Các bài suy niệm Chúa Nhật 23 Thường niên _C

1308

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_C

Lời Chúa: Kn. 9,13-18; Plm. 9-10.12-17; Lc 14,25-33

———-

Mục lục

1. Hành trình của người môn đệ  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tu nào dễ hơn  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Trở ngại của giàu có (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Đường Chúa dẫn lối  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

5. Sống trọn bậc sống (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

6. Từ bỏ tất cả  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

7. Từ bỏ  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

8. Điều kiện để đi theo Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữn An)

9. Đi theo Chúa  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

10. Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (Lm. Minh Vận, CRM)

11. Bài học cho người môn đệ (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

12. Làm môn đệ Chúa: dễ hay khó?  (Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

13. Bạn đã yêu mến Chúa ở thang bậc nào? (Lm. Fx. Nguyễn Hùng Oánh)

14. Một sự nghịch lý  (Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan)

15. Tình yêu là động lực để đi theo Chúa Giêsu (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

16. Điều kiện làm môn đệ Chúa Kitô  (Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

17. Cuộc xuất hành mới (Đỗ Lực, OP)

18. Từ bỏ. (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

19. Chọn lựa Thiên Chúa là duy nhất  (An Phong)

20. Dấn bước đi theo Chúa (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

21. Liệu  (Trầm Thiên Thu)

22. Suy niệm Chúa Nhật 23 Thường niên_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

23. Kính mến Chúa trên hết mọi sự  (PM. Cao Huy Hoàng)

24. Theo Chúa, phải từ bỏ tình cảm tự nhiên (Jos.Vinc. Ngọc Biển)

25. Muốn theo Chúa phải từ bỏ và vác thập giá (Lm. Trần Bình Trọng)

26. Ai xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

27. Môn đệ Đức Kitô  (Lm. Bùi Quang Tuấn)

28. Con đường theo Chúa (Lm. Anphong Trần Đức Phương)

29. Đến với Giêsu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

30. Từng ngày theo Chúa (Lm. Giuse Nguyễn)

31. Từ bỏ để trở nên môn đệ Chúa Giêsu (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

32. Yêu Chúa trên mọi sự  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

33. Thập giá là gì? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

34. Từ bỏ là quy luật sinh tồn  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

35. Minh định lời nói (P. Trần Đình Phan Tiến)

36. Từ bỏ những gì thân thiết, đặc biệt của cải (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

37. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật XXIII TN_C (Lm.Inhaxio Hồ Thông)

38. Chúa Nhật 23 Thường niên. Năm C (Lm. Antôn)

 

 

Mục lục

1. Từ bỏ để trở thành môn đệ (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Làm môn đệ của Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Từ bỏ để thăng tiến (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Để làm môn đệ Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

5. Trung thành theo Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

6. Từ bỏ hết là từ bỏ cái gì? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7. Khôn ngoan đi theo Chúa (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

8. Bỏ và nhận  (Trầm Thiên Thu)

9. Điều kiện để theo Chúa Kitô  (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)

10. Môn đệ Đức Giê-su (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

11. Từ bỏ hết  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

12. Đi theo Chúa để được làm môn đệ  (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)

13. Thập giá trong đời (AM. Trần Bình An) 

14. Điều kiện làm môn đệ Chúa Giê-su  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

15. Từ bỏ hết để chỉ vác thập giá  (JM. Lam Thy, ĐVD)

16. Lời yêu thương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

17. Điều kiện để trở nên môn đệ Đức Giê-su (Lm. Đan Vinh)

18. Trở thành môn đệ của Chúa (Dã Quỳ)

19. Chúa Nhật 23 Thường niên_C (Lm. Antôn)

 

.

HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Luca nói với chúng ta rằng “có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu”. Và, trong số rất đông người đó, Chúa kêu gọi những ai muốn làm môn đệ thì hãy theo Người, đồng thời Chúa cũng đưa ra những điều kiện cần có để theo Người. Như thế, môn đệ của Chúa Giêsu là những người được gọi tách ra khỏi đám đông dân chúng, tình nguyện chấp nhận những điều kiện khắt khe và những hệ luỵ của ơn gọi làm Kitô hữu. Theo Chúa Giêsu, đó là hành trình của người môn đệ.

Theo từ điển Tiếng Việt, môn có nghĩa “cửa”; đệ có nghĩa là “em”, là “học trò”. Hai từ này (môn đệ) có nghĩa học trò của một người thày. Học theo một vị thày cũng có nghĩa bước vào một cửa, mà cửa chính là vị thày đó. Theo nghĩa này, người theo Chúa Giêsu là người bước vào một cửa – cửa ấy là chính Chúa. Môn đệ của Chúa là người thụ giáo với Chúa và chuyên tâm thực hành những gì Người dạy.

Theo Chúa là tách ra khỏi đám đông. Việc tách khỏi đám đông nói lên sự chọn lựa dứt khoát để không còn sống và suy nghĩ như người đời. Đòi hỏi của Chúa có khi làm cho ta tưởng chừng như đi ngược với những liên hệ tình cảm đời thường. Những điều được liệt kê trong lời Chúa nói cho thấy người môn đệ phải từ bỏ tất cả, chẳng giữ lại gì cho mình từ của cải vật chất cho đến những tình cảm thân thiết. Khi nêu ra những điều kiện đó, Đức Giêsu nhắc tới thập giá, như sự từ bỏ triệt để nhất. Chính Người đã dùng thập giá để chứng minh sự từ bỏ hoàn toàn vì vâng phục Chúa Cha. Từ bỏ chính mình, đó là một nét đặc biệt của người người môn đệ. Thiếu sự từ bỏ chính mình, chúng ta vẫn chưa thuộc về Đức Giêsu cách trọn vẹn mà chỉ trên danh nghĩa. Đấng đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con đã bỏ trước” (Đường Hy vọng, số 3). Tự nguyện vác thập giá đời mình để theo Chúa không phải là một khẩu hiệu được hô vang, nhưng là những thực hành cụ thể trong mối tương quan hằng ngày. Vác thập giá trong cách âm thầm khiêm tốn chứ không ồn ào tô vẽ lấy tiếng khen. Xin trích dẫn một ý tưởng nữa cũng của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm” (ĐHV, số 171). Vâng, chúng ta sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc rước, nhưng không mấy sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc đời.

Theo Chúa là chấp nhận lối sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không giống như sự khôn ngoan của con người, bởi lẽ con người đánh giá theo những gì họ ghi nhận bề ngoài. Tác giả sách Khôn ngoan đã suy tư về sự cao siêu của thánh ý Thiên Chúa, vượt xa trí hiểu của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hãy cầu xin cho được đức khôn ngoan để nhìn nhận và đánh giá sự việc theo cái nhìn của Chúa, chứ không theo suy nghĩ thiển cận của chúng ta (Bài đọc I). Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh một người dự tính xây tháp và một vị vua sắp giao chiến để nói với chúng ta hãy khôn ngoan cân nhắc kỹ lưỡng trong việc chọn lựa cho mình một lý tưởng sống. Việc xây dựng và giao chiến là những sự kiện rất quan trọng không thể coi thường. Thiếu cẩn trọng sẽ dẫn tới sự thất bại và có thể mất mạng sống. Nhờ sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà chúng ta được trang bị sức mạnh cần thiết trong cuộc sống hằng ngày, khi xung quanh ta có biết bao khuynh hướng khác nhau đang giằng co lôi kéo con người. Có thể đó là một triết thuyết vô thần làm cho chúng ta bỏ Chúa, hay một người đồng nghiệp có lối sống vụ lợi ích kỷ, hoặc một thành viên trong gia đình có quan điểm sống trái với giáo huấn của Tin Mừng. Sống khôn ngoan theo lời Chúa dạy, chính là sự chọn lựa và quyết định cho mọi hành vi của mình.

Môn đệ là người sống quảng đại bao dung. Ônêximô là một người đầy tớ của ông Philêmôn. Anh đã dại dột trộm cắp tài sản của chủ. Thánh Phaolô đã tiếp đón chàng thanh niên này và cho anh nhập Đạo, đồng thời muốn gửi lại cho ông Philêmôn và mời ông đón nhận “không phải như một người nô lệ, mà là một người anh em rất thân mến”, thậm chí còn “đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Chỉ có người môn đệ đích thực của Chúa mới có thể thực hiện nghĩa cử này. Môn đệ là người từ bỏ tất những gì thuộc về mình cả nhưng lại sẵn lòng đón nhận tất cả mọi người như anh chị em thân thiết.

Trở lại với khái niệm “môn đệ” được quảng diễn trên đây, người Kitô hữu được mời bước qua cửa là chính Chúa Giêsu. “Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9). Bước qua cửa Giêsu là một chuỗi những cố gắng nỗ lực để lắng nghe và thực thi lời Người. Người môn sinh chỉ có thể trưởng thành và được giáo huấn khi đón nhận những gì thày mình dạy và làm gương. Vâng, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta bằng chính cuộc sống của Người, nhất là bằng thập giá. Người đang mời gọi ta hãy vác thập giá cuộc đời mà đi theo Người. Thập giá sẽ nở hoa nếu chúng ta vác đi trong tâm tình yêu mến và phó thác.

Về mục lục

.

TU NÀO DỄ HƠN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người xưa có câu: Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu Chùa. Tu tại gia là dễ nhất bởi không phải bỏ một cái gì từ nhà cửa, cha mẹ, anh em bạn bè nên không thấy mình mất mát điều chi. Thứ hai là tu chợ nó khó hơn bởi vì chúng ta phải bỏ đi một chút tự ái, một chút tự cao để mua bán sao cho đẹp lòng người. Mua bán giống như làm dâu trăm họ, nếu không khéo một chút thì mất mối làm ăn! Và tu Chùa lại càng khó hơn, bởi vì phải giũ bụi trần, bỏ lại tất cả cuộc vui để sống ăn chay cầu nguyện. . .

Nhìn từ bên ngoài thì ai cũng thấy đi tu là sướng, bởi vì không phải lo chuyện tính kế sinh nhai, không bận rộn kiếm tiền, không bị ô uế, hư danh bởi chuyện thế gian,nhưng đâu ai thấy được những khó khăn trong đời tu khi phải tập từ bỏ hằng ngày, bỏ người thân, bỏ của cải và phải bỏ sự nghiệp cho đến khi không còn vướng bận thế gian thì tâm mới thanh tịnh, đời tu mới trọn niềm vui.

Ngày xưa có một cô gái hỏi tôi: “có phải cha thất tình mới đi tu phải không?”. Tôi mỉm cười bảo rằng: cho dù người kia không thương tôi nhưng lòng tôi còn nặng một mối tình thì tôi vẫn chưa thanh thản để đi tu. Tu mà lòng còn nặng trĩu vậy sao đi hết đoạn đường.  Cũng có người lại bảo: “Người đi tu sao vô tình quá! Họ dứt bỏ mọi tình cảm để đi tu thì liệu có quá đáng lắm không?

Thực ra, đi tu không phải là dứt hết tình nghĩa, mà là thay đổi cách sống để không quá ràng buộc bởi tình cảm nhân loại, nhưng vẫn đồng hành và chia sẻ với họ trong mọi vui buồn. Nếu chúng ta dứt hết tình cảm thì đâu còn là người nữa, tu như vậy là biến mình thành linh hồn tượng đá chăng?

Tu là sửa, là hoàn thiện,là thay đổi mình nên tốt hơn trong yêu thương. Từ  tình thương yêu ích kỷ, thành tình thương yêu hiến dâng và phục vụ quên mình. Đây là cách sống mà Chúa Giê-su đòi hỏi mỗi người đi theo Chúa phải sống và thực hành suốt cuộc đời. Dầu là tu nhà, tu chợ hay sống đời tận hiến đều phải biết từ bỏ cái tôi của mình để nên hoàn thiện giống như Chúa hơn.

Cuộc sống của người môn đệ Chúa là phải cố gắng tập luyện từ bỏ hằng ngày. Từ bỏ cả những cái mình quyến luyến, thích thú hay đam mê. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.

Là người ai cũng ham sướng sợ khổ,nhưng chúng ta vẫn có thể đón nhận vì một hạnh phúc lớn hơn. Tựa như người mẹ mang thai nặng nhọc và còn sinh con trong đớn đau nhưng niềm vui thật to lớn khi con được sinh ra chào đời. Là người Ki-tô hữu chúng ta cũng đón nhận thập giá không phải vìchúng ta thích đau khổ mà vì một phần thưởng thật lớn lao trên trời mà Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gì so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta quyết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.

Đôi khi “lực bất tòng tâm”, khiến chúng ta lưỡng lự, chần chừ trong việc từ bỏ, có khi còn thiếu quảng đại để bỏ lại sau lưng những niềm vui trần thế. Chúa Giê-su luôn mời gọi chúng ta. Hãy để Chúa dẫn dắt chúng ta. Hãy để Chúa dìu chúng ta qua những cám dỗ trần thế, còn chúng ta cứ vững bước theo Thầy.

Xin cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá như là hồng ân Chúa gửi đến để ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TRỞ NGẠI CỦA GIÀU CÓ

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Từ Bỏ Của Cải

Có lẽ lời mời gọi “Từ bỏ mọi của cải” để trở nên môn đệ Chúa là rất khó. Của cải có bao nhiêu cũng được, tiền nào cho cũng dùng được, ước muốn có không giới hạn. Theo Chúa, trở nên môn đệ lại nhiều giới hạn, nhiều đòi hỏi từ bỏ. Làm thế nào như lời cầu nguyện vẫn cầu xin: “Biết dùng của cải đời này để mua lấy Nước Trời”.

Của cải vật chất.

Không ai nói không cần của cải vật chất. Đó là thành quả, Chúa ban cho qua công lao, khó nhọc của mình gầy lên. Quyền tư hữu hay sở hữu là một trong các quyền cơ bản của mỗi người, vì không có quyền sở hữu, con người chỉ là nô lệ ở trên đất người khác. Quyền sở hữu giúp cho con người ý thức mình làm chủ của cải, vật chất và chịu trách nhiệm về việc sử dụng của cải sinh lợi ích thế nào với cá nhân và cộng đồng.

Trong Tin Mừng Thánh Luca nói đến việc “ngồi lại tính toán” (Lc 14, 28), cân nhắc đến việc kiếm tìm và sử dụng tiền của thế nào cho hợp lý. Đồng tiền như bộ phim “thương gia” của Hàn Quốc, đề cao trong việc buôn bán, kinh doanh là “phát triển nhân vị, phẩm giá con người”. Chúa Giêsu trong khi đi rao giảng Tin Mừng, Người cũng lao động để sinh sống, cũng cần đến sự trợ giúp vật chất từ những người đến nghe giảng dạy. Chúa đến dùng bữa tại nhà ông Matthew, nhà ông Giakêu, nhờ Chúa đến thăm mà ông được thay đổi nhận thức việc sử dụng tiền của.

Giá trị tiền của tuỳ theo người tìm chúng và sử dụng chúng. Người khôn ngoan biết tìm kiếm tiền bằng sự công chính và công bằng, sử dụng chúng cũng nhắm mục đích tạo lập sự công chính và công bằng.

Trở ngại của giàu có.

Có một thực tế chỉ ra rằng: Của cải, giàu có không giảm thiểu cho con người những đau khổ và nghịch cảnh. Chúa Giêsu nói: “Người giàu có khó vào Nước Trời” (Mt 19, 24). Vì lẽ, người giàu có thường dễ bị ru ngủ vào khối tài sản của mình để hưởng thụ: “Hồn tôi ơi, hãy nghỉ ngơi, hãy ăn uống cho đã” (Lc 12, 19), hoặc tiêu tốn nhiều thời gian để chăm sóc những gia tài mình có mà quên nhiều giá trị bền vững khác.

Cám dỗ của giàu có làm cho nhiều người quên đi những giá trị bền vững. Thế nên, trong việc Thiên Chúa chúc lành cũng cần xin Chúa giữ gìn. Phúc lành không như kỳ vọng của con người ước mong bền lâu, người xưa nói theo kinh nghiệm: “Phước bất trùng lai, hoạ vô đơn chí”. Phúc lành ở trần thế chỉ là cõi tạm, cần được che chở để phúc lành đến cả đời sau.

Người có phúc không thể kiêu căng hơn người khác không có phúc. Tất cả đều như nhau! Ai cũng cần đến Thiên Chúa ở cùng mỗi ngày để chính Chúa mới là Đấng ban cõi phúc thật. Người có phúc như Mẹ Maria hằng ngày vẫn suy đi ngẫm lại Lời Chúa nói, việc Chúa làm. Hướng về Chúa, đặt để đời mình trong tiếng “Xin Vâng” để chính Chúa mới là Đấng thực hiện cho cuộc đời nên viên mãn.

Từ bỏ, theo một nghĩa từ, Chúa mời gọi:  “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11, 29). Phúc lành chỉ có thể đến từ Chúa mới là phúc thật trong cõi đời này.

Xin Chúa đừng cách xa chúng con! Và cho chúng con đừng xa cách Chúa!

Về mục lục

.

ĐƯỜNG CHÚA DẪN LỐI 

Bông hồng nhỏ

Có rất đông người cùng đi đường với Thầy Giêsu. Họ là ai? Họ chỉ là những người cùng đi chung một đoạn đường hay sẽ cùng với Thầy đi trọn con đường? Thầy Giêsu quay lại bảo họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27). Người nói rõ cho họ điều kiện để đi theo Người, nghĩa là muốn làm môn đệ thì cần phải trở nên một người khôn ngoan: biết mình và sẵn sàng từ bỏ hết những gì mình có.

Ai muốn là môn đệ của Chúa thì luôn chọn Người là đối tượng duy nhất, yêu Người trên tất cả mọi mối tương quan khác. Yêu Người đến nỗi chấp nhận dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa. Từng ngày bước theo Thầy, người môn đệ sẽ được thanh luyện khỏi mọi quyến luyến, được cắt tỉa để chỉ chọn một mình Chúa. Từ bỏ nào cũng mang đến sự tiếc nuối, đau đớn và day dứt. Người môn đệ được mời gọi bước theo Thầy Giêsu, nghĩa là sống lối sống của Thầy, bước đi trên con đường Người đã đi. Đường Người đi là đường thập giá. Bởi thế, Người môn đệ sẽ từng ngày vác thập giá mình mà đi theo Chúa.

Thập giá đến từ những khó khăn, thách đố của hoàn cảnh, từ tha nhân hay đến từ những giới hạn của bản thân, thập giá là chính con người mình với cái tôi hay tự ái, kiêu ngạo, tự mãn, tự ti, … Có những giọt nước mắt đã chực chảy trào khi chứng kiến người thân ra đi, khi phải chia tay một mối tình dang dở; nhưng cũng có những giọt nước mắt chảy tràn khi nhận ra tội lỗi của mình. Càng gần Chúa, người môn đệ sẽ càng nhận ra tội lỗi của mình, bởi khi được tình yêu của Chúa bao phủ, ta sẽ càng nhận thấy sự bất xứng nơi mình. Chỉ nhờ ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi, người môn đệ mới tìm thấy niềm vui và hy vọng. Càng nhận ra mình tội lỗi, ta càng muốn yêu mến Chúa nhiều hơn. Bởi được tha nhiều thì sẽ yêu mến nhiều. Thập giá có đớn đau nhưng cũng mang đến niềm tin yêu hy vọng, vì được gắn chặt với thánh giá Chúa Kitô. Càng nhìn lên thánh giá, càng chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, mọi vết thương trong tâm hồn ta sẽ được chữa lành. Có một nguồn sức mạnh và sự sống trào tuôn từ thánh giá Chúa Kitô sẽ chảy đến những ai hằng ngày biết đứng kề bên thánh giá.

            Người nói với những người cùng đi đường: “Ai đến với tôi”, lời ấy chỉ dành cho những ai muốn đến với Người. Đi theo Chúa không thể đi theo phong trào, theo đám đông. Người ta đi đâu mình đi đó. Thấy ai xây nhà đẹp ta cũng đặt móng xây nhà mà không ngồi xuống tính toán phí tổn. Một người khi muốn xây nhà hay một ông vua muốn ra nghênh chiến với địch thù, cả hai đều phải biết ngồi xuống bàn tính xem mình có hoàn thành và nắm chắc phần thắng hay không. Theo Chúa, ta cũng cần phải là người khôn ngoan, biết tính toán kỹ càng. Sự tính toán khi thành thực nhìn vào chính mình để thấy khả năng của mình tới đâu. Đằng sau sự tính toán này còn cho thấy một người luôn nỗ lực không ngừng, biết kiên trì, biết lượng sức mình, biết bàn hỏi với người khôn ngoan. Họ là người có trách nhiệm trên cuộc đời mình. Nếu chỉ theo Chúa bằng sức riêng thì ta chẳng thể theo Người đến cùng được, càng mang vác nhiều thì sức theo Chúa càng giới hạn. Vì đường của Chúa là con đường hẹp và Chúa đòi hỏi rất khắt khe, khắt khe đến mức phải sẵn sàng từ bỏ cả chính mình vì Nước Chúa.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con biết rõ những điều kiện để theo Chúa. Con đã cảm nhận được điều này: thập giá phủ bóng đời con. Nơi nào con đi qua cũng có bóng dáng của thập giá. Thập giá cắm sẵn trên lối đi. Càng muốn theo Chúa, càng muốn trở nên giống Chúa, con càng thấy nhiều thập giá. Mỗi khi chiêm ngắm Chúa chết trên thánh giá, con nhận được sự đỡ nâng và nguồn sức mạnh nội tâm thôi thúc con vác thập giá mình mà theo Chúa. Cảm tạ Chúa đã dùng chính con người của con để cho con hiểu rằng: con sẽ càng giống Chúa hơn khi biết từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, mắt không rời khỏi thánh giá Chúa Giêsu. Xin cho đời sống của con được trở nên lời ca ngợi tình thương Chúa. Đường Chúa dẫn lối con đi, tiếng Chúa gọi mời, con xin sẵn sàng. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG TRỌN BẬC SỐNG

Anna Cỏ may

 Rời bỏ cha mẹ, anh chị em để theo Chúa là một đòi hỏi thật khó! Vậy mà, Chúa Giêsu còn mời gọi những ai theo Ngài cần phải bỏ cả mạng sống và vác thập giá mình mà đi theo. Đây là một cuộc từ bỏ không hề dễ dàng thực hiện trong một ngày, một tháng hay một năm, mà phải cả cuộc đời mình. Đó cũng là một trong những thử thách thiêng liêng lớn nhất trong đời sống người Kitô hữu.

 Trong đời sống gia đình, khi còn nhỏ thì sống với bố mẹ, nhưng ta trưởng thành thì bắt đầu đi tìm một nửa cuộc đời của mình. Cũng từ lúc đó, ta dần dần rời xa cha mẹ để chung sống với nửa của mình, nhưng trái tim vẫn mang hình bóng cha mẹ. Khi gặp khó khăn, ta vẫn chạy về với cha mẹ. Còn những người muốn theo Chúa, sau khi đã xác định con đường của mình, họ trung thành theo Chúa trên các nẻo đường. Sự trung thành được diễn tả qua việc thực thi lời Chúa mời gọi là dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống mình và vác thập giá mình mà theo Ngài (x.Lc 14, 26-27).

 Nhìn bên ngoài, chúng ta thấy đi theo Chúa là xa cha mẹ, anh em. Nhìn về chiều sâu thiêng liêng, mỗi khi nhớ cha mẹ, anh chị em, chúng ta liền dâng tất cả mọi người cho Chúa vì Chúa là Đấng có thể làm mọi sự cho chúng ta. Có rất nhiều cha mẹ đã quảng đại dâng con mình cho Chúa, họ hạnh phúc khi con mình đi theo Chúa, họ không ngừng tạo điều kiện để con an tâm theo Chúa và luôn động viên con.

Đi theo Chúa là để cho Chúa hoạt động, để Chúa làm chủ đời mình. Chúa không đòi hỏi, nhưng giữa ánh sáng và bóng tối, giữa tình yêu và hận thù, chúng ta phải chọn lựa cái tốt nhất, cái thuộc về Chúa. Do đó, Chúa mời gọi mỗi người phải cân nhắc, suy nghĩ để chọn lựa, từ bỏ những gì là đúng trong việc đi theo Chúa. Bởi vì, đi theo Chúa là đi ngược với thế gian. Vậy theo Chúa, làm môn đệ của Chúa, chúng ta được gì? Ông Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?”. Đức Giêsu trả lời: “Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Mt 19,27-29). Chúa Giêsu muốn giải thoát mọi người khỏi những đam mê của cải thế gian, để mọi người sống bình an và hoàn toàn đi theo Chúa cách trọn vẹn. Ngài không muốn mọi người bị ràng buộc hay ảnh hưởng từ một ai cả, để mọi người sống hạnh phúc với chọn lựa mà mình đã chọn. Bậc sống nào cũng giúp mọi người nên thánh nhưng với điều kiện, chúng ta phải sống trọn bấc sống ấy.

 Lạy Chúa! Xin giúp chúng con xác tín lệnh truyền của Chúa, xin ban Thánh Thần đến biến đổi mỗi người chúng con, xin ban sức mạnh, lòng can đảm để chúng con biết khước từ những cám dỗ xấu, hầu chúng con xứng đáng làm môn đệ của Chúa trong bậc sống của mình. Amen.

Về mục lục

.

TỪ BỎ TẤT CẢ

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Từ bỏ luôn đòi hỏi một sự quyết tâm cao,luôn biểu lổ,chứng minh bản lãnh cương quyết, mạnh mẽ khôn lường của con người.Có những cái con người chúng ta phải mạnh dạn, can đảm dứt bỏ như những điều tiêu cực rượu chè, ma túy,sì ke và những tật xấu làm hư hỏng con người. Dứt bỏ những điều xấu để chọn những điều tốt là việc làm tối ư cần thiết cho đời sống của mình. Chọn một việc tốt hơn, bỏ một tật xấu vì lòng yêu mến chúng ta sẽ thấy nhẹ nhõm hơn, vui vẻ hơn. Từ bỏ vì yêu sẽ không bao giờ bị mất mát Chúa đã từng nói :” Cho thì có ý nghĩa hơn nhận “. Cuộc sống càng tiến bộ văn minh càng khiến ta phải chọn lựa. Có những người thích hưởng thụ, không dám hy sinh không can đảm để dứt bỏ những cái phù du, tạm bợ, mau qua của cuộc sống này. Càng văn minh, nhiều người lại ít nghĩ đến hạnh phúc vững bền mà Chúa Giêsu thường dạy :”Hãy tìm kiếm Nước Trời hơn là những sự hay hư nát ở đời này “.

Môn đệ của Đức Giêsu là người thuộc về Chúa, chọn Ngài là gia nghiệp, là lẽ sống của mình đến nỗi Chúa đã nói :”Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ,vợ con, anh em,chị em,và cả mạng sống mình nữa,thì không thể làm môn đệ tôi được “ ( Lc 14,26 ).Theo Đức Giêsu đòi hỏi rất gắt gao, bởi vì người theo Chúa phải từ bỏ những gì thân quý nhất của mình như cha mẹ, vợ con, anh chị em, đặt Chúa lên trên hết ngay cả mạng sống của mình nữa. Thực tế, cha mẹ, vợ con, anh chị em là những người thân quý của mình, có thể xem được là nguồn sống, là sức sống của mình.Tuy nhiên, muốn đạt được Chúa, người theo Chúa phải dứt khoát từ bỏ vì tất cả thụ tạo đều tương đối so với vinh quang, sự bền chắc và vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa. Cứ học xem bài học mà Đức Kitô để lại cho nhân loại : “ Ngài là Thiên Chúa nhưng đã từ bỏ địa vị đồng hàng với Thiên Chúa. Chấp nhận hóa kiếp làm người để sống cho sống vì con người ngoại trừ tội lỗi “…Từ bỏ là dứt khoát, là can đảm dứt khoát tất cả cho Chúa và đặt Ngài lên trên hết mọi sự. Vác thập giá là học nơi Đức Giêsu:” Hiền lành và khiêm nhượng “.Học nơi Đức Giêsu coi thập giá là phương thế sinh ơn cứu độ mà chính Chúa đã vác lấy. Mang lấy thập giá nghĩa là mang lấy thân phận được cứu chuộc để sống cuộc sống của Chúa Giêsu.

Trở nên môn đệ của Chúa Giêsu là chấp nhận từ bỏ những chứng hư, tật xấu, những điều tiêu cực cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.Trở nên môn đệ của Chúa là mặc lấy Đức Kitô để sống như Ngài. Từ bỏ là một quyết tâm thực hiện mãi mãi, thực hiện không ngừng. Từ bỏ và dứt khoát từ bỏ những tiêu cực, những điều không tốt là một sự chiến đấu không ngừng. Từ bỏ thật sự là một thái độ của tình yêu. Đã yêu con người không sợ hy sinh từ bỏ, gương Chúa Giêsu dạy nhân loại, dạy mỗi người chúng ta điều này :” Yêu là dám hy sinh, dám trút bỏ ngay cả mạng sống “  vì “ Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).

Vâng, Chúa mời gọi con người đi theo làm môn đệ Chúa nhưng  Chúa đòi hỏi gắt gao, xin mọi người suy nghĩ. Chúa muốn con người chấp nhận số phận như Chúa nhưng Ngài lại tôn trọng sự tự do của con người, nên nhắc nhở con người suy nghĩ và sáng suốt chọn lựa.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con được vác chính thập giá của Chúa đã vác, nghĩa là vác chính con người của Chúa. Xin cho mỗi người chúng con đừng hờ hững với những đòi hỏi gắt gao mà Chúa đòi hỏi khi con người muốn trở nên môn đệ Chúa.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Từ bỏ là gì ?

2.Những điều kiện để trở nên môn đệ của Chúa ?

3.Thập giá là gì ?

4.Chúa nói vác thập giá có nghĩa gì ?

Về mục lục

.

TỪ BỎ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Đám đông theo Chúa vào làng,
Nghe lời giảng dậy, ngỡ ngàng tiến thân.
Ai đi theo Chúa hiểu dần,
Bỏ cha bỏ mẹ, thanh bần hiến dâng.
Rời anh bỏ chị đỡ nâng,
Hy sinh mạng sống, xin vâng lời Thầy.
Vác mang thánh giá này đây,
Xứng danh môn đệ, theo Thầy truyền rao.
Người nào xây tháp đài cao,
Không ngồi tính toán, hết bao nhiêu tiền.
Mong sao hoàn tất trước tiên,
Không ai chế diễu, thập niên không thành.
Vua nào giao chiến tranh dành,
Đối phương mạnh mẽ, giao tranh làm gì.
Đem quân tiến đánh làm chi,
Chắc rằng thất bại, phòng khi rút về.
Cầu hòa hóa giải tư bề,
An bình dân nước, đề huề cả hai.
Muốn làm môn đệ thiên sai,
Rời buông của cải, trên vai thập hình.

Những đòi hỏi của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay thật quyết liệt. Chúng ta tự cảm thấy rất khó để có thể làm môn đệ của Chúa. Theo Chúa, chúng ta không thể có thái độ dửng dưng hay ba phải nửa chừng. Mà là một lựa chọn dứt khoát cho đời sống Kitô Hữu. Chúa Giêsu nói với những người theo Chúa: Nếu ai đến với Ta, mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Chúa đòi hỏi khó quá, nên Chúa có ít bạn và ít người muốn đi theo Chúa.

Trong xã hội xưa cũng như nay, người thủ lãnh nào cũng muốn có nhiều người theo mình. Họ thường khôn khéo mở ra nhiều hướng thuận lợi, hứa tương lai tốt đẹp, chia cho chức cao quyền trọng và phần thưởng tương xứng. Đối với Chúa Giêsu, khi mời gọi kẻ đi theo mình, Chúa không hứa ban cho giầu sang, quyền lợi mà là hứa sự từ bỏ và vác thánh giá theo Chúa. Thật là những điều không tưởng và quá khó khăn. Người không có lòng tin, có thể xem đây là một sự điên rồ.

Từ bỏ gia đình, cha me, anh chị em và mạng sống, thế là từ bỏ tất cả rồi. Chúng ta còn lại gì? Chúng ta còn lại thánh giá. Nhìn vào lịch sử của Giáo Hội, chúng ta không nghi ngờ về sức mạnh của Thánh giá. Nhờ qua thánh giá, chúng ta biết được chí khí sắt đá của tình yêu dũng cảm nơi các vị tử đạo. Thánh Tôma Aquinas khi hướng nhìn lên thánh giá, đã tâm sự: Chỉ có mình Chúa đã đủ cho con và Tôma đã xác quyết: Tôi đã học hỏi nhiều nơi thánh giá hơn nơi sách vở.

Chúa Giêsu nói tiếp với các môn đệ: Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Nơi Thánh giá, chúng ta sẽ học được bài học yêu thương, tha thứ và khổ đau. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ và vác thập giá theo Chúa. Nhìn chung quanh cuộc sống, nơi đâu chúng ta cũng có dấu vết của thánh giá. Đó là những đau khổ dằn vặt trong lương tâm, những sự hiểu lầm, những khích bác, những đau lòng mà không thể hé môi và những ngậm đắng nuốt cay. Thánh giá là những bệnh tật nơi thân xác, những phiền muộn trong tâm hồn, những bất công, bạo lực, chia rẽ và nghi ngờ của bạn bè thân nhân. Đó là những thánh giá chúng ta vác hằng ngày.

Thánh giá có trở thành giá cứu chuộc hay không, còn tùy thuộc chúng ta có biết vác thánh giá theo Chúa hay không. Nếu chúng ta ôm thánh giá với mối hận đời và hao mòn trong đau khổ mà không chia xẻ và không tháp nhập với những đau khổ thập giá của Chúa Kitô, thánh giá của chúng ta trở nên vô ích và nặng nề cho cuộc sống. Thánh giá nhẹ nhàng là khi chúng ta biết chấp nhận. Thánh giá mang vác với lòng yêu thương, nhẫn nhục và tha thứ, thì thánh giá sẽ trở thành nguồn sống an vui. Với sự yêu thương và tha thứ, Chúa Giêsu đã mang vác thánh giá tới đỉnh đồi Canvê và chịu chết trên thánh giá. Thánh giá sẽ dẫn tới vinh quang của sự phục sinh vinh hiển.

Về mục lục

.

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐI THEO CHÚA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 Sứ điệp Lời Chúa tuần 21 : “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Chúa Giêsu đã đi con đường hẹp và Chúa cũng muốn chúng ta cùng đi với Ngài.

Nhưng làm thế nào để có thể đi trên con đường đó?

Sứ điệp Lời Chúa tuần 22 cho đến Chúa nhật áp chót của mùa thường niên, nói đến những điều kiện giúp chúng ta có thể đi trên con đường đó.

Chúa nhật 22, với điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất. Đó là sự khiêm nhường và đức bác ái.

Chúa nhật 23, chính là từ bỏ và vác thập giá đi theo Chúa.

  1. Từ bỏ

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói lên một cách quả quyết, rõ ràng và dứt khoát là: muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: người, vật, ý riêng, thậm chí những người thân yêu nhất như cha mẹ, vợ con, và ngay cả bản thân hay mạng sống mình nữa. Nhiều người hỏi rằng từ bỏ như thế làm sao mà sống được ? làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình, vô nghĩa ? Vậy thì phải hiểu chữ từ bỏ theo nghĩa nào? Từ bỏ ở đây hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí lớn hơn. Người theo Chúa cần có tinh thần từ bỏ, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự, xem Chúa và việc của Chúa là quan trọng hơn cả. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, nhà cửa, ruộng vườn đều rất quý trọng, nhưng người theo Chúa chọn điều quý hơn là chính Chúa. Họ giống như người “tìm được viên ngọc quý, tìm được kho báu chôn trong ruộng, liền trở về bán tất cả để mua viên ngọc, mua thửa ruộng ấy”.

Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, nghĩa là đặt tất cả dưới Người, yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn nên biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền. Muốn thắng trận cần có lính. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ của cải bằng cách chỉ coi mình như người quản lý thôi; từ bỏ tình cảm, ngay cả với những người thân thiết nhất bằng cách không bao giờ ưu tiên cho họ hơn Chúa; từ bỏ chính bản thân, những ý thích cá nhân, từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.

Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.

Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, say sưa, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp…Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn, chẳng hạn khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng thì chỉ chọn một mà thôi. Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…

Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập.

Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Bằng hy sinh và tình yêu ai cũng sẽ làm được tất cả để cuộc sống ngày càng đạt “chất lượng cao”. Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm, đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ; nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.

  1. Vác thập giá

Hai yêu cầu được gói gọn trong hai động từ, đó là “từ bỏ” mọi sự và “vác” thập giá. Không chỉ dứt bỏ mọi sự, người môn đệ theo Chúa còn phải vác thập giá theo Chúa mỗi ngày trong đời sống của mình

Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.

Nghe nói đến thập giá phải vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Thật ra, thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ một tình yêu của Đấng Cứu Độ. Thập giá là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh?

Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.

Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Đức Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. Cái chết của Chúa là một hiến lễ có giá trị cứu chuộc tội, đền tội và Người “chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ”.

Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh. Sự thánh ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá.

Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình.Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.

Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Người môn đệ luôn luôn đặt tất cả dưới Chúa và yêu Chúa trên mọi sự. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành thánh giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.

Về mục lục

.

ĐI THEO CHÚA

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Đạo Đức Chúa Trời có 10 điều răn, nhưng 3 giới răn đầu dành cho việc thờ phượng kính mến Chúa, còn 7 giới răn sau Chúa dành cho việc đối xử với tha nhân. Và giới răn đầu tiên trong 7 giới răn là thảo kính cha mẹ.

 Rồi ngay từ xa xưa sách Huấn ca có viết: “Ai trọng kính cha sẽ được xoá bỏ lỗi lầm; ai thảo kính mẹ thì như người tích trữ kho báu trên trời” (Hc 3,3-4).

Trong thư Êphêsô thánh Phaolô tông đồ có nhắn nhủ: “Đạo làm con phải thảo hiếu với cha với mẹ, đó là điều răn Chúa kèm theo lời hứa” (Êp 6, 1-2).

Và theo truyền thống Á đông, đạo hiếu luôn được đặt lên hàng đầu, tội lớn nhất là tội bất hiếu. Thế mà Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta:”Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta được”. Như vậy lời Chúa dạy có nghịch lý không?

Thực ra, vì ngôn ngữ Do thái không có kiểu so sánh hơn kém, nhiều hơn, ít hơn, như ngôn ngữ Việt Nam chúng ta, nên khi cần diễn tả hơn kém, thì họ dùng văn tự đối ngẫu “yêu và bỏ”. Vì thế, chúng ta có thể diễn tả theo ngôn ngữ Việt Nam thế này “Ai đến với Ta, mà không yêu Ta hơn cha mẹ, hơn vợ con, hơn anh chị em và ngay cả mạng sống mình, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”.

Có nghĩa là ý Chúa muốn nói: Nếu ai muốn làm môn đệ Chúa, thì phải đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự, Chúa là quan trọng đối với chúng ta. Mà nếu Chúa quan trọng, thì Lời Chúa quan trọng, thánh ý Chúa quan trọng…

Nếu Chúa quan trọng, thì sáng sớm khi mở mắt thức dậy, người mà anh chị em nhớ  đầu tiên là ai, có phải là Chúa không?

Việc chúng ta lo lắng, tìm kiếm đầu tiên có phải là Nước trời không? Vì Chúa đã nói: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước, còn mọi sự khác Chúa thêm cho sau” (Mt 6,33).

 Và cuối ngày trước khi chúng ta ngã lưng nằm xuống nghỉ đêm, người chúng ta nhớ đến cuối cùng đó là ai, có phải là Chúa không?

Anh chị em thân mến,

Trước khi Đức Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ mình để đi theo Chúa thì Ngài đã từ bỏ trước rồi. Ngài từ bỏ trời cao xuống đất thấp để ở với chúng ta. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa nhập thể làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Sự từ bỏ được thể hiện rõ nét qua việc Chúa từ bỏ ý riêng để vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập giá. Hơn thế nữa, Chúa còn tự hủy mình ra không, trở nên lương thực thần linh nuôi sống linh hồn chúng ta.

Theo gương Chúa, có nhiều người sống từ bỏ, có nhiều người đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự. Chẳng hạn như Mẹ Maria đã từ bỏ ý riêng thưa lời xin vâng sống theo thánh ý Chúa.

Các môn đệ năm xưa đáp lại tiếng Chúa mời gọi, họ dám từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống mình để làm chứng cho Chúa.

Các nhà truyền giáo dám từ bỏ gia đình, quê hương xứ sở, ra đi rao giảng Tin mừng mở mang nước Chúa. Các thánh tử đạo dám từ bỏ mạng sống để làm chứng cho đức tin.

 Thế thì, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta đã tuyên xưng từ bỏ ma quỉ; từ bỏ những gì không phải là Thiên Chúa, để trở thành con Chúa.

Thế nhưng, dưới ánh sáng Lời Chúa hôm nay, nhìn lại đời sống đạo, chúng ta có can đảm dám từ bỏ ý riêng để sống theo thánh ý Chúa không?

 Chúng ta có dám từ bỏ những ước muốn trái với lương tâm, những hành động gian tà, những đam mê bất chính không?

Chúa không những mời gọi chúng ta từ bỏ, nhưng Ngài còn đòi chúng ta vác thánh giá mỗi ngày đi theo Chúa nữa.

Trong anh chị em đây, có những người bị bệnh tật, đau khổ, làm ăn thất bại nợ nần chồng chất, con cái hư thân mất nết, những rủi ro trong đời sống… đó là những thánh giá do Chúa đã an bài gửi đến để chúng ta vác đi theo Ngài.

Chúng ta cầu nguyện cho nhau, và xin Chúa thương xót nâng đỡ thêm sức mạnh thiêng liêng, giúp chúng ta bền vững theo Chúa mỗi ngày. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa dạy, là đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự. Chúa luôn là quan trọng đối với chúng ta, có như thế chúng ta mới xứng đáng là môn đệ đích thực của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Minh Vận

Tin mừng hôm nay diễn tiến trong bối cảnh Chúa Giêsu đang trên hành trình lên Giêru salem. Hành trình đó là điểm đến cuối cùng của Người để hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Tại đó, Người sẽ phải trải qua cái chết khổ nhục trên Thập giá. Trên hành trình ấy, có rất nhiều người cũng muốn đi với Người. Họ muốn được gắn bó với Người. Tuy nhiên họ vẫn chưa hiểu hết con đường phía trước đang chờ đợi họ. Họ vẫn đang tin Người là vị vua theo nghĩa trần thế, có quyền năng thay đổi vận mệnh dân tộc và ban cho họ phú quý vinh hoa khi Người hoàn thành sứ mạng. Họ muốn Người làm Vua để đánh đuổi quân ngoại xâm và tái lập vương quốc Ítraen.

Chúa Giêsu biết những khát vọng trần thế ấy nơi họ nhưng không vì thế mà Người xua đuổi họ. Họ cần phải biết rõ hơn những yêu sách của việc đi theo Người, và họ cần phải ý thức về những khó khăn đang chờ đợi họ ở phía trước. Vì thế, Người đưa ra cho họ một lời đề nghị dành cho những ai muốn bước theo người. Người muốn họ phải vượt qua não trạng thông thường ưa tìm hư danh để bước xuống con đường tự hủy.

Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi vừa khẩn thiết vừa đầy thách đố cho những ai còn muốn đi theo Người: “Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, an hem, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được.” Thoạt nghe, người ta có thể hiểu sai khi cho rằng lời mời gọi như thế đi ngược lệnh truyền yêu mến người thân cận, cũng như đi ngược điều răn thứ IV là thảo kính cha mẹ. Nhưng đây là một đòi hỏi buộc người ta phải chọn Chúa vượt lên trên tất cả những tương quan khác, một chọn lựa có tính tuyệt đối.

Chắc chắn Chúa không dạy người ta phải khinh ghét cha mẹ và gia đình mình, nhưng người môn đệ phải dứt bỏ những tình cảm riêng tư, những gắn bó làm cản trở trong việc thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói cách khác, người đồ đệ không để cho bất cứ điều gì cản trở mình chọn Chúa làm lẽ sống, cho dù đó là những giá trị linh thiêng cao quý như tình cảm đối với gia đình. Điều đó có nghĩa là người đồ đệ phải yêu mến Chúa hơn tất cả những người khác, kể cả những người thiết thân nhất với mình, và thậm chí là chính bản thân mình. Chúa Giêsu phải được đặt ở vị trí đặc biệt và độc nhất trong cuộc đời sống của người đồ đệ. Tình yêu dành cho Người phải vượt lên trên tất cả những tương qua ràng buộc khác. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là loại trừ tình yêu mến đối với tha nhân, nhưng trái lại phải được tăng triển hơn. Bởi vì một khi tình yêu mến đối với Chúa gia tăng thì cũng đòi hỏi tình yêu thương đồng loại cũng phải triển nở. Vấn đề là tình yêu mến dành cho tha nhân không nằm ngoài mối tương quan của chúng ta có với Chúa Giêsu và phải được hội nhập vào mối tương quan đó.

Để củng cố sức mạnh cho các môn đệ trên hành trình theo Người, Chúa Giêsu đưa ra hai minh họa về người xây tháp và vị vua đi đánh trận. Cả hai đều phải tính toàn chi ly, lượng sức mình có đủ khả năng để đối đầu với công việc vốn gian nan này không. Việc theo Chúa cũng gian nan không kém việc xây tháp và đánh giặc. Từng chặng một đều đòi hỏi phải hao tốn sức lực. việc theo Chúa cũng không thể tính toán bao lâu, bao nhiêu, hay bằng những việc gì nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, xây dựng nước Trời, chiến đấu với sự dữ và chấp nhận chết đi mỗi ngày để được chiến thắng hiển vinh.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được mạnh mẽ dứt khoát với tất cả những gì làm cản trở bước đường theo Chúa.

Xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lẽ sống duy nhất vượt lên trên tất cả những tình cảm dù thiêng liêng nhất là gia đình và ngay cả chính bản thân con.

Xin cho con vui lòng vác lấy thập giá Chúa mỗi ngày và hăng hái bước theo Người. Sau cùng, xin cho con lòng can đảm để biết từ bỏ hết những gì mình có để được làm môn đệ người và ra đi xây dựng Nước Trời, làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.

Về mục lục

.

BÀI HỌC CHO NGƯỜI MÔN ĐỆ

Lm. Phêrô Lê văn Chính

 Vào thời Chúa Giêsu, các bậc thầy thường có những môn đệ hay các môn đệ theo thầy để học với thầy. Mục tiêu của việc theo thầy để học là để trở nên giống như thầy, đầy hiểu biết và quyền năng như thầy. Bình thường, những người trẻ, khi bước vào đời, họ thường phải tìm thầy hay là tầm sư để học đạo, học võ thuật, hay học nghề nào mà họ yêu thích để chuẩn bị cho cuộc đời tương lai của họ. Đó là điều cần thiết trong cuộc đời, bởi vì như người đời thường nói: không thầy đố mày làm nên. Người ta cần phải học với thầy để được hướng dẫn một cách đầy đủ, chính xác nếu như muốn tinh thông thành thạo một nghề nghiệp nào đó.

Trong Tin mừng Luca, một chủ đề mà chúng ta gặp, đó là những giáo huấn mà Chúa Giêsu đưa ra cho những người muốn theo người trên hành trình đi lên Giêrusalem để thực sự là môn đệ của người. Hành trình đi Giêrusalem là hành trình quyết định. Chúa Giêsu thay đổi địa bàn rao giảng Tin mừng, người không tiếp tục rao giảng ở Galilê, mà quyết định đi lên Giêrusalem nơi mà người biết rằng người sẽ gặp nhiều khó khăn và đe dọa đến tính mạng của mình, nhưng người vẫn tiếp tục đi Giêrusalem với sự xác tín người sẽ làm chứng trọn vẹn cho Thiên Chúa ở nơi này, nhất là bằng cái chết thập giá. Giáo huấn này hướng đến đám đông dân chúng, và cũng là những điều kiện cần thiết căn bản và triệt để cho mọi người muốn làm người môn đệ của thầy Giêsu : phải  “ghét” những người thân thiết nhất của mình như cha mẹ, vợ con, anh em, ngay cả mạng sống của minh, đồng thời vác thập giá của mình mà theo người, thì mới có thể làm môn đệ của người. Thầy Giêsu không đưa ra một điều kiện ngoài tầm với của mỗi người, người đưa ra những điều kiện thật gần với mỗi người nhưng cũng thật triệt để. Chữ “ghét” mà Chúa Giêsu dùng ở đây không theo nghĩa thông thường, nhưng chỉ muốn nói là ai không đặt chính Chúa lên trên những tình cảm dành cho những người thân thương nhất của mình thì không thể xứng đáng làm môn đệ của người. Một loạt những mối liên hệ mà Chúa Giêsu nêu ra là những liên hệ ruột thịt thân thiết nhất. Bình thường ai cũng có những liên hệ quyến luyến đối với cha mẹ, vợ con, anh em. Nhưng Chúa Giêsu như thể đẩy môn đệ của mình về phía trước để chúng ta có được những tầm nhìn và quyết định mới. Đứng trước một vận mệnh quyết định là chính sự sống đời đời của mình, mỗi người phải có những chọn lựa quyết liệt. Những tình cảm dành cho cha mẹ vợ con anh em phải nhường bước cho chọn lựa làm môn đệ của thầy Giêsu bởi vì chọn lựa này là chọn lựa giữa sự sống và cái chết. Chỉ có thể ưu tiên chọn lựa thầy Giêsu và con đường thập giá mà thầy đã đi mới có thể có được sự sống đời đời cho chính mình, ngược lại nếu chỉ biết giữ sự sống của mình hay ưu tiên lo lắng cho những người thân thì sẽ phải chết đời đời. Đây vừa là một từ bỏ quyết liệt, vừa là một tính toán và cân nhắc thận trọng của một người thực hiện một việc xây dựng công trình lớn, hay còn là chọn lựa sống chết của một nhà vua xuất quân giao chiến với quân thù. Cần phải chọn lựa và hành động khôn khéo, dám hy sinh để gìn giữ được danh giá nếu không muốn bị người khác chê cười và sự sống của mình nếu không muốn bị quân thù tiêu diệt.

  Chọn lựa của thầy Giêsu phải chăng là một chọn lựa không có nền tảng. Phải chăng thầy Giêsu dẫn đưa các môn đệ của mình đến một ảo tưởng thất bại. Truyền thống khôn ngoan vốn đã là một truyền thống suy tư của những người do thái. Theo truyền thống này, đã bắt đầu có nhận thức về sự bấp bênh của những tính toán con người. Con người có sự thông minh và tri thức, nhưng dù sao phải nhìn nhận là những suy tính của con người vẫn bấp bênh và không chắc chắn lý do là vì tinh thần con người bị lệ thuộc và chi phối bởi thân xác yếu đuối nặng nề. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa không ban khôn ngoan và Thánh Thần của Thiên Chúa, thì con người không thể hiểu thấu thánh ý Thiên Chúa mà sống đẹp lòng người được.

  Môn đệ thì phải theo thầy và ở với thầy, môn đệ còn phải học với thầy để trở nên giống như thầy. Mục tiêu của người môn đệ không phải chỉ là theo thầy trên cùng một con đường mà còn trở nên giống như thầy, chia sẻ cùng một vận mệnh thăng trầm vinh nhục để rồi cũng sẽ tham dự vào vinh quang với thầy. Những người môn đệ của thầy Giêsu không chỉ đến học một ít lý thuyết, nhưng họ thực sự được đào tạo để trở nên giống như thầy, tham dự trọn vẹn vào vận mệnh của Thầy Giêsu, để rồi thực sự được tham dự vào quyền năng và vinh quang của thầy. Học là người môn đệ của thầy Giêsu vì thế bao hàm việc từ bỏ cũng như suy nghĩ chọn lựa. Họ không phải chỉ là những người đi theo một cách ngây ngô, không hiểu biết, mà trái lại, họ phải là những người biết suy tính và chấp nhận trả giá cao cho sự chọn lựa này, ngay cả dám hy sinh tất cả, ngay đến cái chết. Ngược lại, thầy Giêsu của họ sẽ dẫn đưa họ đến sự sống đời đời. Thầy Giêsu đã dùng những lời giáo huấn với ngôn ngữ rất triệt để nhằm cho mỗi người suy nghĩ và cân nhắc cẩn thận trong việc làm và chọn lựa của mình với ý chí vững mạnh xác tín.

Thầy Giêsu muốn huấn luyện những người muốn đi theo người cách thực sự và quyết liệt, người chỉ cho họ thấy những điều kiện thiết yếu nhất mà chính người đang thực hiện để hoàn tất sứ vụ của người: từ bỏ chính gia đình của mình, và sẵn sàng vác thập giá như chính người đã đón nhận cái chết hiến tế trên thập giá. Thầy Giêsu không thực hiện một con đường cứu độ nào khác như người ta hình dung. Lúc bấy giờ, khi cùng theo thầy Giêsu trên con đường đi Giêrusalem, nhiều môn đệ vẫn còn hình dung thầy Giêsu sẽ thực hiện một đường lối cứu thế bằng sức mạnh để chiến đấu chống lại chính quyền Rôma. Thầy Giêsu đã tỏ ra rất là mạnh mẽ đầy quyền năng trong những việc chữa lành cho những người bệnh tật, thậm chí những lần người làm phép lạ để hóa bánh nuôi năm ngàn người ăn no là những dấu chứng người ta hình dung người sẽ thực hiện một cuộc giải phóng dân tộc quyết liệt. Thế nhưng, thầy Giêsu lại đưa ra những điều kiện của một chuộc chiến đấu nội tâm chống lại những cản trở từ trong chính nội tâm của mỗi người. Đây là một chọn lựa bởi khôn ngoan và Thánh Thần Thiên Chúa, vượt lên trên những tầm nhìn hẹp hòi thiển cận của con người. Đây là chọn lựa sẽ dẫn đưa người đến sự sống vinh quang bởi vì theo sự hiểu biết của Thầy Giêsu, nếu người hiến thân chịu chết, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và người sẽ được phục sinh vì chính Chúa Cha sẽ phục sinh người vì người hằng làm theo thánh ý của Chúa Cha.

Về mục lục

.

LÀM MÔN ĐỆ CHÚA: DỄ HAY KHÓ?

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo”và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã sử dụng hai cụm từ này rất khéo léo: “Khi ấy có rất đông người ‘đi theo’ Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi. Ai không vác thập giá mình mà ‘đi theo’ tôi thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi được”.

Quả vậy, có rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết “từ bỏ” và “vác thập giá” thì mới thực sự “là môn đệ” của Chúa Giêsu. Nói cách khác, “người đi theo” chưa hẳn là “người môn đệ”. Cũng như người-nói “Lạy Chúa, lạy Chúa” chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa. Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu. Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, đó là từ bỏ và vác thập giá (x. Sợi Chỉ Đỏ, Chúa Nhật 23 Thường Niên C).

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành mà Chúa Giêsu nói với “đám đông những người” đang đi theo Ngài. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, chứ không nói theo kiểu úp mở, hay như kiểu tiếp thị, quảng cáo để chiêu dụ khách hàng. Ngài nói thẳng rằng theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa.

Giả như Chúa Giêsu bảo rằng ai muốn đi theo Ngài thì lên taxi, lên xe hơi, hay lên máy bay mà đi, có lẽ sẽ có khối người đi theo. Đàng này Chúa lại bảo một chuyện ngược đời: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Gọi là ngược đời vì ở đời có ai thích “vô sản”, có ai thích “khổ đau” bao giờ. Chấp nhận từ bỏ là chấp nhận “vô sản” một cách nào đó, chấp nhận thập giá cũng có nghĩa là chấp nhận “khổ đau” không hơn không kém. Bởi đó, từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.

Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ, càng không muốn vác thập giá. Có những người thờ thập giá nhưng không vác thập giá; vác thập giá của mình, chứ chưa nói đến chuyện vác thập giá của người khác. Có những người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu, nhưng không quý chuộng thập giá mình. Tất cả những người đó không xứng là môn đệ của Chúa Giêsu.

Một điểm nữa rất rõ trong lời mời gọi của Chúa Giêsu là “Hãy vác thập giá hằng ngày”. Vác thập giá không phải chỉ là một ngày hai ngày, một tháng hai tháng, hoặc chỉ vác thập giá của hôm qua hay hôm nay, mà là hằng ngày, mọi ngày trong suốt cả cuộc đời. Ngày nào cũng có thập giá, không nặng thì nhẹ, như lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó”.

John Newton đã nói rằng: “Những khổ sở mà đời ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Thế nhưng, nhiều người lại không làm như vậy: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay, mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và cả khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!”.

Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con cảm thấy chán nản buông xuôi vì những thử thách quá nặng nề. Xin Chúa thêm sức cho chúng con, nhất là cho chúng con có đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để chúng con có thể vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa đến cùng. Amen.

Về mục lục

.

BẠN ĐÃ YÊU MẾN CHÚA Ở THANG BẬC NÀO?

Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh

Một đám rất đông người theo Chúa Kitô, cùng đi với Chúa Kitô. Lý do nào, động lực nào thúc đẩy họ? Vì phép lạ hoặc lời giảng dạy hoặc họ đã nhận ra Chúa là Đức Kitô? Câu hỏi nào cũng có thể đúng với một số người trong đám đông hỗn tạp này cả (x.Lc 14,25-38)

Chúa dạy họ. Ta có thể đoán được cái gì họ chưa có, Chúa mới dạy, “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”, dịch đúng là “Nếu ai đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”.

Một lời dạy đọc ra “chói tai”, vi phạm giới răn thứ tư. Ngôn ngữ Cựu ước thiếu lối so sánh “mà hơn”, họ dùng lối đối ngẫu, cặp đối lập thay vào, thí dụ: Thiên Chúa thương Giacóp và ghét Esau, có nghĩa là “Thiên Chúa thương Giacóp hơn Esau” (Mal 1, 2-3). Như vậy, lời Chúa dạy trên phải hiểu: Nếu ai đến với Ta mà thương yêu cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình hơn Ta thì không thể làm môn đệ Ta.

Đó là điều kiện tiên quyết đòi hỏi rất hợp lý hợp tình. Đặt Chúa trên các giá trị khác. Tình gia đình sâu thẳm, ai cũng nhận thế. “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, nhưng công của Chúa, tình của Chúa thương ta còn hơn cả cha mẹ, mến Chúa hơn cha mẹ là đúng. Chúa là cha mẹ ở bậc cao nhất vì Chúa tạo dựng mọi sự, quan phòng và cứu chuộc, chết cho ta đươc sống nên ta mến Chúa hơn cha mẹ là đúng.

Ai còn đặt một thứ tình yêu nào trên tình yêu Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Chúa.

Biết đặt đúng giá trị con người, sự vật, biết ưu tiên cho tình yêu mến Chúa ta phải từ bỏ, phải hy sinh, phải chịu thiệt cái này cái kia nghĩa là phải vác thập giá theo Chúa. Không hy sinh, không từ bỏ, không hạn chế điều này điều kia, ta chỉ có thể mến Chúa ngang hàng với những thứ khác (tiền bạc, danh vọng, vợ con), ta không xứng đáng làm môn đệ Chúa.

Nền tảng của con người môn đệ Chúa là yêu mến Chúa hơn mọi thứ khác hợp lý, hợp luật (yêu cha mẹ là hợp lý hợp luật, yêu anh chị em là hợp lý hợp luật v.v…). Còn thứ hạng của môn đệ, cách thể hiện người môn đệ thì khác nhau. Không phải ai cũng bỏ mọi sự theo Chúa như Mười Hai Tông đồ được. Có người xin theo Chúa, Chúa đã dạy ở nhà làm “Tông đồ giáo dân”. Chúa nói với đám đông hai dụ ngôn để họ cân nhắc, ước lượng sức của mình, biết mình nên thuộc loại môn đệ nào:

Dụ ngôn xây tháp, phải tính toán tiền bạc xem có đủ không. Xây dở chừng, không hoàn thành, người ta sẽ cười cho.

Dụ ngôn ông vua sắp đi giao chiến với vua khác, tính toán cẩn thận xem mình có đủ lực thắng không. Không thắng thì tốt nhất là đi cầu hòa, hiệp thương.

Như vậy, đối với những người theo Chúa để làm Tông đồ như linh mục, tu sĩ đã dấn thân thì nên dấn thân trọn vẹn vì đã suy tính cân nhắc rồi. Từ bỏ tất cả để sống phục vụ Chúa và tha nhân. Bất nhất là không ra gì hết.

Đối với giáo dân, đời sống trần thế là đối tượng tông đồ, làm sao cho mọi sinh hoạt trần thế có tinh thần Tin Mầng. Gia đình, công sở, xí nghiệp, chợ búa, khu xóm đều là nơi ta tiếp xúc, làm việc, sinh sống thể hiện người môn đệ của Chúa. Đời sống nào cũng phải đúng đắn, hợp luật. Thanh niên chưa lập gia đình, phải sống đời “độc thân tạm thời” cho thật đàng hoàng, đạo đức. Người lập gia đình, chọn bạn trăm năm chứ không phải mười năm, đôi ba năm rồi ly dị. Người công nhân phải chuyên cần, đem sức lao động phục vụ bản thân, gia đình và xã hội.

Đời sống nào cũng đòi hỏi quyết tâm, dấn thân trong tinh thần vì yêu mến Chúa hơn tất cả.

Về mục lục

.

MỘT SỰ NGHỊCH LÝ

Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan

Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa.

Chúa đưa ra ví dụ người xây tháp, ông vua ra trận. Làm gì thì cũng phải tính xem mình có đủ sức hoàn thành không đã. Nhưng kết luận làm ta chưng hửng và há miệng suy nghĩ: “Cũng giống như thế, ai trong các ngươi không từ bỏ hết mọi của cải thì không thể làm môn đệ ta”. Trước đó, Chúa đã nói đến phải từ bỏ những người ruột thịt và chính mạng sống mình.

Cái nghịch lý ở đó. Muốn xây tháp phải có tiền. Muốn thắng trận phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Vấn đề không còn là có nhiều có ít mà là từ bỏ tất cả.

Thế nghĩa là gì? Từ bỏ tất cả để theo Chúa nghĩa là coi Chúa hơn tất cả và tin vào một mình Chúa. Muốn xây tháp phải có tiền, muốn thắng trận phải có lính, còn muốn theo Chúa phải coi Chúa hơn hết mọi người và mọi sự và tin tưởng vào Chúa hơn hết mọi sự, mọi người: tin vào Chúa mà thôi. Bởi vì muốn theo Chúa thì phải sống bằng lòng tin, cậy, mến.

Nếu không coi Chúa hơn hết mọi người, mọi sự thiết thân với ta, và ta cảm được sự gần gũi bằng giác quan, ta sẽ dựa vào những người và những vật ta thấy được, nên bóng tối đến, khi ta không cảm thấy Chúa đâu nữa, mà chỉ cảm thấy sức nặng của cuộc sống, của vất vả và đau khổ, ta sẽ dễ dàng bỏ Chúa để quay về với những người và những vật ta cảm thấy được.

Cuộc chiến đấu của Chúa Kitô là cuộc chiến đấu chống lại Satan chứ không phải với kẻ thù bằng xương bằng thịt, nên ta không thể dựa vào người nào hoặc sức mạnh nào của vật chất mà chiến thắng được, song phải dựa vào Chúa mà thôi. Đây vẫn là cuộc chiến đấu Đavít – Goliath: “Ngươi cầm gươm giáo ra đánh ta, còn ta, ta ra đánh ngươi nhân danh Chúa mà ngươi thách đố” (1Sam 17,44). Thế đấy, tuy Đavít đã có thể vỗ ngực trước mặt Saulê rằng mình đã từng tay không đánh nhau với sư tử và gấu để bảo vệ đoàn chiên của cha, nhưng khi nghênh chiến tên khổng lồ Goliath thì Đavít chỉ dựa vào Chúa thôi, và Đavít đã thắng, hay đúng hơn Chúa đã dùng tay Đavít mà tiêu diệt Goliath giải thoát cho dân Chúa.

Đây là vấn đề vinh danh Chúa. Chúa thi thố quyền năng để làm vinh danh Chúa, nên Chúa chỉ ra tay khi người ta không mưu toan chiếm đoạt vinh quang Chúa bằng cách gán cho thế lực, của cải hay tài sức mình. Trong chuyện Ghiđêon, Chúa đã bảo ông đuổi bớt người tình nguyện về, chỉ lấy 300 thôi, kẻo dân chúng lại tưởng nhờ sức họ mà họ chiến thắng.

Trong lịch sử, Chúa vẫn hành động như thế, Chúa hạ kẻ kiêu căng, tự phụ và nâng kẻ nghèo hèn, khiêm tốn lên. Có những vị thánh thông thái, tài ba… nhưng các vị ấy đều khiêm nhượng, nhìn nhận quyền năng của Chúa và sự yếu đuối của mình; có những vị thánh yếu đuối, dốt nát như thánh nữ Catarina de Sienna, thánh Gioan Maria Vienney để làm nổi bật quyền năng của Chúa.

Cái có vẻ nghịch lý lại là một hợp lý khi người ta biết nhìn ra ý nghĩa đích thật của việc đi theo Chúa, với mục đích là vinh danh Chúa và sức mạnh là sức của Chúa. Phải đặt Chúa lên trên hết vì Chúa là lẽ sống duy nhất của mình, vì đường lối của Chúa là duy nhất cho mình, và sức mạnh của Chúa là nguồn sức mạnh duy nhất để hoàn thành được cuộc hành trình theo sau Chúa, đi với Chúa.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU LÀ ĐỘNG LỰC ĐỂ ĐI THEO CHÚA GIÊSU

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Vẫn trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu biết đau khổ và cái chết đang chờ đón ở cuối cuộc hành trình. Ngài phải uống chén đắng. Tuy nhiên, khi đến giờ, Ngài thấy nó không dễ. Ngài phải trải qua một cơn hấp hối kinh hoàng và đã xin Chúa Cha cất chén ấy. Thế nhưng, Ngài đã giữ vững lòng trung tín. Điều làm cho Ngài kiên vững, đó là tình yêu. Ngài yêu Chúa Cha, muốn thực hiện ý định của Người. Ngài biết Chúa Cha muốn bày tỏ tình yêu sâu xa của Người với nhân loại, qua sự thành tín và lòng yêu thương của Ngài. Lòng thành tín và yêu thương này được trả bằng chính mạng sống của Ngài. Bởi vậy, Ngài sẵn sàng vâng lời Chúa Cha: Chết khổ nhục trên Thập giá. Qua cái chết đó, Ngài cũng thể hiện tình yêu của Mình đối với nhân loại: “Không ai có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13).

Đang khi đó, có rất đông người cùng đi với Đức Giêsu, nghĩ rằng: Ngài là Đấng Messia, là nhà lãnh đạo quân sự, một Đavít mới, tiến về Giêrusalem, để giải phóng Israel khỏi sự áp bức đô hộ của người Lamã, khôi phục đất nước. Đức Giêsu không muốn họ theo Ngài cách mù quáng. Ngài không che dấu những khó khăn, vất vả, hi sinh. Ngài cho họ biết, đi theo Ngài sẽ gặp nhiều đau khổ: Phải “dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình” (Lc 14, 26).

Nelson Mandela, một người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Hans Muler, một thương gia, nhìn thế giới qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Mandela: “Tất cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải chiến đấu cho điều đó: Tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn cóđủ tiền bạc, bạn không muốn cái gì khác trên đời”. Nếu Nelson Mandela làm theo lời khuyên của Hans Muler, ông có thể làm rất tốt cho bản thân. May mắn thay cho Nam Phi. Thay vì lo cho bản thân, Nelson Mandela đã quyết định cống hiến cuộc đời mình cho việc phục vụ đất nước.

Để làm điều đó, Mandela đã phải hy sinh, ông viết: “Đối với tôi, không phải là một việc dễ dàng khi phải xa cách vợ con, giã từ những ngày xưa tươi đẹp ấy, và sau một ngày làm việc hăng say ở văn phòng. Tôi có thể quay về với gia đình trong bữa ăn tối, thay vì phải sống như một người bị cảnh sát săn đuổi liên tục, sống xa cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những sự bất trắc như bị nhận dạng và bắt giữ. Đó là một đời sống cực kỳ khó khăn hơn cả chịu án tù (Trích “Hành trình đến tự do”, 1994, Little, Brown and Company). Nelson đã chịu 27 năm tù đày vì yêu đất nước. Ông đã trở thành tổng thống vĩ đại của Nam Phi.

Phêrô, một hôm, đã hỏi Chúa: “Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con được gì?”. Đức Giêsu trả lời: “Chúng con sẽ được gấp trăm ở đời này, cùng với sự bắt bớ và tù đày”.

Vâng, làm môn đệ theo Đức Giêsu, phải chịu bắt bớ, tù đầy. Môn đệ không hơn Thầy. Đức Giêsu đã chịu đau khổ, môn đệ không có con đường nào khác. Nhưng cái gì làm môn đệ có thể chịu đau khổ? Thưa, tình yêu. Chỉ có tình yêu mới làm được mọi sự. Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn, bị cáo gian, bị xỉ vả, đánh đòn, chế nhạo, phỉ nhổ, đội mão gai, đóng đinh vào Thập giá… Người đã chịu tất cả những điều đó vì tình yêu. Hơn nữa, Người đã biến đổi đau khổ, sự nhục nhã thành tình yêu thương và sự tha thứ. Đó là chiến thắng của tình yêu trên mọi sức mạnh hủy diệt. Trong Người, không có gì khác ngoài Tình yêu thương. Ngay cả khi chịu đóng đinh, Người vẫn yêu thương: “Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Những đau khổ của Người sẽ ra vô ích, nếu Người không chịu đựng với tình yêu thương. Không phải những đau khổ của Người đã cứu rỗi nhân loại, nhưng bởi tình yêu thương của Người.

Ai giả bộ thích chịu đau khổ, thật điên rồ. Đau khổ là thứ hầu hết chúng ta muốn tránh. Thế nhưng, người môn đệ của Đức Giêsu sẵn sàng chịu đau khổ vì yêu. Vì yêu, họ có thể dứt bỏ cha mẹ, anh em, chị em và cả mạng sống mình (Lc 14, 26). Vì yêu, họ sẵn sàng phục vụ mọi người. Vì yêu, họ chấp nhận mọi đau khổ. Họ tỏ lòng trung tín của mình trong đau khổ. Đau khổ là cách thể hiện tình yêu cao vời nhất.

Để thực hiện điều đó. Người môn đệ cần phải lượng sức mình, phải tính toán xem mình có đủ khả năng tiến bước hay không. Chúng ta không thể làm việc gì quá khả năng. Nhưng tất nhiên, chúng ta không biết trước khả năng của mình đến đâu. Chúng ta có thể tự đánh giá khả năng của mình hoặc quá thấp, hoặc quá cao. Điều quan trọng nhất là tự biết mình. Đức Giêsu đã đưa ra hai dụ ngôn ngắn: Người xây tháp và vua đi giao chiến. Một người xây tháp cần phải tính toán phí tổn, xem có hoàn thành nổi không? Vua đi giao chiến, phải tính xem số lượng quân đội của mình, có đủ sức đương đầu với đối phương không? Qua hai dụ ngôn đó, Ngài muốn bảo: Những ai muốn theo làm môn đệ của Ngài, cần phải suy nghĩ chín chắn.

Có thể, có một ai đó theo Chúa, nhưng không phải là môn đệ, họ chỉ là kẻ theo đóm ăn tàn trong một công việc vĩ đại, chỉ là người nói chứ không làm. Có một vị vua đến thăm Thiền viện của thiền sư Lin Chi, ông kinh ngạc vì có đến mười ngàn tu sĩ ở đó. Muốn biết chính xác con số các tu sĩ, nhà vua hỏi thiền sư: “Thầy có bao nhiêu mônđệ?” Lin Chi đáp: “Có bốn hoặc năm người”.

Phần những người đi theo Đức Giêsu, Ngài cũng hỏi: Có bao nhiêu người là môn đệ đích thực của Ta.

Về mục lục

.

ĐIỀU KIỆN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ

Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Trong bài Tin Mừng hôm nay, tuy ngắn, nhưng có một câu được lập lại ba lần: “thì không thể làm môn đệ tôi được”. Lời tuyên bố trên của Đức Giêsu hướng dẫn bài suy niệm của chúng ta hôm nay về những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Người.

“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa… Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Đây là một trong những đoạn Tin Mừng khó hiểu và khó nghe: làm thế nào để dung hòa được tình yêu bao la của Thiên Chúa với sự tàn nhẫn của đoạn văn vừa nghe mà chúng ta phải loan báo như một Tin Mừng? Làm thế nào để dung hòa được lòng nhân hậu của Đức Giêsu với những lời tuyên bố làm cho chúng ta liên tưởng đến một số đầu óc bè phái phải từ bỏ ý muốn riêng để nghe theo một cách mù quáng thủ lãnh của mình?

Để dung hòa những điều trên có vẻ mâu thuẫn, chúng ta cần phải hiểu thế nào là đi theo Đức Giêsu, để trở nên môn đệ Người. Câu tuyên bố của Đức Giêsu, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen, nhưng theo nghĩa bóng. Chúa không bảo chúng ta ích kỷ, coi thường cha mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em mình và bao điều tốt đẹp khác! Chúa cũng không muốn chúng ta chểnh mảnh bổn phận đối với gia đình và xã hội. Chính Đức Giêsu đã nhắc lại điều răn thứ bốn Thiên Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Mt 15:4).

Từ bỏ mọi sự để theo Chúa không có nghĩa là từ bỏ hạnh phúc của mình. Chúa muốn những ai theo Người phải biết đặt bậc thang giá trị trong tình yêu: yêu Chúa trước nhất, rồi sau đó mới đến các tình yêu khác; tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa phải là nguồn mạch các liên hệ tình cảm khác. Một khi đã gắn bó mật thiết với Chúa Kitô thì hẳn nhiên chúng ta sẽ có một thái độ khác đối với các liên hệ gia đình, bạn bè và xã hội, đối với của cải vật chất và đối với chính mạnh sống của mình.

Hai dụ ngôn “xây cây tháp” và “cuộc giao chiến” cho chúng ta biết thế nào là dấn thân theo Chúa Kitô. Không ai khởi sự xây nhà nếu biết mình không đủ vật liệu để hoàn tất. Một ông vua không nên đi giao chiến nếu biết quân địch đông và mạnh gấp đôi quân của mình. Đời sống Kitô hữu giống như một cuộc xây dựng phải hoàn thành, và đồng thời giống như một cuộc giao chiến trường kỳ. Hai công việc khó khăn nhưng rất quan trọng nầy đòi hỏi sự suy nghĩ chín chắn và kiên trì.

Chúng ta thường làm tổng kết cuối năm, biết tính toán và dự kiến cho những công việc loài người, nhưng chúng ta có biết thỉnh thoảng ngồi lại một mình hoặc với người khác, để suy nghĩ, kiểm điểm đời sống đạo đức, để phân định được những hành động của mình có đúng với giáo huấn của Chúa Kitô hay không? Đó là mục đích của các cuộc tỉnh tâm (Linh thao, Cursillo, v…v…).

Tùy theo ơn gọi riêng của mỗi người, tất cả chúng ta đều được kêu mời bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ Người, vì chỉ có Người mới có thể đem lại niềm vuui, bình an và hạnh phúc thật sự.

Về mục lục

.

CUỘC XUẤT HÀNH MỚI

Đỗ Lực

Theo Tin Mừng Luca, chúng ta đồng hành với Ðức Kitô về Giêrusalem. Ðó là lúc Chúa hướng tới cuộc Khổ nạn và mầu nhiệm Vượt qua, tới cuộc “vượt qua” như đã nói trong trình thuật Hiển Dung: Ðức Kitô biến hình “đàm đạo với ông Môsê và Êlia về cuộc xuất hành chắc chắn sắp xảy ra tại Giêrusalem.” (x. Mt 17:1-8; Mc 9:2-8)

Chính trên chặng đường này, Ðức Giêsu đưa ra những lời khuyên rõ ràng cho những ai muốn theo Người: “Nếu ai muốn theo tôi…” (Lc 14:26-27) Những lời Chúa nói tuần này thực khó nghe ! Ðó là những lời khiến chúng ta phải “xuất hành,” nghĩa là phải dứt bỏ thế gian để được giải thoát và sống tự do, theo kiểu xuất hành khỏi Ai cập và thoát khỏi ách nô lệ xưa.

Vậy đâu là những lời Ðức Giêsu khuyên những người muốn theo Người?

LÊN ÐƯỜNG

Chắc chắn khi lên đường trốn khỏi Ai cập, dân Chúa đã phải bỏ lại tất cả sự nghiệp, của cải, nhà cửa, có khi cả người thân lại đằng sau. Nếu không nhẹ gánh, họ không thể lên đường nhắm thẳng tới Ðất Hứa. Muốn theo Ðức Kitô, người môn đệ cũng phải làm một cuộc xuất hành tương tự. Trước hết, họ phải dứt bỏ những mối liên hệ gia đình. Ðây là một cuộc dứt bỏ sâu xa nhất và khó khăn nhất. Cuộc dứt bỏ này không mang tính tiêu cực hay phủ nhận những giá trị căn bản của con người. Nhưng cuộc dứt bỏ này cần thiết như một khởi điểm giúp người môn đệ có thể hướng thẳng về Ðất Hứa. Không dứt bỏ gia đình, không thể tự do theo Chúa. Chỉ khi nào nhận ra Chúa là giá trị tuyệt đối, vượt trên mọi liên hệ gia đình, con người mới có thể hoàn toàn dồn hết tâm lực vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Quyết định làm môn đệ Chúa Kitô đòi hỏi một lựa chọn tuyệt đối, không khoan nhượng. Tin Mừng hôm nay mạnh mẽ nhắc lại điều đó. Ðề nghị của Chúa Giêsu không nhằm tách biệt những người thợ Nước Trời khỏi gia đình. Ðối với Ðức Giêsu, điều quan trọng là phải mở rộng tầm nhìn tới những chân trời rộng lớn hơn. Chính lúc yêu mến Chúa Kitô hơn cha mẹ, anh em, chúng ta có khả năng yêu mến họ một cách khác, yêu họ bằng một tình yêu vô vị lợi và sạch hết mọi dấu hiệu chiếm đoạt hay ích kỷ thường hay chi phối các mối liên hệ của chúng ta. Chọn Chúa Kitô là đáp trả lại lời mời gọi rất mạnh bạo, không cho ta trì hoãn một giây phút nào. Phải luôn cấp thiết đáp trả lại lời mời gọi của Tin Mừng. Trì hoãn chỉ xoi mòn hay làm hư con người, những khát vọng, đam mê, ơn gọi của mình.

Gia đình vẫn chưa phải là giá trị lớn nhất người môn đệ phải từ bỏ. Giá trị lớn nhất có lẽ là chính cái tôi của mình. Có thể tất cả mọi sự đều trở thành vô nghĩa trước cái tôi. Bởi thế, Chúa mới đòi hỏi gắt gao: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:27) “Thập giá mình” lộ diện khi búa rìu dư luận xối xả bổ xuống đầu chúng ta. Một sớm một chiều tất cả thanh danh có thể tan ra mây khói. Làm sao chịu đựng nổi khi phải chịu “xỉ nhục” hay mất hết tiếng tăm vì Ðức Kitô, mà “không hổ thẹn vì Người”? Sống giữa xã hội Hồi giáo hay Âu Mỹ đang tục hóa, các Kitô hữu can đảm chừng nào mới có thể hy sinh theo Ðức Kitô ! Theo thánh Ghêgôriô, cứu cánh đời người là “làm cho mình nên giống Thiên Chúa.” Muốn thế, cần phải có “một cuộc hành trình lâu dài, một cam kết kiên định. Nhờ đó, tín hữu chiến đấu không ngừng để thực hành các nhân đức và đạt đến ân sủng lớn lao hơn. Ðó là một tiến trình “Thiên Chúa liên lỉ mở rộng những khả năng cho linh hồn.” ÐGH Bênêđictô nói, thánh Grêgôriô khuyên dạy các môn đệ noi gương Ðức Kitô “hình ảnh tuyệt hảo của Chúa Cha, là mẫu điển hình và là thày chúng ta.” [i] Khi tâm hồn có những khả năng vô giới hạn, thì cái tôi của mình không có lý do gì ngừng lại để tự mãn với chính mình.

Trong cuộc đời thường, ai không cần của cải để sống? Nhưng ở đây, Chúa đòi hỏi người môn đệ phải dứt khoát quyết liệt hơn, vì về một phương diện nào đó, của cải cản trở con đường loan báo Tin Mừng. Làm sao dồn tất cả chí thú vào của cải con người còn có thể gắn bó với Ðức Kitô? Làm sao đã coi tất cả của cải là phương tiện duy nhất bảo đảm cuộc sống, con người lại có thể hoàn toàn phó thác cho Chúa Kitô để trở thành môn đệ đích thực của Người? Nếu Ðức Kitô là tất cả, người ta không thể sở hữu hay chiếm hữu tất cả mà vẫn hướng về Người. Thực tế, có rất nhiều người đã hy sinh gia đình và bản thân, nhưng lại không thể bỏ của cải. Trái lại, họ còn sẵn sàng dùng mọi mưu kế lừa gạt và trù dập anh em để bước lên đài danh vọng. Chưa dứt khoát với của cải, làm sao có thể theo Chúa Kitô đi giải thoát nhân loại?

Muốn theo Ðức Kitô, cần phải biết Chúa dẫn mình tới đâu và phải có những điều kiện nào. Không từ bỏ tất cả, cuối cùng con đường sẽ dẫn tới ngõ cụt hay luẩn quẩn mãi với cái tôi của mình. Cuối cùng, nhìn lại chẳng thấy Chúa đâu, chỉ thấy mình mà thôi ! Bởi thế, phải tính toán thật kỹ, y như xây nhà và đánh trận vậy ! Xây nhà hay đánh trận, cả hai đều cần thiết cho cuộc sống. Cả hai đều cần có những tính toán rất cẩn thận. Nếu không, sẽ ảnh hưởng tới mọi người, từ trong gia đình đến ngoài xã hội.

Công cuộc xây dựng Nước Thiên Chúa còn lớn lao hơn. Một tay phải xây dựng. Một tay phải lo chiến đấu. Bởi thế, người môn đệ càng cần đến sự khôn ngoan Thiên Chúa. Sự khôn ngoan đó chính là Thánh Linh do Ðức Kitô trao ban. Chỉ Thánh Linh mới có thể ban cho chúng ta sự khôn ngoan sáng suốt và sức mạnh chu toàn sứ vụ. Thực thế, Thiên Chúa quan phòng để “con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.”(Kn 9:18) Nếu không, con người sẽ lạc hướng và đánh mất cứu cánh cuộc đời.

TỰ DO THEO CHÚA

Nhờ Thánh Linh, sau khi từ bỏ mọi sự, người môn đệ mới có thể tự do bay trên đường theo Chúa. Có tự do, con người mới có thể hy sinh đáp lại ơn gọi của Chúa một cách tự nguyện và vui tươi. Tự do là một hồng ân cao quý nhất của con người. Chính Tin Mừng đem lại tự do và ý nghĩa cho cuộc sống. Chính vì muốn bảo vệ tuyệt đối giá trị cao cả đó, Ðức Giêsu đã có những lời đinh tai nhức óc cho các môn đệ: “Nếu không ghét cha mẹ, vợ con, của cải và cả mạng sống, bạn không thể làm môn đệ tôi.” (Lc 14:26) Lý do, vì những thực tại này dễ dàng cầm chân môn đệ.

Giữa hoàn cảnh không ai thèm đếm xỉa hay vi phạm trật tự kinh tế, xã hội, pháp lý, chính trị, người môn đệ phải phấn đấu tới mức nào mới đủ khả năng giải thoát đồng loại? “Những hoàn cảnh mù quáng và bất công đó làm tổn thương đời sống đạo đức và làm cho những người khỏe mạnh cũng như đau yếu sa chước cám dỗ mà phạm tội nghịch đức bác ái. Khi sống xa luật đạo đức, con người xâm phạm tự do của mình, tự nhốt chính mình, phá vỡ tình đồng loại và chống lại chân lý Thiên Chúa.”[ii] Tất cả đều do bất công.

Không gì phi nhân và trái đạo đức bằng những hành vi bất công xã hội. Bởi đó, “đẩy xa bất công là cổ vũ tự do và phẩm giá con người: tuy nhiên, “việc phải làm trước tiên là kêu gọi cá nhân vận dụng khả năng tinh thần và đạo đức cũng như cần liên tục sám hối nội tâm, nếu người ta muốn thực hiện những thay đổi về kinh tế và xã hội để thực sự phục vụ con người.”[iii] Nói khác, tất cả mọi cải tổ đều bắt đầu từ nội tâm. Không xây trên nền tảng đạo đức, mọi tiến bộ đều trở thành vô nghĩa và vô ích.

Cái gì bảo đảm những tiến bộ hôm nay đem lại lợi ích sâu xa, thực tiễn và lâu dài cho nhân loại? Không theo hướng đạo đức, các tiến bộ khoa học chỉ nô lệ hóa và trở thành mối nguy cho nhân loại. Không phải nhân loại thiếu kỹ thuật hay nhân sự, nhưng thiếu chính linh hồn cho nền văn hóa và văn minh nhân loại hôm nay. Không đạo đức, tiến bộ đi đến chỗ phi nhân, cuồng loạn. Xã hội gồm toàn những con người cô đơn, bệnh hoạn. Bởi thế, “trong thời đại toàn cầu hóa, muốn ổn thỏa thống nhất toàn bộ, con người phải bảo vệ nhân quyền. ‘Về phương diện này, không những hình ảnh chưa được hoàn chỉnh về một công quyền quốc tế hiệu lực để phục vụ con người, nhưng thực tế còn nhiều do dự trong cộng đồng quốc tế về bổn phận phải tôn trọng và thực thi đầy đủ nhân quyền. Chúng ta đang chứng kiến một khoảng cách đáng lo ngại giữa một loạt những ‘quyền’ mới được cổ vũ trong các xã hội tân tiến – hệ quả sự phồn thịnh và kỹ thuật mới – và các quyền làm người cơ bản còn chưa đạt được trong hoàn cảnh kém phát triển.’”[iv] Nhân loại đang nỗ lực xây dựng một tòa nhà chọc trời, nhưng không lo chuẩn bị một ông chủ xứng đáng cho ngôi nhà đó. Kết quả rỗng tuếch.

Vì quá chú tâm làm giàu về mọi phương diện, con người quên mất hướng sống cần thiết cho cuộc đời. Ngược lại, vì muốn trang bị cho các môn đệ một khả năng giải thoát nhân loại, Chúa Giêsu kêu gọi từ bỏ mọi sự theo Người. Nếu không, lịch sử nhân loại sẽ đi đến chỗ bế tắc. Muốn tạo lập ý nghĩa và giá trị đích thực cho cuộc sống, con người phải tìm đến Người. Thực vậy, “Chúa Giêsu là nguyên mẫu và nền tảng của nhân loại mới. Trong Người, chúng ta thấy sung mãn “hình ảnh Thiên Chúa.” (2 Cr 4:4) Thiên Chúa đã làm sáng tỏ trên cây thập giá của Ðức Kitô tất cả chứng từ dứt khoát của tình yêu.

QUÊ HƯƠNG CHẮP CÁNH

Ngày nay quá nhiều chợ trời đang họp trên mạng. Giữa cảnh bát nháo đó, Tin Mừng rao giảng cho ai? Có ai còn nhớ Chúa Kitô không?! Người ta nhằm đích danh từng người anh em để hạ nhục và bôi nhọ. Làm như thể chỉ mình mới là người công chính, còn những kẻ khác đều phải ăn năn sám hối, vì không cùng lập trường với mình.

Nếu là môn đệ đích thực của Chúa Kitô, chúng ta phải đấm ngực mình trước tiên. Kêu gọi người khác sám hối theo chiều hướng mình, chứ chắc gì theo Chúa Kitô, người ta đã vô tình làm hại đến danh dự Giáo Hội và sỉ nhục thánh danh Chúa Giêsu. Người kêu gọi chúng ta theo Người, chứ không theo bất cứ ai, dù người đó có quyền chức cao sang và thánh thiện tới mấy.

Muốn theo Chúa Kitô, phải hoạt động tranh đấu cho nhân quyền. Thực vậy, “nơi Người lịch sử giữa Thiên Chúa và con người được hoàn thành. Nói khác, Ðức Giêsu bày tỏ rõ ràng và dứt khoát đường lối Thiên Chúa hành động cho con người, cả nam lẫn nữ,”[v] có đủ tư cách làm người. Thiên Chúa lo lắng cho từng người.

Trước tình trạng đất nước hôm nay, những người con của Mẹ Việt nam phải làm gì? Tới nay, tiếng Chúa vẫn vang lên: “Ai muốn theo tôi…”

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết từ bỏ mọi sự để tự do theo Chúa trên mọi nẻo đường. Amen.

————————————————-

[i] CWNews.com 05.09.

[ii] Giáo Lý Công Giáo, 1740

[iii] Hội Ðồng Giáo Lý Ðức tin, Giáo Huấn Libertatis Conscientia, 75: AAS 79, trích lại từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.

[iv] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 365.

[v] Ibid, số 28.

Về mục lục

.

TỪ BỎ.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Có một câu chuyện kể rằng: Một vị linh sư Ấn giáo nổi tiếng kia đang ngồi tĩnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu có đến xin làm môn sinh. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc quý giá để làm của lễ ra mắt. Vị linh sư mở mắt ra nhưng không tỏ lộ một thái độ nào, không cần nhìn kỹ vào món quà quý giá ấy, ông cầm lấy một viên ngọc và ném xuống sông. Vì tiếc của, người đàn ông liền lặn xuống sông để tìm lại viên ngọc. Nhưng mất suốt một ngày mà ông không tìm lại được. Chiều đến, mệt mỏi và chán chường, ông mon men đến bên vị linh sư và nài nỉ: “Ngài đã ném viên ngọc xuống chỗ nào xin ngài chỉ cho tôi để tôi lặn xuống tìm lại?”. Không nói gì, vị linh sư cầm lấy viên ngọc còn lại ném xuống sông và nói: “Đó, ta đã ném vào chỗ đó, ngươi hãy lặn xuống mà tìm lại”. Cử chỉ của vị linh sư Ấn giáo trên đây cho biết một đòi hỏi gay gắt đối với những ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ phải từ bỏ tất cả.

Chúa Giêsu cũng đòi hỏi một sự từ bỏ như thế: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu nói những lời trên là chỉ nói với các môn đệ ngày xưa hay với những linh mục và tu sĩ ngày nay. Không phải thế, chắc chắn Chúa không có ý nói đến những người đi tu mà thôi, nhưng nói với tất cả mọi người. Thực vậy, những điều Chúa nói trên đây có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa đen, nghĩa chặt áp dụng cho những người đi tu, và nghĩa bóng, nghĩa rộng áp dụng cho mọi người.

Nếu hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là hiểu theo sát nghĩa từng chữ, thì đây là điều kiện Chúa đòi hỏi những người theo Chúa và thực sự những ngừơi đi tu đã thực hiện, đã sống theo những lời Chúa nói. Trong cuộc đời của các thánh, chúng ta thấy nhiều vị đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen, có những vị đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo; có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền; có những vị đã bỏ hết tiền bạc của cải để theo Chúa; có những vị đã bước qua con cái để ra đi dâng hiến cuộc đời cho Chúa, hay chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình để được đi tu; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt để được thong dong theo Chúa.

Chẳng hạn thánh Phan-xi-cô Át-si. Truyện kể rằng khi còn là một thanh niên lêu lổng, Phan-xi-cô thường hay đi lễ trễ Chúa nhật. Có một lần khi vừa đến cửa nhà thờ, thì vị chủ tế đang đọc bài Tin Mừng, Phan-xi-cô nghe rõ được câu: “Nếu con muốn nên hoàn thiện thì hãy về bán hết gia sản, bố thí cho kẻ nghèo, rồi đến đây theo Ta”. Phan-xi-cô xác tín lời ấy Chúa nói với chính mình, anh trở về và thực hành đúng như lời Chúa, tơ lụa, vải vóc trong cửa hàng bề thế của gia đình anh đem phân phát cho người nghèo rồi đi theo Chúa và trung thành với sự nghèo khó suốt đời, nên chúng ta thường gọi là thánh Phan-xi-cô khó nghèo.

Trường hợp của thánh Béc-na cũng rất hay. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài sớm nhận ra rằng: khó mà được rỗi linh hồn nếu sống ở thế gian, nên ngài đã quyết định từ bỏ, ngài xin đi tu và còn kéo theo bốn người em nữa. Trước khi lên đường, năm anh em đã nói với người em út, tên là Ni-va: “Vĩnh biệt em Ni-va, các anh đi đây, các anh để lại tất cả đất đai, nhà cửa và của cải cho em”. Ni-va trả lời: “Các anh khôn thấy mồ, các anh chọn trời và để lại đất cho em, em không bằng lòng đâu”. Vì thế, sau này Ni-va cũng theo các anh vào tu viện, từ bỏ đất để chọn trời, từ bỏ thế gian để chọn nước trời.

Những trường hợp trên và nhiều trường hợp khác là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Dầu sao những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa nói: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận nhà dòng làm gia đình và nhận những người cùng chí hướng làm anh em, chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh.

Tuy nhiên, nếu hiểu điều kiện từ bỏ theo nghĩa rộng là Chúa nói với mọi người, thì điều đó có nghĩa là phải ưu tiên dành cho Chúa và làm mọi việc để phụng sự Chúa mà thôi, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như danh vọng và của cải trần gian. Đây là một đòi hỏi có tính cách khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: dụ ngôn người muốn xây tháp hay xây nhà và dụ ngôn ông vua hay ông tướng sắp lâm trận: phải biết lượng sức mình, phải biết đánh giá đúng khả năng của mình, tức là phải tính toán cẩn thận để khỏi hỏng việc, thiệt hại hay thất bại.

Nói rõ hơn, đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, nghề nghiệp để đi tu, nhưng Chúa đòi hỏi phải biết từ bỏ những gì cản bước chân chúng ta đi theo Chúa, những gì làm chúng ta xa Chúa, mất sự bình an, nhất là mất Chúa, mất hạnh phúc nước trời.

Tóm lại, không thể làm môn đệ Chúa nếu không dám dứt bỏ, mà lám sao dứt bỏ được nếu không có tình yêu, nên điều kiện theo Chúa là phải có một tình yêu lớn mạnh. Có tình yêu chúng ta sẽ làm được tất cả, và dứt bỏ vì yêu, chúng ta sẽ thấy nhẹ hơn và dễ hơn. Nói khác đi, từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu, khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.

Về mục lục

.

CHỌN LỰA THIÊN CHÚA LÀ DUY NHẤT

An Phong

Tin Mừng Chúa Nhật 23 Thường Niên C gồm hai phần. Phần đầu là lời kêu gọi từ bỏ con người mình, vác thập giá theo chân Chúa Giêsu. Phần thứ hai là dụ ngôn “xây tháp” và “đi giao chiến”. Ý nghĩa chính của hai dụ ngôn này là trước khi tiến hành một công việc quan trọng, người ta phải xem xét mình có đủ khả năng, nguồn lực để đạt được thành công hay không. Và cuối cùng là lời áp dụng “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Lời kết luận này là giáo huấn, là lời mời gọi cho tất cả mọi kitô hữu, những người môn đệ của Đức Giêsu.

Đức Giêsu mời gọi hãy từ bỏ. Từ bỏ là một thái độ sống thực tế của người kitô hữu. Từ bỏ nghĩa là hy sinh vì lý tưởng, vì Thiên Chúa. Người kitô hữu từ bỏ không phải là điều kiện để trở nên một môn đệ Đức Giêsu, nhưng là điều kiện để luôn luôn trung thành là người môn đệ. Là người môn đệ tức là luôn chọn lựa Đức Giêsu là Hy vọng, là Đường, Sự thật và Sự sống. Là người môn đệ tức là dấn thân hết mình, đi cho trọn đường của người môn đệ, đừng như người ta khởi công xây tháp nhưng không thể hoàn thành được, hay đừng như ông vua kia đã ra trận nhưng không chiến thắng được.

Bền bỉ, kiên trì, đi cho trọn đường, đó là thánh giá đời người. Để là người môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cần phải bền bỉ, triệt để. Đức Giêsu muốn những ai theo Người phải đi trọn đường thánh giá của mình. Thánh giá tức là những chọn lựa trong hiện tại, được lập đi lập lại và liên tục. Sống trong cuộc đời, chúng ta luôn bị đặt trong tình huống phải chọn lựa. Đã chọn lựa là không thể chọn lấy tất cả, đã chọn điều này tất phải bỏ điều kia. Việc chọn lựa không luôn luôn dễ dàng. Chỉ có một tiêu chuẩn cho việc chọn lựa, đó là “Thiên Chúa là trên tất cả”. Hơn nữa, không luôn luôn dễ dàng để trung thành với chọn lựa Thiên Chúa. Để có thể trung thành, cần có một tiêu chuẩn khác nữa, đó là “chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau” (Mc 10,29-30).

Từ bỏ nghĩa là không nhìn nhận những thực tại trần thế là tuyệt đối, có thể thay thế được chính Thiên Chúa. Chúng ta không loại bỏ những thiện hảo của cuộc sống như tiền bạc, của cải vật chất, nghề nghiệp… nhưng chúng ta chỉ nên coi đó là những phương tiện. Chúng ta nhìn nhận những giá trị trần gian là tốt đẹp, nhưng tất cả những giá trị đó phải quy hướng chúng ta đến với Thiên Chúa. Nếu các môn đệ của Đức Giêsu yêu mến tạo vật của Người hơn chính Người, thì họ không xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu.

Hơn nữa, việc từ bỏ này cần phải thực tế, tức là gắn liền với cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta có thể hiểu được điều này khi nhìn vào cuộc đời của những người hy sinh cho một lý tưởng mà họ đã chọn lựa. Những người đó dám chấp nhận từ bỏ đời sống gia đình, riêng tư của mình. Họ dám hy sinh thời giờ, sự an toàn và thậm chí cả sức khỏe của mình để hoàn thành sứ mạng.

Phải chăng chúng ta chọn lựa Thiên Chúa là ưu tiên trên hết?

Phải chăng chúng ta đang kiên trì, trung thành với chọn lựa là người kitô hữu, người môn đệ của Đức Giêsu qua nhiệm tính Thanh tẩy?

Lạy Chúa,

Để con có thể gắn bó với Ngài tha thiết hơn nữa,

con ước mong ý thức con trở nên bao la như trời biển,

mênh mông như vũ trụ,

trải rộng như loài người khắp mặt đất,

sâu thẳm như quá khứ, sa mạ, trùng dương,

tinh vi như hạt nhân nguyên tử,

thâm thúy như tư tưởng của lòng người.

Phải chăng con cần gắn liền với Chúa

từ mọi địa điểm của vũ trụ bao la này,

và để con đừng sa chước cám dỗ rập rình

trong mọi hành vi táo bạo,

để chúng con đừng bao giờ lãng quên là

chỉ có Chúa mới đáng được tìm kiếm qua mọi sự.

Về mục lục

.

DẤN BƯỚC ĐI THEO CHÚA

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP 

          Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất đông người đi theo Đức Giêsu. Nhiều người đi theo Ngài vì tưởng rằng Ngài đến đó để lập một vương quốc hùng cường theo nghĩa trần gian, Ngài đến đó với một vẻ huy hòang chiến thắng. Nhưng cũng có người có thiện cảm, có thiện chí đi theo để làm môn đệ Ngài. Trong bầu khí hồ hởi đó, Đức Giêsu không ngần ngại đưa ra những điều kiện khắt khe cho những ai muốn đi theo Ngài. Ngài biết trước số người đi theo thì rất đông, nhưng người trở thành môn đệ thì rất ít. Ngài đưa ra những điều kiện như vậy để họ suy nghĩ và tự quyết định con đường để theo.

          Điều kiện Đức Giêsu đưa ra cho những ai muốn đi theo làm môn đệ Ngài là từ bỏ và vác thập giá. Ngài đã nói thẳng thừng và cương quyết :”Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định : nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ của Ngài.

          Chúng ta là những Kitô hữu. Trên nguyên tắc, Kitô hữu là người được mang tên Đức Kitô, được thuộc về Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài và làm môn đệ Ngài, nhưng trong thực tế, mấy ai sống xứng đáng với danh hiệu là Kitô hũu chính danh, xứng đáng với danh hiệu là môn đệ trung thực của Đức Kitô, nhiều khi vô tình đã trở thành những môn đệ dổm. Hôm nay chúng ta phải xác quyết lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và quyết tâm theo Chúa đến cùng.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 

+  Bài đọc 1 : Kn 9,13-18. 

Sách Khôn ngoan là một sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người chung quanh vấn đề khôn ngoan minh triết. Ngày xưa vua Salômôn chỉ xin Chúa ban cho sự khôn ngoan ấy và ông đã trở nên người khôn ngoan nhất trên trần. Vậy sự khôn ngoan đích thực là gì và từ đâu tới ? Thưa, sự khôn ngoan đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa.

Đọan trích hôm nay cho biết con người có sự khôn ngoan, nhưng sự khôn ngoan ấy rất hạn chế. Ngay trong những việc thuộc trần thế nằm trong tầm tay của con người mà chưa thể hiểu nổi, phương chi là những điều thuộc thượng giới, những điều liên quan đến cuộc sống đời đời  thì làm sao hiểu thấu được.

Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để đi theo và nhờ đó mà được ơn cứu độ. Thiên Chúa sẽ ban ơn khôn ngoan cho chúng ta nhờ Thần Khí giúp đỡ.

+  Bài đọc 2 : Plm 9b-1012-17.

Trong lá thư ngắn gửi cho Philêmôn, thánh Phaolô biện hộ cho tên nô lệ Ôânêximô để gợi lên lòng bác ái Kitô giáo mà tha thứ cho anh ta. Anh Ônêximô là tên nô lệ của Philêmôn, đã trốn đi sau khi đã ăn cắp một số tiền. Sau khi anh này đã theo đạo, thánh Phaolô gửi anh ta lại cho chủ và xin ông chủ hãy đón nhận anh không phải một tên nô lệ mà là một người anh em trong Đức Kitô.

Tuy thế, thánh Phaolô không hề lạm dụng  tình nghĩa của Philêmôn đối với mình để gây áp lực; trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmôn sẽ vì lòng tốt mà làm theo sự gợi ý của mình.

+  Bài Tin mừng : Lc 14, 25-33.

Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất nhiều người đi đường với Đức Giêsu. Theo tâm lý chung của những người thời đó, Đức Giêsu sẽ thiết lập một vương quốc hùng cường, cho nên họ nghĩ rằng  đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Nhưng để đánh tan sự hiểu lầm này, Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện cho nghững kẻ muốn theo Ngài.

Theo ý Đức Giêsu, ai muốn theo Ngài thì phải coi Ngài hơn tất cả mọi mối dây liên hệ thân ái nhất như cha mẹ, vợ con, anh chị em và kể cả mạng sống mình nữa. Theo Ngài tức là làm một đệ Ngài, và đã làm môn đệ Ngài thì phải thực hiện những điều kiện cực kỳ gay go.

Đồng thời, Đức Giêsu cũng khuyên nhủ mọi người phải khôn ngoan trong việc lựa chọn qua dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Việc theo Chúa là một việc trọng đại phải đắn đo suy nghĩ thật kỹ trước khi dấn thân, chứ không thể bốc đồng rồi bỏ cuộc.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. GIÁO HUẤN TRÊN ĐƯỜNG ĐI GIÊRUSALEM. 

          Thánh Luca tường thuật cho chúng ta  cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem và những lời giáo huấn của Ngài. Cuộc hành trình này lại trùng với cuộc hành trình của người Do thái đi dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Vì thế, có nhiều đám đông cùng đi với Ngài. Nhưng họ không phải là những người đi qua đường mà là những người có thiện cảm với Đức Giêsu và có thiện chí muốn theo Ngài.

          Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “Đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Đức Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này, Đức Giêsu “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ. Đức Giêsu muốn dạy những điều gì ? Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai phần chính và một phần phụ. Phần chính là những điều kiện cho người đi theo Chúa, và phần phụ nói lên tính cách  của việc đi theo Chúa qua hai dụ ngôn người xây nhà và ông vua đi giao chiến.

A. PHẦN CHÍNH CỦA GIÁO HUẤN.

Phần này gồm có hai điều kiện : từ bỏ mọi sự và vác thập giá.

  1. Từ bỏ mọi sự.

          Điều kiện theo Chúa là phải từ bỏ mọi sự. Việc đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc. Chúa bảo ta phải bỏ tất cả mọi sự. Điều này xem ra quá gay gắt, nhưng chúng ta phải hiểu ý Ngài nghĩa là Ngài không bảo người môn đệ phải bỏ tất cả cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Tuy nhiên, bất cứ khi nào mình cảm thấy những thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.

  1. Vác thập giá mình

          Ở đây Đức Giêsu muốn lưu ý rằng những ai muốn theo Ngài thì chỉ có thể theo bằng cách  vác thập giá như Ngài sẽ vác. Thập giá ở đây là những hy sinh phải đón nhận. Theo Chúa là đón nhận sự hy sinh trong việc từ bỏ, trong nỗ lực, cố gắng và thiện chí. Nếu không vậy thì không thể thành môn đệ của Ngài được.

B. PHẦN PHỤ CỦA GIÁO HUẤN. 

          Người muốn làm môn đệ phải biết khôn ngoan lựa chọn vì từ bỏ là điều kiện để theo Chúa và theo Chúa là một việc quan trọng có liên can đến sự sống còn của cuộc đời mỗi người. Vì vậy Đức Giêsu bảo ta phải thận trọng tính toán và kiên tâm bền chí mới có thể vượt thắng được mọi trở ngại trên đường theo Chúa.

          Để diễn tả điều đó, Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và ông vua đi giao chiến. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền thì không có nhà ở, và ông vua không lượng sức mình thì sẽ thua phía địch. Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định  theo Chúa thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó mà “giữa đường đứùt gánh” thì bỏ cả cuộc đời, đời này và đời sau.

II. TRIỂN KHAI ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA. 

          Những người cùng đi với Đức Giêsu tới Giêrusalem là những người đi cho vui cũng có, để thỏa mãn ước vọng cũng có và những người vì ái mộ cũng có. Thánh Luca nói rõ :”Có nhiều đám đông cùng đi với Đức Giêsu”. Nhưng trong đám đông này có nhiều người có thiện cảm, có thiện chí muốn đi theo Ngài. Từ ngữ “Đi theo” trong Thánh Kinh có nghĩa là làm môn đệ. Vậy Đức Giêsu nói cho đám đông và cách riêng cho các môn đệ của Ngài những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Ngài. Chúng ta tiếp tục triển khai từng điều kiện.

  1. Điều kiện tiêu cực : Từ bỏ.

          Đức Giêsu nói với đám đông :”Nếu ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta”(Lc 14,26). Có bản dịch là “ghét” cha mẹ. Như vậy có mâu thuẫn với giới răn thứ tư không (Lc 18,19t) ?

 Theo Joseph Fitzmeyer, trong ngôn ngữ Hy lạp chữ “misein” có nghĩa là “ghét”, ngược với chữ “agapan” là “yêu”. Chữ “ghét” này mang một ý nghĩa ít yêu thương, chọn một cái khác ưu tiên hơn. Nó không diễn tả một tình cảm thù nghịch, mà chỉ nói lên một sự lựa chọn hơn kém. Phải “từ bỏ” tất cả mọi sự, trừ Thiên Chúa, tức là chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hơn bất cứ sự gì khác, gồm của cải vật chất hay những liên hệ thân yêu với cha mẹ, vợ con, anh chị em trong gia đình. Nếu còn bám víu vào bất cứ ai hoặc sự gì ưu tiên hơn Thiên Chúa, chúng ta chưa xứng đáng là môn đệ của Ngài (Nguyễn văn Thái).

          Như vậy, ghét hay từ bỏ ở đây chỉ có nghĩa là đặt ở hàng thứ yếu, không ngang hàng. Nên câu trên chỉ có ý nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn cha mẹ, vợ con, anh chị em (St 29,30.31.33; Đnl 15,21t; Mt 10,37).

          Những lời Đức Giêsu phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều  : tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy.

         Thánh Grêgôriô Cả  giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết :” Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khóat là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu : Chúa trên hết.

          Không những Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải từ bỏ những cái bên ngoài mà Ngài muốn môn đệ phải từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏtham, sân, si.

        Tham là tính tham lam : tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau.

       Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác.

      Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong  xấu xa, thối nát.

          Đối với chúng ta thì từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý muốn ý thích của mình khi điều đó không phù hợp với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.

          Vấn đề thực hành sống đạo : Nếu “bản thân mình” là con người hiện thân của chủ thể và là sự sống tâm linh nơi chủ thể, thì  “bỏ bản thân mình” đi theo lời Chúa Kitô khuyên dạy trong Tin mừng hôm nay phải chăng chính là việc bỏ đi những ý nghĩ về mình và là việc bỏ đi ý muốn tự do của mình, dù những ý nghĩ về mình hay của mình  đó có chí lý đến đâu, và dù ý muốn của mình đó có tốt lành và hay ho đến mấy đi nữa, chẳng hạn như trường hợp Trinh Nữ Maria trong giây phút Truyền tin Lời nhập thể, hay như trường hợp của thánh Phêrô bị Thầy quở là “Đồ Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chẳng nghĩ tưởng theo ý hướng của Thiên Chúa mà tòan là theo kiểu của lòai người”(Mt 16,23”?

  1. Điều kiện tích cực : vác thập giá. 

          Các đám đông hâm mộ Đức Giêsu chắc hẳn xem việc Ngài đến Giêrusalem như là một cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Đức Giêsu và đáng được Ngài đưa đến vinh quang. Đức Giêsu không thể để ảo tưởng đó kéo dài. Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài : họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Đức Giêsu phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó, cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính con người.

          Theo Chúa thì nhất thiết phải vác thập giá. Theo Chúa là một cuộc đăng sơn, một cuộc leo lên núi Calvariô. Theo Chúa giống như leo núi, thập giá giống như cái gậy của người leo núi. Nó rất cần và có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.  Thập giá ở đây là mọi hy sinh phải đón nhận và đón nhận với tinh thần tự nguyện :”Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).

          Tuy thế, không phải cứ tự nguyện vác thập giá thì thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu. Điều đó cũng đúng, nhưng không vì thế mà làm cho cây thập giá trở nên nhẹ nhàng đến nỗi không cần cố gắng nữa. Mỗi ngày một cố gắng thì sẽ thành công.

          John Newton đề nghị với chúng ta cách vác thập giá : “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra , rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi.  Nhiều người lại không làm như thế : chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”!

  1. Phải lượng sức mình : lựa chọn. 

          Muốn làm môn đệ Chúa, mỗi người phải suy tính cẩn thận, phải tính cái giá phải trả khi theo Ngài. Ngài minh giải điều đó bằng hai dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cả vườn kẻo kẻ trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương.

 Đức Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ Chúa.  Tục ngữ Việt nam cũng nói lên ý tưởng ấy :

          Xem giỏ bỏ thóc   Hay

        Đừng vung tay quá trán.

          Sống là phải chọn lựa và sự chọn lựa nhiều lúc làm cho chúng ta phải băn khoăn lo lắng, day dứt, giống như ở đô thị Jeffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lự một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào những khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngòi theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết,  biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng. Không ai có thể làm tôi hai chủ.

          Sự lựa chọn đã là khó, nhưng sống theo sự lựa chọn đó càng khó hơn, đúng như người ta nói :”Đâm lao thì phải theo lao”(Tục ngữ), đã theo Chúa thì phải quyết tâm theo đến cùng vì :”Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”. Đã theo Chúa thì sẵn sàng chấp nhập mọi bất trắc rủi ro :

Muối mặn ba năm muối vẫn còn mặn,

Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay.

Đạo vợ chồng đừng có đổi thay,

Làm nên danh vọng, hay rủi ăn mày vẫn theo nhau.

                                                 (Ca dao)

  1. Đi theo hay làm môn đệ ?

          Trong đoạn Tin mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo :”Lúc ấy có rất đông người “đi theo” Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ :Ai không dứt bỏ…thì không thể “làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá  mình mà đi theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”. Rất đông người đi theo Đức Giêsu nhưng không phải tất cả đều là môn đệ Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ. Người đi theo chưa hẳn là người môn đệ.

          Có người nói với một giáo sư danh tiếng ở Đại học Paris về một chàng thanh niên rằng :

          – Anh ta nói với tôi rằng, anh ta là học trò của giáo sư, có phải không ?

          Vị giáo sư thẳng thắn trả lời :

          – Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi nhưng anh ta không phải là học trò của tôi.

 Bài học của câu chuyện trên đây muốn nói một học sinh chưa chắc là “môn sinh”. Là một học sinh thì rất dễ dàng. Nó không đòi hỏi những trách nhiệm luân lý quan trọng. Học sinh có thể thay đổi giáo sư tùy theo nhu cầu bằng cấp. Một ủng hộ viên cũng có thể nay ủng hộ người này mai chạy theo ủng hộ người khác tùy theo nhu cầu cá nhân của họ. Họ là kẻ cơ hội chủ nghĩa. Châm ngôn của họ là :”Làm cái gì có lợi cho tôi”. Trái lại, một môn sinh đích thực phải có sự cam kết đoan hứa trung thành, một sự dấn thân dâng hiến hoàn toàn cho lý tưởng và thầy mình. Một môn sinh phải có một tinh thần vâng phục sâu xa và một lòng ước ao học hỏi nơi sư phụ của mình.

          Một lần khác, khi nhà vua Trung quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi, nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn 10.000 nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi :

          – Ngài có bao nhiêu đệ tử ?

Nhà sư Lin Chi đáp :

– Bốn hoặc năm.

          Lạ thật ! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ !  Nếu hôm nay có người hỏi Chúa : Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ ? Không biết Chúa sẽ trả lời làm sao vì nhiều người chỉ có danh mà không có thực, chỉ có tiếng mà không có miếng ! Phải tỏ ra mình là một Kitô hữu chính danh chứ không phải hư danh, phải sống đúng với địa vị của mình là Kitô hữu , đúng là :

 “Có ăn có chọi mới gọi là trâu” (Tục ngữ).

III. LÀM MÔN ĐỆ CHÚA HÔM NAY.

          Những đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay là quá gắt gao, người ta có thể chấp nhận được không ? Nếu Đức Giêsu làm nghề quảng cáo, chắc là Ngài sẽ thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sán lạn  nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không có gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá. Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy ? Theo mà điều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì ? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình  một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là một điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lõng, xa lạ ?

          Thế nhưng không đúng ! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn với thực tế mà lịch sử Giáo hội đã ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau. Bởi đã 2000 năm, những lời Đức Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống  cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy đã quả cảm bước theo Đức Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình. Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Đức Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lõng, mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ. Họ là ai ? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn (Nguyễn hữu An).

          Vậy ý của Đức Giêsu là ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải đặt tình yêu Chúa trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu : Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay chính cả bản thân.

          Như  thế, người tín hữu khi đã chọn Chúa, làm môn đệ của Ngài, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần  thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặït lại cho mình.

Truyện : Giới Tử Thôi.

          Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đờøi Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi  đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chận lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến được nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn  nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận.

                             (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông Châu, 1968, tr 324)

        Giáo hội thúc giục chúng ta hãy dấn bước theo Chúa trong cuộc đời dương thế. Hiến chế Lumen gentium ghi rõ :”Đang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, hiệp thông với sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển (Rm 8,7) (Lumen gentium đọan 7).

          Sau cùng, chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu với sự chia sẻ của Đức cố Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận qua kinh nghiệm 14 bước theo Đức Giêsu :

          . Bước lang thang ra chuồng bò ở Be lem.

Bước hồi hộp trốn sang Ai cập.

Bước bồn chồn trở về Nazareth.

Bước phấn khởi lên đền thánh với cha mẹ.

. Bước vất vả suốt 30 năm lao động.

Bước yêu thương ba năm rao giảng Tin mừng.

Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc.

Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt.

Bước cô đơn ra trước tòa không một người thân.

Bước ê chề vác Thánh giá lên đồi tử nạn.

Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác, không tiền không bạc, không manh áo, không bạn hữu.

Bước khải hòan sống lại, hãy vững lòng Thầy đã thắng thế gian.

Bước khổng lồ đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng.

Bước liều mạng lăn xả vào thử thách, chấp nhận mọi hậu quả, vì Chúa đã dạy con liều mạng”

(Trích Sứ điệp Lao Tù, Vietcatholic, CD 3)

Về mục lục

.

LIỆU

Trầm Thiên Thu

Kinh Thánh cho biết: “Chúa nhìn nỗi khổ cực đau thương, Chúa để ý, tự tay lo liệu. Người yếu thế giao phó đời mình cho Chúa, kẻ mồ côi được chính Chúa phù trì.” (Tv 10:14) Thiên Chúa quan phòng và tiền định mọi sự. Ngài lo liệu tất cả, Ngài chỉ cần chúng ta dâng cuộc đời mình cho Ngài, bằng cách ký thác đường đời và công việc cho Ngài định liệu, rồi cứ an tâm. (x. Tv 37:5; Tv 16:3) Đó là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, Đáng nhân hậu và quyền năng.

Trong sách “Luận Ngữ”, đại nhân Khổng Tử nhận định: “Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu” (Người không lo xa ắt có buồn gần.) Và Diêm Thiết Luận nói: “Biết phòng xa thì cai quản người, không biết phòng xa thì người cai quản.” Thật chí lý!

Người ta thường nhắc nhở nhau về cách sống bằng câu đơn giản: “Liệu cơm gắp mắm.” Và người ta cũng có câu cảnh báo: “Làm không biết tính, thính không có mà ăn.” Quả thật, dù điều to hay nhỏ, dù việc bình thường hay quan trọng, thì cũng đều phải tính toán, cân nhắc – dù với mức độ khác nhau. Thực sự toan tính chứ không mưu mô, lọc lừa, lươn lẹo, ranh ma, vụ lợi hoặc thực dụng… “Liệu” là thể hiện tính trung dung, thật khó chứ chẳng dễ chút nào!

Người ta thường nhắc nhở: “Liệu hồn đấy!” Có nhiều thứ phải “liệu”, một trong những thứ đó là lời nói (miệng lưỡi). Thật vậy, cổ ngữ xác định: “Cẩn ngôn vô tội, cẩn tắc vô ưu” (Giữ gìn lời nói thì không sai lỗi, cẩn thận thì không lo lắng.) Còn Kinh Thánh nói mạnh hơn: “Vinh hay nhục đều ở lời nói cả, và cái lưỡi chính là mối họa cho con người.” (Hc 5:13)

Thế nhưng người ta cũng có kinh nghiệm này: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Còn Thánh Phaolô xác định: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.” (1 Cr 3:6) Đó mới thực sự là vấn đề! Đối với Thiên Chúa, mục đích của sự tính toán không là để hưởng lợi riêng mà là để từ bỏ mọi sự, kể cả chính mình. Cách tính toán của Thiên Chúa thật là độc đáo! Đúng vậy: “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi.” (Kn 11:20) Và chúng ta thường nói ngắn gọn: Thiên Chúa quan phòng và tiền định.

Trong cuộc sống đời thường, vấn đề sinh hoạt hằng ngày, đành rằng mọi người đều phải biết lo liệu – cả việc chung và riêng, người lớn liệu chuyện lớn, người nhỏ liệu chuyện nhỏ. Chuyện tâm linh cũng cần biết lo liệu sao cho phù hợp với Thánh Ý Thiên Chúa, phù hợp với hoàn cảnh sống của mỗi người. Sống đúng bậc mình trong hoàn cảnh hiện tại là biết lo liệu để nên thánh, là biết làm đẹp lòng Thiên Chúa, theo khuyến cáo của Đức Giêsu Kitô: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Tất nhiên cũng liên quan cách sống nhân hậu: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6:36)

Lo liệu có thể là tính toán theo các phép tính thông thường, nhưng phải liệu sao có ích lợi cho cộng đồng: CỘNG lại tình người, TRỪ đi hận thù, NHÂN lên yêu thương, CHIA sẻ lòng thương xót, và không CHIA rẽ bao giờ. Tác giả sách Khôn Ngoan đã thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững.” (Kn 9:13-14) Và rồi tác giả nhận định: “Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề.” (Kn 9:15) Thật là giỏi toan tính, khéo liệu bề.

Trong cuộc sống thực tế luôn có sự phũ phàng, nhưng đó là sự thật: “Đời là thế!” Chắc hẳn chẳng ai dám chối cãi. Và rồi có lần Chúa Giêsu cũng đã phân tích: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:41; Mc 14:38) Thân phận phàm nhân chỉ là cát bụi, quá mỏng dòn và yếu đuối, thế nên luôn phải cố gắng tỉnh thức kẻo sa chước ba thù – ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Thứ nào cũng ghê gớm, dữ tợn, đủ sức làm chúng ta đắm chìm trong vũng lầy tội lỗi. Do đó mà luôn phải cẩn trọng, tỉnh thức. Theo nghĩa này, tỉnh thức cũng là một cách lo liệu để tránh bất trắc, kẻo trở tay không kịp. Muộn rồi!

Lời thân thưa với Chúa của tác giả sách Khôn Ngoan như lời nói thay tất cả chúng ta: “Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.” (Kn 9:16-18) Thụ tạo quá thấp kém, có lúc không nghĩ được ngoài tầm “cái bóng” của mình, đừng nói chi nghĩ xa, nghĩ rộng, hoặc nghĩ cao hơn. Đối với những điều trần tục mà còn vậy, huống chi đối với những điều siêu phàm!

Thật đúng “đời là thế.” Đã bao lần thấy có những điều tưởng chừng dễ như trở bàn tay, thế mà chúng ta phải khó nhọc lắm mới có thể làm được; và cũng có những điều tưởng như trong tầm tay, thế mà lại vuột mất, khiến chúng ta băn khoăn, ưu sầu, lo lắng… Lo liệu đủ kiểu, tính toán chi li và kỹ lưỡng, thế mà cũng chẳng nên công cán gì, không khác “dã tràng xe cát biển Đông”. Vì thế, dù chuyện to hay nhỏ đều phải nhờ ơn Chúa: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5)

Biết người là sáng, biết mình là khôn. Cả hai đều cần để có thể liệu cách cư xử. Thánh Gióp nhận định: “Chúa có thể giết tôi, tôi chẳng còn gì để hy vọng, nhưng trước nhan Người, cách sống của tôi, tôi phải biện hộ. Đó chính là điều sẽ cứu tôi, vì trước nhan Người, ác nhân sẽ không dám xuất đầu lộ diện.” (G 13:15-16) Dạng “khẩu phật, tâm xà” là đúng kiểu Pharisêu và đúng quy trình giả hình của ma quỷ. Cách sống thường nhật của chúng ta đối với tha nhân quan trọng hơn động thái khúm núm trong nhà thờ. Chắc chắn SỐNG ĐẠO quan trọng hơn GIỮ ĐẠO, bởi vì từ cửa nhà thờ trở ra mới chứng tỏ ai là môn đệ đích thực của Đức Kitô, chứ không phải chỉ từ cửa nhà thờ tới bàn thờ. Thiên Chúa chẳng vị nể ai, cứ theo sự thật mà hành động.

Mọi quyền hành đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, kể cả quyền sinh – tử. Ngài “bắt phàm nhân trở về cát bụi” khi Ngài phán bảo: “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!” (Tv 90:3) Đối với Thiên Chúa luôn là hiện tại, không có quá khứ hoặc tương lai, không có khái niệm thời gian hoặc không gian, không có khái niệm xa – gần hoặc dài – ngắn: “Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90:4) Kinh Thánh xác định: “Quá khứ, hiện tại và tương lai, tất cả đều do Ngài thực hiện. Điều xảy ra bây giờ cũng như sắp xảy ra, Ngài đều suy tính cả. Điều gì đã xảy ra, cũng do Ngài suy tính.” (Gđt 9:5) Rõ ràng Thiên Chúa đã liệu mọi sự từ trước đời đời.

Mọi sự, hữu hình và vô hình, đều thuộc về Thiên Chúa. Thời gian là của Chúa, ngay cả sự sống và bất cứ thứ gì chúng ta sở hữu cũng KHÔNG thuộc quyền của chúng ta, nhưng chúng ta được Ngài ban cho quyền quản lý. Tất nhiên chúng ta phải chịu trách nhiệm về cách quản lý của mình. Khoảng trăm năm đời người xem chừng dài lắm, nhưng cũng chỉ như thoáng chiêm bao, tựa bóng câu qua cửa sổ, không khác đóa phù dung hoặc con thiêu thân: “Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.” (Tv 90:5-6) Quả thật, tuổi đời càng tăng thì người ta càng cảm thấy thời gian như ngắn hơn trước, dù một giờ vẫn đủ 60 phút, không thừa không thiếu. Đó là một thực tế bất biến. Qua đó, chúng ta hiểu và chắc chắn rằng Thiên Chúa bất biến, vĩnh tồn, chỉ tại nhân loại biến thiên mà thôi. Nghĩ ngắn nên mới suy bụng ta ra bụng người. Chảnh thấy ớn!

Nhận biết mình là gì và ý thức mình là ai, Thánh Vịnh gia tha thiết cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (Tv 90:12) Đó là khôn khéo, tỉnh thức, biết lo liệu, biết tính toán. Sẵn sàng như vậy nên người ta khát khao được ngụp lặn trong Biển Tình Yêu của Đấng Hằng Hữu: “Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (Tv 90:13-14) Rất cần thiết tâm nguyện suốt đời rằng “Ngay từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa” (Tv 63:2) và “Ca ngợi Danh Thánh Chúa từ rạng đông tới lúc chiều tà!” (Tv 113:3)

Ỷ sức mình là ngu xuẩn, bởi vì chúng ta sẽ “trắng tay” vì “xôi hỏng, bỏng không”. Nhưng nếu biết cầu xin Chúa phù trợ thì chúng ta có thể quản lý cuộc đời mình hiệu quả: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm.” (Tv 90:17) Muốn vậy thì phải buông bỏ những thứ lỉnh kỉnh, rườm rà, nếu không sẽ vướng víu lắm.

Thánh nữ Faustina đúng là một trinh nữ khôn ngoan vì đã có thể xác định: “Tôi không tìm hạnh phúc ngoài nội tâm nơi Chúa cư ngụ. Tôi hạnh phúc khi Chúa ở trong tôi. Tôi ở với Ngài mãi mãi. Đó là nơi thân mật của Ngài và tôi. Tôi an toàn ở bên Ngài. Đó là nơi không bị loài người dò xét. Đức Mẹ khuyến khích tôi giao tiếp với Chúa bằng cách này.” (Nhật Ký, số 454) Thật tuyệt vời! Nhưng có lẽ đôi khi chúng ta có vẻ như lợi dụng hơn là tín thác vào Chúa – mặc dù chúng ta vẫn nói: “Con tín thác vào Chúa.” Phải cẩn trọng kẻo bị ảo tưởng, vì sự lợi dụng và lòng tín thác rất “gần” nhau, khá giống nhau. Nếu chính mình đang như vậy mà không biết thì đáng sợ lắm!

Thánh Phaolô viết trong thư gởi cho Philêmôn: “Tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi là một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô.” (Plm 9-10) Thánh Phaolô phải kêu gọi bác ái vì người ta thường lầm lẫn các cạnh của “tam giác yêu thương” – Bác Ái, Công Bình, và Bố Thí. Ba cạnh có vẻ “giống” nhau và “đều” nhau, nhưng thực tế không phải vậy. Ví dụ, trong âm nhạc, “nửa cung” có vẻ giống nhau, dù gọi là bán-cung-dị hoặc bán-cung-đồng (có vẻ rất giống nhau khi dùng piano – thực tế rõ ràng với phím đen và trắng – theo bán cung Tây Phương, nhưng thực tế hai nửa cung ấy hoàn toàn khác nhau, nếu xét theo kiểu bán cung của Ấn Độ, và bán cung Việt Nam cũng tương tự). Bác ái là cao cấp nhất, yêu thương vì người khác chứ không có thứ gì khác xen vào.

Có vẻ như câu chuyện này mang tính riêng tư vì là thư riêng của Thánh Phaolô gởi cho Philêmôn, nhưng thật ra vẫn có điểm chung – cái riêng ở trong cái chung, và cái chung ở trong cái riêng: “Tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. (Plm 12-17) Yêu thương chân thành và liên đới rõ ràng. Đó là cách lo liệu chu đáo đậm nghĩa tình.

Tình và nghĩa không tách rời nhau. Ân tình là yêu thương, yêu thương là bác ái. Yêu thương bằng hành động chứ không là lời nói suông của cái miệng – đầu môi chót lưỡi. Vừa khó vừa dễ. Còn tùy. Cái chữ “tùy” thực sự đáng quan ngại lắm! Vấn đề là đừng “đội trên”, chớ “đạp dưới”. Nghĩa là đừng mặc hai loại áo, một loại có vạt trước dài và một loại có vạt trước ngắn – loại áo dài của các quan lại ngày xưa. Nói thẳng ra là đừng nịnh trên mà hù dưới. Kiểu này nhiều người vẫn “vướng mắc”, nhưng với “phong cách” tinh vi hơn xưa và đa dạng hơn.

Theo trình thuật Lc 14:25-33, một hôm có lẽ trời quang mây tạnh, không áp thấp cũng chẳng bão bùng, Chúa Giêsu thấy có rất đông người cùng đi đường nên quay lại nói với họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” Người ta luôn khoái “vội vàng vơ vét về” mà Ngài lại bảo phải “bỏ”, bỏ hết mọi sự. Thế thì chán chết được. Nhưng đó lại sự thật hiển nhiên, vì không bỏ thì vướng víu lắm, nặng nề lắm, làm sao có thể mang vác thứ cần thiết là thập giá?

Là tín nhân, ai cũng biết được rằng Chúa Giêsu rất khoái dụ ngôn, chuyện gì cũng dụ ngôn (Mt 13:34; Mc 4:34), nhưng thực tế chứ không bịa đặt – dụ ngôn chứ không phải là ngụ ngôn. Ngài vừa truyền thống vừa tân kỳ, cứ thản nhiên “bổn cũ soạn lại” khi phân tích: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà.” Thấm thía thật!

Với Kitô hữu thì là kỳ diệu, với người không tin thì là kỳ cục, bởi vì Chúa Giêsu chỉ là thợ mộc, khéo đục đẽo thôi, chứ không hề là thợ xây, cũng chẳng là thầu khoán, thế mà lại nói chuyện xây dựng. Thảo nào người ta thấy “chói tai”. Mà “chói” thật, vì chính nhà thầu khoán cũng phải tâm phục khẩu phục chứ nói chi thợ xây, thợ hồ. Còn nữa, Chúa Giêsu cũng chẳng kinh nghiệm làm vua ngày nào, thế mà lại tính chuyện giao chiến như một tướng quân. Thế nhưng thủ tướng hoặc đại tướng quân sự cũng phải tôn Ngài làm Đại Sư thôi. Lạ lùng lắm!

Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, Chúa Giêsu nói thẳng luôn: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có thì không thể làm môn đệ tôi được.” Cái mẫu tự B này “to tướng” luôn. Bỏ thật, bỏ hết. Biết buông bỏ là biết tự “liệu hồn” ngay khi còn có thể và còn thời gian mà cố gắng “đền tội” ngay ở đời này, để hy vọng không phải vào “phòng chờ” Luyện Hình. Và mục đích cuối cùng của mọi tín nhân là được trở thành công dân Nước Trời.

Lạy Thiên Chúa, Đấng quan phòng và tiền định, xin thúc giục chúng con luôn sống tích cực, can đảm dứt khoát bỏ mọi sự, bỏ hết những gì không thuộc về Ngài, để có thể thanh thản định hướng cuộc đời theo Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh tất Quý

“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,33).

Kính thưa anh chị em

Hôm nay chúng ta lại tiếp tục suy niệm về con đường hẹp của Chúa. Tôi muốn nói đến sự hy sinh quên mình trên con đường theo Chúa.

  1. Chúng ta hãy nhớ lại một chút về hoàn cảnh của bài Tin Mừng hôm nay .

Hôm đó có rất nhiều người cùng đi đường với Ðức Giêsu. Tin Mừng không cho chúng ta biết họ theo Chúa vì động lực nào. Nhưng căn cứ vào những gì Chúa nói sau đó thì chúng ta có quyền bảo rằng chắc là họ theo Chúa vì những động lực không được trong sáng cho lắm cho  nên chúng ta mới thấy Chúa quay lại nói họ.

Những lời Chúa thật quyết liệt.

“Không thể làm môn đệ ta” – Chúa nhắc đi nhắc lại  đến ba lần câu đó

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống của mình”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ hết những gì mình có “

Tiến sĩ Morgan khi chú giải đoạn Tin Mừng này đã viết rất hay như sau: “Kẻ nào theo Chúa Giêsu mà không đặt tấm lòng trung thành của mình đối với Chúa cao hơn tất cả những tình yêu trần thế dù là những tình yêu cao thượng nhất, đẹp đẽ nhất thì không thể theo Ngài được”

Vâng! Chẳng có ai có thể đi một lúc trên hai con đường.

Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn mà chẳng lựa chọn nào mà lại không đòi hỏi phải từ bỏ.

  1. Thế nhưng tại sao mà Chúa lại đòi hỏi như vậy?

Trước hết vì Ngài là Đấng tuyệt đối. Chúa không muốn cho bất cứ một giá trị nào được đặt ở trên Ngài. Ngài là giá trị tuyệt đối mà con người phải đi tìm. Trong nhiều đoạn Tin Mừng khác chúng ta đã thấy Chúa nói với chúng ta điều đó.

Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là giá trị cao hơn. Đó là giá trị tinh thần.

Mạng sống là giá trị còn cao hơn nữa. Vì nó là phần cao quí nhất mà Thiên Chúa ban cho con người

Thế nhưng trước một giá trị tuyệt đối thì mọi giá trị tương đối phải nhường chỗ. Cho nên tuy dù những giá trị trên có cao quí đến thế nào đi nữa thì khi cần con người cũng phải hy sinh.

Đó là lý do thứ nhất.

Lịch sử Giáo hội đã chúng ta thấy được rất nhiều tấm gương về vấn đề này.

Các tông đồ là những bằng chứng trước hết. Các ngài đã bỏ tất cả để đáp lại lời mời gọi của Chúa để rồi chính nhờ các ngài mà sứ mạng cứu chuộc của Chúa được tiếp tục.

Nếu không có những con người dám từ bỏ danh vọng, của cải, mạng sống như Phanxicô khó khăn, như Đaminh, như Ignatio, như Phanxicô Xaviê, hay như các thánh vị thánh khác thì, làm sao Giáo hội có được khuôn mặt như ngày hôm nay.

  1. Đàng khác qua hai thí dụ Chúa đùng trong bài Tin Mừng hôm nay:

– Thí dụ thứ nhất Chúa nói về việc xây dựng.

– Thí dụ thứ hai Chúa nói về việc giao chiến.

Chúa đã cũng muốn nói với mọi người về công việc tại thế của Ngài: Chúng ta nhớ lại hôm ấy tại miền Cesar thuộc quyền Philipphe, trong một khung cảnh rất linh thiêng, sau khi Phêrô vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu thế Con của Thiên Chúa, thì Chúa đã tiết lộ cho các tông đồ biết kế hoạch sắp tớicủa Ngài như thế này: Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy….và Chúa quả quyết và cửa hỏa ngục cũng không thắng được.

Mục tiêu Chúa nhắm rất rõ ràng: Chúa đến để xây. Ngài sẽ xây Giáo hội của Ngài, xây trên tảng đá Phêrô. Và trong quá trình đưa công trình xây dựng đến chỗ hoàn thành chắc chắn sẽ có rất nhiều khó khăn cần phải chiến đấu để vượt qua. Đây là công việc đòi hỏi rất nhiều sự hy sinh và lòng trung thành.

Muốn thành công phải biết tính toán trước một cách khôn ngoan. Nếu không thì công trình khó mà thành tựu và thay vì chiến thắng nhất định sẽ là chiến bại.

Vậy thì trong cương vị là chủ của một công trình Chúa cần có những người cộng tác với Ngài.

  1. Nhưng ai là những người đáng được Chúa tin cậy?

* Chắc chắn không phải

– Là những người đi theo Chúa để xem xem Chúa là AI. Đó là đám đông những người theo Chúa vì tò mò. Họ theo đó rồi bỏ đó. Những người này chẳng có ích gì cho công trình của Chúa cả.

– Cũng không phải là những người theo Chúa vì những lý do vật chất. Chúa bảo những người đó chỉ theo Ngài vì vái bụng của họ. Những người như thế chẳng có ích gì cho công trình xây dựng của Chúa. Có họ thì công trình của Chúa không những sẽ không tiến bộ mà còn có thể bị chậm trễ thêm. Những người làm việc chỉ với mục đích để thủ lợi không xứng đáng có mặt trong công trình của Chúa.

– Cũng không phải là những người theo Chúa để lợi dụng Chúa hầu thỏa mãn những ý đồ đen tối của mình. Đây là những con người chỉ đến để phá hoại chứ không phải là xây dựng. Trường hợp của Giuda Iscario là một thí dụ điển hình.

* Vậy thì họ là những ai?

– Thưa là những con người biết tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Trường hợp này, Phêrô là khuôn mặt tiêu biểu. Sau câu chuyện về bánh hằng sống, lúc mà những người muốn bỏ Chúa đã ra đi, Chúa quay lại nhóm 12 và hỏi: “Còn chúng con, chúng con có bỏ đi không?” Phêrô đại diện cho các bạn để thưa với Chúa: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời”

Trong cuộc nói chuyện với giáo sư S.F.B. Morse (1791-1872, nhà vật lý Hoa Kỳ), người sáng chế máy điện báo, một tu sĩ đã hỏi ông:

– Thưa giáo sư, trong quá trình thí nghiệm khó khăn tại phòng thí nghiệm, có khi nào giáo sư cảm thấy bế tắc, không biết làm gì nữa không?

– Ồ, có chứ. Và rất nhiều lần.

– Những lúc ấy giáo sứ làm thế nào?

– Thưa thầy, thú thật là tôi làm một việc mà công chúng không biết. Đó là tôi cầu xin Chúa soi sáng trí khôn tôi.

– Và ánh sáng có đến chăng?

– Thưa có đến chứ. Tôi nói cho thầy biết là tôi đã nhận được rất nhiều phần thưởng, rất nhiều danh dự đến từ Châu Âu, Châu Mỹ qua các công trình sáng tạo của tôi, nhưng tôi cảm thấy mình chưa xứng đáng. Tôi đã áp dụng nhiều về điện lực, không phải vì tôi giỏi giang hơn người khác, mà chỉ bởi vì Chúa muốn trao ban cho nhân loại, nên Chúa đã soi sáng trí khôn cho nhiều người, trong đó có tôi.

Ông Morse nhớ ơn Chúa đến thế, cho nên chúng ta không lấy làm lạ là bức điện đầu tiên đánh đi trên máy điện báo ông chế tạo là: “Chúa đã làm biết bao điều lạ”. Vâng phải biết tin tưởng vào  Chúa thì mới có thể làm việc cho Chúa được.

– Hứ đến, họ còn là những người dám hy sinh vì Chúa.

Lúc gần đến ngày phải đối diện với cây Thập giá, Chúa hỏi Giacôbê và Gioan: “Chúng con có uống được chén đắng mà Thầy phải uống không?”

Giacôbê thưa lại: “Dạ được”.

Đúng như ông nói. Ông là tông đồ đầu tiên đã dám đổ máu ra vì Chúa.

Tông đồ Phaolô sau này cũng đã qủa quyết: “Tôi sẵn sàng chịu mọi sự vì Danh Đức Giêsu Kinh Kitô.”

– Họ còn là những người luôn gắn bó với Chúa – dám liều mạng vì Ngài. Madalena xứng đáng tiêu biểu cho những con người thuộc loại này. Sau khi Chúa chết và được an táng trong mồ, hầu như tất cả những người có liên hệ với Chúa còn bị bao trùm trong cơn sợ hãi, vậy mà ngay từ lúc sáng tinh sương của ngày đầu tuần Maria có mặt bên mộ Chúa, Thầy chí thánh của mình, thật là quả cảm và anh hùng.

Ước gì những hy sinh hằng ngày của chúng ta là những viên đá sống động, không phải chỉ để xây dựng nên một ngôi nhà trần thế, mà còn là làm nên một Giêrusalem mới, một Thiên Đàng của Chúa ở ngay trên cõi đời này của chúng ta. Amen

Lc 14,25-33

“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”(Lc 14,33).

Kính thưa anh chị em

Hôm nay chúng ta lại tiếp tục suy niệm về con đường hẹp của Chúa. Tôi muốn nói đến sự hy sinh quên mình trên con đường theo Chúa.

  1. Chúng ta hãy nhớ lại một chút về hoàn cảnh của bài Tin Mừng hôm nay .

                Hôm đó có rất nhiều người cùng đi đường với Ðức Giêsu. Tin Mừng không cho chúng ta biết họ theo Chúa vì động lực nào. Nhưng căn cứ vào những gì Chúa nói sau đó thì chúng ta có quyền bảo rằng chắc là họ theo Chúa vì những động lực không được trong sáng cho lắm cho  nên chúng ta mới thấy Chúa quay lại nói họ.

Những lời Chúa thật quyết liệt.

“Không thể làm môn đệ ta” – Chúa nhắc đi nhắc lại  đến ba lần câu đó

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống của mình”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ hết những gì mình có “

Tiến sĩ Morgan khi chú giải đoạn Tin Mừng này đã viết rất hay như sau: “Kẻ nào theo Chúa Giêsu mà không đặt tấm lòng trung thành của mình đối với Chúa cao hơn tất cả những tình yêu trần thế dù là những tình yêu cao thượng nhất, đẹp đẽ nhất thì không thể theo Ngài được”

Vâng! Chẳng có ai có thể đi một lúc trên hai con đường.

Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn mà chẳng lựa chọn nào mà lại không đòi hỏi phải từ bỏ.

  1. Thế nhưng tại sao mà Chúa lại đòi hỏi như vậy?

Trước hết vì Ngài là Đấng tuyệt đối. Chúa không muốn cho bất cứ một giá trị nào được đặt ở trên Ngài. Ngài là giá trị tuyệt đối mà con người phải đi tìm. Trong nhiều đoạn Tin Mừng khác chúng ta đã thấy Chúa nói với chúng ta điều đó.

Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là giá trị cao hơn. Đó là giá trị tinh thần.

Mạng sống là giá trị còn cao hơn nữa. Vì nó là phần cao quí nhất mà Thiên Chúa ban cho con người

Thế nhưng trước một giá trị tuyệt đối thì mọi giá trị tương đối phải nhường chỗ. Cho nên tuy dù những giá trị trên có cao quí đến thế nào đi nữa thì khi cần con người cũng phải hy sinh.

Đó là lý do thứ nhất.

Lịch sử Giáo hội đã chúng ta thấy được rất nhiều tấm gương về vấn đề này.

Các tông đồ là những bằng chứng trước hết. Các ngài đã bỏ tất cả để đáp lại lời mời gọi của Chúa để rồi chính nhờ các ngài mà sứ mạng cứu chuộc của Chúa được tiếp tục.

Nếu không có những con người dám từ bỏ danh vọng, của cải, mạng sống như Phanxicô khó khăn, như Đaminh, như Ignatio, như Phanxicô Xaviê, hay như các thánh vị thánh khác thì, làm sao Giáo hội có được khuôn mặt như ngày hôm nay.

  1. Đàng khác qua hai thí dụ Chúa đùng trong bài Tin Mừng hôm nay:

– Thí dụ thứ nhất Chúa nói về việc xây dựng.

– Thí dụ thứ hai Chúa nói về việc giao chiến.

Chúa đã cũng muốn nói với mọi người về công việc tại thế của Ngài: Chúng ta nhớ lại hôm ấy tại miền Cesar thuộc quyền Philipphe, trong một khung cảnh rất linh thiêng, sau khi Phêrô vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu thế Con của Thiên Chúa, thì Chúa đã tiết lộ cho các tông đồ biết kế hoạch sắp tớicủa Ngài như thế này: Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy….và Chúa quả quyết và cửa hỏa ngục cũng không thắng được.

Mục tiêu Chúa nhắm rất rõ ràng: Chúa đến để xây. Ngài sẽ xây Giáo hội của Ngài, xây trên tảng đá Phêrô. Và trong quá trình đưa công trình xây dựng đến chỗ hoàn thành chắc chắn sẽ có rất nhiều khó khăn cần phải chiến đấu để vượt qua. Đây là công việc đòi hỏi rất nhiều sự hy sinh và lòng trung thành.

Muốn thành công phải biết tính toán trước một cách khôn ngoan. Nếu không thì công trình khó mà thành tựu và thay vì chiến thắng nhất định sẽ là chiến bại.

Vậy thì trong cương vị là chủ của một công trình Chúa cần có những người cộng tác với Ngài.

  1. Nhưng ai là những người đáng được Chúa tin cậy?

* Chắc chắn không phải

– Là những người đi theo Chúa để xem xem Chúa là AI. Đó là đám đông những người theo Chúa vì tò mò. Họ theo đó rồi bỏ đó. Những người này chẳng có ích gì cho công trình của Chúa cả.

– Cũng không phải là những người theo Chúa vì những lý do vật chất. Chúa bảo những người đó chỉ theo Ngài vì vái bụng của họ. Những người như thế chẳng có ích gì cho công trình xây dựng của Chúa. Có họ thì công trình của Chúa không những sẽ không tiến bộ mà còn có thể bị chậm trễ thêm. Những người làm việc chỉ với mục đích để thủ lợi không xứng đáng có mặt trong công trình của Chúa.

– Cũng không phải là những người theo Chúa để lợi dụng Chúa hầu thỏa mãn những ý đồ đen tối của mình. Đây là những con người chỉ đến để phá hoại chứ không phải là xây dựng. Trường hợp của Giuda Iscario là một thí dụ điển hình.

* Vậy thì họ là những ai?

– Thưa là những con người biết tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Trường hợp này, Phêrô là khuôn mặt tiêu biểu. Sau câu chuyện về bánh hằng sống, lúc mà những người muốn bỏ Chúa đã ra đi, Chúa quay lại nhóm 12 và hỏi: “Còn chúng con, chúng con có bỏ đi không?” Phêrô đại diện cho các bạn để thưa với Chúa: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời”

Trong cuộc nói chuyện với giáo sư S.F.B. Morse (1791-1872, nhà vật lý Hoa Kỳ), người sáng chế máy điện báo, một tu sĩ đã hỏi ông:

– Thưa giáo sư, trong quá trình thí nghiệm khó khăn tại phòng thí nghiệm, có khi nào giáo sư cảm thấy bế tắc, không biết làm gì nữa không?

– Ồ, có chứ. Và rất nhiều lần.

– Những lúc ấy giáo sứ làm thế nào?

– Thưa thầy, thú thật là tôi làm một việc mà công chúng không biết. Đó là tôi cầu xin Chúa soi sáng trí khôn tôi.

– Và ánh sáng có đến chăng?

– Thưa có đến chứ. Tôi nói cho thầy biết là tôi đã nhận được rất nhiều phần thưởng, rất nhiều danh dự đến từ Châu Âu, Châu Mỹ qua các công trình sáng tạo của tôi, nhưng tôi cảm thấy mình chưa xứng đáng. Tôi đã áp dụng nhiều về điện lực, không phải vì tôi giỏi giang hơn người khác, mà chỉ bởi vì Chúa muốn trao ban cho nhân loại, nên Chúa đã soi sáng trí khôn cho nhiều người, trong đó có tôi.

Ông Morse nhớ ơn Chúa đến thế, cho nên chúng ta không lấy làm lạ là bức điện đầu tiên đánh đi trên máy điện báo ông chế tạo là: “Chúa đã làm biết bao điều lạ”. Vâng phải biết tin tưởng vào  Chúa thì mới có thể làm việc cho Chúa được.

– Hứ đến, họ còn là những người dám hy sinh vì Chúa.

Lúc gần đến ngày phải đối diện với cây Thập giá, Chúa hỏi Giacôbê và Gioan: “Chúng con có uống được chén đắng mà Thầy phải uống không?”

Giacôbê thưa lại: “Dạ được”.

Đúng như ông nói. Ông là tông đồ đầu tiên đã dám đổ máu ra vì Chúa.

Tông đồ Phaolô sau này cũng đã qủa quyết: “Tôi sẵn sàng chịu mọi sự vì Danh Đức Giêsu Kinh Kitô.”

– Họ còn là những người luôn gắn bó với Chúa – dám liều mạng vì Ngài. Madalena xứng đáng tiêu biểu cho những con người thuộc loại này. Sau khi Chúa chết và được an táng trong mồ, hầu như tất cả những người có liên hệ với Chúa còn bị bao trùm trong cơn sợ hãi, vậy mà ngay từ lúc sáng tinh sương của ngày đầu tuần Maria có mặt bên mộ Chúa, Thầy chí thánh của mình, thật là quả cảm và anh hùng.

Ước gì những hy sinh hằng ngày của chúng ta là những viên đá sống động, không phải chỉ để xây dựng nên một ngôi nhà trần thế, mà còn là làm nên một Giêrusalem mới, một Thiên Đàng của Chúa ở ngay trên cõi đời này của chúng ta. Amen

Về mục lục

.

KÍNH MẾN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ

Cao Huy Hoàng

Vượt qua

Mỗi giây phút trong cuộc sống, có thể nói được là một cuộc vượt qua, liên tục những cuộc vượt qua, nối dài thành một cuộc vượt qua to lớn nhất đối với mỗi con người đó là vượt từ sự sống hữu hạn đến cuộc sống vô biên, vĩnh cửu. Vì, được sinh ra trên trần gian, là để vượt qua cái trần gian nầy mà trở về với nguồn cội duy nhất là Thiên Chúa. Nhưng để vượt qua được những lớp hàng rào cản dày đặc của những giá trị trần thế, và nhất là của chính cõi lòng mơ màng ảo tưởng của ta thì không dễ chút nào, bởi vì những giá trị ấy luôn có sức cuốn hút lạ kỳ đến nỗi ta kéo ta chùng xuống, giam hãm ta trong cõi hồng trần, làm cho ta nặng nề không thể cất cánh bay lên được, không thể vượt qua được.

Từ bỏ tiêu cực

Có thể nói một cách tiêu cực rằng: Dù cho mọi thụ tạo trên trần gian có giá trị đến đâu, có xinh đẹp và đầy quyến rũ đến đâu, có ý nghĩa đến đâu, kể cả thân xác mình…nếu ta cố bám víu lấy nó, nếu ta không buông bỏ nó, thì nó cũng đã bỏ ta trước. Không ai giữ được cho mình cái mình đang có cho đến ngàn thu, bởi vì tất cả những gì mình đang có đều có thời hạn của nó: thời hạn của sắc đẹp, thời hạn của sức khỏe, thời hạn của kinh tế tài sản vật chất và kể cả thời hạn của một hạnh phúc gia đình trần gian. Có thể mỗi người đếu đã có một trải nghiệm về sự phủ phàng của thời gian, của tình yêu, của tiền bạc và của tất cả những gì có thể gọi được là “không gì cả”. Vâng khái niệm hư không, và sự phũ phàng, bội ước của của cải vật chất thế gian trong cựu ước và của một vài tôn giáo mới chỉ dừng lại ở một mức tiêu cực: hãy buông bỏ tất cả, vì ta không buông bỏ nó, nó cũng rời xa ta; tất cả chỉ là phù vân.

Từ bỏ tích cực

Trong trang tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa chúng ta lên một tầm cao mới về tính tích cực của sự từ bỏ: Không đợi các giá trị trần thế bỏ ta, nhưng chính chúng ta phải từ bỏ những giá trị trần thế ấy trước khi sự phũ phàng xảy đến. Từ bỏ Cha Mẹ, vợ con… và cả mạng sống mình, không phải vì không có giá trị, không phải vì Cha Mẹ, vợ con và mạng sống mình là xác đất vật hèn hay hư nát, nhưng vì để dành trọn chính mình cho Thiên Chúa, và cho sứ vụ Ngài giao: Cứu rỗi mình và cứu rỗi nhân loại…. Tính tích cực của Tin Mừng cũng cho thấy tính triệt để dành cho người theo Chúa Kitô- một Thiên Chúa Ngôi Hai đã từ bỏ Ngôi Vị của mình là Thiên Chúa, để mặc lấy một con người thật, nhưng là người mẫu công chính của Thiên Chúa Cha trong Nước Thiên Chúa. Tôi không muốn hiểu là phải bỏ cha bỏ mẹ theo kiểu hiểu của lương dân Việt Nam đối với giáo lý công giáo, nhưng tôi muốn hiểu là nếu cha mẹ anh chị và các giá trị trần thế làm vật cản tôi đến với Chúa và đến với ơn cứu rỗi thì chắc chắn là tôi phải triệt để tuân hành luật từ bỏ của Chúa. Cũng vậy, luật từ bỏ đòi hỏi tôi luôn đứng trước một sự chọn lựa giữa Thiên Chúa, với trần gian; giữa ơn cứu rỗi với sự chết ngàn thu, giữa cái thiện và cái ác, giữa điều có lợi cho cái vĩnh cửu và cái vô bổ vô ích…

Từ bỏ là tỉnh thức trước nguy cơ li tán

Một sự lựa chọn sáng suốt không dễ dàng tí nào, nếu tôi không trọn vẹn lòng tin cậy mến dành cho Thiên Chúa dưới ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần.Tôi phải tỉnh táo luôn luôn trước nguy cơ li tán giữa tôi và Thiên Chúa, vì các giá trị trần gian luôn lôi kéo lòng tin cậy mến của tôi về phía chúng nó. Một cha xứ miền quê nọ than phiền rằng: có điện thật có hại, vì khi có điện, ai nấy lo sắm cho mình một cái ti vi, mà chương trình ti vi chiều nào cũng có những cuốn phim tình cảm dài nhiều tập hay đáo để được phát vào ngay giờ lễ. Thế là nhà thờ trở nên vắng người tham dự thánh lễ, may ra còn giữ được lễ ngày Chúa nhật. Có một lần ngồi với anh em phan sinh trước sân nhà xứ, nhìn lên mái nhà, tôi thấy một mạng nhện thật lớn, có cả năm bảy con con ve sầu nằm chết khô trong trung tâm mạng nhện. Tôi nghĩ đến tôi. Có thể tôi cũng đang là một trong những con ve sầu ấy. Con nhện trần gian cuốn tôi vào và giam tôi chết khô trong đó. Nó đã giăng bẫy tôi, bắt đầu bằng những sợi tơ rất mong manh, nhưng khi đã vướng vào chỉ cần một sợi tơ khó thấy ấy, là tôi có thể lạc vào cả một huyệt động không đường thoát thân. Tình cảnh con ve sầu tôi thật bi đát. Như vậy, từ bỏ triệt để phải được bắt đầu bằng việc cắt đứt ngay những sợi tơ ban sơ, nhỏ nhất, mong manh nhất, khó thấy nhất, dễ lầm tưởng nhất. Đôi khi tôi tự mâu thuẫn, khi có những quyết định thật hoành tráng, quyết định yêu mến và dâng hiến trọn vẹn cho Chúa chẳng hạn, mà không cắt đứt nỗi một sợi tơ đam mê. Tôi đang nói dối mà tôi vẫn không hề hay biết.

Từ bỏ là vác thập giá

Thập giá trở thành Thánh giá cứu rỗi tôi, chỉ khi nào tôi biết thu hồi niềm tin cậy mến mà tôi đã đặt trọn vẹn vào những giá trị trần thế, để đặt lại đúng chỗ niềm tin cậy mến của tôi vào Chúa Giêsu Kitô cứu thế. Tôi không ảo tưởng là tôi có thể vác thập giá của Chúa, hay thập giá của anh em, khi tôi chưa vác nổi thập giá của tôi, chính là sự chiến đấu và chiến thắng các cuốn hút của những giá trị trần thế. Chúa Giêsu biết điều răn thứ nhất của Thiên Chúa đã dạy: “Kính mến Chúa trên hết mọi sự” là một thách đố lớn cho con người của mọi thời đại, nên, thiết nghĩ, Thập giá mà Chúa muốn người theo Chúa phải vác trên vai, chính là sự chấp nhận buông bỏ cách dứt khoát, cách triệt để những cái không-là-gì-cả so với sự sống vĩnh cửu, sự sống và sự sống giàu sang dồi dào trong Thiên Chúa, với Thiên Chúa. Chấp nhận buông bỏ tất cả không lưu luyến, không tiếc nuối, để dành cho Thiên Chúa, đúng là một thập giá thật nặng nề cho con người. Nhưng khi đã chấp nhận buông bỏ được tất cả, thì thập giá ấy lại là niềm vinh dự và là phần thưởng cao quí cho ta: Sống cuộc sống vĩnh cửu ngay khi còn trong tình trạng hữu hạn. Buông bỏ, vác thập giá, ngay hôm nay chính là vượt qua trước cái tình trạng hư vong để tiến vào cung lòng Thiên Chúa hằng sống, hằng hữu, để được hằng sống và hằng hữu với Ngài.

Lời Chúa Giêsu dạy cho chúng ta hôm nay, tưởng như nghe chói tai, kỳ cục, và bất thường với đời sống gia đình xã hội, nhưng thật ra là lời mặc khải tình yêu tha thiết của Thiên Chúa Cha, muốn quy tụ tất cả vào trong tình yêu của Ngài.

Lạy Chúa, xin cho chúng con chỉ tôn thờ và kính mến một mình Chúa. Xin thu hồi lại niềm tin cậy mến mà chúng con đã đặt lung tung vào những giá trị phàm trần hữu hạn. Xin cho chúng con chu toàn điều răn thứ nhất quan trọng: ” Kính mến Chúa trên hết mọi sự”. Amen.

Về mục lục

.

THEO CHÚA, PHẢI TỪ BỎ TÌNH CẢM TỰ NHIÊN

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Trên hành trình lên Giêrusalem để thi hành sự vụ cứu độ con người qua cái chết của mình, Đức Giêsu thấy người ta theo mình rất đông. Có những người theo Ngài chỉ vì tính hiếu tri, tò mò; lại có những người theo vì mong được chứng kiến hay trực tiếp lãnh nhận được một vài phép lạ như Chúa đã làm; lại có những người theo vì hy vọng Đức Giêsu thiết lập một vương quốc oai hùng theo kiểu trần gian; tuy nhiên, cũng có những người theo Chúa vì muốn được ơn cứu độ. Ngài biết rõ họ. Vì thế, như một mẫu số chung, Đức Giêsu đưa ra một điều kiện tiên quyết cho hết mọi người, hầu giúp họ trắc nghiệm lại thái độ theo mình của đám đông: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27).

Vậy điều kiện đó của Đức Giêsu có hợp lý không?

  1. Đi theo và làm môn đệ

Đi theo ai là làm môn đệ cho người ấy. Đi theo Chúa tức là tôn nhận Chúa làm chủ của mình. Đi theo Chúa cũng là lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; sống cuộc sống như Ngài đã sống, và cùng chung số phận như chính Ngài đã chịu.

Đây là đặc tính của người môn đệ, đồng thời cũng là điều kiện cần để theo Chúa. Thấy được tính hệ trọng của sự việc, Đức Giêsu đã quay lại và bảo họ, hay đúng hơn là nhắc cho họ về thái độ cần có khi đi theo mình. Tinh thần đó chính là sự dứt khoát, tiên quyết để thoát ra khỏi mọi ràng buộc của cuộc sống hầu xứng đáng trở thành môn đệ.

Thật thế, hành trình đi theo Chúa của người môn đệ được ví như người leo núi, hay đi qua cửa hẹp. Nếu muốn leo lên núi được, cũng như qua được cửa hẹp, thì người lữ hành phải thanh thoát và nhẹ nhàng, phải vứt bỏ lại tất cả những thứ cồng kềnh làm cản bước chân và hành trình của mình. Cũng vậy, theo Chúa thì cũng phải có thái độ như thế, tức là phải từ bỏ mọi sự để chỉ nhìn thẳng vào Chúa và nhắm tới đích mà tiến bước: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được”.

Đây có phải là đòi hỏi thái quá không? Và có đi ngược lại với sự thảo hiếu với cha mẹ và nghĩa vụ đối với gia đình không?

Thưa không! Bởi vì Chúa không đòi hỏi người môn đệ phải bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách vô lý, nhưng ý Ngài muốn nói rằng, nếu vì điều đó làm cho chúng ta không thể theo Chúa được, hay làm cho chúng ta mất ơn cứu độ thì hãy từ bỏ, bởi lẽ mọi sự sẽ qua đi, nhưng có Chúa là có tất cả, có Chúa là có cả một gia tài, thấy được rồi thì phải tìm mọi cách mà giữ lấy (x. Mt 13,44-52).

Như vậy, con người không chỉ có cuộc sống hiện tại, mà còn có cuộc sống mai sau, mà cuộc sống đời đời mới là cứu cánh tối hậu của mình. Khi hiểu như thế, thì chữ “dứt bỏ” đồng nghĩa với chữ “nghét” ở đây phải hiểu theo nghĩa “yêu thương”, tức là cần có một sự lựa chọn ưu tiên, lựa chọn cái tốt hơn. Điều này được sáng tỏ nhờ Lời Chúa phán: “…ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi” (x. Mc 12:28-34). Khi hiểu như thế, ta thấy tình cảm dành cho cha mẹ, vợ con và anh chị em…là những người ta phải yêu thương, nhưng họ cũng là con của Chúa, cũng là thụ tạo như chúng ta. Vậy thì khi phải lựa chọn, ta phải chọn Đấng đã tác thành và trao ban họ cho ta. Có một thái độ như thế, ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Chúa được. Đây là một sự lựa chọn mang tính thứ bậc: Chúa là trên hết, mọi sự là thứ yếu, nên cần phải vượt lên trên tình cảm tự nhiên để làm môn đệ của Chúa.

Khi có thái độ như thế, người môn đệ biết yêu Chúa trên hết mọi sự, từ bỏ mình là từ bỏ ý riêng và thay vào đó là thánh ý Thiên Chúa, mà ý Thiên Chúa chính là yêu Ngài trên hết mọi sự và yêu thương người thân cận như chính mình. Như vậy, khi từ bỏ mọi sự để theo Chúa, ta lại được Chúa và mọi người nhờ vào tình yêu mà ta dành cho Chúa, thật đúng như lời Chúa nói: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này …”

  1. Theo Chúa là vác thập giá hàng ngày mà theo

Tuy nhiên, theo Chúa là từ bỏ mọi sự không thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải vác thập giá mà theo thì mới trọn vẹn ý nghĩa là người môn đệ của Đức Giêsu.

Thập giá trong đời sống hằng ngày của người môn đệ được ví như cây gậy của người leo núi, như chiếc đèn của kẻ đi đêm, như biển chỉ dẫn của khách lộ hành. Không có gậy, người leo núi sẽ mệt và đôi khi không có thể làm điểm tựa khi đã mỏi gối chùn chân. Không có đèn đi trong đêm, người ta dễ dàng sa xuống hố hoặc vấp ngã. Không có biển chỉ đường, người ta dễ lạc lối. Như thế, thập giá hằng ngày chính là những hy sinh thử thách giúp con người trưởng thành và sống có ý nghĩa hơn. Quả vậy, khi suy tư về vấn đề này, Đức cố Hồng Y Thuận, vị Tôi Tớ Chúa đã nói: “thánh mà không vượt qua thử thách là thánh giả”; “thánh lâm thời”.

Ơn cứu độ của chúng ta có được là nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa. Như vậy, vác thập giá mà theo Chúa tức là đón nhận tất cả những hy sinh, gian khổ vì Chúa và phần rỗi của mình cũng như anh chị em: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).

Điều kiện để theo Chúa thật khó khăn và cam go như thế, nên Đức Giêsu muốn kẻ đi theo mình phải lựa sức, phải cẩn trọng. Vì vậy, Ngài kể cho họ nghe hai dụ ngôn của người xây tháp và ông vua đi giao chiến. Nếu muốn xây tháp, mà không biết chọn chỗ nào cho phù hợp, mục đích của việc xây tháp là gì, và cần bao nhiêu thợ, cát, đá, sắt, gạch…hay khi giao chiến mà không biết mình có bao nhiêu quân, địch bao nhiêu, những thuận lợi, khó khăn của ta và địch, nói chung là không biết tính toán trước thì thật là một kẻ dại dột, và như thế, thất bại là lẽ đương nhiên. Cũng vậy, lựa chọn theo Chúa là một chuyện khó, nhưng sống sự lựa chọn đó, tức là làm chứng cho Chúa còn khó hơn gấp bội. Đức Giêsu biết được điều đó, nên một mặt Chúa đòi hỏi phải dứt khoát, từ bỏ mọi sự để theo thì mới xứng đáng, nhưng đàng khác, Ngài cũng cảnh báo chúng ta phải suy tính cho cẩn thận, kẻo rồi dở đi mắc núi, dở lại mắc sông: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”.

  1. Sống lời Chúa hôm nay

Lời Chúa ngày hôm nay dạy chúng ta rằng: phải yêu Chúa trên hết mọi sự, và như một sự phát sinh, hệ quả…, yêu Chúa thì phải yêu người và yêu chính ta. Nếu chỉ yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối. Nói cách khác, tình yêu với Thiên Chúa bao trùm mọi tình cảm khác của con người, và như ngọn hải đăng soi sáng cho mọi người nhìn thấy nhau thế nào, thì khi yêu Chúa, ta cũng dễ nhận ra nhau là anh chị em của ta. Nói cách khác, khi yêu Chúa, ta sẽ thăng hoa được mọi thứ tình cảm tự nhiên, và như thế, ta lại được lại mọi người như là cha, mẹ và anh chị em của ta.

Chính vì thế, mà khi cần, tức là những tình cảm tự nhiên làm cho ta bị chậm trễ hay cản bước ta đến với Chúa và đi theo Chúa thì cần phải loại bỏ hết tất cả để đi theo Chúa và thi hành điều Chúa truyền. Đây chính là định luật ưu tiên trong đời sống của người Ki tô hữu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Xin cho chúng con nhận ra chân lý này, để sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Xin ban ơn trợ giúp, để chúng con luôn đủ sức mạnh, hầu vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa cho nên. Amen.

Về mục lục

.

MUỐN THEO CHÚA PHẢI TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ

Lm. Trần Bình Trọng.

Đa số người công giáo được rửa tội từ nhỏ và đã theo Chúa nhiều năm. Cái cách thế mà họ theo Chúa làm môn đệ gắn liền với hoàn cảnh mỗi người: vào thời giờ, công ăn việc làm, hoàn cảnh gia đình, phương tiện và khả năng có thể. Cũng đa số chúng ta theo Chúa trong đời sống người giáo dân: có gia đình, có vợ chồng, con cái. Bài Phúc âm hôm nay nói về cái giá mà người ta phải trả để theo Chúa: Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi (Lc 14:26). Ở đây ta tự hỏi: dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em có nghĩa là gì? Chúa có bảo ta phải ghét bỏ cha mẹ không? Chắc là không, bởi vì làm như vậy là lỗi Giới răn Thứ tư là thảo kính cha mẹ.

Giới răn Thứ tư dựa trên Sách Xuất hành và Sách Đệ Nhị luật mà Chúa trích trong phúc âm Thánh Mathêô (Mt 15:4) để dạy ta: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ để được sống lâu trên đất mà Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi (Xh 20:12; Đnl 5:16). Chúa còn trích sách Lêvi để cảnh giác người chửi bới cha mẹ: Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì bị xử tử (Lv 20:9). Như vậy thì ta không thể từ bỏ Cha mẹ theo nghĩa không còn nhận cha mẹ như là cha mẹ mình nữa. Tuy nhiên ta phải đặt đúng chỗ cho cái bậc thang giá trị của người Kitô giáo. Ta phải đặt Chúa lên hàng ưu tiên hơn cha mẹ. Đó chính là điều mà Chúa nói ở nơi khác trong Phúc âm thánh Mathêô: Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thày thì không xứng với Thày. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thày, thì không xứng với Thày (Mt 10:37-38).

Đọc lịch sử giáo hội ta thấy có những vị thánh vì muốn theo Chúa làm môn đệ hay sống đời tu trì, đã phải từ khước những lời cha mẹ khuyên lập gia đình. Chúa còn bảo ta phải từ bỏ cả mạng sống. Đó là điều các vị anh hùng tử đạo đã làm là từ bỏ mạng sống mình để được trung thành với đức tin vào Chúa.Chúa không giảm thiểu những đòi hỏi của Phúc âm để mong bắt được mẻ cá lớn của những người theo Chúa. Chúa đòi những người theo Chúa phải vác thập giá mình (Lc 14:27). Người theo đạo Chúa trong thế giới ngày nay ở những nước có tự do tôn giáo có thể không còn bị bách hại và tử đạo như xưa nữa. Tuy nhiên người theo đạo Chúa vẫn còn bị bách hại bằng những cách thế khác nhau. Khi sống trung thành với đường lối phúc âm, người ta có thể bị hiểu lầm, tẩy chay, chê cười và nhạo báng; người ta có thể bị mất việc làm, mất bạn bè.. Và đó là những thánh giá mà ta có thể phải mang vác.

Ngoài ra còn phải kể đến thánh giá của bệnh tật, của cảnh gian nan vất vả, nghèo đói, thánh giá của cảnh chia ly đổ vỡ…Cuối Phúc âm Chúa kết: Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14:33). Ta tự hỏi ta phải từ bỏ những gì? Từ bỏ những gì mình có gồm việc từ bỏ những đam mê tội lỗi, những thú vui bất chính, những tính mê nết xấu, những mê tín dị đoan.. Nói tóm lại là từ bỏ con người cũ để mặc lấy con nguòi mới. Không từ bỏ thì không thể vác thập giá theo Chúa được. Do đó Chúa nêu ra hai ví dụ để ta lượng sức. Trước khi xây nhà, người thợ xây phải tính toán xem có đủ vật liệu xây cất không? Và trước khi đi giao chiến, ông vua cũng phải lượng sức xem mình có thể đủ sức đương đầu với đối phương không? Ta có thể nhớ lại hồi còn nhỏ, ta làm cuộc chạy đua với trẻ hàng xóm.

Trước một cái rãnh hay cái hố, ta phải quyết định hoặc nhảy qua hay dừng bước. Lúc này ta phải lượng sức xem mình có thể nhảy qua được không? Nếu quá tự tin, thì thay vì nhảy qua bờ bên kia, ta lại rớt xuống hố hay xuống rãnh. Rớt một vài lần, ta học kinh nghiệm, rồi tập luyện để cuối cùng có thể nhảy qua. Và đó là cái tiến trình của việc làm môn đệ.Để theo Chúa, người ta phải sẵn sàng đổi mới lại thứ tự cho cái bậc thang giá trị của loài người cho phù hợp với đường lối phúc âm. Như vậy cái giá của việc làm môn đệ đòi hỏi một quyết định của lý trí và việc đổi mới của con tim.

Về mục lục

.

AI XỨNG ĐÁNG LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU?

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi… Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27-33). Những điều kiện Chúa Kitô đặt ra trên đây là cho hết mọi người chứ không riêng gì một ai. Tin Mừng Luca ghi rõ là khi ấy có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu và Người đã nói những lời ấy với tất cảm đám đông. Kitô hữu chúng ta có lẽ quá quen với hình ảnh thập giá và cả sự từ bỏ nhờ các cử hành Phụng Vụ, đặc biệt trong mùa Chay thánh. Phải chăng vì quen quá nên hóa nhàm? Và hệ quả kéo theo là không nắm được, đúng hơn là không hiểu đúng, chưa hiểu hết nội hàm của thập giá cũng như sự từ bỏ.

Nếu hiểu được thập giá và sự từ bỏ đúng như sự tự hủy và như thập giá của Chúa Kitô, đó là chịu án bất công, là chẳng còn hình tượng người ta nữa, là nên như người bị phỉ nhổ, như người bị Thiên Chúa đoán phạt… thì có lẽ khó có ai dám trả lời cách hiên ngang là con muốn theo Chúa, con muốn làm môn đệ của Chúa. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn tiên liệu nhiều khó khăn mà những ai muốn theo Người, muốn làm môn đệ Người phải chịu, nên đã căn dặn rằng cần khôn ngoan suy xét cẩn thận. Đừng để chuyện “xôi hỏng, bỏng tay” xảy ra vì thiếu khôn ngoan cân nhắc sự tình cũng như định lượng sức mình. Đừng mạo hiểm khởi công xây tháp mà không hoàn thành nổi để rồi bị người ta chê cười! Đừng mạo hiểm đem quân lính đánh nước người khi không đủ sức để rồi mang lấy thất bại thảm hại! Ai? Ai trong chúng ta, từ người hèn kém tội lỗi đến người tài cao, đức đầy dám nói mình đủ sức làm môn đệ của Chúa Kitô? Ai có thể tự nhận mình đủ đức, đủ tài, đủ khả năng để đi theo Chúa Kitô trên con đường thập giá?

Vậy thử hỏi phải làm sao đây? Bản thân kẻ hèn này xin tự thú nhận mình thật bất tài và bất xứng. Với sức riêng mình, tôi không thể nào làm môn đệ Chúa Kitô được. Với khả năng và cả đạo hạnh riêng mình, tôi không thể nào vác được thập giá mình, cũng không thể nào từ bỏ hết những gì mình có để theo Chúa Kitô. Thế thì phải làm sao đây? Không lẽ rút lui hoặc giơ tay xin hàng?

Với Thiên Chúa thì không có sự gì là không thể được. Ngay đêm Tiệc Ly, Chúa Kitô đã mở cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh bế tắc này. Chính Người đã tự nguyện rủ bỏ vị thế là Thầy và là Chúa để cúi xuống với từng người trong các môn đệ (x.Ga 13). “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ mà là bạn hữu” (Ga 15,15).

Hãy biết khôn ngoan làm bạn của Chúa Giêsu. Đỉnh cao của mạc khải là ở đây. Thiên Chúa không muốn con người làm tôi tớ hay làm môn đệ mà là bạn hữu của Người. Cái hình ảnh Giavê Thiên Chúa ngày ngày đi dạo với tổ tiên Ađam- Evà gợi mở thực tại tốt đẹp này. Có được người bạn là Giêsu Kitô thì chuyện thập giá mình sẽ không còn là vấn đề. Vì chính người bạn Giêsu luôn sẵn sàng nâng đỡ, đồng hành và có khi vác thay thập giá cho ta. Bài thơ “vết chân trên cát” của thi hào Tagor là một cảm nghiệm về một chân lý trong tình bạn. Con ơi, những lúc bão cát nổi lên, con chỉ còn thấy một dấu chân, đó là dấu chân của Ta, vì những lúc ấy là lúc Ta đang cõng con trên vai Ta.

Khi đã là bạn hữu thì không có gì là khoảng cách, là bí mật. “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết bởi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.” (Ga15,15). Khi ta biết mở cõi lòng, biết bày tỏ mọi bí ẩn tâm can cho Giêsu, từ chuyện tốt đến chuyện xấu, từ những việc lành đã làm đến những sự dữ xấu xa đã phạm thì ta đang trao dâng hết những gì ta có, cho người bạn Giêsu. Và đây chính là lúc ta thực sự bỏ hết những gì mình có (Avoir – To have). Chính khi ta mở tâm trí đón nhận chân lý Chúa Kitô tỏ bày và sống theo chân lý ấy thì chúng ta đã thực sự từ bỏ những gì chúng ta là (Être – To be).

Ý định của Chúa nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi Thần khí thánh” (Kn 9,17). Nếu Chúa Kitô không tự nguyện cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, nếu Người không minh nhiên tỏ bày rằng Người không còn gọi các môn đệ là tôi tớ mà là bạn hữu, chắc hẳn con đường về trời, con đường theo chân Chúa Kitô quả là vượt quá tầm tay, vượt quá khả năng loài người chúng ta.

Vấn đề đặt ra là khi nào và làm sao chúng ta có được sự chắc chắn, dù tương đối, rằng chúng ta đang là bạn hữu của Chúa Giêsu? Một trong những cách thế hữu hiệu để làm bạn Chúa Giêsu đó là hãy làm như Người đã làm (x.Ga 13,15). Đó là nhận nhau như người anh em thân thuộc, như là bằng hữu nghĩa thiết. Đây là nội dung chính những dòng thư của Thánh Phaolô gửi đến ông Philêmon. Ngài xin Philêmon đón nhận lại Ônêsimô, không phải như một người nô lệ mà như một người anh em rất thân mến, dù cho Ônêsimô đáng phải chết vì là nô lệ mà đã bỏ trốn khỏi nhà của chủ. (Bài đọc 2). Đón nhận nhau như là anh em, như là bằng hữu thì không chỉ loại bỏ những hành vi đàn áp, bất công, quan liêu kẻ cả… mà còn phải thực tâm chia sẻ những gì mình đã có được, đã nghe biết, đã hưởng nhận… cho nhau.

Giả như đang còn đó những sự việc, những sự thật đáng nói, cần chia sẻ mà các vị bề trên còn giữ kín với người bề dưới thì người bề dưới vẫn chỉ mãi là những nô lệ hay tôi tớ mà thôi. Một thực tế khó chối cãi đó là khi sự giữ kẻ, sự giữ bí mật xuất hiện trong đời sống vợ chồng thì người giữ kẻ, giữ bí mật cách nào đó không còn xem người phối ngẫu là bạn trăm năm, là bạn đời, chưa kể có trường hợp chỉ xem nhau như người tôi tớ.

Chưa nhận nhau làm bạn trong cách sống, trong cung cách đối xử, thì chắc chắn chúng ta chưa thật sự là bằng hữu của Chúa Kitô. Và cũng khá chắc chắn rằng quá trình vác thập giá mình, quá trình từ bỏ chính mình của chúng ta đang trong cảnh tình “đơn thương, độc mã”. Độc mã, đơn thương để chiếm được Nước Trời, để có được hạnh phúc thật quả là một sự liều lĩnh thiếu khôn ngoan và không lượng sức.

Biết sống, biết hành xử với nhau như là bạn hữu thì chúng ta luôn là bạn hữu của Chúa Kitô. Có người bạn Giêsu đồng hành thì chuyện vác thập giá, chuyện từ bỏ chính mình cho dù vẫn là khó nhưng luôn là có thể được. “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Có người bạn có thể làm được mọi sự luôn ở bên ta, đồng hành với ta thì không có gì là không thể.

Đôi bạn trẻ đã đính hôn xem ra khá hạnh phúc chỉ một nổi vóc dáng bên ngoài như đôi đũa lệch. Chàng ta “ngắn tầm” hơn cô nàng gần 20 phân (20 cm). Sau buổi học giáo lý hôn nhân, được sự đồng ý của cô nàng, anh chàng bèn trao nụ hôn đầu đời cách say đắm trong cái thế phải đứng trên viên đá chẻ của công trình đang xây dựng, để cho vừa tầm cao. Sau đó anh chị bên nhau đi về. Cô nàng thoáng thấy người yêu dáng đi hơi nặng nhọc mà chưa hiểu nguyên do. Có lẽ vì trời tối. Đi được một quãng anh chàng thỏ thẻ xin lặp lại “việc yêu” như ban nãy. Gật đầu chấp thuận thì cô nàng chợt thấy người yêu dừng lại, đặt viên đã lớn đã giấu sau lưng, mang theo nãy giờ, rồi đứng lên trên bày tỏ tình yêu. Được yêu nhưng xem chừng quá vất vả. Không biết kiên trì được bao lâu. Bỗng khi tay trong tay, anh chàng nghe cô nàng thầm thĩ: “Anh ơi, đừng cố vất vả quá! Em cúi xuống một chút là ổn thôi”.

Làm bạn của Giêsu thì hơn làm môn đệ của Người. Một kiểu khôn ngoan mà rất nhiều vị thánh như Gioan Thánh Giá, Têrêxa Avila, Têrêxa Hài Đồng Giêsu… đã chọn lựa.

Về mục lục

.

MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ

Lm. Bùi Quang Tuấn.

Lin Chi là bậc thiền sư nổi tiếng về đức độ. Rất nhiều người nhận ông làm sư phụ. Một hôm có bậc vị vọng trong nước ghé thăm tu viện và kinh ngạc khi nghe biết có khoảng 10 ngàn người đang tu học ở đó. Vì muốn biết đích xác con số nên vị khách đã lên tiếng hỏi Lin Chi: “Ngài có tất cả bao nhiêu môn đệ?” Lin Chi trả lời: “Chừng 4 hay 5.”

Lạ thật! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ chính tông. Không biết đó là chuyện đáng vui hay đáng buồn.

Nếu hôm nay có người hỏi Chúa: Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ? Không biết Chúa sẽ trả lời ra sao. Phải chăng Ngài cũng phải xác nhận rằng nhiều người “có tiếng mà không có miếng.”

Nhưng tại sao lại như thế? Phải chăng tiêu chuẩn Ngài đưa ra quá cao? Có lẽ không ít người trách Chúa chẳng chịu ‘nhẹ tay’ đôi chút. Ít nữa là hứa hẹn những gì hấp dẫn, kích thích thị hiếu con người. Đàng này những điều Ngài nói lại chẳng lôi cuốn lắm: “Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làmôn đệ Ta” (Lc 14:26). Thật là chói tai!

Nhưng đó lại là chân lý. Và khi trình bày chân lý, Đức Giêsu đã không bôi dầu trét mật hoặc mài dũa cho bớt góc cạnh hầu dễ nuốt. Trái lại, Ngài rao giảng đầy đủ, trọn vẹn, và rõ ràng. “Những Điều Kiên Làm Môn Đệ Đức Kitô” được ghi nhận trong Tin Mừng của Thánh Luca là một ví dụ cụ thể.

Bước theo Đức Giêsu là phải từ bỏ nhiều thứ, từ của cải vật chất cho đến ý riêng, từ quan hệ gia đình cho đến mạng sống. Đồng thời phải chấp nhận xung vào cuộc chiến, trực diện với kẻ thù có khi còn mạnh và đông gấp đôi mình. Gian nan cam go vô cùng. Thế nên rất cần một sự cân nhắc kỹ càng, không thể cứ làm tùy hứng, kẻo “khởi sự xây cất mà lại không hoàn thành nổi,” hoặc xung trận mà lại nắm chắc phần… thua trong tay thì không xứng hợp với Nước Thiên Chúa tí nào.

Thế nhưng mới nhìn thoáng qua, có người đã cảm nhận thiệt thòi quá nhiều. Chưa thấy lợi đâu, trước mắt đã phải đương đầu với từ bỏ, mất mát, khó khăn. Phải chăng vì thế mà nhiều người sợ theo Chúa. Hoặc có theo, thì chỉ theo xa xa, theo kiểu “hữu danh vô thực,” vừa gặp gian nan là bỏ Chúa chạy trốn tức thì.

Có lẽ vì nhìn thoáng qua nên người ta chỉ thấy được bề mặt của từ bỏ mà không nhận ra chiều sâu của sự sống. Không cuộc sống nào phong phú và ý nghĩa nếu không có xây dựng và chiếu đấu. Hai dụ ngôn “Người Xây Tháp” và “Vua Ra Trận” đã khẳng định điều đó. Dù là ơn gọi tu sĩ hay gia đình, dù là dấn thân hoạt động hay ẩn mình tại gia, tất cả đều phải mang tinh thần dựng xây và chiến đấu mới mong đem lại giá trị cao quí và bền lâu cho cuộc đời.

Xây tháp thì cần thời gian. Ra trận là phải chấp nhận đổ máu. Cả hai điều đó đã làm nên những thách đố trường kỳ, khiến bao tâm hồn phải lao đao, bao bước chân phải rã rời. Thời gian có thể xao dịu và hàn gắn thương tích, nhưng cũng là yếu tố làm nản lòng bao nhiệt tình, nồng thắm của phút giây ban đầu. Thế nên vẫn cần luôn một tấm lòng quả cảm và một tinh thần kiên trung.

Xây là xây đến xong. Đánh là đánh cho đến cùng. Nhưng để được như thế lại phải ngồi xuống suy tính. Cả hai dụ ngôn đều nhắc đến thái độ cần thiết đó: “Ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? “ và “Vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ, xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng?”

“Ngồi suy nghĩ” hay “ngồi tính toán” đều diễn tả chung một hình ảnh: ngồi cầu nguyện. Thế ra, cầu nguyện chính là bí quyết đưa đến đời sống vững chắc và kiện toàn. Qua cầu nguyện tôi có được sức mạnh bên trong, làm nền cho bao hành động “chiến đấu” và “xây dựng” bên ngoài.

Phải chăng những biến cố nhảy rào, những thất bại đau thương, những dang dở chua xót… trong các thứ ơn gọi, tu sĩ hay gia đình, phần lớn là do người ta không biết “ngồi suy tính”, hầu có được một chọn lựa đúng đắn và đón nhận sức mạnh đỡ nâng từ Thiên Chúa.

Bất cứ chọn lựa đúng đắn nào cũng đòi hỏi một lòng kiên trung thi hành. Người ta không thể lấy nhau một thời gian rồi thôi hoặc khấn hứa vài ba năm rồi bỏ. Thế nên, cần phải “ngồi xuống” cầu xin để có được sự bền đỗ trong ơn gọi. Bởi vì, như Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận có nói, “Một người thánh mà không cầu nguyện là thánh giả. Con đợi xem, họ sẽ sụp đổ không mấy hồi”. (Đường Hy Vọng 131).

Nếu tôi không muốn làm thánh giả, nếu tôi không muốn hành trình xây tháp bị dở dang, nếu tôi không muốn “giữa đường phải đứt gánh”, nhưng muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô, tôi cần phải “ngồi xuống” thường xuyên để xét lại đời mình trong tin yêu và cầu nguyện. Chắc chắn nhờ đó, ánh sáng Tin mừng sẽ soi chiếu bước chân và tăng sức tâm hồn, giúp tôi vượt qua chông gai thử thách và cập bến bình an.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG THEO CHÚA

Lm Anphong Trần Đức Phương

Các Bài Đọc Sách Thánh hôm nay mời gọi chúng ta hãy từ bỏ mọi sự để có thể theo Chúa trong cuộc hành trình gian khổ trần gian tiến về quê hương thật Nước Trời.

Bài đọc I (Sách Khôn Ngoan 9:13-19): Con người luôn phải mang tính xác thịt nặng nề, hướng về tội lỗi mất lòng Chúa và xúc phạm đến tha nhân; vì thế phải nhờ sự khôn ngoan do Thánh Thần Chúa hướng dẫn và sửa đổi, chúng ta mới có thể đạt tới ơn cứu độ. Bài Đọc II (Thư Philêmon 9-10,12-17): Khi chúng ta giúp đỡ anh em, chúng ta hãy tự nguyện làm với cả tấm lòng yêu thương, vui vẻ, làm vì Chúa. Bài Phúc Âm (Luca 14:25-33): Muốn trung thành theo Chúa, chúng ta phải hy sinh từ bỏ tất cả những gì đi ngược lại giới răn Chúa, và nhiều khi phải hy sinh cả mạng sống mình như các Thánh Tử Đạo; đó là tình yêu trọn vẹn. Chính Thiên Chúa, vì yêu thương chúng ta, đã xuống thế làm người và hy sinh chết trên Thánh Giá để cứu chuộc tội lỗi chúng ta.

Vậy muốn theo Chúa, tức là muốn sống theo Tin Mừng Chúa Giêsu đã giảng dạy, chúng ta phải quyết tâm từ bỏ mọi sự. Nhưng “từ bỏ mọi sự” là từ bỏ những gì?

Nói chung, đó là từ bỏ tất cả những gì đi ngược lại với giáo lý Chúa Giêsu đã giảng dạy và các Thánh Tông đồ cũng như Giáo Hội, tiếp nối các thánh Tông Đồ, hướng dẫn chỉ bảo chúng ta.

Trước hết là từ bỏ những đòi hỏi bất chính của con người chúng ta do lòng ham danh, ham lợi, và ham lạc thú. Lòng ham danh, ham địa vị đưa đến tranh chấp, gây nên hận thù, bất hòa, chia rẽ. Lòng ham lợi đưa đến gian tham, biển lận, lừa dối, bóc lột người khác; chính vì lòng ham lợi mà xẩy ra những tranh chấp đưa đến bao cuộc chiến tranh từ trước đến nay. Chiều theo lạc thú xác thịt đưa đến những đam mê tội lỗi, làm cho chúng ta say đắm các thú vui thể xác và làm hạ phẩm giá con người mà Chúa đã dựng nên theo hình ảnh Chúa. Vì thế, sách Khôn Ngoan, trong Bài Đọc I hôm nay, đã nhắc nhở chúng ta “tính xác thịt nặng nề làm tâm hồn hư đốn và lý trí tối tăm” không thể nhận ra “đường ngay, nẻo chính,” nên dễ đi đến chỗ sai lạc và đi vào con đường đưa đến diệt vong.

Theo Chúa nhiều khi cũng đòi hỏi chúng ta dám đi ngược lại với những ý muốn trái ngược với đường lối Chúa, dù những ý muốn đó là của chính cha mẹ, của vợ, của chồng, hay anh chị em ruột thịt trong gia đình chúng ta. Đây là ý nghĩa lời Chúa nói “ai muốn theo ta phải từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em…” Tất nhiên Chúa không bảo chúng ta phải ly tán gia đình, hay chống lại cha mẹ mới có thể theo Chúa.

Theo Chúa cũng có ý nghĩa là phụng sự Chúa và sẵn lòng giúp đỡ tha nhân lâm cảnh khốn khó, và vì thế Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay nhắn nhủ Philêmon cũng như mọi người chúng ta ” hãy làm việc thiện với lòng tự nguyện chứ không làm vì bị ép buộc.”

Nhiều khi vì muốn trung thành với Chúa mà chúng ta phải hy sinh cả địa vị, cả nghề nghiệp như trong bài viết trước đây, chúng tôi đã nêu ra trường hợp Giáo Sư Kenneth Howell, nhiều bác sĩ, y tá… bị đe dọa mất địa vị, mất công việc vì muốn đi theo con đường của Chúa do Giáo Hội chỉ dẫn.

Hơn nữa, khi chúng ta được ơn đặc biệt Chúa gọi, chúng ta cũng phải “sẵn sàng từ bỏ mọi sự” để hiến thân phụng sự Chúa qua đời sống chuyên môn làm tông đồ cho Chúa, như các linh mục, tu sĩ, và nhiều giáo dân đang dấn thân trên cánh đồng truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới hiện nay. Cuộc sống tận hiến này cũng đòi hỏi phải luôn ý thức “từ bỏ mọi sự” để dâng hiến toàn thời giờ phụng sự Chúa, rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cho mọi người, làm các công việc xã hội, mở mang văn hóa ở các nơi cần sự hiện diện của chúng ta.

Đặc biệt hơn nữa, từ thời Giáo Hội sơ khai đến giờ đã có biết bao những vị dám hy sinh chính mạng sống mình để trung Thành với Chúa, như trường hợp các Thánh tử đạo mọi thời và mọi nơi. Ở ngay trên quê hương Việt Nam chúng ta thời xưa và thời nay, cũng vẫn có bao người dám hy sinh mạng sống mình để bảo vệ sự thật, công lý, và đức tin tinh tuyền.

Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung cho nhau, xin Chúa nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, giúp chúng ta luôn biết sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Chúa là “Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống” và yêu thương phục vụ mọi người, nhất là những người lâm cảnh khó khăn, thiếu thốn.

Về mục lục

.

ĐẾN VỚI GIÊSU

Lm. Jos. DĐH.

Đến với người nổi tiếng, tìm gặp đấng bậc khôn ngoan, xa tránh người mắc bệnh truyền nhiễm, hoặc né tránh kẻ điên khùng, không phải là điều quá ngạc nhiên nơi cuộc sống đầy mưu mô tính toán này. Con cháu đến với cha mẹ xuất phát từ đức hiếu thảo, học trò thành đạt còn biết nhớ đến thầy cô, có phải là do đã thấm nhuần đạo lý thế nào là uống nước nhớ nguồn không ? Trải qua muôn thế hệ, chân lý bất di dịch, luôn phản ánh một sự thật: con người ta hơn nhau ở tấm lòng, chứ nào phải đôi giầy hay tấm áo ? Ngày hôm nay, nhiều sản phẩm được các phương tiện truyền thông quảng cáo rất áp đặt, nhưng khách hàng vẫn luôn cân nhắc chọn lựa sản phẩm an toàn, tìm những thương hiệu uy tín để mua sắm, đặt hàng. Đúng là xã hội tiêu dùng, đang nói lên tất cả: con người luôn tìm đến những giá trị thật, tâm tư mỗi người luôn hướng về đặc tính tốt và bền vững.

Từ xa xưa ấy, đám đông dân chúng phát hiện ra Đức Giêsu là Vị Thầy đặc biệt, họ tìm đến Đức Giêsu vì muốn được khỏi bệnh, muốn được chứng kiến phép lạ, số khác muốn được nghe, hiểu, và sống tinh thần người môn đệ tin theo Chúa cũng có. Đến với Đức Giêsu, tìm gặp Giêsu để làm gì, mỗi chúng ta hôm nay vẫn đang phải tự trả lời, dù còn mơ hồ hay đã tin tưởng cậy trông thì Đức Giêsu vẫn là Thầy là Chúa và là ơn cứu độ cho toàn dân. Chính vì không muốn để người ta ảo tưởng, rơi vào một cuộc sống bế tắc, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chí khá “cứng rắn”: “nếu ai đến với Ta mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không đáng làm môn đệ Ta”. Đến với Giêsu không phải vì vui hay buồn, đến với Giêsu không phải vì giầu hay nghèo, mà điều đầu tiên phải có: là được làm môn đệ, làm học trò của Giêsu.

Các đấng bậc khôn ngoan học nhiều, đọc nhiều, và có nhiều kinh nghiệm dẫn đến hạnh phúc, thành công, rất bổ ích: vẽ người vẽ mặt, khó vẽ xương ; biết người biết mặt, khó biết lòng ; chân thành quá mức là cái tội, tin người quá vội là vô cùng ngu dốt. Ngày hôm nay, người trẻ cũng nói lên cái triết lý của mình: bạn bè tốt, khi thấy té thì đỡ, không nên đợi bạn chết rồi mới tới thắp nhang. Đến với bậc khôn ngoan lão thành, đến với những tư tưởng sáng suốt của người trẻ, ít nhiều cũng là một bước tiến, là sự linh hoạt của tính cách say mê khám phá, biết hướng lòng sâu hơn đến niềm vui và hạnh phúc thật. Đến với Đức Giêsu, đến với tình yêu Giêsu, người ta vẫn đang nghe những âm thanh quyết liệt: “ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”. Tính toán cân nhắc, và tin tưởng cậy trông, cũng là cách nói mỗi người luôn phải tự chọn lựa trước khi bước tới thành công.

Con người ở mọi thời, mọi lúc, mọi nơi, nếu không đủ khôn ngoan, không đủ ý chí quyết tâm, làm sao hiểu được: có công mài sắt có ngày nên kim ; muốn con hãy chữ phải yêu lấy thầy ? Cha mẹ, anh chị em trong gia tộc, mang ân nghĩa sâu rộng và tình nồng cao cả nhất, ấy vậy mà Đức Giêsu còn nói hãy từ bỏ, để xứng đáng làm môn đệ, làm học trò của Ngài, quả là một hy sinh không nhỏ tí nào ! Đúng là đến với Đức Giêsu không phải để được chữa lành, không phải để được tăng thêm kiến thức, cũng không phải để được vinh hoa phú quý, để được sống mãi ở đời này. Đến với Đức Giêsu phải biết tự bỏ mình, phải biết mang vác thập giá đời mình, mới đáng theo Thầy làm môn đệ, vì ơn ban của Chúa và sự tự do cộng tác của con người, sẽ nói lên tất cả trong tình yêu Giêsu.

Đến với Giêsu bằng tình yêu, đến với Giêsu bằng con tim và khối óc đã là hay lắm rồi, Đức Giêsu còn nhắc nhớ phải sống từ bỏ, phải tự nguyện sống tinh thần người môn đệ, đúng là không dấn thân, không mạnh dạn khám phá, người ta sẽ rút lui bỏ cuộc. Khi đưa ra hai ví dụ về việc xây tháp và ông vua đi giao chiến, Thầy Giêsu không có ý nói nên tìm kiếm trúc sư giỏi, hay tìm đến vị quân sư nổi tiếng ; nhưng là mời gọi mỗi người hãy khôn ngoan, cân nhắc, bằng tình yêu và hành động khi bạn đã chọn lựa, quyết tâm. Từ bỏ quyết liệt hơn bao giờ cũng là từ bỏ chính mình, bỏ đi con người cũ để được nên mới, nên đẹp, trong Giêsu. Từ bỏ mình đến với Giêsu để mỗi người cảm nhận rõ hơn, chọn lựa làm môn đệ Giêsu không hề sai lầm. Từ bỏ tình yêu thế gian để được tình yêu Giêsu, từ bỏ hạnh phúc thế trần để được hạnh phúc nước trời, lúc nào cũng mới và đáng trân trọng.

Đến với Giêsu, một tình yêu vừa thông thoáng tự do, và một tình yêu vừa nghiêm khác, kỷ luật, mỗi kitô hữu chúng ta không thể sống vật vờ theo kiểu: ăn mày đòi xôi gấc, ăn chực đòi bánh chưng ! Đến với Giêsu bằng tình yêu chân thành tín thác, đến với Giêsu bằng tình yêu cậy trông, không tính toán, hẳn Đức Giêsu sẽ biến đổi, Ngài sẽ làm cho mỗi người thấy được rõ hơn thế nào là sức mạnh của tình yêu. Sợ phải từ bỏ, sợ phải vác thập giá, là bản chất giới hạn của mỗi người ; mời gọi đến với Giêsu, theo Giêsu làm môn đệ, là do ơn gọi nhưng không phát xuất từ tình yêu Chúa. Xin tình yêu Giêsu tiếp tục thánh hoá, và dẫn dắt mỗi người đến với hạnh phúc đời đời mà Chúa đã hứa ban. Amen.

Về mục lục

.

TỪNG NGÀY THEO CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn

Bằng cảm nghiệm sâu sắc của riêng mình, Linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên đã chia sẻ cho nền thánh nhạc Việt Nam những ca khúc có giá trị về nhiều mặt. Riêng tôi được đánh động bởi lời của ca khúc Từng Ngày Theo Chúa  vì nó rất phù hợp với sứ điệp Lời Chúa hôm nay:

“Từng ngày qua đời con vui dấn thân, trong tình yêu vươn lên để hiến dâng. Ngày tháng qua Chúa đã biết rồi: sống cho Ngài vẫn là một điều khó, thuộc về Ngài là thách đố cho con, có nhiều phen sức con đã mỏi mòn, nhưng Chúa đòi con dâng cho Ngài tất cả để chẳng có gì còn lại ở trong con.”

Hành trình đức tin của chúng ta là từng ngày theo Chúa, giống ngày xưa “có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu” (Lc 14, 25). Nhưng quả thật “sống cho Ngài vẫn là một điều khó”, và “thuộc về Ngài là thách đố cho con”. Chính Đức Giêsu bằng tấm lòng mục tử, đã quay lại để âu yếm nhìn đám đông đang bước đi theo Ngài. Ngài hiểu tâm trạng của từng người nên đã nói với họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em,chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Vì Ngài biết có người ham vui, theo tâm lý đám đông, thấy người ta đi mình cũng đi. Có người nhất thời, lúc mùa màng rãnh rỗi nên đi cho vui. Có người mưu đồ chính trị, tưởng Đức Giêsu lên Giêrusalem để giải phóng dân tộc Israel nên đi theo để được ở trong nhóm đầu tiên dành chính quyền. Có người đi theo vì sự ái mộ Thầy Giêsu, nhất là các cô, các bà. Có người đi theo để làm ăn, buôn bán, vì có đám đông thì tất nhiên phải có nhu cầu ăn uống và nhiều nhu cầu khác…

Đức Giêsu nói với họ phải suy nghĩ kỹ càng về con đường “từng ngày theo Chúa” để có quyết định đúng đắn cho hành trình hiện tại và trong tương lai. Hình ảnh một người xây tháp phải ngồi tính toán phí tổn, hay ông vua trước khi đi giao chiến phải ngồi xuống nhìn xem thực lực của mình (x. Lc 14, 28-33) là để minh họa cho việc làm sống còn của Kitô hữu. Đó là có quyết định bước đi theo Đức Kitô mỗi ngày hay không? Đó chính là việc “Chúa đòi con dâng cho Ngài tất cả để chẳng có gì còn lại ở trong con” ; hay: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 27).

Từng ngày theo Chúa phải là từng ngày từ bỏ. Từ bỏ nào cũng đòi hỏi sự hy sinh, tiếc nuối. Tiếc nuối vì những thứ từ bỏ là những thứ ưa thích, những thứ đem lại lợi ích cho mình. Càng ưa thích thì việc từ bỏ càng khó khăn. Càng lợi ích thì việc từ bỏ càng tiếc nuối. Tuy nhiên nếu biết có một mục tiêu cao cả hơn thì người ta sẵn sàng từ bỏ những ưa thích ngay trước mắt.

Đức Giêsu đã từ bỏ vinh quang của Ngôi Hai Thiên Chúa để trở thành phàm nhân vì mục đích được sống với con người, nhất là những phận người đau khổ. Ngài đã mang lấy thân phận hạt lúa mì, chịu chôn vùi, mục nát để trổ sinh bông hạt là ơn cứu độ cho con người.

Tôma Trần Văn Thiện là một chủng sinh bị bắt khi mới 18 tuổi. Quan thấy chú còn trẻ, tương lai còn dài, mặt mày sáng sủa, nên có thiện cảm, khuyên chú chối đạo, còn hứa gả con gái và sẽ thăng quan tiến chức cho. Nhưng chú Thiện dứt khoát: “Tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo” ; và “Tôi chỉ muốn quyền chức trên trời chứ không muốn quyền chức trần gian”. Có chức có quyền, có vợ đẹp, lại được sống, nhưng Tôma Thiện đã dứt khoát từ bỏ tất cả vì mục đích cao cả hơn, đó chính là hạnh phúc Nước Trời.

Hành trình theo Chúa hằng ngày của chúng ta cũng là hành trình từ bỏ, nhưng trước hết phải nhận ra việc từ bỏ là chính đáng vì thi sĩ triết gia Bùi Giáng đã viết: “Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật, thế cho nên tất bật đến bây giờ”. Ăng-gen cũng đã khẳng định “mọi sự thuộc về vật chất đều không tồn tại”. Cũng trong triết lý đó, nhà thơ Trần Đại Bổng đã viết: “Bàng hoàng ai đánh mà đau, mơ giàu hoang tưởng đẫm màu phù vân!”. Lời Chúa trong sách Giảng viên nói rất rõ: “Phù vân nối tiếp phù vân. Trần gian tất cả chỉ là phù vân” (Gv1, 1). Thế cho nên ta đừng để mình bị bám víu vào bất cứ một giá trị nào thuộc về thế gian này. Nói cách khác, những giá trị đó là tốt, nhưng nếu vì nó mà làm ta mất hạnh phúc Nước Trời thì phải dứt khoát vì thực sự ra nó không vững bền.

Kế đến việc từ bỏ là để ta nhẹ nhàng cất bước. Đavit được vua Saul lấy chính y phục vủa mình mặc cho, lấy mũ chiến bằng đồng đội lên đầu và mặc áo giáp cho câu. Tuy nhiên Đavit thưa với vua rằng: “Con không thể bước đi được với những thứ này, vì con chưa hề thử đến”. Đoạn Đavit cởi bỏ hết. (1Sm 17, 39). Một chủng sinh đi tu mà còn vướng bận chuyện gia đình, cứ lo nghĩ công việc ở nhà không ai tiếp giúp, sợ cha mẹ già không ai phụng dưỡng… thì chắc chắn không thể đi tu được vì bị ràng buộc bởi gia đình. Một tu sĩ vào nhà dòng mà còn đem lòng quyến luyến chuyện tình cảm, đêm ngày cứ nghĩ về một bóng hình nào đó thì làm sao họ có thể toàn tâm toàn ý toàn trí toàn lòng mà bước theo Đức Kitô. Một giáo dân làm ăn buôn bán, đến nhà thờ mà trong đầu cứ phân vân không giờ này biết có khách hàng nào đến công ty mình không, liệu đồ đạc trong nhà có người bảo quản, coi sóc không… Thì làm sao họ thờ phượng Chúa được. Họ còn vướng bận bởi những giá trị của tiền bạc, vật chất. Cởi bỏ những giá trị không đúng đắn hoặc không phù hợp để sống cho một giá trị cao cả hơn.

Từng ngày theo Chúa phải là “vác thập giá hằng ngày mà theo”. Chỉ có một vướng bận duy nhất trong đời ta, là thập giá Đức Kitô: “Đường thập giá cheo leo con bước đi con đường hẹp đầy bao nhiêu khó nguy. Ngài muốn con cứ hãy can trường hiến thân mình sống trọn tình yêu Chúa, từ bỏ mình để sống với tha nhân, chẳng còn toan tính hơn thua danh lợi, mong ước đời con vui dâng Ngài nguyên vẹn như đã ước hẹn một lời nguyền năm xưa”. Khi sống trọn vẹn cho một tình yêu, thì thập giá không còn nặng nề, mà nó sẽ trở thành tình yêu mãnh liệt hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Tôi tìm ra một nghịch lý, rằng nếu bạn yêu sâu sắc tới mức đau đớn, sẽ chẳng thể có thêm đau đớn nữa, chỉ có thêm tình yêu”. Đi trọn vẹn con đường thập giá, ta sẽ thêm yêu nhiều hơn.

Ngày lễ suy tôn Thánh giá, cha xứ nói các gia đình mang cây thánh giá theo để cha làm phép, sau đó về treo trong gia đình. Cha xứ thấy có một cặp vợ chồng già chẳng mang thánh giá theo nên hỏi: “Thánh giá của 2 ông bà đâu?” Hai ông bà chỉ nhau và nói: “Thưa cha đây là thánh giá của con, con đã mang mấy chục năm rồi”.

Thay vì tìm cách trốn tránh những khó khăn, những gian nan thử thách thì hãy đi trọn vẹn con đường gian khó đó, ta sẽ cảm nếm được hương vị ngọt ngào của tình yêu.

Khi yêu thương mà không nhận được sự đáp trả, cứ tiếp tục yêu, vì chính lúc đó tình yêu mới là thực sự. Khi làm ơn mà nhận lại bằng sự phụ bạc, cứ tiếp tục làm ơn, vì chính lúc đó Thiên Chúa mới trả ơn cho ta…

Từng ngày theo Chúa là từng ngày chấp nhận từ bỏ mình để vác lên vai cây thập giá, ta sẽ cảm thấy hành trình đức tin tuy còn đó những khó khăn thử thách, nhưng tình yêu sẽ đong đầy và đổ tràn trong từng ngày sống của ta.

Sau cùng, ta hãy cầu nguyện bằng lời của ca khúc Từng Ngày Theo Chúa để thấy được con thập giá của ta không đơn độc mà có Đức Kitô đã từng đi và đang đi với ta: “Xin cho con luôn cảm thấy được rằng: Tình Ngài thương hơn trời cao đất sâu. Đã từ lâu Chúa hằng ủ ấp con, đã từ lâu Ngài chở che giữ gìn. Trước khi con sống cho Ngài thì chính Ngài đã sống cho con. Trước khi con thuộc về Ngài thì từ bao giờ Chúa đã thuộc về con.

Về mục lục

.

TỪ BỎ ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tầm sư học đạo.” Con người chúng ta cần được trau dồi học hỏi mỗi ngày để thành nhân và thành tài. Để thành nhân và thành tài cần phải có những ông thầy giỏi có tầm và có tâm. Nhiều người Việt Nam khi qua Mỹ đã trở thành những người nổi tiếng trong các lãnh vực khoa học, kỹ thuật và nghiên cứu bởi vì họ may mắn gặp được những thầy giỏi. Ở trong nước, nhiều em từng được gọi là thần đồng nhưng sau đó rất ít em thành tài. Ông Ngô Bảo Châu nhà toán học Việt Nam trở nên giỏi giang nổi tiếng thế giới, nhờ có môi trường và thầy dạy tốt tại nước ngoài. Rất nhiều người Việt đã thành công thành đạt và đang tham gia vào các lãnh vực quan trọng của Hoa Kỳ như trong quân đội, nghiên cứu tại cơ quan Naza hay các lãnh vực chính trị, khoa học xã hội khác là nhờ họ tìm được những người thầy có khả năng dẫn dắt họ.
Để thành công, thành tài, đạt được ước mơ trong cuộc sống cần phải tìm được những người thầy giỏi, thì việc tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời, đạt được mục tiêu đời đời lại càng cần phải có một người thầy giỏi giang, uy tín chỉ cho chúng ta con đường và cách thức để đạt mục tiêu đó. Chỉ có một người Thầy duy nhất có thể chỉ cho chúng ta hạnh phúc đích thực là Nước Trời đó chính là Thầy Giêsu.
Tuy nhiên, mỗi vị thầy đều có những đường lối, cách thức huấn luyện, yêu cầu và những điều kiện khác nhau. Hôm nay, Thầy Giêsu đang trên hành trình lên Giêrusalem, tức là hành trình tiến đến đỉnh cao của sứ mạng giảng dạy và cứu chuộc nhận loại bằng hiến tế thập giá. Khi nghe Thầy Giêsu giảng và thấy các phép lạ, dân chúng tuôn đến và đi theo Ngài rất đông. Chúa Giêsu biết rằng trong số đó, có những người đi theo vì thấy đám đông đi, mình cũng đi; người khác vì thấy phép lạ Chúa làm nên đi theo để xem và có cả những người đi theo vì nghĩ rằng Chúa Giêsu sắp thực hiện cuộc khởi nghĩa, nên họ muốn tìm một cơ hội may mắn. Nói chung những người đi theo Chúa có rất nhiều mục tiêu khác nhau.
Chúa Giêsu không ngần ngại để đưa ra cho họ hai yêu cầu cần thiết, tiên quyết nếu muốn trở thành môn đệ đích thật của Chúa. Điều kiện thứ nhất: “Ai đến với tôi mà không dám dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi.” Với điều kiện này Chúa không khuyến khích sự chia rẽ vợ chồng, sống vô trách nhiệm hoặc phụ bạc với gia đình của mình, nhưng Chúa đòi một thái độ dứt khoát, biết đặt Chúa làm mục tiêu và là ưu tiên tuyệt đối. Mỗi người đều có các mối liên hệ với cha mẹ, người thân và gia đình. Tuy nhiên, nếu mối liên hệ tình cảm này trở thành bận vướng, trở thành vật cản khiến chúng ta không thể thanh thoát cõi lòng mà theo Chúa, thì đòi chúng ta phải dám hy sinh. Không chỉ hy sinh tình cảm và các mối liên hệ, Chúa Giêsu còn đòi người môn đệ phải dám hy sinh cả mạng sống vì Chúa khi cần.
Điều kiện thứ hai: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ của tôi.” Trở thành học trò của Chúa không phải là tìm kiếm sự dễ dãi thoải mái. Trở thành môn đệ của Thầy Giêsu không thể có cuộc sống lười biếng, ỷ nại hoặc sống tự do, buông thả theo thói đời, nhưng là phải dám bước vào con đường của Chúa, cùng bước một nhịp với Chúa. Trở thành môn đệ của Chúa không phải để được danh vọng hay địa vị theo kiểu trần gian, mà là để mỗi ngày nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã không chọn con đường giàu có dễ dãi, nhưng đã chọn con đường khiêm hạ từ bỏ. Ngài từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để đến với con người; Ngài quyền năng nhưng lại chấp nhận sự vâng lời cho đến tận cùng; Ngài là Đấng đem đến sự sống nhưng lại chấp nhận cái chết đau đớn trên thập giá. Vì thế, Ngài đòi các môn đệ muốn theo Chúa cũng phải dám sống từ bỏ. Từ bỏ chính bản thân cùng với những ham muốn lôi kéo của bản năng như ăn uống thoả mãn…và vác thập giá của mình để đi theo Chúa.
Chúa không đòi các môn đệ vác thập giá của Chúa, mà Chúa muốn những người theo Chúa phải dám vác thập giá của chính mình. Thập giá đó có thể là bổn phận và trách nhiệm thường ngày: là ông chồng say rượu cờ bạc, là bà vợ đểnh đoảng lắm điều, là cha mẹ già bệnh tật khó tính, là những đứa con ngoan và cả những đứa con ngỗ nghịch, là gánh nặng cơm áo gạo tiền cho cả gia đình… Thập giá đó cũng là những khó khăn trắc trở trong cuộc sống, công việc, là niềm vui, nỗi buồn mỗi ngày, là những giới hạn của con người cùng với đau yếu bệnh tật mà chúng ta phải mang lấy vào cuộc đời mình. Tất cả những thứ đó là thập giá cuộc đời của mỗi người mà Chúa muốn chúng ta đón nhận một cách vui vẻ và bước đi theo Chúa. Chúa nhấn mạnh là chúng ta phải bước đi theo Chúa. Nếu chúng ta bước vào lối khác chúng ta sẽ lạc đường, nếu chúng ta bước theo một người nào khác, chúng ta sẽ không đạt đến hạnh phúc đời đời.
Những điều kiện và đòi hỏi của Thầy Giêsu quả là một thách thức cho nhiều người. Tuy nhiên, Chúa không ép buộc ai, Ngài chỉ kêu mời: “Ai muốn”làm môn đệ của Ngài thì phải đáp ứng những điều kiện đó. Quyết định trở thành môn đệ của Chúa không thể là một quyết định bồng bột nhất thời, trái lại phải là một quyết định sau khi đã suy nghĩ, cân nhắc. Vì thế Chúa Giêsu đã đưa ra hai dụ ngôn có cùng một ý nghĩa: “Ai trong anh em muốn xây một cái tháp mà trước tiên không tính toán phí tổn xem mình có hoàn thành được không?Hoặc như một vua kia trước khi ra trận cũng phải tính toán mình đem bao nhiêu quân để đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình. Nếu không đủ binh lực thì phải lo cầu hoà trước.”
Thiên Chúa không bao giờ lừa gạt chúng ta, Ngài nói rõ và chỉ rõ cho chúng ta con đường phải đi để đạt tới cùng đích cuộc đời là thiên đàng; Ngài dạy cho chúng ta biết phải làm những gì để được hạnh phúc đời đời. Thiên Chúa còn cho chúng ta thời giờ để cân nhắc, chọn lựa và quyết định có theo Chúa hay không. Chắc chắn ai dám đáp ứng lại những đòi hỏi của Chúa, thực hiện những điều kiện Chúa muốn thì sẽ đạt được hạnh phúc. Còn ai chần chừ, trì hoãn hoặc từ chối bước theo Chúa thì sẽ bị lạc đường và đi đến chỗ bất hạnh, huỷ diệt. Đó chính là chương trình ý định của Thiên Chúa ngay từ khi tạo dựng nên con người và vũ trụ, mà tác giả sách Khôn Ngoan trong bài đọc một đã nói: “Nào có ai biết được ý định của Chúa. Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi…Chúng con chỉ là loài thuộc hạ giới làm sao hiểu được. Nhưng chính Ngài đã ban cho chúng con sự Khôn Ngoan và thần khí để uốn nắn lại đường lối của chúng con và dạy chúng con biết sống sao cho đẹp lòng Ngài.”
Thưa quý OBACE, theo Chúa chắc chắn là điều khó, trở nên môn đệ của Chúa chắc chắn phải đáp ứng các điều kiện của Chúa. Với sức tự nhiên của con người, chúng ta khó có thể theo Chúa được, nhưng Thiên Chúa lại ban cho chúng ta sức mạnh và sự nâng đỡ của Ngài để giúp chúng ta có thể chọn và sống đúng với những đòi hỏi là môn đệ của Chúa Giêsu. Chúa đã hướng dẫn ta qua Lời của Chúa và trợ giúp chúng ta bằng các Bí Tích, đặc biệt là Bí tích Giải tội và Thánh Thể. Qua Lời Chúa mỗi ngày chúng ta nghe, đọc và suy gẫm, Lời Chúa sẽ giúp chúng ta cắt tỉa những gì là bận vướng trong cuộc đời, giúp chúng ta có thể từ bỏ bản thân và những lôi kéo của xác thịt và cuộc sống thế gian. Lời Chúa cũng sẽ chỉ cho chúng ta phải đi sao cho trúng con đường mà Chúa Giêsu đã đi, an ủi chúng ta khi chúng ta mệt mỏi và dẫn chúng ta đến gặp được Chúa. Qua Thánh Lễ và Bí tích Thánh Thể mỗi ngày chúng ta được nuôi dưỡng, được bổ sức và đỡ nâng khi chán nản thất vọng, an ủi khi thất bại đau khổ, để chúng ta luôn vững niềm cậy trông nơi Chúa.
Thập giá hằng ngày của mỗi người là chồng là vợ, là con cái trong gia đình mà mỗi người đều có bổn phận, trách nhiệm trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái nên người, nên con Chúa. Có những người vợ, người mẹ, người chồng người cha đang phải mang thánh giá rất nặng trong cuộc sống gia đình của mình mà không dễ dàng để tâm sự hoặc chia sẻ với người khác. Có nhiều hoàn cảnh trớ trêu, trái ngang đang khiến nhiều bậc cha mẹ phải quặn lòng, mất ăn mất ngủ khi nghĩ đến con cái. Không chỉ những gánh nặng tinh thần, thể chất đến từ trong gia đình, mà còn những áp lực từ cuộc sống, công việc, khiến cho nhiều người mệt mỏi muốn buông xuôi…tất cả đều là những thánh giá trong cuộc sống. Chúng ta được mời gọi để đón nhận, vác thập giá theo Chúa, trung thành với giới răn lề luật của Chúa trong mọi hoàn cảnh dù khi giàu hay nghèo, dù vui hay buồn.
Chúng ta tin rằng trở thành môn đệ của Chúa, vác thập giá đời mình theo Chúa, chúng ta sẽ không phải bước đi trong tăm tối một mình, nhưng có Chúa là bạn đồng hành, ngài sẽ nâng đỡ trợ lực cho chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và niềm vui, nhất là khi trung thành theo Chúa tới cùng, Chúa cho chúng ta được chia sẻ vinh quang hạnh phúc đời đời với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

YÊU CHÚA TRÊN MỌI SỰ

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Bài Tin Mừng của Chúa Nhật này chứng đựng những lời chối tai và khó hiểu đối với con người mọi thời. Cần phải giải thích đúng đắn để hiểu được ý nghĩa cốt lõi của nó. Chúng ta hãy nghe thánh Luca tường thuật:

“Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: Nếu ai đến với Tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Tôi. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi… Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi” (Lc 14,25-26.28b).

1- Một lời mời gọi như một thách thức

Có một điều chúng ta cần phải làm rõ ngay lập tức. Nhiều khi Tin Mừng thách thức chúng ta, chứ không bao giờ gây mâu thuẫn. Bằng chứng là ngay trong Tin Mừng Luca, ở phần sau đó, Chúa Giêsu mạnh mẽ đòi hỏi phải tôn kính cha mẹ (x. Lc 18,20), và vợ chồng phải yêu mến nhau, Người nói rằng họ phải trở nên một thân xác và sự gì Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân li. Vậy tại sao ở đây Chúa lại nói với chúng ta hãy “bỏ” cha mẹ, vợ, con và anh chị em mình?

Để không rơi vào rối rắm ở đây, chúng ta cần lưu ý đến sự kiện này. Tiếng Do Thái không có sự so sánh lớn hơn hoặc nhỏ hơn (ví dụ: “thích điều này hơn điều kia, hay thích điều này ít hơn điều kia); người ta đơn giản và rút lại tất cả vào “yêu hoặc ghét.” Câu nói: “Nếu ai đến với Tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con…” được hiểu theo nghĩa: “Nếu ai đến với Tôi, mà không yêu tôi hơn cha mẹ… thì không thể là môn đệ tôi.” Chỉ cần đọc lại đoạn Tin Mừng của thánh Mátthêu thì rõ hơn: “Ai yêu cha hay mẹ hơn tôi, thì không xứng là môn đệ tôi” (Mt 10,37).

Nhưng với đoạn Tin Mừng này, chúng ta không được bỏ đi chức năng “thách thức” vốn phải được giữ nguyên vẹn. Chúa Giêsu đòi hỏi tình yêu dành cho Người phải vượt lên trên mọi tình yêu dành cho người khác, kể cả những người thân thiết nhất như cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả những của riêng mình. Ở đây không đề cập đến tình yêu Chúa theo số lượng, “yêu hơn một chút so với những cái khác,” nhưng tình yêu theo chất lượng, khác biệt và riêng biệt. Thánh Biển Đức nhận ra điều này nên đã để lại trong tu viện ngài châm ngôn: “Tuyệt đối không đặt gì hơn trước tình yêu dành cho Chúa Kitô.”

Chúng ta thường nghe câu nói này: “Tôi còn vợ và con cái.” Câu này có thể có giá trị trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, nhưng không được viện cớ đó để thoái thác trách nhiệm trước lời mời gọi của Đức Kitô. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là sự diễn tả rõ ràng hơn về điều mà ta gọi là tính triệt để của Tin Mừng. Cũng cần lưu ý một điều mà Chúa Giêsu nói nơi khác rằng: “Hãy đến với tôi hỡi những ai đói khát và bị bắt bớ;” còn ở đây xem ra Người nói ngược lại: “Anh em hãy suy nghĩ kỹ, trước khi đến với tôi…” Quả thật, đây là ý nghĩa của dụ ngôn mà Người viện dẫn, để minh chứng cho những lời Người trước đó:
“Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: “Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi.”

2- Một đòi hỏi từ bỏ tận căn

Việc bước theo Chúa Kitô là một chọn lựa và là quyết định hệ trọng liên quan đến toàn bộ đời sống chúng ta. Theo Chúa là sự dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời, là sự chọn lựa triệt để theo Tin Mừng như các tu sĩ nam nữ và các linh mục đã làm, chứ không phải chỉ làm một chuyện đơn giản, nhẹ nhàng, hay là một thứ trang sức cho đời sống.

Chúng ta có thể thắc mắc: Chúa Giêsu là ai mà lại có thể đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Người hơn cả cha mẹ, vợ con, và của cải? Người có phải là một người điên hay là Thiên Chúa? Nếu Người không phải là Thiên Chúa thì đòi hỏi như thế là quá đáng!

Các nhà chú giải không ngừng tìm kiếm trong Tin Mừng những chứng cớ về thần tính của Chúa Kitô, nghĩa là về sự kiện Người ý thức mình là Con Thiên Chúa. Bài Tin Mừng này là một trong những chứng cớ thuyết phục nhất, dù cách gián tiếp, theo đó Chúa Giêsu tự coi mình là Thiên Chúa. Trong những đòi hỏi này, Chúa Giêsu hành xử mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể hành xử như thế. Bởi vì Người là Thiên Chúa. Người đòi hỏi con người chính điều mà Thiên Chúa đã đòi hỏi người Do Thái trong Cựu Ước: “Các người hãy yêu mến Ta trên hết mọi sự” (Đnl 6,5).

Nhưng có lẽ sẽ rất sai lầm khi nghĩ rằng tình yêu dành cho Chúa Kitô lại cạnh tranh với tình yêu nhân loại: với cha mẹ, vợ chồng, con cái và anh chị em. Chúa Kitô không phải là một “đối thủ trong tình yêu” của bất cứ ai và Người cũng không ghen tương với bất cứ người nào. Trong tác phẩm “Chiếc dày láng bóng” của Paul Claudel, nhân vật chính là một người Kitô hữu nhiệt tình nhưng lại chết mê chết mệt chàng Rodrigo, cô đã kêu lên như không thể tin nổi: “Vậy các thụ tạo có được phép yêu nhau bằng tình yêu này không? Thật vậy, Thiên Chúa thì không ghen tương phải không?” Và thiên thần hộ thủ trả lời: “Làm sao Người có thể ghen tương điều chính Người đã làm nên? (Atto III, cảnh 8).

Tình yêu dành cho Đức Kitô không loại trừ tình yêu khác, nhưng làm cho chúng đi vào trật tự. Quả thực, Người là Đấng mà nhờ Người mọi tình yêu đích thực tìm thấy nền tảng, trợ giúp và ân sủng cần thiết để được sống cho đến cùng. Đây là ý nghĩa của “ân sủng bậc sống” mà bí tích hôn nhân mang lại cho các vợ chồng Kitô hữu. Nó đảm bảo rằng họ được trợ giúp và hướng dẫn bởi tình yêu của Chúa Kitô như Người yêu hiền thê của mình là Giáo Hội.

Chúa Giêsu không lừa dối ai. Nhưng Người đòi hỏi chúng ta trao ban tất cả. Bởi vì, Người đã hiến dâng tất cả cho chúng ta. Có thể ai đó thắc mắc: Con người này có quyền gì mà đòi hỏi mọi người một tình yêu tuyệt đối như thế? Không cần phải trở về quá khứ xa xôi, chúng ta có thể tìm thấy trong lịch sử: Chúa Giêsu là người đầu tiên đã hiến dâng tất cả vì loài người: “Ngài đã yêu chúng ta và đã ban tặng chính mình cho chúng ta” (Ep 5,2).

3- Dấu chứng tình yêu đích thực

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói về chuẩn mực và dấu chỉ của một tình yêu đích thực dành cho Người: “Hãy vác thập giá mình.” Vác thập giá mình không có nghĩa là tìm kiếm sự đau khổ. Chúa Giêsu không chủ trương tìm kiếm thập giá. Người vác thập giá mình vì vâng phục Chúa Cha và vì ơn cứu độ loài người. Người đã biến đổi thập giá từ một phương tiện của sự dữ trở thành dấu chỉ ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không đến để làm cho những thập giá con người ra nặng hơn, nhưng đúng hơn, Người mang đến cho chúng một ý nghĩa mới. Thật có lý khi nói rằng: “Hễ ai kiếm tìm Chúa Giêsu mà không có thập giá, sẽ gặp thấy một thập giá mà không có Chúa Giêsu, nghĩa là người đó sẽ tìm thấy thập giá nhưng không tìm thấy sức mạnh để vác thập giá.”

Sách Gương Phúc cảnh báo: “Nếu con sẵn sàng vác thập giá, nó sẽ mang con và dẫn con tới nơi con ước mong, nơi đó đau khổ sẽ kết thúc. Nếu con vác thập giá với tình yêu, thập giá không trở thành gánh nặng dẫu nó có nặng hơn. Nếu con vứt bỏ thập giá, chắc chắn con sẽ thấy thập giá khác, và nó còn nặng hơn… tất cả cuộc đời của Chúa Kitô là thập giá và tử đạo, còn con, con muốn xin cho mình sự nghỉ ngơi và niềm vui chăng?” (II, 12).

Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta có một sự đáp trả triệt để theo Người. Chính chân phước Angela thành Foligno giúp chúng ta hiểu điều này. Một ngày kia, khi ngài suy nghĩ về sự thánh thiện, về tình yêu dành cho Chúa, bất ngờ ngài nhận ra rằng lòng mến ngài dành cho Chúa không còn trọn vẹn và hoàn toàn như thánh nhân nghĩ. Quả thật, ngài yêu mến Chúa trên hết mọi sự, nhưng ngài cũng yêu điều gì đó khác nữa, như yêu những sự an ủi của Chúa. Trong giây phút đó, ngài nghe một tiếng nói của Chúa Giêsu hỏi ngài: “Angela, con muốn gì?” Và với tất cả sức mạnh của lòng mến, ngài kêu lên: “Con chỉ muốn một mình Chúa thôi!”

Mỗi lần chúng ta suy niệm đoạn Tin Mừng này, hy vọng mỗi người cũng kêu lên và quyết định như thế. Con chỉ muốn Chúa mà thôi. Vì có Chúa là có tất cả. Amen!

Về mục lục

.

THẬP GIÁ LÀ GÌ?

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ: Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,25-27).

Những lời của Chúa Giêsu nói với đám dông dân chúng đi theo Người quả là “chói tai”. Làm sao có thể sống đúng phẩm vị con người khi dứt bỏ các nghĩa tình tự nhiên của gia đình? Các nhà nghiên cứu Tin Mừng cho chúng ta biết đây là kiểu nói so sánh của người Do Thái thời bấy giờ. Từ bỏ điều gì đó không phải vì nó không tốt nhưng vì nó tốt thua điều sẽ chọn. Đạo hiếu thảo và tình gia đình vốn là tốt nhưng chúng vẫn thua Đấng lập nên chúng. Đến đây chúng ta mới hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu khi Phêrô thưa: Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy thì Người đã đáp lại ai bỏ nhà cửa, anh chị em… vì Thầy thì sẽ được gấp trăm những gì đã từ bỏ ngay cả ở đời này, cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu ở đời sau (x.Mc 10,28-30).

Xin đặc biệt đề cập đến nội dung thứ hai như là điều kiện tất yếu để có thể làm môn đệ Chúa Giêsu đó là vác lấy thập giá chính mình. Để có thể hiểu mầu nhiệm thập giá thì chúng ta cần phải nắm rõ thập giá theo tính lịch sử của nó.

Thập giá tự nó là một sự dữ mà đế quốc Rôma dùng như án hình áp đặt lên người dân bị trị. Những ai có quốc tịch Roma như thánh Phaolô thì không bị án hình này. Thời bấy giờ quan Philatô thường áp dụng án hình này để trừng trị nhiều người Do Thái, cách riêng những người “làm cách mạng” chống đối Chính quyền đế quốc đang đô hộ dân tộc họ. Như thế xét về lịch sử thời bấy giờ thì những người phải vác thập giá và chết trên thập giá là những người can đảm hiến dâng mạng sống vì nền độc lập tự do của dân tộc. Và ngược lại thập giá là công cụ để Chính quyền đế quốc kìm kẹp dân bị trị trong kiếp nô lệ.

Chúa Giêsu trên đường rao giảng Tin Mừng đã nhiều lần tiên báo án hình thập giá mà Người phải chịu. Người chấp nhận thập giá không phải là để giải phóng dân tộc Do Thái ra khỏi ách nô lệ của đế quốc Rôma nhưng là để giải thoát mọi người ra khỏi ách nô lệ của thần dữ mà bước vào đời sống tự do của con cái Cha trên trời. Cái giá phải trả cho sự tự do của nhân loại không dễ dàng chút nào. Có khi Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem để gánh lấy nó, nhưng Người cũng đã đôi lần xao xuyến và đã đổ mồ hôi pha lẫn máu trong vườn cây dầu (x.Lc 22,44).

Các thế lực bạo quyền ngày nay vẫn còn dùng “thập giá” để kìm kẹp người dân trong cảnh nô lệ. Dù chẳng còn là hai thanh gỗ chéo nhau như xưa, nhưng vẫn là sự bắt bớ, đàn áp dựa trên những chính sách, cơ chế, luật lệ bất chính, bất minh. Vì một nền dân chủ và sự tự do cho quê hương, cho dân tộc thì đã và đang có đó rất, rất nhiều người can đảm vác lấy “thập giá”. Hàng vạn vạn người dân Hồng Kông, cách riêng các bạn trẻ xuống đường biểu tình trong thời gian gần đây dù bị bách hại là một minh chứng điển hình.

Thần dữ vẫn còn giam cầm con người bằng “thập giá” là những nỗi sợ hãi, sợ khổ, sợ khó, sợ hy sinh… để bắt con người mãi mang kiếp nô lệ sự hưởng thụ ích kỷ, làm tôi sự tham lam vô độ, làm đầy tớ các danh vọng chóng qua…

Theo thiển ý, để có thể làm môn đệ Chúa Kitô thì:

-Không được phép đặt “thập giá” lên đầu lên cổ bất cứ ai. Không được kìm hãm tha nhân trong vòng nô lệ dưới bất cứ hình thức nào. Không được góp tay cách trực tiếp hay gián tiếp cho bạo quyền cũng như cho thần dữ.

-Phải can đảm vác lấy thập giá khi sự tự do của bản thân, của tha nhân, của dân tộc…nhất là sự tự do của đời con cái Chúa đòi hỏi chúng ta dõi bước theo chân Thầy Chí Thánh Giêsu.

Thập giá không dễ vác chút nào, chính vì thế cần phải tập luyện dần dần. Ước gì chúng ta biết khởi đi từ việc tập nói không với sự hưởng thụ, tiến đến nói không với sự thỏa hiệp để được an thân, thủ phận và rồi chúng ta sẽ biết nói không, không chấp nhận cảnh kiếp đời nô lệ, vong thân. Và mong sao chúng ta có chút xác tín rằng mình không bao giờ lẽ loi đơn côi khi phải đối diện với thử thách, gian khổ, vì Đấng vác thập giá lên đỉnh đồi Can-vê năm xưa đã chiến thắng ác thần và Người mãi đồng hành với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28,20).

Về mục lục

.

TỪ BỎ LÀ QUY LUẬT SINH TỒN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Phấn đấu để tăng thêm thu nhập, để vơ vét thật nhiều, để có thêm địa vị, công danh… là những quan tâm hàng đầu của nhiều người trong xã hội.

Thế mà qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi những ai theo Ngài, thay vì tìm mọi cách thu vào như bao người khác, thì hãy bỏ ra, hãy từ bỏ những gì mình có để dấn thân phục vụ. Ngài dạy: “Ai theo tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27).

Lời Chúa xem ra ngược đời, rất khó chấp nhận.

Nhưng thử hỏi: Sự từ bỏ như Chúa Giê-su mời gọi có mang lại lợi ích gì không?

Mùa thu về, cây trụi lá; mùa xuân đến, cây đơm lộc xanh tươi. Cây cối cần phải từ bỏ lá già, lá cũ để khoác lá mới; nhờ thế, cây được lớn lên.

Cây nho phải chịu cắt bỏ nhiều cành nhánh tốt tươi, mới có thể nẩy ra nhiều chồi lộc non và sinh hoa kết trái. Loài rắn cũng phải từ bỏ bộ da cũ để thay da mới; có vậy rắn mới trưởng thành. Loài tôm cũng phải lột vỏ nhiều lần theo đà tăng trưởng để lớn lên… Nói chung, từ bỏ là quy luật sinh tồn, là điều kiện tối cần để cho muôn vật muôn loài được sống còn và tăng trưởng.

Con người là một sinh vật như bao nhiêu loài vật khác, nên muốn tăng trưởng và tồn tại, con người cũng không thoát ra ngoài quy luật đó.

Hằng ngày cơ thể ta loại bỏ hàng tỉ tế bào cũ để thay vào đó những tế bào mới, nhờ đó cơ thể được lớn lên và mạnh khoẻ. Nếu các tế bào cũ không chịu chết đi để nhường chỗ cho những tế bào mới, thì khối u sẽ xuất hiện và có nguy cơ dẫn đến ung thư và cái chết đau thương!

Trong mọi lãnh vực, muốn đạt tới những thành công tốt đẹp thì người ta cần phải từ bỏ không ngừng: Người lao động phải đổ nhiều mồ hôi, phải bỏ ra nhiều công sức, trí tuệ mới kiếm đủ tiền cấp dưỡng cho bản thân và gia đình. Người lính chiến phải chấp nhận hy sinh thân mình mới bảo vệ được quê hương. Học sinh phải từ bỏ nhiều giờ vui chơi giải trí, giảm bớt giờ ngủ nghỉ để miệt mài đèn sách thì mới có cơ may bước vào đại học. Các nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu kiên trì mới có cơ may phát minh và sáng chế…

Muốn làm ăn lên, phải đầu tư bỏ vốn; muốn thu vào, phải phát ra. Ai không phát ra, không từ bỏ, thì không thể thu vào được điều gì đáng giá. Đó là quy luật của cuộc đời.

Hôm nay, Chúa Giê-su kêu mời chúng ta từ bỏ những gì?

Hiện nay, Chúa Giê-su chưa kêu mời số đông trong chúng ta từ bỏ cha mẹ, vợ con, họ hàng vì Chúa và vì Nước Trời đâu, Ngài chỉ mời chúng ta từ bỏ những điều nho nhỏ trước.

Khi có người đau yếu, Chúa mời chúng ta từ bỏ công ăn việc làm để viếng thăm, chăm sóc, chúng ta có đáp ứng không?

Khi có người lâm cơn túng thiếu, hoạn nạn, Chúa kêu mời chúng ta hãy chia sớt tiền bạc và hy sinh thời giờ, công sức để cứu giúp, chúng ta có chấp nhận không?

Khi có người làm buồn lòng ta, làm tổn thương tự ái của ta, Chúa kêu mời chúng ta từ bỏ oán hận để cảm thông tha thứ, chúng ta có sẵn sàng không?

Thông thường hơn, mỗi tối, Chúa mời chúng ta từ bỏ giờ xem phim hay nghe ca nhạc trên các kênh truyền hình để dành ra mươi phút đọc kinh gia đình thờ phượng tạ ơn Chúa, chúng ta có từ bỏ được không?

Nếu chúng ta chưa từ bỏ mình để thực hành những điều tương tự như trên, chúng ta không xứng đáng là môn đệ Chúa.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa phán rằng: “Ai nâng niu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ được mạng sống”(Mt 10, 39).

Xin cho chúng con chấp nhận hy sinh thời giờ, tiền của, công sức, khả năng… Chúa ban để cứu giúp người hoạn nạn, cứu chữa người đau yếu, đem lại an vui và hạnh phúc cho những người đang sống chung quanh, nhờ đó, chúng con được Chúa nhìn nhận là người môn đệ chính danh của Chúa.

Về mục lục

.

MINH ĐỊNH LỜI NÓI

P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, lời nói là một phương tiện của tư tưởng, hệ quả của suy nghĩ, tuy “Lời nói gió bay (lung lay), việc (hành động) hay, thì lôi kéo”, nhưng , lời nói mà minh định, thì mới hướng dẫn hành động,hầu phát sinh ra hành động đúng, hành động tốt, có lợi cho chính chúng ta và tha nhân, vâng , đó là sự giàu có đích thực. Sự giàu có đích thực phát xuất từ sự khiêm nhường thật , vì sự khiêm nhường thất chính là “ CHÂN LÝ ”, và Chân Lý là chính Thiên Chúa thật. Ai cũng biết tư tưởng biện minh cho hành động, tư tưởng phát ra lời nói, vì vậy, nếu lời nói thiếu minh định thì không thể có hành động tốt được. Như vậy, lời nói rất cần sự minh định, hay nói khác đi, muốn có hành động đúng đắn, cần minh định lời nói.

Rõ ràng chúng ta thấy, Lời Tin Mừng chính là “Lời Minh Định”, trải qua muôn thế hệ, Lời Tin Mừng vẫn mang một giá trị bất biến, vì vậy, được gọi là “ Lời Hằng Sống”, hay là “ Phúc Âm”, nghĩa là: “Lời nói mang lại sự hạnh phúc” cho người khác. Vâng, suy niệm Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Lc 14, 25 -33) chúng ta thấy, một lần nữa, chính Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rõ điều ấy :” minh định “ lời nói. Lời nói luôn luôn đi trước hành động, vì lời nói phát xuất từ tư tưởng, nếu tư tưởng có chân lý, thì lời nói khôn ngoan, mặc nhiên hành động sáng suốt.

Từ đó, chúng ta thấy, Lời Tin Mừng được xuất phất từ tư tưởng của Thiên Chúa, vì :” Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng của Thiên Chúa cũng cao hơn tư tưởng của nhân sinh bấy nhiêu”, Thiên Chúa đã phán như vậy trong Cựu Ứơc. Vâng, đó là chân lý, ai nhìn nhận chân lý, thì nơi họ có Thiên Chúa. Như vậy, Lời của Chúa Giêsu, chính là Lời cúa Thiên Chúa. Vì thế , chúng ta thấy, Chúa Giêsu không quanh co, Người nói dứt khoát, rõ ràng, minh bạch, sự đòi hỏi bước theo Người, là một sự đòi hỏi : “dứt khoát”, không do dự , vì : “Ai muốn theo Tôi mà không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo, thì không thể làm môn đệ Tôi được” ( Lc 14, 27).

Vâng, thập giá là “sự từ bỏ”, từ bỏ chính mình, tiếp đến từ bỏ người thân, sự từ bỏ ở đây không phải là phản bội, sự từ bỏ ở đây là đặt Chúa lên trên tất cả, và như thế mới nhận lại được chính Chúa, là nguồn mạch chân lý và tình yêu cách vô biên. Rõ ràng, mới nghe, tưởng chừng như Chúa không có “TÌNH“, chỉ đòi hỏi lý mà thôi, nhưng kỳ thật, Chúa sẽ đền bù gấp trăm ngay cả những gì mình dâng cho Chúa. Điều kiện “ từ bỏ” xem chừng “khắt khe”, “vô lý” nhưng kỳ thực là hữu lý, bởi vì, nếu không từ bỏ, chắc chắn không làm được việc chung, nếu không từ bỏ cái riêng, thì làm sao làm được cái chung. Vì, chỉ có Chúa đứng trên tất cả, thì khi chúng ta nhận lại,  cũng trên tất cả là chính Chúa. Thiên Chúa là như thế, khác với phàm nhân, khi họ khai thác chúng ta, lợi dụng chúng ta, thì họ sẽ vô ơn , vô trách nhiệm với chúng ta, vì họ là phàm nhân, lúc đó, chúng ta bị “lừa” là như vậy. Vì , bản tính phàm nhân và bản tính Thiên Chúa thì khác nhau là như vậy. Vì, những gì chúng ta dâng cho Chúa sẽ không mất đi. Đọc Đoạn Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy Thiên Chúa thật chí “TÌNH “ qua Lời minh định của Chúa Giêsu.

.Tất cả những ai muốn làm môn đệ của Chúa, mà không thực thi Ý Chúa, thì không hợp lý, bởi vì, không thể có “cái tôi” trong công cuộc đại sự là công trình Cứu Độ. Chúa không ích kỷ, nhưng Người đại lượng.

Điều kiện để bước theo Chúa Giêsu không phải là tài năng, học thức cao, bằng cấp hay trí tuệ siêu phàm, mà là “sự từ bỏ”. Nếu mình có trí tuệ, mà mình bước theo Chúa Giêsu, nhưng mình không “từ bỏ”, tức hãm dẹp minh đi, thì mặc nhiên “trí tuệ” tư tưởng của Thiên Chúa không ở với mình, thì chúng ta thấy thật vô lý, hoài phí, mất công.

Nói tóm lại, dù mình muốn làm môn đệ ai đó, siêu phàm xuất chúng, mặc nhiên, phải làm theo ý của người đó, huống chi , là Thiên Chúa, Ngài là Đấng Toàn Năng. Nếu ai đó, có một vài năng, thì đã siêu phàm, nhưng, Thiên Chúa toàn năng, thì sự “ từ bỏ” nơi mình là điều không “ bị lỗ”.

Phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay, chính là phần triển khai phần trên. Là Lời minh định cách dứt khoát khi muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta phải từ tỏ tất cả. Suy nghĩ trước khi quyết định , cân nhắc xem, mình có trung tín bước theo Người hay không? Nếu không, bỏ giữa chừng thì thật khốn đốn, người đời cười chê : “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba tu xuất”. Thì thật đáng thương.

Chúa Giêsu không đòi hỏi những gì lớn lao nơi người muốn làm môn đệ của Người, Người chỉ đòi hỏi “ từ bỏ” những gì người ấy có, nghĩa là trung tín, dứt khoát từ bỏ tất cả những gì mình có để làm môn đệ Chúa. Sự đòi hỏi nầy được Chúa đặt ra như là một “ công thức” chi tiết như một sự khởi đi và hoàn tất.

Sự khởi đi và hoàn tất một chặng đường bước theo Chúa Giêsu để được làm môn đệ Người, không phải chỉ là ngày một, ngày hai làm gì cho Chúa, mà là “ hiến dâng” tất cả những gì mình có. Vì , “từ bỏ” là “ hiến dâng”, hiến dâng là tặng ban, và như thế nếu chúng ta “tặng” cho Thiên Chúa một, thì Người đền bù gấp trăm.

Sự trung tín từ bỏ tất cả để được bước theo Chúa Giêsu, được tính toán như  khởi công xây cất một công trình của cuộc đời chúng ta, được đặt ra để đón nhận một “ân sủng” vô biên, một sự “trao đổi” công bằng bởi một “LỜI MINH ĐỊNH “ của một Ngôi Vị Thiên Chúa cách dứt khoát, mà bên trong là một sự “đai lượng” vô biên. Mong thay.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con hiểu thấu giá trị Lời Chúa, hầu minh định dứt khoát cho chúng con khi bước theo Người, nhờ đó sẽ mang lại cho chúng con hoa trái gấp trăm là chính Chúa. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời ./. Amen

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa ngay hôm nay.

Về mục lục

.

TỪ BỎ NHỮNG GÌ THÂN THIẾT, ĐẶC BIỆT LÀ CỦA CẢI

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. Chúa Giêsu rao giảng tình yêu chứ không phải hận thù. Ngài không hề nghĩ đến việc phế bỏ giới luật thứ tư (Lc 18,19-20) về tình yêu và lòng tôn kính phải có đối với cha mẹ. Do đó đừng ai bực mình khó chịu vì câu Ngài nói có vẻ cứng rắn: “ghét cha, ghét mẹ, ghét bản thân mình”, ngôn ngữ Hy bá diễn tả ý niệm thích hơn (preférence) bằng lối văn đối ngẫu: yêu – ghét. Thay vì nói: Thiên Chúa thích Giacop hơn Esau, tiếng Hy bá nói: “Ta thương Giacop và ghét Esau” (Mal 1,2-3). Trong ngôn ngữ Seemit, “ghét” đồng nghĩa với: hững hờ, để vào hàng phụ thuộc (x. Stk 29,30.31.33; Đnl 15,21-22; Qa 14,16; …). sau khi điều chỉnh thể văn sêmit, ta có thể đọc: “Nếu ai đến với Ta mà yêu cha mẹ, yêu bản thân hơn Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.

2. Các đám đông hâm mộ Chúa Giêsu chắc hẳn xem việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem như là một cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Chúa Giêsu và đáng được Ngài đưa đến vinh quang. Chúa Giêsu không thể để ảo tưởng đó kéo dài. Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài: họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Chúa Giêsu phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính con người.

3. Hai dụ ngôn tiếp theo thật khó giải thích; không phải tự chúng khó hiểu, thực ra chúng rất đơn sơ, cả hai đều nói lên cùng một ý tưởng: người quyết định làm ăn lớn, thì phải điều nghiên cứu kỹ lưỡng khả năng và phương tiện xem mình đủ sức thực hiện chăng. Nhưng còn cho đó nữa. Cả hai dụ ngôn đều đưa ra một sự lựa chọn: xây hay không xây tháp; gây chiến hay hòa hoãn. Khó khăn là ở chỗ đó, chắc hẳn không phải là dụ ngôn khó hiểu nhưng là khó áp dụng hai dụ ngôn đó vào hoàn cảnh của các môn đệ. Vì theo nghĩa nào mà mỗi người có thể tự do lựa chọn trước lời Thiên Chúa mời gọi theo Ngài? Vì khó khăn đó, nên các nhà chú giải chia rẽ nhau về lối giải thích toàn bộ giáo huấn của Chúa Giêsu. Người thì cho rằng toàn bộ giáo huấn nhắm đến mọi Kitô hữu nói chung, kẻ khác chủ trương giáo huấn đó chỉ nhắm đến các môn đệ mà thôi, nghĩa là những kẻ chỉ tuyệt đối bám víu vào Chúa Giêsu, nên từ bỏ nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình để theo Ngài. Chúng ta cùng xét hai lập trường đó cách chi tiết.

a/ Nhóm thứ nhất (Pirot, Jeremias, Hunter, Harrington… ) nhấn mạnh đến sự kiện cả hai dụ ngôn đều nói đến sự cần thiết phải hoàn toàn dấn thân theo Đức Kitô, chứ không được dấn thân nửa vời. Vì như đã viết trong hai dụ ngôn: “bắt đầu ngồi lại: “để tính toán” – “để tự xét mình”. Do đó hai dụ ngôn xem ra muốn làm nổi bật nhu cầu phải dấn thân theo Đức Kitô, với đầy đủ ý thức về các yêu sách từ bỏ mà việc dấn thân đó đòi hỏi. Trước khi dấn thân mạo hiểm, phải xác tín mình có thể mình đến đích an toàn. Nhưng nhóm tác giả này không tiếp tục phân tích sâu xa hơn. Đặc biệt, hình như họ không thận thấy điểm này: người được Đức Kitô kêu gọi sống tinh thần phúc âm, không còn tự do theo hay không theo Ngài, mà phải tuyệt đối đáp lại lời mời gọi đó, nếu không sẽ không được vào vương quốc. Phúc âm đã nhiều lần nhấn mạnh đến sự cần thiết phải dấn thân theo Đức Kitô, chứ không thể đứng trung lập, làm tôi hai chủ. Với viễn ảnh này, người ta thấy khó lòng chấp nhận lối chú giải thứ nhất – cho đủ mạch văn (“dân chúng đông đảo: của c.25) và kiểu nói chung chung (“ai”, trong c.27 và 33) thoạt nhìn có vẻ nghiêng theo lối chú giải đó.

Tuy nhiên, một vài tác giả thuộc nhóm thứ nhất này, ý thức được khó khăn trên (ví dụ Huby), chấp nhận lối chú giải phổ quát của đoạn văn hôm nay, nhưng thay đổi “giọng điệu” hay “cao điểm” của hai hai dụ ngôn. Cha Huby viết: “Nếu muốn theo Chúa Giêsu Kitô, phải muốn những gì tình yêu Ngài đòi hỏi: không thể hiến mình nửa vời, phải tận hiến đến cùng. Có hai hình ảnh soi sáng chân lý đó. Chúng không nhằm giúp ta phỏng đoán sức lực mình trước khi bắt đầu công việc cứu rỗi mình, như thế chúng ta không bị bó buộc phải thi hành công việc đó. Nhưng chúng nhằm tẩy trừ mọi ý tưởng chủ bại, thối lui, một khi đã dấn thân theo Chúa Giêsu nhằm khắc ghi trong tâm trí chúng ta rằng phải từ bỏ liên lỉ. Phải hành động như người địa chủ khôn ngoan dự tính xây tháp. Vì đã cẩn thận tính toán mọi phí tổn, nên ông sẽ hoàn tất tốt dự tính của mình… hoặc hơn thế nữa, phải xử sự như vua kia, trước khi đi giao chiến với quân thù, tính toán khả năng hai đạo quân, để giải quyết vấn đề kịp thời. Nếu biết sức mình yếu ông sẽ không giao chiến. Điều ông muốn không phải là hòa bình cho bằng là tránh mạo hiểm, liều mạng. Trong trường hợp không thể có hòa bình bằng chiến thắng, ông cam lòng chấp nhận thứ hòa bình xây dựng trên hiệp thương… Cũng vậy, hãy hành ộng như những người địa chủ xây tháp hay như ông vua ra trận, vì “niềm ao ước đích thực sẽ tìm mọi cách để thực hiện điều mình ao ước” (Evangile selon saint Luc,41è éd., Beauchesne, 1947,p.291-292).

Lối chú giải đó thật hấp dẫn và khéo léo, nhưng không chắc có thể thỏa mãn mọi người. Vì hình như lối giải thích đó hơi bị gượng ép. Thực vậy, chính bản văn về hai dụ ngôn nhấn mạnh đến việc suy tính trước khi dấn thân, trong lúc Huby nhấn mạnh đến sự cương quyết dấn thân cho đến cùng một khi đã quyết định dấn thân. Tôi thiết nghĩ Huby đã nhấn mạnh sai chỗ, làm hỏng bài học của dụ ngôn. Dù sao, lối chú giải của dụ ngôn là lối chú giải duy nhất trong nhóm thứ nhất trong nhóm thứ nhất có thể làm ta nhận rằng: ở đây Chúa Giêsu ngỏ lời cách tổng quát với bất cứ ai muốn trở thành Kitô hữu.

b/ Nhóm thứ hai chú ý đến những ai đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Các phúc âm đã biết rõ phương thế đặc biệt để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, đó chính là phương thế các tông đồ đã làm để theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không đòi buộc mọi tín hữu phải khước từ hôn nhân, nhưng chỉ đòi “những ai có thể hiểu lời đó” (Mt 19,12). Ngài không đòi tất cả phải hoàn toàn từ bỏ tiền bạc và quyền tư hữu. Ông Giakêu thu thuế đã không từ bỏ của cải, sau khi đã hoán cải (Lc 19,1-10). Các bà xứ Galile đã không từ bỏ mọi thứ họ có (Lc 8,3). Và trong các chương đầu sách Cvsđ, khi mô tả cộng đoàn nguyên thủy, Lc cho thấy họ không sống lối khó nghèo tận căn như lới khó nghèo mà các môn đệ đúng nghĩa đã sống (ví dụ Phêrô với tín đồ Anania: “Khi còn của, thì nó vẫn là của ngươi, mà bán đi, thì về giá cả ngươi vẫn tự quyền” (Cvsđ 5,14).

Vậy khi đề cập đến tính cách sâu xa của việc môn đệ dấn thân, theo đoạn văn Lc hôm nay, Chúa Giêsu nói đến cách thức đi theo Ngài: cách thức thật chặt chẽ và hoàn toàn. Và để có thể theo Ngài như thế, lòng hăng say ban đầu không đủ. Vì cách thức đi theo Ngài đây kiên hệ mật thiết với sự từ bỏ tận căn – từ bỏ những cái xem ra rất cần thiết cho đời sống. Do đó phải suy nghĩ chín chắn trước khi theo Chúa Giêsu kiểu đó. Chúa Giêsu cũng đã khuyến cáo như thế nhiều nơi khác trong Phúc âm. Đó cũng chính là cách Chúa Giêsu đã trả lời người kia muốn dấn thân theo Ngài “Bất cứ Ngài đi đâu” (nghĩa là trở thành môn đệ đúng nghĩa) : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có nơi gối đầu (Lc 9,57-58). Chúa Giêsu xin người tận hiến kiểu đó nên suy nghĩ, vì như thế đòi hỏi nhiều cố gắng và hy sinh – tuy nhiên điều này không có ý nói, khi Chúa Giêsu đích thân kêu gọi ai, thì người đó có thể từ chối. Khi Chúa mời gọi, không ai có quyền từ chối.

Lối chú giải thứ hai ít gặp khó khăn hơn lối chú giải thứ nhất. Nó có lợi điểm này là tránh không làm người ta xem việc lựa chọn để thành Kitô hữu là một lựa chọn tùy ý, tùy sở thích (vì lối chú giải thứ 2 này nói đến việc chọn lựa để thành môn đệ), và có ưu điểm là trùng hợp với học thuyết Lc về việc phân biệt người Kitô hữu nói chung với người môn đệ đúng nghĩa. Tuy nhiên, lối chú giải này vẫn chưa hoàn toàn thỏa đáng. Vì nó giả thiết chữ “môn đệ” chỉ cách nhau vài câu mà lại có 2 nghĩa khác biệt: phần đầu đoạn văn (cc.25-27) nói về sự cần thiết phải yêu Đức Kitô hơn hết mọi liên hệ nhân bản, được áp dụng cho Kitô hữu nói chung, trong khi hai dụ ngôn và lời khuyên từ bỏ của cải xem ra chỉ áp dụng cho các môn đệ đúng nghĩa. Lối chuyển nghĩa trong chữ “môn đệ” như thế không mất tự nhiên. Tuy nhiên điều đó không lạ gì và có thể giải thích cách tốt đẹp nếu Lc đã muốn góp nhặt trong một đoản văn các lời nói rời rạc của truyền thống phúc âm về việc “đi theo” Chúa Giêsu.

Để kết thúc, tôi xem lối chú giải thứ hai có vẻ đúng hơn, dù lối chú giải đó có một vài khó khăn chưa được giải quyết (ví dụ được bản văn không có chi phân biệt người Kitô hữu và người môn đệ cả). Nhưng các khó khăn đó có thể xảy ra do sự kiện người cuối cùng soạn thảo phúc âm Lc cảm thấy phải thu góp thành một khối tất cả các lời Chúa Giêsu nói trong nhiều trường hợp khác nhau, với nhiều cử tọa khác biệt.

KẾT LUẬN

Đám đông dân chúng cùng đi với Chúa Giêsu tượng trưng đoàn người đông đảo, qua mọi thế hệ, đã và đang ngưỡng mộ Chúa Giêsu. Tuy nhiên qua sự kiện đó, không phải tất cả đều là môn đệ Ngài. Vì để thành môn đệ phải theo Ngài, nghĩa là trước hết phải yêu Ngài. Và tình yêu này có nhiều yêu sách vượt bậc.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Dùng lời nói và phép lạ để làm dân chúng hăng say cách nhất thời là việc tương đối dễ. Chúa Giêsu không thích kiểu thành công ngoại diện đó để có những đoàn người hăng say vây quanh Ngài. Ngài biết rằng số môn đệ đích thực, đủ sức kiên tâm bền chí không nhiều đâu (Gio 2,23-25). Vì thế một lần nữa, Ngài muốn thính giả lưu ý đến sự nghiêm chỉnh Ngài mong chờ nơi những người muốn theo Ngài và giáo lý của Ngài (x. Lc 9,23-26.57-62), Nếu nghĩ đến viễn cảnh bắt bớ sẽ đến sau này, ta mới hiểu việc Chúa Giêsu đòi hỏi cần có nghị lực để đương đầu với các mối bất hòa trong gia đình, sự nguy hiểm đến tính mạng và tịch thu tài sản… Đối với chúng ta theo Đức Kitô có nghĩa là: chọn lựa hy sinh, sẵn sàng chết vì đạo, như cha ông ta đã làm. Và để có sức chịu đựng các yêu sách của Đức Kitô lúc bấy giờ, thì ngay bây giờ chúng ta phải sống các yêu sách đó trong cuộc sống cụ thể, hiện tại của chúng ta.
  2. Trong ngôn ngữ thánh kinh, “ghét” có nghĩa là “yêu ít hơn” hay “chỉ yêu vào hàng thứ yếu”. Yêu Đức Kitô hơn các người khác (dù là người thân trong gia đình) sẽ được hiểu dễ dàng khi biết rằng Đức Kitô là Thiên Chúa. Tình yêu đó có vẻ quá đáng đối với những ai không biết phẩm vị đích thực của Chúa Giêsu.
  3. Yêu Chúa Giêsu hơn yêu gia đình, tình yêu đó có thể có nhiều hình thức: trong thời bách hại, hãy chấp nhận mình có thể bị tố cáo hay bị người thân theo dõi, bắt bớ (Mt 10,21); thời bình, hãy sống thật đạo đức thánh thiện ngay trong gia đình, dù là gia đình hờ hững hay chống đạo (Mt 10,34-37); từ chối lập gia đình vì muốn dâng cho Thiên Chúa một tình yêu lành thánh trinh khiết (1Cor 7,7). Trong các trường hợp đó, người Kitô hữu trong tình yêu Thiên Chúa đem đến, sẽ nhận được gấp trăm điều họ đã từ bỏ về phương diện tình cảm, nhằm để phục vụ môt lý tưởng cao đẹp hơn (Mt 19,29).
  4. Hai dụ ngôn trong phúc âm hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng việc dấn thân phục vụ Chúa không phải là một vấn đề thuần túy hình thức, đăng ký vào sổ bộ, mang nhãn hiệu … Đời sống Kitô hữu là một công việc nghiêm túc mà ta phải để tâm lưu ý và săn sóc như đã từng để ý chăm nom các công việc trong đời tư (xây nhà) hay việc chung (đánh giặc). Khi muốn xây nhà hay tự vệ chống đối phương, ta phải dùng mọi phương thế để thành công, để đạt đến đích. Cũng thế phải nghiêm túc sống đời Kitô hữu và thực hành đến cùng các yêu sách luân lý, vì đời Kitô hữu là đời từ bỏ, nỗ lực phấn đấu và kiên trì. Sống nửa vời không ích gì, nếu cuối cùng ma quỉ đến cám dỗ chúng ta chối bỏ Đức Kitô. Phải tự tổ chức đời mình để phụng sự Chúa. Để được như vậy, cần phải khiêm tốn xin Ngài ban ơn vì “nếu Chúa không xây nhà, thợ nề làm việc cũng uổng công, nếu Chúa không giữ thành, bộ đội giữ thành cũng không xong” (Tv 127,1). Nhưng với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta sẽ hoàn tất ngôi nhà lộng lẫy là đời Kitô hữu chúng ta, được xây móng từ ngày chúng ta lãnh bí tích rửa tội, và chúng ta sẽ chiến thắng kẻ thù của tâm hồn chúng ta. Và ngày phán xét, Chúa sẽ công nhận chúng ta là môn đệ của Ngài trước mặt Chúa Cha và toàn thể các thánh.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT XXIII TN_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm về ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa làm chúng ta đôi phen hụt hẫng, làm đảo lộn mọi kỳ vọng của con người, làm thay đổi những mối quan hệ giữa người với người, tương đối hóa quan niệm của con người về thế giới.

Kn 9: 13-18

Đoạn trích sách Khôn Ngoan gợi lên những giới hạn của những hiểu biết phàm nhân. Với trí tuệ phàm nhân, con người vô phương dò thấu những ý định của Thiên Chúa, nhưng nhờ ánh sáng Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người mà con người mới có thể đạt được một sự hiểu biết sung mãn.

Plm 9b-10, 12-17

Trong thư gửi cho ông Phi-lê-mon, thánh Phao-lô đưa ra một lời khuyên thật cảm động, được gửi đến cho ông Phi-lê-mon. Thánh nhân thỉnh cầu ông hãy đón nhận người nô lệ trốn chạy khỏi nhà ông và nay đã trở thành Ki-tô hữu, như một người con ruột thịt của thánh nhân và như người anh em rất thân mến trong Đức Ki-tô.

Lc 14: 25-33

Tin Mừng tường thuật cho chúng ta giáo huấn của Đức Giê-su về những yêu sách mà Ngài đòi hỏi các môn đệ Ngài: muốn theo Ngài phải dành quyền ưu tiên cho Ngài, thậm chí trên mọi mối dây ràng buộc trần thế, kể cả những người thân yêu trong gia đình đi nữa.

BÀI ĐỌC I (Kn 9: 13-18)

Chúng ta không biết tác giả sách Khôn Ngoan là ai. Tác phẩm này đã được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, bởi một người Do thái đạo hạnh thành A-lê-xan-ri-a. Tác giả muốn cảnh giác đồng bào của mình trước những sức quyến rũ của nền văn hóa Hy-lạp. Ông đổ hết tâm trí để nhắc lại những giá trị khôn sánh của sự khôn ngoan Do-thái giáo, gia sản của cha ông họ.

  1. Phân đoạn

Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai của sách Khôn Ngoan. Bằng hư cấu văn chương, tác giả để cho vua Sa-lô-môn, một vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất, ngỏ lời với độc giả. Chương 9 là lời cầu nguyện dài của vua, khai triển lời cầu nguyện mà sách Các Vua quyển thứ nhất đã trích dẫn một cách ngắn gọn (1V 3: 6-10), theo đó, vua Sa-lô-môn chỉ cầu xin Chúa ban cho mình được ơn khôn ngoan. Lời cầu nguyện của vua làm đẹp lòng Chúa. Thiên Chúa chẳng những ban cho vua được ơn khôn ngoan mà còn được muôn vàn những ân phúc khác nữa.

Việc nêu lên lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon như vậy đã trở nên một đề tài kinh điển của các tác phẩm minh triết. Tác giả sách Khôn Ngoan đem lại cho lời cầu nguyện này những dấu ấn riêng nhằm đánh động những người đương thời của ông. Dưới những khía cạnh phi thời gian của sự khôn ngoan, sứ điệp trực tiếp nhắm đến một xã hội phàm trần vào thời đại của tác giả. Sứ điệp này vẫn giữ mãi giá trị trường tồn của nó.

  1. Thành phố A-lê-xan-ri-a vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên

Hơn hai thế kỷ qua, thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô trí tuệ của thế giới thời xưa. Vị vua đầu tiên của triều đại nhà Tô-lê-mê (323-285 trước Công Nguyên) đã cho xây cất một Bảo Tàng Viện danh tiếng, tại đó quy tụ các nhà thông thái và những nhà nghiên cứu các môn học thời danh; họ có sẵn một thư viện bao la cũng như phòng thí nghiệm. Những tiến bộ đáng chú ý trong mọi lãnh vực: toán học, thiên văn học, y học, nhất là giải phẩu học, vật lý, địa lý. Về triết học, thành A-lê-xan-ri-a tiếp nối sự nghiệp của thành A-thê-na. Những hệ thống triết học đặt cạnh nhau và giải thích cho nhau. Về tôn giáo, những khuynh hướng tôn giáo hỗn hợp khẳng định điều này. Tóm lại, một thời kỳ huy hoàng nhất đối với trí tuệ con người, con người có thể tự hào về những chinh phục của mình.

  1. Sự yếu đuối của lý trí phàm nhân

Tác giả sách Khôn Ngoan phản ứng lại những quan điểm trên do từ quan niệm tôn giáo của ông về thế giới. Những hiểu biết phàm nhân, dù đáng chú ý đến mấy đi nữa, chẳng bao giờ hiểu được những ý định của Thiên Chúa:

“Lạy Chúa, nào ai biết được ý định của Thiên Chúa?

Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi?” (9: 13).

Câu hỏi này các văn sĩ Kinh Thánh thường đặt ra để nhắc nhớ tính siêu việt của Thiên Chúa, như Gióp: “Có phải anh đã hiện diện trong triều thần Thiên Chúa, và đã chiếm đoạt được khôn ngoan?” (G 15: 8) hay Giê-rê-mi-a: “Nhưng ai đã được họp bàn với Đức Chúa, để chứng kiến và nghe lời Người?” (Gr 23: 18) hoặc I-sai-a: “Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13). Tác giả sách Khôn Ngoan hỗ trợ đề tài này bằng một tư tưởng không kém phần chứng thực:

“Chúng con vốn là loài phải chết,

tư tưởng không sâu, lý luận không vững” (9: 14).

Tiếp đó là một câu nhuốm màu sắc nhị nguyên của Platon: “Quả vậy, thân xác dể hư nát này khiến linh hồn ra nặng”, nhưng ngay tức khắc lại gắn bó với đề tài Kinh Thánh về con người: “cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề”.

Những suy tư tiếp theo sau có thể mang tính bút chiến; chúng xem ra làm giảm thiểu những nổ lực của các bậc thông thái trong việc giải thích những thực tại trần thế. Thêm nữa, những nỗ lực này không thể nào dò thấu những thực tại thiên giới:

“Những gì thuộc hạ giới,

chúng con đã khó mà hình dung nổi,

những điều vừa tầm tay,

đã phải nhọc công mới khám phá được,

thì những gì thuộc thượng giới,

có ai dò thấu nổi hay chăng?” (9: 16).

  1. Lý trí phàm nhân được sự khôn ngoan Thiên Chúa soi sáng

Những hiểu biết phàm nhân chỉ được sung mãn nhờ Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người:

“Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời,

chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan,

chẳng gửi thần khí thánh?” (9: 17).

Vì là một tín đồ Do thái giáo, trung thành với Độc Thần Giáo tuyệt đối: chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và chân thật là Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, khó mà gợi lên trong tâm trí của tác giả một sự biệt phân giữa Đức Chúa và thần khí thánh của Người; nhưng đúng hơn, tác giả đồng hóa Đức Khôn Ngoan của Đức Chúa với thần trí của Người. Tuy nhiên, thật chính đáng để đọc thấy ở đây một sự linh cảm nào đó về sự khác nhau ở lòng cuộc sống nội tại của Thiên Chúa.

“Chính vì thế mà đường lối người phàm

được sửa lại cho thẳng,

cũng vì thế mà con người được dạy cho biết

những điều đẹp lòng Ngài,

và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” (9: 18).

Ở đây ám chỉ đến Lề Luật, được xem như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa, kim chỉ nam cho những đức hạnh phàm nhân, con đường cứu độ.

Đoạn trích hôm nay vừa kết thúc lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn và cũng là để chuyển sang phần thứ ba của sách: suy tư về sự khôn ngoan của Thiên Chúa đang hoạt động trong Lịch Sử.

BÀI ĐỌC II (Plm 9b-10, 12-17)

Thư gửi cho ông Phi-lê-mon, tuy ngắn nhất trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng rất độc đáo vì những tâm tình tinh tế được diễn tả ở đây và những tấm lòng được biến đổi dưới ảnh hưởng của Ki-tô giáo thật là cảm động mà bức thư này làm chứng.

  1. Lý do thánh nhân viết bức thư này

Vào lúc đó, thánh Phao-lô đang bị giam cầm ở Rô-ma, chắc hẳn vào những năm 62-63. Thánh nhân đang đối mặt với một vấn đề không đơn giản một chút nào. Ông Phi-lê-mon là một Ki-tô hữu Cô-lô-xê; chắc chắn là một nhân vật khá giả, vì cộng đồng Ki-tô hữu tụ họp ở tại nhà ông. Ông có một người nô lệ tên là “Ô-nê-xi-mô”. Người nô lệ này đã trốn chạy khỏi nhà ông và lấy trộm của chủ một số đồ đạc, như thánh nhân đã viết trong thư: “Nếu anh ấy đã làm thiệt hại anh hay mắc nợ anh điều gì thì xin để tôi nhận cả”. Để tránh khỏi những cuộc truy tìm và những hình phạt mà anh có thể phải chịu, anh Ô-nê-xi-mô đã chạy đến được Rô-ma, vì anh hy vọng mình có thể dễ dàng lẫn trốn vào đám đông trong các đường phố tại kinh đô rộng lớn này.

Người nô lệ này biết rất rõ những người Ki-tô hữu vì anh đã thấy họ thường xuyên tụ họp tại nhà của chủ mình. Phải chăng đó là lý do thúc đẩy anh chạy đến Rô-ma để gặp thánh Phao-lô? Bức thư không nói cho chúng ta biết lý do. Dù sao thánh Phao-lô đã rửa tội cho anh và quý mến anh. Trong thời gian ở với thánh Phao-lô, anh Ô-nê-xi-mô đã trở nên một người hữu ích đến nỗi thánh nhân muốn giữ anh lại bên cạnh mình. Tuy nhiên, thánh nhân không thể, vì sợ vi phạm quyền lợi của ông Phi-lê-mon, chủ của anh. Vì thế, thánh nhân quyết định gửi anh Ô-nê-xi-mô trở về cho chủ của anh, ông Phi-lê-mon, kèm theo bức thư do tự tay thánh nhân viết.

Không ai biết rõ hơn thánh nhân rằng người nô lệ đào thoát này trở về nhà chủ có thể gặp phải những nguy hiểm như thế nào. Như chúng ta biết thân phận của người nô lệ vào thời đó, người nô lệ không được đối xử như một con người nhưng như một dụng cụ sống trong bàn tay của chủ, tùy ý chủ sử dụng. Trong trường hợp một nô lệ trốn chủ, anh sẽ bị đóng dấu bằng thỏi sắt nung đỏ mang hình chữ viết tắt Đào Tẩu và chịu hình phạt tùy theo ý chủ.

Với sự tế nhị, thánh nhân thỉnh cầu ông Phi-lê-mon hai cử chỉ khác thường: khoan hồng cho phạm nhân và nhận lại người này không phải trong tư thế của người nô lệ nhưng như người ruột thịt của thánh nhân và như một người anh em thân mến trong Đức Ki-tô.

Một sự gợi ý thật tinh tế, một lời mời gọi thật kín đáo, một lời thỉnh cầu mà không đòi buộc. Đoạn trích này thuộc phần trung tâm của bức thư.

  1. “Tôi, một người đã già và đang bị tù vì Đức Ki-tô”

Thánh Phao-lô thử đặt tất cả danh dự của con người ngài vào lời thỉnh cầu của mình cho người nô lệ này: thánh nhân nhắc lại rằng ngài đã già (vào thời đó, 50-55 tuổi được xem là già) và đang bị cầm tù, và chính trong cảnh giam cầm này mà thánh nhân rửa tội cho anh: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích”.

  1. “Tôi xin gửi nó về cho anh”

Thánh Phao-lô muốn mọi việc đều rõ ràng. Anh Ô-nê-xi-mô thuộc quyền của ông Phi-lê-mon. Thật ra thánh nhân biết rằng nếu ngài ngỏ lời với ông Phi-lê-mon, chắc chắn bạn của mình sẵn lòng để anh Ô-nê-xi-mô ở lại với thánh nhân để phục vụ thánh nhân trong cảnh xiềng xích. Như vậy, khi gửi anh Ô-ne-xi-mô trở về chủ của mình, thánh nhân xem trọng tính cách vô vị lợi của tình bạn.

  1. Như một người ruột thịt của thánh nhân

Nhưng thánh nhân nhấn mạnh tình phụ tử tinh thần của ngài vì đã có một thay đổi sâu xa: anh Ô-nê-xi-mô đã trở thành Ki-tô hữu. Thánh nhân thương mến anh như đứa con ruột thịt mà thánh nhân đã mang nặng đẻ đau trong cảnh xiềng xích. Phải chăng thánh nhân muốn ông Phi-lê-mon cũng sẽ chia sẻ với thánh nhân những tâm tình như thế?

Thánh nhân khuyên ông Phi-lê-mon nên tha thứ cho anh Ô-nê-xi-mô, dù không nói trắng ra nhưng chỉ gợi ý: “Tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không tự nguyện”.

  1. Như một người anh em rất thân mến

Thánh nhân nhắc cho ông Phi-lê-mon rằng việc anh Ô-nê-xi-mô trốn chủ phải được xem như một thiên ân: vì ông Phi-lê-mon “không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”. Với chỉ vài lời này thôi cũng đủ để diễn tả cuộc cách mạng mà Ki-tô giáo đem đến cho những mối quan hệ giữa người với người.

Quả thật, sau này thánh nhân đã viết: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, , nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3: 28; Cl 3: 14). Biểu thức này không muốn nói rằng từ nay không còn phân biệt chủng tộc, phái tính, chủ tớ, nhưng những phân biệt này chẳng còn có ý nghĩa gì trước mặt Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng dạ con người. Từ nay, sự biến đổi nội tâm mới là đáng kể, nó làm đảo lộn thậm chí những thân phận bên ngoài, đến độ ở nơi khác, thánh nhân mạnh dạn phát biểu: “Người đang làm nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người đang tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Ki-tô” (1Cr 7: 22).

  1. Gấp bội mối liên hệ

Ông Phi-lê-mon được lại anh Ô-nê-xi-mô như một người anh em “cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa”, nghĩa là cả trong sự phục vụ của anh cũng như trong những mối liên hệ của anh giữa người Ki-tô hữu với người Ki-tô hữu. Chắc hẳn thánh nhân muốn nói rằng việc ông Phi-lê-mon tha thứ sẽ thiết lập nên một mối liên hệ đặc biệt giữa chủ và nô lệ.

Thánh Phao-lô đưa ra lời khuyên tinh tế sau cùng: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Ông Phi-lê-mon và thánh Phao-lô là anh em trong đức tin. Tình huynh đệ này phải trải rộng đến người nô lệ, người anh em khác này. Đó là sự “hiệp thông” của các chi thể Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Lc 14: 25-33)

Các sách Tin Mừng, đặc biệt sách Tin Mừng Lu-ca, tường thuật muôn vàn những lời khuyên của Đức Giê-su về việc từ bỏ: từ bỏ chính mình, từ bỏ của cải, đoạn tuyệt với sự giàu sang phú quý, vân vân. Nhưng chưa bao giờ Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài xa đến mức phải hy sinh thậm chí ngay cả những tình cảm cao quý và chính đáng nhất.

Quả thật, Đức Giê-su không nghĩ phải hủy bỏ huấn lệnh yêu người mà Ngài đã công bố ngang bằng với huấn lệnh mến Chúa; nhưng Ngài ấn định theo cấp bậc hai bổn phận: “mến Chúa” và “yêu người”. Lời của Ngài đã vang lên bên tai các môn đệ Ngài, những người đã bỏ hết mọi sự mà theo Ngài. Những môn đệ đầu tiên, Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, đã là mẫu gương, thậm chí Gia-cô-bê và Gioan đã để lại cha già mình là ông Dê-bê-đê mà họ có bổn phận chu toàn đạo hiếu, phụng dưỡng hằng ngày.

Những đòi hỏi của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay, dù cứng rắn đến mấy đi nữa, tương ứng với thực tại và vang vọng xuyên suốt lịch sử Giáo Hội. Thánh Lu-ca, vốn bận lòng về Giáo Hội, nghĩ trước tiên đến Giáo Hội truyền giáo, nhưng cũng đến Giáo Hội của đời sống tu trì mà lý tưởng các tu viện sẽ nối tiếp.

  1. Mến Chúa trên hết mọi sự

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi yêu mến Người đến tuyệt mức như vậy. Khi đòi hỏi phải yêu mến Ngài đến tuyệt mức tương tự, Đức Giê-su nhận về mình những đặc quyền của Thiên Chúa; Ngài ngầm khẳng định sự duy nhất của Ngài với Chúa Cha. Ngài đòi hỏi một tình yêu tối thượng phải vượt lên trên mọi tình yêu khác.

Thánh Mát-thêu cũng nêu lên tính tận căn của những đòi hỏi của Đức Giê-su: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10: 37), nhưng thánh Lu-ca đưa ra một danh sách đầy đủ hơn về những người mà tình cảm dành cho họ phải được đặt vào hàng thứ hai: cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thậm chí cả mạng sống mình.

  1. Để là môn đệ Đức Ki-tô

Cử chỉ này của Đức Giê-su: “Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Ngài quay lại bảo họ”,  được thánh Lu-ca ghi nhận nhiều lần. Đức Giê-su luôn luôn dẫn đầu, Ngài là Thầy, người dẫn đường; còn các môn đệ là những người bước theo Ngài. Khi Đức Giê-su quay lại, Ngài ngỏ lời với đám đông hiện diện, nhưng bên kia đám đông này, với đám đông môn đệ tương lai. Tuy nhiên, cử chỉ của Đức Giê-su cũng nhấn mạnh rằng sứ điệp mà Ngài sắp công bố thật là quan trọng.

Lời mời gọi mở đầu của Đức Giê-su gửi đến đám đông đang theo Ngài: “Ai đến với tôi…”, là biểu thức Cựu Ước được gặp thấy ở nơi lời công bố Lề Luật. Trong Bộ Luật Giao Ước của sách Xuất Hành, biểu thức này được phát biểu: “Nếu ngươi…” (Xh 20: 22tt; 21: 2-17). Như vậy, đây là quy luật sống mà Đức Giê-su long trọng công bố, như xưa kia ông Mô-sê đã ngỏ lời như vậy với toàn thể dân Ít-ra-en.

Những yêu sách được trình bày dưới hình thức phủ định: “Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở nơi khác, biểu thức này được diễn tả dưới hình thức khẳng định: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23). Các tác giả Tin Mừng đều sử dụng diễn ngữ “vác thập giá”, thậm chí trước khi Đức Giê-su nói rõ rằng Ngài sẽ bị đóng đinh vào thập giá vào lần loan báo thứ ba về cuộc Khổ Nạn của Ngài (x. Mt 20: 19). Nhưng các sách Tin Mừng được biên soạn dưới ánh sáng của biến cố Tử Nạn và Phục Sinh, vì thế diễn ngữ này gợi lên ở nơi các tín hữu tiên khởi còn khủng khiếp hơn. Các môn đệ phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, chấp nhận bước đi trên con đường đau khổ, thậm chí cho đến mức phải hy sinh cả tính mạng của mình.

  1. Phải suy nghĩ cho thật nghiêm túc

Tiếp đó là hai dụ ngôn về việc xây tháp và việc một vị vua muốn xuất quân đi giao chiến, cả hai dụ ngôn này đều có chung một tư tưởng trong mối liên kết với những đòi hỏi của Đức Giê-su. Để là môn đệ Đức Giê-su, phải dấn thân trọn vẹn, phải yêu mến Ngài tuyệt mức. Như vậy, trước khi quyết định theo Ngài, trở thành môn đệ của Ngài, phải ngồi lại mà tính toán cho thật nghiêm túc, định liệu sức mình có thể theo đuổi cho đến cùng không, chứ không quyết định trong giây phút bốc đồng kẻo lỡ đường đứt gánh.

Tuy nhiên, vài nhà chú giải tự hỏi phải chăng Đức Giê-su đã công bố hai dụ ngôn này ở đây chứ không vào những hoàn cảnh khác. Bởi vì việc dấn thân theo Đức Giê-su, gắn bó với Ngài, phải phát xuất từ sựu bùng phát của một con tim bốc lửa chứ không từ những tính toán đắn đo hơn thiệt của lý trí. Ấy vậy, hai dụ ngôn này hoàn toàn thiếu vắng niềm hưng phấn của tình yêu nồng cháy này. Vì thế, kết luận mà từ đó Đức Giê-su rút ra:  “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”, khó định vị vào cái lô-gích của hai dụ ngôn này, nhưng đúng hơn tiếp nối giáo huấn về những đòi hỏi của người môn đệ ở trong những câu đầu tiên: Đức Giê-su đưa ra một mẫu gương, Ngài bước đi về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Ngài sẽ chịu chết mình trần thân trụi, chơ vơ một mình trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15: 34).

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

Lm. Antôn

Một trong những bài học quan trọng trong Kinh thánh được lập đi lập lại nhiều lần đó là từ bỏ.   Đây là một điều kiện, đòi hỏi khó khăn nhưng rất cần thiết cho những ai tin theo Chúa và muốn được vào Nước trời.  Trong Kinh thánh Cựu ước, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đi kêu gọi dân của Người từ bỏ sự thờ phượng thần ngoại giáo, từ bỏ cuộc sống bất chính, lầm lạc và tội lỗi, ăn năn quay trở về với Chúa thì sẽ được Người cứu thoát khỏi bị xâm lăng và cuộc sống lưu đày đau khổ, lầm than sắp xảy ra.  Nhưng dân Do thái, dân riêng của Chúa, vì lòng cứng cỏi và chai đá, cho nên nhiều lần họ đã phải chịu cảnh bị bắt đi làm nô lệ và sống trong khổ cực và lầm than.  Chúng ta thấy trong bài đọc 1 trích sách khôn ngoan, Thiên Chúa kêu gọi mọi người hãy từ bỏ cuộc sống theo ý riêng mình, khôn ngoan nghe và sống thánh ý Chúa thì sẽ được bình an và cứu rỗi.

Khôn ngoan là một trong 7 ơn Chúa Thánh Thần, và là một nhân đức mà ai cũng khao khát và tìm kiếm.  Trong xã hội, chúng ta thấy vua hay tổng thống đều có những cố vấn, những người khôn ngoan, để giúp ý kiến trong việc quyết định hay lựa chọn đường lối.  Trong sự liên hệ, ai cũng muốn tìm một người  khôn ngoan để xin giúp ý kiến hay hướng dẫn trước những quyết định quan trọng liên quan đến cuộc sống.  Đối với người Ki-tô hữu, khi đối diện hay đứng trước những khó khăn cuộc sống, hay khi phải quyết định, chúng ta tìm đến Chúa và lời khôn ngoan của Người.  Hay muốn có bình an và sức mạnh, hay muốn có đời sống đạo đức, tốt lành, ngay thẳng và ơn lành, chúng ta tìm đến Chúa và sống lời khôn ngoan của Người.  Hay muốn trở thành những Ki-tô hữu chính đáng và đích thực, chúng ta phải tìm sự khôn ngoan, thánh ý của Chúa và can đảm sống lời Chúa dạy.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tuyên bố với dân chúng đang đi theo Người trên con đường lên Giê-ru-sa-lem:  “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.”

Chắc chắn từ bỏ và vác thập giá là những điều thật khó hiểu và là một thách đố lớn đối với mỗi người chúng ta hôm nay, mặc dù chúng ta đã là những Kitô hữu, môn đệ của Chúa. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu nói những lời trên đây là chỉ nói với dân chúng ngày xưa, hay với những người đi tu như linh mục hay tu sĩ ngày nay thôi.  Nhưng không phải hoàn toàn như thế, vì Chúa cũng muốn nói và dạy mọi người chúng ta hôm nay bài học về cách sống để trở thành người Ki-tô hữu và môn đệ đích thực của Người.

Trước tiên về bài học từ bỏ.  Chúng ta thấy Chúa Giêsu tuyên bố vấn đề từ bỏ này rõ ràng, thẳng thắn và không úp mở. Nhiều người tự hỏi rằng từ bỏ như Chúa Giêsu đòi hỏi làm sao mà sống được?   Làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình hay vô nghĩa?  Vậy thì phải hiểu lời Chúa dạy như thế nào?  Và tại sao muốn trở thành Ki-tô hữu và môn đệ chính đáng thì phải từ bỏ?

Qua cách nói “Cha mẹ, vợ con, anh chị em”, ý Chúa muốn nói tới những người thân thuộc trong gia đình; còn qua chữ “mạng sống”, ý Chúa muốn đề cập tới những gì thân thiết nhất của mình.  Chúng ta biết chắc chắn Chúa không coi nhẹ những liên hệ gia đình và mạng sống.  Ở đây chúng ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa.  Chúa không dạy bảo chúng ta phải từ bỏ những thứ vừa kể trên một cách vô lý, mà là từ bỏ nếu như chúng làm bận vướng, ngăn trở cho việc đi theo Chúa và hạnh phúc Nước trời.  Gia đình là tốt, mạng sống là cần.  Yêu thương và gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy 2 thứ đó trở thành sự ngăn cản sống đức tin, sống Lời Chúa, hay cám dỗ chúng ta phạm tội, nhất là lôi cuốn, xúi dục chúng ta xa Chúa, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người Ki-tô hữu, môn đệ phải can đảm từ bỏ.  Từ bỏ mạng sống, những sự thân thiết, thì khó khăn hơn.  Những sự thân thiết mà Chúa dạy chúng ta phải từ bỏ ở đây là những thói hư, tật xấu như gian tham và nghiện ngập.  Khó khăn nhất là từ bỏ sự tự ái, ích kỷ, lười biếng, cứng cỏi và lạnh nhạt.  Vậy chúng ta hãy tự hỏi phải từ bỏ những gì để trở thành người Ki-tô hữu chân chính và đích thực của Chúa?

Bài học thứ hai là vác thập giá.  Tại sao đi theo Chúa phải vác thập giá?  Trước hết, chúng ta nhận biết vì yêu thương và muốn cứu chuộc chúng ta, Chúa đã vâng lời và khiêm nhường xuống trần, sinh ra trong cảnh nghèo hèn và trở thành con người như chúng ta.  Chúa đã hy sinh sống đơn sơ và khó khăn rao giảng Tin mừng tình yêu và hạnh phúc Nước trời trước những sự thiếu thốn, khinh thường, chê bai và chống đối của dân chúng.  Cuối cùng, Chúa đã phải vác và chết trên thập giá vì và cho chúng ta. Đó là con đường Chúa đã đi và cũng là con đường mà chúng ta phải đi, con đường thập giá, để có thể tiến đến sự vinh quang phục sinh như Chúa đã đến.  Do đó thập giá mà Chúa đề cập và muốn chúng ta vác để đi theo Người là sẵn sàng và vui mừng chịu đau khổ, thiệt thòi, có lòng bác ái, quảng đại, biết quên mình, và có tấm lòng hy sinh để phục vụ tha nhân vì đức tin, vì Tin mừng và vì Chúa, và để xây dựng Nước Chúa.

Xin Chúa nâng đở và củng cố đức tin, ban sức mạnh để chúng ta thành tâm sống lời khôn ngoan Chúa dạy, từ bỏ những điều không đẹp lòng Chúa, can đảm trở thành những môn đệ, Ki-tô hữu đích thực làm sáng danh Chúa đời này, và hưởng hạnh phúc Nước Trời ngày sau.

Về mục lục

.

 

TỪ BỎ ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Dư luận mấy ngày qua xôn xao bàng hoàng trước tin một người phụ nữ 30 tuổi ở  huyện Phúc Thọ, Hà Nội, thuê người chặt chân tay mình để trục lợi bảo hiểm. Mặc dù được chuẩn bị với một kịch bản tinh vi, vụ việc vẫn bị bại lộ khi cơ quan điều tra vào cuộc. Thì ra, vì lòng tham, người ta có thể làm bất cứ điều gì. Đúng là “tiền mất tật mang”. Người phụ nữ này không những mất tiền, mang tật, mà còn mang nỗi ân hận suốt đời vì đã làm một việc trái đạo đức, tự làm cho mình mang thương tật suốt đời. Người thanh niên 21 tuổi được thuê chặt chân tay với giá 50 triệu đồng, cũng vì lòng tham mà nhắm mắt làm liều mà không nghĩ tới hậu quả là có thể bị truy tố vì huỷ hoại thân thể người khác.
 
Nếu trong cuộc sống, lòng tham đã khiến người đàn bà tối mắt đến nỗi thuê người chặt chân chặt tay, thì việc từ bỏ mọi tham lam lại là một điều kiện cần thiết cho những ai muốn trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Người đã khẳng định: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Câu 33). Người không chỉ yêu cầu từ bỏ của cải vật chất, mà còn từ bỏ những ràng buộc thiêng liêng như cha mẹ, vợ con và họ hàng thân thuộc, thậm chí cả mạng sống của mình. Xem ra đây là một nghịch lý, nhưng, Chúa cũng quả quyết với chúng ta: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Sự hy sinh Chúa kêu gọi không phải là vô ích, nhưng là một điều kiện để chúng ta được sống đời đời. Hành trình đời Kitô hữu cũng là hành trình thập giá. Chúng ta đang vác thập giá mỗi ngày như Chúa Giêsu và theo Chúa Giêsu. Qua thập giá, Đức Giêsu đã diễn tả sự vâng phục của Người đối với Chúa Cha. Qua thập giá, Người cũng chứng minh tình yêu của Thiên Chúa đối với con người bao la như trời bể, rộng lượng như trời cao. Trong cuộc đời, ai cũng có những khó khăn thử thách cần phải vượt qua. Những khó khăn ấy, chúng ta gọi là thập giá. Nếu chúng ta vác thập giá cuộc đời với tâm tình của Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng, nỗi buồn sẽ biến thành niềm vui.
 
Đi theo Đức Kitô là một chọn lựa, đòi hỏi người môn đệ phải biết khôn ngoan để phân biệt tốt với xấu, gạt bỏ những gì dễ làm họ lạc đường. Đức Giêsu dùng hai hình ảnh để diễn tả chọn lựa này, đó là một người xây tháp và vị vua chuẩn bị giao chiến. Đây là những việc cần phải cẩn trọng cân nhắc, để đạt tới thành công và tránh những rủi ro thất bại. Cả hai trường hợp, đương sự cần tính toán, không cho phép chấp nhận thất bại, vì nếu tháp xây dở dang sẽ bị thiên hạ chê cười, giao chiến thất bại sẽ mất cả mạng sống. Theo Chúa là một chọn lựa. Chọn lựa này sẽ trở thành định hướng căn bản cho tương lai, cũng là động lực thúc đẩy những suy nghĩ và hành động của người tín hữu.
 
Giữa một xã hội con người chạy theo lối sống hưởng thụ và tôn thờ vật chất, lời dạy của Chúa xem ra giống như một cung đàn lạc điệu. Tuy vậy, chúng ta cần hiểu rõ khái niệm “từ bỏ” mà Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng. Con người sống trên trần gian có thể vừa sở hữu tài sản, vừa có tinh thần thanh thoát tự do, không bị của cải ràng buộc làm nô lệ. Trong lịch sử, có những người giàu có mà vẫn nên thánh. Những người này sử dụng của cải như phương tiện chứ không phải là mục đích. Họ ý thức rằng, trên đời này, ta sở hữu điều gì, chỉ là Chúa trao phó cho quản lý và sinh lợi. Họ như những người quản lý khôn ngoan, biết dùng của cải Chúa ban mà nối kết tình huynh đệ, cổ võ tình bác ái và giúp đỡ người nghèo khó bất hạnh.
 
Từ bỏ vật chất là một điều khó, từ bỏ chính mình để đón nhận người khác lại là điều khó hơn. Thánh Phaolô khuyên ông Philêmôn đón nhận một người nô lệ tên là Ônêximô (Bài đọc II). Anh đã dại dột trộm cắp tài sản của chủ. Thánh Phaolô đã tiếp đón chàng thanh niên này và cho anh nhập Đạo, đồng thời muốn gửi lại cho ông Philêmôn và mời ông đón nhận “không phải như một người nô lệ, mà là một người anh em rất thân mến”, thậm chí còn “đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Chỉ có người môn đệ đích thực của Chúa mới có thể thực hiện nghĩa cử này. Môn đệ là người từ bỏ tất những gì thuộc về mình, nhưng lại sẵn lòng đón nhận tất cả mọi người như anh chị em thân thiết.
 
Nếu chúng ta sẵn sàng lên đường theo Chúa Giêsu, là vì chúng tin tưởng và phó thác vào quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của tác giả sách Khôn ngoan (Bài đọc I), đã nói lên sự khác biệt giữa sự khôn ngoan của Thiên Chúa với khả năng suy nghĩ hẹp hòi của con người. Giáo huấn Kitô giáo nhận ra Đức Giêsu là “Đức Khôn Ngoan” của Thiên Chúa. Người đến trần gian để chỉ dạy con người đạt tới hạnh phúc đích thực và chân lý vĩnh cửu. Người cũng xoá bỏ khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người, để rồi, mặc dù là con người phàm hèn, chúng ta có thể thân thưa với Chúa :”Lạy Cha chúng con ở trên trời!”.
 
Ước chi mỗi chúng ta khám phá mỗi ngày niềm vui của người môn đệ Đức Kitô, nhờ đó, chúng ta sẽ sẵn sàng từ bỏ những gì bất xứng với danh hiệu cao quý này.

Về mục lục

.

LÀM MÔN ĐỆ CỦA CHÚA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.

Làm môn đệ là một việc làm nghiêm túc. Đây không phải là một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp” và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng. Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.

Làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không. Môn đệ là người đi theo thày suốt đời, sống như thày trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi thày là thần tượng duy nhất, không yêu mến thày. Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo thày, sống như thày mà con ăn nói như thày, suy nghĩ như thày nữa. Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẻ cảm thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.

Làm môn đệ là làm như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.

Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Làm môn đệ là gì?
  2. Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
  3. Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?

Về mục lục

.

TỪ BỎ ĐỂ THĂNG TIẾN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống muốn thăng tiến phải biết từ bỏ. Trẻ con phải từ bỏ cái nôi để tập đi tập đứng. Lớn lên một chút phải từ bỏ mái nhà để đến trường học bao điều mới lạ. Trưởng thành lại phải can đảm từ bỏ quê hương để dấn thân vào đời. Từ bỏ cái cũ để nhận cái mới. Phải từ bỏ cái không còn phù hợp mới có khả năng đón nhận cái phù hợp với hiện tại mình hơn. Không từ bỏ con người sẽ đánh mất cơ hội để thăng tiến, để trưởng thành hơn. Từ bỏ dường như là lẽ tất yếu của định luật tự nhiên.

Có một người thanh niên luôn mong muốn mình giỏi hơn người khác, và còn muốn trở thành một học giả lớn. Nhưng qua rất nhiều năm đường học vấn vẫn ở sau nhiều người. Thất vọng, chán nản, chàng đến tâm sự với một đại sư.

Đại sư nói: “Chúng ta đi leo núi đi, đến đỉnh núi rồi con sẽ biết được nên làm như thế nào.”

Trên núi có rất nhiều hòn đá xinh xắn. Mỗi lần thấy người thanh niên nhìn thấy hòn đá ưng ý, đại sư bảo chàng cho đá vào túi để đeo sau lưng. Một lúc sau chàng thanh niên không chịu nổi nữa, nói: “Đại sư ơi, nếu cứ đeo túi này, đừng nói là leo lên đình núi, có khi bây giờ bảo con đi tiếp cũng không thể đi được nữa rồi.”

Khi đó đại sư cười nói: “Muốn tiến lên phải biết bỏ đi, nếu không bỏ đi làm sao có thể lên đỉnh núi được?”. Người thanh niên lặng người, tự dưng trong lòng sáng suốt, cảm ơn đại sư rồi ra về. Sau đó chàng tập trung học hỏi, cuối cùng trở thành một học giả lớn.

Xem ra muốn leo lên được đỉnh núi cuộc đời cần biết từ bỏ. Những viên đá nặng ta mang trong mình là những tham sân si luôn làm ta trì trệ tiến bước. Lòng tham sẽ níu kéo chúng ta ở lại để tranh dành những danh lợi thú mau qua. Sự nóng giận như viên đá cản lối ta tiến bước bình an. Sự mê muội sẽ làm ta đi lầm đường lạc lối.

Bỏ đi không có nghĩa là thất bại, cũng giống như chơi cờ tướng, tuy phải bỏ đi lợi ích nhỏ, nhưng lại nhận được lợi ích lớn hơn. Bỏ đi đôi khi làm cho con người mình thanh cao hơn, đáng kính hơn, như người nghiện ngập bỏ được thói quen xấu sẽ được yêu mến hơn. Bỏ đi những công việc không phù hợp với mình để được kính trọng hơn, như người đi tu thì không buôn bán, không tích góp tiền của . . . Bỏ đi những thú vui bất chính để sống có trách nhiệm với cuộc đời hơn.  . . Nói chung, con người cần phải biết từ bỏ: từ bỏ những quyền lợi và hư danh, từ bỏ những tranh chấp đấu đá danh vọng, từ bỏ những tình bạn đã thay đổi, những tình yêu đã thất bại, những quan hệ xã giao không có ý nghĩa, những tính cách xấu, những bận rộn và áp lực không cần thiết. Biết cách từ bỏ sẽ làm ta thanh thoát, nhẹ nhàng và bình an.

Hôm nay Chúa Giê-su cũng bảo chúng ta hãy can đảm từ bỏ để đi theo Chúa. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.
Chúa Giê-su cũng từng đón nhận thập giá vì Chúa Cha. Thập giá của Chúa Giê-su đã biến thành thánh giá. Thánh giá vinh quang. Thánh giá đem lại nguồn ơn cứu rỗi cho nhân trần. Theo lẽ thường chẳng ai thích đau khổ. Ai cũng tìm an nhàn sung sướng. Thế nhưng, Chúa Giê-su đã chọn gian khổ, chọn hy sinh để vui lòng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha sẽ ân thưởng vương quyền thiên quốc cho những hy sinh mà Ngài đã làm cho Chúa Cha.

Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gì so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.

Xin cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá  như là hồng ân Chúa gửi đến để ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen 

Về mục lục

.

ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bài đọc I Chúa nhật XXIII thường niên C dạy chúng ta rằng : “Những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan” (Kn 9,18). Vì theo Thánh Kinh, sự Khôn ngoan của Thiên Chúa đồng nghĩa với Lời Chúa. Từ đó, nghe lời sự Khôn ngoan là căn tính đầu tiên của người môn đệ Đức Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Thiên Chúa, là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Co 1, 24, 30 ) cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh, từ bỏ nữa  : “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta” (Lc 14, 26-27).  Nghe lời tuyên bố của Đức Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao ? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Đức Giêsu, đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải từ bỏ tận căn, không những của cải, người thân thiết nhất, mà cả những tiện nghi, kế hoạch riêng, sự quyến luyến, những giao tiếp hợp pháp và thậm trí cả chính mạng sống mình nữa nữa. Người yêu cầu phải “bỏ” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em.

Có người đặt câu hỏi : Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự từ bỏ đối với họ? Không phải thế, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Đức Giêsu yêu cầu con người dành cho Người một vị trí đặc biệt và cao nhất.

Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu, nên Người thêm : “Ai không vác thập giá mình mà theo, thì không thể làm môn đệ Ta” (Lc 14, 27). Đức Giêsu có thích khổ đau và thập giá không? Không, Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Người thích. Nhưng Người vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu, những lời chua cay, nóng nảy, giận hờn, từ bỏ tính kiêu căng, thói tham lam, để chúng ta thoát khỏi những đam mê vật chất, hầu sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.

Không phải ngẫu nhiên Đức Giêsu nói đến “Thập Giá”. Vác thập giá bước theo Đức Kitô không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Người đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Người đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Người nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.

Quyết định theo Đức Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Chúa, không đặt cái gì trước Chúa, toàn bộ phải qui hướng về Chúa, Chúa cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ. Theo Đức Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma : “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng : “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật.” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).

Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con muốn từ bỏ tất cả để đi theo Chúa, nhưng trên đường đi, chúng con sợ bị mất một phần của đời sống, sợ mất tự do, sợ đau khổ, sợ không có khả năng, không thực sự muốn bước đi theo Chúa và trở thành môn đệ Chúa. Lạy Chúa, chúng con dâng cho Chúa ước muốn theo Chúa của chúng con và chúng con mở cửa lòng mình cho Chúa. Lạy Chúa, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo, hiệp nhất với Chúa cho đến trọn đời. Amen.

Về mục lục

.

TRUNG THÀNH THEO CHÚA

 Lm Giuse Nguyễn Hữu An 

Báo “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” số 10-8/2013 có bài viết “Lời khuyên máu” của Bác sĩ Nguyễn Lan Hải, kể chuyện cuộc đời Thánh Nữ Gianna Baretta Molla.

Ngày 24-4-1994, ĐGH Gioan Phaolô II đã tôn phong Bà Gianna lên bậc Chân Phước trong dịp mở đầu Năm Quốc Tế về Gia Đình. Ngày 16-5-2004, ĐGH Gioan Phaolô II đã long trọng nâng Ngài lên bậc Hiển Thánh.

Bà là một nữ bác sĩ 39 tuổi, đã có chồng và có ba con, và đang mong đón đứa con thứ tư. Nhưng tin vui mau chóng đã trở thành nỗi lo: bà bị khối u phát sinh trong tử cung vào cuối tháng thứ hai của thai kỳ và phải mổ. Trong nghề y, Gianna hiểu rõ giới hạn của khoa học thời đó. Để cứu người mẹ, bệnh viện bắt buộc phải nạo thai và cắt cục bướm. Mổ cắt khối u để cho bào thai phát triển là điều vô cùng nguy hiểm cho tính mạng người mẹ, nhất là giai đoạn cuối khi sinh con, nhưng bà đã quyết định giữ con mình trong niềm tin tưởng phó thác.

Trước ngày sinh, Gianna tâm sự với cha linh hướng: “Con cầu nguyện liên miên trong những ngày này. Với niềm tin và hy vọng, con phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng. Con sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của con”. Trước khi lên bàn mổ, bác sĩ phẫu thuật hỏi lần cuối: “Tôi phải cứu ai bà hay con bà?” – Gianna trả lời : “Cứu con tôi và đừng lo gì cho tôi”. Vị giáo sư người Do Thái, mặc dầu không đồng ý với Gianna, đã làm theo ý bà, và ông đã thốt lên: “Thật đúng là người mẹ Công Giáo”.

Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1962, Gianna chuyển dạ. Bà nói với một Nữ Tu làm y tá trong nhà thương: “Chị yêu quý, hôm nay tôi biết chắc tôi sẽ chết, nhưng không sao, miễn con tôi được sống”. Đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, bác sĩ đã mổ và cứu cô bé an toàn khỏe mạnh, mang tên Emanuela “Chúa ở cùng chúng ta”. Sau ca mổ, Gianna rất đau đớn, nhưng bà vẫn can đảm phó thác, dâng mình cho Chúa như một của lễ hy sinh, với một tâm hồn khiêm tốn tin tưởng. Gianna muốn kết hợp sự đau đớn của mình với sự Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Một tuần lễ sau Phục Sinh, Gianna đã nhắm mắt vĩnh viễn về Trời với Chúa, miệng luôn lẩm bẩm: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa”.

Trong nghi lễ phong thánh, ÐGH Gioan Phaolô II ca ngợi Thánh Nữ: “Ngài được hồng ân Chúa ban cho một gia đình đầm ấm, một đức tin và tình yêu sung mãn. Ngài là một người mẹ hạnh phúc, nhưng khi thọ thai đứa con thứ tư, ngài đã trải qua cơn thử thách lớn lao. Trong cuộc dằn co giữa hai lựa chọn, hoặc là cứu lấy mạng sống mình, hoặc là bảo toàn sự sống của thai nhi trong bụng mình, ngài đã không ngần ngại tự hy sinh mình. Ngài quả đã cho chúng ta một chứng tá hào hùng, để lại cho chúng ta bài ca tán dương sự sống để chống lại trào lưu suy tư thoái hóa ngày nay đang lan rộng khắp hành tinh này.”. Thánh nữ đã noi gương Chúa Kitô “yêu thương những người thân của mình còn trong thế gian và yêu thương họ cho đến cùng”.

 Trang Tin Mừng hôm nay có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là ‘đi theo’ và ‘làm môn đệ’: “Khi ấy có rất đông người ‘đi theo’ Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi. Ai không vác thập giá mình mà ‘đi theo’ tôi thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi được”.

Quả vậy, có rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết “từ bỏ” và “vác thập giá” thì mới thực sự “là môn đệ” của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu nói những lời rất thẳng thắn và chân thành với “đám đông những người” đang đi theo Ngài : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa. Từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.

 Cuộc đời Thánh Gianna Beretta là một hành trình đi theo Chúa, làm môn đệ của Chúa. Gianna sinh ở Magenta nước Ý vào ngày 4-10-1922. Cô là con thứ mười trong gia đình mười ba người con, có một người anh làm linh mục. Bố mẹ Gianna rất đạo đức, luôn dạy con cái biết cầu nguyện và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngay từ buổi thiếu niên, Gianna đã lãnh nhận một niềm tin hiến dâng và một nền giáo dục kitô giáo sâu đậm. Nền giáo dục này đã dạy cô coi cuộc sống là sự dâng hiến tuyệt diệu cho Thiên Chúa, tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài và xác tín vào sự cần thiết hiệu nghiệm của lời cầu nguyện. Trong những năm còn học trung và đại học, bên cạnh việc chăm chỉ học hành, Gianna đã diễn tả niềm tin của mình bằng nhiệt tâm dấn thân vào công tác tông đồ cho giới trẻ trong tổ chức ‘Action Catholique’ của Ý. Cô cũng tham gia vào tổ chức từ thiện của Hội Dòng Bác Ái Thánh Vinh Sơn Phaolô, đặc biệt chăm sóc trẻ em, người già cả và người nghèo

Gianna là một thiếu nữ tài giỏi bước ngành y khoa. Năm 1949 cô lấy bằng bác sĩ y khoa và giải phẫu tại Đại Học Pavia. Năm sau, cô mở một dưỡng đường ở Mesero, gần Magenta. Hai năm sau đó, cô có bằng về chuyên khoa nhi đồng của Đại Học Milan. Sau đó, bác sĩ Beretta chuyên chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, cũng như người già và người nghèo.

Bác sĩ Gianna đảm trách công việc y khoa không vì lý do tài chánh, hay ngay cả lý do từ thiện. Đối với bà, hành nghề y khoa là một “sứ vụ.” Trong những năm theo học, bà đã tình nguyện phục vụ người già, người bệnh tật với tư cách là một thành viên của tổ chức Thánh Vinh Sơn Phaolô. Là một bác sĩ, bà gia tăng sự phục vụ độ lượng dưới một hình thức của “Công Giáo Tiến Hành”: giáo dân tình nguyện làm việc theo nhu cầu và tinh thần của Giáo Hội. Bà là một phụ nữ trẻ hăng say và đầy nhiệt huyết, một người thích leo núi mạo hiểm và trượt tuyết.

Cuộc hôn nhân vào năm 1955 đã đem lại cho Bác Sĩ Gianna một cơ hội để phát triển “sứ vụ” của bà. Ông bà Gianna và Pietro Molla là một đôi vợ chồng vui vẻ. Là một phụ nữ quân bình và có lương tri, bà đã thành công khi hài hòa sự nghiệp của một người mẹ, một người vợ và một bác sĩ.

Khi gặp nghịch cảnh phải phá thai để được sống, bà Gianna phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của mình. Sự từ bỏ như thế là cách diễn tả một tình yêu. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu mới có cơ may phát minh và sáng chế… Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng.

Laura con gái của thánh nữ đã nói về mẹ mình như sau: Mẹ tôi là một người đàn bà hạnh phúc. Mẹ tôi yêu cuộc sống cho đến chết và biết chấp nhận mọi sự Chúa ban, ngay cả đau khổ. Mẹ Gianna đã đón nhận thập giá bằng tình mẫu tử cao quý.

 Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người. Tình yêu như là điểm giao thoa giũa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.

 Ba điều kiện: từ bỏ, vác thập giá, bước theo Chúa Giêsu thật không dễ dàng chút nào. Phải phấn đấu thường xuyên, phải chiến đấu từng ngày cho nên bao giờ cũng gây nên đau khổ thể xác và tinh thần. Bằng tình yêu vượt qua đau khổ để nên môn đệ Chúa Giêsu là niềm hạnh phúc và là một vinh dự.

Thánh Gianna là chứng nhân sống đạo thời nay, người có tâm hồn giàu cảm thương đối với những người bệnh tật đau khổ, hy sinh mạng sống vì người mình yêu, phản ánh tình thương trên Thánh Giá của Chúa Giêsu.

 Ai là người có thể khẳng định mình đã hoàn toàn theo Chúa Giêsu? Ai muốn đi theo Chúa Giêsu phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình.Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.

 Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, và xin Chúa giúp chúng con được trung thành cho đến cùng là đi trọn con đường tình yêu như Chúa đã đi. Amen.

Về mục lục

.

TỪ BỎ HẾT LÀ TỪ BỎ CÁI GÌ?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Tôi vẫn biết: Đức Giê-su đòi những ai theo Người phải từ bỏ nhiều điều kiện khắt khe lắm…, nhưng thú thực, riêng câu nói ‘từ bỏ hết những gì mình có’ thì thật cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa hoàn toàn hiểunổi: thế nào là ‘bỏ ‘hết những gì mình có’?

Thói thường thì, khi làm bất cứ việc gì dầu to hay nhỏ, thế nào thì ta cũng phải sẵn sàng từ bỏ, khước từ một điều gì đó tương xứng: việc càng lớn, càng cao đẹp thì càng đòi hỏi nhiều từ bỏ, nhiều hy sinh. Đức Phật cũng đã chẳng từng từ bỏ ngai vàng, cung đình giầu sang, vợ đẹp con khôn… để đi tìm chính đạo, tìm con đường giác ngộ đó là gì? Thế thì việc Đức Giê-su đòi các môn đệ xin theo Người phải chấp nhận từ bỏ một số điều thì đó cũng là bình thường thôi. Ta biết: học thuyết hay lý tưởng càng cao xa bao nhiêu thì điều kiện càng phải triệt để bấy nhiêu; thậm chí trong một số trường hợp, ngay cả ‘dứt bỏ… cả mạng sống mình nữa’ cũng không có gì là quá đáng. Nhiều người theo lý tưởng cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc… đã chẳng làm như thế là gì? Tuy nhiên khi Đức Giê-su đòi, phải ‘từ bỏ hết những gì mình có’ thì thú thực, tôi chưa hẳn đã chắc nó chứa đựng nội dung gì; có khắt khe hơn cả ‘hy sinh mạng sống mình’ hay không?

Vấn nạn chính là: thế nào là từ bỏ ‘hết những gì mình có’ và tại sao lại phải làm như vậy? Các câu hỏi trên không dễ gì có giải đáp, vì thật ra khái niệm về chúng cũng rất mơ hồ, không rõ ràng. Thiết tưởng để hiểu được điều này, ta không thể làm gì khác hơn là quan sát Đức Giê-su cụ thể đã sống điều này thế nào, cũng như ta thử tìm hiểu xem tại sao Người lại làm như thế?

Tôi thiết nghĩ: có lẽ Phao-lô là người đầu tiên đã khám phá ra điều này khi chiêm ngắm Đức Ki-tô chịu chết treo trên thập giá. Đoạn thư gửi tín hữu Phi-líp-phê chương 2 câu 6-8 là mạc khải cao siêu nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, một mạc khải không tưởng đối với bất kỳ một suy tư tôn giáo nào: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người lại còn hạ mình, vâng lời cho tới nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” Qua đoạn văn trên Phao-lô cho thấy một Giê-su nguyên vẹn, trong cả bản tính Thiên Chúa lẫn loài người, đúng là đã ‘từ bỏ hết những gì mình có’; và Người làm điều này cách rất ý thức và hoàn toàn tự nguyện. Chính sự ‘từ bỏ hết’ này mới giải thích và biện minh được cho việc nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, cho việc Người chết treo trên cây thập tự, cho thái độ cũng như thực hành vâng phục hủy diệt, khó nghèo trần trụi và thanh khiết cô độc của Người. ‘Từ bỏ hết’ mà Đức Giê-su đã thể hiện không đơn thuần là một thực hành của tu đức hay khổ chế. Đây quả thực là một mạc khải thâm sâu và độc đáo nhất về Thiên Chúa của Tân Ước. Nếu Đức Chúa Gia-vê của Cựu Ước là cao cả và sung mãn bao nhiêu, thì chính Thiên Chúa của Ki-tô Giê-su Thập Giá trong Tân Ước lại trần trụi, lại tự hủy, lại ‘bỏ hết’, lại hèn hạbấy nhiêu. Tôi dám khảng định điều trên là vì chính Đức Giê-su đã công bố: “Tôi và Cha tôi là một!” (Ga 10:30 và Ga 17:21)

Thế nhưng, câu hỏi được đặt ra là: nếu Đức Ki-tô đã ‘bỏ hết’, thì Người làm điều này vì mục đích gì? Đức Giê-su đã không làm tất cả các điều trên (=bỏ hết) vì mong đợi một vinh quang, một phần thưởng! Trong đoạn văn kế tiếp, Phao-lô đã coi việc siêu tôn Người là hoàn toàn do Thiên Chúa Cha chủ động: “Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu…” Lý do duy nhất giải thích được việc ‘từ bỏ hết những gì mình có’ của Đức Giê-su là: để Người có thể trọn vẹn ném mình vào lòng thương xót vô biên của Cha, để sống và thể hiện vương quốc tình yêu bao la ấy. Thật vậy, lời cuối cùng Đức Giê-su đã thốt ra trên Thập Giá công bố mục tiêu tối hậu cuộc sống của Người nơi trần gian: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Xin lưu ý: ‘hồn = anima’ có nghĩa là cả hồn, xác và toàn bô cuộc sống mà Người muốn ném vào vòng tay nhân ái của Cha.

Như vậy khi đòi những ai ‘cùng đi đường’ với mình phải ‘dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa’, cũng như phải ‘vác thập giá mình mà đi theo tôi’, Đức Giê-su không chỉ nêu lên một đòi hỏi tu đức, một tu thân khắc kỷ. Người đang chỉ cho thấy một chuẩn bị cần thiết, một thái độ căn bản để đi vào trong tương quan với Chúa Cha nhân ái; ai không chuẩn bị để trọn vẹn ném mình vào cõi lòng từ nhân xót thương của Thiên Chúa, người đó không thể ‘đi cùng đường’ với Đức Giê-su. Do đó ‘vác hay đóng đinh mình vào Thập Giá’, như thư gửi tín hữu Do Thái đề cập tới (Dt 4:14-16; 5:7-9), phải hiểu là phó mình trọn vẹn cho lòng nhân ái Chúa Cha mà người môn đệ nào cũng phải thể hiện. Bao lâu người môn đệ còn dính bén (chưa dứt bỏ hết) với bất cứ tạo vật nào (kể cả những gì vẫn được người đời coi là cao đẹp về mặt tinh thần hay thiêng liêng), bấy lâu họ vẫn chưa thể trọn vẹn ném mình vào vòng tay nhân ái của Cha, họ chưa thể coi là ‘đi cùng đường’ với Đức Giê-su, để rồi cùng Người tiến về mục tiêu duy nhất là đón nhận Tin Mừng cứu độ.

Nếu như thế thì phó thác trọn vẹn cho lòng nhân ái của Chúa Cha đâu phải là chuyện nhỏ! Ngay cả việc xây tháp hay giao chiến cũng chẳng là gì so với việc ‘chấp nhận tự hủy’ của Thập Giá! Chuyện này có thể nhiều người cao trọng, khôn ngoan thông thái không kham nổi, nhưng lại quá dễ dàng vả tự nhiên đối với trẻ thơ và những người đơn sơ hèn mọn. Phao-lô là vị thánh đã hiểu ra rằng: chấp nhận Thập Giá trong nội dung này quả là việc lớn hơn hết thảy mọi sự: ‘tôi không biết một Đức Ki-tô nào khác ngoài Đấng chịu đóng đinh’ (1 Cr 2:2). Phải, niềm tin đích thực của mọi Ki-tô hữu là chấp nhận để mình chịu đóng đinh vào Thập Giá với Đức Ki-tô Giê-su, vì đó là sự khôn ngoan tuyệt đỉnh chứa đựng trong điều mà người đời luôn cho là ô nhục, là điên rồ (1 Cr 1:17-31). Họ chấp nhận ‘bỏ hết’ để có tình yêu nhân ái của Thiên Chúa làm gia nghiệp mà thôi!

Lạy Chúa từ nhân, con sẵn sàng đánh đổi tất cả để chiếm được lòng thương xót đầy từ ái Chúa. Tình cảm của người thân như cha mẹ, vợ con, anh em, chị em là quí giá, nhưng lòng thương xót của Cha trên trời còn vĩ đại bao la hơn nhiều. Con cần tình yêu của người trần thế, nhưng con sẽ mất tất cả nếu thiếu vắng lòng thương xót của Cha. Con cần thủ đắc được rất  nhiều điều cao quí cho cuộc sống, nhưng còn cần ‘từ bỏ hết mọi sự’ hơn nữa để đón nhận Tin Mừng cứu rỗi.  Xin cho con biết cùng Giê-su Thập Giá tự hủy để có thể phó trọn hồn con trong vòng tay nhân ái Cha. A-men.

Về mục lục

.

KHÔN NGOAN ĐI THEO CHÚA

Lm. GB. Trần Văn Hào

Người xưa thường nói “Xem giỏ bỏ thóc” hoặc “Đừng vung tay quá trán”. Đó là lẽ khôn ngoan thường tình chúng ta cần phải biết, trước khi bắt tay làm bất cứ công việc gì. Hôm nay Chúa dùng hai dụ ngôn cụ thể để nhắc nhớ điều ấy: Dụ ngôn về một người khởi công xây nhà cần  hoạch toán dự chi và dụ ngôn về một ông vua trước khi tham chiến phải xem lực lượng quân đội của mình ra sao. ‘Hãy liệu cơm mà gắp mắm’, là lẽ khôn ngoan ở đời. Tuy nhiên, Đức Giêsu không phải là một kinh tế gia hay một chuyên viên xây dựng. Ngài cũng không phải là người rành rẽ về binh lược nơi trận mạc. Sứ điệp Chúa muốn nhắn gửi chúng ta, là phải sống khôn ngoan theo lối bước của Tin Mừng. Ngài nhấn mạnh : “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi ” (c.26-27). Cuối cùng, Chúa đưa ra kết luận chung cuộc : “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có thì không thể làm môn đệ của tôi” (c.33).

Biết mình: Khởi đầu của sự khôn ngoan.

Ngày xưa, triết gia Socrates đã dạy các học trò của ông :“Biết mình là khởi đầu của sự khôn ngoan”. Ông cắt nghĩa tiếp “Ở trên đời, chúng ta thường rơi vào ba cái dốt. Cái dốt đầu tiên là chúng ta không biết những gì cần phải biết. Cái dốt thứ hai là chúng ta tò mò muốn biết những gì không nên biết, và cái dốt cuối cùng là chúng ta cứ tưởng rằng mình đã biết những gì mình thực sự chưa biết”. Nền triết học Hy Lạp ngày xưa vạch dẫn cho chúng ta những đường nét khôn ngoan ở đời, nhưng nó vẫn không thể đi vào chiều sâu của sự khôn ngoan như Chúa Giêsu mời gọi. Chúa Giêsu từ từ khai mở con đường Thập giá để dẫn đưa chúng ta đến nguồn mạch của sự khôn ngoan đích thực. Thánh Phaolô đã viết : “Chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước đến muôn đời… Lẽ khôn ngoan ấy, không một thủ lãnh thế gian được biết, vì nếu biết họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa vinh hiển vào Thập giá” (1Cr. 2, 7-8). Ngài còn phân định rõ hơn sự khác biệt giữa khôn ngoan thế gian so với sự khôn ngoan của Tin Mừng. Vị Tông đồ dẫn giải tiếp : “Trong khi người Do Thái tìm kiếm những dấu lạ, người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái cho là ô nhục, và dân ngoại cho là điên rồ…. Cái điên rồ của Thiên Chúa thì còn hơn cái khôn ngoan của loài người (1Cr. 1, 22-25).

Như vậy, câu nói của Socrates rất đúng khi ông nhận định : “Khởi đầu của sự khôn ngoan là hỡi người, hãy tự biết mình”. Nhưng tại sao phải biết mình, biết về mình như thế nào và biết mình để làm gì, là những vấn nạn mà ông ta không thể đưa ra câu trả lời. Chỉ khi Đức Giêsu vào trần gian, tiến nhận cái chết ô nhục trên Thập giá, chân lý ấy mới từ từ được khai sáng.

Thập giá: Con đường dẫn đến khôn ngoan đích thực.

Triết gia Shaupenhauer, thế kỷ 19, đã nói với các bạn của ông : “Khi tôi chết, hãy khắc trên ngôi mộ của tôi hàng chữ: Đây là nơi yên nghỉ của một người đã chết, mà khi sống, không biết mình sống để làm gì”. Sống để làm gì và sau khi chết sẽ đi về đâu, là những câu hỏi muôn thuở mà từ trước đến nay nhiều triết gia đã suy tư mà vẫn không thể tìm ra đáp án. Chúa Giêsu đã đưa ra câu trả lời rất cụ thể và chuẩn xác qua chính cái chết của Ngài trên Thánh giá. Thập giá Đức Kitô là ẩn số vĩ đại và khó hiểu nhất, nếu chúng ta chỉ dừng lại trên bình biện thuần lý của đầu óc con người. Một Thiên Chúa cao cả lại trở nên thấp hèn, đã hạ mình xuống tận đáy bùn đen trong xã hội. Một Thiên Chúa hằng sống lại tự nguyện tiến nhận cái chết, và chết một cách tức tưởi như một tên tội phạm. Một Thiên Chúa nhân lành bị con người đối xử quá gian ác và phũ phàng. Nhưng chính nghịch lý của Thập giá lại là quyển sách ẩn chứa sự khôn ngoan cao sâu nhất. Chiêm niệm mầu nhiệm ấy, chúng ta mới dần hiểu được điều Chúa nói hôm nay : “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Cha Gioan Cornay, một linh mục thuộc Hội Truyền giáo Paris (MEP) đã tình nguyện lên đường sang Việt Nam truyền giáo. Đi truyền giáo ngày xưa là chấp nhận ra đi vĩnh viễn không mong ngày trở về. LúcNgài ra ga xe lửa, bạn bè và những người thân quenđưa tiễn. Quá thương con, song thân Ngài nằm vật ra giữa đường để cản lối, nhưng Cha Cornay đã can đảm bước qua,và nhất quyết đi theo tiếng gọi của Chúa. Ngày 20 tháng 09 năm 1837, Ngài lãnh triều thiên tử đạo tại Sơn Tây, miền Bắc và là một trong 118 vị Tử đạo tại Việt Nam. (Xem thêm Hạnh tích các thánh). Ngài là một gương sáng điển hình, đã sống và thực hành điều Chúa Giêsu khuyến mời hôm nay.

Kết luận

Con đường Thập giá cùng sự từ bỏ là lối bước Chúa Giêsu đã đi qua và mời gọi chúng ta dấn bước theo Ngài. Chúng ta đã nghe đi nghe lại sứ điệp này đến độ thuộc lòng, nhưng cụ thể trong cuộc sống, chúng ta đã từ bỏ cái gì và từ bỏ như thế nào. Đây là một thách đố mà mỗi ngày chúng ta phải lập đi lập lại để nhắc nhớ, hầu trở nên môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Trong Giáo hội đã có rất nhiều mẫu gương để chúng ta noi theo. Một Cha Đamiêng đã từ bỏ mọi sự để chung hòa cuộc sống với những người cùi tại đảo Molokai. Một Cha Maximilien Kolbe đã can đảm chấp nhận chết thay cho một anh bạn tù trong trại tập trung Auswichở Ba lan. Biết bao bạn trẻ đã từ bỏ quê hương xứ sở để lên đường dấn thân truyền giáo. Còn bạn, còn tôi, chúng ta đã đi vào sự từ bỏ và sống ơn gọi của chúng ta như thế nào?

Về mục lục

.

BỎ VÀ NHẬN

Trầm Thiên Thu

Hạnh phúc không có nghĩa là sở hữu mọi thứ hoàn hảo, mà là biết can đảm nhìn xa hơn các khuyết điểm của mình và của người khác. Thật là không dễ, thế nên mới phải cố gắng không ngừng, từng giây, từng phút… Hãy cố gắng nhận thức về quá khứ của mình – dù xấu xa và hèn hạ, cứ hy vọng và vững tin vào tương lai, rồi chấp nhận mình là chính mình. Đó là một cách từ bỏ và chấp nhận.

Tác giả Brian Tracy (sinh ngày 5-1-1944 tại Vancouver, Canada), một người viết về chủ đề tự-giúp-bản-thân, nhận định: “Món quà ln nht mà bn có th trao cho người khác là tng phm ca tình yêu vô điu kin và s chp nhn The greatest gift that you can give to others is the gift of unconditional love and acceptance. Sự chấp nhận ở đây là cách chấp nhận vui vẻ chứ không miễn cưỡng.

Có nhiều động từ cần thiết, nhưng có lẽ BỎ và NHẬN là hai động từ quan trọng: Bỏ những cái xấu xa để nhận những điều tốt lành. Cần phải khôn ngoan kẻo hóa thành “thả mồi, bắt bóng”. Với các Kitô hữu có dạng “cao cấp” hơn: từ bỏ chính mình và đón nhận thập giá của cuộc đời (của mình và của người). Quả là “căng” thật đấy!

Thánh tiến sĩ Teresa Avila nói: “Cái gi là đy t trung thành ca Thiên Chúa chính là trong vic yêu người như yêu chính mình, có mt ý chí cương quyết không lay đng, liên tc sng theo Thánh Ý ca Thiên Chúa, gi cho tâm hn khiêm tn, mc mc và trông cy vào Thiên Chúa. Thánh nhân không trực tiếp dùng chữ “bỏ” và “nhận”, nhưng chúng ta vẫn khả dĩ nhận thấy bóng dáng của hai động thái đó.

Tác giả sách Khôn Ngoan thân thưa cầu nguyện: “Ly Chúa, nào có ai biết được ý đnh ca Thiên Chúa? Nào có ai hiu được Đc Chúa mun điu chi? Chúng con vn là loài phi chết, tư tưởng không sâu, lý lun không vng. Qu vy, thân xác d hư nát này khiến linh hn ra nng, cái v bng đt này làm tinh thn trĩu xung vì lo nghĩ trăm b (Kn 9:13-15).

Phàm nhân là vậy, như Chúa Giêsu đã nói: “Tinh thn thì hăng say, nhưng th xác li yếu hèn (Mt 26:41). Chỉ là bụi cát nhỏ nhoi, nay còn, mai mất, thế mà lúc nào cũng chỉ muốn nổi loạn, bởi vì “cái tôi” luôn to lớn nên lúc nào cũng phải hơn người khác, kém thua một chút là khó chịu, thậm chí còn dám “coi trời bằng vung” nữa. To gan, lớn mật thật!

Từ bỏ “cái tôi” là từ bỏ chính mình. Thật là khó. Khó lắm! Nhưng không bỏ không được, vì nó xấu, là cái đáng ghét (Pascal). Vả lại, không bỏ nó thì không thể nên người mới, không biến đổi thành con người mới thì không thể hoàn thiện, không hoàn thiện thì không thể lên trời và không thể nên thánh.

Tác giả sách Khôn Ngoan so sánh: “Nhng gì thuc h gii, con đã khó mà hình dung ni, nhng điu va tm tay, đã phi nhc công mi khám phá được thì nhng gì thuc thượng gii, có ai dò thu ni hay chăng? Ý đnh ca Chúa, nào ai biết được, nếu t chn cao vi, chính Ngài chng ban Đc Khôn Ngoan, chng gi thn khí thánh? Chính vì thế mà đường li người phàm được sa li cho thng, cũng vì thế mà con người được dy cho biết nhng điu đp lòng Ngài, và nh Đc Khôn Ngoan mà được cu đ (Kn 9:16-18).

Những thứ phàm tục chẳng là gì, thế mà vẫn nhiêu khê và bí ẩn, huống chi những điều trên trời, chúng ta chẳng thể nào hiểu được khi còn đang “tạm trú” nơi thân xác này. Không ai trường sinh, bất tử. Đó là điều chắc chắn, là quy luật muôn thuở. Thế mà người ta có ngán gì đâu. Máu sôi và bốc lên tới chỏm rồi, nếu có “xả láng, sáng về sớm” cũng chỉ là chuyện nhỏ. Và như đã nói trên đây, trời cũng chỉ như “cái vung” mà thôi!

Thánh Vịnh dẫn chứng rạch ròi: “Chúa bt phàm nhân tr v cát bi, Ngài phán bo: Hi người trn thế, tr v cát bi đi!. Ngàn năm Chúa k là gì, ta hôm qua đã qua đi mt ri, khác nào mt trng canh thôi! Ngài cun đi, chúng ch là gic mng, như c đng tri mc ban mai, n hoa vươn mnh sm ngày, chiu v rũ tàn phai chng còn (Tv 90:3-6). Đó là sự thật. Đời người tưởng dài mà ngắn, chẳng khác chi đóa phù dung, sớm nở và tối tàn, thế mà đổi màu sắc liên tục – tượng trưng thất tình và lục dục của con người. (*)

Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết mới sống. Người biết là người khôn ngoan, biết biến đổi cái bình thường và tầm thường trở nên siêu phàm. Tác giả Thánh Vịnh là người khôn ngoan nên đã biết cầu nguyện chí lý: “Xin dy chúng con đếm tháng ngày mình sng, ngõ hu tâm trí được khôn ngoan. Ly Chúa, xin tr li! Ngài đi đến bao gi? Xin chnh lòng thương xót nhng tôi t Ngài đây. T bui mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, đ ngày ngày được hn h vui ca (Tv 90:12-14). Cầu nguyện chân thành như thế thì làm sao Thiên Chúa chối từ cho đành! Cầu nguyện như vậy là khôn ngoan, còn “người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu đần” (Hc 19:23). Sách Huấn Ca cho biết thêm: “Bước đu ca khôn ngoan là kính s Đc Chúa. Lòng kính s Đc Chúa là tuyt đnh ca khôn ngoan (Hc 1:14 & 18). Đức khôn ngoan vô cùng quan trọng trong cuộc sống!

Phàm nhân có khôn ngoan tới mức nào cũng chẳng là gì, có làm được công to việc lớn cũng chẳng đáng chi. Tại sao? Bỏi vì ai cũng chỉ là tội nhân, là những kẻ xấu xa, không đáng gì trước mặt Thiên Chúa chí thánh. Do đó, ai cũng cần cậy nhờ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nghĩa là phải khiêm nhường cầu nguyện: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hu ca Chúa là Thiên Chúa chúng con. Vic tay chúng con làm, xin Ngài cng c, xin cng c vic tay chúng con làm (Tv 90:17).

Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, kiêu ngạo một chút là quá thừa. Công sức nỗ lực hoàn thiện bao ngày mà lên mặt khoe khoang một chút là tiêu tan hết. Kiêu ngạo như que diêm nhỏ bé, nhưng nó vẫn có thể thiêu rụi cả một tòa nhà nguy nga tráng lệ.

Tương tự, đốm-lửa-kiêu-ngạo cũng có thể thiêu rụi cả lâu-đài-khiêm-nhường mà chúng ta đã dày công xây dựng – nếu bất cẩn. Thật chí lý với lời nhắc nhở của tiền nhân: “Cn tc vô ưu.

Trong thư gởi cho ông Philêmôn, Tông đồ Phaolô tha thiết yêu cầu: “Tôi là Phaolô, mt người đã già và hơn na, mt người đang b tù vì Đc Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đa con ca tôi, đa con tôi đã sinh ra trong cnh xing xích, đó là Ônêximô” (Plm 9b-10).

Thánh Phaolô có quyền nhưng không muốn dùng quyền để hành người khác, đó là thể hiện đức khiêm nhường. Thánh nhân nói rõ ràng với ông Philêmôn: “Tôi xin gi nó v cho anh; xin anh hãy đón nhn nó như người rut tht ca tôi. Phn tôi, tôi cũng mun gi nó li vi tôi, đ nó thay anh mà phc v tôi trong khi tôi b xing xích vì Tin Mng. Nhưng tôi chng mun làm gì mà không có s chp thun ca anh, ko vic nghĩa anh làm có v min cưỡng, ch không phi t nguyn (Plm 12-14). Đó là tôn trọng người khác. Có khiêm nhường mời khả dĩ tôn trọng người khác, biết tôn trọng người khác là dám từ bỏ mình, từ bỏ mình là yêu thương người khác.

Vì yêu thương tha nhân, vì xót thương “đứa con tình thần”, Thánh Phaolô sẵn sàng hạ mình mà cầu xin người khác: “Nó đã xa anh mt thi gian, có l chính là đ anh được li nó vĩnh vin, không phi được li mt người nô l, nhưng thay vì mt người nô l thì được mt người anh em rt thân mến; đi vi tôi đã vy, phương chi đi vi anh li càng thân mến hơn biết my, c v tình người cũng như v tình anh em trong Chúa. Vy, nếu anh coi tôi là bn đng đo, xin anh hãy đón nhn nó như đón nhn chính tôi” (Plm 15-17). Động thái thật tốt đẹp!

Trình thuật Lc 14:25-33 cho viết hai động thái – NHẬN và BỎ: “vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu” và “từ bỏ hết những gì mình có”.

Thánh sử Luca cho biết rằng hôm đó có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: “Ai đến vi tôi mà không dt b cha m, v con, anh em, ch em, và c mng sng mình na thì không th làm môn đ tôi được. Ai không vác thp giá mình mà đi theo tôi thì KHÔNG TH làm môn đ tôi được. Chắc chắn Ngài không “xúi dại” chúng ta, không bắt chúng ta bất nhân mà bất hiếu với cha mẹ hoặc coi thường các thân nhân, vì Ngài rất nhân hậu, và Ngài cũng không hề bắt chúng ta không chăm lo cho sự sống của mình.

Người Việt có câu: “BÁN anh em xa, MUA láng ging gn. Có người sửa là “vắng anh em xa…”, vì cho rằng chữ “bán” nặng nề quá. Thật ra không phải vậy, tiền nhân muốn đặt hai vế với hai động từ đối lập: Bán và Mua. Còn chữ “xa” ở đây là xa cách về địa lý, chứ không là “xa” theo nghĩa bóng – chẳng hạn, bà con xa, họ hàng xa. Còn láng giềng thì phải gần, không có láng giềng xa.

Chúa Giêsu không hề tính toán với chúng ta về lòng yêu thương, về lòng thương xót, nhưng Ngài dạy chúng ta phải biết tính toán tỉ mỉ, rạch ròi. Ngài phân tích với hai ví dụ cụ thể:

“Ai trong anh em mun xây mt cây tháp, mà trước tiên li không ngi xung tính toán phí tn, xem mình có đ đ hoàn thành không? Ko l ra, đt móng ri mà không có kh năng làm xong thì mi người thy vy s lên tiếng chê cười mà bo: Anh ta đã khi công xây, mà chng có sc làm cho xong vic. Hoc có vua nào đi giao chiến vi mt vua khác, mà trước tiên li không ngi xung bàn tính xem mình có th đem mt vn quân ra, đương đu vi đi phương dn hai vn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đ sc, thì khi đi phương còn xa, t nhà vua đã phi sai s đi cu hoà”.

Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Tiền nhân dạy như vậy. Đó là người khôn ngoan. Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta phải cố gắng sống khôn ngoan để đối đầu với ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ). Tuy nhiên, “thằng quỷ” ranh ma nhất chính là “thằng” ở gần chúng ta nhất: xác thịt – tức là chính chúng ta, chứ “chẳng ai trồng khoai đất này”. Thảo nào Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta phải cố gắng từ bỏ nó, bằng mọi giá. Cuối cùng, Chúa Giêsu kết luận: “Cũng vy, ai trong anh em KHÔNG T B hết nhng gì mình có thì KHÔNG TH làm môn đ tôi được.

Ai cũng có cách quan sát. Người ta quan sát Chúa Giêsu và người khác, nhưng với ác ý là xoi mói và tìm cách bắt bẻ, chúng ta cũng thường làm như vậy với nhau; còn Chúa Giêsu, Ngài quan sát để biết tình huống ra sao mà “gỡ rối” cho người khác.

Tiền nhân ví von: “Phong ba bão táp không bng ng pháp Vit Nam. Quả thật, Việt ngữ cũng chí lý lắm: TÔI là TỒI, vì TÔI thích TỐI nên lắm TỘI. Toàn là mẫu tự T, thật là “tê” quá chừng, vừa TÊ vừa TÁI. Theo ngoại ngữ, chữ Santa (thánh nhân) nếu hoán vị các mẫu tự sẽ biến thành Satan (ma quỷ), một làn ranh mong manh. Kỳ lạ quá, và cũng đáng sợ quá!

Việt ngữ của chúng ta không thể hoán vị theo dạng này, nhưng Việt ngữ lại có dạng “độc đáo” khác, ví dụ: Tôi tưởng mình TIN YÊU nhưng tôi chỉ là YÊU TINH; tôi tưởng mình là người biết LẮNG NGHE, nhưng tôi chỉ muốn người khác phải LẮNG xuống, còn tôi không NGHE ai ráo trọi; tôi muốn người khác THẤU HIỂU hoàn cảnh của tôi, còn tôi có THẤU cũng không chịu HIỂU cho họ. Ui da, lạy Chúa tôi!

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết rõ con đ con can đm t b cái tôi ca con, và có th đón nhn mi thp giá ca cuc đi này, xin cũng giúp con biết rõ Ngài đ con yêu mến Ngài, quyết tâm hành đng đ có được Ngài mãi mãi. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

————————–

(*) THT TÌNH gm: H, N, Ai, Lc, Ái, , Dc; LC DC gm: (1) Sc Dc: ham mun tha mãn đôi mt; (2) Thính Dc: ham mun tha mãn đôi tai; (3) Hương Dc: ham mun tha mãn cái mũi; (4) V Dc: ham mun tha mãn cái ming; (5) Xúc Dc: ham mun tha mãn th lý; (6) Pháp Dc: ham mun tha mãn ý nghĩ.

Về mục lục

.

ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA KITÔ

Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

Những năm gần đây có nhiều cá nhân hay nhóm người sống nhờ làm tiếp thị. Họ rong ruổi khắp nơi để chỉ làm mỗi một việc là quảng cáo một sản phẩm nào đó. Nơi tôi đang ở, hầu như thường xuyên có người đi tiếp thị. Họ quảng cáo đủ mọi vật dụng, không trừ một sản phẩm nào, từ đôi đũa, chai dầu gội đầu, cái cốc uống nước đến cái bàn ủi, đầu máy may, máy giặt…

Tất cả họ đều có chung một cung cách: Những gì họ tiếp thị đều tốt, rất tốt. Họ ca tụng hết lời, dường như trên đời không còn cái gì bằng những gì họ đang quảng cáo.

Họ chỉ biết ca ngợi, không hề chê bai. Ca ngợi từ sản phẩm mà họ tiếp thị đến người được họ tiếp thị. Ví dụ, bạn muốn mua một đôi dép, dù kiểu nào, màu nào đi nữa, nếu thấy bạn xăm xoi, ngắm nghía, họ đều cho rằng chúng phù hợp với bạn…

Dẫu sao tôi vẫn nghi ngờ lắm. Càng nghi ngờ hơn nữa, khi những anh chị em ấy rày đây mai đó, chẳng biết đâu mà tìm. Nhưng ngôn ngữ của quảng cáo là như thế: chỉ ca tụng, không bao giờ bài bác.

Bạn và tôi là những người theo Chúa. Ta cảm nhận rằng, bước theo Chúa sao mà khó quá, bởi ta sẽ phải từ bỏ, không chỉ là của cải vật  chất, mà còn từ bỏ cả những cái là căn cội của cuộc đời mình như cha mẹ, mạng sống.

Không chỉ có thế, sự từ bỏ còn đi tới mức độ mạnh hơn: Chúa đòi ta từ bỏ để nhận thập giá: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đúng là một đòi hỏi quá dứt khoát và triệt để.

Vì thế, nếu Chúa Giêsu làm quảng cáo, chắc chắn Chúa thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sáng lạn nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không còn gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá.

Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy? Theo mà đều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lỏng, xa lạ.

Thế nhưng không đúng! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn thực tế mà lịch sử Hội Thánh ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau.

Bởi đã hơn 2000 năm, nhưng Lời Chúa Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy quả cảm bước theo Chúa Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình.

Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Chúa Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lỏng mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ.

Họ là ai? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn. Đặc biệt, trong số ấy, có vô số anh chị em hiến dâng đời mình sống ơn gọi tu trì. Những anh chị em ấy đã đáp lại lời mời gọi bỏ mình, vác thập giá, theo Chúa Giêsu.

Hoặc biết bao nhiêu vị thánh, họ là những người có thể đã được Hội Thánh tôn phong, hay chưa tôi phong, cũng có thể sẽ không bao giờ tôn phong trên bàn thờ Hội Thánh. Tất cả những vị thánh ấy có chung một tấm lòng: Đã vì lời mời gọi từ bỏ mà suốt đời sống nghèo khó, chỉ có tình yêu là giàu có mà thôi.

Trong số những người ấy, biết bao nhiêu người đã nhìn lên Thánh giá Chúa Kitô mà không tiếc mạng sống mình, hiến dâng cho Thiên Chúa toàn thân đến giọt máu cuối cùng như của lễ toàn thiêu. Các thánh Tử đạo là những người đã sống và chết như thế.

Hóa ra, lời mời gọi từ bỏ và vác thập giá của Chúa Giêsu, với cái nhìn nhân loại, tưởng chừng khắc nghiệt, sẽ trở nên vô vọng, lại có một sức mạnh thu hút lạ thường.

Lời mời gọi ấy là lẽ sống vô song để những ai tin nhận và sống theo, sẽ đặt trọn niềm hy vọng của mình.

Đó cũng là lời mời gọi làm nên căng tính của tất cả những ai theo Chúa Kitô. Nhờ đó, người ta nhận ra họ là môn đệ của Người. Vì theo Chúa Kitô chỉ có mỗi một con đường duy nhất là từ bỏ và chấp nhận thập giá đời mình như Chúa Kitô.

Vì hơn ai hết, những anh chị em dám dấn thân làm môn đệ của Chúa hiểu rằng, chính khi từ bỏ là lúc nhận lại chính mình. Chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết cho thân phận tội lỗi, chết cho sự tha hóa có thể lôi kéo ta hướng chiều về sự dữ, là lúc ta vui sống muôn đời (ý nghĩa của thánh Phanxicô- kinh Hòa Bình).

Bởi vậy, chính lúc chấp nhận thập giá, là chính lúc ta tiến vào vinh hiển của Đấng Phục Sinh.

Bạn thân mến, muốn dấn thân cho một điều gì, ta phải yêu điều ấy. Cũng vậy, để được tự do và tự nguyện chấp nhận sự từ bỏ và vác thập giá, đòi ta phải có lòng yêu mến. Với tình yêu, thập giá sẽ nhẹ hơn, dễ hơn.

Một người mẹ thức trắng đêm để may xong chiếc áo cho con sớm mai đến trường, người mẹ ấy là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả. Bởi đó bạn và tôi hãy yêu thánh giá Chúa Giêsu và yêu lối sống từ bỏ để nên giống Người.

Bản tính tự nhiên, con người thích chọn lối sống dễ dãi. Nhất là cuộc sống văn minh hôm nay, lại càng đặt ta trước nhiều chọn lựa. Nếu không biết yêu thánh giá mà lại cứ chiều theo thói quen bản thân, ta dễ chọn cái tầm thường hơn những điều cao cả; chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền; chọn lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể.

Bởi vậy, biết mình dễ chọn cái xấu, đồng thời cảm nhận sâu xa Lời mời gọi của Chúa Giêsu, yêu thánh giá Chúa, yêu lối sống từ bỏ, bạn và tôi hãy làm lại chọn lựa của mình để dễ dàng dấn thân cho sự từ bỏ và vác thập giá, qua từng việc nhỏ nhặt trong đời thường của mình như: bỏ nghiện thuốc lá, ma túy, rượu chè, trụy lạc…

Hoặc ta dành ngày Chúa nhật để tôn thờ Chúa, học hỏi giáo lý, lo các việc bổn phận đạo đức. Cương quyết rời chiếc giường êm để đi dự lễ sáng; tắt tivi để đọc kinh tối gia đình; bỏ bớt những giờ táng gẫu trong quán cà phê để cầu nguyện nhiều hơn… Tất cả những điều đó, đòi sự tập luyện lâu dài trong từng ngày sống của mình.

Hãy khắc ghi Lời Chúa dạy: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.

Về mục lục

.

MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Ai cũng được mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu, nhưng không phải ai cũng là môn đệ Ngài. Để trở thành môn đệ của Chúa, phải chọn Thiên Chúa và từ bỏ những gì trái với Ngài.

Từ bỏ chính mình

Đám đông đi theo Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả là môn đệ của Ngài: “nếu ai đi theo tôi mà không từ bỏ chính mình, thì không thể theo tôi được”.

Từ bỏ chính mình, là cách nói khác của thái độ chọn Chúa trên tất cả. Không có sự trái nghịch giữa giữa việc đi theo Chúa và đạo hiếu, vì giới răn thứ tư Chúa dạy: “thảo kính cha mẹ”; nhưng giả như cha mẹ hay bất kỳ ai đó có những đòi hỏi trái với luật Chúa, thì phải chọn Thiên Chúa trên tất cả. Thiên Chúa không muốn con người phải chết, nhưng muốn con người được sống và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; nhưng giả như có trường hợp phải chọn giữa Thiên Chúa và mạng sống mình, chẳng hạn như trường hợp bách hại đạo, thì phải chọn Thiên Chúa trên cả mạng sống mình.

Chọn Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả. Chọn Chúa, là yêu thương cha mẹ thật sự, là giữ đạo hiếu tuyệt hảo. Thí dụ, cha mẹ của một ai đó ép con mình lấy người nó không yêu không thương; thì theo đạo hiếu “thiển cận”, người con phải vâng lời lấy người cha mẹ muốn; nhưng nếu chỉ một thời gian ngắn sau cha mẹ người đó chết mà người con phải sống khổ cả đời vì đã vâng lời cha mẹ lấy người mình không thương yêu, thì nếu cha mẹ người đó biết con mình không sống hạnh phúc, chắc cha mẹ đã không ép con mình làm như vậy; nên trong trường hợp này không làm theo ý cha mẹ, là có hiếu hơn nghe theo lời cha mẹ. Nói như vậy, không có nghĩa là coi thường ý kiến của cha mẹ về vấn đề hôn nhân cho con cái. Con cái phải trân trọng ý kiến của cha mẹ, vì thường cha mẹ chỉ muốn cho con cái mình hạnh phúc; nhưng giả như có trường hợp khác, thì phải chọn Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn tôi làm điều đúng, và Ngài muốn tôi sống hạnh phúc.

Chấp nhận chính mình

“Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi”. Con người, ai cũng có những giới hạn.

Chẳng hạn, một người không được thông mình như chúng bạn mình, một người không đẹp như bạn mình, một người có một tật nào đó về thể lý hoặc tinh thần. Nếu con người không chấp nhận chính mình, luôn càm ràm Thiên Chúa “tại sao Chúa dựng nên con xấu như vậy, tại sao con lại không được thông mình bằng người khác, tại sao răng của con như vậy, tại sao mắt của con như vậy,…”, muốn làm “tài khôn” cho Chúa, thì người đó không thể làm môn đệ của Chúa được. Chấp nhận con người mình, chấp nhận những giới hạn của mình, đó là vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu. Chấp nhận con người mình như mình là, đã là vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày rồi. Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (2 Cor.12, 7-9).

Chấp nhận chính mình, là chấp nhận để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên mình. Đó là thái độ cần thiết để một người có thể sống hạnh phúc trên trần gian này. Nếu ai không hài lòng với chính mình, không nhận ra được gì hay nơi con người mình để tạ ơn Chúa, thì thật bất hạnh cho người đó.

Chấp nhận tha nhân trong yêu thương

Thiên Chúa là nhất đối với Phaolô. Con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa và đối với con người. Trở nên con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, là một hồng ân vô cùng lớn mà không gì có thể so sánh và mua được.

Onesimus, người nô lệ của Philemon đã được ơn trở lại qua Phaolô. Phaolô chấp nhận Onesimus như một người với tất cả giá trị của con người, cho dù người đời có phân biệt nô lệ và tự do. Phaolô mời gọi Philemon, người môn đệ của mình, nhận ra và chấp nhận phẩm giá của Onesimus, và đối xử với Onesimus, người nô lệ của mình, như người anh em trong Chúa. Để làm được điều này, Philemon phải chọn Chúa trên hết, coi trọng người tông đồ đã rao giảng Lời Chúa cho mình, đặt nhẹ lợi lộc trần gian, và nhận ra giá trị đích thực của con người không tựa vào nô lệ hay tự do theo kiểu trần thế.

Chọn Thiên Chúa trên tất cả, chấp nhận con người của mình như mình là, từ bỏ tất cả thậm chí cả bản thân mình, là điều kiện của người môn đệ Đức Giêsu. Xin cho chúng ta được ơn trở thành môn đệ Đức Giêsu trong cuộc sống.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Có sự xung đột giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa, cha mẹ và vợ chồng không? Xin bạn cho thí dụ và chia sẻ cái nhìn của bạn?
  2. Bạn có đồng ý với quan điểm “chọn Thiên Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả” không? Đâu là quan điểm của bạn?
  3. Liệu con người có thể từ bỏ chính mình được không? Tại sao?

Về mục lục

.

TỪ BỎ HẾT

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Sống là chấp nhận từ bỏ.

Có những điều xấu phải từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc…

Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống…

Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc. Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng. Tắt Tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình. Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.

Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn. Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con. Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.

Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.

Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.

Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả, chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể. Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.

Kitô hữu là người đã chọn theo Đức Giêsu.

Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.

Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.

Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.

Kitô hữu là người sống từ bỏ như Đức Giêsu.

Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta, đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.

Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Đức Giêsu.

Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Đức Kitô.

Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.

Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.

Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pizza.

Điều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.

Điều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.

Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.

Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.

Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.

Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.

Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.

Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.

Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận, vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.

Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.

Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.

Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo kinh nghiệm của bạn, từ bỏ điều gì là khó hơn cả? Bạn hãy cho biết lý do tại sao.

Có lần bạn đã rất vui khi làm một hy sinh, và bạn cảm thấy mình nhận nhiều hơn cho, được nhiều hơn mất. Bạn hãy kể lại.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

Về mục lục

.

ĐI THEO CHÚA ĐỂ ĐƯỢC LÀM MÔN ĐỆ

Lm. Gia-cô-bê Tạ Chúc

Môn đệ có nghĩa là người học trò, hay là người chịu ơn. Làm môn đệ của Chúa Giê-su, tức là làm học trò của Ngài. Điều này cũng đồng nghĩa với việc: môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không trọng hơn chủ. Người môn đệ của Chúa, được mời gọi dứt khoát trong chọn lựa, từ bỏ trong cương quyết, và sẵn sàng hy sinh ngay cả những tình cảmthiêng liêng, máu mủ ruột rà, và cả mạng sống mình để chấp nhận theo Chúa đến cùng.

Trên con đường mà Chúa Giê-su đã tiên báo: con người sẽ bị trao nộp vào tay người đời, và sẽ bị giết chết. Hay con chim có tổ, chồn cáo có hang, con người không nơi gối đầu. Lời mời gọi này không phải là một câu khẩu hiệu để chém gió, mà là một lời đề nghị nghiêm túc, xuất phát từ tình yêu thương. Nó không phải là một bản hợp đồng ngắn hạn, dài hạn mà là vĩnh cửu. Một cam kết liên quan đến định mệnh của cả cuộc đời. Như ông Vua trong Tin mừng hôm nay, cần tính toán chi ly: quân số, phương cách, xây hào đào lũy, phòng ngự, tấn công… xem mình có thể chiến thắng được đối phương, bằng không hãy chọn lựa một giải pháp thích hợp: “ Dĩ hòa vi quý”.

Đi theo Đức Giê-su không phải để được an lạc, hay chỉ như người cưỡi ngựa xem hoa. Mà trái lại, đây là một chọn lựa quyết liệt, dứt khoát và không nuối tiếc. Lớn lao vô cùng cho những ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, khi sứ mạng là một trọng trách phải chu toàn: “ Nếu ai muốn đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta”(Lc 14, 25).  Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Tin mừng, thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Môn đệ của Đức Giê-su là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Từ cách sống, suy nghĩ và hành động, luôn mô phỏng và rập theo khuôn mẫu của Đức Giê-su Ki-tô. Đi theo Thầy là chấp nhận thương đau, khổ đau và đớn đau. Mất hết tất cả, mà chỉ còn lại những dấu ấn hằn sâu vết đinh in màu máu của Thầy chí thánh.

Lạy Chúa Giê-su, vị Tôn sư tối cao, xin cho chúng con có đủ can đảm, có đủ nghị lực để từ bỏ, chọn lựa và hy sinh theo Chúa, trên hành trình dương thế này. Amen.

Về mục lục

.

THẬP GIÁ TRONG ĐỜI

AM. Trần Bình An

Lực sĩ bơi lội Michael Phelps, người được nhiều huy chương nhất trong tất cả các kỳ thi thế vận hội, cách đây hai năm đã suýt tự tử. Vào thời điểm đó, anh bù đắp khoảng trống và nỗi đau của mình bằng ma túy và rượu, vì thế những thứ này còn đưa anh vào vòng xoáy hủy hoại hơn. Năm 2009, anh bị cấm bơi ba tháng vì một bức hình anh hút được lan truyền trên mạng; dù bị phạt nhưng cũng không ngăn anh tiếp tục cuộc chơi. Tệ hơn nữa khi anh bị bắt lần thứ hai, vì tội say rượu lái xe trong vòng mười năm.

Phelps ở dưới đáy. Những ngày sau khi bị bắt, anh sống cô lập và anh tiếp tục uống. Trong một buổi phỏng vấn với hãng tin ESPN, anh thú nhận: «Tôi không còn một sự tự tin nào. Tôi nghĩ không có gì có giá trị và thế giới sẽ tốt hơn nếu không có tôi. Tôi tự nhủ, tốt nhất là tôi nên tự tử». Các huy chương vàng cũng không an ủi anh được: anh không còn tìm được ý nghĩa cuộc đời.

Sự quan phòng đã làm cho gia đình và các bạn của anh thuyết phục được anh vào một trung tâm phục hồi để đuổi các tư tưởng xấu này. Dù mới đầu anh không muốn nghe, nhưng cuối cùng anh chấp nhận số của mình và đi trên con đường chữa lành. Phelps mang theo anh quyển sách Mục đích hướng dẫn đời sống (The Purpose Driven Life) của Rick Warren. Đó là quyển sách do lực sĩ Ray Lewis tặng anh, lực sĩ Lewis là cựu phòng vệ của đội Ravens của Baltimore. Không những anh đọc mà anh còn cho nhiều bệnh nhân khác mượn, họ đặt cho anh biệt danh «Michael Người Rao Giảng».

Các lực sĩ đều mê huy chương, đó là sự tưởng thưởng cho công trình khó nhọc. Nhưng sự chú ý của truyền thông chỉ có một thời gian. Trong khi Đức Tin dựa trên tình yêu, một tình yêu giúp tìm lại thăng bằng và phối cảnh. Ngoài việc tìm lại Đức Tin trong thời gian ở trung tâm phục hồi, Phelps cho biết, một phần sự rối loạn của mình là do sự thiếu vắng người cha. Khi anh 9 tuổi, cha mẹ của anh ly dị và để bù cho sự thiếu thốn này, anh bắt đầu bơi. Một khi đã chinh phục được nước thì nỗi đau lại trồi lên mặt.

Trong tuần lễ gia đình ở trung tâm, Phelps đã có dịp tiếp xúc với cha mình và đã giúp anh chữa lành. Lần đầu tiên họ ôm nhau từ nhiều năm nay, điều này đã giúp Phelps đi tới đàng trước. Một vài tháng sau khi ở trung tâm phục hồi, Phelps ngõ lời xin cô bạn gái Nicole Johnson của mình làm đám cưới. Họ đã đính hôn và sẽ làm đám cưới sau kỳ thi Thế vận hội. Khi lần đầu tiên bồng con mình trên tay, Phelps đã khóc. Anh thổ lộ với hãng tin ESPN: «Tôi bàng hoàng không nói lên lời. Tôi nhận ra thế nào là một tình yêu thật».

Đứng trước trách nhiệm mới của gia đình, cuộc thi thế vận kỳ này sẽ là lần chót. Nhờ ơn Chúa, lực sĩ Phelps đã ra khỏi vực thẳm để về với cuộc sống. Có thể anh không hoàn hảo, nhưng Đức Tin của anh đã dẫn anh đi trên một con đường mới. Anh hiểu, dù số lượng huy chương vàng có nhiều như thế nào thì chúng cũng không có khả năng cứu được anh. (Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch, Đối với Michael Phelps mọi huy chương không thể sáng chói nếu không có Chúa)

Kình ngư huyền thoại Michael Phelps, vô địch huy chương vàng Olympic hôm nay đã không thể đạt những kỳ tích, nếu không có sự đồng hành của bà mẹ Debbie Phelps. Người đã quyết tâm rèn luyện Michael Phelps vượt qua nỗi sợ xuống nước từ hồi 7 tuổi và hội chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) lúc 9 tuổi. Khi đã lên đỉnh vinh quang, Michael Phelps lại đắm đuối vào những cám dỗ ma tuý, rượu chè, cờ bạc, cá ngựa, nhưng nhờ trông cậy vào ơn Chúa và tình yêu, anh lại tiếp tục gặt hái huy chương thế vận hội. Anh đã có tiền tài, danh vọng, chỉ thiếu có Chúa, nên mới lạc lối.

Trong Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu nêu lên những điều kiện bắt buộc tuân theo, để làm môn đệ Người, để đi theo Người. Đó là từ bỏ vật chất, tình cảm thế tục và chấp nhận thập giá. Ở đời, bất cứ ai chẳng nhiều ít, cũng đều vấp phải đau khổ, khó khăn, thách đố, nên ra sức tránh né. Nhưng Đức Giêsu lại đòi hỏi phải gánh vác lấy, không được từ chối: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

 

Thập giá bản thân 

Thách đố nặng nề hơn cả chính là tính xác thịt. Chống lại bản năng, thú tính, ham muốn, chính là một thập giá bất khả phân ly, liên tục cho đến nhắm mắt xuôi tay. Có thể gọi là thập giá tu thân. Thánh Phaolô khuyên nhủ Kitô hữu hãm mình, không nô lệ bản thân: “Chúng ta hãy ăn ở đứng đắn, như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh  em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.“ (Rm 13, 13-14)

Tiếp đến, thập giá còn là bổn phận và trách nhiệm, mà bất cứ ai sống trong cuộc đời cũng phải gánh vác. Làm con cái, cha mẹ, làm tu sĩ, Linh mục, đều có trọng trách, đều được Chúa giao cho một nén, hay nhiều nén bạc sinh lãi, tuỳ theo khả năng. (Mt 25, 14-20) Đó chính là thập giá tích đức. Mong ngày sau, được hân hạnh nghe lời khen của Ông Chủ: “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành…Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.” (Mt 25, 21)

 

Thập giá Kitô hữu 

Ngoài thâp giá tha nhân, như quan tâm, nhân ái, tận tuỵ chăm sóc, tận tình phục vụ những người cô quả, nghèo đói, bệnh hoạn, đau khổ, bị bỏ rơi, cần được yêu thương, giúp đỡ, chia sẻ, người tín hữu Kitô còn phải vác thập giá chứng nhân, gieo vãi hạt giống Tin Mừng khắp nơi. Như chính Đức Giêsu đã trao phó nhiệm vụ cao cả cho các môn đệ, những người theo Người: “Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8)

Đức Giêsu cũng thẳng thắn tiên báo những gian khổ, nguy hiểm, thách đố, dành cho các môn đệ khi thi hành sứ vụ: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói.” (Mt 10, 16) Những thập giá đau đớn, xót xa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10, 22)

Tránh né vác thập giá, hay “khôn ngoan” thoả hiệp, thông đồng, hiệp lực, cộng tác với quyền lực đen tối của sự dữ, với văn minh sự chết, để cọng sinh, hỗ tương, thuận lợi “giữ đạo,” đều là trắng trợn nguỵ biện, xảo ngôn, cùng đối phó, phản nghịch, antichrist, bất trung với Tin Mừng. “Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.” (Lc 14, 27)

Thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa” để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá mà theo Ta.” (Đường Hy Vọng, số 714)

Lạy Chúa Giêsu đầy lòng thương xót, chúng con quá mỏng dòn, yếu đuối, dễ ngã lòng, xin Chúa luôn ban Thánh Thần đến an ủi, khích lệ, phù hộ chúng con can trường vác thập giá hàng ngày, luôn trung thành theo Chúa.

Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu chúng con luôn chấp nhận những khó khăn, vất vả, đắng cay trong đời cho nên, cho đẹp lòng Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ĐIỀU KIỆN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà 

“Một hôm, dân chúng cùng đi đường với Đức Giê-su đông lắm. Ngài quay lại bảo họ: “Ai theo tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Khi nghe lời kêu gọi đó, nhiều người cho rằng Chúa Giê-su đòi hỏi người theo Chúa phải hy sinh quá nhiều. Phải lìa bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình nữa thì thật là quá đáng, chắc không mấy ai kham nổi.

Nhưng xét lại, không chỉ có Chúa Giê-su mới kêu mời môn đệ hy sinh từ bỏ như thế, mà nhiều tổ chức khác cũng đòi hỏi tương tự.

Khi quê hương đất nước bị xâm lăng, nhân dân trong nước được động viên lên đường chống giặc. Họ được tổ quốc mời gọi rời bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, anh chị em, họ hàng, rời bỏ làng mạc hay phố phường để lên đường thi hành sứ vụ của người chiến binh, chấp nhận hy sinh cả mạng sống mình để bảo vệ giang sơn tổ quốc.

Lịch sử của dân tộc Việt Nam chúng ta cho thấy rằng, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, rất đông đảo công dân trong đất nước chúng ta đã sẵn sàng từ bỏ cha mẹ, vợ con, họ hàng, bè bạn để xông ra chiến trường, sẵn sàng đổ máu, sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc non sông.

Khi có thiên tai xảy ra đây đó trên địa cầu gây ra tai hoạ thảm khốc cho dân chúng, có nhiều đội quân của Hội Chữ thập đỏ thuộc nhiều quốc gia trên thế giới được mời gọi từ bỏ quê hương xứ sở, từ bỏ công ăn việc làm, xông pha lên đường đến những miền đất lạ, đến với những nạn nhân thuộc màu da và chủng tộc khác, để xả thân cứu giúp những nạn nhân đang gặp tai ương khốn đốn.

Sứ mạng cứu thế của Chúa Giê-su là sứ mạng khẩn cấp và tối quan trọng nhưng cũng đầy dẫy gian truân. Vì thế, nếu không có tinh thần hy sinh quên mình của người chiến sĩ sẵn sàng chết để bảo vệ non sông; nếu không có tinh thần xả thân phục vụ, không ngại gian khó của đội quân thuộc Hội Chữ thập đỏ, thì không thể tham gia vào sứ mạng cứu thế của Chúa Giê-su được.

Thế nên, khi cất lời mời gọi tham gia vào đội quân cứu thế của mình, Chúa Giê-su nêu ra điều kiện tiên quyết: “Ai theo tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Luca 14,26-27)

Hôm nay, Chúa Giê-su kêu mời chúng ta từ bỏ những gì?

Hiện nay, Chúa Giê-su chưa kêu mời số đông trong chúng ta từ bỏ cha mẹ, vợ con, họ hàng vì Chúa và vì Nước Trời đâu, Ngài chỉ mời chúng ta tham gia phục vụ trong một số công tác thôi.

Khi có người đau yếu trong gia đình hay trong thôn xóm, Chúa mời chúng ta từ bỏ công ăn việc làm để viếng thăm, chăm sóc, chúng ta có đáp ứng không?

Khi có người lâm cơn túng thiếu, hoạn nạn, Chúa kêu mời chúng ta hãy chia sớt tiền bạc và hy sinh thời giờ, công sức để cứu giúp, chúng ta có chấp nhận không?

Khi có người làm buồn lòng ta, làm tổn thương tự ái của ta, Chúa kêu mời chúng ta từ bỏ oán hận để cảm thông tha thứ, chúng ta có sẵn sàng không?

Thông thường hơn, mỗi tối, Chúa mời chúng ta từ bỏ giờ xem phim hay nghe ca nhạc trên các kênh truyền hình để dành ra mươi phút đọc kinh gia đình thờ phượng tạ ơn Chúa, chúng ta có từ bỏ được không?

Nếu chúng ta chưa từ bỏ mình để thực hành những điều tương tự như trên, chúng ta không xứng đáng là môn đệ Chúa.

Lạy Chúa Giê-su

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có rất đông đồng bào của chúng con đã bỏ gia đình, cha mẹ, họ hàng, sẵn sàng tiến ra chiến trường hy sinh mạng sống để bảo vệ tổ quốc, non sông.

Trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, có rất nhiều tín hữu hy sinh từ bỏ tất cả lợi lộc trần thế và anh dũng đổ máu đào để làm sáng tỏ đức tin.

Xin cho chúng con, dù chưa phải hy sinh mạng sống như các chiến sĩ trên chiến trường, chưa phải đổ máu đào như các anh hùng tử đạo, thì ít nữa cũng biết hy sinh thời giờ, công việc, khả năng và từ bỏ tính tự ái, tính tham lam, vô cảm của mình để đem lại an vui, hạnh phúc cho những người đang sống chung quanh con. Amen.

Về mục lục

.

TỪ BỎ HẾT ĐỂ CHỈ VÁC THẬP GIÁ

JM. Lam Thy

Một trong những đòi hỏi dường như khó khăn nhất của Đưc Giê-su đối với những ai muốn đi theo Người có lẽ là việc từ bỏ. Quả thật, từ bỏ một ít, hay từ bỏ những cái phụ thuộc bên ngoài xem ra còn dễ, nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIII/TN-C – Lc 14, 25-33), Đức Ki-tô đòi hỏi những ai theo Người không những phải từ bỏ những tình cảm sâu xa nhất (tình nghĩa ruột rà máu mủ), mà còn phải từ bỏ cả chính bản thân của mình. Muốn theo Người, phải “từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa”, đồng thời còn phải “vác thập giá mình mà đi theo” (Lc 14, 26-27). Người khẳng định chắc nịch: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14, 33).

Để minh hoạ cho Lời dạy có vẻ nghịch lý khó thực hiện, Đức Giê-su kể 2 dụ ngôn ngụ ý so sánh (việc xây một cây tháp + việc một ông vua định giao chiến với một ông vua khác), nhằm chỉ ra cho người nghe hiểu: Muốn làm bất cứ một việc gì thì cũng rất cần phải biết tính toán, sắp đặt, lên kế hoạch, phải tiên liệu được những trở ngại – nhất là những trắc trở chủ quan từ chính chủ thể người thực hiện, rất cần đến sự hy sinh những quyền lợi riêng tư của bản thân – nhiên hậu mới có thể tiến hành thực hiện. Trở ngại lớn nhất đối với việc đi theo Đức Ki-tô chính là cái quyết tâm có dám từ bỏ tất cả mọi sự, rồi còn phải vác thập giá mình (những hy sinh, mất mát, đau khổ…) mà đi theo Người, hay không? Cũng không phải chỉ một lần này, mà rất nhiều lần Đức Ki-tô kêu gọi mọi người muốn đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả, từ bỏ một cách dứt khoát.

Từ bỏ ư? Nếu cần phải tuyên bố như hằng năm trong đêm Vọng Phục Sinh, khi được hỏi 3 lần: ”Có từ bỏ ma quỷ không? Có từ bỏ mọi việc của ma quỷ không? Có từ bỏ mọi sự sang trọng của ma quỷ không?”, thì ai chẳng tuyên bố rất hùng hồn: “Thưa, con xin từ bỏ”. Nhưng đến khi đối diện với thực tế, thì lại thấy không ít cảnh tiền hậu bất nhất, lời nói không đi đôi với việc làm. Đó là chuyện từ bỏ ma quỷ và những sự vịêc liên quan tới chúng, mà còn như thế, huống hồ phải từ bỏ cả “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em”, từ bỏ hết những gì mình có, từ bỏ cả chính con người (mạng sống) của mình nữa, thì quả thực là điều khó chấp nhận được. Và cũng chính vì thế nên đã không ít người thay vì từ bỏ những gì mình có để đi theo Đức Ki-tô, thì lại ỉu xìu từ giã Giê-su, như câu chuyện chàng phú hộ tiu nghỉu như mèo bị cắt tai, buồn rầu bỏ đi một nước (Mt 19, 16-21). Hoặc như lần một người rất muốn đi theo  Đức Giê-su nhưng lại xin về từ giã gia đình, khiến Người phải thốt lên “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9, 61-62). Đặc biệt nhất là một người được Đức Ki-tô mời gọi, đã xin được về chôn cất cha mình trước khi đi theo Người, thì Người dứt khoát bảo “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” (Lc 9, 59-60).

Từ bỏ cả cha mẹ, thậm chí đến việc báo hiếu khi cha mẹ mãn phần (chôn cất cha mẹ) cũng không được ư? Như vậy thì có mâu thuẫn với Lời dạy phải yêu thương những người bé mọn, thấp hèn, nghèo đói, tật bệnh, tội lỗi… như yêu thương chính mình, thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù của mình nữa (Lc 6, 27-35) không? Ấy là chưa kể có lần Đức Giê-su còn dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 29-30). Từ bỏ tất cả, vác thập giá đi theo Người, vậy mà lại êm ái và nhẹ nhàng ư?

Tuy nhiên, bình tâm suy niệm, nhất là đọc kỹ phần chú thich từ “dứt bỏ” ở bài Tin Mừng hôm nay, trong sách “Kinh Thánh trọn bộ – xb 1998” (trang 2397) thì thấy ghi: “Lu-ca 14. 26. Dứt bỏ, ds ghét. Kiểu nói Híp-ri có nghĩa là “thương ít hơn” (x. 9, 57-62 ; 18, 29 ; St 29, 31-33 ; Đnl 21, 15-16 ; Mt 10, 37)”. Đồng thời, coi phần trình thuật cùng chủ đề như bài Tin Mừng hôm nay (Lc 14, 25-33) trong sách Tin Mừng Mat-thêu, thì thấy viết nhẹ nhàng hơn: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10, 37). Nếu chỉ là “thương ít hơn” thì vấn đề sáng tỏ ngay, bởi theo Chúa là phải “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, yêu Chúa trên hết mọi sự, ngoài ra tất cả đều là thứ yếu. Như vậy, Đức Ki-tô muốn dạy người ta phải dứt khoát từ bỏ ma quỷ và những gì liên quan tới chúng (có thể được khoác bằng nhiều hình thức lôi cuốn, hấp dẫn, rất khó phân biệt), phải dứt khoát từ bỏ những gì liên quan đến thế gian, hay nói cách khác, từ bỏ cái tôi cố hữu (từ bỏ chính mình) bởi chính nó là nguyên nhân của tất cả những gì dính dáng đến xác thịt, trần thế, tội lỗi.

Quả thật, đúng như lời Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-sê: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.” (Cl 3, 1-2). Chung quy, Đức Ki-tô chỉ muốn những ai đi theo Người không nên lưu luyến những gì thuộc về thế gian, về xác thịt nặng nề, bởi “thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống” (Kn 9, 15). Rõ ràng Lời dạy của Người không có gì là mâu thuẫn, khó hiểu cả. Đến như những người xa lạ gặp trên đường đời, Người còn dạy phải coi họ như những người thân cận mà sẵn sàng giúp đỡ (Lc 10, 28), huống hồ là những bậc sinh thành ra mình, những người có quan hệ huyết thống ruột thịt với mình. Dứt bỏ hay từ bỏ là đối với những cám dỗ, những mời mọc hấp dẫn của tính xác thịt trần gian, của ma quỷ và sự dữ chúng đem đến mà thôi.

Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải ý thức khi mình đã chọn con đường bước theo Đức Giê-su, chấp nhận đi theo Người là chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường từ bỏ tất cả những điều thuộc về thế gian, dù cho đó có là những điều thật đáng trân trọng trong cuộc sống (tình cảm gia đình, mạng sống bản thân). Tất cả những điều đó chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người. Ki-tô hữu là người phải sống từ bỏ như Đức Giê-su đã nêu gương: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).

Ôi! Lạy Chúa! Ước gì con cảm nghiệm được rằng: trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa, thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con ngay từ khi con cất tiếng khóc chào đời. Cúi xin Chúa thương ban Thánh Linh soi sáng và thêm sức cho con, để con đủ sáng suốt và dũng khí từ bỏ những gì thuộc về xác thịt thế gian, mà đến với Chúa và với những người thân cận của con trên khắp năm châu bốn biển. Vâng, Lạy Chúa, “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen”.

Về mục lục

.

LỜI YÊU THƯƠNG

Lm. Jos. DĐH

Bồng bồng mẹ bế con sang, đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo, muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Lời ru của người mẹ tô vẽ lên nét hào hùng nơi con cái, phải qua sông, phải xây Cầu Kiều, con sẽ gặp thầy, con sẽ gặt hái thành công. Lời chất chứa hy vọng, lời ghi sâu vào tâm hồn, phải đúng, phải đủ sắc mầu yêu thương. Sự giới hạn của bản thân, hay những ngăn trở nơi xã hội, cũng không thể phá hỏng được truyền thống yêu thương mà cha mẹ dành cho con cháu.

Sống trên đời, có bằng cấp, địa vị, có giầu tình nặng nghĩa, hẳn sẽ để lại rất nhiều ảnh hưởng, ít là như câu thành ngữ : nhất thế, nhì thân ; một người làm quan cả họ được nhờ. Lời Chúa Giêsu chúng ta vừa nghe, Chúa không nói ai đến với Ta, Ta sẽ làm cho phong phú kiến thức, Ta sẽ cho của cải giầu sang phú quý… Không hứa hẹn, nhưng Chúa Giêsu còn cho thấy tính quyết liệt hơn : “ai đến với tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thì không xứng đáng là môn đệ tôi”. Không bổng lộc, không vinh dự, đã khó rồi ; Ngài còn nói một cường độ rất thật : “ai không vác thập giá mình hàng ngày, kẻ ấy không đáng là môn đệ tôi”.

Nếu chỉ xét về phương diện vật chất, chẳng ai hào hứng gì theo Đức Giêsu để xin làm môn đệ, nếu lập trường “lỏng lẻo”, thì Đức Giêsu dù có nói hay làm giỏi, cũng dễ gì thu hút được ai. Cân nhắc, chọn lựa, là một việc làm thiết thực để có kết quả tốt đẹp nhất, chúng ta vẫn đang xem đó là một chuẩn mực. Người xưa cũng nói về việc xem xét lựa chọn rất cẩn thận với câu ca dao : ở đời phải xét thiệt hơn, đừng nghe tiếng sáo tiếng đờn mà sai. Địa vị vật chất mang đến nhiều hứa hẹn, cha mẹ vợ con, mang một giá trị cao quý, song mạng sống có ưu tiên hơn cả, nhưng giá trị tuyệt đối chính là có Đức Kitô.

Làm sao để ta cảm thấu được lời kêu gọi từ bỏ của Đức Giêsu, để lời đó trở thành lời yêu thương : hãy can đảm lên, từ bỏ không hẳn là chịu thua thiệt, mà vì ta không muốn chạy đua với những thứ hạnh phúc không bền vững. Từ bỏ theo Đức Giêsu không phải là tìm kiếm bổng lộc ở đời này, mà là để được làm môn đệ Chúa, nếm hưởng phúc lộc quê trời. Trong kinh doanh, người ta chủ trương : buôn có bạn, bán có phường, chia sẻ, đầu tư “chất xám” cho chức danh địa vị, mọi người phải tuân thủ quy luật chung, chuyên chăm, rèn luyện bản thân.

Muốn giữ hồn an xác mạnh, người Kitô hữu phải thường xuyên chăm sóc sức khỏe bằng đời sống cầu nguyện, đón nhận các bí tích, lắng nghe và trung thành sống lề luật Chúa. Khi đưa ra ví dụ xây tháp, vương tướng ra trận, Chúa Giêsu có ý nhắc nhớ đến những việc hệ trọng, ai cũng phải thực sự trưởng thành, biết tính toán cân nhắc chọn lựa. Lời yêu thương của đấng bậc sinh thành nhắn gởi lại cho con cháu luôn cao đẹp : công thành danh toại. Lời yêu thương giữa nam thanh nữ tú sẽ mãi không cổ xưa : trăm năm ước nguyện chung tình, trên trời dưới đất có mình có ta.

Cao quý và trân trọng hơn, “lời yêu thương” của Chúa đó là : “ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không đáng là môn đệ tôi được”. Lời yêu thương không có nghĩa là ngọt ngào, mềm mỏng, được gia đình, xã hội, đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống hiện tại này. Lời yêu thương là có Chúa trong ta, có anh chị em nâng đỡ nhau trong hành trình trần thế, có niềm vui bình an và hạnh phúc ở hiện tại, tương lai. Lời yêu thương của Đức Giêsu còn cho thấy có những giá trị tình yêu ở sâu trong tâm hồn, chính đương sự cũng không diễn tả hết nét đẹp đang thu hút họ. Đố ai mà được như sen, chung quanh cánh trắng, giữa chen nhụy vàng. (ca dao)

Lời yêu thương không dừng lại ở khía cạnh tình cảm, Chúa Giêsu lưu ý nếu ai muốn theo Ta, thì hãy vác thập giá mình mà theo Ta. Đi theo Chúa làm môn đệ luôn mãi bí ẩn, nếu người ta không ở trong tình yêu của Đức Kitô. Từ bỏ thế gian, từ bỏ bản thân, hay từ bỏ một “nết xấu” để được làm đệ tử Đức Giêsu, sẽ tiếp tục còn là nhiều khám phá mới, là nét son mới trong tương quan giữa tình Chúa và tình người. Đứa bé không bao giờ lớn khôn, nếu nó chỉ bú sữa mẹ, người Kitô hữu không thể trưởng thành, nếu xa lạ với việc lãnh nhận các bí tích. Lời yêu thương của Đức Kitô sẽ mãi là niềm vui, là hạnh phúc thật, khi người ta được biến đổi, được trở thành môn đệ, biết sống thánh ý Chúa hàng ngày. Amen.

Về mục lục

.

ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 14,25-33

(25) Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ: (26) “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. (27) Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. (28) Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? (29) Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: (30) “Anh ta đã khởi công xây mà chẳng có sức làm cho xong việc”. (31) Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống, bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? (32) Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa. (33) Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.

  1. Ý CHÍNH: Bấy giờ có đông người đi theo Đức Giêsu lên Giêrusalem. Nhưng họ lại tưởng Người sắp đi lãnh đạo cuộc cách mạng chống lại đế quốc Rôma giành độc lập theo chủ nghĩa Thiên Sai Do thái. Để đám đông khỏi bị ảo tưởng về sứ vụ cứu thế của mình, Đức Giêsu đã dạy họ ba điều kiện để có thể theo làm môn đệ cua Người: Một là họ phải yêu mến Người trên cả tình cảm gia đình ruột thịt và mạng sống của mình. Hai là họ phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình mà đi theo Người. Ba là họ phải khôn ngoan suy tính kỹ trước khi quyết định theo Người giống như một người sắp xây tháp cao hay như một ông vua sắp đem quân đi giao chiến với quân thù.
  2. CHÚ THÍCH:

– C 25-27: + Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu : Cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem (x. Lc 9,51) trùng hợp với cuộc hành hương của người Do thái lên dự lễ Vượt Qua tại Đền thờ Giêrusalem. Vì thế có nhiều người cùng đi với Đức Giêsu làm thành một đám người rất đông. + “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con”…: Tiếng Do thái không có lối văn so sánh. Do đó, khi muốn diễn tả ý hơn kém, người ta thường dùng lối văn song đối như “yêu” đối với “ghét” hay “từ bỏ”. Như vậy “từ bỏ” cha mẹ… chỉ có nghĩa là “yêu ít hơn”. Chính Mát-thêu đã hiểu như thế khi viết: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy”… (Mt 10,37). Do đó khi nghe Đức Giêsu dùng kiểu nói có vẻ cứng rắn như “từ bỏ cha mẹ”, chúng ta sẽ không nghĩ rằng Người loại bỏ giới răn thứ tư là “Thảo kính cha mẹ” (x. Lc 18,20). Ở đây, Người đòi những ai muốn làm môn đệ phải dành mọi sự quý giá nhất cho Người. + “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”: Những ai muốn theo Đức Giêsu thì phải vác thập giá mình mà theo Người. Thập giá hôm nay là những hy sinh và từ bỏ mà người tín hữu phải chấp nhận khi bước theo Chúa.

C 28-30: + Ai trong anh em muốn xây một cây tháp: Đây là một ví dụ cho thấy cần phải suy nghĩ kỹ trước khi khởi sự làm một việc quan trọng. Chỉ những ai bền chí, có suy trước tính sau và không nản lòng thối chí mới có thể theo làm môn đệ của Người.

C 31-33: + Hoặc có vua nào…: Cũng như việc quyết định giao chiến của một ông vua cần phải cân nhắc thận trọng thế nào, thì việc quyết định đi theo Đức Giêsu cũng cần phải được suy tính kỹ càng trước khi quyết định như vậy. + Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được: Đây là lần thứ hai Đức Giêsu nhắc đến sự từ bỏ của cải như điều kiện để trở thành môn đệ của Người.

  1. CÂU HỎI: 1) Khi đòi những ai muốn làm môn đệ của mình phải dứt bỏ tình cảm gia đình hoặc từ bỏ cả mạng sống của mình, phải chăng Đức Giêsu đã phế bỏ điều răn thứ tư dạy “con cái phải thảo kính cha mẹ” ? 2) Đức Giêsu đòi môn đệ phải vác thập giá mình mà theo Người. Vậy thập giá ám chỉ điều gì ? 3) Đức Giêsu đã nêu ra hai dụ ngôn nào để dạy môn đệ phải cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định theo Người ? 4) Câu nào cho thấy Đức Giêsu đòi môn đệ phải từ bỏ cả những của cải vật chất nữa ?

 

SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi” (Lc 14,26):
  2. CÂU CHUYỆN:

1) LÒNG HY SINH TẬN TỤY CỦA MỘT BỀ TÔI TRUNG THÀNH:

Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn. Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.

Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân, thì Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo làm môn đệ của Người ?

2) LÒNG HY SINH PHỤC VỤ ĐẤT NƯỚC CỦA NELSON MANDELA:

Nelson Mandela, một người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Hans Muler, một thương gia, nhìn thế giới qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Mandela: “Tất cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải chiến đấu cho điều đó: Tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ tiền bạc, bạn không muốn cái gì khác trên đời”. Nếu Nelson Mandela làm theo lời khuyên của Hans Muler, ông có thể làm rất tốt cho bản thân. May mắn thay cho Nam Phi. Thay vì lo cho bản thân, Nelson Mandela đã quyết định cống hiến cuộc đời mình cho việc phục vụ đất nước.

Để làm điều đó, Mandela đã phải hy sinh, ông viết: “Đối với tôi, không phải là một việc dễ dàng khi phải xa cách vợ con, giã từ những ngày xưa tươi đẹp ấy, và sau một ngày làm việc hăng say ở văn phòng. Tôi có thể quay về với gia đình trong bữa ăn tối, thay vì phải sống như một người bị cảnh sát săn đuổi liên tục, sống xa cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những sự bất trắc như bị nhận dạng và bắt giữ. Đó là một đời sống cực kỳ khó khăn hơn cả chịu án tù (Trích “Hành trình đến tự do”, 1994, Little, Brown and Company). Nelson đã chịu 27 năm tù đày vì yêu đất nước. Ông đã trở thành tổng thống vĩ đại của Nam Phi.

3) TÔI LÀ THỨ BA:

GHÊN SÊ-Ơ (Gale Sayers), một cầu thủ chơi ở hàng hậu vệ của đội banh CHI-KÊ-GÔ BE-Ơ (Chicago Bears) vào thập niên 1960, được đánh giá là một trong những hậu vệ chạy nhanh nhất trong làng bóng đá chuyên nghiệp Hoa kỳ. Chung quanh cổ của cậu lúc nào cũng đeo lủng lẳng một chiếc mề đay bằng vàng, trên có khắc ba chữ “I am Third” nghĩa là “Tôi là thứ Ba”. Khi được hỏi lý do, anh đã cho biết như sau: “Chúa là thứ Nhất, tha nhân là thứ Hai, và tôi là thứ Ba”. Trong quyển tự thuật cuộc đời của mình, Ghên viết: “Tôi cố gắng sống câu nói ghi trên tấm mề đay của tôi. Không hẳn lúc nào tôi cũng sống được như vậy. Nhưng dù sao việc đeo câu ấy cũng giúp tôi khỏi đi trệch đường quá xa” (Theo Mark Link SJ).

4) MƯỜI NĂM LÀM VIỆC VẤT VẢ ĐỂ TRẢ GIÁ CHO ƯỚC MƠ ĐƯỢC ĐỔI ĐỜI:

Antoinette là một cô gái rất đẹp nhưng rất nghèo. Điều mơ ước duy nhất của cô là trở thành giàu có, và cô nghĩ rằng cách dễ nhất là lấy được một người chồng giàu. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng của cô chỉ là một kẻ thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng muốn làm gì nữa, cũng chẳng muốn đi đâu hết. Một hôm, Antoinette nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm toàn những người quý phái. Cô mừng lắm. Nhưng cô không có y phục và nữ trang sang trọng. Tuy nhiên cô biết cách thu xếp : cô rút hết tiền tiết kiệm ra mua được một bộ áo đẹp ; cô đến với Marie một bạn học cũ mượn được một chiếc vòng nạm kim cương.

Thế là Antoinette xuất hiện trong bữa tiệc với một dáng vẻ rất xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô. Cô rất sung sướng. Tuy nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim cương đã rơi mất. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy. Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng y như thế trả lại cho Mary. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên Marie không thắc mắc gì cả. Từ đó trở đi, Antoinette phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền trả nợ. Sau 10 năm, cô trả xong nợ. Nhưng khi đó trông cô rất già và không còn xinh đẹp như ngày xưa nữa.

Một hôm Antoinette và Marie tình cờ gặp nhau :

– Ồ sao trông bạn già đi và tiều tụy như thế ? Marie giật mình hỏi.

– Tất cả chỉ tại bạn đó.

– Sao lại tại tôi ?

Antoinette kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Marie nói :

– Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của tôi cho bạn mượn là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.

Thế là đột ngột Antoinette được Marie trả lại 39.600 quan. Cô đã trở thành người giàu có. Nhưng với cái giá là 10 năm làm quần quật đủ mọi thứ việc cùng với một thân xác tiều tuỵ và một bộ mặt già nua. Phải chi nếu Antoinette đã chịu khó làm việc ngay từ đầu thì cái giá cô phải trả đâu đến nỗi cao quá như vậy !

5) SẴN SÀNG HY SINH MỌI SỰ ĐỂ PHỤNG SỰ CHÚA:

Odette, một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở nước Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến bắt trở về. Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon ở một lâu đài gần đó.

Vốn biết cô con cái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã chuẩn bị hôn lễ một cách kín đáo. Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vèn màn nhìn qua cửa sồ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đàu. Hỏi đầy tớ, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây, có đông đủ quý khách, và linh mục tuyên úy của lâu đài cũng đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.

Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Odette có muốn nhận Simon là chồng theo luật Giáo Hội không? Cô đã dõng dạc tuyên bố “Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng hco Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.

Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng cô. Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đáu đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của cô. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không ai cấm cản con đi theo Chúa Kitô nữa”.

Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó, nữ tu Odette được chị em chọn làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.

  1. SUY NIỆM:

1) Ba điều kiện để theo làm môn đệ của Chúa Giêsu:

  1. a) Một là phải có tinh thần siêu thoát từ bỏ:

Mọi thành quả ở trần thế này, đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì cố gắng mới có thể đạt thành mỹ mãn: Chẳng hạn: một lực sĩ muốn chiếm huy chương vàng thế vận hội Ôlympic, phải hy sinh tập luyện ngày đêm trong thời gian dài mới hy vọng chiếm được huy chương danh dự. Một người mẫu muốn có thân hình thon gọn, với ba vòng chuẩn, đòi phải ăn uống kiêng khem và tập thể dục hằng ngày… Chỉ cần lơ là một chút là thân hình sẽ mất đi vẻ thẩm mỹ ngay. Cũng thế, một sinh viên muốn thi đậu và đậu thủ khoa trong trường Đại học, hay muốn trở thành bác sĩ, luật sư… cũng phải trải qua bao năm dùi mài kinh sử. Ngoài ra, những người bệnh cao huyết áp do có nhiều chất Cholesterol trong máu hay bị bệnh thừa cân béo phì… cũng phải theo chế độ ăn kiêng vất vả trong một thời gian dài mới có thể giảm cân và tránh bị đột quỵ. Còn các tín hữu chúng ta: Nếu muốn trở thành những người môn đệ của Chúa Giêsu và hy vọng sau này được về trời hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, đòi chúng ta phải hy sinh từ bỏ theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Ai đến với tôi mà không ghét bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”.

Ghét bỏ trong câu nói của Đức Giêsu nghĩa là gì? : Vì tiếng Do thái không có thể văn so sánh hơn kém, nên người Do thái thường dùng lối văn song đối như: “yêu và ghét bỏ”. Ghét bỏ chỉ có nghĩa là yêu ít hơn. Câu này tương đương với câu Chúa nói trong Tin Mừng Mat-thêu như sau: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Qua đó, Đức Giêsu đòi những ai muốn làm môn đệ của Người phải tôn Người lên hàng đầu, trên cả tình yêu dành cho người thân như: cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và trên cả mạng sống mình nữa. khi cần phải chọn một trong hai thì người môn đệ phải ưu tiên chọn Đức Giêsu.

  1. b) Hai là phải vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu:

Thập giá ở đây được ví như một cây gậy đi đường rất hữu ích cho một vận động viên leo núi: Vì nếu không có cây gậy dò đường và chống đỡ thì họ sẽ dễ dàng bị mệt mỏi, chán nản bỏ cuộc nửa chừng và có thể còn bị tai nạn rơi xuống vực thẳm nữa. Nhờ biết bỏ đi những rào cản, người môn đệ mới dễ dàng vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu.

Người tín hữu cần biết chấp nhận thập giá là các thử thách gặp phải như: Bị kẻ gian giật điện thoại di động, cướp xe cộ… chúng ta sẽ không quá buồn phiền do tiếc của. Hoặc khi có cha mẹ, vợ chồng hay người thân qua đời… Chúng ta cũng không quá đau buồn đến nỗi buông xuôi mọi sự. Khi làm ăn thua lỗ, thi rớt đại học, bị người yêu bỏ rơi… chúng ta cần bình tĩnh đón nhận, coi đó như thập giá phải vác để làm môn đệ Đức Giêsu.

  1. c) Ba là phải khôn ngoan và kiên trì:

Khôn ngoan suy tinh xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi để theo Đức Giêsu hay không. Giống như một người muốn xây một cây tháp phải khôn ngoan suy nghĩ về khả năng tài chính của mình. Hoặc như một ông vua trước khi xuất chinh phải biết đánh giá tình hình để có quyết định phù hợp. Có thể sau khi đi theo Chúa nhiều người vẫn bị nản lòng bỏ Chúa khi găp hoàn cảnh khó khăn. Khi đó hãy nhìn gương của các tông đồ: ban đầu các ông theo Đức Giêsu là để hy vọng sẽ được chia sẻ quyền lực địa vị trong Nước Trời mà Người sắp thiết lập. Nhưng Đức Giêsu đã dần dần thanh luyện suy nghĩ của các ông. Nhưng phải đợi đến sau khi Chúa phục sinh, nhờ ơn Thánh Thần, các ông mới hiểu rõ điều kiện để đi theo làm môn đệ Chúa; và can đảm từ bỏ mọi sự. John Newton đã nói: “Những khổ sở mà đời ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nhỏ nó ra để mỗi ngày Người chỉ chất lên vai chúng ta một khúc thôi… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Thế nhưng, nhiều người lại không làm như vậy: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay, mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và cả của ngày mai. Nên họ đã không thể vác nổi !”.

2) Chúng ta phải làm gì để xứng đáng là môn đệ Đức Giêsu ? :

a) Sống là chấp nhận từ bỏ: Hôm nay có những điều xấu chúng ta phải từ bỏ như: rượu chè, ma túy, trụy lạc… Tuy nhiên cũng có những điều tốt mà chúng ta vẫn phải từ bỏ để chọn một điều tốt hơn như: Bỏ nghề đang làm để làm nghề mới phù hợp với ơn gọi tu sĩ, chọn ngành học vừa hợp với khả năng lại vừa phù hopwj với ơn Chúa kêu gọi… Từ bỏ thường hay làm cho ta tiếc nuối và đòi phải biết hy sinh. Chẳng hạn: Từ bỏ chiếc giường êm ấm để thức dậy đi lễ sáng; Từ bỏ một cuốn phim hay đang xem trên Ti-vi để đọc kinh tối chung gia đình; Từ bỏ đi chơi ngày Chúa nhật để theo học lớp giáo lý hôn nhân và đi làm công tác xã hội… Cuộc sống hôm nay cho chúng ta nhiều cơ hội để chọn lựa. Bình thường, người ta dễ chọn cái tầm thường hơn điều cao cả; Chọn khoái lạc thấp hèn hơn là hạnh phúc vững bền; Chọn ích kỷ có lợi cho bản thân hơn vì ích chung tập thể.

b) Kitô hữu là người dứt khoát chọn theo làm môn đệ Đức Giêsu: nghĩa là chọn đi con đường hẹp. Đức Giêsu đòi môn đệ phải coi Người trọng hơn tất cả mọi mối dây tình cảm như tình cha con, vợ chồng, danh vọng của cải… Những điều nói trên tuy đáng quí, nhưng cũng chỉ có giá trị tương đối mà thôi. Kitô hữu là người dám từ bỏ tất cả để noi gương Đức Giêsu, Đấng đã từ bỏ vinh quang thần linh để trở nên một người trần thế. Từ bỏ chính là chọn vào Nước Trời ngang qua cửa hẹp cùng với Đức Giêsu. Đây là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ: Sự từ bỏ ở đây không phải chỉ cần làm một lần là đủ, nhưng muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải không ngừng từ bỏ. Cần tránh thái độ nửa chừng thỏa hiệp. Bây giờ không còn phải là thời gian ngồi suy tính nữa, mà mỗi người chúng ta phải dứt khoát từ bỏ mọi vướng víu để trung thành đi theo làm môn đệ Đức Giêsu đến cùng.

c) Làm môn đệ là học tập để làm như Thầy Giêsu: Từ bỏ noi gương Chúa Giêsu, Đấng nêu gương từ bỏ mình: Từ bỏ trời cao để xuống đất nơi đất thấp, từ bỏ chức vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm con loài người, tự nguyện sống nghèo khổ, nhận lấy tội lỗi của loài người và chịu chết đền tội thay loài người. Nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Người đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.

  1. THẢO LUẬN: 1) Nếu phải từ bỏ tất cả những gì bạn đang có như tiền bạc, địa vị, đam mê… để trở thành môn đệ Đức Giêsu, thì theo bạn, từ bỏ điều nào là khó nhất ? 2) Khi gặp một người yêu ghét đạo công giáo, nhất định không cử hành lễ nghi hôn phối trong nhà thờ thì bạn cần làm gì ? 3) Cụ thể hiện tại bạn quyết tâm từ bỏ điều gì đang cản trở bạn theo làm môn đệ Đức Giêsu ?
  2. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã nhiều lần dạy chúng con rằng: Muốn trở thành môn đệ của Chúa thì chúng con phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng và vác thập giá là việc bổn phận hằng ngày mà theo chân Chúa. Chúa ơi, đây quả thật là một điều cam go và không dễ thực hiện chút nào ! Bởi vì con cảm thấy dường như lúc nào cũng có những thập giá đè nặng trên vai con: bệnh tật, đau khổ, công việc, sự vất vả hy sinh, mất mát và thất bại… Mà thập giá ấy lại sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời con. Thập giá con phải mang không thể tập thành thói quen và luôn biến dạng mỗi ngày mỗi khác… Chính vì thế mà con đã ý thức rằng: Theo Chúa đòi con phải luôn trong tư thế từ bỏ và hy sinh. Không phải chỉ cố chịu đựng một lần, nhưng là chịu đựng suốt đời. Từng giờ phút qua đi là những giờ phút con phải vác thập giá để tiến bước theo Chúa đến đỉnh đồi Can-vê. Xin giúp con sẵn sàng vác cây thập giá đời con, vì tin rằng chính Chúa cũng đang vác thập giá đi trước con và hằng ban ơn nâng đỡ, giúp con đủ sức vác thập giá đời mình đi theo Chúa đến trọn cuộc đời.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CỦA CHÚA

Dã Quỳ

Con đường Chúa Giêsu đang đi là đường tiến về Giêrusalem, nơi cuộc tử nạn thập giá đang chờ Người. Trên con đường ấy, có nhiều người đang đi cùng với Chúa. Đi cùng nhưng có lẽ họ đã chưa thực sự theo và là môn đệ của Chúa! Vì thế, Chúa đã chỉ cho họ biết những điều kiện để trở thành môn đệ. Với mỗi người Kitô hữu, qua Phép Rửa, chúng ta cũng được mời gọi trở thành môn đệ của Chúa. Vậy ta cùng dừng lại để nghe những lời Chúa nhắn nhủ với chính chúng ta hôm nay.

-“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con. anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.”- Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta một sự từ bỏ trọn vẹn để gắn bó với Người cách triệt để. Thoạt nghe những lời này, ta cảm thấy như khó chấp nhận và không để thực hiện. Thế nhưng, chúng ta biết rõ rằng Chúa muốn chúng ta yêu thương những người thân của ta. Tình yêu con cái, tình yêu vợ chồng, tình huynh đệ, tình bạn bè… trong sáng đều được Chúa chúc lành và thánh hóa. Nhưng ở đây, Chúa muốn tình yêu chúng ta yêu Thiên Chúa phải là tình yêu lớn nhất,  tình yêu vượt qua tất cả tình yêu khác và linh hoạt tất cả. Tình yêu dành cho Chúa là yêu hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Như trong Mười Giới Răn ta vẫn đọc “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.”

Chúa Giêsu khẳng định ai muốn theo Chúa và trở thành môn đệ  thì cần yêu mến Chúa hơn bất cứ ai khác, hơn cha mẹ, anh em, vợ chồng. Vì “Ai yêu cha, yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy.“(Mt 10,37) Khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trái tim chúng ta sẽ rộng mở và rồi ta có thể yêu cha mẹ, anh em với một tình yêu phổ quát, không điều kiện, không biên giới, vô vị lợi chứ không phải chỉ là một tình cảm cỏn con ích kỷ và hẹp hòi!

Vì thế, để theo Chúa Giêsu, chúng ta cần yêu mến Chúa trên hết mọi sự và chọn một mình Chúa là Chủ, là Chúa của đời ta. Thách đố cho chúng ta, nhất là những bạn trẻ Kitô hữu, chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao danh vọng, tiền tài… người ta đam mê những cầu thủ bóng đá, những minh tinh màn bạc hay ngôi sao ca nhạc…và xem họ là thần tượng đời mình! Vậy khi được hỏi: Bạn hâm mộ ai nhất? Yêu thích ai nhất? Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy mạnh dạn và thực lòng trả lời : Đó là Chúa Giêsu- Thần tượng của tôi, Đấng tôi hâm mộ, yêu mến nhất. Xin Chúa Thánh Thần trợ giúp và đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng ta, để dẫu cho cuộc sống đầy dẫy những cám dỗ, khó khăn ngăn cản, ta vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu và có thể vác thập giá đời mình theo Người.

– “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.”- Theo Chúa Giêsu, đòi ta trả một giá đắt; cần phải đầu tư không tiếc công sức và tâm trí; cần phải dấn thân trọn vẹn “Vác Thập giá mình“. Trong thời đại chúng ta, không còn thấy những cảnh vác thập giá trên đường, nhưng những thính giả của Chúa và những độc giả của thánh Luca thì đã chứng kiến tất cả cảnh những người bị kết án tử phải vác thập giá đến tận nơi người ta đóng đinh mình. Và Chúa Giêsu không quên điều đó vì Người đang trên đường lên Giêrusalem, ở đó, chính Người sẽ trao tặng cho chúng ta khung cảnh đau thương với thân xác tan nát vì roi đòn và thập giá trên vai vác đến tận nơi hành hình Người. Đó là con đường thập giá, con đường của dấn thân và tự hiến, con đường đánh bại tội lỗi, sự dữ và cái chết, con đường dẫn đến vinh quang Phục Sinh vinh hiển của Chúa.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, những người Kitô hữu “Vác thập giá mình đi theo Chúa” với lòng trung tín đến cùng trong mọi hoàn cảnh diễn ra trong cuộc sống đời thường. Những đau khổ, khó khăn của cuộc sống Kitô hữu không làm chúng ta ngạc nhiên nữa. Không còn những chịu đựng nhăn nhó, miễn cưỡng…nhưng là nhìn ngắm và đón nhận đau khổ như một sự hiệp thông với Chúa Giêsu, như được tham dự với công trình cứu độ và như một “Bước theo Chúa“. Khi chúng ta biết đón nhận những đau khổ, bệnh tật, yếu đuối của bản thân, vất vả lao động, lo toan cho gia đình, …..với lòng quảng đại và tin tưởng, ta sẽ được tràn đầy bình an, hy vọng, vượt thắng được những sợ hãi, những bất công và chia rẽ trong cuộc đời.

Vác thập giá mình theo Chúa là chúng ta đi trên con đường riêng của Chúa Giêsu, con đường mang đến cho nhân loại ơn cứu độ. Khi đối mặt với gian nguy, đau khổ, sự dữ… đáp trả duy nhất của Kitô hữu là hy sinh hiến thân, là trao ban cả cuộc sống riêng, là yêu thương phục vụ. Chúng ta đừng trốn tránh hay quên đi thập giá đời mình nhưng hãy can đảm vác và bước đi trong vui tươi, hạnh phúc. Ta chọn theo Chúa, đón nhận những đau đớn như thập giá trên vai nhưng ta không khổ sở, vì chính thập giá là trường đào luyện ta trở thành môn đệ của Chúa. Chính Chúa Giêsu đã bước đi trên con đường thập giá và ai biết từ bỏ tất cả để đi theo Người, sẽ được tiến vào sự sống vinh quang. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu, Đấng đi trước và chúng ta theo sau Chúa.

– “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”- Từ bỏ là khởi đầu cho một chọn lựa. Chọn lựa ấy đòi chúng ta suy tính và phải bền chí như hai việc Chúa đưa ra là xây dựng và chiến đấu. Theo Chúa, cần có sự suy nghĩ chín chắn. Phải “Ngồi xuống” để tính xem ta cần làm gì, chuẩn bị gì và phải từ bỏ những gì. Chúa muốn chúng ta là suy nghĩ để biết từ bỏ những gì không phù hợp với lối sống của người theo Chúa, chứ không phải tính toán thiệt hơn theo kiểu thế gian. Như thánh Phêrô, nhiều lúc ta cũng so đo với Chúa “Thầy coi, …chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27) Nhưng ta tin chắc vào phần thưởng mà Chúa Cha nhân lành sẽ ban cho chúng ta là sự sống đời đời làm gia nghiệp và được là con cái của Thiên Chúa tình yêu. Ước gì ta có thể xác tín như thánh Phaolô “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu-Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô.”( Pl 3,8)

Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta, chính Người đã thực hiện, đã sống và nêu gương cho ta. Chúa đã từ bỏ tất cả vinh quang và địa vị là Thiên Chúa để nhập thể, sống như con người. Chúa đã yêu thương nhân loại đến cùng, đã vác thập giá trong suốt hành trình làm người, đã xuống tận cùng nỗi khổ đau của con người và đã chết trên thập giá để cứu chúng ta. Tất cả chúng ta  được mời gọi cách cá nhân trở thành môn đệ của Chúa và bước đi theo Người. Điều kiện để trở thành môn đệ của Chúa là “Yêu mến Người trên hết mọi sự, vác thập giá mình và từ bỏ hết những gì mình có“, không dễ thực hiện chút nào! Thế nhưng Chúa không đòi chúng ta thành công, mà Người chỉ mong ta cố gắng. Vậy chúng ta hãy đặt trọn niềm tin vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần để rồi từng ngày, chúng ta có thể trở thành những Kitô hữu trung thành và những môn đệ tốt lành của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từ bỏ tất cả để nhập thể, nhập thế; đã vác thánh giá, Tử Nạn và Phục Sinh để cứu độ chúng con. Xin nâng đỡ và giúp sức cho chúng con dám từ bỏ những danh lợi thú thế gian mà can đảm vác thập giá bước theo Chúa. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.   Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, có các môn đệ và đám đông dân chúng theo Người.  Các môn đệ và đám đông dân chúng dự đoán khi Chúa Giê-su tới Giê-ru-sa-lem thì sẽ có những thay đổi lớn lao ảnh hưởng đến đời sống, xã hội và quốc gia của họ.  Họ mong muốn Chúa sẽ giải phóng họ khỏi cảnh bị áp bức, lầm than và khổ cực.  Sau 6 trăm năm bị đô hộ bởi vua ngoại bang, đất nước sẽ trở về trong bàn tay của họ và họ sẽ có một chính thể do họ bầu ra. Và dĩ nhiên họ sẽ tôn vinh Chúa Giê-su lên làm vua của họ, và quyền năng của Người sẽ biến đời sống của họ trở nên tốt đẹp, no ấm và sung sướng.

Thế nhưng Chúa Giê-su, chỉ mình Người, biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra cho Người, vì vậy, như Chúa vẫn luôn nói sự thật, tuyên bố: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.”  Qua câu tuyên bố này, chúng ta nhận thấy có lẽ Chúa không phải là một nhà chính trị khôn khéo hay manh lới như ông Trump hay bà Clinton hiện đang tranh cử tổng thống Hoa kỳ. Chúng ta thấy Chúa còn cho dân chúng biết: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta.”   “Bỏ” là một danh từ to lớn và mạnh mẽ đòi hỏi thật nhiều. Trong Tân ước nhất là trong các sách Tin mừng, yêu thương tha nhân đặc biệt là những người chúng ta cần đáp trả lại nhất, là một điều tối quan trọng.  Vì vậy, chúng ta tự hỏi  “Có phải Chúa Giê-su dùng danh từ ‘bỏ’ to lớn và mạnh mẽ này để nhấn mạnh và bắt chúng ta phải chú ý đến điều mà Người đòi hỏi chúng ta không?”  

Ông bà anh chị em thân mến. Sự đòi hỏi dứt khoát từ bỏ mà Chúa dạy chúng ta hôm nay làm cho tôi nghĩ đến bài Tin mừng Thứ Sáu vừa qua khi Chúa dùng hình ảnh chiếc áo mới và rượu mới để dạy các môn đệ và dân chúng muốn đi theo Người lên Giê-ru-sa-lem.  Chúa tuyên bố với dân chúng không nên lấy áo cũ mà vá vào áo mới, không nên đổ rượu mới vào bầu da cũ.  Tôi nghĩ rằng cùng với bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta một bài học và bài học thật rõ ràng, đó là muốn theo Chúa và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời phải dứt khoát, không nên có thái độ “nước đôi” hay “bắt cá hai tay.”  Có nghĩa là phải có đời sống dứt khoát tận căn, phải quyết định hay có một sự chọn lựa rõ ràng. Chúng ta thấy bài học này được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần khi nêu ra những điều kiện để tin theo Người và vào Nước Trời: “Hãy bán tất cả, bố thí cho người nghèo rồi đến theo Ta”, hay “Ai cầm cày mà còn ngó lại sau, thì không xứng với Nước Thiên Chúa”,  hay “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta.”

Chúng ta biết chắc chắn Chúa không coi nhẹ những liên hệ gia đình. Từ bỏ ở đây hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Người theo Chúa cần có tinh thần dứt khoát từ bỏ để vững tâm chọn và đi theo Chúa, biết tôn kính, thờ phượng Chúa trên hết mọi sự và quan trọng hơn cả mạng sống mình, những người thân thuộc hay vật chất. Họ giống như người “tìm được viên ngọc quí, tìm được kho báu chôn trong ruộng, liền trở về bán tất cả để mua viên ngọc, mua thửa ruộng ấy.” Chúa đòi buộc người theo Chúa phải dứt khoát từ bỏ người thân thuộc, vật chất và những thói hư tật xấu của mình, để yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Chúa Giê-su biết đó là một chọn lựa và quyết định khó khăn và to lớn nên Chúa Giêsu căn dặn chúng ta cần sự khôn ngoan, biết đến với Chúa để biết thánh ý Người, cũng như để Người ban ơn thêm sức đối phó với những khó khăn, sự cám dỗ và thiệt thòi.

Có bao giờ chúng ta tự hỏi “Tại sao muốn trở thành môn đệ Chúa thì phải dứt khoát từ bỏ và vác thập giá không?” Thưa, vì muốn làm môn đệ hay Ki-tô hữu chính thực của Chúa thì giống như đi leo núi, và thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích, để dò đường và để chống đỡ, đỡ mỏi chân và đi nổi, nếu không có khi té ngã hay bỏ cuộc. Chúng ta phải dứt khoát từ bỏ những thứ bận vướng là để mình có thể thong dong và nhẹ nhàng hơn mà vác thập giá. Chúng ta thường quên mất 2 việc rất quan trọng để thực sự xứng đáng làm môn đệ, Ki-tô hữu đích thực của Chúa.  Xưa nay chúng ta quen tìm kiếm để được thêm chứ ít khi nào chủ động từ bỏ. Thỉnh thoảng có từ bỏ chỉ là vì miễn cưỡng, vì ráng chịu vậy mà thôi. Thí dụ khi chúng ta bị mất tiền, mất đồ đạc, khi một người thân chết.  Cũng thế xưa nay chúng ta không chủ động vác thập giá. Thập giá nào Chúa gởi thì chúng ta rang sức mà vác vậy thôi. Người môn đệ, Ki-tô hữu thật của Chúa phải chủ động từ bỏ và chủ động vác thập giá.  Người tin theo chưa hẳn là người môn đệ. Cũng như người nói “Lạy Chúa lạy Chúa” chưa hẳn là người làm theo ý Chúa. Cũng như người đến nhà thờ chưa hẳn là người tín hữu.  Cũng như người mang danh Kitô hữu chưa hẳn là người Kitô hữu thật.  Điều khiến người nói thành người làm, người đến nhà thờ thành người tín hữu, người tin theo thành người môn đệ, người mang danh Kitô hữu thành người Kitô hữu đích thực, đó là từ bỏ và vác thập giá.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta nhận biết “bắt cá hai tay” hay “đi hàng hai”, cũng như từ bỏ và vác thập giá là cơn cám dỗ triền miên trong cuộc sống Ki-tô hữu tin theo Chúa của chúng ta.  Muốn làm môn đệ hay Kitô hữu, nhưng lại không sống hay đeo đuổi những gì nghịch với Tin Mừng, tin Chúa nhưng lại không muốn đi theo con đường hay giáo huấn sống của Người, muốn là thành phần của Giáo Hội hay giáo dân của giáo xứ, nhưng lại chống báng Giáo Hội hay không tham gia, không hiệp nhất hay hy sinh đóng góp cho giáo xứ.  “Đi hàng hai hay bắt cá hai tay” hay không từ bỏ và từ chối vác thập giá để được cả đạo lẫn đời như thế cũng chỉ là đánh mất bản thân và hạnh phúc Nước Trời mà thôi. Chúa ban cho chúng ta tự do để chọn lựa và quyết định, nhưng tất cả chúng ta cũng sẽ phải đứng trước mặt và trả lời với Chúa thái độ và cách sống của chúng ta ngày hôm nay như thế nào, và Chúa sẽ căn cứ vào đó mà phân xử thưởng hay phạt.  Xin Chúa nâng đở và củng cố đức tin của chúng ta để chúng ta sống lời Chúa dạy, trở thành những môn đệ, Ki-tô hữu đích thực luôn trung thành trở thành chứng nhân cho Chúa và làm sáng danh Người.

Về mục lục

.