CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Gr. 20, 7-9; Rm. 12, 1-2; Mt. 16, 21-27
——-
-
Mọi Sự Tốt Lành Đều Bởi Chúa(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
- Anh Cản Lối Thầy (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
- Thập giá và người môn đệ (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
-
Đau khổ và phải chết (Jorathe Nắng Tím)
-
Con đường nào Chúa đã đi (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Đừng cản lối Thầy (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Đi theo một người (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Con đường theo Thầy (Maria Phạm Anh, MTG.Thủ Đức)
-
Người phải chịu nhiều đau khổ (Maria Nguyễn Huệ, MTG.Thủ Đức)
-
Theo là chấp nhận từ bỏ (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
-
Theo Chúa phải từ bỏ mình vác thập giá (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Theo Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Cộng đoàn các Tông đồ (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Thuốc đắng (Trầm Thiên Thu)
-
Theo đường Chúa đi (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
.
1. Vấp ngã vì Thập giá (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Mất trước được sau (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. “Đời người – Rừng cây” (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Theo Chúa phải từ bỏ mình và vác Thập giá (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Khi theo Chúa (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
6. Xin Thiên Chúa thương (Hoa Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
7. Khóa Nước trời (Lm. Trần Việt Hùng)
8. Mất để được (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Satan là ai? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
10. Thập giá, con đường theo Chúa Giêsu (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
11. Suy niệm Chúa Nhật XXII Thường niên_A (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
12. Từ bỏ mình để được tự do thi hành sứ vụ (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
13. Vấn đề giáo dục (Trầm Thiên Thu)
14. Cùng Thầy đi Giêrusalem (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
15. Tư tưởng của Thiên Chúa (P.Trần Đình Phan Tiến)
16. Thập giá: con đường chúng ta đi (Lm Giuse Nguyễn văn Nghĩa)
17. Đầu tư cho cuộc sống mai sau (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
18. Thánh giá – Nỗi đau và an ủi (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
19. Chết hay sống (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
20. Con đường của Thầy trò Giêsu (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
21. Tư tưởng loài người (JM. Lam Thy, ĐVD)
22. Suy niệm Chúa Nhật XXII Thường niên. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
23. Trút bỏ (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
24. Hoán cải thành công (Lm. Giuse Nguyễn)
25. Theo Chúa thì phải vác thánh giá (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
26. Theo Chúa là chấp nhận bị loại trừ (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
27. Thập giá: con đường chúng ta đi (Lm Giuse Nguyễn văn Nghĩa)
28. Chúa Nhật 22 Thường niên_A (Lm. Antôn)
Thiên San, MTG. Thủ Đức
Sự thường khi nghe tin ai đó, đặc biệt là những người thân gần với chúng ta sắp làm chuyện không nên làm, biết họ đang nghĩ quẩn, thiếu sáng suốt, chúng ta không thể làm ngơ. Cầu nguyện, cho lời khuyên, hoặc thậm chí là can ngăn luôn là cách giải quyết ngay lúc đó. Không những thế, có người còn hẹn gặp để giúp người đó giải gỡ khó khăn. Liệu tất cả những điều này có thật sự tốt cho đối phương? Trong bài Tin mừng hôm nay, sau khi nghe Thầy Giêsu loan báo về cuộc thương khó của Người, về những điều sắp xảy ra, Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22). Trước hành động và lời can ngăn của Phêrô, Đức Giêsu liền nói: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mt 16, 23).
Đọc lại Tin Mừng, chúng ta có thể thấy rõ tiến trình diễn ra sự kiện trên. Ban đầu là câu hỏi của Thầy về việc thiên hạ bảo gì về Thầy, tiếp đến là câu trả lời của các môn đệ. Đoạn này, các ông dành nhau nói. Nhưng khi được Thầy hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16, 15) thì chỉ có Phêrô, tông đồ trưởng đại diện trả lời. Trước câu trả lời hoàn toàn chính xác của Phêrô, Đức Giêsu khẳng định không phải Phêrô tự nói ra nhưng là được Chúa Cha mạc khải cho. Đức Giêsu quyết định chọn Phêrô làm nền đá xây dựng Hôi thánh của Người. Liền sau đó, Đức Giêsu mạnh dạn loan báo về cuộc thương khó của Người. Tuy nhiên, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Phêrô đã chưa thực sự hiểu đúng về căn tính của Người. Bởi đó, khi nghe Thầy loan báo về những đau khổ sẽ xảy đến cho Thầy, ông đã không thể hiểu và đón nhận, mới kéo riêng Người ra mà trách và xin Thiên Chúa đừng để chuyện ấy xảy ra. Ông không hiểu rằng, ông đang cản lối Thầy. Tư tưởng của ông vẫn còn là tư tưởng của loài người.
Thật dễ hiểu cho tông đồ Phêrô. Theo thầy bấy lâu nhưng ông vẫn mong đợi ngày Thầy mình làm vua để mình được “làm lớn”. Nếu ở trong hoàn cảnh của Phêrô, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta cũng hành động như ông. Nhìn lại, trong cuộc sống, không ít lần chúng ta đã cản lối Thầy. Theo Thầy, xin Thầy đủ điều và chúng ta vẫn luôn đặt mong đợi của mình lên trên mong đợi của Người. Thay vì hỏi Chúa muốn con làm gì, chúng ta lại thường hỏi tại sao Chúa không ban cho con điều này điều kia. Có thể, khi can ngăn Thầy đi vào con đường đau khổ, hành động của Phêrô cũng phát xuất từ trái tim yêu thương ông dành cho Thầy của mình. Khi yêu ai đó, chúng ta cũng chẳng bao giờ muốn sự chẳng lành xảy ra cho người ta yêu mến. Con đường mà Thày sẽ đi cũng là con đường tình yêu Ngài dành cho nhân loại. Con đường ấy thật khó hiểu và nếu chỉ dùng lý trí của con người để giải thích, chúng ta sẽ gặp bế tắc. Người còn dạy chúng ta bước ra khỏi lối suy nghĩ của mình để tiến xa hơn, đến gần với Thiên Chúa. “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24).
Sở dĩ Phêrô bị Thầy mắng là cản lối Thầy vì ông còn dùng cách nghĩ của mình để gán cho Thầy. Ông không muốn Thầy đi theo con đường của Thầy nhưng chỉ mong Thầy đi theo cách của ông. Có nhiều người cho rằng, hành động của Phêrô chẳng khác gì “cầm đèn chạy trước ô tô”. Đức Giêsu mời gọi Phêrô cũng như tất cả những ai muốn theo Người phải từ bỏ chính mình, vác thập giá đời mình mà theo Người. Bao lâu ta còn ôm cái tôi “cồng kềnh” của mình để đi vào con đường hẹp của Thầy thì bấy lâu ta còn gặp trở ngại. Bỏ mình là bỏ đi những làm nên cái tôi của ta, làm cho ta xa Chúa. Sự thật là bỏ những gì ngoài ta thì dễ nhưng bỏ đi cái là ta quả không dễ dàng. Có những cái theo năm tháng, cộng ơn sự quyết tâm của ta và ơn Chúa, ta có thể bỏ được. Nhưng cũng có không ít điều thật khó bỏ, với những điều này, Đức Giêsu mời gọi chúng ta nên vác lấy. Có khi, nó là thập giá theo suốt đời ta. Nếu không chịu vác, chúng ta sẽ chẳng thể theo Ngài cách trọn vẹn. Mặt khác, nếu không chịu bỏ, không chịu vác, chúng ta sẽ mãi mãi trở thành kẻ “cản đường” của Chúa. Như thế đời ta sẽ buồn biết bao.
Ai cũng có một cuộc đời để sống. Hãy học cách yêu thương, đón nhận, tha thứ. Cũng đừng quên học cách cho đi, từ bỏ và vác thập giá đời mình mà theo Chúa. Kẻ đi theo Chúa cần có đủ dũng khí, can đảm, lòng yêu mến để sẵn sàng bước đi theo Chúa trên con đường Người đã đi qua. Thiết tưởng, khi chúng ta biết học tất cả các kỹ năng nói trên, chúng ta sẽ được gọi là môn đệ Chúa, không trở nên kẻ “cản đường”.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Tuần XXII Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Mọi sự tốt lành đều do Chúa mà ra. Chúng ta phải xin cho mình thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng ta sẽ được Chúa giữ gìn và phát triển.
Mọi sự tốt lành đều bởi Chúa, vì thế, cũng chỉ một mình Chúa mới có thể gìn giữ và làm phát triển những gì tốt đẹp nơi chúng ta, phần chúng ta là hãy tin yêu, phó thác và đặt niềm trông cậy vững vàng vào Chúa, cho dẫu, chúng ta phải đối mặt với một thực tế hết sức phũ phàng: người dữ thường ức hiếp người lành; điều ác thường lấn lướt điều thiện, khiến ngôn sứ Giêrêmia đã chất vấn Chúa trong bài đọc một của giờ Kinh Sách hôm nay: Tại sao người ác cứ thịnh đạt hoài, tại sao bọn bất lương cứ bình an vô sự? Trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ cũng đã giải bày tâm sự cùng Chúa: vì Lời Đức Chúa mà ông bị sỉ nhục, và ông tự nhủ: không nhân danh Đức Chúa mà nói nữa, nhưng, Lời Đức Chúa vẫn cứ âm ĩ trong lòng khiến ông không thể nén lại được. Đây cũng chính là tâm tình của Đức Giêsu khi đối mặt với giờ của quyền lực tối tăm, Người cảm thấy tâm hồn xao xuyến và xin với Chúa Cha: Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng, cũng vì giờ này mà con đến.
Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện, chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa, nên chúng ta luôn khao khát, vươn tới những gì thiện hảo, như vịnh gia, trong Thánh Vịnh 62 của bài Đáp Ca hôm nay đã thốt lên: Lạy Thiên Chúa con thờ, linh hồn con khao khát Chúa. Chúa chính là niềm khao khát, trông mong của chúng ta, nên cũng chính Người sẽ soi lòng, mở trí cho chúng ta biết đâu là niềm hy vọng đích thực chúng ta phải hướng tới.
Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh đã cho chúng ta biết: chúng ta chỉ làm những điều xấu xa, tự sức mình chúng ta không thể làm được điều gì thiện hảo cả, nhưng, ngài cũng trấn an chúng ta: Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Người sẽ không bỏ rơi chúng ta. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cho chúng ta biết: để tỏ lòng tin yêu, phó thác, trông cậy vào Chúa, chúng ta phải hiến dâng thân mình, để Chúa đổi mới tâm trí chúng ta, hầu chúng ta biết được thánh ý Chúa: cái gì là tốt, cái gì là thiện hảo, cái gì làm đẹp lòng Chúa.
Lòng tin yêu, phó thác và trông cậy vào Chúa được cụ thể hóa trong bài Tin Mừng hôm nay qua việc: Từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Chúng ta trở nên thánh thiện, tốt lành, không phải bởi những việc làm hay những cố gắng của riêng chúng ta, nhưng là do bởi ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn đi bước trước. Ngay cả khát vọng được thanh tẩy cũng đến với chúng ta nhờ sự tuôn đổ và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta được nên thánh cách nhưng không, bởi vì, không có gì đi trước việc nên thánh, không phải đức tin cũng không phải việc làm, mà chính là do ân sủng. Ân sủng Chúa trao ban thì vượt quá năng lực của trí năng và ý chí của chúng ta.
Những gì tốt đẹp nơi chúng ta đều là do sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa. Điều này mời gọi chúng ta hân hoan sống tâm tình biết ơn về ân ban mà mình hoàn toàn bất xứng này. Ngày cuối đời, chúng ta sẽ ra trình diện trước mặt Chúa với hai bàn tay trắng, tất cả những việc làm, mà chúng ta tưởng là tốt lành, thánh thiện, thì đều bị nhiễm uế trước mắt Chúa, bởi Người là Đấng tinh tuyền, tuyệt hảo, không chút bợn nhơ.
Không chấp nhận từ bỏ chính mình, không để cho mình được thanh luyện bằng cách vác thập giá mình hằng ngày mà bước theo Chúa, chúng ta sẽ chẳng thể nào làm được điều chi tốt đẹp. Cái tôi tự mãn của chúng ta chạm đến bất cứ thứ gì, thì liền lập tức biến mọi sự trở nên cái tối, cái tội, cái tồi; không ý thức mình là con bệnh, chúng ta không thể được Chúa chữa lành; không thừa nhận mình là tội nhân, chúng ta sẽ không thể được Chúa cứu độ. Chỉ một mình Chúa mới có thể làm cho chúng ta trở nên tốt lành, thánh thiện. Chúa đã dùng con đường khiêm nhường, tự hủy để cứu độ chúng ta, vì thế, chúng ta sẽ không có con đường nào khác, ngoài con đường khiêm hạ của Chúa. Tóm lại, để những gì tốt đẹp nơi chúng ta được giữ gìn và phát triển, chúng ta phải hết lòng tin yêu, phó thác và trông cậy nơi Chúa, bởi vì, mọi sự tốt lành đều bởi do Chúa mà ra.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thập giá là một dụng cụ hành hình dành cho những người bị lên án tử trong xã hội thời cổ xưa. Trong sách Đệ nhị luật, ông Môisen đã nói rằng những ai bị lên án tử và bị treo trên cây gỗ là đồ bị chúc dữ (x. Dnl 21,22-23). Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta về án tử của Chúa Giêsu và cái chết của Người trên thập giá. Khi Chúa bị đóng đinh trên cây gỗ, một số kỳ mục Do Thái và dân thành Giêrusalem không ngớt lời nhục mạ và thách thức Người. Chúa hiền lành và im lặng như con chiên bị đem đi giết. Kể từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cây thập giá đã mang một ý nghĩa mới. Từ một dụng cụ hành hình, nó đã trở thành biểu tượng của tình yêu và hy vọng. Từ một hình ảnh gợi lên sự chết chóc ghê rợn, nó đã trở thành một hình ảnh mang lại nghị lực và niềm tin.
Trong ngôn ngữ đời thường, mỗi khi gặp gian nan đau khổ, chúng ta thường nói: “Chúa gửi thập giá đến cho tôi”. Quan niệm này xem ra không phù hợp, vì bản tính của Chúa là Đấng tốt lành và là Cha giàu lòng thương xót. Bởi lẽ chẳng có người cha nào lại tạo ra đau khổ để bắt con cái mình phải chịu. Hơn nữa, trong Phúc Âm, các tác giả nói với chúng ta, chính con người đóng cây thập giá bằng gỗ rồi đặt trên vai Chúa và bắt Chúa vác đi. Cây thập giá gỗ ấy quá nặng, nên Chúa Giêsu bị ngã ba lần. Người cũng không thể vác cây gỗ này tới nơi chịu khổ hình, và quân lính đã bắt ông Simon người thành Cyrênê vác đỡ Chúa. Như vậy, hình khổ thập giá là do con người gây nên cho Chúa, và Chúa Giêsu sẵn lòng chấp nhận vì yêu mến con người. Và thế là, trong suốt cuộc sống con người, ở đâu cũng vậy, người ta đang tiếp tục tạo ra những cây thập giá đủ loại và bắt người khác phải vác đi. Cũng có những trường hợp người ta tự tạo thánh giá cho mình, rồi lại hằn học kêu trách Chúa, lại “đổ thừa” cho Chúa và trút hết trách nhiệm cho Ngài. Một người đi xe ngoài đường thiếu cẩn trọng hoặc uống bia rượu rồi gây tai nạn làm chết người, không thể đổ cho Chúa định hoặc bảo rằng đó là Chúa “gửi thập giá”; một người cha suốt ngày cờ bạc rượu chè không quan tâm đến gia đình, làm cho vợ con lâm cảnh đói khổ, không thể chép miệng nói rằng “do Chúa định”.
Chúa Giêsu đã vác thập giá lên đồi Canvê và chịu đóng đinh trên cây thập giá đó. Con đường thập giá Chúa đã đi qua là con đường của sự nhẫn nhục, hy sinh vì tình yêu nhân loại. Con Thiên Chúa không dùng một phương tiện khác nhẹ nhàng hơn để cứu độ con người, mà lại dùng thập giá với những nhục hình đau khổ, và như thế, những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải đi trên con đường ấy, nhờ đó mà bản thân họ được tinh luyện, đồng thời họ góp phần nâng đỡ anh chị em. Chúa có thập giá của Chúa và mỗi người chúng ta có thập giá của mình. Con người không chào đời bằng nụ cười, nhưng bằng tiếng khóc, và rồi suốt cuộc đời họ là những trăn trở triền miên, những lo toan cuộc sống. Họ luôn phải đối diện với bao khó khăn trong đời. Hành trình của người môn đệ là hành trình thập giá: “Ai muốn theo Thày, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Chúa nhấn mạnh đến “thập giá mình”, có nghĩa là gánh nặng và trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta, là điều không ai tránh khỏi trong kiếp người.
Thập giá là “định mệnh” chung cho những ai muốn dấn thân phục vụ cho vinh quang của Chúa và hạnh phúc của tha nhân. Ngôn sứ Giêrêmia vì trung thành truyền đạt giáo huấn của Chúa mà bị những người đương thời ghen ghét và hành hạ vu khống. Ông đã trở nên trò cười cho thiên hạ. Có những lúc ông chán nản định bỏ công việc Chúa trao, nhưng mỗi khi ông định từ bỏ sứ vụ, thì ông lại thấy đau khổ vô cùng. Nhiệm vụ ngôn sứ như một duyên nợ với ông, rất khó khăn nhưng không dễ chối từ. Gặp nhiều đau khổ và chống đối, ông vẫn say mê Chúa. Dầu có những lúc chán nản, ông vẫn trung thành với Ngài. Ngôn sứ Giêrêmia là hình ảnh Đức Giêsu chịu đau khổ (Bài đọc I).
Tuy nhiên, trong quan niệm chung của con người, thật không dễ dàng chấp nhận thập giá. Thánh Phêrô không thể hiểu và chấp nhận thập giá. Ông đã phản ứng trước lời tiên báo của Chúa về cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu. Trước đó, ông vừa tuyên xưng Đức tin vào sứ mạng thiên sai của Chúa và lời tuyên xưng này được Chúa khen ngợi. Ấy vậy mà khi nghe Chúa nói về khổ hình, ông vội can: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy!”. Suy nghĩ của thánh Phêrô cũng là lối suy nghĩ của khá nhiều người tín hữu chúng ta. Họ chỉ thích tin và theo Chúa để được những điều may mắn. Họ chọn lựa những điều luật mà họ cho là phù hợp và không liên lụy đến quyền lợi cá nhân mình. Khi gặp phải những gian nan, họ “rửa tay” để không dính dáng đến mình. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Bài đọc II). Quả vậy, không có sự thờ phượng nào tốt đẹp cho bằng một cuộc sống thánh thiện, thể hiện qua đức mến Chúa yêu người.
Có nhiều người thời nay đề nghị không trưng bày Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá trong gia đình cũng như trong nhà thờ. Họ cho rằng hình ảnh này gợi lại sự hận thù và bạo lực. Tuy vậy, Giáo Hội trưng bày hình ảnh Đức Giêsu chịu khổ hình để giúp các tín hữu hiểu về tình thương bao là của Thiên Chúa thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu. Qua thập giá, chúng ta học được bài học của lịch sử. Hơn nữa, hình ảnh Đức Giêsu trên thập giá là lời mời gọi hãy loại trừ bạo lực và hãy tôn trọng phẩm giá của con người. Bởi lẽ thập giá và Chúa Giêsu đau khổ vẫn đang hiện diện nơi những người nghèo đói, nơi những trẻ em bất hạnh, những nạn nhân của kỳ thị và áp bức chiến tranh. Cùng chung tay xóa bớt sự nghèo đói, thất học, cùng bênh đỡ những người bị xúc phạm nhân phẩm, là vác thập giá cuộc đời để đi theo Đức Giêsu. Khi nhìn lên thập giá, mỗi chúng ta được mời gọi hãy cố gắng để đừng tạo ra thập giá cho những người đang sống xung quanh mình. Ý thức và thực hiện được những điều này, cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao!
Sau cùng, đừng quên rằng thập giá chỉ mang tính nhất thời, vì sau thập giá là sự phục sinh. Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá, nhưng Người đã sống lại vinh quang. Thập giá không tồn tại mãi mãi. Nếu biết đón nhận thập giá với tâm tình yêu mến và hy sinh của Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ được tôi luyện và nên thánh.
Jorathe Nắng Tím
Khi yêu ai, chúng ta không muốn người ấy phải lo lắng, đau khổ vì ta, nên ta thường cố giữ hết cho mình những phiền muộn, khó khăn, thất bại, đe dọa, như người cha dù biết mình mang bệnh nan y và qũy thời gian sống không còn bao lâu nhưng vẫn tỏ ra “như không có gì” để vợ con được bình an, hạnh phúc.
Đức Giêsu cũng không khác chúng ta. Ngài thương các môn đệ và biết các ông sẽ “sốc nặng”, nếu biết con đường Thương Khó Ngài sắp phải đi, và cuộc tử hình Ngài sẽ phải chịu, cũng là con đường dành riêng cho những ai muốn đi theo Ngài.
Qủa thực, cho đến biến cố Phêrô tuyên xưng đức tin của mình cũng là niềm tin của Nhóm Mười Hai: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Đức Giêsu vẫn chưa hé mở cho các ông biết: Ngài “sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Chẳng thế mà sau khi Phêrô tuyên tín: “Thầy là Đấng Kitô”, Đức Giêsu đã “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô” (Mt 16,20), bởi không người nào, kể cả các môn đệ thuộc Nhóm Mười Hai đã được chuẩn bị để sẵn sàng đón nhận sự thật rất đau lòng: Đức Giêsu là Đấng Kitô phải chịu đau khổ và phải chết, Đấng Kitô là người tôi trung đau khổ của Thiên Chúa Giavê mà ngôn sứ Isaia đã báo trước: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6), một hình ảnh hoàn toàn khác với những gì các môn đệ và đám đông mong đợi ở Đức Giêsu, Đấng Kitô ở thời điểm đó.
Điều này đã được minh chứng qua thái độ của Phêrô khi Đức Giêsu báo cho các ông lần thứ nhất cuộc thương khó Ngài sắp phải chịu: “Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Chuyện ấy tức chuyện bị bắt, bị tra tấn, bị giết chết ở Giêrusalem bởi kỳ mục, thượng tế, kinh sư; “chuyện ấy” là chuyện cực kỳ xui xẻo phải tránh, chuyện thất bại tang thương khi cơ đồ cứu thế vĩ đại và hoành tráng ưóc mơ từ bấy lâu sẽ hoàn toàn sụp đổ bẽ bàng, chuyện “tan đàn xẻ nghé” nếu Thầy bị bắt và bị giết, chuyện tiêu tan giấc mơ được ngồi bên trái bên phải trong vương quốc vinh hiển sắp đến của Thầy (x. Mt 20,20-23), chuyện “mất trắng” mọi sự mà “chẳng nên cơm cháo gì” suốt mấy năm đi theo Thầy.
Trước thái độ hốt hoảng can ngăn của Phêrô, Đức Giêsu đã quay lại bảo: “Xatan, lui lai đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).
“Lui lại đàng sau Thầy!” nghiã là anh hãy trở về đúng chỗ của anh là môn đệ Thầy, trở về vị trí của người muốn đi theo Thầy, mà không cản trở Thánh Ý Thiên Chúa là lẽ sống của Thầy, vì đó là công việc của Xatan. “Lui lại đàng sau Thầy!”, Đức Giêsu nhắc Phêrô đòi hỏi quan trọng nhất ở người môn đệ là đứng sau Thầy và đi theo Thầy trên đường Thánh Giá. Ở đây, Đức Giêsu buộc lòng phải cho Phêrô và các môn đệ biết điều các ông không muốn, nhưng lại là điều Thiên Chúa muốn, đó là cùng Ngài đi qua đau khổ, và sự chết để đến phục sinh.
Thực vậy, không chỉ Phêrô và các môn đệ thuộc Nhóm Mười Hai đã “sốc nặng” khi nghe Đức Giêsu tiên báo con đường Thương Khó phải đi qua để đến ngày sống lại, chúng ta cũng sợ hãi lắm trước những đau khổ, thử thách, và nước mắt, máu và mồ hôi cũng đẫm ướt cuộc đời chúng ta, như Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng sắp phải uống cho Ngài trong vườn Cây Dầu trước giờ bị bắt.
Vì thế, không dễ đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, khi Thánh Ý hoàn toàn trái ngược ý ta; không đơn giản lên đường Thương Khó, vì đường thương đau và khó nhọc chẳng bao giờ hấp dẫn bước chân người đời; không nhẹ nhàng trải bước trên đường Thánh Giá, vì Thánh Giá thì trái ý, ngược dòng, sần sùi, gai góc, nặng nề, khó đi, khó vác, nên nếu không để cho Thiên Chúa quyến rũ, không để Thiên Chúa mạnh hơn và chiến thắng (x. Gr 20,7), chúng ta không thể bước theo chân Ngài, không thể “vác thập giá mình mà đi theo Ngài” (Mt 10,38), cũng như nếu không để “lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt”, người môn đệ sẽ không muốn nghĩ đến Thiên Chúa, “cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa” (Gr 20,9).
Xin Chúa ban cho chúng con ơn đổi mới tâm hồn, “hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2), để “suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài… Lậy Thiên Chúa của con, Ngài là Chúa con thờ” (Tv 62,5.1)
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Không có thành công nào tự đến mà không phải đánh đổi bằng sự cố gắng, kiên trì thậm chí là những thất bại, mất mát liên tiếp rồi mới đạt được thành công.
Thành công chính là thành quả của nỗ lực và phấn đấu, nên có ai đó nói rằng: “Bạn nên nhớ gieo hạt tư tưởng, thu hoạch hành vi, gieo hạt hành vi, thu hoạch thói quen, gieo hạt thói quen, thu hoạch tính cách, gieo hạt tính cách, thu hoạch vận mệnh.
Ở đời là vậy. Gieo gì gặt ấy. Không lao động thì đừng mong hưởng thụ. Tuy có nhiều người “ngồi nhà mát ăn bát vàng” của những cán bộ tham nhũng hay những người làm ăn phi pháp. Cái họ có cũng mong manh đúng như tên gọi của cải là phù du. Có mấy quan tham cuối đời ngồi yên hưởng thụ? Có mấy cô chân dài sống mãi trong nhung lụa? Chính lúc này người ta bàn tán nhiều về đường công danh của Chung Con lên rất nhanh mà xuống cũng không phanh? Rồi rất nhiều cô chân dài bán hoa hàng dollar cũng vướng vào lao lý? . ..
Đúng như ai đó đã từng nói: “người thất bại, là người lựa chọn ở trong vùng thoải mái; còn người thành công đều bắt đầu với chuyện khó và thành công nhờ kiên trì”.
Con đường Chúa Giêsu đã đi không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang. Đó là con đường hẹp và đầy chông gai. Con đường từ bỏ hằng ngày. Từ bỏ Thiên Tính của mình để hòa nhập với khối đông của nhân loại. Từ bỏ quyền lợi của mình để phục vụ lợi ích nhân loại. Từ bỏ những tiện nghi vật chất để sống rầy đây mai đó, để thi ân giáng phúc cho tha nhân. Đó là con đường Ngài mời gọi chúng ta. Hãy từ bỏ lòng tự cao tự đại để sống hòa đồng với anh em. Hãy từ bỏ lòng tham của danh lợi thú để sống thanh khiết và công bình bác ái với tha nhân. Từ bỏ đòi hỏi hy sinh. Hy sinh bản thân để đem lại niềm vui cho tha nhân. Hy sinh thời giờ để phục vụ anh chị em chung quanh. Từ bỏ và hy sinh không làm cho ta bé nhỏ đi nhưng được lớn lên và trưởng thành hơn. Một người trưởng thành là một người biết hy sinh và nhường nhịn cho người nhỏ hơn. Một người được gọi là trưởng thành là người dám lãnh lấy trách nhiệm với gia đình và với xã hội. Giống như một đứa bé mãi mãi chỉ là đứa trẻ khi nó vẫn ích kỷ, thích giành giật của anh của em, chỉ khi nào nó biết nhường nhịn cho anh em thì lúc đó chúng ta mới nói nó đã trưởng thành.
Thế nên, sợ hãi đau khổ là sợ hãi trách nhiệm. Trốn chạy đau khổ là trốn tránh trách nhiệm. Kẻ sợ hãi trách nhiệm đó là người vô dụng, và người trốn tránh trách nhiệm chỉ là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Là người kytô hữu, Chúa mời gọi chúng ta vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà theo Chúa. Thập giá ở đây là chính bổn phận và trách nhiệm trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Người chồng và người vợ phải có bổn phận và trách nhiệm quan tâm, lo lắng và đem lại hạnh phúc cho nhau. Người cha và người mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái nên người. Con cái phải có bổn phận thảo hiếu, kính yêu và vâng lời cha mẹ, đồng thời cũng biết chia sẻ trách nhiệm với gia đình trong khả năng và sức lực của mình.
Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương bắt chước Chúa luôn can đảm đón nhận thập giá của bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân. Cho dẫu có chịu nhiều thiệt thòi mất mát khi phải chu toàn bổn phận với Chúa và tha nhân, vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì? Amen
Bông hồng nhỏ
Đã bao lần ta cảm nhận thật rõ ràng và ngày càng mãnh liệt một khát khao thánh thiện nơi tâm hồn ta: được trở thành môn đệ của Thầy Giêsu. Đó là một ước muốn tốt đẹp, vì theo Chúa thì còn gì hạnh phúc hơn. Người là Thiên Chúa của tình yêu và là con đường dẫn ta đến sự sống thật. Hôm nay, Thầy Giêsu cho ta biết: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo” (Mt 16, 24). Người chỉ rõ cho ta biết theo Chúa thì cần phải làm gì: một là phải từ bỏ mình, hai là phải vác thập giá mình mà theo. Cả hai điều ấy thật quá nghịch lý đối với bản tính tự nhiên và xu hướng thời đại có phải không? Nhưng đó là con đường mà Thầy Giêsu muốn đến với ta. Thế nhưng trớ trêu thay, đã bao lần, ta cản lối của Thầy.
Ở đời, có ai muốn phải từ bỏ điều mình yêu quý đâu; có ai muốn phải mang lấy đau khổ đâu! Theo Chúa là đi trên con đường hẹp, con đường từ bỏ chính cái tôi là cái mà mình muốn giữ lại nhất; chấp nhận vác lấy thập giá mình, thập giá đến từ những gian nan thử thách trong đời sống, những đau khổ ập đến trong đời là những điều ai cũng muốn chối bỏ. Sự thường, ai cũng thích đi trên con đường rộng rãi, thênh thang, chẳng ai muốn đi trên đường hẹp, có ai muốn mình phải vất vả mang vác cồng kềnh đâu. Ai cũng muốn cho mình được hưởng sung sướng cuộc đời. Theo Chúa quả là một nghịch lý, vì nó đòi buộc ta phải chết đi cho những gì con người thường thích gắn bó: bản tính tự nhiên và lý trí người đời (x. Bức tâm thư của Đức Cha Lambert de la Motte-Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá). Được Chúa Cha mặc khải, ông Phêrô đã tuyên xưng Thầy mình là Con Thiên Chúa hằng sống (x. Mt 16, 16). Ông được Thầy khen trước mặc anh em. Vinh dự thay! Rồi ngay khi Thầy vừa tỏ cho các ông biết con đường Thầy sẽ đi, Thầy sẽ bước vào cuộc Thương Khó như ý Chúa Cha đã định thì vì thương Thầy, không muốn Thầy phải đau khổ rồi chết, không muốn nhìn thấy một kết cục bi thảm như thế, ông đã mạnh dạn kéo riêng Thầy ra mà trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 16, 26). Ông đã thương Thầy theo kiểu người ta thường làm cho nhau: Thầy ơi, nguy hiểm lắm! Xin Thầy đừng đi vào con đường ấy. Nếu Thiên Chúa vẫn để Thầy Giêsu gặp phải tất cả những chuyện như Thầy đã báo thì không thể chấp nhận rằng là Thiên Chúa thương Thầy? Chỉ vì thương Thầy như con tim và lý trí của con người tự nhiên mách bảo, ông đã nhận ngay thái độ phản kháng mãnh liệt của Thầy. Thầy nặng lời quở trách: “Xa tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người” (Mt 16, 23). Tất cả các anh em đều nghe Thầy nặng lời trách ông. Được Thầy sửa dạy là được Thầy thương yêu. Ông đã không hành động theo sự thúc đẩy của thần khí Thiên Chúa, do đó ông trở thành kẻ cản lối Thầy thay vì là người thức tỉnh Thầy. Ông mới là người phải đi theo sự dẫn dắt của Thầy. Thầy dạy dỗ các môn đệ qua chính chọn lựa của mình, một chọn lựa vừa rất mạnh mẽ, vừa rất dứt khoát: Yêu mến Thiên Chúa là thi hành thánh ý Người.
Đã bao giờ ta cảm nhận được Thiên Chúa đang hài lòng về mình không? Chính khi ta can đảm đón nhận tất cả những gian nan, khốn khó, những trái ý trong cuộc đời với lòng nhẫn nại và khiêm tốn; biết phó thác tất cả trong bàn tay quan phòng của Chúa, chỉ muốn tìm kiếm thánh ý Chúa chứ không tìm ý mình, ta sẽ cảm nhận được tiếng Chúa thầm thĩ trong tâm hồn. Người đổ vào lòng ta nguồn suối mát của bình an ngay giữa những lúc ta đau khổ. Người sẽ ban cho ta đủ sức để vác lấy thập giá mình mà theo Chúa. Tự vấn lòng mình, ta nhận ra những lần ta cản bước Thầy. Thầy muốn bước vào cuộc đời ta ngang qua những đau khổ đang ập đến với ta, Thầy muốn chia sẻ với ta những yếu đuối của phận người nhưng khi đau khổ vừa đến, ta đã không thể đón nhận được. Có những lần vì tự ái, kiêu căng, tự phụ, ích kỷ, hẹp hỏi, ghen ghét, đố kỵ, và nhất là vì kiêu ngạo, ta từ chối đón nhận thập giá đời mình, không chịu bỏ mình để theo Chúa. Ta đang cản lối Thầy mà ta không ý thức. Đi đường, nếu bị ai đó cản lối, bạn sẽ cảm thấy như thế nào? Chẳng ai thích mình bị cản lối bao giờ. Có lẽ cũng chẳng có ai thích trở thành kẻ cản lối người khác. Có chăng, ai đó cố tình trở thành kẻ cản lối vì họ không muốn cho người mình ghét đi đến đích. Nếu đã cố tình cản lối, họ tự biến mình thành người hẹp hòi, ích kỷ. Ta đâu muốn trở thành kẻ cản lối Đấng mình yêu thương.
Lạy Chúa! Con mang thân phận làm người và cũng như bao người, con muốn có người bạn đồng hành. Đường càng gian nan càng cần có người bạn đồng hành. Xin Chúa đồng hành với con trên bước đường theo Chúa, và hãy cho con cảm nhận tình thương Chúa đang quan phòng đỡ nâng, và cũng hãy sửa dạy con, nếu con đang cản lối Chúa. Con chỉ khao khát được đẹp lòng Chúa thôi. Amen.
Anna Cỏ may
Để giúp các trò đạt tới điều mình mong muốn, thầy cô hỏi học sinh, sinh viên: “Có ai muốn học thêm môn học nào đó nữa không?” Mỗi học sinh, sinh viên tự do chọn lựa và đưa ra câu trả lời cho mình. Sự tự do chọn lựa đó chỉ diễn ra trong khoảng thời điểm nhất định, và phải lựa chọn mãi để giúp đạt đến cùng đích của cuộc đời.
Tin Mừng Mátthêu thuật lại việc Đức Giêsu mời gọi các môn đệ đi theo mình. Theo Chúa cũng có điều kiện, người môn đệ phải hoàn thành trách nhiệm của một người theo Chúa. Họ được tự do chọn theo Ngài hay từ chối. Ngài nói: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Đi theo Chúa không chỉ trong một thời gian vắn vỏi nhưng liên tục, tiệm tiến và suốt đời. Theo Chúa là phó thác, tin tưởng vào Ngài, nói những gì Ngài nói, làm những gì Ngài làm và đi những nơi Ngài đến. Ông Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (x. Mt 16,16). Sau đó, ông lại là người cản lối đi của Thầy (x Mt 16,22). Ông đi theo Thầy nhưng lại muốn Thầy thực hiện theo ý mình. Vậy từ bỏ mình là từ bỏ cái gì và vác thập giá mình là vác những gì?
Quả thực, việc từ bỏ mình không phải là chuyện dễ thực hiện, vì sự từ bỏ mà Đức Giêsu nói không chỉ dừng ở của cải, nhưng là từ bỏ những liên hệ mật thiết như gia đình (x. Lc 14,26). Ngoài ra, người theo Chúa phải từ bỏ cả những điều kiện của con người thuần túy tự nhiên với những mơ mộng, bản năng ham sống, thích địa vị, danh dự, … Có khi, họ phải từ bỏ cả những gì được xem là tốt như trí thông minh hay những ơn Chúa ban, nếu đó là điều họ nhận thấy Chúa đang mời gọi họ. Để từ đó, người môn đệ đi theo Chúa cách trọn vẹn hơn và chọn Đức Giêsu là chủ trong mọi hoạt động của người môn đệ.
Tưởng chừng từ bỏ mọi sự, người môn đệ sẽ theo Thầy cách nhẹ nhàng hơn, nhưng Đức Giêsu lại mời gọi người môn đệ hãy vác thập giá mình mà đi theo Ngài. Thập giá của mình chính là những hy sinh, những đòi hỏi nơi con người cũ, những yếu đuối, những giới hạn, những đau khổ xảy ra trong ngày sống và những ý muốn xác thịt của người môn đệ. Có thể nói, thập giá của người môn đệ luôn có mặt ở khắp mọi nơi. Không chỉ riêng những người đi theo Chúa để làm môn đệ mới phải từ bỏ và vác thập giá mình theo Chúa, ngay cả những người theo Chúa trên đường đi giữa trần gian với những nhiệm vụ thuộc gia đình, xã hội, Giáo Hội cũng phải từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Chúa. Như vậy, tất cả mọi người đều đi theo Chúa, nhưng việc từ bỏ và vác thập giá của mỗi người khác nhau trong bậc sống của mình. Vì vậy, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và cùng giúp nhau biết chọn lựa cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo trên con đường theo Chúa.
Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con đi theo Ngài trong con đường bậc sống của mình. Xin cho chúng con sẵn sàng từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con biết để Chúa xức dầu trên đầu mình thứ dầu bác ái, khắc lên mình tấm áo của lòng quả quyết theo Chúa và mang vào đôi chân tình yêu mà theo Chúa mỗi ngày. Amen.
Maria Phạm Anh
Trong con đường học vấn thời xưa, người ta thường nói: muốn học chữ phải mang “cơm nắm” đến nhà thầy, để ở chung với thầy, nhờ đó mà được học hỏi. Các môn đệ khi xưa cũng vậy, sau một thời gian theo Thầy Giêsu, hôm nay, Thầy đã tỏ cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta về con đường, kế hoạch và cách thức đạt tới vinh quang trong Nước Trời, hạnh phúc viên mãn ở Thiên Chúa. Đó là điều mà con người hằng khao khát đạt tới. Vậy con đường ấy là gì? Làm sao để có thể bước đi trên con đường ấy?
Chúng ta thấy rạo rực, bừng cháy trong lòng mỗi khi nghe bài hát: Đường thập giá, của nhạc sĩ Giang Ân: “Có một con đường mà Chúa muốn con đi, một con đường mà Chúa đã đi qua một con đường mang tên thập giá …”. Con đường mà bất cứ người tín hữu nào cũng đi qua đó là con đường mà chính Đức Giêsu đã đi: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Mt 16, 21). Cũng giống như ông Phêrô, chúng ta không muốn bước vào con đường ấy, vì, đó không phải là những điều con người muốn đón nhận. Bởi trong con người tự nhiên, ai cũng muốn phải là sự nhàn hạ, những vinh quang lợi lộc trần thế chứ! Nhưng trong con đường thập giá ấy luôn phản chiếu ánh sáng vinh quang huyền diệu, vì cuối con đường là thập giá có Đấng là Ánh Sáng đang dang tay ôm trọn cả nhân loại nằm trên đó. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, đau khổ mà chẳng có chi ngăn cản chúng ta chạy đến cùng Đấng ấy. Kinh nghiệm của tiên tri Giêrêmia: “Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có lần con tự nhủ: “ Tôi sẽ không nghĩ đến Người cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bùng trong tim” (Gr 20, 8-9). Thật vậy, chính sức mạnh và tình yêu của Chúa ở trong chúng ta đã thúc giục chúng ta tiến tới đích là chính Chúa, và bước đi theo con đường Chúa đã đi dù con đường ấy “mang tên thập giá”. Nhờ đó, chúng ta cũng sẽ đi tới đích là vinh quang Nước Trời, nơi đó Thiên Chúa đang dang tay đón chờ chúng ta.
Con đường ấy chẳng dễ đi chút nào! Và, Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta cách để bước đi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16, 24). Từ bỏ mình phải chăng là không nhìn nhận sự hiện hữu của bản thân, hay để mặc muốn ra sao cũng được? Từ bỏ mình chính là để được Chúa biến đổi: “Anh em đừng có rập khuôn theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 2). Từ bỏ mình là chúng ta không mong muốn hay đòi hỏi, hoặc toan tính thành công theo tiêu chuẩn của người đời, nhưng là muốn thực thi ý Chúa, làm đẹp lòng Người. Chẳng hạn, tôi muốn hơn người khác về: sự giàu sang, công việc có quyền điều hành người khác, chức vụ, … Nhưng những thứ ấy có mang lại cho chúng ta hạnh phúc thực sự? Chúng ta không theo đuổi bằng con đường bất chính để đạt được những thứ ấy đó là từ bỏ mình. Hay với bệnh tật đang xảy đến trong con người chúng ta, chúng ta đón nhận với tâm tình vui tươi, phó thác tất cả trong bàn tay uy quyền của Chúa, đó là sự từ bỏ mình. Chúng ta hãy mở lòng để được Chúa biến đổi. Thực ra, làm được những điều nấy quả là một cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ với chính bản thân chúng ta. Khi ấy là những lúc chúng ta cùng vác thập giá với Đức Kitô, và cùng vác với anh chị em chúng ta tiến lên đồi Canvê, để cùng tham dự vào chương trình cứu độ và được Phục Sinh với Người.
Lạy Chúa Giêsu, con khám phá ra con đường theo Chúa không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường Thập giá. Dù thế, con vẫn muốn bước theo Người, bởi chỉ nơi Người con mới tìm thấy nguồn sống và hạnh phúc đích thực. Để bước đi con đường ấy, xin Chúa dạy con bỏ mình hằng ngày để được Chúa biến đổi và được cùng vác thập giá với Chúa và với nhũng anh chị em con. Xin Chúa tiếp thêm sức mạnh cho chúng con.Amen.
Maria Nguyễn Huệ
Chúng ta đang sống trong một thế giới với nhiểu đổi mới, khoa học kỹ thuật phát triển tột bậc, có những điều tưởng như vượt sức, nhưng con người vẫn khám phá ra. Chẳng hạn, con người có thể xâm nhập vào các hành tinh trong hệ Mặt Trời, hay xuống tận đáy đại dương để trải nghiệm. Thật kỳ diệu! Tuy vậy, con người vẫn không ngừng phải đối diện với một điều mà con người vẫn luôn muốn gạt bỏ, đó là đau khổ. Vậy đau khổ có ý nghĩa gì không? Chúng ta phải làm gì với những đau khổ đang xảy ra trong cuộc sống này? Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta về những thắc mắc ấy qua bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ biết: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, rồi ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” ( Mt 16, 21). Đối diện với đau khổ là cách thế mà Chúa Giêsu đã hoàn thành để thực hiện sự mạng cứu độ nhân loại. Người không kêu trách hay trốn tránh nhưng Người thực hiện với một tình yêu dành cho Thiên Chúa và nhân loại, qua sự vâng phục Thánh ý Cha. Chúng ta cùng tìm hiểu về lời mặc khải mà Người đã tỏ lộ cho các môn đệ thân tín: “ Người phải chịu”. “ Người phải chịu” không phải là đón nhận một cách bất lực, nhưng với lòng tự nguyện. “ Người phải chịu” để Người xác tín vào sứ mạng của Người khi đến trần gian này, dù trong đau khổ nhưng Người thổ lộ cho chúng ta thấy rõ thánh ý, quyền năng và tình yêu diệu huyền của Thiên Chúa dành cho loài người. “Người là Con Thiên Chúa hằng sống” chẳng lẽ Người không có đủ quyền năng để thoát khỏi mọi đau khổ? Nhưng Người đã chịu nhiều đau khổ bởi Người tôn trọng tự do của con người, của những kẻ làm hại Người. Người đã chịu đau khổ để muốn nói với chúng ta giá trị của những đau khổ không phải là sức mạnh để hủy diệt, nhưng là cơ hội để chúng ta thể hiện tình yêu. Đó là sức mạnh đang tiềm ẩn bên trong chúng ta.
Trong chúng ta ít hay nhiều đã có những trải nghiệm về đau khổ. Có nhiều người đã vượt qua và xem đó như là sức bật cho ta tiến bước. Nhưng cũng có biết bao người vì sợ hãi và chưa dám đối diện, nên đã đi đến tuyệt vọng. Khi nhìn vào trong từng thay đổi của thế giới, trong chúng ta, ai cũng muốn mình sẽ trở nên hữu ích cho thế giới này, và điều cần làm là vượt qua những khó khăn, đau khổ. Chúa Giêsu đã chịu nhiều đau khổ để trở nên gương mẫu cho chúng ta. Điều chúng ta có thể thực hiện là đón nhận tất cả để cùng với Chúa Giêsu trở nên Hy Lễ Tình Yêu dâng lên Thiên Chúa Cha. Và, khi chúng ta chịu lấy những đau khổ là khi chúng ta chia sẻ gánh nặng cho nhau, thông cảm và hiểu cho những yếu đuối, đau khổ của tha nhân. Chịu đau khổ là cơ hội để chúng ta diễn tả tình yêu dành cho Thiên Chúa và anh chị em mình. Đồng thời, chúng ta luôn xác tín, qua đau khổ, chúng ta được thông phần vào sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu và Người luôn có cách để biến những đau khổ ấy trở nên niềm vui, hạnh phúc, như Thánh Phao lô đã xác quyết: “ tất cả đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8, 28).
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Ngài đã dùng sự đau khổ để tôi luyện tình yêu và đức tin của con. Chúa biết con yếu đuối và con rất cần sự hiện diện của Chúa nâng đỡ và cùng đồng hành với con. Con xin dâng lên Chúa thế giới. Một thế giới biết bao kỳ công tuyệt mỹ, nhưng cũng đầy dẫy sự đau khổ. Đồng thời, con xin Chúa thương xót và ban ơn giúp sức cho hết thảy những ai đang gặp đau khổ, thử thách trong cuộc sống này. Để chúng con biết đón nhận những khó khăn đó với thái độ vui tươi và hạnh phúc mà ca tụng tôn vinh Chúa luôn mãi. Amen.
Thiên San
Sau khi tông đồ Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết về cuộc Thương Khó của Người. Cũng liền sau đó, Người không ngần ngại tỏ cho các ông biết những điều kiện phải có để theo Chúa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Chúng ta đang sống trong một xã hội không ngừng phát triển, con người càng chú trọng để phát triển chất lượng cuộc sống, đặc biệt chủ nghĩa cá nhân ngày càng được đề cao. Phải chăng thông điệp mà Đức Giêsu mạc khải và mời gọi hôm nay đã quá xưa so với thời đại “4.0” của chúng ta? Trong khi mọi người tìm đủ mọi cách để khẳng định mình và hưởng thụ một cuộc sống sung túc, Đức Giêsu lại mời gọi những kẻ muốn theo Người phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Thật là một thách đố! Sống trên đời, ai chẳng muốn sống sung sướng, do vậy, họ tìm ra những phương thế để thoát nghèo, thoát khổ. Khi nhìn “đời là bể khổ”, Đức Phật đã chỉ cho các đồ đệ của mình và những ai muốn thoát khổ bằng cách diệt dục. Còn Đức Giêsu không dạy chúng ta cách thoát khổ như Đức Phật, nhưng Ngài mời gọi chúng ta đón nhận và dùng chính những điều đó như những phương thế để đạt được sự sống đời đời. Thực ra, lời mời gọi hơn hai ngàn năm của Đức Giêsu không hề lỗi thời nhưng rất thiết thực với xã hội chúng ta hôm nay.
Trong hành trình leo núi, khi muốn chinh phục một ngọn núi cao, chúng ta mang quá nhiều hành lý thì thật khó để đạt đến đích. Bởi những hành lý ta mang theo làm cho việc di chuyển thêm khó khăn, mệt mỏi. Do vậy, ta phải chấp nhận bỏ bớt những gì không cần thiết. Việc theo Chúa của người môn đệ cũng vậy, nếu ta mang theo một cái tôi quá cồng kềnh, nó làm cho ta càng khó khăn hơn khi bước vào “con đường hẹp” của Tin Mừng. Nó cũng là “đất ở của tội lỗi” trong ta. “Từ bỏ chính mình” là từ bỏ cái tôi cồng kềnh, diệt trừ “đất ở của tội lỗi”. Khi ấy, ta sẽ có được một cái tôi thanh thoát, nhẹ nhàng để có thể bước chân vào “con đường hẹp”.Trong thực tế, không phải cái gì ta cũng có thể bỏ được, có những cái đã trở thành một phần làm nên con người ta, nếu bỏ đi, nó sẽ làm ta tổn thương. Bởi thế, Đức Giêsu không đơn thuần mời gọi ta từ bỏ không không, nhưng Ngài còn mời gọi ta “vác thập giá mình” mà theo Ngài. Khi không bỏ được, ta buộc phải vác. Vác thập giá mình tức là đón nhận chính con người yếu đuối của ta.
Việc từ bỏ phải đi đôi với việc đón nhận. Khi theo Chúa, người môn đệ vừa phải chấp nhận những cắt tỉa, chấp nhận bỏ mình, bỏ ý riêng, quan điểm, tội lỗi; đồng thời, phải khiêm tốn đón nhận con người thật của mình. Sẽ rất khó cho ta trong việc từ bỏ chính mình cũng như việc vác thập giá mình nếu ta không thật sự muốn trở thành môn đệ của Chúa. Trong cuốn “Con thuộc về Chúa” do nhóm Linh thao Esperanti Việt Nam có viết: “Theo Chúa Giêsu là chấp nhận trọn vẹn con đường và phương pháp của Ngài. Cần phải chấp nhận gian khổ, cực nhọc, thấp kém, nghèo khó như một yếu tố của việc theo Ngài. Chọn Đức Giêsu là chọn luôn cả thập giá”. Hoặc như Đức cha Pierre Lambert de la Motte, Đấng sáng lập dòng Mến Thánh Giá đã đưa ra một linh đạo cho các nữ tu của ngài: “Đức Giêsu Kitô Chịu – Đóng – Đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”. Không chỉ có chúng ta mới đi theo con đường mà Đức Giêsu mời gọi, các thánh, các Đấng Sáng lập cũng đã trải qua kinh nghiệm của thập giá. Vậy chúng ta là những người sẽ tiếp tục đi theo Chúa trên con đường thập giá, vì biết rằng phần thưởng dành cho chúng ta đang ở phía trước, có qua thập giá mới đến vinh quang. Nhưng để đón nhận và vác thập giá mỗi ngày để theo Đức Giêsu chúng ta không thể không nhờ đến ơn của Ngài. Vì thế chúng phải bám vào Ngài để Ngài ban ơn cho chúng ta chu toàn thập giá đời mình trong vui tươi và hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Chịu – Đóng – Đinh, Chúa đã dùng Thánh giá mà cứu cuộc nhân loại. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, sẵn sàng và can đảm bước đi trên con đường thập giá trong cuộc đời mỗi người chúng con. Để nhờ biết đón nhận sự từ bỏ chính mình cùng vác thập giá mình theo Chúa, chúng con được cùng Chúa vui hưởng vinh phúc đời sau. Nhất là xin cho chúng con thật tâm muốn trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
THEO CHÚA PHẢI TỪ BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ
Lm Trần Bình Trọng
Ðọc báo chí hay coi tin tức truyền hình hằng ngày, người ta thấy đầy dẫy những câu chuyện tang thương, những cảnh khổ đau, buồn tủi của loài người. Mặc dầu loài người cố thoát khỏi đau khổ, đau khổ vẫn đến với loài người.
Phúc âm hôm nay, cũng như Phúc âm Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B theo thánh Marcô, và Phúc âm Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C theo thánh Luca có nội dung và lời lẽ giống nhau hầu như đồng nhất. Trong cả ba Phúc âm nhất lãm, Ðức Giêsu bầy tỏ cho thánh Phêrô và các tông đồ thấy điều nghịch lý của Kitô giáo. Chúa đến làm đảo ngược những giá trị của loài người. Phúc âm mang ý nghĩa đối nghịch với những ai muốn biến đạo Kitô giáo thành chủ nghĩa nhân bản. Kitô giáo không phải là đạo sống theo sở thích cá nhân và tìm thoả mãn tính ích kỷ. Ðể nhấn mạnh và bàn sâu rộng về mỗi ý tưởng của lời Chúa, vào Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B, ta sẽ suy niệm về ý nghĩa lời Chúa: Qua đau khổ để được tới vinh quang phục sinh (Mc 8:31). Sang Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C, ta sẽ suy niệm về lời Chúa: Ai liều mạng sống vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống mình (Lc 9:24).
Hôm nay ta cùng suy niệm về lời Ngài: Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mt 16:24). Từ bỏ chính mình, vác thập giá là điều kiện để làm môn đệ Chúa. Người ta không thể theo Chúa mà không từ bỏ. Vậy từ bỏ chính mình có nghĩa là gì? Ðứng trước những lựa chọn, người ta không thể chọn hết. Chọn vật này thì phải bỏ vật kia. Từ bỏ chính mình là từ bỏ ý riêng, từ bỏ những xu hướng cá nhân và từ bỏ cái tôi. Từ bỏ cái tôi để Chúa có thể vào nhà mình. Khi cái tôi lớn quá thì không còn chỗ cho Chúa vào. Từ bỏ mình để Chúa được tăng trưởng như thánh Gioan tiền hô đã đề xướng: Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi (Ga 3:30).
Từ bỏ mình để có thể vác thập giá. Nếu không từ bỏ thì không thể vác thập giá. Vậy vác thập giá mình có nghĩa là gì? Vác thập giá là chấp nhận những thiệt thòi, những giới hạn vì yêu mến Chúa. Có một câu hỏi mà người mang vác thánh giá thường thắc mắc là câu hỏi tại sao? Tại sao Chúa gửi thánh giá đến cho tôi và gia đình tôi? Ða số loài người, trừ trẻ nhỏ, phải mang những thánh giá của bệnh tật, đau khổ phần xác hay phần hồn, thánh giá của cảnh lo âu, sợ hãi, cô đơn, tẩy chay, thất vọng, thánh giá của cảnh gia đình đổ vỡ, chia ly, phân tán. Có những người phải mang vác thánh giá kéo dài suốt cả cuộc sống. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia cho thấy vị ngôn sứ phải rơi lệ khi thành Giêrusalem thất thủ, và dân chúng phải rơi vào cảnh lưu đầy. Mặc dầu bị dân chúng tẩy chay và chống đối vì thái độ chủ bại, vị ngôn sứ vẫn trung thành với sứ mạng..
Hôn nhân là để vợ chồng nâng đỡ nhau về đời sống vật chất và tình cảm và để tạo lập đời sống gia đình. Tuy nhiên đời sống vợ chồng cũng có thể là thánh giá cho nhau vì phải chịu đựng những tính tình khác biệt, những nết xấu của nhau, cách ăn uống khác nhau, lối ngủ nghỉ cũng có thể khác biệt. Khi cần ngủ mà một người cứ thức mở nhạc ầm ĩ, hoặc ngủ mà ngáy khò khò thì cũng là gánh nặng cho người kia. Ðời sống chung của bậc tu trì nhằm mục đích để khuyến khích nhau trong lí tưởng, nhưng cũng có thể là thánh giá cho nhau. Chuyện kể lại là khi ngồi giặt quần áo, một chị dòng bạn cứ làm bắn bọt xà bông vào quần áo chị Têrêsa. Thánh nữ Têrêsa đã biết học để chịu đựng, coi bọt xà bông như những cánh hoa hồng thiêng dâng lên Chúa vì yêu mến Chúa.
Chúa không bảo ta đi tìm đau khổ và thánh giá. Chúa chỉ bảo ta vác thập giá của mình. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều khi người ta tự chuốc lấy đau khổ thánh giá cho mình. Người ta phải mang đau khổ thánh giá vì nghiện ngập, hút sách, không biết giữ gìn sức khoẻ hay không biết kiêng cữ. Người ta phải chịu cảnh thánh giá tù đầy vì không tôn trọng luật pháp. Người ta phải chịu đau khổ thánh giá về tâm linh, về tình cảm vì tạo ra những mối tình ngang trái, tạm bợ. Và khi phải cắt đứt những mối tình tạm bợ và ngang trái, người ta sẽ bị héo hắt tâm can.
Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia cho thấy vị ngôn sứ phải rơi lệ khi thành Giêrusalem thất thủ, và dân chúng phải rơi vào cảnh lưu đầy. Mặc dầu bị dân chúng tẩy chay và chống đối vì thái độ chủ bại, vị ngôn sứ vẫn trung thành với sứ mạng.. Ðức tin vào Chúa không bảo đảm cho ta một đời sống miễn trừ khỏi đau khổ thánh giá hay khỏi những khủng hoảng và trắc trở của cuộc sống. Như vậy thì người có đức tin hay không có đức tin cũng có thể phải mang vác thánh giá. Ðiều khác biệt ở đây là: người có đức tin thì có Chúa là bạn đồng hành trên đường đau khổ thánh giá. Người có đức tin chịu đau khổ, vác thánh giá vì lòng yêu mến Chúa để chia sẻ thánh giá khổ nạn của Chúa hầu được tham dự vào cuộc phục sinh với Người. Do đó thánh Gioan Newman đặt bút viết: Thập giá Chúa Kitô khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại bằng cách bầy tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng hố sâu giữa sự sống và chết.
Lời nguyện xin cho được biết tử bỏ mình, vác thập giá:
Lạy Chúa, chúng con xin cảm tạ đội ơn Chúa
đã đến chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người.
Xin tha thứ những lần con phàn nàn kêu trách Chúa
vì những đau khổ thánh giá con phải mang vác.
Xin ban ơn nhẫn nại để con biết từ bỏ mình, vác thánh giá.
Xin Chúa là sức mạnh và là niềm an ủi
khi con phải mang vác thánh giá của cuộc sống.
Xin dạy con thánh giá là dụng cụ biến đổi ở đời này
và là dụng cụ cứu rỗi đời sau. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Câu kết bài Tin Mừng tuần trước: “Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô”, thật ngạc nhiên! Sau khi Chúa chuẩn nhận lời tuyên xưng của thánh Phêrô, Chúa lại cấm công khai điều ấy.Tại sao? Thánh Matthêu không trực tiếp trả lời, nhưng kể tiếp “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Chúa bắt đầu một “chương mới” trong việc dạy dỗ các môn đệ. Bấy lâu nay, các ông chỉ thấy Chúa rao giảng và chữa lành, được đám đông tôn kính. Nay các ông đã nhận ra “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” thì “từ lúc đó Chúa bắt đầu tỏ” cho các ông biết con đường Chúa phải trải qua để lãnh nhận tất cả uy quyền và vinh quang của “ Đức Kitô Con Thiên Chúa” trong thân phận Con Người “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Phản ứng của các môn đệ như thế nào? Vẫn ông Phêrô bộc lộ thật mãnh liệt. Có lẽ những lời về đau khổ và cái chết làm cho ông ù tai rồi nên không nghe được lời cuối cùng. “Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy” Nhưng cái cách “ông kéo riêng Người ra” để nói nhỏ khiến Chúa phải làm toáng lên để khỏi các môn đệ khác ngộ nhận: “Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: Xatan. Lui lại đang sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ông Phêrô vừa được Cha trên trời mạc khải cho biết “tư tưởng của Thiên Chúa” về mầu nhiệm “Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”, bỗng quay lại với tư tưởng của loài người và trở thành Xatan cản lối. [Cái tên Xatan trong tiếng Aram vốn có nghãi là kẻ chống đối, còn trong tiếng Hylạp “dia-bolos” là kẻ gây chia rẽ bằng cách quăng một vật gì đó vào giữa hai người đang đi với nhau để tách hai người ra. Đó là nghề của Xatan từ ban đầu và bao lâu còn có con người trên mặt đất thì nó vẫn chưa thất nghiệp: xúi giục sự chống đối để chia rẽ con người với Thiên Chúa, chia rẽ người nam với người nữ, chia rẽ anh em, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ cả trong Hội Thánh của Chúa, dù Chúa đã bảo đãm là nó không phá nổi, nó vẫn cứ vùng vẫy cho tới ngày bị “quăng vào hồ lửa và diêm sinh” (Kh 20,8; x.St 2-4) ]. Khi Xatan cám dỗ Chúa cách thô lỗ nhất là xúi Chúa bái lạy nó để được vinh hoa thế gian thì Chúa đuổi nó thẳng tay: “Xatan kia! Xéo đi” (Mt 4,10). Bây giờ ông Phêrô, môn đệ được tuyển chọn, lại muốn cản đường Chúa, khác nào tiếng vọng của Xatan, nên Chúa quay lại qưở trách ông, nhưng không đuổi đi mà chỉ đuổi ông về vị trí môn đệ: làm môn đệ thì đi đàng sau Thầy; Chúa không cần một “Tôn Ngộ Không” đi trước dẫn đường! Ông đã nhận ra Chúa là “Đức Kitô Con Thiên Chúa” thì đừng theo tư tưởng của loài người nữa. Chúa như nhắc lời sách Isaia: “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối các người không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi chừng đó” (Is 55,8-9). (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Matthêu, Lm Nguyễn Công Đoan, SJ).
Theo “tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa”, Chúa Giêsu đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài : “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá và theo Ta” (Mt 16, 24).
Thời gian ngắn trước đây Chúa Giêsu khen Phêrô và đặt Phêrô lãnh đạo Giáo Hội khi trao “Chìa khoá Nước Trời” cho Phêrô và đặt ông làm “Đá Tảng” để xây dựng Giáo Hội. Ngay sau đó, Chúa lại khiển trách Phêrô đã gây cớ ngăn cản chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phêrô với tất cả tấm lòng chân thành yêu mến không muốn điều gì xảy ra cho Thầy. Khi Chúa Giêsu tâm sự cùng các ông là Ngài sẽ vác thập giá và chịu đóng đinh, chịu chết trên thập tự, Phêrô nêu ý kiến can ngăn Chúa tránh xa thập giá. Chúa cho Phêrô biết điều ông suy nghĩ xem ra có vẻ tốt lành nhưng không phải đến từ trời cao mà đến từ trần thế. Ý kiến trần thế của Phêrô vấp phải hai lỗi lầm: Phêrô không hiểu rõ sứ mạng của Thầy là chết cho người mình yêu và Phêrô cũng không thể mường tượng ra được hy sinh là dấu chỉ của tình yêu chân chính, đích thực.
Phêrô theo Chúa là hình ảnh tuyệt đẹp. Từ khi được Chúa gọi, Phêrô đã liên tục theo Chúa. Chúa đã tỏ ra là yêu thương Phêrô cách riêng nên trong tất cả các biến cố của cuộc đời Chúa: vui, buồn, lo âu, thất vọng, Chúa đều cho Phêrô tham dự vào cách tích cực nhất. Phêrô đã tỏ ra mẫn cán trong sự thương yêu này. Có những cuộc theo Chúa rất đáng khen như trường hợp khi Chúa tuyên bố về bánh hằng sống thì có một số đông các môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, trong khi đó Chúa đã hỏi nhóm 12 là: “Còn các con, các con không bỏ thầy sao?”. Phêrô đã tỏ ra rất ngoan ngùy và can đảm thưa với Chúa: “Bỏ Thầy con biết theo ai vì chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống”. Nhưng cũng có những lần vấp ngã trong việc theo chân Chúa như trong cuộc thương khó của Chúa. Kinh Thánh trong trường hợp này đã diễn tả việc theo chân Chúa một cách rất tiêu cực của Phêrô. Chỉ với lời hỏi han về mối liên hệ với Chúa, Phêrô cũng đã chối phắt đi là không quen biết Ngài, không phải là một lần mà tới ba lần. Cả sau này nữa, khi Phêrô xác nhận được Thầy mình đã sống lại, nhưng trước những cơn bách đạo dồn dập khốc liệt, ông đã quyết định bỏ thành Rôma để ra đi, và chính Chúa phải hiện ra buộc ông trở lại để theo chân Chúa đến cùng. Như vậy, cuộc hành trình theo chân Chúa chẳng đơn giản chút nào. Rất nhiều chướng ngại và thử thách đang chờ đợi người tông đồ.
Chúa không chấp thuận theo Chúa xa xa hay theo Chúa có điều kiện. Ngài muốn chúng ta theo Ngài thì phải triệt để, trọn vẹn và dứt khoát: “đã cầm cầy không có ngoái cổ lại”;“ai không sẵn sàng từ bỏ cha mẹ, anh em, ruộng vườn… thì không xứng đáng là môn đệ ta”;“ai không đứng về phe ta là chống đối ta”; “hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Tất cả những điều này cho thấy Chúa muốn những ai theo Chúa thì quyết liệt thuộc về Chúa vì chỉ có Ngài mới có lời ban sự. Đó cũng là thái độ của các môn đệ Chúa sau này, sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Phaolô đứng trước công nghị không hề sợ hãi mà còn tuyên bố thuộc hẳn về Ngài dầu có phải chết, “chúng tôi không thể nào mà không rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh và đã sống lại”.
Con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Con đường “đánh mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết: con đường “đánh mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (x.Đức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói: “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.
Con đường Chúa đi không có tiện nghi trần thế mà chỉ có từ bỏ và thập giá. Nhưng Chúa mãi mãi là Tình Yêu. Chỉ có Chúa mới là Hạnh Phúc mà chúng ta đang mong chờ và tìm kiếm. Chúng ta vẫn có quyền chọn lựa, nhưng hãy nhớ rằng: “Bộ mặt thế gian sẽ qua đi”, và “dù được lợi cả thế gian mà mất mạng sống, thì ích gì cho chúng ta?”.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi qua là con đường tình yêu, con đường thánh giá và vâng phục tự hiến. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Amen.
Lm Vũđình Tường
Sau khi Phêrô công khai tuyên xưng ‘Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’ Mat 16, 16, Đức Kitô nói với ông: ‘Anh là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời’ c.17. Liền sau đó Đức Kitô tâm sự cùng các môn đệ là Ngài ‘Phải chịu nhiều đau khổ do các Kì mục, Thượng tế và Kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và này thứ ba sẽ sống lại’. Mat 16, 21. Các tông đồ không bao giờ nghĩ là việc tồi tệ đó có thể xảy ra với Đức Kitô, bởi các ông đã chứng kiến quyền phép Ngài thực hiện. Làm sao điều đó có thể xảy ra cho ‘Con Thiên Chúa hằng sống’? . Các ông biết rõ Ngài là Đấng Kitô, nhưng các ông không hiểu sứ mạng cứu độ của Đức Kitô.
Chúng ta thất kinh, la hoảng khi nghe bạn mình tâm sự là họ gặp nguy hiểm, xác quyết chỉ còn sống được ít ngày nữa. Trong trường hợp đó chúng ta ít nhiều cũng nói lên tâm sự riêng của mình để giúp người bạn đang lo lắng, sầu khổ. Nghe tâm sự của Đức Kitô, Phêrô cũng hành động cách chân thành như bạn thân dành cho nhau. Ông rất thận trọng khi dùng từ ngữ, tránh không để hiểu lầm là ông đưa ra lời khuyên, hay can ngăn Đức Kitô. Tế nhị hơn nữa ông mời Ngài riêng ra nơi vắng, lên tiếng nhỏ nhẹ: ‘Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy’. c.22. Đức Kitô nói với Phêrô: Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người. c.23. Phêrô không hiểu trong câu nói của mình có gì sai trái đến độ Đức Kitô thẳng thừng từ chối. Có thể ví cá dưới dại đương không thể hiểu tại sao biển nổi sóng thần. Phêrô không hiểu tại sao Thầy buồn về câu nói của mình. Câu nói không phải là lời khuyên mà chỉ là biểu tỏ tấm lòng thành lo lắng cho sự an toàn của Thầy. Cuộc tử nạn của Đức Kitô vượt ra khỏi tầm hiểu biết của các ông. Không những các ông không thể hiểu, mà toàn thể nhân loại cũng không thể lí giải được tại sao Đức Kitô chọn tự hiến thân mình như thế.
Thuốc đắng thường có bọc đường. Vì thế không phải trông thấy vỏ nó ngọt mà cho rằng ruột nó cũng ngọt như vỏ. Đức Kitô nhắc nhở Phêrô điều đó. Câu nói nghe có vẻ lợi nhiều hơn hại, có cả tinh thần cầu nguyện trong đó ‘Xin Chúa thương đừng để điều đó xảy ra với Thầy’ lại không đến từ Thiên Chúa, mà đến thuần từ loài người. Không phải cứ nhắc đến Chúa là điều đó đến từ Chúa. Cần đến với Chúa với lòng tin. Đức tin không đưa ra câu giải đáp cho mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống. Đức tin giúp ta nhận biết việc lớn, nhỏ, Chúa thực hiện đều vì con người, và cho con người. Không có đức tin sẽ chẳng nhận biết tình yêu Chúa.
Thông thường ai cũng muốn sống gần người mình yêu mến. Các tông đồ cũng ước ao được Thầy ở gần bên luôn. Điều này không thực tế. Một ngày nào đó các ông phải tự lập, phải tự tiếp tục công việc của Thầy. Đức Kitô đến trần gian để biểu lộ tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, để cứu độ nhân loại và ban cho họ sự sống trường sinh. Đức Kitô đến trần gian để tiêu diệt sự chết gây ra bởi tội bất tuân của Adong xưa. Ngài chỉ cho nhân loại biết con đường dẫn đến sự sống là vâng lời Thiên Chúa. Chính Ngài vâng lời Chúa Cha, vác thập giá bước đi, chấp nhận chết đau thương, buồn tủi trên thập tự. Chọn đi trên con đường gập gềnh, tự nguyện tiến vào cửa hẹp. Đại lộ thênh thang, thường ngắn, dẫn đến đường nhỏ hẹp; tệ hơn nữa là đường cùng, dẫn đến sự chết.
Tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu Thế chính là nói lên sứ mạng cứu thế của Ngài. Ngài chọn con đường dẫn đến đau khổ, sự chết xảy ra trước khi sống lại vinh quang. Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu sống tuân theo thánh í Chúa, từ bỏ í riêng cá nhân. Tuân theo thánh í Chúa bằng cách vui lòng vác thập giá đời mình bước đi, mọi bước đi, suy tư, hành động đều tin, theo, và dựa vào hướng dẫn của Đức Kitô. Đức Kitô không kêu gọi Kitô hữu chết thảm thiết trên thập tự như Ngài đã thực hiện. Ngài kêu gọi mỗi cá nhân vác thập giá hàng ngày bước đi. Lời kêu gọi này áp dụng cho tất cả nhân loại. Dù tin Đức Kitô hay không tin Ngài, thực tế cho thấy không ai có thể chối bỏ thập giá đời mình. Vác thập giá đời mình không phải là một chọn lựa. Điều có thể chọn là cách vác. Vác như thế nào? Kitô hữu chọn vâng phục, vác đi theo Đức Kitô. Vác trong tinh thần khiêm tốn, trong tinh thần cộng đoàn, cùng vác, cùng nhau tiến đi. Sinh hoạt chung như thế Đức Kitô sẽ hiện diện cách vô hình trong cộng đoàn Dân Chúa. Ngài kêu gọi ta sống trong yêu thương, chia sẻ, đùm bọc cho mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại. Học từ các tông đồ sống đời sống cộng đoàn, khiêm tốn, tin, theo và trung thành với Đức Kitô cho đến cuối đời.
Trầm Thiên Thu
Người ta nói: “Thuốc đắng đã tật.” Ai đã từng uống thuốc Bắc mới cảm nhận được vị đắng của thuốc, không “đơn giản” như thuốc Nam hoặc thuốc Tây. (Động từ DÃ là làm dịu hoặc làm mất tác dụng – dã thuốc, dã rượu; động từ ĐÃ là làm cho cho hết, cho khỏi – đã bệnh, đã tật.)
Thật lạ, các thực phẩm có vị đắng thường tốt hơn các loại có vị ngọt. “Thuận ngôn nghịch nhĩ,” nhưng “mật ngọt chết ruồi.” Kinh Thánh nhắn nhủ: “Mọi lời lẽ về Thiên Chúa, con hãy thích nghe, những châm ngôn ý nhị, con đừng bỏ uổng.” (Hc 6:35) Lời sửa dạy là dạng thuốc đắng nhưng đó là biệt dược, là “lời ban sự sống.” (Cn 15:31) Đó cũng là dạng phòng bệnh, tốt hơn là trị bệnh: “Học trước đã rồi hãy nói sau; để ngừa bệnh, con hãy uống thuốc.” (Hc 18:19)
Có những điều ngược mà xuôi, nghịch mà thuận. Kinh Thánh đề cập điều nghịch lý: “Có khi lâm nạn lại thành công, gặp may mà hoá thiệt thòi.” (Hc 20:9) Vì không biết vấn đề ra sao nên chúng ta gọi là “hên – xui” hoặc “may – rủi.” Chắc hẳn nhiều người đã biết câu chuyện “Tái Ông mất ngựa.” Con người khó có thể biết thế nào là hên hoặc xui, may hay rủi. Cái mà chúng ta gọi là xui thì lại là hên, cái mà chúng ta cho là tốt thì có thể lại là xấu. Chỉ có Thiên Chúa biết, vì Ngài quản lý và sắp xếp mọi sự. Ngay cả những gì chúng ta cho là tự nhiên thì cũng chẳng tự nhiên, mà là cách sắp đặt của Thiên Chúa – tức là Ngài quan phòng và tiền định. Chúa biết tức là Ý Chúa muốn điều đó xảy ra cho chúng ta – dù chúng ta cho đó là hên hoặc xui: “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi.” (Lc 12:7) Chính cái xấu xảy ra cho chúng ta lại là cái tốt, vì đúng ý mình sẽ dễ hư thân.
Chúng ta không thể nào hiểu hết Ý Chúa nhiệm mầu trong sự quan phòng và tiền định của Ngài, vì thế chúng ta chỉ có thể cúi đầu và thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.” (Tv 63:2-3) Làm vậy không phải vì chúng ta miễn cưỡng hoặc “bị triệt buộc,” mà vì khiêm nhường tin nhận Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Thánh Vịnh gia vừa lý giải vừa xác tín đại diện cho mỗi chúng ta: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.” (Tv 63:4-6) Vâng lời trong hân hoan chứ không sầu não.
Chúng ta thực sự hạnh phúc trong Chúa vì niềm vui trào dâng: “Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui. Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.” (Tv 63:8-9) Con người không bao giờ bị lỗ, mà chỉ có lời mà thôi.
Bất cứ ai, kể cả các Kitô hữu, đều có tính cách riêng – “cha sinh con, trời sinh tính,” nhưng vẫn cần phải có “tính cách chung” là sống khiêm nhường, giản dị. Không khiêm nhường sao được, bởi vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, đáng án tử, nhưng lại được Thiên Chúa thương xót nâng lên khỏi chốn bùn nhơ hôi tanh để được làm con cái của Ngài. Đúng là phép lạ lớn quá! Chúng ta đang “bị xui” mà “gặp hên” vì Thiên Chúa nhân hậu. Đó là chúng ta thực sự “gặp may.” Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12:1-2)
Chắc chắn chúng ta phải tự chấn chỉnh đời sống, tu tâm sửa tính, thay đổi tính nết để có thể hoàn thiện mỗi ngày một hơn để đáp lại lòng thương xót vô biên và vô điều kiện của Ngài, và như Ngài mong muốn: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Ai biết thay đổi tính nết không chỉ có lợi về phương diện xã hội đời thường – được người khác quý mến, dù không phải là hết mọi người, mà còn có lợi cả về phương diện tâm linh – được Thiên Chúa thương xót. Rõ ràng có lợi mà thôi.
Chúa Giêsu tuyệt đối nhân lành mà cũng không vừa lòng tất cả, người ta vẫn ghen ghét đến nỗi giết chết Ngài. Tại sao? Bởi vì Ngài có tính cách khác người, nhưng rất độc đáo: Thẳng thắn, cương trực, khiêm nhường, nhân hậu,… Ngài nói ít mà làm nhiều. Ngài rất ghét những người ba hoa, nói hay mà làm dở, ưa chỉ tay năm ngón, thích ăn trên ngồi trước, phe cánh, hình thức, tự tôn, ta đây, ngu chảnh và ngu kiêu. Nói chung là các dạng giả hình, nhiễm virus Pharisêu. (Mt 23:2-7; Mc 12:38-40; Lc 11:39-46; Lc 11:52; Lc 20:45-47) Đối với những người khoái làm to, lo chức lớn, thích có tiếng hơn có miếng, Ngài thẳng thắn khuyến cáo: “Hãy phục vụ, đừng hưởng thụ.” (Mt 20:28; Mc 10:45) Nhưng trong thực tế, người ta chỉ thích vế thứ hai, chứ không ưa vế thứ nhất. Thật là tội lỗi!
Cuộc sống luôn có những điều trái ý, luôn có những vị mà người ta không ưa: cay, đắng, chua, chát,… Một hôm, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết việc Ngài PHẢI đi Giêrusalem, PHẢI chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi BỊ giết chết, và ngày thứ ba sẽ SỐNG LẠI. Vốn dĩ ngư dân chân chất, tính nóng như Trương Phi và thẳng như ruột ngựa, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và mong ước: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16:22) Phàm phu tục tử chỉ nghĩ được đến thế thôi.
Chắc lúc đó ông Phêrô tưởng sẽ được cảm ơn, ai dè Thầy Giêsu quay lại “phang” thẳng luôn: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mt 16:23) Chu choa, Thầy kỳ ghê đi! Phêrô là “tổ trưởng” mà Thầy cũng chẳng nể rái chi cả. Chán ghê! Nhưng thẳng thắn thật thà là tính cách của Ngài, không phải cứ làm lớn thì có thể làm láo, mà ngược lại, càng lớn càng phải làm gương. Đại nhân Tuân Tử, nhà Nho kiêm nhà tư tưởng của Trung Hoa cuối thời Chiến Quốc, nói: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy.”
Có lẽ Chúa Giêsu không nguyền rủa ai nặng như lời trách dành cho Phêrô, người được Ngài chọn làm giáo hoàng tiên khởi. Phải bị vậy thì Phêrô mới không dám lên mặt, Chúa không có kiểu “phủ đầu” như chúng ta, nhờ vậy mà cẩn trọng, nhìn lại chính mình mà khiêm nhường. Chúng ta cũng có những lúc đã từng “ảo tưởng” như ông Phêrô, cứ nghĩ mình “ngon” hơn người khác về lĩnh vực này hoặc phương diện nọ, nhưng thực ra chỉ là “thùng rỗng kêu to” mà thôi, thậm chí có khi còn bị hố vì quá lố. Rõ khổ!
Nhưng ở đây, chúng ta thấy ông Phêrô có tính nết tốt: bộc trực, chân thật, nghĩ sao nói vậy, không rào trước đón sau. Ông là ngư dân chính hiệu, ít học, không giỏi giang, không nổi trội, nhưng Chúa Giêsu vẫn chọn ông làm người hướng dẫn Giáo Hội, làm “đá tảng” để xây dựng Giáo Hội, vì Ngài biết rõ tâm địa ông thẳng thắn và khiêm nhường. Vâng, Thiên Chúa cần người khiêm nhường, không cần người giỏi mà kiêu ngạo. Chính Thần Khí Thiên Chúa sẽ tác động: “Đức Khôn Ngoan mở miệng người câm, và cho lưỡi trẻ thơ nói năng dễ dàng.” (Kn 21:25) Ai khiêm nhường thì có Chúa, mà có Chúa là có tất cả. Cuộc sống chỉ cần thế là đủ.
Muốn có Chúa thì phải theo Ngài, theo Ngài thì ắt là khổ – khổ tới bến. Chúa Giêsu xác định: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16:24-26) Chắc chắn chẳng có ai ra điều kiện “ngược đời” và “chói tai” như Chúa Giêsu. Thường thì khi muốn người khác về phe với mình, người ta đưa ra những điều kiện “béo bở,” được lợi này ích nọ, chứ chẳng ai dám hứa hẹn về sự đau khổ. Các công ty muốn có nhân viên giỏi thì hứa hẹn lương bổng cao, các tổ chức muốn có nhiều thành viên thì hứa hẹn nhiều lợi lộc – cả ích lợi và bổng lộc. Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược. Vậy mà càng ngày người ta càng nghiệm ra “ẩn số” trong tính cách độc đáo của Ngài và muốn theo Ngài tới cùng. Biết sợ là điều kiện đầu tiên để có thể hoán cải và chấp nhận đau khổ.
Lúc còn sinh thời, hiền nhân Mohandas Karamchand Gandhi (1869–1948), nhà ái quốc chủ trương bất bạo động, được dân Ấn Độ coi là người cha (Bapu) và thánh sống (Mahatma), cũng đã từng thần tượng Chúa Giêsu sau khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt là Bài Giảng Trên Núi (Bát Phúc, Tám Mối Phúc). Quả thật, chỉ có người giỏi mới nhận ra tài năng độc đáo và cái giỏi của người khác. Người ta càng giỏi càng tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng tiếc rằng một tín hữu da trắng đã đuổi ông ra ngoài khi ông muốn vào nhà thờ.
Chữ Santa (Thánh nhân) dời mẫu tự N sẽ thành Satan (Quỷ sứ.) Khoảng cách để làm Thánh hoặc làm Quỷ rất mong manh, thế nên luôn phải cẩn trọng và cảnh giác kẻo sa vào mưu ma chước quỷ.
Đối với các môn đệ và những người muốn theo Ngài, Chúa Giêsu không hứa hẹn mà chỉ giải thích: “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.” (Mt 16:27) Thời cánh chung đang khép lại, muốn được cứu độ thì phải hoán cải.
Lạy Thiên Chúa công bình, xin ban ơn hoán cải cho chúng con để cuộc đời của chúng con không uổng phí. Chúng con biết rằng con đường dài nhất là con đường từ miệng tới tay, xin giúp chúng con biết hành động chứ không nói suông hoặc giả hình, và xin giúp chúng con can đảm uống liều thuốc đắng đau khổ để được chữa lành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lm. Jos. DĐH.
Hành trình đời người, ai cũng có sự tự do để vẽ, để viết, về con đường tình của mình, ai cũng được tự do để xây dựng công danh sự nghiệp. Theo thầy học nghề, bơn trải theo vòng xoay xã hội vì nhu cầu “cơm bánh” cho gia đình, vì thao thức được gặt hái niềm vui, hạnh phúc, ở phía trước. Đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam, cuộc đời đâu phải chỉ có tình ái, mà còn có người tình muôn thuở, người tình mang tên Giêsu, hằng thôi thúc. Chắc không phải chỉ có tình người hay tình đời, mà còn có tình thầy trò, thầy mời gọi đi Giêrusalem đầy nguy hiểm, có thể mất mạng, làm sao trò không hoảng sợ ? Theo thầy để tìm hưởng bộc lộc, khác với việc theo Thầy cùng chia sẻ sứ mạng được giao phó.
Do cái biết mong manh của phận người, vì sự cao siêu mờ mờ ảo ảo về Thầy Giêsu, Phêrô đại diện cho nhóm 12 đã phản ứng trước sứ mạng đau khổ thập giá của Đấng Kitô, các ông tin tưởng, hy vọng, Thiên Chúa quyền năng, sẽ đánh đông dẹp tây là sự thật. Cách cư xử của đấng bậc sinh thành, có thể bực dọc quát mắng con cháu là ngu ngốc, gay gắt hơn thì hét lên là đồ bất hiếu. Tuy nhiên, chúng ta vừa được nghe cách phản ứng khác thường của một Vị Thầy: đồ satan, hẳn đứa học trò phải hư lắm, Thầy mới nói nặng như vậy. Cha mẹ thương con thì cho roi cho vọt, tình yêu thương của Thầy Giêsu sẽ không chế tài, không giáng chức, không loại trừ, nhưng Thầy đã phải la lên, thức tỉnh Phêrô, giúp ông nhớ ông chỉ là học trò, theo Thầy là đi sau Thầy.
Mơ ước theo Thầy về dinh, các ngư phủ năm đó thầm mong theo Thầy đi trên con đường trải thảm, để làm quan làm tướng, coi như vỡ tan. Ngày hôm nay, thao thức mơ hồ như Phêrô và các độ đệ Đức Giêsu vẫn còn nặng lắm: tìm cách né tránh khổ đau, muốn vẽ đường đi cách an toàn nhất, muốn Thầy Giêsu cùng đi đường tắt, đi con đường không có thập giá. Thích Thầy không mang vác thập giá, thích Thầy Giêsu làm phép lạ, được đám đông tán thưởng tung hô, nhưng đó không phải là thánh ý Chúa Cha, mà là đường dẫn tới sự chết đời đời. Thầy Giêsu hôm đó không phải là đề nghị, mà là quả quyết: “ai muốn theo Ta, hãy tự bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Ta”. Con đường theo Chúa phải là con đường đi từ đau khổ đến vinh quang, con đường từ bỏ cái tôi ích kỷ, để được biến đổi nên giống Thầy, đáng thông phần sự sống đời đời với Thầy.
Đau khổ thập giá sẽ mãi mãi là sứ mạng chung của người môn đệ theo Chúa, dù là linh mục tu sĩ, dù là người tín hữu bình thường, tất cả những ai theo đường Chúa đi, đều được nhắc nhớ đi sau Thầy và sẽ được hiểu, được sống trọn vẹn trong tình yêu Giêsu. Theo Thầy Giêsu hôm nay, vẫn là một mệnh lệnh chung: vượt qua đau khổ, đến vinh quang. Nhưng sẽ không phải là tự đội lên đầu mình vòng gai nhọn, tự tìm cây gỗ mang hình chữ thập mà vác, hoặc đặt lên vai người anh chị em mình những khổ đau. Cùng theo Chúa, đi đằng sau Chúa lên Giêsrusalem, cùng vác thập giá theo Chúa, để mỗi người cảm nhận rõ hơn về thánh ý Chúa, tình yêu Chúa, trong hành trình ơn gọi của mình. Thầy Giêsu không hứa hẹn cất hết, hoặc xóa bỏ hết đau khổ thập giá cho các học trò, nhưng Ngài có nhắc: “..…ai chịu mất sự sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được sự sống đời đời”.
Có hai người học trò, tìm đến nhà chuyên môn để xin được thọ giáo nghề câu cá. Thầy hỏi người thứ nhất, tại sao bạn đặt tin tưởng nơi ta để xin làm học trò ? anh ta trả lời, dạ thưa: tiếng lành đồn xa. Thầy hỏi người thứ hai, có đúng anh muốn trở thành người câu cá chuyên nghiệp không ? dạ thưa, đúng. Người thầy chậm rãi nói: để câu được cá, để trở thành thợ lành nghề, ai cũng phải đầu tư công sức, thời gian, đó là quy luật. Con đường theo Chúa làm môn đệ Đức Giêsu của mỗi người dài ngắn, thập giá nặng nhẹ thì khác nhau, nhưng ai cũng phải theo một “cấu trúc” chung: tự bỏ mình, vác thập giá, và đi sau Chúa.
Nếu tiền nhân chúng ta để lại kinh nghiệm cho con cháu: con đường đi tới thành công không có dấu chân kẻ lười biếng. Hẳn lời Đức Giêsu sẽ còn mãi thiết thực cho con đường ta theo Chúa: “nếu được lời lãi cả thế gian mà mất đi phần rỗi thì nào ích chi”? Người trẻ hôm nay nói rằng: để có một sắc đẹp như ý mà không phải đi thẩm mỹ viện, câu trả lời là chỉ có trong mơ ! Để được gọi là môn đệ theo Đức Giêsu mà không phải tự bỏ mình vác thập giá, hẳn người ta chỉ đạt tới hạnh phúc trần gian là cùng. Xin Thầy Giêsu giúp chúng con luôn giữ vững lập trường vác thập giá đi sau Thầy đến cùng tận của đời mình. Amen.
ĐỂ ĐỔI LẤY HẠNH PHÚC VÔ TẬN ĐỜI SAU
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hôm ấy, dân chúng tụ tập đông đảo tại quảng trường để lắng nghe hai diễn giả lừng danh diễn thuyết.
Mở đầu chương trình, Chúa Giê-su bước lên diễn đàn và được đám đông chào đón bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt. Phần đông trong họ đã từng nghe danh Chúa Giê-su nhưng chưa từng được diện kiến.
Sau khi giới thiệu cho mọi người về Nước Thiên Chúa, về điều răn trọng nhất… Chúa Giê-su cất tiếng mời gọi: “Có ai trong các con muốn theo Thầy không?”
Vì biết rằng Chúa Giê-su là Đấng cứu độ đầy quyền năng, ai theo Ngài sẽ được nhiều hồng phúc, nên mọi người đều hớn hở vui mừng, giơ tay cao và đứng lên hô lớn: “Con, con, con xin theo…”
Thế rồi, Chúa Giê-su lại nói tiếp: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi…”
Nghe nói đến việc “từ bỏ mình”, nhiều người cụt hứng, hạ tay xuống.
Để giải thích lý do tại sao phải từ bỏ mình, Chúa Giê-su nói: “Vì ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.”
Nghe nói đến “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, mọi người hụt hẫng…
Rồi Ngài thuyết phục: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”
Lời này khiến nhiều người suy nghĩ và phân vân, nhưng vẫn còn do dự, chưa quyết.
Chương trình được tiếp nối với bài nói chuyện của Thần Tài. Vừa thấy Thần Tài xuất hiện, đám đông hò reo tưng bừng và vỗ tay cuồng nhiệt.
Sau khi đề cao sức mạnh vạn năng của đồng tiền, vinh quang của quyền lực, sự cuốn hút của lạc thú đời này… Thần Tài lên tiếng mời gọi: “Ai theo tôi sẽ được giàu có, quyền lực, hạnh phúc, lạc thú… ở đời này, chỉ ở đời này mà thôi!”
Thế là có đông người vỗ tay tán thưởng Thần Tài và hăm hở đi theo ông ta.
Còn chúng ta thì sao?
Nếu chúng ta may mắn có mặt trong cuộc diễn thuyết hôm ấy, chúng ta sẽ theo ai?
Và hôm nay, khi nghe lời mời gọi của Chúa Giê-su vọng lại qua trang Tin mừng này, chúng ta sẽ quyết định thế nào?
– Một là say mê theo đuổi danh vọng, giàu sang, lạc thú đời này bất chấp sự sống đời sau;
– Hai là liều mất mạng sống vì Chúa Giê-su để được tận hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Danh vọng, giàu sang, phú quý đời này có sức cuốn hút mạnh mẽ. Nếu không phải là người có bản lãnh cao, nếu không phải là người khôn ngoan sáng suốt, thì khó thoát khỏi sự lôi cuốn của chúng.
Nghĩ cho cùng, nếu đời sống con người chỉ vỏn vẹn 100 năm trên dương thế này mà thôi, chẳng có đời sau, thì chọn theo Thần Tài, đua tranh tìm kiếm giàu sang, lạc thú đời này là điều chính đáng.
Tuy nhiên, so với đời sau thì cuộc đời này chỉ kéo dài trong gang tấc, còn cuộc sống đời sau là thiên thu vạn đại. Vì thế, mải mê tìm kiếm hạnh phúc thoáng qua đời này mà đánh mất hạnh phúc vĩnh cửu mai sau thì thật là vô cùng đáng tiếc.
Nếu cuộc sống đời này có giá bằng một đồng tiền vàng thì giá trị cuộc sống đời sau phải tỷ lần cao hơn. Vì thế, ham muốn chiếm lấy một đồng trước mắt mà đánh mất tỷ đồng trong tương lai là sai lầm hết sức tai hại.
Như thế, lời dạy của Chúa Giê-su: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì?” là một bài học khôn ngoan cần ghi tâm khắc cốt và phải là châm ngôn, là ánh sáng soi đường dẫn lối cho mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
“Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”
Hôm xưa, Phan-xi-cô Xa-vi-e vốn là người ham mê tìm kiếm danh vọng đời này, nhờ được nghe lời dạy này của Chúa qua miệng thánh I-nha-xi-ô, nên đã từ bỏ vinh hoa phú quý, rời xa kinh thành Paris hoa lệ, vượt đại dương loan báo Tin mừng cho dân tộc Ấn-độ, Sri-lanca, Malaysia, Nhật Bản… nhờ đó, ngài đã đem ơn cứu độ cho muôn vạn người Châu Á và được toàn thể Hội thánh Chúa ca ngợi, tôn vinh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời vàng Chúa dạy, sẵn sàng hiến thân phục vụ Chúa và mọi người, chấp nhận từ bỏ danh lợi ngắn ngủi đời này để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau. Amen.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong bài huấn từ sau nghi thức ngắm đàng Thánh giá, nhân Ngày quốc tế Giới trẻ tại Balan năm 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở đầu bằng một loạt câu hỏi mà những người của thời đại chúng ta đang đặt ra: “Chúa ở đâu khi các Kitô hữu miền Trung Đông bị sát hại? Chúa ở đâu khi những người vô tội đã chết vì khủng bố? Chúa ở đâu khi những người Syria và Ly Băng phải bỏ quê hương để tìm nơi lánh nạn vì đất nước của họ chiến tranh triền miên? Chúa ở đâu khi hằng năm biết bao người chết hoặc trở nên nghèo đói do thiên tai lũ lụt?”. Sau khi đặt câu hỏi, chính Đức Thánh Cha đưa ra câu trả lời: “Chúa đang hiện diện trong chính cuộc đời những người đau khổ vừa được nêu, để nâng đỡ họ và giúp họ có nghị lực vươn lên giữa bao thử thách của cuộc đời. Bởi lẽ, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng vô tội, cũng đã vác thập giá, đã chịu đánh đòn và đã chịu chết do bàn tay tàn ác của con người.
Nếu thập giá là biểu tượng của yêu thương và tha thứ, thì thập giá cũng là cớ vấp ngã đối với nhiều người. Khi đối diện với thập giá, tức là những đau khổ, nhiều người đã phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, đã “hận” Ngài vì nghĩ rằng Ngài gây đau khổ cho họ. Nhiều người tín hữu đã chán nản, thậm chí mất đức tin, khi thấy đời mình những đau khổ truân chuyên, gian nan khốn khó. Trước Chúa Giêsu 6 thế kỷ, ngôn sứ Giêrêmia cũng đã nản chí và định bỏ cuộc, vì mỗi khi ông nói Lời Chúa thì bị phản đối và vu khống, thậm chí còn bị đe dọa giết chết. Tuy vậy, vào những lúc ông định bỏ cuộc, thì lòng ông lại nóng như lửa đốt. Ông đã trung thành với sứ mạng ngôn sứ cho đến cùng (Bài đọc I).
Thánh Mátthêu trong Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về sự yếu đuối của Phêrô. Vừa khi nghe Chúa nói đến cuộc khổ nạn, ông lập tức can ngăn Thày mình. Ông chưa sẵn sàng để hiểu biết và đón nhận việc Chúa chị đau khổ, mặc dù Chúa đã nói rõ: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vì vậy mà Chúa quở trách ông là Satan, đồng thời Chúa đuổi ông: “Hãy lui lại đàng sau”. “Lui lại đàng sau” không chỉ thể hiện vị trí hay nơi chốn trong không gian, nhưng còn nói lên sự yếu đuối và bất xứng với Thày, khi nuôi dưỡng những tư tưởng ngược lại với sứ mạng thiên sai của Thày. Cần nhắc lại là liền trước đó, Chúa đã khen ông vì lời tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và Chúa cũng vừa trao cho ông quyền ràng buộc và tháo cởi. Ấy vậy mà Chúa lại nặng lời khiển trách ông. Điều đó cũng cho thấy sự yếu đuối và đổi thay nơi mỗi con người chúng ta. Đứng trước thập giá, chúng ta dễ chán nản, ngã lòng và có nguy cơ từ chối Chúa.
Thập giá không chỉ là câu chuyện của lịch sử xa xưa. Thập giá đang đi ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta. Thập giá hiện diện nơi những gia đình ly tán, mâu thuẫn xung đột. Thập giá cũng tồn tại nơi những gương mặt của anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật, vì đói nghèo, vì bất an bất ổn. Thập giá cũng đang đi ngang qua cuộc đời của biết bao Kitô hữu bị bách hại trong những nước có chiến tranh, xung đột. Trong xã hội văn minh của chúng ta, vẫn còn đó những cuộc giết chóc dã man, những cuộc hành hình ghê rợn mà các tín hữu vô tội phải gánh chịu, chỉ vì lý do vì họ là Kitô hữu. Suy tư trong nghi thức Ngắm đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha muốn hiện tại hóa mầu nhiệm thập giá trong cuộc sống hôm nay. Ngài mời gọi những người đau khổ hãy nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc đời họ. Ngài hiện diện để cùng với họ vác thập giá bước đi. Tin vào sự hiện diện của Chúa, thập giá cuộc đời sẽ trở nên nhẹ nhàng, đau khổ sẽ trở thành niềm vui, bị quan sẽ thành niềm hy vọng. Bởi lẽ, con người không chỉ có đời này, mà còn có đời sau, đó là lúc “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.”
Kitô hữu là người tin Chúa và là người cùng với Chúa vác thập giá đời mình. Chính vì muốn chuẩn bị chúng ta khỏi vấp ngã trước thập giá, mà Chúa đã dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống vì Thày, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chúa còn đưa ra một so sánh để chúng ta thấy đời sống vĩnh cửu quan trọng như thế nào: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Thánh Inhaxiô Loyola đã trở thành một tu sĩ và người sáng lập Dòng Tên nhờ câu Kinh thánh này. Ngài đã từ bỏ mọi sự, chỉ thao thức làm cho nhiều người biết Chúa và tin Chúa.
Trong “Hạnh các Thánh tử đạo Việt Nam”, có chép về một Thánh tử đạo là Augustinô Nguyễn Văn Mới. Quan dụ dỗ: “Nếu anh bước qua thập giá thì ta cho một nén bạc”. Người anh hùng đức tin không trả lời. Quan nói tiếp: “Vậy thì một nén vàng” – “Dạ bẩm quan chưa đủ”. “Vậy anh muốn bao nhiêu?” – “Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khoá thì quan lớn phải cho tôi đủ vàng bạc để tôi mua được một Linh hồn khác! Vâng làm sao mà có đủ vàng bạc để mua được một linh hồn”. Vị Thánh của chúng ta đã thấm nhuần lời Chúa dạy: “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì có lợi gì?”. Lời ấy đã giúp ngài trung thành với Chúa đến cùng, và như lời khuyên của Thánh Phaolô, ngài đã trở nên “của lễ sống động và thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa” (Bài đọc II).
“Anh em hãy canh tân lòng trí, để hiểu biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo”. Xin cho chúng ta biết nhìn thập giá với cái nhìn mới mẻ. Một khi đón nhận thập giá với tâm tình yêu mến và cậy trông, chúng ta vừa có thể vác thập giá đời mình, đồng thời giúp anh chị em trong hành trình thập giá của họ. Amen.
.
Tgm. Jos Ngô Quang Kiệt
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.
Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.
Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.
Con đường của Chúa là con đường từ bỏ. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.
Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.
Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.
Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).
Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.
Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo thế nào?
2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?
3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Mỗi khi một mình tôi vẫn thích trải lòng mình qua bài hát “Một đời người một rừng cây” của nhạc sỹ Trần Long Ẩn. Bài hát với ca từ mang một triết lý sống giản dị nhưng rất sâu sắc. Lời ca như đang bắt chúng ta phải đối diện với chính bản thân mình. Nó chất vấn chúng ta về cuộc đời mà chúng ta đang sống.
Lời chất vấn nhẹ nhàng nhưng đi sâu vào tâm khảm con người:
“Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai
Ai cũng một thời trẻ trai, cũng từng nghĩ về đời mình
Phải đâu may nhờ rủi chịu, phải đâu trong đục cũng đành, phải không anh, phải không em?”
Câu hỏi mà tác giả đặt ra cũng chính là câu hỏi mà mỗi chúng ta phải tự hỏi hôm nay. Bởi vì chưa bao giờ, chủ nghĩa cá nhân lại lên ngôi đến nỗi bỏ mặc đồng loại để chạy theo chủ thuyết “makeno” mà tìm hưởng thụ riêng cho mình. Con người ngày nay như đang tìm mọi cách thu vén cho bản thân mình mà quên đi những lợi ích cho cộng đồng.
Nhưng chân lý vẫn thuộc về những ai sống có ích cho đời. Họ như ánh sao đêm phá tan đêm tối của ích kỷ và lòng tham. Họ không tìm sống cho riêng mình mà biết dấn thân phục vụ cho đời.
Chân lý thuộc về mọi người, không chịu sống đời nhỏ nhoi
Xin hát về bạn bè tôi, những người sống vì mọi người.
Ngày đêm canh giữ đất trời, rạng rỡ như rừng mai nở chiều xuân.
Lời ca như mỗi lúc lại cao trào hơn để dội vào lương người nghe. Nó bắt những người có lương tâm và có ý thức sống phải trả lời câu hỏi về lẽ sống. Con người phải sống như “Một đời người một rừng cây” đã sống nương tựa nhau thì phải biết dâng hiến cho nhau.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Chúa. Theo Chúa là bước đi trên con đường hẹp buộc phải từ bỏ con đường rộng thênh thang. Theo Chúa là đón nhận thánh giá bổn phận mà không chọn việc nhẹ nhàng. Theo Chúa là để lại sau lưng những danh lợi thú trần gian. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”
Chúa Giê-su đã đi con đường như thế. Khi Ngài từ bỏ cõi trời mà mặc lấy kiếp phàm nhân. Ngài từ bỏ thân phận mình để trở nên mọi sự cho con người. Ngài tiếp tục đi vào con đường hẹp để tuân theo thánh ý Chúa Cha. Vì lương thực của Ngài chính là thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã chọn vâng phục Chúa Cha và bằng lòng chết trên thập giá để cứu độ trần gian. Ngài đã không chọn vinh hoa phú quý trần gian mà chọn cho thánh ý Chúa Cha hiển trị. Thế nên, Chúa Cha đã tôn vinh Người và ban cho Người mọi danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Nhưng là người ai cũng “ham sướng sợ khổ”. Con người luôn thấy gian nan thì chuồn. Thấy vất vả thì tháo lui. Phê-rô cũng từng khuyên can Chúa trên đường hiến tế. Bởi vì ông sợ Chúa mất mạng là thiệt thòi cho ông và cho cả Chúa. Nhưng Chúa đã quở mắng ông: “Satan hãy lui ra khỏi Thầy, vì tư tưởng của con không phải là của Chúa”. Chúa còn cho các ông hiểu rằng: “được lời lãi cả thế gian chết mất linh hồn nào ích gì”. Hơn nữa, ai xả thân vì Nước Trời thì ngày Con Người đến sẽ thưởng phạt ai nấy tùy theo việc họ làm.
Xem ra cuộc sống người ky-tô hữu luôn phải đi ngược lại với trào lưu thời đại. Con người thời nay ích kỷ, thì người ky-tô hữu phải sống dấn thân. Con người ngày nay ham sướng sợ khổ thì người ky-tô phải lãnh lấy trách nhiệm như thập giá vì lòng yêu mến Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống chứng nhân tin mừng khi biết sống cho đi mà không mong đền đáp. Amen.
.
THEO CHÚA PHẢI TỪ BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm, một chứng nhân vĩ đại và là thầy dạy Đức tin có tên là Phêrô. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu. Thực sự, Phêrô không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, ông là con người bằng xương bằng thịt với những đức tính, khuyết điểm và yếu đuối như chúng ta. Có thế, ông mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng, tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Nếu như trong đoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, ông được khen là người “có phúc” (Mt 16, 16), kèm theo lời hứa : “Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời“. Thì hôm nay, ông bị khiển trách nặng nề : “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người ” (Mt 16, 22-23), lý do vì ông can gián Chúa và bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế.
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết : “Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55, 8).
Học suy nghĩ và hành động theo ý Chúa?
Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải “đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba” (Mt 16, 21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao “Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng : “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy” (Mt 16, 22). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận Thánh giá. Vì Thánh giá là biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Đúng là : “Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi” (Is 55, 9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô.
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Chúa.
Học từ bỏ
Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không bắt chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng điều “chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng là điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng … là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, phủ trên hình ảnh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta”, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác biệt yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.
Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúa đã từ bỏ chính mình trước … trở nên giống chúng ta. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.
Vác thập giá để theo Chúa
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình” là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Chúa Giêsu không muốn thập giá, Người muốn tình yêu, yêu đến tận cùng. Theo Chúa là chấp nhận thập giá của mình với lòng mến. Dưới con mắt người đời, chịu mất mạng sống là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận … chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Chúa nhật niềm vui 9/5/1975).
Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói : “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình, vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ may
Quan sát một đứa trẻ, chúng ta sẽ thấy nó luôn bắt chước mọi cử chỉ, lời nói và hành động của người lớn. Nó làm như một người lớn vậy. Có bé mới đi học thường hay khóc nhiều và luôn đi theo cô nào mà bé thích, cô đi là bé đi, cô ngồi là bé ngồi… Nhiều lần như vậy, có lúc cô giáo cũng cảm thấy phiền. Còn Chúa Giêsu hôm nay lại mời gọi chúng ta đi theo Ngài. Ngài có thấy buồn không? Chắc chắn là không, Ngài không bao giờ buồn và không bao giờ chán chúng ta. Bởi vì, Ngài yêu chúng ta mất rồi. Ngài muốn chúng ta nên một với Ngài, muốn chúng ta bước đi và sống với Ngài. Ngài cho chúng ta tự do lựa chọn và quyết định. Ngài nói “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16,24). Đây cũng là bài học theo Thầy đầu tiên của các môn đệ.
a. Ai muốn theo Thầy
Theo Chúa là một hành động được nói đến rất nhiều trong bài Tin Mừng. Có người theo Chúa vì được ơn gọi đặc biệt, có người theo Chúa vì cảm mến và theo Chúa vì nhận thấy Ngài là người có uy quyền, lòng xót thương. Như vậy, có nhiều cách theo Chúa với những mục đích khác nhau. Nên chúng ta phải nhìn lại mục đích theo Chúa của mình là gì?
Vâng, theo Chúa là chúng ta bước theo sau Ngài để Ngài dẫn đường chỉ lối cho ta. Theo Chúa là đi vào con đường cứu độ, con đường phục vụ. Theo Chúa là đi vào con đường riêng của bản thân mà Thiên Chúa đã mời gọi: như đời sống giữa trần gian hay ơn gọi dâng hiến. Theo Chúa là chấp nhận những gì Ngài bước đi. Và hơn thế nữa, theo Chúa là chúng ta cần phải từ bỏ mình.
b. Từ bỏ mình
Đối với bản thân chúng ta, người thân nhất là cha mẹ, anh chị, bạn bè. Thứ ta cần nhất có thể là tiền bạc, và thứ ta yêu nhất có thể là chính mình. Nhưng đó lại là tất cả những gì mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ. Từ bỏ dịch sát nghĩa là “ghét”. Mà ghét nghĩa là chúng ta giảm bớt tình yêu với ai hay cái gì mà mình đang thích. Mặt khác, chúng ta cũng thấy rằng Chúa không bỏ cha mẹ Ngài. Vì Ngài vẫn thường về thăm quê hương là Nadarét nơi cha mẹ Ngài sống (Mt 13,54). Và khi ở trên thánh giá, Ngài trối lại cho ông Gioan “Đây là mẹ của anh” (Ga 19,27). Ngài vẫn thương nhớ cha mẹ, nhưng vì Chúa Cha, vì sứ mệnh, Ngài không ở bên cha mẹ. Ngày hôm nay, những người đi tu vẫn có ít nhiều bổn phận đối với cha mẹ, như điều răn thứ tư dạy. Nhưng họ vẫn luôn đặt tình yêu, sứ mạng của Thiên Chúa lên hàng đầu. Vậy nên không có gì là sợ khi theo Chúa. Nói đến của cải cũng vậy, Ngài cũng không đòi hỏi việc từ bỏ của cải như một luật chung. Ngài mời gọi từ bỏ của cải chỉ có giá trị cho những con người cụ thể nào đó, hay tình huống của người đó. Như người thanh niên giàu có muốn nên hoàn thiện nhưng anh vẫn không từ bỏ được của cải. (Mt 19,21). Ngài muốn chúng ta từ bỏ bớt đi, và hạn chế hơn, nhờ đó chúng ta mới nhẹ nhàng trong tâm hồn được. Nhẹ nhàng hơn nữa là từ bỏ chính mình. Từ bỏ mộng mơ kiêu sa, sự ham vui, danh vọng địa vị và có khi những cái không xấu nếu cần cũng phải từ bỏ. Chẳng hạn, bạn là người nhiệt tình trong công việc, nhưng vì nhiệt tình mà bỏ bê việc phụng sự Chúa thì bạn cần xem xét lại. Chúng ta càng bỏ mình thì chúng ta càng dễ dàng trở nên giống Chúa. Trọn hảo hơn nữa là chúng ta hãy vác thập giá mình mà đi theo Ngài.
c. Vác thập giá mình
Theo Chúa còn có nghĩa là đi vào con đường thập giá. Chúa Giêsu có thập giá của Ngài. Chúng ta có thập giá của chúng ta.Thập giá của chúng ta là những khó khăn của cuộc sống, những lo toan của cuộc đời và những công việc bổn phận hằng ngày và ngay cả những thập giá trên bước đường thành công của chúng ta. Chính khi chấp nhận được thập giá, chúng ta sẽ thấy bình an hạnh phúc. Vác thập giá là hy sinh. Thập giá chúng ta vác không chỉ một ngày, mà là suốt cuộc đời. Có ít người nhìn vào những người đi tu, họ thấy sự hiền lành, nhân hậu vui tươi… Họ cho rằng, những người đi tu làm gì có thập giá để vác. Đó là một sai lầm, bởi thập giá luôn có mọi nơi, cắm mọi chỗ và nơi mọi người. Vì thế, chúng ta có né, có tránh cũng không được. Nếu chúng ta biết đón nhận, thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên dễ dàng, nhẹ nhàng. Còn nếu không, chúng ta sẽ thấy nó như một cực hình. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn chúng ta biết và hiểu về việc đi theo Chúa là như thế nào. Theo Chúa, chúng ta phải muốn-theo-từ-vác.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cứ ngỡ đi theo Ngài là không có gì khó khăn. Nhưng Lời Chúa đã làm cho chúng con nhận ra và hiểu rõ hơn, bước theo Chúa chúng con nên làm gì? Giờ đây, chúng con cần phải xem xét lại chính mình đã theo Chúa đến đâu. Vì thế, xin Chúa soi sáng, hướng dẫn để chúng con can đảm và tiếp tục bước đi theo Chúa luôn. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Hành trình theo Thầy mỗi ngày một khăng khít và gắn bó hơn. Đó là cảm nghiệm của các Tông đồ khi theo Thầy được hơn hai năm. Theo Thầy Giêsu, các ông được Thầy dạy dỗ và yêu thương. Từng người được Thầy chất vấn về vị trí của Thầy trong lòng họ bấy lâu nay. Phêrô được Chúa Cha mặc khải cho, nên đã trả lời quả quyết “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Niềm tin mạnh mẽ và tình yêu mãnh liệt mà các ông có một lần nữa lại được thử thách.
- Tư tưởng của Thiên Chúa
Thầy Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó lần thứ nhất. Vì là lần thứ nhất nên các ông không tránh khỏi sự bàng hoàng, sửng sốt, không chấp nhận nổi. Thầy gọi các ông làm Tông đồ không giống cách một thủ lãnh vẫn thường thâu nạp đệ tử, nghĩa là cắt máu ăn thề, nhưng chỉ là vì lòng xót thương. Điều kiện phải có để theo Thầy cũng chẳng giống ai. Một con đường rất ngược đời và chẳng mấy ai đi.
Lẽ thường, đón nhận những lời yêu thương, ngọt bùi thì lòng ta cũng tự nhiên vui lên, cảm thấy phấn khởi và hân hoan. Cũng vậy, các Tông đồ thích nghe những lời ca tụng của dân chúng, đặc biệt là lời khen ngợi mà chính Thầy dành cho. Ông Phêrô vừa được Thầy Giêsu khen là có phúc, được Chúa Cha mặc khải cho. Chắc chắn dù khiên tốn nhưng trong lòng ông vẫn rạo rực một niềm vui. Bởi ông vẫn chỉ là một con người bình thường như bao người. Thầy trò cùng rong ruổi bên nhau, tình nghĩa mặn nồng, tha thiết. Thầy biết giờ của Thầy sắp đến. Thầy lắng nghe và thực thi chương trình cứu độ Cha trao. Thầy cũng chuẩn bị trước tinh thần cho các ông. “Thầy phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Các ông tin vào sự tiên báo của Thầy, vì “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Nhưng lòng các ông cũng rất bối rối. Chẳng lẽ đó là sự thật? Nếu thế thì phải can ngăn Thầy ngay. Phêrô trong vai trò là trưởng nhóm, liền kéo Thầy ra và bắt đầu trách “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22b). Làm sao các ông có thể vô tâm đứng nhìn Thầy “đâm đầu vào chỗ chết” được. Thế nhưng, tư tưởng của các ông là tư tưởng của phàm nhân. Thầy Giêsu biết tình yêu ông dành cho mình là chân thành nhưng lương thực của Thầy là thi hành thánh ý Chúa Cha. Bởi vậy, Thầy cương quyết chỉnh ông “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23). Lòng nhiệt thành của ông lại bị Thầy “tạt” cho một gáo nước lạnh mà tỉnh ra. Nếu ta là Tông đồ Phêrô, ta sẽ cảm thấy thế nào? Bị gọi là xatan, có lẽ, ông xấu hổ và bất mãn lắm. Học trò yêu sai thì phải sửa dạy nghiêm khắc, phải chọn ý Chúa Cha trên hết. Thầy hiểu lòng người học trò hơn ai hết. Thầy lại ôn tồn nói cho các ông biết về điều kiện phải có để theo Thầy.
- Điều kiện phải có để theo Thầy
Đi xa, chúng ta sẽ chọn xa lộ, đường cao tốc và những con đường tắt để đến đích. Chọn lựa một lộ trình tốt nhất là chọn lựa của những người khôn ngoan, biết tính toán. Theo Thầy, chúng ta lại lội ngược dòng, đi trên con đường chật hẹp mà ở đó “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Người ta vẫn cổ võ, hô hào để đề cao cái tôi cá nhân. Hãy hưởng thụ đi, hãy sắm cho mình một kho tàng là địa vị, chức quyền, tiền bạc. Hãy khẳng định chỗ đứng của bản thân trong xã hội này, một xã hội mà kẻ mạnh thế luôn luôn thắng. Vậy mà giáo lý của Thầy kỳ cục quá, ai mà nghe nổi. Lúc bấy giờ, các Tông đồ cũng cau mày, nhăn nhó khi nghe Thầy dạy. Giáo lý của Thầy đòi buộc các ông phải bỏ mình, phải vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy. Kỳ cục quá bởi người ta cố gắng bao nhiêu có thể để quẳng đi gánh nặng đeo bám trên vai, vậy mà Thầy lại dạy hãy vác lấy thập giá mình. Chẳng lẽ Thầy ái khổ ư? Không phải thế. Cái khổ không phải là mục đích để đạt tới nhưng nếu ta biết dùng chính những đau khổ ấy để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn là đến với Thiên Chúa, một Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Khi ta nhận ra thân phận yếu hèn của bản thân, cái thân xác mau hư nát này, ta sẽ biết rằng mình cần Chúa tới mức nào. “Được lời lãi cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?” (Mt 16, 26). Bước theo Thầy quả là một thách đố bởi điều kiện phải có để theo Thầy dường như luôn làm khổ ta. Tôi phải thế này, tôi phải thế kia. Một tình yêu trưởng thành là một tình yêu của người hiểu được, tại sao tôi lại chọn con đường này mà không phải là con đường kia. Tại sao tôi dám đánh đổi tất cả, dám trả giá để được Nước Trời làm gia nghiệp. Tôi muốn. “Muốn theo Thầy”, đó là động lực để ta dám thí mạng sống mình vì Thầy, để đón nhận một sự sống đích thực và viên mãn trong Nước Thầy.
Chúng ta vẫn thường ca vãn “đời là bể khổ” nhưng ít ai biết dùng chính những sự khổ ở đời để chọn một con đường dẫn đến hạnh phúc. Theo Chúa không là ái khổ nhưng là đón lấy thập giá đời mình, yêu Đấng Chịu Đóng Đinh, luôn hướng tâm hồn và thân xác về Đấng đã hiến mình vì yêu ta.
Lạy Chúa! Ngày con ra trước tòa Chúa, Chúa sẽ hỏi về tình yêu con dành cho Chúa và tha nhân. Những gì con đã sống sẽ trở thành lời kết án hay là phần thưởng dành cho con. Xin Chúa cho con từng ngày biết xin điều Chúa muốn và can đảm thi hành thánh ý Chúa Cha. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Giê-ru-sa-lem cao vời,
Là Thành Vua cả, gọi mời tiến thân.
Chúa về thành Thánh nhiều lần,
Chu toàn sứ mệnh, thế nhân cứu đời.
Khổ đau hiến tế diệu vời,
Con đường cứu độ, rạng ngời vinh quang.
Chết đi sống lại huy hoàng,
Cứu nhân độ thế, phát quang rạng ngời.
Theo Thầy, từ bỏ cuộc đời,
Hy sinh mạng sống, một thời khổ đau.
Tin vào hạnh phúc mai sau,
Thế trần cuộc sống, qua mau cõi đời
Hưởng nhan thánh Chúa muôn đời,
Trường sinh bất tử, tuyệt vời biết bao.
Phê-rô thắc mắc vì sao?
Thật lòng can gián, đừng vào Thánh Đô.
Sợ lo tâm trạng hồ đồ,
Sa-tan, Chúa mắng, nông nô đừng phiền.
Sáng danh Thiên Chúa nhân hiền,
Yêu thương tha thứ, cõi thiên tìm về.
Thánh Phêrô được Chúa Giêsu khen thưởng. Chúa đã trao trách nhiệm cho ông cầm giữ, đó là chìa khóa Nước trời. Chúa tin tưởng và trao phó Giáo Hội cho Phêrô cai quản. Phêrô đã lãnh nhận trách nhiệm làm đầu có quyền cầm buộc và tháo cởi.
Phêrô đã nhận lãnh vai trò lãnh đạo, nhưng Phêrô chưa hoàn toàn hiểu được sứ mệnh Chúa muốn trao gởi. Ông đặt niềm tin nơi Chúa. Tính của ông rất bộc trực, mạnh mẽ và không quanh co trong ý nghĩ. Một mực nhiệt thành trong sứ mệnh. Chính vì thế, đã nhiều lần ông được Chúa khen và không ít lần bị Chúa mắng cho. Chúa từ từ huấn luyện, dậy dỗ và đưa ông vào con đường Chúa sẽ đi.
Con đường Chúa đi là con đường khổ đau và thập giá. Con đường của hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Vì là con người, Phêrô đã vui mừng nhận chìa khóa nước trời, nhưng lại muốn chối từ thánh giá. Ông chưa hiểu ý nghĩa của sứ mệnh.
Chúa nói với các môn đệ:”Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Thầy.” Chúa đòi hỏi điều kiện theo Chúa không dễ đâu. Chúng ta có thể theo Chúa, nhưng chúng ta khó từ bỏ mình. Từ bỏ mình làm sao được khi mà các ước vọng cứ vật vã và lôi kéo chúng ta trở về với con người yếu đuối của chúng ta. Chúng ta muốn đuợc vinh quang và được khen thưởng, nhưng chúng ta lại không muốn vác thánh giá. Thánh giá chính là chìa khóa mở của Nước trời. Vác thập giá theo Chúa luôn là một cố gắng không ngừng.
Muốn làm môn đệ của Chúa, chúng ta phải chấp nhận đau khổ, hiểu lầm, chống đối và bị chối bỏ. Theo Chúa, thánh giá kề bên mỗi ngày. Ngước nhìn lên Thánh Giá, Chúa vẫn còn ở đó treo lơ lửng trên thập giá. Chúa mời gọi chúng ta hãy từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa. Qua thập giá sẽ tới vinh quang.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.
Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.
Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.
Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.
- Lời Chúa dạy
Chúa Giêsu dạy các môn đệ : “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.
Chúa còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự nếu họ mất vì Thầy Giêsu thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.
Chúa cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải “đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo“. Theo Thầy không phải để vinh thân phì gia. Theo Thầy để tìm một lẽ sống cho cuộc đời, vì Thầy là con đường dẫn về nguồn sống là Chúa Cha. Thầy là sự thật giải thoát muôn dân. Muốn theo Thầy, không những phải “từ bỏ chính mình“, tức là “tư tưởng của loài người“, mà còn phải mang thân phận như Thầy với thập giá riêng trên vai. Thực tế, theo hay không theo Thầy, con người vẫn không thoát khỏi khổ giá. Nhưng nếu theo Thầy, môn đệ sẽ tìm được hướng giải thoát. Muốn theo Thầy “anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1).
- Theo Chúa là đi vào con đường từ bỏ.
Từ bỏ là một quy luật.
– Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.
– Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ… có thế mới phát triển dần thành người lớn.
– Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.
– Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.
Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia… mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác. (sợi chỉ đỏ).
Làm môn đệ Chúa Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải “từ bỏ mình“. Cái phần “mình” được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần “Chúa” được gia tăng bấy nhiêu. “Từ bỏ mình” hoàn toàn thì sẽ trở thành “Kitô khác” hoàn toàn.
Như thế từ bỏ nhưng không mất, mà lại được; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn.
- Theo Chúa là đi vào con đường sự sống
Theo Chúa Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.
Theo Thầy Giêsu, các môn đệ bị người đời chê là khờ dại vì sống từ bỏ và vác thập giá hàng ngày. Thế nhưng họ vui mừng sống một nghịch lý căn bản “mất mạng sống mình vì Thầy“. Con người ta cứ tưởng rằng, chiếm hữu càng nhiều thì càng làm cho mình giàu có thêm. Thực ra, chẳng có gì quí hơn mạng sống. Nhiều người đánh đổi mạng sống để có của cải vật chất. Thực tế chưa ai giàu có đến nỗi làm chủ được cả trần gian. Nhưng “nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” (Mt 16,26). Chỉ một cách duy nhất có thể tìm lại được mình là “mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 16,25). Như thế, phải chăng Thầy có sức thu hút khiến người ta không thể cưỡng lại được ? Giống như ngôn sứ Giêrêmia, họ phải thốt lên : “Lạy Ðức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20,7). Thầy có sức quyến rũ mãnh liệt, vì đã vận dụng được nghịch lý của cây thập giá để “ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” (Mt 16,21) từ cõi chết. Cả thế giới cũng không đem lại sự sống. Chỉ một mình Thầy mới có thể làm cho người môn đệ “tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25), vì Thầy là “sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Bởi thế, Thầy có sức quyến rũ hơn cả vũ trụ vì Thầy là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta sứ điệp: từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.” (Mẹ Têrêxa Calcutta).
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy!”
Đó là lần duy nhất trong đời, Đức Giê-su trực tiếp nguyền rủa một người là Xa-tan, và người đó không may lại là Phê-rô, người môn đệ ruột vừa được Người ca ngợi và tin tưởng trao phó sứ mệnh lớn là trở nên đá tảng của Hôi Thánh Người. Tại sao lại thế nhỉ?
Trong xã hội Do Thái cũng như xã hội chúng ta ngày nay, biệt danh Xa-tan luôn mang một nội dung bỉ ổi, dành để ám chỉ những con người rất xấu xa đê tiện, những con người không những phạm đủ mọi thứ tội trên đời mà còn có dã tâm lôi kéo, cám dỗ người khác phạm tội, chống lại uy quyền của Thiên Chúa. Nếu quả thật là như thế thì trong trường hợp cụ thể này, việc Đức Giê-su gán danh xưng này cho Phê-rô – người môn đệ trung kiên nhất đang nhiệt tình và chân thành can gián Thầy mình khỏi những rủi ro bất hạnh, điều này không ai trong chúng ta muốn chấp nhận, vì nó quá là bất công. Hoặc Đức Giê-su đã quá lời, hoặc chỉ là lối diễn tả đặc trưng của người Do Thái, hoặc là chúng ta phải chỉnh sửa lại quan niệm của mình về Xa-tan và tội lỗi sao cho ăn khớp với suy nghĩ của Đức Giê-su.
Điều duy nhất mà Phê-rô đã làm để bị Đức Giê-su nguyền rủa ‘Xa-tan’ chính là việc, ông đã cố ngăn cản Người thực hiện điều chứng tỏ đích thực Người là đấng Ki-tô. Trước đó khi tuyên xưng “Thầy là đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” chắc hẳn Phê-rô vẫn chỉ luẩn quẩn trong cái quan niệm phổ biến mà nhiều người Do Thái thời đó, do bối cảnh chính trị xã hội, đã có về đấng Ki-tô; ngài phải là một người đầy quyền uy được Thiên Chúa sức dầu tấn phong để giải phóng và lãnh đạo dân riêng được tuyển chọn; do đó Đấng này phải là một vị thống lãnh oai hùng và hiển hách. Chính để chống lại khái niệm ‘Ki-tô’ như thế, mà Đức Giê-su đã nhiều lần phải lên tiếng ‘cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là đấng Ki-tô’. Và cũng kể từ đó, một trong các nội dung quan trọng nhất của việc huấn luyện các môn đệ chính là: làm sao thay đổi được quan niệm họ vốn có về đấng Ki-tô. Không dưới ba lần các Phúc Âm đã ghi nhận điều này; Người giới thiệu cho các ông về một đấng Ki-tô ‘phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết…’ Bất cứ động thái nào đi ngược lại việc chấp nhận diện mạo đấng Ki-tô như thế, Người sẽ không dung tha; chẳng hạn như trường hợp hai anh em nhà Giê-bê-đê xin lửa bởi trời xuống đốt cháy làng mạc Sa-ma-ri vì đã không tiếp đón Thầy mình (Lc 9:51-55). Đối với các môn đệ có gốc gác Do Thái thì việc chỉnh đổi này là rất thiết yếu, nó đánh dấu một chuyển biến trong suy tư quan trọng từ Cựu Ước qua Tân Ước, từ một đấng Ki-tô thống trị qua một đấng Ki-tô tự hiến và yêu thương. Tôi thiết nghĩ: bài học này sẽ còn là dài dài cho tất cả các môn đệ Ki-tô qua mọi thời đại, bắt đầu từ hai môn đệ trên nẻo đường Em-mau được ông khách đồng hành cặn kẽ giải thích… cho tới Ki-tô hữu chúng ta sống trong thời đại hôm nay.
Như vậy, cùng với việc chỉnh đổi khái niệm về đấng Ki-tô, hình như quan niệm về Xa-tan và tội lỗi cũng có một chuyển biến sâu sắc từ Cựu Ước qua Tân Ước. Đối với Tin Mừng của Đức Giê-su, Xa-tan và tội lỗi không còn mang nặng yếu tố chống đối uy quyền và sự thánh thiện của Thiên Chúa cho bằng chống lại hay không chấp nhận một Thiên Chúa tự hiến cứu rỗi và xót thương. Theo tiêu chuẩn đó, Đức Giê-su đã không lên tiếng kết án hoặc loại trừ thậm chí một người đàn bà tội lỗi ‘bị bẩy quỉ ám’. Đối với Người, tiêu chuẩn thánh thiện hay nhân đức không còn phải là trung thành nắm giữ các lề luật hay qui tắc luân lý, mà là mở rộng cõi lòng đón lấy tình yêu tha thứ và cứu độ Thiên Chúa ban. Cũng tương tự như thế, tiêu chuẩn của việc đáng bị luận phạt hay được thưởng công cũng đã bị đảo lộn toàn diện; chính vì thế mà sự khác biệt căn bản giữa ‘thánh’ Phê-rô và ‘thằng’ Giu-đa sẽ không hệ tại ở việc trung thành hoặc phản bội Thầy, nhưng ở việc biết mở rộng hay đóng kín cõi lòng trước lòn thương xót và cứu độ Thầy ban tặng. Bất luận con đường nào dẫn đến việc chân thành tiếp nhận tình thương xót cứu độ, đều được Người trân trọng đề cao, thậm chí cả con đường: ‘được tha nhiều nên yêu nhiều hơn’ (Lc 7:36-50). Và như thế thì, Xa-tan sẽ không còn là kẻ xâm phạm hay cám dỗ kẻ khác xâm phạm và chối bỏ sự thánh thiện hay uy quyền của Thiên Chúa nữa, mà là kẻ ‘cản lối Thầy’, tức là tự mình chối bỏ, và còn lôi kéo kẻ khác chối bỏ kế hoạch tự hiến yêu thương Người đang thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. Nếu quả là như thế, thì Xa-tan của Tân Ước sẽ không hiếm hoi đâu! Qua trường hợp điển hình của Phê-rô, Đức Giê-su cho thấy nó có thể xuất hiện ngay giữa hàng ngũ những người được mệnh danh là cột trụ của Giáo hội, trong số các người được coi là môn đệ thâm tín nhất của Người, bất cứ khi nào “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Cũng tương tự như thế, ‘tiên tri giả’ mà Người lên tiếng cảnh giác cũng có thể là bất cứ hạng người nào: tất cả những ai lôi cuốn người khác xa rời lòng nhân ái của Thiên Chúa cứu độ.
Trong tư cách linh mục, tôi cũng nên tự hỏi: có thể chính mình đôi khi cũng nằm trong số những Xa-tan hoặc tiên tri giả đó chăng, khi mà tôi chỉ lo vun xới nơi tâm hồn các tín hữu nỗi lo sợ bị Chúa luận phạt, và đẩy xa khỏi tâm hồn họ sự tín thác tuyêt đối vào lòng thương xót vô bờ của Chúatừ nhân?
Lạy Thiên Chúa từ nhân, qua Thập Giá Chúa, con nhận ra trong ánh sáng Tin Mừng cứu độ có một loại thiên thần mới và một sự thánh thiện mới, đó là chấp nhận và cộng tác vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa. Xin cho con, như Mẹ Maria, nhận thức được rằng: bước đầu tiên và căn bản nhất của sự thánh thiện Tân Ước phải là khiêm cung nhìn nhận con người yếu đuối của mình, hầu có thể hoàn toàn rộng mở đón nhận kế hoạch yêu thương của Chúa. Xin cũng giúp con, một linh mục của Chúa, biết cộng tác đưa được nhiều người, nhất là các tội nhân, vào con đường thánh thiện mới mẻ này. A-men.
.
THẬP GIÁ, CON ĐƯỜNG THEO CHÚA GIÊSU
Lm. GB. Trần Văn Hào
Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của Thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách xảy đến cho vị thiền sư họ Đường không phải là những gai góc hiểm nguy của cuộc hành trình dài, nhưng là những tật xấu nơi 3 đệ tử thân tín của ông : Tôn Ngộ Không; Trư Bát Giới và Sa Tăng. Ba anh học trò này là biểu tượng của 3 tật xấu mà vị thiền sư kia cũng như mọi người đều phải vượt qua để đạt đến chính quả, đó là tính kiêu căng, lòng ham mê nhục dục và sự lười biếng.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại sự ra đi của Chúa Giêsu trên lộ trình tiến về Giêrusalem. Ngài lên Giêrusalem để đi vào con đường Thập giá và tiến nhận cái chết. Trong cuộc hành trình ấy, Chúa đã hy sinh từ bỏ tất cả, cho đến cả mạng sống. Đó cũng là con đường độc đạo, là lối bước duy nhất mà các môn sinh của Chúa phải can đảm dấn thân để đi vào. Chúa Giêsu đã nói : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Bởi vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm đươc mạng sống ấy”. Lời mời gọi của Chúa hôm nay là thách đố lớn nhất đối với các tông đồ năm xưa, cũng như cho mọi người chúng ta ngày hôm nay.
Nghịch lý của thập giá
Thánh Phaolô đã viết “Tôi chỉ biết Đức Kitô, và là Đức Kitô bị đóng đinh trên Thập giá”. Cái chết tức tưởi và oan nghiệt của Chúa 2000 năm trước vẫn luôn là một ẩn số vĩ đại và không thể hiểu được đối với đầu óc con người. Một Thiên Chúa toàn năng và cao cả đã bị con người hạ xuống tận đáy bùn đen và bị kết án như một tên tội phạm đốn mạt nhất. Người Do Thái xem hình phạt thập gía như một sự sỉ nhục khủng khiếp và man rợ. Người Hy Lạp sánh ví những con người bị đóng đanh như là những tên khờ khạo và xuẩn ngốc. Nhưng Đức Giêsu đã tự nguyện chọn cái chết kinh hoàng ấy để mở toang cho chúng ta một chân trời mới, chân trời của ơn cứu độ. Nghịch lý của Thập giá cũng chính là nghịch lý của một tình yêu cao cả mà người đời không thể hiểu nổi. Các môn đệ năm xưa cũng không hiểu được. Vì thế, Phêrô đã ra sức can ngăn. Chúa quay lại nói với Phêrô : “Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Những suy nghĩ của con người luôn khác xa với điều Thiên Chúa mong muốn. Vì vậy, nghịch lý của Thập giá mãi luôn là một ẩn số lớn nhất đối với tất cả mọi người chúng ta.
Từ bỏ tận căn – Đòi hỏi của con đường Thập giá
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và quyết tâm từ bỏ: Từ bỏ ma quỷ, từ bỏ thế gian cùng những cuốn hút dẫn đến tội lỗi. Trong đêm Thứ Bảy tuần thánh, chúng ta cũng lập lại lời tuyên tín này với ngọn nến thắp sáng cầm trên tay. Nhưng có bao giờ chúng ta bình tâm ngồi lại để lục soát lương tâm, xem chúng ta đã thực hiện tinh thần từ bỏ ấy như thế nào. Sự từ bỏ Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay không phải chỉ là sửa chữa một vài tật xấu hay những thói quen không lành mạnh, cũng không phải chỉ giới hạn trong một vài hy sinh khổ chế, nhưng đó chính là sự từ bỏ tận căn, hy sinh ngay đến cả mạng sống. Chúa nhắc lại một tiêu chí căn bản để chúng ta thực hiện cho mình sự chọn lựa “Nếu người ta được lời lãi cả thế giới mà thiệt mất linh hồn, thì nào có lợi gì” (c. 26). Tiêu chí ấy phải trở thành quy chuẩn căn bản trong sự chọn lựa của chúng ta mỗi ngày, kéo dài trong suốt cả cuộc đời.
Xã hội ngày hôm nay đầy những cám dỗ và thử thách. Nếp sống hưởng thụ theo hình thái duy vật đang dần gặm nhấm niềm tin của chúng ta đặt để nơi Thiên Chúa. Đây là một kiểu sống vô thần, không phải chỉ trên lý thuyết nhưng trên thực hành cách cụ thể. Chúng ta vẫn thường tôn kính Thánh giá, đặc biệt trong cử hành phụng vụ ngày Thứ Sáu tuần thánh. Ngoài ra, nhiều người vẫn hay đeo ảnh Thánh giá trên ngực, nhưng chỉ để trang trí hơn là để tôn thờ. Tại nhiều giáo xứ, người ta vẫn hay tổ chức tưởng niệm cái chết của Chúa với những bài ngắm nguyện, những nghi thức táng xác hay than mồ cách trang trọng kèm theo những tiếng khóc than ai oán. Nhưng quả là rất giả tạo khi chúng ta tổ chức những cuộc rước suy tôn Thánh giá một cách hoành tráng và rầm rộ bên ngoài, nhưng cuộc sống cụ thể lại đi ngược lại với những đòi hỏi của Thập giá, như Chúa Giêsu nói tới trong bài Tin mừng hôm nay.
Hiến dâng thân mình làm của lễ sống động
Sứ điệp mà Thánh Phaolô nói tới trong bài đọc 2 hôm nay tóm kết những gì chúng ta cần phải thực hành để tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường Thập giá. Thánh Tông đồ viết : “Anh em đừng có làm theo thế gian, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn”. Cũng như Đức Giêsu đã đón nhận cái chết để trở nên của lễ vô giá dâng lên Chúa Cha, thì những học trò của Ngài cũng phải sống mầu nhiệm Thập giá mỗi ngày để biến đời sống chúng ta trở thành của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa. Như vậy, tự bản chất, ơn gọi Kitô hữu luôn hàm ngậm cái chết tử đạo. Đây không phải là cuộc tử đạo bằng máu nơi pháp trường, nhưng là sự từ bỏ liên lỷ trong những hy sinh nhỏ bé và liên lỉ của cuộc sống hằng ngày. Trong xã hội duy vật vô thần hôm nay, lời mời gọi của Chúa Giêsu để sống mầu nhiệm tử đạo ngày càng khẩn thiết và quyết liệt hơn bao giờ hết. Đặc biệt, đứng trước sự cuốn hút của tiền bạc, của danh lợi, của một lối sống hưởng thụ và ích kỷ, giới trẻ ngày nay đang có nguy cơ rơi vào một cuộc sống vô thần rất nguy hiểm. Lời Chúa hôm nay cho dầu chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần, nhưng vẫn luôn mang tính thời sự cho tất cả mọi người, đặc biệt đối với các bạn trẻ.
Kết luận
Có một đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau và dắt nhau đi hưởng tuần trăng mật. Đôi bạn khá nghèo và ước mơ có một căn nhà khang trang để ở. Hai anh chị thầm thì với nhau về ước mơ ấy khi ngồi nghỉ trên một ghế đá tại công viên. Một tỷ phú ngồi gần đó tình cờ nghe thấy. Ông ta hứa sẽ cho đôi vợ chồng một triệu đôla để thỏa mãn ước mơ với một điều kiện duy nhất, đó là cô vợ sẽ phải qua đêm với ông ta trong một khách sạn. Nghe vậy, cặp vợ chồng trẻ suy tính thật kỹ và chấp nhận. Hôm sau, họ đến văn phòng luật sư để làm giấy cam kết. Nhưng sau một đêm với nhà tỷ phú, cô ta bỗng thấy anh chồng của mình chỉ là một anh nhà quê cù lần và nghèo kiết xác, tài sản chẳng có gì đáng giá. Cô ta đổi ý, làm đơn xin ly dị với anh chồng mới cưới và về ở với chàng tỷ phú giàu có kia. Cuối cùng gia đình trẻ này bị tan vỡ. Cô gái trẻ về sống với ông nhà giàu cũng chẳng được bao lâu và cuộc sống mới của cô ta chẳng khác gì hỏa ngục. Thế là cô ta mất hết, tiền bạc không còn, tình yêu cũng vỗ cánh bay cao và cuối cùng cô nàng đã tự vẫn trong tuyệt vọng.
Câu chuyện hư cấu trên không phải chỉ có trong tiểu thuyết hay trong phim ảnh, nhưng vẫn đang xảy ra trong cuộc sống hôm nay nơi các bạn trẻ. Còn chúng ta, chúng ta có dám nói không trước sự cuốn hút của tiền bạc, của lạc thú hay lối sống hưởng thụ hôm nay hay không. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng ta sống tinh thần từ bỏ theo lời mời gọi của Chúa Giêsu.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN_A
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày chủ đề: Muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mình và vác thập giá. Bài đọc I được các nhà chú giải Thánh kinh gọi là“Lời tự thú của tiên tri Giêrêmia”. Vị ngôn sứ than thở về những đau khổ ông phải chịu trong sứ vụ Chúa trao phó: bị chống đối, chế nhạo, lên án, nhiều lần bị mưu sát khiến ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Sau cùng, Giêrêmia đã bị giết chết để trung thành với sứ mạng tiên tri. Bài đọc II, thánh Phaolô kêu gọi tín hữu hãy “Hãy hiến thân làm của lễ sống động và thánh thiện” cho Thiên Chúa. Nói cách khác phải chấp nhận hy sinh, gian khổ trên con đường theo Chúa.
Trong bài Tin mừng, sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, Phêrô đã ngăn cản Thầy. Đức Giêsu đã quở trách Phêrô nặng lời, Người gọi ông là satan. Ngay sau đó, Đức Giêsu đưa ra điều kiện cho ai muốn đi theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài.
“Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Điều kiện thứ nhất là từ bỏ mình. Theo nghĩa thần học, từ bỏ mình không có nghĩa là tha hóa, đánh mất chính mình, nhưng là chúng ta hóa nên giống như Đức Giêsu, đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô. Như vậy, từ bỏ chính mình để nên giống Chúa là một lý tưởng tuyệt vời, là tìm lại chính mình. Đây là một nghịch lý của niềm tin Kitô giáo: “Ai mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy”. Chính lúc chết đi là lúc sống muôn đời.
Điều kiện thứ 2 là vác thập giá mà đi theo Chúa: vác thập giá là đón nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ, hy sinh trong đời để vươn lên trong niềm hy vọng với một tương lai tốt đẹp hơn. Theo luật Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế “vác thập giá mình” coi như là mình bị kết án tử, chấp nhận cả cái chết để trung thành với Thiên Chúa, với Đức Giêsu Kitô.
Khi nói đến việc hy sinh từ bỏ, đa số chúng ta không muốn như Phêrô, coi sự từ bỏ như một điều bất thường. Thực vậy, từ bỏ là một quy luật rất bình thường trên phương diện tự nhiên, sinh học. Có nhiều thứ ta phải loại bỏ mới bảo vệ sự sống được. Khúc chân bị hoại tử phải cắt bỏ, ung thư bướu cổ cần phải được cắt bỏ, cành cây sâu cũng phải chặt bỏ đi, cây mới tốt và sinh hoa kết trái. Trên phương diện luân lý, cải thiện cuộc sống là từ bỏ nếp sống cũ, những tật xấu, những gì không tốt để tiếp nhận những cái tốt hơn mới trở nên con người mới, đạo đức, lương thiện. Như thế từ bỏ là quy luật sinh tồn, phát triển của cuộc sống xã hội và luân lý. Cuộc sống là phải biết lựa chọn, lựa chọn là từ bỏ, phải biết bỏ cái này, bỏ cái kia mà nhiều khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả. Chẳng hạn chiếc xe máy hư quá nặng, nếu tiếp tục sửa có ngày sẽ gây tai nạn. Vì thế tôi cần bỏ hẳn để mua xe khác, mới bảo đảm an toàn.
Làm môn đệ của Đức Kitô là phải từ bỏ tất cả, hy sinh tất cả để nên giống Đức Kitô, sống như Đức Kitô. Các Thánh tử đạo Việt Nam đã dám bỏ tất cả, bỏ cả mạng sống mình vì danh dự Đức Giêsu Kitô. Đối với các ngài, bỏ nhưng không mất, mà lại được tất cả. Trong kinh Hòa Bình, thánh Phanxicô Assisi đã khẳng định:
“Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, mchính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Con đường từ bỏ mình, con đường thập giá, là con đường của người môn đệ Đức Kitô, con đường của ơn cứu độ, của sự phục sinh và là con đường vinh quang giúp chúng ta thành công trong cuộc sống.
.
TỪ BỎ MÌNH ĐỂ ĐƯỢC TỰ DO THI HÀNH SỨ VỤ
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Được sinh ra làm người là một hồng ân. Được làm con Chúa là một hạnh phúc. Nhưng, khi lớn lên, hồng ân và hạnh phúc đó phải được triển nở không ngừng trong tương qua với Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế, để hoàn thiện, cần phải có những chọn lựa khôn ngoan.
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ theo mình để được hạnh phúc trọn vẹn. Con đường mà Ngài mời gọi lại không phải là con đường dễ dãi, thênh thang, mà là con đường hẹp. Con đường đó là “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).
- Từ bỏ mình, có mất tự do không?
Tin Mừng kể lại: sau khi Đức Giêsu tỏ cho các môn đệ biết về sứ mạng Thiên Sai của Ngài là phải chết để cứu chuộc con người. Song song với việc tiên báo đó, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ cũng đi vào con đường của Ngài để cùng chung chia sứ mạng mà Ngài đang thực hiện. Tuy nhiên, điều kiện rất quan trọng mang tính quyết định, đó là: “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).
Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Vì tại sao Đức Giêsu lại muốn các môn đệ đánh mất sự tự do, từ bỏ cái tôi, tức là hủy mình ra không!!! Điều đáng nói là chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người tự do, và Ngài chấp nhận con người dùng tự do theo ý hướng của họ. Vậy thì đòi hỏi này của Đức Giêsu có nghịch lý chăng?
Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cùng nhau khám phá ý nghĩa đích thực của nó dựa trên mặc khải của Thánh Kinh.
Theo lối hiểu của Kinh Thánh và ý muốn của Đức Giêsu thì sự đòi hỏi này mang tính tích cực cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc.
Khởi đi từ câu hỏi rất thân tình: “Ai muốn theo Thầy?”. Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề, mất tự do. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống mới theo tinh thần Tin Mừng.
Khi mời gọi như thế, Đức Giêsu muốn người môn đệ tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, thích ăn trên ngồi trước, thích được người khác phục vụ…, để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi cho phần rỗi của mình và niềm vui, hạnh phúc của kẻ khác.
Trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
- “Từ bỏ mình vác thập giá mà theo” có ý nghĩa gì?
“… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24), tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi.
Từ bỏ chính mình là một điều khó. Khó vì nhiều lý do: ai sinh ra trên trần gian này cũng đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo, không ai giống ai. Ai cũng muốn khẳng định tôi là tôi chứ không phải ai khác. Khi khẳng định như thế, chủ thể tôi cũng muốn xác định lập trường của mình rằng: không ai có quyền lấy đi hay bắt buộc tôi phải từ bỏ những ý định riêng tư mang tính cá biệt của chính tôi.
Xét theo tâm lý học hay triết học thì đây phải chăng là một đòi hỏi vô lý và một lựa chọn tiêu cực. Nhưng với người môn đệ của Đức Giêsu thì khác! Theo Chúa và từ bỏ ý riêng không có nghĩa là đánh mất mình; nhưng còn được tất cả. Hay nói cách khác, từ bỏ mình để kết hợp hay tháp nhập vào với Chúa là trở về với chính mình cách trọn vẹn nhất. Bởi vì ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nay ta tháp nhập với Ngài, thì ta trở về với chính nguồn cội nơi ta phát xuất ra. Được như thế là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Thật vậy: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3).
Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.
Từ bỏ chính mình là một cách minh nhiên cho thấy ta sẽ ưu tiên cho việc đi theo Chúa hơn là công việc của Chúa.
Nếu không từ bỏ chính mình, thì hẳn ơn gọi và sứ vụ của người môn đệ không thể hướng tha, mà chỉ là quy về mình và sống trong sự ích kỷ, vụ lợi mà thôi.
Nếu theo Chúa mà cồng kềnh thì khó lòng vượt qua những khó khăn thử thách, và cái tôi của mình là một rào cản lớn có tầm ảnh hướng đến việc được hay mất.
Đức Giêsu không muốn các môn đệ đi theo mình với những nỗi niềm chờ mong sai lạc, nhưng Đức Giêsu muốn họ vui chọn cuộc sống thiếu thốn và cực khổ vì hạnh phúc của kẻ khác, biết từ bỏ cái tôi xác thịt, ham muốn hưởng thụ riêng mình mà chọn lấy niềm vui khi chia sẻ với người khác.
- Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí nhưng thứ cồng kềnh như: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.
Mặc lấy Đức Giêsu tức là ta trở nên giống Ngài. Nên giống Ngài là gì nếu không phải là từ bỏ ý riêng của mình để thay vào đó là ý Chúa như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Mặc lấy Đức Giêsu cũng là lúc phải ra khỏi những định kiến riêng tư để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.
Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn chính bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài.
Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn cách trung thành, ngõ hầu chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa và như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Giáo dục là chuyện “muôn thuở”. Con người cần tái giáo dục vì đã phạm tội. Về việc giáo dục, mỗi thời mỗi khác về cách thức, nhưng trọng tâm vẫn là muốn hoán cải người ta nên tốt hơn theo “bản gốc” của con người: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Ngày nay, tuy hình thức trừng phạt thể lý không được đề cao, nhưng đôi khi vẫn thực sự cần thiết. Thật vậy, theo xã hội trần gian, người ta có nhiều dạng kỷ luật liên quan thể lý, cao nhất là tử hình. Cựu Ước cũng có luật tử hình (St 26:11; Xh 31:14-15; Xh 35:2; Lv 20:9, 10-13, 15-16, 27; Lv 24:16-17, 21; Lv 27:9; Ds 35:16-17).
Tiền nhân nói: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Tục ngữ cũng ví von: “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Còn Thánh Phaolô nói: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:6).
Giáo dục là sửa dạy. Tuy nhiên, sửa dạy phải có lòng yêu thương, nhưng phải cương quyết: “Hãy nghiêm khắc sửa dạy họ, để họ có một đức tin lành mạnh” (Tt 1:13). Ngoài ra, người được sửa dạy không nên tự ái, nghĩa là phải biết khiêm nhường, phục thiện và chấp nhận: “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy” (Dt 12:7).
Giáo dục cũng liên quan việc khen – chê. Triết gia Tuân Tử (313–238 trước công nguyên, thời Chiến quốc, nước Sở, Trung Hoa) nhận định: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”.
Giáo dục ảnh hưởng tính cách của con người. Người có trách nhiệm giáo dục rất quan trọng, bởi vì giáo dục sai có thể gây hại cho cả một thế hệ, thậm chí hại cả một dân tộc. Tính cách là tính chất, là đặc điểm nội tâm của mỗi con người, có ảnh hưởng trực tiếp đến cách suy nghĩ, lời nói và hành động của người đó. Trong văn nói, tính cách gọi là “tính tình” hoặc nói gọn là “tính” – tính hiền, tính thẳng thắn, tính giản dị,… Một người có thể có nhiều tính cách và nhiều người có thể có cùng một tính cách nào đó.
Chắc chắn rằng tính cách là yếu tố quan trọng của một con người, chính tính cách đó có thể tạo nên số phận của người đó. Người ta thường đánh giá các động thái – đôi khi kể cả cách suy nghĩ – của một người, từ đó suy ra tính cách của người đó, cuối cùng là kết luận về bản chất của người đó.
Thông thường, tính cách được chia làm hai loại: tính tốt và tính xấu. Tốt và xấu là theo quan niệm của đa số. Tuy nhiên, đối với những tính cách mà số người cho là xấu bằng số người cho là tốt, hoặc không ai cho là tốt hay xấu gì cả, chúng ta nên xem xét lại trong từng trường hợp cụ thể hoặc “gắn” cho nó cái quan niệm trung lập. Đôi khi không hẳn cứ đa số là đúng!
Người ta thường nói: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Người ta không thể hiểu hết một con người, có gọi là “đi guốc trong bụng” thì cũng chỉ là một phần mà thôi. Ngay cả vợ chồng nên “một xương, một thịt” và sống với nhau vài chục năm rồi mà cũng chẳng hiểu hết tính tình của nhau. Và rồi vì không hiểu hết nhau, người ta đâm ra dị đoan bằng cách đoán tính cách qua giờ sinh, ngày sinh, năm sinh, chòm sao,… Hoàn toàn vô ích. Vớ vẩn và ngu xuẩn!
Là phàm nhân với cuộc sống đời thường, ai cũng thích may mắn và sợ xui xẻo, thế nên người ta thường nói: “May hơn khôn”. Điều gì xảy ra hợp ý mình thì người ta cho đó là may mắn, là hên; điều gì xảy ra không hợp ý mình thì người ta cho đó là xui xẻo. Thật ra chẳng có gì là hên hoặc xui, chỉ là cách so sánh của con người mà thôi. Tuy nhiên, sách Huấn Ca cho biết: “Người khôn ngoan biết thinh lặng chờ dịp tốt, còn kẻ bép xép, dại khờ lại bỏ lỡ cơ may. Kẻ nhiều lời sẽ bị chán ghét, người hiếu thắng thì bị khinh chê” (Hc 20:7-8). Người ta cũng thường nói: “Mình tính không bằng trời tính”. Một khái niệm đầy chất tâm linh. Rõ ràng tất cả mọi sự xảy ra không ngoài Thánh Ý Chúa. Thật vậy, có những mơ ước cháy bỏng nhưng rồi tan thành mây khói, có những điều mình không dám nghĩ tới thì lại xảy ra bất ngờ.
Đúng là như vậy, có những điều tưởng là “trời cho” mà chỉ là “trò chơi”, nhưng có những điều tưởng chỉ là “trò chơi” thì lại là điều “trời cho”. Thực tế cho chúng ta thấy có những điều nghịch lý mà lại “thuận” – gọi là nghịch-lý-thuận, và có những điều thuận lý mà lại “nghịch” – gọi là thuận-lý-nghịch. Một điều hiển nhiên: Thập Giá là đau khổ, là xui xẻo, nhưng chính Thập Giá lại trở nên hạnh phúc, là cái hên. Con người không thể hiểu hết hoặc biết chính xác. Hên hoặc xui, may mắn hoặc không may mắn, đó chỉ là quan niệm của con người mà thôi. Ngay cả khoa tâm lý học cũng chỉ suy luận từ những gì đã xảy ra nhiều lần ngẫu nhiên trùng hợp.
Trong cuộc sống, xã hội loài người đề cập những điều nghịch lý đã đành, Kinh Thánh cũng đề cập những điều nghịch lý: “Có khi lâm nạn lại thành công, gặp may mà hoá thiệt thòi” (Hc 20:9). Vì không biết vấn đề ra sao nên chúng ta gọi là “hên – xui”. Có một câu chuyện mà chắc hẳn nhiều người đã biết: Tái Ông mất ngựa. Chẳng biết đâu là hên hoặc xui. Cái mà chúng ta gọi là xui thì lại là hên, cái mà chúng ta cho là tốt thì có thể lại là xấu. Chỉ có Thiên Chúa biết, vì Ngài quản lý và sắp xếp mọi sự. Ngay cả những gì chúng ta cho là tự nhiên thì cũng chẳng tự nhiên, mà là cách sắp đặt của Thiên Chúa – tức là Ngài quan phòng và tiền định. Chúa biết tức là Ý Chúa muốn điều đó xảy ra cho chúng ta theo cách nào đó – dù chúng ta cho đó là hên hoặc xui, chắc chắn là Ý Chúa, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi” (Lc 12:7).
Thiên Chúa toàn năng, toàn tri, quan phòng và tiền định. Chúng ta không thể nào hiểu hết Ý Chúa nhiệm mầu, vì thế chúng ta chỉ có thể cúi đầu và thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3). Chúng ta làm như vậy không phải vì miễn cưỡng hoặc “bị triệt buộc”, mà vì khiêm nhường chân nhận Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Thánh Vịnh gia vừa lý giải vừa xác tín với tư cách đại diện cho mỗi chúng ta: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca” (Tv 63:4-6).
Ôi, thật là niềm vui trào dâng, chúng ta thực sự hạnh phúc sống trong sự quan phòng và sự chăm sóc của Thiên Chúa: “Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui. Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” (Tv 63:8-9).
Khiêm nhường là nhân đức, người đời còn yêu quý huống gì Kitô hữu. Vì thế, tính cách của mỗi Kitô hữu phải thể hiện “phong cách” khiêm nhường. Không khiêm nhường sao được, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, đáng án tử, nhưng lại được Thiên Chúa thương xót nâng lên khỏi chốn bùn nhơ hôi tanh để được làm con cái của Ngài. Phép lạ lớn quá! Chúng ta đang “bị xui” mà “gặp hên” vì Thiên Chúa nhân hậu. Đó là chúng ta thực sự “gặp may”. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12:1-2).
Mỗi chúng ta đều phải tự chấn chỉnh đời sống, tu tâm sửa tính, thay đổi tính nết để có thể hoàn thiện mỗi ngày một hơn như lòng Chúa mong muốn. Tại sao? Để đáp lại lòng thương xót vô biên và vô điều kiện của Thiên Chúa, vì chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Ai biết thay đổi tính cách không chỉ có lợi về phương diện xã hội đời thường – được người khác quý mến, mà còn có lợi cả về phương diện tâm linh – được Thiên Chúa thương xót.
Chỉ vì ganh tỵ nên người ta đã ghét cay ghét đắng Đức Giêsu Kitô đến nỗi giết chết Ngài. Sao thế? Bởi vì Ngài có tính cách “khác người”, nhưng rất độc đáo: Thẳng thắn, cương trực, dứt khoát, nhưng khiêm nhường và nhân hậu. Ngài nói ít mà làm nhiều. Ngài rất ghét những người ba hoa, nói hay mà làm dở, ưa chỉ tay năm ngón, thích ăn trên ngồi trước, phe cánh, ưa hình thức, tự tôn, ra vẻ ta đây,… Nói chung là những dạng giả hình, những người có “máu” Pharisêu (Mt 23:2-7; Mc 12:38-40; Lc 11:39-46; Lc 11:52; Lc 20:45-47). Với những người khoái làm “ông này, bà nọ”, khoái “có tiếng” hơn “có miếng”, Ngài nói thẳng khuyến cáo: “Hãy phục vụ, đừng hưởng thụ” (Mt 20:28; Mc 10:45). Tuy nhiên, thực tế người ta chỉ thích vế thứ hai, chứ không muốn đề cập vế thứ nhất!
Thánh Mátthêu cho biết rằng, một hôm, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết “bí mật” bất ngờ: Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Vốn dĩ ngư dân chân chất, tính nóng như Trương Phi và thẳng như ruột ngựa, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16:22).
Ôi chao, có lẽ lúc đó ông Phêrô tưởng sẽ được cảm ơn, ai dè Đức Giêsu quay lại “phang” liền, với một câu rất nặng: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16:23). Thầy kỳ ghê đi! Phêrô là “tổ trưởng” mà Thầy cũng chẳng nể nang chi ráo trọi. Không thể được! Tính cách của Chúa Giêsu là “thẳng thắn thật thà”, không phải cứ làm lớn thì có thể làm láo, càng lớn càng phải làm gương. Đó mới là lãnh đạo, và đó cũng là điều Chúa muốn.
Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu không nguyền rủa ai nặng như lời trách dành cho Phêrô – vị giáo hoàng tiên khởi. Phải bị vậy thì Phêrô mới không dám lên mặt, phải tự xem lại mình mà khiêm nhường. Chúng ta cũng có những lúc đã từng “ảo tưởng” như ông Phêrô, cứ nghĩ mình “ngon” hơn người khác về lĩnh vực này hoặc phương diện nọ, nhưng thực ra chỉ là “thùng rỗng kêu to”, đôi khi còn quá lố nên bị hố. Cứ bảo là lắng nghe nhưng thực ra lại bắt người khác phải “lắng”, còn mình không thèm nghe.
Xét ở tình huống này, chúng ta thấy tính cách của ông Phêrô rất bộc trực, chân thật, nghĩ sao nói vậy, không rào trước đón sau. Ông là dân thuyền chài chính hiệu, ít học, không giỏi giang hơn người khác, không nổi trội, nhưng Chúa Giêsu vẫn chọn ông làm “hoa tiêu” của Giáo hội, làm “đá tảng” để xây dựng Giáo hội, vì Ngài biết rõ tâm địa ông thẳng thắn và khiêm nhường. Vâng, Thiên Chúa cần người khiêm nhường, dù không giỏi, Ngài không cần người giỏi mà kiêu ngạo. Chính Thần Khí Thiên Chúa sẽ tác động: “Đức Khôn Ngoan mở miệng người câm, và cho lưỡi trẻ thơ nói năng dễ dàng” (Kn 21:25). Ai khiêm nhường thì có Chúa, và có Chúa là có tất cả.
Đức Giêsu nói nói về điều kiện “ắt có và đủ” để khả dĩ trở nên môn đệ của Ngài: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16:24-26). Chắc chắn chẳng có ai ra điều kiện “ngược đời” và “chói tai” như Chúa Giêsu. Thường thì khi muốn người khác về phe với mình, người ta đưa ra những điều kiện “béo bở”, được lợi này ích nọ, chứ chẳng ai dám hứa hẹn về sự đau khổ. Các công ty muốn có nhân viên giỏi thì hứa hẹn lương bổng cao, các tổ chức muốn có nhiều thành viên thì hứa hẹn nhiều lợi lộc (cả lợi và lộc). Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược. Ấy vậy mà càng ngày người ta càng nghiệm ra “ẩn số” trong tính cách độc đáo của Ngài và muốn theo Ngài tới cùng. Lạ thật!
Lúc còn sinh thời, ông Mohandas Karamchand Gandhi (1869–1948), một nhà ái quốc chủ trương bất bạo động, được dân Ấn Độ coi là “cha già” (Bapu) và “vị thánh” (Mahatma, tâm hồn vĩ đại), cũng đã từng thần tượng Chúa Giêsu sau khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt là Bài Giảng Trên Núi (Bát Phúc, tám Mối Phúc). Quả thật, chỉ có người giỏi mới nhận ra tài năng độc đáo và cái giỏi của người khác. Người thực sự giỏi thì sẵn sàng tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Vĩ nhân Gandhi nhận định: “Tôi không cần biết có một Đức Giêsu trong lịch sử hay không, nhưng những gì Người dạy trong Bài Giảng Trên Núi là sự thật. Đối với tôi, Thiên Chúa là sự thật và tình yêu. Ngay lần đầu tiên đọc cuốn Tân Ước, tôi không hề tìm thấy chỗ nào bày về sự yếu đuối hay nhát đảm của Đức Giêsu. Không phải qua gươm giáo, nhưng qua thái độ chịu đau khổ sẽ giúp cho người ta đánh giá được bản lãnh và nhân đức của một con người. Ở đâu có yêu thương, ở đó có sự sống”. Quả thật, ông vẫn là một Kitô hữu thực thụ, dù ông chưa được rửa tội theo nghi thức Kitô giáo, đáng để chúng ta noi gương.
Về ngôn ngữ cũng có điều kỳ diệu: Chữ SANTA (thánh) và SATAN (ma quỷ) chỉ khác nhau ở cách xếp mẫu tự. Cách đảo tự có thể trở thành tốt hoặc xấu. Đúng là “sai một ly đi một dặm”. Và cách sống cũng tương tự. Đôi khi cứ tưởng là “bác ái” nhưng thực chất lại là “bái ác”. Khoảng cách để làm Thánh hoặc làm Quỷ thật là mong manh, vì thế mà phải cẩn trọng và cảnh giác!
Đối với các môn đệ và những người muốn theo Ngài, Chúa Giêsu không hứa hẹn mà chỉ giải thích: “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16:27). Thêm một ngày mới là thêm một khoảng sống, nhưng cũng là bớt một khoảng sống, nghĩa là cuộc đời mỗi người cứ dần ngắn lại, và Thời Cánh Chung cũng đang dần khép lại, hãy hoán cải để được Thiên Chúa cứu độ!
Lạy Thiên Chúa chí thánh, xin mở mắt đức tin của con để con biết hoán cải theo đúng Tôn Ý Ngài. Con đường dài nhất là con đường từ cửa miệng tới bàn tay, xin giúp con biết làm đúng với lời nói chứ không giả hình, và xin sửa dạy con thành một tín nhân đúng nghĩa. Con chân thành cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
MẮNG
[Niệm khúc Mt 16:21-27]
Phêrô bị mắng ba lần (*)
Yếu tin, ngu tối, Satan – Nặng nề!
Đôi khi phải mắng, phải chê
Để không ảo giác tưởng ta hơn người
Khen nhau, tâng bốc nhau thôi
Đó là hèn nhát, sống đời dối gian
Chê nhau để giúp nên thân
Khen nhau cho lắm chỉ làm nhau kiêu
Phêrô bị mắng rất đau
Thế nên được đặt ngôi cao Giáo hoàng
Chê là dẫn tới Thiên Đàng
Mắng đau lại chính là thương rất nhiều
Giêsu thẳng thắn trước, sau
Cuối cùng chịu chết tiêu điều vì ai?
Đừng hèn nhát, sợ đắng cay
Nhâm nhi chén đắng có ngày quang vinh
Đừng ham chi được tôn vinh
Có ngày mắc bẫy yêu tinh, quỷ thần
Lạy Giêsu, Chúa của con
Xin cho con biết say ôm thập hình
Lời cay đắng hóa giọt tình
Xin cho con chẳng tưởng mình hơn ai
Cuộc đời nếu chẳng có Ngài
Thì con vô dụng mà thôi, ích gì!
TRẦM THIÊN THU
(*) Mt 14:31, Mt 15:16, Mt 16:23.
.
Lm. Jos. DĐH.
Truyện ngụ ngôn Aesop: Dê và Cáo, có nội dung như sau: một con dê nhỏ được người chủ để lại trong chuồng, vì nó chưa đủ khôn để có thể theo đàn đi ăn cỏ, đó cũng là cách bảo đảm để chú dê nhỏ không bị thú dữ ăn thịt. Rồi một hôm, dê con nhìn thấy cáo ở ngoài chuồng nó lấy hết sức la hét nhảy nhót và buông lời lăng nhục cáo. Cáo nói: ồ tao nghe mày chửi đó, điều mày xỉ vả tao có can gì đâu, nhưng tao báo cho mày biết, cái mái chuồng sắp đổ rồi đó. Câu truyện có ngụ ý đừng bao giờ nói những câu thừa thãi, và không nên gây sự với ai làm gì, nếu không muốn hoạ tới.
Người xưa có câu: khờ dại hay bị lừa, nói bừa hay vạ miệng. Kinh nghiệm ấy nhiều đấng bậc phải khốn khổ vì con dại, vì trò hư, dù các ngài luôn sẵn lòng chịu hình phạt thay cho chúng: con dại cái mang, tội quy về trưởng. Người học trò Phêrô bị quở trách do phát biểu “bừa bãi”, trò quá tự tin đến độ có ý vẽ lối cho Thầy: “xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp chuyện ấy”, trong khi Đức Giêsu mời gọi các học trò hãy cùng đi Giêrusalem. Nói liều, nói bạt mạng như Phêrô, không những các bạn ông, mà cả bàn dân thiên hạ sẽ còn lắc đầu vì ông dám múa rìu qua mắt thợ. Thông thường thầy trò sẽ nghỉ ngơi, hoặc đi tham quan du lịch, sau những ngày vất vả mệt nhọc, Thầy Giêsu lại tha thiết cùng các môn đệ đi Giêrusalem để chịu đau khổ, chịu chết, quả là khó nghe, khó hiểu, đối với số học trò còn đầy giới hạn.
Chuyên chăm học tập, để được thầy truyền hết bí quyết nghề nghiệp, để biết làm vẻ vang trường phái của thầy, thiết tưởng đó là trả ơn thầy ; nhưng không, Thầy Giêsu rất rõ ràng: “ai muốn theo Thầy, hãy tự bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”. Nếu Đức Giêsu nói, nào chúng ta cùng đi Giêrusalem để làm vua, làm tướng, có lẽ các môn đệ và cả chúng ta hôm nay cũng hào hứng, sung sướng lắm. Cùng Thầy đi Giêrusalem đâu phải chỉ đối đầu với nguy hiểm khổ đau mất mát, nhưng là ơn gọi, là vinh dự được hiệp thông với sứ mạng làm Con Đấng cứu độ trần gian. Ơn gọi và sứ mạng theo Thầy Giêsu không sòng phẳng như thế gian mong đợi: ăn đồng chia đủ, phúc cùng hưởng hoạ cùng chia. Theo Thầy Giêsu sẽ mãi mãi là dấu chứng tình yêu Thiên Chúa đầy tràn sức mạnh nâng đỡ ta ngay ở đời này hầu dẫn ta đạt tới hạnh phúc đời sau.
Tục ngữ có câu: một nghề thì sống, đống nghề thì chết. Ngay từ ý nghĩ ban đầu cha ông chúng ta đã cho thấy: sống, chết, luôn chi phối con người, do đó hãy trở nên khôn ngoan hầu biết chọn lựa cơ nghiệp bền vững muôn đời. Cùng Thầy đi Giêrusalem đã làm cho các học trò năm xưa khiếp sợ, có thể làm cho chúng ta hôm nay cũng e dè bất an, nếu chúng ta chưa đủ khiêm tốn đi đằng sau Đức Giêsu. Theo Thầy Giêsu làm môn đệ, thì nghèo hèn, sang giầu, chưa thể gọi là thành công hay thất bại, có chăng vui khoẻ, bình an và trong các tương quan có đủ tình yêu thương, như thế cuộc sống mới giá trị, ý nghĩa. Cùng Thầy đi Giêrusalem không phải để tìm hưởng phú quý bổng lộc, không phải để liều thân chịu chết như kẻ chán sống, sợ hãi trách nhiệm, đúng hơn là để minh chứng tình yêu với sứ mạng người môn đệ theo Đức Kitô.
Kinh nghiệm ở đời cho thấy người bi quan luôn càm ràm mỗi khi thấy đau khổ thập giá ; người lạc quan một chút thì bảo nhau chờ đợi: sau cơn mưa trời lại sáng ; Đức Giêsu Ngài thích con người thực tế hơn: “nếu được lời lãi cả thế gian mà mất đi sự sống mình nào có ích chi ?”. Có dứt khoát theo Đức Giêsu đi Giêrusalem, các ngư phủ năm xưa mới hiểu đâu là giá trị của tin yêu, đâu là tự do chọn lựa gắn bó với Thầy, là biết tự bỏ mình để sống thánh ý Chúa, nên trọn vẹn trong tình yêu Giêsu. Theo quy ước tự nhiên “nhập gia tuỳ tục”, trò theo thầy, hãy đi đằng sau thầy, kẻ làm môn đệ Đức Giêsu không thể tìm cách né tránh thập giá, cũng không phải cứ lao mình vào nơi cùng cực, tìm đường chết, mà tất cả phải hiểu và sống sứ mạng người môn đệ theo Đức Kitô.
Cùng Thầy đi Giêrusalem vẫn là lời mời gọi những ai muốn theo Đức Giêsu làm môn đệ, theo Đức Giêsu sống thánh ý Chúa, theo Đức Giêsu là bỏ ý riêng và đi con đường thập giá hầu đạt đến vinh quang thật. Từ bỏ mình không đơn giản là bỏ đi những thứ dư thừa, hay bỏ đi một chút tiền cho kẻ nghèo đói, mà là bỏ đi tính ích kỷ để được Thầy Giêsu biến đổi nên người môn đệ của Ngài, sống tinh thần yêu thương phục vụ. Thời đại hôm nay đau khổ thập giá đang tồn tại dưới nhiều cách gọi khác nhau: thất bại, túng thiếu, bệnh tật, tai nạn, cô đơn… Vác thập giá hàng ngày chính là bài trắc nghiệm mỗi người chúng ta sống kỷ luật với bản thân mình, đang cùng Thầy Giêsu đi Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ Chúa trao phó. Amen.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn , Lời Chúa , chúa nhật 21 thường niên vừa qua (Mt 16, 13 -20) trình thuật cho chúng ta biết, Chúa Giêsu khen ngợi và đặt để Phê-rô làm đầu Hội Thánh. Nhưng, sự khen tặng nầy nói rất rõ là : Không do bởi phàm nhân nào tỏ cho ngài biết, mà là chính Chúa Cha, Đấng ngự trên Trời, như vậy, rõ ràng không có “mâu thuẫn” với lời quở trách hôm nay. Tại sao vậy, thưa quý vị ?Thưa, không phải nay khen , mai chê, mà là như chúng ta biết, chính Chúa Giêsu nói : “ … Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa” ( c 23). Rõ ràng, tư tưởng của Phê-rô là tư tưởng của phàm nhân, như vậy, “Đấng Kitô “ phải là Đấng chịu tử nạn, chứ không phải Đấng đến để “cai trị”. Bởi vì, “KITÔ “ là Đấng được xức dầu tấn phong để Cứu Độ nhân loại, là Đấng Cứu Thế, tức Đấng phải chịu khổ hình sinh ơn Cứu Độ, chứ không phải là Đấng “làm vua” như kiểu trần thế.
Chúng ta nhớ lại lời Chúa trong “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi.Đường lối Ta không phải đường lối các ngươi…”
Như vậy, rõ ràng , tư tưởng của Thiên Chúa là tư tưởng của Trời cao, là tư tưởng Tạo thành và Cứu chuộc. Chứ không phải là tư tưởng của phàm nhân.
Chúng ta thấy, tình cảm của Phê-rô là tình cảm của nhân thế, chúng ta thấy, Chúa Giêsu quở trách Phê-rô thật đúng, nhưng Người lại “yêu thương “ Phê-rô hết lòng. Chúng ta đừng nghĩ Chúa Giêsu” yêu thương “ thánh Gioan Tông Đồ hơn Phê-rô, không phải vậy đâu, vì, chúng ta thấy thánh Gioan “tựa đầu” vào Thánh Tâm Chúa, chúng ta tưởng lầm rằng : Thánh Gioan được Chúa yêu thương nhất, vì thánh Gioan trẻ nhất, trong trắng nhất, vì ngài chưa có gia đình.
Bằng chứng hiển nhiên là Chúa “sửa dạy” ai nhiều nhất là Chúa thương người đó nhất, bởi vì “ Thương cho roi , cho vọt…”.
Vâng, thưa quý vị. Chúa Giêsu quở trách Phê-rô , vì ông ngăn cản Chúa theo tình cảm nhân tính, nhưng, ông yêu mến Thầy cách chân thật, nhưng, tính người phàm thế không thể hiểu được chân lý của Trời cao. Theo đó, hành trình Cứu Độ không do bởi phàm nhân, mà do bởi Ý định yêu thương từ Thiên Chúa.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu được, Thiên Đàng không phải là miền đất “Hứa” suông mà thôi, mà là một “ hành trình cứu chuộc “ tiến về Nước Trời, nơi có Thiên Chúa hằng hữu, mặc nhiên có đau khổ, có thánh thiện, có vui buồn, có bất toàn, có hạnh phúc. Để khẳng định rằng : Thế gian không phải không có Thiên Chúa hằng hữu. người ta vẫn tin rằng “Thiên Đàng tại thế”. Thiên đàng tại thế không phải là tư tưởng tục hóa, mà là minh định có Thiên Chúa hiện hữu tại thế gian. Vì, nếu thế gian không có Thiên Chúa, thì làm gì có Thiên Chúa ở trên trời, nơi mà chúng ta không thấy được.
Nhưng, nếu nói có Thiên Chúa hiện hữu tại thế gian, thì tại sao, Thiên Chúa không “ ngăn chặn” sự dữ ? Điều nầy, khiến cho người đời có “ác cảm “ với thế gian. Thế gian không phải là “quê hương “ vĩnh cửu, nhưng, chắc chắn không phải là nơi không có Thiên Chúa. Nếu, không tin thế gian vẫn là nơi có Thiên Chúa hiện hữu, thì không thể nào tin có Nước Trời.
Tại sao, tin thế gian có Thiên Chúa hiện hữu mà người đời vẫn gặp đau khổ, bất hạnh, ? Thưa, đó là : “hành trình Thập giá” như đã nói ở trên, hành trình Cứu Chuộc, hay “hành trình tiến về” quê Trời” trong đó “ hành trình Thập giá”, để cùng với Đức Kitô tham dự vào Mầu Nhiệm Cứu Độ bởi Thiên Chúa. Vì vậy, sự đau khổ, sự dữ, sự chết( thân xác ) của phàm nhân là hệ lụy tất yếu nơi trần gian, nhưng, không phải không có Thiên Chúa hiện hữu. Thiên Chúa không dấu mặt nơi trần thế, nhưng, Thiên Chúa cực Thánh, siêu nhiên không thể “lộ diện “ theo ý của phàm nhân, vì vậy, người đời không thể “nhìn thấy “ Thiên Chúa như ý họ muốn. Theo đó, Thiên Đàng là hành trình, kế hoạch tiệm tiến của ơn “Cứu Chuộc” bởi Thiên Chúa ngay tại trần thế, chứ không phải Thiên đàng là Nước Trời, là nơi hạnh phúc viên mãn. Bởi vì, Nước Trời là chính Thiên Chúa, là sự viên mãn đích thật cho con người.
Theo đó, ơn Cứu Chuộc, tức Mầu Nhiệm Thập giá là “sự đau khổ” nơi loài người, mà Đấng Cứu Thế gánh lấy cho họ . Mặc nhiên, vì vậy, hôm nay, qua Đoạn Tin Mừng ( Mt , 16, 21 -27) mà Chúa Giêsu đã quở trách Phê-rô, vì ông đã “cản trở” ơn Cứu Chuộc bởi Thiên Chúa. Vì, “Tư tưởng của phàm nhân, không phải là tư tưởng bởi Thiên Chúa”.
Lạy Chúa Giêsu, Phê-rô vì “yêu mến “ Thầy, nên ông đã “ngăn cản” Thầy lên đường chịu Tử Nạn . xin cho chúng con biết nhận ra sự sửa dạy thánh Phê-rô của Chúa để nhận ra chân lý đích thật là “tình Chúa” cao vời hơn tất cả, đến độ Chúa sẵn lòng Tử Nạn để trở nên “Gía Chuộc “ muôn người./. Amen.
.
THẬP GIÁ: CON ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Mãi mãi thập giá vẫn là một chướng ngại khó vượt qua. Ngay đến cả Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã vất vả ướt đẫm mồ hôi pha lẫn máu mới can đảm đón nhận thập giá, cho dù trước đó không dưới ba lần chính Người đã tiên báo, nghĩa là đã tiên liệu và đã có sự chuẩn bị. Thế mà lời khẳng định của Người, một lời khẳng định không thể làm giảm khinh bằng bất cứ lối giải thích nào, đó là: “Ai muốn đi theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
“Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện và Toàn Bích khôn lường. Theo ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông phần sự sống vĩnh phúc”. Giáo lý Hội Thánh Công giáo mở đầu bằng chân lý này và cũng là câu trả lời cho vấn nạn muôn thưở rằng ta sống ở đời này để làm gì. Kitô hữu vốn nằm lòng câu giáo lý của một thời: “Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau được hạnh phúc đời đời”. Như thế hạnh phúc đời đời hay sự sống vĩnh phúc chính là mục đích tối hậu của đời người. Khi sinh thời, để trả lời cho một chàng thanh niên đạo hạnh vốn đã giữ các giới răn từ thưở bé, muốn có sự sống đời đời, thì Chúa Giêsu nói rằng hãy về bán tất cả của cải, phân phát cho kẻ khó, rồi đến mà theo Người (x.Mt 19,16-22). Thế thì ta có thể khẳng định rằng theo Chúa Kitô là cách thế để có hạnh phúc vĩnh cửu. Hay nói ngược lại, muốn có hạnh phúc vĩnh cửu là phải theo Chúa Kitô. Và muốn theo Chúa Kitô là phải vác thập giá mình.
Theo Chúa Kitô là theo Con Đường Sự Thật, Sự Sống, và Tình Yêu. Nguyên chỉ với những thiện hảo chóng qua đời này cũng đòi hỏi phải trả giá. Tomas Edison, ông tổ phát minh bóng đèn điện đã khẳng định một tất yếu của cuộc sống: “một lần thành công là kết quả của chín mươi chín lần thất bại”. Để trung thành với sự thật và công bố sự thật, ngôn sứ Giêrêmia đã phải hứng chịu bao truân chuyên, khốn khó, và có khi, tưởng như sẽ bị mạng vong. Số phận các sứ ngôn khác và những người công chính cũng chẳng hơn gì (x.Mt 23,29-32). Để làm phát triển sự sống với hoa trái tốt xinh thì trước đó hạt giống phải chịu cảnh thối rửa đi (x.Ga 12,24). Để thực sự là yêu trong sự phục vụ người mình yêu đến cùng thì tất yếu phải bỏ mình, hiến dâng mạng sống mình vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Những gì phải trả ở trên, đó chính là thập giá mà Chúa Kitô muốn đề cập.
Tuy nhiên, chúng ta cần ý thức rằng thập giá không phải là đối tượng mà chúng ta muốn cách trực tiếp. Đã nói đến thập giá là nói đến một sự dữ. Không ai được quyền và được phép tự mình trực tiếp tìm kiếm sự dữ. Thế thì chúng ta phải hiểu sao đây về việc phải vác thập giá? Không lẽ Chúa Kitô lại muốn chúng ta phải chịu khổ? Dĩ nhiên không ai dám to gan khẳng định điều này. Thập giá là một mầu nhiệm mà ta chỉ có thể hiểu được phần nào khi quy chiếu về thập giá của Chúa Kitô.
Lật giở các trang Tin Mừng, chúng ta cần chân nhận sự thật này: Chúa Kitô không bao giờ trực tiếp kiếm tìm thập giá. Điều mà Người luôn kiếm tìm đó là thánh ý Chúa Cha. Ngay phút giây nhập thể vào đời, tác giả thư Do Thái đã cảm nhận tâm ý của Ngôi Lời: “Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,5). Lễ vật hy sinh thì Chúa Cha không muốn và Chúa Cha cũng chẳng thích gì khi Con mình phải đổ máu. Điều Chúa Cha muốn là Chúa Con nhập thể, tìm cách bày tỏ cho nhân loại thấy tình yêu bao la vô bờ và hoàn toàn nhưng không của Người.
Thập giá chính là đối tượng trực tiếp mà giới lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ kiếm tìm để đặt trên vai người mà họ cho là “phản động”, xách động quần chúng đi ngược với tập truyền tiên tổ, dám phạm thượng, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa duy nhất… “Chẳng thà một người chết cho toàn dân được nhờ” (Ga 11,50), và bên cạnh đó, vị thế và quyền lợi của những bậc vị vọng như tư tế, biệt phái, luật sĩ cũng khỏi bị lung lay và sứt mẻ.
Thế mà Chúa Kitô vẫn không ngần ngại lên Giêrusalem để đón nhận khổ hình thập giá, không phải vì chính thập giá nhưng là để vâng phục Chúa Cha nhằm tìm cách bày tỏ cho nhân gian thấy tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu vô điều kiện và đến cùng. Cho dù các ngươi có đặt thập giá trên vai ta, cho dù các ngươi có đâm thủng trái tim ta, cho dù các ngươi có giết chết ta cách nhục nhã, thì ta vẫn không hề bỏ các ngươi mà còn đứng về phía các ngươi để cầu bàu cho các ngươi (x.Lc 23,34). Chúa Kitô đón nhận thập giá không phải vì thập giá mà là để mình chứng rằng không có gì có thể ngăn cản được việc Người yêu thương chúng ta (x.Rm 8,38-39).
Như thế thập giá không phải là đích đến, mà chỉ là một cái giá cần phải trả, một thách đố, một chướng ngại cần vượt qua của hành trình yêu thương. Khi ngăn cản Chúa Giêsu đừng lên Giêrusalem, thực ra Phêrô có ý tốt với Thầy. Thế nhưng, ông đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Tưởng rằng Phêrô bị quở trách nhưng không phải ông mà chính là Satan bị quở trách. Satan lợi dụng ý tốt của Phêrô để cám dỗ Chúa Giêsu. Ma quỷ thật lắm tinh ranh. Chúng sử dụng cả những điều thiện hảo thường tình để cám dỗ ta đứng lại và không đạt đến sự thiện hảo cuối cùng.
Dẫu biết rằng chẳng có một sự thiện hảo nào mà không đòi phải trả giá nghĩa là đòi phải có sự nỗ lực, gắng công, thế nhưng thập giá vẫn mãi còn đó sự thách đố cho người tự nguyện sống đạo yêu thương, cho người can đảm làm chứng cho sự thật, cho người tích cực gìn giữ và làm phát triển sự sống. Nếu cứ chăm chăm dán mắt hay quy lòng vào sự khó khăn đầy nghiệt ngã của thập giá thì e rằng nhiều khi chân ta sẽ chùn bước. Ước gì Kitô hữu chúng ta trên đường theo Chúa Kitô biết ngước nhìn đến chân trời tươi sáng, nơi mà tình yêu, sự thật và sự sống hiển trị, thì sẽ có cơ may vượt qua các trở ngại cần phải vượt qua là thập giá, cho dù khó khăn, vất vả, đau thương vẫn có đó và mãi còn đó. Hiểu được sự thật này thì chúng ta không chỉ biết lắng nghe lời nhận định của Franklin: “Đường đến thành công không hề có bước chân của người ngại khó, sợ khổ”, mà còn cần phải xác tín rằng “đường đến Nước Trời sẽ chẳng hề có bước chân của người e ngại vác thập giá vì không quyết tìm hạnh phúc đích thực cho chính mình và tha nhân”.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đầu tư tất cả cho cuộc sống đời nầy
Hầu như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về việc củng cố, đầu tư cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi của mình.
24 giờ mỗi ngày đều được người ta dành trọn vẹn cho thân xác: giờ để ăn, giờ để ngủ, giờ để giải trí vui chơi, giờ để làm việc nuôi thân xác…
168 giờ mỗi tuần, 720 giờ của mỗi tháng cũng được dành trọn cho thân xác.
8.766 giờ của mỗi năm cũng chỉ được dành trọn để thổi phồng thân xác dòn mỏng nầy cho đến lúc nó nổ tung ra như bong bóng xà phòng.
Châm ngôn của người ta là : Tất cả cho thân xác. Tất cả cho cuộc sống đời nầy.
Người ta cố đầu tư xây dựng cho cuộc sống đời nầy như những con dã tràng đua nhau xe cát, tạo nên những đụn cát nhỏ bé trên bãi biển bao la để rồi một lát sau sóng biển sẽ xoá đi chẳng để lại vết tích gì.
Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực… đều được dốc ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi đến lúc cuối đời, người ta thu hoạch được một nắm xương hay chỉ là một chiếc lọ nhỏ chứa nắm tro tàn sau khi thiêu xác!
Thế là đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, (nghĩa là ai đầu tư tất cả cho cuộc đời này) thì sẽ mất” và cho dù người ta có thu tóm “được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16,25-26).
Đầu tư hết vốn liếng và khả năng để bồi đắp thân xác và xây dựng cuộc sống đời nầy để rồi rốt cục chỉ còn là một nắm xương khô hay đơn giản hơn, là một lọ tro tàn, thì kiếp người đúng là một thảm kịch bi đát nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, có ai rồ dại đến nỗi dốc toàn bộ vốn liếng mình có vào một cuộc kinh doanh mà biết trước rằng kết cục chỉ là tay trắng, không?
Đầu tư cho đời sống mai sau
Nhưng làm sao để tránh khỏi thảm kịch bi đát nầy? Có giải pháp nào làm cho đời sống triển nở tốt đẹp hơn không?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề nghị một giải pháp tốt nhất. Ngài dạy chúng ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là đầu tư cho đời sống mai sau, mà điều kiện tiên quyết là hãy từ bỏ mình và vác thập giá.
Ngài nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 24-26)
Phanxicô Xavie lúc còn thanh xuân muốn đầu tư hết tài trí, sức lực để chiếm hữu địa vị xã hội và vinh hoa thế gian.
May thay, Thiên Chúa đã gửi đến cho anh người bạn tốt, đó là thánh Inhaxiô, một người bạn lớn tuổi học cùng trường. Inhaxiô thường dùng câu lời Chúa chúng ta nghe hôm nay để nhắc bảo Phanxicô: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”
Ánh sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy tham vọng trần thế và đã làm xoay chuyển cuộc đời anh. Thế là Phan-xi-cô giã từ việc theo đuổi phù du ảo ảnh đời nầy (đó là từ bỏ mình như Chúa mời gọi) để dấn thân không mệt mỏi vào những vùng đất xa xôi (đó là chấp nhận vác thập giá) để chinh phục các linh hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.
“Từ bỏ chính mình” tức là đừng đầu tư tất cả mọi vốn liếng ta có để vun đắp cho cuộc sống đời nầy; cụ thể là không dành toàn bộ công sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.
“Vác thập giá mình” là chấp nhận khổ chế, cụ thể là khước từ những đòi hỏi vô độ của thân xác – mà sự khước từ nào cũng là một thập giá – để dành thời giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm linh.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra rằng con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với Chúa.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Khởi đi từ ý thức và tuyên xưng của thánh Phêrô, cũng là đại diện cho tông đồ đoàn: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” dành cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con bảo Thầy là ai?”, Chúa Giêsu dẫn dắt các môn đệ đến một mạc khải hay cũng là một thử thách quan trọng, đòi các ông phải dấn thân nhiều hơn cho đức tin. Vì “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, không phải là Đấng “ăn trên, ngồi trước”, nhưng sẽ là Đấng hạ mình chết cho anh em, vì anh em. Đấng “phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, vã bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại”.
Và sau khi mạc khải về thập giá của Chúa, Chúa lại mời gọi chúng ta vác thập giá của chính chúng ta: “Ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”.
Đó là lời dạy của Chúa. Còn chúng ta, hôm nay, nhìn lên thánh giá Chúa, để rồi quay nhìn lại thánh giá đời mình, chúng ta dám khẳng định: THÁNH GIÁ LÀ NỖI ĐAU NHƯNG CŨNG LÀ NIỀM AN ỦI.
- THÁNH GIÁ LÀ NỖI ĐAU.
Là nỗi đau vì:
– Chúa Kitô đã chết đớn đau trên thánh giá.
– Mọi con người, một khi mang thân phận con người, đều phải chấp nhận những đau khổ, những thách thức của đời sống. Tất cả những bất hạnh, lo âu, khổ sở ấy chính là thánh giá đè nặng trên đời người.
Có những thánh giá là một căn bệnh hiểm nghèo, là cái chết ngay tức khắc, là một cánh cửa nhà tù đang khép lại tương lai, là một quyết định phác lưu biệt xứ, là một cuộc tẩy chay, loại trừ ra khỏi cộng đoàn hiệp thông, là một cuộc thanh trừng sát hại không để lộ tông tích, là một sự đàn áp dã man không còn nhân tính, là những bức bách thể xác tinh thần đến độ mất ăn mất ngủ sinh kiệt sức đến lâm chung, là cách cai trị theo kiểu cai trị đám dân nô lệ vài ngàn năm khi nhân loại còn trong bóng đêm lạc hậu…
Có khi thánh giá cuộc đời là những rủi ro một cách khách quan ập đến. Nhưng cũng có những cây thánh giá do chính con người quẳn lên cuộc đời của nhau. Nếu thánh giá là chính người thân của mình tạo ra cho mình, chắc chắn đau khổ sẽ vô cùng lớn, bất hạnh chắc chắn nặng nề hơn.
Trên http://www.baomoi.com/nguoi-me-dau-kho-quy-lay-xin-con-trai-hay-song-lam-nguoi-tu-te/c/21644754.epi, tác giả Phương Quỳnh kể lại nỗi đau của người mẹ phải một mình lo cho chồng ốm đau quanh năm bên cạnh đứa con trai duy nhất ngang tàn, phá phách, lao mình vào “xã hội đen”.
Người mẹ đau khổ ngậm ngùi tâm sự: “Cuộc sống lêu lổng của nó cứ ngày này qua ngày khác rồi đến lúc hết tiền nó lại về vòi vĩnh vợ chồng tôi. Tôi khóc không thành tiếng, còn quỳ lạy con trai mình hãy sống làm người tử tế, đừng hành hạ bố mẹ như thế nhưng nó vẫn không tỉnh ngộ. Nó hỗn hào cãi: “Sinh ra được thì phải chịu đựng được”.
Tôi như chết lặng người khi tận mắt chứng kiến hành động hung hãn để lấy bằng được tiền của đứa con trai mà tôi đã vất vả sinh thành nuôi nấng.
Cũng mấy lần tôi nghĩ quẩn không muốn sống làm gì nữa nhưng nhìn chồng mình ốm đau, không có tôi chăm sóc thì phải làm sao nên tôi cố gắng gượng. Giờ đây, cứ mỗi lần thấy con trai về đến cổng là vợ chồng tôi lại hoảng sợ. Tôi không biết đến bao giờ con trai tôi mới thấu hiểu nỗi khổ của bố mẹ và gia đình tôi hết sóng gió?”.
Ước mong, mỗi chúng ta hãy sống bên nhau bằng tình yêu. Nhất là các Kitô hữu, những người được thấm thía lời dạy “hãy yêu nhau” của Chúa, càng phải sống cho nhau, vì nhau, và yêu nhau theo gương Chúa, để cuộc đời này vốn đã nhiều đau khổ, sẽ bớt đau khổ hơn. Chính tình yêu làm cho sự sống của chúng ta đang yêu, đáng sống, đáng xã thân hiến dâng đời mình.
- THÁNH GIÁ LÀ NIỀM AN ỦI.
Vâng, có quá nhiều thánh giá cho các tín hữu thời nay. Thánh giá làm ta sợ hãi. Thánh giá gây nên những hoang mang, bất ổn trong cuộc đời. Ta muốn chạy trốn thánh giá. Ta muốn chối từ thánh giá, bởi thánh giá đã quá nhiều lần làm ta tê tái, rát buốt.
Nhưng thánh giá cũng là niềm an ủi. Bởi dù cho cuộc đời có vùi dập ta đến đâu, nhưng với một chút niềm tin, nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu, ta sẽ được đỡ nâng, được thêm sức mạnh, thêm can trường.
Cha ông của chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam là những bằng chứng cụ thể về việc các ngài được an ủi lớn lao từ thánh giá Chúa Kitô. Các ngài đã anh hùng vác thánh giá suốt cuộc đời mình qua những cuộc bách hại.
Các ngài đã ôm cây thánh giá vào lòng trước mặt quan quyền. Các ngài đã quì gối hôn kính thánh giá để chấp nhận bao cực hình cho đến chết, dứt khoát không bước qua thánh giá.
Dấu thánh giá xưa trở thành niềm kiêu hãnh lớn lao cho các thánh Tử Đạo. Ngày nay thánh giá vẫn đang an ủi bao nhiêu con người tưởng chừng bị đè bẹp tận đáy của đời sống. Như cha ông mình, họ nhìn lên thánh giá Chúa mà chấp nhận cuộc tử đạo hàng ngày qua mọi thương đau mà họ phải gánh lấy.
Biết bao nhiêu tâm hồn chìm trong tội, nhận ra bầu trời trong–mát–dịu của thánh giá, can đảm tách rời khỏi quá khứ tội lỗi, làm lại cuộc đời.
Biết bao nhiêu tâm hồn suốt đời chỉ chìm trong bạo lực đã nhìn lên bóng thánh giá mà rửa mình sạch mọi dơ bẩn để trở nên hiền hòa, đức độ.
Biết bao nhiêu con người đêm ngày ngụp lặt trong bất công, xảo kế, bỗng một lần nhìn lên thánh giá, đã quay lưng với tất cả lợi lộc từ những gian xảo mang lại, để biến mình thành môn đệ Chúa Kitô.
Biết bao nhiêu những tâm hồn lồng lộng dữ dằn như những con thú hoang, bỗng một lần khám phá ánh sáng yêu thương chiếu dọi từ thánh giá, đã trở nên hiền hòa, nhân hậu, đáng mến.
Biết bao nhiêu kẻ sống ích kỷ, đêm ngày chỉ biết tư lợi, bỗng một lần nhìn lên thánh giá, đã trở thành kẻ xả kỷ, biết hiến thân và hiến dâng.
Cũng vậy: Biết bao nhiêu tâm hồn bị đày ải, khổ đau, cuộc sống như chỉ còn muốn sống cho qua ngày, đoạn tháng, bỗng được tình yêu của thánh giá chiếu rọi, trở nên bình an hơn, chấp nhận trong vui tươi hơn.
Biết bao nhiêu kẻ tử tù, trên đường đi về cái chết, đã nhìn thấy thánh giá, và thánh giá bỗng trở nên sức mạnh khiến cuộc ra đi không còn đau đớn, chỉ còn là niềm tin chiến thắng.
Biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta thầm lặng, hoặc công khai, giữa những lúc bị bách hại, vì thánh giá, bất chấp mọi đe dọa, đêm ngày rao giảng đức tin vào tình yêu kỳ diệu của thánh giá Chúa Kitô.
Biết bao nhiêu người, nhìn cứ tưởng yếu đuối, mỏng dòn, nhưng nhờ tin vào thánh giá Chúa Kitô, họ đã có sức mạnh phi thường vượt thắng mọi thách thức mà con người, hay hoàn cảnh, hay môi trường mang lại.
Biết bao nhiêu người nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi…, vì thánh giá Chúa Kitô, đã có thể sống trung thành với đức tin mà không gợn một chút nghi nan, một chút u uất nào.
Biết bao nhiêu tâm hồn đầy chữ nghĩa, khoa bản, hiểu biết…, nhìn lên thánh giá, đã biết học lấy bài học của khiêm tốn, sống đơn sơ, thậm chí thô sơ với mọi anh chị em dù họ thấp kém, hay sang trọng.
Ngược lại, cũng có biết bao nhiêu tâm hồn, nhờ tình yêu đối với thánh giá, và đêm ngày chỉ biết suy tư cùng thánh giá, ôm lấy thánh giá trọn đời mình, dù họ là người kém cõi, ít hiểu biết, lại trở nên khôn ngoan, thấu hiểu những chân lý cao siêu lạ thường.
Biết bao nhiêu người suốt đời chỉ biết nhìn lên thánh giá, chọn thánh giá làm lẽ sống, vì thế đời họ luôn luôn sáng rực nụ cười và gieo nụ cười ấy khắp nơi.
Biết bao nhiêu người đã có thể trải lòng mình cho mọi người ở mọi nơi, mọi lúc, nhờ kiên định trong tình yêu đối với thánh giá Chúa Kitô.
Biết bao nhiêu người bước ra từ trong đau khổ, vẫn không mất niềm bình an, bởi họ đã tin vào thánh giá Chúa Kitô.
Cứ như thế, thánh giá sẽ chở che bất cứ ai vững lòng trông cậy. Từ ngàn xưa cho đến muôn đời, chắc chắn ai tin tưởng nơi thánh giá, họ sẽ không bao giờ thiếu vắng niềm an ủi…
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Sau khi ông Phêrô tuyên xưng: “ Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”,Đức Giêsu lại cho các ông biết : Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Đó là con đường thập giá Ngài sẽ phải đi qua. Từ đó Ngài đòi hỏi ai muốn đi theo Ngài cũng phải “ từ bỏ mình, vác thánh giá mình”. Đó là con đường sống: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.”
Với những người không tin vào Thiên Chúa, thì con người chỉ có một mạng sống; nhưng với người có niềm tin vào Thiên Chúa, tin có sự sống đời sau, thì cuộc sống trần gian hôm nay chỉ là một cuộc sống tạm bợ để đi về cõi sống hạnh phúc, vĩnh hằng.
Trong quyển sách nhan đề Underground Notes, một tù nhân chính trị người Nam Tư đã tả lại những kinh nghiệm của ông trong thời gian có cuộc bách hại khủng khiếp trên đất nước Nam Tư. Ông đã ghi lại nhiều câu chuyện về các tù nhân mà ông có dịp quen biết trong thời gian ấy.
Các tù nhân thường phải đối diện với một sự lựa chọn: hoặc trung thành với niềm tin của mình và chấp nhận hậu quả, hoặc đầu hàng trước thế lực áp bức và tránh được tra tấn.
Ông tả rất sinh động và rất thực cách thức mỗi nhóm tù nhân xoay xở. Những người trung thành với lương tâm của họ thì cảm thấy có một sức mạnh phi thường, một sức mạnh nội tại mà họ chưa bao giờ nhận ra ở nơi mình. Họ nhận thấy mình có đủ sức mạnh để đương đầu và vượt qua những hoàn cảnh gian khổ cùng cực. Ngược lại, những người muốn bảo toàn mạng sống mình lại hóa ra mất mát tất cả. Họ đánh mất tất cả giá trị của đời sống và sự sống.
Trò không hơn Thầy. Đức Kitô vì yêu thương con người đã vâng theo thánh ý Chúa Cha để xuống trần gian, mang thân phận con người để rồi phải chịu phản bội, chống đối, cuối phải lãnh án tử hình trên cậy thập giá. Con đường Đức Kitô đi là con đường thập giá, con đường hy sinh bản thân mình vì thánh ý Chúa Cha và vì yêu thương con người. Bởi thế, những ai muốn đi theo Đức Kitô cũng phải đi qua con đường thập giá như Đức Kitô đã đi; đó là con đường từ bỏ ý riêng mình, từ bỏ những đam mê dục vọng của mình để đi theo con đường vâng theo thánh ý Thiên Chúa để yêu thương phục vụ Thiên Chúa và con người. Đó là con đường hy sinh mạng sống mình, vì “ Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được sự sống ấy”.
Vậy muốn có được mạng sống đích thực, thì phải bước theo Đức Kitô là từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Đó là con đường dẫn chúng ta đến sự sống thật, sự sống vĩnh cửu.Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma cũng đã cho chúng ta thấy đâu là con đường dẫn đến sự sống đích thực: “ Tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống dộng, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.”
Được làm con cái Thiên Chúa là một hồng ân, đồng thời chúng ta cũng được kêu gọi làm môn đệ của Ngài để đi loan báo Tin Mừng cho kẻ khác. Nhưng hồng ân ấy có thể bị đánh mất đi khi chúng ta đặt tự do của mình trên ý muốn của Thiên Chúa.
Cuộc sống chạy theo những nhu cầu vật chất là một trở ngại lớn cho những ai muốn là môn đệ của Đức Giêsu. Nếu muốn chiếm được Nước Trời, muốn tìm được sự sống đích thực, thì phải chết đi cho những gì chóng qua, hư nát. Chết đi để được sống.
Thiên Chúa tạo dựng con người không phải để bắt con người phải sống vất vả khổ cực, nhưng để được sống hạnh phúc. Thiên Chúa cũng không để mặc cho con người sống ra sao thì ra tùy số phận của con người, nhưng Ngài muốn cho con người sống hạnh phúc. Nhưng để đạt được mục đích ấy con người phải bước đi theo con đường của Ngài. Con đường ấy không phải là con đường thênh thang, dễ dãi nhưng là con đường hẹp. Con đường ấy là từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà đi theo Thầy Giêsu
.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“Ai muốn theo Thầy,
phải từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình mà theo”
I. LẮNG NGHE LỜI CHỨA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 16,21-27):
21 Từ khi ông Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, thì Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22 Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26 Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?
27 “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA
2.1 Sự tương đồng giữa Thầy và trò thì nền văn hóa nào cũng đề cao. Bằng chứng ai trong chúng ta cũng thuộc lòng câu tiếng ta “thầy nào trò nấy” hay câu tiếng tây “tel maitre tel élève”. Cũng có nghĩa là Thầy đi con dường nào thì trò đi con đường nấy. Chính Đức Giê-su đã mời gọi tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài: “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vàc thập giá mình mà theo?” Con đường của Thầy là “phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại “
2.2 Việc Tông Đồ Phê-rô ngăn cản Đức Giê-su đi vào con đường thập giá cũng là chuyện bình thường và dễ hiểu, vì loài người là như thế. Thật ra không chỉ một mình Phê-rô mà cả 12 Tông Đồ đều không muốn Thầy của mình đi vào con đường thập giá. Trái lại cả 12 Tông Đồ -mà Gia-cô-bê và Gio-an đóng vai đại diện- đều mơ ước được Thầy dẫn vào con đường vinh quang: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người đuợc ngồi bên tả Thầy khi Thầy được vinh quang” (Mt 10,37).
2.3 Việc trò chịu đi con đường của Thầy là chìa khóa của đời sống tâm linh, vì nên thánh theo Ki-tô giáo chẳng là gì khác là nên giống Chúa Giê-su Ki-tô. Nói cách khác đi con đường thập giá, hy sinh từ bỏ mình chính là con đường nên thánh, nên hoàn thiện của các Ki-tô hữu.
III. THỰC THI LỜI CHÚA
3.1 Khi nói về Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục tiến sĩ Hội Thánh và là dịch giả Bộ Thánh Kinh Phổ Thông (Vulgata) từ tiếng Hy-lạp sang tiếng La-tinh, người ta thường kể câu chuyên vui nhưng nhiều ý nghĩa này:
Một đêm Giê-rô-ni-mô ngủ mơ thấy mình xuất hiện trước tòa Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa hỏi ông: “Anh là ai?” Giê-rô-ni-mô nhanh nhẩu đáp: “Dạ con là Giê-rô-ni-mô”. Chúa hỏi tiếp: “Anh là môn đệ của ai?” Giê-rô-ni-mô không chần chừ đáp lại liền: “Dạ con là môn đệ của Chúa mà Chúa không nhận ra con sao?” Chúa Giê-su nhăn mặt hỏi thêm: “Hằng ngày anh đọc những sách nào?” Giê-rô-ni-mô ấp úng trả lời: “Dạ con đọc Ciceron và các tác phẩm văn chương La-mã, Hy-lạp ạ”. Chúa Giê-su liền nói: “Anh đọc sách của Ciceron thì anh là đồ đệ của Ciceron, chứ làm sao anh là đồ đệ của Ta được, anh có đọc sách của Ta đâu». Giê-rô-ni-mô giật mình tỉnh giấc và hiểu rằng anh phải đọc Sách Thánh thì mới là môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô. Và từ ngày đó Giê-rô-ni-mô không đọc các sách của Ciceron và các tác phẩm văn chương Hy-La nữa mà chỉ đọc Thánh Kinh Cựu và Tân Ước mà thôi.
Có lẻ nhờ kinh nghiệm của bản thân, Thánh Giê-rô-ni-mô mới nói một câu bất hủ: “Không biềt Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô”
3.2 “Biết” theo nghĩa Thánh Kinh không chỉ là có kiến thức mà là có cảm nghiệm về Chúa, là sống mật thiết gắn bó với Chúa, là sống chết với Chúa, là theo chân Chúa, là đi con đường của Chúa. Người môn đệ của Chúa Ki-tô là người biết Chúa Ki-tô theo ý nghĩa đặc biệt này. Từ nhỏ tới lớn và từ lớn tới già tôi vẫn luôn cố gắng đi theo Chúa Giê-su Ki-tô trên con đường Người đã đi là con đường hy sinh, từ bỏ và phục vụ hiến dâng.
IV CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa làm người, là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Con dâng lời chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã đi con đường thập giá và mời gọi con đi theo Chúa.
Chúa biết hy sinh, từ bỏ, vác thập giá theo Chúa là việc khó khăn vượt sức loài người. Nhưng con muốn đi theo Chúa vì con biết đó là con đường duy nhất dẫn con tới sứ sống và hạnh phúc thật.
Xin Chúa giúp con.
Xin Chúa ban sức mạnh cho con.
Con cầu xin Chùa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
.
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXII TN/A – Mt 16, 21-27) trình thuật sự kiện thánh Phê-rô bị quở trách rất nặng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Cũng vì Đức Giê-su gọi thánh Phê-rô là Xa-tan, nên đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng Thánh Phê-rô cám dỗ Chúa Giê-su, cũng giống như khi mở đầu cho hành trình công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, bị quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11). So sánh như vậy thì có vẻ không ổn, vì với lần vào sa mạc, quỷ đem những mồi nhử vinh hoa, phú quý, danh vọng cám dỗ Chúa, mục đích của chúng chỉ là để hạ bệ, làm nhục Chúa, và cũng vì thế, chúng thất bại nhục nhã, phải lủi thủi “bỏ Người mà đi”.
Còn việc Thánh Phê-rô trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 23) có mục đích khác hẳn mục đích của quỷ dữ. Thánh nhân thấy Thầy mình tỏ cho biết hành trình khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem mà Thầy sắp phải gánh chịu, thì vì quá thương Thầy, nên Thánh nhân mới thốt ra những lời nói làm phật ý Thầy. Nếu có hiểu từ “trách” (Thánh Phê-rô trách Đức Giê-su) mà sách Tin Mừng ghi lại, thì cũng nên hiểu đây chỉ là lời “trách yêu” – trách vì yêu – mà thôi, hoàn toàn không mang tính cám dỗ. Vả lại, thánh nhân chỉ cầu xin Thiên Chúa cho Thầy khỏi gặp cảnh ấy, chớ có mời mọc, dụ dỗ Thầy mình làm chuyện gì đâu, mà gọi là cám dỗ (theo từ nguyên, “cám dỗ” có nghĩa: khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã)? Thánh Phê-rô chỉ vì thương Thầy quá nên mới cầu xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy phải gánh chịu cuộc khổ nạn, mà cứ theo như lời kể của Thầy thì quá sức khủng khiếp.
Không thể vì thấy những lời quở trách của Đức Giê-su (gọi Thánh Phê-rô là Xa-tan) để rồi coi lời nói xuất phát tự đáy lòng của một con người chất phác bộc trực ấy là lời cám dỗ được (dù cho có nói chệch đi là ma quỷ mượn thánh Phê-rô để cám dỗ Chúa). Thiết tưởng mỗi Ki-tô hữu cần phải nhìn lại bản thân xem, đặt giả thử trực diện với hoàn cảnh tương tự, mình có được như thánh Phê-rô khi thấy Người Thầy mà mình vẫn tuyên xưng là Con Thiên Chúa sắp phải chịu thương khó cho đến chết, hay không? Đã không được như thánh Phê-rô thì chớ, biết đâu lại chẳng nghĩ rằng “Số của Thầy, Thiên Chúa đã định như thế thì phải chịu, vậy thôi!” Không tin vào Thầy, mà lại đi tin vào cái thuyết định mệnh (số mệnh), đó phải chăng mới chính là một cách gián tiếp vô hình chung đồng loã với tội ác? Vâng, và vì thế mới cần phải đi xa và sâu hơn một chút, sẽ thấy thánh Phê-rô cũng chỉ là một con người không hơn không kém, mà đã là con người thì tất yếu sẽ có những suy nghĩ rất con người (“vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”).
Như vậy thì đâu mới là tư tưởng của Thiên Chúa? Và đây: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 24-26). Khó hiểu quá! Đi theo Chúa thì chẳng phải mục đích là “cứu lấy mạng sống mình” hay sao? Vậy tại sao lại “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất”? Nhưng suy niệm cho thấu đáo, thì Lời Chúa dạy chính là để diễn cho rõ ý nghĩa “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đi theo Thầy không phải là để được sống một cuộc sống vật chất dư thừa, đi theo Thầy cũng không phải là để được làm ông nọ ông kia, quyền lực danh vọng đầy mình. Đi theo Thầy là phải từ bỏ tất cả, kể cả cha mẹ, vợ con, thậm chí hy sinh cả mạng sống mình; như vậy thì chẳng phải là vác thập giá đó sao? Còn những ai vẫn quyến luyến cuộc sống phù phiếm, mê đắm với bả vinh hoa, tức là muốn “cứu lấy mạng sống mình” nơi cõi thế, như vậy thì làm sao mà tìm được mạng sống mình nơi cõi phúc trường sinh?
Chuyện đã rõ ràng như 2 với 2 là 4: Nếu muốn đi theo Thầy để “cứu lấy mạng sống mình” hầu được về nơi quê trời vĩnh cửu, thì phải biết “liều mất mạng sống mình” nơi trần thế khổ đau. Hiểu được tư tưởng Thiên Chúa qua Lời Thầy dạy đã thấy khó khăn, nhưng để sống được, thực hành được Lời Thầy dạy, mới là thiên nan vạn nan. Tuy nhiên, “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học), và cũng bởi vì “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ôi chao! Loài người mà! Nếu chẳng vậy thì Chúa đâu có phải chịu “đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết” (Mt 16, 21).
Tóm lại, hãy để cho Lời Chúa như ngọn lửa bừng cháy trong tim. Nói cách cụ thể là “Hãy sống theo Thần Khí” và dứt khoát “không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn.” (Gl 5, 16-17). Vâng, “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12, 2). Chỉ có như thế mới có hy vọng “sẽ tìm được mạng sống” mình nơi cõi phúc đời đời.
Ối! “Lạy Chúa! Con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường, mão gai nào hằn sâu trên trán. Lạy Chúa! Thánh giá nào Ngài vác trên vai, đau thương nào phủ kín tâm tư, đường tình đó Ngài dành cho con. Lạy Chúa! Xin cho con bước đi với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa! Xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang.” (Văn Chi – “Con đường Chúa đã đi” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Chúa, mọi sự tốt lành đều bởi Chúa mà ra, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển, và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lới nguyện nhập lễ CN XXII/TN-A).
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Liền sau khi Phêrô tuyên tín rằng: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy, Phêrô kéo Người ra và can ngăn Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (x. Mt 16,22). Phêrô cho rằng làm như vậy là đúng, là cần thiết, và chắc chắn sẽ được Thầy khen ngợi như lần trước. Nhưng không ngờ rằng, lần này chẳng những Thầy không khen mà còn quở mắng ông một cách thậm tệ: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Lần trước được Thầy khen “vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 16,17). Còn lần này bị Thầy quở mắng vì “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,23). Qua lời răn dạy của Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn lại con người của mình, lắm lúc ý nghĩ của chúng ta chưa chắc là ý nghĩ của Chúa, thậm chí còn trái với ý nghĩ của Chúa (x. Is 55, 8). Cho nên, trong các sự việc hằng ngày chúng ta đừng vội làm theo ý riêng của mình mà cần phải tìm kiếm và tuân theo ý của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng đã luôn sống theo thánh ý Chúa Cha, Ngài khẳng định rằng: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (x. Ga 4,34). Trong vườn Cây Dầu, trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Ý của Chúa được thể hiện qua Lời của Ngài, qua các Giới răn, qua các Bề trên hợp pháp, qua cha mẹ… Ý của Chúa còn được thể hiện một cách cụ thể qua lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Lời mời gọi này diễn tả hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực, đó là “từ bỏ mình”; khía cạnh tích cực, đó là “vác thập giá”.
“Từ bỏ mình” nghĩa là từ bỏ ý riêng của bản thân để tuân theo ý Chúa. Từ bỏ mình là từ bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới. Từ bỏ mình là từ bỏ những thói hư, tật xấu, những tham, sân, si. Từ bỏ mình là từ bỏ cả những cái thân thiết khi Chúa đòi hỏi như nhà cửa, ruộng nương, người thân. Từ bỏ mình là từ bỏ những thứ cồng kềnh khi chúng ta chấp nhận đi con đường hẹp. Đi con đường hẹp đòi hỏi phải hy sinh, phải “liều mất” để “được”. Đi con đường hẹp sẽ nên hoàn thiện, sẽ đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 25-26).
Còn “vác Thập giá mình” là đón nhận những đau khổ trong cuộc sống một cách vui vẻ với niềm hy vọng sẽ được hạnh phúc đời sau, giống như Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh:
Những đau khổ đó có thể do tội lỗi gây ra. Sau khi Adong phạm tội, Thiên Chúa đã cho ông biết : “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,17-19);
Những đau khổ đó có thể tự mình gây nên cho mình: Một sự thiếu tiết độ, một thói quen xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, không giữ luật giao thông nên gây ra tai nạn. Nghiện thuốc lá, nghiện rượu gây ra các chứng bệnh phổi, tim v.v.;
Những đau khổ đó có thể do chính con người gây nên cho nhau: Hằng ngày có biết bao nhiêu vụ bắt cóc trẻ em, cướp bóc, hận thù, kỳ thị, ghen ghét, giết chóc, đàn áp, cáo gian, đánh đập, làm thực phẩm độc vv…Những đau khổ đó là do người thân, bạn bè, những người trong xã hội, những người ghét chúng ta gây ra;
Những đau khổ đó có thể do chính vũ trụ bất toàn: Động đất, bão lụt, hạn hán, ôn dịch…gây ra biết bao đau khổ cho con người;
Những đau khổ đó có thể do chúng ta mang danh là kitô hữu: Các cuộc bắt bớ các kitô hữu qua các thời kỳ lịch sử cho chúng ta thấy điều đó. Chính Đức Giêsu cũng đã từng nói : “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét…” (x. Mt 10,22). Vì thế, để trung thành với luật Chúa và Giáo hội, người kitô hữu phải chấp nhận đau khổ.
Nhìn lại đời sống đức tin, để từ bỏ mình và vác thập giá mình đi theo Chúa một cách trọn vẹn không phải là chuyện dễ dàng. Có khi chúng ta cũng giống như Phêrô không sẵn sàng đón nhận những đau khổ xảy đến với mình, không đón nhận đau khổ trong niềm vui và hy vọng nhưng còn có thái độ gượng ép, thậm chí nhiều khi còn phàn nàn kêu trách Chúa. Người đàn ông trong câu chuyện ngụ ngôn sau đây có lẽ cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta: Có một người đàn ông luôn than van về những nỗi khổ cực của mình gặp phải. Một hôm, thiên thần hiện đến nói với ông : “Con hãy theo ta ra nghĩa địa, vì nơi đó người ta để lại thánh giá của cuộc đời mình. Con hãy mang thánh giá của con ra đó, và hãy lựa thánh giá vừa sức với con.”
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn một cái khác nhẹ hơn, nhưng ông tìm kiếm mãi mà không được: vì có cây quá dài, nhưng có cây lại quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng lại quá nặng, và sau cùng ông nói với thiên thần : “Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với sức của con thôi.”
Thiên thần trả lời: “Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa với sức của con, con hãy vui lòng đón nhận mà vác đi trọn cuộc đời của mình, đừng than van gì nữa.”
Ước gì mỗi người chúng ta biết “từ bỏ mình và vác thập giá mình” trong niềm vui và hy vọng. Nhờ đó, khi Con Người ngự đến trong vinh quang, chúng ta được lãnh nhận phần thưởng xứng với sự cố gắng của chúng ta. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Mỗi người đều có gánh nặng riêng mình, mang vác thế nào là một cách mỗi người tự giải quyết, nhẹ nhàng hay chất nặng tùy theo sự gột bỏ chính mình.
Một chiếc tàu chở gạo, chất nặng, tải gạo từ miền Nam ra miền Bắc, chiếc tàu chở khẳm hơn thường lệ. Dọc đường vào quãng miền Trung, tin bão xa gần tới, chiếc tàu trở nên nặng nề để di chuyển đi tìm chỗ trú, những người theo tàu đề nghị trút bớt gạo xuống biển để tàu nhẹ hơn, nhưng người chủ hàng vì tiếc của đã không đồng ý.
Chiếc tàu chịu trận khi cơn bão ập đến, vời những cơn gió giật đầu tiên, chiếc tàu đã bắt đầu chuyển mình kêu răng rắc, một lúc sau chiếc tàu bị xé tóac ra, giữa gió bão chiếc tàu không thể chịu đựng hơn được nữa, chiếc tàu đã bị nhấn chìm giữa lòng đại dương.
Những người đi trên tàu vừa kịp mang vào trong mình những chiếc phao cứu hộ, rời xa chiếc tàu bị đánh đắm. Chỉ riêng người chủ hàng, vì tiếc của đã ôm lấy thân con tàu và bị sóng nhồi cho đến chết. Chiếc tàu, hàng hóa, chủ hàng đều đã ra đi, tất cả để lại một bài học, trút bỏ hay là cùng chết.
Bạn thân mến! trút bỏ bao giờ cũng không phải là dễ. Trút bỏ những điều xấu, như lòng tham lam, như những đam mê dục vọng, tưởng rằng là dễ nhưng thật ra rất khó. Khó bởi vì, thú vui nhất thời ấy là một phần của cuộc sống, không có nó, bạn thấy thiếu vắng nhưng có nó bạn đau khổ vì nó.
Bỏ một điều xấu đã khó, bỏ một điều tốt chính đáng được hưởng lại càng khó hơn, như một chiếc tàu cần chuyên chở với khả năng của mình lại chất chứa quá tải những gì nó có. Cứ chất lên, và càng chất lên càng khó bỏ xuống. Của cải là như thế, càng có người ta muốn có nhiều hơn, và muốn có nhiều hơn người ta càng tải nhiều hơn cho đến lúc không còn chịu đựng được nữa, mọi thứ đều bị phá tan.
Liều mất mạng sống
Mạng sống con người thật quý giá nhưng giá chuộc cho con người khỏi tội lỗi thật quý giá hơn. Chúa Giêsu luôn mời gọi các môn đệ của Người: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 26).
Xưa nay, con đường đưa tới chân lý, sự sống lại thường đổi bằng giá máu, bằng việc hy sinh. Con đường chân lý nặng gánh gian nan. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16, 16). Trong thiền viện các thiền sư luôn dạy các thiền sinh: “phải giật lấy chân lý thiền từ tay thiền sư”. Thánh Gandhi của Ấn Độ nói: “Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh”. “Con người tiến đến chân lý không thể vươn tới qua hàng loạt sai lầm” (Aldous Huxley).
Từ bỏ chính mình, nghĩa là từ bỏ những ích kỷ, đê hèn nơi chính mình. Con đường khó khăn nhất để chiến thắng, đó là chiến thắng được chính mình. Nếu chính mình đã liều mất mạng sống vì chân lý, sự thiện và tình yêu thì còn có sự dữ nào có thể khuất phục được một con người như thế. Kết luận của Chúa Giêsu “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16, 33).
Chúa đã thắng thế gian và đó là bằng chứng cho con người chính trực biết rằng, dù xem ra sự ác đang chiến thắng nhưng thực ra chỉ là nhất thời. Tin tưởng và hết lòng vì chân lý, sự thiện, tình yêu chắc chắn thành tựu sẽ bền vững và đạt tới vinh quang nước trời.
Thánh Tôma Aquinô cầu nguyện:
“Xin ban cho con một trái tim kiên vững,
Để không tình cảm bất xứng nào có thể kéo con xuống.
Xin ban cho con một trái tim bất khuất,
Để không đau khổ nào có thể xói mòn.
Xin ban cho con một trái tim chính trực,
Để không lợi lộc tầm thường nào có thể làm con nao núng”
.
Lm. Giuse Nguyễn
- “Dậy thì thành công”là trào lưu hot nhất trên mạng xã hội trong những tháng đầu năm 2017. Nhiều bạn trẻ đã thi nhau đăng tải những bức ảnh của chính mình trong khoảng thời gian cách biệt từ 5 đến 10, thậm chí 15, 20 năm. Dĩ nhiên bức ảnh trong hiện tại hoàn toàn xa lạ với bức ảnh trong quá khứ. Điều đó các bạn trẻ gọi là “dậy thì thành công” vì từ một con vịt trở thành một con thiên nga. Trào lưu “dậy thì thành công” của các bạn trẻ khiến tôi suy nghĩ đến việc “hoán cải thành công” mà Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi chúng ta.
- Trong phần dẫn nhập sách Giêrêmia của nhóm Phụng vụ Giờ Kinh đã viết về ông như sau: “Hơn mọi ngôn sứ khác, Giêrêmia phải gồng mình để chấp nhận lời Chúa và chấp nhận chính mình trong tương quan với lời ấy”. Những lời tâm sự của ông trong bài đọc thứ nhất cho chúng ta thấy sự dằn vặt trong chính nội tâm đã làm nên nét đẹp của riêng ông so với các ngôn sứ khác: “Lạy Chúa, Ngài quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ”. Chính sự quyến rũ đó đã khiến ông “trở nên trò cười cho thiên hạ”, “bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày”…Giêrêmia là một con người đa sầu đa cảm nhưng đã được Chúa hoán cải để trở thành một con người mạnh mẽ sống triệt để cho Lời Chúa. Từ lời rao giảng và việc đón nhận những đau khổ trong sứ mạng, ông cũng đã hoán cải được biết bao nhiêu con người khi họ đọc Lời Chúa trong sách tiên tri Giêrêmia.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Rôma hoán cải: “Anh em đừng có rập heo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mơi tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 2).
Sau khi loan báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã được sự khôn ngoan, tính toán theo kiểu thế gian của Phêrô bao bọc bằng cách: “Kéo riêng người ra và bắt đầu trách móc người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 16, 22). Đức Giêsu bảo ông phải lui ra đàng sau, để Ngài tiến lên phía trước. Đây đích thực là sự hoán cải. Hoán cải nghĩa là chấp nhận lùi bước với những chương trình riêng tư của con người, để ý định của Thiên Chúa được thực hiện. Đức Giêsu đã triển khai ý tưởng đó một cách rõ nét hơn: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lời gì?” (Mt 16, 26).
- Từ câu nói của Đức Giêsu đã hoán cải được nhiều vị thánh như Phanxicô Xaviê, Alphongsô hay Augustinô… Điểm chung của tất cả những vị thánh này là đã có hoặc đang tìm kiếm những sự thuộc về thế gian này, nhưng họ thấy một giá trị cao cả hơn nên đã mạnh dạn từ bỏ tất cả những gì đang có hoặc đang tìm, để bước theo một Đấng cho mình giá trị cao cả, sâu thẳm đó. Chắc chắn khi bước theo Đấng ấy để tìm kiếm một thứ hạnh phúc không thuộc về thế gian này thì họ phải đánh đổi tất cả, kể cả mạng sống mình. Và đó là đòi hỏi của Đức Giêsu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).Điểm chung cuối cùng của những vị thánh này là họ đã tìm kiếm được hạnh phúc đích thực cho riêng mình, và từ đó trở thành tấm gương cho thế hệ mai sau. Hay nói cách khác, họ đã hoán cải thành công.
- Giêrêmia đã thấy được sự thối nát của giới lãnh đạo cũng như sự hư hỏng của người dân Giuđa nên ông đã mạnh mẽ lên tiếng mời gọi một sự hoán cải, nhưng lời mời gọi của ông không được đón nhận, vì vậy Giuđa rơi vào cảnh mất nước và người dân phải chịu cảnh lưu đày. Thế cho nên, thời nào cũng vậy, từ xã hội cho đến Giáo hội; từ tập thể cho đến cá nhân đều cần phải có sự hoán cải vì những sai lầm của mình, nhất là khi những sai lầm đó đã được người khác phát hiện và chỉ cho thấy. Nếu họ đón nhận rồi khắc phục bằng những việc tốt và đem lại lợi ích cho người khác thì đó là hoán cải thành công. Nếu họ không đón nhận mà còn cố tình đi sâu vào những sai lầm của mình thì họ phải gánh lấy hậu quả.
- Một xã hội cần hoán cải để mưu cầu lợi ích cho người dân, để những quyền lợi chính đáng của họ được tôn trọng. Một Giáo hội cần hoán cải để tình thương của Thiên Chúa được dễ dàng loan báo đến “tận cùng trái đất”… Tuy nhiên những điều đó không nằm trong khả năng của chúng ta, nhưng chúng ta có thể góp phần bằng việc hoán cải chính mình. Lời của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay sẽ là khuôn vàng thước ngọc để mỗi người chúng ta hoán cải.
a. Trước hết là hoán cải trong tư tưởng. Đức Giêsu đã nói với Phêrô sau khi ông ngăn cản không cho Ngài lên Giêrusalem (cụm từ nói về việc Ngài sẽ bước vào cuộc khổ nạn): “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23b).Tư tưởng của Phêrô cũng là tư tưởng chung của nhiều người. Tư tưởng đó là việc muốn có một cuộc sống an nhàn, ngại khó, ngại khổ, chỉ nghĩ đến bản thân mình chứ không nghĩ đến người khác, chỉ thấy những cái trước mắt mà không thấy những chuyện sâu xa… Đức Giêsu đã chỉnh đốn tư tưởng của Phêrô bằng việc nói lên sự thật: Đừng tưởng theo Thầy là chuyện dễ dàng, hoặc theo Thầy chỉ để được hưởng thụ, sung sướng… “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).
Như vậy hoán cải trong tư tưởng là luôn luôn ý thức con đường thập giá mình phải đi. Theo đạo, tin Chúa không phải để Chúa hóa giải những khó khăn trong cuộc sống (cũng có khi Chúa làm điều đó), nhưng quan trọng là để đủ sức mạnh vác lấy thập giá mỗi ngày. Nhiều người đổ thừa vì nghèo quá nên không đi lễ, đợi khi nào cuộc sống ổn định sẽ đi; đi lễ hoài mà không khá hơn, có lẽ Chúa không thương nên bỏ Chúa; cầu nguyện hết sức chân thành mà Chúa không nhậm lời nên nghi ngờ không biết có Chúa không… Đó là những tư tưởng cần được hoán cải. Hoán cải cho đến khi nào nhận thức được tình yêu của Chúa đã ban nhưng không nên tôi bước theo tình yêu đó như một cuộc dấn thân cho lý tưởng đời mình, chấp nhận tất cả, miễn là được sống cho tình yêu, thì đó là hoán cải thành công trong tư tưởng.
b. Kế đến là hoán cải trong việc làm. Việc tuyên xưng Thiên Chúa ngoài môi miệng không quan trọng, như Phêrô mới vừa mạnh mẽ tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”, thì liền sau đó đã ngăn cản Thầy mình lên Giêrusalem… Chính hành động quay trở lại Giêrusalem để chịu chết vì danh Đức Giêsu mới làm nên giá trị con người của Phêrô, và đó là sự hoán cải thành công.
Cũng vậy, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một sự hoán cải để can đảm bước đi theo Đức Kitô trên con đường thập giá, thì mỗi người hãy nhìn xem chúng ta đã làm gì cụ thể trong đời sống đức tin của mình. Nếu bấy lâu nay tôi đi lễ chỉ vì ép buộc, vì người này người kia lôi kéo, thì từ hôm nay tôi quyết tâm tham dự Thánh lễ Chúa Nhật với tất cả sự ý thức để thờ phượng Chúa. Nếu trong đời sống gia đình, tôi vẫn còn những đam mê sai trái cho một thứ tình cảm riêng tư nào đó, mặc dù chưa ai biết, nhưng chắc chắn sẽ làm đổ vỡ gia đình tôi, thì hôm nay tôi quyết tâm từ bỏ để giữ lời thề trung thành với người bạn đời của tôi. Nếu đang có những việc làm sai trái như gian lận, lường gạt, cờ bạc, chứa chấp… thì hôm nay tôi quyết tâm từ bỏ để sống ngay chính, hành nghề lương thiện… Chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải từ bỏ những điều đó, nhưng vì sự sống đời sau mà tôi sẽ sẵn sàng vác thập giá theo Chúa.
Các bạn trẻ theo trào lưu “dậy thì thành công” để chứng tỏ hiện tại tôi đẹp hơn trong quá khứ. Thì sau khi được lời Chúa hôm nay soi dẫn, tôi phải thực sự trở thành con người mới. Vì vậy hãy cùng nhau quyết tâm hoán cải từ trong tư tưởng việc làm của mình. Quyết tâm của chúng ta chắc chắn sẽ được Chúa thánh hóa trong thánh lễ này, bằng việc một lát nữa đây, khi dâng lễ vật, chúng ta hãy hiệp với chủ tế để dâng quyết tâm cụ thể cua mình.
Xin Mẹ Maria, Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp cầu bầu cùng Chúa cho chúng con “Hoán Cải Thành Công”.
.
THEO CHÚA THÌ PHẢI VÁC THÁNH GIÁ
Bác sĩ Ng Tiến Cảnh
Qua bài Phúc Âm hôm nay (Mt 16:21-27), Mathieu cho biết đức Giesu báo trước cuộc khổ nạn của người lần thứ nhất. Cùng tư tưởng đó, Marco (Mc 8:31-33) nói rõ chức thiên sai của Chúa không phải là một chức vị vinh quang, quyền quí trần thế. Cuộc khổ nạn theo Mathieu là những đau buồn phiền muộn của “Con Người Chúa Giesu”. Mathieu viết theo bản Tân Ước tiếng Hy Lạp nên giống như Phaolo viết trong thư gửi tín hữu Corinto và Hosea (1Cr15:4; Hs 6:2) mà nhiều người cho là ảnh hưởng bởi Cựu Ước vì nói Đức Giesu sống lại vào ngày thứ ba.
Cụm chữ “từ lúc đó” (Mt 16:21) là Mathieu có ý nói việc đức Giesu cảm thấy nỗi đau khổ và cái chết của Người sắp đến là báo hiệu một giai đoạn mới của Tin Mừng Phúc Âm. Liền sau lời tuyên xưng của Phero về đức Giesu tại Caesarea Philippi, đức Giesu “bắt đầu tỏ lộ cho các môn đệ là Người phải đi lên Jerusalem và chịu đau khổ, bị giết chết vì những kỳ mục, thượng tế và kinh sư, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Mt 16:21). Nghe vậy Phero kéo đức Giesu ra chỗ vắng và nói nhỏ: “Thưa Thầy, xin Thiên Chúa đừng để điều đó xẩy ra cho Thầy” (Mt 16:22). Nhưng đức Giesu quay lại nói với Phero: “Satan, lui lại sau ta. Anh đang cản lối ta đi, vì tư tưởng của anh không phải do Thiên Chúa mà do loài người”(Mt 16:23).
PHERO KHÔNG MUỐN CHÚA PHẢI KHỔ NẠN VÀ CHẾT
Phero không chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giesu là từ chối chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã định cho Đức Giesu đã bị coi như Satan, và để cho các môn đệ nhớ lại hình ảnh Chúa đuổi quỉ khi hắn mưu toan cám dỗ Người trong sa mạc Chúa đã mắng Phero “Hỡi Satan! Hãy xéo đi” (Mt 4:10). Danh xưng satan của Mathieu cũng thấy trong Marco và còn nhấn mạnh bằng câu “mi là đá tảng cản lối ta đi.” Chúa Giesu có ý nói ai muốn theo Chúa thì phải chịu đau khổ, hy sinh mạng sống mình vì Người và, đó là điều kiện để trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Bù lại Thiên Chúa sẽ trả công gấp bội vào giờ phán xét sau cùng (Mt 16:24-28).
Khi không chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giesu, Phero có ý gì? Câu nói của Phero “Thưa Thầy, điều này không thể xẩy ra được! Thầy không nên nói vậy, không công bằng và không đúng” chứng tỏ Phero chẳng hiểu gì về màu nhiệm Thiên Chúa qua việc làm của đức Giesu và điều kiện chúng ta phải có nếu muốn theo Chúa. Phero và các môn đệ phải đối đầu với thực tế hang ngày đầy khó khăn và nguy nan theo kế hoạch của Thiên Chúa mà lý luận loài người thì không thể chấp nhận được. Để có thể chịu đựng được những đớn đau kinh khủng do những tay cường quyền tôn giáo lúc đó là phải chấp nhận thánh giá Chúa dù phải chết. Đó là tất cả gánh nặng mà đức Giesu phải chịu, không phải sung sướng, tiện nghi và dễ dãi. Vậy chúng ta có thể vất bỏ thánh giá đau khổ đó đi được không? Vác thánh giá có thực sự cần thiết không? Có phải vì quá buồn nản và đau khổ mà chúa Giesu thốt ra những lời như vậy không?
Có người nói vì Phero quá yêu mến Chúa, không muốn Chúa phải đau khổ và chết, nên mới thốt ra lời như vậy để bị Chúa quở trách. Ngày nay, chúng ta đôi khi vì dị đoan đã cho là Chúa “nói gở”. Chúng ta có nên thông cảm cho Phero không?
TỪ “ĐÁ TẢNG” ĐẾN “ĐÁ CẢN”
Mới tuần trước tại thành Caesarea Philippi, Phero được gọi là “Đá Tảng”, bây giờ lại là “Đá Cản !” Phải chăng đức Giesu muốn nhắc Phero là anh ta chẳng hiểu gì về kế hoạch nhiệm màu mà Thiên Chúa đã vạch ra cho anh ta, mỗi người chúng ta và toàn thể nhân loại?
Đức Giesu nói với các môn đệ là nếu muốn theo Người thì phải tự từ bỏ mình, vác thập giá và đi theo Người (Mt 16:24). Từ bỏ một người là không chấp nhận người đó. Từ bỏ mình là không công nhận mình là trung tâm hiện hữu của mình. Phero có lúc đã từ chối Thầy mình: “Tôi không biết người đó là ai!”(Mt.26:74). Mỗi người chúng ta cũng vậy, khi tự từ chối mình là không còn coi mạng sống mình là của mình nữa, -tôi không còn nghĩ về tôi nữa, tôi không còn là trung tâm điểm của tôi nữa. Nhưng chưa hết, chúng ta còn phải hành động là bước theo chúa Giesu như lời Người mởi gọi: “Hãy Theo Ta.” Tất cả mọi lời Chúa nói trước đây và sau này là những đòi hỏi cần thiết khả dĩ để yêu mến đức Giesu, bước theo Người và tiếp tục ở lại mãi mãi với Người.
THEO ĐỨC GIESU
Giáo huấn của đức Giesu cho nhóm 12 môn đệ được tóm gọn như sau: “Bất cứ ai chấp nhận nghe theo tiếng gọi “Hãy Theo Ta”, thì phải chấp nhận Ta như chính con người của Ta vậy” có nghĩa là theo Chúa thì phải chấp nhận đau khổ và thập giá của Chúa! Dấu chỉ của đấng thiẻn sai cũng phải trở thành dấu chỉ của các môn đệ của Người. Họ đứng sau Người, rồi bước theo Người và đi lên Jerusalem cùng với Ngưới. Điều đó nói lên đầy dủ ý nghĩa của thập giá phải vác theo chúa Giesu, không phải trong hành trình đau khổ đơn độc, phân vân tuyệt vọng hay nổi loạn, mà là cả một hành trình chấp nhận, chịu đựng được nuôi dưỡng bới Thiên Chúa. Đức Giesu yêu cầu chúng ta phải can đảm chọn cuộc sống giống như cuộc sống của chinh Chúa. Tất cả những ai theo chúa Giesu thì không thể thoát khỏi đau khổ. Con đường của Thiên Chúa không phải là con đường của chúng ta, nhưng chúng ta được khuyến khích thi hành con đường của chúng ta sao cho phù hợp và giống con đường của Thiên Chúa.
PHÂN BIỆT ƯỚC MUỐN CỦA THIÊN CHÚA
Vì Đức Kito ra dấu chỉ chấm dứt luật Maisen là luật sơ khởi hướng dẫn dân Chúa, nên thánh Phaolo tỏng đồ, trong thư gửi tín hữu Roma (12:1-2) đã giảng giải cho người Kito hữu cách thưc hành bổn phận với nhau và với nhà nước -dưới ánh sáng ân sủng của đức tin. Luật Maisen dạy cách dâng lễ vật hy sinh và những nghi lễ phụng tự khác. Tân Ước, trái lại, mời gọi các tín hữu hiến dâng thân xác mình như là một lễ vật sống động (12:1). Thay vì giới hạn trong những tôn chỉ pháp luật đặc biệt, người Kito hữu dùng phán đoán của mình để tự do chọn lựa trước nhiều quyết định khác nhau trong cuộc sống hàng ngày. Phaolo mời gọi người Kito hữu “tự cải biến cuộc sống mình bằng cách canh tân tâm tư ý nghĩ của mình làm sao để có thể phân biệt được ước muốn của Thiên Chúa, ước muốn nào tốt, hoàn hảo và đẹp lòng Chúa” (12:2).
HIỂU BIẾT MÀU NHIỆM ĐỨC KITO
Trong bài giảng Thánh Lễ kết thúc Ngảy Giới trẻ Thế Giới tại Căn cứ Không Quân Cuatro Vientos ở Madrid, Y Pha Nho hôm Chúa Nhật 21-8-2011, Biển Đức XVI nói: Hiểu biết màu nhiệm đức Kito thì thuộc phạm vi Niềm Tin.
Niềm Tin thì hơn cả những dữ kiện thực nghiệm hay lịch sử. Nó là khả năng hiểu biết màu nhiệm về con người đức Kito ở mọi khía cạnh sâu thẳm của nó. Tuy nhiên Niềm Tin không phải là kết quả cố gắng và lý luận của con người, nhưng là một tặng phẩm do Thiên Chúa ban: “Phúc cho ngươi, Simon con Jonah! Vì không phải máu thịt loài người mạc khải cho anh điều đó, mà là Cha ta ở trên trời” (Mt 16:17). Niềm Tin khởi đầu từ Thiên Chúa, Người mở lòng chúng ta và mời gọi chúng ta chia sẻ với cuộc đời của chính Thiên Chúa. Niềm Tin không đơn thuần cung cấp tin tức cho biết ai là đức Kito, mà thực ra nó xâm nhập vào tình liên đới cá nhân chúng ta với đức Kito, chinh phục toàn thể con người chúng ta cùng với tât cả mọi hiểu biết, ước vọng và cảm nghĩ của chúng ta bởi Thiên Chúa tự mặc khải cho ta biết. Vậy vấn nại sau cùng được đặt ra về đức Giesu là:“…Nhưng các anh gọi thầy là ai?” là một thách đố cho từng môn đệ phải tự quyêt định. Niềm Tin vào đức Kito và tình môn đệ là những gì liên kết chặt chẽ và thắm thiết với nhau.
Vì Niềm Tin liẻn quan đền hành động “bước theo Thầy”, nên nó phải liẻn tuc trở nên mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn và trưởng thành hơn, đến độ có thể dẫn đưa tới tình môn đệ với đức Giesu gẩn hơn và mãnh liệt hơn. Phero và các môn đệ khác cũng phải lớn lên theo đường hướng đó, cho đến khi cuộc trùng phùng của họ với Thiên Chúa Phục Sinh mở mắt họ để họ có được niềm tin hoàn toàn vào Chúa Kito.
Các bạn trẻ thân mến,
Hôm nay, đức Kito cũng hỏi các bạn cùng một câu hỏi mà Người đã hỏi các tông đồ khi xưa: “Các anh gọi Thầy là ai?” Hãy trả lời Người với lòng quảng đại và can đảm cho xứng hợp với những tâm hồn trẻ trung như các bạn. Hãy nói nới Người: “Thưa đức Giesu, con biết Chúa là Con Thiên Chúa đã hy sinh mạng sống vì con. Con đặt tin tưởng của con trong tay Chúa và con đặt tất cả mạng sống của con trong tay Chúa. Con muốn Chúa là nguồn sức mạnh và mọi niềm vui của con và không bao giờ rời bỏ con.”
SỨ MỆNH CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI
Trở lại Lineamenta trong Thượng Hội Đồng các Giám Mục về Tân Phúc Âm Hóa vào tháng 10 năm 2012, chúng ta thấy có một nối kết đặc biệt giữa bài Phúc âm hôm nay và đoạn #10 với nhan đề “Việc đơn độc làm mục vụ Phúc Âm Hóa hồi sơ khai và viêc Tân Phúc Âm Hóa” ngày nay.
Tân Phúc Âm Hóa là tên đặt cho kế hoạch của Giáo Hội một lần nữa đem ra thi hành sứ mệnh căn bản, đăc thù và lý do hiện hữu của mình. Do đó, nó không chỉ giới hạn trong những vùng đã định sẵn, mà là cách cắt nghĩa và đem ra thực hành các di tặng của các tông đồ trong và vì thời đại của chúng ta hiện nay. Với kế hoạch tân phúc âm hoa, Giáo Hội ước mong đem trình bày sứ điệp duy nhất của mình vào thế giơi ngày nay và những bàn luận hiện nay, tức tuyên xưng vương quốc Nước Trời, được khởi đầu từ đức Giesu Kito. Không có phần nào của Giáo Hội bị loại trừ ra khỏi kế hoạch này. Các Giáo Hội Kito giáo có nguồn gốc cổ xưa phải đương đầu với nạn có nhiều giáo hữu bỏ không thực hành niềm tin; các giáo hội trẻ trung, qua tiến trình chưa được khai hóa phải được liên tục theo dõi để họ áp dụng Tin Mừng Phúc Âm vào cuộc sống hàng ngày, một tiến trình không phải chỉ để thanh tẩy và nâng cao văn hóa lên, mà –trên hết mọi sự- phải khai mở nền văn hóa mới của Tin Mừng Phúc Âm. Nói một cách tổng quát, mỗi cộng đồng Kito giáo cần phải tự tái tham gia vào chương trình chăm lo mục vụ xem ra có vẻ ngày càng trở nên khó khăn hơn và có nguy cơ trở thành thói quen nhàm chán. Do đó ít có khả năng thông truyền mục đích căn gốc của nó.
Tân Phúc Âm Hóa là một sứ mệnh, đòi hỏi khả năng làm mới lại, vượt qua biên giới và mở rộng chân trời. Tân phúc âm hóa thì đối nghịch với tự mãn, co rút về với chính mình, với tình trạng tâm lý và tư tưởng xưa khiến chương trình mục vụ vẫn như cũ không có gì thay đổi. Câu nói “mọi việc như thường lệ” đã trở thành lỗi thời, vô nghĩa. Một số Giáo Hội địa phương khi tham gia chương trình canh tân, đã xác nhận là Giáo Hội nên kêu gọi tất cả mọi cộng đồng Kito giáo phải kiểm thảo việc thi hành mục vụ của mình dựa trên những hoạt động của chương trình truyền giáo căn bản.
.
THEO CHÚA LÀ CHẤP NHẬN BỊ LOẠI TRỪ
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung, nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu, khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Ðức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp và một cách vô tình, Ðức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Từ đó, cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Ðức Cha Jean Cassaigne. Khi bắt đầu học năm thứ nhất Y khoa, nhân dịp tham dự Thánh Lễ khai khóa của Linh mục Giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học uyên bác của Giáo sư Lischenberg đã biến thành một Linh mục khả kính, trang nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng. Ơn gọi làm Linh mục của cha Chung đã chớm nở từ đó. Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử Bác Ái là Phó Giám Ðốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Sau đó, bác sĩ Chung về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo Đạo. Một năm sau nữa, bác sĩ đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức Linh mục.
Cha cho biết, gia đình của cha là một gia đình nghèo. Ðời sống gia đình thường xảy ra cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Ðiều đó đã ảnh hưởng cha từ thuở thiếu thời nên cha đã có ý định đi tu vì nhận thấy đời sống gia đình không mang lại hạnh phúc. Khi làm bác sĩ, trong hai năm đầu, cha đã hành nghề để có thể trả nợ cho gia đình. Trong những năm kế tiếp, cha đã giúp đỡ những người em ăn học và hiện có một em trai là bác sĩ chuyên môn về phổi. Người em nầy đã thay thế cha phụng dưỡng hai cụ thân sinh. Khi còn là tu sĩ, chưa được thụ phong Linh mục, một ngày kia, được tin cụ thân sinh bệnh, cha đi xe đạp về thăm. Vừa vào nhà, cụ thân sinh liền quở trách cha là một người “không biết nhục”. Theo lời cụ, các bạn bè của cha đều đi xe hơi, xây nhà lầu hai ba tầng cho bố mẹ ở. Còn cha, cha lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch về thăm nhà.
Có những người nhận ra tiếng mời gọi của Chúa và bước theo Chúa có vẻ rất trơn tru, nhưng cũng có nhiều người theo Chúa phải đánh đổi bằng biết bao nhiêu đau khổ, từ bỏ mất mát. Đó chính là điều kiện, là lời mời gọi Chúa đã báo trước cho tất cả mọi người: Ai muôn theo thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.
Ông Phêrô và các môn đệ đi theo Chúa, ông vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các ông biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các thượng tế và kinh sư, rồi bị giết chết và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy. Mặc dù là Con Thiên Chúa Hằng sống, Đức Giêsu cũng không tìm cách tránh né thập giá, nhưng Ngài đã sẵn sàng đón nhận vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ông Phêrô và các môn đệ lại không muốn điều đó. Các ông theo Chúa với hy vọng tìm được địa vị chức tước bổng lộc, chứ không muốn gặp phải thập giá. Vì thế, Phêrô đã đứng ra can ngăn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, xin Chúa thương đừng để thầy gặp phải điều đó.
Chúa Giêsu thấy Phêrô và tông đồ ham sống sợ chết, theo Chúa nhưng ngại khó khăn, tìm kiếm vật chất hơn là tin yêu Chúa. Vì thế, Chúa đã nặng lời khiển trách Phêrô: Satan! Hãy lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người. Phêrô đã rơi vào tình trạng tự mãn, mới trước đó, ông được Đức Giêsu khen và quyết định thiết lập Hội Thánh trên đức tin của ông. Phêrô cứ nghĩ mình sẽ là người dẫn đường cho Chúa, vì thế, ông tìm cách đi một con đường khác, đi trước Chúa, chỉ lối cho Chúa. Trong lời trách mắng Phêrô, Chúa nói với ông: Satan! Hãy lui ra đàng sau Thầy. Lui ra đàng sau có nghĩa là Phêrô phải trở về với đúng vị trí của mình. Dù làm thủ lãnh của Giáo Hội, ông vẫn phải là môn đệ của Chúa Giêsu, phải bước đi sau Chúa và đi theo con đường của Chúa, chứ không thể đi con đường nào khác.
Khi Chúa Giêsu trách mắng Phêrô, các tông đồ khác cũng cảm thấy đụng chạm đến họ và có phần như ngao ngán trước lời mời gọi của Chúa, Chúa Giêsu quay lại nói với các ông: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Chúa Giêsu không ép buộc ai theo Ngài, nhưng ai đã quyết định bước theo thì không thể đi con đường nào khác nữa, mà phải đi con đường Chúa đã đi, đó là con đường thập giá. Chúa cũng không bắt ai phải vác thập giá giùm cho Chúa, nhưng Chúa mời gọi mỗi người phải vác thập giá của chính mình và bước đi cùng con đường Chúa đã đi. Chúa cũng nói rõ cho mọi người biết cái được và cái mất khi theo Chúa: Ai dám liều mạng thì được sự sống, trái lại, ai tìm kiếm mạng sống thì gặp phải sự chết. Sự sống của thân xác là điều quý, nhưng sự sống của linh hồn là điều quý trọng hơn.
Thưa quý OBACE, nhiều người trong chúng ta được biết Chúa Giêsu do cha truyền con nối, nên chúng ta không cảm thấy sự vất vả và cái giá của sự kiếm tìm Chúa. Vì thế, nhiều người đã không biết trân trọng đức tin của mình và không thiết tha với lời mời gọi của Chúa. Nhiều người khác tin Chúa nhưng không muốn theo Chúa, hoặc theo Chúa nhưng chỉ theo đàng xa xa, hoặc tìm kiếm một con đường tắt nào đó. Theo Chúa, chúng ta không thể chối từ đau khổ và thập giá, không thể vừa vác thập giá lại vừa muốn tìm kiếm sự dễ dãi thoải mái, cũng không thể đi một con đường nào khác với con đường của Chúa Giêsu. Sống trong xã hội hôm nay, tin theo Chúa là dám chấp nhận bị người đời khinh chê, bị coi như công dân hạng hai, bị phân biệt đối xử. Chọn sống theo Tin Mừng của Chúa là dám chọn sống khác, dám lội ngược dòng trong dòng chảy của xã hội tiêu dùng hưởng thụ, ích kỷ này.
Vác thập giá mình hằng ngày là dám chấp nhận mọi khó khăn nghịch cảnh xảy ra, đón nhận mọi biến cố với niềm tin tưởng có Chúa cùng bước đi với mình. Thập giá hằng ngày của những bậc cha mẹ là bổn phận của mỗi người, là trách nhiệm đối với vợ, chồng, đối với con cái và gia đình. Thập giá mình còn là là chính con người của mình với những yếu đuối giới hạn về sức khỏe, về khả năng, về điều kiện sống. Hãy đón nhận thập giá không phải với sự gượng ép, miễn cưỡng, nhưng với sự chủ động và niềm vui.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, xin cho chúng ta luôn tin tưởng bước đi theo Chúa trên con đường thập giá, để nhờ việc theo sát Chúa Giêsu, chúng ta cũng được chia sẻ vào sự phục sinh với Chúa. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ chất gánh nặng thập giá lên vai người khác, hoặc biến mình trở thành thập giá cho kẻ khác, nhưng xin cho chúng ta biết kề vai để chia sẻ gánh nặng thập giá với anh chị em, cùng dìu nhau đi trọn con đường Chúa muốn. Amen
.
VÀO TRONG VINH QUANG NGANG QUA THÁNH GIÁ
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mt 16,21-27
(21) Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng đế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. (22) Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !” (23) Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. (24) Rồi Đức Giê-su nói với môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. (25) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. (26) Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ? (27) Vì con người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
- Ý CHÍNH: TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN THỨ NHẤT
Sau khi Phê-rô tuyên xưng đức tin, Đức Giê-su bắt đầu cho biết mình sẽ phải vâng theo thánh ý Chúa Cha là “Qua đau khổ vào vinh quang”. Phê-rô khuyên can nhưng đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách. Rồi Người tiếp tục đề ra điều kiện để trở thành môn đệ của Người là phải bỏ đi ý riêng mình để vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tức là vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. Ngoài ra, không còn đường nào khác đưa ta về trời.
- CHÚ THÍCH:
– C 21: + Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…: Đức Giê-su mặc khải việc Người sắp trải qua cuộc khổ nạn thập giá để vào vinh quang phục sinh tại núi thánh Xi-on của Thiên Chúa là thành Giê-ru-sa-lem, như Thánh kinh đã tiên báo (x. Tv 2,6). Việc lần lượt loan báo 3 lần cuộc thương khó là nhằm đánh dấu từng chặng đường tiến về Giê-ru-sa-lem, và cũng để chuẩn bị cho môn đệ khỏi bị ngỡ ngàng khi sự việc xảy ra.
– C 22-23: + Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !: Theo Phê-rô nghĩ thì sao Thầy phải chịu thua trước kẻ thù, để chúng bắt bớ giết hại cách nhục nhã rồi mới chiến thắng bằng cuộc phục sinh vinh quang ? Tại sao Thầy không lập tức dùng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù ? + Xa tan, lui lại đàng sau Thầy !: Xa-tan theo nguyên nghĩa là “Tên cám dỗ” hay “Kẻ cản trở”. Lời can ngăn của Phê-rô nói đây gợi lại cơn cám dỗ của Xa-tan với nguyên tổ A-đam E-và xưa (x. St 3,4-5). Cũng là cơn cám dỗ ma quỷ đã làm trong hoang địa với Đức Giê-su và đã bị Người xua đuổi: “Xa-tan kia, xéo đi !” (Mt 4,10). Ở đây Đức Giê-su chỉ buộc Phê-rô lui lại vị trí môn đệ, nghĩa là phải chấp nhận đi theo sau Thầy (x. Mt 16,24; Ga 21,22b). + Anh cản lối Thầy: hoặc “anh làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Cớ vấp phạm hay là một cái bẫy (x. Tv 124,7), một hòn đá cản đường khiến người ta bị vấp ngã (x. Is 8,14-15; Rm 9,32-33). Vì suy nghĩ theo tình cảm tự nhiên và vì yêu mến Thầy, Phê-rô đã vô tình cản lối khi yêu cầu Người đừng theo con đường cứu độ đã được Chúa Cha định liệu là “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26). Trước đó, Phê-rô mới được khen là có phúc vì đã tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng giờ đây ông lại bị thầy trách là tên cám dỗ, và là viên đá gây sự vấp ngã cho Thầy ! + Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người: tương tự như lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9).
– C 24-25: + Ai muốn theo Thầy: Ai nói đây tức là người tự nguyện trở thành môn đệ của Đức Giê-su, sẵn sàng cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời với Người. Câu này cho thấy Đức Giê-su luôn tôn trọng tự do của con người. + Từ bỏ chính mình: Điều kiện để làm môn đệ Đức Giê-su là phải loại bỏ những trở ngại bên ngoài như tình thân gia đình và sự cản trở bên trong như các thói hư tội lỗi và cách suy nghĩ theo tính xác thịt tự nhiên của mình. + Vác thập giá mình mà theo: Cuối cùng còn phải chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng, chịu đựng những vất vả tai ương bách hại do thế gian và các thế lực thù địch với Thiên Chúa gây ra. + Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất: Lời tuyên bố có tính nghịch lý theo kiểu Do thái, dựa trên lòng tin vào một đời sống mới vĩnh hằng sau khi chết. Ai muốn cứu mạng sống thể xác bằng cách bỏ đạo để khỏi bị giết hại thi sẽ bị mất luôn sự sống thiêng liêng đời sau. + Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy: Người khôn là người biết chọn cách sống đời tạm này như thế nào, để sau khi chết được sống lại và được sống vĩnh hằng. Đức Giê-su đưa ra một con đường đưa tới sự sống đời đời là phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh chịu thiệt thòi, sẵn sàng bị mất mạng sống ở đời này. Ngoài ra, không còn con đường nào khác để được ơn cứu độ.
– C 26-27: + Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì ?: Câu này lặp lại tư tưởng của câu trên. + Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người: Giá trị của cuộc sống thực sự chỉ tỏ hiện trong cuộc chung thẩm vào ngày tận thế. + Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm: Sự thưởng phạt công minh là động cơ khiến người ta sẵn sàng chấp nhận đi con đường hẹp là bỏ mình mà vác thập giá đi theo Chúa ngay trong đời này. Đức Giê-su quả quyết chính Người sẽ ngự đến vào ngày tận thế để làm thẩm phán xét xử mọi người tùy theo các việc tốt họ đã làm hay bỏ qua không làm khi còn sống.
- CÂU HỎI:
1) Tại sao Đức Giê-su phải cho các môn đệ biết về các biến cố Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem là phải chịu khổ nạn thập giá rồi mới vào vinh quang Phục Sinh ? Người tiên báo ba lần như thế nhằm mục đích gì ? 2) Tại sao Phê-rô lại can trách Thầy và kết quả ông đã bị Thầy quở phạt thế nào ? Tại sao ? 3) Bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày cụ thể là phải bỏ những gì và làm những gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
- CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH TINH THẦN CỦA CÂY THÁNH GIÁ :
Một người đàn bà đạo đức kia bị bệnh ung thư ngực rất đau đớn nhưng lại không dám mổ khối u vì sợ phải chịu đau đớn. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà mới chịu đi mổ, hy vọng sẽ kéo dài tuổi thọ thêm được một thời gian nữa. Bà có một cậu con trai tuổi thanh niên. Anh này trái với bà mẹ: khô khan việc đạo, đã bỏ dự lễ nhà thờ từ lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được chứng kiến cảnh bà chịu giải phẫu và yêu cầu đã được chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua những cơn đau đớn khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng cơn đau. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to rằng: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con !”. Trườc cảnh mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai liền thốt ra lời phàn nàn xúc phạm đến Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay ! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không ? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn động viên an ủi mẹ”. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê đã làm dịu đi cơn đau đớn khủng khiếp mà bà đang phải chịu đựng.
Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho anh con trai và dặn rằng: “Con ơi ! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này”. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các cơn sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.
2) THÁNH GIÁ NẶNG NHẸ LÀ DO TƯ TƯỞNG CỦA MỖI NGƯỜI :
Một hôm, Chúa Giêsu dẫn hai người trong số các môn đệ đến đầu đường, trao cho mỗi người một cây thánh giá giống nhau và bảo:
– Mỗi người chúng con vác thập giá của mình đi đến cuối đường trước mặt kia. Thầy đợi các con ở đó.
Hai môn đệ vâng lời, vác thập giá mình đi. Người thứ nhất vác cách dễ dàng, chân nhanh bước, dường như thập giá không cản trở hay gây phiền hà gì cho anh. Chẳng bao lâu anh đã đến cuối đường, gặp Chúa đang đợi ở đó. Và Thầy trò vui mừng hớn hở.
Còn người thứ hai vác đi nặng nề, dường như anh vác không nổi, kéo lê thập giá đến chỗ Chúa Giê su chỉ định, và anh đã kiệt sức. Vừa thấy Chúa, anh đã phàn nàn:
– Chúa bất công quá! Chúa trao cho con cây thánh giá quá nặng; còn trao cho anh kia cây thánh giá nhẹ hơn, nên anh đã đi đến trước con.
Chúa buồn đáp:
– Con ơi! Thầy không đối xử bất công với con đâu. Cả hai thập giá đều giống nhau và nặng bằng nhau, không cây nào nặng cây nào nhẹ. Sở dĩ con cảm thấy nó quá nặng đối với con, vì con không sẵn sàng chấp nhận. Suốt trên đường đi, con luôn than phiền trách móc nó nặng, càng than trách thì thập giá càng trở nên nặng cho con. Bạn con đã vác đến trước vì tâm hồn tràn đầy yêu thương. Tình yêu làm cho thập giá trở nên nhẹ nhàng.
Vui lòng vác thánh giá, thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Càng kéo lê thánh giá, thánh giá càng trở nên nặng nề hơn.
3) AI CŨNG ĐƯỢC CHÚA TRAO CÂY THÁNH GIÁ HỢP VỚI KHẢ NĂNG CỦA MÌNH :
Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó : có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo :
– Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh gía vừa sức con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được : có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần :
– Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
– Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
- GIÁ TRỊ CỦA SỰ ĐAU KHỔ THẬP GIÁ :
Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau : trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.
Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói : cái khó bó cái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta . Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này : Thậpgiá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn : Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.
- CẦN BIẾT CHỌN LỰA GIỮA « ĐƯỢC » VÀ « MẤT » :
Vào ngày 23.12.1993, ông VIN-CI-Ô người Ý, 58 tuổi, là giáo sư môn toán, đang đi trên đường về nhà thì chiếc xe hơi của ông bị nổ lốp giữa đường. Ông xuống xe loay hoay thay bánh xe “sơ cua”. Đúng lúc đó, có người tới giúp ông một tay. Khi gần ráp xong bánh xe sơ-cua, thì người đàn ông kia kiếu từ vì có việc gấp phải đi. Ráp xong bánh xe, ông Vincio thu lại đồ nghề mới biết hộp đồ nghề của ông đã bị mất cắp một số đồ mắc tiền, do người đàn ông “tốt bụng” kia lấy đi. Ông buồn rầu thở dài cho lòng tham của con người. Nhưng rồi ông lại thấy một tấm vé số nằm dưới đường, có lẽ của tên ăn trộm kia đánh rơi. Ông đã cầm tấm vé số bỏ vào túi áo.
Rồi đến ngày xổ số dịp đầu năm mới 1994, ông mang tấm vé số kia ra dò thì thật may : Tấm vé số nhặt được kia đã trúng 50 triệu lire (tiền Ý) tương đương 60.000 đôla Mỹ. Trúng được nhiều tiền ai mà chẳng thích. Nhưng sau đó ông Vincio lại bị áy náy lương tâm vì rõ ràng tấm vé số kia không phải là của ông. Ông luôn cảm thấy lương tâm cáo trách. Ông đã đăng quảng cáo trên báo để mong tìm ra chủ nhân thực sự của tấm vé trúng giải kia. Nhiều người tham lam đã tới nhận bừa tấm vé số kia là của mình. Nhưng chỉ cần vài câu hỏi, ông đã phát hiện ra họ chỉ là những kẻ tham lam. Đúng ba tuần sau, tên trộm hôm trước cũng đã xuất hiện xin nhận lại tờ vé số đã thất lạc. Anh ta đã diễn tả các chi tiết về ngày giờ và địa điểm liên can tới tấm vé số. Ông Vin-ci-ô đã mang ra 50 triệu lire trả lại cho chủ nhân của nó. Tên trộm quá cảm động, đã không ngớt xin lỗi ông Vin-ci-o và cho biết lý do anh phải ăn trộm đồ vì bị thất nghiệp và phải nuôi 2 đứa con nhỏ. Tên trộm cũng thắc mắc tại sao ông Vin-ci-ô không giữ lấy 50 triệu lire vì đâu có ai biết rõ sự thật. Vin-ci-ô trả lời : vì lương tâm không cho phép mình làm như vậy. Sau khi trả tiền cho chủ tờ vé số, ông Vin-ci-ô cảm thấy lòng nhẹ nhõm. Tuy ông bị mất món đồ sửa xe, nhưng ông lại nhận được nhiều tiền ; Rồi khi được tiền ông lại bị mất bình an tâm hồn. Cái vòng « mất được » kia cứ luẩn quẩn, cho đến khi ông Vin-ci-ô chấp nhận đổi số tiền để lấy lại sự bình an trong tâm hồn.
Câu chuyện trên rất phù hợp với câu Lời Chúa hôm nay : « Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy » (Mt 16,25). Liều mất mạng sống nghĩa là sẵn sàng « từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa » – được mạng sống đời sau là có Nước Thiên Đàng, có được Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc đời đời.
Lời dạy thứ hai “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.(Mt 16,25).
- SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN CỦA THÁNH THOMAS MORUS :
Thomas Morus (1478-1453) thủ tướng nước Anh, dưới thời Henry VIII, bị tống ngục vì không chịu chối đạo. Sau đó ông bị kết án tử hình. Vợ liền tới thăm và hỏi chồng :
– Tại sao mình không lo cứu sống?
– Này em theo em nghĩ thi anh sống ở trần gian này được bao lâu nữa?
– Sức khỏe anh hứa hẹn ít nhất được 20 năm nữa.
– Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại: để sống 20 năm mà phải hy sinh cả cuộc sống đời đời sao!
“Người nào được lời lãi cả thiên hạ mà thiệt phần tinh hồn hỏi có ích chi? Lấy gì đổi được tinh hồn mình?.”(Mt 16,26)
- THÁI ĐỘ CAN ĐẢM TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN SẼ CỦNG CỐ ĐỨC TIN CHO THA NHÂN :
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Bu-da-pest của nước Hung-ga-ri để trấn áp một cuộc bạo động, một viên sĩ quan trẻ hung hăng tìm đến nhà một linh mục chính xứ.
Bước vào trong phòng, anh đóng sập cửa lại, tay chỉ lên cây Thánh Giá treo trên tường và hạch hỏi vị linh mục:
– Này, ông có biết không, cái kia là một sự dối trá, một trò mê hoặc dân nghèo để bọn nhà giàu kềm hãm người ta trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ hai người chúng ta trong căn phòng này. Vậy ông hãy thú nhận là ông không tin ông Giê-su trên thập giá kia là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa…”
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời:
– Không thể được, vì tôi đã thật sự tin vào Người !
Viên sĩ quan liền rút súng ra hăm dọa :
– Đừng đùa với tôi ! Nếu ông không chịu nói cho biết đây là điều dối trá, thì tôi sẽ giết ông !”
Bấy giờ linh mục liền đứng thẳng người, nhìn vào đôi mắt của anh ta và dõng dạc tuyên bố :
– Tôi không thể nói khác được: “Đức Giê-su đích thực là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa của tôi! “
Thật không ngờ, nghe đến đây, tay viên sĩ quan liền run lên. Rồi khẩu súng trên tay anh ta rớt xuống nền nhà. Anh đã chạy lại ôm chầm lấy vị linh mục, vừa khóc vừa nói :
– Thứ cha, xin lỗi cha. Con chỉ muốn thử xem cha có thực sự tin Chúa không. Con đã âm thầm tin Chúa ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng giờ đây, con đã khám phá ra rằng: vẫn còn ít nhất một người đã tin Chúa và dám sống chết vì đức tin ấy. Chính cha đã củng cố đức tin cho con đó !
Thật đúng như lời Chúa Giê-su phán trong Tin Mừng hôm nay : “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25).
- SUY NIỆM :
Theo Tin Mừng Mát-thêu, khi Đức Giê-su hé mở con đường cứu thế của Người: “Người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21), thì Phê-rô, một người vừa được khen ngợi có phúc vì đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su, đã lên tiếng can Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !”. Ông đã bị Đức Giê-su mắng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mt 16,22-23). Đức Giê-su đã phản ứng quyết liệt trước tư tưởng sai lạc của Phê-rô bằng việc xua đuổi ông như đã từng xua đuổi ma quỷ khi chúng cám dỗ Người. Sau này Phê-rô đã dần dần hiểu ra thánh ý Thiên Chúa, và đã sẵn sàng đi theo con đường thập giá để cùng chết và sống lại với Thầy.
1) HAI ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
Đức Giê-su nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Qua đó, ta thấy điều kiện để đi theo làm môn đệ là phải sẵn sàng hy sinh bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Người. Người không ép buộc, nhưng mời gọi. Người cũng không bảo người ta phải tìm kiếm thập giá nào khác, nhưng là vui lòng vác chính cây thập giá trong đời mình. Đức Giê-su cho biết đau khổ là phương thế hữu hiệu giúp ta nên thánh. Mỗi người đều phải vác thập giá đời mình và “ngày nào có sự khốn khổ của ngày đó”. Ước gì nhờ được đau khổ thanh luyện, chúng ta sẽ ngày càng kết hiệp mật thiết và nên giống Đức Giê-su hơn.
– MỘT LÀ TỪ BỎ CHÍNH MÌNH :
Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói :”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo : đó là sự từ bỏ.
Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói : 3 với 4 là 7, có đúng không ? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn chỉ là hai con số 3 và 4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình đòi phải làm tan đi ý riêng của chúng ta để hòa vào ý của Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự từ bỏ chính mình.
– HAI LÀ VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY MÀ ĐI THEO CHÚA : Thập giá của mình vác theo chân Chúa Giê-su, chính là những tai nạn rủi ro, những điều phiền toái gặp phải trong cuộc sống như bệnh tật, các sự khó do tai nạn gặp phải, những thất bại thua lỗ trong công việc làm ăn, những người thân đang sống chung trong một mái nhà khó tính khó nết… Nếu chúng ta kiên nhẫn chịu đựng những sự khó chịu vf trái ý cực lòng này là chúng ta đang làm theo Lời Chúa dạy hôm nay.
2) CÁI KẾT BI THẢM CỦA MỘT KẺ KHÔNG CHẤP NHẬN THẬP GIÁ CHÚA GIÊ-SU :
Một văn sĩ Công giáo người Anh tên là Gilbert Chesterten, đã thuật lại câu chuyện bi thảm về một kẻ thù ghét thập giá như sau :
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy cây thập giá trên tháp và liệng xuống dưới.
Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành sự điên loạn. Vào một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy cây thập giá. Rồi trước mặt và đàng sau lung ông, nơi nào cũng đều có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đã phải dùng đến ngọn lửa, mới mau tiêu diệt được các cây thập giá. Rồi ngọn lửa bốc lên đã làm thiêu rụi cả căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương kia trong dòng sông bên cạnh nhà ông”.
Cuối cùng nhà văn đã kết luận như sau: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới trong đó bạn đang sống này”.
3) CHẤP NHẬN SỐNG TIN YÊU PHÓ THÁC VÀO CHÚA, RỒI MỌI SỰ SẼ NÊN TỐT ĐẸP :
Các tín hữu là những người say mê cuộc sống vĩnh cửu, nên sẵn sàng chấp nhận những mất mát tạm thời và cả mạng sống ở đời này nữa. Nhưng chúng ta tin rằng: Cuối cùng Chúa sẽ ban lại cho ta gấp bội. Ta chỉ chịu mất mát tạm thời để được hạnh phúc vĩnh viễn đời sau. Các thánh tử đạo vì muốn sống đời đời, nên đã sẵn sàng từ bỏ mọi vinh hoa, giàu sang, quyền lực… Sẵn sàng chịu mọi cực hình và chịu chết vì Danh Chúa, như lời trong kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô As-si-si sau đây : “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Một thanh niên mơ ước lên đại học, nhưng lại thi rớt, thì cũng đừng nản lòng. Anh hãy chấp nhận vác thập giá để theo chân Đức Giê-su. Người có thể dẫn anh đến một đời sống mới tốt đẹp hơn. Một người cao niên mơ ước nên giàu có, và có một gia đình hạnh phúc, nhưng lại bị thất bại, thì cũng đừng nản lòng. Vì Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Thiên Chúa là Cha yêu thương, chỉ muốn làm những điều tốt cho con cái, như Đức Giê-su có lần đã nói: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).
- THẢO LUẬN:
1) Muốn trở thành môn đệ Đức Giê-su người ta phải hy sinh từ bỏ. Vậy cụ thể bạn cần từ bỏ những gì ngay từ bây giờ ? 2) Thập giá hằng ngày ta phải vác là những gì ? Làm thế nào để theo chân Đức Giê-su trong hoàn cảnh của ta bây giờ ? 3) Gặp một người đau khổ chán nản không thiết sống, bạn sẽ khuyên họ phấn khởi và vui sống trở lại ?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con thấy Chúa đã tỏ ra bình tĩnh trước đau khổ thập giá sắp xảy đến. Chúa đã sẵn sàng nhận phần thua thiệt để có thể ban ơn cứu độ loài người chúng con. Ngày nay, có một số đông nam nữ tu sĩ đã tận hiến cuộc đời, chấp nhận phục vụ những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Họ đã đến sống chung với các bệnh nhân bị bệnh nan y như HIV-AIDS, bị ung bướu hay phong cùi. Có một số anh chị em đã tình nguyện nuôi dạy các trẻ bụi đời và mồ côi bất hạnh, giúp đỡ những cô gái lầm đường lạc lối trở về, hoặc phục vụ những người mù què câm điếc, bại liệt, những cụ già neo đơn không nơi nương tựa…
– LẠY CHÚA. Nhìn lại mình, chúng con thật xấu hổ khi quá ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và thường bịt tai nhắm mắt trước những cuộc đời bất hạnh chung quanh. Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết sống theo lời Chúa dạy là “bỏ mình”: bỏ đi những lo toan ích kỷ, để quảng đại phục vụ Chúa trong anh em. Xin cho chúng con biết chấp nhận những tai nạn rủi ro gặp phải trong cuộc sống, và sẵn sàng vác thập giá đời mình mà bước theo chân Chúa. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa liệt vào hàng tôi trung hiếu thảo và nên môn đệ trung tín của Chúa. Để sau này khi ra trước toà Chúa phán xét, chúng con hy vọng sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc khổ nạn của Người sắp đến. Khi loan báo điều này, Chúa muốn cho các ông biết mục đích sứ vụ của Người. Và để chu toàn sứ vụ đó, Chúa nói với các ông, Người phải hy sinh chấp nhận và chịu những sự khó khăn, đau khổ, vác và chết trên thập giá. Tuy nhiên, Chúa cũng cho các ông biết một cách rõ ràng là thập giá không phải là cùng đích, có nghĩa là Người đến không để tìm sự đau khổ và cái chết, nhưng qua sự đau khổ và cái chết, sẽ đem đến niềm tin yêu và sự sống mới trong Thiên Chúa như lời Tin mừng xác quyết: “Người sẽ chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngày thứ ba Người sẽ sống lại vinh hiển.”
Chính vì tình yêu bao la, lòng vâng phục tuyệt đối, cùng với sự từ bỏ và khiêm hạ thẳm sâu, Chúa Giêsu đã biến thập giá, một công cụ của hình phạt, trở thành Thánh giá, một biểu tượng của tình yêu, ơn cứu độ và sự sống mới trong Thiên Chúa Cha. Vì vậy, Chúa nói rõ cho chúng ta biết “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đánh mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống.” Có nghĩa là Chúa muốn nói đến sự sống và sự chết, cái được và cái mất của người Ki-tô hữu chúng ta. Đây là qui luật sống để hướng dẫn đời sống đức tin của chúng ta, nhưng chúng ta muốn hỏi “Qui luật đó là qui luật gì để chúng ta áp dụng vào đời sống Ki-tô hữu?”
Thứ nhất, như chúng ta đều biết, nhất là trong xã hội này, bất cứ cuộc sống nào, công trình nào, kế hoạch nào hay quyết định nào cũng đòi hỏi một sự đầu tư, có nghĩa là vốn tiền bạc hay sự hy sinh, cố gắng công sức và thời giờ vào công việc đó. Và trong bất cứ cuộc đầu tư nào cũng có cái mất và cái được, cái bỏ ra và cái thu vào luôn gắn liền với nhau. Cái mất thường luôn đi trước để mở đường cho cái được sẽ đến sau. Có mất trước thì mới được sau và nhiều khi cái được sau nhiều hơn, như chúng ta thường nghe “Bỏ con tép, bắt con tôm.” Đó là định luật chung cho bất cứ cuộc đầu tư nào. Những cuộc đầu tư càng dài hạn, càng đòi hỏi nhiều vốn thì càng sinh nhiều lợi.
Như chúng ta biết, trong đời sống hôn nhân gia đình, muốn có hạnh phúc và hòa thuận suốt cuộc đời, vợ chồng phải “bỏ vốn đầu tư” dài hạn và liên tục. Bỏ vốn thời giờ, sự hy sinh và từ bỏ chính mình cho nhau và cho gia đình thì cái được là yêu thương, hòa thuận và hạnh phúc sẽ đến theo sau. Chúng ta biết yêu thương, hạnh phúc và hòa thuận sẽ không đến nếu chúng ta không đầu tư bỏ vốn trước.
Cũng thế, dự án, kế hoạch xây dựng ngôi thánh đường mới của giáo xứ chúng ta để làm nơi thờ phượng, kính mến Chúa, sống đức tin người Việt Nam và làm sáng danh Chúa, cũng cần “vốn đầu tư” về tài chánh, về công sức, về thời giờ và sự hy sinh của mỗi người giáo dân trong giáo xứ, trong thời gian chuẩn bị này. Chúng ta biết, mặc dầu kế hoạch sẽ gặp những khó khăn, trở ngại và thử thách, nhưng với đức tin và sự hiệp nhất, cùng với ơn Chúa phù giúp và đồng hành, chúng ta tin sẽ vượt qua và thành công. Và chúng ta cũng tin chắc rằng phần thu được về phía của chúng ta mà Chúa sẽ ban sẽ to lớn, cao quí và sẽ sinh ra nhiều “lợi lộc” khác nữa.
Thứ hai, chúng ta thấy chính Chúa Giê-su đã thực hiện một cuộc đầu tư quan trọng trong kế hoạch cứu độ nhân loại, và Người cũng đã theo qui luật nói trên. Khi sinh xuống trần, Người đã khiêm nhường đem vị thế Thiên Chúa của Người bỏ vào số vốn để đầu tư cho ơn cứu độ nhân loại. Thiên Chúa Cha cũng đã dùng Con Một Ngài vào số vốn đầu tư trong kế hoạch chuộc tội cho con người. Đây phải là một kế hoạch quan trọng như thế nào thì Thiên Chúa mới thực hiện, mới làm như vậy!
Ngoài ra chúng ta thấy chính Chúa Giê-su cũng đã làm một cuộc đầu tư quá thua lỗ, khủng khiếp. Người đã bỏ ra số vốn đau khổ và cái chết nhục nhã trên thập giá để đánh đổi lấy sự sống cho loài người. Chúa đã nhận lấy phần xấu cho mình vì yêu thương chúng ta. Giá đầu tư cao như vậy thì cái lợi mà Thiên Chúa muốn mang đến cho nhân loại phải lớn, quan trọng và cao quí như thế nào. Vì thế, chúng ta thấy Chúa Giê-su đã đặt một câu hỏi rất quan trọng cho chúng ta “Nếu được lợi cả trần gian, mà mất sự sống đời đời thì được ích gì?”
Sau cùng, là nếu chúng ta muốn sống trong ân sủng bình an của Chúa đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, thì chúng ta cũng phải thực hiện một cuộc đầu tư cho chính mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho chúng ta biết rõ “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy.” Con đường thập giá của Chúa xem ra thất bại trước mắt người đời, nhưng lại là con đường Chúa đã đi, con đường đưa tới tình yêu, tha thứ và sự sống vĩnh cửu. Vì thế, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta cùng đi con đường này để nhận được những ơn sủng đó.
Thánh Thomas More, tên của giáo xứ hàng xóm của chúng ta trên đường 129, là thủ tướng nước Anh dưới thời vua Henry thứ 8. Ngài bị tù vì không chịu chối đạo và sau đó bị kết án tử hình. Vợ tới thăm và hỏi chồng: “Tại sao anh không lo cứu sống mình?” Ngài hỏi lại: “Này em! Theo em nghĩ, thì anh sống ở trần gian này bao lâu nữa?” Người vợ trả lời: “Em nghĩ rằng ít nhất 20 năm nữa.” Ngài trả lời: “Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại. Để sống 20 năm mà phải hy sinh cả cuộc sống đời đời sao!” Thánh Thomas More đã hiểu được ý nghĩa, giá trị Lời Chúa dạy, thà mất đời này, để được đời sau.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa không hứa cuộc đầu tư của chúng ta vì Chúa, vì Tin mừng và vì đức tin này sẽ mang đến nhiều tiền bạc, nhà tiệm hay danh vọng hơn, nhưng sẽ nâng cao giá trị và phẩm giá cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta sống Lời Chúa kêu mời, trở thành chứng nhân cho Chúa và Tin mừng, biết hy sinh, có lòng bác ái và quảng đại, chúng ta sẽ sống trong sự vui mừng, an bình và ân sủng của Chúa đời này và đời sau.
.