Các bài suy niệm Chúa Nhật 24 Thường niên Năm B

1984

Lời Chúa:  Is 50,5-9a;  Gc 2,14-18;  Mc 8,27-35

—–

Mục lục

1. Đức tin nửa vời  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Một chữ tình  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Thầy là ai?  (Lm. Thái Nguyên)

4. Đúng hay sai  (Lm. Vũ Đình Tường)

5. Xin làm môn đệ Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Liều mất mạng sống mình (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

7. Tin và bước theo Chúa Kitô khổ nạn-Phục sinh (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Quyến rũ  (Trầm Thiên Thu)

 

Năm 2018

Mục lục

1. Đức tin trọn vẹn  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Từ bỏ chính mình  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

3. Nhận biết Chúa Kitô (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Thầy là ai?  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Chúa Kitô  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

6. Thầy là ai?.  (Lm. Giuse Nguyễn Hữn An)

7. Theo Đức Kitô bị đóng đinh (Lm. Đinh Lập Liễm)

8. Cái giá phải trả  (Lm. Nguyễn Thái)

9. Chúa Kitô là ai?  (Lm. Louis Minh Nhiên, CRM)

10. Thầy là Đức Kitô  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

11. Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật 24 Thường niên_B  (Jorathe Nắng Tím)

12. Suy niệm Chúa Nhật 24 Thường niên_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

13. Suy niệm Chúa Nhật 24 Thường niên_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

14. Còn anh em bảo Thầy là ai? (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

15. Chứng minh  (Trầm Thiên Thu)

16. Tất cả vì yêu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

17. Con người ngày nay nói Đức Giêsu là ai?  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

18. Ngài là ai? (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

19. -Thầy là ai?  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

20. Có mấy thứ Thập giá?  (Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)

21. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 24 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

22. Ta tin Chúa Giêsu như thế nào?  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

23. Đường yêu thương (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

24. Đức tin và hành động  (JM. Lam Thy, ĐVD)

25. Người ta bảo Thầy là ai?  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên)

26. Con bảo Thầy là ai?  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

27. Giờ này đối với tôi Đức Kitô là ai? (Lm. Giuse Nguyễn)

28. Sứ mệnh đầy thử thách của Đấng Kitô  (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

29. Người có đức tin thật  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

30. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?  (Fx. Đỗ Công Minh)

31. Chúa Nhật 24 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

 

Năm 2015

Mục lục

1. Đức tin và Thập giá  (Gm Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tưởng lầm  (Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chúa Giêsu còn có ý nghĩa gì trong cuộc đời ta không? (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

4. Tình bạn là mãi mãi  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Tư tưởng của Thiên Chúa vs tư tưởng của loài người (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

6. Qua Thập giá đến Vinh quang  (Văn Hào, SDB)

7. Đặt vấn đề  (Trầm Thiên Thu) 

8. Từ bỏ và vác Thập giá  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Chúa Nhật 24 Thường Niên_B  (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

10. Theo đường Chúa đi  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

11. Vào trong vinh quang ngang qua đau khổ  (Lm. Đan Vinh)

12. Đường Thập giá  (Huệ Minh)

 

ĐỨC TIN NỬA VỜI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong xã hội, người ta hay thực hiện các cuộc thăm dò để lấy phiếu tín nhiệm về một nhân vật, hoặc để tham khảo ý kiến về một dự án, có liên quan đến công ích. Ở phương Tây, những cuộc thăm dò thường xuyên được thực hiện trên báo chí và các phương tiện truyền thông, để biết về mức độ tín nhiệm đối với các nhân vật chính trị hoặc những người nổi tiếng, xem người dân nghĩ về họ như thế nào.

Thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu cũng thực hiện một cuộc thăm dò. Cuộc thăm dò này được cả ba tác giả Tin mừng nhất lãm ghi lại, tuy có đôi chút khác biệt. Những người được thăm dò là các môn đệ. Họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa được một thời gian, đã được Người huấn luyện và được Người sai đi để tiếp nối sứ vụ của Người. Nội dung của cuộc thăm dò này là hai câu hỏi:

– Người ta nói Thầy là ai?

– Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?

Xem ra các môn đệ lúng túng trong việc trả lời. Với câu hỏi thứ nhất, các ông vòng vo theo, dựa trên dư luận và lời đồn thổi. Đối với câu hỏi thứ hai, các ông im lặng, trừ một mình Phêrô trả lời: Thầy là Đấng Kitô!.

Thông thường, khi thực hiện một cuộc thăm dò, người ta công bố kết quả xem ai có câu trả lời đúng nhất. Trình thuật của thánh Mác-cô lại khác. Chúa cấm ngặt không được nói với ai về điều Phêrô vừa tuyên xưng. Không những thế, Chúa còn tiên báo cuộc khổ nạn mà Người sẽ phải chịu: “Con người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Phêrô, người vừa mạnh mẽ tuyên xưng thân thế và sự nghiệp của Thầy mình, cũng phải sững sờ ngạc nhiên. Ông không thể chấp nhận một Đấng Kitô chịu đau khổ. Nếu như vậy thì việc ông và các anh em theo Chúa sẽ trở nên vô nghĩa. Bởi lẽ nơi tâm trí các ông in đậm hình ảnh một Đấng Thiên sai mang màu sắc chính trị và trần tục. Phêrô đã can gián Thày mình, thậm chí đã trách Chúa. Ông đã suy nghĩ và hành động theo tư tưởng của loài người. Hành động này bị Chúa mắng là satan.

Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, nhưng ông không chấp nhận Người chịu đau khổ! Nhưng, một Đức Giêsu không thập giá, lại không phải là Đức Giêsu của lịch sử, lại càng không phải là Đức Giêsu cứu nhân độ thế. Vì trong chương trình của Thiên Chúa đã được thực hiện, Chúa Giêsu đã vác thập giá và đã chịu đóng đinh trên thập giá ấy.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang thực hiện một cuộc thăm dò, xem chúng ta nghĩ về Người như thế nào. Chúng ta tin Chúa, đó là điều chắc chắn, nhưng hình ảnh của chúng ta có về Chúa như thế nào. Đối với một số người tín hữu, phải chăng Chúa Giêsu chỉ là một nhân vật huyền thoại, do các tín hữu thời nguyên thuỷ tưởng tượng ra? Phải chăng Chúa Giêsu là một nhân vật lịch sử, nhưng thuần tuý chỉ là một con người uyên bác xuất chúng? Phải chăng Chúa Giêsu đã lui vào quá khứ xa xưa, không có liên hệ gì với cá nhân mỗi người tín hữu? Hiện nay, có hiện tượng những tín hữu chỉ chấp nhận một phần của Đức tin, ví dụ họ tin Chúa nhưng không tin Người hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, hoặc không tin Người tha tội trong Bí tích Hoà Giải. Họ tin Chúa nhưng không chấp nhận cơ cấu và giáo huấn của Giáo Hội. Hiện tượng này được gọi là “đức tin nửa vời”, là “đức tin tuỳ ý chọn lựa theo sở thích”.

Đức Giêsu mà Giáo Hội rao giảng là Đức Giêsu chịu đóng đinh. Người là Người Tôi tớ đau khổ và trung thành. Bài đọc I trích sách Ngôn sứ Isaia đã diễn tả một phần cuộc khổ nạn của Chúa. Trước những vu cáo, bạo lực và gian dối của con người, vị Tôi Tớ của Chúa vẫn kiên trung và phó thác. “Tôi đã đưa lưng ra cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu”. Vị tôi tớ ấy chính là hình ảnh của Đức Giêsu. Người đã dùng cây thập giá để minh chứng tình thương bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Như thế, theo Chúa là đi trên con đường thập giá, không có lựa chọn nào khác. Chúa Giêsu đã diễn giải điều này như bài học rút ra từ sự kiện được kể trong bài Tin Mừng.

– Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.

– Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

Tin vào Chúa Giêsu mà không chấp nhận thập giá là Đức tin nửa vời.

Tin vào Chúa, tức là chấp nhận đưa mạng sống mình ra để “đánh cược”với Ngài.

Đã là người chẳng có ai tránh khỏi những thử thách. Tuy vậy, trước một khó khăn, người có Đức tin cảm thấy lối thoát nhờ Đấng Tối cao; người vô thần cảm thấy như mình đứng trước ngõ cụt. Người tin Chúa tìm thấy sức mạnh và an ủi; người vô tín thấy mình chơi vơi giữa con sóng biển đời. Đó là ý nghĩa việc Chúa Giêsu nói đến thập giá trong cuộc đời người tín hữu. Chúa Giêsu đã đến trần gian, Người không hủy bỏ thập giá nơi kiếp sống con người, nhưng Người cùng vác thập giá với họ để chia sẻ gánh nặng cuộc đời. Con người không còn đơn lẻ trong chặng đường thập giá, vì có Con Thiên Chúa vác cùng. Sau thập giá là vinh quang của phục sinh.

Bạn và tôi, chúng ta đều tin vào Chúa. Tuy vậy, Đức tin vào Chúa không phải là lời nói suông, mà phải được minh chứng bằng việc làm. Thánh Giacôbê đã khẳng định với chúng ta: Tin vào Chúa mà không hành động thì là Đức tin chết (Bài đọc II). Nơi khác, vị tông đồ còn khẳng định mạnh mẽ hơn: Ma quỷ cũng tin vào Chúa và chúng run sợ, nhưng chúng không yêu mến Chúa (x. G 2,20). Chính qua việc làm mà chúng ta chứng tỏ một Đức tin sống động và đích thực.

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Câu hỏi này vẫn đang được đặt ra cho chúng ta hôm nay.

Về mục lục

MỘT CHỮ TÌNH

Lm. Jos DĐH.

Câu hỏi, câu trả lời: ngắn gọn, đơn giản, chân tình, luôn thu hút, cũng là cách gieo trồng tình thân thương tốt nhất, và dễ nghe, dễ hiểu hơn cả. Lời nói thẳng nói thật, vẫn bị xem là khó chấp nhận, khó đủ điều, đúng như câu tục ngữ: sự thật mất lòng. Mang dáng dấp của niềm vui, bình an, không phải là điều mơ ước mới lạ đối với ta, vì trong tương quan có tình, có lý, mà không nhàm chán, mới lạ nhưng không cổ kính, luôn ở sát gần ta. Cuộc sống vốn tự nhiên đã khổ đau rồi, tuy nhiên, nỗi nhọc nhằn sẽ qua đi, khi mỗi người được xây dựng trên một “chữ tình”: tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm, tình liên đới hiệp thông. Ít nhiều gì thì chữ tình vẫn đang phảng phất nơi tâm tư mỗi chúng ta: đắng cay vẫn thể ruột già, dù xa, xa lắm vẫn là anh em.

Cũng phải nói rằng: dù ta đang nặng gánh trách nhiệm gia đình, thao thức với quê hương, vẫn chung một tín hiệu tốt đẹp ta đang gắn bó với mọi người, xây dựng nước Chúa ngay tại trần gian. Đức Giêsu năm xưa không hỏi về tài năng, thành bại, hoặc về niềm vui nỗi buồn, nhưng Ngài quy chiếu về “chữ tình” mà mọi người phải có. “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai” ? Vâng, bảo Thầy là ai, ông Phêrô đã trả lời ngắn gọn, chính xác, và số các học trò hôm đó cũng chẳng khó để tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô”. Ngày hôm nay và mai sau, Đức Giêsu vẫn mời gọi, từng người hãy chân thành nói lên lập trường của mình: tôi tin Đức Giêsu là Đấng Kitô. Phải chỉ một chữ tình, dù là tình liên đới hiệp thông, tình thân thương với mơ ước xoa dịu những lắng lo sợ hãi.

Ngày lại ngày, ta có suy nghĩ gì về “chữ tình” mà Đấng là Thầy là Chúa luôn thôi thúc ta không ? Đúng, mọi giấc mơ có thể thành sự thật, chỉ cần ta đủ dũng cảm, kiên trì, để sức mạnh của chữ tình biến đổi ta hoàn thiện câu trả lời: Thầy của tôi là Đấng Kitô. Sau khi các môn đệ nói đúng danh tính mà dư luận đám đông không thể trả lời, quả là đáng khen rồi. Liền đó, “Đức Giêsu bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại”. Chính trong tư cách là Thầy dạy đức tin, Đức Giêsu tỏ cho các học trò hiểu sâu hơn về sứ mạng con Thiên Chúa: phải đi từ khổ đau thập giá rồi mới đến vinh quang. Đau khổ thập giá của người môn đệ thấy hôm nay, chính là niềm vui thật mà mọi người sẽ gọi là hạnh phúc mai sau.

Chữ tình mà Đức Giêsu nói với Phêrô, và còn nói với từng người học trò của Ngài, đó là sự thật, “hãy lui ra đằng sau Thầy”. Là trò ngoan trò giỏi, phải biết hiệp thông mỉm cười khi thầy cười, vui khi thầy vui, nhưng không được khóc khi thầy khóc, vì lúc ấy học trò phải tỉnh táo hiệp thông với thầy vượt qua sự khó. Phải cần đến chữ tình: tình liên đới, tình hiệp thông, đó là sức mạnh khăng khít nhằm giúp người học trò luôn theo Thầy. Thầy Giêsu vượt qua đau khổ thập giá bằng tình yêu thương, trò cũng thắng vượt khổ đau thập giá bằng tình yêu thương, cùng sức mạnh của Thầy. Đi đằng sau Thầy, theo Thầy, không phải hy vọng để được che chắn, thoát hiểm như ở đời vẫn nói: ăn đi trước lội nước theo sau. Theo Thầy, đi sau Thầy là để học hiểu và sống sứ mạng loan báo tình yêu thương và ơn cứu độ như Thầy của mình.

Một chữ tình, ít nhiều đã mở rộng tầm nhìn cho những ai thao thức sống tốt, sống đúng, sống đẹp. Đức Giêsu còn mong muốn “tình yêu cứu độ”, sẽ mãi còn đọng lại nơi cuộc đời những ai theo Ngài làm môn đệ, nghĩa là biết thực hành đức tin mà người học trò nhận lãnh. Hoàn cảnh địa vị hay nén bạc của mỗi người mỗi khác, nhưng tình yêu trao ban của Đức Giêsu vẫn là một: “ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Cũng có thế nói: sống ở đời này, giống như con cá trong bể nước, nóng hay lạnh, chỉ mình con cá nó biết, nhận ra cái mình không biết, mới là điểm khởi đầu của cái biết. Tình cảm chân thành phải đi từ sự khiêm tốn, mới có thể nhìn rõ và hiểu đúng về đối tượng mình yêu thương, đức tin phải có việc làm, đức tin mới đủ sống động và nên hoàn thiện.

Chỉ một chữ tình, cũng từ một chữ tình, những môn đệ, tiền nhân chúng ta, và cả nhân loại sẽ còn được mời gọi để sống, để minh chứng, để đi đến tận cùng của hạnh phúc, khi mà mọi người dễ dàng mở miệng tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô. Tình người, tình đời, có thể mông lung, khó hiểu, ví như người ta lầm lẫn mà thả mồi bắt bóng. Ví như các chuyên gia tâm lý chia sẻ: nếu khi người con gái nói rằng, không có gì, nghĩa là bạn nhất định phải tìm ra vấn đề mà cô gái ấy đang gặp phải. Chữ tình mà Chúa Giêsu thức tỉnh các học trò hết sức rõ ràng: “ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, vì Tin mừng, thì sẽ tìm gặp được sự sống ấy”. Chính tình yêu làm cho ta sống, chính sự liên đới hiệp thông với Đức kitô, làm cho người ta đủ tình yêu và bình an theo Chúa đến cùng. Xin Đấng là Thầy là Chúa, giúp chúng con khiêm tốn nhận ra sức mạnh của chúng con ở trong tay Chúa, ở trong tình thương xót Chúa. Amen.

Về mục lục

THẦY LÀ AI?

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

“Người ta nói Thầy là ai?”. Các môn đệ trả lời là dân chúng coi Thầy là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một ngôn sứ nào đó. Người ngoài có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót. Đức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ, là những người đã theo Ngài một thời gian, đã từng ở với Ngài, nghe Ngài giảng, thấy những dấu lạ Ngài làm… Ngài không trực tiếp nói cho họ biết rõ căn tính của mình, nhưng để họ tự khám phá ra.

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình:“Thầy là Ðấng Kitô”. Phêrô trả lời hoàn toàn đúng, nhưng hình ảnh của ông về Đức Kitô vẫn không khác với quan niệm của đám đông: là một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, chỉ chiến thắng chứ không hề chiến bại. Quan niệm và xác định như thế, nên khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó của Ngài đã khiến Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu nổi vì đang mải mê với một Đức Kitô vinh quang. Ông vội kéo riêng Ngài ra để ngăn lại ý định đó, nhưng bị quở trách ngay: “Xatan! lui lại đằng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Đức Giêsu biết rõ đâu là con đường Chúa Cha mong muốn, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên tính toán khôn ngoan của loài người (x.1Cr 1,25).

Con đường của Đức Giêsu là con đường hẹp:“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, mà dám liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng. Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không, việc tiếp nhận Đức Giêsu và sống sứ mạng đời mình sẽ trở thành một ảo vọng, hay đúng hơn là một tham vọng, một hình thức từ bỏ để chiếm hữu. Vì ngay các môn đệ, dù đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản… để theo Chúa, thì họ vẫn thấy mình là người quan trọng. “Cái tôi” có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Vì vậy mà Nhóm Mười Hai đã từng tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất (x. Mc 9, 33). Trở ngại đầu tiên và cuối cùng cũng vẫn là cái tôiTừ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học. Thanh tẩy tội lỗi của mình đã là điều khó, nhưng thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và công trạng xem ra còn khó hơn. Đó là điều mà ta phải luôn cảnh giác mình trên con đường theo Chúa.

Ngày nay, những ai nghe biết về Đức Giêsu, thì phần lớn nhìn nhận Ngài là một vĩ nhân, một siêu nhân, một vị Thầy đáng cho nhân loại thượng tôn. Như vậy Ngài cũng giống như Đức Khổng Tử, được thiên hạ tôn làm “Vạn Thế Sư Biểu”. Triết gia Karl Jasper đã từng xác nhận Đức Giêsu cùng với Socrates, Đức Phật, và Khổng Tử là một trong bốn nhân vật mẫu mực cho người đời noi theo. Và nếu như vậy thì cũng không khác gì cái nhìn của người Do Thái trong bài Tin Mừng này. Nơi Đức Giêsu còn một cái gì cao vượt hơn nhiều, liên quan trực tiếp đến toàn thể loài người và mỗi người, như lời Ngài phán:“Tôi là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga14,6). Ngài còn xác định nguồn cội và căn tính tuyệt đối của mình:“Tôi và Chúa Cha là một” (Ga10,10). Vì thế, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9).

Nhưng điều quan trọng ở chỗ Đức Giêsu là ai đối với tôi? Để trả lời câu hỏi này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết, trước tiên: “Tôi phải đào sâu vào trong tâm hồn tôi”; nghĩa là phải bắt đầu từ kinh nghiệm của mình. Thánh Phaolô cũng đã trả lời câu hỏi đó bằng chính kinh nghiệm của ngài: Đức Kitô là “Đấng đã yêu mến tôi, và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20). Muốn có kinh nghiệm này, tôi phải nhận ra mình là một tội nhân, tuyệt đối cần đến hy tế cứu chuộc của Đức Kitô. Đức Giáo Hoàng còn nói đến bước thứ hai là chiêm niệm và cầu nguyện. Ngài nhắc lại một lời nguyện tuyệt vời của thánh Augustinô: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, và xin cho con biết con”. Đây là ân ban mà chúng ta phải có lòng khao khát và cầu xin hằng ngày, để có thể liên tục khám phá về Đức Giêsu, Đấng luôn mới mẻ trong cuộc đời mình và trong từng biến cố của nhân sinh.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Câu hỏi ngày xưa Chúa đặt ra,
thì ngày nay vẫn còn luôn mới lạ,
con không thể trả lời theo người ta,
mà từ chính kinh nghiệm của bản thân,
qua thời gian con biết Chúa dần dần.

Nhưng rồi con thấy Chúa quá to,
vẫn là một mầu nhiệm khôn dò,
chẳng thể nào nói ra cho rõ,
lại càng không thể tỏ cho ai.

Con cảm nhận Chúa là tình thương,
hơn tất cả những gì con biết được,
hơn tất cả những gì con mơ ước,
là chỗ duy nhất con tựa nương.

Có khi con thấy Chúa rất lạ thường,
không như những gì con suy tưởng,
chỉ biết là Chúa Đấng khôn lường,
rất gần gũi nhưng vô cùng siêu vượt.

Xin Chúa thanh lọc tâm trí con,
những hình ảnh đã vốn có về Ngài,
để đón nhận một Giêsu luôn mới mẻ,
đi qua đời con với nhiều dáng vẻ,
làm tim con luôn tươi trẻ trong Ngài.

Xin cho con luôn tận tình đáp lại,
không ngần ngại trước mọi chông gai,
sẵn sàng hy sinh và từ bỏ chính mình,
để sống cuộc hành trình Ki-tô hữu.

Xin cho con mỗi ngày thêm khám phá,
để thực sự thấy Chúa là tất cả,
và lời con đáp trả thật sâu xa,
đạt tới niềm vui ơn cứu độ chan hòa. Amen.

Về mục lục

ĐÚNG HAY SAI

Lm Vũđình Tường

Đức Kitô muốn biết người ta nghĩ Ngài là ai. Ngài hỏi các môn đệ và các ông thưa có nhiều í kiến khác nhau lắm.
Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Elia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó’ c.28.
Đức Kitô hỏi tiếp, còn các anh cho Thầy là ai? Ông Phêrô lên tiếng ‘Thầy là Đấng Kitô’. Đức Kitô khen Phêrô có câu trả lời đúng nhất. Câu trả lời khác chỉ đúng một phần nhỏ về sứ mạng của Ngài. Đức Kitô không hài lòng bởi chúng không diễn tả trọn vẹn sứ mạng Ngài sẽ thực hiện nơi dương thế.
Chính Đức Kitô không dùng thánh danh Kitô để nói về mình nhưng lại dùng thánh danh ‘Con Người’. Thánh danh ‘Con Người’ có lẽ Đức Kitô muốn nhấn mạnh đến cách hành xử tàn ác, thô bạo, con người dùng để hành hạ nhau. Đức Kitô với tư cách là con người cũng chung số phận bị hành hạ, ác độc, thô bạo như những con người khác.
Trước đó ít phút ông Phêrô trả lời đúng, Đức Kitô ca ngợi ông; ít phút sau đó ông Phêrô góp í sai, Đức Kitô cảnh báo ông. Ông Phêrô trả lời đúng bởi câu trả lời đó đến từ Thiên Chúa. Câu góp í của Phêrô sai bởi câu đó do í riêng con người. Dù trả lời đúng, Phêrô vẫn không hiểu rõ nhiệm vụ cứu chuộc của Đấng Kitô. Ông đúng về thánh danh, nhưng sai về nhiệm vụ cứu chuộc. Đức Kitô mặc khải cho các ông biết sứ mạng cứu chuộc của Ngài.
‘Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kì mục, thượng tế củng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại. c.32.
Điều Đức Kitô mặc khải là tin kinh hoàng cho tất cả các môn đệ. Lí luận hợp lí của con người không thể lí giải được mặc khải trên. Đối với con người, chết là hết, chết là thua, mất mọi sự. Ba ngày sau khi chết, tất cả niềm hy vọng đều chết, kể cả hy vọng gặp lại cũng chết theo.
Theo Đức Kitô, ai tự tìm cách cứu mạng sống mình thì không cầm giữ được mạng đó. Còn ai hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng, vì Đức Kitô thì sẽ sống muôn đời c.35. Điều này cho biết con người có khả năng tìm vinh danh cho mình, nhưng không thể tự cứu mình. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền ban sự sống trường sinh.
Đức Kitô khiển trách Phêrô, ông làm điều gì sai trái?
a/ Thứ nhất, ông đã đưa ra lời khuyên, điều Đức Kitô cần ông suy gẫm về mặc khải Ngài cho biết, ông đã không làm lại đưa ra lời khuyên.
b/ Thứ hai, ông đã vượt quá giới hạn của chính mình. Thay vì hỏi để hiểu điều Đức Kitô mặc khải. Phêrô đã không hỏi nhưng lại đưa lời khuyên.
c/ Thứ ba, Phêrô là học trò; trò sao có đủ khôn ngoan để khuyên Thầy. Vì thế Đức Kitô nói với ông khôn ngoan của ông là khôn ngoan của con người, không thể nào hiểu khôn ngoan của Thiên Chúa.
Rất có thể về ba điểm nêu trên mà Đức Kitô nói với các ông,
‘Không được nói với ai về Ngài’ c.30.
Việc ngăn cấm này có lẽ nhằm mục đích giới hạn việc phỏng đoán sai lầm về sứ mạng cứu chuộc của Đức Kitô. Chính các tông đồ là những người cận kề Đức Kitô mà chưa hiểu rõ sứ mạng cứu chuộc của Ngài, thì người khác làm sao có thể biết hơn được. Vì thế mọi tiên đoán, đồn đãi về Đức Kitô đều không có căn cứ. Tốt hơn tạm ngưng nói về sứ mạng của Ngài cho đến khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
Đức Kitô cũng cho Phêrô biết cách nhìn biết về Đức Kitô không phải là cách của riêng cá nhân ông mà chính là cách chung nhân loại nhận biết về Ngài.
Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người c.33
Câu này ngầm chứa nhiều khôn ngoan.
a/ Thứ nhất, để thi hành í Thiên Chúa thì phải nhận biết í Thiên Chúa, không thể nhận biết qua í kiến loài người.
b/ Thứ hai, con người có thói quen coi trọng í kiến riêng, coi í mình là quan trọng nhất. Mọi í kiến khác đều là thứ yếu.
c/ Thứ ba, Phêrô thành tâm không muốn để điều xấu xảy ra cho Đức Kitô. Ngài cho biết thành tâm, mong làm điều tốt không bảo đảm đó là í Thiên Chúa, thực hiện í Chúa.
d/ Thứ tư, cách con người thực hiện thường ỉ vào sức mạnh, quyền thế, tàn ác, ép người khác phục tùng. Họ có thể khống chế bề ngoài. Ta vẫn nghe nói: khẩu phục nhưng tâm thì không. Cách của Thiên Chúa nhẹ nhàng, chú trọng vào tâm hồn. Khâm phục cách tự nguyện và điều này phát xuất từ tâm hồn.
e/ Điểm cuối, con người không thích hình ảnh người Đầy Tớ Đau Khổ như các tiên tri tiên đoán về sứ mạng Chúa Cứu Thế. Nhân loại thích hình ảnh một vị vua oai phong, quyền lực. Nhân loại cũng không thích vác thập giá mình bước theo và cũng không thích từ bỏ chính mình. Trái lại nhân loại thích được nổi tiếng, trọng vọng, cao sang, quyền thế. Nhân loại chọn cách hành xử trong cuộc sống, dựa vào sức mạnh, quyền thế chèn ép, đè nén, giết, bỏ tù nhau. Đức Kitô kêu gọi môn đệ ngài từ bỏ những điều trên bởi chúng là nguyên nhân gây đau thương, tang tóc, chia rẽ, bè phái. Đức kitô tự chọn hạ mình, khiêm nhường, chấp nhận bị bắt, bị hành hạ, bị xỉ vả và chịu đóng đanh trên thập tự. Cách của Thiên Chúa là yêu thương, tha thứ, ban sự sống và xót thương. Con đường yêu thương, tha thứ là con đường môn đệ trung tín Đức Kitô chọn bước theo.

Về mục lục

XIN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA

Hoa Hồng Nhỏ

Hôm nay, Thầy Giêsu và các môn đệ đi tới các làng thuộc vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, người khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8, 27-28). Nói lại những gì người khác nói về Chúa có lẽ không khó lắm, nhưng để trả lời cho câu hỏi: “Còn con, con bảo Thầy là ai?” thì mỗi người phải trả lời bằng chính xác tín của mình, xác tín đến từ điều đã được Thiên Chúa mạc khải cho, đến từ chính mối tương quan của người ấy với Chúa. Cũng vậy, để thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, ta phải đi trên con đường Người đã đi, sẵn sàng liều mất mạng sống vì Chúa và vì Tin Mừng.

Các môn đệ được Chúa Giêsu chọn gọi, các ông được ở với Người, được Người dạy dỗ và sai đi. Chắc chắn, ở bên cạnh Người, các ông cảm nếm được tình yêu mà Chúa dành cho mình. Tông đồ trưởng Phêrô đã thay mặt các anh em trả lời với Thầy rằng. “Thầy là Đấng Kitô”. Điều đó không phải đến từ hiểu biết của riêng ông nhưng là hồng ân mà Chúa Cha đã mặc khải cho ông. Điều đến từ Thiên Chúa luôn là một hồng ân được ban tặng nhưng không cho những ai Người muốn. Dù đã mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin của mình nhưng khi vừa nghe Thầy loan báo về cuộc Thương Khó mà Người sắp bước vào thì ông Phêrô đã kéo riêng Người ra mà trách. Ông không muốn cùng Chúa đi vào con đường Thương Khó ấy hay ông không muốn Thầy phải đau khổ? Ông vẫn muốn được sát cánh bên Thầy và vì thương yêu Thầy, ông không muốn Thầy đi vào chỗ chết. Ông chưa hiểu được đó là con đường mà thánh ý Chúa đã vạch ra, là con đường tình yêu mà Thầy sẽ dùng để cứu chuộc nhân loại. Chỉ vì chưa hiểu và vì thương yêu Thầy, ông đã bị Satan đánh lừa khi đứng ra can ngăn Thầy. Tư tưởng của ông không phải đến từ Thiên Chúa nhưng là của loài người (x. Mc 7, 33). Thầy nặng lời mắng ông là “Satan”,  đã sửa dạy ông trước mặt các anh em chỉ vì Người thương ông, không muốn ông đi lạc đường và Người cũng muốn dạy cho tất cả các môn đệ biết được chọn lựa của Người. Đối với Người, điều trần gian cho là tốt nhưng không phải là điều tốt trong mắt Chúa, việc thi hành thánh ý Thiên Chúa là điều quan trọng nhất, kiên quyết nhất.

Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết về những gì Người sẽ trải qua trong cuộc Thương Khó cách rõ ràng, không úp mở. Người còn dạy các ông về tâm thế phải có của một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Đó là người biết bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa, sẵn sàng liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng (x. Mc 8, 34-35). Sau này, chính các môn đệ đã sống triệt để lời Thầy Giêsu dạy dỗ khi hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phục sinh. Còn với ta, đứng trước câu hỏi của Chúa Giêsu, câu trả lời của ta là gì? Ta cũng cần nhắc lại câu trả lời của thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”. Thêm nữa, mỗi ngày ta hãy chọn Chúa là Chúa của mình, khiêm nhường nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình; sẵn sàng để Chúa bước vào cuộc đời ta, để Người ngự vào tâm hồn ta. Chính Người sẽ dạy ta cách để trở nên người tông đồ của lòng thương xót Chúa. Chúa ban cho ta sự sống, ban cho ta được hiện hữu là vì Chúa yêu ta và cũng để ta được sống trong tình thương của Người. Chúa Giêsu đã vác thập giá lên đồi Canvê là vì yêu nhân loại. Người cũng mời gọi ta bước cùng Người trên con đường ấy, để đáp lại tình yêu Chúa và để yêu thương anh em.

Lạy Chúa Giêsu! Có người đã từng nói: “Nếu chọn Chúa, con sẽ là tất cả. Nếu chọn ai đó, con sẽ không là gì cả”. Con tạ ơn Chúa đã viếng thăm con, yêu con đang khi con yếu hèn tội lỗi. Con được Chúa ban cho ơn nhận biết mình được yêu thương. Chúa cũng cho con thấy con cần phải thả neo cuộc đời con nơi chính Chúa, bởi vì Chúa đã hơn một lần nói với con: “Đối với Ta, con thật quý giá”. Amen.

Về mục lục

LIỀU MẤT MẠNG SỐNG MÌNH

Thiên San

Để chiêu gọi các môn sinh hay chiêu gọi khách hàng đến với mình, chúng ta thường chọn cách quảng bá những điều hay, hứa hẹn bao điều tốt đẹp, hấp dẫn mà các môn sinh hay các khách hàng muốn đạt được, có được. Trong những tình huống như vậy, ít ai chọn cách nói điều gây bất lợi hay làm mất hình ảnh của bản thân. Nhưng khi đọc bài Tin Mừng hôm nay nay, chúng ta thật ngạc nhiên khi Thầy Giêsu không ngần ngại nói cho các học trò của mình biết về những đau khổ, bắt bớ và cả cái chết, sự phục sinh mà mình sẽ trải qua. Không những thế, Người còn nói rõ điều kiện theo Chúa cho các học trò cũng như cho những ai muốn theo Người. Tất cả những điều đó xem ra không có gì hấp dẫn và đó còn là một thách đố lớn nữa.

Theo Chúa bấy lâu, hẳn các môn đệ cũng phần nào hiểu biết về Thầy của mình. Các ông cũng nghe người ta nói về Thầy của mình. Bằng chứng là khi được hỏi về điều đó, các ông đều có thể trả lời một cách rõ ràng: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác thì cho là một trong các vị ngôn sứ nào đó” (Mc 8, 28).  Nhưng khi được hỏi về cái nhìn của chính mình: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8, 29), dường như các ông mấy tự tin để trả lời. Chỉ có Phêrô là người đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29). Từ đó, Thầy Giêsu không ngần nại nói cho các học trò biết về những gì sẽ xảy ra. Đoạn, Người cũng nói rõ những điều kiện dành cho những ai muốn theo Người. Đó là phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Những điều kiện này xem ra cũng chẳng hấp dẫn hơn những gì Thầy Giêsu sẽ trải qua.

“Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35). Đó là lời khẳng định của Thầy Giêsu sau những điều Người đã mặc khải về cuộc Thương Khó của Người. Thiết nghĩ, các môn đệ còn chưa hiểu được Đấng Kitô nghĩa là gì. Để theo Người đúng nghĩa, các môn đệ phải chấp nhận liều mất mạng sống mình, chấp nhận những đòi hỏi khắt khe của Tin Mừng. Những đòi hỏi của Tin Mừng thật sự rất khó khăn. Đó là những thách đố cho con người mọi thời đại, cho những ai muốn theo Thầy, là nghịch lý của Tin Mừng. Bởi từ bỏ chính mình chưa bao giờ là điều dễ dàng.

Trong tình hình dịch bệnh ngày càng căng thẳng, ở những tuyến đầu, những nơi được gọi là tâm dịch, nơi đó vẫn còn biết bao bóng dáng của những “thiên thần áo trắng’, các thiện nguyện viên đang ngày đêm “liều mất mạng sống mình” để cho các bệnh nhân được sống. Thiết nghĩ, họ chính là những môn đệ đích thực của Thầy Giêsu. Ai cũng hiểu rằng, khi tiếp xúc, chăm sóc, cứu chữa cho các bệnh nhân thì nguy cơ nhiễm bệnh sẽ rất cao và có thể mất mạng. Sự sống thật mong manh. Theo một cách nào đó, họ chẳng phải là những môn đệ đang sống theo lời mời gọi của Thầy Giêsu đó sao? Từ bỏ mình, liều mất mạng sống mình để lao vào chiến trận, họ đang ngày đêm gồng mình chiến đấu, tìm mọi cách để cứu các bệnh nhân thoát khỏi tay tử thần. Không phải họ không sợ chết nhưng đạo đức nghề nghiệp và trái tim đầy tràn yêu thương là động lực giúp họ vượt qua mọi khó khăn, sưởi ấm bao tâm hồn đang bất động vì Covid. Còn chúng ta, chúng ta đang làm gì để sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng trong thời đại hôm nay, nhất là trong hoàn cảnh dịch bệnh?

“Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2, 18). Lạy Chúa Giêsu! Chúng con cảm tạ Chúa đã cứu chuộc chúng con bằng giá Máu châu báu của Ngài trên thập giá. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, cùng biết liều mất mạng sống mình để sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng. Đặc biệt, xin cho chúng con biết hành động sao cho đẹp lòng Chúa, để nhờ đó mọi người nhận biết Chúa. Amen.

Về mục lục

TIN LÀ BƯỚC THEO CHÚA KITÔ KHỔ NẠN-PHỤC SINH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Dung mạo một Vì Thiên Chúa, Đấng Mêssia dưới dáng dấp của “Người Tôi Tớ đau khổ” như Isaia mô tả được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, chịu đau khổ, chịu đóng đanh, chết vì chúng ta và đã sống lại để cứu chuộc chúng ta.

Người Tôi Tớ đau khổ

Hình ảnh “Người Tôi Tớ đau khổ” bị chống đối: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Chịu đau đớn trong thân xác như: bị đánh vào lưng, bị giật râu, vừa đau lại vừa nhục (x. 2Sm 10,4), bị khạc nhổ vào mặt (x. Ds 12,14). Tất cả như báo trước về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô, vị ngôn sứ thành Nagiarét phải mang lấy vào thân và hiện thực nơi Người.

Đức Giêsu Kitô chính là “Người Tôi Tớ khổ đau của Thiên Chúa”, chứ không ai khác. Người là Đấng Cứu Thế được Thiên Chúa tuyển chọn, tự nguyện gánh tội trần gian, dùng chính cái chết của mình làm lễ giao hòa, hầu muôn dân được ơn tha tội.

Bước theo Đức Kitô khổ nạn và phục sinh

Vỗn dĩ là Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ và cái chết, không có nghĩa là Người tìm kiếm đau khổ cho mình. Người chịu như thế là vì vâng phục Chúa Cha, để cứu chuộc chúng ta như Thánh Phaolô đã nói: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3).

Suốt ba năm công khai đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã nhiều lần báo cho các môn đệ biết trước về số phận cứu thế của mình rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mc 8,31-33). Lần khác khi tụ họp tại Galilêa, Đức Giêsu cũng tỏ cho họ biết: “Con Người sắp bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại” (Mc 9,30-32). Lúc sắp lên Giêrusalem, dọc đường Đức Giêsu nói riêng với Nhóm Mười Hai: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và ký lục; người ta sẽ lên án tử hình cho Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại, và người ta sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ trên Người, đánh đòn Người và giết đi, và ba ngày sau Người sẽ sống lại” (Mc 10,32-34).

Tất cả những gì các ngôn sứ viết về Người Tôi Tớ đau khổ, Đức Giêsu sẽ là người thực hiện. Nhưng các môn đệ đâu có hiểu, vì họ cũng như tất cả những người Do Thái thời đó đang trông chờ một Đấng Cứu Thế chính trị, nổi lên lãnh đạo dân Do thái đánh đuổi đế quốc Roma, thống trị các dân nước và khôi phục vương quốc nhà Đavít. Đức Giêsu Kitô, Đấng hoàn toàn thánh thiện và vô tội, đã tự nguyện gánh lấy mọi tội lỗi của trần gian và chấp nhận cái chết bất công hổ nhục để cứu chuộc muôn người. Tại Giêrusalem, ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô được đầy ơn Chúa Thánh Thần đã công khai loan báo: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ mà đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết” (Cv 2,23-24). Đó là Tin Mừng và là đức tin Giáo Hội tiếp tục rao giảng cho muôn dân cho đến ngày tận thế.

Tin và thực hành

Tin Mừng hôm nay mô tả một hoàn cảnh đặc biệt. Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô “là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mc 8,29). Liền sau đó, Đức Giêsu hé mở cho các môn ông hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31), làm đảo lộn tâm hồn ông, Phêrô nổi loạn. Không thế được, không thế được. Làm sao Ðấng Kitô lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Phêrô không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32).  Ý của Phêrô là, Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá.

Ngỏ lời với Hồng y đoàn trước khi khai mào sứ vụ ngai tòa Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8, 35) là một thất bại. Nhưng khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân.

Lạy Maria, Mẹ đã sống lòng tin bằng cách trung thành theo Chúa Giêsu Con Mẹ, xin giúp chúng con bước đi trên con đường của Chúa Giêsu bằng cách quảng đại xả thân cho Chúa và cho tha nhân. Amen.

Về mục lục

QUYẾN RŨ

Trầm Thiên Thu

Ngôn sứ Giêrêmia thổ lộ: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.” (Gr 20:7) Cách quyến rũ của Thiên Chúa rất khác lạ, không giống như cách của loài người. Trong đời thường, người ta HỨA HẸN đủ thứ bằng những lời đường mật, còn Thiên Chúa lại quyến rũ bằng cách KHÔNG HỨA “ngon lành” hoặc “béo bở” mà Ngài HẸN những thứ hoàn toàn trái ý chúng ta: Từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày.

Chính mình mà lại không được chiều chuộng, còn đau khổ không ai muốn thì lại phải chấp nhận. Ngậm trái bồ hòn mà cảm thấy vị ngọt thì đúng là quá đỗi lạ lùng, kẻ đó có lẽ “điên khùng” thật. Nhưng đối với Thiên Chúa, kẻ điên khùng đó rất đáng yêu, đặc biệt là được thưởng Nước Trời. No Cross, No Crown; No Pain, No Gain. Không thập giá thì không có triều thiên; không đau khổ thì chẳng được lợi gì.

Thế gian được ví là bể khổ, chắc chắn chẳng vui sướng gì. Thật vậy, cuộc sống luôn có nhiều vấn nạn – từ nhỏ tới lớn, từ đơn giản tới phức tạp, từ cụ thể tới trừu tượng, từ riêng tới chung. Biết cách đặt vấn đề có thể giúp chúng ta xử lý tình huống tốt hơn hoặc dễ dàng hơn. Ngược lại, không biết cách đặt vấn đề có thể khiến chúng ta lâm vào thế bí. Rắc rối. Phức tạp. Nhiêu khê. Tuy nhiên, đặt vấn đề cũng có thể là đưa ra một điều kiện nào đó: Nếu làm thế này thì sẽ được cái kia.

Thập giá là vấn đề độc đáo đã được Chúa Giêsu đặt ra cho những người muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ của Ngài. Thập giá là chiếc cầu gồm hai nhánh kỳ diệu, nhánh dọc đưa đến Thiên Chúa, nhánh ngang dẫn tới tha nhân. Hai nhánh giao nhau ở giữa, giao điểm đó chính là “nút thánh” Đức Giêsu Kitô. Thập giá là con đường duy nhất dẫn tới hạnh phúc đích thực. Không có con đường nào khác.

Đau khổ là vấn đề chúng ta phải lập kế hoạch rõ ràng. Thập Giá là Thánh Giá, là cái GIÁ để nên THÁNH. Muốn nên thánh thì phải trả giá bằng cách đi qua Con Đường Thập Giá. Chỉ có độc đạo đó dẫn tới Thiên Chúa mà thôi.

Đau khổ Thập Giá mà Đức Giêsu Kitô phải trải qua đã được ngôn sứ Isaia tiên báo: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:5-7)

Thập Giá là nhục nhã, tang tóc, chết chóc. Nhưng Thập Giá lại tiềm ẩn sự quyến rũ lạ lùng, và đó là đại lộ dẫn tới cõi phục sinh, nơi trường sinh bất tử. Ngôn sứ Isaia đã đặt vấn đề: “Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (Is 50:8-9a)

Nếu thực sự có Thiên Chúa thì người ta không còn sợ hãi bất cứ ai hoặc điều gì: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Người lại lắng tai ngày tôi kêu cứu.” (Tv 114 [116]:1-2) Lòng tin ấy thật mãnh liệt, bền vững, và được kiểm chứng xác thực: “Gặp gian truân sầu khổ, tôi đã kêu cầu danh Chúa: ‘Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!’ Chúa là Đấng nhân từ chính trực, Thiên Chúa chúng ta một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi.” (Tv 114 [116]:4-6)

Niềm tin được minh chứng thì niềm tin đó càng thêm vững mạnh, thế nên họ luôn tự nhủ: “Hồn tôi hỡi, thôi bình tĩnh lại, vì trên ngươi, Chúa đã xuống ơn lành; Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Người trong cõi đất dành cho kẻ sống.” (Tv 114 [116]:7-9) Đức tin càng mạnh thì càng thêm trông cậy và thể hiện đức mến.

Nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ bằng hành động cụ thể, như Thánh Giacôbê nói: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no,’ nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:14-16) Đó cũng là cách giải thích rõ ràng các chi tiết và rất cụ thể.

Cách lý luận của Thánh Giacôbê rất độc đáo: “Đức tin KHÔNG CÓ HÀNH ĐỘNG thì quả là ĐỨC TIN CHẾT. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động.’ Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.” (Gc 2:17-18) Cách đặt vấn đề lô-gích và tuyệt vời biết bao!

Chính Chúa Giêsu đã cho ông Tôma biết bí quyết đạt được sự sống vĩnh hằng: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. KHÔNG AI ĐẾN VỚI CHÚA CHA MÀ KHÔNG QUA THẦY.” (Ga 14:6) Con đường đó là Con Đường Giêsu, và cũng là Con Đường Thập Giá. Không có bất cứ con đường, lối đi hoặc ngõ ngách nào khác.

Có một số vấn đề quan trọng được trình bày trong trình thuật Mc 8:27-35. Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” Lời tuyên xưng rõ ràng, chính xác, dứt khoát. Thật tuyệt vời và rất đáng khen, nhưng Ngài cấm các ông tiết lộ với người khác.

Rồi Ngài còn cho biết rằng Ngài phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Đây lần thứ nhất Ngài loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài. Nghe Ngài nói rõ như vậy, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và trách Ngài. Nhưng Ngài liền quở trách ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Ông Phêrô vừa mới được khen thì lại bị trách ngay. Điều đó cho thấy rằng phàm nhân luôn biến đổi vì yếu đuối, thậm chí có lúc còn không biết mình là ai. Phàm nhân chẳng khác thời tiết thất thường, khó đoán.

Chúa Giêsu cho biết điều kiện để theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” Nghe chừng là nghịch lý, nhưng thực ra lại là thuận lý. Đơn giản mà nhiêu khê!

Ngụ ngôn kể về hai mẹ con loài chó. Chó con hỏi chó mẹ: “Mẹ ơi, hạnh phúc là gì vậy?” Chó mẹ giải thích: “Hạnh phúc là cái đuôi của con đấy!” Chó con liền quay lại tóm lấy cái đuôi nhưng không thể. Chó con oà khóc và hỏi: “Mẹ ơi, tại sao con không thể bắt được hạnh phúc vậy?” Chó mẹ điềm nhiên: “Con yêu, con cứ tiến về phía trước thì hạnh phúc sẽ theo sau con. Con càng muốn năm bắt hạnh phúc thì hạnh phúc càng xa con.”

Triết lý sống rất đơn giản, nhưng người ta cứ tự làm cho cuộc sống thêm phức tạp. Tại sao cứ phải đi tìm hạnh phúc trong khi hạnh phúc vẫn luôn đi theo mình? Cứ sống và cảm nhận hạnh phúc mà Thiên Chúa dành cho chúng ta giữa trần gian này. Hạnh phúc trừu tượng mà vẫn cụ thể: HẠNH PHÚC LÀ ĐƯỢC SỐNG BÊN NHỮNG NGƯỜI MÌNH YÊU THƯƠNG. Như vậy, hạnh phúc luôn gần gũi và giản dị. Đời thường mà rất diệu kỳ.

“Vác thập giá hằng ngày” vừa là lời khuyên vừa là mệnh lệnh mà Chúa Giêsu truyền, ai nỗ lực thì sẽ được sống. Hạnh phúc nào cũng có vị mặn của nước mắt, thành công nào cũng cần khổ luyện. Thánh Bernard Clairvaux (1090-1153) xác nhận: “Sự chết là cửa ngõ của sự sống.” Còn đại văn hào Victor Hugo (1802-1885) cho biết: “Hành động tốt là bản lề của Cửa Nước Trời.” Thế thì chẳng gì phải ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá” không ngừng, triền miên từ sáng tới chiều, miệt mài hết ngày này qua tháng nọ.

Tình Chúa bao la và bất biến, hãy tín thác vào Ngài, vì Ngài đã thề hứa: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống.” (Ed 33:11) Thiên Chúa rất muốn mọi người được vào Nước Trời, và đó cũng là cùng đích của chúng ta. Đây là sự khôn ngoan của Thánh Vịnh gia: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.” (Tv 51:3-5)

Nhân vô thập toàn, ai cũng có lúc được khen và có lúc bị chê. Nhưng quan trọng là cách thức khen và chê: “Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật chính là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta thì chỉ là kẻ hại ta.” (Tuân Tử, hiền triết Trung Hoa) Trong mọi mối quan hệ, sự thẳng thắn vẫn là cách quyến rũ nhất.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con thành tín trong mọi động thái, gia tăng can đảm để chúng con khước từ những gì không thuộc về Ngài, xin giúp chúng con chấp nhận thập giá đại dịch này để hoán cải theo Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

 

ĐỨC TIN TRỌN VẸN

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Đức tin là ơn ban của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Vì là một ơn ban hay quà tặng, nên ta có thể gìn giữ hoặc có thể đánh mất đức tin. Thiên Chúa ban đức tin cho mọi người đều giống nhau, tuy vậy, có người có đức tin mạnh mẽ, người khác lại có đức tin yếu kém. Như vậy, đức tin yếu kém hay mạnh mẽ là do cá nhân người đã lãnh nhận. Để được xứng danh người tín hữu, chúng ta phải có một đức tin trọn vẹn.

Đức tin được gọi là “trọn vẹn” được thể hiện qua ba khía cạnh: Tuyên xưng đức tin, Sống đức tin và Loan truyền đức tin. Thiếu một trong ba khía cạnh này, có thể nói chúng ta chưa được một đức tin trọn vẹn.

Để tuyên xưng đức tin, chúng ta phải hiểu nội dung của đức tin như Giáo Hội dạy. Những chân lý đức tin được truyền lại từ bao thế hệ. Qua những “tín điều” được Giáo Hội chính thức tuyên xưng trong kinh Tin Kính, người tín hữu nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời, đồng thời cảm nhận được sự dẫn dắt của Ngài giữa bao sóng gió của trần gian. Đức tin được tuyên xưng cách cá nhân: “tôi tin”, và cũng được tuyên xưng cách tập thể, tức là với sự hiệp thông trong Giáo Hội: “chúng tôi tin”. Đức tin được tuyên xưng trong phụng vụ, nhưng cũng phải được tuyên xưng trong cuộc sống hằng ngày.

Để sống đức tin, chúng ta phải thực hiện Lời Chúa dạy trong mối tương quan với anh chị em. Nhiều người tín hữu quên mất khía cạnh quan trọng này. Vì thế, đời sống hằng ngày đi ngược với điều họ tuyên xưng trong nhà thờ. Đức tin phải thấm nhập đời sống người tín hữu và thể hiện qua việc làm, để rồi, những người chưa tin Chúa sẽ nhận ra Ngài nơi chính cuộc đời của chúng ta. Nói cách khác, cuộc đời người tín hữu là một “cuốn Tin Mừng thu gọn”, diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho Người giữa đời.

Để loan truyền đức tin, người tín hữu phải hiểu biết Chúa và trình bày giáo huấn của Người cho anh chị em mình. Loan báo Tin Mừng là bổn phận của mỗi Kitô hữu. Tuy vậy, việc loan báo Tin Mừng chỉ đem lại những hiệu quả thiết thực, nếu người loan báo thực sự tuyên xưng và sống đức tin, như đã nói ở trên. Họ như người đã thực sự gặp gỡ Chúa và chia sẻ cho anh chị em về kinh nghiệm gặp gỡ ấy.

Lời Chúa hôm nay giúp ta nhận ra đâu là đức tin trọn vẹn. Thánh Giacôbê khẳng định: Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Đức tin chết có nghĩa là đức tin không được tuyên xưng, không được sống (thực hiện) và không được loan truyền. Đối với những người có đức tin mà không có việc làm, món quà đức tin bị họ giấu kín, thậm chí chôn vùi sâu trong lòng đất, vì thế, đức tin không sinh hoa kết trái.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bất ngờ đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”. Trước câu hỏi này, các ông tỏ ra lúng túng. Thì ra, mặc dù đã có một thời gian dài làm môn đệ Chúa Giêsu, các ông vẫn chưa hiểu rõ về thân thế Thầy mình. Các ông chỉ biết nói theo lời đồn và theo dư luận: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.”

“Thầy là Đức Kitô!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của thánh Phêrô. Phêrô thận trọng để cho những anh em khác trả lời dựa trên dư luận của quần chúng xung quanh chân tính của Đức Giêsu, và ông là người có tiếng nói sau cùng. Cũng có thể lúc đó, ông mới nhận ra điều ông biết về Chúa là điều chắc chắn.

Mặc dù thận trọng như thế, xem ra Phêrô vẫn chưa có một đức tin trọn vẹn. Sau khi các môn đệ có một định nghĩa chính xác về sứ mạng thiên sai của Chúa, Người mới tỏ cho các ông biết, Đấng Kitô phải trải qua cuộc thương khó, nhưng sẽ phục sinh. Mác-cô không ghi lại lời khen của Chúa như Matthêu, nhưng ông cũng nhắc lời Chúa khiển trách Phêrô là Satan, khi ông này muốn can gián Chúa về ý tưởng thập giá và khổ nạn. Kể cả sau khi đã tuyên xưng Đức tin, các môn đệ chưa thể chấp nhận được quan niệm về một Đấng Thiên sai khổ nạn để cứu chuộc con người. Nơi Phêrô cũng như nơi mỗi chúng ta hôm nay, chúng ta vừa tuyên xưng Đức tin vào Chúa, đồng thời cũng vẫn gặp khó khăn khi đối diện với thập giá. Đó là lý do tại sao một số tín hữu ngày nay, tin vào Chúa Giêsu mà khước từ thập giá, hoặc chỉ chọn lựa Chúa Giêsu mà loại bỏ thập giá. Chúa Giêsu không có thập giá không phải Chúa Giêsu của mặc khải và cũng không phải là Đấng Cứu độ trần gian. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là biểu tượng của sự hận thù, cam chịu và chẳng có giá trị bày tỏ tình yêu. Khi Phêrô có ý khước từ thập giá, Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời và gọi ông là Satan.

Thập giá gắn liền với Đức Kitô. Thập giá cũng gắn liền với mỗi Kitô hữu. Tác giả sách Ngôn sứ Isaia đã diễn tả người Tôi tớ đau khổ của Giavê như một nạn nhân bị bạc đãi đến mức tột cùng (Bài đọc I). Sau này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã trải qua đòn vọt tra tấn giống y như vậy. Dù bị sỉ nhục hành hạ, người Tôi tớ của Đức Giavê vẫn một lòng tín thác ở Thiên Chúa, là Chúa Thượng và là Đấng phù trợ trung thành. Đây cũng là gợi ý cho mỗi chúng ta trong việc tuyên xưng và sống đức tin. Muốn trung thành với Chúa, đòi hỏi phải vượt lên những khó khăn, với lòng tín thác nơi Chúa, luôn xác tín rằng Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Hành trình cuộc đời còn nhiều gian nan vất vả. Đã là người chẳng có ai tránh khỏi những thử thách. Tuy vậy, trước một khó khăn, người có Đức tin cảm thấy lối thoát nhờ Đấng Tối cao; người vô thần cảm thấy như mình đứng trước ngõ cụt. Người tin Chúa tìm thấy sức mạnh và an ủi; người vô tín thấy mình chơi vơi giữa con sóng biển đời. Chúa Giêsu đã đến trần gian, Người không hủy bỏ thập giá nơi kiếp sống con người, nhưng Người cùng vác thập giá với họ để chia sẻ gánh nặng cuộc đời. Con người không còn đơn lẻ trong chặng đường thập giá, vì có Con Thiên Chúa vác cùng. Sau thập giá là vinh quang của phục sinh. Chấp nhận thập giá và kiên cường bước đi, đó là bằng chứng của người tín hữu có đức tin trọn vẹn.

“Tin là chịu đựng sự khó hiểu của Thiên Chúa suốt đời” (Karl RAHNER, Linh mục  dòng Tên và thần học gia người Đức, 1904-1984).

Về mục lục

.

TỪ BỎ CHÍNH MÌNH

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Từ bỏ là hy sinh. Hy sinh là mất mát. Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu “ Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình “ ( Mc 8, 34 ) có ý nghĩa cao vời bởi vì đây chính là nét đẹp của tình yêu. Thánh Gioan đã định nghĩa :” Thiên Chúa là Tình Yêu “. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng chính cả mạng sống của mình. Lời mời gọi của Chúa Giêsu có tính tự do, Người không bắt buộc con người. Con người hoàn toàn tự do khước từ hoặc chọn đi theo Chúa. Người mời gọi con người, chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể ngay cả mạng sống.

Đức Giêsu hôm nay, sau khi đã nghe các câu trả lời, những điều nhiều người nghĩ về Người, gán ghép cho Người và đặc biệt đã hiểu rõ các môn đệ biết Người là ai qua lời tuyên tín của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô “ ( Mc 8,29 ). Phêrô tuyên xưng một Đức Kitô Cứu thế, nhưng không chấp nhận con đường thập giá của Người. Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan bởi vì ngay sau tuyên tín Thầy là Đấng Cứu thế. Chúa đã loan báo con đường đau khổ Ngài phải đi, Phêrô đã cản ngăn Chúa. Phêrô và các môn đệ thực sự giờ phút,lúc đó vẫn chưa hiểu được con đường thập giá của Chúa. Các Ngài chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu khi Ngài từ trong cõi chết sống lại.Phêrô và các môn đệ đã cảm nghiệm con đường Thầy mình đã đi qua, các Ngài đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của mình.Nên, tất cả các môn đệ đều chấp nhận cái chết khổ hình của Chúa. Tất cả các Ngài đều hy sinh mạng sống vì tình yêu.Tất cả đều từ khước vinh hoa, địa vị, tiền tài để được lặp lại cái chết của Thầy mình.

Chúa Giêsu nói :” Ai muốn theo Ta, vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta “. Lời mời gọi của Chúa được gửi tới tất cả mọi người mang danh Kitô. Chúa mời gọi tất cả tham gia vào cuộc tử nạn của Người. Chúa Giêsu mời gọi con người vác thập giá của mình, mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Chúa không bảo con người đi tìm thập giá bởi vì nếu tìm thập giá là tìm sự đau khổ, như vậy đạo chúng ta là một đạo chuyên gieo rắc sự đau khổ, làm cho con người chán ngán, rút lui. Đạo của Chúa là đạo tình yêu. Thiên Chúa không bao giờ đặt trên đôi vai, trên con người thánh giá quá sức mỗi người.Làm môn đệ của Chúa là chấp nhận thập giá. Chúa đã biết trước, đã tiên liệu, đã hiểu được giới hạn, sức chịu đựng của mỗi người. Ngài trao thập giá cho mỗi người tùy theo sức vác, sức chịu đựng của mình.

Vâng, môn đệ của Chúa không bao giờ được khước từ thập giá vì mỗi lần chúng ta, mỗi lần con người từ chối sống bác ái, yêu thương là mỗi lần con người chối từ thập giá. Mỗi lần chúng ta không chấp nhận cuộc sống hiện tại Chúa tặng ban là chúng ta minh nhiên từ khước thập giá của Chúa. Mỗi lần chúng ta tự đóng khung trong vỏ sò, không chịu đến với anh em nghèo, chia sẻ với họ lương thực, hay lời động viên là chúng ta chối từ thập giá Chúa trao.  Điều Chúa muốn con người, muốn chúng ta hãy hết lòng tín thác, cậy trông vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vào sự quan phòng kỳ diệu của Ngài, chứ đừng sống theo những ảo ảnh, phù vân, những dễ dãi, đam mê, dục vọng, xác thịt, tội lỗi…” Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống “ ( Mc 8, 35 ). Mất đời này vì Chúa sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn can đảm dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa bằng việc từ bỏ những ham muốn, những thói hư, tật xấu, những điều tiêu cực,đam mê, dục vọng.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Đạo của Chúa Giêsu là đạo gì ?

2.Từ bỏ theo ý Chúa là gì ?

3.Đạo của Chúa Giêsu có phải là đạo đi tìm thập giá không ?

4.Vác thập giá hằng ngày là gì ?

5.Liều mất mạng sống vì Chúa là gì ?

Về mục lục

.

NHẬN BIẾT CHÚA KITÔ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

         1) Nhận biết Đức Kitô

Toàn bộ Tin Mừng thánh Marcô nhằm mục đích trả lời cho câu hỏi: “Chúa Giêsu là ai?” Nhưng trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu lại minh nhiên đặt cho các môn đệ câu hỏi : “Các con bảo Thầy là ai? ” Chúng ta, những Kitô hữu giờ đây nghe và đọc lại cũng buộc phải trả lời.

Trong các chương Tin Mừng của Chúa nhật trước, Chúa Giêsu đã không minh nhiên trả lời câu hỏi đặt ra về chính mình, nhưng các việc Người làm tự nó là những câu trả lời về chính Chúa.

  • Người làm cho kẻ què đi được, ý nói, Người ban cho con người khả năng bước đi trong cuộc sống;
  • Người làm cho kẻđiếc nghe được và người câm nói được, như thế, Người là Đấng có lời ban sự sống và lý giải vê cuộc sống;
  • Người làm kẻ chết sống lại, chứng tỏ, Người là Đấng bảo trợ sự sống;
  • Ngườilàmcho người mù thấy được, chứng tỏ Người là Ánh Sáng, đến chiếu tỏa ánh trần gian;
  • Người làm cho sóng yên biển lặng, như vậy, Người là Chúa tể trời đất ;
  • Người hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn trong sa mạc, thể hiện,Người là Đấng nuôi dưỡng nhân loạicả xác lẫn hồn.

 Đọc lại và thấy tất cả những việc Chúa “làm”, chúng ta đi đến kết luận : “Người là Đấng Mêssia” (tiếng Hy lạp là : Đức Kitô)”. Tiếc thay, nhiều người đương thời, ngay cả chúng ta ngày hôm nay nữa vẫn không nắm bắt được sự mới mẻ vĩ đại của Chúa Giêsu, vì thế với câu hỏi, “Người ta bảo Thầy là ai?” Phần lớn trả lời “người làm việc ” không hơn không kém các tiên tri trước Người. “Còn các con, các con bảo Thầy là ai? ” Là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình, nhân danh cả nhóm Phêrô trả lời : “Thầy là Đức Kitô! Phêrô đưa ra một câu trả lời chính xác, không nói khác được, vì ông biết rõ Chúa Giêsu là Đấng Mêssia. Việc Chúa chết và sống lại là điều không tưởng, nhưng điều không tưởng tượng được ấy Chúa Giêsu đã hoàn tất cách vinh quang, điều duy nhất có thể thay đổi lịch sử nhân loại. Nói theo kiểu Heidegger, nếu không có Chúa, con người chỉ là một “sinh vật phải chết“, cái chết của Chúa “gắn” liền với Thập giá; Người “giải thoát chúng ta khỏi ràng buộc” của sự chết.

Cần phải nhắc lại, câu trả lời của thánh Phêrô hàm chứa sự hiểu biết sâu xa về tình yêu chịu đóng đinh. Chính con đường Thập giá hoàn tất mục đích cứu độ của Chúa Giêsu. Khi Phêrô, vị Thủ lãnh các Tông Đồ thưa Chúa : “Thầy là Đức Kitô“. Chúa Giêsu, Đấng Mêsia cảm thấy cần phải nhấn mạnh, Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ nhiều. Vì thế, vấn nạn “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta hôm nay. Câu trả lời : “Thầy là Đức Kitô, Tình Yêu bị đóng đinh và sống lại” mới đủ ý nghĩa. Thánh Phaolô viết : “Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của chúng ta là mơ hồ“, Chúa biết Thập giá, tự nó không phải là một trở ngại cho ơn cứu rỗi. Thập giá là điều kiện. Thập giá không phải là cây cột của người La Mã, nhưng là cây gỗ để Thiên Chúa viết Tin Mừng.

Đấng Mêsia mời gọi chúng ta lên núi Calvariô với Chúa và bước theo Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá, Đấng bị kết án tán dương sự công chính, Đấng chết đi để xác nhận sự sống, Người bị đóng đinh để bước vào vinh quang.

Bằng cách bước theo Chúa Kitô và tin tưởng vào lòng từ ái của Người, chúng ta hãy rang rộng cánh tay và mở rộng lòng mình như Đấng bị đóng đinh trên Thập giá. Tất nhiên, để làm điều ấy, như thánh Phêrô, chúng ta phải nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, chấp nhận Thập giá như “chìa khóa” Chúa dùng đ mở Trời và đóng cửa địa ngục. Đấng Cứu Chuộc đã vác “chìa khóa” nặng nề trên vai, anh cảm thấy gánh nặng và trách nhiệm khi bị đóng đinh treo trên thập giá đó. Đức Kitô trao cho thánh Phêrô “chìa khóa” Nước Trời và kêu gọi ông đóng đinh với Người, vác lấy gánh nhẹ nhàng trên vai Ngài như Người, dạy cho ông biết sự khiêm nhường và dịu dàng để “cởi trói” những người nô lệ thế gian, xác thịt và ma quỉ “ràng buộc” họ với Chúa Kitô trong một giao ước vĩnh cửu làm cho họ trở nên con cái của Cha vĩnh cửu trên trời.

         2) Tình yêu đích thực vì bị đóng đinh                 

Tất nhiên, chúng ta cũng vậy, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng muốn rời xa Thập giá Chúa. Nhưng Ma quỉ, Tên Cám Dỗ, nỗ lực lôi kéo chúng ta ra khỏi (Con đường Thánh Giá), thay thế nó bằng một con đường được thiết lập bởi sự khôn ngoan loài người.

Chúa Kitô đã vạch trần Tên Cám Dỗ và vượt qua hắn : Cả cuộc đời Người là một lời “xin vâng” không ngừng đối với Thiên Chúa và là một lời “từ chối” luôn mãi đối với Ma quỉ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Ma quỉ. Ma quỉ lại cố gắng lôi kéo môn đệ của Thầy Giêsu : để tách rời Đấng Mêssia khỏi thập giá, tách họ ra khỏi niềm tin vào Chúa Giêsu- Vua và ngaivàng của Người là cây Thập giá.

Sau khi thể hiện thiên tính của mình và vạch mặt sự hiện diện của Tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ và nhân loại biết con đường Chúa đi. Không có hai con đường, một cho Chúa Giêsu, một cho các môn đệ, mà chỉ có một : “Ai muốn theo Thầy, phải từ chối chính mình và vác thập giá mình mà theo“, vì Thánh giá là biểu tượng của tình yêu bị đóng đinh.

 Quả thật, Thánh giá là “hình phạt đối với người Do thái và sự điên rồ đối với dân ngoại” (1 Cor 1,18-24) chúng ta thật khó để hiểu và chấp nhận nó.

Tình yêu bị đóng đinh không phải là tình yêu bị chết, nhưng là tình yêu “hy sinh”. Để yêu thương, Chúa Giêsu đã tự nộp mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Nếu chúng ta muốn yêu thương như Chúa Kitô, chúng ta phải biết và làm điều đó. Thánh giá là dấu chỉ lớn nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui mừng đón nhận và đi theo Chúa chịu đóng đinh, nhưng sống lại để cứu chuộc chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THẦY LÀ AI?

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Câu hỏi có lẽ rất thường, nhưng lại rất quan trọng, vì để biết được mình đang theo ai? Có sai lầm chăng? Có hoang tưởng chăng? Để chắc chắn biết mình theo ai và mình là ai, nhất là ảnh hưởng đến cả vận mệnh cuộc đời?

Người ta nói Thầy là ai?

Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra để thẩm định người theo Chúa, là theo ai ?

Theo một số người cho là Gioan Tẩy Giả. Nghĩa là họ đã nhận ra nơi Chúa một sứ điệp hoán cải vì Nước Trời gần đến. Họ đã không nhận ra Chúa chính là Nước Trời đang ở giữa họ..

Sự hoán cải Gioan Tẩy giả kêu gọi nơi mỗi người họ để ngoài tai, họ chỉ mong thay đổi một thế giới bên ngoài thay đổi, còn chính họ thì không. Chúa mời gọi mỗi người hoán cải ngay nơi chính mình, chứ không ai khác hay điều gì khác. Và đó là một điều khó khăn vì người ta có thể thắng bên ngoài nhưng lại khó thắng nổi chính mình. Thánh Phao lô diễn tả, đó là cuộc chiến nội tâm.

Một số người nhận ra là Elia, người phải đến để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế xuất hiện.

Nhóm người này chờ đợi từ một nhân vật, làm thay cho họ tất cả để thay đổi.

Con người thường đi tìm cho mình một vị chúa theo ước mong của mình. Vị chúa ấy đến để cải tổ xã hội, mang lại cơm no, áo ấm, trật tự và an sinh. Tiếc rằng Chúa không đến mang an bình theo ước mơ ru ngủ của họ. Chúa đến mang lại sự chống đối (Lc 12, 49 – 53) vì sự dữ chống lại sự thiện hảo Chúa mang lại, sự sáng đẩy lùi bóng tối. Con người theo Chúa luôn được mời gọi chiến đấu để thắng được tội lỗi và sự dữ bao quanh. Không thể nhờ vào một sức mạnh của nhân vật nào mà cần nhờ vào sức mạnh Chúa ban cho.

Một số người nhận định là Giêrêmia.

Nhóm người này khát mong một người hùng đến giải thoát họ khỏ đế quốc Roma, nhưng lại thấy Chúa Giêsu hiền lành quá, như một tiên tri chịu nhiều đau khổ, bị loại trừ. Họ cảm thương cho số phận của Chúa, đôi khi họ cũng thấy cảm thương cho số phận của mình, gặp nhiều nguy khốn, cả người ngay thẳng vả người tỗi. Điều khó giải thích nhất đối với người Do Thái, chỉ có người tội lỗi mới chịu nhiều đau khổ, mà Chúa là người công chính cũng chịu nhiều đau khổ như các ngôn sứ thời xưa. Đau khổ là một vấn đề nan giải, kẻ sống trong sự dữ đôi khi lại thành đạt, sống sung sướng hơn người công chính?

Với các tông đồ.

Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô thay cho các tông đồ khác được Chúa khen đúng lắm. Nhưng theo nghĩa nào? Theo cách hiểu của Thánh Phêrô, Chúa là Đấng giải thoát con người khỏi sự dữ, khỏi đau khổ và sự chết.  Thánh Phêrô không lý giải tại sao Chúa lại chịu bắt bớ, sỉ nhục và cả cái chết trên thập giá. Sau này Thánh Phêrô và các Tông đồ đã hiểu ra, đó là Tình Yêu Cứu Chuộc, một tình yêu chết cho người mình yêu.

Đí xa hơn nữa, Thánh Irene giải thích đó là một tình yêu hoán đổi : Thiên Chúa làm người, để con người trở nên con Thiên Chúa. Tình yêu hoán đổi là tình yêu mang lấy chính thân phận của con người, Người là Đấng vô tội lại trở nên tôi nhân, để cứu những người mang tội.

Trong tình yêu mang lấy con người mới hiểu về Đấng Cứu Thế cách dồi dào. Một tình yêu mang lấy sẽ là một tình yêu : đón nhận tất cả, hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả và tha thứ tất cả. Một tình yêu Thánh Phao lô trình bày trong bài ca đức mến (1Cor 13, 4 – 7).

Xin cho chúng con nhận biết Chúa đích thật để chúng con được đổi mới trong Chúa.

Về mục lục

.

CHÚA KITÔ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Trở về làng nhỏ nơi đây,

Đọc đường Chúa hỏi, vậy Thầy là ai?

Các ông đáp lại đều sai,

Gio-an Tẩy Giả, mở khai lối đường.

Ê-li-a đấng phi thường,

Tiên tri nào đó, yêu thương xuống trần.

Môn đồ lúng túng tinh thần,

Nhìn quanh Người hỏi, thần nhân thế nào?

Được ơn linh hứng trên cao,

Phê-rô đại diện, cao rao chính Thầy,

Ki-tô Đấng Thánh này đây,

Năng quyền dấu chỉ, đong đầy thánh ân.

Giê-su nghiêm cấm biện phân,

Loan tin khổ giá, gian trần giết đi.

Ba ngày sống lại phát huy,

Thương ban sự sống, gẫm suy sống đời.

Chúa Kitô là trung tâm điểm của vũ trụ. Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể. Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng, nhưng người ta không biết thực sự Chúa là ai. Bài Phúc âm hôm nay, Chúa hỏi các môn đệ rằng: Người ta bảo Thầy là ai? Các ông đáp: Thưa là Gioan Tẩy giả, là Êlia hay một vị tiên tri nào đó. Như vậy, chưa ai biết về nguồn gốc chính xác về Chúa Giêsu.

Chúa lại hỏi các Tông đồ: Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các Tông đồ liền tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô. Lời tuyên xưng thật chính xác, nhưng vượt ngoài sự hiểu biết của ông. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng được xức dầu. Khi Chúa Giêsu mặc khải về Đấng Kitô sẽ phải chịu đau khổ, bị các kỳ lão chối bỏ, bị giết và sẽ sống lại. Phêrô lại là người đầu tiên can ngăn Chúa. Như vậy Phêrô tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, nhưng ông đã không hiểu sứ mệnh của Chúa Kitô.

Ai trong chúng ta cũng có tâm trạng giống thánh Phêrô. Chúng ta đâu muốn thầy mình bị đau khổ và chúng ta cũng không muốn chịu đau khổ. Đôi khi chúng ta vác thánh giá theo Chúa, chúng ta còn tìm mọi cách để thánh giá được giảm nhẹ và dễ dàng hơn. Chúa Kitô mở con đường dẫn đến ơn cứu độ qua con đường thập giá. Đường thập giá là con đường dẫn tới vinh quang và sự sống đời đời.

Muốn có triều thiên chiến thắng phải bước qua đau khổ. Phải chết đi mới có thể sống lại. Hạt lúa miến phải gieo xuống đất và thối đi mới sinh bông hạt. Muốn được vinh quang, chúng ta không thể đi con đường tắt. Muốn theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Chúng ta nhìn thấy thánh giá ở mọi nơi, trên nóc nhà thờ, trong nhà thờ, nơi đất thánh, trong các tư gia và trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần mỗi ngày. Khi làm dấu thánh giá, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm chịu chết và sống lại của Chúa Kitô.

Mỗi khi làm dấu thánh giá, nhắc nhở chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Ghi dấu thánh giá trên mình là chúng ta cùng hiệp thông đau khổ của chúng ta với sự đau khổ của Chúa trên cây thánh giá. Thánh giá trở thành dấu chỉ niềm tin của các Kitô hữu. Ngày xưa cha ông của chúng ta bị bách hại vì tin cây Thánh Giá. Quan quyền chỉ đòi hỏi các ngài bước qua thánh giá là được tha chết. Các ngài kiên trung tin tưởng vào Chúa Kitô chịu chết và Phục Sinh, chẳng có lời hứa nào làm cho các ngài nao núng.

Chúa Kitô đã chọn con đường Thánh giá để cứu độ. Muốn được ơn cứu độ, chúng ta hãy vác thánh giá lên và đi theo Chúa. Thánh giá chính là những khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Hãy tháp nhập những khổ đau của chúng ta vào những đau khổ của Chúa. Chúng ta sẽ tìm được nguồn an ủi tuyệt vời.

Về mục lục

.

THẦY LÀ AI?..

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Từ xưa đến nay, câu hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” của Đức Giêsu vẫn luôn là đề tài để người đời suy nghĩ, dù tin hay phủ nhận vẫn phải khắc khoải về Con Người này: Do thái, Hồi giáo, Phật giáo, Cộng sản, chính trị…

“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đó là đức tin Kitô giáo. Từ đây phát sinh Kitô giáo vì người tin vào Đức Giêsu thành Nazareth đã tuyên xưng Người là Đức Kitô, là Cứu Chúa của họ. Lời tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” có hai vế: Đức Giêsu thành Nazareth và Đức Kitô. Đức Giêsu thành Nazareth là con người lịch sử đã sống, đã chết và đã phục sinh. Qua biến cố đó, nhiều người đã nhìn nhận và tuyên xưng Người là Đức Kitô. Câu tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” gói trọn con người lịch sử Đức Giêsu thành Nazareth và Đấng được tuyên xưng là Cứu Chúa, là Đức Kitô, Đấng được niềm tin của Kitô hữu tôn vinh.

1. Gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.

Ignace Lepp là một chứng nhân của hành trình thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.

Ignace Lepp đã viết cuốn sách “Từ Các Mác đến Giêsu Kitô”. Tác giả kể lại đời mình và những lý do làm ông tham gia phong trào cộng sản thế giới, để rồi sau đó trở thành tín hữu, rồi làm Linh Mục của Giáo Hội Công Giáo.

a. Thao thức tìm kiếm

Ignace sinh trong một gia đình giàu có, trưởng giả, ăn mặc sang trọng, nói năng lễ độ, cư xử hòa nhã, lịch thiệp. Giai cấp này khinh bỉ giới thợ thuyền mà họ cho là một bọn thất học, thô lỗ, cộc cằn thiếu tư cách làm người, và đáng sống trong cảnh bần hàn.

Một hôm tình cờ Ignace đọc được cuốn tiểu thuyết “Người Mẹ” của Marxim Gorky trong đó tác giả mô tả đời sống cơ cực, lầm than của dân lao động Nga làm việc trong các nhà máy kỹ nghệ hồi đầu thế kỷ 20.

Gorky không những đã tả hết những nổi nhọc nhằn, đời sống lam lũ của giới thợ thuyền, và bằng một nhận xét sắc bén ông cho thấy đời sống cơ cực của những người này chính là hậu quả của sư bóc lột của giới chủ nhân, sống xa hoa trên mồ hôi và sự khổ cực của dân lao động. Lần đầu tiên Ignace biết được chi tiết đời sống của hạng người mà bấy lâu cậu vẫn thường khinh rẻ và chỉ nhìn thấy từ xa. Và cũng nhờ cuốn sách đó mà cậu biết rằng chính giai cấp tư sản đã bần cùng hóa dân lao động.

Sau khi đọc thêm một vài cuốn nói về đời sống cùng khốn của dân lao động, như những tác phẩm của Anatole France, Victor Hugo, Tolstoi, v.v., Ignacce cương quyết từ bỏ giai cấp của mình để hoạt động cho giới cần lao. Cậu bị thu hút bởi những hứa hẹn của phong trào cộng sản thế giới : tạo nên một xã hội không có giai cấp, không phân chia ranh giới quốc gia, trong đó mọi người được sống bình đẳng, không bị bóc lột và áp chế. Từ đó, đối với cậu, tất cả những tín điều của thuyết duy vật biện chứng đều là những chân lý tuyệt đối, hợp với khoa học.

Cậu được thu nhận vào một tiểu tổ Thanh Niên Cộng Sản lúc vừa 15 tuổi. Trong thời gian này, Ignace đã đi phát truyền đơn, dán bích chương, dự những cuộc biểu tình, mít tinh và diễn thuyết nhân các ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười và Lễ Lao Động.
Việc cậu lên diễn đàn phát biểu trong một buổi lễ lao động đã được báo chí trong thành phố tường thuật chi tiết. Hay được tin này, gia đình cậu đã rất tức giận và buộc cậu phải từ bỏ phong trào nếu không sẽ cắt mọi yểm trợ tài chánh. Nhất quyết theo đuổi lý tưỏng của mình, cậu bỏ nhà ra đi, không mang theo một tý gì, ngoài bộ quần áo đang mặc và ít tiền túi.

Cậu sang ở một thành phố khác và trở lại nhà trường học xong cấp trung học. Ở đó cậu cũng được một tờ báo cộng sản nhận vào làm biên tập và thông tín viên. Cậu bắt đầu viết sách báo, ghi tên vào đại học và học thêm vài ngôn ngữ khác. Vì có trình độ học vấn khá và biết nhiều thứ tiếng, cậu được cất nhấc vào nhiều chức vụ quan trọng trong đảng, như cầm đầu tổ chức tuyên truyền khích động trong một vùng, tổng bí thư một hội trí thức cách mạng quốc tế. Sau đó Ignace được cử đi hầu hết các quốc gia Âu châu để tuyên tuyền cho chủ nghĩa cộng sản và giúp thành lập những tiểu tổ địa phương. Trong giai đoạn này, cậu theo học nhiều lớp do các giáo sư cộng sản giảng dạy và đọc nhiều sách về lý thuyết cộng sản.

Trong lúc hoạt động cho phong trào cộng sản trong các nước độc tài và bảo thủ, Ignace bị bắt nhiều lần. Lần cuối cùng ông bị bắt ở Đức, lúc đó Hitler đã lên cầm quyền. Ông bị kết án tử hình, nhưng lúc sắp bị đem ra pháp trường thì ông được cứu thoát và được bí mật đưa sang Nga.

b. Đỉnh cao danh vọng.

Vui mừng được đến nước cầm đầu phong trào cộng sản thế giới, ông xin ở lại Nga để phục vụ cho cách mạng. Ông rất được trọng vọng và được giao phó công tác đi diễn thuyết và được bổ làm giáo sư triết học cộng sản ở nhiều trường đại học. Nhờ chức vụ đó, ông được đi hầu hết khắp nước Nga và tiếp xúc với mọi giới. Kinh nghiệm này đã làm ông vỡ mộng một cách ê chề.

Cái thiên đường vô sản ở Nga mà phong trào cộng sản quốc tế thường khoe khoang với thế giới bên ngoài thật ra là một nhà tù khổng lồ, trong đó mọi người, tù nhân cũng như cai ngục, đều sống trong lo âu và sợ hãi. Mỗi lời nói, hành vi và thái độ đều được cân nhắc kỹ lưỡng xem có phù hợp với đường lối của đảng không (mà đường lối thì thay đổi rất bất thường) vì mỗi sơ suất, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng có thể dẫn đến tù đày.

Vì được xem là một lý thuyết gia lỗi lạc của chế độ nên đi đâu Ignace cũng được đón tiếp nồng hậu. Điều này khiến ông càng thất vọng hơn nữa. Trong khi, vì chính sách kinh tế khắc nghiệt của Stalin, dân chúng Nga sống trong cảnh đói rách bần cùng thì giới lãnh đạo cộng sản sống một cuộc đời vương giả. Họ chiếm cứ những biệt thự sang trọng và những nhà nghỉ mát của giới quý tộc và chủ nhân thời Nga hoàng. Các bữa tiệc của họ đầy cao lương mỹ vị, rượu volka và caviar không bao giờ thiếu. Các “mệnh phụ phu nhân” cũng khoe khoang áo quần, nữ trang với nhau như giới tư sản trong các xã hội tư bản. Những gia đình quyền quý này cũng có kẻ hầu người hạ mà họ sai bảo và đối xử còn trịch thượng hơn các chủ nhân tư bản Tây Âu.

c. Thất vọng

Chàng Ignace, bây giờ đã trưởng thành mới nhận thức được rằng xã hội Xô Viết thực chất chỉ là một xã hội phân chia giai cấp, trong đó giai cấp công nhân, thay vì được giải phóng khỏi mọi áp bức như đảng cộng sản rêu rao với thế giới bên ngoài, thực ra bị bóc lột tối đa, và tất cả mọi người, có lẽ chỉ trừ Stalin, đều sống trong sự sợ hãi, nghi kỵ lẫn nhau kể cả bạn bè thân nhất hay vợ chồng, con cái.

Ignace hoàn toàn thất vọng với chế độ Xô Viết, mà chàng cho là đã phản bội lý tưởng cách mạng. Chàng thấy mình không thể nào tiếp tục sống trong bầu không khí ngột ngạt, đầy nghi kỵ và lo lắng như vậy được nữa. Chỉ trích sự sai lầm của chế độ không còn được đặt ra nữa vì Ignace biết sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có thể nguy hiểm cho tính mệnh của mình. Chàng cũng không thể xin ra khỏi đảng hay xin ra nước ngoài, vì làm như vậy người ta có thể buột cậu tội phản đảng, hay nguy hơn nữa, bị nghi là gián điệp của các nước tư bản trà trộn ngay từ đầu để lũng đoạn cách mạng. Với một cáo trạng như vậy, cái chết chắc như cầm trong tay.

May thay trong thời gian đó nhiều người vẫn được phép thư từ với bạn hữu nước ngoài. Dịp may hiếm có đó đã xảy ra khi một “Hội nghị về Hòa bình thế giới” được tổ chức ở Luân đôn, Ignace đã vận động để được mời dự. Với giấy mời trong tay, chàng xin xuất cảnh và rất ngạc nhiên khi được cấp hộ chiếu. Tuy nhiên chàng chỉ thấy an toàn khi ra khỏi biên giới Liên Bang Xô Viết.

d. Chán nản

Khi trở về lại Tây Âu, Ignace rất chán nản. Lý tưởng mà chàng hăng say phục vụ trong mười mấy năm trời thật ra chỉ là môt sai lầm khổng lồ. Đem thử nghiệm vào một quốc gia, lý thuyết này chỉ đem lại cho nhân dân lao động xứ đó một xã hội đầy bất công, áp bức, thù hận và tạo ra một chế độ độc tài cực kỳ tàn ác. Thất vọng chua cay đó đã làm Ignace mất hết tin tưởng vào cuộc sống mà chàng cho là vô nghĩa. Để lấp khoảng trống trong tâm hồn, chàng đã chìm đắm vào những bê tha trụy lạc. Nhưng ngay sau những cuộc chời bời trác táng đó chàng lại càng chán nản hơn. Có lần chàng đã nghĩ đến tự tử, và đã dự định nhiều lần nhưng không đủ can đảm tự kết liễu đời mình.

e. Lý tưởng huyền diệu

Một hôm đi chơi về khuya, Ignace tình cờ thấy trên cái bàn của phòng khách, nơi chàng ở trọ, một cuốn sách có nhan đề “Quo Vadis?” (Thầy Đi Đâu ?). Vì khó ngủ, chàng tò mò mở sách ra đọc. Đó là một cuốn tiểu thuyết tả lại cảnh những người Ki-tô hữu đầu tiên bị bách hại dưới thời Neron. Lần đầu tiên, sau khi thất vọng về chế độ cộng sản Xô Viết, Ignace đọc cuốn sách này một cách say mê, chàng đã đọc thẳng một mạch cho đến sáng. Chàng thấy những nạn nhân của cuộc bách hại này chỉ vì theo đuổi một lý tưởng mà họ cho là cao đẹp đã chịu để cọp và sư tử xé xác ăn tươi nuốt sống mình trong các đấu trường còn hơn là chối bỏ niềm tin đó.

Để tìm hiểu thêm những lý do gì mà những tín đồ Thiên Chúa giáo này đã dám liều chết đến như vậy, chàng tìm đọc thêm những sách khác nói về tôn giáo này. Những sách tả về đời sống của các cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên làm chàng thích thú. Chàng thấy họ sống một đời sống đúng như lý tưởng mà chàng thường ấp ủ : chia sẻ của cải cho nhau, thương yêu nhau như anh em môt nhà. Chàng tự hỏi không biết các cộng đồng Thiên Chúa giáo tiên khởi có sống thật như vậy không, hay đó chỉ là những tài liệu tuyên truyền như các chế độ cộng sản thường làm. Chàng tìm đọc thêm nhiều sách khác của nhiều tác giả khác, có người theo Thiên Chúa giáo, có người vô thần. Nội dung những sách đó có khác nhau về chi tiết, nhưng đại cương thì rất giống nhau. Tất cả đều nói lên sự yêu mến, việc chia sẻ của cải cho nhau trong các cộng đồng đó là hợp lẽ phải. Chàng thấy lối sống đó hợp với lý tưởng mà chàng hằng mơ ước, một xã hội cộng sản chân chính không dựa trên hận thù và đấu tranh mà dựa trên tình yêu thương vô điều kiện.

Tất cả những sách vở chàng đọc được về lối sống của các cộng đồng nói trên đều dẫn đến lời giảng của một người : Giêsu ở thành Nazareth, và một nguồn tài liệu: các sách Phúc Âm. Ignace cảm thấy bị lôi cuốn vào những lời giảng dạy tuyệt vời của Giêsu. Bài giảng trên núi và các dụ ngôn không những rất thi vị, mà còn chứa một học thuyết huyền diệu. Nhưng điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho Ignace chính là con người Giêsu, một người rất mực giản dị và nhân hậu với tất cả những người cùng khổ. Giêsu sống hoàn toàn bình đẳng không những với các môn đệ mà với những người nghèo khó nhất. Cách Giêsu đối xử với những người tội lỗi như bà Marie ở Magdala và những người thâu thuế thật khác xa với các phương pháp mà công an và cảnh sát ở Liên Bang Sô Viết đối xử với công dân của họ.

Sau khi đọc kỹ sách Phúc âm và nhiều sách khác, Ignace cho rằng những điều viết về Giêsu là có thật.

Với một tính tình hiếu động, chàng nhất quyết dâng hiến trọn vẹn đời mình cho lý tưởng mới cũng như trước kia chàng đã từng hăng say hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản. Ignace đã xin rửa tội theo đạo Công Giáo và xin được làm linh mục để phục vụ mọi người, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, quốc gia hay chủng tộc trong một tình yêu tuyệt đối.

Ignace Lepp thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô” và đã trở nên Linh mục. Câu chuyện tuyệt đẹp về một hành trình ơn gọi. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Còn anh em bảo Thầy là ai?” là thao thức cho những ai khao khát chân lý.

2. Ba bức chân dung về Đức Giêsu

Ðức Giêsu đặt một câu hỏi quan trọng cho các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?”. Dân chúng chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào đó. Họ cũng dành cho Ngài những danh hiệu cao quý nhất: là Êlia, bậc tôn sư lỗi lạc trong hàng ngũ ngôn sứ; là Giêrêmia, vị ngôn sứ giúp quốc gia trong cơn khốn khó. Cả hai vị này bất quá chỉ là người dọn đường cho Đấng Kitô. Vì thế đối với người đương thời, Đức Giêsu cao lắm chỉ được coi là người dọn đường, chứ không phải là chính Đấng Cứu Thế. Chỉ có Phêrô, đại diện cho các môn đệ, mới có thể nhận diện đúng chân tướng của Chúa: Ngài là chính Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

“Thầy là ai?”, Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo theo một nếp sống khác nhau.

Tuy nhiên điều quan trọng ở chỗ là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Bức chân dung nào đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay?

Phần tôi, rất thích ba bức chân dung về Đức Giêsu: Hài nhi trong máng cỏ, Tử tội trên thập giá và Tấm Bánh trên bàn thờ.

– Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai, nhưng khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu đã được sinh ra trong một chuồng chiên, được mẹ bọc tả đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,12). Ngôi Hai làm người là “một tin mừng trọng đại” cho toàn dân, lại phải “ở nhờ” nhà súc vật (Lc 2,11).
– Đức Giêsu lên ngôi vua trên Thập giá. Cái chết đau thương tủi nhục của một tử tội lại trở nên hiến tế, nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
– “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Đấng ban sự sống cho muôn loài (CV 17,25), Đấng mà vừa nghe Danh thánh thì cả trên trời dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ (Pl 2,10) đã trở nên Tấm Bánh nuôi nhân loại qua Thánh lễ mỗi ngày.

Máng cỏ là nhà Chúa sinh ra. Thập giá là ngai Chúa lên ngôi vua. Tấm bánh là Mình Thánh Chúa. Bức tranh máng cỏ – chuồng chiên là sự chiến thắng cám dỗ về của cải vật chất. Bức tranh Thập giá- Đồi Sọ mô tả chiến thắng về chức quyền. Bức tranh Tấm Bánh- Thánh Thể giải bày chiến thắng cám dỗ về danh vọng.

Thiên Chúa làm người và đã trở nên tôi tớ. Thiên Chúa đã đóng đinh mọi sức mạnh áp chế, mọi quyền lực thống trị. Người đã trở nên anh em để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người.

Đấng mà chúng ta tôn thờ và yêu mến không chỉ là Đức Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng Thánh, mà còn là Con Người, là anh em, là người trao ban sự sống dồi dào.

Lạy Chúa Giêsu, tựa như thánh Phêrô, con cũng tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con muốn sống với trọn con tim điều mình tuyên xưng: Chúa có vị trí quan trọng nhất trong những chọn lựa hằng ngày của con. Amen.

Về mục lục

.

THEO ĐỨC KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

Lm. Đinh Lập Liễm

Đức Giêsu là ai? Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi: Giêsu Kitô, ông là ai? Trên bàn viết của Lênin, ông tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách nói về Chúa Giêsu.

Thánh Marcô kể: bấy giờ Đức Giêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Cêsarêa của Philip, tức miền cực bắc nước Do Thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Giorđan. Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: ”Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp liền: ”Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó” (Mc 8,28),

Ngày xưa, nhiều người Do Thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri: họ lùng bắt Êlia (I King 19:10), họ đã bỏ tù Giêrêmia (Jer 26:8), họ đã chém đầu Gioan Tẩy giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.

Chúa Giêsu lại hỏi các ông: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”Ông Phêrô tức khắc trả ời: ”Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Các ông chưa kịp trả lời thì ông Phêrô đã thay cho Nhóm 12 mà tuyên xưng Đức Giêsu với danh hiệu là Kitô hay Messia. Câu trả lời của ông Phêrô vượt xa những câu trả lời thông thường của quần chúng.

Tước vị “Christos – Messiah” trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu (Act 10:38). Đó là Đấng được mọi ngươi mong đợi đến để “hoàn tất lịch sử.” Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho đời sống con người có ý nghĩa.

Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do Thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do Thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do Thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời Salômôn. Cho nên, Đức Kitô mới được tôn vinh là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hoà bình, danh Người siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất. Người là Đấng Thánh của Israel và Nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Is 9:5-6).

Đức Giêsu đồng ý với lời tuyên xưng của ông Phêrô và cấm ngặt các ông đừng nói với ai về Người. Rồi Người bắt đầu tiết lộ cho các ông biết: ”Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31).

Đó là sứ mạng cốt yếu của Đức Kitô, hy sinh hiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập Nước Trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thưở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3,16).

Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,34-35).

Trở lại bài đọc 1 (Is 50:4-9), ta thấy tiên tri Isaia có một bài ca nói về Người Tôi Tớ đau khổ, mà người Tôi Tớ đau khổ ấy chính là Đức Kitô. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là người tôi tớ ấy. Chúng ta không hiểu vì sao lại là người tôi tớ đau khổ! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường thánh giá: ai muốn được ơn cứu độ của Ngài, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế.

Lavallière Lepaux là một nhân viên thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công Giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.      Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras: “Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?” Barras trả lời: “Nếu ông muốn thiên hạ theo đạo mình, thì ông hãy để cho người ta đóng đinh ông ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa Nhật, ông cố sống lại đi.”

Muốn theo Chúa thì phải thi hành hai điều kiện là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Từ bỏ chính mình để nhận lấy thập giá mà bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn thiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ, con người vướng bận nhiều thứ, nào là cái tôi kềnh càng, tự ái, ích kỷ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Muốn thong dong trong việc đi theo Chúa phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi.

Lý tưởng mà Thánh Phaolô muốn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu (Rm 6:5). Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hoá” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hoá.” Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 653).

Thập giá, theo Tin Mừng, chính là chấp nhận và làm ngược lại mọi sở thích và khuynh hướng tự nhiên của con người. Thập giá là tự chủ, tự chế, là vượt lên những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, gột bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm, nhân cách của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có khả năng đối thoại với Thiên Chúa.

Như vậy, kiểu nói “vác thập giá mình” có ý nói con người phải nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài. Ngoài ra, theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường (Jn 19:17). Như thế, “vác thập giá mình” cũng đồng nghĩa với mình đã bị án tử rồi.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Phải chăng đời là bể khổ như Phật Giáo chủ trương? Vấn đề đau khổ này cũng đã được đề cập đến trong sách Gióp, nhưng chưa tìm được câu giải đáp thoả đáng, phải chờ Đức Giêsu đến để giải thích và cho nó một ý nghĩa.

Chúng ta có thể ví những đau khổ, phiền muộn như cơn bão táp, lụt lội xẩy đến. Chúng là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, đối với Chúa, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đau khổ xẩy đến trên chúng ta, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh né được đau khổ phiền muộn, nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc; nhờ đó, chúng trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.

Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: “Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó mang lại ích lợi cho mình hơn. Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên Nữ Thủ Tướng đầu tiên của Israel (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật B, tr 327).

Chúng ta thấy dòng Mến Thánh Giá có một khẩu hiệu để làm câu tâm niệm hằng ngày rất có ý nghĩa: ”Per crucem ad lucem”: qua thập giá tới vinh quang (Lc 24:26). Đúng vậy, Chúa Kitô phải trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mới tiến tới ngày Chúa Nhật Phục Sinh được. Thực sự, đạo của chúng ta không phải là đạo tử nạn, nhưng là đạo phục sinh. Chết chỉ là điều kiện để tiến tới sự sống lại.

Thập giá không còn là cái gì ghê rợn mà là vinh quang (Gal 6:14). Chúng ta thường hát: ”Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát.”

Ngày nay, có quá nhiều tiện nghi, có nhiều phương cách thoả mãn các nhu cầu thể chất của con người, nên ngươi ta “sợ” thập giá, người ta “ngại” hy sinh, người ta “tránh” từ bỏ. Nhưng không thể khác được, nếu con người muốn vươn lên, muốn thành đạt, muốn có một cuộc sống có ý nghĩa với những hoa trái thơm tho cho cuộc đời thì phải chấp nhận thập giá, chấp nhận gian nan thử thách vì như người xưa đã nói: “Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?”

Hiểu được ý nghĩa cao quí của thập giá, chúng ta phải hãnh diện về cây thập giá. Hãy nói một cách tự hào như Thánh Phaolô nói với tín hữu Galata: ”Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Hãy mang lấy trọn vẹn thập giá mà Chúa trao cho hằng ngày, không thêm, không bớt. Chính thập giá là chiếc cầu dẫn ta vào Thiên đàng.

Anh kia được Chúa ban cho một cây thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo. Suốt ngày anh ca thán, phân bua vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác. Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.

Ngày về thiên đàng đã đến, anh cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mười phân khiến vĩnh viễn anh không thể vào thiên đàng được.

Về mục lục

.

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ

Lm. Nguyễn Thái

Câu chuyện được kể về Sherlock Holmes và bác sĩ Watson. Hai người đi cắm trại và ở trong một cái lều trại. Holmes là một nhà trinh thám đại tài của Anh trong những tiểu thuyết giả tưởng của A. Conan Doyle. Và Dr. Watson là bác sĩ sinh vật học chuyên môn về ngành DNA của Mỹ. Một đêm nọ khi họ nằm ngủ say sưa, bỗng Holmes đánh thức Watson dậy và nói: “Watson, hãy nhìn kìa, anh trông thấy gì không?” Watson dụi mắt trả lời: “Thấy, tôi trông thấy hằng triệu ngôi sao.” Holmes hỏi: “Và cái điều đó nói gì với anh?” Watson trả lời: “Xét về thiên văn học, nó nói với tôi rằng có hằng triệu giải ngân hà và có thể có hằng tỉ các hành tinh. Xét về thần học, nó nói với tôi rằng Thiên Chúa quá vĩ đại, và chúng ta quá ư là nhỏ bé và vô nghĩa. Xét về khí tượng học, nó nói với tôi rằng ngày mai chúng ta sẽ có một ngày đẹp trời. Còn anh? Nó nói với anh cái gì nào?” Holmes trả lời: “Một người nào đó đã ăn cắp hết đồ của chúng ta rồi!”

Có người rất giỏi về kiến thức, nhưng khi gặp những việc thực tế và cụ thể trong đời sống, họ lại chẳng để ý gì. Đó là trường hợp của bác sĩ Watson nằm ngủ nhìn lên trời với những tư tưởng cao siêu, trong khi bị mất hết đồ mà không biết. Và Thánh Phêrô nói được chân lý cao siêu “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29), nhưng lại không hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì!

Theo linh mục Eugene LaVerdière câu chuyện tuyên xưng đức tin của Phêrô trong bài Phúc Âm hôm nay là phần chuyển tiếp. Nó đóng vai trò như một kết luận của phần thứ nhất của Phúc Âm Máccô (Mc 1:14 – 8:21): Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi này đã được trả lời “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:30). Và như một sự giới thiệu cho phần thứ hai (Mc 8:22 – 16:8): Đấng Kitô có nghĩa là gì? Câu hỏi này được trả lời trong phần thứ hai (Mc 8:22 – 16:8) của Phúc Âm Mác-cô. Sau khi thấy Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, viên đại đội trưởng liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39).

Các môn đệ là những người đã được Chúa Giêsu mời gọi bước theo Ngài ở phần thứ nhất, nhưng theo Chúa Giêsu sẽ đòi hỏi họ điều gì ở phần thứ hai của Phúc Âm. Phêrô đã trả lời đúng khi Chúa hỏi ông: “Các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Theo Phúc Âm của Mátthêu, sau câu trả lời này, Chúa đã thưởng ông bằng cách đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá, thay vì Simon (Mt 16: 27). Nhưng khi hiểu về ý nghĩa của Đấng Thiên Sai thì Phêrô bất đồng quan điểm với Chúa Giêsu, và bị quở trách rằng: “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8: 33). Chính ở điểm này, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt về cách đánh giá trị theo quan điểm của Thiên Chúa và loài người. Bởi chỉ có người sống theo Thần Khí thì mới xét đoán được mọi sự (1 Cr 2:15).

Tháng 10 năm 1999, Regis Philbin khai trương một show mới trên đài truyền hình ABC của Mỹ với tên là “Who Wants to Be a Millionaire – Ai Muốn Thành Triệu Phú”. Sau hai tuần thử nghiệm để thăm dò, chương trình bắt đầu lại vào tháng 11, và đã thu hút số khán giả kỷ lục là 26 triệu người xem TV vào ngay đêm đầu tiên đó. Từ đấy Regis nổi tiếng với câu hỏi: “Final answer?”

Mới chỉ có 1 triệu đô la thôi mà đã thu hút số người ham muốn đông đảo nhiều đến như vậy, huống chi là 10 triệu đô la? Năm 1991 có vài anh chàng cũng đã nghĩ ra một câu nghi vấn tương tự. Họ muốn biết xem là người Mỹ sẽ dự tính làm gì, không phải với 1 triệu đô la, nhưng là với 10 triệu đô la. Họ thực hiện một cuộc thăm dò và đã xuất bản kết quả của cuộc thăm dò đó trong một cuốn sách mang tên “The Day America Told the Truth – Cái Ngày Người Mỹ Nói Lên Sự Thật”. Bạn có bao giờ tự hỏi sẽ làm gì với số tiền to lớn đó không? Con người ngày nay đang bị lôi cuốn, quyến rũ bởi sức mạnh của tiền bạc. Họ nghĩ rằng với tiền bạc và của cải vật chất, họ sẽ giải quyết được tất cả mọi vấn đề. Và có lẽ họ cũng chẳng cần để ý tới Thiên Chúa nữa!

Hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về ý nghĩa sứ mạng của Ngài, và cái giá phải trả dành cho những người môn đệ muốn theo Ngài: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, và kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8:31). Lời tiên báo này thật khó nghe và khó chấp nhận. Nó hoàn toàn ngược lại với những giá trị của xã hội hiện đại. Một xã hội đề cao tiền bạc vật chất, lợi ích cá nhân, thúc dục lòng ham muốn, tạo tiện nghi hưởng thụ thoải mái. Đối nghịch với những giá trị của người đời, hẳn nhiên người môn đệ của Chúa Kitô cũng phải trả bằng một giá rất đắt giống như Ngài.

Chúng ta đã nghe nói về cuộc đời của Dietrich Bonhoeffer, một thần học gia và triết gia Tin Lành. Những tác phẩm của ông có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của Kitô giáo hiện đại. Ông đã viết một cuốn sách mang tựa đề “The Cost of Discipleship – Cái Giá Phải Trả Để Làm Môn Đệ Chúa Kitô”. Bonhoeffer không những nói, và bàn về cái giá phải trả cho ơn gọi làm môn đệ của Chúa Kitô, nhưng còn sống nó một cách anh dũng và trả bằng chính mạng sống của mình.

Theo Bonhoeffer có hai loại ân sủng: Ân sủng giá rẻ, cheap grace, và ân sủng giá đắt, costly grace. Ân sủng giá rẻ là việc xin Chúa tha thứ tội lỗi cho ta mà không chịu có lòng thống hối. Ta muốn chịu phép rửa tội, mà không muốn giữ kỷ luật của Giáo Hội. Ta muốn rước Mình Máu Thánh Chúa mà không muốn đi xưng tội, muốn được tha tội nhưng không muốn thành thật sám hối và chừa bỏ tội lỗi. Ân sủng giá rẻ là ân sủng không có kỷ luật, ân sủng không có Thánh Giá, ân sủng không có Chúa Giêsu Kitô hiện diện và nhập thể.

Còn ân sủng giá đắt là kho tàng giấu ẩn trong cánh đồng; vì ích lợi của nó sinh ra mà một người phải bán tất cả tài sản mình có để mua lấy nó. Đó là viên ngọc quý mà người thương gia đi tìm. Tìm được rồi anh về bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc ấy (Mt 13:44-45). Đó là lời kêu gọi của Chúa Giêsu mà các môn đệ đã bỏ chài lưới để đi theo ngài. Ân sủng giá đắt chính là Tin Mừng phải được tìm kiếm liên lỉ mới thấy; là món quà phải được năn nỉ xin xỏ mãi mới cho; là cánh cửa mà một người gõ mãi mới được mở. Ân sủng giá đắt như vậy là vì nó mời gọi chúng ta theo Chúa Kitô, và phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nó là ân sủng thực sự vì nó cho ta sự sống đời đời. Ân sủng giá đắt chính là sự đau khổ và cái chết của Chúa Kitô để mang lại sự cứu rỗi cho nhân loại. Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay.

Ngày 5/4/1943, quân Đức quốc xã đã bắt Bonhoeffer tại nhà của cha mẹ ông. Bonhoeffer đã trải qua nhiều nhà tù và trại tập trung, và ngay cả cái chết luôn luôn đe dọa vì tinh thần môn đệ theo Chúa Kitô một cách trung kiên và anh dũng của ông. Người môn đệ này đã có thể chọn ở lại chủng viện ở Mỹ thay vì trở về Đức để chiến đấu cho công lý bằng chính mạng sống của mình. Chỉ vài ngày trước khi Quân Đội Đồng Minh giải phóng trại tập trung ở Flossenburg, ngày 9/4/1945, Bonoeffer đã bị hành quyết vì đức tin của mình. Ông đã sống trọn vẹn là một môn đệ Chúa Kitô.

Nhờ “Cái Ngày Người Mỹ Nói Lên Sự Thật” mà chúng ta biết được những điều họ ước muốn khi có 10 triệu đô la. Nhưng trước khi có những anh chàng làm cuộc thăm dò dân Mỹ muốn gì khi có 10 triệu đô la, thì Chúa Giêsu đã nói lên sự thật đó cho Phêrô và các môn đệ của Ngài biết rồi: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8:35-36).

Theo truyền thống kể lại, Hoàng Hậu Helen, mẹ của Hoàng Đế Constantine, thế kỷ thứ tư, đã tìm thấy được Cây Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh ở Giêrusalem. Sau đó quân Persian đã bao vây và chiếm đóng thành Giêrusalem. Chúng phá hủy các giáo đường và ăn trộm các di tích thiêng thánh trong các nhà thờ đó, gồm cả Cây Thánh Giá được tin là của Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh. Vài năm sau, Hoàng Đế Heraclius đã lấy lại được Cây Thánh Giá quý báu đó.

Cũng theo truyền thống kể lại, sau khi Cây Thánh Giá được phục hồi rồi phải mang trở lại Giêrusalem. Đích thân Hoàng Đế, trong xiêm y sang trọng và lộng lẫy, đã cố gắng vác Cây Thánh Giá theo đoàn rước từ Giêrusalem đến Núi Calvary. Hoàng Đế lấy hết sức mình nâng Cây Thánh Giá lên, nhưng quá nặng, ông không thể nhấc lên nổi. Thấy vậy, Đức Giám Mục của thành Giêrusalem mới nói với Hoàng Đế rằng cái cách duy nhất để vác được Cây Thánh Giá là phải hành động như Chúa Giêsu đã làm. Cách ăn mặc sang trọng của Hoàng Đế đã không thích hợp. Do đó, ông phải cởi bỏ xiêm y, giầy dép sang trọng ra và mặc vào quần áo đơn giản, đi chân không và vác Thánh Giá như Chúa Giêsu xưa kia đã làm. Sau đó ông đã vác được Cây Thánh Giá lên đỉnh núi Calvary.

Ngày nay, chúng ta cũng giống như Hoàng Đế Heraclius, muốn vác được Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta, chúng ta phải cởi bỏ tất cả mọi của cải vật chất, lạc thú trần gian xuống. Ngài đã dạy chúng ta rằng để theo Ngài, phải từ bỏ mọi sự, ngay cả chính mạng sống của mình. Lúc đầu Phêrô phản đối, nhưng sau cùng, Phêrô và các môn đệ đã hiểu. Họ đã từ bỏ mọi sự và trả bằng mọi giá, ngay cả việc dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho Tin Mừng.

Điều phải trả bằng mọi giá này cũng áp dụng cho chúng ta nếu chúng ta muốn theo Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng giá phải trả để theo Ngài không rẻ đâu! Cho dù có đắt cũng không bằng cái giá mà Đức Giêsu đã trả để chuộc lấy chúng ta (1 Cr 6:20; 7:23).

Về mục lục

.

CHÚA KITÔ LÀ AI?

Lm. Louis M. Nhiên

“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” Khi suy nghĩ về đoạn Kinh Thánh, Chúa mời gọi dân chúng và các tông đồ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”. William Barclay, một nhà chú giải Thánh Kinh nổi tiếng, đã cho rằng Đức Kitô là một vị lãnh đạo thành thật. Không ai có thể tố cáo cho rằng Chúa dụ dỗ người ta theo Chúa qua những lời hứa hão huyền. Chúa đã không hối lộ người ta bằng những con đường dễ dàng. Ngài không trao tặng an bình nhưng trao tặng vinh quang.

Thời thế chiến thứ hai, khi ông Winston Churchill làm thủ tướng nước Anh, tất cả những gì ông có thể trao tặng là “máu, lao nhọc, nước mắt, và mồ hôi.” Garibaldi, một nhà ái quốc người Ý đã kêu gọi tuyển mộ rằng: “Tôi không trao tặng tiền bạc, nhà ở, lương thực, tôi chỉ có sự đói, khát, trận chiến, và sự chết. Ai yêu tổ quốc với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ ở môi miệng, hãy theo tôi.”

Chỗ khác ông thêm: “Các chiến sĩ thân mến, tất cả những cố gắng chống lại sức mạnh siêu cường đều đã không thể. Tôi không có gì để trao tặng các bạn trừ sự đói, khát, vất vả và sự chết, nhưng tôi kêu gọi tất cả những người yêu quê hương hãy cùng hợp sức với tôi.”

Chúa Giêsu không bao giờ tìm lôi cuốn, hấp dẫn con người đến với Chúa bằng con đường dễ dàng. Ngài thách đố con người bằng cách đưa ra một con đường không gì có thể cao hơn và khó hơn. Ngài đến không để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn nhưng để làm cho con người trở nên cao cả.

Một điểm đặc biệt khác nơi Chúa Giêsu là Ngài không bao giờ kêu gọi người ta làm điều gì mà Ngài đã không làm. Đây thực sự là một đức tính của nhà thủ lãnh mà người ta sẽ theo.

Chuyện kể rằng A lịch Sơn Đại Đế trong cuộc viễn chinh chinh phục Darius, trong mười một ngày vua và binh lính của vua đã hành trình vất vả và dường như muốn bỏ cuộc vì khát không có nước uống. Trong lúc họ đang khổ cực, tình cờ có mấy người Macedonia mang ít vò nước đi ngang qua nơi A Lịch Sơn đang ở, thấy vua gần chết khát nên lấy ra một ít nước trao cho vua.  Vua hỏi xem họ lấy nước cho ai, họ trả lời cho các em nhỏ và thêm rằng nếu vua được sống thì đó là điều đáng kể còn họ sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi dầu tất cả đều phải chết. Vua cầm lấy bình nước nhìn chung quanh và thấy các binh lính ai nấy đều giơ tay ra phía trước xin nước uống, vua nói: “Nếu chỉ mình ta được uống nước này thôi, thì thật là không công bằng chút nào.” Nói xong, vua đưa trả lại bình mà không uống một giọt nước nào. Nhìn thấy hành động cao cả của nhà vua, tất cả các binh lính lên tinh thần, quên mệt nhọc đói khát hoàn tất cuộc hành trình. Thật dễ dàng để theo một vị lãnh đạo không bao giờ đòi hỏi thuộc cấp những gì mình không làm nổi.

Một tướng thời danh Rôma, Quintus Fabius Cunctator, một hôm bàn trận chiến với các vị cố vấn. Một vị nêu lên một phương thức hành động: “Điều này có thể làm được vì chỉ phải hy sinh một số nhỏ người thôi.” Fabius nhìn người vừa đề nghị và nói: “Are you willing to be one of the few?” “Ông có sẵn lòng chịu hy sinh là một trong những người đó không?”

Chúa Giêsu đã có quyền gọi chúng ta vác thập giá theo Chúa, vì chính Người đã vác thập giá trước.

Vác thập giá theo Chúa không dễ, từ bỏ mình không dễ. Tuy nhiên chúng ta có thể dùng tự do của mình để quyết định theo Chúa, từ bỏ mình, và đây là điều tách biệt con người với con vật. Con vật tự nó không thể từ bỏ mình, con vật tự nó không thể kiêng nhịn. Chúng ta có thể huấn luyện con vật tuân theo một số kỷ luật nhưng con vật không thể tự quyết định cho nó được.  Chỉ có con người mới có  tự do, mới có khả năng tự kỷ luật cũng như tự kiềm chế ước muốn của mình.

“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” Đây là một câu hỏi quan trọng mỗi người chúng ta được mời gọi suy nghĩ và tìm câu trả lời bằng chính cuộc sống của mình. Một câu hỏi khác cũng không kém phần quan trọng đó là: “Đối với bạn, bạn là ai?” Nhiều người đã sống suốt cuộc đời của họ với nhiều mặt nạ: Mặt nạ này mặt nạ kia, không dám sống thật với lòng mình, và có người bảo một điều chắc chắn đó là họ không thể bước vào cuộc sống đời đời và lại tiếp tục đeo mặt nạ được.

“Đối với bạn, Chúa Kitô là ai?” 

“Đối với bạn, bạn là ai?”

Về mục lục

.

THẦY LÀ ĐỨC KITÔ

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Trong những tháng ngày cuối cùng sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn làm một cuộc trắc nghiệm hỏi xem các môn đệ dân chúng hiểu gì về Ngài. Người ta nói Thầy là ai?. Và các ông đã trả lời: “Người thì bảo là Gioan tẩy giả; kẻ khác lại bảo là Êlia hay một ngôn sứ nào đó…” (Mc 8,28). Qua những câu trả lời trên cho chúng ta thấy rằng, dân chúng không nhận ra khuôn mặt của Đấng cứu thế.

Lý do dân chúng không hiểu là vì họ cứ tưởng Đấng Cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời ngự đến. Nhưng ai ngờ Ngài lại sinh bởi một trinh nữ làng quê dưới đất. Người ta cứ tưởng Đấng Thiên sai phải cư ngụ trong lâu đài sang trọng của các bậc vua chúa. Nhưng không ngờ Ngài lại sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu độ trần gian phải oai phong lẫm liệt. Nhưng có ai ngờ Ngài lại quá hiền lành khiêm nhường giàu lòng xót thương. Người ta cứ tưởng Đấng Mêsia đến đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên hàng bá chủ thế giới. Nhưng không ngờ Ngài chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu kết án tử như một phạm nhân. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế là một vị vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Ngài lại quỳ gối xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ. Cho nên, dân chúng không hiểu về sứ mạng của Đức Giêsu.

 Đến lượt Chúa hỏi các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện cho nhóm 12 trả lời: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29). Câu trả lời của Phêrô thật chính xác, làm cho Chúa rất hài lòng. Tuy nhiên, không phải tự nhiên Phêrô nói được như thế, nhưng là nhờ ơn trên mặc khải cho ông biết.

Phần thứ hai của bài Tin mừng, Đức Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo. Vì chưng, “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống ” (Mc 8, 34-35).

Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất, nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải là dễ. Vì không phải cứ thu vào là được và buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó là qui luật tất yếu trong hành trình đi theo Chúa. Nên Chúa mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo” (Mc 8, 34). Thế nhưng, trước khi Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ đi theo Chúa thì Ngài đã theo chúng ta trước rồi.

Ngài từ bỏ trời cao đi xuống đất thấp để theo chúng ta. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa mặc lấy thân phận con người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi để theo chúng ta. Từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi rao giảng Tin Mừng để theo chúng ta. Từ bỏ ý riêng, để xin vâng theo thánh ý Chúa Cha để theo chúng ta. Từ bỏ mạng sống để làm giá cứu chuộc cho muôn người để theo chúng ta. Và đỉnh cao của sự từ bỏ đến tận cùng ấy là khi Ngài chết trần trụi trên thập giá. Đến nỗi không còn chút hơi thở. Không còn một giọt máu, mất hết danh dự. Nói tóm lại để theo chúng ta, Chúa đã từ bỏ không còn gì cả.

Và trước khi Chúa mời gọi chúng ta vác thập giá đi theo Chúa thì Ngài đã vác trước rồi. Ngài không chỉ vác thập giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, mà còn là thập giá trải dài suốt cuộc đời Ngài. Thập giá bởi kiếp sống nghèo. Thập giá bị người đời ngược đãi. Thập giá do môn đệ phản bội. Thập giá bị dân chúng loại trừ. Thập giá bởi tội lỗi nhân loại đè nặng trên vai, nên nhiều lần Chúa ngã quỵ xuống đất, nhưng rồi Ngài lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng lên Núi Sọ, lúc đó lại mở ra con đường phục sinh vinh hiển.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã đi con đường từ bỏ, con đường thập giá để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta ai muốn làm môn đệ của Ngài, thì cũng phải đi theo con đường từ bỏ như Ngài.

Từ bỏ những của cải chóng qua để được của cải hạnh phúc vĩnh cửu đời sau; từ bỏ ý riêng làm theo ý Chúa, đời sau Chúa sẽ làm theo ý ta.

Chúa không đòi chúng ta từ bỏ những điều vĩ đại lớn lao, nhưng là những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thường ngày.

Chẳng hạn như: mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ thì cố gắng ngồi ở trong nhà thờ tham dự, đó là một chút từ bỏ mình. Tắt tivi để đọc kinh chung gia đình là một chút từ bỏ. Không chiều theo những thói hư tật xấu như là rượu chè, bài bạc, cá độ…. Kìm hãm miệng lưỡi không nói hành nói xấu hay phê bình người khác cũng là một hi sinh từ bỏ.

Rồi Chúa không bảo chúng ta đi tìm thánh giá, nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thánh giá mình. Mỗi người một thánh giá, mỗi ngày một thánh giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt trên vai chúng ta một thánh giá nặng quá sức đâu.

Những thánh giá trong đời sống hằng ngày. Ví dụ như: thánh giá trong đời sống gia đình; thánh giá do Chúa an bài gửi đến như: bị bệnh tật, bị hiểu lầm, bỏ vạ cáo gian.

Ước gì là những người đi theo Chúa, niềm tin của chúng ta được thể hiện bằng thái độ sống từ bỏ những đam mê bất chính. Đồng thời, vui lòng vác Thánh giá mình theo Chúa mỗi ngày. Với ý thức sống như thế, là chẳng những chúng ta sống làm chứng cho Chúa, nhưng còn là lời tuyên xưng sống động “Thầy là Đức Kitô”. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B

Jorathe Nắng Tím

Sau nhiều phép lạ đã làm, Đức Giêsu đặt cho các môn đệ một câu hỏi hóc búa, nhưng then chốt , và là nền tảng, trung tâm của Tin Mừng : “Anh em bảo Thầy là ai?”.

Câu hỏi này tất nhiên đã là câu hỏi trong óc và trên môi miệng của tất cả mọi người đã gặp Đức Giêsu hoặc đã nghe nói về Ngài. Trước những việc Ngài làm, lời Ngài dậy, người ta bàn tán xôn xao về Ngài ; người ta hỏi han về danh tính, lý lịch của Ngài ; người ta đoán già đoán non tương lai của Ngài ; và không ít người đã đặt nghi vấn về Ngài. Bởi thế, khi nói về Ngài, người ta đã không thống nhất một ý, nên “có người bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, kẻ bảo là Êlia, số khác bảo là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,28). Riêng các môn đệ, khi được hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô đã nhanh nhẩu thay anh em trả lời : “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29).

Phêrô đã trả lời chính xác, đã nói đúng danh tính của Đức Giêsu: Đấng Kitô, nghiã là xác tín căn cước đích thực của Thầy mình : Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân.

Nhưng Phêrô có hiểu đúng ý nghiã của danh tính Đấng Kitô của Thầy mình, hay cũng như những người Do Thái đương thời khao khát mong đợi một Đấng Kitô đầy uy lực để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ?
Chắc chắn Phêrô đã hiểu không đầy đủ ý nghĩa danh tính Đấng Kitô, nên Đức Giêsu mới “bắt đầu dậy cho các ông biết” Con Người là ai và phải chịu đau khổ thế nào (Mc 8,31), điều mà các môn đệ không bao giờ dám và muốn nghĩ đến. Nhưng sự thật còn bẽ bàng hơn, khi Phêrô tỏ ra chẳng hiểu gì về sứ mệnh và thông điệp của Đấng Kitô, khi ông “kéo riêng Đức Giêsu ra và bắt đầu trách Người” (Mc 8,32), vì “Người đã dậy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8,31). Và hậu qủa là ông đã bị Đức Giêsu quở trách : “Xatan ! Lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33).

Chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã dứt khoát không muốn các môn đệ tiếp tục hiểu sai về sứ mệnh Đấng Kitô của Ngài, và muốn chấm dứt giai đọan các môn đệ hiểu lơ mơ, mù mờ về sứ vụ Cứu Thế của Ngài, và một cách trực tiếp, rõ ràng, Ngài cho các ông biết : Ngài sẽ phải chịu khổ hình và chết, nhưng sẽ sống lại sau ba ngày.

Qủa thực, khi được mặc khải về cuộc thương khó sắp tới, hình ảnh Đấng Kitô vốn có trong đầu óc các môn đệ từ những ngày đầu, đã lập tức tan tành, vỡ vụn, thay bằng những hình ảnh thất bại tang thương, khổ hình đẫm máu, và chết chóc sầu thảm. Trước đe dọa của đau khổ và sự chết, các ông đã đi từ bỡ ngỡ đến hoảng hốt, từ ngỡ ngàng đến hoang mang, từ nghi ngờ đến lo sợ. Và hầu hết các ông đã không còn muốn tin Thầy mình là Đấng Kitô, khi ước mơ Thầy sẽ giải phóng Ítraen, và nhóm môn đệ thân tín sẽ được ngồi bên phải, bên trái Thầy trong vương quốc vinh quang hoàn toàn tan biến, sụp đổ.

Ngày hôm nay, cũng như Phêrô xưa, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu độ nhân loại, nhưng chúng ta muốn một Đấng Cứu Thế không biết đau khổ, một Hiến Chương Nước Trời không Thánh Giá, một tình bạn với Đức Kitô không cần sám hối, trở về, và một lịch sử nhân loại không ơn cứu độ. Chúng ta cũng mơ ước một Đấng Cứu Thế quyền năng và chỉ làm phép lạ ; đồng thời người môn đệ đi theo Đức Kitô sẽ không theo một Thiên Chúa vác Thánh Giá và chịu đóng đinh, nhưng theo một minh quân, một “Thiên Chúa các đạo binh” nghiền nát quân thù dưới chân và lẫy lừng chiến công hiển hách.

Khi loan báo cuộc khổ hình và cái chết, Đức Giêsu không biện hộ cho đau khổ, vì đau khổ không phải là điều Ngài tìm, nhưng điều làm vinh danh Thiên Chúa chính là tình yêu, và với Đức Giêsu, cao điểm của đau khổ trùng hợp với tuyệt đỉnh của Tình yêu.Tình yêu và đau khổ gặp nhau trên Thánh Giá. Tình Yêu và Đau Khổ trùng phùng nơi Ngài. Tình Yêu và đau khổ là một mầu nhiệm, và mầu nhiệm này hệ tại ở việc Thiên Chúa Cha đã cho phép đau khổ “hành hạ” chính Con Một yêu dấu của mình.

Là mầu nhiệm, đau khổ và cái chết đi qua cuộc sống con người, nhưng không bao giờ chúng có thể làm phai nhạt hoặc xóa bỏ tình yêu và niềm hy vọng, bởi Đức Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ đã sống mầu nhiệm đau khổ và chung phần thân phận phải chết với con người. Chính Đức Kitô, nhờ mầu nhiệm khổ nạn và chết của Ngài sẽ làm sống lại những ai phải chết và làm hoan lạc những ai phải khổ đau bằng sự phục sinh vinh quang của Ngài.

Như thế, sự sẵn sàng trước đau khổ và cái chết sẽ là thái độ phó thác của tình yêu, nhờ tín thác vào Đức Kitô, Đấng biết giá trị cứu độ của đau khổ, và luôn âu yếm nhìn chúng ta trong thử thách với đôi mắt của người cha yêu thương, nhân hậu. Lòng tín thác ấy cho phép chúng ta bước đi bình an trong sức mạnh và ánh sáng của Đức Kitô, để không ngần ngại mang lấy gánh nặng của khổ đau với một tình yêu luôn hiện diện. Cũng với lòng tín thác, chúng ta không tưởng tượng hay vẽ trước những khổ đau của ngày mai, nhưng vui lòng đón nhận khi khổ đau hôm nay đến từ tay Thiên Chúa, như lời mời gọi của Đức Kitô chịu đóng đinh đối với những người Ngài yêu, để họ được cùng Ngài đi vào vinh quang qua đau khổ, đến sự sống qua sự chết, vào hạnh phúc đời đời qua hành trình thử thách trần gian.

Lậy Chúa, như thánh Tông đồ Phêrô, chúng con đã không hiểu sứ mệnh của Đức Giêsu và nhiều lần, chúng con đã theo Xatan ngăn cản sứ vụ cứu thế của Ngài, khi khước từ đau khổ như đường vào hạnh phúc, chối bỏ Thánh Giá như đường dẫn đến sự sống, và phủ nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Qùy dưới chân Thánh Giá, chúng con xin Chúa ban Thánh Thần để chúng con chân nhận Thánh Giá là mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và suốt đời được ở lại với Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại trong niềm vui bao la, sâu thẳm của mầu nhiệm Tình Yêu và Thánh Giá.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta: Đức Giêsu là Đấng Messia, tôi tớ phải chết thay cho muôn người. Tin mừng ghi lại những nhận định về dung mạo của Đức Giêsu: “Người ta bảo con người là ai?”. Đa số dân Do Thái cũng như các tông đồ đều có quan niệm về một Đấng Messia vinh quang, ưu phiền. Họ mong chờ Ngài đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của ngoại bang.

Dư luận quần chúng nhìn nhận Đức Giêsu là một ngôn sứ, là một vĩ nhân làm được nhiều việc lạ lùng phi thường. Nhận thức của quần chúng chưa xác thực về Đấng Messia. Sau khi nghe dư luận của dân chúng, Đức Giêsu muốn thẩm định lập trường, ý kiến của các tông đồ “Còn các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện anh em tông đồ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô”. Đây là lời tuyên xưng chính xác về Đức Giêsu Đấng Cứu Thế. Nhưng Phêrô không hiểu Đấng Kitô là ai? Vì thế khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Phêrô không hiểu và không chấp nhận một Đấng Messia phải chịu đau khổ, nên ông có phản ứng theo kiểu trần tục và cản nngăn Chúa Giêsu đi vào con đường khổ nạn, con đường Thập giá. Đức Giêsu đã quở trách Phêrô rất nặng lời: “Satan hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”.

Chúa trách mắng Phêrô là vì cuộc khổ nạn của Người là ý định cứu độ của Thiên Chúa. Cản ngăn Người là xúi giục Người bất tuân ý Thiên Chúa. Sự xúi giục chống lại ý định của Thiên Chúa chỉ có thể là công việc của Satan muốn phá đổ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Như thế Phêrô không hiêỷ biết việc Thiên Chúa và phản ứng hoàn toàn theo kiểu loài người.

Sau khi loan báo về cuộc khổ nạn và phục sinh, Đức giêsu bắt đầu giảng dạy dân chúng và các môn đệ về con đường Ngài phải đi là con đường Thập Giá. Môn đệ theo Chúa cũng phải đi vào con đường Thập Giá mà Thầy mình đã đi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”. Đức Giêsu đã đưa ra hai điều kiện cho những ai muốn đi theo Chúa:

– Từ bỏ mình nghĩa là dám từ bỏ tất cả: cha mẹ, của cải, danh vọng, địa vị, ý riêng, từ bỏ những điều xấu để trung thành với Thiên Chúa, để làm theo thánh ý Thiên Chúa.

– Vác thập giá là bước đi theo Chúa trên con đường khổ nạn: hy sinh, quên mình, vui nhận mọi đau khổ, thất bại, sự bắt bớ, mọi khó khăn, bệnh tật… để thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Đức Giêsu đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại, một tình yêu cao cả: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu dám chết cho người mình yêu”. Mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tunhf yêu. Hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá. Chính Chúa Giêsu đã chết treo trên thập giá vì yêu thương nhân loại, để từ đó thập giá trở thành Thánh Giá, dấu chỉ tình yêu cứu độ.

Xã hội hôm nay dồi dào của cải vật chất, đầy đủ mọi tiện nghi, sống chủ trương hưởng thụ, sống hiện sinh, Vì thế vui nhận thập giá, chấp nhậ hy sinh đau khổ là một điều khó hiểu… Ai cũng muốn sống sung sướng. Cuộc sống gian khổ thiếu thốn là điều bất đắc dĩ.

Sống ở đời không ai được miễn chuẩn thập giá. Thập giá luôn bám chắc con người như bóng với hình. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc bảo người Kitô hữu chúng ta:

– Khi gặp gian nan thử thách, chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh để phát hiện ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giêsu, Đấng đã chết vì yêu thương chúng ta, để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.

– Khi gặp tai ương hoạn nạn, đau yếu, bệnh tật, chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Kitô để noi gương Đức Kitô, can đảm vui nhận thập giá cuộc đời.

– Khi chán nản thất vọng, không còn biết cậy trông vào ai, hãy nhìn lên Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá để xác tín rằng con đường thập giá là con đường dẫn đến vinh quang Nước Trời.

– Khi gặp bách hại, vu khống, đối xử bất công, hãy nhìn lên Đức Giêsu chịu đóng đinh để tin rằng qua sự chết mới tới được nguồn sống đích thực và tin rằng mình được thông phần vào cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô.

Đi theo Đức Giêsu là phải từ bỏ cính mình, vác thập giá sống mầu nhiệm tự hủy như Đức Giêsu Kitô: từ bỏ ý riêng, tính ích kỷ, hận thù, kiêu căng, tự mãn, tính hư nết xấu để luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Đức Giêsu Kitô: “Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2,8).

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai.” hôm nay Ngài cũng muốn đặt cho mỗi người chúng ta.

Có thể trả lời hai cách.

Hoặc trả như Phêrô: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.”(Mc 28,27)

Trả lời như vậy là rất đúng. Nhưng sợ rằng đó là một câu trả lời lý thuyết, hiển nhiên, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là một xác tín của bản thân.

Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc mình nghĩ thế nào, cảm nghiệm điều gì thì nói lên trung thực như vậy.

Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người phải có câu trả lời riêng của mình.

Anh chị em sẽ trả lời như thế nào? Riêng tôi, tôi sẽ thành thật thưa cùng Chúa như thế này: Thầy là người gây rất nhiều phiền toái cho người khác, là một gương mẫu không thể theo nổi nên dễ làm nản lòng… nhưng đồng thời Thầy cũng là người mà con cần đến nhất, không thể thiếu trong đời con.

  1. MỘT NGƯỜI GÂY PHIỀN TOÁI

Vâng! Chúa Giêsu gây rất nhiều phiền toái cho mọi người, nhất là cho những ai muốn theo Ngài. Ngài đòi hỏi quá nhiều. Và những điều Ngài đòi hỏi thường đi ngược lại với bản năng của con người. Ngài mời gọi theo con đường hẹp, và qua cửa hẹp, vác thập giá mỗi ngày. Ngài còn đòi hỏi phải từ bỏ tất cả, kể cả chính bản thân. Tin mừng hôm nay kể lại: Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.(Mc 8,34-35)

Nhiều lúc Ngài đặt người môn đệ trước những lựa chọn rất nghiêm ngặt và gay cấn. Muốn trung tín với Ngài nhiều khi phải chịu những thiệt thòi rất lớn, chẳng hạn phải hy sinh tiền của, tình yêu, gia đình, sự nghiệp, tương lai… Và trong thực tế nhiều người đã không có đủ nghị lực để chấp nhận những hy sinh đó.

Một nhà kinh doanh nói: Nếu làm đúng theo lương tâm Kitô giáo thì chúng tôi bị thiệt thòi quá lớn, biết lấy gì mà bù lại được!

Một bà mẹ gia đình nói lên tình trạng bối rối: Nếu giữ đúng luật Chúa thì đời sống chúng tôi sẽ vô cùng chật vật, bấp bênh.

Một đôi trẻ tâm sự: Nếu không phải là người có đạo thì chuyện tình duyên của chúng tôi gỡ rối cũng chẳng có gì khó. Nhưng khổ là mình có đạo nên mới thành bế tắc.

Còn có nhiều lời khác tương tự, nhiều hoàn cảnh bi thảm khác. Quả thật Chúa Giêsu gây không ít phiền toái, rắc rối… làm nhiều người đau khổ.

Vâng! Theo Chúa Giêsu còn khó hơn leo núi. Mà chiều cao của ngọn núi này không thể đo được bằng thước trần gian. Càng leo càng thấy cao và càng thấy dốc. Làm sao đôi lúc có thể tránh được cơn cám dỗ ác hại nhất là bỏ cuộc vì nản lòng.

  1. NHƯNG CHÚA LÀ NGƯỜI MÀ TA CẦN ĐẾN NHẤT

Nhưng xét cho cùng, Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Ngài là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ chao đảo, lạc hướng, mất hết ý nghĩa.

Cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều mơ ước. Có những mơ ước dễ nhìn thấy như những mơ ước về một cuộc sống giầu sang, một cuộc sống có đầy đủ mọi phương tiện, mơ ước về một sự thành đạt để đuợc sống cao hơn, sung sướng hơn… Nếu chỉ dừng lại ở những mơ ước thường ngày, có liên quan đến cuộc sống thể xác, vật chất trước mắt như thế thì có lẽ sự hiện diện của Chúa Giêsu cũng chẳng có ích gì nhiều cho chúng ta.

Nhưng nếu suy nghĩ sâu xa hơn một chút nữa, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của con người còn có nhiều mơ ước khác, chúng thầm kín, thâm sâu, luôn âm ỉ dưới chiều sâu, ẩn giấu… nhiều khi chính mình cũng không thể ý thức được hết. Đó là những ước mơ có liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của đời người. Chúng ta vẫn nhận ra mình luôn mơ ước, ít ra một cách mơ hồ về cái gì chân thật, hoàn hảo, vĩnh cửu… nghĩa là mơ ước người chân lý, về sự toàn thiện.

Vấn đề là ai có thể thỏa mãn được những ước mơ thâm sâu và thầm kín đó của chúng ta?

Chắc chắn chỉ có mình Đấng đã tự giới thiệu mình là Chân lý và là Sự sống: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.

Chúa Giêsu là Chân lý bất biến và tối hậu. Ngài là Sự sống tràn đầy và vô tận… trong khi sự sống thân xác chỉ là một tia lửa lóe lên chốc lát rồi lại tắt ngấm trong đêm dài bất tận. Ngài còn là đường an toàn, chắc chắn, đưa hết thảy chúng ta tới Chân lý và Sự sống trọn vẹn.

Chính vì thế mà Ngài là người mà chúng ta cần đến nhất, một người không thể thiếu… mặc dầu sự hiện diện của Ngài có gây phiền toái, và sự thánh thiện của Ngài đôi khi có làm cho chúng ta nản lòng.

Cho nên lời tuyên xưng xưa của Phêrô còn phải trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai Ai”.

  1. CÔNG VIỆC PHẢI LÀM: TIN TƯỞNG VÀO CHÚA

Có người kể lại giấc mơ của mình như sau: Tối hôm qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng chốc một luồng ánh sáng xuất hiện; trong ánh sáng huy hoàng đó, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang đứng trước mặt tôi, Ngài mỉm cười nhìn tôi và nói:

– Con hãy đến ngồi trên tấm thảm này với Ta.

Lòng tràn đầy vui sướng, tôi tiến lại gần bên Chúa và ngồi xuống tấm thảm bên cạnh Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.

Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để bày tỏ niềm vui của tôi; thế nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh, vì tôi có cảm tưởng như Chúa Giêsu không còn bận tâm đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chú rút từng sợi chỉ của tấm thảm rồi quăng chúng vào không trung. Chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại phân nửa. Hết sợi chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên theo gió, chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên:

– Lạy Chúa, Chúa đang làm gì thế? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm của chúng ta sẽ tan tành hay sao?

Chúa Giêsu mỉn cười nắm lấy tay tôi và nói:

– Sao con lại nhát đảm và kém lòng tin như thế? Con hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dù con sẽ bị tước đoạt hết mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng”.

Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì qủa thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn, và tôi giật mình thức giấc.

Về mục lục

.

CÒN ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Ðức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ

sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14),

sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.

Hôm nay Ðức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi

sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài,

đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…

“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”

Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời.

Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.

Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm,

kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Ðức Giêsu.

Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.

Ðời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng

để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Ðức Giêsu.

Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú.

Chúng ta chỉ mon men đến gần,

nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy.

Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.

Người làng Nadarét cứ nghĩ Ðức Giêsu chỉ là bác thợ.

Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mêsia vinh quang toàn thắng.

Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài

để đón nhận một Ðức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.

“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.”

Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.

Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô:

“Thầy là Ðức Kitô”,

và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa.”

Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi

mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.

Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi,

Ðức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ.

Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.

Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối,

tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?

Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật,

tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?

Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt,

tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?

“Người ta bảo Thầy là ai?”

Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Ðức Giêsu.

Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.

Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài.

Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở,

nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.

Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Ðức Giêsu.

Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.

Ðức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).

Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Ðức Giêsu.”

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

Chúa đã làm người như chúng con,

nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.

Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc

mà con người lại yếu đuối mong manh.

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,

và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,

xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu

Chúa đã buồn muốn chết được.

Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,

xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá

Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.

Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.

Xin cho con yêu đời luôn

dù đời chẳng luôn đáng yêu.

Xin cho con can đảm

đối diện với những thách đố

vì biết rằng cuối cùng chiến thắng

thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

Về mục lục

.

CHỨNG MINH

Trầm Thiên Thu

Chứng minh là hình thức suy luận để xác định tính chân lý của một vấn đề bằng cách đưa ra các dẫn chứng cụ thể. Trong văn chương có loại luận văn chứng minh, chẳng hạn muốn chứng minh câu tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, người ta cần dẫn chứng bằng các trường hợp điển hình trong cuộc sống đời thường – cách “mài sắt” để có được “cây kim”.

Tương tự, đức tin cũng cần có cách thể hiện cụ thể, nếu không thì chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Đức tin thực sự quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Albert Camus (1913-1960, triết gia và ký giả người Pháp) có cách lý luận thú vị về niềm tin: “Tôi thà sống cả đời TIN có Thần Linh rồi chết mà phát hiện không có, còn hơn sống cả đời KHÔNG TIN rồi chết mới phát hiện CÓ Thần Linh”.

Cuộc sống thế gian có nhiều thứ trái ngược hoặc đối lập (phải – trái, trên – dưới, cao – thấp, tốt – xấu,…), một trong các cặp đôi đối lập “đặc biệt” là Yêu – Ghét. Đó là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!

Chắc chắn rằng không ai lại ghét chính mình, có lẽ vì thế mà đôi khi người ta lại yêu mình thái quá. Đó là tự ái – tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy phải “ghét mình” và “yêu tha nhân” (quên mình mới có thể quan tâm người khác). Chúa Giêsu luôn có kiểu “ngược đời” như vậy, nhưng xét cho cùng thì rất có lý. Liệu Ngài có quá đáng hoặc xúi giục chúng ta làm điều dại dột?

Cứ cho là cũng có thể “hơi quá đáng” đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai mà chỉ nói thật. Chúa bảo chúng ta “ghét mình” vì Ngài biết chúng ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ sinh tật, khó thuần hóa, thế nên Ngài phải đặt “hàm thiếc” vào chúng ta để kiềm chế thói bướng bỉnh của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý, bởi vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!

Trình thuật Is 50:4-8 là bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở trần ai khoai củ, te tua tơi tả. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông một cách oan ức nhưng vẫn kiên quyết tới cùng!

Nói về Người Tôi Trung, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không “tham sanh, úy tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là hình bóng của Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Tiếp tục ngôn sứ Isaia tường thuật: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân chẳng là cái gì ráo trọi! Tại sao vậy? Ông cho biết rõ ràng về động lực thúc đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50:7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng dù gặp đủ thứ gian nan khốn khó. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is 50:8b). Rất mạnh mẽ và kiên cường, bởi vì sống công chính thì chẳng có gì phải sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi vẫn cứ là chính mình!

Thật vậy, nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói chắc chắn: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 116:1-2). Và mặc dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình” (Tv 116:3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước, không hề chùn chân hoặc thối chí. Nếu có gặp gian truân sầu khổ thì vẫn một mực thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!” (Tv 116:4). Chắc chắn Ngài sẽ thương mà giải thoát ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Vả lại, Ngài chính là Thiên Chúa tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Thánh Vịnh gia đã minh chứng cụ thể và sống động: “Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 116:8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết, toàn năng và bất biến.

Một kiểu đặt vấn đề rất thú vị của Thánh Giacôbê: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2:14), và ngài phân tích: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:16). Tất nhiên đời sống tâm linh của chúng ta cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và tuyệt vời. Quả thật là vậy, và vấn đề rất rạch ròi: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2:18). Chỉ có nước cứng họng, chẳng ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.

Một lần nọ, Chúa Giêsu đã từng “ví von” thế này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7:9-10). Nghe rồi thì chỉ có nước câm miệng chứ ai có thể phản biện được gì? Đó là cách sống yêu thương, sống đức tin, sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), và là cách thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói thẳng: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Tất nhiên, Ngài không nói với các nữ giới mà nói với mọi người – bất kể ai.

Và rồi vào một dịp khác, khi Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8:27). Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8:28). Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”, và cũng thật kỳ lạ!

Vậy mà Thầy Giêsu liền nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Sau đó, Ngài không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Mác-cô cho biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở. Sự thật không thể khác được, mặc dù đó là điều rất buồn!

Ôi chao, có lẽ Phêrô nhà ta “cụt hứng” nên ông liền kéo riêng Thầy ra và bắt đầu trách. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ và thẳng thắn trách mắng ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì phang ngay, không thiên tư hoặc vị nể chi hết. Tuyệt! Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng, nhưng phải nghiêm khắc chấn chỉnh như thế mới có thể nên người được!

Chúa Giêsu nói xong thì thôi, không hề để bụng. Rồi Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai MUỐN THEO tôi, PHẢI TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Thuận ngôn thì nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi là Chúa! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn CỨU mạng sống mình thì sẽ MẤT; còn ai liều MẤT mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ CỨU được mạng sống ấy” (Mc 8:35). Hoán vị từ ngữ rất độc đáo. Thế nhưng Ngài không ép, hoàn toàn cho phép tự do chọn lựa. Tùy ý mỗi người. Thích thì chiều. Vấn đề quan trọng không là thưa “có” hoặc nói “không”, mà là phải chứng minh được điều đó bằng động thái cụ thể, rạch ròi!

Liên quan việc chứng minh, Hc 46:13-14 cho biết về ông Samuel: Ông là người được Chúa yêu thương, là ngôn sứ, là người thiết lập nền quân chủ, là người xức dầu tấn phong các vị lãnh đạo dân, có quyền xét xử cộng đồng theo Luật Chúa. Trước khi qua đời, ông đã chứng minh trước mặt Chúa và Đấng được xức dầu: “Của cải, thậm chí cả giày dép, tôi đã không lấy của một ai!”. Và chẳng có ai cáo tội ông. Một tấm gương sáng về tính liêm khiết.

Lạy Chúa Tể càn khôn, chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, thế mà lúc nào cũng tìm dịp “nổi dậy” bằng lắm chiêu nhiều cách, chỉ đòi được Ngài thương mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghen ghét mà lúc nào cũng liếc xéo hoặc mỉa mai tha nhân. Chúng con thật hồ đồ và đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con chứng minh bằng cách từ bỏ chính mình theo đúng ý Con Một Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

TẤT CẢ VÌ YÊU

Lm. Jos. DĐH.

Tầm sư học đạo, với ước mơ có kiến thức, có chỗ đứng trong xã hội, hy vọng một tương lai tươi sáng hơn, bao giờ cũng thực tế, hào hứng, vì người ta luôn khao khát một cuộc sống thật ý nghĩa. Tìm kiếm một thế lực để che chắn, bảo vệ mình khỏi gặp nguy hiểm trên hành trình đời này, chung chung vẫn được coi là người khôn ngoan. Bước vào trường đời, cho dù mỗi người mỗi vẻ, nhưng tất cả đều phát xuất bởi tình yêu, và đi đến cùng đích là gặt hái niềm an vui hạnh phúc. Khởi đầu cho ơn gọi làm người, dù không sinh ra trong nhung lụa, không may mắn có các vệ sĩ bao bọc, mỗi người vẫn có cơ hội chọn lựa phong cách sống hữu hiệu nhất, tự do học và hành, để rồi sẽ không phải hối tiếc khi cuộc đời của mình khép lại.

Trọng thầy mới được làm thầy, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy, phải chăng đó chỉ là câu thành ngữ nhằm khích lệ mọi người phát huy nét đẹp giữa tình thầy trò ? “Người ta bảo Thầy là ai” ? Có phải đó là câu hỏi thăm dò dư luận, hay đó chỉ là câu hỏi vô tình như biết bao cuộc hàn huyên tâm sự ? Câu trả lời rất phong phú của số học trò liền ngay đó, Vị Thầy không gật không lắc, Ngài đưa dẫn các trò tới mức độ thân tình, cụ thể hơn: “phần các con, các con bảo Thầy là ai” ? Thực ra Thầy Giêsu quá biết tâm tính các học trò xưa cũng như nay của Ngài, câu hỏi và câu trả lời giữa tình Thầy-trò sẽ chỉ rõ cường độ được yêu thương, sẻ chia, và sẽ âm vang mãi, đầm ấm dài lâu.

Vì yêu thương, Đức Giêsu công khai tuyên bố cho các học trò về sứ mạng của Ngài ở phía trước: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Vì yêu, các học trò được nghe, được hiểu, được biến đổi, rồi sẽ được người ta gọi là thầy, và tất cả sẽ được nên một trong tình yêu Giêsu. Nếu sứ mạng của Đức Giêsu không có đau khổ, không mang vác thập giá, chắc chắn sẽ dễ chịu hơn, sẽ không khó khăn gì cho những ai là học trò, là thần dân của Ngài. Chính vì yêu, người học trò mới nhận ra Đức Giêsu chịu đóng đinh là Thầy, là Chúa, là Đấng cứu độ ; vì yêu, sức nặng của thập giá và tội lỗi thế gian không ngăn cản được Đức Giêsu chịu tử nạn và phục sinh, cứu nhân loại khỏi chết.

Tục ngữ có câu: nói một đàng, quàng một nẻo, hẳn cha ông chúng ta không có ý trách một vài cá nhân cẩu thả trong công việc ; thực ra các ngài lưu ý con cháu ý thức tinh thần làm việc của mình phải nghiêm túc với trọng trách được giao phó. Tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, đã không đơn giản đối với nhóm 12 rồi, sống niềm tin, sống sứ mạng như Thầy vác thập giá và dám mất mạng sống vì Thầy, vì yêu, vì Tin mừng, càng phức tạp biết bao. Hữu tâm tất thành sự, có đầy trong lòng mới tràn ra, có thật sự yêu mến Thầy, mới hiểu Đức Giêsu chịu đóng đinh thập giá và Đức Giêsu sống lại vinh quang chính là Thiên Chúa cứu độ.

Là học trò theo Đức Giêsu hàng ngày, hàng tuần, hàng năm và cả cuộc đời, không những có cơ hội tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, là Đấng cứu độ, mỗi người còn có dịp để từ bỏ mình, vác thập giá để minh chứng tình yêu mà chúng ta đang nhận lãnh, chia sẻ. Là học trò, là môn đệ Đức Kitô, tất cả phải chấp nhận để Đức Kitô gọt giũa hàng ngày, phải để Ngài biến đổi, hầu biết minh chứng tình yêu và lòng mến trước sứ mạng theo Chúa là bỏ mình, bỏ cái tôi ích kỷ. Thời đại công nghệ số hôm nay, lại một lần nữa nhắc nhớ chúng ta thế nào là từ bỏ, là quên mình ? Từ bỏ một giờ, một ngày, một tuần, ngưng sử dụng điện thoại, facebook, máy tính, mà chú tâm cầu nguyện, đi lễ, tĩnh tâm, quả là khó biết chừng nào ?

Tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân, tất cả dũng cảm khi giặc tấn công, và khi giặc bỏ chạy, ai cũng là anh hùng. Có biết yêu mới theo Chúa được, có tin Chúa, mới thấy cuộc đời mỗi người đều được bao bọc bởi tình yêu thương của Chúa. Có vác thập giá theo Chúa hàng ngày, người ta mới thấy quyền năng và phép lạ Chúa đang biến đổi con người bất toàn của mình. Xưa kia Đức Giêsu kêu gọi ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Ta, Ngài còn lưu ý chúng ta hãy đi đằng sau Thầy để hiểu rõ hơn như thế nào là yêu.

Mang thân phận là con cái Chúa, là học trò của Đức Giêsu, dù trong ơn gọi là thường dân, là tu sĩ, là linh mục, chúng ta đều cơ hội để sống yêu thương, phục vụ, với điều kiện riêng của mình. Đức Giêsu sẽ không hài lòng, nếu chúng ta tuyên xưng niềm tin về Thiên Chúa cách chung chung, Ngài cũng không đồng ý khi chúng ta sống niềm tin hời hợt lý thuyết, nhưng là biết hành động khôn ngoan theo ý Chúa, đi đằng sau Chúa. Ý chí quyết tâm, cần thiết cho những ai muốn đến điểm đích của hạnh phúc, tình yêu lại là căn bản để những ai sống tương quan với Chúa và tha nhân. Chúa gọi nhóm 12 làm học trò, biến đổi các ông làm tông đồ xây dựng nước Chúa, nhưng vì yêu, Ngài chịu đóng đinh thập giá để giải thoát tội lỗi và sự chết cho cả nhân loại. Dù ơn gọi của chúng ta là linh mục, tu sĩ, người giáo dân bình thường, tất cả đều là đối tượng của Thiên Chúa yêu thương, cứu độ. Amen.

Về mục lục

.

CON NGƯỜI NGÀY NAY NÓI ĐỨC GIÊSU LÀ AI?

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Những nhà đạo đức hôm nay dường như không bằng lòng với cách suy nghĩ và hành động của đa sốcác bạn trẻ về tôn giáo. Bởi vì cách biểu hiện hành vi thờ phượng của họ có vẻ phàm tục nhiều hơn là thánh thiêng. 

Nếu hỏi họ lý do nào bạn tới Nhà Thờ và Chùa Chiền, ta sẽ nhận được nhiều câu trả lời đại loại như: “đi nhà thờ, chùa để gặp gỡ nhiều người, đi lễ để có dịp mặc áo mới, tích cực một chút là đến nhà thờ thấy tâm bình an hơn”. Ngược lại có người lại bảo theo đạo là tại tâm. Đi lễ đi chùa không quan trọng mà quan yếu là sống tốt là được . . .Họ cho rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng. Và theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật. . .

Có một lần nói chuyện với một người bạn, tôi hỏi: “Theo bạn, tôn giáo nào tốt nhất?”.

Tôi nghĩ bạn ấy sẽ nói: “Thiên Chúa giáo” là tốt nhất. Nhưng anh bạn ấy trả lời: “Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”.

Quả thực, một tôn giáo tốt là phải biến các môn sinh thành những con người biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn.

Hôm nay Chúa Giê-su hỏi các môn đệ và cũng là hỏi từng người chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài mời gọi chứ không ép buộc. Nhưng đã tin theo Ngài thì phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.

Đây là đòi hỏi của Tin mừng nhưng lại vượt sức của con người, nếu không có ơn Chúa thì con người sẽ khó có thể vượt qua những đòi hỏi gắt gao này. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: “ai bước đi theo Thầy sẽ không phải chết đời đời”. Đây là điều để các ngài dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ngài đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển noi quê trời.

Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?

Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Xin cho những người tin vào Chúa biết sống biểu lộ niềm tin của mình qua đời sống công bình, bác ái và yêu thương. Amen

Về mục lục

.

NGÀI LÀ AI?

Anna Cỏ May

Vừa tan học, Lan chạy nhanh đến với Hà.

-Hà ơi, hô nay lớp mình có bạn mới xinh lắm! Tớ nghe nói gia đình bạn mới chuyển từ Bắc vào đây.

-À, ớ còn nghe nói cậu ấy học rất giỏi nữa!

-Vậy hả! Thế có giỏi bằng thằng Tài không nhỉ?

-Ai mà biết được.

Thế là hai cô bạn ríu rít suốt đường đi. Ánh nắng cứ chiếu theo hai tâm hồn ngây thơ.

Cuộc sống là một cuộc đối thoại: trong gia đình, cha mẹ với con cái; nơi công xưởng, cấp trên với cấp dưới; trong trường học, giữa thầy cô với học sinh hay giữa bạn bè với nhau. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cùng trò chuyện với các môn đệ trên đường đi tới vùng Xêdarê Philípphê. Ngài hỏi họ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8,27). Câu hỏi ngắn nhưng gợi lên nơi các môn đệ sự hiểu biết khả năng quan sát và lắng nghe. Được Thầy hỏi, các môn đệ háo hức trả lời: “Họ bảo thầy là ông Gioan Tẩy Giả; có kẻ thì bảo là ông Êlia; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,27-28). Các môn đệ đã trả lời những gì các ông nghe dân chúng nói về Thầy. Thấy các môn đệ háo hức trả lời, Chúa Giê-su quay sang hỏi chính các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Lúc này, có lẽ vì không ai trả lời hay vì Phêrô luôn nhanh nhẹn đi trước, nên trả lời rằng: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Một lời xác tín mạnh mẽ của ông Phêrô đã an ủi Chúa Giêsu. Nhưng khi Chúa Giê-su bắt đầu nói cho các ông biết rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục thượng tế và các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31) thì ông Phêrô liền kéo Chúa Giê-su ra và trách Ngài. Hành động của ông không hẳn là xấu nhưng nếu hiểu theo quan niệm của con người bình thường thì là một hành động quá đẹp vì ông sợ Thầy phải đau khổ, phải chết, sợ mất cuộc sống hiện tại với Thầy. Dầu vậy, Chúa Giê-su vẫn nói: “Xa tan, lui lại đằng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người” (Mc 8,33). Dù đã bị Thầy trách mắng như vậy, nhưng ông vẫn là người đứng đầu Hội Thánh của Thầy vì ông đã thay đổi. Vì thế, chúng ta hãy tin rằng, dù chúng ta thế nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn ở với Chúa Giê-su, miễn là chúng ta để mình được thay đổi theo Ý Chúa.

“Lạy Chúa, con thấy tư tưởng người khó hiểu biết bao

Tính chung lại, ôi nhiều vô kể

Đếm sao nổi vì nhiều hơn cát

Dù có đếm xong con vẫn ở với Ngài”

(Tv 139,17-18).

Chúa Giê-su rất yêu thương mỗi người chúng ta, Ngài không bỏ rơi một ai. Ông Phêrô dù nhiều lần phạm tội, nhưng ông luôn biết hoán cải trước mắt Chúa. Theo gương ông Phêrô, chúng ta cùng hãy hoán cải trở về với Chúa mỗi ngày.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa luôn yêu thương, nâng đỡ chúng con. Xin cho chúng con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất để “dù ăn, dù uống hay bất cứ làm việc gì, chúng con làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”(x.1Cv 30,31). Amen.

Về mục lục

.

-THẦY LÀ AI?

Bông hồng nhỏ

Chị họ từ Bắc vào Nam thăm cô em. Đón chị, cô em vui vẻ mời:

  • Chị ăn sầu riêng không? Em mời
  • Chị nghe người ta bảo sầu riêng thối lắm.
  • Chị đã ăn bao giờ chưa?
  • À, chưa em.
  • Chị ăn thử đi, ngon lắm. Em dẫn chị ra vườn sầu riêng cho biết.
  • Ừm. Chị cũng muốn thử xem sao.

Mới ngửi thấy hương thơm, chị vồn vã hỏi:

  • Mùi gì thơm quá vậy em?
  • Sầu riêng đó chị.

Ăn sầu riêng xong, chị vui vẻ:

  • Sầu riêng ngon thật.

Có những điều tai nghe mắt thấy nhưng chưa nếm thử sẽ không tự mình biết rõ. Chỉ khi chính bản thân trải nghiệm, ta mới rõ. Hôm nay, Thầy Giê-su cũng hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai? (Mc 8,27b). Và các ông đã lần lượt đưa ra các câu trả lời cụ thể. Thế nhưng, Thầy Giê-su muốn các ông phải có chính kiến riêng của mình: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Tông đồ trưởng Phêrô đã thay mặt anh em mình trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”(Mc 8,29b). Chắc hẳn, Thầy Giê-su đã rất hài lòng với câu trả lời này. Thầy vui khi học trò biết về Thầy. Có yêu mến Thầy mới hiểu Thầy như vậy. Sau đó, Thầy ân cần loan báo Cuộc Thương Khó và Phục Sinh cho các ông để các ông hiểu rõ hơn về sứ mạng của mình. Nghe tin Thầy sẽ gặp nạn, ông Phêrô đã kéo riêng Người và bắt đầu trách Người (x.Mc 8,32). Tấm lòng thương mến, lo lắng cho Thầy của ông là điều đáng quý, đáng trân trọng. Thế nhưng ước muốn của ông đi ngược lại với Thánh Ý Thiên Chúa. Không biết khi bị Thầy mắng là: “Xa tan, lui lại đằng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”, Phêrô có cảm thấy xấu hổ không? Có cảm thấy mất mặt trước anh em không? Chẳng lẽ Thầy không hiểu tấm lòng yêu kính, lo lắng cho Thầy của ông sao? Khi đối diện với ánh mắt Thầy, có lẽ ông đã nhận thấy lời nói nghiêm khắc của Thầy chứa đầy lòng xót thương. Chính ánh mắt đầy yêu thương của Thầy đã đánh tan tất cả.

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mc 8,34). Đó là điều kiện phải có để theo Thầy. Theo Thầy, Tông đồ Phêrô đã chấp nhận bỏ chính mình, từ bỏ chính ý muốn của bản thân để cho Thánh Ý Thiên Chúa được thể hiện. Đó cũng chính là con đường mà những ai muốn theo Chúa sẽ đi qua. Mỗi người khi theo Chúa với những bước đường khác nhau: gian nan, khốn khổ, đói rách, bắt bớ, hiểm nguy,… nhưng chính niềm tin vững vàng vào Chúa Giê-su sẽ giúp ta vượt qua tất cả. Tin vào Chúa là điều kiện tiên quyết và can đảm bước theo sát Chúa như một minh chứng rõ ràng cho niềm tin của mình. Chính Chúa sẽ dẫn dắt mỗi người đi trên con đường “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Chẳng phải chính là Đấng là Con Thiên Chúa làm người cũng đã trải qua muôn vàn gian khổ mói học được thế nào là vâng phục đó sao? (Dt 5,8). Vâng phục là thái độ của con tim yêu mến và một đức tin sống động.

Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Trong thử thách, đau thương của nghịch cảnh, con đã kêu lên Chúa: “Lạy Chúa! Chúa là ai mà khiến con phải gian nan, khốn khổ? Chúa là ai mà con phải chiến đấu vất vả từng giây từng phút để được ở với Ngài và để được yêu mến Ngài? Và con đã thưa lên với Chúa lời nguyện con từng được đọc: “Thập giá mỗi ngày làm con xao xuyến nhưng Thánh giá Chúa cho con hy vọng Phục Sinh”. Chúa là nguồn bình an con đang tìm kiếm, là hạnh phúc một đời con đợi trông. Xin Chúa dẫn con bước theo Chúa để con được cùng Chúa hân hoan ngợi khen Thiên Chúa toàn năng. Amen.

Về mục lục

.

CÓ MẤY THỨ THẬP GIÁ?

Lm. An Phong Nguyễn Công Minh

Phêrô sau khi được điểm 10 vì trả lời xuôi câu hỏi Giêsu là ai, lại bị ngay điểm 0, vì chẳng hiểu gì về đường lối của Thiên Chúa : “Satan, hãy lui lại đàng sau, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người”

Tư tưởng của Thiên Chúa là Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang. Rồi sau đó Đức Giêsu dạy các môn đệ phải từ bỏ mình và hãy “vác thập giá” mà đi theo Chúa.

Nếu vác thập giá có nghĩa là mang thánh giá, đeo thánh giá, thì nhiều người trong chúng ta – nhất là các bà các cô, và các chàng hippy cao bồi xưa đã thực thi Lời Chúa triệt để : Họ mang thánh giá trên ngực, giờ họ mang toòn teng cả 2 lỗ tai. Có thời thánh giá nhỏ, có lúc mang thánh giá thật to. Lúc vàng, lúc gỗ….

Mang thánh giá như vậy cũng có điều tốt, vì một cách nào đó làm cho bóng thánh giá hiện diện đó đây. Nhưng cũng có khi – và nhiều khi – không mang những thánh giá như vậy mà vẫn là vác thánh giá thật. Những thánh giá thật đó là những thánh giá nào ? Ta hãy nương theo thánh Giêronimo, để liệt kê 4 loại thánh giá :

1- Thánh giá vì đạo

-Thánh giá vì đạo đạt tới bậc cao là chết vì đạo, cho dù chết trên thập tự hay chết vì thú dữ xé thây, hay chết vì lưỡi gươm lý hình, thì cũng là vác thập giá tử vì đạo.

Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Kitô giáo, ở Roma xa xôi, xa về không gian lẫn thời gian ; ở những nước gần chúng ta hơn như Triều Tiên, Nhật Bản, Philippines ; hoặc ngay tại quê hương đất nước chúng ta, cách đây hơn 100 năm thôi : đã có bao nhiêu kẻ vì muốn theo Chúa Kitô mà đã phải vác lấy thập giá tử vì đạo này. 117 + 1 vị còn đó, lễ kính ngày 24/11: thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo. Nhật có Phaolo Miki và các bạn, lễ kính 6-2. Đại Hàn có 103 vị tử đạo được ĐGH JP2 đến Seoul phong thánh 1984, lễ mừng 20-9: thánh Kim Taegon và Chung Hasan cùng các bạn. Phi Luật Tân có thánh Laurenso Ruiz và các bạn, kính ngày 28-9 ; và những vị tử đạo tiên khởi Roma, kính ngày 30-6.

Thánh giá vì đạo ở đỉnh cao là Tử vì đạo.

-Thánh giá vì đạo ở bậc trung là những bách hại vì đạo : vì là người Công Giáo, vì là người theo Đức Kitô mà ta bị trù dập, mất việc, xếp ở cột 12 trong sơ yếu lý lịch !

Cũng có thể được xếp vào bậc trung thánh giá vì đạo, là loại thánh giá đặc biệt, không phải vì đạo mà là do Đạo gây ra. Trong lịch sử ta thấy điển hình có Galilê, bị chính Đạo o ép suýt bị hoả thiêu khi ông chứng minh trái đất quay chứ không phải mặt trời chạy.

Vào khoảng năm 1990, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đi “ad limina” ở Roma về, ngài vui mừng, chia sẻ : lần này Toà Thánh đã xem tôi là người Công Giáo rồi ! Là vì trong quá trình sống chung với anh em sau năm 1975, ngài đã bị báo cáo này nọ, chẳng hạn ngài là giám mục chưa đến nỗi “quốc doanh” nhưng là loại “công tư hợp doanh.”

Có những bổn đạo “được” cha xứ để ý cách riêng, gọi thẳng ra là trù dập, o ép. Thánh giá bởi đạo là thế, tuy không phổ biến, không nhiều, nhưng cũng khá nặng. Nặng hạng trung.

-Thánh giá vì đạo ở bậc thấp là tuân giữ lề luật của đạo. Chẳng ai bách hại trù dập vì đạo, chẳng ai chặt đầu đóng đinh vì đạo, thì ở mọi thời ta vẫn còn phải vác thập giá vì đạo loại cấp thấp này : Ăn chay, kiêng thịt, đọc kinh, đi lễ …, đó là những thánh giá do đạo mà ta phải vác nếu ta muốn theo Đức Kitô.

2- Thánh giá do Chúa [Quan Phòng]

Có khi là chính Chúa gửi tới, có khi là Ngài quan phòng để cho sự việc xảy ra. Thánh giá loại này bao gồm tất cả những bệnh tật, lo âu, sợ hãi, chán nản, thất bại, mà ta gặp trong cuộc sống. Bi quan hơn một chút, thì cả cuộc sống là thập giá.

“Đã mang tiếng khóc chào đời” – chẳng bé thơ nào – chẳng ai bước chân vào đời mà nở nụ cười cả. Phật thì bảo : Đời là bể khổ. Bởi đó có thể nói thánh giá loại này được gọi là khổ giá. Nếu vác cho khéo sẽ thành thánh giá.

-Hiệp sĩ Phanxicô vì một cơn bệnh thập tử nhất sinh mà hoán cải thành thánh. Khổ giá biến thành thánh giá.

-Anphôngsô thất bại trước một vụ kiện mà quay về với Chúa. Khổ giá thành thánh giá.

Nhiều người do cha mẹ chết sớm, vác thập giá nuôi bầy em, mà nên những vĩ nhân. Nhiều bạn trẻ thi rớt, nhiều bạn trai bị bồ đá, đau quá, dốc quyết đi tu, đỗ cụ làm cha !

3- Thập giá do ma quỉ

Ma quỉ có thật chứ không phải chuyện huyền thoại, thần sầu quỉ khốc đâu. Và ma quỉ lại không ở yên. Ma quỉ hành động, hành động tích cực. Cứ đọc sách Job thì biết. Những trang đầu của sách Sáng Thế cũng vậy. Và nhất là trong cuộc đời của Chúa Giêsu, quỉ ma cũng không buông tha Ngài.

Vì thế thập giá do ma quỉ là những chước cám dỗ: mưu ma chước quỉ. Ở thời nào cũng có, ở nơi nào cũng có, ở lứa tuổi nào cũng có, ở ngành nghề nào cũng có.

Nghề buôn thì có cám dỗ làm giàu bằng con đường tắt, con đường lậu ; nghề xây cất thì có cám dỗ xây một, cất (giấu) hai.

Tuổi trẻ có cám dỗ về ăn chơi phung phí. Tuổi già có cám dỗ về kể lể thành công. Học sinh có cám dỗ cóp bài, tìm phao. Công nhân có cám dỗ câu giờ lao động.

Người chồng có cám dỗ thấy vợ người khác duyên dáng thuỳ mị hơn bà xã ở nhà. Người vợ có cám dỗ thấy chồng nhà bên cạnh tháo vát lanh lợi hơn ông chồng nhà mình…

Ta không thể kể xiết, bởi có những cám dỗ tinh vi mưu mô hơn nữa kìa. Nhất là những cám dỗ len lỏi vào cả trong việc đạo đức cầu kinh.

Vác những cám dỗ đó, mà không sa vào những cám dỗ đó, nhưng vác đem đi xa : chứ không phải sa chước cám dỗ (trong kinh Lạy Cha) – quả là một cách vác thập giá theo chân Chúa.

4- Thánh giá do chính mình

Đây là tên gọi của những hy sinh, hãm mình. Hy sinh, hãm mình là những điều mình đáng ra không phải làm, nhưng mình làm thêm. Đáng ra mình được hưởng, nhưng mình không hưởng.

Được xem Tivi giải trí, mình hãm mình không xem.

Không phải quét nhà, nhưng hy sinh cầm cái chổi…

Người ta kể Phanxicô thường rắc thêm tro vào thức ăn, để ăn bớt ngon hơn hầu hãm mình. Mặc áo, thì lót thêm ít vải gai bố hầu ép thân ép xác (như mặc áo nhặm).

Phải đi với người ta một dặm, mình hi sinh đi thêm một dặm nữa.

Gương các vị thánh về hy sinh cũng đầy dẫy, và trong gia đình, gương hi sinh của cha mẹ anh chị cũng không thiếu.

Mẹ thức thêm để vá cho con chiếc áo, cha làm thêm giờ để lo cho con một món đồ chơi. Mẹ nhịn miếng thịt để cho con trai lớn, bố nhường trái chuối cho bé út trong nhà.

Trên đây là ta dựa theo cách liệt kê của thánh Giêrônimo để mô tả 4 loại thập giá mà ta thường phải vác : thập giá vì đạo, thập giá vì Chúa, thập giá do ma, thập giá bởi mình.

Nhưng cũng có nhiều cách vác.Vác mà càu nhàu lẩm bẩm thì giá đã nặng lại nặng thêm mà không sinh ích gì. Còn vác cùng với Chúa, theo chân Chúa, thì ánh sáng mới loé ở chân trời.

Per crucem ad lucem : qua thập giá đến ánh sáng là một châm ngôn của Dòng Mến Thánh Giá, được sáng lập từ Việt Nam. Và gẫm Năm Sự Thương, thứ tư thì ngắm : Đức Chúa Giêsu vác thánh giá – Ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa. Hãy “vác thánh giá theo chân Chúa,” sẽ thấy tương lai tươi sáng cuối đường hầm vậy.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 24 TN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài.

Is 50: 5-9

Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi thử thách đau thương.

Gc 2: 14-18

Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không việc làm là đức tin chết”.

Mc 8: 27-35

Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô”, Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)

Bản văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giê-su, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

  1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ

Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết sứ mạng được trao phó cho ông không là dễ dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui” 50: 5). Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (50: 4). Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi!” (50: 8).

  1. Dung mạo của Đức Ki tô

Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy dung mạo của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.

BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)

Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.

  1. Đức tin không việc làm là đức tin chết

Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được một ví dụ cụ thể minh họa và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh chị em đau khổ của mình.

  1. So sánh giáo huấn của thánh Gia-cô-bê và của thánh Phao-lô

Khi tuyên bố “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, phải chăng thánh Gia-cô-bê chủ trương một lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Ga-lát và Rô-ma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô” (Gl 2: 16; x. Rm 3: 20)? Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèng la inh ỏi”.

Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.

TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)

Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giê-su tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.

  1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò

Như chúng ta đã biết, Đức Giê-su đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, nhưng em của ông là tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp-phê là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan. Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giê-su đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.

Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giê-su cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giê-su và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giê-su, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được dung mạo đích thật của Ngài hơn.

  1. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài

Trước hết Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”.  Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giê-su với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giê-su: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giê-su là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn rất xa chân tính của Ngài.

Thật ra, câu hỏi của Đức Giê-su: “Người ta nói Thầy là ai?” chỉ là câu hỏi khởi động cuộc nói chuyện nhằm giúp các môn đệ cởi mở tấm lòng với Thầy, nhưng câu hỏi mà Ngài muốn hỏi các ông chính là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Với câu hỏi này, Đức Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại thánh Mát-thêu, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Tại thánh Lu-ca, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20). Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phê-rô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giê-su: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài. Theo Tin Mừng Mác-cô, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô” là đỉnh cao của phẩn thứ nhất về “mầu nhiệm Đấng Ki-tô” (Mc 1-10) và lời tuyên xưng của viên quan ngoại giáo dưới chân thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39) là đỉnh cao của phần thứ hai về “mầu nhiệm Con Thiên Chúa” (Mc 11-16).

Ngay lập tức Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là chân tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a theo nghĩa một vị vua toàn thắng trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giê-su sắp vén bức màn mầu nhiệm này.

  1. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài

Đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giê-su không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) này.

  1. Phản ứng của thánh Phê-rô

Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phê-rô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Trong tâm trí của mình, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình thương yêu có thể bị đau khổ.

  1. Phản ứng của Đức Giê-su

 Đức Giê-su phản ứng rất quyết liệt; thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa (Mt 4: 8-9; Lc 4: 5-7); Đức Giê-su đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10; x. Mc 8: 33), nhưng với thánh Phê-rô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh phải hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.

Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giê-su cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ để đạt đến vinh quang này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giê-su sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa là cuộc sống trần thế tạm thời này vừa là cuộc sống muôn đời mai sau.

Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.

Về mục lục

.

TA TIN CHÚA GIÊSU NHƯ THẾ NÀO?.

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Vào dịp rằm tháng bảy vừa qua, giáo xứ có đến thăm chùa Phước Minh, ngôi chùa nằm trong địa bàn giáo xứ. Qua trao đổi với thầy trụ trì về một số các vấn đề của Phật giáo. Thầy cho biết hiện nay, có nhiều chùa được xây dựng rất lớn nhưng không phải là của Giáo hội Phật Giáo. Có những chùa việc thờ cúng đã bị lai tạp bởi các thứ tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo khác, có những chùa hầu như đã đánh mất giáo lý chính truyền của Phật giáo. Có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng này: Có những nơi xây chùa để kinh doanh, có những thầy chùa không được đào tạo huấn luyện, Giáo hội Phật Giáo dường như không quản lý được các nhà chùa, nhà sư, …v.v. Nhưng lý do chính yếu là nhiều thầy chùa không được học về phật giáo đến nơi đến chốn.

Tình trạng nói trên có thể cũng đang diễn ra nơi một số các tín hữu Công Giáo. Vì có những người chỉ biết Chúa Giêsu, tin Chúa Giêsu một cách rất mơ hồ, không tiếp xúc, không gặp Chúa. Cho nên, dẫn đến việc sống đạo cũng một cách hời hợt, vô hồn, hoặc thờ Chúa nhưng vẫn thực hành đời sống đạo theo kiểu của dân ngoại.

Lời Chúa hôm nay muốn mỗi chúng ta phải bày tỏ lòng tin của mình một cách dứt khoát mạnh mẽ vào một mình Chúa Giêsu mà thôi. Đồng thời, phải cố gắng nỗ lực mỗi ngày làm cho đức tin của mình thêm lớn mạnh, vững chắc và trưởng thành như thánh Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.

Sau một thời gian bỏ mọi sự để đi theo Chúa, được chứng kiến các phép lạ Chúa làm và những lời giảng dạy của Chúa, các tông đồ dường như đã dần gột rửa, thanh luyện được ý hướng và đức tin của mình. Hôm nay, Chúa Giêsu muốn đưa riêng các tông đồ lên miền Cêsarea Philiphê là vùng đất của dân ngoại. Nơi đây, trong bầu khí yên tĩnh của tình thầy – trò không bí đám đông vây quanh, Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ: “Dân chúng nói Thầy là ai?” Qua câu hỏi này, Chúa muốn biết dân chúng đã đón nhận Ngài như thế nào. Tuy nhiên, câu trả lời của các tông đồ cho thấy, dân chúng hiểu về Chúa Giêsu còn rất mờ nhạt: “Họ nói Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ bảo là Êlia, có kẻ nói là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó…”. Những câu trả lời đó không chính xác.

Chúa Giêsu không quan tâm nhiều đến các câu trả lời theo dư luận, Ngài muốn các tông đồ phải bày tỏ đức tin của mình, vì chính các ông là những người gần Chúa và hiểu Chúa hơn hết. Chúa hỏi các ông: “Thế còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” Simon Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng đức tin của mình: “Thầy là Đấng Kitô”. Lời tuyên xưng này hơn hẳn những câu trả lời của dân chúng. Ở đây Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa là đấng được Thiên Chúa xức dầu, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa, các tổ phụ và các tiên tri đã loan báo và toàn dân đang mong đợi. Phêrô và các tông đồ tin Chúa Giêsu là Đấng từ trời mà đến, là Thiên Chúa thật. Lời tuyên xưng này thật chính xác. Tuy nhiên, vì nhiều người chưa thể hiểu được như thế, nên Chúa Giêsu chưa muốn các ông nói điều đó cho dân chúng, vì họ cần phải đi từng bước để đến niềm tin chính xác.

Chúa Giêsu cũng không muốn các tông đồ rơi vào ảo tưởng và hiểu sai sứ mệnh của Chúa. Chúa nói cho cho các ông biết về sứ mạng của Ngài là hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha như một người tôi tớ khiêm hạ đã được Isaia loan báo trong bài đọc một. Tiên tri Isaia xuất hiện trước Chúa Giêsu khoảng năm trăm năm. Ông đã nói về một vị ngôn sứ trong thân phận Người Tôi Tớ trung thành của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa như một đầy tớ vâng phục chủ mình: “Thiên Chúa đã mở tai tôi và tôi không cưỡng lại. Tôi đưa lưng cho kẻ đánh tôi và đưa má cho kẻ giật râu. Tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Tôi không hổ thẹn, vì có Chúa phù trợ tôi”. Với hình ảnh một vị ngôn sứ Đầy Tớ của Thiên Chúa như thế, người Do Thái không dễ chấp nhận. Người Do Thái muốn một Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc, thống lãnh sơn hà, xưng vương, xưng đế, chứ không muốn một Đấng cứu thế khiêm hạ.

Sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô”, liền sau đó, Chúa Giêsu đã nhắc lại cho Phêrô và các tông đồ hình ảnh của người tôi tớ khiêm hạ mà Isaia đã nói: “Con người phải chịu đau khổ nhiều, bị các thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Nhắc như thế, Chúa Giêsu vừa muốn điều chỉnh, thanh luyện lại các hình ảnh mà các tông đồ đã tạo nên trong đầu về Đấng Kitô, đồng thời báo trước để chuẩn bị tâm lý cho các tông đồ khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn thập giá. Các tông đồ là người Do Thái, vì vậy các ông cũng vẫn nuôi tham vọng về một Đấng Kitô xưng vương theo như  những người Do Thái mong đợi. Chúa muốn các tông đồ khi tin Chúa phải thay đổi lại suy nghĩ và đón nhận một Đấng Kitô theo ý của Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa, chứ không phải theo sự tô vẽ của con người.

Phản ứng của Phêrô cho thấy, ông không dễ dàng chấp nhận một Đấng Cứu Thế sẽ bị bắt, bị giết. Điều đó cũng cho thấy, các tông đồ theo Chúa để tìm kiếm điều gì đó mang tính lợi lộc trần gian hơn là theo Chúa và tin Chúa. Vì thế, Phêrô đã kéo riêng Chúa ra để can ngăn Chúa: “Thưa Thầy, xin Thầy đừng làm như thế”. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trách Phêrô trước mặt các tông đồ bằng lời lẽ rất nặng: “Satan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Lời trách mắng này cho thấy: Phêrô đã đứng sai vị trí của mình. Ông vừa được chúa khen vì lời tuyên xưng đức tin, liền sau đó ông lại trở thành vật cản đường Chúa và gây vấp phạm cho anh em. Ông muốn trở thành người đi trước Chúa để dẫn đường cho Chúa. Ông muốn Chúa làm theo ý mình hơn là bắt mình phải vâng theo ý Chúa.

Khi nói với Phêrô: “Hãy lui lại đàng sau Thầy”, Chúa Giêsu muốn Phêrô phải trở về với đúng vị trí của mình là một môn đệ của Chúa. Môn đệ phải đi theo sau thầy chứ không thể đi trước thầy, phải để cho thầy dẫn đường chứ không thể dẫn đường cho thầy. Không chỉ yêu cầu Phêrô phải thay đổi lại vị trí, quan trọng hơn là phải thay đổi lại suy nghĩ, tư tưởng, làm sao cho suy nghĩ của mình phù hợp với đường lối của Chúa. Vì tư tưởng của Phêrô không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người, lo tìm kiếm danh lợi.

Đến đây, Chúa gọi các môn đệ và đám đông lại để đưa ra cho họ lời mời gọi cũng là một thách đố: “Ai muốn theo tôi, phải bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Việc tin theo Chúa phải là một quyết định hoàn toàn tự do của mỗi người, chứ không phải bắt buộc. Tuy nhiên, một khi đã tin theo Chúa thì phải chấp nhận những điều kiện đi kèm, phải chấp nhận đi vào con đường của Chúa và đi theo Chúa, chứ không thể tin theo một ai khác hoặc một con đường nào khác. Đón nhận Chúa Giêsu là tin Ngài là Đấng Cứu Thế, Ngài cứu nhân loại bằng con đường đau khổ thập giá. Vì thế, các người tin theo Chúa cũng phải đi vào con đường thập giá, phải vác thập giá của mình mỗi ngày mà bước theo Chúa.

Thưa quý OBACE, chúng ta tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng nhiều người tín hữu vẫn để mình sống trong tình trạng ấu trĩ về đức tin, bởi vì thiếu sự học hỏi giáo lý, lười đọc và suy gẫm Tin Mừng. Chúng ta tin Chúa nhưng lại ngại ngùng khi phải chu toàn giới răn lề luật và thực hành những đòi hỏi của Thiên Chúa. Chúng ta tôn thờ Chúa nhưng vẫn tin kiêng cúng bái hoặc thực hành những thói quen theo kiểu dân ngoại. Nhất là nhiều người Kitô hữu tin Chúa Kitô nhưng không có Chúa Kitô trong tâm hồn, lười gặp gỡ và tiếp xúc với Chúa nơi Bí Tích Thánh Thể, vì thế ta không thể tuyên xưng về Chúa cách mạnh mẽ và chính xác cho những người khác. Là môn đệ của Chúa, nhưng nhiều người vẫn muốn đi trước Chúa, muốn Chúa làm theo ý mình hơn là buộc mình phải đi theo Chúa và phải làm theo ý Chúa; nhiều người đã ngại ngùng khi phải vác thập giá hằng ngày hoặc là đón nhận khó khăn thử thách cách miễn cưỡng, chán nản thất vọng, than trách Chúa.

Xin cho chúng ta biết siêng đọc và lắng nghe Lời Chúa, học hỏi giáo lý để biết về Chúa nhiều hơn, tin cách chắc chắn hơn và can đảm bước theo Chúa cách vững tin hơn. Amen

Về mục lục

.

ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG

Lm Giuse Nguyễn văn Nghĩa

Vì chúng ta, Chúa Kitô đã chịu khổ hình thập giá. Chúa đón nhận thập giá là để nhân loại chúng ta được thứ tha tội lỗi, được giải hòa với Chúa Cha. Nếu Chúa Kitô vác thập giá là để nhân loại chúng ta được hạnh phúc, vậy thì cớ sao Người lại khẳng định rằng ai muốn theo Người thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo? (x.Mc 8,34). Vác thập giá là chấp nhận hy sinh, bỏ mình, chấp nhận cả những bất công, nhục hình. Nhiều người Macxit cũng như một vài triết gia thế kỷ ánh sáng đã vin vào điều này để kết án Kitô giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ đám đông dân cùng khổ cam chịu cảnh bất công đàn áp với niềm hy vọng sẽ được hưởng phần phúc sau này và thế là đã tạo cớ cho bất công ngự trị, tạo dịp cho kẻ thống trị bốc lột, đàn áp dân nghèo. Dù kết án Kitô giáo, nhưng khi đã nắm được quyền thì người ta lại giương khẩu hiệu rằng nhân dân hãy hy sinh chịu khó, chịu khổ vì một tương lai tươi sáng sau này to đẹp hơn gấp mười lần hôm nay, một tương lai mà nhiều người nhận định rằng chỉ là một viễn ảnh khó thành hiện thực, dĩ nhiên là đối với đám dông dân chúng bị trị. Phải chăng cái khẩu hiệu ấy cũng là một thứ thuốc an thần? Cái vòng lẩn quẩn và cũng là một nghịch lý xem ra khó có câu trả lời.

Không gì hơn là tập chú vào cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô để tìm lời giải đáp cho vấn nạn nêu trên, cho dù biết rằng trong kiếp lữ hành này chúng ta không thể nào đến với sự thật toàn vẹn, vì được mấy ai dám chắc chắn là mình đã mở hết lòng để đón nhận Thần Chân Lý. Trước hết cần khẳng định rằng khi mời gọi chúng ta, mời gọi dân chúng hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo, thì Chúa Giêsu không hề và không bao giờ muốn chúng ta cúi mình cam chịu cảnh khổ, chịu cảnh bất công cách tiêu cực, làm cớ cho những người bóc lột những kẻ gian ác lợi dụng để vinh thân phì da và ngụp lặn trong tội ác của họ. Việc tìm sự sung sướng hay hạnh phúc trong chính sự đau khổ là điều lệch lạc mà ngày nay người ta gọi đó là một dạng tâm bệnh, bệnh khổ dâm. Một điều chắc chắn không kém: nếu là người cha thực sự thì không bao giờ muốn con cái phải khổ đau. Chúa Giêsu đã từng nói rằng dù chỉ là người cha trần thế với nhiều khiếm khuyết, thế mà sự thường khi con cái xin bánh thì chẳng ai lại ném cho chúng hòn đá. Thiên Chúa là người Cha trên mọi người cha, là Đấng trọn hảo nên Người chỉ muốn và làm điều tốt lành cho con cái (x.Lc 11,9-13; 12,32). Vậy lý giải thế nào về sự hiện hữu của thập giá mà Chúa Giêsu đã gánh trên vai và Người đã minh nhiên mời gọi chúng ta vác lấy để đi theo Người?

Đường yêu thương, con đường làm người chính là chìa khóa giải đáp cho vấn nạn này. “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Đây không phải là một tình yêu quy ngã nhưng là tình yêu hướng tha từ trong bản thể của cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đã thông chia tình yêu này cho các loài thụ tạo, đặc biệt cho loài người. Rất nhiều triết gia đã đồng thuận về một ý nghĩa của sự hiện hữu là “hiện hữu cho” nơi các loài. Chẳng hạn đất đai khoáng sản có ra là cho thảo mộc cỏ cây; cỏ cây thảo mộc có ra là cho động vật… Yêu thương đích thực thì không sống cho chính mình mà sống cho ai đó và vì ai đó. Chính khi hướng đến tha thể là lúc ta mới thực sự là mình. Chúa Cha thực sự là mình trong tương quan với Chúa Con, trao ban tất cả cho Chúa Con. Ngược lại Chúa Con thực sự là mình khi luôn hướng về Chúa Cha, tìm kiếm và thực hiện ý Chúa Cha, trao ban lại tất cả cho Chúa Cha. Và Chúa Thánh Thần chỉ thực sự là Tình Yêu Ngôi Vị giữa Chúa Cha và Chúa Con khi luôn tìm vinh danh hai Ngôi cực trọng ấy.

Sống trong tương quan liên vị và ra khỏi chính mình là động thái từ bỏ mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh khi khẳng định: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Như thế thập giá hay những hy sinh, từ bỏ không phải là sự khổ đau mà chúng ta đành phải trả giá theo nghĩa tiêu cực nhưng chính là dữ kiện và có thể nói là điều kiện mà chúng ta phải vượt qua trong tiến trình sống yêu thương, tiến trình thể hiện bản thân mình, vốn là hình ảnh và là họa ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Hình ảnh con nhộng lột xác để hóa thành bướm, hình ảnh con rắn lột vỏ để lớn lên vẫn thường được nhiều người gợi lên để minh họa cho ý tưởng này. Mọi so sánh dù cố nhắm làm rõ một khái niệm nào đó, nhưng ít nhiều còn khập khiễng. Lột xác để thành bướm hay lột vỏ để lớn lên thì vẫn có cái gì đó vì chính mình. Trong khi đó chuyện vác thập giá là vì tha nhân. Chúa Giêsu vác thập giá là vì chúng ta. Người chịu khổ hình là để chúng ta được cứu độ. Người tự nguyện nên nghèo khó là để chúng ta nên sang giàu. Và khi sống vì chúng ta, thì Người thể hiện chính Người là Giêsu, Đấng Cứu Độ, là Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giải thoát kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng (x.Lc 4,18-19).

“Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Một trong những hành động để làm sống đức tin theo thánh Giacôbê tông đồ chỉ dạy đó là yêu thương tha nhân cách cụ thể và toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Để sống yêu thương thì chuyện vác thập giá là chuyện đương nhiên phải có. Tuy nhiên cần ý thức rằng chúng ta vác thập giá là vì tha nhân, nghĩa là để cho tha nhân được hạnh phúc, cho người nghèo khỏi cảnh khổ, cho người bị áp bức được tự do, cho người tội lỗi biết sám hối ăn năn, cho người gian ác biết quay gót trở về… Hiểu được điều này thì hy vọng chúng ta sẽ biết cách thế vác thập giá như thế nào để thực sự là theo Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải là làm cớ cho sự dữ thống trị, làm cớ cho kẻ gian ác thích chí, cười khì.

Về mục lục

.

ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG

JM. Lam Thy

Trong khi đi chia sẻ tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc, kẻ viết bài này rất hay bị “chiếu bí” bằng những câu hỏi “hóc búa” rất khó trả lời. Có một thắc mắc của học viên được hỏi khá nhiều lần, đó là: “Tại sao Con Thiên Chúa giáng trần lại được đặt tên là Giê-su Ki-tô? Tên đó có ý nghĩa thế nào? Tại sao Ki-tô giáo còn được gọi là Cơ Đốc giáo?” Truy tìm trên wikipedia thì thấy giải thích:

Giê-su cũng được gọi là Giê-su Ki-tôJesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc. Giê-su là người Do Thái có tên là Yehoshua (יהושע – có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” trong tiếng Hebrew), thường được gọi vắn tắt là Yeshua (ישוע). Đối với người đương thời, Giê-su còn được biết dưới tên Giê-su thành Nazareth, hoặc Giê-su con ông Giu-se. Từ “Ki-tô” (tiếng La-tinh: Christus; tiếng Hy Lạp: Χριστός Khristós hoặc từ “Cơ-đốc” trong tiếng Việt), là một danh hiệu của Chúa Giê-su, có nghĩa là “người được xức dầu”, ngụ ý là một vị lãnh đạo (chính trị cũng như tôn giáo) được chọn bởi Thiên Chúa.

Sở dĩ người Do Thái gọi Đức Giê-su là “Đấng Được Xức Dầu” là vì theo truyền thống Do Thái, các vua chúa được xức dầu phong vương (“Ông Sa-mu-en lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Sa-un, rồi hôn ông và nói : “Chẳng phải ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người sao?” – 1Sm 10, 1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (“Ngươi sẽ lấy dầu tấn phong mà đổ trên đầu A-ha-ron và xức dầu cho ông.” – Xh 29, 7). Người Do Thái quan niệm Đấng Ki-tô là vị “Vua” trong tương lai. Người sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel (Đn 9, 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang. Như vậy, Đấng mà “muôn dân mong đợi” đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giê-su, cùng với danh hiệu Ki-tô ghép lại thành Giê-su Ki-tô.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIV/TN-B – Mc 8, 27-35) trình thuật việc Ðức Giê-su đang đi với các môn đệ ở vùng Xê-da-rê thuộc Phi-lip-phê, tức là miền cực Bắc nước Do Thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Gio-đan. Người ta gọi nơi này là Xê-da-rê của Phi-lip-phê, vì chính Hê-rô-đê Phi-lip đã xây ở đây một thành mang tên Xê-da-rê (tên của hoàng đế Rô-ma). Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và từ đó, người ta cũng hay nghĩ đến thân phận của mình. Có lẽ vì thế mà khi tới vùng này, Ðức Giê-su đã quay sang hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”

Dư luận về Đức Ki-tô kể ra đã khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, tối thiểu cũng như Gio-an Tẩy giả, hoặc như Ê-li-a, hay một vị ngôn sứ nào đó. Vì thế các môn đệ trả lời: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Còn đối với các môn đệ thì vì họ là học trò thân tín của Đức Giê-su, luôn ở với Người và được Người chăm sóc, dạy dỗ, rồi còn được chứng kiến biết bao phép lạ Người đã làm, tất nhiên họ phải có một cái nhìn về Người hơn hẳn những người khác, nên khi nghe hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” thì ngay lập tức, ông Phê-rô đã không ngần ngại thay mặt anh em mà thưa với Người: “Thầy là Ðấng Ki-tô của Thiên Chúa” – Lc 9, 18-20)

Thiết nghĩ không thể có lời tuyên xưng nào chính xác hơn được. Và đó cũng là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau khi mầu nhiệm Phục Sinh đã hiện thực hoá: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa các chúa, Vua muôn vua. Sở dĩ Phê-rô hôm ấy nói được như vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông, cũng giống như nhiều khi các ngôn sứ phát biểu những Lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán triệt được tất cả nội dung phong phú. Có lẽ cũng vì vậy nên Ðức Giê-su đã “lập tức cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người” (Lc 9, 21). Họ không nên nói những điều họ chưa hiểu biết thấu đáo, có thể gây ra những sự hiểu lầm, mà cần phải đợi đến khi chân tướng sự việc hiển hiện ra hết rồi hãy tuyên xưng. Cũng bởi vì “giờ” của Người chưa đến. và cái trọng tâm của giờ ấy chính là cuộc khổ nạn, nên kể từ hôm nay, Người bắt đầu mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.

Phê-rô vừa mới thay mặt các môn đệ tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” thì cũng có nghĩa là tuyên xưng “Thầy là Vua” (Ki-tô là xức dầu, mà theo truyền thống thì chỉ có vua mới được xức dầu); vậy mà tiếp liền sau đó Thầy lại “bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Người nói rõ điều đó, không úp mở.” (Mc 8, 31-32). Ðiều đó làm cho các môn đệ càng thêm khó hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Với bản tính bộc trực nghĩ sao nói vậy, nên “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.” Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền trách ông Phê-rô rất nặng lời: “Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 33).

Thực ra, không chỉ có Phê-rô hoặc các môn đệ, mà cho đến thế kỷ XXI này, không thiếu gì những người nghĩ như vậy. Tư tưởng của loài người là thế. Làm sao hiểu và chấp nhận cho được Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, lại chịu để loài người phỉ báng, loại bỏ và giết chết. Thiên Chúa thương yêu loài người và với quyền năng vô biên, Người chỉ cần phán một lời thì con người sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Nhưng như thế thì con người theo bản tính bẩm sinh bất toàn của mình, sẽ chẳng hiểu được mầu nhịêm này. Con người nếu không được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì vẫn không tin và – vốn dĩ được tự do đến gần như tuyệt đối – sẽ lại khơi khơi sống một cách vô tư như chưa hề biết mình đã được cứu độ.

Chính vì thế, nên ý định tối cao của Thiên Chúa Cha phải được thực hiện một cách cụ thể: Con Thiên Chúa phải xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình và chết treo trên thập giá thay cho tội lỗi loài người và tới ngày thứ ba sẽ phục sinh vinh hiển. Chỉ có như vậy loài người mới thấu hiểu được hồng ân cứu rỗi do chính Người Con cũng là Người Tôi Trung của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô vâng lời thực hiện. Cũng vì người đời khi được mạc khải chỉ hiểu được tường tận Lời Chúa bằng đức tin, nên sau Lời dạy về cuộc Thương Khó, Đức Giê-su tiếp tục dạy về những điều kiện để theo Người. Vác thập giá đi theo Ðức Ki-tô không chỉ là làm việc khó khăn này, chịu sự cực khổ kia; nhưng trước hết là phải có phương hướng nhất định.

Phương hướng đó chính là đức tin mà những kẻ tin đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa (“Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô.” – Gl 3, 26-27). Ðức tin có những đòi hỏi của nó, nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin. Ðức tin ấy phải là một sự sống, và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt, phải hành động. Nếu không như vậy thì chỉ là “Đức tin chết” (“Đức tin không có hành động là đức tin chết” – Gc 2, 17). Nói cách khác là phải sống đức tin cách cụ thể trong cuộc sống đời thường. Vâng, khi anh tuyên xưng đức tin là phải nói lên (tuyên – tuyên bố) được niềm tin của anh, đồng thời chứng minh được niềm tin ấy (xưng – xưng ra) trong cuộc sống của anh.

Vâng, chúng ta không được như các thánh Tông đồ thủa xưa “vì đã thấy, nên đã tin”, nhưng nếu chúng ta “không thấy mà tin” thì chắc chắn sẽ được chúc phúc “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Vấn đề tuyên xưng đức tin xưa như trái đất, nhưng coi chừng chúng ta mới chỉ TUYÊN bố bằng đầu môi chót lưỡi chớ chưa thật sự XƯNG ra bằng chính cuộc sống của mình. Nói cách khác, nếu anh mới chỉ “nói” chớ chưa thực sự “làm” đúng như những điều anh đã nói, thì cũng chẳng hơn gì những “kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 1-7). Ấy cũng bởi vì “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi. Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24-26

Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng con rất mạnh mịêng khi đọc hay hát kinh Tin Kính trong các thánh lễ, nhất là trong đêm Vọng Phục Sinh. Con cũng biết rằng khi con nói về niềm tin của mình thì thao thao bất tuyệt, nhưng con chưa sống niềm tin ấy một cách cụ thể trong cuộc sống thường nhật của con. Con tin vào Chúa, con luôn đến với Chúa, nhưng với những người anh em của con – nhất là những anh em khó nghèo, tật bệnh, lao tù… – thì con lại thờ ơ, lảng tránh. Như vậy thì nào có khác chi con chỉ mới “TUYÊN bố” chớ chưa “XƯNG ra” được niềm tin mà con đã chọn cho cuộc đời mình.

Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho con đủ can đảm và dũng khí tuyên xưng đức tin cách công khai bằng chính những việc làm, những sinh hoạt trong gia đình, ngoài xã hội, để con được xứng đáng với danh hiệu “Ki-tô hữu” mà Chúa đã ban tặng. Ôi! Lạy Chúa! “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi. Con tuyên xưng Ngài đã sống lại. Trong vinh quang mai Ngài lại đến…” Ôi, lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con! Con tin! Amen.

Về mục lục

.

NGƯỞI TA BẢO THẦY LÀ AI?

Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên

Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày hôm nay.

Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Cựu Ước nói gì về Đức Giêsu ?

Bài đọc thứ nhất trích trong sách ngôn sứ Isaia, tác giả đã nói về một người Tôi Tớ đau khổ. Người Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người. Người Tôi Tớ này là ai ?

Có lẽ trước tiên, Người Tôi Tớ ở đây được hiểu là dân Israel, họ phải chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh này được hiểu về Đấng Mêsia – Đấng Cứu Thế. Ngài xuất thân từ dòng dõi vua Đavít để thiết lập quyền vương đế của Thiên Chúa. Người sẽ tiêu diệt kẻ thù nghịch và cai trị Israel trong công bình và tín nghĩa.

Phải đến hơn năm thế kỷ sau đó, lời ngôn sứ mới được ứng nghiệm trọn vẹn nơi Đức Giêsu – Đấng chính là Israen mới, là ánh sáng cho muôn dân, và là sự cứu rỗi cho các dân ngoại. Ngài đem lại ơn cứu độ cho nhiều người bằng cách thí mạng sống của mình để đền tội cho tất cả.

Quần chúng đương thời nói Chúa Giêsu là ai ?

Bài Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh Đức Giêsu đang đi qua miền đất Xêdarê Philipphê, tức là miền đất của dân ngoại. Tại đây, Ngài hỏi các môn đệ : « Người ta bảo Thầy là ai ? » (Mc 8,28). Chắc chắn, khi hỏi các môn đệ như vậy, Đức Giêsu không hề có ý « thăm dò » xem mức độ « ảnh hưởng » của mình trên dân chúng tới đâu. Nhưng qua câu hỏi đó, Ngài muốn cho dân chúng cũng như các môn đệ ý thức đúng vai trò Mêsia của Ngài. Theo lời của dân chúng, “Kẻ bảo Ngài là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc 8,28).

Nếu dân chúng nhận xét như vậy về Đức Giêsu, cũng là điều không mấy khó hiểu. Bởi vì, trong con mắt của họ, Đức Giêsu làm sao có thể là Đấng Mêsia được ? Bởi vì, Đấng Mêsia phải là người đánh Đông, dẹp Bắc; quyền năng cái thế, uy lực vô song… Đằng này, Đức Giêsu cũng làm một vài phép lạ, nhưng cách thức hành động của Ngài lại hoàn toàn khác hẳn. Ngài hành động trong ôn hòa, đầy vẻ hiền lành và khiêm nhường; Ngài yêu thương người nghèo, nâng đỡ cô nhi quả phụ, bênh vực những người thấp cổ bé họng… Chính những cách hành xử như thế đã nên cớ vấp phạm cho những người đương thời với Ngài, khiến họ không còn nhận ra Đức Giêsu chính là Mêsia (Đấng Cứu Thế).

Các môn đệ nói Thầy mình là ai ?

Đó là thái độ của những người đương thời, còn các môn đệ của Đức Giêsu thì sao ? Sau một thời gian đi theo Thầy, chắc hẳn, họ phải có những cảm nghiệm sâu xa về Thầy mình. Phêrô lên tiếng, đại diện cho các anh em mình: «Thầy là Đấng Kitô» (Mc 8, 29), có nghĩa là Đấng Mêsia (Đấng Cứu Thế) mà Cựu Ước đã loan báo. Quả là một câu trả lời thật xuất sắc. Trong Tin Mừng Matthêu còn ghi lại rằng, sau câu trả lời của Phêrô, Đức Giêsu đã công khai khen tặng ông (x.Mt 16,17). Tuy nhiên, Ngài còn cho biết thêm, sở dĩ Phêrô nói được như vậy, là vì bởi Thiên Chúa đã ban cho ông, chứ thực ra, ông chẳng hiểu gì về Thầy mình cả. Bằng chứng là ngay sau khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Phêrô đã công khai ngăn cản Thầy không nên đi vào con đường Thập Giá.

Có thể cụm từ «Đức Giêsu là Đấng Kitô» khá quen thuộc đối với chúng ta, nên chúng ta không thấy được sự khác biệt. Còn theo cách hiểu của người Dothái, Đấng Kitô (phiên âm từ chữ Christos) hay Đấng Mêsia (Hy lạp) là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong để làm vua với nhiệm vụ giải thoát muôn dân khỏi ách lầm than. Nên dọc dài những năm tháng thời Cựu Ước, dân Chúa hằng ước mong, một ngày kia, Đấng Kitô sẽ đến.

Các môn đệ cũng là những người Dothái, nên không dễ dàng thoát khỏi tâm thức về Đấng Mêsia chính trị. Chẳng thế mà trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không ?” (Cv 1,6).

Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ. Bề ngoài, xem ra các ông cũng đã tin, nhưng giấc mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông. Thế nên, việc Đức Giêsu lựa chọn con đường thập giá là điều khiến các ông không thể dễ dàng chấp nhận.

Chúng ta nói Đức Giêsu là ai ?

Khi hỏi «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?» Chắc hẳn, Chúa Giêsu không hề muốn lắng nghe nơi chúng ta một câu trả lời mang tính lý thuyết, hay giáo điều, nhưng là một câu trả lời phát xuất từ tận sâu thẳm tâm hồn của mình.

Cũng như vị Tông đồ Phêrô, có thể khi vui, chúng ta sẵn sàng tuyên xưng «Đức Giêsu là Đấng Kitô». Thế nhưng, cũng có thể ngay sau đó, chúng ta lại quay ra từ chối Chúa, hay thậm chí là lên án Chúa như thái độ của những người Do thái trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh.

Chỉ biết Đức Kitô trên phương diện lý thuyết mà thôi, e rằng chưa đủ, mà còn phải «biết» Ngài trong thực hành nữa. Lời thánh Giacôbê trong bài đọc II hôm nay như nhắc nhở chúng ta : «Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì ? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ? » (Gc 2,14-16).

Mãi mãi Đức Giêsu vẫn là một dấu hỏi cho mọi người ở mọi thế hệ. Để có được câu trả lời đầy đủ và chính xác về Ngài, là điều không đơn giản. Đức Kitô là ai ? Có thể đối với một số người, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thầy dạy, là Đấng Cứu Độ tôi. Đối với người khác, Đức Kitô là gia nghiệp, là viên ngọc quý mà tôi phải bán tất cả gia tài để mua lấy. Đối với người khác nữa, Đức Kitô, có chăng, cũng chỉ là một «ngân hàng» ơn phúc, để khi cần đến Ngài, thì chạy đến xin xỏ; cũng có khi, Ngài đơn giản chỉ là một vị Thiên Chúa được «hóa mình» vào trong bức tượng, để tôi đặt trên bàn thờ, rồi đứng xa xa nhìn ngắm…

Vậy giờ này, đối với tôi, Đức Kitô là ai vậy ? Xin được dành cho mỗi người tự trả lời.

Về mục lục

.

CON BẢO THẦY LÀ AI?.

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai? ” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8, 27-28).

Như thế, người Do-thái đương thời không biết đích xác Chúa Giê-su là ai. Họ tưởng Ngài chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Ngài là ngôn sứ Ê-li-a xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Ngài là một ngôn sứ nào đó.

Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giê-su quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? ” Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8, 29).

Thế là ngoài Phê-rô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giê-su. Phê-rô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.

Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Ngài muốn chúng ta bày tỏ nhận định của ta về Ngài: “Về phần con, Thầy là ai đối với con?”

 

Thầy là Thẩm phán khắt khe

Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng Chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một vị Thẩm phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giê-su, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ Chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ.”

Thầy là một vị Thần tài

Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một ông Thần tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hoa trái hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”

Thầy là tấm phao cứu hộ

Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giê-su là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Ngài… Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ cần đến Ngài như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao!”

Thế là đối với một số người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm phán khắt khe, một Thần tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giê-su: “Dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)

Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Ngài nhận định về Ngài như thế.

Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Ki-tô là ai, Chúa Giê-su liền bày tỏ cho họ biết Ngài chính là Đức Ki-tô, nhưng không phải là một “Đức Ki-tô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Ki-tô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Ngài tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31).

Ước gì, đừng có ai trong chúng ta xem Chúa là Thẩm phán khắt khe để rồi đến với Chúa vì sợ bị phạt chứ không vì lòng yêu mến; thờ Chúa như Thần tài để xin ân huệ  và lợi lộc cho mình hoặc xem Chúa như tấm phao và chỉ tìm đến Chúa khi gặp gian nan nguy khốn.

Dostoyevsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giê-su làm thần tượng của mình và đã tuyên xưng:

“Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu  xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Ki-tô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Ki-tô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Ki-tô hơn là chiều theo chân lý” ( Thư gửi bà Von Vizine ).

Lạy Chúa Giê-su,

Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:

Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.

Vì thế, con xin chọn Chúa làm thần tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.

Về mục lục

.

GIỜ NÀY ĐỐI VỚI TÔI ĐỨC KITÔ LÀ AI?

Lm. Giuse Nguyễn

Nếu có lần nào chúng ta nghe những câu hát: “Giờ này, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi? Giờ này đối với tôi Ngài còn là Ngài hay thôi? Là một chiếc bóng bên đường, một lần cất bước đi qua, để lại thoáng chút dư âm, và rồi lòng quên hay nhớ?” thì có lẽ thêm một lần chúng ta tự hỏi mình: “Giờ này đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?” Hôm nay, một lần nữa Đức Kitô chất vấn chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Mỗi người sẽ có câu trả lời cho riêng mình tùy vào mối thân tình giữa chúng ta với Đức Kitô. Nhưng hôm nay chúng ta hãy để cho lời Chúa thấm nhập vào tâm hồn, để xem có những câu trả lời như thế nào về câu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”,sau đó hãy tự trả lời cho chính mình: “Giờ này đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài Đọc I: Is 50,5-9a

Tiên tri Isaia cho chúng ta thấy khuôn mặt của Đấng Messia không phải theo quan niệm của người Do Thái: sức mạnh, cai trị… để giải thoát dân tộc của họ. Hoàn toàn là một cái nhìn chính trị. Nhưng  Đấng Messia của Thiên Chúa lại chịu nhiều đau khổ, bị người ta bắt, kết án, sỉ nhục, đánh đòn, phun nước miếng vô mặt… và giết chết. Để từ đó cho chúng ta thấy, nếu theo Chúa để tìm vinh quang thì sẽ không bao giờ gặp đươc. Mà theo Chúa là theo một Đức Kitô chịu đóng đinh.

Tin Mừng: Mc 8,27-35

Đức Kitô đến trần gian để loan báo cho người ta biết sự thật về Thiên Chúa. Sự thật đó được nhận biết qua mặc khải về bản thân của Ngài. Vì vậy hôm nay Ngài muốn trắc nghiệm xem sự nhận biết của người ta như thế nào về Ngài, để từ sự nhận biết đó Ngài đưa họ đến hành động cụ thể; kẻo nếu nhận biết sai trái sẽ dẫn đến hành động sai trái. Sau khi nghe người khác nói: “Thầy là Gioan Tẩy Giả, Thầy là ông Êlia, Thầy là một tiên tri khác…” Đức Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đó mới là điều quan trọng, niềm tin của chúng ta không phải là nói theo người khác, nhưng dựa trên tuyên xưng của chính mình. Tuy nhiên chính sự xác quyết của người khác sẽ giúp cho chúng ta thêm xác tín mạnh mẽ hơn, vì không phải 1 mình tôi tin như vậy, mà có những con người đã tin, và dám sống điều đó. Xác quyết đó không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng hành động của cả cuộc sống mình, giống như lời nhắc nhở của thánh Giacôbê: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”.

Từ phụng vụ lời Chúa hôm nay, có thể nói cuộc đời chúng ta là một hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Đối với tôi, Đức Kitô là ai vậy?” Vì cách sống của chúng ta là tùy thuộc vào câu trả lời cho câu hỏi này.

ĐỐI VỚI TÔI, ĐỨC KITÔ LÀ AI?

Sẽ có nhiều câu trả lời cho câu hỏi này. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế cuộc sống, chúng ta thấy có những khuynh hướng trả lời như sau:

  1. Đức Kitô chẳng là gì hết:

Có những người cho rằng Đức Kitô chẳng là gì hết, chỉ là một thứ thuốc phiện mà người ta đặt ra để dụ dỗ một số người ngu dốt, mê muội. Chính vì người ta nghĩ như vậy nên người ta hành động như không có Thiên Chúa trong cuộc đời họ. Họ mặc sức làm những chuyện sai trái, tội lỗi mà chẳng nghĩ đến hậu quả, bởi vì họ cho rằng không có Thiên Chúa, chỉ có đời này nên phải lo ăn chơi, hưởng thụ, càng nhiều càng tốt. Đối với những người đó, chúng ta phải trả lời sao cho họ đây? Không trả lời gì cả, vì dù có nói họ cũng chẳng nghe, họ đã « bưng tai, bịt mắt » nhưng tôi chỉ xin kể hai câu chuyện rất quen thuộc.

Câu chuyện thứ nhất: Có một chàng sinh viện bị khủng hoảng đức tin. Trong những lúc buồn bã anh ta bước lang thang đến ngôi thánh đường cổ ở Paris. Tình cờ anh ta thấy một bóng người thấp thoáng trong nhà thờ, thì ra đó là nhà bác học Amper. Đợi cho ông cầu nguyện xong, ra về, anh ta lủi thủi bước theo cho đến tận căn phòng của ông ở một trường đại học danh tiếng nước Pháp. Anh ta đến nói: “Thưa thầy con là một người công giáo, nhưng hiện tại con không muốn tin gì hết. Con muốn hỏi thầy, một bậc thầy đáng kính không chỉ của riêng con, mà còn của rất nhiều người: vừa là một nhà khoa học vĩ đại, vừa cầu nguyện có được không?” Nhà bác học nhìn anh ta một cách trìu mến rồi trả lời: “Con ơi, người ta chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện thôi!”. Người ta chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện. Một nhà bác học được cả nhân loại nhìn nhận mà còn xác quyết như vậy, thì không biết những con người khôn ngoan với bằng cấp của thời đại bây giờ, họ cho rằng không có Thiên Chúa, họ không cần cầu nguyện, vậy họ sẽ trở nên vĩ đại khi nào đây?

Câu chuyện thứ hai cũng gần giống như vậy: Trên chuyến xe lửa, chàng thanh niên ngạo mạn ngồi gần một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu lăn bánh, ông già rút trong túi ra cổ tràng hạt và lần chuỗi. Chàng sinh viên rất bực bội trước thái độ của ông già, nhưng cũng cố gắng thinh lặng vì lịch sự. Càng về sau anh ta chịu không nổi, nên đã lên tiếng: “Thưa ông, cho tới bây giờ ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí này hả?” Ông già đáp: “Đúng vậy, tôi vẫn tin, và đây không phải là chuyện nhảm nhí! Còn cháu?” Chàng thanh niên trả lời: “Lúc nhỏ cháu có tin, nhưng bây giờ nhờ khoa học mở mắt nên cháu thấy đó là những chuyện nhảm nhí. Ông cứ tin cháu đi, rồi hãy khám phá khoa học thật nhiều, ông sẽ thấy những thứ ông tin từ trước đến giờ chỉ là nhảm nh픓Vậy cháu có cách nào giúp ông không?” “Ông cho cháu địa chỉ đi, rồi cháu sẽ gởi sách vở, tài liệu để giúp ông thấy từ trước đến giờ ông tin những thứ nhảm nhí”. Cụ già từ từ rút trong túi ra tấm danh thiếp đưa cho chàng thanh niên, sau khi xem qua, chàng xanh mặt và lặng lẽ rời khỏi toa tàu. Tấm danh thiếp ghi: Luis Pasteur, viện trưởng viện hàn lâm khoa học Pháp.

Khi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đặt chân đến Liban ngày 14/09/2012, nơi mà những nhà quân sự khuyên ngài không nên đến vì tình hình an ninh, ngài vẫn đến và đã phát biểu: “Sự có mặt của tôi nơi đây muốn nói lên rằng: Thiên Chúa vẫn hiện diện và ban bình an cho anh chị em”. Đó cũng là câu trả lời của chúng ta cho những người không tin vào Thiên Chúa, xem Đức Kitô chẳng là gì trong cuộc đời của họ: Dù họ có khép chặt lòng mình lại, thì Thiên Chúa vẫn hiện diện và ở ngay chính trong tâm hồn của họ. Nếu bây giờ họ cố tình chối bỏ, thì đến ngày sau hết, họ sẽ sáng mắt ra.

  1. Đức Kitô là một vị “thần như ý”:

Có những người lại xem Đức Kitô như một vị “thần như ý”. Họ nhìn nhận Ngài có quyền năng, nhưng để phục vụ họ. Khi họ cần tiền, Ngài phải ban giống như thần tài. Khi họ cần tình, Ngài phải se duyên kết ước, giống như thần tình duyên. Khi họ cần trúng mùa, Ngài phải cho họ trúng giống như thần nông. Nói chung họ cần gì Ngài phải ban. Nếu ngoan ngoãn làm đẹp lòng họ, thì họ sẽ tế lễ cho Ngài rất hậu hĩnh, còn nếu không thì họ sẽ tìm đến với những vị thần khác.

  1. Đức Kitô là Chúa của tôi:

Tuy nhiên còn có những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa, là chủ của cuộc đời họ, nên họ sống theo những gì Ngài chỉ dạy. Họ tin Đức Kitô sẽ dẫn họ đến bến bờ hạnh phúc thực sự, vì vậy mà họ đã phó thác cuộc đời mình trong sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa. Điều họ tìm kiếm không phải là những thứ thoải mái, dễ chịu theo ý riêng mình giống như Phêrô, nhưng là làm sao để sống theo ý Chúa, dù cuộc đời có như thế nào đi chăng nữa. Và quả thật đó là con đường mà Đức Kitô muốn chúng ta đi, con đường thập giá. Nhưng sau thập giá đó là vinh quang Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai trung thành với Ngài.

Qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự chất vấn chính mình để nếu chúng ta có những cái nhìn sai trái về Chúa, thì hãy sửa đổi, trước hết là nhận thức, sau đó là cuộc sống của chúng ta. Với nhận thức Đức Kitô chính là Đấng được Chúa Cha sai đến để chỉ đường dẫn lối cho chúng ta về cùng Thiên Chúa, từ đó dẫn đến hành động đi theo Đức Kitô bằng cách rập khuôn đời mình với Ngài. Xin ơn Chúa giúp để mỗi ngày chúng con bước theo Chúa ngày càng sát gót hơn, hầu có thể theo Chúa vào hưởng gia nghiệp dành cho những kẻ thuộc về Ngài.

Về mục lục

.

SỨ MỆNH ĐẦY THỬ THÁCH CỦA ĐẤNG KITÔ

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi  

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 50:5-9a;  Gc 2:14-18;  Mc 8:27-35)

Như chúng ta biết, mục đích chính của Tin Mừng Mác-cô là trình bày sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Các học giả Kinh Thánh đã gọi sứ mệnh này là “bí ẩn về Đấng Mê-si-a” (messianic secret), vì Chúa Giê-su thường cấm ma quỷ cũng như những kẻ được Chúa chữa lành, thậm chí cả đến các tông đồ như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, không được tiết lộ Người là Đấng nào.  Bí mật ấy đã được giới thiệu ngay trong câu đầu tiên của sách Tin Mừng Mác-cô:  “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa”.  Bí mật được tiếp tục trình bày suốt mười lăm chương sách, để cuối cùng được công bố trọn vẹn qua lời tuyên xưng của viên sĩ quan Rô-ma, người đã chứng kiến Chúa Giê-su tắt thở trên thập giá:  “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.  Đó cũng là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.  Cả ba bài đọc đều nói lên sứ mệnh Đấng Ki-tô mà Chúa Giê-su đã thi hành và hoàn tất với cái chết trên thập giá và sự phục sinh của Người.

Trước hết, bài Tin Mừng nói về sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Cả ba sách Tin Mừng Nhất lãm đều kể lại Chúa Giê-su đã ba lần báo trước cho các môn đệ biết về cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Người:  “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”.  Sứ mệnh của Chúa Giê-su dĩ nhiên khởi đầu ngay từ giây phút Ngôi Lời nhập thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a và làm người phàm cư ngụ giữa chúng ta.  Sứ mệnh ấy tiếp tục và trở thành công khai khi Chúa Giê-su lên đường rao giảng Tin Mừng, làm phép lạ để chữa lành rất nhiều người và xua trừ ma quỷ.  Những “thành công” và nổi tiếng của Chúa đã làm cho các môn đệ Người khó có thể chấp nhận những điều Người báo trước về cái chết và sự sống lại của Người.  Đó cũng chính là những gì chúng ta đọc được trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù ông Phê-rô vừa được Chúa Cha mặc khải cho biết Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô”, vậy mà ông vẫn mạnh mẽ phản đối, không chấp nhận việc Chúa sẽ “bị giết chết”!  Đây không chỉ là một thách đố cho Phê-rô và các tông đồ khác, mà cũng là một thách đố cho chính bản thân Chúa Giê-su nữa.  Người đã phải chiến đấu với cám dỗ làm “đấng ki-tô trần thế”, tức một lãnh tụ sẽ cai trị Ít-ra-en.  Sau phép lạ bánh hóa nhiều, thấy dân chúng muốn tôn mình lên làm vua (Gio-an 6:15), Chúa Giê-su đã chống trả thách đố bằng cách “lánh mặt, đi lên núi một mình” để cầu nguyện cho khỏi sa chước cám dỗ!  Cám dỗ ấy vẫn tiếp tục đeo đẳng Chúa Giê-su cho đến phút lìa đời, khi kẻ thù thách Người:  “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mát-thêu 27:40).  Chúa Giê-su đã không xuống, vì Người chỉ muốn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa mà thôi!

Vậy Chúa Giê-su đã chiến thắng cám dỗ như thế nào?  Bằng cách nắm chặt lấy niềm tin vào tình yêu và sự phù trợ của Thiên Chúa Cha.  Đúng vậy, ngôn sứ I-sai-a đã mô tả đức tin của Người Tôi Trung.  Đức tin đã giúp cho Người Tôi Trung chịu đựng được mọi thứ bách hại của kẻ thù.  Nào là “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu”.  Nào là “không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”, thậm chí “trơ mặt ra như đá” và “sẽ không phải thẹn thùng”.  Đức tin đã trở thành khiên thuẫn để Người Tôi Trung dám thách thức kẻ thù:  “Ai tranh tụng với tôi?  Cùng nhau ta hầu tòa!  Ai muốn kiện cáo tôi?  Cứ thử đến đây coi!  Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?”  Chúa Giê-su chính là Người Tôi Trung của Thiên Chúa!  Những hình ảnh do ngôn sứ I-sai-a tiên báo về cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô đã được thể hiện từng nét.  Trong cuộc Thương Khó kinh hoàng, Chúa Giê-su đã nhẫn nhục và yên lặng, yên lặng của tình yêu, quảng đại, hy sinh và hoàn toàn phó thác trong bàn tay Chúa Cha.  Nói tóm lại, tin vào tình yêu Thiên Chúa Cha chính là bí quyết để Chúa Giê-su trung thành thực thi và chu toàn sứ mệnh Đấng Ki-tô vậy.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Nếu lắng nghe cả ba bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, có lẽ chúng ta sẽ thắc mắc:  phải chăng bài đọc 2 hôm nay lạc điệu hoặc không đúng chỗ?  Ngôn sứ I-sai-a và Tin Mừng Mác-cô thì nói về sứ mệnh Đấng Ki-tô, còn thánh Gia-cô-bê lại nói về đức tin có hành động.  Nhưng không phải là sai chỗ đâu!  Vì thánh Gia-cô-bê đã học được bài học về đức tin của Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó của Chúa và thánh tông đồ muốn chia sẻ bài học ấy với chúng ta đấy.  Khi đặt câu hỏi:  “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì?”, thánh Gia-cô-bê mời chúng ta hãy nhìn vào đức tin của Chúa Ki-tô lúc Người chịu cuộc Thương Khó, để chúng ta nhận ra được những “ích lợi” Chúa Giê-su đã đem lại cho toàn thể nhân loại mọi thời mọi nơi.  Ích lợi ấy là chúng ta được thay đổi thân phận từ nô lệ tội lỗi để trở nên con Thiên Chúa, rồi được sống sự sống mới trong hành trình tiến về nhà Cha trên trời.

Chúa Ki-tô để lại cho chúng ta gương mẫu đặt niềm tin vào Thiên Chúa để chu toàn sứ vụ đầy thử thách.  Còn thánh Gia-cô-bê thì thách thức chúng ta lấy hành động minh chứng cho đức tin:  “Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”.  Vậy chúng ta sẽ có những hành động nào để những người chung quanh thấy thế nào là tin?

Về mục lục

.

NGƯỞI CÓ ĐỨC TIN THẬT

Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17)

  Người có đức tin gọi là người TÍN HỮU. “Tín” ở đây có nghĩa là “Tin”. “Hữu” ở đây có nghĩa là “Có”.Người tín hữu là người có đức tin. Nhưng có đức tin thôi chưa đủ, còn phải hành động theo đức tin nữa, mới có ích lợi và lãnh nhận được ơn cứu độ.

  Thánh Gia-cô-bê nói: “Anh em bảo rằng mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì. Đức tin đó có thể cứu người đó được chăng?” (x. Gc 2,14). Câu trả lời chắc chắn là không.

Thánh Gia-cô-bê xác quyết: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”. “Đàng khác, có người sẽ bảo: Bạn, bạn có đức tin, còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động. Còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (x. Gc 2,18).

Tin mà không hành động là thế nào ?

  Tin mà không hành động thì chỉ là tin trên giấy tờ; tin trên môi, trên miệng; hoặc tin trong nhà thờ chứ không có trong cuộc sống; Hay tin mà không chấp nhận đau khổ.

  Tin trên giấy tờ là chỉ có rửa tội, xong là thôi và cuối cùng là nghi thức an táng. Chỉ có tên trong sổ rửa tội, chứ không sống đức tin, không sống điều mình tin.

Tin trên môi, trên miệng nghĩa là chỉ tin Chúa trong nhà thờ. Trong nhà thờ thì dâng lễ sốt sắng; đọc kinh sang sảng, nhưng lạikhông sống đạo trong gia đình, trong những nơi mình làm việc.

  Tin mà không chấp nhận đau khổ như trường hợp của Phê-rô trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa hỏi: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Phê-rô mau mắn trả lời: Thầy là Đấng Ki-tô. Thế nhưng Chúa nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các Kỳ mục, Thượng tế cùng Kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”.

Nghe thấy đau khổ và bị giết là Phê-rô “liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người”. Nhưng Chúa trách lại ông và nói: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư thưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của loài người”. Chính xác là tư tưởng của Xa-tan. Vì Xa-tan không chấp nhận một Thiên Chúa làm người và con người thì không chấp nhận đau khổ và chết.

  Con người chúng ta là thế. Chúng ta chấp nhận theo Chúa nhưng không chấp nhận từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Chúa. Nghĩa là theo Chúa thì OK; nhưng từ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa thì “quên đi”. Theo Chúa, rửa tội thì được, chứ từ bỏ mình, từ bỏ ý riêng mình, mà theo ý Chúa, sống Lời Chúa hằng ngày; lại vác thập giá, chịu đau khổ, chịu sỉ nhục, chịu thiệt thòi nữa thì hơi “bị khó” đấy.

  Đó là típ người tin mà không hành động. Những người tin mà không có hành động là đức tin chết. Coi như là không có đức tin; đức tin chết rồi còn đâu. Giống như khi ta chết, ta không nhúc nhích, ta không cử động được gì vậy. Đức tin chết là đức tin không có hành động, không có việc làm, nghĩa là ta không làm, không hành động vì đức tin.

 Còn tôi, tôi hành động để bạn thấy thế nào là tin. Hành động thế nào?

Tôi không chỉ muốn được rửa tội, mà còn muốn sống đời làm con Chúa nữa. Từ ngày tôi được rửa tội hay từ ngày tôi có trí khôn cho đến khi tắt thở, tôi sống với tư cách là con cái Chúa trong cuộc sống của tôi, từ trong tư tưởng, lời nói và việc làm; dù ở nhà thờ hay tại tư gia hoặc nơi tôi làm việc.

Tôi đến nhà thờ dự lễ, nơi đó tôi nghe Lời Chúa và tôi đem Lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của tôi. Tôi không cần nói hay tỏ ra tôi là người tín hữu, nhưng qua lời nói, việc làm; qua cuộc sống của tôi, mà người ta nhận ra tôi là người tín hữu.

  Điểm nổi bật và quan trọng là khi gặp khó khăn, đau khổ, thất bại, bệnh tật; tôi không kêu ca, không phàn nàn, không trách móc ai, cũng không trách móc Chúa: tại sao để tôi phải khổ thế này!!! Tôi chấp nhận tất cả. Đó như là thập giá tôi vác để theo Chúa.

  Khi được sự lành, khỏe mạnh, thành công, cám ơn Chúa, cám ơn Trời Phật thì ai làm cũng được, dễ; nhưng khi gặp sự khốn khó, đau khổ, bệnh tật, thất bại mà cám ơn Chúa, cám ơn Trời Phật thì không dễ chút nào. Chỉ có những người có đức tin mạnh mới làm được thôi.

  Điều đó có kỳ cục và hoang tưởng không ? Nếu ta nói với người đau khổ, thất bại, bệnh tật, hãy tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời Phật đi, thì đúng là kỳ cục và hoang tưởng. Nhưng tự bản thân người đó tin tưởng và tạ ơn Chúa thì điều đó mới là tuyệt vời.

  Vấn đề là khi gặp những khó, những thất bại và những bệnh tật ta có thể tạ ơn Chúa được không ? Được chứ. Ta tạ ơn Chúa vì qua đó Chúa cho ta biết và ta cũng nhận biết rằng, ta là con người hèn mọn và yếu đuối, để ta càng tin tưởng vào Chúa hơn. Điều đó không tốt sao ? Điều đó ta không làm được sao ? Điều đó trong khả năng của con người. Có điều ta có chấp nhận, tin tưởng và làm hay không. Và người nào có đức tin và sống điều mình tin thì sẽ làm được việc này cách dễ dàng.

  Thực tế cho thấy, chỉ khi nào gặp những khó khăn, những thất bại, những bệnh tật, ta mới chạy đến Chúa; mới cầu Trời khấn Phật thôi. Khi khỏe mạnh, thành công và được may mắn thì ta thường kiêu ngạo, tự cho mình đã làm nên tất cả, chẳng biết Chúa là ai, cũng chẳng tạ ơn Ngài bao giờ. Hèn chi mà Chúa thường để cho ta gặp khó khăn, đau khổ và bệnh tật, để ta biết khiêm nhường và nhớ đến Chúa. Theo tôi, rất có thể là như vậy !!!!!!!

  Điều đó không có nghĩa là nếu ta tin Chúa và sống đức tin đó là ta sẽ không gặp khó khăn, không có đau khổ, không thất bại và không có bệnh tật. Nếu ta có đức tin và sống đức tin, thì khó khăn, thất bại, đau khổ, bệnh tật, có là chi; cũng bình thường thôi mà. Đó là cuộc sống. Thế mới là đời và đời là thế !!!! Không có thất bại, không có đau khổ, không có khó khăn, không có bệnh tật chỉ có trên thiên đàng mà thôi. Còn ở thế này thì ta đừng có mơ. Lo mà kiếm đường vào thiên đàng thôi.

  Bởi đó, là người tín hữu, ta phải biết dùng lý trí để hiểu biết và sống những điều ta tin và sống trong đức tin. Tức là ta tìm cách lý giải điều mình tin; Lời Chúa mà mình nghe. Có thế đức tin của ta ngày càng mạnh, giúp cho ta vượt qua những khốn khó ở trần gian này và mai sau ta được vào thiên đàng sống mãi mãi hạnh phúc với Chúa. Đó là người có đức tin thật. Đừng có chỉ tin ở cái miệng, trên giấy tờ hay trong nhà thờ mà không có hành động. Vì đức tin đó là đức tin chết, không giúp ích gì cho ta đâu.

Về mục lục

.

CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?

Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin mừng hôm nay đặt ra cho con một dấu hỏi rất lớn “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Có người cho rằng đọan  trích của Thánh Macco cho thấy Đức Giêsu là một diễn giả rất đáng khâm phục, một nhà tâm lý lỗi lạc đáng để các nhà sư phạm, những nhà họat động xã hội, những người lãnh đạo một tổ chức trong đạo, ngòai đời noi theo cung cách của Người. Đó là sau một thời gian giảng dạy, họat động thì lui vào một nơi nào đó để chiêm nghiệm, nhìn lại mình. Suy đi nghĩ lại về những việc đã làm, đã nói, đã sống hầu rút ra những bài học kinh nghiệm. Đến miền đất Xê-da-rê  Phi-lip-phê, một nơi thị tứ, khi ấy đang nổi lên phong trào xưng danh của những nhân vật đương thời trong xã hội, muốn trở thành các lãnh tụ hầu tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng trong vùng. Đức Giêsu đã làm một cuộc thăm dò  bỏ túi, Người hỏi các học trò  về dư luận của dân chúng, những người đi theo Chúa, những người đang cư ngụ  những nơi Người đến rao giảng: “Người ta nói Con Người là ai? ”. Một cách thành thật nhà Đạo, các ông nhanh nhảu phản ánh: “ Kẻ thì nói (Thầy) là Ông Gioan Tẩy giả , người khác lại cho là Ông Êlia hay một trong những vị ngôn sứ “, những vị cao trọng,  có uy tín trong dân Israel.

Thực ra Đức Giêsu không làm động tác phỏng vấn theo kiểu trò chơi Games Show: “ Chung Sức “ như trên Truyền hình HTV hôm nay, xem có bao nhiêu người đồng ý về một nhận định nào đó? Người muốn các tông đồ nói lên suy nghĩ của bản thân sau những ngày theo Chúa, được Người dạy dỗ, từng chứng kiến việc Người đã làm, đã sống. Người hỏi các ông: “ Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?”Một câu hỏi không dễ trả lời. Các ông đã nhận ra Người là đấng có uy quyền. Thiên hạ, những người chỉ đi theo, chỉ nghe tiếng Người, chỉ một vài lần chứng kiến phép lạ Chúa làm mà còn lên tiếng ca ngợi, cho rằng Đức Giêsu, một vị ngôn sứ trong dân ISRAEL đã tái thế. Họ nói  dưới nhãn quan của họ. Nếu không phải các bậc xuất chúng, cao trọng trong dân mà họ được biết đến trong kinh Thánh, thì không thể rao giảng và làm những điều lạ lùng như thế. Còn các tông đồ,  đại diện là Phêrô,  đã nói lên điều ông nhận ra nơi Thầy mình: “ Thầy là Đức Kitô“. Phêrô, một người học trò đã nói lên những gì mà ông cảm nghiệm được sau những ngày tháng theo Thầy. Ông không nói theo cách thậm xưng của người đời, không theo kiểu tâng bốc, xu nịnh, đưa Thầy mình lên cao vút theo cung cách ngôn ngữ thời đại hôm nay, thường gọi là những lời có cánh, nhưng là theo lương tâm chân thật của chính mình. Nhưng khi nghe Thầy chí Thánh là Đức Giêsu thố lộ việc Người sẽ phải trải qua: ”Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” thì thật kinh hòang, lo sợ cho Thầy.Phêrô liền kéo riêng Người ra và can ngăn Thầy mình:”Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy “. Tưởng rằng sẽ được Thầy nghĩ lại, hay ít ra nhận được một lời khen, nhưng không ngờ lại gặp phải phản ứng quá mãnh liệt của Thầy :”Xa tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của lòai người “ .

      Lạy Chúa,

Trong cuộc sống trần gian hôm nay, cũng như Phêrô, con luôn tìm cho mình một con đường thông thóang, bằng phẳng, dễ đi. Khi gặp phải sự khó, con vẫn chạy đến cùng Chúa, nhưng thay vì nhìn nhận sự việc, tìm nguyên nhân, tìm phương thế giải quyết thì con lại xin cho con tránh sự khó, đạt điều may. Con lý sự theo cách Phêrô “ xin Chúa thương để con đừng gặp chuyện ấy”. Con luôn  nghĩ Chúa như một vị Thần tài,  sẵn sàng giúp con giải quyết mọi khó khăn theo ý con.Phải chăng đó là những cám dỗ trong cuộc đời khiến con mất lòng tin nơi Chúa? Con chỉ muốn suy bụng mình ra bụng Chúa, muốn ý con là ý Chúa.

Xin cho con biết đón nhận Lời Chúa hôm nay :”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.

Lạy Chúa ! Xin tha thứ những lầm lỗi của con, xin cho biết từ bỏ chính mình, vác thập giá mỗi ngày theo Chúa. AMEN.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Có câu truyện về một cậu bé tên Huy, mồ côi cha rất sớm, lúc vừa được 5 tuổi, và ở với mẹ đang mang một chứng bệnh, tại một khu phố lao động nghèo nàn. Ngày ngày sau khi tham dự Thánh lễ buổi sáng cùng với mẹ, cậu một mình đi vào các tiệm ăn trong phố để đánh giầy cho khách. Mỗi lần khách trả tiền, cậu đều làm dấu Thánh giá cám ơn Chúa. Tụi bạn nhìn thấy thế nhiều lần to nhỏ chế nhạo: “Gạo thì không lo mà lo giữ đạo.”  Nhưng cậu Huy vẫn cứ trung thành, can đảm hiên ngang giữ hình thức cầu nguyện đơn sơ ấy, minh chứng đức tin của mình vào Chúa Ki-tô.

Năm 17 tuổi, cậu được ban văn nghệ khu phố cho đóng vai thằng quỷ trong một vở kịch. Màn đầu vừa dứt, khán giả vỗ tay hoan nghêng nhiệt liệt. Sang màn thứ hai, trời đột nhiên đỗ mưa, sấm sét nổi lên ầm ầm. Như bao nhiêu lần trước, cậu Huy trong vai thằng quỷ trên sân khấu quên mất mình đang đóng kịch, vội quỳ gối xuống làm dấu Thánh giá.  Khán giả cười rồ lên tưởng thằng quỷ làm hề tin vào Chúa, không ngờ cậu Huy cầu nguyện thật! Sau đêm ấy, mọi người trong khu phố hiểu được hoàn cảnh của cậu, họ chung nhau quyên tiền để giúp cậu Huy ăn học. Đến sau, cậu Huy đã lấy được mảnh bằng tiến sĩ lúc mới 30 tuổi, trở nên một nhà giáo dực nổi danh.

Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết trên con đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?”  Dư luận dân chúng rất hoang mang về Người.  Họ chỉ nhận ra một khía cạnh nào đó của Chúa mà thôi.  Đối với họ, Chúa chỉ là một ngôn sứ nào đó như Ê-li-a hay Gioan Tẩy giả.  Nhưng đối với các môn đệ, các ông tin Chúa Giê-su thật là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai.  Vì thế chúng ta thấy sau khi Chúa hỏi các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”, Phêrô đại diện lên tiếng đáp: “Thầy là Đấng Kitô.”  Có nghĩa là các ông biết rõ thân thế và sứ vụ của Người.

Đối với chúng ta hôm nay, Chúa cũng hỏi mỗi người chúng ta: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Có nghĩa là Chúa Giê-su Kitô là ai đối với mỗi người chúng ta. Thật vậy, tất cả chúng ta ngày nay, tuy không được nghe tận tai những lời Chúa giảng dạy, hay chứng kiến những phép lạ Chúa làm, hay được sống gần gũi với Chúa như các môn đệ thời xưa, nhưng chúng ta tin vào Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa và sứ mệnh của Người là cứu độ và ban sự sống đời đời.  Chúng ta thấy vì tin vào Chúa, cậu bé Valentia đã không ngần ngại tuyên xưng đức tin của mình trong đời sống hàng ngày và ngay trong vai diễn trong vở kịch.

Và đặc biệt hơn nữa, hôm nay Chúa cũng hỏi mỗi người chúng ta: “Người ta có biết Thầy là ai không?” Có nghĩa là chúng ta có thể hiện, sống đức tin của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, để những người sống chung quanh nhận ra chúng ta là Ki-tô hữu không?  Sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào hay gặp gỡ ai, người ta có nhận ra chúng ta là Ki-tô hữu không?  Lời nói, thái độ, cách cư xử và việc làm của chúng ta có chứng tỏ cho mọi người biết chúng ta là Ki-tô hữu không?  Chúng ta không phải tự xưng, tự tuyên bố, hay tự giới thiệu mình, mà dùng chính đời sống Ki-tô hữu chính đáng khiến người khác cảm phục và nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Ki-tô trong chúng ta.

Sau khi hỏi các môn đệ “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”, Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ thực hiện sứ vụ thiên sai của Người như thế nào: sẽ bị chống đối, vu khống, bắt nộp cho người đời, sẽ bị hành hạ, vác thập giá và chịu chết nhục nhã rồi mới phục sinh sống lại trong vinh quang.  Chúng ta thấy môn đệ Phêrô đã can ngăn Chúa đừng chấp nhận con đường đau khổ, nhưng Chúa đã mắng trách Phêrô: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người.”  Sau đó, Chúa nói với dân chúng và các môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình.”

Chúng ta thấy tất cả mọi sự đã diễn ra đúng ý như lời Chúa nói. Chúa đã đi đúng con đường thập giá để thể hiện sứ vụ cứu độ nhân loại, và đó cũng là con đường của tất cả mọi Ki-tô hữu.

Chúng ta biết từ xưa đến nay có một vấn đề khó khăn, nan giải làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Con người chúng ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt.” Hay chúng ta thường nghe ví: đời là bể khổ, vì sao vậy?  Từ xưa đến nay các nhà hiền triết đã nát óc để tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng chỉ vì muốn tìm một câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi gai góc này.  Thật vậy, nếu không tin vào Thiên Chúa thì người ta không làm sao có thể hiểu nổi vấn đề đau khổ này, và có thể đi đến tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ. Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng.  Chúa Giêsu đến trần gian, chấp nhận chịu đau khổ để gánh lấy tội lỗi nhân loại. Người đã dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc. Vì thế nhờ sự chết và sống lại vinh quang của Người chúng ta được cứu rỗi và tìm được ý nghĩa, giá trị của sự đau khổ ở đời này.

Và cũng vì vậy, vác thập giá đi theo con đường Chúa đã đi là chấp nhận hy sinh, chịu thiệt thòi quên mình để trở thành chứng nhân cho Chúa, trở thành khí cụ, trở thành cái máng đem tình yêu, hy vọng, Tin mừng và ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người. Vác thập giá là luôn trung thành sống Lời Chúa dạy, sống ngay thẳng và công bằng, qua việc làm tốt lành, bác ái, hy sinh và quảng đại, với một tâm hồn khiêm nhường và chân thật, khiến người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Ki-tô, đang sống trong chúng ta và tin nhận biết Chúa.

Về mục lục

.

 

.

ĐỨC TIN VÀ THẬP GIÁ

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong hành trình cuộc đời, đôi lúc chúng ta cần có những phút giây tĩnh lặng để xác định mình là ai trong xã hội mênh mông phức tạp. Trong đời sống Đức tin, có khi chúng ta cần hồi tâm suy tư để nhận ra ý nghĩa sự hiện diện của Đấng chúng ta tôn thờ. Xác định mình là ai trong cuộc sống, chúng ta sẽ cố gắng để sống tốt trong đối nhân xử thế; Hiểu rõ Đấng chúng ta tôn thờ, chúng ta sẽ sống Đức tin cách chân thực. Nhờ có Đức tin vững chắc, chúng ta đủ nghị lực vượt lên mọi nghịch cảnh của cuộc đời để thành đạt trong đời sống xã hội và trung thành trong đời sống Đức tin.
 
Các môn đệ đã theo Chúa được khoảng ba năm, vậy mà hôm nay, Người lại đặt cho họ câu hỏi rất bất ngờ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Thì ra mặc dù đã có một thời gian dài làm môn đệ Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn chưa hiểu rõ về thân thế của Thầy mình. Sự lúng túng của các ông đã thể hiện điều này: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” .
 
Xác tín Chúa là ai, đây là vấn đề cốt lõi của Đức tin. Bài thánh ca quen thuộc mang tên “Giờ này Đức Kitô là ai?” đã diễn tả điều đó. Đức Kitô là ai khi tôi vui, khi tôi buồn, lúc tôi đam mê, khi tôi giận hờn, lúc tôi thành đạt, khi tôi thất bại…Người Kitô hữu đích thực là người luôn vững tin vào Chúa và sẵn sàng đón nhận những hoàn cảnh khác nhau của cuộc đời. Trong những lúc hân hoan, họ nhận ra tình thương của Người để tri ân cảm tạ; trong lúc cô đơn sầu khổ, họ nhận ra Người đồng hành để đỡ nâng an ủi. Bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn luôn tin rằng Chúa yêu thương và luôn ở gần bên.
 
“Thầy là Đức Kitô!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của thánh Phêrô. Phêrô thận trọng để cho những anh em khác trả lời dựa trên dư luận của quần chúng xung quanh vấn đề chân tính của Đức Giêsu, và ông là người có tiếng nói sau cùng. Cũng có thể lúc đó, ông mới nhận ra điều ông biết về Chúa là điều chắc chắn.
 
Sau khi các môn đệ có một định nghĩa chính xác về thân thế của Chúa, Người mới tỏ cho các ông biết, Đấng Kitô phải trải qua cuộc thương khó, nhưng sẽ phục sinh. Mác-cô không ghi lại lời khen của Chúa như Matthêu, nhưng ông cũng nhắc lời Chúa khiển trách Phêrô là Satan, khi ông này muốn can gián Chúa về ý tưởng thập giá và khổ nạn. Kể cả sau khi đã tuyên xưng Đức tin, các môn đệ chưa thể chấp nhận được quan niệm về một Đấng Thiên sai khổ nạn để cứu chuộc con người. Nơi Phêrô cũng như nơi mỗi chúng ta hôm nay, chúng ta vừa tuyên xưng Đức tin vào Chúa, đồng thời cũng vẫn gặp khó khăn khi đối diện với thập giá. Đó là lý do tại sao một số tín hữu ngày nay, tin vào Chúa Giêsu mà khước từ thập giá, hoặc chỉ chọn lựa Chúa Giêsu mà loại bỏ thập giá. Chúa Giêsu không có thập giá không phải Chúa Giêsu của mặc khải và cũng không phải là Đấng Cứu độ. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là biểu tượng của sự hận thù, cam chịu và chẳng có giá trị bày tỏ tình yêu. Khi Phêrô có ý khước từ thập giá, Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời và gọi ông là Satan.
 
Lời Chúa hôm nay muốn giúp chúng ta tái khẳng định: Đấng chúng ta yêu mến tôn thờ là Con Thiên Chúa nhập thể, là Đấng Kitô và là Đấng cứu độ con người bằng thập giá. Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn sứ Isaia diễn tả chân dung của Người Tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Người tôi tớ, trong khi chịu bạc đãi, vẫn hy vọng Thiên Chúa là chỗ dựa vững chắc và là Đấng giải thoát những ai tin cậy Ngài.
 
Hành trình cuộc đời còn nhiều gian nan vất vả. Đã là người chẳng có ai tránh khỏi những thử thách. Tuy vậy, trước một khó khăn, người có Đức tin cảm thấy lối thoát nhờ Đấng Tối cao; người vô thần cảm thấy như mình đứng trước ngõ cụt. Người tin Chúa tìm thấy sức mạnh và an ủi; người vô tín thấy mình chơi vơi giữa con sóng biển đời. Đó là ý nghĩa việc Chúa Giêsu nói đến thập giá trong cuộc đời người tín hữu. Chúa Giêsu đã đến trần gian, Người không hủy bỏ thập giá nơi kiếp sống con người, nhưng Người cùng vác thập giá với họ để chia sẻ gánh nặng cuộc đời. Con người không còn đơn lẻ trong chặng đường thập giá, vì có Con Thiên Chúa vác cùng. Sau thập giá là vinh quang của phục sinh.
 
Bạn và tôi, chúng ta đều tin vào Chúa. Tuy vậy, Đức tin vào Chúa không phải là lời nói suông, mà phải được minh chứng bằng việc làm. Thánh Giacôbê đã khẳng định với chúng ta: Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Bài đọc II). Nơi khác, vị tông đồ còn khẳng định mạnh mẽ hơn: Ma quỷ cũng tin vào Chúa và chúng run sợ, nhưng chúng không yêu mến Chúa (x.G 2,20). Chính qua việc làm mà chúng ta chứng tỏ Đức tin sống động và đích thực của Chúng ta.
 
« Các con bảo Thầy là ai? ».  Đó là câu hỏi vẫn đang được đặt ra cho chúng ta hôm nay.

Về mục lục

.

TƯỞNG LẦM

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.

Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.

Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.

Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.

Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.

Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.

Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?

2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa?

3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không?

4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU CÒN CÓ Ý NGHĨA GÌ

TRONG CUỘC ĐỜI TA KHÔNG?

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Một vài năm gần đây, các phong trào bài tôn giáo hoạt động rất mạnh tại Âu-Mỹ. Họ vận động và tìm cách loại bỏ mọi dấu ấn tôn giáo ra khỏi xã hội, biến xã hội trở thành không tôn giáo. Tôn giáo bị các nhóm này nhắm đến nhiều nhất là Kitô giáo. Các nhà làm luật muốn loại bỏ Kitô giáo ra khỏi hiến pháp của Châu Âu, biến Châu Âu thành một khối vô thần. Việc loại bỏ Kitô giáo trên văn bản pháp luật là thể hiện ra bên ngoài việc họ đã loại trừ Chúa Kitô ra khỏi tâm hồn họ từ trước đó.
Đối với nhiều người khác, Chúa Kitô và thập giá của Ngài chỉ còn như một món đồ trang sức mang trên cổ hoặc trên tai, chứ không phải ở trong tâm hồn. Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài cũng không ảnh hưởng và không có ý nghĩa gì trên cuộc đời họ. Những xu hướng nói trên đang là xu hướng ảnh hưởng trên nhiều Kitô hữu chúng ta. Vì quen sống trong sự tự do dễ dãi, con người không dễ dàng chấp nhận để bước theo Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh.
Tin Mừng hôm nay cho thấy, sau một thời gian các môn đệ đi theo Chúa Giêsu, mỗi người với một mục đích khác nhau, hôm nay, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề với các tông đồ : Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? Và ngầm hiểu một câu hỏi khác : Các con theo Thầy để tìm gì ?
Trước khi đặt câu hỏi này cho các tông đồ, Chúa Giêsu cũng đã hỏi các ông về dư luận của quần chúng : Người ta bảo Con Người là ai ? Câu trả lời của các tông đồ cho thấy, dân chúng biết về Chúa Giêsu một cách hết sức mơ hồ, không chính xác : Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, người thì bảo là Êlia hay Giêrêmia hoặc một tiên tri nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng trong mắt người dân, mặc dù đã thấy những việc Chúa làm, nghe những lời Chúa dạy, nhưng họ cho rằng ông Giêsu chỉ giống như một trong các vị ngôn sứ lớn của Cựu Ước mà thôi. Họ chưa tin Ngài là Đấng Mêsisa.
Khác với dân chúng, các tông đồ khi được hỏi, Simon Phêrô đã thay cho anh em tuyên xưng chính xác niềm tin của mình vào Chúa Giêsu : Thầy là Đấng Kitô. Tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, có nghĩa là các tông đồ đã tin Ngài là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa. Lời tuyên xưng của Phêrô thật chính xác. Thánh Mathew khi kể lại câu chuyện này còn cho thấy Chúa Giêsu khen Simon Phêrô. Tuy nhiên, các tông đồ vẫn kỳ vọng vào một Đấng Mesia với vương quyền thống trị của nhà Đavít mà các tiên tri đã loan báo. Trong suy nghĩ của các ông, Đấng Mesia phải xưng vương, tái lập vương quốc Israen, phần các ông hy vọng sẽ được kể là những cận thần, được nhiều bổng lộc.
Chúa Giêsu đã phải điều chỉnh lại suy nghĩ của các tông đồ. Ngài chính là Đấng Mesia, nhưng không phải là Mesia quyền lực. Ngài không đến để thống trị theo kiểu vua chúa trần gian, nhưng Ngài là Đấng Mesia khiêm hạ. Ngài không cứu chuộc nhân loại bằng những cuộc đảo chính hay khởi nghĩa, nhưng đã chọn con đường đau khổ và thập giá. Con Người sẽ bị đau khổ, bị các kỳ mục và kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.
Simon Phêrô đã không dễ dàng chấp nhận như thế, vì trong suy nghĩ của ông và các tông đồ đã mang một Đấng Mesia khác, phù hợp với sở thích của các ông hơn. Vì thế, Phêrô đã phản ứng quyết liệt và còn kéo riêng Chúa Giêsu ra để trách Người. Hành động này chứng tỏ Phêrô muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Ông muốn Thiên Chúa phải đáp ứng mong đợi của mình, thay vì phải đi về phía Thiên Chúa và đáp ứng đòi hỏi của Ngài. Trước hành động của Phêrô, Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói với ông : Satan ! Lui lại đàng sau Thầy. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người.
Lời trách mắng này nghe có vẻ nặng, vì Phêrô đã phạm một sai lầm rất lớn, đó là ông muốn biến mình thành người chỉ đường cho Chúa, đi trước Chúa và trở thành kẻ cản đường Chúa. Vì thế, Chúa muốn Phêrô trở về với đúng vị trí của mình là một người môn đệ, là phải đi sau thầy, nên Chúa nói với ông : Hãy lui lại đàng sau Thầy. Lui lại không chỉ phải trở lại đúng vị trí là môn đệ, mà Chúa còn muốn ông phải thay đổi cả tư tưởng của mình cho phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa. Chỉ khi con người suy nghĩ theo đường lối của Thiên Chúa, thì mới có thể hành động và bước theo Thiên Chúa được.
Có lẽ khi nghe Chúa chỉnh sửa Người Anh Cả Phêrô, các tông đồ khác cũng cảm thấy chạm đến mình, cảm thấy đòi hỏi của Chúa quá lớn. Chúa Giêsu đã đọc được suy nghĩ của các ông, vì thế, Ngài đã đưa ra lời mời gọi : Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo tôi. Chúa không ép buộc, Ngài vẫn để cho con người có tự do chọn lựa nếu muốn. Một khi đã chọn theo Chúa thì chắc chắn không thể không có thập giá : Phải vác thập giá của mình và phải bước theo sau Chúa. Chúa không cần chúng ta vác thập giá của Chúa, nhưng Chúa muốn chúng ta vác thập giá của chính mình. Chúa cũng không muốn chúng ta đi một con đường nào khác, cũng không muốn chúng ta đi đường ngang lối tắt, mà phải đi con đường của Chúa và đi sau Chúa, thì mới có thể đạt được hạnh phúc Nước Trời.
Trong mắt người đời, vác thập giá, bước theo Chúa Giêsu như là sự điên rồ, là vô lý, nhưng đó lại là cái lý lẽ của Thiên Chúa và là thách thức cho những ai muốn : Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì tôi và Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Cuộc sống của con người ngày càng hiện đại, ngày càng tiện nghi. Lời mời gọi của Chúa Giêsu : Ai muốn theo tôi phải vác thập giá mình mà theo, là một thách thức cho mỗi người. Con người luôn muốn tìm kiếm sự dễ dàng thoải mái ; họ muốn một Chúa Giêsu không thập giá, không đau khổ ; họ muốn theo Chúa những không phải từ bỏ, không phải hy sinh. Chính vì thế, ngày nay, người ta đang muốn bỏ Chúa Giêsu để đi theo những tôn giáo khác hoặc những hứa hẹn dễ dàng hơn. Họ muốn tìm kiếm một thứ hạnh phúc có sẵn như mì ăn liền mà không phải cố gắng.
Chắc chắn trong cuộc sống không có một thứ hạnh phúc chân thật nào mà không phải đánh đổi bằng hy sinh vất vả. Hạnh phúc Nước Trời càng không thể có được bằng sự dễ dãi. Chắc chắn rằng, chúng ta không thể tìm kiếm một Đức Giêsu không thập giá và cũng không thể có một thập giá mà không có Chúa Giêsu. Vì nếu Đức Giêsu không thập giá, Ngài sẽ không thể cứu chúng ta, không thể thông cảm và chia sẻ với chúng ta. Và nếu thập giá không có Đức Giêsu thì đó chỉ là sự đau khổ triền miên trong tuyệt vọng, không lối thoát.
Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, thì đồng thời chúng ta cũng phải dám vác thập giá mình để bước theo Ngài. “Tin – theo Chúa” là hai hành động luôn đi liền nhau, vì không thể tin mà không theo và cũng không thể theo mà không tin. Tin Chúa Giêsu là dám để cho Ngài hiện diện và làm chủ cuộc đời của mình, để Ngài chi phối mọi suy nghĩ và hành động mình. Tin Chúa được thể hiện qua hành động yêu thương, bác ái cụ thể chúng ta dành cho nhau, vì đức tin không có việc làm là đức tin chết. Theo Chúa Giêsu là dám làm theo mọi lời giảng dạy của Ngài, sống theo gương sống của Ngài và dám bước đi trên con đường của Ngài. Ngài không chọn sự dễ dãi của thế gian, nhưng Ngài chọn con đường khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa cha.
Lời chất vấn của Chúa Giêsu đối với các tông đồ cũng đang là lời Chúa hỏi mỗi chúng ta : Còn ông bà, anh chị bảo Thầy là ai ? Ông bà anh chị theo tôi để làm gì ? Chúa muốn mỗi người hãy tự trả lời câu hỏi ấy. Chúa Giêsu có thực sự còn là Đấng Cứu Thế trong tâm hồn, trong gia đình tôi nữa hay không ? Nhiều gia đình tuy vẫn còn treo hình ảnh Chúa trong nhà, nhưng đã đuổi Chúa ra khỏi nhà từ lâu. Chúng ta đuổi Chúa ra khỏi nhà, khi chúng ta không còn lòng yêu mến, không dành cho Chúa một giây phút nào trong ngày, không nhớ đến, không cầu nguyện. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói : Một khi bạn có lòng yêu mến Chúa thật sự, bạn sẽ tìm được nhiều giờ để cầu nguyện với Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người mạnh dạn tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, tin tưởng phó thác vào Ngài và để Chúa có một vị trí quan trọng tuyệt đối trong cuộc đời. Cũng xin cho chúng ta can đảm vác thập giá hàng ngày bước theo Chúa. Nhờ tin và bước theo Chúa, chúng ta đạt được hạnh phúc đời đời. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH BẠN LÀ MÃI MÃI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Thành ngữ Việt Nam có câu: “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Lời nói của người xưa đã thành một chân lý. Con người ai cũng cần một người bạn tri kỷ để có thể chia sẻ vui buồn có nhau, và nhất là để giúp nhau vượt qua khó khăn. Một người bạn chân thành không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn- một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng: “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.

Ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, ai cũng biết câu chuyện cảm động về em Đoàn Trường Sinh 10 năm cõng bạn đến trường. Quãng đường tư nhà Sinh đến trường dài hơn 4 ki-lô-mét, qua đèo, vượt suối, khúc khuỷu, ghập ghềnh. Thế mà Sinh không quản khó khăn ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt cả hai chân đi về. Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành, nhiều năm liền, Hanh là học sinh tiên tiến, có năm còn tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.

Tình bạn chân thật thì luôn có nhau trong lúc khó khăn, gian nguy. Vui sướng, giầu sang ở bên nhau thì dễ. Hoạn nạn ở bên nhau mới là tình bạn đáng quý. Cuộc đời có vay có trả. Bạn đã cho ta niềm vui thì khi bạn gặp khó khăn ta hoàn trả cho bạn là lẽ công bằng. Bởi vì, như ai đó đã nói:

“Lẽ nào vay mà không trả?

Sống là cho, đâu chỉ nhận cho riêng mình.”

Các môn đệ năm xưa đi theo Chúa. Chắc chắn các ngài đã được Chúa yêu thương đùm bọc. Chúa Giê-su còn coi các môn đệ là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ. Các môn đệ đã được cùng chia sẻ niềm vui hạnh phúc với Chúa trong những lúc thành công trên đường truyền giáo.

Hôm nay, Chúa đòi các ông thể hiện tình bạn với Chúa không phải lúc Chúa được tung hô khi hóa bánh ra nhiều, hay khi cỡi lừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Chúa đòi các môn đệ thể hiện tình bạn trên chặng đường thập giá để tới Núi Sọ. Chúa bảo rằng: “Ai muốn theo Thầy, thì phải vác thập giá hằng ngày mà theo Thầy”. Khi dám theo Chúa trên con đường thập giá thì Chúa sẽ ban phần thưởng sự sống đời đời cho họ. “Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống”.

Nhưng xem ra tình bạn chân thành với Chúa chẳng mấy ai! Khi Chúa đi vào vườn cây Dầu đã chịu cảnh cô đơn một mình. Các  bạn bè Chúa vẫn ngủ mê. Khi Chúa bị bắt trói thì các môn đệ mạnh ai nấy chạy. Khi Chúa bị dẫn vào dinh Cai-pha thì Phê-rô trối Chúa 3 lần. Khi Chúa vác thập giá lên Núi Sọ chỉ còn một mình Gioan bước theo xa xa.

Xem ra tình bạn với Chúa chỉ có khi nhận được ân huệ của Ngài. Tình người thật hay thay trắng đổi đen. Thế nên, cuộc đời vẫn còn đó những người tôn thờ Chúa khi giầu sang, khi làm ăn thịnh vượng nhưng rồi họ bỏ Chúa khi làm ăn thất bại nợ nần. Cuộc đời vẫn còn đó những người theo Chúa chỉ để mong được sống sung sướng, và rời xa Chúa khi mộng ước của họ không thành.

Xem ra Chúa Giê-su vẫn cô đơn trong dòng đời hôm nay. Ngài rất cần một người bạn tri kỷ như Gioan để đứng bên Chúa khi khó khăn. Ngài vẫn cần sự đồng cảm như Madalena để đi theo Chúa trên đường thập giá.

Ước mong mỗi người chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách sống, cách nghĩ của mình với Chúa. Hãy đến với Chúa không phải vì bổng lộc mà vì tin tưởng vào quyền năng của Chúa để phó thác cho Chúa. Hãy ở lại bên Chúa dầu cuộc sống còn nhiều những khó khăn. Hãy vác thập giá theo Chúa dầu thiệt thòi đời nay nhưng Chúa sẽ ban thưởng cho ta bằng nhiều cách khác nhau, nhất là hạnh phúc thiên đường. Amen.

Về mục lục

.

TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA VS

TƯ TƯỞNG CỦA LOÀI NGƯỜI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của người đời.”

Đoạn Tin Mừng Mác-cô của Chúa Nhật XXIV này đầy mâu thuẫn, hay có vẻ như tư tưởng của Đức Giê-su tự mâu thuẫn với chính mình. Đầu tiên Người muốn nghe các môn đệ báo cáo cho biết người ngoài ca tụng Người thế nào, sau đó các ông lại phải nói lên mình nhìn nhận Người ra sao. “Thầy là Đấng Ki-tô”, môn đệ Phê-rô tuyên xưng. Đoạn tương ứng trong Phúc âm Mát-thêu (16:15-20) cho thấy Đức Giê-su có vẻ như rất hài lòng với câu trả lời này. Người từng công khai đề cao Phê-rô trước các môn đệ khác, tới độ muốn đặt ông làm nền tảng và thủ lãnh của Hội Thánh mà Người sẽ thiết lập. Tuy nhiên ở đoạn văn này phản ứng của Đức Giê-su lại ngược hẳn. Vẫn cùng công thức tuyên xứng đó, thật là long trọng và chính xác trong ngôn từ, nhưng Đức Giê-su cho thấy: suy nghĩ của Người và trong đầu Phê-rô lại rất khác nhau, cách xa như trời với đất, đối nghịch như giữa Thiên Chúa và Xa-tan. Có thể như thế được chăng, cùng một công thức nhưng lại được hiểu rất khác nhau như vậy?

Tư tưởng của loài người: Đối với Phê-rô, cũng như phần đa các người Do Thái đương thời, danh xưng Ki-tô hay Mét-si-a rất gần với nội dung uy quyền và thống trị… trong công lý và hòa bình. Đấng được Xức Dầu đến trần gian để biểu lộ quyền lực tuyệt đối của Đức Chúa Gia-vê. Trong toàn bộ Cựu Ước, Gia-vê luôn được biết đến như Đấng dũng lực oai hùng. “Chúa thật là cao cả… khả tôn khả úy hơn chư thần… Trước thiên nhan, toàn uy phong rực rỡ, trong thánh điện đầy dũng lực huy hoàng… Hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang” (Tv 95). Nếu ‘Đấng Ki-tô’ phản ánh một Thiên Chúa quyền lực như thế, thì đương nhiên không thể chấp nhận Người ‘chịu đau khổ… bị loại bỏ… bị giết chết’. Phê-rô hoàn toàn đúng khi ‘kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người’. Và cũng sẽ hoàn toàn vô lý đòi những kẻ theo Người phải ‘từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo… liều mất mạng sống mình’. Dân riêng trung thành với Đức Chúa để được thành công, được Ngài che chở và mạng sống mình được bảo vệ.

Tư tưởng của Thiên Chúa: Đức Giê-su ‘nói rõ điều đó, không úp mở’ là ‘Đấng Ki-tô’ có bổn phận phải mạc khải về một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Do đó, nếu Người có phải chịu đau khổ, bị loại bỏ và giết chết thì cũng là lẽ đương nhiên. Giê-su Na-da-rét sẽ luôn mãi là một Ki-tô tự hiến trên thập giá. Ai tin và theo Đấng Ki-tô đó sẽ không làm gì khác hơn là ‘từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.’ Vì là Đấng Ki-tô biểu lộ một Thiên Chúa đầy lòng xót thương, nên môn đệ tin nơi Người sẽ không tìm cách tự cứu lấy mạng sống mình trong an toàn thủ thế, một sẽ hoàn toàn tín thác vào lòng từ ái xót thương bao la. Mạng sống mà họ ‘sẽ cứu được’, một khi đã tự nguyện ‘liều mất’, sẽ không là gì khác hơn là một tình yêu nhân ái bao la, cả trong tương quan với Thiên Chúa lẫn với tha nhân.

Đồng ý với Đức Giê-su, Phao-lô cho rằng tư tưởng này của Thiên Chúa đối chọi hoàn toàn với tư tưởng của loài người; “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với… sự khôn ngoan của thế gian… nhưng lại là sức mạnh đối với chúng ta là những người được cứu” (1 Cr 1:18-21). Điều làm tôi lo lắng là, bản thân tôi, chưa khi nào tôi cho rằng hai tư tưởng này lại sung khắc nhau đến thế. Thậm chí tôi vẫn thấy nhấn mạnh trên uy quyền của Thiên Chúa, hay đề cao một ‘Đấng Ki-tô’ thống trị đâu có gì là đối kháng với Thiên Chúa cứu độ, hay một Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Đức Giê-su đã ‘cấm ngặt các ông không được nói với ai về người’ như thế, và còn tỏ ra hết sức giận dữ khi Phê-rô muốn dùng tư của loài người để lấn át tư tưởng của Thiên Chúa, tới độ mắng ông: “Xa-tan! Lui lại đàng sau Thầy!” Còn tôi, trong mục vụ, khi diễn giảng về Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai, biết bao lần tôi đã không ngần ngại nhấn mạnh trên uy quyền và sự công thẳng của Thiên Chúa, hơn là trên lòng nhân ái yêu thương của Người. Chỉ vì làm như thế tôi đinh ninh rằng, việc mục vụ của mình sẽ hữu hiệu hơn, các giáo dân của tôi sẽ làm lành lánh dữ tích cực hơn. Thế nhưng liệu tôi có đáng bị quở trách như Người đã từng lên tiếng trách mắng Phê-rô không?

Lạy Chúa là Đấng Cứu Độ! Chúa uy quyền và thánh thiện nhưng cũng đầy thương xót và từ tâm. Kinh Thánh dạy con cả hai điều, nhưng mạc khải của Đức Ki-tô lại nhấn mạnh trên điều sau này nhiều hơn. Chớ gì Chúa sẽ không bao giờ phải quở trách con là Xa-tan chỉ vì ngăn cản không cho người khác biết về lòng từ ái vô biên Chúa, được biểu lộ qua nhục hình và cái chết của Chúa trên thập giá. Xin cho con không ngừng tôn vinh và rao giảng về Thánh Giá cứu độ. A-men.

Về mục lục

.

QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG

Văn Hào

Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách xảy đến cho vị thiền sư họ Đường không phải là những gai góc hiểm trở của một đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu hiện thân nơi ba đệ tử của ông: Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa Tăng. Ba người học trò này là biểu tượng của ba nết xấu mà vị thiền sư phải vượt qua để đạt đến chính quả. Đó là lòng kiêu căng, sự đam mê nhục dục và tính lười biếng.

Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ cuộc hành trình theo Đức Giêsu của các môn đệ. Trong cuộc hành trình này, điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện duy nhất Chúa Giêsu nêu ra như một thách đố: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Lời mời gọi ấy quả rất nhức nhối và mang tính quyết liệt gửi trao đến tất cả chúng ta.

Per Crucem (Qua Thập giá)

“Thập giá Đức Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”. Đây là điều tâm niệm mà các nữ tu Mến Thánh giá vẫn lập đi lập lại mỗi ngày. Nhưng không phải chỉ các nữ tu, mà tất cả mọi Kitô hữu đều phải chọn và sống linh đạo Thập giá trong cuộc sống đức tin của mình. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cũng khẳng quyết với xác tín sâu xa: “ Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là sự điên rồ” (1 Cor 1, 22). Thánh Marcô kể lại, khi Đức Giêsu khải thị cho các học trò về viễn ảnh Thập giá, các tông đồ, đặc biệt Phêrô đã cản ngăn Ngài. Điều này dễ hiểu. Họ không thể chấp nhận một tương lai u ám như thế. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ làm thủ lãnh một vương quốc đầy oai hùng, tại sao lại có thể bị giết chết và bị treo thân giống như một tên cướp? Phêrô can ngăn là điều rất hợp lý theo suy luận tự nhiên. Vì vậy, Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Trở lại với bối cảnh xã hội ngày xưa, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều Chúa muốn nói. Trong xã hội Do thái thời bấy giờ, dân chúng sống dưới chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Đế quốc dùng án tử hình thập giá đối với các tội phạm ghê tởm nhất. Đây là hình phạt man rợ và kinh hoàng mà đế quốc chỉ áp dụng cho cư dân ở các nước thuộc địa, còn công dân Rôma được miễn. Tên tử tội sẽ bị treo lên cao, tay chân bị đóng chặt, ngực dãn ra và rất khó thở. Phạm nhân vừa đau đớn, vừa phải chịu đói chịu khát, phơi nắng phơi sương cho đến chết. Người nào khỏe nhất cũng chỉ cầm cự được hai ngày. Sau khi chết, xác của họ không được chôn trong lòng đất, để mặt đất khỏi bị nhiễm uế do tội lỗi ghê tởm của họ. Chim trời sẽ đến rúc rỉa thân xác ấy cho đến khi không còn lại gì. Đối với người Do thái, đây là một sự xúc phạm, đồng thời hình phạt ấy cũng nói lên tính dã man và sự miệt thị của đế quốc đối với các nước nhược tiểu.

Cũng tương tự như thế, Hy Lạp ngày xưa có rất nhiều triết gia nổi tiếng như Socrates, Aristote, Diogène.. Người dân say mê triết học để tìm sự khôn ngoan cho cuộc sống mình. Họ chủ trương phải sống cho thật ý nghĩa và giá trị. Cái chết thập giá của những phạm nhân đối với họ quả là một sự điên rồ, vì nó kết thúc cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Cuộc sống của họ coi như bị vất bỏ hoàn toàn.

Đây là não trạng của dân Do Thái và dân Hy Lạp thời Chúa Giêsu khi họ nhìn vào hình phạt khổ giá. Nhưng Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết xem ra vô lý tột độ như thế. Ngài chết như một tên tử tội đốn mạt nhất bị xã hội ruồng bỏ và coi khinh. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội, đón nhận một cái chết man rợ nhất, nhục nhã nhất và cũng bi thương nhất.

Vì thế, chẳng lạ gì Phêrô đứng ra can ngăn Chúa ngay tức khắc theo phản xạ tự nhiên. Phêrô không hiểu, đúng hơn ông chưa hiểu thế nào là mầu nhiệm Thập giá. Lời gọi mời của Chúa Giêsu “Ai muốn theo tôi, phải bỏ mình vác Thập giá mình mà theo”, vừa mang tính thách đố quyết liệt, vừa gợi mở một cuộc hành trình theo Chúa trong niềm tin tuyệt đối, tức là “cuộc hành trình đi vào một vùng tối tăm đầy ánh sáng” (tư tưởng của Thánh Grêgoriô thành Nyssê).

Ad Lucem (Đến vinh quang)

Nhưng, cái chết trên Thập giá của Đức Giêsu không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc cuộc sống 33 năm dương thế của Ngài một cách vô nghĩa. Ngài là một con người rất con người, đã đi qua cái chết, nhưng Ngài vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa, Đấng hằng sống và không bao giờ chết. Đức Giêsu đã chọn Thập giá để khai mở cho con người chân trời ơn cứu độ qua sự phục sinh vinh thắng. Không có cái chết nào nhục nhã cho bằng cái chết của một tên tử tội bị xã hội loại trừ. Không có cái chết nào bị thương và tức tưởi cho bằng cái chết của một đấng hay thi ân, lại bị con người phản bội và đối xử tàn khốc. Không có cái chết nào ai oán cho bằng cái chết của Đấng Công chính lại bị xét xử bất công và quá phũ phàng. Đức Giêsu đã chết trong cô đơn và bị ruồng bỏ hoàn toàn. Các học trò thân tín nhất cũng tháo chạy. Ngay cả Chúa Cha dường như cũng hắt hủi, đến độ Ngài phải não lòng thốt lên: “ Cha ơi, sao Cha lại bỏ con?”

Nhưng Thập giá và mầu nhiệm tự hủy chính là con đường dẫn đến sự sống. Nghịch lý của Thập giá mà Chúa Giêsu gọi mời hôm nay được diễn bày nơi chính cái chết bi thương của Ngài : Qua sự chết đến sự sống, qua bóng tối của tử thần chúng ta mới có thể đi vào miền ánh sáng phục sinh vinh quang. Per crucem ad lucem.

Nghịch lý của Thập giá luôn là một mầu nhiệm khó hiểu. Chỉ khi Đức Giêsu từ cõi chết chỗi dậy, các học trò của Ngài mới dần hiểu ra và sẵn sàng lao vào con đường xem ra rất tối tăm ấy. Ánh vinh quang Phục sinh đã làm sáng lên chân trời đức tin mà trước kia vẫn còn mù tối nơi tâm hồn các tông đồ. Hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã tiếp cận trực tiếp với Đấng sống lại và con mắt đức tin của họ đã mở toang. Ngay cả Tôma Dydimô vẫn bị mang tiếng oan uổng là cứng tin, cũng đã hoàn toàn quy thuận khi Đức Giêsu hiện đến. Ông không cần xỏ tay vào lỗ đinh, cũng chẳng cần sờ chạm đến vết đinh nơi thân thể Chúa. Chính cặp mắt Đức Giêsu đã xoáy sâu vào tận tâm hồn ông, đem đến cho ông một luồng sáng mới, thắp lên ngọn lửa đức tin nơi ông. Bấy giờ các tông đồ mới hiểu ra cách tường tận những điều Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo tôi”.

In hoc signo (Cứ dấu này)

Vào năm 326, Vua Constantinô, hoàng đế Rôma đã có một thị kiến nhìn thấy hình Thập giá trên bầu trời với hàng chữ “In hoc signo vinceris” (cứ dấu này ngươi sẽ chiến thắng). Ông đã chiến thắng và đã tin. Vua Constantinô đã trở thành một tín hữu, bắt đầu giai đoạn hoàng kim của Kitô giáo ở Âu châu. Cũng vậy, Thánh giá chính là dấu hiệu để người ta có thể nhận ra những ai thuộc về Đức Giêsu. Người ta thấy hình tượng Thánh giá ở khắp nơi, trên nóc các nhà thờ, giữa gian cung thánh, trên bàn thờ mỗi gia đình, trên các phần mộ của người công giáo tại các nghĩa trang.., bởi vì cứ dấu này (in hoc signo), người ta nhận ra ai là môn đệ của Đức Giêsu một cách đích thật.

Tuy nhiên, khi nói về Thập giá, chúng ta thường nghĩ ngay đến những đau khổ. Không phải đơn thuần chỉ như thế. Thánh giá của Chúa Giêsu trước hết và trên hết là dấu chỉ của tình yêu. “ In hoc signo”, cứ dấu này người ta sẽ khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được biểu tỏ tuyệt vời như thế nào. Thập giá Đức Kitô chính là câu định nghĩa tròn đầy nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Qua Thập giá, chúng ta học được bài học rất căn bản về tình yêu Thiên Chúa ngỏ trao. Tình yêu ấy đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Thánh Têrêsa Hài đồng đã học được bài học căn bản này. Khi nằm trên giường bệnh, Chị thánh luôn mỉm cười, để qua những đau khổ nhỏ bé, chị dần tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu cao cả cùng với Chúa Giêsu. Một lần mẹ Agnès hỏi chị: “ Sao sáng nay em vui vẻ thế?”. Têrêsa trả lời “ Em rất vui vì hôm nay em được lãnh nhận 2 sự khó nho nhỏ để yêu Chúa Giêsu. Không có gì vui sướng cho bằng đón nhận những sự khó cỏn con như vậy”. Ngài nói tiếp: “ Những khổ đau ấy chẳng dữ dằn gì đâu. Em chịu được tới mức nào, bạn tình Giêsu gởi đến cho em tới mức đó, em chẳng bao giờ lo lắng về điều ấy cả”. Cuộc đời của Chị thánh là cuộc đời chứa chan niềm vui và an bình, tựa như những cánh hồng lan tỏa mùi hương êm dịu, nhưng ẩn sâu bên dưới đầy những gai nhọn của Thập giá. Thập giá Chúa Giêsu chính là dấu chứng (signum) bày tỏ tình yêu và quyền lực vô song của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh nữ đã tóm kết cuộc đời mình qua một định thức đơn giản: “Ơn gọi của tôi chính là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Ơn gọi của tôi là sống sung mãn tình yêu nơi Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu”

Kết luận: Những con chim ẩn mình chờ chết

Đây là tên bộ phim được trình chiếu rộng rãi trên đài truyền hình thành phố vào những năm thập niên 90. Ở đây, chúng ta không đề cập đến nội dung hư cấu của bộ phim hay đích nhắm mà soạn giả muốn nói đến. Tôi chỉ vay mượn giai thoại về loài chim gai (thornbird), được bộ phim chọn làm tựa đề, để quy chiếu và tóm kết sứ điệp Lời Chúa hôm nay.

Có một loài chim hót rất hay và chỉ hót duy nhất một lần trong đời. Trước khi chết, theo bản năng, nó bay vút lên cao, lượn mình vi vu giữa bầu trời mênh mông rồi lao nhanh xuống đất, cắm đầu vào một bụi gai và giẫy chết ở đó. Gai nhọn đâm nát khiến máu chảy tung tóe, thân xác nó tả tơi và dập nát. Trong đau đớn, nó sẽ cất lên tiếng hót, một giọng hót vừa ai oán vừa hùng vĩ, vừa cao vút nhẹ nhàng, vừa trầm buồn đến não nuột. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, nó hót vang. Giọng hót ấy thật tuyệt vời và thánh thót. Đó chính là tiếng hót của “những con chim ẩn mình chờ chết” (les oiseaux se cachent pour mourir). Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy và vì Tin mừng sẽ cứu được mạng sống ấy”. Con đường theo Đức Kitô trên hành trình Thập giá cũng chính là con đường dẫn đến cái chết. Nhưng đây không phải là cái chết vô nghĩa, mà xuyên qua cái chết ấy chúng ta sẽ hát lên một bản hùng ca tuyệt vời, một bài ca chiến thắng khải hoàn vang dội. Đó chính là bài ca mà Đức Giêsu, thầy của chúng ta đã cất lên qua sự Phục sinh vinh thắng của Ngài. Có hát lên bài ca này, chúng ta mới cảm thấu được tình yêu Thiên Chúa, và tiếp tục dấn bước theo lời gọi mời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay.

Về mục lục

.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trầm Thiên Thu

Cuộc sống luôn có nhiều vấn đề – từ nhỏ tới lớn, từ đơn giản tới phức tạp, từ cụ thể tới trừu tượng, từ riêng tới chung. Biết cách đặt vấn đề có thể giúp chúng ta xử lý tình huống tốt hơn hoặc dễ dàng hơn. Ngược lại, không biết cách đặt vấn đề có thể khiến chúng ta lâm vào thế bí.

Đặt vấn đề cũng có thể là đưa ra một điều kiện nào đó: Nếu làm thế này thì sẽ được cái kia. Thập giá là vấn đề độc đáo đã được Chúa Giêsu đặt ra cho những người muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ của Ngài. Thập giá là chiếc cầu gồm hai nhánh kỳ diệu, nhánh dọc đưa đến Thiên Chúa, nhánh ngang đưa tới tha nhân. Hai nhánh giao nhau ở giữa, giao điểm đó chính là “nút thánh” Đức Giêsu Kitô. Thập giá là con đường duy nhất dẫn tới hạnh phúc đích thực.

Thập Giá là Thánh Giá. Thánh Giá là cái GIÁ để nên THÁNH. Muốn nên thánh thì phải trả giá bằng cách đi qua Con Đường Thập Giá. Chỉ có con đường này dẫn tới Thiên Chúa trên Nước Trời. Đó là vấn đề chúng ta phải đặt ra.
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Đc Chúa là Chúa Thượng đã m tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng li, cũng chng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta git râu. Tôi đã không che mt khi b mng nhiếc ph nh. Có Đc Chúa là Chúa Thượng phù tr tôi, vì thế, tôi đã không h thn, vì thế, tôi trơ mt ra như đá. Tôi biết mình s không phi thn thùng (Is 50:5-7). Đó là lời tiên tri về con đường Thập giá mà Đức Giêsu Kitô đi qua.

Thập giá là đau khổ, là tang tóc, là chết chóc. Nhưng Thập giá lại là con đường dẫn tới sự phục sinh, sự trường sinh. Ngôn sứ Isaia đã đặt vấn đề: “Đng tuyên b rng tôi công chính, Người k bên. Ai tranh tng vi tôi? Cùng nhau ta hu toà! Ai mun kin cáo tôi? C th đến đây coi! Này, có Đc Chúa là Chúa Thượng phù tr tôi, ai còn dám kết ti? (Is 50:8-9a).

Có Thiên Chúa, người ta không sợ hãi bất cứ điều gì: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khn nài, Người li lng tai ngày tôi kêu cu (Tv 114 [116]:1-2). Lòng tin ấy thật mãnh liệt, bền vững, và được kiểm chứng xác thực: “Gp gian truân su kh, tôi đã kêu cu danh Chúa: ‘Ôi ly Chúa, xin cu g mng con!. Chúa là Đng nhân t chính trc, Thiên Chúa chúng ta mt d xót thương, hng gìn gi nhng ai bé mn, tôi yếu đui, Người đã cu tôi (Tv 114 [116]:4-6).

Vấn đề được đặt ra và được minh chứng, niềm tin của họ càng thêm vững mạnh. Ngày đêm họ luôn tự nhủ: “Hn tôi hi, thôi bình tĩnh li, vì trên ngươi, Chúa đã xung ơn lành; Chúa cu g mng tôi khi chết, gi mt này chng còn đm l, ngăn nga tôi khi phi ht chân. Tôi s bước đi trước mt Người trong cõi đt dành cho k sng (Tv 114 [116]:7-9). Đức tin càng mạnh thì càng thêm trông cậy và thể hiện đức mến. Đức tin đó không thể là lời nói suông, mà phải được chứng tỏ bằng hành động cụ thể.

Thật vậy, Thánh Giacôbê đã đặt vấn đề: “Thưa anh em, ai bo rng mình có đc tin mà không hành đng theo đc tin thì nào có ích li gì? Đc tin có th cu người y được chăng? Gi như có người anh em hay ch em không có áo che thân và không đ ca ăn hng ngày, mà có ai trong anh em li nói vi h: Hãy đi bình an, mc cho m và ăn cho no, nhưng li không cho h nhng th thân xác h đang cn thì nào có ích li gì? (Gc 2:14-16). Đó cũng là cách giải thích rõ ràng các chi tiết.

Thánh Giacôbê lý luận rất đọc đáo: “Đc tin không có hành đng thì qu là đc tin chết. Đàng khác, có người s bo: Bn, bn có đc tin; còn tôi, tôi có hành đng. Bn th cho tôi thy thế nào là tin mà không hành đng, còn tôi, tôi s hành đng đ cho bn thy thế nào là tin (Gc 2:17-18). Một cách đặt vấn đề rất hay, rất lô-gích. Thật là tuyệt vời lắm!

Một lần nọ, chính Đức Giêsu đã chỉ cho ông Tôma biết con đường dẫn tới sự sống vĩnh hằng: “Thy là con đường, là s tht và là s sng. Không ai đến vi Chúa Cha mà không qua Thy” (Ga 14:6). Chúa Giêsu chắc chắn như vậy. Con đường đó là Con Đường Giêsu, và con đường đó cũng chính là Con Đường Thập Giá.

Trình thuật Mc 8:27-35 cho chúng ta biết vài vấn đề quan trọng. Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thy là ai?. Các ông đáp: “H bo Thy là ông Gioan Ty Gi, có k thì bo là ông Êlia, k khác li cho là mt ngôn s nào đó”. Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bo Thy là ai?. Ông Phêrô trả lời: “Thy là Đng Kitô”. Lời tuyên xưng thật đáng khen. Nhưng Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài.

Sau đó, Ngài cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Đây lần thứ nhất Ngài loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài. Nghe Ngài nói rõ như vậy, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và trách Ngài. Nhưng Ngài trách mắng ông Phêrô: “Satan! lui li đàng sau Thy! Vì tư tưởng ca anh không phi là tư tưởng ca Thiên Chúa, mà là ca loài người. Ông Phêrô vừa mới đáng khen thì lại đáng trách ngay. Điều đó cho thấy rằng phàm nhân luôn biến đổi thất thường vì yếu đuối, đôi khi chính mình cũng không biết mình.

Cuối cùng, Chúa Giêsu nói về các điều kiện để theo Ngài: “Ai mun theo tôi, phi t b chính mình, vác thp giá mình mà theo. Qu vy, ai mun cu mng sng mình thì s mt; còn ai liu mt mng sng mình vì tôi và vì Tin Mng thì s cu được mng sng y. Nghe chừng là nghịch lý, nhưng thực ra lại là thuận lý. Kỳ lạ thật!

Trong cuộc sống, hạnh phúc là một trong những thứ luôn được người ta đặt vấn đề. Truyện ngụ ngôn kể rằng… Chó con hỏi chó mẹ: “M ơi, hnh phúc là gì?. Chó mẹ bảo: “Hnh phúc là cái đuôi con đy!. Chó con quay lại tóm lấy cái đuôi nhưng không sao tóm được. Chó con oà khóc và hỏi chó mẹ: “Ti sao con không th nào bt được hnh phúc h m?. Chó mẹ mỉm cười và nói: “Con yêu, con c tiến v phía trước thì hnh phúc s theo sau con.

Thế thôi ư? Vậy thì tại sao cứ phải đi tìm hạnh phúc trong khi hạnh phúc vẫn luôn đi theo mình? Hãy sống và cảm nhận hạnh phúc mà cuộc đời cho chúng ta. Hạnh phúc trừu tượng mà vẫn cụ thể: Hnh phúc là được sng bên nhng người mình yêu thương. Như vậy, hạnh phúc luôn gần gũi và giản dị.

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cố gắng vác thập giá hằng ngày thì sẽ được sống. Hạnh phúc nào cũng có vị mặn của nước mắt. Thành công nào cũng cần nhiều khổ luyện. Thánh Bernard Clairvaux (1090-1153) xác nhận: “S chết là ca ngõ s sng. Còn đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, người Pháp) viết: “Hành đng tt là bn l ca Ca Nước Tri. Như vậy, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá” hằng ngày.

Ngoài ra, còn có những “bộ ba” quan trọng của đời người mà chúng ta cần lưu tâm:

     + Ba thứ qua đi không thể lấy lại: Thời Gian, Lời Nói, Cơ Hội.

     + Ba thứ không được đánh mất: Sự Thanh Thản, Niềm Hy Vọng, Lòng Trung Thực.

     + Ba thứ có giá trị nhất: Tình Yêu, Lòng Tự Tin, Bạn Bè.

     + Ba thứ không bao giờ bền vững: Giấc Mơ, Tài Sản, Thành Công.

     + Ba thứ tạo giá trị con người: Siêng Năng, Chân Thành, Thành Đạt.

     + Ba thứ làm hỏng con người: Rượu, Lòng Tự Cao, Sự Giận Dữ.

Xin “mở ngoặc” nhỏ: Thống kê của Hoa Kỳ cho thấy rằng rượu là nguyên nhân 1/2 số vụ tai nạn giao thông và hỏa hoạn, 2/3 số vụ giết người, 1/3 số vụ tự tử, và gây ra hơn 200.000 trường hợp tử vong hàng năm. Có những vấn đề tưởng nhỏ mà lại lớn.

Vấn đề quan trọng nhất là vào Nước Trời, vì đó là cùng đích của mọi người. Ước gì mỗi người đều biết đặt vấn đề một cách nghiêm túc theo gương của tác giả Thánh Vịnh: “Ly Thiên Chúa, xin ly lòng nhân hu xót thương con, m lượng hi hà xoá ti con đã phm. Xin ra con sch hết li lm ti li con, xin Ngài thanh ty. Vâng, con biết ti mình đã phm, li lm c ám nh ngày đêm (Tv 51:3-5). Tình Chúa bao la và bất biến, hãy tín thác vào Ngài, vì Ngài đã thề hứa: “Ta chng vui gì khi k gian ác phi chết, nhưng vui khi nó thay đi đường li đ được sng (Ed 33:11).

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết thc hành theo li dy ca Thy Chí Thánh Giêsu, can đm t b nhng gì không thuc v Nước Tri, xin ban Thn Khí Ngài đ con đ sáng sut và khôn ngoan mà mau mn gii quyết đúng theo Tôn Ý Ngài. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

Về mục lục

.

TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng: “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới “ xứng đáng làm môn đệ Thầy”. 

Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “.

Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người.

Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.

Muốn theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ và vác thập giá”.

  1. Từ bỏ

Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính Tráng. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.

Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.

Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối…Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn một mà thôi.

Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…

Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.

Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.

  1. Vác thập giá

Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.

Thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.

Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.

Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.

Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.

Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Có một bà mẹ trẻ đang mang thai sắp đến ngày sinh nở. Mẹ cô vừa qua đời để lại người cha và 3 người em. Hàng ngày, cô phải lo cho gia đình của cô, phải thay mẹ chăm sóc cha và các em, nhất là người em gái nhỏ nhất còn trẻ mắc chứng bệnh “lupus”, là một chứng bệnh rất hiểm nghèo, vì hệ thống đối kháng trong thân thể không bình thường. Khi gặp một linh mục đến an ủi, cô rơm rớm nước mắt và thắc mắc hỏi rằng: “Tại sao một Thiên Chúa nhân từ, có uy quyền làm mọi sự và thương yêu con người, lại bắt cô, em cô, và gia đình cô phải chịu nhiều đau khổ như thế?” 

Ông bà anh chị em thân mến. Các bài đọc lời Chúa hôm nay có thể giúp trả lời thắc mắc của bà mẹ trẻ trên. Mặc dù Thiên Chúa có uy quyền làm cho mẹ cô sống và chữa lành em cô khỏi bệnh, nhưng Ngài chọn con đường đau khổ để mọi người trong gia đình cô được hưởng ơn cứu độ và hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời. Chúng ta phải tin vào Thiên Chúa dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, vì Ngàii thông biết mọi sự, và có những lý do và ý định riêng của Ngài.

Trong bài đọc I, tiên tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước những gì sẽ xảy ra cho Người Tôi Trung, Đấng Thiên Sai, và ngôn sứ đã tiên báo những điều đó cho mọi người biết. Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa sẽ giải thoát con người bằng cách chịu mọi cực hình và gian khổ. Những điều tiên đoán này đã xảy ra cho Chúa Giê-su Kitô khi Ngài được Thiên Chúa sai xuống trần để chuộc tội cho con người, nhất là trong cuộc thương khó và cái chết đau thương của Ngài trên thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại vinh quang từ cõi chết, để những ai tin vào Ngài cũng sẽ được sống lại như Ngài. Chúng ta nhận thấy để vượt qua đau khổ, Người Tôi Trung, Chúa Cứu Thế cần có một niềm tin vững chắc, không lay chuyển vào Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài tới thế gian. Chính vì những đau khổ Ngài đã chịu, mà ơn cứu độ, sự sống lại và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau được dâng tặng cho mọi người nhân loại. Trong hiện tại, người mẹ trẻ đau khổ, nhưng ngày mai và trong tương lai, bà sẽ nhận ra tình thương yêu của Thiên Chúa luôn che chở bao bọc, của cha mẹ, của những thành phần trong gia đình. Những điều này sẽ giúp đức tin của bà vững mạnh hơn, trung thành với Thiên Chúa và thương yêu nhau hơn, để ngày sau cùng được đoàn tụ trong Nước Trời.

Trong bài đọc II, thánh Giacôbê khuyên và dạy tất cả chúng ta, đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa phải được diễn tả qua hành động. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải giúp đỡ tha nhân bằng những hành động cụ thể. Thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng đức tin không có việc làm là đức tin chết từ gốc rễ. Đức tin và làm việc lành, bác ái như hai mặt của một đồng tiền, luôn đi đôi với nhau. Nếu chúng ta quyết định tin vào Chúa, chúng ta phải sống lời Ngài dạy bảo. Chúng ta là phải thể hiện niềm tin vào Chúa của chúng ta qua việc lành bác ái.  

Trong bài Tin mừng, khi thánh Phêrô can ngăn Chúa Giêsu đừng chấp nhận con đường đau khổ, chúng ta thấy Chúa đã mắng trách Phêrô “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người.” Sau đó, Chúa nói với dân chúng và các môn đệ “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình.”

Ông bà anh chị em thân mến. Cũng như bà mẹ trẻ trên, chúng ta cũng có những đau khổ trong cuộc sống, nhưng các bài đọc lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn tất cả mọi sự qua đức tin. Thiên Chúa là Đấng nhân từ và thông biết mọi sự và mọi việc, và Chúa có những lý do và ý định riêng của Chúa. Khi đương đầu với những khó khăn và đau khổ như người mẹ trẻ, một hành động đức tin lớn nhất chúng ta có thể làm là thưa với Chúa “Lạy Chúa, con không biết, không hiểu lý do tại sao Chúa gởi thập giá này cho con, nhưng con sẽ vác và tiến bước đi chỉ vì Con Cha, Đấng Thiên Sai, Chúa Giê-su Ki-tô đã nói con phải vác.”

Tôi nghĩ rằng hầu hết tất cả mọi người chúng ta có thể vác một cây thập giá nếu chúng ta thấy hay biết lý do tại sao, như vợ hay chồng vác thập giá cho nhau, như cha mẹ vác thập giá cho con cái. Nhưng thật sự cần một đức tin to lớn và vững chắc vào lời Chúa, và với một tình yêu mến Chúa sâu sa để có thể vác một thập giá mà chúng ta không nhìn thấy, hay không biết lý do tại sao, và can đảm nói rằng: “Thiên Chúa thông biết mọi sự, và Chúa luôn có những lý do, thánh ý của Ngài.”

Ông bà anh chị em thân mến. Khó khăn và đau khổ như sinh với tử, là một phần của cuộc sống con người. Không ai có thể thoát được. Nó sẽ đi tìm và sẽ tìm gặp chúng ta, cho dù chúng ta là ai và ở đâu. Điều quan trọng không phải là đau khổ đến với chúng ta, nhưng điều quan trọng là thái độ chúng ta đối diện với đau khổ như thế nào, cách chúng ta chấp nhận như thế nào, và chúng ta sử dụng đau khổ làm sao. Chúng ta không thể nào tránh đau khổ, nhưng với ơn và sự trợ giúp của Chúa, chúng ta có thể thay đổi đau khổ từ sự thụ động thành tích cực, từ sự ích kỷ cá nhân thành sự hy sinh chia sẻ, và lôi kéo chúng ta đến gần Chúa hơn, thay vì xa Chúa, như Người tôi tớ Chúa Hồng y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận, qua hồng ân của Chúa, đã biến đổi những đau khổ trong 10 năm biệt giam như cơ hội tôi luyện đức tin, gắn bó với Chúa hơn, và làm sáng danh Chúa.

Những bài đọc lời Chúa hôm nay là một lời kêu gọi đức tin, để chúng ta can đảm thực hiện và sống như Chúa Giê-su đã tuyên bố và hành động, vác thập giá và tiến bước đi.   Nếu chúng ta chân thành lắng nghe và can đảm thực hành lời Chúa kêu gọi, chúng ta sẽ nhận được sức mạnh trong tình yêu Chúa, và sẽ khám phá chiều kích trái ngược của thập giá, chứa đựng những ân sủng thật cao cả hơn chính thập giá.

Ông bà anh chị em thân mến. Đây là mầu nhiệm tình yêu thập giá của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Thế, mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ hôm nay. Đây cũng chính thật là “Tin Mừng” mà Chúa giê-su Ki-tô muốn chia sẻ với chúng ta hôm nay. Chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta hồng ân cao cả này, và trong Thánh lễ này, xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta để chúng ta biến thập giá vì đức tin, vì Lời Chúa, trong đời sống, trở thành bài ca tụng và làm sáng danh Chúa.

Về mục lục

 

THEO ĐƯỜNG CHÚA ĐI

Lm. Jos. DĐH

Những người tài giỏi có chức vị, thường xuyên phải vất vả bận rộn với những hiểu biết của mình, đó không phải là chuyện lạ, đúng như cái nhìn của Nguyễn Du : chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Quan niệm như thế nào là bình an, thành công, tất nhiên không phải là nhiều tiền lắm của, là có nhiều bằng cấp học vị. Hiện tại người ta vẫn coi được niềm vui, được tình yêu và sự ủng hộ của đám đông, đó là thành công, là hạnh phúc. Tiền tài địa vị dễ cuốn hút, nhưng dù giầu về tinh thần và vật chất, người ta cũng không thể có một cuộc sống như ý.

Kinh nghiệm người xưa truyền lại cho con cháu : thương nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua. Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng. Đau khổ ở đời, thường tự nhiên như khách không mời mà tới, niềm vui hạnh phúc phải nỗ lực tìm kiếm, ấy vậy cũng không dễ mà gặp. Theo Đức Giêsu làm môn đệ không phải là để hưởng bổng lộc trần gian, theo đường Chúa đi đâu phải để né tránh đau khổ, theo đường Chúa đi để hiểu rõ hơn thế nào là tình Chúa yêu tôi, và diễm phúc vì có Chúa luôn ở cùng.

Thầy hiểu trò và trò biết thầy không phải là điều ngạc nhiên, điều đáng nói là thầy có truyền được kiến thức cho trò, còn trò có lĩnh hội được những lời vàng ngọc tâm huyết của thầy không, điều đó vô cùng thiết thực. Kiểu sống, cách sống phải diễn tả được tính hợp lý mới đủ thuyết phục; trái chua quả ngọt ít nhiều cũng do người cần mẫn vun trồng. Các môn đệ là học trò của Thầy Giêsu, các ông không thể trả lời cách chung chung thầy là một người tốt; cũng thể nói các hoạt động củaThầy gần giống Gioan tẩy giả, gần giống Êlia. Chính vì tình yêu mà Đức Giêsu rất mong muốn các môn đệ, và từng người tin theo Chúa, phải trả lời bằng cuộc sống của mình Đức Giêsu, Thầy là ai ?

Thời đại nào cũng vậy, người ta chỉ có thể biết rõ thần tượng của mình, chỉ có thể diễn tả chính xác về đối tượng mình say-mê, khi mà khối óc, con tim của họ cùng lên tiếng bằng hành động yêu thương. Thầy Giêsu không những ngăn cấm Phêrô mà còn ngăn cấm cả các học trò không được nói tới Thiên tính Đức Kitô, khi mà tâm trí và hành động của Thầy chưa vượt qua đau khổ thập giá rồi sống lại vinh quang. Nếu thực sự Thầy Giêsu muốn làm một cuộc phỏng vấn về các học trò, hẳn Ngài cũng muốn các ông phải trả lời bằng lập trường vững chắc Đức Kitô, Thầy là ai ?

Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Chúa Giêsu cũng theo qui luật ấy, Ngài trả lời trực tiếp cho các ông Đức Kitô chính là : “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Ông Phêrô công khai nói lên Thầy là Đức Kitô, ông được Thầy Giêsu xem đó là một phát hiện lạ thường không tự do máu huyết mạc khải. Khẳng định cho mọi người biết tôi là người công giáo đã khó rồi, sống tinh thần của người môn đệ theo đường Đức Giêsu đã đi, hẳn không thể bằng sự hiểu biết và sức riêng của mình.

Dư luận của đám đông biết về Đức Giêsu là ai, quả là mơ hồ, vì quan niệm của người đời : nửa sự thật vẫn chỉ là nửa sự thật. Nếu họ xem Đức Giêsu là Gioan tẩy giả, là Êlia hay là một ngôn sứ nào đó, nghĩa là họ cũng chỉ biết Đức Giêsu nửa vời mà thôi. Tuy các học trò nói lên được căn tính của Đức Giêsu là giỏi rồi, nhưng để hiểu và sống giáo huấn của Thầy Giêsu, người ta không thể sống lơ mơ đại khái về tình yêu của Đức Kitô.

Lời quở trách Phêrô “satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Đúng là các ông lúc ấy hiểu biết và tin Đức Giêsu là Cứu thế, nhưng sứ mạng và con đường Đấng Kitô đi là con đường thập giá, các ông quả là mông lung ! Theo đường Chúa đi, nghĩa là đi đằng sau Chúa, không thể suy luận kiểu phàm trần, không thể có con đường tắt nào để đạt tới hạnh phúc thật, nhất định phải qua thập giá mới tới vinh quang.

Hô to cho mọi người biết tôi là công giáo, dễ lắm, tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, cũng không khó; tự bỏ mình, đi con đường của Thầy Giêsu, vác thập giá hàng ngày, như thế mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, không cần phải là linh mục hay tu sĩ, mà dù là đối tượng nào cũng vẫn được Đấng Kitô cứu chuộc, với điều kiện phải tự mình tuyên xưng niềm tin Đức Kitô là ai bằng việc sống yêu thương như Đức Kitô đã sống.

Các người chài lưới xưa kia, có đi đằng sau Thầy, có tin yêu và cậy dựa vào sức mạnh của Thầy mình, các ông mới đi con đường của Chúa cách trọn vẹn. Các thanh niên thiếu nữ hôm nay có dám từ bỏ mình, có thực sự muốn theo Chúa làm môn đệ, họ mới dần khám phá ra Thầy là Đức Kitô hằng yêu thương, đang ở trong cuộc đời của họ.

Giáo lý nhà Phật nói rằng đời là bể khổ, mà mỗi người là cánh bèo trôi dạt ở trên, vì vậy, lý tưởng hơn cả là hãy làm gì để giúp nhau bớt khổ, giải thoát khổ đau cho nhau. Khổng Tử bằng kinh nghiệm của mình, ông cho rằng : ngọc không dũa, không sáng, người không đối diện với gian nan thử thách, khó mà nên hoàn thiện. Đức Giêsu không hứa hẹn về con đường giải thoát khổ đau, hoặc bằng mưu trí chiến thắng bể khổ; trước hết hãy ý thức hoàn thiện mình, từ bỏ mình, vác thập giá theo Chúa, rồi người ta sẽ hiểu và thấy thế nào là hạnh phúc. Câu trả lời Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, mỗi người tin theo Chúa phải tự do sống ơn gọi của mình mỗi ngày. Cách đáp trả Đức Kitô là ai cho mọi người : đẹp nhất, hay nhất, đúng ý Chúa nhất, vẫn là hãy đi đằng sau Thầy Giêsu, khiêm tốn, cậy nhờ Chúa giúp ta hành động yêu thương như Chúa đã yêu. Amen.

Về mục lục

.

VÀO TRONG VINH QUANG NGANG QUA ĐAU KHỔ

Lm. Đan Vinh – HHTM

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG : Mc 8,27-35

(27) Đức Giê-su và các môn đệ của người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ : “Người ta nói Thầy là ai ? (28) Các ông đáp : “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. (29) Người lại hỏi các ông : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? Ông Phê-rô trả lời : “Thầy là Đấng Ki-tô”. (30) Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. (31) Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết : Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại. (32) Người nói điều đó, không úp mở. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. (33) Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phê-rô: “Sa-tan! Lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người. (34) Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng các môn đệ lại. Người nói với họ rằng : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. (35) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

  1. Ý CHÍNH :

Sau khi nghe biết dư luận quần chúng, Đức Giê-su đòi các môn đệ phải xác định đức tin vào Người : “Anh em bảo Thầy là ai ?” Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin : “Thầy là Đấng Ki-tô”. Từ đây Đức Giê-su bắt đầu cho các ông biết con đường Người sắp trải qua là : “qua đau khổ vào vinh quang”. Người trách Phê-rô khi ông cản Người theo con đường này. Người đòi ai muốn làm môn đệ của Người phải bỏ mình vác thập giá mình mà đi theo Người.

  1. CHÚ THÍCH :

C 27-28 : + “Người ta nói Thầy là ai ?” : Qua các môn đệ, Đức Giê-su muốn biết người ta nghĩ gì về Người. + Là Gio-an Tẩy Giả tái sinh : Đây là ý tưởng của đảng Hê-rô-đê (x. Mt 14,2). + Là Ê-li-a : Ngôn sứ Ma-la-ki-a đã tuyên sấm về sứ mệnh của ngôn sứ Ê-li-a là sẽ đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai : “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23). + Là một trong các vị ngôn sứ : Dân chúng tin Đức Giê-su ít ra là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến giáo huấn dân Người.

C 29-30 : + Người lại hỏi các ông : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? Đức Giê-su đặt câu hỏi này với các môn đệ để xem nhận thức của các ông về Người. + Ông Phê-rô trả lời : Thầy là Đấng Ki-tô” : Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Ki-tô hay Đấng Cứu Thế. Đây là lời tuyên xưng chính xác về thân thế Đức Giê-su. Do lời tuyên xưng này mà Phê-rô đã được khen ngợi là có phúc (x. Mt 16,16-17). Chính Đức Giê-su cũng thừa nhận Người là Đấng Ki-tô trước tòa án tôn giáo (x Mc 14,61-62). Lời tuyên xưng của Phê-rô tuy đúng, nhưng chưa rõ ràng, vì người ta có thể hiểu sai sứ mệnh cứu thế của Người và gán cho Người sứ mệnh cứu thế trần tục, nhằm giải phóng dân Do thái bằng bạo lực, thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma. + Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người : Đức Giê-su cấm nói ra không phải để phủ nhận lời tuyên tín của Phê-rô, nhưng vì muốn tránh sự cuồng nhiệt của dân Do Thái muốn sử dụng bạo lực để lật đổ nhà cầm quyền Rô-ma. Người cấm các môn đệ nói ra Người là Đấng Ki-tô vì cần có thêm thời gian rao giảng về sứ mệnh cứu thế thiêng liêng tinh thần phù hợp thánh ý Thiên Chúa. Cuối cùng, Người cấm vì “Giờ của Người chưa đến”, vì cần phải nhờ Thần Khí tác động, người ta mới có thể chấp nhận được chân lý này.

C 31-33 : + Người bắt đầu dạy các ông biết… : Đây là lúc Đức Giê-su loan báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua. + Con Người : Khi tự nhận là Con Người, Đức Giê-su vừa khiêm tốn xưng mình là : “kẻ hèn mọn này”, lại vừa theo ý nghĩa biểu tượng của văn chương khải huyền Do Thái về Con Người là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa (x. Tv 110,1) và sẽ đến trên mây trời (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su đã dùng tước hiệu Con Người nhiều hơn tước hiệu Mê-si-a. là tước hiệu đã bị người Do Thái tục hóa mang mầu sắc chính trị. Trong Tân Ước, từ ngữ Con Người được lặp đi lặp lại tới 70 lần. Con Người có nghĩa là “Người Tôi tớ Gia-vê, bị loại bỏ và bị giết để sau cùng được tôn vinh và cứu rỗi muôn người” (x. Mc 8,31). Trước khi xuất hiện trong vinh quang vào ngày sau hết, Con Người phải tự hạ, sống cuộc đời trần thế, bị nghèo khó (x. Mt 8,20), bị khinh dể (x. Mt 11,19), bị xúc phạm (x. Mt 12,32), bị tử hình thập giá (x. Ga 3,14), rồi mới vào trong vinh quang Phục Sinh (x. Dt 2,6-9). Cuối cùng khi đến ngày tận thế, Con Người sẽ lại đến ngự trên ngai uy quyền mà xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). + Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người : Tuy tuyên xưng Đức Giê-su với tước hiệu là Đấng Ki-tô, nhưng Phê-rô chưa hiểu được ý nghĩa thực sự của tước hiệu này. Ông chưa hiểu rằng theo thánh ý Thiên Chúa thì “Đấng Ki-tô phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang” (x Lc 24,26). Ông đã thay mặt anh em can trách Đức Giê-su đừng chịu như vậy, vì các ông đều không muốn thấy Thầy phải chịu thất bại trước rồi sau đó mới chiến thắng. Các ông muốn Thầy sớm lên làm vua Mê-si-a để các ông cũng được chia sẻ quyền cao chức trọng (x. Lc 22,24), được ngồi bên tả bên hữu Thầy (x. Mt 20,21). + Người trách Phê-rô : Xa-tan ! Lui lại đằng sau Thầy ! : Khi kéo riêng Đức Giê-su ra mà can trách, ông phê-rô đóng vai trò của Xa-tan, kẻ đã cám dỗ xúi giục Đức Giê-su đi con đường khác với thánh ý Thiên Chúa. Nhưng Đức Giê-su ra lệnh cho Phê-rô phải trở về chỗ của người môn đệ là ở phía sau và phải theo đường lối của Thầy (x. Mc 1,17.20; 8,34). + Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” : Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm : ”Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,9). Ông Phê-rô đã không hiểu thánh ý Thiên Chúa là muốn cho Đức Giê-su cứu thế bằng con đường “qua đau khổ vào vinh quang” và mời gọi người ta đi theo con đường này (x. Mt 16,21-23).

C 34-35 : + “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” : Đây là lời Đức Giê-su mời gọi người ta tự nguyện theo Người chứ không ép buộc. + Từ bỏ chính mình : “Từ bỏ” ở đây đồng nghĩa với “ghét” hay “yêu ít hơn” hoặc “coi thường” bản thân mình (x. Lc 14,26 ; Ga 12,25). + Vác thập giá mình : Thành ngữ “vác thập giá mình” gợi lên thói tục quân lính bắt tử tội phải tự vác cây thập giá của mình đến nơi hành hình. Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, cũng phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. + “Cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Liều mạng sống mình vì Đức Giê-su và vì Tin Mừng thì cứu được mạng sống ấy”: Câu nói nghịch lý này mời gọi người nghe quan tâm đến giá trị đích thực của cuộc sống đời sau. Một người sống ích kỷ ở đời này, thì sẽ bị mất đời sống vĩnh hằng ở đời sau. Nhưng nếu ai sẵn sàng chịu thua thiệt, chịu chết vì đức tin ở đời này, thì sẽ có được sự sống đời đời do Chúa sẽ ban sau này.

  1. CÂU HỎI : 

1) Khi được hỏi, các môn đệ đã thuật lại cho Đức Giê-su dư luận của quần chúng về Người thế nào ?

2) Phê-rô tuyên xứng Đức Giê-su là ai ? Lời tuyên xưng ấy đúng hay sai ? Người Do thái thời đó có hiểu tước hiệu ấy đúng như thánh ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su thi hành không ?

3) Tại sao Đức Giê-su cấm các môn đệ nói ra tước hiệu Ki-tô mà Phê-rô vừa tuyên xưng ?

4) Khi xưng mình là “Con Người”, Đức Giê-su ngầm dạy điều gì về vai trò và sứ mệnh của Người ?

5) Tại sao Đức Giê-su thích xưng mình là “Con Người” hơn là “Đấng Mê-si-a” hay “Đấng Ki-tô” nghĩa là “Đấng Thiên Sai” ?

6) Trong Tân Ước, từ “Con Người” được nói tới bao nhiêu lần và mang ý nghĩa gì ?

7) Tại sao ông Phê-rô can trách Đức Giê-su ?

8) Tại sao Đức Giê-su lại mắng Phê-rô là Sa-tan và bắt ông lui lại phía sau ?

9) Thánh ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su phải cứu thế bằng con đường nào ?

10) Đức Giê-su đòi ai tình nguyện đi theo làm môn đệ của Người phải làm gì ?

11) “Từ bỏ mình”có ý nghĩa thế nào ?

12) Câu “vác thập giá mình mà theo Thầy” nghĩa là gì?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA : Chúa phán : “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34):
  3. CÂU CHUYỆN :

1) VÀO TRONG VINH QUANG NGANG QUA ĐAU KHỔ:

Bà GÔN-ĐA MÊ (Golda Meir), nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Ít-ra-en, khi còn là thiếu nữ đã thất vọng về nhan sắc của mình. Bà thuật lại giai đoạn thiếu thời ấy như sau : “Mỗi lần nhìn khuôn mặt của mình trong gương, tôi lại thầm trách sao Ông Trời quá bất công, khi ban cho tôi một khuôn mặt không mấy đẹp đẽ duyên dáng như các bạn đồng trang lứa khác. Mãi về sau tôi mới nhận ra rằng : Chính khuôn mặt không mấy đẹp đẽ của tôi lại là điều may mắn và mang lại sự tốt lành cho tôi. Bởi vì điều ấy buộc tôi luôn phải cố gắng khám phá ra những tài năng sâu kín nơi bản thân và phát triển chúng ngày một tốt hơn. Cuối cùng tôi rút ra được bài học này là : Một phụ nữ đáng quí trọng không phải ở chỗ có một sắc đẹp trời cho, vì nó không mấy bền vững và sẽ phai tàn theo năm tháng. Nhưng giá trị đích thực của một phụ nữ ở chỗ cố gắng phấn đấu làm việc, để khám phá ra khả năng Chúa ban cho mình, rồi phát huy những mặt tích cực, biến những tài năng đó trở thành phương tiện giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội…”. 

GÔN-ĐA MÊ đã chấp nhận thập giá của mình, không than khóc phản kháng, không tức giận chán nản, nhưng sẵn sàng vác nó lên vai với lòng can đảm vượt qua trở ngại, để cuối cùng đã trở thành vị nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Israel (Giảng lễ CN B – M. Link).

2) BÀI THƠ “DỌC ĐƯỜNG”:

Thi sĩ RÔ-BỚT BAO-NING HA-MINH-TƠN (Robert Browning Hamilton) trong bài thơ “Dọc đường” (Along the Road), đã tóm lược nội dung Tin Mừng hôm nay bằng những lời thơ đầy ý nghĩa như sau: “Tôi đã cùng bước đi một quãng đường với Nữ Thần Hoan Lạc. Dọc đường, nàng đã cho tôi được sung sướng bằng những lời ve vuốt tự ái của tôi. Nhưng rồi cuối cùng tôi chẳng thấy khôn ngoan hơn bao nhiêu. Sau đó, tôi lại bước đi với Nữ Thần Đau Khổ. Dọc đàng, nàng chẳng nói một lời. Nhưng cuối cùng tôi lại thấy mình lớn lên về kinh nghiệm sống, về sự khôn ngoan, nhờ trải qua kinh nghiệm đau thương suốt thời gian bước đi bên nàng…”.

  1. THẢO LUẬN :

1) Mỗi khi gặp được những điều may lành như ý, chúng ta thường dâng lời tạ ơn Chúa. Nhưng khi gặp rủi ro trái ý, chúng ta nên làm gì theo Lời Chúa dạy : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ?

2) “Vác thập giá mình mà theo” Đức Giêsu cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện khỏi các thói hư thuộc về xác thịt và đón nhận hoa quả của Thần Khí như thánh Phaolô đã liệt kê sau đây: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ… Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).

  1. SUY NIỆM :

1) “Thầy là Đấng Ki-tô”:

Câu hỏi “Người ta bảo Con Người là ai ?” của Đức Giêsu đã được đặt ra cho dân Do thái, cho các môn đệ xưa và cho mỗi tín hữu chúng ta hôm nay. Dư luận dân Do thái coi Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy giả tái sinh, là ngôn sứ Ê-li-a hay một vị ngôn sứ thời xưa. Tông đồ Phêrô đã tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô”. Tước vị Ki-tô hay “Chris-tus”, “Mê-si-a” ám chỉ Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong làm Vua Thiên Sai, để giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma và trở thành một dân tộc hùng mạnh. Tuy nhiên sau đó Đức Giê-su lại mặc khải cho ông Phê-rô biết sứ mệnh Kitô của Người là cứu độ nhân loại bằng con đường “qua đau khổ vào vinh quang” (x Mt 16,21). Ngừơi là “Tôi trung của Đức Chúa”, chịu đau khổ để đền tội thay cho dân và làm cho muôn người được nên công chính như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x Is 53,3-11).

 Lời Đức Giêsu tiên báo về việc Người sẽ trải qua cuộc Tử Nạn rồi mới vào trong vinh quang Phục Sinh đã làm cho Tông đồ Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được tại sao Thầy của ông lại phải chịu điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang, nên ông đã phản ứng ngay, bằng việc kéo Đức Giêsu lại mà can trách Người. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan nói qua miệng Phêrô, nên Người đã bảo ông : “Satan, hãy lui lại sau Ta”. Thực vậy: Ngay từ khi gọi Simon Phêrô ở bờ hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho thấy chỗ của ông : “Hãy đi sau Thầy”. Chỗ đứng của môn đệ là ở đằng sau Thầy. Qua câu này, Đức Giêsu muốn đưa ông Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông đang muốn đi trước dẫn đường cho Người. Lý do Đức Giêsu nếu ra: “Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người.” Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn, và đâu là con đường thế gian đang chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan của loài người. “Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người.” (1 C 1,25)

 2) “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình” (x Mt 16,24) :

 Đi theo Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Ki-tô hữu, từ hàng giáo phẩm đến giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Tất cả mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi đi theo Người. Theo sau Đức Giêsu đòi phải từ bỏ: Các môn đệ đầu tiên đã bỏ nghề chài lưới, bỏ cả cha già cùng những người làm công mà theo Thầy. Ở đây, Đức Giêsu đòi hỏi không phải chỉ từ bỏ một vật hay người nào đó, mà là từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Người. Như thế có thể định nghĩa: Kitô hữu là người vác thập giá mình đi theo sau Đức Giêsu cũng đang vác cây thập giá. Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài tình nguyện gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta hôm nay là gì ?:

– Là từ bỏ chính mình, bỏ đi “cái tôi” tự ái, ích kỷ; lòng ham mê tiền bạc, danh vọng, quyền hành và các đam mê bất chính khác. Là từ bỏ con người cũ để nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x Rm 8,29), tìm lại hình ảnh ban đầu tốt đẹp khi mới được sáng tạo “giống như Thiên Chúa” (x Stk 1,26).

– Là vác thập giá mình: Vác thập giá là thái độ tự chủ, vượt lên trên những đòi hỏi của bản năng. Vác thập giá là thái độ nỗ lực muốn nên hoàn thiện, là quyết tâm lọai bỏ con người “thuộc thể”, để mặc lấy con người “thuộc linh” được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy: “vác thập giá mình” là sẵn lòng chấp nhận những đau khổ và rủi ro hoặc thất bại gặp phải trong cuộc sống, noi gương Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ trong cuộc khổ nạn đau thương của Người. 

 “Vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu” cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện mình khỏi các thói hư thuộc về xác thịt và đón nhận được hoa quả của Thần Khí, như thánh Phaolô đã liệt kê trong thư Galata: “Là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ… Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).

 3) Người tín hữu cần vui vẻ đón nhận đau khổ thập giá trong cuộc sống:

Cuộc đời mỗi người không phải lúc nào cũng thành công. Bên cạnh những điều như ý vẫn có những nỗi cay đắng, tủi nhục, những tai nạn rủi ro, những thất bại đau khổ… mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chịu đựng. Đau khổ thất bại vẫn có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến thành công, như người ta thường nói : “Thất bại là mẹ thành công”. “Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành”, từ việc tổ phụ Giu-se bị các anh bán làm nô lệ bên Ai Cập, lại trở thành tể tướng triều đình Ai Cập và về sau đã đưa cả dòng tộc của Tổ phụ Gia-cóp sang bên Ai cập tránh khỏi nạn đói kém. Tin là chấp nhận con đường thập giá chật hẹp và leo dốc đi theo Đức Giê-su như thánh Phao-lô đã khuyên đồ đệ Ti-mô-thê : “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình (2 Tim 2,12-14).

 4) Cần ý thức đau khổ có giá trị thanh luyện để giúp ta nên thánh:

Thiên Chúa thường sử dụng khổ đau để rèn luyện con người nên tốt hơn. Các vĩ nhân trên thế giới, các thánh nhân trong Giáo hội, đều đã trải qua muôn ngàn khó khăn trong cuộc sống… Nhưng các ngài không nản chí buông xuôi, mà quyết tâm vượt qua để trở nên vĩ đại, nêu cao gương sáng đức tin cho hậu thế noi theo. Như “Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế , rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26), người tín hữu chúng ta cũng phải trải qua đau khổ rồi mới được thành công. Từ đây thập giá không còn là hình khổ ghê sợ, nhưng là phương tiện để được vào trong vinh quang. Con người ngày nay thường ngại hãm mình, tránh sự từ bỏ và hy sinh… Nhưng nếu ai muốn cuộc sống có ý nghĩa thì phải chấp nhận gian nan thử thách như người ta thường nói : “Có công mài sắt có ngày nên kim” . Một khi hiểu được ý nghĩa cao cả của đau khổ thập giá, chúng ta sẽ hãnh diện về cây thập giá như thánh Phaolô đã nói : ”Vinh dự của tôi là thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Chính cây thập giá là chiếc cầu duy nhất dẫn đưa chúng ta về tới thiên đàng đời sau.

  1. NGUYỆN CẦU :

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay nếu con được Chúa hỏi : “Về phần con, con bảo Thầy là ai ? ” Con sẽ tuyên xưng lòng tin ra sao ? Xin Chúa đừng để con chỉ tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng, nhưng bằng hành động : Bằng việc cầu nguyện kết hiệp với Chúa; luôn chu toàn bổn phận với lòng yêu mến Chúa; Biết cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng; Biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… Vì biết rằng tất cả những gì Chúa để xảy đến, đều là hồng ân, và đều mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của con như thánh nữ Tê-rê-sa đã dạy. Xin giúp con năng nhìn lên thánh giá Chúa, để học sống tình thương hiến thân quảng đại của Chúa, vì : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13)

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG THẬP GIÁ

Huệ Minh

Một câu chuyện xem ra bi hài sau ít phút.

Thoạt đầu, trên đường đi, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng : “Người ta bảo Thầy là ai?” Nghe câu hỏi của Thầy, các môn đệ liền đáp : “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”.

          Đó là câu hỏi cũng như câu trả lời của đám đông môn đệ. Với những môn đệ thân tín thì lại khác : “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”

          Nghe câu hỏi thật thân thương của Thầy, Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”.

          Nghe lời đáp rất chính xác của Phêrô, Chúa đã nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.

          Sau đó, còn riêng với các ông thì phải, Chúa Giêsu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.

          Nghe xong những lời xem ra chói tai và khó chịu, vốn cộc tính và thẳng tính, Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Tưởng chừng được khen, được tôn minh nhưng nào ngời Chúa đã quay lại nhìn các môn đệ và chỉ thẳng mặt Phêrô trách rằng: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”.

          Giận lắm nhưng rồi cũng cho qua bởi lẽ Chúa nói như thế hy vọng Phêrô sẽ hiểu căn tính, mục đích của Thầy khi Thầy đến thế gian. Và sau đó, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.

          Không biết phản ứng của Phêrô lúc này như thế nào nhưng quả thật là quá sốc ! Sốc bởi vì cứ tưởng rằng đi theo Chúa sẽ được điều này điều kia như lối nghĩ bình thường của đời con ngường nhưng hóa ra rằng theo Chúa thì phải từ bỏ chính mình và phải vác thập giá !

          Thập giá là gì ? Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều thì ai ai cũng hiệu đó chính là dụng cụ, là cái để người ta treo người phạm án tử lên trên đó. Trước khi bước lên cây thập giá để chịu án tử thì người thi hành án phải vác thập giá của mình đến nơi thi hành án như ta đã thấy trong vụ án của Chúa Giêsu.

          Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ cũng như thân tín của Ngài về cuộc đời, về số phận của Ngài đó là Ngài đến trong trần gian, sống trong trần gian, sống cho trần gian nhưng cuối cùng trần gian đã đưa Ngài lên trên cây thập giá để treo nhưng không treo theo tư cách, kiểu cách bình thường mà là theo cung cách của một tên trộm cướp.

          Chúa Giêsu hoàn toàn vô tội bị treo giữa 2 tên trộm cướp đó mới là điều để chúng ta suy nghĩ. Và, đau khổ, bi đát hơn nữa đó chính là những con người có tội lại cam tâm để treo con người vô tội lên trên cây thập giá và con người vô tội đã xin vâng cho đến tận cùng.

          Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi giáo đoàn Philipphê đã nói về thân phận của người Chúa Giêsu :

Ngài, phận là phận của một vì Thiên Chúa,

nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được

chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa.

Song Ngài đã hủy mình ra không,

là lĩnh lấy thân phận tôi đòi,

trở thành giống hẳn người ta;

đem thân đội lốt người phàm,

Ngài đã hạ mình thấp hèn,

trở thành vâng phục cho đến chết,

và là cái chết thập giá! (Pl 2, 6-8)

          Ngôn sứ Isaia cũng đã nói lên hình ảnh của Chúa Giêsu từ thuở trước : Thiên Chúa đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.

          Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Ðấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?

          Cuộc đời của chúng ta, như Chúa nói là những môn đệ của Chúa, ta cũng được mời gọi để vác thập giá bước theo chân Chúa. Ai vác thập giá theo chân Ta mới xứng đáng là môn đệ của Ta.

          Chúa đã khẳng định điều này không phải là một lần nhưng nhiều làn khi Chúa nói về con đường thập giá, thánh giá mà Chúa đã vác.

          Thật sự trong cuộc sống, chẳng ai mong muốn mình phải vác thập giá cả vì nghe đến thập giá thì ai ai cũng cảm thấy đó là điều bi đát đến tột cùng. Thế nhưng, để trở thành người môn đệ của Chúa, khong có còn cách nào khác là ta được mời gọi để vác thập giá theo Chúa mỗi ngày.

          Một câu chuyện hết sức dễ thương mà tôi được mẹ tôi kể lại ngày còn bé.

          Chuyện là có người kia đến với Chúa và than thở với Chúa là không biết tại sao mà Chúa lại gửi thánh giá cho người đó nặng như thế. Nghe nói thế, Chúa cho người đó vào vườn thánh giá và tha hồ lựa chọn cũng như đổi. Đi một vòng thật lâu qua tất cả các thánh giá, người đó reo lên rằng đã tìm dược cây thánh giá phù họp với mình. Khi nghe nói thế, Chúa Giêsu đơn giản nói với người đó rằng cây thánh giá đó chính là cây thánh giá ban đầu, thánh giá mà Chúa trao ban cho người đó.

          Nói như thế, câu chuyện kể như vậy để nhắc nhớ ta về thập gái đời mình. Chúa không bao giờ để ch ta vác thập giá nặng quá sức của chúng ta.

          Và rồi, chỉ có cách duy nhất là ta hãy đến với Chúa và nhìn lên thập giá Chúa cũng như xin Chúa thêm ơn để ta ngày mỗi ngày đủ sức để vác thập giá đời mình theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Hẳn nhiên là mình ta và khả năng của ta thì không thể nào ta có đủ khả năng để vác thập giá nhưng với ơn Chúa, nhờ ơn Chúa và trong ơn Chúa ta sẽ đủ sức để theo Chúa đến cùng trên con đường thập giá mà Chúa trao ban cho chúng ta.

Về mục lục

.