, và chân thành tha thứ hết lòng theo lệnh truyền của Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
NƯỚC TRỜI LÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
P.Trần Đình Phan Tiến
Kính thưa quý vị, thưa các bạn, Nước Trời là một “định tín “khó“ định nghĩa”, bởi vì, Nước trời chưa ai thấy được, ngoại trừ Đấng từ Trời mà xuống, đó là Chúa Giêsu. Vì, Nước trời nếu theo ai đó, thì là: Thiên Đàng, nhưng, nếu người Dothai cho rằng: Nước Trời là nơi “dành” cho người “tốt“, hay người “giỏi giang”, hoặc người “trí thức”, hoặc là “sự công bằng” theo kiểu thế trần, thì hôm nay đây, một lần nữa, Chúa Giêsu cho chúng ta biết, “NƯỚC TRỜI“ là gì?
Vâng, Nước Trời chính là “Đạo lộ“ của Thiên Chúa, vì Khởi đi từ bài đọc I hôm nay (Is 55, 6 -9) cho chúng ta biết Đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối của loài người. Vì : ”Đạo lộ của Ta khác với đường lối của các ngươi, Tư tường của Ta khác với tư tưởng của các ngươi, vì trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tường và đường lối của Ta cũng cáo hơn của các người bấy nhiêu“ (Is 55, 8-9).
Vì vậy, lời Chúa hôm nay (Mt 20, 1- 16a) cho chúng ta ý tường đó. Vâng, không ai công bằng hơn Thiên Chúa, cũng như không ai thương xót như Ngài. Thiên Chúa không bao giờ bất công với ai, vì Ngài là Thiên Chúa. Nhưng, Thiên Chúa muốn thể hiện Nước Trời trong lòng nhân thế, vì Ngài muốn hướng nhân thế lên với Ngài, chứ không muốn nhân thế chỉ mãi mãi là thế nhân.
Vâng, điều ấy là chân lý, chứ không phải lộng ngôn. Cũng chính vì điều nầy mà có một thiên thần phản nghịch, tức sự ganh ghét, sự đố kỵ, sự cạnh tranh đối với loài thụ tạo có thân xác, và xuất phát là ma quỷ.
Thiên Chúa đã thỏa thuận “một đồng mỗi ngày” đủ cho nhu cầu của ngày ấy và của mỗi người. Ân sủng siêu nhiên, cũng như ân sủng tự nhiên là phương tiện sinh sống trên trần thế không thể theo ý người làm công, mà là theo sự “thỏa thuận“ rõ ràng lúc ban đầu. Thiên Chúa không bỏ rơi ai, và cũng không bóp chẹt ai. Một ngày 24 tiếng đồng hồ như nhau, và mưa nắng trải đều khắp nhân gian. Chúng ta thấy giờ thứ ba, tức 9 giờ sáng, giờ thứ mười một tức 5 giờ chiều, nhưng, công nhật mỗi ngày là “một đồng”. Những người làm từ tảng sáng tức khoảng 6 giờ sáng, đến người sau cùng cũng chỉ “một đồng lương’, vì đã “đồng ý” như vậy.
Ông chủ không hề bớt xén tiền công, nhưng vẫn bị “chỉ trích”, tuy đây là ”dụ ngôn”, nhưng thực tế trong cuộc sống, không phải là không có xảy ra. Điều đặc biệt là “Ông Chủ” lại trả tiền công cho những người làm giờ thứ 11 trước, rồi sau đó, lần lượt trả cho những người làm từ sáng sớm, rồi đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chin.
Vậy, sự công bằng của Thiên Chúa là gì? Há chẳng phải là “Lòng Xót Thương“ sao?! Thiên Chúa xót thương vì thời gian “thất nghiệp” của người giờ thứ 11. Sự đau khổ của anh ta từ sáng sớm đến chiều tối không được ai thuê mướn. Sự trả lương cho người làm giờ thứ 11 như Thiên Chúa đã làm, ngày nay, không có chủ doanh nghiệp nào làm. Bởi vì, đó là “thâm“ tiền túi của chủ. Thiên Chúa thể hiện tình thương trên người bất hạnh, chứ Ngài không bất công, cũng như mắc nợ ai. Thiên Chúa không cho người nhiều, người ít, mà là Thiên Chúa yêu thương họ. Thiên Chúa yêu thương người bất hạnh, nỗi khốn khổ của họ, chứ Ngài không mắc nợ họ. Vì Thiên Chúa muốn yêu thương ai, thì đó là quyền của Thiên Chúa. Nhân thế không thể đòi hỏi theo ý mình.
Chúng ta thấy, nội dung Đoạn Tin Mừng hôm nay, dường như là “vô lý” nhưng rất hợp lý. Bởi vì, Ông Chủ trả lương cho người “sau cùng” ngang bằng với người làm từ tảng sáng. Nhưng, Thiên Chúa không lấy của những người làm trước, mà cho những người làm sau. Xét cho cùng Ông Chủ “bị thiệt” chứ không phải những người làm trước bị thiệt. Vì sự thỏa thuận vẫn giữ nguyên giá trí của nó, Ông Chủ không tùy tiện “tăng thêm” tiền công nhật, mà là Ông Chủ cho “thêm“ người làm sau cùng, để ngày ấy họ cũng “đủ” cái ăn như người làm từ sáng.
Thiên Chúa không xét theo nhiều hay ít, mà là xét theo “nhu cầu” thực tế của họ trong ngày ấy.
Sự công bằng của Nước Trời không phải bởi sự “so đo” theo kiều trần thế, mà là “tình thương“ bởi Thiên Chúa. Sự cân đong, đo, đếm của Thiên Chúa không dựa vào ”năng lực” của con người, vì có ai có năng lực xứng đáng, hay tài năng hơn tha nhân đâu? Nếu có chăng sự giỏi giang, hay tài trí của người đó, cũng do chính Thiên Chúa ban.
Vậy, sự “đau khổ” của người làm công từ giờ thứ 11, không phải do anh ta lười biếng không chịu làm, mà do không được thuê mướn. Nỗi khổ của anh ta cũng không kém người làm từ sáng sớm. Anh ta làm ít giờ hơn, nhưng tâm trạng “lo lắng” ưu tư, nỗi buồn, sự mặc cảm, không biết có ai thuê mình không? Làm thế nào có đủ tiền mua gạo cho ngày hôm nay để nuôi vợ con, v. v và v…v? Như vậy, Thiên Chúa thấu suốt những điều ấy và ban cho họ.
Như vậy, Nước Trời qua Dụ Ngôn hôm nay chính là ”LÒNG THƯƠNG XÓT” của Thiên Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung.
Bài đọc II nay (Pl 1, 20c -24. 27a) khuyên chúng ta… ”ăn ở như thế nào cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô“. Vì, mối lợi duy nhất chính là Đức Kitô, chứ không phải điều gí khác.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con sống chứng nhân cho Nước Trời, xin cho chúng con biết sống khôn ngoan như Lời Chúa dạy là có một tấm lòng quảng đại, một trái yêu thương, và một tính thần đầy quả cảm để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa. Vì chúng con muốn làm theo lời Chúa, chứ không muốn làm theo ý của phàm nhân, xín cho chúng con can đảm thực thi ý Chúa ./. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN A
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.
Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?”(Mt 20,14)
Anh chị em thân mến,
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe là những lời dạy của Chúa nói về lòng tốt và tình thương của Người. Chúng ta thấy rất rõ điều này qua dụ ngôn đặc biệt Chúa dùng để cắt nghĩa cho chúng ta.
I. Bài dụ ngôn
- Một người kia có một vườn nho.
– Ông ta là chủ của vườn nho đó cho nên ông ta có quyền canh tác trên vườn nho đó để thu hoa lợi
– Diện tích vườn nho có lẽ phải lớn cho nên ông phải thuê người làm cho ông.
– Ở đây chúng ta nên lưu ý một chút về cách tính giờ của người Do Thái:
Ngày làm việc của người Do Thái bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và kết thúc vào lúc mặt trời lặn. Và căn cứ vào đó thì chúng ta sẽ có một thời biểu tương ứng như thế ny:
Giờ thứ 1, thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11, tương đương với 6giờ, 9giờ, 12giờ, 15giờ, 17giờ, và kết thúc lúc 18 giờ.
– Có 5 đợt thuê thợ tất cả.
Đợt đầu có sự mặc cả rõ ràng về giá cả 1đ/một ngày công.
Các đợt sau thì không có sự mặc cả gì.
– Chiều đến: trả lương.
– Cách thức trả lương có khác thường….bắt đầu từ người đến làm việc sau cùng đến người làm đầu tiên.
– Chính cách thức trả lương như thế đã làm nảy sinh ra sự phen bì giữa những người thợ được thuê làm trong cùng một vườn nho.
– Người cuối cùng vui vì thái độ đầy lòng yêu thương và quảng đại của chủ.
– Những người đến làm trước buồn vì cảm thấy mình như bị thua thiệt.
- Vấn đề đặt ra ở đây là ông chủ làm như thế có công bằng không. Ta phải trả lời là có.
– Này bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một đồng sao?(Mt 20,13)
– Ông đã đối xử với họ theo lẽ công bằng thương mại. Luật pháp gọi là công bằng giao hoán.
– Về phương diện này thì ông chủ hợp lý và hợp pháp
– Việc ông chủ đối xử khác, khác hơn lẽ công bằng giao hoán thì lại là vấn đề khác. Nó đã vượt ra ngoài phạm vi công bằng. Nó đã vươn lên tới một bình diện cao hơn…đó là lòng Bác ái yêu thương và ông ta có quyền làm như thế.
Vậy thì khi kể dụ ngôn này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì .
II. Bài học
- Muốn hiểu được bài học Chúa muốn dạy qua bài dụ ngôn hôm nay, chúng ta lại phải trở về với những hoàn cảnh của nó.
Tin Mừng kể lại trước khi nói dụ ngôn này thì có một người thanh niên đến gặp Chúa và muốn xin được làm môn đệ của Ngài. Chúa bảo anh ta hãy trở về bán tất cả những gì anh có rồi phân phát cho những người nghèo khó và Chúa coi đó như một điều kiện phải có để Ngài chấp nhận anh ta. Sự đòi hỏi của Chúa làm cho anh ta chùn bước. Lý do là vì anh có nhiều của cải. Của cải đã níu kéo quá mạnh, thành thử anh ta đã bỏ cuộc. Nhưng câu chuyện chưa chấm dứt tại đấy.
Sau khi người thanh niên bỏ đi thì ông Phêrô….lại ông Phêrô. Ông Phêrô đứng ra đặt vấn đề với Chúa. Ông nói như sau: “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì”(Mt 19,27)
Câu hỏi của Phêrô sặc mùi thương mại trần thế. Ông muốn Chúa phải nói rõ cho các ông biết Chúa Chúa sẽ đối xử với các ông thế nào trước những hy sinh từ bỏ của họ. “Chúng con sẽ được gì?”
Chúa không để cho các ông ấy phải thất vọng. Chúa đã trả lời. Chúa không lẩn tránh vấn đề. Và câu trả lời của Chúa thật là tuyệt diệu. Tuyệt diệu ở chỗ nó vừa thỏa mãn được vấn đề các tông đồ đặt ra với Chúa, lại vừa có sức nâng tầm nhìn của các môn đệ lên tới một bình diện cao hơn.
“Ai vì danh Ta mà từ bỏ Cha Mẹ, anh em, con cái, nhà cửa, ruộng đất thì sẽ được gấp trăm ở đời này và ….tiếng Và thật quan trọng…Và được sự sống đời đời.”(Mt 19,29)
Sự sống đời đời. Đó là một phần thưởng vô cùng quí gía mà không có một giá trị trần thế nào có thể đổi chác được. Phần thưởng đó là do ơn lộc của Chúa cũng như do lòng quảng đại vô bờ vô bến của Ngài.
Trong nước của Thiên Chúa sẽ không có giao hoán đổi chác, phần thưởng sẽ không dựa vào lao động như thước đo.
Phần thưởng trong nước Thiên Chúa không được tính theo số lượng giờ giấc nhưng trước hết phải căn cứ vào niềm tin: Tin vào sự quảng đại và tình thương bao la của Thiên Chúa và sau là trung thành với niềm tin đó.
Vì thế dù chỉ được Chúa kêu gọi một phút giây trước giờ tàn của cuộc sống thì sự trung thành cũng vẫn cần thiết.
Con người không có quyền ghen tị với sự quảng đại của Thiên Chúa. Nếu một ai đó thấy cuộc đời của mình không được Chúa đối xử lại một cách quảng đại, thì lý do không phải tại Chúa mà họ phải hồi tâm trở lại với lòng mình xem mình đã sống với Chúa như thế nào:
Ông chủ trong dụ ngôn đã tính toán với những ai đã muốn tính toán với ông. Nhưng ông lại rất quảng đại đối với những ai tin tưởng vào ông.
Để minh họa điều này tôi xin mời anh chị em nghe một câu chuyện. Câu chuyện này do văn hào Tagore viết ra. Ông là một người không có đạo nhưng những gì ông viết rất phù hợp với những Lời của Chúa trong Phúc âm.
Câu truyện có tựa đề là “Người ăn xin”
Con đi ăn xin từng nhà trên con đường làng. Bỗng con thấy một cỗ xe bằng vàng đang từ xa đi tới….như một giấc mơ, giấc mơ huy hoàng. Con tự hỏi ông vua nào mà lại lộng lẫy như thế? Lòng hy vọng trào lên trong lòng con. Con tự nghĩ:
– Thế là từ nay đời mình sẽ hết khổ!
Và con chuẩn bị sẵn sàng chờ Ngài đến….tay Ngài bung những đồng tiền vàng vung vãi trong đám cát bụi bên đường.
Và cỗ xe dừng lại nơi con đang đứng. Cái nhìn của đức vua đậu lại trên con….rồi Ngài bước xuống, miệng mỉm cười. Con cảm thấy như cơ may của đời mình đã tới.
Bỗng dưng con thấy đức vua chìa tay ra và hỏi
– Con có gì cho ta không?
Con bối rối ngỡ ngàng….Con từ từ thò tay vào trong bị rút ra một hạt lúa mì và dâng cho Ngài. Nhận hạt lúa mì xong, Ngài lên xe và tiếp tục đi.
Chiều đến….khi dốc những hạt lúa trong bị ra…thì thật ngỡ ngàng biết bao.
Một hạt vàng óng ánh nằm giữa những hạt lúa mì khác.
Con nức nở khóc và tiếc rẻ. Con tự nguyền rủa chính mình:
– Tại sao mình đã không dâng cả cho đức vua tất cả những hạt lúa mì mình có.
Có lẽ cuộc sống của chúng ta mỗi người nhiều khi cũng giống như thế. Chúng ta rất hẹp hòi với Chúa và với anh em. Rồi nhiều khi chúng ta thấy người nọ người kia được Chúa đối xử hơn chúng ta, thay vì chúng ta bình tâm xét lại xem chúng ta đã sống cho Chúa như thế nào, chúng ta lại đâm ra ghen tương phen bì với anh em và cả với Chúa nữa.
Giờ đây xin Chúa điều chỉnh lại cách sống của chúng ta sao cho những ngày tháng chúng ta sống trên đời là những ngày tháng tràn ngập niềm vui vì đó là những ngày chúng ta sống chan hòa với Chúa và với anh chị em chúng ta Amen.
.
Lm. Vũ Đình Tường
Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi. Nó biến đổi mà không phải là biến mất. Nó lui vào hậu trường nằm chờ cơ hội để cho mối ganh tị khác chiếm hữu trên sân khấu cuộc đời. Bằng chứng rõ ràng là có những ganh tị xảy ra lúc còn nhỏ, sau này thành người lớn nó lại xuất hiện và ngay cả tuổi cao niên nó vẫn còn tái diễn, trình làng. Nhiều vụ kiện cáo vì tranh nhau miếng cơm, manh áo. Nhiều người ham quyền cố vị vì ganh nhau ăn trên, ngồi trên, có cơ hội đọc diễn văn, tuyên bố, phát ngôn.
Cuộc sống Đông Tây đều có những điểm giống nhau như lúc nhỏ hay ganh ăn. Lớn hơn chút ganh chơi. Tuổi thiếu niên ganh nói. Tuổi thanh niên ganh xe mới. Tuổi sắp sửa lập gia đình ganh bồ nhí. Tuổi vào đời ganh nhà cao, cửa rộng, ganh chức tước, ganh tiền, hám danh. Có đủ ăn mặc, ganh đi đây đó. Khi về già ganh viện dưỡng lão và khi chết ganh đám táng lớn, mồ cao, mả rộng.
Ganh về tâm lí phát xuất do tự kiêu. Cho là mình hơn người mà không được trọng dụng. Cờ không đến tay không được phất. Chỉ trích, phê bình cho tài người xuống đề cao tài mình lên. Ganh trong trường hợp đó thường hay có phản ứng ngược vì càng cố khoe tài càng vạch ra nhiều kẽ hở bất tài.
Về của cải vật chất ganh tị nói lên điều không hài lòng, còn thiếu. Nếu hài lòng đã không ganh. Ganh vì tự thấy còn thiếu, muốn có hơn, nhiều hơn. Ganh vì lòng tham cũng có mà vì nghĩ về mình cũng nhiều. Nhiều người vay công, mượn nợ để trang hoàng nhà cửa, trưng đeo trên người để tỏ ra mình cũng như người hoặc hơn người.
Ganh ăn chính là trường hợp của người công nhân phàn nàn với ông chủ sau khi đã thoả thuận tiền công nhật là một đồng. Ông ta than phiền là phải vất vả nắng nôi suốt ngày. Người thợ thuê giờ sau hết cũng chịu nắng nôi giữa chợ suốt ngày. Cộng thêm cái lo lắng gia đình lấy của đâu ra cho bữa ăn tối. Đang lúc anh tuyệt vọng thì ông chủ đến cứu vớt anh. Không phải chỉ mình anh được ấm no, hạnh phúc mà cả gia đình anh, chung bữa cơm tối, được tụ họp xum vầy. Điều này cho thấy thực thi bác ái cho người nào đó thì không phải mình người đó hưởng mà cả người thân được hưởng nhờ việc tốt lành.
Nhóm thợ thuê buổi sáng sớm còn được bàn thảo giá cả thuê mướn công nhật. Nhóm thợ thuê vào giờ sau cùng không hề dám hé môi đặt vấn đề lương bổng. Có người thuê là mừng rồi. Còn đâu cơ hội để bàn định giá cả. Làm nguyên ngày có bữa cơm ngon; làm nửa ngày mong chén cháo lỏng. Dẫu thế, có vẫn hơn không. Nhóm thợ đầu tiên biết tiền công nhật một đồng một ngày. Nhóm thợ thứ hai nhận lời hứa được trả công xứng đáng. Nhóm thợ thứ ba không được hứa gì cả chỉ biết thế nào cũng được trả công. Ít nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào tốt của chủ vườn nho. Chủ vườn nho thuê thợ không phải vì cần mà vì lòng thương họ bơ vơ, không công việc làm nuôi thân. Chính ông xác định điều này. Nếu cần thợ cho vườn nho có lẽ ông đã thuê sáng sớm. Ông thuê vào giấc giữa trưa, gần tối vì thấy thợ chờ suốt ngày không ai thuê nên ông thuê. Thuê vì thương hại hơn là nhu cầu. Như thế việc ít, thợ nhiều. Nếu tính lợi người ta đã chọn thợ giỏi, lành tay nghề. Ông chủ vườn nho không tính lợi cho mình mà nghĩ đến an sinh của thợ nhiều hơn. Làm như thế ông thiệt về tài chánh nhưng lợi về đàng nhân đức, đàng nhân lành.
Người thợ lên tiếng phàn nàn nếu có lòng thương người hẳn phải nhìn biết ông chủ là người tốt và mang lòng cám ơn. Đàng này điều anh ước mong không thoả nên anh lên tiếng phàn nàn. Anh thấy lòng tham của anh mà không thấy lòng tốt của ông chủ vườn nho. Cách nhìn này khá thông dụng giữa các Kitô hữu. Chúng ta hay than phiền về cuộc sống, về đau khổ, về bệnh tật, về rủi ro mà không nhìn thấy Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Chúng ta cũng hay ghen với người này, bì với người khác mà không biết đem lòng cảm tạ những ơn Chúa ban. Chúng ta không dùng khả năng phát triển tài năng Chúa ban mà phí phạm tài năng vào việc tìm tòi, để ý phê bình, ghen với người khác. Người mình phê bình thường là người quen, người từng làm ơn hay là bạn chân tình. Chúng ta thử áp dụng câu ông chủ vườn nho nói với chính mình. Đặt mình vào chỗ người ghen tị với bạn bè, bà con để xét xem việc mình ganh tị xứng đáng hay mình đang chê trách lòng nhân từ của ông chủ.
Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?
.
Lm. Jos. DĐH.
Mức độ sôi động hay trầm lắng, cuộc sống có ngọt ngào cay đắng, tương quan xã hội sẽ có thân thiện, đằm thắm, từ lâu đã hình thành bức tranh cuộc đời mỗi người, cho dù cảm nhận đó còn lơ mơ đối với con tim và khối óc chúng ta. Trong nghệ thuật, sẽ không có đúng sai hoặc cao thấp, các tác giả đã có ý mặc vào mỗi bài thơ một sự tương phản của câu truyện tình, mỗi ca khúc sẽ vang vọng đong đưa như cặp tình nhân lãng mạn. Hôm nay đây, Đức Giêsu nói tới một bức tranh đẹp, nội dung và mầu sắc bức tranh thật sống động bởi lòng tốt của ông chủ, bởi sự ngạc nhiên của những người thợ được gọi đi làm vườn nho. Đường nét bức hoạ tuyệt vời do tình yêu thương của chủ vườn nho, ông chủ không xét tuổi tác, sức khoẻ, thời gian, trong khi đó tiền công, tiền thưởng trước sau đều thoả đáng công bằng.
Để vẽ một bức tranh, trước hết người hoạ sĩ cần có một nền trắng, rồi sau đó ông sẽ làm rõ những ý tưởng và sắc mầu hài hoà mà tâm hồn người nghệ sĩ muốn diễn tả. Hình ảnh Thiên Chúa bao dung sẽ rõ ràng biết bao, khi tâm hồn con người được “cài đặt” vào đó tình yêu và sự trinh trong. Hoàn cảnh, điều kiện mỗi người tuy không giống nhau, nhưng ai cũng được phản ánh nét đẹp cao quý của Thiên Chúa để tô vẽ bức tranh tâm hồn mình thật ý nghĩa hơn. Câu truyện dụ ngôn được mô tả đầy kỹ thuật, mang dáng dấp một bức tranh rực rỡ mầu, do nhiều tình tiết bất ngờ. Khởi đầu của ngày mới, ông chủ ra đi tìm thợ làm vườn nho, tiền công cũng được thoả thuận sòng phẳng, rồi đến giờ ba, giờ sáu, giờ chín, giờ thứ mười một, ông chủ thật tốt lành, đúng, ai cũng có cơ hội nhận phần thưởng của ông.
Tục ngữ có câu: gai trên rừng ai vót mà nhọn, trái trên cây ai vo mà tròn. Thoáng nghe câu ví von ấy, chúng ta có cảm giác như tất cả vạn vật là do “thiên định”, nhưng không, gai nhọn đinh sắt, trái quả, cây thập giá, đều là những hình ảnh xuyên suốt về bức tranh đầy sắc mầu ơn cứu độ cho hôm nay và mai sau. Bức tranh đẹp với dụng ý mời số dân được tuyển chọn đi làm vườn nho từ sáng sớm, với đầy hứa hẹn, nhưng còn mở ra hy vọng cho người thợ làm việc chăm chỉ, dù quãng thời gian được làm việc vào giờ chiều. Bức tranh dụ ngôn hôm nay không những gây chấn động về tính hào phóng của ông chủ, mà thực sự còn sôi nổi khi trời đã về chiều, khi mà tiền công, tiền thưởng sẽ công minh rõ ràng cho đám thợ.
Nhiều người đọc dụ ngôn “đi làm vườn nho” hôm nay cứ tiếc mãi, nếu như đừng ai phàn nàn, khiếu nại, ganh tị với nhưng người làm vườn nho vào giờ cuối, bức tranh sẽ đẹp và hoàn hảo biết bao ! Thực ra thì không phải ai cũng đã đọc, đã hiểu, câu thành ngữ: sống vì nhau, dễ bền ; sống vì tiền, dễ vỡ. Đức Giêsu có ý đưa dụ ngôn đi làm vườn nho để làm sáng tỏ về giáo lý yêu thương, và lòng bao dung của Thiên Chúa đối với mọi người: giầu nghèo, khờ hay khôn, tội lỗi hay đức độ, tất cả đều có cơ hội đi làm vườn nho và lãnh thưởng. Thiết tưởng mỗi người cũng nên suy xét, tôi được gọi vào làm vườn nho giờ thứ mấy, tôi đã nhận một số vốn là mấy nén bạc, và liệu tôi có khó chịu, phàn nàn, bất mãn vì người anh chị em tại sao may mắn hơn tôi ? Rất có thể nhiều người đã đọc được ý tưởng này: ganh ghét là tự thú sự thua kém của mình. (Victor Hugo).
Người ta có kể câu truyện “phục vụ” như sau: một chú heo nhỏ đến xin làm môn đệ của vị thần, vị thần vui vẻ đón nhận đệ tư mới. Lát sau, một con nghé nhỏ từ trong đám bùn lầy bước ra, toàn thân nghé lấm lem dơ bẩn. Vị thần nói với chú heo nhỏ: heo ơi, con hãy tới giúp nghé con tắm rửa cho sạch sẽ đi. Chú heo nhỏ trố mắt nhìn ngạc nhiên, con là môn đệ của thần, sao lại có thể đi phục vụ một con nghé bẩn thỉu như thế chứ ? Vị thần bảo chú heo nhỏ, con không đi phục vụ kẻ khác, thì kẻ khác làm sao có thể biết được con là môn đệ của ta ? Vâng, để ghi tên làm đệ tử của một vị thần, không khó, nhưng để sống tinh thần phục vụ hầu giúp mọi người nhận biết “mình” là đệ tử vị thần, nhất định phải có lòng bác ái vị tha.
Tất cả số thợ được gọi làm vườn nho từ sáng sớm cho đến chiều tàn, và cả chúng ta hôm nay, ai cũng có cơ hội góp phần làm cho bức tranh đẹp của người hoạ sĩ thêm phong phú sống động. Đức Giêsu mời gọi mỗi người hãy ý thức mình là người thợ chăm chỉ, đồng thời hãy lấy bài học công bằng yêu thương của ông chủ vườn mà cư xử tốt với nhau. Đừng than thân trách phận vì tiền công tiền thưởng: được voi đòi tiên, hay một số còn nói “sóc” hơn: được voi, đòi hai Bà Trưng. Đừng bao giờ ganh tị với người anh chị em mình, đừng bao giờ có ý định làm mờ đi hình ảnh yêu thương mà Thiên Chúa đặt để nơi tâm hồn ta. Xin cho bức tranh đẹp mà mỗi người có cơ may được cộng tác vào công trình của Thiên Chúa, sẽ mãi nguồn vui hạnh phúc cho ơn gọi nước trời hôm nay và mai sau. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới : “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”…Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).
Dụ ngôn “ thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông …”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật. Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày. Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau. Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều : – 3 giờ là 9 giờ sáng – 6 giờ là 12 giờ trưa – 9 giờ là 3 giờ chiều – 11 giờ là 5 giờ chiều
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. “Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: “Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”. Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
2. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ? Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời. 1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
3. Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận “giữ đạo” để được “lên thiên đàng”. Nhưng người ta cũng có thể “sống đạo” chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành “nô lệ”, thành “kẻ làm công”. Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Ngày xưa, có hai người hàng xóm ghen ghét nhau. Người này ước mong người kia gặp hoạn nạn. Người kia ước mong người này chết. Vì thế, họ ăn không ngon, ngủ không yên khi ước mong xấu xa của họ chưa được toại nguyện. Một hôm, hai người đang cãi vã, ẩu đã lẫn nhau, thình lình Quỷ Vương hiện ra và bảo rằng: “Ta cho chúng bay mỗi đứa một điều ước với điều kiện như sau: Điều ước ấy sẽ ứng cho mình và cùng lúc ứng gấp đôi cho người kia. Nhanh lên ! Ta không có thì giờ để chờ đợi đâu.” Vì ganh ghét nhau, không ai muốn cho người khác hơn mình, cho nên người láng giềng thứ nhất ước: “Xin Quỷ Vương cho tôi đui một con mắt”. Thế là điều ước được thỏa mãn. Người này liền đui một con mắt. Và người kia đui cả hai con mắt. Người kia tức quá, liền ước trả đũa: “Xin Quỷ Vương cho tôi gãy một chân”. Lập tức anh ta gãy một chân. Và dĩ nhiên người láng giềng gãy luôn hai chân. Hậu quả: Người này bị đui một mắt và gãy hai chân. Người kia bị đui hai mắt và gãy một chân.
Trong xã hội chúng ta đang sống, nhiều người vẫn có cách cư xử tương tự như hai người trong câu chuyện trên đây: Thà chấp nhận mình “đui một mắt, gãy một chân” để người khác “đui hai mắt, gãy hai chân” chứ không muốn người khác hơn mình. Vì sao người ta lại cư xử với nhau như thế? Vì người ta ghen tị nhau. Người ta có thể ghen tị nhau đủ mọi phương diện: ghen tị vì thấy người khác giàu có hơn mình; ghen tị vì thấy người khác giỏi giang hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đẹp hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đạo đức hơn mình; ghen tị vì thấy người khác thành công hơn mình; ghen tị vì thấy người khác hát hay hơn mình; ghen tị vì thấy người khác được yêu mến hơn mình…Vì ghen tị nên sinh ra nói xấu, dèm pha, hạ bệ và thậm chí ẩu đã, chém giết lẫn nhau.
Chúng ta vẫn thấy điều này xảy ra trong Kinh Thánh: Khi Đức Chúa chấp nhận lễ vật của Abel mà không chấp nhận lễ vật của mình, vì lòng ghen tị, Cain đã giết chết Abel (x. St 4, 2-26); Khi dân chúng ca tụng “Đavít giết giặc được hàng vạn còn Saul chỉ giết được hàng ngàn”, vì lòng ghen tị, Saul tìm cách làm hại Đavít (x. 1 Sm 18, 6-9); Khi thấy dân chúng mến mộ, đi theo Đức Giêsu ngày càng đông, vì lòng ghen tị, những người lãnh đạo Do Thái tìm cách bắt bẻ, hạch sách, làm hại và cuối cùng đã giết chết Đức Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy, những người thợ làm vườn nho đến trước vì ghen tị nên không chấp nhận ông chủ trả công cho người đến sau cũng một đồng lương như mình: “Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,11-12). Hơn thế nữa, khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu còn nhắm tới việc dân Do Thái ghen tị cả về ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho dân ngoại. Thật vậy, người Do thái quan niệm rằng: Họ là dân riêng của Chúa, là con cái Abraham, là những người trung thành với lề luật của Môsê, được thể hiện ở giáo ước Sinai giữa Israel với Giavê. Vì thế, chỉ có họ mới xứng đáng được lãnh nhận ơn cứu độ, còn dân ngoại là dân đáng bị hủy diệt, không xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ. Đức Giêsu đã phá quan niệm sai lầm của người Do Thái và sửa trị thói ghen tị của họ bằng cách cho họ thấy lòng bác ái cao cả của Thiên Chúa thể hiện nơi ông chủ vườn nho: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 15). Thật vậy, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho dân Do Thái. Đồng thời, Ngài cũng ban ơn cứu độ cho dân ngoại. Nước Trời không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn cho cả dân ngoại. Vào Nước Trời không phải do bởi tiền lương hay do một đặc ân nhưng là do tình thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, vào Nước Trời là ơn ban nhưng không của Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta mới hiểu câu nói của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: Tư tưởng của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng của con người (x. Is 55,8). Thật vậy, cách cư xử của con người chỉ ở mức công bằng: Người làm ít sẽ lãnh lương ít, người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều. Còn cách cư xử của Thiên Chúa thì vượt xa sự công bằng. Đó là tình thương và lòng quảng đại. Vì thế, Ngài đã trả cho người đến sau hết nhiều hơn so với lương anh ta được hưởng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mời gọi chúng ta thực hiện những điều sau đây:
Thứ nhất, phải loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta. Bởi vì, ghen thường đi liền với ghét. Ghét thường đi liền với nói xấu, dèm pha, làm hại nhau. Người ghen tị thường sống trong sự bất an, khó chịu, buồn phiền vì thấy người khác hạnh phúc, thành công hơn mình. Cho nên, ghen tị không những gây ra hậu quả vô cùng tai hại cho đối phương mà còn cho cả chính bản thân mình nữa. Nhà văn Balzac từng nói: “Người có tính ghen tị đau khổ hơn bất cứ một người bất hạnh nào, bởi hạnh phúc của người khác cộng với sự bất hạnh của mình làm cho ta đau khổ gấp nhiều lần”. Thánh Cyprian nói: “Những tội khác thì còn có giới hạn, còn tội ghen tị thì không!”. Vì vậy, hãy loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta.
Thứ hai, hãy tập sống khiêm nhường vì trước mặt Chúa chúng ta là thụ tạo bất toàn. Hãy vượt lên trên sự công bằng để sống yêu thương, quảng đại với mọi người vì những gì chúng ta có đều do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Hãy vui khi thấy người khác gặp may mắn, thành công. Hãy vui khi có nhiều người tội lỗi trở về với Chúa, nhiều người ngoại đạo gia nhập Giáo hội…Hãy chia sẻ sự rủi ro, hoạn nạn, đau khổ của những người xung quanh. Thánh Phaolô dạy: “Hãy vui với người vui, hãy khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Thứ ba, hãy làm việc vì lòng mến Chúa chứ không phải để tính toán với Ngài. Chúa không muốn chúng ta là kẻ làm thuê để Ngài trả tiền lương. Chúa không muốn chúng ta tính toán với Ngài về số lượng công việc chúng ta làm nhưng Ngài muốn chúng ta sống với Ngài giống như người con hiếu thảo đối với cha mẹ mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống, xin cho chúng con biết đối xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng quảng đại như Chúa. Amen.
.
Phạm Anh
Khi làm việc ai cũng muốn được trả thù lao xứng đáng với công sức đã bỏ ra. Phải chăng ông chủ trong “dụ ngôn thợ làm vườn” (Mt 20, 1-16a) đã thiên vị, đã không công bằng ? Những người làm trước mà lương cũng bằng người vào làm sau là một quan tiền. Ông chủ đã giải đáp mọi thắc mắc : “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức ?” (Mt 20,15)
Xét đi xét lại, ông chủ chẳng phải không công bằng hay thiên vị, nhưng còn vượt trên sự công bằng là tình yêu, lòng bao dung, bác ái. Nhìn lại, tất cả mọi người đều được trả lương, Cuộc sống trong ngày của họ được đảm bảo. Nếu những người vào làm trước không chăm chỉ, không năng suất, không hiệu quả, ông chủ có quyền trừ lương. Nhưng ông chủ lại không trừ lương mà lại trả đúng theo như đã thỏa thuận.
Hãy đặt mình vào trường hợp những người vào làm sau. Họ lo lắng, sợ. Hôm nay, họ không được thuê làm, họ sẽ lấy gì ăn, lấy gì để chi trả cho cuộc sống ? Họ chẳng có gì để đảm bảo nuôi sống họ. Không những thế, họ còn bị người khác chê cười, cho họ là những người lười biếng. Nhưng thực tế, họ không muốn như vậy, họ cũng muốn làm việc, nhưng họ chưa có cơ hội may mắn. Ông chủ trả lương cho họ bằng với những người làm trước để họ có điều kiện trang trải cuộc sống hằng ngày. Đó chẳng phải là điều hợp lý và rất tốt sao ?
Để dạy dân chúng biết về tình thương Thiên Chúa, biết về Nước Trời, Đức Giêsu dùng “dụ ngôn thợ làm vườn”. Ông chủ chính là Thiên Chúa, người làm vườn nho chính là mỗi người chúng ta, phần thưởng chính là Nước Trời. Thiên Chúa sinh chúng ta vào thế giới này trong những hoàn cảnh, điều kiện, môi trường sống khác nhau, và những thời gian khác nhau. Con người được mời gọi cộng tác vào chương trình của Chúa. Con người dù đến trước hay đến sau, với tình yêu thương, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn được mời gọi họ hướng tới phần thưởng Nước Trời. Những người đến trước có thể là những người sống tron môi trường, hoàn cảnh tốt. Những người đến sau có thể là những người chẳng mấy tốt lành, tội lỗi, hay những anh chị em lương dân. Hoàn cảnh của họ có thể không may mắn, họ không muốn làm những việc trái lương tâm, nhưng họ buộc phải làm thế. Đến phút cuối, họ ăn năn và trở lại, nhận biết Chúa, chẳng lẽ Chúa lại chấp tội họ sao ? Thiên Chúa luôn thương xót, tha thứ và đón nhận họ trong vòng tay yêu thương của Người. Những người như vậy chẳng lẽ chúng ta không vui vì họ được trở lại trong gia đình của Thiên Chúa sao ? Hay với bản tính ghen tương, con người hắt hủi, lên án, phê, phán, so bì tính toán với họ ? Chúng ta được mời gọi bước ra khỏi những tính toán hẹp hòi để giúp đỡ, cầu nguyện, giúp họ được trở lại lãnh nhận hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin uốn nắn chúng con. Xin cho chúng con nhìn tha nhân trong ánh mắt yêu thương, bác ái, trong chiều hướng tốt, không phải là ghen tương ích kỷ, xét đoán. Xin cho chúng con luôn biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để hiểu và chia sẻ.
Lạy chúa, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người rất riêng tư và cá vị. Xin cho chúng con luôn nỗ lực đáp trả tình yêu Chúa từng ngày. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được chủ trả tiền công đúng như thoả thuận, không thiếu một hào. Thế nhưng họ vẫn không hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền công bằng mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Ca-in ghen tị với A-ben chỉ vì lễ vật của A-ben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Ca-in đánh chết đứa em thân yêu.
Lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un khi Đa-vít chiến thắng Gô-li-át và đập tan quân thù nên dân chúng ca tụng Đa-vít hơn cả vua, khiến vua Sa-un lùng sục Đa-vít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy (Samuen I, chương 17-18).
Nhiều người không muốn cho kẻ khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh.
Lòng ghen tị khiến người ta xa lánh nhau, bôi nhọ, chỉ trích, bôi bác nhau, làm xấu đi những tương quan tốt đẹp giữa anh em, bạn bè.
Làm sao dập tắt được lòng ghen tị?
Muốn dẹp bỏ lòng ghen tị, chúng ta cần nhận thức hai điều nầy:
- Sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta.
Thế giới nầy cần phải có nhiều người tài giỏi hơn bạn và tôi, càng nhiều càng tốt. Nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng bạn và tôi thôi thì làm gì có máy bay, có TV, có điện thoại di động và máy tính…
Xã hội nầy cần phải có nhiều người giàu có hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nghèo như bạn và tôi thì lấy đâu ra vốn để đầu tư và phát triển. Thế là quê hương đất nước còn lâu mới thoát cảnh lạc hậu nghèo nàn.
Vậy thì hãy mừng vui vì có nhiều người trổi vượt hơn ta, vì sự thành công và phát triển của họ sẽ mang lại lợi ích cho bản thân ta cũng như cho xã hội.
- Tất cả ki-tô hữu làm nên một thân thể
Thánh Phao-lô dạy rằng: Tuy có nhiều bộ phận trong cơ thể (như tim, gan, phổi…) nhưng tất cả những bộ phận ấy đều liên kết với nhau để làm nên một thân thể thế nào, thì “tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” như thế (I Cor 12, 12-13).
Và trong thư Cô-rin-tô, thư Ê-phê-sô, thánh Phao-lô lặp lại chân lý nầy:
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (I Cor 10, 17)(Ep 3, 5-6).
Đây là một sự thật hết sức quan trọng: Mỗi cá nhân như là một tế bào hay như là một bộ phận trong một thân thể lớn lao là nhân loại. Người nầy như là quả tim, người kia như là buồng phổi… có tương quan chặt chẽ và mật thiết với nhau. Vì thế, sự thành công của người nầy sẽ mang lại lợi ích cho người kia.
Do đó, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người.
Vì thế, thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em bè bạn chung quanh trổi vượt hơn ta, ta hãy thành thật chúc mừng vì nhờ thế đất nước nầy sẽ được tiến bộ hơn, thế giới này sẽ văn minh hơn.
.
Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng
Năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố một thông điệp mang tên: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”. Lòng thương xót của Thiên Chúa được trình bày ở nhiều khía cạnh. Trong đó trọn số 12 nói về sự công bằng của Thiên Chúa: “… Không phải vô cớ mà Đức Kitô đã trách những kẻ nghe Người về việc họ trung thành với giáo thuyết Cựu Ước mà giữ cái thái độ được bày tỏ trong những lời này: “Mắt thế mắt, răng đền răng” (Mt 5, 38). Cách làm biến chất sự công bằng vào thời ấy là như thế và các hình thức hiện đại tiếp tục rập khuôn theo đó. Thật vậy, điều hiển nhiên là nhân danh một cái gọi là công bằng, đôi khi người ta tiêu diệt tha nhân, người ta giết hại, người ta tước đoạt tự do, người ta lột mất những quyền sơ đẳng nhất của con người. Kinh nghiệm quá khứ và thời chúng ta chứng tỏ rằng chỉ có công bằng thôi thì không đủ, và thậm chí công bằng có thể dẫn tới chỗ tự phủ nhận và hủy diệt chính nó, nếu người ta không để cho sức mạnh sâu xa hơn là tình thương có thể uốn nắn đời sống con người trong các kích thước khác nhau của đời sống này” (Dives in Misericordia- số 12).
Đọc Lời Chúa hôm nay, ý nghĩa của lòng thương xót mang chiều kích công bằng đó càng được diễn tả sâu đậm hơn. Những người làm vườn nho trách ông chủ vì ông chỉ trả mỗi người một đồng, bất kể người đó làm từ sáng tới chiều, hay chỉ mới làm có một giờ. Trả tiền lương như vậy, phải chăng ông chủ là người không công bằng, và hình như những người làm vườn nho trách ông chủ là đúng?
Ông chủ này ám chỉ Thiên Chúa. Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho mọi người. Ơn cứu rỗi không phân biệt thứ bậc. Dù cho người giữ đạo từ nhỏ đến lớn, hay người theo Chúa ở lúc cuối đời đều chỉ nhận một ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện mà thôi.
Như vậy có phải Thiên Chúa bất công? Nếu Thiên Chúa không công bằng, thì lời khẳng định vừa mới đây của tôi: “Lời Chúa hôm nay diễn tả sâu đậm Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mà lòng thương xót này mang chiều kích công bằng” đúng là lời thiếu suy nghĩ thấu đáo? Sự thật Thiên Chúa có công bằng không?
Bài đọc một trích sách tiên tri Isaia trả lời rất rõ: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta”. Rất đúng! Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa, còn con người, dù có giỏi đến đâu, trước sau vẫn chỉ là con người. Tư tưởng, đường lối, suy nghĩ và cách hành động của con người mãi mãi chỉ là một thứ tư duy quanh quẫn trong mức độ của một thụ tạo, một con người không hơn, không kém.
Công bằng mà những người thợ làm vườn nho trách ông chủ là một thứ suy nghĩ của con người, một thứ công bằng theo nghĩa sòng phẳng: tôi làm một giờ thì phải trả lương đúng một giờ cho tôi; còn anh kia chỉ làm nửa giờ, anh ta chỉ có quyền nhận mức lương nửa giờ mà thôi. Một thứ công bằng hoàn toàn không có lòng thương xót.
Vậy phải chăng, chỉ có công bằng là đủ? Là Kitô hữu, điểm qui chiếu cho ta vẫn phải là Lời Chúa: “Đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta”. Công bằng mà con người áp dụng không là công bằng theo kiểu của Thiên Chúa. Thứ công bằng ấy cần nhưng chưa đủ.
Công bằng của Thiên Chúa đòi phải có lòng thương xót. Nếu ngày nào Thiên Chúa chiếu theo công bằng của con người, khi con người phạm tội, Thiên Chúa cứ việc trừng phạt xứng tội của họ là xong.
Nhưng Thiên Chúa không làm thế. Để cứu rỗi loài người, lòng thương xót của Thiên Chúa đã nhập thể. Chúa Kitô là lòng thương xót của Thiên Chúa trở thành người để thực hiện lẽ công bằng, một thứ công bằng của tình yêu, công bằng của lòng thương xót mà một người Cha dành cho những đứa con phản nghịch.
Công bằng của lòng thương xót nơi Thiên Chúa là: tội vẫn cứ là tội, vẫn là điều xấu cần lên án, nhưng tội nhân thì không bao giờ bị loại trừ.
Người nhận biết Thiên Chúa cả một đời vẫn có một giá trị lớn lao, cộng với một bề dày công nghiệp do sự trung thành sống đức tin của họ.
Nhưng người chỉ tôn thờ Thiên Chúa trong một giây phút cuối đời nào đó, thì chính vì đức tin, họ được cứu rỗi, nhưng bề dày công nghiệp của họ thì đâu phải là cả một đời sống đức tin!
Như ông chủ thuê người làm vườn nho, Thiên Chúa cũng mời gọi bạn và tôi, kẻ trước người sau cùng lãnh nhận ơn cứu rỗi do chính Chúa Kitô thực hiện.
Nhưng để đạt được ơn cứu rỗi đó, Thiên Chúa đòi ta phải xây dựng Nước Trời ở trần gian bằng sự công bằng của lòng thương xót chứ không phải công bằng theo nghĩa sòng phẳng, không phải “ăn miếng trả miếng”.
Tôi đã từng chứng kiến cảnh một bà mẹ bán chè nuôi hai đứa con học đại học, bị chủ nợ nhiếc mắng vì không trả nổi món nợ 500.000 đồng. Người mẹ tội nghiệp đó đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ mà không biết phải làm gì hơn.
Chắc không ai mà không nghĩ rằng, người chủ nợ kia đòi nợ là đúng lẽ công bằng. Nhưng công bằng đó không có lòng thương xót. Bởi tôi cũng biết người chủ nợ này cho vay chuyên nghiệp.
Tin rằng bạn và tôi sẽ thực thi Lời Chúa mà xây dựng Nước Trời ở trần gian này theo lẽ công bằng của lòng thương xót, như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, để nhờ đó chúng ta lãnh nhận ơn cứu rỗi Chúa ban.
.
CHÚA CÔNG MINH TRONG MỌI ĐƯỜNG LỐI CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Sao tôi lại làm người trong thân phận này? Vóc dáng không cao, khuôn mặt không dễ nhìn, sắc tộc vào hàng thiểu số, gia cảnh thì nghèo hèn, hoàn cảnh xã hội quá khó khăn…Rất nhiều nỗi băn khoăn, đúng hơn là nỗi bất bình cho số phận mình, số phận bị chiếu bởi ngôi sao xấu nào đó. Chập chững vào tuổi thanh niên, nhiều bạn trẻ không ít lần phiền trách số phận bản thân với hiện trạng đang là của họ. Nhiều giấc mơ xuất hiện như một sự giải tỏa khát mong thầm kín: giá như tôi là thế này, giá như tôi được như kia… Trời xanh có công minh chăng khi có kẻ sinh ra đã là con vua, còn rất nhiều kẻ lại mang kiếp con nhà chùa?
Cùng với những người làm vườn nho từ sáng sớm hay gần cả ngày, chúng ta lắm khi tự hỏi rằng chúng ta cum cúp giữ đạo, chịu nhiều thua thiệt ở đời này so với rất nhiều bà con khác đạo và bà con không tôn giáo để rồi lại cũng sẽ lãnh mỗi người một đồng tiền lương sao? Nói gì đến bà con lương dân hay bà con khác đạo sống ngay lành, người thu thuế Chúa kể chuyện chỉ đấm ngực và xin: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội, chưa hết, cái anh tử tội năm nào bị treo trên thập giá cạnh Chúa, chỉ với lời cầu xin: “lạy Ngài khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi” thì đều được công chính hóa, được phúc thiên đàng. Thế thì sự công bình ở đâu?
“Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” ( Is 55,8-9 ).
Tư tưởng của Ta: Mọi người đều là hình ảnh của Ta, đều là con cái của Ta. Tất cả mọi người, ngươi và người khác đạo hay người chưa biết Ta, thậm chí người đang không nhận Ta, hết thảy không phải là cái gì xa lạ nhưng chính là hình ảnh của Ta, hết thảy không phải là là người nô lệ, kẻ làm thuê nhưng là con cái của Ta. Ta là người Cha nhân hậu, thiện toàn, cho mưa rơi đều xuống trên người con lành thánh lẫn đứa con bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người con công chính lẫn đứa con tội lỗi. Ta chẳng hề muốn một đứa con nào phải hư mất. Ta kiên nhẫn và tạo dịp thuận lợi để những đứa con hư hỏng biết ăn năn sám hối và được sống. Đã là con cái, thì với Ta, đứa nào cũng là quý giá và không có gì sánh được, thậm chí Ta vui mừng vì tìm được đứa con lạc đường, xa nhà, hơn là chín mươi chín đứa con đang ở trong gia đình.
Vấn đề là ngươi cố tìm hiểu tư tưởng của Ta, tấm lòng của Ta. Hiểu được lòng trí của Ta thì ngươi sẽ nhận ra người đồng loại, dù đó là người tội lỗi, người khác niềm tin, người khác chính kiến… họ thảy đều là anh chị em của ngươi. “Anh em như thể tay chân”. Ước gì ngươi cảm nhận được chân lý này.
Đường lối của Ta: Ta xử với con cái không như những gì chúng đã làm, mà như chúng đang là. Ông chủ vườn nho đã đối xử với với đám nhân công không như họ đã làm được những gì, mà như họ là công nhân của ông ta. Có thế thôi. Vậy, Ta vốn là người Cha giàu lòng thương xót lại không đối xử với đàn con như chúng là con của Ta, những đứa con mà ta đã nhận làm dưỡng tử qua chính Con Một Ta hay sao?
Chính các ngươi là người cha, người mẹ trần gian còn vương nhiều điều gian ác mà còn biết lấy của tốt mà trao cho con cái, còn biết lo lắng cho đứa con trong nôi chưa làm được sự gì, một lẽ tất yếu là vì chúng là con cái các ngươi. Thế thì sao các ngươi lại bực mình khi Ta tỏ lòng nhân hậu với những người hèn kém, những người tội lỗi… vì chúng nó cũng như các ngươi thảy đều là con cái của Ta.
Tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi tuy có bị tội lỗi làm sai lệch nhưng tiên vàn vẫn là do Ta đặt để ngay từ đầu buổi tạo dựng. Chính vì thế, tư tưởng của Ta và đường lối của Ta tuy có cao xa hơn tưởng và đường lối các ngươi nhưng vẫn có nét nào đó nơi tư tưởng và đường lối các ngươi, dĩ nhiên là chúng cần phải được chỉnh hướng.
Một vài cách thế chỉnh hướng tư tưởng và đường lối của các ngươi: Hãy mở lòng đế lắng nghe lời Con Một của Ta, Giêsu Kitô:
1.Lạy Cha chúng con ở trên trời (Mt 6,9): Lời kinh nguyện duy nhất mà Con Một của Ta chỉ dạy các ngươi khi cầu nguyện, nhắc nhở các ngươi hãy xác định đúng vị thế các ngươi trước mặt Ta và trước tha nhân, bất kể họ là người thế nào. Ta là người Cha duy nhất và tất cả các ngươi đều là anh chị em với nhau cùng với người anh cả là Con Một của Ta nhập thể làm người, Giêsu Kitô. Các người đừng quên rằng sự thường trong các buổi cử hành Phụng vụ, các người đều có cất lên lời kinh nguyện này: Lạy Cha chúng con ở trên trời…
2.Những gì các ngươi muốn người ta làm cho mình thì hãy làm những điều ấy cho người ta (Mt 7,12). Không dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà cần phải tích cực làm những điều tốt đẹp cho tha nhân. Vì tất cả lề luật và lời Ngôn sứ đều quy về đó. Điều này sẽ thành hiện thực khi các ngươi chân nhận tha nhân là huynh đệ nghĩa thiết của các ngươi. Đã là huynh đệ nghĩa thiết, tình như thủ túc, như chân tay mình, như chính bản thân mình thì chuyện ganh tị, đố kỵ sẽ chẳng còn lý do gì để tồn tại.
Trở lại với sự băn khoăn hay nỗi bất bình về số phận xem ra chẳng may của nhiều người thì thú thật sẽ khó có lời giải thích thỏa lòng. Cùng tốt nghiệp cử nhân hạng ưu như nhau, nhưng một bạn trẻ xuất thân từ gia đình nghèo hèn, thiếu điều kiện, sẽ có niềm vui khác xa một bạn trẻ con nhà giàu có, đủ đầy điều kiện. Một thực tế của cuộc sống, hy vọng có thể giúp nhiều người thoạt sinh ra đã ở trong hoàn cảnh thiếu may mắn, xét dưới nhãn quan nhân loại. Dù Hy Lạp hay Do Thái, dù nô lệ hay tự do thì cái đích đến là được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc Nước Trời, thì đều ở trong tầm tay của mọi người. Hơn nữa dưới nhãn quan Tin Mừng thì những người xem ra kém may mắn, lại có nhiều thuận lợi để đạt đến hạnh phúc Nước Trời hơn. Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này qua các mối phúc, cũng như các mối họa (x.Lc 6,20-26).
Dù ở trong hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi theo nhãn quan nhân loại hay theo nhãn quan Tin Mừng thì mọi sự tốt đẹp đều là có thể, nếu như chúng ta xem nhau như anh chị em. Xin được kết thúc những dòng chia sẻ này bằng câu chuyện sau : Trong một cuộc thi điền kinh môn chạy đường dài (Maraton), có hai anh em ruột cùng tham gia thi chạy với nhiều người khác. Còn khoảng một trăm mét là đến đích, về nhất. người anh ngoái đằng sau thấy em mình cũng bỏ đoàn chạy phía sau khá xa, nhưng dường như đạng bị chấn thương nào đó nên phải khập khiễng trên đoạn đường cuối. Người anh dừng lại chờ người em đến và dìu người em chạy nốt đoạn ngắn còn lại. Đứng trước vạch đích, hai anh em cùng hô một hai ba: chạm đích. Ban tổ chức hôm ấy đã phải trao hai huy chương vàng, dù không thể tiên liệu. Mọi sự đều là có thể trong tình yêu, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).
.
GHEN TUÔNG ÂU CŨNG THẾ GIAN THƯỜNG TÌNH
Lam Thy
Lương bổng, công xá là động lực quan trọng giúp con người có thể làm việc hiệu quả. Tiền lương thường được tính bằng đồng tiền, mà “Đồng tiền liền khúc ruột” (tục ngữ Việt Nam), nên vấn đề trở nên thật rắc rối. Chức càng lớn thì bổng càng to, cấp càng to thì lương càng bự… để rồi từ đó nảy sinh ra giai cấp và vấn đề mua quan bán tước, chạy chức chạy quyền. Tâm lý chung của con người là thế. Người ta không muốn cho kẻ khác có tài hơn mình hoặc được ưu đãi hơn mình, thậm chí còn không muốn cho người khác bằng mình nữa. Ai cũng muốn mình mới là người nổi trội hơn, đáng được ưu đãi và tôn vinh hơn. Lòng ghen tị che mờ lý trí, khiến con người nhiều khi trở thành lố bịch, chỉ thấy mình là “number one”, còn tất cả chỉ là “number ten” không đáng một xu. Ấy là chưa kể nhiều khi ghen tị trở thành ghen tức, rồi ghen tức trở thành ghen ghét, hận thù cũng chẳng bao xa.
Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” trong bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXV/TN-A – Mt 20, 1-16a) trình thuật: Tất cả những người thợ vào làm vườn nho từ tảng sáng tới những người vào làm giờ thứ ba, thứ sáu hay thứ mười một, đều lãnh tiền công bằng nhau (một quan tiền). Những người vào làm trước nhất đã “vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt 20, 11-12). Suy đi nghĩ lại, thấy quả thực con người là thế, nếu không thế thì đã chẳng là con người. “Ghen tuông âu cũng thế gian thường tình” (Truyện Kiều). C’est la vie! Đời mà! Ghen tuông cũng có nhiều dạng (ghen tuông, ghen tị, ghen ghét, ghen tức) và ở nhiều lãnh vực khác nhau (tình, tiền, danh vọng, bổng lộc…): Từ tình cảm trai gái đến vợ chồng, rồi giữa cha mẹ và con cái, anh em với nhau trong gia đình, đến làng xóm, công tư sở, đến quốc gia, thậm chí còn có cả trường hợp giữa những quốc gia trên thế giới cũng ghen tức với nhau nữa.
Cựu Ước nói về chuyện ghen tuông rất nhiều: Câu chuyện ghen tức giữa Ca-in và A-ben đưa đến cảnh Ca-in đánh chết em ruột mình chỉ vì lễ vật của A-ben được Thiên Chúa chấp nhận, còn Ca-in thì bị khước từ (St 4, 1-8). Cảnh vua Sa-un ghen tức với Đa-vít chỉ vì Đa-vit chiến thắng vang dội quân Phi-li-tinh, được cả triều đình khâm phục. Một nhà vua quyền thế còn ghen tị với cả con của triều thần dưới quyền mình (Vua Sa-un hỏi: “Hỡi người thanh niên, con là con ai?” Đa-vít trả lời: “Con là con của tôi tớ ngài là Gie-sê, người Bê-lem.” – 1Sm 17, 58)! Từ ghen tị nhỏ nhen đi tới chỗ đâm chém giết hại nhau cũng chẳng bao xa (“Vua Sa-un nói: Người ta cho Đa vít hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi. Từ ngày đó về sau, vua Sa-un nhìn Đa-vít với con mắt ghen tị… Vua Sa-un phóng cây giáo và nói: “Ta phải đâm Đa-vít, ghim nó vào tường mới được.” Nhưng cả hai lần Đa-vít đều tránh được.” Cuối cùng, “vua Sa-un trở thành kẻ thù của ông Đa-vít suốt đời.” – Sm 18, 10-11.29). Chuyện ghen tị còn xảy ra giữa Ep-ra-in với Giu-đa (Is 11, 11-13), rồi còn biết bao trường hợp khác nữa …, nhiều, nhiều lắm!
Cựu Ước thì như vậy, sang đến Tân Ước thì sao? Ngay trong nội bộ các môn đệ đầu tiên của Chúa cũng có cảnh ghen tức. Vẫn còn đó chuyện 2 người con ông Dê-bê-đê xin ngồi bên tả và bên hữu Chúa Giê-su, khiến cho “Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an” (Mc 10, 41). Đám thượng tế, kinh sư cũng vì ghen tị với Đức Giê-su mà nộp Người (“Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp Người” – Mc 15, 10). Sau này, họ còn ghen với Thánh Phê-rô và tìm cách hại các Tông đồ (“Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông – tức là phái Xa-đốc – ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng.” (Cv 5, 17); “Nhưng người Do-thái sinh ghen tức, họ quy tụ một số du đãng đầu đường xó chợ, họp thành đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến nhà ông Gia-xon, tìm ông Phao-lô và ông Xi-la để đưa hai ông ra trước đại hội toàn dân.” (Cv 17, 5).
Cũng chẳng cần nói tới xa xưa làm gì, bởi chuyện ghen tức đố kị ở xã hội ngày nay thì đầy rẫy, không bút mực nào có thể kể cho hết được! Viết tới đây, kẻ viết bài này lại nhớ tới câu chuyện “ngồi gần, ngồi xa Chúa” mà đã hơn một lần được nhắc tới trong những bài chia sẻ của mình. Đó là lời khuyên của một giảng viên trong một lớp học: “Hãy yêu Chúa thật nhiều và càng yêu nhiều thì sau này lên thiên đàng càng được ngồi gần Chúa nhiều hơn”. Không kềm được tính nói thẳng, nói thật, kẻ viết bài này đã phản bác: Đó chỉ là những cảm nghĩ, suy tư của con người (khi yêu ai càng nhiều thì càng cảm thấy gần gũi người ấy nhiều hơn). Còn đến khi được hưởng phúc trên quê trời, thì tất cả mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giai cấp cao hay thấp, không căn cứ vào phẩm trật lớn hay nhỏ, cũng chẳng còn ranh giới giữa yêu nhiều yêu ít. Khi đó, Chúa sẽ ở với và ở trong mỗi con người (“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.” – Ga 17, 20-21), vậy thì còn sợ gì ngồi gần hay ngồi xa?
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, đặt giả thử nếu ông chủ vườn nho cứ kêu thợ tới làm việc, mà không có một giao ước nào, thì không thể phiền trách những người tới làm từ sáng sớm ghen tức với những người chỉ làm có một giờ sau chót. Tuy nhiên, ông chủ đã có giao ước từ trước và thực hiện đúng với giao ước là mỗi người làm vườn sẽ được trả công một quan tiền. Và chính câu trả lời của ông chủ đã cho thấy lòng ghen tị hẹp hòi của con người đã khiến họ không nhìn thấy tấm lòng bao dung của ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 13-15). Vâng, đừng thấy chủ tốt bụng mà ghen tức với anh em. Còn điều quan trọng hơn là hãy nhìn lại mình, xem mình tới trước mà có làm việc bằng (chớ đừng nói là hơn) người đến sau không?
Hoá cho nên chẳng cần phải suy tư cũng hiểu ngay ông chủ trong dụ ngôn “thợ làm vuờn nho” đích thị là Thiên Chúa, và tiền công một quan tiền chính là Nước Trời vậy. Được gọi trước hay được gọi sau không thành vấn đề, mà vấn đề đặt ra ở đây là anh có đáp ứng đúng với ơn gọi ấy hay không. Đừng vội cho mình là người quan trọng vì được gọi trước, rồi sinh lòng ghen tức với những người đến sau, bởi chính thái độ ghen tức ấy bộc lộ rõ ràng bản chất con người vừa ích kỷ, vừa kiêu căng tự phụ. Đó phải chăng là tội thứ nhất (kiêu ngạo), tội thứ sáu (ghen ghét), kể cả tội thứ tư (hờn giận) trong 7 mối tội đầu? Khi đã phạm cùng lúc đến 3 trong 7 mối tội đầu thì dù cho có được gọi đầu tiên, hậu quả tất yếu cũng vẫn là “xuống hàng chót” và biết đâu, kẻ đứng chót sẽ “lên hàng đầu” vì họ đã sống đúng với ơn gọi của mình. Ấy cũng bởi “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 20, 16).
Tóm lại, bài học người Ki-tô hữu rút ra được phải là: Hãy khiêm tốn nhìn lại bản thân hơn là nhìn vào người khác để phân bì đố kỵ. Hãy “Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6, 42). Ghen tị không những làm mất tình yêu thương, gây nên những gương mù gương xấu, mà còn hơn thế nữa, ghen tị có thể làm cho người ta mù quáng, đi tới chỗ hận thù hãm hại lẫn nhau. Hãy làm theo lời dậy của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Phi-lê-phê: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.” (Pl 2, 3-5). Ước được như vậy.
Ôi, lạy Chúa! Ngay từ những ngày đầu Chúa mới dựng nên chúng con, thì Nguyên tổ chúng con đã phạm sai lầm (dù cho sai lầm đó là do quỷ dữ cám dỗ, nhưng nếu không kiêu ngạo muốn được ngang bằng với chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bản thân mình, thì Nguyên tổ đâu có sa ngã!). Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng cho chúng con, để chúng con hiểu được rằng “ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa.” (Gc 3, 16). Đồng thời thêm sức cho chúng con có đủ dũng khí, kiên quyết “từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói xấu gièm pha.” (1Pr 2, 1). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
.
CẢ CÁC ANH NỮA, HÃY ĐI VÀO LÀM VƯỜN NHO
Fx. Đỗ Công Minh
Đang thất nghiệp mà có người tạo công ăn việc làm cho, lương bổng cũng được, ai chẳng mừng. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh Nước Trời như một vườn nho mênh mông, lúc nào cũng cần công nhân. Vườn nho ấy có ông chủ thật tốt bụng mong muốn cho có nhiều thợ vào làm. Tất nhiên việc tạo công ăn việc làm cho người khác cũng đem lại lợi ích cho ông, nhưng điều lớn hơn mà ông nhắm đến là mang lại niềm vui cho những người cần được giúp. Ông vui niềm vui của họ, cảm thấy vườn nho vừa đem lại sức hấp dẫn mà cũng nhờ đó đem lại niềm vui cho cả hai, ông và những người thợ. Không chỉ những người sáng sớm ra ông gặp, mà còn biết bao người khác đang lâm vào tình trạng khó khăn, lạc lõng, “bơ vơ”, bị lọai ra ngòai không có ai nhìn đến. Ông muốn cứu tất cả, giúp tất cả những người đang mất phương hướng trong cuộc đời, dù là giữa trưa hay chiều tà. Những người gặp ông trong cuộc sống đều được ông tạo cơ hội để trở thành công nhân của vườn nho hạnh phúc.
Chuyện diễn tiến đẹp như mơ khi những người thợ, chiều đến, dứt giờ làm được ông chủ mời đến lãnh phần lương bổng đáng có. Thế nhưng, lại chữ NHƯNG bất ngờ. Những người vào làm sớm nhất lãnh số lương theo hợp đồng, hẳn không hẹp hòi gì, một quan tiền, đủ để ăn và dư dả để sống. Điều đau và bực tức cho họ là khi đứng theo dõi ông chủ phát lương trước đó cho những người đến làm sau, họ nhận ra ông chủ bất công, thiên vị những người làm ít hơn họ, kể cả những người chỉ mới vào làm trước đó một giờ ( Chắc vào lúc 4 giờ chiều như thời gian lao động hiện nay ). Những người vào sau, không vất vả như họ thế mà cũng được lãnh một quan tiền. Họ bèn lên tiếng phàn nàn, thậm chí phản đối vì việc đối xử lạ lùng chưa từng thấy trong cuộc đời. Họ cho rằng ông thiếu công bằng, lầm lẫn hay . . .tâm thần ?:”Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt “ . Những người lên tiếng cảnh báo ông chủ, những tưởng ông sẽ xem lại mà thưởng cho họ ít nhiều hơn số tiền đã lãnh. Nhưng ông từ tốn trả lời :” Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi. Còn tôi, tôi muốn cho người làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đọat về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức “. Quả thật, thái độ của ông chủ này thật khác người. Từ xưa đến nay chưa gặp bao giờ. Thế nhưng ông nói đúng, mình không thể đòi ông phải theo ý mình. Ông không hề vi phạm hợp đồng, không hề cắt bớt đi phần mình có; chỉ có điều ông làm như thế là. . .kỳ cục quá. Giá mà ông tốt với mình như với những người đến sau thì hay biết mấy. . .
Lạy Chúa,
Suy nghĩ của những người đến trước cũng lả suy nghĩ của con. Sở dĩ họ lên tiếng vì như ông chủ vuờn đã nói trúng tim đen của họ và của con, đó là “Sự ghen tức”. Thói xấu này chẳng chỉ riêng ai. Bao lần trong cuộc đời con đã từng thể hiện, khi công khai, lúc ngấm ngầm khi thấy người khác được trọng dụng hơn con. Bực tức khi con có thâm niên, có năng lực trong sở làm, vậy mà những người mới vào làm ít năm lại được cất nhắc làm sếp. Bao năm tận tụy trong nhà Chúa, giữ đạo cả một đời thế mà gia đình con vẫn lận đận, không khá lên được. Còn những người ngọai, người tân tòng kia sao Chúa lại thương cho họ hơn con.
Ghen tức, đố kỵ đang tồn tại trong bản thân con. Con không nhận ra tình thương yêu, lòng thương xót, bao dung, rộng lượng, nhân từ của Chúa mà chỉ chăm chăm nhìn đến bản thân mình; rồi so đo, tính tóan.
Xin Lời Chúa hôm nay giúp con tự cảnh tỉnh mình. Biết tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban “Đủ cho con“, đồng thời cũng tạ ơn Chúa khi lòng yêu thương của Người luôn đổ tràn trên trái đất này. Mỗi người sẽ được Chúa sắp xếp với khả năng và thiện chí của mình để phục vụ Chúa và giúp ích mọi người.
Xin Chúa giúp con !
.
Lm. Giuse Nguyễn
1. Câu nói “huyền thoại” củanam ca sĩ Sơn Tùng “Mình thích thì mình vẽ lên thôi” hiện là câu cửa miệng của không ít bạn trẻ. Khắp các diễn đàn, dân mạng liên tục dùng mẫu “Mình thích thì mình làm thôi” để trả lời khi được hỏi lý do cho hành động nào đó. Con người có giới hạn còn phải “bó tay” trước việc “mình thích thì mình làm thôi”, dĩ nhiên trong những “cái thích” của con người, nhất là các bạn trẻ, có những hành động trái pháp luật, trái lương tâm, trái với luân thường đạo lý, hay đơn giản chỉ là sự bồng bột… Còn Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, Ngài vượt lên trên tất cả; không có một giới hạn nào dành cho Ngài, vì vậy nếu “Chúa thích thì Chúa làm thôi”, và chắc chắn cái “thích” và cái “làm” của Chúa không bao giờ sai lầm.
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia đã cho thấy đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người, cách hành xử của Thiên Chúa không phải như cách hành xử của con người… Con người thì trừng phạt, nhưng Thiên Chúa lại xót thương, mà việc xót thương của Thiên Chúa là một hành vi đúng đắn, vì để cứu sống con người… Từ đó mời gọi những người yếu đuối tội lỗi đừng sợ, đừng trốn tránh, mà hãy quay trở về với Thiên Chúa để được sống.
2. Câu truyện dụ ngôn trong Mt 20, 1-16a cho chúng ta thấy sự thật về Nước Trời, nghĩa là sự thật về Thiên Chúa. Quả thật Thiên Chúa được phác họa qua chân dung ông chủ nhà là Đấng công bằng ; Ngài nói là Ngài làm, Ngài nói làm sao Ngài làm như vậy: “Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền… họ vào vườn nho làm việc” (Mt 20, 2), đến cuối ngày họ lãnh “mỗi người một quan tiền”. Đó là sự công bằng của ông chủ.
Nhưng hơn hết, việc họ được vào làm vườn nho cho ông chủ không phải xuất phát từ bản thân của họ, nhưng nhờ ông chủ “tảng sáng đã ra mướn thợ… khoảng giờ thứ ba, ông trở ra,… khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín,… rồi giờ thứ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác đứng đó.” Nếu có ai hỏi, có lẽ Chúa sẽ trả lời: “mình thích thì đi thôi”, không ai có quyền ngăn cản Thiên Chúa làm một việc tốt như thế.
Việc đáng trân quý hơn vì nó vượt lên trên sự công bằng, đó là ông chủ trả cho người làm sau hết bằng người làm trước hết. Dĩ nhiên việc này không bất công đối với người làm từ tảng sáng, nhưng nó lại là ân huệ của ông chủ dành cho người làm ở giờ thứ mười một. Lời giải thích của ông chủ dành cho những kẻ cằn nhằn ông cho thấy lý do để ông làm việc đó: “Này bạn tôi đâu tôi đâu có xử bất công với bạn… chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?” (x.Mt 20, 13-15). Và đó cũng là sự thật về Thiên Chúa, “Chúa thích thì Chúa làm thôi”.
3. Nhưng qua đó mới thấy được “cái thích” của Thiên Chúa là gì, nó hoàn toàn khác với “cái thích” tự nhiên của con người. Nhờ vậy mà chúng ta thấy được hành động “thích thì làm” của con người có thể dẫn đến những sai lầm; nhưng “thích thì làm” của Chúa luôn luôn đem đến những điều tốt. Nói một cách ngắn gọn lại: đường lối của Thiên Chúa, cái lạ lùng của Thiên Chúa, cái thích của Thiên Chúa chính là lòng thương xót của Ngài, nhờ thế mà chúng ta được sống.
Con người thì thích lên án, chỉ trích, chê bai, ghanh ghét… Những người biệt phái và Pharisêu nói: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”(Mt 9, 11) ; Những người làm từ tảng sáng nói: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt 20, 12). Còn Thiên Chúa thì thích bênh vực, thông cảm, tha thứ và yêu thương…“Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” ; “Các ông hãy đi học cho biết lời này có nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần hy lễ.” ; “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”…
4. Như vậy phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy sự thật về cái “thích” của Thiên Chúa. Qua đó càng thêm xác tín, mỗi người được Thiên Chúa “thích” một cách đặc biệt, vì vậy Ngài muốn tỏ lộ cái thích đó trên cuộc đời của từng người theo mỗi cách khác nhau.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ trong Thánh Lễ kính thánh Matthêu hôm 21/09 tại nhà nguyện thánh Marta như sau: “Có rất nhiều, rất nhiều… ngay cả trong Giáo Hội ngày nay, người ta nói: “Không, không thể làm thế, tất cả đều rõ ràng, tất cả đều rõ, không, không được như thế…” Họ là những tội nhân và cần loại bỏ họ”. Tuy nhiên Thiên Chúa lại thích hành động nơi cuộc đời của họ như thế nào là tùy Ngài, chúng ta đừng “ganh tị với lòng tốt của Thiên Chúa”. Khi chấp nhận lòng tốt của Thiên Chúa là chúng ta chấp nhận cách thức Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót nơi mỗi người, kể cả những người chúng ta cho rằng: “hết thuốc chữa”.
Riêng đối với mỗi người, chắc chắn nhiều lần chúng ta cảm nhận “cái thích” của Thiên Chúa làm cho chúng ta “nhúc nhích” cõi lòng. Mỗi lần được thứ tha khi đến tòa giải tội, mỗi lần được một ân huệ nào đó mà chính chúng ta xét thấy là không xứng đáng, mỗi lần được ban cho một điều mà chúng ta vẫn hằng khao khát… Xét lại trong tất cả, có phải do chúng ta xứng đáng hay không? Vậy thì do điều gì? Thưa có “Chúa thích thì Chúa làm thôi”. Thiên Chúa sẽ mãi mãi thích làm như vậy đối với mỗi người và từng người.
Hãy để cho cái “thích” của Thiên Chúa thúc đẩy sự phấn chấn nơi tâm hồn chúng ta, làm đòn bẫy để tiến tới mỗi ngày trong niềm tin yêu và phó thác, rằng Thiên Chúa không bao giờ chê ghét một ai. Từ đó cũng hãy để cho Thiên Chúa có tự do hành động nơi người khác.
Lạy Chúa, con tin tưởng nơi Ngài!
.
TÌNH YÊU, TIÊU CHUẨN CỦA THIÊN CHÚA
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Thông thường theo sự công bằng, ai làm nhiều thì hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng lương ít. Thế nhưng câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay không theo tiêu chuẩn như thế.
1- Dụ ngôn ông chủ quảng đại
Ông chủ thuê thợ hành xử theo cách thức khác vượt trên sự công bằng đó. Dụ ngôn kể từ sáng sớm ông đã ra thuê thợ làm vườn nho cho mình. Ông đã thỏa thuận với họ là sẽ trả cho họ mỗi ngày một đồng. Nhưng khi đi ra ngoài, lúc giờ thứ ba (9 giờ sáng), thấy những người ở ngoài không làm gì, ông mời họ vào làm, đến giờ thứ sáu (12 giờ trưa) rồi giờ thứ chín (3 giờ chiều), và cả đến giờ thứ mười một (5 giờ chiều), ông cũng làm như thế. Chiều đến, ông gọi thợ lại mà trả tiền công cho họ, ông trả cho người thợ làm từ sáng sớm đúng một đồng như đã thỏa thuận và cho người làm giờ cuối cùng cũng một đồng. Xem ra có vẻ bất công! Nên những người làm nhiều giờ đã cằn nhằn và trách móc ông chủ. Nhưng xét cho cùng ông đã không có lỗi gì đến sự công bằng đối với họ, ở đây ông đã hành xử vượt trên sự công bằng, theo lòng quảng đại đối với những người làm sau (x. Mt 20,1-16a).
Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn ám chỉ rằng những người thợ đầu tiên được mời gọi bởi Thiên Chúa là những người Luật Sỹ, biệt phái và nói chung là tất cả những người Do Thái như là dân tộc được chọn và được thừa hưởng lời hứa từ các tổ phụ. Họ cho rằng chỉ có họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ. Trái lại, những người thợ làm vườn nho vào giờ cuối cùng là những người tội lỗi và dân ngoại mà Chúa Giêsu đến để tìm kiếm họ và mời gọi họ vào đón nhận ơn cứu độ và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Qua đó, Chúa Giêsu muốn chống một thứ tôn giáo và luân lý chỉ dựa trên công trạng của mình. Theo đó, những người Biệt Phái và Luật Sỹ đã loại bỏ khả năng được hưởng ơn cứu độ những người nghèo, người bị bỏ rơi và người tội lỗi. Đồng thời Chúa Giêsu loan báo sứ điệp mới mẻ rằng ơn cứu độ chủ yếu dựa trên sự nhưng không, lòng quảng đại và thương xót của Thiên Chúa. Người đặc biệt ám chỉ ông chủ vườn nho đó chính là Thiên Chúa. Điều này làm cho chúng ta ngạc nhiên! Cách hành xử của ông chủ chính là cách hành xử của Thiên Chúa. Thiên Chúa hành động và phân xử hoàn toàn khác với những so đo tính toán của con người. Như bài đọc I diễn tả: “Thật vậy, tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của ta… Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các người và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy (Is 55,8-9).
2- Lòng quảng đại vượt trên sự công bình
Vậy thì dụ ngôn chủ vườn nho nói với chúng ta điều gì?
Trước hết dụ ngôn muốn nói với chúng ta rằng: Thiên Chúa hành xử với chúng ta không chỉ dựa trên sự công bằng nhưng là dựa trên tình yêu, lòng quảng đại và thương xót. Những người làm giờ thứ nhất được trả một đồng là theo tiêu chuẩn công bằng mà họ đã thỏa thuận. Nhưng những người làm giờ cuối cũng nhận được một đồng là theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng quảng đại.
Dụ ngôn còn muốn nhận mạnh rằng: Nước Trời, ơn cứu độ không phải chủ yếu là phần thưởng, là công trạng do công sức chúng ta làm nên, nhưng là quà tặng, là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa muốn ban cho tất cả mọi người không có loại trừ ai, kẻ cả những người đến giờ chót, miễn là họ mở lòng đón nhận, miễn là họ biết lắng nghe lời mời và cộng tác với Thiên Chúa.
3- Sự “vô lý” của Thiên Chúa là cơ hội cho chúng ta
Như thế, cách thức hành động của Thiên Chúa có vẻ ngược đời, vô lý và khác với lý luận của chúng ta. Các Giáo Phụ nói rằng: “Thiên Chúa không tính toán khi ban phát ân huệ của Người.” Hay như Đức Hồng Y Thuận nói cách dí dỏm: “Thiên Chúa không biết tính toán!” Nhưng chính sự “vô lý” của Thiên Chúa lại trở thành cơ hội, là lối vào cho chúng ta tới gần Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc chắn chúng ta phải chết và bị luận phạt rồi. Bởi lẽ, chúng ta đã nhiều lần đắc tội với Người. Một cách khiêm tốn, phải thành thật thú nhận rằng, chúng ta chẳng xứng đáng và chẳng có công trạng gì để được cứu độ, nếu không nhờ vào lòng thương xót của Người.
Nhưng nếu Thiên Chúa hành xử với chúng ta theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng từ bi của Người, thì đó là hy vọng, là cơ hội cho chúng ta được cứu độ.
Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, bất kỳ lúc nào, giờ nào, cả giây phút cuối cùng trong cuộc đời, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta trở về, cộng tác với Người làm vườn nho của Chúa, và dù làm nhiều hay làm ít, Thiên Chúa cũng ban ơn cứu độ, ân sủng cách dồi dào cho chúng ta theo lượng từ bi và nhân hậu của Người.
Tất cả chúng ta cũng được mời gọi đi vào logic của Thiên Chúa, logic của tình yêu, của lòng quảng đại. Nghĩa là hãy vươn tới tầm nhìn của Thiên Chúa, hãy mặc lấy tâm tình và cách cư xử của Đức Kitô, như thánh Phaolô nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21), để lượng giá cuộc đời không dựa theo tiêu chuẩn tính toán, hẹp hòi, ích kỷ, như những người thợ đầu tiên, nhưng theo tầm nhìn, tiêu chuẩn và đường lối của Thiên Chúa khi đối xử với tha nhân mình. Amen!
.
Dã Quỳ
Giữa một xã hội đề cao lợi nhuận và chú trọng đến năng suất, người ta chỉ ưa của chuộng công, muốn lợi cho bản thân mà chẳng cần quan tâm đến người khác! Chúng ta, những Kitô hữu luôn được mời gọi đi theo đường lối của Thiên Chúa, suy nghĩ và hành động theo Tin Mừng. Vì Nước Trời chỉ dành cho những công dân biết hành xử đầy tình nghĩa và tốt bụng như Gia Chủ trong “Dụ ngôn thợ làm vườn nho” mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta.
Chắc chắn Chúa không muốn ủng hộ thực tế bất công của xã hội đã không trả cho những người thợ theo công việc họ làm, và Người cũng chẳng muốn xác định một mức lương độc đoán hoàn toàn theo cách của chủ nhân. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng gia chủ trong dụ ngôn không phải là một ông chủ bình thường theo thói đời. Bởi vì người ta không bao giờ thuê những người thợ chỉ làm 1 giờ trước khi kết thúc công việc của họ. Ở đây, mở đầu dụ ngôn, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.”(20,1) Vâng, đây là dụ ngôn về Nước Trời, thế nên “Vườn nho” này đã cho chúng ta nhớ lại “Bài ca vườn nho” biểu tượng mà Cựu ước và cả những thính giả của Chúa Giêsu đều hiểu rõ “Vườn nho” của Thiên Chúa, đó là Israel-dân được chọn, được ký kết Giao ước (x. Is 5,1.7)
Chính vì Thiên Chúa đã muốn dẫn dắt dân vào trong lãnh địa của Ngài, muốn họ được hạnh phúc và chung hưởng niềm vui của Ngài. Vì thế, mà gia chủ vẫn lại trở ra tìm mướn thợ dù đã 9 giờ, giữa trưa, 3 giờ hay 5g chiều “Gia chủ kia vừa tảng sáng đã ra mướn thợ…Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín ông lại trở ra… Khoảng giờ mười một, ông trở ra và…” (20,1-6) Chúng ta biết rằng việc thuê những người thợ này không phải là cho lợi ích của chính gia chủ, nhưng đây là một ông chủ đã hết sức bận tâm về tình trạng của những người thợ thất nghiệp “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Thiên Chúa- Gia chủ vườn nho là Đấng trung thành, Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong tình trạng sầu khổ, nghèo nàn. Thiên Chúa yêu thương và quan tâm chúng ta với một tình yêu vô tận, ngay cả chúng ta yếu hèn tội lỗi cũng không ngăn cản Ngài yêu chúng ta và tìm kiếm chúng ta. Dẫu cho bao lần chúng ta cảm thấy như Ngài quên chúng ta khi ta đau khổ và bơ vơ, nhưng Chúa ở đó, vẫn đến và tìm gặp chúng ta, dẫn chúng ta vào trong vườn nho của Ngài dù cho có muộn màng.
Thực tế cuộc sống sẽ chẳng bao giờ có chuyện ông chủ đi tìm thuê thợ như vậy, và hơn nữa lại tốt lành tính công 1 giờ bằng một ngày “Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền.”( 20,9) Oái oăm thay những người vào làm sau cùng cũng lãnh một đồng như người vào làm trước nhất! Gia chủ này thật lạ, tấm lòng ông đầy nhân hậu, ông ưu tiên những người nghèo khổ, ông đặt những người cuối lên hàng đầu… Và điều đó chỉ có nơi Thiên Chúa Nhân Lành. Còn con người thì ngược lại, tư tưởng và hành động chất chứa đầy ganh tị. Nhìn ai hơn mình là khó chịu, là hằn học. Thậm chí chẳng liên quan đến mình hoặc mình không thua thiệt mà vẫn ghen tương “Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ…”( 20, 9-11) Đối với Thiên Chúa, không có chuyện đặc quyền, đặc lợi. Đã được mời gọi, thỏa thuận và đồng ý thì sao lại phải so bì tính toán khi mình đã được lãnh nhận đủ phần của mình?
Trong Lịch Sử Cứu Độ, dân Israel là dân đã được mời gọi và hưởng ân huệ của Vườn Nho Thiên Chúa sớm nhất, còn những dân tộc ngoại bang là những người cuối cùng được mời đến, cũng được đối xử bình đẳng với Dân của Chúa. Chính vì vậy, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần làm nổi bật lên hình ảnh của những người nghèo, những người bị gạt ra lên xã hội và tôn giáo, những người “đứng chót”. Thiên Chúa- Chủ Vườn Nho đã đối xử với chúng ta như người Cha đầy tình nghĩa yêu thương, quảng đại vô cùng với tất cả mọi người “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho những người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?“(20,13-15) Đây là bài học trọng tâm của dụ ngôn này. Và đây cũng là bức chân dung tuyệt vời mà Chúa Giêsu mô tả cho chúng ta về Chúa Cha:
– Một Thiên Chúa, Đấng yêu thương cả những kẻ đứng đầu và đứng chót, muốn dẫn đưa tất cả vào trong hạnh phúc của Ngài… Một Thiên Chúa, Đấng tuôn đổ ân huệ của Ngài trên tất cả và không ngừng mời gọi họ… Một Thiên Chúa, Đấng khoan dung và nhân hậu, không bao giờ bị chi phối vì lỗi lầm của chúng ta, nhưng Ngài trao ban một cách rộng rãi, không tính toán… Một Thiên Chúa, Đấng loại bỏ bất cứ ai đòi quyền lợi bằng cách ngăn cản người khác hưởng lợi ích…
Dụ ngôn này giúp chúng ta khám phá ra một điều cốt yếu: Ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta hoàn toàn nhưng không và chẳng cân xứng với công trạng nghèo nàn của nhân loại chúng ta. Chúng ta sẽ làm được gì hay hy vọng vào điều gì nếu ta chỉ cậy dựa vào tài sức của mình? Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi vào trong Vườn Nho Giáo Hội, chúng ta đã đón nhận hết ơn này đến ơn khác và chờ đợi tất cả nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và muốn chúng ta được hưởng hạnh phúc với Người. Vậy Chúa cũng mời gọi và muốn chúng ta mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu, mang lấy cung cách hành xử theo văn hóa của Nước Trời là sống tình nghĩa yêu thương bao bọc nhau, quảng đại đón nhận mọi người như anh chị em con cùng một Cha. Có như thế, chúng ta dù là kẻ đứng chót sẽ được trở nên hàng đầu và được trở thành công dân của Nước Trời- Nước Tình yêu. Xin Chúa giúp chúng ta biết cộng tác trong sứ mệnh mở rộng Nước Chúa ngay tại quê hương Việt Nam thân yêu này mới chỉ có hơn 7% người Công Giáo, bằng cách chúng ta giới thiệu, mời gọi, dẫn dắt anh chị em đến với Chúa là Gia Chủ để rồi họ cũng được nhận vào Vườn Nho của Chúa và được hưởng ân phúc cứu độ mà Chúa luôn dành sẵn cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến tìm và sai chúng con vào vườn nho của Chúa. Xin ban cho chúng con ánh nhìn yêu thương và tấm lòng nhân hậu, để chúng con biết “ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Chúa” và thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Tấm lòng của nhân vật “ông chủ vườn nho” trong dụ ngôn hôm nay, diễn tả phần nào tấm lòng của Chúa – tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người – Lòng Chúa Thương Xót.
Chúng ta có thể ghi nhận mấy điểm sau đây nơi ông chủ vườn nho để giúp ta suy ngẫm về Tấm Lòng Của Chúa.
- Quan tâm chăm sóc mọi người
Ông chủ vườn nho đã để ý và nhận ra có những người chưa làm việc. Họ chưa có cơ hội, hay do hoàn cảnh nào đó họ chưa được ai nâng đỡ. Ông chủ vườn nho đã tìm đến họ để thăm hỏi chứ không đợi họ đến xin việc. Ông đi bước trước vì chính ông là người quan tâm đến họ. “Vì không ai mướn chúng tôi” (Mt.20,7). Ông chủ đã cho tất cả họ vào vườn nho làm việc hết. Đó là sự động viên chân tình thật cao quý để giúp nhiều người thoát khỏi tình cảnh “ăn không ngồi rồi”. Dù đã muộn, cũng hãy làm việc ngay khi có cơ hội.
Trong cuộc sống, ai là người “không được ai mướn” ? Có thể họ là những người thiểu năng, tật nguyền, không đủ tiêu chuẩn để làm việc trôi chảy… Hay không có ai đùm bọc họ, không thuộc thành phần con ông cháu cha, không có gốc rễ cậy nhờ, không có phe cánh, họ không thể “chen chân” vào nơi nào đó để tìm một việc làm chỉ vì họ không quen biết lớn, dù rằng họ có năng lực làm việc… Đặc biệt, trong xã hội hôm nay, “thất nghiệp” là một điều tệ hại trong cuộc sống.
Không giống như ông chủ ruộng đất kia, chỉ nhắm tới việc làm sao cho sinh nhiều hoa lợi, rồi thụ hưởng một mình. Không biết quan tâm đến ai, không nghĩ đến việc chia sẻ cho ai…
“Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi”. (Lc.12,13-21).
Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn này rõ ràng muốn chia sẻ những hoa lợi cho những người đang thiếu thốn. Đã tới khoảng giờ mười một rồi còn gì ! Sẽ làm được bao nhiêu việc đâu, nhưng ông vẫn “mướn” họ. [ Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.]
“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” (Mt.20,7).
Không có sự chọn lựa để loại trừ ai, chỉ cần họ muốn và sẵn sàng làm việc. Đây rõ ràng là sự nâng đỡ.
- Hơn cả sự “sòng phẳng”.
Ta vẫn biết ngày nay, nhiều việc làm người ta tính tiền công theo từng giờ. Căn bản của tiền lương là sự sòng phẳng, trả tiền công theo đúng hợp đồng, đúng thỏa thuận.
Trong dụ ngôn này, trong số những người làm công, những kẻ đến sau, thậm chí có kẻ chỉ làm có 1 giờ, mà vẫn được trả công 1 đồng, với họ, rõ ràng đây là cách trả tiền công hơn cả sự “sòng phẳng”. Trong câu chuyện dụ ngôn hôm nay, thật sự, những người làm công, cả người đến trước lẫn kẻ đến sau, ai nấy đều ngỡ ngàng… tất cả đều được ông chủ ghi nhận “có công” như nhau !
Điều gì đã dẫn đến cách ứng xử “khác lạ” của ông chủ vườn nho như vậy ? Tại sao ?
“Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt.20,12).
Có thể chúng ta đang chờ đợi một câu trả lời “hợp lý” của ông chủ vườn nho theo cách nghĩ thông thường của chúng ta, thí dụ như: “Tại vì những người kia tuy tới trễ nhưng họ làm ‘chạy việc’ hơn, họ làm chu đáo hơn, họ làm có tính chuyên nghiệp hơn…”. Nhưng không, câu trả lời rất đơn giản, mà chúng ta không hiểu được, vì “tư tưởng phàm nhân của ta” (Is.55,8), lòng ích kỷ đã bịt kín mắt ta, che mờ tâm trí ta, nên ta không nhận ra, không hiểu được, không thấy được. Đó đơn giản là vì “lòng tốt” của ông chủ – ông chạnh lòng thương xót họ đang bơ vơ, đang… thất nghiệp – một ông chủ nhân từ, giàu lòng thương xót.
Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt.20,15).
- Cuộc sống không phải là một cuộc đua một mất một còn…
Có những “cuộc đua công khai” và có những “cuộc đua âm thầm”. Có những “cuộc đua có tổ chức” và có những “cuộc đua tự nó hình thành” trong lòng ta.
Những cuộc đua công khai “bên ngoài”, những “cuộc đua có tổ chức”, những người trong cuộc có thể có những mánh mung, thủ đoạn, gian xảo để tìm chiến thắng, nhưng ở trường hợp này, người ta cũng còn có thể đặt ra những luật lệ để kiểm soát, còn những cuộc đua “bên trong” – âm thầm trong lòng ta – “tự nó hình thành” trong tim óc ta, khó mà kiểm soát. Lòng ích kỷ, tính ganh tỵ, con tim hẹp hòi… làm cho ta luôn muốn hơn người, luôn muốn “chiến thắng”, ta không muốn ai hơn ta. Từ đó, dẫn đưa ta tới sự giả hình, sự thâm độc, hãm hại, tìm cách đè bẹp người khác.
Bài học Ca-in giết A-ben là một chứng minh cụ thể về lòng ích kỷ, tính ganh tỵ, mà gốc rễ của nó không gì khác, chính là sự kiêu căng, đầu mối mọi tội lỗi.
Sau một thời gian, Ca-in lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật dâng lên Ðức Chúa. 4 A-ben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, 5 nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt. 6 Ðức Chúa phán với Ca-in: “Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt? 7 Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó.” 8 Ca-in nói với em là A-ben: “Chúng mình ra ngoài đồng đi! ” Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình.(St.4,3-8).
Trong cuộc sống, sự cạnh tranh, những cuộc đua ngấm ngầm diễn ra trong lòng người rất mãnh liệt, ám ảnh trong lòng ta những câu hỏi kích thích lòng tự ái, tự kiêu, tự tôn, tự đại:
“Sao người ta lại có thể hưởng được hơn ta một lời khen, một lời ca tụng, sự ưu ái, những quà tặng… khi tuổi đời họ không bằng ta, đường công danh sự nghiệp không thể sánh ngang hàng với ta…”
“Sao lại không có đầu có cuối, ai là kẻ trước tiên, ai là kẻ sau cùng, ai là kẻ ưu tiên, ai là người vớt vát ?”
Với ông chủ vườn nho nhân hậu, tất cả đều như nhau. Vì rằng, cuộc đời không phải chỉ là cuộc đua tìm thứ hạng, hay cuộc đua một mất một còn… trong con tim yêu thương, tất cả đều chiến thắng.
Thật khó hình dung dụ ngôn có phần kết luận: “tất cả mọi người sau khi được lãnh tiền đồng đều liền cùng nhau cám ơn ông chủ và nắm tay nhau ra về vui vẻ”. Nếu dụ ngôn kết luận như vậy thì đó là một câu chuyện “có hậu”, nhưng liệu ta có chấp nhận được không, nhất là khi ta là một trong những người trước tiên vào làm việc trong vườn nho?
Tại thế vận hội đặc biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị tổn thương về thể chất và tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc đua 100m.
Khi súng hiệu nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục trên đường đua. Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và quay lại nhìn. Rồi họ quay trở lại. Tất cả không trừ một ai! Một cô bé bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé:
– Như thế này em sẽ thấy tốt hơn.
Cô nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch đích.
Khán giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy, những người chứng kiến vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cảm động này.
- Tất cả là hồng ân
Điều mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người chính là niềm tin yêu vào Ngài chứ không phải là làm được gì cho Ngài. Từ niềm tin yêu, ta sẵn sàng làm việc, và làm việc để “sáng danh Chúa” chứ không phải để “sáng danh ta”, chúng ta làm việc vì chia sẻ với anh em đồng loại chứ không phải làm việc để so sánh, ganh tị, phô trương, tự “xông hương” mình để rồi nhục mạ, hạ bệ người khác.
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. 13Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. 14Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 18, 9-14).
Ở dụ ngôn trên, ta thấy một sự đảo ngược rất bất ngờ: “tôn mình lên, bị hạ xuống – hạ mình xuống, được tôn lên”. Và, chúng ta lại thấy một sự “đảo ngược” tương tự trong dụ ngôn hôm nay cũng không kém phần ngạc nhiên: “kẻ đứng chót, lên hàng đầu – kẻ đứng đầu, xuống hàng chót”
“Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. (Mt.20,16).
Cuối cùng, chính là tựa nương, tin tưởng vào “ông chủ tốt bụng” – Tấm Lòng Của Chúa – Chúng ta đặt trọn vẹn niềm tin yêu vào Chúa – Đấng thấu suốt lòng ta, và toàn quyền quyết định về cuộc đời ta với Lòng Thương Xót vô bờ. Tấm Lòng Của Chúa là tình Cha bao la hải hà, là nguồn vui, sự bình an và hạnh phúc viên mãn cho cuộc đời ta. 04
[Tác phẩm điêu khắc khổng lồ có tên “Bàn tay của Chúa” của nghệ sĩ Lorenzo Quinn đã được sắp đặt tại trụ sở của sở giao dịch chứng khoán hoàng gia Luân Đôn trước sự trầm trồ kinh ngạc của công chúng.
Được tạo bởi nhà điêu khắc người Ý Lorenzo Quinn, công trình cỡ lớn này gồm một bàn tay khổng lồ vươn ra khỏi mặt đất và nâng đỡ một hình người mệt mỏi bên trên. Tác phẩm này cô đọng những khoảng khắc nghi hoặc, sợ hãi và truyền tải nó thành hình ảnh về việc con người là gì. (INTERNET) ]
Điều đó cũng có nghĩa là ta đặt tất cả đời mình trong “bàn tay của Chúa”.
“Tất cả là hồng ân”, ta vẫn thường nói thế. Điều đó cũng có nghĩa là ta chẳng là gì trước mặt Chúa, tất cả là do lòng Ngài thương xót. Chỉ khi ta nhận ra “tất cả là hồng ân của Chúa” ta mới có thể sống đơn sơ, khiêm tốn và thành tâm phó thác vào Chúa.
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt.20,15).
Lạy Chúa,
Con xin tín thác đời con vào Lòng Chúa Thương Xót. Amen.
.
– CON NGƯỜI GHEN TỊ NHỎ NHEN
Ghen tức, ghen tị là thói xấu ăn sâu vào tâm hồn và chi phối hành động của nhiều người. Các hình thức ghen tị được thể hiện hết sức đa dạng và có khi còn mang màu sắc tốt lành nữa. Người ta có thể dễ dàng đến thăm đám tang hoặc an ủi người đau khổ hơn là đến để chúc mừng sự thành công của người bạn. Hai nhà hàng xóm ghen tịnhau vì cái xe, vì trang thiết bị trong nhà, dẫn đến việc lườm nguýt, nói xấu nhau. Các quan chức ghen tị nhau vì người này giàu hơn người kia, thanh thiếu niên ghen tị nhau vì cái xe, hoặc vì áo quần, vì bạn bè, từ đó dẫn đến đánh nhau. Người ta cũng có thể thấy các hình thức ghen tị trong đời sống đạo khi người này thấy người khác xem ra đạo đức, thành công hơn mình, được nhiều người quý mến, hoặc thấy họ nhiệt tình phục vụ hơn mình.
Ngày xưa trong Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng đã trách những người mang trong mình cặp mắt ghen tị qua dụ ngôn ông chủ tuyển chọn thợ làm vườn. Kể câu chuyện này, Chúa Giêsu nói với những người Do Thái luôn tự hào tự mãn cho rằng họ là những người được Thiên Chúa ưu tiên tuyển chọn, là những người độc quyền hưởng ơn cứu độ. Đức Giêsu đến, Ngài mở rộng vòng tay để mời gọi hết mọi người, mọi dân trở về với Thiên Chúa, gia ngập vào vương quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã không ngần ngại tiếp xúc và mời gọi mọi người từ người lớn đến trẻ nhỏ, từ Do Thái đến dân ngoại, từ người thu thuế đến những cô gái điếm đón nhận Tin Mừng. Bất cứ ai sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa, đều trở nên môn đệ của Ngài. Tuy nhiên, những người Do Thái đã khó chịu khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc với những người tội lỗi, họ không muốn thấy Thiên Chúa đối xử nhân hậu với những người này.
Chúa Giêsu đã kể câu chuyện: Một ông chủ từ tảng sáng đã ra ngoài đường để thuê thợ vào làm vườn nho cho ông. Ông tỏ ra rất cần thợ, đối với ông, làm nhiều hay làm ít, sớm hay trễ không quan trọng cho bằng người được mời sẵn sàng nhận lời mời của ông để vào làm vườn nho. Những người được mời làm từ sáng sớm đã được thỏa thuận tiền công là một đồng một ngày. Sau đó, ông chủ vẫn tiếp tục ra ngoài để tuyển thợ, cho dù đã trưa, đã chiều và đã gần hết ngày. Cuối ngày, ông trả cho mỗi người một đồng tiền lương như đã thỏa thuận với những người làm từ buổi sáng, dù họ làm việc từ sáng sớm hoặc khi đã chiều muộn. Hành động quảng đại của ông chủ đã khiến những người đến từ sáng sớm ghen tức, họ trách ông: Tại sao chúng tôi vất vả từ sáng sớm mà ông cũng trả cho chúng tôi một đồng bằng với người đến sau?
Câu trả lời của ông chủ cho thấy, ông không làm điều bất công, cũng không làm thiệt hại ai, ông chỉ làm do sự thức đẩy của lòng quảng đại và hay thương xót từ trái tim của ông. Ông không muốn để cho bất cứ ai đứng bên ngoài vườn nho, ông cũng không muốn để những người làm vườn nho cho ông phải thiếu thốn. Khi những người làm từ buổi sáng trách ông không công bằng, ông đã giải thích rõ ràng: Tôi không làm thiệt hại bạn, tôi đã thỏa thuận với bạn là một đồng một ngày công. Bây giờ tôi trả cho những người đến sau một đồng bằng bạn, đó là việc của tôi. Việc ông chủ trả cho những người làm một giờ bằng với người làm từ sáng không phải vì họ xứng đáng, nhưng hoàn toàn do lòng quảng đại của ông chủ, ông muốn và ông làm như thế.
Ông chủ trong câu chuyện chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là một ông chủ tốt lành quảng đại. Ngài muốn mời gọi mọi người cùng vào làm trong vườn nho là Giáo Hội, không kể người đó là dân nào, cũng không kể họ là đạo gốc hay tân tòng, miễn là họ đáp lại lời mời gọi của Chúa, trở thành thành viên trong gia đình của Chúa. Thiên Chúa không chấp nhận sự nghi kỵ, ghen tị trong ánh mắt, trong thái độ của các thành viên trong vườn nho của Ngài. Ngài cũng không muốn con người dùng trái tim hẹp hòi nhỏ bé của mình để giới hạn lòng thương xót của Thiên Chúa.
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã khẳng định: Những kẻ trước hết sẽ nên rốt hết và những người rốt hết sẽ nên trước hết. Vậy ai là người trước hết và ai là người sau hết trong câu kết này? Người trước hết ở đây chính là những người Do Thái, họ là dân tộc đầu tiên được thừa hưởng lời hứa cứu độ, nhưng vì họ đã không cố gắng, không hết mình để phụng sự Chúa, họ trở thành kẻ đứng sau hết. Trái lại, những người dân ngoại thành tâm thiện chí tìm kiếm Chúa, dù biết Chúa muộn màng nhưng lại là những người trước hết được thừa hưởng ơn cứu độ. Như thế, việc tin theo Chúa, việc làm vườn nho cho Chúa không được tính bằng thời gian hay vận tốc, làm nhiều hay ít theo số học, mà được tính bằng cường độ của lòng yêu mến và sự nhiệt tâm chúng ta dành cho Chúa. Như vậy, cho dù chỉ làm những việc thật nhỏ bé tầm thường, nhưng với tấm lòng và tình yêu mến mạnh mẽ lớn lao, thì công việc nhỏ bé ấy sẽ trở thành to lớn trước mắt Thiên Chúa. Đó chính là cách tính toán đong đếm của Thiên Chúa.
Tiên tri Isaia đã diễn giải cách đánh giá và cách tính toán “khác thường” của Thiên Chúa: Kẻ gian ác khi bỏ tư tưởng và hành động gian ác, nó sẽ được Thiên Chúa xót thương. Kẻ tội lỗi khi thật lòng trở về với Thiên Chúa, Người sẽ rộng lòng tha thứ. Vì tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa không phải là tư tưởng và đường lối của loài người, “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối, tư tưởng của Ta cũng khác xa tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu”.
Thánh Phaolô cũng đã có kinh nghiệm này. Ngài luôn ý thức mình là kẻ sinh sau đẻ muộn so với các tông đồ, nhưng đã được Chúa thương tuyển chọn làm tông đồ cho Chúa, vì thế, Ngài chỉ còn một cách đó là dùng hết tình yêu và cuộc đời của mình để phục vụ Chúa và các linh hồn mà không tính toán thiệt hơn. Tất cả cuộc đời của Phaolô dù sống hay chết, là để phục vụ Chúa và các linh hồn.
Mỗi người chúng ta đều được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa là Giáo Hội, không kể tuổi đời, cũng không kể tuổi đạo, tất cả đều được mời gọi hết lòng yêu mến và làm việc cho Chúa, làm vinh danh Chúa. Vì thế, đừng bao giờ tỏ ra ganh tị với nhau trong công tác tông đồ, cũng đừng ganh tị khi thấy Chúa có vẻ ưu ái người này, người khác hơn mình. Chúa vẫn ưu ái mỗi người cách đặc biệt, nhưng vì chúng ta dùng cặp mắt ghen tị, trái tim hẹp hòi để đong đếm tình thương của Chúa, nên nhiều lần ta oán trách Chúa không công bằng, ta không nhận ra lòng quảng đại xót thương của Chúa, hoặc ta ghen tị với anh chị em. Sự ghen tị này xảy ra ngay trong sinh hoạt hội đoàn trong giáo xứ, kèn cựa nói xấu, phân bì lẫn nhau, so đo tính toán trong công việc tông đồ.
Sự ghen tị cũng diễn ra trong gia đình, nơi chòm xóm, bạn bè và nơi xã hội như đã nới ở trên, dẫn đến tình trạng nói xấu, dèm pha, dìm hàng lẫn nhau. Người này tỏ ra khó chịu, tức tối khi người khác được khen, được thành công hơn mình, đẹp hơn mình.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta luôn nhận ra lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với bản thân và đối với anh chị em. Xin Chúa giúp chúng ta gỡ khỏi mình cặp mắt ghen tị nhỏ nhen, trái tim hẹp hòi và xin ban cho chúng ta có tấm lòng và cái nhìn nhân từ quảng đại như Chúa. Amen
.
ỨNG SỬ NHÂN ÁI BAO DUNG NOI GƯƠNG THIÊN CHÚA
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 20,1-16a
(1) Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vuờn nho nhà mình. (2) Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. (3) Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. (4) Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng” (5) Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy”. (6) Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết? “ (7) Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !”. (8) Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót cho tới những người vào làm trước nhất”. (9) Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. (10) Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn. Thế nhưng cũng chỉ được lãnh một người một quan tiền. (11) Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: (12)“Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ. Thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. (13) Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có đối xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao ? (14) Cầm lấy phần của bạn mà đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. (15) Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bung, mà bạn đâm ra ghen tức ? (16a) Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
- Ý CHÍNH: DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
Bài Tin Mừng hôm nay ví Nước Trời Đức Giê-su thiết lập giống như câu chuyện một ông chủ vườn nho đi kêu người làm vườn nho cho mình. Có 4 tốp người được kêu làm vào 4 thời điểm khác nhau trong ngày: giờ thứ nhất, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, và cả giờ thứ mười một. Khi trả lương, chủ vườn lại trả lương từ người làm giờ thứ mười một tới người làm từ giờ thứ nhất. Mỗi người đều được trả lương bằng nhau là một quan tiền. Khi có người thắc mắc ông chủ đã cho biết ông không bất công khi trả lương sòng phẳng theo thỏa thuận ban đầu là một đồng. Còn việc ông trả cho người sau bằng người đầu là do lòng nhân hậu của ông. Cũng vậy, sau này Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho mọi người gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh. Dù là dân ngoại vào trễ hay dân Do Thái vào từ ban đầu, đều được hưởng ơn cứu độ như nhau, miễn có đức tin là đủ.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc: Bên Do Thái vào mùa hái nho, ngay từ sáng sớm, các chủ vườn thường ra ngã ba đường hay ra chợ người để thuê người đi làm công cho mình. Chủ vườn nho tượng trưng Thiên Chúa muốn mời gọi tất cả mọi dân tộc đều được đi làm vườn nho tức là được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh. + thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền: Vào thời Đức Giê-su, chủ vườn nho thường trả lương công nhật cho thợ làm vườn là một quan tiền. Ở đây ông chủ đã hứa trả lương công nhật là một quan tiền ngay từ khi thuê họ vào làm việc.
– C 3-7: + Giờ thứ ba: Thời bấy giờ thời gian một ngày được tính từ lúc mặt trời lặn. Vì thế luật qui đình ngày Sa-bát bắt đầu từ 18g00 chiều thứ sáu. Nhưng khi tính giờ, người Do Thái lại tính từ lúc mặt trời mọc vào buổi sáng. Thời gian từ mặt trời mọc đến mặt trời lặn được chia làm 12 giờ. Vậy giờ thứ nhất, thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một tương đương với 6 giờ, 9 giờ, 15 giờ và 17 giờ như ngày nay. Giờ lao động của người Do thái mỗi ngày bắt đầu từ 6 giờ sáng và kết thúc vào lúc 18 giờ chiều. + Ông chủ vườn mời người đi làm vườn nho: Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được ơn cưu độ, và người ta có thể được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh trong nhiều thời điểm khác nhau. + Tôi sẽ trả công cho các anh hợp lẽ công bằng: Trả lương công bằng, nghĩa là người làm thuê sẽ không bị thiệt thòi về tiền công. + Khoảng giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại ra và cũng làm y như vậy: Ông chủ nôn nóng đi kêu thợ làm trong nhiều thời điểm khác nhau trong ngày mà không tính toán thiệt hơn, cho thấy lòng bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Người không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối để được sống. + Khoảng giờ mười một: Giờ thứ mười một tương đương với 17 giờ chiều, là giờ cuối trong ngày làm việc. Thợ chỉ phải làm một tiếng nữa là hết giờ lao động. + Vì không ai mướn chúng tôi: Những người này đứng không suốt ngày do không được ai thuê mướn cả. + Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !: Ông chủ kêu thợ vào làm vườn nho vào giờ cuối cùng là do lòng thương muốn giúp những người thất nghiệp, chứ không do nhu cầu công việc đòi hỏi. Điều này cho thấy ơn cứu độ là một ơn ban không, hoàn toàn do tình thương của Thiên Chúa, chứ không phải do công khó của con người.
– C 8-10: + Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót cho tới những người vào làm trước nhất: Việc trả lương mang tính cách khác thường vì bị đảo lộn thứ tự trước sau và vì số lương được trả bằng nhau là một quan tiền cho các người thợ làm việc nhiều ít khác nhau. Khi sắp xếp việc trả lương như vậy, ông chủ muốn tạo cho người làm việc từ sáng sớm tưởng rằng mình sẽ được trả nhiều hơn. Vì thế họ đã thắc mắc khi được lãnh một quan tiền bằng với người vào làm vào từ giờ thứ mười một. Điều này cho thấy tình thương của Thiên Chúa đối với hết mọi người. Bất cứ ai dù là Do thái hay dân ngoại, dù theo đạo từ khi mới sinh hay trước khi chết, nếu thành tâm tin yêu Thiên Chúa thì đều được Người cho hưởng hồng ân cứu độ.
– C 11-13: + Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Họ trách móc ông chủ hai điều: Một là họ phải làm việc vất vả suốt từ sáng sớm đến chiều tối, đang khi những người làm vào giờ thứ mười một chỉ phải làm có một giờ. Hai là họ phải chịu sự nắng nôi khó nhọc, đang khi những người làm sau vào lúc ban chiều không chịu sự nắng gắt nóng bức. Họ muốn được chủ trả lương cao hơn những người vào làm việc sau. + Này bạn: Đây là kiểu xưng hô của ông chủ với những người thợ chưa rõ tên. Kiểu xưng hô này vừa khoan dung vừa trách móc nhẹ nhàng để mong họ nghĩ lại. Giống như Đức Giê-su đã nói với Giu-đa khi anh ta dẫn dân quân Đền thờ đến bắt Người trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,50). + Tôi đâu có xứ bất công với bạn ?: Việc trả lương một quan tiền cho những người thợ đến sau không gây thiệt hại gì cho những người làm trước. Những người làm từ giờ thứ nhất đã nhận đủ một quan tiền, theo đúng thỏa thuận trước lúc vào làm việc.
– C 14-16b: + Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt: Việc trả lương cho người đến làm sau cũng được một quan tiền là do lòng tốt của ông chủ, chứ không phải do công lao của họ. Qua đó Đức Giê-su muốn dạy: Dân Do thái đừng ganh tị với lương dân khi Thiên Chúa cũng ban cho lương dân được thừa hưởng lời hứa cứu độ như họ. Người tín hữu đạo đức cũng đừng ganh tị với các tội nhân hay người lương khi thấy Chúa đối xử nhân từ với những người này khi họ được ơn gia nhập đạo vào giờ phút cuối cuộc đời. + Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức: Ông chủ vạch rõ tâm địa ganh ghét xấu xa của nhóm thợ làm sáng sớm. Họ không muốn người làm sau được trả lương bằng hay hơn họ. Đức Giê-su muốn chúng ta hãy đón nhận lòng nhân hậu của Thiên Chúa chứ đừng suy nghĩ theo kiểu loài người mà phê phán công việc của Người. + Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót: Theo Thánh Gio-an Kim Ngôn thì câu này không bắt nguồn trực tiếp từ dụ ngôn, cũng như không phải là câu tóm kết bài học của dụ ngôn. Nó được thêm vào, vì có một sự tương tự nào đó xét theo câu chuyện. Câu này nói đến sự đảo lộn về việc phát lương trước sau, đang khi trọng tâm của dụ ngôn nhấn mạnh đến việc trả lương đồng đều giữa những người thợ làm trong thời gian dài ngắn khác nhau. Có lẽ tác giả khi viết thêm câu này chỉ nhằm đóng khung dụ ngôn mà thôi.
- CÂU HỎI:
1) Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn ám chỉ ai ? Việc ông chủ vườn nho đi kêu mời người đi làm vườn nho cho ông trong nhiều thời điểm khác nhau có ý nghĩa gì ? 2) Người Do thái thời xưa tính ngày mới bắt đầu từ khi nào ? Mỗi ngày có bao nhiêu giờ lao động và thời giờ ấy tương đương với giờ hiện nay ra sao ? Giờ thứ mười một hiện nay là mấy giờ chiều ? 3) Ông chủ hứa trả lương công nhật là bao nhiêu và hứa trả lương hợp lẽ công bằng nghĩa là gì ? 4) Việc ông chủ đi kêu thợ làm vườn nho vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày, nhất là vào giờ thứ mười một cho thấy ông là người thế nào ? 5) Việc trả lương thợ của ông chủ vườn nho khác thường ở điềm nào ? Điều này nhằm nói lên điều gì về tình thương cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta ? 6) Những người làm từ giờ thứ nhất trách móc ông chủ những gì ? 7) Qua câu trả lời, ông chủ cho thấy việc ông trả lương bằng nhau cho những người làm trong thời gian nhiều ít khác nhau có bất công như họ kêu trách không ? 8) Ông chủ phê phán thế nào về thái độ của bọn thợ vào làm vườn nho từ giờ đầu tiên ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?” (Mt 20,13-15).
- CÂU CHUYỆN:
1) MỘT ÔNG VUA NHÂN TỪ VÀ QUẢNG ĐẠI :
Tại nước Tây Ban Nha có một ông vua tên là An-phong-sô rất nhân từ và quảng đại. Ngài thường cải trang làm thường dân vi hành đó đây để tận mắt chứng kiến những nỗi đau khổ và oan ức của nhân dân do bọn quan lại địa phương gây ra, để kịp thời sửa sai chấn chỉnh. Ngày nọ, đức vua cải trang đến một tỉnh lẻ và thuê một phòng trọ trong một nhà nghỉ bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông một chiếc gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt ông khách rất dễ mến, nên đã chủ động bắt chuyện : “Này ông, tôi có cảm tưởng ông không phải là loại khách du lịch bình thường”. Nhà vua tò mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì về mình, nên hỏi : “Sao anh lại nói như vậy ?” Người bồi phòng trả lời rằng : “Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông có cái gì đó khác với dân bình thường. Chắc ông phải là người thuộc triều đình nhà vua tại thủ đô Ma-trít (Madrid) cũng nên”. Nhà vua chỉ đáp lại cách mập mờ : “Một cách nào đó anh nói cũng đúng đó !” Anh bồi phòng lại hỏi thêm : “Vậy hẳn ông phải là một quan chức luôn được hầu cận đức vua ?” Nhà vua trả lời : “Anh đoán thật chẳng sai chút nào”. Người bồi phòng càng tò mò hơn và hỏi tiếp : “Phục vụ đức vua thì thông thường phải làm những việc gì hả ông ?” Nhà vua mỉm cười hóm hỉnh đáp : “Ồ, làm nhiều việc lắm, đại loại như bây giờ tôi sắp phải cạo râu cho ngài”.
Người bồi phòng trong câu chuyện trên đã gặp được chính đức vua và được ngài hé mở cho biết phần nào sự thật về ngài. Các câu đối đáp giữa đức vua và người bồi phòng cho thấy thái độ nhân từ và khoan dung của ông chủ vườn nho, tượng trưng cho Thiên Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những người đi làm sau ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi. Họ được Thiên Chúa mời gia nhập Hội Thánh vào giờ thứ mười một, tức là theo Chúa lúc cuối đời trước khi chết. Đây cũng là trường hợp của người trộm lành trên cây thập giá bên phải Đức Giê-su. Ông ta nhờ lòng tin và thành tâm sám hối, nên đã được Người tha tội và còn hứa ban hạnh phúc thiên đàng như sau: “Tôi bảo thật anh : hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (x. Lc 23,42-43).
2) LẤY NHÂN ÁI BAO DUNG ĐÁP LẠI LÒNG GANH TỴ HẬN THÙ :
Theo sách Sa-mu-en, Đa-vít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, đã cứu nguy cho dân quân Ít-ra-en bằng cách giao chiến một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ thuộc quân Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng một phát bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ít-ra-en thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Phi-li-tinh. “Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Đa-vít với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát như sau : “Vua Sa-un giết được hàng ngàn, Đa-vít giết hàng vạn”.
Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tỵ sục sôi trong lòng vua Sa-un, khiến nhà vua có lần phóng giáo vào Đavít khi anh đang gảy đàn để phục vụ đức vua. May mà Đa-vít đã kịp né tránh và đã thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, khi Đa-vít chạy trốn, vua Sa-un đã đích truy đuổi, quyết hạ sát cho bằng được Đa-vít để trừ hậu họa. Lần kia Đa-vít đã có dịp ở ngay bên vua Sa-un trong một cái hang tối, Đa-vít đã có thể giết chết Sa-un để trả thù, nhưng ông chỉ cắt một miếng giải áo của vua để chứng minh lòng trung thành của mình mà thôi (Samuen I, ch 17-18).
3) ĐIỀU ƯỚC TỆ HẠI CỦA MỘT KẺ GANH TỊ THAM LAM:
Ở Ấn Độ truyền tụng một câu chuyện vui như sau: Trong triều đình có hai viên quan phục vụ cho nhà vua được một thời gian lâu. Một ông có tính ganh tị, còn ông kia lại có tính tham lam.
Để sửa chữa tật xấu cho hai quan chức này, vua cho triệu vời cả hai vào chầu. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Vua hứa sẽ ban thưởng cho họ bất cứ điều gì. Có điều phần thưởng vua ban sẽ tùy ý muốn của hai người: Ai mở miệng xin trước sẽ được phần thưởng như ý của mình, nhưng người kia lại được vua ban thưởng cho gấp đôi người xin.
Sau khi nghe vua phán, cả hai vị quan đều im lặng để suy tính. Kẻ tham lam thì nghĩ : Nếu ta xin trước thì sẽ chỉ nhận được một nửa so với tên kia. Còn người ganh tị kia lại nghĩ : Ta dại gì mà mở miệng xin trước để cho tên kia được hưởng lợi gấp đôi ta. Cứ như thế một lúc lâu vẫn chẳng thấy ai trong hai viên quan mở miệng xin trước. Cuối cùng nhà vua yêu cầu đích danh viên quan có tính ganh tị xin trước. Hắn đã tìm ra cách xin có hại cho kẻ kia như sau : “Thần xin đức vua ban cho thần bị chột một mắt”. Hắn xin như vậy để cho viên quan kia bị mù cả hai mắt. Chính sự ganh tị đã làm cho hắn không còn tình người. Câu chuyện cho thấy: Con người ta do lòng ganh tị dễ sinh ra hờn oán nhau: Chỉ một miếng ăn, một chén gạo. một món lợi nhỏ cũng khiến họ ra tay để làm hại kẻ khác …
4) SỐ PHẬN CỦA KẺ CÓ LÒNG GANH GHÉT THÙ HẬN TRONG NGÀY PHÁN XÉT:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn JEAN A-NOU-ILB đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo trí tưởng tượng của ông : Những kẻ lành đang đứng thành hàng chen nhau để lần lượt được thánh Phê-rô cho vào thiên đàng … Nhưng rồi khi thấy bên hàng đối diện có nhiều người tội lỗi trộm cướp đĩ điếm cũng đang xếp hàng vào thiên đàng. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được tại sao Chúa lại cho bọn người đầu trộm đuôi cướp kia cũng được vào thiên đàng như mình. Rồi họ bất mãn hè nhau la ó phản đối Chúa bất công. Họ nói to: “Tôi mà biết thế này thì tôi cứ ăn nhậu say xỉn cho đã và chơi bời dâm đãng ! Cần gì phải vất vả mất công sống ngay chính và làm nhiều việc thiện bác ái !”. Họ hè nhau phản đối Thiên Chúa và không thèm vào Thiên Đàng. Cuối cùng do lòng ganh ghét thù hận, cả bọn đã bị loại ra khỏi Thiên Đàng để vào Hỏa Ngục là nơi dành cho ma quỷ và những kẻ theo chúng, như lời Chúa Giê-su dạy về ngày phán xét như sau: “Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: ‘Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho Tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó…” (Mt 25,41).
- SUY NIỆM:
1) SO SÁNH NGƯỜI CON CẢ VÀ NHỮNG THỢ LÀM VƯỜN NHO ĐẦU TIÊN:
Trong dụ ngôn về người cha nhân hậu, anh con cả đã bất mãn với người cha khi ông tỏ lòng bao dung tha thứ đối với đứa em hư hỏng bỏ đi hoang trở về nhà. Không những ông không trừng phạt tội bất hiếu của nó, mà còn truyền cho gia nhân giết dê béo ăn mừng nó trở về. Người con cả đã bày tỏ thái độ ganh ghét khi không thèm vào nhà và lên tiếng trách cha: “Cha ơi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con vui vẻ với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha lai giết dê béo ăn mừng nó !” (Lc 15,28-30). Trong Tin mừng hôm nay, những người đi làm từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vườn nho khi thấy ông trả lương cho người đi làm vào giờ thứ mười một. Họ chỉ làm việc một tiếng đồng hồ cũng được trả lương một quan tiền, bằng với những người làm từ giờ thứ nhất, phải chịu nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày.
Khi Đức Giê-su ra giảng đạo, các kinh sư và người Pha-ri-sêu cũng tỏ thái độ khó chịu khi thấy Người đối xử thân tình với bọn người thu thuế, gái điếm và những kẻ tội lỗi. Như một mục tử tốt lành, Người đi tìm từng con chiên lạc, đem lại cho những người bất hạnh niềm vui và hạnh phúc. Người mời họ ăn năn sám hối và hứa ban Nước Trời cho họ. Như vậy, Đức Giê-su cho rằng người tội lỗi cũng được hạnh phúc trong Nước Trời ngang với các kinh sư và người Pha-ri-sêu, là những người tuân giữ từng điều khoản dù nhỏ mọn của luật Mô-sê và tự liệt mình vào hàng ngũ những người công chính.
2) THẾ NÀO LÀ THÓI XẤU ĐỐ KỴ GANH GHÉT ?
– Ngày từ thuở bình minh của nhân loại, sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, sự dữ đã lọt vào thế gian. Ca-in đã ganh tị khi thấy Thiên Chúa chấp nhận lễ vật của A-ben và bỏ qua lễ vật của mình. Do lòng đố kỵ, Ca-in coi A-ben em hắn là kẻ thù và ra tay giết chết em, và cuối cùng hắn đã bị trừng phạt. Như vậy kẻ ganh tị vừa huỷ diệt người khác, lại vừa tự hủy chính mình.
– Trong Tin Mừng hôm nay, những người thợ làm việc từ sáng sớm cũng đã cằn nhằn ông chủ vì ông đã trả lương cho người làm sau một quan tiền, ngang bằng với họ đã chịu nắng nôi vất vả suốt cả ngày. Giả như ông trả cho người làm sau số tiền ít hơn thì chắc họ đã không cảm thấy khó chịu như thế. Như vậy kẻ ganh tị do thiếu tình thương nên không “vui với người vui, khóc với kẻ khóc”. Họ không coi các người thợ làm việc sau kia là bạn, nhưng là đối thủ cạnh tranh. Họ coi sự may lành của kẻ khác là mối họa cho mình.
3) ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI CÓ LÒNG ĐỐ KỴ GANH GHÉT:
– Khó chịu khi thấy bạn bè hơn mình :
Đặc điểm thứ nhất là cảm thấy khó chịu khi thấy bạn bè hơn mình. Khi nghe một ai đó có thi đậu, có việc làm mới lương cao, được thăng chức, mới sắm được chiếc xe mới hay tậu được nhà mới, … thì người ganh tị thay vì “vui với người vui” để gửi lời chúc mừng, thì họ lại cảm thấy bực bội khó chịu và tìm cách hạ giá trị của người đó. Trái lại, khi thấy bạn bè sa cơ thất bại, thì người ganh tị lại thấy hả hê vui sướng trong lòng !
– Ưa so sánh mình với người khác :
Đặc điểm thứ hai của người đố kỵ là thích soi mói vào chuyện của người khác. Những người này hay “ngó nghiêng, ngó dọc”, để ý đến từng lời nói hành động của người mà họ không ưa. Họ cũng thường hay nhòm ngó sự thành đạt, hạnh phúc, nhan sắc của người khác rồi sinh ra tức tối buồn bực, căm ghét…
– Hay nói hành nói xấu những ai hơn mình :
Do thói đố kỵ làm mờ mắt, họ luôn nghĩ mình hơn người khác, nên khi thấy có ai hơn mình, họ sẽ nói ra các thói hư của người đó ra làm trò cười để thỏa mãn lòng ganh ghét. Nếu cần, họ sẵn sàng thêm bớt thêu dệt, “ít xít ra nhiều” để hạ giá trị của người kia.
– Không thừa nhận thành công của người khác
Người có lòng ganh tị thường không thừa nhận thành quả của người khác, vì thành công của người khác cũng đồng nghĩa với sự thất bại của mình. Vì vậy họ khinh thường người khác như lời một bài hát vui: “Như hai cô ca sĩ có khen nhau bao giờ!”. Họ hay tự hỏi:
“Tại sao người kia không tài giỏi bằng tôi, không thông minh như tôi mà lại được đặt làm sếp tôi?”
“Tại sao người kia không xinh đẹp bằng tôi, nhưng lại có được một gia đình hạnh phúc như vậy?”
“Tại sao người kia lại có cha mẹ giàu có sang trọng, đang khi tôi thì không”?…
– Không muốn kết thân với những ai tài giỏi hơn mình
Trong một số trường hợp, khi phát hiện đồng nghiệp, bạn bè có tài năng hơn mình, người đố kỵ sẽ xa lánh và không muốn kết thân với họ vì mặc cảm bị thua kém họ.
Nhà văn Pháp De Balzac đã nói “Người ganh tị khổ sở hơn bất cứ người bất hạnh nào. Bởi vì hạnh phúc của người khác càng lớn thì nỗi bất hạnh trong anh ta sẽ càng nhân lên gấp bội”.
- CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ ?
– Mỗi người chúng ta, đều ít nhiều có tính xấu ganh ghét đố kỵ này. Điều cần làm là thay vì đố kỵ ganh tị với sự thành công của người khác, chúng ta hãy coi sự thành công của người khác là động lực thúc đẩy chúng ta phải cố gắng vươn lên bằng họ.
– Phải cố gắng « tranh đua nhưng đừng ganh đua » : Chẳng hạn trong sân đá banh, bạn phải cố chạy nhanh hơn để giành bóng đối thủ, thay vì ngáng chân cho họ té, hoặc thúc cùi chỏ vào người họ hay dùng tay nắm áo họ lại, để giành bóng…
– Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay: Ngài mời gọi những người thu thuế bị loại trừ, những người tội lỗi bị khinh dể vào Nước Trời, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Với những ai hay so đo, tính toán với tha nhân, Thiên Chúa sẽ theo luật công bằng mà xét xử họ; Còn với kẻ biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng xót thương. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương.
– Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau là những nén vàng… Trong ngày phán xét Chúa không hỏi: con đã làm được những gì, đã giữ những chức vụ gì ? Mà Ngài chỉ hỏi về lòng mến Chúa yêu người của chúng ta. Chính tình yêu Chúa thể hiện qua thái độ đối xứ với tha nhân sẽ là thước đo hạnh phúc của chúng ta trên thiên đàng đời sau.
- THẢO LUẬN:
1)Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường hay ganh ghét kẻ khác vì những nguyên nhân nào ? Ta phải làm gì để bỏ đi thói ganh tị này ? 2) Lời dạy của thánh Phao-lô : “Vui với người vui, khóc với người khóc” có thể thực hành được không ? 3) Bạn cần làm gì khi thấy người khác hơn mình như họ thi đậu còn ta bị rớt, họ hát hay và được nhiều người mến mộ còn ta thì không ?
- NGUYỆN CẦU:
LẠY THIÊN CHÚA CHA TỪ BI NHÂN HẬU. Xin hãy ban cho chúng con trái tim bao dung dịu dàng của Chúa Giê-su và trái tim đầy từ bi nhân ái của Mẹ Ma-ri-a. Xin cho trái tim con không ích kỷ khép lại cho bản thân, nhưng biết mở ra để đón nhận tha nhân. Xin cho trái tim con nên giống trái tim nhân hậu của Chúa Giê-su. Xin cho trái tim con vượt lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi trả thù ti tiện. Xin cho tâm hồn con luôn được bình an, không giận hờn ganh ghét với những ai hơn con. Xin giúp tình cảm của con luôn quân bình: không quá vui khi thành công, cũng chẳng chán nản khi thất bại. Xin cho con biết khiêm tốn và bình tĩnh đón nhận những lời phê bình xây dựng của kẻ khác. Xin cho trái tim con đủ lớn để yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ không ưa con và những người con không ưa họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để đón nhận cả thế giới, để không có ai là kẻ thù, nhưng biến kẻ thù thành bạn con bằng tình thân ái bao dung.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Có một câu chuyện thú vị về một hành khất bất đắc dĩ như sau. Sau một ngày dài làm việc, người đàn ông đi bộ về nhà. Vì mệt mỏi và đói khát, người đàn ông dừng lại dưới một bóng cây, dựa lưng vào thân cây và thiếp ngủ đi lúc nào không biết. Dáng vẻ mệt mỏi của ông đến độ những người qua lại tưởng ông là người hành khất, vì vậy họ dừng chân và bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng. Chẳng mấy chốc, chiếc mũ của ông đã được khá tiền. Chợt thức giấc, người đàn ông nhìn vào cái mũ ngạc nhiên và bàng hoàng. Ông cảm phục lòng nhân từ và quảng đại của khách qua đường. Ông vui vẻ đếm từng đồng và nhận thấy số tiền còn nhiều hơn một ngày công của ông. Người đàn ông mỉm cười về số phận “người hành khất bất đắc dĩ” của mình, và thầm nghĩ nếu là hành khất thật thì cũng chẳng sợ đói. Sau đó, ông tiếp tục đi bộ về nhà. Trên con đường, ông nhìn thấy nhiều người hành khất và cảm thấy thương cho số phận của họ, và ông lặng lẽ đến từng người, chia đều số tiền đã thu được và số tiền ông hiện có ở trong túi, cho những người hành khất này. Ông hy vọng họ có được một ngày hôm nay tốt đẹp và tiếp tục đoạn đường còn lại về nhà.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể chúng ta nghe dụ ngôn “Thợ Làm Vườn Nho” để cho chúng ta biết về một ông chủ tốt, giúp nhiều người thất nghiệp có công ăn việc làm. Những người thất nghiệp này, có thể được gọi là những người hành khất, đứng ngoài góc đường chờ đợi được mướn để có tiền nuôi thân mình và gia đình mình. Chúng ta được biết có người được mướn vào làm vườn bắt đầu từ những giờ khác nhau, nhưng cuối cùng ai cũng được trả lương bằng nhau.
Thật vậy, nghe qua dụ ngôn, có lẽ chúng ta cảm thấy bực bội, ấm ức và nghĩ ông chủ không công bằng và có vẻ thiên vị. Tại sao ông không trả cho những nhân công làm ít giờ, theo giờ họ làm, mà trả lương cho họ như những người khác cho rắc rối, tạo những lời phản đối và khiếu nại cho mệt. Tại sao ông không trả cho những người làm cả ngày nhiều hơn? Theo như tiêu chuẩn và sự phán đoán của chúng ta thì lối cư xử và quyết định của ông quả không giống ai! Nhưng có phải ông chủ đã làm sai? Ngài có phải theo tiêu chuẩn và ý muốn của con người chúng ta hay không?
Thế những Tin mừng muốn cho chúng ta biết một ông chủ tốt vì ông đã đối xử với họ rất công bằng và bác ái. Công bằng vì ông đã trả lương đúng với sự thỏa thuận giữa ông và những người thợ, đúng với giá thích hợp với hoàn cảnh của nhân công, đủ để nuôi sống họ và gia đình họ một ngày. Ông còn đi xa hơn tự cho mình là một người có trách nhiệm phải tìm và giúp những người thất nghiệp, để họ có công việc làm. Và từ đó, chúng ta thấy, ông chủ đã vươn lên thực thi việc bác ái, thể hiện lòng nhân từ giờ nào cũng lo đi tìm những người thất nghiệp và mướn họ, và trả cho những người chỉ làm ít giờ cũng được lãnh một đồng như những người làm cả ngày. Ông chủ trong Tin mừng hôm nay chính là Thiên Chúa, chính là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Thế, xuống thế làm người trở thành sứ giả tình yêu, lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa Cha cho nhân loại, và dạy con người phải biết sống công bằng, bác ái và quảng đại để xây dựng một thế giới trong công lý và hòa bình, trong tự do và no ấm.
Ông bà anh chị em thân mến, con người từ bao nhiêu ngàn năm vẫn thù hằn, ghen ghét, ganh tị và tranh chấp lẫn nhau. Một nhà tư tưởng đã nói rằng vì con người và cũng tại vì Chúa. Thứ nhất, tại con người vì lòng con người quá hẹp hòi, ích kỷ và ghen tị. Vì hẹp hòi, ích kỷ và ganh ghét nên con người không muốn kẻ khác hơn mình. Chúng ta thấy bao nhiêu sự thù hằn, tranh chấp và xung đột xảy ra giữa những người trong gia đình, cộng đoàn, quốc gia và trên thế giới phát xuất từ sự ganh ghét, ích kỷ và đố kỵ trong lòng con người.
Dụ ngôn “Người Con Hoang Đàng” cũng là một minh chứng cho bản chất ghen ghét và ích kỷ nơi con người chúng ta. Đứa em ăn chơi phung phí, phá tan sản nghiệp, làm bại hoại gia phong, nhưng dường như người anh không bận tâm, sống chết mặc nó! Bỗng nhiên, đứa em trở về. Được đón tiếp linh đình. Anh tức giận, phẫn uất đến mức anh cắt đứt quan hệ cha con, anh em. Chúng ta thấy người anh đã nói với cha mình: “Thằng con của ông.” Ông chứ không còn là cha, và con của ông, chứ không còn là em của tôi nữa. Tình liên hệ con người, nhất là trong gia đình bị cắt đứt. Khi tình con người bị cắt đứt, con người đâu còn nghĩ đến chuyện thương nhau. Thiếu tình người, nên những làm vườn từ sáng sớm không hình dung và cảm thông được với hoàn cảnh của những người đồng cảnh ngộ. Họ là những người thất nghiệp cần việc làm để lo cho mình và gia đình. Nhưng tại sao con người chúng ta lại thiếu “tình người”, thiếu lòng bác ái và quảng đại như thế? Có lẽ câu trả lời đúng nhất là vì vô ơn. Chúng ta không nhận ra được tình yêu thương và lòng nhân từ của Chúa. Chúng ta không nhận ra những gì chúng ta có là những ơn lành Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta thấy trong bài Tin mừng tuần trước, vì không cảm nhận được tình thương tha thứ của đức vua, đã tha hết món nợ to lớn, nên người đầy tớ độc ác đã đối xử một cách vô tình và vô tâm, không tha thứ với người chỉ nợ anh một số tiền nhỏ. Anh tóm lấy, bóp cổ, bắt giam, và đòi cho được số tiền nhỏ đó. Lòng con người chúng ta quá hẹp hòi, ích kỷ và ghen tị, cho nên vẫn còn tranh chấp, hận thù và ghanh ghét lẫn nhau.
Thứ hai, tại Chúa vì Chúa quá nhân từ và giàu lòng thương xót, và vì Chúa rất công bằng, thương người và bác ái. Thiên Chúa yêu thương và nhân từ với tất cả chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta hãy trở thành những người hành khất bất đắc dĩ ngủ bên vệ đường, nhận được những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta nhưng không. Và Chúa cũng kêu gọi chúng ta bày tỏ lòng tri ân của mình qua lòng bác ái, quảng đại dâng cúng, đóng góp tham gia vào những công việc xây dựng Nước Chúa. Biết noi gương người hành khất bất đắc dĩ trong câu chuyện sống yêu thương, tha thứ và chia sẻ ơn lành với những người nghèo khổ, nhưng người hành khất thật để họ cũng có nguồn sống. Thiên Chúa qua lòng yêu thương vô bờ bến đã sai Con Một của Người xuống trần gian, để ban cho chúng ta sự sống và sống dồi dào. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng ta.
.