CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Hc 3,19-21.30-31; Dt 12,18-19.22-24a; Lc 14,1.7-14
——-
1. Khiêm nhường và kiêu ngạo (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Hãy sống như Thầy Giêsu (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
3. Khiêm hạ để thấy trời cao (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Để ngồi chỗ cuối (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
5. Đức khiêm nhường (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Bàn tiệc Nước Trời (Lm. Giuse Dương Đức Hưng)
7. Khiêm tốn. (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
8. Khiêm nhường- (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
9. Ghế dành riêng (Lm. Vũ Đình Tường)
10. Bài học từ nước (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Người sau hết sẽ nên trước hết (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
12. Vào ngồi chỗ cuối (PM. Cao Huy Hoàng)
13. Chỗ rốt hết (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
14. Hạ mình xuống (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
15. Khiêm tốn là nhận ra chính mình (Lm. An Phong)
16. Khiêm nhường, hiếu khách và luật lệ (Lm. Đào Quang Chính)
17. Hãy ngồi chỗ cuối (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
18. Khiêm nhường. (Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
19. Tôi là người khiêm tốn nhất trần gian (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
20. Đối xử trong tâm tình khiêm hạ với người chung quanh (Lm. Trần Văn Trợ)
21. Hãy khiêm nhường (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển)
22. Suy niệm Chúa Nhật 22 Thường niên_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
23. Hãy ở khiêm nhường (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
24. Hai thái cực (Trầm Thiên Thu)
25. Được vinh dự (Lm.Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
26. Khiêm nhường Chúa lại nâng lên (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
27. Khiêm tốn – Con đường dẫn tới sự cao cả (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
28. Bài học nhân bản (Jos. Hồng Ân)
29. Sống khiêm nhường trước mặt Chúa và mọi người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
30. Bài học khiêm tốn và vị tha (Lm. Trần Bình Trọng)
31. Kitô hữu suy nghĩ về nhân đức khiêm nhường (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
32. Về việc chọn chỗ ngồi (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
33. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 22 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
34. Chúa Nhật 22 Thường niên. Năm C (Lm. Antôn)
1. Khiêm tốn làm đầu (TGm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Khiêm tốn (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Bệnh “muốn làm lớn” (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Chúa yêu thích những kẻ khiêm nhường (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Dự tiệc và đãi tiệc (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Sống khiêm nhường (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
7. Khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
8. Khiêm tốn và vô vị lợi (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
9. Vị trí (Trầm Thiên Thu)
10. Học sống khiêm nhường (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
11. Khiêm nhường và bác ái (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
12. Tự hạ và yêu thương phục vụ (AM. Trần Bình An)
13. Hấp lực của chiếc ghế (JM. Lam Thy, ĐVD)
14. Khiêm nhường (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
15. Chỗ cuối (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
16. Vị trí của tôi (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
17. Khiêm tốn phục vụ trong cách đối nhân xử thế (Lm. Đan Vinh)
.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Một tác giả tu đức đã khẳng định: “Khiêm nhường là mẹ của các nhân đức”. Điều đó cho thấy, nếu chúng ta luyện được đức khiêm nhường, thì đương nhiên sẽ có các nhân đức khác. Nói cách khác, trong tiến trình nên hoàn thiện, chỉ cần có được đức khiêm nhường là đủ.
Khiêm nhường là tự hạ. Đó là định nghĩa của tác giả sách Huấn Ca (Bài đọc I). Nói như thế, chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường theo đúng nghĩa nhất. Ngài tự hạ khi sáng tạo con người và muôn loài muôn vật, như một tác giả đã viết: qua công trình sáng tạo, Thiên Chúa giống như nước thuỷ triều, tự rút lui để nhường chỗ trống cho con người và các loài thụ tạo. Thiên Chúa còn tự hạ mình khi Ngài cúi xuống để tâm sự với con người. Những dòng tâm sự này được ghi lại trong Kinh Thánh. Kinh Thánh là câu chuyện tình giữa Thiên Chúa với con người. Câu chuyện tình ấy bao gồm những “hồi”, những “pha” gay cấn, nhưng cuối cùng thì lòng thương xót của Chúa vẫn như đại dương bao trùm tất cả, kể cả tội lỗi của loài người. Thiên Chúa tự hạ một cách sâu xa nhất qua màu nhiệm nhập thể. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận loài người. Người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi. Người chấp nhận trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống nghèo khó, bị khinh miệt và kết án như một kẻ tội đồ.
Nếu Thiên Chúa khiêm nhường tự hạ, thì con người lại có xu hướng tự nâng mình lên. Thật là trớ trêu, tham vọng của ông bà Nguyên tổ! Ông bà đã muốn phủ nhận thân phận thụ tạo của mình để lên ngang hàng với Thiên Chúa. Ước vọng điên rồ của ông bà đã để lại hậu quả nghiêm trọng, đó là sự chết và đau khổ. Sự kiêu ngạo đã làm đổ vỡ mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và mối tương quan giữa con người với nhau. Kiêu ngạo cũng là nguyên nhân gây đổ vỡ biết bao gia đình cũng như gây nên xung đột. Thánh Luca kể lại với chúng ta, trong bối cảnh một bữa tiệc, trong khi những người biệt phái cố dò xét Chúa thì Chúa lại quan sát xem thái độ của họ. Nhân việc có nhiều người chọn chỗ sang cho mình, Chúa nói đến sự khiêm nhường tại bàn tiệc. Đương nhiên ai trong chúng ta cũng hiểu giáo huấn của Chúa không chỉ dừng lại ở chỗ ngồi nơi bàn tiệc, mà còn là cách ứng xử trong cuộc sống hằng ngày. Bởi lẽ theo tâm lý tự nhiên, ai cũng muốn mình trội nổi hơn người khác. Trong cuộc sống chung, ai cũng muốn cho lập trường của mình là nhất và cách sống của mình là mẫu mực. Qua hình ảnh chỗ ngồi tại bàn tiệc, Chúa muốn mỗi chúng ta hãy nghiêm túc suy tư về cách sống của mình trong gia đình, trong cộng đoàn và trong xã hội.
Lòng khiêm nhường đi đôi với bác ái. Vì vậy, trong phần tiếp theo của Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói đến việc mời khách dự tiệc. Thông thường, người ta đối xử với nhau theo kiểu “hòn bấc quăng đi hòn chì quăng lại”, hoặc “thả con săn sắt bắt con cá rô”, có nghĩa là cho đi chút ít với ước mong nhận lại nhiều hơn. Trong khi đó Chúa lại dạy chúng ta những chuyện “ngược đời”: cho đi mà không mong nhận lại, hoặc có nhận lại, thì đó là phần thưởng ở trên trời mai sau, vào lúc các kẻ lành sống lại.
Khi sống khiêm nhường và chuyên tâm làm việc thiện, chúng ta đã được tham dự vào đời sống vĩnh cửu ngay khi còn đang sống trên trần gian. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã diễn tả đời sống của những người công chính. Họ đã tới núi Sion, thành trì của Thiên Chúa. Đây là cách diễn tả hạnh phúc và phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa trong quan niệm của người Do Thái. Tác giả đã so sánh sự khác biệt giữa núi Sinai của Cựu ước với núi Sion của tương lai. Nếu ở núi Sinai, người Do Thái vừa ra khỏi Ai Cập được chứng kiến sấm chớp, mây mù, giông tố, thì ở núi Sion, họ được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa hằng sống. Họ cũng được chiêm ngưỡng Đức Giêsu, Đấng đã hạ mình sống thân phận con người và được Thiên Chúa đặt làm trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Ý thức được như thế, cuộc đời chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn, vì dầu còn nhiều khó khăn gian khổ, chúng ta được sống trong tình thương của Chúa và hiệp thông với tất cả những ai yêu mến Ngài.
Một tác giả đã viết: “Có người thường xuyên bực bội than vãn cho rằng đất trước mặt mình chật chội quá. Nếu người ấy lui lại đàng sau một vài bước, sẽ thấy đất đằng trước mình rộng lớn hơn”. Người ta cũng thường nói: “Kiêu ngạo đến mấy cũng chẳng đủ, kiêm nhường bao nhiêu cũng chẳng thừa”. Vâng, nếu chúng ta biết sống khiêm tốn, cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn, tình yêu thương sẽ triển nở và mọi người sẽ sống thân thiện chan hòa.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Hôm qua tôi mới nói chuyện với một chị rất đạo đức. Chị nói rằng cha xứ của chị rất tuyệt vời. Giá mà các cha giống được như cha ấy thì người bên lương theo đạo hết! Chẳng có ai làm được như cha ấy! Tôi nói: Oh rất tốt! Vậy cha xứ chị dạy giáo lý và rửa tội được bao nhiêu người trong một năm? Chị nói: cha xứ con không có thời gian dạy giáo lý, nhưng người bên lương đến đông lắm? Tôi nói rằng: con số đông không quan trọng, quan trọng là họ đã đến để gặp Chúa hay chỉ muốn tìm phép lạ? Ngày xưa tôi ở Nam Cát Tiên mỗi lần phát gạo thì người bên lương vẫn đông gấp đôi bên đạo, nhưng họ đến để lấy lương thực chứ không phải để theo đạo, mà Chúa cũng không muốn người ta theo đạo vì phép lạ hay vì lương thực! Và tôi nói tiếp: thưa chị, các linh mục chúng tôi chỉ cố gắng trở nên giống như Chúa Giê-su thôi, và chúng tôi để Chúa dùng chúng tôi theo ý Chúa miễn sao danh Chúa được vinh hiển. Vì mỗi người Chúa ban một cách sống để mình tôn vinh Chúa trong khả năng của mình. Mỗi cha có một khả năng. Mỗi cha có một cách để truyền giáo. Điểm chung của họ là trở nên giống Thầy Chí Thánh Giê-su yêu thương và phục vụ.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãytrở nên giống Chúa trong khiêm nhu và bác ái.Khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, ở đời người ta vẫn thích khoe khoang, vẫn thích phô trương công đức của mình nơi đầu đường phố chợ. Con người vẫn thích làm trung tâm điểm của mọi người. Ngay cả các linh mục, vẫn có những người thích được cất nhắc lên chức này chức nọ hay ít ra cũng ở những chỗ phố thị rộn ràng mới cân xứng tài đức của mình. Lòng tự tôn, tính tự kiêu khiến họ luôn xem trọng mình, để cao mình đến mức độ trở thành lố bịch trước anh em.
Chúa Giê-su không bao giờ muốn có những môn đệ như thế! Chúa Giê-su từng thao thức cho các môn đệ mình đừng mắc phải tính giả hình của nhóm biệt phái tự kiêu. Ngài mong muốn các môn sinh luôn khiêm tốn để dễ dàng cúi mình phục vụ bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào. . . Chúa mong muốn các môn sinh sống nghèo và gần gũi hòa đồng với người nghèo. Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Nhưng đáng tiếc, vẫn có những người muốn thể hiện đẳng cấp ưu việt của mình bằng việc đi xe sang trọng, đến những nơi sang trọng và kết giao với những người sang trọng. Họ xấu hổ, mặc cảm khi đi chung với người nghèo. Tính tự tôn khiến họ xa lánh người nghèo và gần gũi kẻ quyền thế giầu có. Họ chỉ rao giảng cho người nghèo nhưng lạibỏ rơingười nghèo. Thế nên, người nghèo vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi, vẫn sống trong tủi hận lầm than . . .Nhìn lại cách sống đôi khi mình lại chẳng bằng người bên lương. Tôi đã từng đến chữa bệnh thầy Tư Ngoan tại An Giang. Bệnh nhân rất đông, đa số người nghèo. Điều lạ là bếp ăn của thầy luôn có đồ ăn miễn phí cho người nghèo. Hàng trăm người tự lấy đồ ăn theo ý thích của mình. Thật ấm áp tình người. Thầy chữa bệnh cũng chẳng lấy tiền, chủ yếu là sống vì người nghèo và cho người nghèo.
Chúa Giê-su luôn sống nghèo và vì người nghèo. Liệurằng người môn đệ Chúa có dám sống cho người nghèo hay không? Các điểm hành hương của chúng ta đã có phòng ăn nhân ái cho người nghèo chưa? Rất tiếc là chưa, nhưng lại nhan nhản dịch vụ ăn ngủ, buôn bán tranh ảnh để kiếm tiền cho trung tâm. Rấtmong các điểm hành hương nên có những xuất ăn miễn phí không nhiều nhưng ít là vài trăm xuất cho những ngày cao điểm cũng là điều nên làm.
Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta cũng phác họa lại chân dung tình yêu Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn để sống gần gũi hòa nhập với đám đông nghèo khó. Xin đừng vì thói trưởng gia, thích xa hoa mà tự kiêu, xa lánh người nghèo luôn có ở bên. Amen
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Chỗ ngồi là một quan tâm đối với nhiều người hôm nay. Chỗ ngồi chưa quan trọng bằng việc đã nhận ra mình là ai và ngồi chỗ đó làm gì? Câu hỏi đó cần được trả lời: Khiêm hạ để thấy trời cao.
Khiêm hạ là một thái độ nhận ra được chính mình. Mình chẳng là gì, nếu Chúa chẳng ban cho. Mình chẳng làm được chi, nếu Chúa không thực hiện cho. Mình có thâu hoạch được gì, công của mình thì ít, được nhiều người góp sức và phần nhiều vẫn thuộc về Thiên Chúa. Như Mẹ Maria nhận ra điều ấy trong cuộc sống: “Chúa đã làm cho tôi những sự trọng đại” (Lc 1, 48)
Khiêm hạ để thấy mình dễ vỡ, chẳng ra sao, nếu Chúa không đưa tay gìn giữ:
“Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm.” (Tv127,1).
Khiêm tốn để nhận ra mình có giỏi cũng chưa phải là giỏi nhất và cũng không phải là giỏi mọi mặt. Con người vốn có nhiều giỏi nhất nên cũng cần có nhiều bàn tay góp sức, nhiều người chung chí hướng. Người khiêm tốn ở chỗ cao bao giờ cũng biết cám ơn những người đã cộng tác. Thánh Phao lô khuyên bảo: “Đừng làm điều gì vì lòng ích kỷ, hoặc vì hư vinh, nhưng hãy khiêm nhường, xem người khác đáng tôn trọng hơn mình. Mỗi người trong anh em đừng chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình, nhưng phải quan tâm đến lợi ích của người khác nữa”(Pl 2, 3- 4)
Khiêm tốn để thấy trời cao.
Trong tâm tình tạ ơ của Chúa Giêsu với Chúa Cha, Chúa Giê su thưa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25). Khi vua Đavit dâng lên lời Thánh Vịnh 8, chắc hẳn vua Đavit đang ngước mắt ngắm tầng trời cao thẳm, với một tâm hồn bình an, dù trải qua nhiều sóng gió. Sự tĩnh lặng của cõi lòng và của thinh không làm say đắm lòng người, vua Đavit cất tiếng ca tụng: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8, 4 – 5).
Trong lúc nhìn mình chẳng là gì, vua Đavit lại thấy con người lại quá quan trọng với Chúa. Có là chi mà muôn vật đựợc Chúa tín nhiệm trao cho quyền coi sóc vũ trụ Chúa dựng nên. Có là chi mà Chúa bận tâm xuống thế làm người. Ngẫm xem bao điều khi con người nhận ra bé nhỏ mà Chúa đã ban cho bao la hồng ân.
Đặc biệt Đức Maria cũng đã chiêm niệm Lời Chúa trong lịch sử của dân tộc và cuộc đời cá nhân để nhận ra: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” trong một chiều kích: “linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi vui mừng trong Đấn cứu độ tôi” Lc 1, 46, 48).
Con người khiêm hạ nhìn ra bao điều hay, nhiều điều tốt đẹp và đặc biệt khám phá ra cả: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm.” (Tv 19, 2)
.
Bông hồng nhỏ
Hôm nay, khi trò chuyện với Chúa, ta thích chọn cho mình một chỗ ngồi thoải mái, dễ cầu nguyện nhất. Ở bên Chúa, ta được trải lòng, được Người dẫn vào những góc khuất trong tâm hồn. Ta nhận ra Lời Chúa đang nói với chính ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11).
Trong cuộc sống, nhiều khi ta băn khoăn chọn cho mình một vị trí trổi vượt, thích được đề cao, thích được coi trọng. Nhìn vào bữa tiệc tại nhà người Pharisêu, ta thấy khuôn mặt của những khách dự tiệc – họ là những người có nhiều băn khoăn. Ai cũng chọn cỗ nhất mà ngồi. Họ quan tâm đến cách mà người ta nhìn mình, vì thế càng ngồi vào cỗ nhất, họ càng thể hiện được mình là người quan trọng. Chúa Giêsu khuyên họ hãy chọn ngồi chỗ cuối. Một người khiêm tốn thật sự sẽ không tự đề cao mình nhưng hạ mình xuống. Nếu thực sự họ là người quan trọng thì chính chủ nhà sẽ mời lên cỗ trên. Khi nhìn xuống, người ta dễ thấy mình hơn người mà ngộ nhận rằng mình quan trọng nhất. Nhìn vào cách ăn diện và vị trí của người khác, ta chỉ thấy được bề ngoài. Vẻ bề ngoài thường dễ đánh lừa người khác. Tận sâu trong lòng mỗi người, sự thật về những góc sáng – tối thì chỉ mình Chúa mới thấu rõ. Người ta cố tình che dấu chính mình bằng cách phô trương vẻ bề ngoài. Ta cũng có thể tự đánh lừa mình cùng một cách như thế. Nhưng Chúa Giêsu muốn ta chọn cách khác. Ta có thể nhìn nhận đúng vai trò và vị trí của mình chỉ khi nào ta biết khiêm tốn và cúi xuống phục vụ những người bất hạnh.
Người Việt có câu “cục đất ném đi hòn chì ném lại” hay “có qua có lại mới toại lòng nhau”, nghĩa là khi cho ai cái gì thì người ta luôn mong được đền đáp tương xứng. Người ta tính toán vụ lợi, chẳng ai cho không ai cái gì. Chúa Giêsu chia sẻ với người đã thiết đãi Chúa bữa tiệc rằng, khi ông đãi tiệc thì đừng mời những người thân, những người quen biết nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù vì họ không có gì để đáp lễ. Giá trị cho đi không hệ tại những gì ta nhận được ở đời này nhưng là phần thưởng cao trọng trên trời. Đừng nghĩ đến những bữa tiệc linh đình mà ta không thể tổ chức hay không phải lúc nào cũng có dịp tổ chức. Điều mà Chúa Giêsu dạy dỗ ta chính là tinh thần phục vụ vô vị lợi, xuất phát từ lòng bác ái đích thực. Ta không thể thiết đãi ai đó một bữa tiệc nhưng đối với một người nghèo đang đói lả thì một chiếc bánh mì cũng là cả một bữa tiệc lớn. Ta có thể lấy một ly nước mát mời người giao hàng uống trong khi ta nhận hàng, hay đơn giản nở một nụ cười và lời cám ơn với họ. Những chi tiết nhỏ như thế rất dễ bị bỏ qua, quên lãng hay bị xem là không cần thiết. Khi sống cạnh những em khiếm thị, ta nhận ra mình có thể làm biết bao nhiêu việc nho nhỏ cho các em với một trái tim đầy tình yêu thương: dẫn các em đi lễ, ân cần chuẩn bị từng phần cơm cho các em, nói cho các em biết những vật cản, … Ta có thể nâng niu từng chi tiết nhỏ như thế và thực hiện chúng với tất cả tấm lòng. Đối với Chúa, một việc bác ái nhỏ bé được thực hiện với một tâm hồn khiêm tốn thật sự còn đẹp hơn muôn vàn công việc to lớn nhưng thiếu lòng bác ái đích thật.
Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã cho con được nhìn thấy khuôn mặt của Chúa trong cuộc thương khó. Chúa đã che dấu vinh quang rạng ngời mà nhận lấy một khuôn mặt bầm dập bị người ta khinh dể. Chúa đã cho con thấy đỉnh cao của sự tự hạ vì yêu thương. Xin giúp con đừng quá bận tâm đến vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng quan tâm chăm sóc ngôi nhà nội tâm và khiêm nhường phục vụ theo gương Chúa. Xin cho con từng ngày biết ngồi gần bên Chúa để con cũng biết yêu thương những anh chị em nghèo khổ của Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ May
Có cha xứ nọ đến thăm gia đình thân quen. Ông bà hỏi thăm về con gái mình xem nó đi tu thế nào, vì biết cha là người hay đến dâng lễ trong Dòng đó. Cha xứ nói: “Cứ mỗi lần tôi đến dâng lễ là thấy con gái bà ngồi ở ghế đầu. Có lẽ, nó thánh thiện, học giỏi nên được ngồi ở đó”. Tưởng chừng là như vậy, nhưng thật ra cô gái có chiều cao khiêm tốn.
Ngày nay, không chỉ vì chiều cao khiêm tốn mà một số người được xếp ngồi đầu nhưng có những người luôn ngồi ghế đầu vì bổn phận, họ là những nhà lãnh đạo; cũng có những người thích chơi nổi, muốn cho mọi người biết mình là ai trong các cuộc hội họp hay ở nơi đông người. Cho nên, họ đã chuẩn bị cho mình từ trang phục, đồ dùng, phương tiện đến vị trí ngồi sao cho mọi người biết và để ý đến mình. Đó là một trong những thái độ của tính kiêu ngạo, cho mình là nhất, là người quan trọng. Thái độ ấy dễ dẫn đưa chúng ta đến sự khinh chê người khác. Nếu sống trong thái độ này, chúng ta sẽ trở nên người như thế nào trong xã hội và trước mặt Thiên Chúa? Chúng ta dễ đạt được và thỏa mãn sự kiêu ngạo ở đời này nhưng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chẳng là gì. Chúa Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Khi mang trong mình sự kiêu ngạo, chúng ta khó gặp được Chúa mỗi khi đến với Ngài. Có những người dường như rất khiêm nhường khi đến với Chúa nhưng khi ra cuộc sống họ lại có cách hành xử khác. Như vậy, đức khiêm nhường chưa đạt đến sự trọn hảo. Chúng ta không chỉ khiêm nhường với Chúa mà còn cả tha nhân xung quanh chúng ta.
Vậy đức khiêm nhường có dành riêng cho ai không?
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi những ai đi dự tiệc hãy khiêm tốn ngồi chỗ cuối. Còn ông chủ thì hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (x Lc 14,12-14). Như vậy, Chúa Giêsu mời gọi tất cả mọi tầng lớp hãy trở nên khiêm nhường mà đến với nhau. Không chỉ khiêm nhường ở bên ngoài mà cả trong lòng mình, để tránh sự khiêm nhường giả dối. Chúa Giêsu là nguồn đức khiêm nhường, Ngài vẫn mời gọi mọi người học sự khiêm nhường (x Mt 11,30), vì khiêm nhường phá tan hàng rào ngăn cách giữa chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân. Nhờ đó, chúng ta không chỉ được lời cả thế gian mà còn được cả phần rỗi linh hồn (x. Mc 8, 36). Thánh Phaolô dạy rằng: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Đức khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn chúng ta đến hiệp thông huynh đệ.
Lạy Chúa Giêsu! Đức khiêm nhường rất cần cho mỗi người chúng con nhưng sao chúng con vẫn chưa thực hiện được? Xin Chúa giúp và biến đổi chúng con để biết sống khiêm nhường mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con được trở nên người có phúc. Amen.
.
Lm. Giuse Dương Đức Hưng
Bằng những lời dí dỏm nhiều ý nghĩa: bởi tôi thua tật kém tài, nên tôi xích xuống cho người xích lên. Điều lành thì nhớ, điều dại hãy quên. Những phiền phức xảy ra ngay từ gia đình, đôi khi chỉ vì hơn thiệt, được yêu nhiều yêu ít. Biết bao mẫu thuẫn, bất đồng, bùng nổ ở xã hội cũng đến từ “tiền, quyền”. Con gà hơn nhau tiếng gáy. Người khôn nói ít nghe nhiều, dại khờ xấu tính lắm điều khó thương. Thực ra, tìm kiếm thành công, ước mơ được hạnh phúc, luôn là điều đáng khích lệ, dẫu rằng chữ tài đi với chữ tai một vần, thành công hôm nay, chắc gì đã là thành công của ngày mai ? Bàn tiệc nhậu, vui lắm là được một ngày, đạt được vòng nguyệt quế, hạnh phúc lớn nhất cũng chỉ vài năm. Một khi ta có bình an thật, tình yêu thật, mới hiểu điều gì cần thiết cho sự trưởng thành của mình.
Để khẳng định với bè bạn về tính chất “sành điệu” ở đời, người ta không ngần ngại khoe khoang hàng hiệu, sản phẩm độc lạ, thiên hạ gọi là nổ, là cưa bom. Để chứng tỏ “thứ bậc” của mình, khách được mời dự tiệc chọn tìm chỗ nhất, ghế nhất, gây nên sự xáo trộn ở các buổi tiệc tùng. Người xưa nói: lời chào cao hơn mâm cỗ, khách đến nhà không gà thì vịt, hoặc yêu thầy mới được làm thầy; kính già, già để tuổi cho. Thích được ngồi chỗ nhất, muốn bá tánh biết mình là nhân vật quan trọng, có vị trí xã hội, người ta phải có thực lực, hiểu đúng: kẻ đứng đầu, người làm lớn, phải hết sức chuẩn mực. Bàn tiệc rượu sẽ vui, khi có bạn bè hiệp nhất yêu thương, sống bình đẳng, cùng giúp nhau đi đến hoàn thiện con người của mình.
Bàn tiệc mà Đức Giêsu tham dự hôm xưa rất đông vui, đủ mọi thành phần, lời nhắn nhủ thiết thực: hãy sống thế nào để được là khách mời dự tiệc ở hiện tại và tương lai. Tiệc vui có bia rượu, tiệc hạnh phúc phải có hiện diện của Đấng là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ. Bàn tiệc nước trời, bàn tiệc thiên quốc, dù khờ hay khôn, tất cả vẫn được hiểu rằng: bàn tiệc nước trời là nơi hạnh phúc, không còn đau khổ, không còn hận thù ghét ghen. Bàn tiệc nhậu cứ có tiền, có bạn hiền là đủ, là vui, bàn tiệc nước trời, những ai đáp lại lời mời tham dự, đều được Đức Giêsu biến đổi, thanh luyện. Đức Giêsu lên tiếng vì khách được mời có sự tranh dành chỗ nhất, ghế nhất, Đức Giêsu cũng muốn mọi người mọi thời hãy lưu tâm đến một “điểm chính”: bàn tiệc phải có sự hiện diện có Chúa, có đông đủ các đấng bậc ở thiên quốc.
Bàn tiệc nước trời, bàn tiệc trần thế, khác nhau, chúng ta vẫn hiểu như thế. Niềm vui hạnh phúc ở nước trời, niềm vui hạnh phúc ở đời, dù không giống nhau, nhưng suốt hành trình rao giảng, Đức Giêsu nói đến rất nhiều, mỗi người phải hiểu làm gì để được no say ân tình Chúa. Sống ở đời, người ta tranh giành nhau miếng ăn, vì đói khổ, nhưng vì giầu có quyền lực, người ta muốn có vị trí cao hơn, vững hơn. Lên án người giầu, chỉ trích người quyền lực, loại trừ kẻ tội lỗi, hẳn Đức Giêsu không làm như thế. Người xưa có câu: kẻ giầu muốn rượu ngon, kẻ nghèo muốn nhiều rượu. Ham hố sự đời, giầu nghèo, tốt lành, mưu mô, gian tham, hiền nhân quân tử ở đâu cũng có, dụ ngôn mời dự tiệc, cho thấy bao lâu chưa ổn định, chưa sửa chữa tâm tính, không thể tham dự Đại tiệc Nước Thiên Chúa.
Điều quan trọng nơi bàn tiệc là đồ ăn thức uống, chỗ nhất, ghế nhất, tuỳ thuộc gia chủ sắp xếp, trong các tương quan gia đình, xã hội, thì tình yêu thương cần hơn tiền của vật chất. Trong kitô giáo, sống niềm tin thì việc bác ái quan trọng hơn lý lẽ. Theo cái nhìn khách quan, chủ tiệc chỉ vui khi khách mời tham dự đông đủ, khách được mời sẽ hạnh phúc khi được tiếp đón nồng hậu. Sau khi lưu ý đám đông dự tiệc, đừng ảo tưởng quá về vinh dự trần thế, Đức Giêsu còn chỉ cách dọn tiệc, mời khách, đúng và đẹp theo tinh thần người được đồng bàn tiệc thiên quốc mai này. Mỗi người ở hiện tại đều có ơn gọi làm chủ tiệc, song người nghèo, người túng thiếu tình yêu thương luôn ở sát bên, ai cũng có dịp để thực hiện việc bác ái tông đồ của mình. Được mời dự tiệc lúc nào cũng là vinh dự, dù bàn tiệc trần gian hay bàn tiệc nước trời, đều cần đến sự chuẩn bị cho xứng hợp với lời mời.
Bàn tiệc nước trời đối với chúng ta xác phàm mắt thịt, chắc chắn không thể hiểu hết giá trị thật của niềm vui hạnh phúc, Đức Giêsu đã hướng dẫn, đã trình bày cụ thể bàn tiệc thiên quốc và được đón nhận. Cuộc sống sòng phẳng: có vay có trả, có cho có nhận, đó là công bằng, tìm kiếm ghế nhất, chỗ nhất, sẽ nhận được hư danh chóng qua mà thôi. Cha ông ta đã từng nói: ở hiền thì gặp lành, những người nhân đức trời dành phần cho. Lời răn dạy của tiền nhân, kinh nghiệm của bản thân, không phải là thiếu, quan trọng là ta biết áp dụng thực tế bài học yêu thương vào cuộc sống thế nào ? Tiền quyền, sức khoẻ, thời gian, trong tay ta đều là cơ hội, là dịp để ta đầu tư cho hạnh phúc, nơi bàn tiệc mai sau. Làm phúc, làm ơn, cho người bé nhỏ nghèo hèn xung quanh ta đều có, xin cho tình yêu của Đức Giêsu hiện diện, chúc phúc, để bàn tiệc ở đời này và đời sau luôn vui vẻ bình an và hạnh phúc thật. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Một ông thủ lãnh mời ăn,
Mấy người biệt phái, đứng căn chỗ ngồi.
Vào bàn chỗ nhất phần tôi,
Dụ ngôn Chúa dậy, đừng ngồi chỗ cao.
Nhiều người ân trọng đức cao,
Xứng danh trọng vọng, bước vào ngay bên.
Khi mời dự tiệc trong đền,
Chọn bàn rốt hết, ngồi yên dưới cùng.
Chủ nhà nhận biết bao dung,
Ngỏ lời mời bạn, hãy cùng bước lên,
Xin mời qúi vị lên trên,
Thật là vinh dự, xứng tên phận người.
Ai mà kiêu ngạo ở đời.
Tự mình cất nhắc, danh hời đáng chê.
Khiêm cung hạ xuống chẳng nề,
Người đời khen ngợi, cận kề mến yêu.
Chúa rằng khi dọn cơm chiều,
Đừng mời bạn hữu, rủ nhiều bà con.
Người nghèo tàn tật héo hon,
Đón vào dùng bữa, điểm son phúc lành.
Theo thói thường, người đời coi trọng chỗ ngồi nơi bàn tiệc hơn là mâm cỗ. Chúng ta rất quen thuộc với kiểu cách ở đời là ngồi vào bàn tiệc phải theo vai vế và địa vị trong xã hội. Người ta coi rất trọng hình thức và vị thế trong cộng đoàn xã hội. Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu lại có cơ hội dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường. Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà rằng: Khi dọn tiệc, hãy mời những người nghèo khó, què quặt đui mù, ông sẽ có phúc. Khó thật! Mấy ai có thể áp dụng.
Quan sát việc chọn chỗ ngồi trong bữa tiệc theo phong tục tập quán, người ta rất quan trọng hóa về địa vị và phẩm giá con người. Chúa Giêsu đi ngược lại với những suy nghĩ của những người đương thời. Chính Chúa đến bằng con đường khiêm nhu. Khiêm nhượng chính là một nhân đức. Khiêm nhượng là chấp nhận đúng sự thật mình có. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn đời, thấy rằng chúng ta còn thua kém biết bao nhiêu người về lòng đạo đức, về khả năng, về sự hiểu biết và về kinh nghiệm cuộc sống. Chúng ta có gì mà không phải là do hồng ân đã lãnh nhận. Trước mặt Chúa, chúng ta còn nghèo túng hơn nhiều. Chúng ta chỉ là tro bụi và chỉ như là hơi thở thoáng qua. Chúa rút hơi thở, chúng ta trở về hư vô.
Chúa Giêsu khi xưa ra rao giảng trong hoàn cảnh của hai nền văn hóa Hy Lạp và Do Thái. Người Hy Lạp coi sự khiêm nhường như là một sự thoái hóa và nhu nhược. Còn người Do Thái coi là một nhân đức. Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự khiêm tốn. Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Họ muốn nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giầu có hơn và có thế lực hơn. Vì thế, họ đã không ngần ngại tìm cách hạ thấp hay chà đạp người khác xuống. Đúng thế, kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Không ai ưa người kiêu ngạo. Ngay cả những người kiêu ngạo cũng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến.
Truyện kể: Có hai vị bô lão ngồi lại với nhau tâm sự. Một người nói: Khi tôi còn trẻ, tôi hay kiêu ngạo. Sự kiêu ngạo làm tôi lo lắng. Tôi lo về những cái người khác nghĩ hay nói về tôi. Khi tôi trưởng thành và khôn ngoan hơn. Tôi không để ý tới những lời người khác nói về tôi. Nay tôi già rồi, tôi nhận ra rằng chẳng có ai để ý hay nghĩ gì về tôi cả. Thật ra, nhiều người nghĩ mình là quan trọng, để rồi nghĩ rằng người khác lúc nào cũng để ý đến mình và rồi chúng ta trở nên kiêu căng.
Khiêm tốn không phải là sự hèn nhát mà là sự can đảm và dũng mạnh. Chỉ những ai mạnh mẽ mới dám hạ mình phục vụ anh chị em. Khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy yêu thương và là một thái độ hoàn toàn tự do. Khiêm tốn mở đường tự do cho chúng ta đi vào Nước Trời.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Trong những năm đi giảng đạo cùng với các môn đệ. Chúa Giêsu đã tiếp xúc với mọi lớp người, Ngài đã thông cảm, chạnh lòng thương xót tới đám đông dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăm sóc. Chúa Giêsu đã đụng chạm tới mọi nỗi khổ đau của con người. Ngài quan sát những sự việc xẩy ra trong xã hội Do Thái lúc đó để đưa ra những dụ ngôn nhằm dạy các môn đệ và mọi người.Hôm nay, nhân được mời dự tiệc cưới do một thủ lãnh Pharisêu mời, Chúa Giêsu thấy một số khách mời chọn cỗ nhất để ngồi.Chọn cỗ nhất để ngồi có nghĩa tự mãn, tự đề cao mình, coi mình là hơn người khác, có địa vị, chỗ đứng cao hơn người.Do đó, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và những người Pharisêu dụ ngôn về sự khiêm nhường.
Vâng, Chúa Giêsu đã nói :” Khi anh được mời đi ăn cưới,thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời,và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: xin anh nhường chỗ cho vị này “ ( Lc 14,8-9 ).Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta điều này, Ngài cũng muốn nhắc nhở mọi người :’ Đừng tranh giành quyền thế, ham mê địa vị, đến độ phải để cho người khác triệt hạ…Tuy nhiên, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa thâm trầm hơn, ấy là có những người tự đặt chỗ cho mình về mặt thiêng liêng, về mặt đạo đức, tự cho mình là xứng đáng dù mình có lỗi phạm…Đối với Chúa thì khác, Ngài có cái nhìn từ chiều sâu, từ cõi lòng của mỗi người. Ngài đã nói :” Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên “. Đứvc Giêsu mời gọi con người hãy từ bỏ sự tự mãn, tự kiêu, tự đại để sống khiêm tốn. Khiêm nhường là tự nhận tất cả là do Chúa và chúng ta được lớn lên mỗi ngày nhò tha nhân, nhờ anh chị em xung quanh. Người khiêm tốn không coi địa vị, chức vụ là quan trọng, nhưng tất cả đều được đặt dưới sự quan phòng của Chúa. Người khiêm tốn không tự mình vinh vang, tự tôn coi mình có địa vị cao hơn người khác mà đặt mình dưới bàn tay uy quyền của Chúa như Chúa đã từng nói :” Ta đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ “. Người khiêm tốn là người hân hoan phục vụ trong yêu thương, hầu hạ người khác với tâm hồn quảng đại, yêu thương. Con người chúng ta thường đánh giá người khác dựa trên địa vị, chức tước trong xã hội.Tuy nhiên có những người thấp cổ bé họng không có ghế, không có chỗ đứng trong xã hội, nhưng họ có tấm lòng, có lương tâm thì còn hơn những người có chức vị mà sống không tốt vv…Trong bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu đang nói với những người Biệt phái cùng dự tiệc với Ngài và các môn đệ của Ngài.Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc “ tiệc cưới “ của người Do Thái thời đó, để nói về Nước Thiên Chúa “ các người Do Thái là dân Chúa chọn, họ được mời tham dự Nước Trời nhưng họ từ chối,tuy nhiên, các người nghèo khó, tàn tật, đui mù cũng được Chúa mời, những người này đã nhận lời và được vào Nước Trời. Đây là điều Chúa đã tiên báo : dân ngoại giáo sẽ vào thya chỗ dân Do Thái được mời trước.
Chúa nhắc nhở con người, cảnh giác chúng ta đừng quá bám víu vào thế gian, vào cuộc đời mau qua này, đừng đặt con người chúng ta trên của cải, danh vọng, địa vị vì có người đến sau sẽ trở nên trước hết và có người đến trước sẽ trở nên rốt hết. Chúa đã đồng hóa mình với kẻ khó nghèo, tàn tật, bất hạnh, tù đầy, bị ngược đãi vv…Cho nhưng không, vô vị lợi, không tính toán là điều quan trọng cho mỗi môn đệ của Chúa. Khiêm tốn, tự hạ là điều Chúa quý chuộng. Lucifer vì quá kiêu ngạo nên đã bị Thiên Chúa giáng phạt. Goliath cho mình là to lớn, sức mạnh vô song, tự mãn, tự tôn, nên đã bị cậu bé Đavít quật chết…
Chính vì thế, chọn cỗ nhất, chọn chỗ nhất nơi tiệc cưới, nơi những cuộc hội họp có đông người là tự mãn với địa vị, với chức danh của mình. Chúa nói hãy khiêm tón ngồi ở dưới để khi gia chủ tới mời lên ngồi trên cao, lúc đó người được mời sẽ được danh dự trước mặt mọi người. Chúa còn nói đừng mong người khác đáp trả khi họ nghèo nàn, túng thiếu. Chúng ta đã đón nhận nhưng không phải cho lại nhưng không vv…Khiêm tốn sẽ được tôn lên.Tự mãn, kiêu ngạo sẽ bị hạ xuống.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn vì tất cả đều từ Chúa. Chúng con đã nhận nhưng không, thì phải cho lại nhưng không. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra sự khiếm khuyết, yếu đuối của chúng con và luôn đặt cuộc sống, sinh mạng của chúng con dưới sự quan phòng của Chúa.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.ChúaGiêsu đã dạy các môn đệ và những người Pharisêu bài học gì nhân tiệc cưới hôm nay?
2.Khiêm nhường là gì ?
3.Thủ lãnh các người Biệt phái là ai ?
4.Tại sao những người Biệt phái lại luôn chống đối Chúa Giêsu ?
5.Tội kiêu ngạo là tội gì ?
.
Lm. Vũ Đình Tường
Quan khách hay khách quan đều nói về người nhưng mang ý nghĩa khác nhau. Từ khách quan mang tính cách thương mại trong kinh doanh. Từ quan khách nói lên tính trang trọng của người khách. Nói đến quan khách là nói đến ghế danh dự dành riêng cho quan khách trong những cử hành lễ hội công cộng. Thực ra vấn đề xếp chỗ cho quan khách không đơn giản như chúng ta thấy nơi các buổi lễ hội công cộng. Khi có người đồng giai cấp, thứ bậc việc sắp xếp chỗ ngồi ngang hàng quả là nhiêu khê. Có nhiều vận động ngầm về chỗ ngồi giữa các viên chức làm việc trong các văn phòng hành chánh cho người lãnh đạo phe nhóm. Người ta nhân danh vị đó đòi hỏi nghi thức đón tiếp làm đau đầu, nhức óc ban tổ chức lễ hội. Tranh cãi đây không phải là ghế ngồi mà chính là danh dự, tiếng tăm, vị thế của người ngồi ghế đó trong ngày lễ hội. Mặc dù các nghi thức cử hành chỉ vỏn vẹn trong thời gian ngắn nhưng danh dự, tiếng tăm đối với những khách danh dự thật là quan trọng.
Khách danh dự trong nước Thiên Chúa hoàn toàn khác. Nước Thiên Chúa không thuộc vào hạng người nắm quyền ngang trời, thế dọc đất. Hành hạ mọi người, già trẻ, lớn bé không trừ ai. Những người vang bóng một thời, hét ra lửa, thở ra quyền. Nói ra kẻ tung, người hứng, lên xuống có người đóng mở cửa. Đứng lên có kẻ bợ, ngồi xuống có kẻ đỡ. Có quyền sinh sát trong tay, có quyền bẻ cong công lí. Trong nước Thiên Chúa không có chỗ riêng cho những người đó. Nước Thiên Chúa dành cho những ai? Thưa là những người có thời mất công lí nay được tuyên công, người nghèo khổ nay vui mừng, kẻ cô đơn nay có bạn thân tình. Người chết vì đức tin nay sống ngàn thu, người tù đầy trong tối tăm nay thấy ánh sáng huy hoàng. Đức Kitô Con Thiên Chúa đứng ra phát thiệp mời họ, đón họ, biến họ là khách danh dự trong nước của Ngài. Theo tinh thần bài Phúc Âm tuần trước họ là những người đi qua cửa hẹp mà vào. Kẻ béo quyền hành, tốt bè phái muốn qua cửa hẹp phải dẹp bỏ tất cả mới qua lọt, bằng không những thế lực kia kéo lại sẽ không thể qua lọt. Bỏ được những quyến rũ bất chánh cần có tinh thần sẵn sàng từ bỏ, cần có tấm lòng khiêm nhu, tự nhận mình sai trái, thiếu sót, giới hạn và khiêm nhường đón nhận Lời Chúa làm hướng đi cho cuộc sống. Thực hiện được điều đó qua hành động cụ thể mến Chúa, yêu tha nhân họ sẽ dễ dàng qua cửa hẹp.
Trong nước Thiên Chúa không có cạnh tranh, vận động ngầm để được ngồi vào ghế danh dự. Những khách vào nước Trời là những người có tấm lòng khiêm cung. Họ đến không phải để được ca tụng nhưng đến chính là vì yêu mến anh em, đến để gặp gỡ, để cùng với mọi người tay bắt, mặt mừng trong ngày hội. Họ đến trong tình thân hữu chân thành, trong tình con một Cha chung là Đức Kitô. Họ đến trong tinh thần sẵn sàng phục vụ người khác như tinh thần lời Đức Kitô phán trong Mat 20,26. Tinh thần đó là con người đến để phục vụ anh em chứ không phải để được phục vụ.
Khiêm nhường và thống hối luôn đi chung với nhau. Người tự nhận khôn ngoan, bằng cấp cao, trí hiểu nhiều rất khó sống khiêm nhường. Người khiêm nhường luôn nhận biết giới hạn, yếu đuối của con người. Họ biết trước mặt Thiên Chúa tài họ không bằng chi, giầu sang của họ là hư không. Vì sao? Vì tất cả những gì họ có đều do Chúa ban. Nhận biết điều này nên họ sống trong khiêm nhường, cưu mang tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Nhận biết điều này nên họ không ghen tị với anh chị em khác khi người đó trội hơn họ về mọi mặt vì họ biết đó là ơn Chúa ban riêng cho người đó. Nhận biết điều này nên họ sống phó thác, tin yêu vì họ biết những gì trong tay là do Chúa trao. Vì là của Chúa ban nên họ có trách nhiệm coi sóc, phát triển và đồng thời chia sẻ những điều đó với anh chị em cần đến chúng. Nói cách khác họ không phải là chủ nhân tài năng mình có mà là người quản gia, gia tài Chúa trao cho họ chăm sóc, bảo vệ, giữ gìn, phát triển và chia sẻ. Làm được những công việc đó họ xứng đáng ngồi trong ghế danh dự nước trời.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nước cần thiết cho sự sống muôn loài. Nước quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối. Không có nước, không có sự sống. Mọi sinh vật đều gồm phần lớn là nước dù sống ở đâu. Chín phần mười thể tích cơ thể con người là nước.
Khi sử dụng nước trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cho là điều tự nhiên. Nhưng thật sự, nước là của châu báu Trời ban cho quả địa cầu.
Nước từ trên nguồn cao đổ xuống, nước uốn mình theo ghềnh thác, nước lượn khúc trong những khe suối, nước chảy xuôi dòng sông, nước dồn về biển cả. Không có gì mềm mại hơn nước và cũng không có gì mạnh mẽ bằng sức nước. Nước không có độ cứng dày nên không đo lường được chiều cao, sâu, rộng, dài của nước. Nước rất yếu mềm, không mạnh mẽ, nhưng tính bền bỉ lại khiến nước có thể làm mòn đá bởi dòng chảy của mình. Đá có mạnh đến đâu cũng sẽ bị nước mềm yếu chinh phục. Vì thế Lão Tử nhận định: “Trên thế gian không có thứ gì yếu mềm như nước, nhưng lại không có thứ mạnh mẽ nào có thể thắng được”. Từ đó, ông cũng cho rằng mềm dẻo là phương cách tồn tại nên có của con người: “mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ ai cũng đều biết rõ”. Sự mềm dẻo của Lão Tử chính là nói về quan niệm xử thế rộng rãi lạc quan, xem thường cái mạnh.
Nước chảy tới đâu đem lại sự sống đến đó. Gặp ghềnh thác hay các tảng đá chắn lối, nươc vẫn len lõi chảy không gây xích mích hay hận thù với ai.Nước có thể bị vẩn đục khi chảy qua rừng rậm, ruộng đồng, nương rẫy nhưng nước có khả năng thanh tẩy trở lại thanh sạch ban đầu.
Nước chảy chỗ thấp, an phận, không tranh giành. Vì không tranh giành nên cũng không thất bại. Đồng thời, nước lại thân thiện với vạn vất, giúp vạn vật phồn vinh, cho nên được vạn vật yêu thích. Con người cũng vậy, cần khiêm tốn, nhường nhịn, khéo léo, hết sức giúp đỡ người khác, tránh việc tranh giành, đừng mang tâm lý thắng thua. Đó chính là “thượng thiện nhược thủy”. Lão Tử chủ trương: “Người thiện, thì ta thiện; người không thiện, ta vẫn cứ thiện, đó chính là thiện”. Trong mọi việc con người đều lưu giữ thiện tâm, lấy thiện đãi người, dù có chịu thiệt thòi trước mắt thì cũng không mất đi tín niệm trong lòng, như vậy sẽ được người yêu mến, được trời đất phù trợ, chính là thiên thời, địa lợi, nhân hòa.(Thanh Trúc).
Nước là biểu tượng cho đức khiêm nhường. Nước luôn tìm chỗ thấp mà chảy xuống. Dù hạ mình thấp hèn nhưng nước thật cao cả vì đem lại sự sống cho mọi loài.
Đức Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận dùng hình ảnh nước để huấn dụ cho các chủng sinh về đức khiêm nhường: “Khi ta ngồi lên ngai cao, nhiều người muốn đạp ta xuống; khi ta nằm xuống sát đất, nhiều người muốn nâng ta lên…Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi dòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông”.
Khiêm hạ như dòng nước chảy xuống thấm nhuần vào đất đai. Nước bao giờ cũng chảy xuống thấp nên có thể đến mọi nơi. Nước thấm tới đâu làm đất đai ở đó thêm màu mỡ và phì nhiêu.
Bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy rằng: “Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, con sẽ được đẹp lòng Chúa”. Hạ mình là cách thế tốt nhất để gặp gỡ và đến với tha nhân. Con đường khiêm hạ là con đường Thiên Chúa đến với nhân loại. Qua sự khiêm hạ, con người đến với nhau và đến mọi nơi.
Bài Tin Mừng kể chuyện Chúa Giêsu đi dự bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Chỉ một bữa ăn cũng đủ là đề tài để Chúa dạy nhiều bài học. Bài học cho những kẻ được mời là hãy khiêm nhường nhìn nhận việc mình được mời là một ân huệ. Và cũng thêm một bài học cho chủ nhà là người mời. Ông biệt phái mở tiệc đãi khách, thực ra không phải vì khách mà vì mình. Ông mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những người tai to mặt lớn. Ông biệt phái thích khoe khoang nên có lẽ mời Chúa Giêsu chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình. Chúa nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả năng đáp lễ. Hãy biết nghĩ đến những người nghèo khó bất hạnh.
Bài học Chúa dạy là đức khiêm nhường và đức bác ái. Hai nhân đức này là nền tảng của đạo đức.
1. Bài học khiêm nhường
Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn.
Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Còn Chúa dạy nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Khiêm tốn là ít nghĩ về mình, và nhiều lúc không nghĩ gì về bản thân. Đối với Kitô hữu, khiêm tốn là trở nên giống Chúa Giêsu: “Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”; “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Khiêm tốn sống như Chúa Giêsu là không sống cho riêng mình mà sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ tha nhân.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nhu nhược hèn nhát, nhưng chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, mà là một hành vi yêu thương, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý.
Khiêm nhường còn là khuôn mặt của tình yêu. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không kết thân với người giàu có quyền thế nhưng luôn quan tâm những người nghèo, người bị ruồng bỏ, người ốm yếu tật nguyền, Ngài an ủi và chữa lành cho họ.
Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, Sách Huấn Ca cũng chỉ cho thấy con đường khiêm tốn là con đường tuyệt đẹp được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu.
2. Bài học bác ái
Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy rằng, khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Đó là tinh thần phục vụ vô vị lợi, không mong đền đáp, làm việc âm thầm.
Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà, hãy mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp trả, và như thế, ông mới thật có phúc vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại.
Người ta thường nghĩ những kẻ đui mù, tàn tật, què quặt và nghèo khó là những người bất hạnh làm gánh nặng cho xã hội. Nhiều khi người ta ngoảnh mặt, giả điếc làm ngơ và từ chối giúp đỡ.Chúa Giêsu dạy các môn đệ, hãy sống gần gũi hòa đồng với người nghèo, người bất hạnh. Sống và cư xử tốt với họ dù rằng họ chẳng có gì đáp lại. Lý do là vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là anh em con một Cha nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Con đường bác ái yêu thương là lối vào Nước Trời. Chúa Giêsu chính là hiện thân nơi những người bất hạnh, nghèo khó. Ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa.
3. Tình yêu như dòng nước.
Bác ái và khiêm nhường là hai nhân đức căn bản. Bác ái là bản chất, khiêm nhu là vóc dáng. Vóc dáng giúp chủ thể thon gọn thuận tiện ở mọi sinh hoạt trong mọi lãnh vực. Bác ái là nền tảng làm nên phẩm giá và tư cách hấp dẫn con người ở mọi nơi mọi thời. Người sống bác ái chính là biết khiêm nhường phục vụ, làm nên vóc dáng xứng hợp với cửa hẹp Nước Trời.
Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.
Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo. Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu như Chúa đã yêu và yêu đến cùng.
Nước biểu tượng đức khiêm nhường và đặc tính của nước cũng giống như tình yêu. Nước còn là biểu tượng cho mọi phúc lộc của Thiên Chúa. Trong thuật ngữ Kitô giáo, nước được sử dụng như như biểu hiệu của một diễn trình biến đổi và trở về nội tâm. Qua phép Rửa bằng nước, người Kitô hữu lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nước của phép Rửa có sức tẩy sạch tội lỗi gây sự chết và đưa vào đời sống mới. Nước của phép Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem lại sự tươi mát cho tâm hồn. Được làm con cái Thiên Chúa qua phép Rửa là hồng ân với đời sống mới, luôn khiêm tốn và bác ái hướng tới trọn lạnh.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Amen.
.
NGƯỜI SAU HẾT SẼ NÊN TRƯỚC HẾT
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Câu châm ngôn nói lên tâm lý bình thường của người Việt nam, thích được danh giá, khen tặng giữa nơi đông người. Xã hội Việt nam ngày xưa rất cô lập với lũy tre làng khi mà những chuyến du lịch xa hay những tin tức chưa đến được với quần chúng thì cái đình làng bé nhỏ của quê nhà là nơi mọi người thường gặp gỡ và cũng là nơi nhiều người muốn được danh giá và khen tặng.
Trong truyền thống minh triết của những người do thái, những bậc hiền triết đã biết huấn luyện cho mọi người có một tầm nhìn khác hơn và cập nhật hơn. Những đức tính khiêm nhường, hiền lành phục vụ phải là những đức tính mà họ phải khắc cốt ghi tâm, bởi vi đó là những đức tính được Thiên Chúa yêu mến và quí chuộng. Không phải khi làm lớn có địa vị cao là dịp để người ta nên kiêu căng tự phụ hống hách, mà đó là lúc họ càng phải biết khiêm nhường và hiền lành để phục vụ, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng quyền năng cao cả, và Thiên Chúa yêu thương những người biết sống khiêm nhường hiền lành phục vụ: “càng làm lớn thì con càng phải hạ mình trong mọi sự và đó là điều đẹp lòng Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là Đấng quyền năng cao cả”.
Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay liên hệ tới việc Chúa Giêsu nhận xét và đưa ra lời khuyên cho những người đồng bàn nhân việc người dự bữa ăn ở nhà của một thủ lãnh người biệt phái. Vào thời Chúa Giêsu, đối với những người do thái, nơi người ta thường gặp gỡ nhau vào những dịp ăn uống trong những bữa tiệc nơi các gia đình. Trong giới vị vọng lúc bấy giờ là những luật sĩ và những người biệt phái, nhiều người vốn có tâm lý thích chọn chỗ nhất trong đám tiệc để được mọi người khen tặng và kính trọng. Đây là một tâm lý bình thường và trở nên phổ biến. Nhận xét cách người ta thường lựa chọn chỗ ngồi trong các đám tiệc, Chúa Giêsu đưa ra một lời khuyên thực tế đầy khôn ngoan thận trọng cho họ : khi được mời dự tiệc, đừng vội chọn chỗ nhất trong đám tiệc, lỡ khi có người khác cao trọng hơn bạn cùng đi vào thì chủ nhà sẽ phải nói với bạn nhừơng chỗ cho người danh giá hơn; nhưng ngược lại hãy biết chọn chỗ thấp để chủ nhà sẽ đến mời bạn vào chỗ cao hơn, khi đó bạn sẽ được danh giá và kính trọng trước mặt mọi người. Mặt khác, Chúa Giêsu còn đưa ra một lời khuyên khác nữa dành cho những người tổ chức tiệc tùng. Họ hãy biết mời những người nghèo khổ túng thiếu là những người không có khả năng mời lại mình.
Nếu chỉ dừng lại ở những lời khuyên này, có lẽ những lời dạy của Chúa Giêsu cũng giống những lời dạy của một bậc thầy khôn ngoan dạy xử thế khác. Chúa Giêsu không chủ đích dừng lại ở những lời dạy của một bậc thầy dạy cách xử thế khôn ngoan trong trường đời. Vào thời kỳ này, những bậc thầy do thái cũng đưa ra những lời khuyên đầy khôn ngoan như thế trong việc chọn chỗ ngồi trong đám tiệc hay khi tổ chức các bữa ăn mời khách đến dự tiệc tại nhà mình. Viễn tượng của lời dạy của Chúa Giêsu mới mẻ hơn ở chỗ bắt đầu hướng đến sự đảo lộn mọi trật tự vào cuối thời gian khi mà chính Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách quyết định. Lúc bấy giờ những người sau hết sẽ nên trước hết, những người trước hết sẽ nên sau hết và những ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và những ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chúa Giêsu bắt đầu mở rộng tầm nhìn của những người do thái để họ biết hướng đến viễn tượng quyết định cuối cùng của cuộc đời con người thay vì chỉ khư khư hạn hẹp trong góc nhìn thiển cận của mình. Ở trong đời sống xã hội, con người có những tương quan và đã ao ước được kính trọng giữa mọi người thế nào, thì họ hãy biết khôn ngoan để được đón tiếp và kính trọng trong bàn tiệc của Nước Thiên Chúa là vận mệnh quyết định của con người sau này. Trong bàn tiệc này, sự kính trọng sẽ không còn đặt trên địa vị sang hèn như trong xã hội con người nữa, mà sự kính trọng sẽ thuộc quyền quyết định của Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ quyết định dành sự kính trọng này cho những người đã biết tự hạ, sống khiêm nhường trong cuộc đời trần thế, họ sẽ được nâng cao; hay những người đã biết quảng đại mời những người nghèo khổ túng thiếu đến dùng bữa tại nhà mình, khi mà họ không có gì để trả lại, nhưng chính Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ trong ngày người công chính sống lại. Những hành vi khiêm nhường phục vụ và quảng đại giúp đỡ những người nghèo khổ sẽ là điều kiện để được Thiên Chúa thưởng công khi mà Thiên Chúa là Đấng vô cùng giàu có và đại lượng sẽ trả công bội hậu cho họ.
Thời nào cũng thế, chúng ta dễ bị ám ảnh và chi phối bởi những cái nhìn hạn hẹp, người làm lớn quyền cao chức trọng dễ trở nên tự kiêu, người không có địa vị cao thì lại ao ước có địa vị và xem địa vị là lúc mình được ăn trên ngồi trước thiên hạ. Tâm lý hám danh cầu lợi làm cho tầm nhìn của chúng ta trở nên hạn hẹp và gò bó trong cái nhìn thiển cận hẹp hòi. Chúa Giêsu bắt đầu thúc đẩy chúng ta mở rộng tầm nhìn hướng đến những chân trời rộng lớn hơn và quyết định hơn, để rồi có cách hành xử thích hợp trong cuộc đời hiện tại, đừng để mình bị thúc đẩy và chi phối bởi những thói đời chật hẹp. Bởi vì như những lời giải thích trong bài đọc thứ hai của thư Do thái nhắc nhở, chúng ta đang tiếp cận với thực tại mới và quyết định là chúng ta đang tiến tới núi Sion, núi thánh của Thiên Chúa và là Giêrusalem thiên quốc và chung quanh chúng ta là muôn vàn thiên thần và các thánh là cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, những linh hồn của những người công chính, và nhất là chúng ta đang đến cùng Thiên Chúa là Đấng phán xét mọi người, và đến cùng Đức Giêsu là trung gian của giao ước mới. Một hành trình và điểm đến quan trọng như thế khích lệ và soi sáng cho bước đi của mỗi người chúng ta là bước đi trong ánh sáng của những lời dạy của Chúa Giêsu để biết sống khiêm nhường và quảng đại với mọi người. Lời dạy của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về căn tính chân thật của mình với Thiên Chúa. Chúng ta là những người được Thiên Chúa mời gọi đến chung hưởng hạnh phúc vô tận của Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta vào hạnh phúc chân thực này, nơi bàn tiệc quyết định là Nước Thiên Chúa khi mà Thiên Chúa sẽ thưởng công cho mọi người, khi mà Thiên Chúa sẽ trả lại cho chúng ta cách dư dật cho những gì mà chúng ta đã biết cho người khác cách quảng đại trong cuộc đời trần thế.
.
PM. Cao Huy Hoàng
Bữa tiệc của Nước Thiên Chúa
Thánh Luca mở đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay với chi tiết thời gian và không gian “một ngày Sa-bat nọ”, tại “bữa tiệc” của một thủ lãnh nhóm Pharisiêu. Chúa Giêsu được mời tham dự “bữa tiệc trần gian”, của những “con người trần gian” nầy. Bữa tiệc ấy đã phát họa trọn vẹn cái cung cách trần gian của những con người phàm tục- hoặc chưa hiểu gì về con người mới – con người có văn hóa Thiên Chúa, hoặc không tiếp nhận ánh sáng mới của Tin Mừng để thay đổi. Họ vẫn còn cũ rích trong cách suy nghĩ, cách sống… Tất cả cho cái tôi, cái riêng tiềm ẩn trong chính họ, như là một căn bệnh di truyền do tội lỗi của nguyên tổ để lại. Cái tôi khiến người ta tranh giành tư thế độc tôn, tranh giành cho mình mọi sự nhất: được suy tôn nhất, được đề cao được chú ý nhất…
Đức Giêsu đã dùng chính những diễn biến trong bữa tiệc trần gian ấy để rao giảng bài học quí giá cho con người về bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa. Những người văn hóa cũ rích và đáng bị lên án kia, cũng đang là chính mỗi chúng ta, những con người của thế kỷ 21, được mang danh là những con người của thời văn minh hiện đại. Ngài đã lên án điều gì, và Ngài đã dạy gì?
Không dành cho người kiêu ngạo
Ngài lên án thói kiêu ngạo: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.
Quả thật, không phải vô duyên vô cớ mà mối tội đầu Kiêu Ngạo được đưa lên đầu danh sách bảy mối tội, vì theo các nhà tu đức, thì thần dữ kiêu ngạo luôn có những chiêu thức cực kỳ hiểm độc, và có tài điều binh khiển tướng làm cho sáu thần dữ của sáu mối tội kia có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Khi đã để cho thần dữ kiêu ngạo hoạt động trong lòng, thì việc hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, làm biếng là điều quá dễ dàng. Một trong những chiêu thức tài tình nhất của thần dữ kiêu ngạo là tặng cho con người ta sự tự ngộ nhận mình là đạo đức, là thánh thiện, là khiêm nhượng, là từ thiện, là bác ái hơn người, và luôn luôn hơn người, một cách chủ quan. Nhưng thật ra, tất cả những điều ấy đều là sự giả dối, sự tự đánh lừa mình từ trong tận gốc rễ. Cách suy nghĩ ấy, cách sống ấy, của những người Pharisiêu xưa, đã bị Đức Giêsu vạch mặt thần dữ kiêu ngạo trong họ và lên án nghiêm trọng.
Cả chúng ta nữa, lời rao giảng của Đức Giêsu đã hơn hai ngàn năm vẫn chưa thẩm thấu và thay đổi được cái căn tính tồi tệ ấy trong mỗi con người hôm nay. Chiêu thức “cám dỗ làm điều tốt” vẫn luôn luôn được rao bán hoặc biếu không, khuyến mãi khắp nơi trên thế giới và trong cõi lòng thâm sâu của ta. Cái vỏ bọc đạo đức bề ngoài cho thấy, không phải chúng ta không biết thế nào là đạo đức, nhưng chúng ta lại chấp nhận theo cách đạo đức được hướng dẫn bởi thần dữ kiêu ngạo, không phải bởi Thần Khí của Thiên Chúa:
-Tự nhận cho mình trách nhiệm xây dựng Giáo hội theo kiểu của mình là phải chỉ trích, lên án, rêu rao, phản đối… mà chưa kịp suy niệm cho ra những ý định tuyệt vời của Thiên Chúa;
-Tự nhận cho mình một công tác mang tầm vóc tổ chức của Giáo Hội để thành lập uỷ ban nầy, tập thể kia mà không được ủy thác;
-Tự tôn phong cho mình một vai trò quan trọng trong giáo hội ngang tầm với ý định riêng tư của cõi lòng mình……. hoặc cụ thể hơn, tôi phải làm cái gì đó, to hơn, lớn hơn người đi trước tôi hoặc hơn những nơi khác; tôi phải làm ông kia bà nọ trong giáo xứ vì mấy người nầy làm chẳng ra chi; phải có tôi, phải có đóng góp của tôi thì việc mới thành công được….
Tất cả, tất cả những suy nghĩ ấy đều có thể bị đánh lừa bởi sự giả dối của thần-dữ-kiêu-ngạo-thật-trong-lòng đang chỉ đạo.
Không hẳn chỉ người có quyền, có tiền, có tài mà sinh ra lòng kiêu ngạo. Thực ra, đôi khi họ chưa kịp kiêu ngạo thì kẻ yếu thế, người nghèo khổ, người kém cỏi đã kiêu ngạo trước họ rồi – kiêu ngạo với lòng bất mãn, ganh tỵ, chống đối, chê bai, chỉ trích. Thần dữ kiêu ngạo không trừ ai, không miễn trừ thành phần nào và cũng không hà tiện một thủ đoạn nào, miễn là nó đạt được mục đích tối hậu là làm cho con người không được tham gia vào bữa tiệc Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu hôm nay cũng đang cảnh cáo mỗi chúng ta-những con người thích ngồi chỗ nhất, mâm cỗ nhất, thích được đánh bóng, thích được ngụy tạo một chổ đứng một vị trí, thích cho danh mình được cả sáng…
Lời Chúa cho chúng ta cơ hội đặt mình trước mặt Ngài để nhờ ánh sáng Lời Ngài chiếu dọi vào tận cõi lòng mà tìm ra cho được sào huyệt thường trú của thần dữ kiêu ngạo tinh quái.
Nhưng dành cho những ai có lòng khiêm nhượng
“Thứ nhất khiêm nhượng chớ kiêu ngạo” -nhân đức ưu tiên được đề cập đến trong “cải tội bảy mối”, là lời dạy thiết thực của Chúa Giêsu trên trang Tin Mừng hôm nay dành cho những ai muốn bảo đảm một vé mời dự tiệc Nước Thiên Chúa.
“Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối…” Chúng ta đã được “mời vào dự tiệc” Nước Thiên Chúa qua các Bí tích, từ việc tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được gọi Thiên Chúa là Cha, được nhận lấy Thần Khí sự sống, được sống bằng chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong tiệc Thánh Thể…, nhưng còn việc “vào ngồi chỗ cuối” thì chắc hẳn phải xem lại.
Chỗ cuối Chúa dạy chúng ta vào ngồi là chỗ của Đức Giêsu,
– Chỗ cuối, chỗ chấp nhận thân phận làm người, và chấp nhận dưới mức tận cùng của kiếp người với lòng khiêm hạ tối đa vì lòng yêu mến và tuân phục Cha, để mọi người được cứu rỗi. Chỗ cuối, chỗ của yêu thương và phục vụ tận tình.
-Chỗ cuối, chỗ của lòng tin tuyệt đối, lòng cậy vững vàng-tín thác hoàn toàn, và chỗ của lòng mến không vụ lợi.
-Chỗ cuối, chỗ nên giống Chúa Giêsu hoàn toàn trong cách suy nghĩ, cách nói, và cách cư xử: kiên quyết loại trừ thần dữ kiêu căng trong lòng trí con người,và mặc lấy tâm tình đơn sơ nhỏ bé phó thác để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và cho vinh danh Thiên Chúa.
-Lòng khiêm nhượng của Đức Giêsu là từ bỏ chính mình, chính cái rất riêng của mình, lắng nghe và thấu hiểu ý của Cha. Vì vậy, chỗ của Chúa Giêsu, là chỗ khiêm nhượng chân thành nhưng khôn ngoan nhờ việc luôn kết hợp mật Thiết với Thiên Chúa Cha và làm theo ý của Cha qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Lời dạy dành cho người mời tiệc “hãy mời những người nghèo khó…” mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa Cha về tiêu chuẩn khách được mời vào trong tiệc Nước Thiên Chúa: khiêm nhượng.
Bữa tiệc của Nước Thiên Chúa không dành cho những người kiêu ngạo, nhưng dành cho những người có lòng khiêm nhượng, người chọn vào ngồi chỗ của Đức Giêsu, chỗ rốt cùng vì quảng đại đến cùng cho công cuộc cứu rỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chỗ của Chúa và vào ngồi chỗ của Chúa trong cuộc đời, trong Giáo Hội và trong Nước Chúa.
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Vào thời Đức Giêsu, dường như người ta chưa có thói quen xếp chỗ ngồi trước trong bữa tiệc. Cho nên, khi Đức Giêsu được một Thủ lãnh Biệt phái mời đến dự tiệc, Ngài trông thấy có những người tìm ngồi chỗ danh dự.
Có những người lại giả vờ ngồi chỗ rốt hết, nhưng cố ý để chủ nhà mời lên trên cho hãnh diện. Đây là thói quen của những người Biệt phái, họ thường ưa thích ngồi chỗ cao trong nơi đám tiệc và Hội đường.
Ngày nay, trong bất cứ bữa tiệc nào, chuyện xếp chỗ ngồi là việc khá quan trọng. Chỗ ngồi thường được xếp theo tuổi tác, địa vị và quan hệ xã hội.
Thế nhưng, trong bàn tiệc Nước trời thì khác hẳn: chỗ danh dự nhất chính là chỗ rốt hết. Người nào càng khiêm tốn bao nhiêu thì sẽ được Chúa cao nâng bấy nhiêu. “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Đức Giêsu không bao giờ dạy một chân lý nào mà Ngài không làm gương trước. Nếu trần gian này ví như một bàn tiệc, thì khi bước vào bàn tiệc trần gian, Ngài đã chọn cho mình một chỗ rốt hết.
Ai trong chúng ta dù nghèo đến đâu đi nữa, thì cũng sinh ra trong một ngôi nhà êm ấm; còn Đức Giêsu sinh ra trong hang lừa máng cỏ, thiếu thốn mọi tiện nghi.
Anh chị em cho dẫu có nghèo đi chăng nữa, thì cũng có một mái nhà hay ít ra một túp lều để che nắng che mưa; còn Đức Giêsu nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu”.
Chúng ta dầu thiếu thốn đến đâu đi nữa thì khi chết cũng nằm trên giường, y phục đầy đủ, con cháu họ hàng ấm cúng. Còn Đức Giêsu khi Ngài chết trên cây thánh giá, chỉ mình trần thân trụi không mấy người thân bên cạnh.
Chúng ta dù có cùng cực đến mấy đi nữa khi chết còn có nấm mồ để chôn; còn Đức Giêsu phải chôn nhờ nơi ngôi mộ người khác. Thật đúng là “sinh vô gia cư tử vô địa táng”.
Đức Giêsu chọn chỗ rốt hết không phải là Ngài không có khả năng, Ngài là Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự, Ngài có đầy đủ tất cả, nhưng Ngài tự chọn chỗ rốt hết, để làm gương cho chúng ta sống tinh thần khiêm tốn.
Chẳng những Đức Giêsu dạy chúng ta chọn chỗ rốt hết, nhưng Ngài còn để lại gương khiêm tốn phục vụ bằng việc rửa chân cho các môn đệ. Đang dùng bữa tiệc ly, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo choàng, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu, quỳ gối xuống rửa…. Cởi áo choàng là cởi bỏ địa vị Thiên Chúa, lấy khăn thắt lưng và quỳ gối là đóng vai đầy tớ. Ngài dạy chúng ta khi phục vụ người khác, thì đừng nghĩ đến địa vị của mình, nhưng noi gương Chúa hạ mình xuống phục vụ như người tôi tớ.
Đức Giêsu biết trước Phêrô sẽ chối Ngài; Giuđa sẽ phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn rửa hết 12 đôi chân. Ngài rửa đi những yếu đuối tội lỗi của các ông; Ngài lau sạch những bàn chân còn vương lấm bụi trần, tranh giành chỗ thấp chỗ cao, để các ông xứng đáng dự tiệc với Ngài.
Qua đó, Đức Giêsu muốn chúng ta bắt chước Ngài rửa chân cho nhau. Cần rửa đi những gì chưa hài lòng nhau giữa vợ chồng và con cái; cần rửa sạch đi những bất đồng chia rẽ với nhau trong tình làng nghĩa xóm.
Đức Thánh Cha Piô XII nói rằng: “Nếu trong gia đình mà người chồng biết quên mình đi chỉ nghĩ đến vợ và con cái; nếu người vợ biết quên mình chỉ lo cho chồng con; và con cái biết quên mình chỉ nghĩ đến cha mẹ và anh em, thì gia đình đó là thiên đàng trần thế”.
Thật vậy, nếu mỗi gia đình là một bàn tiệc, mà ai cũng tìm chỗ rốt hết, có nghĩa là quên mình để sống cho người khác, thì gia đình đó thật hạnh phúc biết bao.
Anh chị em thân mến,
Cử hành Thánh lễ, là chúng ta tham dự một bữa tiệc. Chúa là chủ tiệc, chúng ta là khách được mời. Chúa đãi chúng ta bằng chính Thịt Máu của Ngài.
Chớ gì mỗi lần tham dự bàn tiệc thánh, không phải chúng ta chọn chỗ rốt là đứng cuối, hay đứng ngoài nhà thờ, nhưng chúng ta hãy học lấy tinh thần khiêm tốn như Chúa đã làm gương cho chúng ta.
Đọc lại những trang Tin mừng, không thấy Đức Giêsu mời chúng ta học nơi Ngài cách làm phép lạ; học nơi Ngài cách chữa bệnh hay đi rao giảng; nhưng chỉ mời gọi chúng ta học nơi Ngài bài học duy nhất đó là “Hiền lành và khiêm nhường”.
Xin cho mỗi người chúng ta là những học sinh giỏi được tốt nghiệp trong mái trường Giêsu, để ngày sau được Thầy Giêsu cao nâng chúng ta vào bàn tiệc nước trời. Amen.
.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy có một hạng người hay bị Chúa Giêsu chiếu cố, có khi khiển trách nặng lời, đó là những người Pha-ri-sêu. Phải công bằng nhìn nhận rằng: những người Pha-ri-sêu có nhiều cái hay, nhưng đồng thời cũng có nhiều cái dở. Một trong những cái dở đó là giả hình và kiêu ngạo. Họ tự cho mình là hơn người, nên hay tìm chỗ nhất và ghế danh dự trong hội đường hoặc nơi phòng tiệc, và thích được bái chào nơi phố xá. Chúa Giêsu thấy đó là một thái độ cần sửa chữa nên Ngài đưa ra một lời khuyên: khi được mời dự tiệc, đừng ngồi vào chỗ nhất, vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Thật ra, trong Cựu Ước cũng đã có những lời khuyên tương tự: “Trước mặt vua, con chớ vênh váo và đừng ngồi chỗ của kẻ quyền cao”, “Hãy ngồi dưới hai hoặc ba chỗ, để thà người ta mời mình lên hơn là bị mời xuống”, và các kinh sư cũng thường dạy: “Tôi nâng mình lên là tôi tự hạ mình xuống, và hạ mình xuống là nâng lên”. Những lời trên đây chúng ta thấy rất gần với lời Chúa dạy hôm nay.
Như vậy, có phải Chúa Giêsu dạy chúng ta một tiểu xảo, một mánh lới không? giả vờ hạ mình xuống để được nâng lên, giả vờ ngồi chỗ cuối, chỗ dưới để được mời lên trên? Chúng ta có thể trả lời ngay: chắc chắn là không. Chúa không dạy chúng ta một tiểu xảo, bởi vì nếu Chúa có ý như vậy thì Ngài đã làm ngược lại chính chủ trương của Ngài. Ngài không dạy chúng ta hạ mình xuống với hậu ý là để được cất nhắc lên, và ai có dụng tâm hay ý đồ như vậy, thì là kẻ háo danh chứ không còn phải là người khiêm nhường nữa.
Hạ mình xuống không phải là một tiểu xảo, một mánh lới mà là chân thành nhìn nhận giá trị thực sự của mình. Nói rõ hơn, hạ mình xuống là khiêm nhường, mà khiêm nhường thực sự là biết mình, biết sự thật về ưu điểm cũng như khuyết điểm của mình. Chúng ta có biết mình thực sự không? Khó lắm, bởi vì tự ái, kiêu căng, ích kỷ dễ làm chúng ta phán đoán, suy nghĩ, nhận định lệch lạc. Chúng ta hay có khuynh hướng phóng đại: phóng đại những cái tốt, cái hay của mình và phóng đại những cái xấu, cái dở của người khác. Vì thế, hạ mình xuống là sửa lại những phóng đại lệch lạc cho đúng sự thật, đúng với chân giá trị của mình.
Cũng thế, chúng ta hay dựa vào một số khả năng, một số uy quyền của mình để cho rằng mình có quyền trên tất cả. Chúng ta thành công trong một phương diện mà cứ cho rằng mình thành công trên mọi mặt, cho rằng mình không thể thua kém ai hay không ai có thể hơn mình. Chúng ta tự đưa mình lên đến trời và tìm cách hạ anh em xuống tận bùn đen. Như thế là tự cao tự mãn, khoe mẽ cầu danh, phô trương, hợm mình, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, và nếu có ai hơn mình thì bực tức, khó chịu, rồi tìm cách bôi nhọ, hạ giá người ấy và bao lâu người ấy còn hơn mình thì chúng ta khổ tâm dằn vặt. Đó là chính mình làm khổ mình, đó là kiêu ngạo hạng nặng.
Kinh nghiệm cũng dạy: khước từ một lời khen thì rất dễ, nhưng đón nhận một tiếng chê lại rất khó; phủ nhận một ưu điểm người ta ca tụng thì rất dễ, nhưng nhìn nhận một khuyết điểm người ta phê phán lại rất khó. Giả sử có ai đó khen chúng ta một điều gì, có thể chúng ta hỉnh mũi và im lặng thích thú trong lòng. Nhưng nếu có ai chê chúng ta một điều gì, chúng ta có đủ bình tĩnh để im lặng không hay chúng ta nóng mặt, bực tức và bốp chát lại liền? rõ ràng “cái tôi” của chúng ta còn lớn lắm. Vậy khiêm nhường hạ mình xuống là chấp nhận xóa bỏ “cái tôi” của mình. “Cái tôi” có thể xuất hiện hay bộc lộ dưới nhiều hình thức: trong ước muốn thống trị người khác, trong ý chí muốn trổi vượt và tìm cách gây ấn tượng nơi người khác, cả trong những thái độ nhún nhường, có khi ngầm chứa bên trong lại là ý định tạo ảnh hưởng của mình.
Như vậy, bài học khiêm nhường Chúa Giêsu dạy luôn mang tính thời sự nóng bỏng đối với cá nhân mỗi người chúng ta. Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Tập luyện bằng cách nào và thế nào? Trước hết là phải cầu nguyện, bởi vì trong những giây phút thinh lặng của cầu nguyện, chúng ta sẽ suy nghĩ lại, và nhất là sẽ được ơn Chúa soi sáng để biết rõ chính mình và biết mình làm việc, hành động, đối xử vì tình yêu Chúa hay vì những lý do gì khác như ích kỷ, danh vọng, khoe khoang. Rồi trong thực tế quan hệ với nhau, chúng ta phải tránh đừng bao giờ nói về mình hay so sánh mình với người khác, cũng đừng bao giờ khinh thường, chê bai, nói hành, nói xấu người khác… Tất cả những điều đó đều là “sản phẩm” của khoe khoang và kiêu ngạo. Vì thế, khi cảm thấy bị cám dỗ so sánh mình với người khác hoặc muốn chê bai, nói hành người khác, thì chúng ta hãy làm ngược lại, là chân thành cố gắng tìm hiểu họ, thông cảm với họ, đánh giá cao những tài năng hay những thành quả của họ. Chúng ta hãy tập nói những lời khen và chia vui với những thành công của người khác.
Tóm lại, thái độ kiêu xa, cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu, xa tránh. Trái lại, ai cũng mến yêu những người khiêm nhu, từ tốn. Vậy chúng ta hãy cố gắng loại bỏ tất cả những gì là kiêu xa, cao ngạo và phát triển những gì khiêm nhu, từ tốn.
.
KHIÊM TỐN LÀ NHẬN RA CHÍNH MÌNH
Lm. An Phong
Tin Mừng Chúa Nhật 22 Thường Niên C xoay quanh đề tài Đức Giêsu phê phán những người Pharisêu về thói đạo đức giả, thích phô trương, thích được người ta trọng vọng. Hôm nay, ngay tại bàn ăn trong nhà của chính họ, Người cũng phê phán sự cao ngạo của họ bằng một dụ ngôn.
Nội dung dụ ngôn đó là: Nếu các thực khách tự chọn chỗ ngồi rốt hết, thì ông chủ sẽ mời họ lên chỗ nhất và ngược lại.
Những người Pharisêu là những người thích chọn chỗ nhất. Họ luôn tự đánh giá mình là hạnh kiểm loại “A”. Trước mặt Thiên Chúa, họ kể lễ dài dòng những “thành tích” đạo đức của mình. Trước mặt người khác, họ coi thường và cho mình “quyền được hơn người khác”.
Nhưng trong vương quốc của Thiên Chúa thì khác: trật tự hiện nay sẽ bị đảo lộn; những chỗ tốt nhất là do Thiên Chúa ban như một quà tặng, chứ không do con người tự chọn cho mình. Như thế, con người có là chi trước mặt Thiên Chúa. Họ cần cúi mình xuống – khiêm tốn.
Khiêm tốn đích thực là nhìn nhận thực tế những gì mình hiện có và mình là. Khiêm tốn đích thực là dám chấp nhận những gì mình có chỉ là hồng ân của Thiên Chúa. Khiêm tốn đích thực sẽ mang lại niềm vui, bình an. “Tất cả là hồng ân” (thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu).
Đức Giêsu còn đưa ra một lời khuyên nghịch lý: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối… hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”. Không thể hiểu câu này theo nghĩa đen, nhưng cần hiểu theo một nghĩa sâu xa hơn, tức là về các mối tương quan xã hội khác nhau của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, mỗi người chúng ta thường được người khác đánh giá qua đẳng cấp xã hội, tiền tài, nghề nghiệp… Đó là “môi trường” bao chung quanh một người. Chính những “môi trường” này đã phân chia con người làm nhiều hạng, loại trong cùng một xã hội. Những người cùng một “môi trường” như nhau thường liên kết, giao du với nhau. Từ đó, sự phân cách trở nên ngày càng lớn. Chúng ta thường bị điều kiện hóa bởi “môi trường” của mình. Điều này thường ngăn cản chúng ta không mở rộng vòng tay, tấm lòng tới tất cả mọi người không phân biệt một ai. Đức Giêsu đến để phá đổ những bức tường ngăn cách giữa con người với nhau. “Không còn Do Thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do” (Gl 3,28), không còn người giàu hay người nghèo, thánh nhân hay người tội lỗi. Tất cả mọi người đều phải có chỗ trong con tim của chúng ta, nhất là những người yếu đuối, bất hạnh, tàn tật… Sự khiêm tốn đích thực là nhìn nhận mình chẳng là gì hết trước mặt Thiên Chúa, cho dù mình có thuộc về một “môi trường sống” cao hay thấp; đồng thời nhìn nhận mọi người là anh chị em cùng một Cha trên trời.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta tham dự mỗi ngày, không có chỗ nhất hay chỗ bét, chỗ ưu tiên, dành riêng cho tùy loại người. Tất cả đều được Thiên Chúa tiếp đón như những người con và như những người anh em của Đức Giêsu. Đời sống người kitô hữu là một bàn tiệc Thánh Thể, thánh lễ kéo dài. Thánh lễ là cuộc đời và cuộc đời là thánh lễ. Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi tham dự bàn tiệc Thánh Thể cùng với anh chị em mình trong Đức Giêsu Kitô. Điều cần thiết là biết nhận ra chính mình trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em mình.
Phải chăng chúng ta nhận ra chính mình chẳng là gì trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng chúng ta nhìn nhận mọi người là anh chị em, cùng một Cha trên trời?
Lạy Chúa,
Chúng con hiểu rằng
tự sức mình chúng con chẳng làm được gì.
Tất cả những gì chúng con có được chỉ là hồng ân.
Xin cho chúng con khiêm tốn đủ
để cho phép người khác giúp đỡ mình,
đồng thời cũng cởi mở đủ
để người khác có thể tìm thấy nơi chúng con
một sự tương trợ khi họ cần đến.
.
KHIÊM NHƯỜNG, HIẾU KHÁCH VÀ LUẬT LỆ
Lm. Đào Quang Chính
Bài phúc âm chúng ta nghe trong tin mừng theo thánh Luca Chúa nhật tuần 22 này không đơn giản như đôi khi chúng ta nghĩ. Nếu đọc trọn đoạn thánh kinh của Luca (Lc 14 1; 7-14), chúng ta thấy trước khi dậy dỗ về sự khiêm hạ, Chúa đã chữa lành một bệnh nhân bị phù thũng ngay tại nhà đó (Lc 14: 2-6).
Một cách đơn sơ, chúng ta đồng ý với sự can đảm của Chúa khi Người, tuy được mời đến dự bữa ăn nơi nhà của người Pharisêu, can đảm lên tiếng chỉ trích thói quen của các vị “vọng tộc” giầu có -trong đó có người Pharisêu- thường thích ngồi chỗ quan trọng nhất nơi bữa ăn hoặc bàn tiệc. Chúng ta nhấn mạnh đến lời dậy dỗ của Chúa về hai nhân đức: khiêm tốn và hiếu khách.
Tuy nhiên, nơi đây, Chúa không chỉ nhằm đến hai nhân đức trên mà còn thách đố cả lề luật và lối sống Do thái thời đó.
Như nhiều tôn giáo khác, Do thái giáo không hẳn chỉ là một chuỗi những luật lệ về Yahweh – Chúa, nhưng còn là một tổng hợp những tập quán, cách thực hành, liên quan và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống con người.
Luật điều Torah
Năm cuốn sách đầu trong cựu ước gọi là sách luật hoặc sách Torah. Tổng cộng có 613 điều luật. Sách đề cập đến những gì người Do thái phải tuân theo khi thức dậy buổi sáng, những gì được ăn và không được ăn, những gì phải làm để tuân giữ ngày Sa-bat và lễ trọng, những điều phải theo khi liên hệ với Chúa và với tha nhân..Tiếng Do thái gọi những điều luật này là Halakhah. Mục đích của Halakhah là để tăng thêm chiều kích tinh thần của đời sống, tránh đi các việc làm quá vật chất, nhờ đó, họ dễ giao tiếp với Chúa hơn. Thí dụ như sau khi ăn, hãy nhớ tạ ơn. Tạ ơn sau khi ăn (birkat ha-mazon) là một trong những lời kinh quan trọng nhất của người Do thái. Sách Đê nhị Luật đoạn 8:10 dậy rằng “Khi con đã ăn xong, nhớ tạ ơn Chúa, Chúa của con, vì Ngài đã ban cho con quốc gia đẹp tốt này”. Tạ ơn Chúa sau bữa ăn gồm 4 loại:
- Birkat Hazan: tạ ơn Chúa đã ban thức ăn cho thế giới
- Birkat Ha-Aretz: tạ ơn Chúa đã mang dân Do thái ra khỏi Ai cập, thiết lập giao ước và ban cho dân Do thái đất làm gia nghiệp.
- Birkat Yerushalayim: tạ ơn Chúa đã tái lập Giêrusalem và hứa ban đấng Me-si-a
- Birkat Ha-Tov v’Ha-Maytiv: tạ ơn Chúa cho sống đẹp và làm việc thiện.
Trong số 613 luật điều Torah, có những luật điều ghi chép rõ ràng và minh bạch, như chớ giết người. Có luật điều nửa minh bạch nửa không, như giữ ngày Sa-bát, không làm việc xác ngày Sa-bát, mà không nói rõ phải giữ như thế nào.
Luật điều từ các tư tế.
Để giải thích luật, nhất là những luật không minh bạch, các thầy Rabbi đưa ra điều luật gọi là Rabbanan. Luật Rabbanan cũng mang tính cách ràng buộc như luật Torah. Thí dụ luật Rabbi giải thích điều luật chớ làm việc xác ngày Sa-bát bằng cách nói rằng trong ngày Sa-bát, không được nhấc búa, nhấc bút, nhấc tiền, vì những động tác này chứng tỏ rằng người đó đang làm việc. Điều luật Rabbanan giúp người Do thái khỏi vô tình mắc lỗi gọi là gezeirah. (Do đó, khi Chúa thách đố các người Pharisêu có nên chữa bệnh trong ngày Sa-bát hay không, họ đã không thể và không dám trả lời.)
Còn loại điều luật khác nhằm giúp dân sống và nhớ luật thường xuyên, gọi là takkanah. Takkanah buộc người Do thái phải đọc sách luật các ngày thứ hai và thứ năm.
Từ các luật buộc trên phát sinh ra các hệ quả không lường trước. Để đọc sách luật và đọc lời tạ ơn Chúa sau bữa ăn, người ta cần có những người thạo luật và những chỗ dành riêng. Từ đó nhiều người thích được ở chiếu nhất, chỗ quan trọng hầu dễ nghe và dễ đọc sách luật, đồng thời cũng chứng minh cho người khác thấy mình luôn lưu tâm và kính trọng lề luật.
Chúa Giêsu, khi dậy dỗ người nghe khiêm nhường và hiếu khách đã thách đố cả lề luật Rabbanan. Có lẽ nhờ vậy chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Chúa nói “ta đến không để phá hủy mà để làm trọn lề luật (Mt 5: 17).”
Nghe luật, đọc luật, đọc kinh tạ ơn trước và sau bữa ăn như luật dậy là điều nên làm và phải làm, nhưng từ đó biến thành những lo lắng quá độ về tôn ti, trật tự trong bữa ăn, chỗ ngồi ở hội đường, cộng đoàn hoặc nhà thờ, thì hành động đó lại trở nên sai trái. Chúa đã dùng cơ hội chỗ ngồi trong bữa ăn dậy dỗ cho mọi người biết đâu là sự khiêm hạ và đâu là sự hiếu khách thực. Khiêm hạ là người biết rõ vị thế của mình -không phải chỉ với người khác- mà nhất là với Chúa. Biết mình chẳng là gì trước mặt Chúa. Đằng khác, cũng đừng nên đi đến thái cực khác. Nhiều người ra vẻ khiêm nhường để chủ nhà phải mời đôi ba lần mới dời lên bàn trên. Tuy nhiên, nếu chủ nhà “quên” mời thì về nhà giận dữ..
Hiếu khách là người “khi con đãi khác ăn trưa hoặc ăn tối, đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có, kẻo họ cũng mời lại con.. Trái lại, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ. Như vậy con mới thật có phúc (Lc 14: 14).” Hiếu khách như trên đúng như lời cổ nhân ta thường nói “làm phúc tay phải, đừng cho tay trái biết.”
Để xã hội có trật tự, cần có tôn ti, nhưng đừng quá quan trọng “chiếu trên, chiếu dưới.” Hãy thấy Chúa trong những người hèn kém. Hãy nhìn đến tương giao của mình với Chúa. Có như vậy mới là làm trọn lề luật.
.
Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Đức Giêsu được một người Pharisiêu (trong hàng ngũ lãnh đạo) mời đến nhà dùng bữa. Khi đến, Người cảm thấy mình đang bị dò xét. Bởi các đối thủ đang theo dõi Người sát sao, hy vọng tìm ra lý do, để vu cáo chống lại Người. Đức Giêsu cũng thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, họ tranh giành, tỏ ra kiêu căng tự đắc và ích kỉ. Đức Giêsu đưa ra hai giáo huấn khá ngắn:
Giáo huấn thứ nhất nói với khách được mời.
“Đừng ngồi cỗ nhất”. Điều Đức Giêsu nói đây là một quy luật, một châm ngôn đã có từ lâu đời trong nhân gian. Sách Châm Ngôn viết: “Trước mặt vua, ngươi chớ làm bộ bệ vệ, đừng ngồi vào chỗ các quan lớn, được người ta mời: “Hãy lên đây” tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt bá quan” (Cn 25,6-7; St 7,4). Sách Lêvi cũng dạy khách ngồi bàn ăn bằng những lời: “Hãy ngồi tụt xuống hai hay ba cấp, dưới chỗ ngươi đáng ngồi, để người ta mời: Hãy ngồi lên “hơn là” đi xuống dưới ngồi”.(Lv 7,1-5). Bởi thế, những luật sĩ, các biệt phái không tự ái, khi nghe Đức Giêsu nói “Đừng ngồi cỗ nhất”, cho dù họ đang tìm cỗ nhất, bởi họ cho Đức Giêsu chỉ nhắc lại Kinh Thánh.
Tuy nhiên, theo Noel Quesson, lời Đức Giêsu đây, không đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn… song còn đưa chúng ta sang bình diện Nước Thiên Chúa. Trong nước Thiên Chúa: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Thực vậy, không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất, chính là tình cảm về sự công chính bản thân mới là bước cản chúng ta đến gặp Đấng Cứu chuộc. Kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa, mọi tội khác người ta phạm chỉ vì yếu đuối, nhưng tội kiêu ngạo là cố tình loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, không cần Ngài, không muốn có Ngài. Đức Maria trong kinh Magnificat đã nói: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Đó là việc Thiên Chúa ưa thích, đó là việc Thiên Chúa thường làm. Lời Chúa còn đó: “Hãy học cùng Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường thật lòng”.
Giáo huấn thứ hai nói với chủ nhà.
Theo lẽ thường, ta chỉ mời những người có liên hệ với mình: Bà con, họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, vật chất hay một cách nào đó. Những người đó đến lượt, họ sẽ mời lại, để đáp lễ theo luật có đi có lại: Ông mất chân giò bà thò chai rượu. Còn những người nghèo khổ, tàn tật, đui mù, thường bị ta bỏ qua.
Luật Dothái dạy: Những người điếc lác, thọt chân, cụt tay, mắt hỏng không được tham dự các sinh hoạt tế tự trong đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18). Những người Étsênien ở Qumrân còn quả quyết: “Những người đui mù, khuyết tật, thọt chân, què tay không được tham dự hội đường các ngày Sabbát, cũng không được ở giữa hội đoàn của những người danh tiếng”.
Giờ đây, Đức Giêsu lại nói với chủ nhà: “Khi ông mở tiệc, đừng mời bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có. Ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì trả lễ và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ chết sống lại”. Thực ra, đây không phải là những lời mới mẻ.
Sách Khôn Ngoan Aram của người Dothái viết: “Hãy nhận vào nhà bạn kẻ thấp hơn bạn và kẻ nghèo hơn bạn, nếu anh ta ra đi và không trả ơn bạn, Chúa sẽ trả cho bạn”. Sách Đệ Nhị Luật dạy: “Ba năm một lần, anh em hãy đưa ra tất cả thuế thập phân của năm ấy, và đặt ở cửa thành anh em, để Thầy Lêvi, người không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong thành của anh em sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em chúc phúc cho mọi công việc tay anh em làm” (Đnl 14, 28).
Điều lề luật dạy làm cứ ba năm một lần. Đức Giêsu bảo: Hãy làm bất cứ lúc nào. Khi luật pháp bảo cứ để sẵn cổng thành cho người ta đến dùng, Đức Giêsu bảo hãy đi mời người ta lại. Cuối cùng luật pháp hứa đền bù ở đời này, Đức Giêsu bảo sẽ được báo đáp ở đời sau. Đức Giêsu đã chẳng lặp lại y nguyên luật pháp, Người đã triển khai, kiện toàn và đưa luật pháp lên bình diện đạo đức, thiêng liêng hơn.
Để kết luận, tưởng cũng nên kể đây một câu chuyện: Một chủ nông giầu có nọ mời các tá điền và những người làm công dùng bữa cơm tối tại nhà ông. Đây phải gọi là một yến tiệc mới đúng, bởi vì tất cả các món ăn đều được dọn trên các đĩa bằng sứ hay mạ bạc quý giá, còn rượu ngon hảo hạng được rót vào những ly thủy tinh đắt tiền. Bàn ăn được trải toàn khăn bằng vải và một bát nước rửa tay. Có một anh nông dân kia, vì trong đời anh chưa bao giờ được dự một bữa tiệc sang trọng và thịnh soạn đến thế, nên sau khi ăn uống no nê, anh đã bưng bát nước dùng để rửa tay uống cạn. Một vài thực khách sành điệu bắt đầu cười thầm, rồi tiếng cười bỗng bật thành tiếng. Thấy vậy, người chủ tiệc lập tức với tay bưng lấy bát nước trước mặt mình uống cạn. Cử chỉ này làm tắt ngay những tiếng cười chế nhạo sự quê mùa của anh nông dân kia.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng làm như vậy.
.
Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh
1/ Trong nét nhìn của Đức Giêsu để tuyển chọn những người thuộc về Nước Chúa, chắc chắn Chúa sẽ không theo tiêu chuẩn dựa trên bình diện xã hội. Vì Chúa không đánh giá con theo địa vị, giàu có, sang trong, tài năng, nhan sắc… Vậy Chúa dựa theo tiêu chuẩn nào để đón nhận một người thuộc Vương Quốc của Ngài? Trang Tin mừng hôm nay là câu trả lời cho những ai muốn thuộc về Chúa thì phải sống khiêm nhường.
2/ Khiêm nhường là bản chất của Chúa Giêsu. Vì Chúa đã khẳng định: Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x,Mt11,29). Về điều này, Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philípphê đã cảm nghiệm rất thấu đáo về thái độ khiêm nhường của Đức Giêsu, khi ngài đã thốt lên: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế”(Pl 2,6-7).
3/ Chúa là Đấng khiêm nhường, nên những ai sống kiêu căng là đi ngược với bản chất của Chúa. Vì vậy Chúa luôn dạy mọi người trong cuộc sống phải có những tâm tình như Chúa.
Lời dạy của Chúa về đức khiêm nhường đã được Chúa nói đến bằng hình ảnh bữa tiệc cưới trong trang Tin mừng hôm nay. Chúng ta nên nhớ Chúa luôn dõi mắt nhìn từng người chúng ta: Ai khiêm nhường ai kiêu căng Chúa đều biết cả. Vì trong bữa tiệc Chúa nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Chúa đã dạy khi dự tiệc điều tốt nhất hãy ngồi vào chỗ cuối. Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (x,Lc14,7-12).
4/ Theo tự nhiên, khi ngồi chỗ cuối trong bữa tiệc có vẻ mình cảm thấy bị rớt giá, bị hạ thấp. Từ cảm nghĩ tự nhiên này cũng cho chúng ta thấy rằng: Kiêu căng thật dễ để làm nên nó, còn khiêm nhường thật khó để cho riêng mình. Nhưng làm gì thì cuối cùng khiêm nhường vẫn là con đường để chúng ta được an vui, được nâng cao, được mọi người yêu mến cảm phục, được gia nhập vào những người thuộc về Chúa trong bữa tiệc Nước trời.
Nói như thế cũng để chúng ta thấy muốn sống khiêm nhường, đó cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nhưng mọi sự cũng sẽ trở nên dễ dàng, nếu chúng ta thực hành những điều kiện để thực sự là người sống khiêm nhường như Chúa.
5/ Điều kiên để sống khiêm nhường, trước hết đòi hỏi chúng ta phải cảm nghiệm thật sự về cả cuộc đời của Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, và trong thân phận con người Ngài mang lấy thân nô lệ, trong thân kiếp nô lệ Ngài đã tự hạ để phục vụ, để vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Trong cuộc sống chúng ta hãy lấy Đức Kitô là lẽ sống cho riêng mình, hãy theo con đường Chúa đi và hãy sống theo lời Chúa dạy. Nhờ vậy mỗi ngày chúng ta sẽ được nên hoàn thiện, được diễm phúc mặc lấy tâm tình khiêm nhường như Chúa.
Thứ đến điều kiện để sống khiêm nhường là phải biết từ bỏ cái tôi của mình. Khi quá đề cao cái tôi thì tự nhiên nó sẽ xuất hiên muôn vàn hình thức dối trá như: Tham vọng chức quyền, triệt hạ người khác, đề cao bản thân, sống ích kỷ hẹp hòi, cạnh tranh về mọi phương diện… Từ chỗ thích sống phô trương như thế, cuối cùng sẽ dẫn đến tại hại không ngờ là mối tương quan với Thiên Chúa bị đổ vỡ. Vì Chúa đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc14,11). Còn mối tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ không còn, cùng lắm chỉ còn một chút hình thức là bằng mặt chứ không bằng lòng.
6/ Chúa Giêsu rất quý trọng lòng khiêm nhường. Chúa luôn ưu tiên cho những ai chọn khiêm nhường là lẽ sống, Chúa sẵn sàng trao ban cho họ hạnh phúc viên mãn là được sống trong nhà Chúa suốt cuộc đời.
Đức Maria, trên hết Mẹ là người đã đáp lại trước tiên những điều kiện để được sống hạnh phúc bên Chúa. Cuộc sống của Mẹ đã rập theo khuôn mẫu của Đức Giêsu Con Mẹ là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Hơn nữa trước ý định của Thiên Chúa, Mẹ đã tự nguyện xoá mờ đi cái tôi của mình để sẵng sàng vâng phục ý Chúa cách tuyệt đối trong những lúc túng quẫn nhất, cay đắng nhất, đau khổ nhất. Vì Mẹ đã chọn sống khiêm nhường để trở nên giống Chúa, để hoàn toàn được thuộc về Chúa. Vì vậy Mẹ đã hiểu rất rõ cách Thiên Chúa sẽ đối sử với những người quyền thế, những người khiêm tốn như thế nào, khi Mẹ nói: ” Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52).
Chúng ta khiêm tốn xin Mẹ giúp chúng ta luôn can đảm sống như Mẹ. Nhờ đó mỗi ngày hình ảnh của Đức Giêsu là Đấng hiền lành và khiêm nhường sẽ sáng tỏ trong cuộc sống chúng ta. Và đó cũng là tiêu chuẩn để chúng ta được đón nhận vào Vương Quốc của Chúa mai sau. Amen.
.
TÔI LÀ NGƯỜI KHIÊM TỐN NHẤT TRẦN GIAN
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Xưa lẫn nay và đến muôn đời, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái lại, kẻ kiêu ngạo thì đều bị chê trách. Nếu họ là người quyền cao, chức trọng thì người ta có thể sợ, nhưng không hề kính chút nào. Sách Huấn ca cho ta những lời dạy thiết thực: “Con ơi… càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó”(Hc 3,18.20.28).
Bài tin mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật chuyện Chúa Giêsu nhân thấy nhiều người thích chọn chỗ nhất trong bữa tiệc nên đã lên tiếng dạy về đức khiêm nhường. Chắc hẳn Chúa Giêsu không muốn dạy chúng ta sống khiêm nhượng kiểu “ống điếu”, tức là cố tình hạ mình xuống để được người ta nâng lên. Với kiểu nói ngoa ngữ như ngụ ngôn, Chúa Giêsu đã làm nổi rõ cái hậu quả rất khác biệt giữa người khiêm tốn và kẻ kiêu ngạo. Vậy thế nào là khiêm tốn đích thực đây? Không gì hơn hãy nhìn vào cuộc đời, thái độ sống của Giêsu Kitô, Đấng đã minh nhiên mời gọi hãy học cùng Người vì Người hiền lành và khiêm nhượng (x.Mt 11,28-30). Qua cuộc đời của Đấng Cứu Độ, chúng ta có thể nói rằng khiêm tốn là nhìn nhận sự thật, sống trong sự thật và làm chứng cho sự thật (x.Ga 18,37).
Sự thật thứ nhất: Nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có đều là do bởi lãnh nhận. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Người bởi Chúa Cha mà ra và mọi sự Người có đều do Cha ban tặng (x.Ga 7,29; 16,28; 17,1-26). Vì sao có nhiều người ngông cuồng, tự cao tự đại? Xin thưa rằng trên hết, trước hết là vì họ vô tình hay chủ ý quên mất sự thật này: họ được tạo thành chứ không phải tự mình mà có. Nếu giả như họ xác tín rằng ngay chính sự sống và những khả năng, chức phận, những thành quả hay công nghiệp của họ đều do bởi đã lãnh nhận, thì chắc chắn sẽ không có lý do gì để lên mặt, để tự mãn trong cao ngạo hay cuồng ngông.
Sự thật thứ hai: Nhìn nhận rằng chúng ta chỉ thực sự là mình nếu biết sống và hoạt động theo ý Đấng tạo nên chúng ta. Chúa Kitô nhiều lần khẳng định rằng Người đến thế gian này không phải làm theo ý riêng mà để chu toàn thánh ý Chúa Cha (x.Ga 6,38; 7,17). Người nhìn nhận việc thực thi thánh ý Chúa Cha chính là lẽ sống của Người. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”(Ga 4,34). Khi đã tin nhận rằng những gì chúng ta đang là, đang đều do bởi đã lãnh nhận từ ai đó thì việc sử dụng sự sống mình, các khả năng của mình theo ý người ban tặng là lẽ tất yếu đương nhiên. Một trong những ý nghĩa của cuộc đời con người đó là sống cho tha nhân, sống vì tha nhân. “Con Người đến thế gian này không phải để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Khi truyền bảo những người dọn tiệc đãi khách thì đừng mời những người thân quen, chức cao quyền lớn, mà hãy mời những người tàn tật, đui mù, nghèo hèn.. chắc chắn Chúa Giêsu muốn dạy người đương thời và chúng ta mọi thời rằng những gì chúng ta đang có như của cải, quyền uy đều do đã lãnh nhận và phải sử dụng chúng theo thánh ý Cha trên trời, Đấng muốn chúng ta phải yêu thương nhau một cách vô vị lợi, không chút tính toán thiệt hơn. Thể hiện tình yêu với những người nghèo hèn, bé mọn là một cách thế sống tình yêu vô vị lợi cách rõ nét.
Trong một dịp tỉnh tâm, một linh mục bạn thân dí dỏm: “Thưa các cha, con đây học hành kém cỏi, khả năng thì hạn chế. Tóm lại, tài thì mọn và đức cũng kém, cái gì cũng xin thua các cha, may ra có đức khiêm tốn thì trỗi vượt tất cả. Con thành thật thú nhận mình khiêm tốn nhất trần gian”. Quả thật, dù là giám mục hay linh mục, dù là tu sĩ hay giáo dân trong bậc hôn nhân, đang độc thân hay góa bụa, dù có chút địa vị hay chỉ là hạng “phó thường dân”, thảy chúng ta đều vướng phải cái tội của tổ tiên đó là sự kiêu ngạo. Sự kiêu căng ở đây chủ yếu không phải là thái độ cao ngạo, hống hách cách hịch hỡm đáng ghét, nhưng chính là tình trạng xa rời sự thật. Tên cám dỗ của vườn địa đàng thưở nào đã khiến tiên tổ và cả chúng ta mọi thời quên mất sự thật là chúng ta vốn là loài thụ tạo (x.St 3,1-7). Hữu ý hay vô tình lãng quên sự thật này thì chúng ta dễ lầm tưởng rằng những gì tốt đẹp chúng ta đang là, đang có là do chính bàn tay chúng ta làm nên. Đây chính là căn nguyên của sự kiêu ngạo đáng trách và cũng đáng phạt.
Trong hỏa ngục rất có thể có những người rộng rãi bố thí cho người nghèo. Cũng rất có thể có nhiều người đã từng làm nhiều phép lạ, những người giảng dạy các chân lý cao sâu…nhưng chắc chắn sẽ không hề có bóng dáng một người sống khiêm nhu, biết nhìn nhận và sống trong sự thật. “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm…Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”(Lc 23,41-42). Khi biết nhìn nhận sự thật, người gian chịu treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã nhận được thành quả của sự khiêm nhu: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
.
ĐỐI XỬ TRONG TÂM TÌNH KHIÊM HẠ
VỚI NGƯỜI CHUNG QUANH
Lm. Trần Văn Trợ
Khi ta tự chọn cho mình chỗ tốt nhất, rõ ràng là ta chỉ biết nghĩ đến bản thân mình trước hết mọi người khác, đó chính là động lực âm thầm nhưng rất mạnh mẽ vẫn thúc đẩy nhiều công việc thường ngày của ta! Động lực này phô bày cái bản năng ích kỷ, lo lắng cho cái tôi trước nhất mọi sự! Nó hoàn toàn trái ngược với con đường quên mình trong phục vụ của Chúa Giêsu!
Bài học chọn ngồi chỗ cuối của Chúa Giêsu dành cho chúng ta không những là một bài học hết sức thực tiển trong cuộc sống để tránh bị bẻ mặt trước đám đông; nhưng còn là một thách đố liên lỉ cho mỗi người biết quên mình mà nghĩ đến anh chị em chung quanh trước tiên. Nó nhắc nhở ta suy nghĩ và hành động ngược lại với bản năng thô thiển của người thiếu đắn đo suy nghĩ trong hành động. Nó giúp ta biết để ý mở tâm hồn và cõi lòng mình ra mà chăm lo cho những người xung quanh trước, giống như gương lành của Chúa Giêsu đã sống và trối lại cho các môn đệ của Ngài. Chỉ có con đường duy nhất là hy sinh phục vụ trong tinh thần yêu thương mới giúp ta đi theo đúng con đường yêu thương phục vụ của Chúa Kitô. Vì nếu việc hy sinh phục vụ người khác là một bản năng tự nhiên trong mỗi chúng ta, chắc hẳn Chúa Giêsu đã không phải khổ sở xuống thế làm người, để nêu một tấm gương sống động cho loài người noi theo. Và gương sáng của Ngài vẫn còn đó, nhưng liệu có mấy người tin theo và dám sống như Ngài đã từng sống trọn vẹn một đời cho yêu thương phục vụ? Chúng ta là những người đang sống với danh hiệu Kitô hữu, nếu ta không dám sống như người đã từng sống trong việc yêu thương phục vụ, thì ta chỉ là những kẻ mạo danh, đội lốt làm nhơ ố Danh Thánh của Ngài, khiến người đời càng khinh rẻ Ngài thêm nữa!
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con tin yêu Ngài tha thiết hơn, để con có thêm can đảm sống như Ngài muốn con sống, suốt một đời yêu thương phục vụ, hầu cho người đời nhận biết rằng chỉ có Chúa là Thiên Chúa thật của tình yêu thương.
.
Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước, Đức Giêsu dạy hãy qua “cửa hẹp” mà vào, tức là phải vứt bỏ lại những thứ không cần thiết, phải chiến đấu, sám hối, và uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, thì tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
Theo truyền thống của người Dothái, khi đến dự tiệc, mỗi vị khách thường được mời kể một câu chuyện để phục vụ những người cùng bàn với mục đích giúp cho khách ăn ngon miệng. Vì thế, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện vui, bông đùa…, đến lượt Đức Giêsu, Ngài không kể chuyện tiếu lâm hay một vài mẩu chuyện vui như những người đồng bàn đã làm, nhưng Ngài quan sát và thấy người ta đi dự tiệc lại cứ thích ngồi chỗ nhất, chỗ danh dự, nên Đức Giêsu đã tập trú vào đề tài khiêm tốn khi được mời đi dự tiệc (x. Lc 12,7-11). Đây là một đề tài khiến cho những người dự tiệc hôm ấy nhức óc vì họ thường “đánh lận con đen” giả bộ khiêm nhường hoặc đòi được trọng vọng nơi đám đông.
Khởi đi từ sự quan sát, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người này’. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết”. Câu nói này của Đức Giêsu đã soáy sâu vào tận trái tim của những người dự tiệc hôm ấy, và Ngài đã lật tẩy mặt nạ giả bộ giả hình của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn cho tất cả mọi người khi được mời đi dự tiệc: “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”. Đây là quy luật tất yếu trong cuộc sống: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
“Nâng lên” và “hạ xuống” là hai động từ trái ngược nhau. “Nâng lên” chính là muốn khẳng định mình; tự coi mình là nhất. Đây là hành vi của những kẻ kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là đầu mối sinh ra những tội khác như: “Hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh” (x. GLHTCG. số 1866).
Những người kiêu ngạo thường không biết mình, không biết những giới hạn của mình, họ thường coi mình là “cái rốn vũ trụ”, coi mình là “number one”, là “đệ nhất đế vương…”.
Còn “hạ xuống” là thái độ của người khiêm nhường. Khiêm nhường là khiêm tốn nhìn nhận mình còn thiếu, còn bất toàn để vươn lên, còn yếu đuối để sám hối. Khiêm nhường còn là đón nhận sự thật và lấy sự thật làm căn gốc. Chấp nhận “tôi” là “tôi” với đầy đủ những mặt mạnh và mặt yếu của mình.
Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho mỗi chúng ta một bài học căn bản trong cuộc sống chính là sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, ta không thể gặp được Chúa. Môsê muốn gặp Chúa, ông phải cởi dép ra, phải trở về với sự trần trụi của mình khi đến trước nhan Chúa; Giakêu muốn được Chúa vào nhà thì ông phải tụt xuống khỏi cây sung; Phêrô và Phaolô muốn trở thành bạn hữu của Chúa và trở thành những kẻ “chung phần” với Thầy thì các ông phải khiêm tốn và vứt bỏ những thanh gươm kiêu ngạo, tự phụ và hiếu thắng của mình.
Thật vậy, trong đời sống gia đình, nếu vợ chồng, con cái không có thái độ khiêm nhường, chúng ta không thể đón nhận được sự khác biệt của nhau, không biết lắng nghe nhau, không thông cảm và tôn trọng nhau. Như thế, mỗi người sẽ là một hòn đảo, và một con chim én không thể làm nên một mùa xuân.
Trong cuộc họp, ai cũng thi nhau nói và ai cũng bảo vệ lập trường của mình, cho dù biết đó là điều sai, thì cuộc họp ấy thất bại và gây thêm chia rẽ.
Trên giảng đường, và trong trường đời, nếu ta bảo thủ và cho rằng chúng ta biết hết mọi sự và không cần lắng nghe, học hỏi…ấy là lúc ta đang tụt hậu mà không biết, ta đang trong tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” mà chẳng hay!
Thật vậy, nhìn ra xã hội hôm nay, chúng ta thấy nhiều người luôn có khuynh hướng “chơi trội”. Nếu người khác có nhà một tầng, ta phải hai tầng; người khác có xe, ta phải có xe tốt hơn; chức tước và học vị cũng là những điều con người thời nay thường khẳng định…thái độ đó cho thấy ta không chịu thua kém người khác. Nhưng có ít ai thấy rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về “sắc sắc, không không” trước mặt Chúa?
Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.
Mong thay hình ảnh kiêu ngạo của Adong, Eva; những người xây tháp Baben và những khách được mời dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay là bài học cho chúng ta nếu chúng ta đang là những người tự phụ, kiêu căng và đang đi tìm những danh vọng ảo tưởng ở đời này…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN_C
Lm Giuse Đinh tất Quý
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống;
còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14,11)
Anh chị em thân mến
Tuần trước Chúa nói với chúng ta: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” và ở một nơi khác trong TM Chúa bảo con đường Chúa mời gọi chúng ta bước vào là con đường hẹp. Đây là con đường chính Chúa đã đi và Chúa cũng muốn chúng ta cùng đi với Ngài.
Nhưng làm thế nào để có thể đi trên con đường đó thì từ Chúa nhật hôm nay cho đến Chúa nhật áp chót của mùa thường niên chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về những những điều kiện giúp chúng ta có thể đi trên con đường đó.
A– Hôm nay chúng ta bắt đầu với điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất. Đó là sự khiêm nhường.
1. Các bản văn Phụng vụ hôm nay đều ít nhiều nói về vấn đề này.
+ Bài Sách Đức Huấn Ca nói: càng làm lớn, càng phải hạ mình trong mọi sự.
+ Bài Tin Mừng: Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
+ Nâng lên đến đâu thì bài Thánh Thư trả lời: Đến Thành trì của Thiên Chúa hằng sống.
2. Nói tới khiêm nhường thì cũng phải nói tới kiêu ngạo. Kiêu ngạo đối nghịch với Khiêm nhường.
+ Sách Đức huấn ca nói: tai họa dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa.
+ Bài Tin Mừng cũng cảnh cáo: Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống.
Hôm ấy trên con đường đẫn quân đi dánh nước Nga, Vua Napoléon của nước Pháp thấy quyền uy của mình cao như núi, ông nhìn lên trời và tự nhiên buột miệng thốt lên: “Trời là của Chúa. Còn trái đất là của ta”
Chính trong trận chiến này Napoléon đã bị thảm bại và sau đó bị đầy ra đảo Saint Hélène và chết tủi nhục tại đó.
Quả đúng là “Ai tự đưa mình lên sẽ bị hạ xuống.”
Thánh Giacobê nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Jac 4,6)
Gabriel Meurier một nhà tư tưởng lớn của Pháp nói: “Kiêu căng đi trước, tủi nhục và tai họa sẽ bén gót theo sau”
B- Thiên Chúa lại yêu thích những ai khiêm nhường. Nhưng khiêm nhường là gì? Sống khiêm nhường là sống như thế nào?
+ Khiêm nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động không dám nhận trách nhiệm – trách nhiệm làm người ở đời và trách nhiệm làm con Thiên Chúa.
Khiêm nhường lại càng không phải là đeo vào cho mình một thứ mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác, làm cho người khác phải để ý đến mình.
Trong Tin Mừng đã nhiều lần Chúa đã cảnh cáo mấy ông Biệt phái và luật sĩ về cái tội này: Họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, thích ngồi ở cỗ nhất trong bàn tiệc chỉ với một mục đích là làm cho người ta đễ chú ý đến mình. Đó là một thứ mặt nạ của sự kiêu ngạo.
Khiêm nhường là biết can đảm nhận lãnh những trách nhiệm cũng như biết cậy nhờ vào ơn của Chúa mà cố gắng chu toàn.
Tấm gương của Abraham trong Cựu Ước là một thí dụ. Abraham ý thức rất rõ ông chỉ là tro bụi trước mặt Chúa, (Kn 18,27) nhưng lại rất chân thành, dám cả gan nhận lấy trách nhiệm, mạnh dạn mặc cả với Chúa về số người công chính cần phải có để xin Chúa tha cho thành Sôđôma và Gomôra.
Giêriêmia đã từ chối việc Thiên Chúa chọn ông làm ngôn sứ – lấy lý do là mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6) Nhưng khi đã nhận trách nhiệm Chúa trao thì ông đã trở thành người hết sức khiêm tốn và can đảm.
Một vị đạo sĩ kia tu hành đã được lâu năm. Ông tự cảm thấy rất bằng lòng với các nhân đức của mình. Chính vì thế mà một hôm kia ông mạnh dạn đến trước thần Silva mà cầu nguyện như thế này:
– Lạy Ngài, con đã làm mọi việc tốt lành. Con đã chăm chỉ tu hành không sai sót một ly. Ngài hãy truyền lệnh cho con làm bất cứ điều gì, con sẽ sẵn sàng làm tất cả.
Thần Silva hiện ra và nói:
– Tất cả mọi việc con làm đều tốt. Giờ đây, Ta sẽ thử con một lần nữa: con hãy lấy một cái đĩa đựng đầy dầu và đội ở trên đầu – rồi con cứ như thế mà đi qua các đường phố. Nhớ không được để một giọt dầu nào rơi ra ngoài.
Người tu sĩ sau khi nghe lệnh đã hân hoan lên đường. Sau khi đi một vòng, mà chiếc đĩa đựng dầu vẫn không rơi mất một giọt. Ông liền trở lại trước tượng thần Silva với hy vọng sẽ được Thần trọng thưởng. Nhưng vừa thấy vị tu sĩ đó tới Thần nói ngay:
– Quả thực con đã cố gắng hết sức nhưng tiếc thay là đầu óc của con lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình, đến phần thưởng của mình mà chẳng bao giờ con nghĩ đến ta, đến lòng tốt cũng như tình thương của ta. Giả như con có đánh đổ một vài giọt dầu nhưng lòng của con vẫn nhớ đến ta thì điều đó có lẽ sẽ làm ta vui hơn. Hoặc như con có sống bớt khắc khổ, bớt hãm mình ép xác mà giữ được lòng yêu mến đối với ta thì điều đó có lẽ sẽ tốt hơn. Đàng này cho đến nay, con làm tất cả những điều đó vì lòng kiêu hãnh, chỉ vì muốn được ta khen và chiếm được phần thưởng mà thôi. Quả thực là con chưa xứng đáng là môn đệ của ta.
Sống sao cho đúng với đạo làm con không phải dễ. Phải có một lòng khiêm nhường chân thực mới có thể sống được như thế.
+ Theo ngài Cha Mark Link thì khiêm nhường là một cái gì sâu xa và đẹp đẽ hơn như chính lời Chúa đã chỉ dẫn: “Hãy học với ta vì ta hiền lành và khiêm nhường” Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ.
Vậy thì sống khiêm nhường là sống như Chúa đã sống, không phải cho mình nhưng là cho người khác.
Khiêm nhường là biết dùng những khả năng như Chúa đã dùng khả năng của Ngài để không phải làm vinh danh cho riêng Ngài nhưng là mưu ích cho người khác.
Hà khưu Thượng nhân hỏi Tôn thúc Ngao:
– Có ba điều chuốc vạ vào thân ông đã biết chưa?
+ Tôi chưa được biết.
– Tước vị cao người ta ganh.
Quyền thế lớn người ta ghét
Lợi lộc nhiều người ta oán.
+ Không phải như thế:
Tước vị tôi càng cao tôi càng xử nhún nhường.
Quyến thế tôi càng lới tôi càng ở khiêm cung
Lợi lộc tôi càng nhiều tôi càng chia bớt cho người chung quanh. Như thế thì làm sao mà thiên hạ có thế oán tôi được!
Đó là một trong những cách sống khiêm nhường như Chúa đã sống.
+ Nhiều người còn định nghĩa khiêm nhường là biết chấp nhận sự thật. Đây là một việc không dễ dàng. Chấp nhận sự thật thường đi đôi với việc phải điều chỉnh lại cách sống của mình.
Triết gia Diogène sống với một con chó trong một cái thùng gỗ bên vệ một con đường. Ông hạn chế đến mức tối đa những nhu cầu cần thiết đến nỗi cái chén múc nước ông cũng ném đi khi thấy hai bàn tay bụm lại cũng hứng được nước.
Nghe danh nhà hiền triết, một hôm Vua Alịchsơn Đại đế ..đứng cạnh cái thùng và lễ độ lên tiếng:
– Tiên sinh cần gỗ, quả nhân xin. . .
Triết gia trả lời: “Ta cần ngươi đứng tránh ra để nắng có thể dọi vô cửa thùng của ta.”
Tên tùy tùng của nhà vua rút gươm ra toan chém, nhưng vua gạt đi và nói: “Nếu ta không là Alịchsơn thì ta muốn làm Diogène.
Sau đó bằng một giọng điệu của bậc làm thầy, Alịchsơn nói với tên lính hầu cận:
– Người sinh ra ta là cha của ta: Đó là Hoàng đế Philiphe. Người dạy ta biết sống cho xứng đáng là Thầy của ta: Đó là Aristode.
Ông ngụ ý muốn nói: Diogène là bậc thầy của mình.
Biết cúi đầu nhìn nhận điều hay lẽ phải cho dù điều đó có đụng chạm đến danh tự, dến uy quyền, đến lợi lộc của mình. Đó cũng là cách sống khiêm nhường.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu là con người nhẹ nhàng, dễ thương, hòa đồng với hết mọi người, không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tốt xấu. Xem chừng ra Ngài muốn xa lánh bọn luật sĩ và biệt phái vì, theo Tin mừng của thánh Matthêu và Marcô, họ là những kẻ thù của Đức Giêsu. Nhưng thánh Luca cho biết Đức Giêsu vẫn giao du với người biệt phái vì trong số họ vẫn có nhiều người tốt, có cảm tình với Ngài, và hôm nay cho biết Ngài còn đến dùng tiệc tại nhà một ông biệt phái . Còn về phía những người biệt phái, họ vẫn nghi kỵ và theo dõi Ngài, và có thể bắt bẻ Ngài về bất cứ một phương diệân nào.
Hôm nay Đức Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh biệt phái. Trong bữa tiệc thường có những câu chuyện vui trao đổi giữa các thực khách để làm cho bữa tiệc càng thêm ngon miệng. Nhân dịp này, Đức Giêsu không nói chuyện vui, nhưng lại đưa ra những lời giáo huấn mạnh mẽ làm cho những khách mời cảm thấy khó chịu , vì những lời ấy đánh trúng tim đen của họ. Ngài khuyên họ hãy ở khiêm nhường, đừng tranh nhau chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Đừng tự đánh giá mình, hãy để cho người ta đánh giá và định đoạt. Ngoài ra, Ngài còn khuyên họ hãy có tinh thần bác ái vô vị lợi khi mời khách đến dự tiệc, đừng tính toán hơn thiệt… Và giáo huấn của Ngài được kết tụ trong câu :”Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
Theo kinh nghiệm hằng ngày, trong con người chúng ta có sẵn mầm mống của sự kiêu ngạo và kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu từ đó phát sinh ra các nết xấu khác. Sở dĩ chúng ta kiêu ngạo là vì chúng ta chưa biết mình, chưa nhận ra chân dung con người thật của mình. Nếu nhìn thẳng vào mình, chúng ta sẽ thấy mình quá yếu đuối, bất toàn, đầy những nết xấu. Một khi đã nhìn ra con người thật của mình thì chúng ta chỉ chú tâm vào việc sửa mình, canh tân con người mình cho nên hòan hảo. Với cái nhìn thẳng thắn và thành thật đó, tự nhiên chúng ta sẽ có thái độ khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 3,19-21.30-31.
Đọan sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm nhường. Bài học mà người thầy muốn huấn dụ học trò là : hãy ở khiêm nhường. Các vị công hầu vương bá thì theo đuổi mộng làm chủ thế giới và loài người, những người tín hữu của Chúa thì biết rằng mọi sự mình có là do Chúa thương ban. Vì thế, họ khiêm tốn tận dụng những ơn Chúa ban để phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa.
Theo bài huấn dụ hôm nay thì :
– Ai làm việc khiêm tốn thì được người ta yêu mến.
– Chính Thiên Chúa cũng yêu thương những kẻ khiêm tốn.
– Ai kiêu căng thì rước lấy sự tai hại vô phương cứu chữa.
+ Bài đọc 2 : Dt 12,18-19.22-24a.
Thánh Phaolô so sánh bầu khí giữa Cựu ước và Tân ước. Trong đạo cũ, người Do thái có ông Mai- sen làm trung gian, họ đến cùng Thiên Chúa trong bầu khí e dè sợ sệt với những hiện tượng bên ngòai làm cho người ta khiếp sợ.
Nay trong Tân ước, các Kitô hữu có Đức Kitô làm trung gian, họ được sống trong bầu khí cởi mở thân tình, họ tiến tới cùng Thiên Chúa, được tham gia vào cộng đoàn con cái Thiên Chúa, họ được tự do tụ họp về trong “Thành đô Thiên Chúa hằng sống để dự hội vui”(Dt 12,22), họ cung kính thờ Chúa và sống hiệp thông cùng các thiên thần và các thánh trong niềm an vui tin cậy.
+ Bài Tin mừng : Lc 14,1.7-14.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bữa tiệc tại nhà một ông thủ lãnh biệt phái tại Pêrê.
Chính trong khung cảnh một bữa ăn tại nhà một ông biệt phái để cho Đức Giêsu tham gia vài “câu chuyện trong bàn ăn”, những lời khá bất ngờ trong dịp này. Theo tập tục, trong bàn tiệc, các khách mời lần lượt góp chuyện, nhưng thường là những vấn đề nhẹ nhàng dễ chịu. Còn Đức Giêsu, Ngài không ngại làm người nghe khó chịu khi chọn đề tài là sự khiêm tốn (Lc 12,7-11).
Qua bàn tiệc Chúa dạy ta :
– Thái độ nên có là khiêm tốn nhũn nhặn, đừng nhảy tót lên chỗ cao, mà bị mời xuống thì quê mặt.
– Đối với khách mời, nên vì lòng quảng đại hiếu khách mà mời, không nên vì lợi lộc.
Hai lời dạy áp dụng vào Nước Trời cũng hợp : Nước Trời chỉ dành cho kẻ khiêm nhường và có tinh thần khó nghèo (Lc 14,21).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. ĐỨC GIÊSU ĐI DỰ TIỆC.
- Đức Giêsu được mời đi dự tiệc.
“Một ngày sabát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa”(Lc 14,1).
ĐứcGiêsu không xa lánh những người biệt phái, Ngài cũng giao du với họ, đôi khi còn ăn uống với họ. Hôm đó, vào một ngày sabát, Đức Giêsu được mời vào nhà ông thủ lãnh biệt phái để dùng bữa. Người biệt phái này được gọi là thủ lãnh vì ông có nhiệm vụ điều khiển nhóm biệt phái, thường trong nhóm biệt phái có nhiều thủ lãnh khác nhau.
Biến cố này xẩy ra vào khoảng tháng giêng hay tháng hai năm 30. Họ thường dùng bữa với nhau một cách vui vẻ và thoải mái. Họ là những người biết luật và giữ luật kỹ lưỡng. Họ đã nghe nói về Đức Giêsu qua các dư luận khác nhau. Hôm nay họ mới lợi dụng cơ hội hiếm có này để quan sát Ngài lần đầu tiên.
Việc Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một người biệt phái chứng tỏ là một con người dễ thương, hòa đồng, có khả năng đi đến với hết mọi người. Việc dùng bữa tại nhà ông biệt phái cho thấy thái độ của Đức Giêsu đối với người biệt phái không nhất thiết là tiêu cực như quan niệm trong Tin mừng Matthêu và Marcô, coi hạng biệt phái là thù địch của Ngài. Và như vậy, cho thấy Đức Giêsu muốn nêu lên khía cạnh Ngài sẵn sàng ban ơn cứu độ cho cả những người biệt phái nữa.
Vào bàn tiệc, Đức Giêsu quan sát một vòng, và thấy ngay một thói xấu thường xẩy ra nơi những người biệt phái là chọn chỗ nhất, chỗ danh dự (Mt 23,5-7). Họ cho đây là một thói quen nên không thấy ngượng ngùng gì.
- Giáo huấn của Đức Giêsu.
Trong bữa tiệc, người ta thường nói chuyện vui vẻ, có những câu chuyện vui, có cả những chuyện tiếu lâm nữa, cốt làm cho bữa tiệc càng thân tình, làm cho khách ăn càng ngon miệng. Riêng Đức Giêsu trong dịp này, Ngài không nói chuyện vui mà Ngài đưa ra một giáo huấn làm cho người nghe phải khó chịu. Giáo huấn ấy đề cập tới hai điểm : việc dự tiệc và đãi tiệc, nghĩa là nói đến sự khiêm nhường và bác ái vô vị lợi.
a) Việc dự tiệc.
Khi thấy người ta chen lấn nhau chọn chỗ nhất, chỗ danh dự, Đức Giêsu đưa ra cho họ những lời giáo huấn. Lời giáo huấn của Ngài là bài học xử thế khéo léo ở trong xã hội khi giao tế với nhau. Ngài nói với họ dựa theo một đoạn trong sách Châm ngôn :”Trước mặt vua, con đừng kiêu hãnh, đừng dành giật chỗ người vị vọng. Vì thà để người ta mời con :”Xin mời ông lên” còn hơn là bị hạ xuống trước mặt quan tướng”(Cn 25,6-7).
Đàng khác, việc sắp xếp chỗ là của chủ nhà, vì chủ nhà mới biết địa vị ngôi thứ của khách mời. Còn người tự chọn chỗ danh dự cho mình là người tự tô vẽ cho mình có khi không đúng sự thật, có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhận nơi mình và đặït mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị vỡ mặt.
Từ trong quan niệm về cách xử sự giao tế ở trần gian, Đức Giêsu bước sang lãnh vực tôn giáo. Theo đó, danh dự thật không phải là người trần gian gán cho mà danh dự đó phải do Thiên Chúa ban cho. Mà Thiên Chúa thường nâng cao kẻ thấp hèn. Vì thế Ngài nói :”Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
b) Việc đãi tiệc.
Đức Giêsu lại tiếp tục đưa ra lời khuyên khác về tinh thần bác ái vô vị lợi. Theo thói người đời, trong tiệc cưới thì người ta mời người thân, bạn bè, ân nhân…chứ ai mời người nghèo khó đến dự tiệc ? Thế mà Đức Giêsu lại khuyên người ta làm những việc có vẻ ngược đời :”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”(Lc 14,13).
Khi mời dự tiệc, người Do thái luôn làm theo óc tính toán, phải có lợi. Cái lợi là sẽ được người ta đền đáp, đúng là “ăn sang ăn giả”. Ngược lại, Đức Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp và sẽ được đền đáp trọng hậu. Vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là những người loan báo Nước Trời. Do đó, đến với người nghèo khó là dấu hiệu ta thủ đắc Nước Trời cách chắc chắn.
II. NÓI VỀ KIÊU NGẠO VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
Trong câu nói của Đức Giêsu :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, chúng ta thấy câu nói này có hai vế với hai tính cách trái ngược nhau, đó là kiêu ngạo và khiêm nhường.
- Ai nâng mình lên.
Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có gía trị và được mọi người công nhận, và tôn trọng giá trị của mình. Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài (x. St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hòan hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hòan hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hòan hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã nhập vào bản thể của con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hòan hảo, có giá trị thật (điều này khó, đòi hỏi con người cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị thực hay không (JKN).
Như chúng ta đã biết kiêu ngạo dẫn đến thảm họa cho nhân lọai qua lời cám dỗ của ma quỉ :”Ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện ác”(St 3,5) trong câu chuyện ông A dong và bà Evà ăn trái cấm, và được gọi là tội tổ tông truyền.
Theo sách giáo lý công giáo, số 1866 thì kiêu ngạo được xếp vào “các mối tội đầu” phát sinh ra các tội và các nết xấu khác. Đó là : Kiêu ngạo, hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh”.
Chúng ta thừa hiểu rằng ai cũng mang trong mình mầm mống của sự kiêu ngạo. Nó thường núp bóng dưới nhiều hìønh thái khác nhau :
– Tự ái là khi bị sỉ nhục liền cảm thấy mất mặt, sinh ra tức giận và tìm cách hạ bệ đối phương ngay.
– Khoe khoang tức là lợi dụng mọi cách mọi dịp để làm cho mình được nổi bật hơn kẻ khác.
– Ganh đua là khi thấy người khác hơn mình thì khó chịu, rồi tìm dịp xoi mói hay tìm cách đưa mình lên.
Tất nhiên, tất cả những biểu hiện đó là xấu, đôi lúc là tội nữa và trái ngược lại với sự khiêm nhường.
Truyện : Chiếc tầu Titanic
Kỷ niệm đáng ghi nhớ và đáng học hỏi nhất cho con người thời nay là câu chuyện chiếc tầu Titanic. Người ta nghĩ rằng bàn tay con người có thể làm nên một con tầu không thể chìm là một sự vô cùng kiêu ngạo. Mọi con tầu do con người chế tạo đều có thể chìm. Bằng việc tuyên bố chúng ta có thể làm ra một con tầu không có thể chìm được với kỹ thuật tân tiến hiện đại đã thách thức quyền năng của Thiên Chúa. Đúng như lời thánh Phaolô nói về tinh thần của thời đại này là kiêu căng (Rm 12,3; 1Cr 4,7). Tinh thần kiêu căng đó đã thúc đẩy người ta viết vào mạn tầu mấy chữ :”No Pope, no God” : không có giáo hoàng, không có Thiên Chúa ! Và trong chuyến hải hành đầu tiên từ Anh sang Mỹ, sự gì đã xẩy ra như chúng ta đã biết. Một tai họa đã giáng xuống như câu chuyện xây tháp Bebel trong Cựu ước(St 11,4).
- Ai hạ mình xuống.
Đối lại với tính kiêu ngạo, Đức Giêsu đã khuyên ta hãy ở khiêm nhường. Chính Ngài đã phán :”Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29).
Vậy khiêm nhường là gì ? Và thế nào mới được gọi là khiêm nhường ? Phải chăng khiêm nhường là tự hạ mình xuống , phủ nhận giá trị thực của mình hay giảm thiểu nó đi ?Không phải thế, Đức Khiêm nhường mang nhiều chiều kích sâu xa hơn và tốt đẹp hơn nhiều. Khiêm nhường không phải là ít nghĩ về mình, mà là không nghĩ gì về mình, bởi vì :”Con Người không đến để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45).
Nhà giảng thuyết trứ danh của nước Pháp, cha Lacordaire đã nói :”Khiêm nhường không phải là thấy mình xấâu xa hơn, tầm thường hơn, nhưng là biết rõ những gì ta còn thiếu”. Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không nhìn nhận những khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có nhiều người khác vượt xa tôi :
Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường lắm kẻ con dòn hơn mẹ con ta.
Một lần nữa, ta phải khẳng định rằng, khiêm nhường không là gì mà chính là chấp nhận sự thật về mình. Trong Anh ngữ, chữ khiêm nhường là “humility”. Chữ Humility do chữ La tinh “Humus” có nghĩa là đất, tro bụi mà từ đó con người đã được tạo dựng theo như sách Sáng thế đã mô tả (St 2,7). Do đó, khiêm nhường có nghĩa là hạ mình xuống tới đất. Nó nhắc nhở chúng ta lời kêu gọi của Giáo hội trong ngày thứ Tư lễ Tro về sự thật của thân phận con người :”Hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về cùng tro bụi”.
Truyện : Đọc truyện Tây du ký.
Ai trong chúng ta cũng đã có lần được xem phim Tây du ký của Trung quốc. Một cuốn phim thật hay và hấp dẫn người xem từ đầu tới cuối và còn muốn xem nhiều lần. Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta thấy các nhân vật trong phim cũng hợp với lời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay : “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh : bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ vương, Hòang hậu, Hòang tử, Công chúa đều bị lột mặt nạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, heo, bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về kiếp sống quái vật.
Những thứ nâng mình lên như thế thì vô kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ kẻ kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ sự hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
Ngoài thứ khiêm nhường thật ra, lại còn thứ khiêm nhường giả tạo nữa. Điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bề ngòai. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, khi mình có tài hoặc khả năng đặc biệt được nhiều người chiếu cố, nhờ cậy thì mình giả vờ hạ bệ mình bằng cách thoái thác, từ chối, nhưng kỳ thực đó là thủ thuật buộc người ta phải lụy phục, nài nỉ thêm. Lại có người vì để được một lợi lộc gì hay để đạt được một tham vọng nào đó thì luôn tỏ ra nhã nhặn, hiền lành, dễ bảo trước mặt người có quyền để lấy lòng, mua chuộc. Hoặc vì yếu thế mà phải tỏ ra lụy phục, nhưng sau lưng thì phê bình chỉ trích, nói xấu người ta.
Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vênh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh nhàn, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Phải thành thật với mình, nhận ra cái ưu đểm và khuyến điểm của mình và luôn nhận ra mình còn yếu đuối cần có sự trợ giúp của Chúa vì :”Không có Thầây, các con không thể làm gì được” ! “Các con hãy ngồi vào chỗ cuối” ! Đức Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại lời đó. Trước mặt Thiên Chúa, phải biết mình yếu đuối, nhỏ bé, ở chỗ cuối, để rồi hoàn toàn trông cậy vào Chúa, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình. Phải nhỏ bé như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Lc 9,48).
Truyện : Nhận thức đúng thân phận mình.
Tương truyền rằng trước cánh cửa nhà mồ bị khóa chặt, hồn nữ hòang Sissi gõ cửa. Từ nơi thăm thẳm vang lên giọng nói oai nghiêm của vị Cha Già giữ cửa :
– Ai đó ?
Hồn nữ hòang kiêu sa đáp :
– Tôi là nữ hòang Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari.
Tiếng vị Cha Già lạnh lùng :
– Ta không biết.
Tưởng người giữ của chưa hiểu biết về mình, hồn nữ hoàng lại gõ của. Lần này tiếng hỏi của vị Cha Già gắt hơn :
– Ai đó ?
Hồn nữ hoàng lại cao giọng đáp :
– Ta là nữ hòang Elizabeth Sissi của Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari, hoàng hậu xứ Bôhême, hoàng hậu của Giêrusalem, nữ lãnh chúa của xứ Transylvanie, đại quận chúa của Toscane và Cracovie…
Lại một lần nữa Cha Già trả lời :
– Ta không biết.
Nghe xong tiếng trả lời của Cha Gia :”Ta không biết”, vừa thất vọng đau đớn vừa tủi nhục xấu hổ, hồn nữ hoàng vội quì xuống, lột bỏ hết mọi chức tước cao ngạo của trần thế và khiêm tốn thưa lại một cách giản dị :
– Con là Elizabeth Sissi, một kẻ có tội đáng thương và con tha thiết cầu xin Chúa nhân từ xót thương.
Tức thì tiếng chìa khóa tra vào ổ, vị Cha Già lên tiếng ân cần nói :
– Con hãy vào đi.
Dù câu chuyện chỉ là giả tưởng, nhưng dụng ý của nó muốn nói rằng : giá trị đích thực của một con người ở đời này và đời sau không hệ tại nơi những gì bên ngoài mình có được hay mình chiếm được, mà là do biết rõ mình thế nào. Nghĩa là khi còn sống phải biết sống làm sao để mọi người yêu mến kính phục và khi đã qua đời lại được Chúa xót thương và được thần thánh hỗ trợ thì mỗi người chúng ta gắng sức học hỏi và sống theo bí quyến căn bản này : “Khiêm nhường”. Vì đây chính là chìa khóa để mở được cánh cửa vào thiên đàng (Quê Ngọc).
- Hạ mình xuống để phục vụ.
Đức Giêsu phán :”Con Người đến không phải được phục vụ nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45). Phục vụ là hành động của một người tôi tớ, mà người tôi tớ thì phải phục vụ cho ông chủ. Đức Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ chúng ta để tôn chúng ta lên làm Chúa, còn Ngài lại trở thành tôi tớ. Ngài làm gương cho chúng ta về tinh thần bác ái vô vị lợi.
Sách có chữ rằng :”Phú quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly” : Giầu có thì thiên hạ bâu, nghèo khó thì bà con rời rạc.
Theo cách xử sự thông thường người ta thích những người giầu có, giao du với họ trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Nếu có phục vụ người ta thì cũng chỉ phục vụ “theo nguyên tắc :”Do ut des” : cho đi để lấy lại. . Chỉ những ai có tinh thần siêu nhiên và siêu thóat thì mới có thể có được một sự phục vụ vô vị lợi.
Phục vụ là :”Cho đi”, nhưng cái cho đi cũng có nhiều lý do :
– Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho lòai người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
– Người ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi cho thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
– Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabbi Do thái có câu nói rằêng : cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
– Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY.
Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài đã không làm trước, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Bài học về khiêm nhường và bác ái hôm nay được minh họa bằng chính cuộc sống của Ngài mà thánh Phaolô đã ca tụng trong thư gửi cho tín hữu Philipphê :”Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”(Pl 2,6-9).
Đọan thư Philipphê ngầm so sánh Đức Giêsu với A dong và nói lên cái nghịch lý giữa “lên” và “xuống”. Adong đã muốn lên “bằng Thiên Chúa” và kết quả là đẩy loài người xuống vực sâu. Còn Đức Giêsu tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi cho luôn luôn được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả , mặc lấy thân nô lệ thấp hèn. Kết quả là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban chính hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu… Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Chúng ta cũng thường theo con đường của Adong tưởng rằng khẳng định được mình khi nâng mình lên trước mặt những người khác. Những cái “mình” mà ta khẳng định ấy chỉ là những dáng vẻ bề ngòai chứ không phải là bản thân đích thực của ta.
Triết gia Socrate đã khởi đầu triết lý của mình bằng câu :”Anh hãy tự biết mình”. Biết mình là cái khó vô cùng. Người ta có thể biết được nhiều sự trên trời dưới đất, biết được những cái xa xôi, biết được cả những cái cực kỳ tinh vi, nhưng có cái gần nhất màø không biết. Đó là bản thân mình. Còn triết gia Blaise Pascal thì nói :”Tôi chỉ biết có một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nếu không biết được gì khác thì làm sao biết được mình vì biết mình là một điều khó.
Vì vậy, mọi sự cần bắt đầu với việc tu thân, canh tân chính đời sống của mình. Để làm được điều căn bản này cần phải biết nhìn xuống và nhìn vào bản thân mình, biết khiêm tốn nhìn vào cuộc sống của mình theo ánh sáng Lời Chúa để được soi sáng mà nhìn thấy những gì tiêu cực, xấu xa cần được thanh luyện sửa chữa.
Truyện vui : Phải biết nhìn xuống.
Có một hòang tử nọ tên là Mukasaki, có một thái độ tự cao tự đại đến độ cả khi đi, ông cũng không bao giờ nhìn xuống đường. Ông bước đi trong tư thế làm oai, ngực đứng thẳng, mắt ngước lên, mọi người trong vùng đặt cho hoàng một tên riêng là :”Người không bao giờ nhìn xuống” và hoàng từ Mukasaki xem ra cũng rất thích biệt hiệu này, ông tuyên bố :”Những bậc vĩ nhân không bao giờ nhìn xuống, họ chỉ biết nhìn lên trời cao mà thôi”.
Một ngày nọ, hoàng tử được mời đến dự đại tiệc tại cung đình. Để khoe cho mọi người nhìn thấy bộ áo cẩn ngọc qúi giá có một không hai của mình, hoàng tử quyết định không ngồi xe ngựa nhưng hiên ngang đi bộ từ nhà đến cung đình, dĩ nhiên là với thái độ kiêu hãnh không bao giờ nhìn xuống. Dân chúng tuốn ra hai bên đường trầm trồ khen áo đẹp và quí, điều này lại làm cho hoàng tử thêm kiêu hãnh. Hoàng tử đến cung đình sau hết mọi người và hiên ngang bước vào. Mọi người cười rộ lên, hoàng tử kiêu hãnh nói :
– Tại sao mọi người cười tôi như vậy ?
Một trong những người khách mới trả lời :
– Xin hoàng tử nhìn xuống đôi chân mình sẽ biết lý do tại sao ?
Hoàng tử nhìn xuống, mặt bỗng đỏ bừng lên vì hổ thẹn. Cả hai đế giầy của hoàng tử đều dính đầy phân ngựa, vì không bao giờ nhìn xuống, hoàng tử giẫm lên không biết bao nhiêu đống phân ngựa từ nhà đến cung đình để dự tiệc.
Hoàng tử trong câu chuyện vui trên không bao giờ nhìn xuống và đã giẫm lên những đống phân ngựa. Nếu chúng ta không biết nhìn lại mình, kiểm điểm cuộc sống mình để biết canh tân khỏi những khuyết điểm và tật xấu, thì chắc chắn chúng ta sẽ chồng chất không biết bao nhiêu tật xấu. Tự phụ kiêu ngạo làm ta nên mù quáng trước những tật xấu của chính mình. Thêm vào đó, chúng ta lại dễ chiều theo khuynh hướng moi móc chuyện xấu của anh chị em, và như thế càng ngày chúng ta càng lún sâu vào trong tật xấu mà không hay biết gì cả( R.Veritas).
.
Trầm Thiên Thu
Có lẽ người ta thường đồng hóa hai trạng thái Sống và Tồn Tại, cho rằng giống nhau vì “còn thở”. Thật ra đó là hai thái cực khác nhau. Không giống nhau, hoặc khác nhau, bởi vì người ta nỗ lực để “tồn tại” mà chưa chắc thực sự nỗ lực “sống”.
Cuộc sống đa dạng nên cũng luôn có nhiều thái cực, khác nhau hoặc đối lập với nhau. Chắc chắn không ai cao tới mức không phải vói tới hoặc ngước lên, và cũng chẳng ai thấp đến nỗi không cần cúi xuống. Cuộc đời đôi khi cần ngước lên và đôi khi lại cần cúi xuống. Ngước lên dễ dàng nhưng cúi xuống không dễ, thậm chí là khó lắm. Ở đây, ngước lên ngụ ý kiêu căng, hống hách, tự tôn; cúi xuống ngụ ý tự hạ, khiêm tốn, biết mình là gì. Thế mà Đức Giêsu là Thiên Chúa tối cao đã “HẠ MÌNH, VÂNG LỜI cho đến nỗi bằng lòng CHỊU CHẾT, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:8) Nhìn lại mình mà tự thẹn và thấy mình đáng ghê tởm!
Trong Việt ngữ, có điều thú vị về các từ “láy” làm mạnh nghĩa, và biến thành các từ kép: Trắng toát – đen thui, cao ráo – thấp tè, nóng ran – ẩm thấp, giàu sang – nghèo hèn,… Về cái giàu thì miễn bàn, còn cái nghèo thì thường kèm theo những chữ “khó ưa” – như nghèo khổ, nghèo khó, nghèo mạt,… Vì thế, người nghèo luôn cần được quan tâm, nâng đỡ, chia sẻ,… vì họ luôn sống “khó khăn”, gặp “khổ đau” và chịu “hèn hạ” – thậm chí còn bị nhục. Đúng là khổ thật. Thảo nào Chúa Giêsu rất thương dân nghèo!
Nói về cái nghèo, cố NS Lam Phương mô tả trong ca khúc “Kiếp Nghèo” thật não nề: “Đường về đêm nay vắng tanh, rạt rào hạt mưa rớt nhanh, lạnh lùng mưa xuyên áo tơi, mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh. Lầy lội qua muôn lối quanh, gập ghềnh đường đê tối tăm, ngập ngừng dừng bên mái tranh nghe trẻ thơ thức giấc bùi ngùi.” Cảnh nghèo thê thảm quá, người nghèo khổ não quá. Người nghèo khổ sở mọi thứ, nhọc nhằn trên từng cây số!
Nghèo thì buồn, không chỉ tả tơi mà còn chơi vơi, đơn côi – vì không ai thèm đến gần. Thật thấm thía với nhận định của văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Hoa Kỳ): “Người nghèo hy vọng được MỘT thứ, người xa xỉ hy vọng được RẤT NHIỀU thứ, người tham lam hy vọng được TẤT CẢ.” Một thực tế xã hội chua chát biết bao! Ông là người trào phúng nhưng ý tưởng lại rất nghiêm túc. Đó là cái cười đau đáu về con người. Người nghèo là người đến chẳng ai mong, đi không ai giữ, ở chẳng ai cần, người ta có nhìn thấy họ cũng coi như không.
Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4: 8 & 16) Đạo Chúa là Đạo Yêu Thương. Vì thế, yêu thương vô cùng cần thiết trong cuộc sống – cả tâm linh và đời thường. Chúa Giêsu bảo: “Người nghèo lúc nào anh em cũng có với anh em.” (Mt 26:11) Giáo Hội phân ra rõ ràng 14 mối thương người – gồm 7 điều về “thương xác” và 7 điều về “thương hồn”. Thánh Gioan đã phân tích rạch ròi: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Ga 4:20) Quá đỗi rõ ràng, không thể không hiểu hoặc biện hộ!
Lời khuyên trong sách Huấn Ca nói rõ ràng: “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.” (Hc 3:17-18) Biết vậy mà không dễ thể hiện, đôi khi xuôi lời nói mà trái việc làm – gọi là nói suông. Thật vậy, người làm nhỏ (bề dưới) không hạ mình thì cũng chẳng dám vênh váo. Chết liền! Người làm lớn (bề trên) khó mà hạ mình, vì sĩ diện to lắm. Thế nên càng dễ khoác lác. Chúa Giêsu rất ghét, như Ngài nói về kinh sư và biệt phái: “KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và biệt phái giả hình!” (Mt 23:13-32) Tại sao vậy? Bởi vì họ “nói mà không làm.” (Mt 23:3)
Kinh Thánh xác định: “Quyền năng Đức Chúa lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường.” (Hc 3:20) Khiêm nhường là nhân đức nền tảng của các nhân đức, Thiên Chúa rất thích người khiêm hạ. Đức Maria cũng đã từng cất cao lời: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1:51-52)
Con người có “tính bổn thiện”, nhưng chữ TÔI biến dạng đủ kiểu với dấu giọng (Tối, Tồi, Tội) Tương tự, chữ Tiền cũng khá thú vị: Tiền y như Tiên, khéo dùng thì có thể Tiến (tiến bộ, thăng tiến), keo kiệt thì hóa Tiện (hà tiện, bần tiện, đê tiện) Tôi và Tiền đều là mẫu tự T, và cả hai đều có thể biến người ta thành kiêu ngạo. Sách Huấn Ca nói: “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó. Người sáng trí để tâm nghiên cứu các ẩn dụ, kẻ khôn ngoan ao ước có tai thính để nghe. Bác ái đối với người nghèo.” (Hc 3:28-29)
Chắc chắn rằng bác ái với người giàu thì dễ, và người ta thích hơn; còn bác ái với người nghèo ư? Thôi, miễn bàn! Tại sao? Giúp người nghèo thì chẳng ai biết, vì không được trao “bằng ân nhân”, không được ghi tên vào “sổ vàng”, không hãnh diện trước bàn dân thiên hạ. Có lẽ “sổ vàng” cũng tương tự một dạng “tệ nạn” trong tôn giáo. Bác ái rất khó. Thật ra chúng ta chỉ mới ở mức “bố thí” hoặc “công bằng”, vì bác ái là cho chính cái mình vẫn cần, còn chúng ta chỉ cho người khác những gì dư thừa mà thôi. Chưa thực sự đúng nghĩa bác ai đâu!
Thật đáng quan ngại với lời dạy của đại nhân Khổng Tử: “Đạo làm quân tử có BỐN điều đúng: Mạnh dạn khi làm điều nghĩa, nhũn nhặn khi nghe lời can, lo nghĩ khi nhận bổng lộc, và cẩn thận với việc sửa mình; đời có BỐN cái lo: Lo đức có ít mà được sủng ái nhiều, lo công lập được ít mà được hưởng nhiều bổng lộc.” Ôi, không hề đơn giản chút nào!
Liên quan vấn đề công bình, bác ái, từ thiện,… (dạng “nhạy cảm” lắm), Chúa Giêsu bảo: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm.” (Mt 6:3) Có lẽ Chúa cũng chỉ muốn người ta đạt được mức tối thiểu là “bố thí” mà thôi chứ chẳng đòi hơn. Nhưng dù vậy thì cũng chán lắm, vì không ai biết thì buồn lắm. Chúa chơi ép ghê đi! Không, Ngài không ép, mà chỉ cảnh báo. Đúng là “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19:24; Mc 10:25) Thế nên, những ai bố-thí-thầm-lặng mới xứng đáng nên công chính. Người công chính thật hạnh phúc, bởi vì Thánh Vịnh mô tả: “Những người công chính múa nhảy mừng vui trước mặt Chúa Trời, niềm hoan lạc trào dâng.” (Tv 68:4)
Vui vì nhờ ơn Chúa chứ không phải vui vì mình làm được điều này hay việc nọ. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người, hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân. Danh Người là Đức Chúa; trước Thánh Nhan, hãy vui mừng hớn hở.” (Tv 68:5) Ngài không là Chúa của người giàu, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước, người chỉ tay năm ngón, người được tiền hô hậu ủng, người có uy thế, danh vọng, quyền lực,… nhưng Ngài là “Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ.” (Tv 68:6) Thật vậy, “kẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa, hạng tù đày, Người trả lại tự do hạnh phúc, còn quân phản nghịch phải ở nơi khô cằn.” (Tv 68:7) Ngài là hiện thân của Công Lý và Hòa Bình – xuất phát từ Chân Lý.
Trong một dịp đại lễ, một giám mục (người Việt) chia sẻ điều này: “Làm giám mục, tôi có mấy cái sợ: thứ nhất là sợ đi đến đâu cũng được người ta đón rước long trọng, băng-rôn, cờ xí, trống kèn, tôi rất sợ, sợ sau này tôi sẽ nghiện tiếng kèn, đến những nơi người ta đón tiếp đơn giản lại thấy thiếu thiếu. Cái sợ thứ hai là sợ sẽ không còn được nghe sự thật nữa, vì mọi người sẽ không bao giờ dám nói thật với mình, và mình sẽ sống trong ảo tưởng.” Có lẽ không cần phải nói gì thêm nữa!
Đó là một ý tưởng nghiêm túc, thông thoáng, đổi mới, mạnh dạn, nhưng thiết tưởng có lẽ vẫn có chút tiêu cực, vì chưa thực sự “cúi xuống”. Sẽ là tích cực nếu dám nói thẳng và cương quyết: “Xin đừng đón tiếp tôi long trọng như vậy, hãy bỏ hết cờ xí, băng-rôn, trống kèn,…” Nếu cần thì “làm thành luật”. Thế nhưng… Than ôi! Và rồi nếu có ai dám ý kiến ý cò gì thì lại “sinh tội ra”. Mà có ai dám nói thật và làm thật như vậy chưa? Có. Chính ĐGH Phanxicô đang tiên phong nêu gương. Nhưng ai sẽ quyết tâm noi gương ngài? (Gãi đầu hoặc gãi tai…).
Con người yếu đuối, thế nên cứ phải không ngừng chấn chỉnh, uốn nắn, sửa đổi. Chúng ta cùng chân thành thân thưa với Chúa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài đổ mưa ân hậu, gia nghiệp Ngài tiêu hao mòn mỏi, Ngài đã bổ sức cho. Lạy Thiên Chúa, đàn chiên của Ngài đến ở nơi đâu, Ngài cũng luôn nâng đỡ, bởi vì Ngài nhân hậu đối với kẻ khó nghèo.” (Tv 68:10-11) Chúa Giêsu luôn “dính liền” với cái nghèo: Sinh nghèo, sống nghèo và chết nghèo.
Vốn con nhà nghèo, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã tận dụng “cái vốn” đó để nên giống Đức Kitô, với quyết tâm khi còn sinh thời: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn.” Tương tự, Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963) đã viết trong chúc thư: “Sinh trưởng trong sự nghèo nàn, ở một gia đình giản dị nhưng được trọng kính, tôi rất sung sướng được chết trong sự nghèo nàn, vì theo sự đòi hỏi và các trường hợp sinh sống của đời giản dị và hèn mọn của tôi, tôi đã phân phát cho người nghèo và Giáo Hội đã nuôi dưỡng tôi, những gì ít ỏi của tôi đã có, trong những năm làm linh mục và giám mục.”
Đối với các tu sĩ, một trong ba lời khấn là “tuyên thệ sống khó nghèo”. Khấn nghèo là một vế, sống nghèo hay không là vế khác. Chúa Giêsu và các thánh – đặc biệt là Thánh Phanxicô Assisi – đã sống KHÓ NGHÈO, nhưng chúng ta lại sống KHÓ (mà) NGHÈO. Kể ra cũng “căng” thật chứ chẳng đùa đâu. Nói gì thì nói thì Cái Nghèo cũng chán thật: tả tơi, đơn côi, rã rời, rối bời, chơi vơi, buồn lơi,… Nhưng Chúa Giêsu không hề văn hoa bóng bẩy!
Người giàu thì sướng rơn, khỏe re, lại “có uy” nữa, bởi vì “miệng nhà giàu có gang, có thép”. Họ có thể làm cho “đồng bạc đâm toạc tờ giấy”, thay đen đổi trắng dễ như trở bàn tay. Thật vậy, lý của người giàu có sai cũng hóa đúng, còn lý của kẻ nghèo có đúng cũng bị coi là sai!
Cái gì cũng có hệ lụy, với kiểu “nhãn tiền” hoặc “nhân quả” đặc trưng. Thánh Phaolô nói: “Anh em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và giông tố, có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa.” (Dt 12:18-19) Rất rõ ràng, không mơ hồ. Kinh Thánh khuyên chúng ta “đừng ngại lên tiếng khi cần thiết” (Hc 4:23) nhưng “đừng nói trái sự thật” (Hc 4:25).
Có lẽ Thánh Phaolô sợ chúng ta chưa hiểu nên tiếp tục giải thích và “nói toạc móng heo” luôn: “Nhưng anh em đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben.” (Dt 12:22-24) Một sự liên đới chặt chẽ, liên đới mọi thứ, không liên quan cái này thì cũng liên quan cái khác, đồng thời đó cũng là mối liên kết trong toàn thể Giáo hội. Tính liên đới như tấm lưới, phần nào cũng liên quan lẫn nhau – cả cái tốt lẫn cái xấu.
Trình thuật Lc 14:1, 7-14 đề cập đức khiêm nhường qua việc “chọn chỗ cuối” khi là khách được mời dự tiệc và “mời người nghèo” khi là chủ đãi tiệc.
Thánh Luca cho biết: Vào một ngày Sa-bát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa. Họ cố dò xét Người. Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn về việc dự tiệc: Khi anh được mời đi ăn cưới thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này.”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho.” Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.
Điều Chúa nói giản dị, dễ hiểu đối với mọi trình độ. Nhưng đó chỉ là chuyện bình thường, vấn đề Ngài muốn cảnh báo chúng ta điều thực tế mà lại rất quan trọng: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Hai chiều ngược nhau, hai thái cực khác hẳn. Nhưng đó là vấn đề cốt lõi Chúa Giêsu muốn nói tới!
Đặc biệt hơn, Đức Giêsu nói với gia chủ: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” Ôi chao, thật là “căng” quá chừng!
Quả thật, nghe thấy “sốc” lắm. Đãi tiệc tốn kém, vậy mà lại “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” thì lỗ to. Mời những người “tai mắt” mới có phong-bì-dày-cộm, mời người nghèo thì làm gì có lời? Lấy gì mà “trang trải”, lấy gì bù lỗ đây? Coi bộ không ổn chút nào! Thế nhưng Chúa Giêsu nói thật, không đùa, không bóng bẩy, không mơ hồ, không lý thuyết,…
Thông thường, sự thật vốn dĩ dễ gây mất lòng. Người dám sống nghèo là người thực sự can đảm, mạnh mẽ. Người giàu được người ta tôn trọng, đề cao; còn người nghèo bị người ta coi thường, hạ bệ, ghét bỏ,… Thật may vì Thiên Chúa lại luôn đề cao cái nghèo và thương xót người nghèo. Dĩ nhiên “cái nghèo” có nghĩa đen và nghĩa bóng, về vật chất hoặc tinh thần, nhưng khi nói đến cái nghèo thì người ta thường nghĩ ngay tới nghĩa đen về vật chất. Chắc chắn cái nghèo dạng nào cũng khổ.
Qua trình thuật của Thánh Luca, có hai điều Chúa Giêsu muốn giáo huấn: [1] Đức khiêm nhường đích thực, [2] Không tính toán khi cho đi. Hai điều đó có liên quan lẫn nhau, chứng tỏ một tâm hồn chân chính và đạo đức. Kinh Thánh đã xác định: “CHO thì có phúc hơn là NHẬN.” (Cv 20:35) Động thái “cho” cũng là một cách dấn thân, hy sinh, quên mình, từ bỏ mình. CHO và NHẬN có liên quan đức khiêm nhường. Cho và Nhận đều cần đúng cách – dĩ nhiên biết “cách cho” là thể hiện yêu thương, nhưng biết “cách nhận” cũng là cách yêu thương, vì không phụ lòng quý mến người khác. Sự vay mượn cũng có liên quan: “Kẻ thương người thì biết cho vay mượn, tiếp tay với người là tuân giữ điều răn. Khi người ta cần, con hãy cho vay mượn; khi con vay mượn, hãy trả đúng hạn kỳ” (Hc 29:1).
Không dễ thực hành bài học KHIÊM NHƯỜNG và CHO–NHẬN, nghĩa là khó áp dụng – nhưng “khó” chứ không phải là không làm được, nếu thực sự cố gắng và quyết tâm thì sẽ làm được. Và đặc biệt là có lợi ích cụ thể, như Kinh Thánh đã nói: “Nước dập tắt lửa hồng, bố thí đền bù tội lỗi.” (Hc 3:30)
Thánh Lm Phanxicô Xaviê (1506-1552) nói: “Linh mục giảng cao siêu thần học mà không thực hành điều mình giảng thì chỉ là linh mục khoác lác.” Không chỉ đối với linh mục mà ai cũng là kẻ khoác lác nếu ngôn hành bất thuận. Chính Chúa Giêsu cũng đã lặp đi lặp lại điệp khúc “khó nghe” này: “KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và biệt phái giả hình!” (Mt 23:13-32). Tại sao họ bị Ngài nguyền rủa nặng lời vậy? Bởi vì “họ nói mà không làm” (Mt 23:3). Thế thôi, nhưng phải tự “liệu hồn” đấy!
Kinh Thánh cho biết “sự lạ” này: “Có cái nhục đưa đến tội lỗi, và cũng có cái nhục là vinh quang và ân sủng.” (Hc 4:21). Cái nhục cũng có loại tốt và loại xấu. Thật thú vị. Tuyệt!
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin giúp chúng con sống đức ái đúng nghĩa, đặc biệt là đối với những người nghèo, đồng thời cũng xin giúp chúng con can đảm sống nghèo để có thể chết nghèo như Đại Sư Giêsu, nhờ vậy mà chúng con có thể được trở thành công dân của Nước Trời mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Tại trần thế này, chỗ nhất, chỗ vinh dự, thuộc về người giầu, người có chức quyền, người tài giỏi thông thái, “vị thế” ấy đã quá quen đến độ chẳng mấy ai còn “phân bì” gì nữa. Tâm lý tự nhiên, người ta thích đi bên người đẹp, được gần người hiền tài tham mưu vấn kế, và có đại gia hậu thuẫn cho mọi công việc, ít nhiều cũng vừa “có tiếng, có miếng”: làm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại. Được nổi tiếng nổi danh, được ăn trên ngồi chốc, được kẻ dưới cung phụng hầu hạ, thời nào cũng có kẻ mơ tưởng như thế. Đành rằng cuộc sống có giai cấp: giầu nghèo, trí thức bình dân, người lớn trẻ nhỏ, từ ban đầu, gia đình xã hội không có ý phân chia thứ bậc 1-2-3, đúng hơn, chúng ta nên chú trọng vào sự bình đẳng ở đời là nâng đỡ, bổ túc, giúp nhau cùng sống tốt, sống hạnh phúc với vị thế của mình.
Có một sự thật sẽ không thay đổi, đó là ngồi vào bàn tiệc để ăn, chẳng ai bước vào bàn tiệc để dòm ngó, để nhìn người khác thưởng thức, làm thế thì thật là vô duyên. Vấn đề rắc rối phức tạp ở “chỗ ngồi”, đã đưa đẩy khách và chủ tiệc cùng ngại ngùng khó xử, vì cái tính xấu bộc lộ, khi nhiều người cứ lo tìm chỗ nhất, chỗ quan trọng, quên đi cái chính yếu là “ăn tiệc”. Nếu không ý thức đâu cái chính cái phụ trong cuộc sống, người ta sẽ trở nên “lố bịch”, nên trò cười cho thiên hạ mà thôi. Ngồi sát gần ca sĩ, cùng lắm là được gọi là “fan” hâm mộ của ca sĩ mà thôi ; cho dù ngồi ghế nhất, ghế chót, hoặc ngồi gần người nổi tiếng trong buổi tiệc, cũng là chung vinh dự được mời đi dự tiệc. Để nói lên kinh nghiệm trong việc giáo dục, người xưa có câu: gần đèn thì sáng, hẳn các ngài có ý nhắc hậu thế: chơi với người tốt, sống gần người đức độ, luôn là dịp thuận tiện để học hỏi và sớm trở nên người hữu ích.
Cách sống của mỗi người chính là câu trả lời: thân thế gia tộc, năng suất lao động, hiệu quả của công việc ; vì khi được khen thưởng, bao giờ cũng vinh dự cho đương sự, và cả dòng tộc còn được thơm danh. Tại buổi tiệc nhà người biệt phái, Chúa Giêsu cho thấy lý do tại sao có chuyện tìm kiếm chỗ nhất, làm ảnh hưởng xấu đến các tương quan, làm xáo trộn bầu khí buổi tiệc, thưa, vì người ta hiểu nhầm, hiểu không đúng giá trị của “khách” được mời dự tiệc. Hạnh phúc của chủ tiệc là có đông đủ khách mời, được hiện diện trong buổi tiệc chính là vinh dự của khách với chủ, quan trọng là bạn được mời, được tham dự bàn tiệc. Nếu hiểu những kẻ ở ngoài phòng tiệc là những người xa lạ, bất xứng, họ không may mắn được mời dự tiệc, hẳn người ở phòng tiệc sẽ vinh dự biết bao, vì họ là người được thương yêu, được tuyển chọn, được tham dự bàn tiệc với chủ của họ.
Chúa Giêsu lên tiếng tại bàn tiệc năm xưa, trước là vì yêu thương mà khách được mời tham dự với chủ tiệc, sau là đừng lo tìm kiếm chỗ vinh dự trần thế mà quên đi nghĩa vụ phải chu toàn để được mời tham dự bàn tiệc Nước trời. Chỗ nhất, chỗ trọng, ghế số 1, ghế vinh dự, ở trần gian, người ta có thể đầu tư, dùng tiền của, dùng mưu để có ; chỗ vinh dự, chỗ hạnh phúc ở Nước trời không ai tự mình đến được, tất cả đều nhờ tình yêu và ơn thông hiệp trong Đức Kitô, Đấng sẽ biến đổi, dẫn đưa vào bàn tiệc với Ngài. Tại sao ở trần thế này người ta xem chỗ ngồi quan trọng hơn cả đồ ăn thức uống trên bàn, tại sao có chuyện ảo tưởng mình là khách quý trong khi ta còn nhiều tính xấu: ganh tỵ với anh chị em, nghi ngờ, bất hiếu với cả đấng bậc sinh thành ? Trả lời chung cho những thắc mắc, đó là hãy khiêm tốn để biết mình là ai, vì có cầu nguyện, có đời sống các bí tích, người ta mới đủ sức thắng vượt được những vinh quang trần thế đu đeo ám ảnh.
Cha ông chúng ta có câu: hãy học hỏi kinh nghiệm nơi kẻ khác, nhưng phải tự chỉ huy mình. Tại bàn tiệc năm xưa, Chúa Giêsu đã cho thấy chỉ những ai khờ khạo mới lầm tưởng chỗ ngồi quan trọng hơn đồ ăn thức uống, chỉ những ai trẻ con, chưa trưởng thành, mới hiểu lầm mình là nhân vật quan trọng, mình là khách quý trong mọi nơi chốn. Chúa Giêsu sẽ còn nối kết giữa khách được mời dự tiệc trong cùng một niềm vui, bởi ai cũng là khách quý, ai cũng vinh dự nhận biết mình được yêu thương, nếu tin nhận và sống tình hiệp thông với Đức Kitô. Chỗ ngồi, chỗ nhất, chỗ trọng, trong hiện tại của mỗi người kitô hữu phải được chu toàn, phải là thực thi đức bác ái: “khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt đui mù, các ông sẽ có phúc”. Chúa không chỉ cân nhắc phải khiêm tốn, đừng lo tìm vinh quang trần thế, mà còn lưu ý chúng ta hướng đến tình người, khi mà người nghèo, người không đồng quan điểm, họ vẫn là anh chị em của ta, là trọng trách mà chúng ta phải yêu thương, bổ túc giúp đỡ họ. Amen.
.
KHIÊM NHƯỜNG CHÚA LẠI NÂNG LÊN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khiêm nhường là một đức tính đáng quý, cần phát huy của mỗi con người. Khiêm nhường sẽ giúp con người thành công một cách vững chắc nhất. Chẳng thế mà trong lịch sử nhân loại đã không có ít bậc danh nhân vì chán ghét cảnh tranh chấp quan trường mà cáo quan về ở ẩn. Họ luôn giữ cho lòng mình trong sáng, tinh thần khiêm tốn, thanh cao. Thực tế, khiêm nhường là đặc điểm chung của các nhà lãnh đạo tuyệt vời, các vị cao sang đều mến chuộng đức khiêm nhường. Người ăn ở khiêm nhường chẳng những được người đời kính trọng mà cả Thiên Chúa cũng yêu thích kẻ khiêm nhường. Lời Chúa trong sách Huấn Ca dạy : “Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa” (Hc 3, 19-21. 30-31).
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học quan trọng là ở khiêm nhường. Người mời gọi chúng ta vượt qua thói háo danh để sống tự hạ và khiêm nhường. Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường. Khiêm nhường không có nghĩa là tự coi mình không có giá trị gì, không phải là khinh rể bản thân, hay thụ động, không dám nhận trách nhiệm. Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật, nhận biết thân phận thụ tạo của mình, nhận mình là mình, có sao có vậy, những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa. Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng. Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, có nhiều giới hạn, cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý…
Giữa một thế giới tự cao tự đại, kiêu ngạo, giả hình, háo danh, đề cao quyền lực và lợi nhuận, say mê thống trị và chiếm đoạt, bè phái và chia rẽ, thái độ công kích, đối đầu vẫn thường bị nhầm lẫn là sức mạnh thì người khiêm nhường không được đánh giá cao; bởi người ta đánh đồng khiêm nhường với yếu đuối.
Bằng dụ ngôn khách được mời tới dự tiệc cưới, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy khiêm nhường dành chỗ nhất, chỗ trọng cho người khác : “Đừng tìm kiếm chỗ nhất “. Chúa biết chúng ta thường thích chỗ nhất ở nơi công cộng, trong nhà cũng như ngoài phố, nơi hội họp cũng như bàn ăn… Người biết ý định của chúng ta, nên Người khuyên chúng ta : “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất” (Lc 14,8).
Chỗ nhất là chỗ quan trọng nhất. Ta chọn ngồi chỗ nhất là vì ta thấy mình quan trọng, xứng đáng được hưởng vinh dự đó… Tiếc thay, chỗ nhất chỉ có một chứ không có nhiều, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình. Những cuộc tranh giành như thế vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia… Ở đâu có hai người trở lên là có đụng chạm, chỉ vì có một chỗ nhất. Vì thế Chúa Giêsu khuyên bảo ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên. Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, tuy có giá trị đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý và bền vững. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, còn ai tự hạ thì rồi được tôn.
Vì muốn chọn chỗ nhất, nên ngươi ta thường thích giao du với người có thế giá, có học, có của, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế mà xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, vì kém cỏi về mọi mặt. Chúa Giêsu cũng nhắn nhủ ta trong việc chọn khách để mời ăn, nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Người đưa ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh, giảm bớt sự kiêu căng, nâng cao đức khiêm nhường.
Khiêm nhường sẽ giúp cho bản thân mình nhận ra rằng còn điều gì thiếu sót mà mình phải hoàn thiện, học hỏi được từ người khác nhiều điều mà mình không có. Kẻ ăn ở khiêm nhường sẽ khắc phục được rất nhiều khuyết điểm, và hoàn thiện được bản thân. Khiêm nhường luôn đi liền với sự hòa nhã, hòa đồng với mọi người, vì tinh thần không ngừng cố gắng học hỏi. Còn kẻ tự mãn thì luôn thấy người khác là thấp hơn mình, không đáng học hỏi. Bởi vậy đức khiêm nhường vô cùng quan trọng, giúp cho mỗi con người chúng ta có thể thấy được rằng không có điều gì là đủ, là thừa. Càng khiêm nhường, chúng ta càng học được nhiều điều.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết ăn ở khiêm nhường để xứng đáng được Chúa yêu thương. Amen.
.
KHIÊM TỐN – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ CAO CẢ
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật này, mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề khiêm nhường như là con đường dẫn tới sự cao cả. Trong thời đại hôm nay, có nhiều người muốn trở thành người tốt, người vĩ đại, người nổi tiếng, được mọi người biết đến và ca tụng. Tuy nhiên, có rất nhiều người hiểu sai về sự cao cả. Vậy sự cao cả đích thực của con người là gì? Đâu là con đường dẫn tới sự cao cả đích thực? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay giải thích cho chúng ta hiểu thế nào là một người cao cả nhờ sống khiêm nhường.
1- Càng làm lớn, càng tự hạ
Trong bài đọc I, trích sách Huấn Ca (3,17-18.20.28-29) dạy chúng ta rằng: khiêm nhường là con đường dẫn tới sự cao cả. Người khiêm nhường đích thực là người cao cả đích thực: “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.”
Thật vậy, khiêm nhường là nhân đức nền tảng cho đời sống con người. Khiêm nhường trong tiếng La Tinh là từ humilis, phát xuất từ humus, có nghĩa là đất. Theo nghĩa đen, người khiêm nhường là người cúi xuống sát mặt đất và là người hạ mình xuống thấp. Đối với Thiên Chúa, người khiêm nhường là người ý thức về sự nhỏ bé của mình, chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng giòn. Người khiêm nhường là người hiểu rõ khoảng cách giới hạn giữa mình với Đấng Tạo Hóa.
Đối với tha nhân, người khiêm nhường cũng là người biết tôn trọng người khác, đón nhận những khác biệt và những khả năng của họ. Người khiêm nhường cũng là người có thái độ thân thiện và lịch sự, tế nhị với người khác; người biết lắng nghe và học hỏi từ người khác. Bởi lẽ, không ai tự mình là đầy đủ, mỗi người cần được người khác bổ túc và giúp đỡ. Người khiêm nhường là người biết giúp đỡ người khác, đặc biệt là đối với những người nghèo. Vì họ ý thức rằng những gì họ có là do được lãnh nhận từ chính Thiên Chúa, nên họ cảm thấy cần phải chia sẻ với người khác.
2- Sự cao cả Thiên Chúa trong sự tự hạ của Chúa Giêsu
Trong bài đọc II, trích thư Do Thái (Dt 12,18-19.22-24a) sự cao cả và vinh quang của Thiên Chúa được bày tỏ qua “Đấng Trung Gian của giao ước mới là Đức Giêsu.” Nếu trong Cựu Ước, nhiều lần sự cao cả của Thiên Chúa được diễn tả trong sự khác biệt và tách biệt khỏi thế giới phàm tục, thì trong Tân Ước, sự vĩ đại của Thiên Chúa được bày tỏ trong sự gần gũi và trong hạ mình nơi Đức Giêsu. Bởi lẽ, Con Thiên Chúa trở nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi; Người trở thành con của một người thợ mộc nghèo hèn; Người cũng bị cám dỗ và gặp những khó khăn như chúng ta. Người đã hạ mình chịu chết trên thập giá vì ơn cứu độ loài người. Người được Thiên Chúa siêu tôn, trở thành Đấng Trung Gian và Đấng Cứu Độ của nhân loại.
Như thế, đối với Thiên Chúa, khiêm nhường và tự hạ là con đường dẫn tới sự cao cả và vinh quang. Đó là con đường mà Thiên Chúa đã chọn để cứu độ chúng ta.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu gửi tới chúng ta những giáo huấn quý báu về đức khiêm nhường trong một hoàn cảnh rất cụ thể, đó là khi đi dự tiệc. Chúa Giêsu nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Người nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14,12-14).
Như thế, theo Chúa Giêsu, khiêm nhường là không tự đề cao mình, nhưng để người khác đánh giá mình cách khách quan, hay nói cách khác, hãy để Thiên Chúa đề cao chúng ta, chứ đừng tự đề cao mình.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy: khi nào chúng ta đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ta, như thế, ta được đền đáp rồi. Đây cũng là một hình thức của khiêm nhường, nghĩa là người biết đi ra khỏi khung cảnh gia đình, bạn bè, và người thân, để mở rộng và quan tâm đến những người ngoài, nhất là những người bị bỏ rơi, người nghèo khổ. Khiêm nhường cũng là cố gắng làm một việc tốt cho người khác, mà không cần được trả công và đền ơn đáp nghĩa.
3- Những mẫu gương về khiêm nhường
Trong Giáo Hội, chúng ta có rất nhiều mẫu gương về đức khiêm nhường. Trong số đó, chúng ta có thể kể tên một số nhân vật nổi bật: Trước hết, đó là thánh Augustinô, một giáo phụ nổi tiếng, có sự hiểu biết uyên thâm, nhưng trong cuốn Tự Thuật, ngài khiêm tốn cầu nguyện: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Ngài luôn ý thức về sự yếu đuối và giới hạn của mình, chỉ có nhờ ơn Chúa giúp, mới có thể vượt qua những thử thách gian truân.
Thánh Tôma Aquinô là một nhà thần học nổi tiếng thời Trung Cổ, ngài được mệnh danh là “tiến sĩ Thiên Thần.” Ngài viết rất nhiều sách triết học và thần học mà ngày nay vẫn còn rất giá trị. Nhưng trong một lần thị kiến nhìn thấy Thiên Chúa, ngài nhìn nhận rằng những gì ngài đã viết chẳng là gì hết so với thị kiến về Thiên Chúa.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI là một người rất uyên thâm về thần học từ cổ chí kim, nhưng trong một cuộc hội thảo về đối thoại liên tôn, trước một câu hỏi lớn, ngài vẫn thừa nhận rằng “đây là một câu hỏi khó, tôi không tìm ra câu trả lời.” Đó là thái độ của người khiêm tốn.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô khi viếng thăm mục vụ tại Manila, Philipines, một em bé hỏi ngài, tại sao Thiên Chúa lại để sự dữ xảy ra? Ngài chân thành trả lời rằng: “Trước mầu nhiệm sự dữ, cha cũng không có câu trả lời.”
Những con người tầm cỡ và hiểu biết như thế vẫn thừa nhận mình không thể trả lời hết các câu hỏi từ cuộc sống. Các ngài là những mẫu gương cụ thể cho chúng ta về đức khiêm nhường đích thực của Kitô giáo.
Như thế, theo Kinh Thánh, khiêm nhường là hạ mình xuống, nhìn nhận giới hạn của mình, tỏ ra thân thiện, tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ người khác, không tự tôn mình lên, nhưng để Chúa nâng mình lên. Khiêm nhường là con đường dẫn tới sự cao cả.
Chúng ta hãy thiết tha cầu xin Chúa giúp chúng ta biết sống đức khiêm nhường này mỗi ngày trong tương quan với Chúa và tha nhân. Amen!
.
Jos. Hồng Ân
Tin mừng thánh Luca cho thấy vào “một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người”. (Lc 14,1)
Đức Giêsu ngồi quan sát, Ngài thấy rõ những vị khách được mời, ai cũng chọn cỗ nhất, như người Việt Nam nói đó là mâm trên, là chỗ trang trọng lịch sự, dành cho những vị khách quý. Nhưng khách dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca kể lại, ai cũng muốn chọn cho mình chỗ nhất, lịch sự nhất, trang trọng nhất, cỗ ngon nhất, vì họ nghĩ chỉ có họ là người quan trọng nhất … Người Pharisêu thường hay kiêu hãnh. Họ luôn tìm vinh dự trước mặt người đời. Họ thích được chào hỏi nơi công cộng, thích được ca tụng chỗ đông người.
Thấy chướng tai gai mắt, Chúa Giêsu lên tiếng dạy họ một bài học về đời sống nhân bản, đó là phải luôn biết tôn trọng và coi người khác trọng hơn mình. Hơn nữa muốn được người khác tôn trọng mình, thì trước hết mình phải tôn trọng người khác, phải biết khiêm tốn trong mọi lãnh vực của cuộc sống, từ cung cách đi đứng, ăn mặc, cách đối xử với mọi người nhất là ở những nơi công cộng, chốn đông người: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (Lc 14, 8-9). Chúa Giêsu không dùng từ bị đuổi, Chúa dùng cách nói tế nhị hơn ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’. Đúng hơn là bị đuổi khỏi chỗ danh dự, khi đã bị đuổi xuống thì thật là xấu hổ, mất mặt với bàn dân thiên hạ, bị mọi người chê cười, lúc đó chỉ có cách tìm đến kẽ nẻ mà chui xuống lòng đất để che giấu mặt đi thôi.
Trong đời sống hàng ngày vẫn còn có biết bao kẻ kiêu ngạo tự cho mình là hơn người, tự cho mình là nhất thiên hạ. Kẻ kiêu ngạo coi trời bằng vung, coi thiên hạ bằng nửa con mắt, ăn nói khiếm nhã, ngang ngược, cư xử thiếu lễ độ. Tướng cầm quân ra trận mà kiêu ngạo tất sẽ bại bại. Những kẻ chức trọng quyền cao, những người có vàng đầy két, bạc đầy rương, ngân phiếu có hàng tỉ mà kiêu ngạo cũng sẽ bị mọi người coi thường, sẽ phải gặp cái kết đáng xấu hổ như những người được mời đi dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại, cứ chọn cỗ nhất mà ngồi để rồi bị đuổi khỏi chỗ danh dự để dành chỗ cho người quan trọng hơn mình. Thật không có cái nhục nào hơn khi bị đuổi, bị thiên hạ chê cười.
Chúa không chỉ dạy cách để khỏi bị đuổi, khỏi bị xấu hổ trước mặt thiên hạ, Chúa còn dạy cách xử thế để được mọi người tôn trọng, được vinh dự ở nơi công cộng, chốn đông người: “khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14,10-11).
Trên đời chẳng ai ưa, chẳng ai tôn trọng những kẻ sống thiếu nhân bản, kiêu ngạo, tự cao, tự đại, tự cho mình là giỏi, cho mình là hay, việc gì mình làm phải là tốt nhất, lời nói của mình lúc nào cũng hay nhất, cái gì của mình cũng đẹp nhất, chỉ có mình là nhất, mình đáng được ngồi chỗ danh dự nhất, đáng được mọi người chào hỏi nơi công cộng, thích oai, luôn hãnh diện về bản thân mình, luôn muốn thể hiện cái tôi của mình trước mặt mọi người, chạy theo cái danh hão, coi người khác chỉ là cỏ rác, là thứ bỏ đi, thấy người khác hơn mình thì khó chịu, hậm hực, nói xấu, dèm pha, dè bỉu, chê bai khích bác, tìm cách hạ uy tín của họ. Đúng như người đời đã nói: “hơn người thì kiêu, mà kém người thì ghen”.
Kẻ thù lớn nhất của con người chính là tự kiêu, tự phụ, khi con người hoàn toàn đặt niền tin tưởng vào sức mạnh của khối óc, của đôi tay mình, thì đó cũng chính là lúc nó đi vào chỗ tự hạ thấp uy tín của mình, tự huỷ diệt chính mình, tự đào hố chôn mình.
Không chỉ người đời chê ghét và xa tránh kẻ kiêu ngạo, Chúa còn ghét cay ghét đắng, vì kẻ kiêu ngạo là chống lại Thiên Chúa, Chúa diệt trừ hết phường kiêu ngạo: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Đó là lời Đức Maria đã cảnh báo con người về tính tự phụ, lòng kiêu căng, chỉ biết cậy dựa vào danh vọng, của cải và sức lực của mình, thì con người tự chuốc lấy tủi nhục, đau khổ và tuyệt vọng, như kẻ chọn cỗ nhất để ngồi, rồi bị ông chủ đuổi xuống để nhường chỗ cho người quan trọng hơn, lúc đó sẽ bị xấu hổ, bẽ mặt trước mặt bàn dân thiên hạ.
Kinh Thánh khuyên người ta có thái độ khiêm nhu trong quan hệ xã giao (x. Cn 25, 6-7), thái độ này hợp với tinh thần của Tin Mừng. Những người khiêm tốn nhận biết thân phận yếu đuối và những giới hạn của mình, biết mình chỉ là không trước mặt Chúa, nhìn nhận người khác quan trọng hơn mình, đáng được hưởng sự ưu đãi hơn mình, nên đã chọn chỗ cuối mà ngồi, khi ông chủ nhận thấy đó là người quan trọng, sẽ đến mời lên chỗ nhất, lúc ấy được vinh dự trước mặt mọi người. Vì “Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa được mời đi dự tiệc, Ngài thấy những kẻ cũng được mời cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên Chúa đã kể một dụ ngôn về việc “khi được mời đi ăn cưới đừng ngồi vào cỗ nhất…” (Lc 14, 7-11). Qua đó Chúa Giêsu dạy cho ta bài học về cách sống nhân bản, cùng cho biết tác hại của lối sống thiếu nhân bản, tính tự phụ, lòng kiêu căng. Ngài cũng chỉ cho biết giá trị đích thực đời sống nhân bản, đức “khiêm nhường”: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuông sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11).
Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tự phụ kiêu căng, luôn chạy theo tiền tài, danh vọng, địa vị, chỉ tìm tư lợi, tự coi mình là quan trọng, là giỏi, là hay, là tốt, là đẹp, khinh thường anh em đồng loại, những người nông thôn quê mùa, nhất là những người nghèo hèn, những người cô đơn tàn tật. Chúng con đã và đang tranh dành địa vị, tranh dành nhau chỗ ngồi, cãi lộn với nhau vì miếng ăn hơn thiệt. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con loại bỏ những tính mê nết xấu, lòng tự cao tự đại, nhìn nhận mình chỉ là không không trước mặt Chúa và biết tôn trọng hết thảy mọi người.
.
SỐNG KHIÊM NHƯỜNG TRƯỚC MẶT CHÚA VÀ MỌI NGƯỜI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Theo nhu cầu của các giáo phận Toà Thánh có chương trình bổ nhiệm hoặc thuyên chuyển các giám mục đến các giáo phận; các giáo phận thuyên chuyển các linh mục đến các giáo xứ hoặc nhiệm sở mới. Đây là quy định theo giáo luật và vì lợi ích mục vụ cho các cộng đoàn, vì thế đa số các linh mục đều sẵn sàng vâng theo quyết định của bề trên, dù trong lòng có rất nhiều tình cảm lưu luyến. Tuy nhiên, nhiều người đã không hiểu được sự khôn ngoan của Giáo hội khi quy định việc này, họ cho rằng cha này cha kia “bị” thuyên chuyển là do có lỗi nào đó hoặc do có vấn đề gì đó. Nhiều người đã tự xếp đặt cho rằng cha này giỏi phải ở xứ lớn, cha kia không giỏi thì được trao xứ nhỏ hoặc vào vùng sâu. Về phía các linh mục dù đang ở xứ lớn hay xứ nhỏ, dù đang thành công hay không thành công, dù được yêu mến hay không được yêu mến, khi nhận được lệnh của Giám Mục đều lên đường trong sự khiêm nhường và vâng phục. Sự vâng phục bề trên là dấu chỉ cho thấy sự khiêm nhường trong lòng và Sự khiêm nhường thực sự là dấu chỉ cho thấy đó là một tông đồ thành tâm, nhiệt tâm vì Giáo hội.
Ngày nay, nói đến việc sống khiêm nhường, nhiều người cho rằng đó là lối sống cổ điển, lạc hậu, vì con người ai cũng muốn thể hiện mình, muốn mình là người vượt trội hơn người khác, mình phải là vua, là ngôi sao nổi tiếng. Cũng vì thế mà nhiều người thể hiện sự ngông nghênh, ngạo mạn, coi thường người khác. Lối sống và suy nghĩ như thế hoàn toàn ngược với lời mời gọi sống khiêm nhường của Tin Mừng. Tuy nhiên, khiêm nhường không có nghĩa là cù lần, sống khiêm nhường không có nghĩa là sống cách nhu nhược hèn nhát, sợ sệt. Nhưng khiêm nhường là chân thành, biết nhìn nhận thật về khả năng, bổn phận của mình và làm việc với hết khả năng và trách nhiệm đã được trao phó, thành công không kiêu, thất bại không nản. Người khiêm nhường sẽ không lấy kết quả của công việc để cao ngạo tự hào tự mãn về bản thân, nhưng luôn nhìn kết quả công việc như một thành quả Chúa ban cùng với sự cộng tác giúp đỡ của nhiều người. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta biết sống khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.
Trong cuộc sống chung, người ta luôn yêu quý những con người khiêm nhường từ lời nói đến việc làm. Trong Kinh Thánh luôn cho thấy “Thiên Chúa diệt trừ kẻ kiêu căng và nâng cao ai biết sống khiêm nhường.”Bài đọc sách Huấn Ca cũng nhấn mạnh: “Con hãy làm việc trong sự nhã nhặn thì sẽ được mọi người yêu mến; Càng làm lớn con càng phải khiêm nhường thì sẽ đẹp lòng Chúa. Khi càng sống tự khiêm tự hạ, con sẽ càng được đẹp lòng Thiên Chúa.” Các lời sách Huấn Ca vừa được nhắc lại chính là lời đúc kết kinh nghiệm sống của những bậc khôn ngoan để lại cho hậu sinh. Kinh nghiệm này vẫn còn rất đúng với thời đại của chúng ta hôm nay. Chúng ta sẽ cảm thấy kính phục những người dù quyền cao chức trọng nhưng luôn sống nhã nhặn, gần gũi với hết mọi người. Ví dụ khi, chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi thấy giám đốc bước đến truyện trò, quan tâm thăm hỏi các nhân viên cấp dưới; đến nhà thờ chúng ta cảm thấy vui tươi, ấm áp khi gặp được hình ảnh gần gũi thân thiện của giám mục, linh mục, tu sĩ. Chúng ta sẽ thích gặp gỡ, nói chuyện và cộng tác làm việc với những người khiêm tốn như thế. Trái lại, khi gặp những người kiêu căng, ta thường muốn tránh xa.
Thiên Chúa là Đấng Thánh, Đấng quyền năng, ngài đã cúi xuống để nâng con người lên, đặt con người trong bàn tay của Ngài. Thiên Chúa đón nhận chúng ta như những đứa con, như người bạn, Ngài khiêm nhường yêu thương phục vụ con người. Con người chúng ta hoàn toàn lệ thuộc nơi Thiên Chúa, tất cả những gì chúng ta có đều do Thiên Chúa ban. Thiên Chúa yêu quý những kẻ khiêm nhường nhận ra thân phận thụ tạo của mình và tin tưởng trao phó cuộc đời cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Chắc chắn kẻ kiêu ngạo là người vô ơn với Thiên Chúa, là kẻ không muốn Thiên Chúa làm chủ cuộc đời của mình. Adam Eva đã mắc vào sai lầm này khi muốn tự mình quyết định cho tương lai mà không cần Thiên Chúa. Ông bà không muốn chấp nhận thân phận thụ tạo, mà muốn trở nên như thần linh ngang hàng với Thiên Chúa. Cuối cùng, kẻ kiêu ngạo thì không đẹp lòng Thiên Chúa và sẽ bị Thiên Chúa loại trừ.
Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện một người Pharisêu tổ chức bữa tiệc, ông mời nhiều khách, lúc nhập tiệc nhiều vị khách tranh giành nhau ngồi chỗ nhất chỗ nhì. Nhân dịp này Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ và cho chúng ta về lối sống khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt mọi người qua dụ ngôn: “Khi đi dự tiệc cưới anh em đừng tìm ngồi vào chỗ nhất, kẻo cũng có nhân vật quan trọng hơn anh cũng được mời. Họ sẽ đến mời anh đi chỗ khác để nhường chỗ cho nhân vật quan trọng kia. Trái lại khi được mời, anh hãy ngồi chỗ cuối để chủ tiệc sẽ đến nói với anh, mời ông lên bàn trên. Lúc đó anh sẽ được vinh dự với mọi người.” Khi kể dụ ngôn này, Chúa Giêsu không chỉ cho ta những mẹo vặt hoặc thói khôn lỏi để được lợi, được người khác ca tụng, nhưng Chúa muốn nói đến thái độ bên trong tâm hồn: Giống như người Việt Nam, Người Do Thái rất quan tâm đến hình thức bên ngoài: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp.” Họ cũng muốn được chào hỏi được tôn vinh ca tụng trước đám đông. Vì thế dẫn đến việc tranh giành chỗ nhất chỗ hơn, chỗ trọng chỗ thường theo đẳng cấp tại nơi công cộng.
Chúa Giêsu đưa ra một cái nhìn khác: Việc được tôn vinh hoặc được trọng vọng trước mặt mọi người, không hệ tại ở quần áo hoặc đẳng cấp xã hội, mà nó phát xuất từ lối sống, thái độ, từ tấm lòng của mỗi người đối với người khác. Nhưng quan trọng hơn nữa là mỗi người phải có thái độ sống như thế nào để thực sự trở nên khiêm nhường trước mặt Chúa, thì sẽ được Thiên Chúa tôn vinh: “Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Như vậy từ câu chuyện dụ ngôn về việc tranh giành chỗ trong đám tiệc, Chúa Giêsu muốn chúng ta đi xa hơn trong cách nhìn và cách sống: Điều quan trong là mỗi người luôn biết nhìn nhận cách chân thật về con người mình, nhận mình là con cái, là thụ tạo của Thiên Chúa, chúng ta cần đến Chúa. Chúng ta được mời gọi khiêm nhường để dám trải lòng ra trước mặt Chúa, trao phó cả cuộc đời cho Chúa mà không hề cưỡng lại, để cho Chúa gìn giữ và dẫn dắt. Khi dám khiêm nhường đặt mình vào vòng tay của Thiên Chúa như thế, chính Chúa sẽ nâng chúng ta lên và ban cho chúng ta vinh dự của những người thuộc về Chúa.
Thưa quý OBACE, sống trong thời buổi cạnh tranh khốc liệt, thì việc sống hiền lành và khiêm nhường luôn là một thách thức. Ước mơ trở thành nổi tiếng, được nhiều người biết đến, là một lực hấp dẫn nơi con người, vì không ai muốn mình bị chìm vào quên lãng. Nhưng vấn đề là có nhiều người khi mắc bệnh tự tôn, tự mãn hoặc khi nổi tiếng, họ dễ dàng đánh mất vẻ hiền lành khiêm tốn dễ thương của mình và khoác lên mình vẻ kiêu căng, chảnh choẹ, coi khinh người khác. Từ sự kiêu căng, tự tôn dẫn đến sự tự mãn coi mình là nhất và coi tất cả những gì mình có được được là do mình mà quên ơn Chúa và sự trợ giúp của bao người.
Trong gia đình “cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Hiền lành khiêm nhường, giúp cho vợ chồng cha mẹ, con cái dễ dàng có thể trò tuyện đối thoại với nhau. Hiền lành và khiêm nhường là một trong những nền tảng cho nếp sống đạo đức trong gia đình, là yếu tố hình thành nên nhân cách của con cái. Người Nhật có câu ngạn ngữ: “bông lúa nặng hạt là bông lúa biết cúi mình.” Người biết khiêm tốn hạ mình xuống là người có sức mạnh nội tâm và sẽ làm trổ sinh hoa trái tốt lành cho mình và gia đình. Vợ chồng, cha mẹ biết hạ mình để nói lời xin lỗi nhau, kể cả việc xin lỗi con cái, điều đó không làm hạ thấp vai trò thế giá của cha mẹ, vợ chồng, nhưng càng làm tăng thêm uy tín và vị thế của cha mẹ. Các ông chồng biết hạ mình để chia sẻ công việc của vợ thay vì yêu sách; các bà vợ biết hạ mình để phục vụ chồng, con với trái tim của người vợ người mẹ, gia đình sẽ hạnh phúc; con cái dù thành công thành đạt, biết hạ mình để phục vụ ông bà cha mẹ lúc bệnh tật già yếu, gia đình đó có phúc.
Người làm lớn biết hạ mình để quan tâm, chăm sóc cho người bề dưới; bạn bè biết hạ mình, khiêm tốn trong công việc trong sinh hoạt thường ngày sẽ đem lại niềm vui cho nhau và còn góp phần đem lại hoà bình cho thế giới. Đức Maria dù là mẹ Con Thiên Chúa nhưng Mẹ đã hạ mình chỉ nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa; Đức Giáo hoàng Phanxicô khiêm tốn quỳ xuống hôn chân các vị lãnh đạo Nam Sudan để cầu xin họ chung tay xây dựng hoà bình. Đó là những tấm gương cho chúng ta và lối sống khiêm nhường đó có sức lay động nhiều hơn lời nói.
Xin Chúa giúp chúng ta biết học nơi Chúa Giêsu, noi gương Đức Mẹ sống tự khiêm tự hạ trước mặt Chúa và mọi người để được Chúa và mọi người yêu thương, chúc lành. Amen.
.
Lm Trần Bình Trọng
Đối với người Á đông như người Do thái thời xưa thì việc ngồi chỗ cao trong bàn tiệc là điều quan trọng. Ðược một chỗ danh dự nơi bàn tiệc là một dấu chỉ mình có địa vị và có tầm ảnh hưởng.
Trong một buổi yến tiệc, người ta xếp chỗ ngồi theo cấp bậc, chức tước hay địa vị của mỗi nhân vật. Phúc âm hôm nay kể lại việc người Pharisêu mời Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà. Có lẽ đa số khách được mời đến dự tiệc là người Pharisêu vì bữa tiệc do người thủ lãnh nhóm Pharisêu khoản đãi. Phúc âm ghi lại, họ cố dò xét Ðức Giêsu (Lk 14:1). Tại sao họ lại dò xét Người? Ta có thể suy ra là họ làm như vậy để xem Chúa chọn ngồi ở đâu. Quan sát thấy thiên hạ cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, Người mới bảo họ khi được mời đi dự tiệc, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ ra có ai quan trọng hơn cũng được mời, mà phải nhường chỗ chăng? (Lc 14:7-9).
Ngày nay chỗ ngồi ở bàn tiệc đối với nhiểu người không còn là điều quan trọng, nhất là ở những xã hội dân chủ. Tuy nhiên người ta có thể dùng những mánh lới khác để tâng bốc mình, như khoe khoang, tự phụ về mình để đưa mình lên, phê bình chỉ trích người khác để hạ họ xuống. Trong Phúc âm hôm nay Chúa dạy ta bài học khiêm tốn. Khiêm tốn là một nhân đức nói lên sự thật về mình, chấp nhận những gì mình có: những khả thể, những giới hạn của mình, không tự tâng bốc, cũng không phủ nhận và chối từ. Có người định nghĩa: Khiêm tốn là khả năng chấp nhận sự thật về mình ngay cả khi sự thật làm đau lòng. Người khác lại nói: Khiêm tốn và biết mình đi đôi với nhau. Ðoán là người ấy muốn nói biết mình, nghĩa là biết về những ưu điểm và cả những khuyết điểm và giới hạn của mình, thì mới khiêm tốn được.
Người khiêm tốn là người thừa nhận mình tùy thuộc vào ân sủng và quyền năng của Thiên Chúa. Họ qui hướng lời nói và hành động về việc làm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Người khiêm tốn thì tìm làm đẹp lòng Chúa (Hc 3:18) và còn làm tôn vinh Chúa (c. 19). Người khiêm tốn khi làm việc đạo, thì nhắm tìm kiếm vinh danh Chúa, chứ không phải để trình diễn cho người khác chú ý và khen ngượi. Người khiêm tốn khi làm việc thiện và việc phục vụ không mong được đáp trả.
Người khiêm tốn là người cảm thấy mình yên ổn và an toàn trong lòng. Thiếu đức tính khiêm tốn, người ta có thể khoe khoang tự phụ về tài năng, của cải mình có. Người khiêm tốn biết mình có thể làm được những gì, và những gì mình không làm được. Không có lòng khiêm tốn, người ta có thể ghen tuông, khó chịu khi thấy người khác có tài hơn, được giàu sang phú quí hơn, hay được ca tụng hơn. Thiếu đức khiêm tốn, người ta sẽ buồn lòng, bực bội khi có người nói về khuyết điểm của họ. Sớm hay muộn, tính ghen tuông và bực tức có thể bộc phát ra bằng tội ác, làm điều có hại cho người khác như Cain đã sát hại em mình là Aben (St 4:8).
Người khiêm tốn là người sống trung thực với lòng mình. Họ nhận ra điểm xấu củng như điểm tốt nơi mình. Khiêm tốn không phải là tự tâng bốc, hay thổi phồng những của cải tài năng của mình, cũng không phủ nhận những tài năng mình có. Người khiêm tốn là người biết đánh giá tài năng và ưu điểm Chúa ban, những việc lạ lùng Chúa đã làm trong đời mình. Khi người ta giả vờ cho rằng mình là vô dụng và không đáng là gì, có thể chỉ là khiêm tốn giả. Khiêm tốn thật là nhận ra những ân huệ và tài năng của Chúa đã ban cho mình để rồi sống trong tâm tình cảm tạ..
Ðó là điều mà trinh nữ Maria đã làm khi nhận ra những việc vĩ đại Chúa đã làm nơi mình mà không làm mất đức khiêm tốn. Vào trước thời Chúa cứu thề giáng sinh, nhiều phụ nữ Do thái mơ ước được làm mẹ đấng cứu thế. Còn trinh nữ Maria thì lại khấn hứa giữ mình đồng trinh ngay cả khi thiên thần truyền tin là bà sẽ thụ thai và sinh con. Thiên Chúa thấy lòng khiêm tốn của trinh nữ và đã chọn trinh nữ làm mẹ Ðấng cứu thế. Trong lời kinh Ngợi khen: Magnificat, trinh nữ nhận ra những việc vĩ đại Thiên Chúa đã làm nơi mình khi đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ của mình. Lời kinh Ngợi khen đã là đề tài cho bao người suy gẫm và chiêm niệm và là nguồn cảm hứng và ủi an cho muôn người từ cổ chí kim, nhất là người có lòng khiêm tốn, mặc dầu họ học cao hiểu rộng, và người có tinh thần nghèo khó mặc dầu họ được giầu sang phú quí.
Chúa Giêsu đến làm đảo ngược những giá trị của loài người. Trong Phúc âm hôm nay Chúa dạy: Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (Lc 14:11). Các thần dữ vì bất phục tùng Thiên Chúa nên đã bị tống ra khỏi trời (Kh 12:7-9). Ađam và Evà bị đuổi ra khỏi vườn Ðịa đàng vì tội sa chước cám dỗ của quỉ mà không vâng lời Thiên Chúa (St 3). Kiêu ngạo và tự phụ là con đường cụt, không đưa người ta tới đâu, mà còn dẫn đến huỷ hoại. Có bao giờ ta khoe khoang mạo nhận, rồi đêm nằm khi chưa ngủ được, vắt tay lên trán suy nghĩ, mà cảm thấy lòng mình trống rỗng và hổ thẹn với mình không? Hổ thẹn là bước đầu để chống trả tính kiêu ngạo.
Chính Chúa đã dạy loài người bài học khiêm tốn. Người là Thiên Chúa mà đã hạ mình, mặc lấy thân phận làm người để cứu chuộc loài người và mời gọi ta đến và học cùng Người vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (Mt 11:24). Rồi Chúa còn dạy ta phục vụ cách vị tha, thay vì muốn được đáp trả, nên mới bảo các môn đệ khi đãi tiệc, thì: Mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và mù loà (Lc 14:14) vì họ không có khả năng mời lại.
Lời cầu nguyện xin cho được học bài học khiêm tốn:
Lạy Ðức Giêsu, Chúa trời đất!
Vì yêu thương nhân loại tội lỗi,
Chúa đã khiêm hạ mặc lấy thân xác loài người
để cứu chuộc và phục vụ nhân loại.
Xin tha thứ những lần con tỏ ra ích kỉ
bằng cách chọn chỗ tốt và phần tốt cho mình.
Xin dạy con biết quên mình trong việc phục vụ
để cho danh Chúa được tỏ hiện. Amen.
.
KITÔ HỮU SUY NGHĨ VỀ NHÂN ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Hc 3:17-18, 20, 28-29; Dt 12:18-19, 22-24a; Lc 14:1, 7-14)
Lời Chúa hôm nay không nói với chúng ta về những mầu nhiệm hoặc những điều cao cả, mà trình bày cho chúng ta hiểu về một nhân đức làm nền tảng cho việc tập luyện các nhân đức khác, đó là đức khiêm nhường. Sách Huấn ca trong loạt sách khôn ngoan nhắn nhủ ta xác tín sự cần thiết của đức khiêm nhường, nhất là khiêm nhường để làm đẹp lòng Chúa. Còn tác giả thư gửi tín hữu Do-thái thì mong mỏi chúng ta hãy xác tín thân phận nhỏ mọn của mình khi “tới cùng Thiên Chúa” và “tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giê-su”. Sau cùng, nhân dịp đến dự tiệc tại nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu và quan sát thấy khách dự tiệc tranh dành nhau chỗ ngồi cao, Chúa Giê-su dùng một dụ ngôn để dạy họ một chân lý: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Đầu tiên là lời tác giả sách Huấn ca nhắn nhủ chúng ta tại sao phải sống đức khiêm nhường. Mọi việc chúng ta làm đều nhắm mục đích tôn vinh Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người. Nếu thực sự nhắm mục đích này, thì ta phải “hoàn thành việc của ta một cách nhũn nhặn”. Ta càng nhũn nhặn, tức là càng khiêm nhường, thì mục đích mọi việc làm của ta càng rõ ràng hơn, tức là càng biểu lộ được tâm ý duy nhất của chúng ta là phụng sự Chúa thay vì tìm vinh dự cho bản thân mình. Sách Huấn ca còn giải thích rõ ràng đức khiêm nhường giúp ta tôn vinh Chúa như thế nào. Như chúng ta biết, quyền năng Thiên Chúa bao giờ cũng lớn lao và cách thức Thiên Chúa biểu lộ quyền năng ấy thì muôn hình vạn trạng, thí dụ qua công cuộc tạo dựng. Mỗi loài thụ tạo là một cách biểu lộ quyền năng của Người. Thụ tạo và Thiên Chúa là hai thái cực: thụ tạo càng tỏ ra nhỏ mọn yếu kém thì quyền năng Thiên Chúa càng cao cả. Chính vì thế, thánh Phao-lô đã học được chân lý này khi ngài quả quyết rằng chính lúc ngài nhận mình yếu đuối là lúc sức mạnh Thiên Chúa được tỏ hiện (2 Cr 12:10).
Nếu sách Huấn ca nói đến đức khiêm nhường như một đạo lý, thì giờ đây chính Chúa Giê-su là Đấng đã hạ mình xuống làm người phàm sẽ dạy chúng ta biết thế nào là khiêm nhường đích thực. Cơ hội để Chúa giảng dạy về đức khiêm nhường là khung cảnh một bữa tiệc. Chúa Giê-su cũng là một trong số khách mời của chủ nhà là một thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu. Trước cảnh “khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi” tạo ra sự ồn ào hỗn độn, Chúa Giê-su không ngại dùng một câu chuyện để dạy họ bài học về đức khiêm nhường: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất… Trái lại, hãy ngồi vào chỗ cuối”. Tại sao thế? Để tránh trường hợp khi có người quan trọng hơn mình đến thì mình sẽ “bị mời” xuống dưới; còn khi mình thực sự là quan trọng thì chủ nhà sẽ mời mình lên trên. Chắc chắn ở đây Chúa Giê-su không có ý dạy chúng ta một “mánh khóe”, nhưng Người chỉ muốn mỗi người hãy thành thực nhận biết giá trị đích thực của mình. Khiêm nhường là nhìn nhận mình thực sự là ai, không tô son vẽ phấn cho mình và cũng không “giả vờ” chối nhận những gì mình có hay mình là. Trong câu chuyện đi ăn cưới mà Chúa Giê-su đã kể, Người bảo chúng ta đừng ngồi vào cỗ nhất, nói khác đi, đừng cho mình là cao nhất hoặc cao hơn mọi người. Đúng vậy, chúng ta thông minh tài giỏi, nhưng chắc chắn có người còn thông minh tài giỏi hơn chúng ta. Khi Đức Phanxicô trả lời câu hỏi “Gorge Mario Bergoglio là ai?”, ngài không ngần ngại nói: “Tôi là một kẻ tội lỗi”. Đức Giáo Hoàng không giả vờ, nhưng ngài nhìn nhận con người đích thực của ngài trước mặt Chúa, chứ không đặt địa vị giáo hoàng của ngài lên trên mọi người. Ngài đã lấy Chúa làm tiêu chuẩn để nhận định về giá trị đích thực của ngài. Đó cũng là tiêu chuẩn mà Chúa Giê-su đã nêu lên khi Người khẳng định: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Hoặc chúng ta sẽ hiểu ý của Chúa Giê-su như thế này: Ai tôn mình lên trên cả Thiên Chúa, người ấy sẽ bị hạ xuống; còn ai thú nhận trước mặt Chúa rằng mình là kẻ tội lỗi đáng thương và mong được tha thứ thì sẽ được Chúa đoái thương tha thứ.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Nhờ những lời chỉ dạy của sách Huấn ca cũng như những lời giảng của Chúa Giê-su về đức khiêm nhường, chúng ta biết rõ “tôi là ai?”. Nhưng làm thế nào để sống điều mình biết thì quan trọng hơn. Đoạn trích thư Do-thái cho Ki-tô hữu chúng ta một lối sống khiêm nhường tuyệt vời. Tất cả chúng ta đều được diễm phúc “tới núi Xi-on, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống”, để gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, và gặp gỡ vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giê-su. Nói khác đi, chúng ta được ân huệ làm con cái Thiên Chúa và làm một thành phần trong số “đàn em đông đúc” của vị Trưởng Tử nhân loại mới là Chúa Ki-tô. Nếu đã là một ân huệ thì đâu phải do giá trị của cá nhân chúng ta, nhưng hoàn toàn do lòng quảng đại và tình thương của Chúa. Đến đây, tác giả thư Do-thái bảo chúng ta hãy nhìn lên trời, nơi có các thiên thần, các thánh nam nữ, các người công chính đã được nên hoàn thiện, để nhận biết mình là thụ tạo, là kẻ tội lỗi, là kẻ hèn mọn… mà sống sao xứng với tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhất là ta hãy sống theo linh đạo của Mẹ Ma-ri-a: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”.
.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1 – Câu khai mào (14,1) nói lên không gian và thời gian câu chuyện, dù rất mơ hồ. Chúa Giêsu là khách được một người biệt phái mời. Chủ đề Chúa Giêsu được mời là nét tiêu biểu, đặc thù của Lc. Ta thường gặp các cảnh tả về bữa ăn, thường đi liền với các cuộc đối thoại đang khi ăn uống, trong phúc âm Lc (7,36tt; 10,38tt; 11,37tt; 14,1tt; 19,1tt; 22,7-38). Vả lại chủ đề yến tiệc là một thể văn Hy lạp, nên các độc giả Lc rất quen. Chúa Giêsu vào nhà “một thủ lãnh biệt phái”. Điều này giả thiết Chúa Giêsu đã được mời, dù không thấy đề cập đến trình thuật. Người biệt phái được gọi là “thủ lãnh” vì ông có nhiệm vụ điều khiển trong nhóm biệt phái. Thực vậy nhóm biệt phái có nhiều vị chỉ huy lãnh đạo (x.Flavius Josèshe, Ant. XV, 10,4). Theo Lc, Chúa Giêsu thường được mời đến nhà các người biệt phái (7,36; 11,37; 14,1). Ông cũng ghi lại việc người biệt phái lưu ý Chúa Giêsu đề phòng các âm mưu của Herôđê (13,31-33). Vì thế có nhiều điểm cho thấy thái độ Chúa Giêsu đối với nhóm biệt phái không nhất thiết là tiêu cực. Chúa Giêsu cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ cho họ.
2 – Bữa tiệc có kèm một diễn từ dạy khôn ngoan. Chúa Giêsu ngỏ lời với các người được mời dự tiệc bằng một “dụ ngôn”, một bài học rút từ kinh nghiệm sống. Chữ “dụ ngôn” (parabolê, theo bản 70 cùng nghĩa với chữ Hy bá: mashal) chỉ một giáo huấn gián tiếp: so sánh diễn từ dạy khôn ngoan và châm ngôn (sách châm ngôn, mang tựa đề bằng tiếng Hy bá là “mashal de salomon” misheley Shêlômô). Chúa Giêsu nói như sư phụ dạy khôn ngoan.
Khách khứa đến và ngồi vào bàn. Khi ăn đại tiệc, người ta nằm dài dựa trên gối. Chúa Giêsu quan sát khách đến. Họ tìm cách chiếm chỗ nhất. Đó là những người ngồi gần chủ nhà nhất. Gối được xếp hàng ba. Chỗ danh dự thì ở hàng đầu hay ở gối giữa. Thì impafait của động từ (ils choisissaent: họ đang chọn) nói lên toan tính và qua đó diễn tả một ước muốn mãnh liệt và tham lam, tranh đoạt chỗ nhất. Thời Chúa Giêsu, thứ tự chỗ ngồi được xác định căn cứ vào thanh danh của thực khách, mà thanh danh lại tùy thuộc vào chức phận và sự giàu có. Người biệt phái ưa tìm danh lợi: các chỗ nhất trong hội đường (Lc 11,43; 20,46; Mc 12,38) và trong các yến tiệc (Lc 20,46; Mt 23,6; Mc 12,38), thích được chào ở các quảng trường (Lc 12,46 và song song). Họ xác tín là họ có quyền được danh dự: vì danh dự đòi phải phát xuất từ lề luật mà họ là những nhà đại biểu.
Chúa Giêsu ngỏ lời với các người được mời. Ngài trình bày cách khôn khéo không đụng chạm ai, không làm tổn thương hay mất lòng ai, theo kiểu dạy đời, giải thích nghi vấn, theo lối văn chương khôn ngoan: “Khi có ai mời ngươi…”. Chúa Giêsu nói lên một qui luật khôn ngoan. Đi dự tiệc mà chiếm chỗ nhất là không khôn ngoan chút nào, nhỡ có người đến sau trọng vọng hơn thì sao! Các nhân vật quan trọng thường đến vào phút chót! Chủ nhà và người xếp chỗ phải dành chỗ nhất cho nhân vật quan trọng đó. Còn người đã chiếm chỗ nhất cho nhân vật quan trọng đó. Còn người đã chiếm chỗ nhất đó bây giờ phải xuống chỗ rốt hết, vì các chỗ kia đã đầy người rồi. Thật là mất mặt! Vì vậy phải khôn ngoan mà ngồi chỗ chót trước; bấy giờ ngươi mới được hân hạnh trước mắt mọi người biết mấy, nếu chủ nhà chỉ cho ngươi chỗ cao hơn.
Điều Chúa Giêsu nói đây là một qui luật thường tình, một châm ngôn đã có lâu trong nhân gian. Sách châm ngôn viết: “Trước mặt vua, ngươi chớ làm bộ bệ vệ, đừng ngồi vào chỗ các quan lớn; được người ta mời: “Hãy lên đây” tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt bá quan” (Cn 25,6-7; Si 7,4; 13,9-100. Các luật sĩ đã chấp nhận luật ngồi bàn đó bằng những lời: “Hãy ngồi tụt xuống hai hay ba cấp dưới chỗ ngươi đáng ngồi, để người ta mời: “hãy ngồi lên” hơn là “đi xuống dưới ngồi” (Lv.r.1,5). Luật Rabbi này, do thày rabbi Shimon ben azzai (khoảng năm 110 sau J.C) chấm dứt bằng một câu tương tự với câu 11: “Và Hillel (năm 20 trước J.C) nói thế này: Khi tôi hạ mình xuống là lúc tôi được nâng lên, lúc tôi tự nâng mình lên là lúc bị hạ xuống”.
Dụ ngôn về việc chọn chỗ ngồi được chú giải bằng một câu được ghi trong truyền thống các phúc âm khi thì ở chỗ này, lúc ở chỗ khác, nên được xem là một “logion lang thang” (Mt 23,12; Lc 18,14), nhưng ở đây câu này cũng rất xác đáng. Đây là một câu có hai vế phát xuất từ môi trường Do thái, ta biết điều đó là nhờ việc tên Thiên Chúa được thay thế bằng thể passif divin (“sẽ bị hạ xuống”, “sẽ được nâng lên”). Câu đó phát xuất từ kinh nghiệm về các hoạt động của Thiên Chúa đối với dân Ngài: “Cái gì thấp sẽ được nâng lên, cái gì cao sẽ bị hạ xuống” (Ez 21,13; x. Lc 1,52, Tv 147,6). Câu đó hứa đảo lộn địa vị, và lượng giá hoàn toàn khác với cách lượng giá của loài người. Trong phúc âm nhất lãm, vì câu này luôn luôn xuất hiện trong các cuộc tranh luận với người biệt phái, nên hình như Chúa Giêsu đã dùng câu đó như là lời đe dọa nhóm biệt phái.
Trong dụ ngôn này, câu đó đưa luật xử thế khôn ngoan mà Chúa Giêsu vừa dạy, lên ngang bình diện lời Chúa Giêsu rao giảng về nước Thiên Chúa. Lời tiên tri loan báo việc hạ xuống và nâng lên sẽ được thực hiện khi Nước Thiên Chúa đến. Cũng như câu thứ hai về bữa ăn (cc. 12-14) chấm dứt bằng một lời hứa cánh chung thì câu thứ nhất cũng muốn qui hướng chúng ta về hoạt động cánh chung của Thiên Chúa.
Luật chọn chỗ ngồi trong bàn ăn dùng để nói lên một điều kiện gia nhập Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã quả quyết phải trở nên bé nhỏ, khi Ngài đòi buộc những ai muốn vào Nước Thiên Chúa phải hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ (Mt 18,4). Việc hoán cải đích thực, có khả năng mở nước Thiên Chúa, chỉ có thể có được khi con người tự nhận là hèn kém, bé bỏng trước mặt Thiên Chúa (Lc 17,10; 18,10-14). Thái độ đối nghịch với lòng hoán cải là tự cho mình là người công chính và trổi vượt hơn kẻ khác. Do đó Chúa Giêsu đã dùng một ngạn ngữ có từ thời xưa, được người đồng hương biết, để rao giảng về nước Thiên Chúa.
3 – Người mời các thực khách cũng được nhắc đến. Nhưng lời nói của ông ta không còn được gọi là “dụ ngôn” nữa. Chúa Giêsu đề xuất một chân lý dưới dạng thức mệnh lệnh (sous forme d’impératif), nói lên một chỉ dẫn và khuyến cáo về một hoàn cảnh cụ thể. Lời chỉ dẫn cho chủ nhà có tính cách bắt buộc. Còn lời khuyến cáo thì tế nhị hơn. Chúa Giêsu nói cách tổng quát, không nói đến bữa ăn trước mắt, nhưng là một bữa ăn trưa hay bữa ăn tối nào đó không rõ. Quả thực, chủ nhà không chỉ mời bạn hữu, bà con và các người giàu có mà cả Chúa Giêsu, và có lẽ cả các môn đệ Ngài nữa; Chúa Giêsu lại phán dạy như thày dạy khôn ngoan.
Bữa ăn là biểu thức của một tình yêu hào phóng. Chủ nhà không chỉ mời các thân bằng quyến thuộc như bạn bè, bà con, đồng nghiệp. Những người này sẽ có thể mời và sẵn lòng mời lại ông. Tuyệt đối không nên mời và đừng bao mời để được mời lại, cho để được cho lại. Phải cho mà không hy vọng nhận lại (Lc 6,35). Bữa ăn phải biểu hiểu một tình yêu vô vị lợi chứ không phải một tình yêu đòi đáp trả.
Vế tích cực theo liền vế tiêu cực của phép song ngẫu. Phải mời kẻ ta không hy vọng được họ mời lại. Các người được mời do đó sẽ là “người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”; có lẽ các người bệnh tật, què quặt, đui mù là hình ảnh đặc thù của giới nghèo: thực sự họ là những người nghèo khổ. Đó là ba hạng người bị các người “đạo đức” Israel khinh chê. Họ không được tham dự các nghi lễ trong đền thờ (2S 5,8 bản 70; x. Lv 21,18). Luật cấm tế tự này vẫn còn hiệu lực trong cộng đoàn Qumrân.
Chúa Giêsu đã lưu tâm và đặc biệt yêu thương chính những người nghèo hơn hết các người nghèo đó. Họ không thể đáp trả ân huệ đã nhận. Chính Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp họ, khi bắt đầu trât tự mới. Ở đây cũng thế, thể văn thụ động (passif) thay thế tên Thiên Chúa. Ai làm ơn cho những người nghèo không thể đáp trả đó, được gọi là người có phúc, vì Thiên Chúa sẽ trả công cho họ.
Lời khuyến cáo chấm dứt bằng câu nhắc đến các biến cố thế mạt. Trong dụ ngôn các người được mời, việc nâng lên được hứa ban cho những người công chính; ở đây họ được hứa sẽ được sống lại. Trên kia đường phải đi là sự hạ mình xuống, ở đây thì phải tỏ ra bất vụ lợi. Lời hứa chỉ nhắm đến việc “phục sinh các người công chính”. Chính Lc thấy trước mọi người sẽ sống lại: “Các người công chính cũng như các người tội lỗi sẽ sống lại (Cvsđ 24,15). Ông quả quyết “người chết sẽ sống lại” (Lc 20,35). Do đó đừng hiểu kiểu nói: “các người công chính sẽ sống lại” trong nghĩa độc hữu (sens exclusif). Có thể đây là một kiểu nói cựu truyền, liên hệ với niềm hy vọng vào sự phục sinh của các người công chính (Tv Sal.3,11; Hénoch 91,10 Test.XII Benj. 10 et passim)
Qui luật thứ hai về các bữa ăn cũng không phải chỉ là lời chỉ dẫn về việc ăn uống, mà còn nhắm đến thế mạt, đến sự xuất hiện của nước Thiên Chúa và một trong các ân huệ cứu rỗi mà Nước Thiên Chúa đem đến là việc “các người công chính sẽ phục sinh”. Tình yêu mong đáp trả sẽ không hy vọng được tưởng thưởng khi nước Thiên Chúa đến. Lời khuyến cáo được đưa ra ở đây có cùng giáo huấn với diễn từ trên núi (Lc 6,32-35).
KẾT LUẬN
Người biệt phái bị khiển trách vì hai thói xấu: danh vọng và tham lam (x.Lc 20,46-47); chính vì chống họ mà Chúa Giêsu đưa ra các qui luật về ăn uống liên hệ đến đức khiêm nhượng và bác ái vô vị lợi. Danh vọng và tham lam sẽ bị xét xử nghiêm khắc, còn ai sống khiêm nhượng và bác ái có thể mong chờ đến ngày được tham dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Chúa Giêsu, trong bản tính và sứ mạng Ngài, đã sống tinh thần khiêm nhượng tự hạ, là tinh thần mà hôm nay Ngài công khai giảng dạy. Bỏ chỗ nhất để ngồi chỗ rốt hết, đó chính là ý nghĩa việc ngài nhập thể, như ca thi gởi tín hữu Philipphê: “Phận là phận của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài không nghĩ phải phải dành cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa, trái lại Ngài đã hủy bỏ chính mình đi, lãnh lấy thân phận tôi đòi… đã tự hạ mình xuống làm một người vâng phục cho đến chết” (Ph 2,6-8). Khi sống như thế, Chúa Giêsu không vong thân; trái lại, đã tự biểu lộ như là “người của mọi người”. Ngài là người của mọi người, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi chiếm chỗ rốt hết bằng việc nhập thể, khi ngồi cùng bàn với các người bị khinh dể, khi bị giết như một tên bất lương, Chúa Giêsu là: tình yêu đối với Chúa Cha và đối với mọi người.
- Nhưng sự tự hạ mà Chúa Giêsu giảng dạy không bao giờ đồng nghĩa với sự chìu lụy bệnh hoạn vì sợ người khác hay vì ghét mình. Sự tự hạ mình phải là một lựa chọn hoàn toàn tự do, như Chúa Giêsu đã chọn lựa, trong tinh thần phục vụ và yêu thương.
- “Nhìn kẻ khác như trổi vượt hơn mình” (Ph 2,3) không phải là so sánh với họ, nhưng là xem họ đáng được người đời và Thiên Chúa lưu ý hơn chúng ta. Chính khi quên mình như thế, tình yêu trong chúng ta mới có giá trị và triển nở thực sự. Tình yêu tự nó đã là một phần thưởng.
- Chướng ngại vật lớn nhất thường ngăn cản chúng ta tiếp nhận kẻ khác, là hàng rào xã hội. Chúng ta tự nhiên có khuynh hướng xem những người nghèo hơn chúng ta như thuộc về một giai cấp xã hội khác. Phúc âm đến làm nổ tung mọi hàng rào chia rẽ người với người; Đức Kitô đã triệt hạ một lần thay cho tất cả “các tường ngăn thành chắn” (Eph 2,14) để rồi “không còn phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do nữa” (Gal 3,28)
- Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh thể, dù chúng ta không có công trạng gì. Chúng ta đều được mời tất cả, không phân biệt chủng tộc, phái tính, tuổi tác hay địa vị xã hội. Đức Kitô đã hiến thân để trở nên mọi sự cho mọi người.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 22 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Chúa Nhật XXII Thường Niên năm C mời gọi chúng ta gẫm suy về “đức khiêm tốn”.
Hc 3: 17-21, 30-31
Bài Đọc I, trích từ tác phẩm của hiền nhân Ben Xi-ra, là lời khuyên thực hành đức khiêm tốn, đó là con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Dt 12: 18-19, 22-24
Thư gửi tín hữu Do thái nêu bật sự tương phản giữa Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới. Trong Giao Ước Cũ, Thiên Chúa tỏ mình ra trong khung cảnh kinh thiên động địa. Trong Giao Ước Mới, Thiên Chúa hành động trong nội tâm, tất cả đều xảy ra trong trật tự tinh thần; đây là con đường khiêm hạ này dẫn đến thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Lc 14: 1, 7-14
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đưa ra bài học về đức khiêm tốn trong một bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh người Pha-ri-sêu khi Ngài ngỏ lời với các vị khách mời.
BÀI ĐỌC I (Hc 3: 17-21, 30-31)
Ông Ben Xi-ra, một bậc vị vọng thành Giê-ru-sa-lem và là một hiền nhân, sống vào cuối thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông ghi lại giáo huấn và kinh nghiệm của ông vào năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau đó, tác phẩm của ông được người cháu trai của ông dịch sang tiếng Hy-lạp.
- Ý hướng của Tác Phẩm
Sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-325 trước Công Nguyên), vùng Cận Đông mở cửa đón nhận văn hóa Hy-lạp. Miền Pa-lét-tin không tránh khỏi trào lưu này (nhất là vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên). Những môi trường của giới quý tộc Giê-ru-sa-lem cũng như vài giáo sĩ cho thấy sẵn lòng đón nhận ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Ben Xi-ra không phải không nhạy bén với tư tưởng Hy-lạp, ông biết trường phái triết học Khắc Kỷ, nhưng ông tiên cảm một mối nguy hiểm đối với Do thái giáo. Ông để hết tâm trí vào việc phục hưng những giá trị truyền thống. Theo ông, sự khôn ngoan đích thực là sự khôn ngoan của dân Ít-ra-en, vì Thiên Chúa là mẫu mực khôn ngoan của dân Ngài và Lề Luật là cách thức diễn tả sự khôn ngoan của Ngài.
Sách của hiền nhân Ben Xi-ra là loại cẩm nang thực hành cho người Do thái trung thành. Sách chứa đựng những lời khuyên cho cuộc sống hằng ngày. Tất cả mọi đề tài đều được đề cập đến. Trong đoạn trích hôm nay, đề tài được bàn đến là đức khiêm tốn. Đây là một đức hạnh tiêu biểu Kinh Thánh, mà người ta không gặp thấy ở nơi nền luân lý ngoại giáo.
- Ca ngợi đức khiêm tốn
Ông Ben Xi-ra ngỏ lời với môn đệ của mình, hiện tại hay trong tương lai, như một người cha với đứa con của mình: “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách khiêm tốn”. Đây là cách xưng hô quen thuộc của thầy đối môn đệ của mình được xem như đứa con tinh thần của mình.
Đây không là lòng quý mến dành cho đức khiêm tốn một cách trừu tượng, nhưng lời khuyên thực hành nhân đức này, việc thực hành phải thấm đẫm mọi hành vi của cuộc sống. Sách Châm Ngôn cũng được điểm xuyến bằng những lời khuyên tương tự, không kể đến các Thánh Vịnh, sách Gióp, vân vân. Xa hơn nữa, ông Mô-sê đã được ca ngợi như là “một con người rất đỗi khiêm nhu, không ai như thế trong mọi người có trên mặt đất” (Ds 12: 3). Mặt khác, ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã tiên báo rằng Đức Chúa hành động theo chiều hướng này: “Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa các ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nơi nương ẩn nơi danh Đức Chúa” (Xp 3: 11-12).
- “Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”
“Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”, có nghĩa “con sẽ được sủng ái trước nhan Thiên Chúa”. Cách nói Kinh Thánh kinh điển này sẽ được củng cố trong Tin Mừng hôm nay khi gia chủ nói với người ngồi rốt hết: “Xin mời ông bạn lên chỗ trên cho”.
- Lên án thói kiêu ngạo
Tiếp đó, tác giả cho thấy rằng thói kiêu ngạo dẫn đến thảm họa. Lời kết án chỉ được gói gọn trong một câu: “Thảm trạng của người kiêu căng thật vô phương cứu chữa, vì sự ác đã đâm rễ vào lòng họ”. Hình ảnh thật mãnh mẽ: thói kiêu ngạo đã nhiễm độc kẻ ấy tận căn rồi, không tài nào có thể cứu chữa được.
- Đức khiêm tốn: biết lắng tai nghe
“Ước nguyện của hiền nhân là biết lắng tai nghe” như lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn, vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái” (1V 3: 9). Suy cho cùng, thái độ này là thái độ khiêm tốn, thái độ lành thánh, vì nó dẫn đến việc gẫm suy và học hỏi sự khôn ngoan.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 18-19, 22-24a)
Bản văn này là đoạn trích dẫn cuối cùng thư gửi tín hữu Do thái trong Phụng Vụ Chúa Nhật năm C này. Tác giả ngỏ lời với những Ki-tô hữu gốc Do thái, những người này luyến nhớ những buổi phụng tự hoành tráng và uy nghi của Giao Ước Cũ khi so sánh với các nghi thức Ki-tô giáo quá giản dị. Tác giả khuyên họ bằng những lời lẽ đầy hình tượng. Trong một bức tranh rất đối xứng, ông sẽ đối lập những nét đặc trưng giữa Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới.
- Phẩm chất của người Ki-tô hữu thuộc trật tự tinh thần
Tác giả phác họa bức tranh bộ đôi tương phản giữa dân Giao Ước Cũ tiến đến núi Xi-nai hữu hình và dân Giao Ước Mới tiến đến thành đô Thiên Chúa hằng sống là Giê-ru-sa-lem thiên quốc. Việc gia nhập vào Tân Ước qua việc hoán cải thuộc trật tự tinh thần, và phép Rửa biến đổi con người từ phàm nhân sang con cái Thiên Chúa cũng hoàn toàn thuộc nội tâm.
- Khía cạnh trần thế của Giao Ước Cũ
Giao Ước Cũ được ký kết trên núi Xi-nai giữa những dấu chỉ khả giác và trong khung cảnh kinh thiên động địa: lửa, sấm chớp, mây mù, bóng tối, giông tố trong tiếng kèn vang dậy và tiếng thét gào đến nổi con cái Ít-ra-en phải kinh hoàng sợ hãi đến mức hồn xiêu phách lạc.
- Khía cạnh thiên quốc của Giao Ước Mới
Núi Xi-nai đối lập với núi Xi-on, núi này cũng là nơi Thiên Chúa ngự, nhưng là thành đô thiên quốc với muôn vàn thiên sứ.
Dân của thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc sống trong bầu khí hân hoan chứ không trong tâm trạng run rẩy sợ hãi: “Anh em đến dự hội vui giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”. Diễn ngữ: “những kẻ đã được ghi tên trên trời”, là hình ảnh Kinh Thánh Cựu Ước (Xh 32: 32; Is 4: 3; Đn 12: 1; Tv 69: 29), được sách Khải Huyền lấy lại dưới tên gọi “Sổ Trường Sinh” (Kh 3: 5; 13: 8, vân vân). Thuật ngữ “con đầu lòng” ở Ít-ra-en hàm chứa những người được hưởng những đặc quyền và được thánh hiến cho Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Ki-tô giáo, con đầu lòng tuyệt hảo là Đức Ki-tô. Chính ở nơi Ngài mà “những người công chính đã được nên hoàn thiện” được dự phần vào những đặc quyền của Ngài. Để chỉ cuộc hội tụ các thánh này, tác giả sử dụng từ Hy-lạp “Ekklesia”, nghĩa là những người được tuyển chọn tức Giáo Hội thiên quốc, Giê-ru-sa-lem trên trời.
Đó là bức tranh mà tác giả phác họa nhằm gửi đến các Ki-tô hữu gốc Do thái này mà đức tin của họ đang chao đảo, thậm chí có vài người có ý định quay trở lại quá khứ xưa kia. Đức Giê-su Ki-tô là đích điểm mà họ tiến đến. Khi trở thành người Ki-tô hữu, họ tiến bước về Chúa Ki-tô, Đấng Trung Gian của Giao Ước Mới và Ngài sẽ dẫn họ về Thiên Chúa, “Đấng xét xử mọi người”.
TIN MỪNG (Lc 14: 1, 7-14)
Thánh Lu-ca là vị tác giả Tin Mừng duy nhất kể ra ba lần những người Pha-ri-sêu mời Chúa Giê-su đến nhà mình dùng bữa (Lc 7: 35; 11: 27; 14: 1-14). Vì thế, chúng ta nhận ra rằng những người Pha-ri-sêu mở rộng cửa đón tiếp Chúa Giê-su để cố hiểu Ngài hơn. Chúng ta đã có dịp đọc một trong ba câu chuyện này rồi, đó là tại nhà một người Pha-ri-sêu ở đó đã diễn ra tình tiết về một người phụ nữ tội lỗi được thứ tha (Chúa Nhật XI).
Chúa Giê-su của Tin Mừng Lu-ca là Chúa Giê-su của mọi người, Ngài sẵn sàng đến với mọi người, dù chống đối hay dò xét Ngài, để hy vọng đưa họ về đường ngay nẻo chính. Vì thế, Chúa Giê-su thường không bỏ lỡ những cơ hội như vậy để gửi đến cho những người Pha-ri-sêu những bài học nhớ đời, vừa mang tính xã hội vừa đầy ý nghĩa tôn giáo.
- Một ngày sa-bát
Vào ngày sa-bát, phụng vụ trong hội đường diễn ra vào ban sáng. Bữa ăn trưa, thường long trọng, được định vị sau phụng vụ tại hội đường. Vào dịp này, một viên trưởng hội đường long trọng đón tiếp Ngài. Những khách được mời rất đông. Chúa Giê-su quan sát thái độ của họ. Chính những khách mời này mà Ngài ngỏ lời trước tiên về đức khiêm tốn: hãy khiêm tốn chọn chỗ ngồi cho mình trong bàn tiệc để sau này được Chúa sắp chỗ trong Nước Trời. Tiếp đó, Ngài quay về gia chủ để cho ông một lời khuyên Đức Ái về việc mời người dự tiệc trong hoàn cảnh xã hội cụ thể ở đó có những người bất hạnh.
- Bài học về đức khiêm tốn
Chúa Giê-su lên tiếng như một hiền nhân. Ngài nhắc lại đạo xử thế của các khách mời dự tiệc. Sách Châm Ngôn đã dạy đạo xử thế này theo cùng một cách tương tự: “Trước long nhan đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: ‘Xin mời ông lên trên!’ còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25: 6-7).
Chúa Giê-su trực tiếp nhắm đến thái độ của khách mời dự tiệc, nhưng gián tiếp nhắm đến thái độ của những người Pha-ri-sêu mà Ngài quở trách “ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Lc 20: 46). Từ đó, Chúa Giê-su rút ra một câu kết luận: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Trong Tin Mừng Lu-ca, Chúa Giê-su cũng sẽ lập lại lời cảnh báo này khi kết thúc dụ ngôn về người Pha-ri-sêu và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện (Lc 18: 14).
Đây là câu kết luận của bài học về đức khiêm tốn trên bình diện xã hội, nhưng cũng là chìa khóa để hiểu bài học trên bình diện thiêng liêng. Trong câu kết luận này, chủ từ của động từ thụ động chính là Thiên Chúa và thì tương lai được dùng ở đây để chỉ về ngày sau hết, ngày chung thẩm. Như thế bài học về đức khiêm tốn không chỉ dạy về phép đối nhân xử thế trong cuộc sống thường ngày nhưng còn mang tính tôn giáo nữa: những người Pha-ri-sêu tự hào tự phụ mình là dân Chúa chọn thì hãy coi chừng, có thể sẽ ngồi vào chỗ rốt hết (Lc 13: 28-30).
Thật là có ý nghĩa biết bao với những lời đầu tiên của Đức Giê-su: “Khi anh được mời đi ăn cưới…”. Hình ảnh tiệc cưới trong Tin Mừng là hình ảnh bữa tiệc cánh chung, tự nó biểu tượng hạnh phúc của những người công chính trong Nước Thiên Chúa, đặc biệt Mt 22: 1-10 ở đó những khách được mời lại không được tham dự bàn tiệc trong khi những kẻ bé mọn lại được dự phần vào tiệc cưới.
- Bài học phục vụ trong khiêm tốn
Chúa Giê-su không chỉ nghĩ đến những người Pha-ri-sêu; Ngài đã ngạc nhiên và sẽ còn ngạc nhiên khi gặp thấy những thái độ như thế tại các môn đệ của Ngài. Thánh Lu-ca tường thuật chính xác vào buổi chiều Tiệc Ly, trong khi các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất, Đức Giê-su bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu phải nên người phục vụ” (Lc 22: 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su cũng đưa ra cho các môn đệ Ngài bài học như thế, nhưng trong một bối cảnh khác: “Trong anh em, người nào lớn hơn cả phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23: 11-12).
- Bài học về Đức Ái
Bài học Chúa Giê-su gửi đến cho gia chủ cũng mạnh mẽ không kém. Bài học này không mang giọng điệu của phép xử thế. Trái với thông lệ của người Do thái vốn khinh chê những người bất hạnh này, Chúa Giê-su mời gọi gia chủ mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Lý do mà Ngài đưa ra đó là không tìm kiếm những phần thưởng trần thế cho những hành vi bác ái, nhưng chờ đợi những phần thưởng của Nước Trời: “Họ không có gì trả lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”. Hành động một cách vô vị lợi, cho một cách hoàn toàn nhưng không.
Tiếp đó, Chúa Giê-su tiếp tục giáo huấn bằng một dụ ngôn khác: dụ ngôn “khách được mời xin kiếu, thay vào đó là “những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” (14: 21). Cũng một bài học tương tự.
.
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN. NĂM C
Lm. Antôn
Qua các bài Kinh thánh tuần này, chúng ta có thể nhận ra rõ ràng Chúa dạy chúng ta một nhân đức quan trọng và cần thiết cho cuộc sống Ki-tô hữu, đó là nhân đức khiêm nhường. Ngược lại với nhân đức khiêm nhường là tội kiêu căng hay kiêu ngạo, là tội nặng nhất trong 7 mối tội đầu, tiếng Mỹ gọi là Deadly sin. Tội kiêu ngạo là căn nguyên của những tội khác, và cũng là một thứ tội mà con người dễ mắc nhất. Chúng ta biết tội kiêu ngạo làm hại chúng ta nhiều cách, và gây ra cho chúng ta nhiều cái đau và ngượng ngùng. Tội kiêu ngạo cản ngăn chúng ta sống đức tin, và làm mất sự liên hệ giữa chúng ta với Chúa và với tha nhân.
Nhưng trước khi chúng ta tìm hiểu sâu sa về đức tính khiêm nhường, chúng ta nên phân biệt ý nghĩa của sự kiêu ngạo và hãnh diện. Có những sự hãnh diện rất tốt đặt trên nền tảng sự thật, như chúng ta những người Việt Công giáo hãnh diện về ngôi thánh đường mới sắp xây, hay những tài năng mà chúng ta có hay những thành quả mà chúng ta đạt được trong cuộc sống. Hãnh diện lành mạnh là khi chúng ta nhận ra rằng những thành công và những gì chúng ta đạt được là do sự hỗ trợ hay giúp đỡ của người khác. Còn khi Chúa ban cho người nào đó những tài năng thí dụ như hát hay, hay có năng khiếu hay có tài về một phương diện gì đó, mà chúng ta từ chối không nhận những năng khiếu đó và nói: “Tôi không biết hay tôi không làm được” thì người đó không có sự khiêm nhường đúng hay giả vờ hạ mình xuống cố ý để người khác nâng mình lên.
Còn kiêu ngạo là sự tôn sùng bản thân hay tự ái quá đáng, là một sự tự phụ, tự nâng mình cao hơn, cho mình là hay hơn, tốt hơn hay quan trọng hơn chính bản năng của mình. Chúng ta có thể cho rằng sự kiêu ngạo bắt đầu từ cha mẹ tổ tông đã nghe lời Satan cám dỗ làm điều Thiên Chúa cấm để trở nên bằng Chúa.
Có một nhà triết học đã nói: “Mỗi con người đều muốn mình là Chúa. Chỉ có một ít người thú nhận là không thể trở thành được.” Cho nên, đối với người tự cao, kiêu ngạo Thiên Chúa là người mà họ cạnh tranh, không phải là người mà họ phải tôn thờ, vâng lời và yêu mến.
Trong Tin mừng, Chúa dạy chúng ta nhân đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.” Vậy thế nào là khiêm nhường đích thực để chúng ta sống như ý Chúa muốn? Phải chăng khi dạy nhân đức này, Chúa có ý dạy một mưu kế, một sự lừa dối hay một mánh lới, hay giả vờ hạ mình xuống để được tôn lên? Hay ngồi ở cuối hay xa xa, để được chú ý hay mời lên trên? Câu trả lời chắc chắn là không. Chúa biết rõ con người chúng ta, và Chúa không dạy chúng ta lừa dối hay dạy chúng ta một mánh khoé, vì như vậy đi ngược lại với giáo huấn và sứ mệnh của Người. Và Chúa cũng không dạy chúng ta tự hạ mình xuống với chủ ý là để được chú ý, để được mời lên hay để kiếm tiếng tăm, danh vọng cho chính mình.
Đức khiêm nhường mà Chúa dạy chúng ta hôm nay cũng không có nghĩa là một hình thức an phận, hay hạ thấp bản thân để trốn trách nhiệm, bổn phận là một Ki-tô hữu, là một giáo dân, là một chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô. Tôi tin chắc chắc đó không phải là đức khiêm nhường mà Chúa muốn dạy chúng ta. Đức khiêm nhường mà Chúa dạy chúng ta là, thứ nhất, thành tâm nhìn nhận giá trị đích thực của mình, là những người được Chúa tạo dựng nên, được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Thứ hai, là nhận biết qua Bí tích Thánh tẩy, được Chúa chọn vào làm “Dân Riêng”, trở thành một chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô. Và thứ ba thực sự biết mình, biết những ưu điểm cũng như khuyết điểm, và nhất là nhận ra những ơn lành hồn xác Chúa ban. Vì thế “sự hạ mình xuống” có nghĩa là khiêm nhường chân thành , sốt sắng tôn thờ Chúa, có lòng bác ái, quảng đại và hy sinh sử dụng những ơn lành để phục vụ Chúa, xây dựng Giáo hội, giáo xứ, Thân Thể Chúa Ki-tô, và nhất là khiêm nhường sửa đổi những khuyết điểm như người thợ máy chui xuống gầm xe để sửa những bộ phận hư nơi khó thấy khó tìm, để cho cái xe chạy tốt lại, cho cuộc sống tốt đẹp lại.
Trong cuốn “Rèn luyện nhân cách” tác giả Hoàng Xuân Việt đã viết như sau: “Người khiêm nhường không phải là người tự ti mặc cảm, thu hẹp, thiếu tự tin, khinh rẻ mình một cách vô lý đến nỗi không sử dụng tài năng của mình. Người khiêm tốn là người sáng suốt nhìn nhận mình có khuyết điểm, có ưu điểm và khôn ngoan xử dụng ưu điểm để làm đẹp xã hội.”
Đối với người Kitô hữu chúng ta, đức khiêm nhường không những là một nhân đức quan trọng mà còn là một điều kiện cần thiết, cần phải có, để được vào tham dự bàn tiệc Nước Trời. Chúng ta biết sống trong xã hội này đức khiêm nhường là một đức tính khó học, khó thực hành bởi vì thứ nhất là trong con người chúng ta đầy tự ái, và thứ hai là sự tự cao, chúng ta luôn bị cám dỗ, như con rắn ma quỉ ngày xưa cám dỗ tổ tiên là ông Adong và bà Eva, muốn đưa mình lên chứ không muốn hạ mình xuống. Cho nên, chúng ta phải sống như thế nào? Chúng ta phải năng chạy đến với Chúa Giêsu và học cùng Người. Khiêm nhường có nghĩa là trở nên giống như Chúa Giêsu như Người đã nói: “Hãy học cùng ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.” Khiêm nhường có nghĩa là trở nên giống như Chúa Giêsu như khi Người nói: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.” Khiêm nhường có nghĩa là sống như Chúa Kitô đã sống, đó là không phải chỉ sống cho chính mình nhưng còn cho người khác, như Chúa Giêsu đã sống, sử dụng, để làm sáng danh Chúa và hữu ích cho tha nhân.
Đức khiêm nhường quả thực không chỉ là đức tính cần thiết cho đời sống hiện tại của Kitô hữu mà còn là chìa khóa mở cánh cửa Nước Trời.
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thánh Luca nhấn mạnh đến bối cảnh của trình thuật: đó là khung cảnh một bữa tiệc. Chúa Giêsu là một khách mời. Từ chỗ ngồi của mình, Chúa quan sát và cất lời giáo huấn. Như thế, lời giảng dạy của Chúa Giêsu dựa trên một sự việc cụ thể để rút ra những kết luận cho đời sống của những ai tin và đi theo Người. Một trong những nội dung chính của các Bài đọc trong Phụng vụ hôm nay là lời mời gọi hãy khiêm nhường.
Lời phê phán của Chúa “trúng phoóc” lối suy nghĩ thông thường của chúng ta. Trong truyền thống xã hội Việt Nam, thời phong kiến cũng như thời nay, “một miếng giữa làng còn hơn một sàng góc chợ”. Vị trí chỗ ngồi khi dự tiệc rất quan trọng vì nó khẳng định đẳng cấp và vai vế của thực khách. Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu cũng vậy, những bậc vị vọng hay những người Pharisiêu và kinh sư luôn được đánh giá theo chỗ ngồi.
Từ việc sắp xếp chỗ ngồi trong một bữa tiệc, Chúa dạy chúng ta hãy khiêm tốn để nhận mình là ai trong cuộc sống mênh mông này. Có thể chúng ta giỏi giang về một lãnh vực nào đó, nhưng trong xã hội lại có người giỏi hơn chúng ta. Chúng ta chủ quan nghĩ mình là người xứng đáng ngồi chỗ nhất, nhưng trong thực tế, có người khác xứng đáng với chỗ đó hơn. Để người ta mời xuống thì quả là xấu hổ. Chi bằng cứ chọn chỗ khiêm tốn để người khác lượng giá tài nghệ thật của mình. Jean Jacques Rousseau, một triết gia người Pháp đã viết: “Người biết ít thường nói nhiều, trong khi người biết nhiều thường nói ít”. Tiếc thay, trong xã hội, vẫn có những người thao thao bất tuyệt bằng những ngôn từ hoa mỹ mà thực tế khả năng lại chẳng đáng một xu.
Cũng cùng một nội dung chính là mời gọi sống khiêm nhường, Sách Huấn Ca (Bài đọc I) đã đưa ra những lời khuyên rất thiết thực cho mọi bậc sống, nhất là đối với những người lãnh đạo: “Càng làm lớn con càng phải tự hạ”. Theo tác giả, khiêm nhường đem lại cho ta niềm vui, kiêu ngạo mang đến bất hạnh. Khiêm nhường đi liền với khôn ngoan, kiêu ngạo đi đôi với ngu dốt. Khiêm nhường giúp ta suy nghĩ chín chắn để có những nhận định và ngôn từ thích hợp, kiêu ngạo dễ làm chúng ta vấp ngã vì những phát ngôn nóng nảy vội vàng.
“Khiêm nhường là mẹ của các nhân đức”, câu nói này cho thấy tính cần thiết của một cuộc sống khiêm tốn trong cách đối xử với nhau. Thánh Tôma Aquino viết : « Là một nhân đức đặc biệt, đức khiêm nhường liên hệ ở sự tuân phục của con người đối với Thiên Chúa, và vì Thiên Chúa, hạ mình vâng phục những người khác”. Theo Thánh Tôma, trong cách đối xử với tha nhân, chỉ có sự khiêm nhường đích thực khi cách đối xử ấy được thực hiện “vì Thiên Chúa”. Như thế, khi dựa trên Đức Tin, chúng ta sẽ làm cho sự khiêm tốn ấy tăng giá trị. Bởi lẽ vì Chúa mà chúng ta chấp nhận thiệt thòi về danh dự, của cải và những giá trị tinh thần vật chất khác. Điều này được chứng tỏ trong phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói với chính chủ nhà đã mời Người về những đối tượng cần mời khi đãi tiệc. Đó là những người nghèo khó, tàn tật, què quặt đui mù. Xem ra điều này khó chấp nhận trong cuộc sống đời thường. Chúng ta có thể hiểu đó là những bữa ăn từ thiện hay là những cuộc viếng thăm người nghèo và tặng quà vì bác ái. Điều Chúa muốn nhấn mạnh là thái độ cho đi mà không chờ đền đáp. Trong mối tương quan đời thường, người ta hay tặng, cho nhau với mục đích “thả con săn sắt, bắt con cá rô”, tức là người ta mong mình sẽ được bù lại nhiều hơn điều mà mình đã cho đi. Chính dựa trên Đức Tin mà chúng ta có thể ban tặng cho anh chị em mình một cách vô vị lợi, vì chúng ta xác định mọi sự là của Chúa ban cho chúng ta. “Anh em hãy lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”.
“Khó mà tôn trọng người khác nếu bản thân không tự khiêm nhường” (Henry Frédéric Amiel). Nói đến khiêm nhường, ta thường nghĩ đến sự hạ mình trước người khác. Khiêm nhường còn được hiểu là sự khiêm tốn với chính bản thân, tức là không tự đánh giá mình quá cao. Tự khiêm nhường, đó còn là những cố gắng để vươn lên, ham học hỏi và tích lũy cho mình những kiến thức và kinh nghiệm để có thể trưởng thành trên đường đời.
Lão Tử lấy hình ảnh nước để nói về sự khiêm tốn: “Bậc trọn lành giống như nước. Nước khéo làm ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều ghét, cho nền gần Đạo” (Đạo Đức Kinh, chương 8). Bậc thánh nhân cũng phải như vậy, phải sống cuộc đời khiêm cung từ tốn, quên mình vì người, không tự cao tự đại, có như thế mới gần Đạo gần Trời.
Kiêu ngạo bao nhiêu cũng không đủ, khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng thừa. Con người mang trong mình sự kiêu ngạo vốn có từ thời tổ tông. Chính vì thế mà lời Chúa kêu gọi trong Tin Mừng vẫn mang tính thời sự với mỗi chúng ta. Nên thánh, suy cho cùng, cũng là đạt tới sự khiêm nhường đích thực trước mặt Chúa và đối với tha nhân.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
1) Nhân một bữa tiệc
Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có nhóm Saduce tư tế. Nhóm Pharisêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn tỏ mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pharisêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc gì.
Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót.
Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2) Chúa Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.
Nhân hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến. Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa. Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
Vì thế Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.
3) Nhưng nhắm đến thực tại Nước Trời
Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời. Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm gương. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào?
2) Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi?
3) Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?
4) Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Con người luôn thích làm lớn, muốn làm lớn để thỏa mãn lòng tự cao tự đại của mình. Lịch sử đã ghi lại đày dẫy những con người mang bệnh ‘muốn làm lớn’, muốn trở thành ‘mặt trời’ để kẻ khác xoay chung quanh:
1/ Vua Babyon đã từng tuyên bố: “Ta sẽ lên trời, trên các vì sao của Thiên Chúa, ta sẽ bắc ngai ta, ta sẽ ngự trên núi Tao Phùng, nơi bồng lai cực bắc. Ta sẽ lên chót vót tầng mây, ta sẽ đồng hàng với Thượng Đế” (Is 14:13-14)
2/ César, khi chưa lên ngôi hoàng đế La-mã, đã nói 1 câu trở thành phần nào kinh điển cho hậu thế: “Thà làm số 1 ở 1 làng nhỏ hẻo lánh bên xứ Gaule, còn hơn làm số 11 ở kinh đô La-mã!”. Cha ông Việt Nam xưa thì nói: “thà làm đầu chuột hơn là đuôi voi”.
3/ Và hiện nay, hàng năm trên thế giới có xuất bản cuốn “Guiness”, sách ghi các kỷ lục thế giới, chẳng hạn: người nào chạy nhanh nhất, sống lâu nhất …, nghĩa là chỉ những ai số 1 ở một lãnh vực nào đó mới được ghi tên vào cuốn Guiness này, nhiều người đã cố gắng lập những kỷ lục kỳ cục cốt chỉ để nổi danh, để thế giới biết tiếng. Ví dụ: có người đã ra sức phá 1 hơi 2 cái đàn pianô trong vòng 5 phút! Dhanajay Kurksai, người Ấn, được mệnh danh là nhà quán quân của những kỷ lục kỳ cục như sau: năm 1981, anh đứng một chân liền một mạch 35 giờ đồng hồ; năm 1981: đi giật lùi một mạch 65 cây số; năm 1982: nhảy lò cò được 10 giờ 10 phút và nói liền 1 mạch không nghỉ 15 tiếng đồng hồ; tháng 10/1987: nuốt hết 2 kg 600 thủy tinh.. .
Tham vọng ở trên muôn người đã đẩy nhân loại vào biết bao những thị phi đắng cay. Một ông vua tham vọng bành trướng sẽ phát động chiến tranh. Một thương gia tham vọng giầu có sẽ tìm cách loại trừ người khác. Một ca sĩ, một nghệ sĩ . . . muốn mình nổi trội thường nói xấu, chê bai lẫn nhau. Một người đàn ông tính gia trưởng luôn nạt nộ vợ con để được “ăn trên ngồi trốc” mọi người. Một người phụ nữ lấn quyền thường hay “mắng con chửi chó suốt ngày”. . .
Xem ra ở đâu còn có người đầy tham vọng quyền bính thì ở đó vẫn còn những thị phi đắng cay. Ở đâu còn có người thích trưởng giả ở đó còn đó những bất công. Ở đâu còn có người thích “ăn trên ngồi trốc” ở đó vẫn còn những người thích đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Chúa Giê-su khi đến trần gian đã không ngần ngại sống một cuộc sống nghèo nàn như bao người. Ngài đến không để phục vụ mà tìm đến mọi người để phục vụ họ trong yêu thương. Ngài không tìm chốn cung điện nguy nga để dùng tiệc mà đi đến những mảnh đời bất hạnh để chia sẻ cho họ cái bánh, con cá mộc mạc nhưng đầy tình người. Ngài đã cúi mình thẳm sâu để phục vụ như người tôi tớ rửa chân cho ông chủ. Ngài đã hy sinh kể cả tính mạng để mạng lại niềm vui hạnh phúc cho nhân gian.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Xin cho chúng ta biết học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu cùng nhau góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen
.
CHÚA YÊU THÍCH NHỮNG KẺ KHIÊM NHƯỜNG
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
«Nhằm một ngày sabbat » (Lc 14, 1), chi tiết quan trọng này hé mở ra chân trời của Vương Quốc, nơi ấy Đức Giêsu chuẩn bị bữa tiệc dành cho chúng ta là những người được mời. Đây không phải là bữa tiệc bình thường, vì được diễn ra « trên núi Sion, thành trì của Thiên Chúa hằng sống là Giêrusalem trên trời », có sự hiện diện của « muôn ngàn thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời » (Dt 12, 22). Là nơi chúng ta có quyền lợi ở đấy. Đó là điều Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Chỗ nhất trong bữa tiệc là một vấn đề thương gây tranh luận trong các trường học Do thái thời Chúa Giêsu. Thực ra, chủ nhà không có qui định chỗ ngồi cho thực khách, nên mỗi người phải chọn lấy cho mình một chỗ sao phù hợp với địa vị của mình so với thực khách khác. Có thể có nhiều khách sang trọng hơn ta đến vào giây phút cuối, lúc ấy, cần phải thận trọng nhường chỗ cho thượng khách đó. Họ có thể được mời vào chỗ vinh dự hơn, khi mà Chủ nhà ra dấu hiệu trong bữa ăn, vẫn còn nhiều chỗ trống, cũng có thế sớm muộn người ấy phải nhường chỗ cho người có chức quyền đến vào giờ áp chót.
Lời khuyên của Đức Giêsu không có gì là cách mạng, vì sách Châm ngôn đã từng dạy : « Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống » (Cn 25, 6-7). Thoáng nhìn, người ta có thể nghĩ, đơn giản chỉ là cách ứng xử thận trọng trong cuộc sống, nhưng quả thật, không dễ chịu chút nào khi thấy mình bị hạ xuống trước mặt mọi người. Hoặc là lịch sự so với các thực khách khách, vì họ xứng đáng vào chỗ nhất trong đám tiệc. Hoặc là chịu đựng có tính toán, hơi chút kiêu căng : tôi chọn chỗ rốt hết, với nụ cười trên môi thể hiện sự khiêm nhường, nhưng ẩn tàng hy vọng được mời bước qua trước mặt mọi người để lên ngồi chỗ nhất…
Đây không phải điều mà Đức Giêsu mong đợi chúng ta. Khi nói về Nước Trời; có lúc Người cũng thêm vào « Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống ; ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên », người hạ bệ không ai khác ngoài Thiên Chúa, Ngài hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo là « người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác » (Lc 18, 9), khi « sự thiện không có ở trong người ấy » (x. Rm 7, 18). Họ « tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét » (Tv 36, 3). Như người pharisiêu trong dụ ngôn, ông tự phụ khoe khoang trước mặt Thiên Chúa và người đời : « Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con không như những người khác» (Lc 18, 11). Ông ngửa mặt lên trời và xét đoán nghiêm khắc về tha nhân.
Trái lại, người khiêm nhường, trước Mạc khải tình thương của Thiên Chúa, họ ý thức về thân phận bụi đất của mình, nên « khiêm nhường ». Như người thu thuế (Lc 18, 13), hay như vịnh gia, than vãn : « Xin rủ lòng thương con, lạy Chúa: con kêu con gọi Chúa suốt ngày. Lạy Chúa, xin làm cho con được vui thoả, vì con nâng tâm hồn lên tới Chúa. Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin » (Tv 85, 3.5). Ý thức về thân phận tội lỗi của mình trước nhan Chúa, tin tưởng nài van và xưng thú tội lỗi cùng Ngài, là những điều căn bản của sự khiêm nhường.
«Những kẻ khiêm nhường» thực sự mới có thể nói lời « tạ ơn » đối với Thiên Chúa (Bài đọc 1) vì vinh quang từ đâu đến để chúng ta có thể « tạ ơn » Đấng Tối Cao, nếu không phải đến từ Thiên Chúa? Chúng ta đón nhận vinh quang ấy thế nào nếu không phải là nhận lãnh Tin Mừng với lòng thống hối ăn năn ? Vì thế, ý tưởng của người khôn ngoan là lắng tai nghe, họ nghe tiếng Chúa gọi, và « hướng về Đức Giêsu, trung gian của Giao ước mới » (Dt 12), để đón nhận ơn cứu độ tự nơi Người.
Triết gia Nietzsche trách Kitô giáo là tôn giáo của những người yếu thế ; thấp cổ bé họng; khi tán dương kẻ khiêm nhường ở dưới đất trong khi mong đợi tiến về trời cao. Một quan niệm về khiêm nhường như vậy thực sự mà nói quá thụ động với đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy Đức Giêsu chịu đựng những điều lăng nhục trong cuộc Thương khó, nhưng Ngườii đã chọn lựa con đường này có suy nghĩ : «Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.» (Ph 2, 6-8). Sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Con biểu lộ đức ái cao cả, Người ấp ủ trong lòng ơn cứu rỗi các linh hồn và tôn vinh Thiên Chúa Cha trong họ. Khiêm nhường thật để duy trì hạnh phúc phục vụ anh em, « lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình» (x. Ph 2, 3). Đối với người yêu mến, thì phục vụ vô vị lợi là phần thưởng của họ : « Khi anh dọn tiệc mời khách, thì hãy mời những người nghèo ; và anh sẽ hạnh phúc, vì họ không có gì để trả lại anh. » Anh có thể có bác ái trong sự khiêm nhường, vì người khiêm nhường không qui chiếu về mình nhưng làm phúc vô vị lợi đối với tha nhân trong tình yêu. Thế nên, Tình Yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa là khiêm nhường hoàn hảo nhất.
Lạy Chúa, xin đẩy xa tính kiêu ngạo xa con, dẫn con đi trên đường chân lý là khiêm nhường, để con coi người khác trọng hơn mình, và tìm thấy niềm vui khi phục vụ người khác. Xin đừng để sự tự cao, tự đại làm con thỏa mãn ; nhưng ban cho con ơn nhận ra Chúa luôn khiêm nhường, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, là Thiên Chúa toàng năng, trao ban chúng con tình yêu và sự sống. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu được thủ lãnh nhóm Pharisiêu mời dùng tiệc. Nhân bối cảnh bữa tiệc Chúa Giêsu dạy hai bài học : khi được mời dự tiệc và khi đứng ra đãi tiệc.
- Khi được mời dự tiệc.
Được mời dùng bữa, Đức Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi chỗ nhất. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự. Điều đó cho thấy, thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ.
Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn ? Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc : nhưng đây là bàn cuối cùng mà ! Chủ nhà nhanh trí đáp : thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Phần lớn, những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisiêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi ghế bên tả, bên hữu Đức Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội vì ông sợ mất ghế.
Bài Phúc Âm cho thấy, ai cũng muốn ngồi chỗ nhất nên chỗ nhất thiếu chỗ, có những bậc vị vọng đành phải ngồi xuống chỗ dưới. Có lẽ Đức Giêsu không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm nên đã tự động ngồi vào ghế chót.Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những vị khách không mấy quan trọng xuống khỏi chỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên chỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói. Nhân hoàn cảnh đó, Đức Giêsu dạy bài học cách sống khiêm tốn : Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường.
Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật là xấu hổ.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên, coi thường mình hay sợ người khác, rụt rè không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận được tất cả từ Chúa và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân. Bài đọc 1 ca ngợi đức khiêm tốn. Sự hiền hoà và khiêm tốn là nhân đức căn bản và quý giá của con người. Nhờ khiêm tốn, con người khám phá được sự cao trọng của Thiên Chúa và mở ngõ cho con người đi vào sự khôn ngoan. Lời dạy này là kết tinh của kinh nghiệm biết bao bậc hiền triết khôn ngoan từ thuở xưa. Chính Chúa Giêsu cũng lấy đức khiêm tốn làm một trong các mối phúc của bài giảng trên núi và mời gọi mọi người hãy học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm tốn trong lòng. Ai sống hiền lành và khiêm tốn thì được nghĩa trước mặt Chúa và được mọi người yêu mến.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị người đời coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược. Trái lại Thiên Chúa nâng cao những ai khiên nhường. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôi nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
- Khi đứng ra đãi tiệc
Người ta dễ đánh giá người khác dựa trên chiếc ghế của họ. Thật ra, một người quét đường có lương tâm lại có giá trị gấp nhiều lần một giám đốc tham ô lãng phí. Người ta thường thích giao lưu với những người có thế giá, có học thức, có của cải để dễ nhờ vả khi cần. Nhưng Đức Giêsu khuyên rằng : khi mời tiệc nên mời những người nghèo khó, tật nguyền. Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Ngài dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp. Như thế Đức Giêsu mong muốn người tín hữu vượt qua óc tính toán vụ lợi để yêu thương phục vụ những người bất hạnh.
Đức Giêsu muốn minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Đức Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-54). Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn. Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.
Chúa Giêsu dạy bài học khiêm nhường và bác ái, bài học về cách dự tiệc và cách đãi tiệc. Đó là bài học về những cách sống trong cuộc đời. Lời Chúa dạy xem ra đảo lộn mọi trật tự xã hội trần thế. Nhưng sống Tin mừng luôn là lội ngược dòng và Thiên Chúa luôn đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công. Sống khiêm nhường và yêu thương người nghèo là con đường đi đến Nước Trời. Người tín hữu đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để kín múc tận nguồn sự khiêm hạ trong tình yêu.
.
Lm. Gia-cô-bê Tạ Chúc
Trong kinh đọc hằng ngày, ta gặp thấy nhân đức khiêm nhường xuất hiện đầu tiên trong bảy nhân đức. Cải tội bảy mối có bảy đức: “ Thứ nhất khiêm nhượng chớ kêu ngạo”. Một đức tính tự nhiên của con người, mà Thiên Chúa đã phú ban. Sách Huấn ca và trang Tin mừng hôm nay, chúa nhật 22 thường niên đều nói đến nhân đức này.
Càng tự hạ con sẽ càng đẹp lòng Chúa (Hc 3,17-18)
Tự bản chất, Thiên Chúa là Đấng khiêm hạ thẳm sâu. Trời xanh, biển cả và muôn loài đều là công trình của Chúa. Vạn khắp nơi nơi bày tỏ vinh quang của Ngài. Trời là ngai và đất là bệ dưới chân Chúa. Vậy mà, Thiên Chúa vẫn luôn là Đấng vô cùng khiêm cung. Ngài đã tự hạ mình xuống làm người qua con mình là Đức Giê-su Ki-tô. Hình ảnh Đức Giê-su cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, cho thấy sự hạ mình đến tự hủy và xóa mình đi của Thiên Chúa. Các nhà thần học gọi là “quyền năng xóa mình đi, chỉ cần ít quyền năng để phô trương, nhưng cần nhiều tình yêu để khiêm nhượng”. Sự khiêm nhường đi liền với tình yêu, và vì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương yêu, nên cũng có nghĩa là Ngài rất mực hạ mình. Cúi đầu trước người có quyền thế chưa hẳn là sự khiêm nhường, nhưng người cao trọng quyền chức mà cúi đầu trước kẻ kém hơn mình mới là sự khiêm nhường đầy tự phát, như Đức Giê-su đã làm trong bữa tiệc ly.
Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (Lc 14, 1.7-14).
Quan sát một bữa tiệc với nhiều thực khách, họ thuộc mọi thành phần trong xã hội, thượng vàng hạ cám. Tâm lý chung của con người bao giờ cũng muốn được người khác kính trọng. Cha ông xưa thường hay nói: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Không lạ gì bữa tiệc trong nhà một người biệt phái có Chúa Giê-su đến dự hôm ấy. Người ta mời Chúa không vì tình nhưng vì mình. Họ muốn dò xét và bắt lỗi Chúa. Nào là không rửa tay, nào là làm việc ngày Sabbat…Nói chung không có thiện ý tốt lành. Đức Giê-su thấu hiểu lòng dạ của con người. Nhân dự một bữa tiệc mà Ngài dạy cho con người bài học về sự khiêm nhường. Có một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói:
– Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy.
Người khác nói:
– Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham.
Người thứ ba nói:
– Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp.
Người thứ tư châm vào:
– Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi.
Vị Rabbi tỏ ra không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi:
– Ông có nghe họ ca tụng ông không?
– Có.
– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?
Vị Rabbi than phiền:
– Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi!
Lạy Chúa, xin cho mỗi người biết khiêm nhượng để nhận ra mình cần đến lòng xót thương và thứ tha của Chúa, như lời Thánh vịnh : “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi”(Tv 130, 1). Ai sống khiêm tốn thì sẽ được Thiên Chúa yêu thương và được mọi người quý mến. “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.
.
KHÔN NGOAN HAY LỊCH DUYỆT TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Mới đọc đoạn Tin Mừng Lu-ca hôm nay, tôi có cảm tưởng Đức Giê-su quả là một nhà mô phạm đang say sưa giảng dạy một bài học về cách xử thế, điều mà các loại sách ‘học làm người’, bắt đầu từ cuốn ‘Giáo Khoa Thư’ mà tôi đã học từ tấm bé, vẫn thường dạy. Thế nhưng, điều tôi phải xác tín là: đây đích thực là một bài Tin Mừng mà nội dung Đức Giê-su đang đề cập tới là xác định mối tương quan mỗi người chúng ta cần có đối với Thiên Chúa là Cha; phải chăng bài học đó mới chính là điều mà Đức Ki-tô Giê-su đã phải cất công xuống thế làm người để có thể dạy dỗ loài người chúng ta?
Hình ảnh bàn tiệc hay được Đức Giê-su dùng để chỉ Nước Trời hay Nước Thiên Chúa; bàn tiệc này được bày biện sao cho mọi người có thể tham dự, từ những kẻ được mời (là dân Do Thái), cho đến bàn dân thiên hạ: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc”. Nếu bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước đã cho chúng ta thấy chỉ những người đi qua được cửa hẹp của lòng khiêm cung mới được vào dự tiệc, thì bài Tin Mừng tuần này cũng đề cập tới điều tương tự: trong bàn tiệc đó, chỗ cao nhất sẽ dành cho ai nhận mình là kẻ khiêm hạ nhất.
Ngoài nghi vấn: ai sẽ được cứu rỗi, ta cũng thường nghe thấy nhiều người ưu tư về chỗ của họ trên thiên đàng. Để giải đáp vấn nạn sau này, câu trả lời hợp lý và lô-gích nhất sẽ là: phải làm nhiều việc lành phúc đức để có công trước mặt Chúa; ai càng giầu công nghiệp thì trên thiên đàng chỗ càng cao. Điều này từ lâu đã từng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhiều người công giáo trung thành giữ đạo, đọc kinh tối sớm, ăn chay hãm mình, tập tành các nhân đức… và làm nhiều việc thiện. Họ mong thu tích cho được thật nhiều công nghiệp, hầu chiếm được chỗ cao chỗ trọng trên thiên đàng mai ngày.
Tôi không biết tư tưởng đó đúng đến đâu trong suy nghĩ của Đức Giê-su, nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã tuyên bố chắc nịch: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!” Như vậy Người khảng định: cho dầu lập công đức có cần thiết tới mấy đi nữa thì điều quan trọng nhất vẫn phải là sở đắc được một lòng khiêm cung chân thành: ai không có lòng khiêm tốn thì không thể vào dự bàn tiệc Nước Trời, còn nếu có vào được đi nữa thì cũng sẽ bị giáng xuống chỗ thấp nhất mà thôi; tại sao lại thế nhỉ?
Đơn giản là vì: Nước Trời tự bản chất, chính là lòng thương xót cứu độ được Thiên Chúa từ nhân ban nhưng không cho hết thảy mọi người. Tự mình con người không ai xứng đáng vào vương quốc đó, kể cả những người được thiên hạ coi là lành thánh, là hoàn hảo nhất. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng không phải là cái gì có thể mua tậu được bằng tiền bạc cũng như bằng các việc lành việc thiện, hay bằng bất cứ nhân đức nào do con người nỗ lực luyện tập mà có. Giá cả duy nhất để có thể mua Nước Trời chính là: khiêm cung đón nhận; chính vì thế mà, ai càng hạ mình khiêm tốn đón nhận bao nhiêu, thì càng lãnh hội trọn vẹn Nước Trời bấy nhiêu.
Hình ảnh mà thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã sử dụng thật chính xác lắm thay: thiên đàng là hồng ân tình yêu của Thiên Chúa được đổ đầy vào những cái ly cái cốc là tâm hồn mỗi người; ly của ai càng sâu bao nhiêu (khiêm hạ bao nhiêu) thì càng đón nhận được nhiều bấy nhiêu. Hình ảnh này giải thích ngay cả trường hợp của Đức Maria: dù nhận được muôn điều cao cả trọng đại, nhưng Mẹ vẫn luôn xưng mình là tôi tớ thấp hèn nhất của Thiên Chúa. Nói đúng ra, Ma-ri-a được nên cao trọng vô song cũng chỉ ‘vì’ Ma-ri-a đã có lòng khiêm hạ thẳm sâu hơn hết thảy mọi người: Ma-ri-a trở nên cao trọng trước hết trong ánh sáng chói lọi của Tin Mừng mà thôi.
Đúng vậy, chỉ có lòng khiêm hạ mới làm ta hiểu và thâm nhập được vào lòng thương xót Thiên Chúa ban cho nhưng không, để rồi từ đó nẩy sinh ra thứ phục vụ bác ái thuần khiết nhất. Nhiều người vẫn nghĩ rằng: qui luật ngàn đời ‘Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại’ cũng sẽ được áp dụng cho phần thưởng trên thiên quốc, thế nhưng theo Đức Giê-su thì qui luật này không áp dụng cho Tin Mừng cứu độ. Chỉ những ai đã từng khiêm tốn đi thật sâu vào trong lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa từ nhân, người đó mới có khả năng “đãi tiệc… mà mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù… Họ không có gì đáp lễ”. Và chỉ có ai làm được như thế, tức là thực hành bác ái phục vụ phản ảnh lòng thương xót nhưng không của Thiên Chúa, thì mới xứng đáng được nghe lời khen thưởng của ông chủ từ nhân: Anh mới thật có phúc: vì anh sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Như vậy thì khiêm hạ không những là nhân đức nền tảng của đời sống thiên liêng tu đức trên đó ta xây dựng mọi nhân đức khác, như đã từng được khảng định trong tu đức học; khiêm hạ trong Tin Mừng, khi được diễn tả bằng lòng thống hối chân thành, sẽ là điều kiện và thái độ thiết yếu cho tất cả những ai đón nhận ơn cứu độ. Phải chăng đây mới đích thực là một TIN MỪNG lớn lao hơn hết cho toàn nhân loại, đặc biệt cho những con người tội lỗi và yếu đuối như chúng ta: “ơn cứu độ chỉ được ban cho những tâm hồn khiêm cung mà thôi!”
Lạy Chúa, xin hãy dạy con: ‘tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu’. Tuy nhiên để có thể làm được các điều ấy, con cần nhận được lòng thương xót vô biên mà Chúa đã ban tặng khi cứu độ con cách nhưng không, bất chấp những yếu đuối và bất xứng của con. Xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, để nhờ đó con có được lòng khiêm hạ chân thành; để rồi trong thấp hèn nhỏ bé của mình, con sẽ cất tiếng ca ngợi tình yêu thương xót của Chúa đến muôn đời. A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong xã hội ngày nay, người ta nói khá nhiều về sự khiêm tốn. Những khẩu hiệu như ‘Cán bộ là đầy tớ của nhân dân’ được treo dán khắp nơi, nhưng trong thực tế, nhiều khi những biểu thức đó chỉ là sáo ngữ rỗng tuếch. Ngay cả nhiều anh em linh mục vẫn bị giáo dân than phiền vì thái độ hống hách và quan quyền trong cách ứng xử. Khiêm tốn là một đức tính căn bản và cần thiết trong mọi tương giao xã hội. Hơn thế nữa, đây lại chính là cốt lõi của linh đạo Thập giá mà Chúa nói đến trong Tin Mừng hôm nay. Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi khởi nguồn từ chính khuôn mẫu nội tâm mà Đức Giêsu đã diễn bày qua cái chết của Ngài.
Linh đạo Thập giá.
Ngày 19 tháng 05 năm 1997, ông Kofi Anal Tổng Thư ký Liên hiệp quốc phát đi một bản cáo phó gửi đến toàn thế giới với nội dung ‘Một người quyền lực nhất thế giới vừa mới vĩnh viễn rời bỏ chúng ta’. Người giàu quyền lực ấy là ai? Thưa, chỉ là một phụ nữ ốm yếu già nua, đã 87 tuổi, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ mình. Người giàu quyền lực ấy đã phải ngửa tay xin từng cái giường cũ để chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh, và khi chết vẫn không có một xu dính túi. Đó chính là Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta. Con người giầu quyền lực ấy là một phụ nữ yếu ớt đã sống khiêm tốn không phải với khẩu hiệu xuông, nhưng bằng lối sống rất cụ thể. Một con người đã can đảm đi đến mọi ngõ ngách của thế giới để chung chia cuộc sống vơi những người cùng khốn. Sự khiêm tốn mà Mẹ Têrêsa đã thể hiện khởi nguồn từ chính Thập giá. Trong cầu nguyện và suy niệm, Mẹ đã nghe văng vẳng lời Chúa Giêsu vang vọng trên Thánh giá : “Ta khát”. Suốt cuộc sống, Mẹ đã cố gắng sao chép lại hình ảnh của Đức Giêsu, đấng ‘vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hang với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá’ (Phil 2,6-8).
Thập giá Đức Giêsu là khung quy chiếu căn bản về sự khiêm nhường mà các bài đọc lời Chúa hôm nay trình bày. Trong bài đọc 1, tác giả sách Huấn ca viết: “Càng tự hạ, con càng làm đẹp lòng Đức Chúa. Người được tôn vinh nơi kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng vô phương cứu chữa”. Đương nhiên, các sách Cựu Ước chưa thể đi sâu vào mầu nhiệm cứu độ thể hiện nơi cái chết của Đức Giêsu, nhưng đã từ từ vén mở cho chúng ta con đường dẫn đến hoàn thiện. Đích đến của con đường này chính là Thập giá.
Trong bài Tin mừng với dụ ngôn về một ông chủ mời các thực khách đến ăn cưới, Chúa cũng đưa ra huấn dụ về sự khiêm tốn. Ngài kết luận : “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Theo bản tính tự nhiên, ai cũng muốn được mọi người nể trọng, có được địa vị cao sang trong xã hội. Chẳng ai thích trở thành ‘kẻ rốt hết’ trước mặt các bá quan văn võ. Khiêm tốn để hạ mình xuống, điều đó mọi người chúng ta ai cũng biết, nhưng không phải dễ thực hành. Thánh Tôma Aquinô đã từng nói với một chút cường điệu : “Ai cũng có cái tôi. Khi chúng ta chết rồi, 15 phút sau, cái tôi đó mới chết hẳn”.
Ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh, tác giả sách Sáng thế đã nói đến sự sa ngã của nguyên tổ. Tội đầu tiên du nhập vào trần gian chính là tội kiêu ngạo và người gây ra là Adam. Trong thư Rôma chương 5, Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy hình ảnh song đối giữa Adam cũ và Adam mới, là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã cho chúng ta được công chính hóa nhờ cái chết của Ngài. Ađam cũ gieo mầm sự chết do kiêu ngạo. Đối lại, Ađam mới làm cho chúng ta nên công chính nhờ khiêm tốn và vâng phục. Nói tóm lại, sự khiêm tốn mà Chúa Giêsu mời gọi, đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay, chính là một nền linh đạo khởi phát từ mầu nhiệm Thập giá.
Tinh thần vô vị lợi.
Chúa Giêsu nói dụ ngôn hôm nay trong khung cảnh một bữa ăn. Một người Pharisiêu mời Ngài đến nhà dự tiệc. Đương nhiên, hiện diện trong bữa tiệc hôm đó còn có nhiều vị khách quý khác, có thể có những nhân vật ‘tai to mặt lớn’ trong xã hội thời bấy giờ. Người ta thường xếp chỗ ngồi theo thứ bậc. Đó là điều rất thường tình và ở đâu cũng thế. Giáo xứ có tiệc mừng, đương nhiên Đức Cha sẽ được ngồi vào chỗ trọng vọng nhất, rồi đến các Cha, các viên chức, rồi mới đến ‘quần chúng nhân dân’. Điều này không có gì đáng nói. Nhưng nhân cơ hội, Chúa dạy chúng ta bài học về sự khiêm tốn, hãy chịu khó ngồi vào chỗ rốt hết để được mời lên trên. Chúng ta không cần bàn đến những nghi tiết xã hội hay những tập tục theo phong hóa địa phương và những chuyện đó không quan trọng lắm. Song, tinh thần khiêm tốn biết hạ mình xuống mới là nội dung mà Chúa nhắm đến để khuyến mời. Tinh thần khiêm tốn này đi đôi với một tấm lòng vô vị lợi. Đây là điều rất thực tế mà chúng ta cần nghiền gẫm để đem ra thực hành.
Trong xã hội hiện nay, người ta vẫn thường áp dụng nguyên tắc ‘Có đi có lại mới toại lòng nhau’ hoặc ‘Ông đưa cái giò bà thò chai rượu’. Người ta thường hay nói : “Ở trên đời này, chẳng ai cho không một cái gì”. Không phải đây chỉ là lề thói xã hội, nhưng ngay cả trong Giáo hội, người ta vẫn hay thực hành theo lối suy nghĩ ấy. Đám cưới con gái tôi, ông đi phong bì 500 ngàn, mai mốt đến đám cưới con gái ông, tôi cũng phải ‘lại quả’ 500, không nhiều hơn cũng chẳng ít hơn. Đó là sự sòng phẳng theo lề thói xã hội. Ngay các Cha vẫn hay ứng xử như vậy. Ngày lễ bổn mạng giáo xứ tôi, Cha đến đồng tế, khi nào đến lễ bổn mạng giáo xứ của Cha tôi cũng sẽ ‘phải’ đến để đáp lễ hay để ‘trả nợ’. Còn Cha không đến, thì tôi, tôi cũng sẽ không đến. Ở một mức độ nào đó chúng ta thấy có vẻ hợp lý, nhưng trong trật tự nước trời thì không phải vậy. Trong trật tự mới này, Chúa có vẻ như thách đố chúng ta. “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Điều Chúa thách đố xem ra có vẻ hơi khác thường và ‘dở hơi’. Nhưng đây lại chính là sự dở hơi thánh thiện phát nguyên từ Thập giá mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn sâu vào. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã cho đi tất cả, không so đo tính toán, không mong được đáp đền. Đó chính là một ‘Tình cho không biếu không’ cách tuyệt đối, một tình yêu vô vị lợi mà chúng ta phải nghiền ngẫm, phải đào sâu và phải cố gắng đem ra thực hành.
Kết luận:
Sự khiêm tốn nội tâm và tấm lòng quảng đại trao ban vô điều kiện là linh đạo Thập giá của tất cả mọi người chúng ta, từ các anh em linh mục, tu sĩ đến giáo dân. Trong lá thư thứ nhất, Thánh Phêrô tông đồ đã dạy: “Anh em hãy trang điểm bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho những ai khiêm nhường (1P 5,5). Cũng vậy, Chúa Giêsu nói với chúng ta : “Anh em hãy học với tôi, vì tôi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Học nơi ngôi trường này, chúng ta phải cần cù, phải siêng năng, phải học mãi, phải học cho đến suốt đời và chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp.
.
Trầm Thiên Thu
Người ta có câu nói ví von: “Thả con cá sặt, bắt con cá rô”. Câu này có ý nói về chuyện “có qua có lại” khi đối xử ở đời với nhau, chứ chẳng mấy ai cho không bao giờ, bởi vì người ta quan niệm rằng cách thể hiện như vậy mới khả dĩ làm “toại” lòng nhau!
Cuộc sống luôn có nhiều loại tiệc tùng, liên hoan hoặc ăn mừng, từ nhỏ tới lớn, người ta tổ chức có ý nhắm vào “mối lợi” là vật chất – một dạng “tự kinh doanh” rất thực tế. Có những người được mời thì vui mừng và hãnh diện; có những người được mời lại thấy miễn cưỡng và cảm thấy khổ sở, bởi vì họ phải lo “chạy tiền” – hóa con nợ bất đắc dĩ.
Các loại tiệc mừng, người ta mời những người “mặt to, đầu lớn” là để được hãnh diện, được thơm lây. Chẳng phải tiệc tùng, khi thấy ai có “máu mặt” thì người ta thích bám theo, tìm cách tiếp cận để nói vài lời hoặc xin chụp hình, chẳng khác gì kiểu “cáo mượn oai hổ”, nhưng người ta lại biện hộ rằng “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Ít ra người ta cũng có dịp để khoe mẽ, ngày nay gọi dạng đó là… “chảnh”. Nói chung, ai cũng muốn vị trí của mình phải cao hơn người khác.
Mà thật, cứ có dịp tiệc tùng thì sẽ rất dễ thấy nhiều người “chảnh” rõ ràng. Họ thích “nổi trội”, được ăn trên và ngồi trước, muốn chứng tỏ mình có “thế giá”, ưa khoe khoang đủ thứ, nhất là “cái mã” bề ngoài (trang phục, trang sức,…), nhưng người ta lại không muốn nhận mình là “ưa hình thức”, dù hoàn toàn rỗng tuếch. Ôi, thật chán ngán thay cái thói đời!
Đó là một dạng tự đề cao hoặc tự tôn, một kiểu kiêu căng “tinh vi” lắm. Phàm nhân vốn dĩ có “cái tôi” rất… TO, thế nên từ ngàn xưa, tác giả sách Huấn Ca đã chân thành khuyên người ta sống khiêm tốn: “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa” (Hc 3:17-18).
Có nhiều hành động “tự” rất đáng có: tự hạ, tự lập, tự thú, tự nguyện, tự làm, tự học, tự tìm hiểu, tự nghiên cứu,… thế nhưng lại có những dạng “tự” rất nguy hiểm: tự tôn, tự kiêu, tự mãn, tự hại, tự tử, tự sát,… Một dạng “tự” là KHÔN (khéo, ngoan, giỏi), một dạng “tự” là KHỜ (dại, ngốc, ngu). Có thể nói rằng đó là hai dạng người chủ yếu trong nhân loại.
Thiên Chúa là Đấng tự hạ nên Ngài rất yêu quý những người khiêm nhu: “Vì quyền năng Đức Chúa lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường” (Hc 3:20). Khiêm nhường đối lập với Kiêu ngạo (hai động thái đều bắt đầu bằng mẫu tự K). Việt ngữ thật là độc đáo đấy! Sách Huấn Ca so sánh và giải thích: “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó. Người sáng trí để tâm nghiên cứu các ẩn dụ, kẻ khôn ngoan ao ước có tai thính để nghe” (Hc 3:28-29).
Người khiêm nhường thì biết chạnh lòng thương, biết xót thương người khác. Tất nhiên họ cũng là người thanh thảnh, bình an, vui mừng trong lòng (chứ không cần toe toét cái miệng cười mới là vui mừng). Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Những người công chính múa nhảy mừng vui trước mặt Chúa Trời, niềm hoan lạc trào dâng. Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người, hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân. Danh Người là Đức Chúa; trước Thánh Nhan, hãy vui mừng hớn hở. Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ, chính là Thiên Chúa ngự trong thánh điện Người. Kẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa, hạng tù đày, Người trả lại tự do hạnh phúc, còn quân phản nghịch phải ở nơi khô cằn” (Tv 68:4-7).
Như đã nói, Thiên Chúa yêu quý những người khiêm nhường, nghĩa là họ được Thiên Chúa chăm sóc chu đáo tận tình: “Lạy Thiên Chúa, Ngài đổ mưa ân hậu, gia nghiệp Ngài tiêu hao mòn mỏi, Ngài đã bổ sức cho. Lạy Thiên Chúa, đàn chiên của Ngài đến ở nơi đâu, Ngài cũng luôn nâng đỡ, bởi vì Ngài nhân hậu đối với kẻ khó nghèo” (Tv 68:10-11). Người khiêm nhường là người “nghèo” về phương diện “tài sản” của trần thế: kiêu hãnh, khinh miệt, chỉ trích, mê muội, tức giận, ghen ghét, mưu mô, xảo quyệt, ích kỷ,…
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể: “Anh em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và giông tố, có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa” (Dt 12:18-19). Đó là cách nói của Thánh Phaolô về giao ước của Thiên Chúa ưu ái dành cho chúng ta, dù chúng ta chỉ là những tội nhân khốn kiếp. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vượt quá trí hiểu của phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu thấu!
Thánh Phaolô dẫn chúng ta tời một vị trí cao hơn: “Nhưng anh em đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng Vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben” (Dt 12:22-24).
Nợ máu là loại nợ khó trả nhất, nhưng phải trả, trả cho tới cùng, Chúa Giêsu có cách nói là “trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5:26). Tất cả chúng ta đều mắc món “nợ máu” này – nợ máu với Đức Giêsu Kitô, và nợ tình với tha nhân – cũng là một dạng “nợ máu” vậy. Vị trí của chúng ta là “con nợ”, phải liệu thanh toán trước khi Thẩm Phán Giêsu trở lại xét xử. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Hãy nói cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Ta… Đây là dấu hiệu thời kỳ cuối cùng, sau đó sẽ là Ngày Công Lý” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 848).
Biết được như vậy, chúng ta không còn lo tranh giành vị trí nữa. Điều quan trọng không phải là VỊ TRÍ mà là HƯỚNG ĐI. Đâu phải là “có râu ngồi đâu cũng lớn”, lớn để làm gì? Làm lớn mà làm láo thì có xứng đáng? Có quyền để hành người ta thì có xứng đáng để người ta nghe theo? Mua quyền, giành chức với nhau để làm gì? Chức quyền, địa vị hoặc danh vọng có là những thứ cần thiết để được Thiên Chúa ưu tiên cho vào Thiên Đàng?
Trình thuật Lc 14:7-14 nói về VỊ TRÍ – “chỗ ngồi” và các “thực khách nghèo khó”. Thánh Luca cho biết rằng, vào một ngày sa-bát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh của nhóm Pharisêu (*) để dùng bữa. Nhóm này không tốt lành gì, vì họ chỉ cố ý dò xét Ngài mà thôi.
Chúa Giêsu nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này’. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, hãy vào ngồi chỗ cuối để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho’. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Vô cùng thực tế, vì chúng ta vẫn thấy xảy ra tại các đám tiệc xưa nay, không cứ gì thời Chúa Giêsu, nhưng ngày nay người ta có “phương pháp” tinh vi hơn, và tất nhiên cũng khó nhận thấy hơn. Có những người “nổ” hơn bom, cốt để khoe khoang, tự cho là mình “thông thái”, nhưng thật ra chỉ là “thùng rỗng kêu to” mà thôi!
Nói về vị trí nhưng Chúa Giêsu muốn giáo huấn về đức khiêm nhường – nhân đức nền tảng của các nhân đức, viên đá chính trong tòa-nhà-nhân-đức và lâu-đài-hoàn-thiện. Đức khiêm nhường vô cùng quan trọng nhưng lại không dễ thực hiện, vì “cái tôi” luôn to lớn, mà nào có mấy ai muốn và dám đè bẹp nó xuống. Không có mà còn dám nói có, huống chi là có chút ít, và rồi có ít xít ra nhiều, có bé xé ra to. Thế đấy!
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Ngài: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. Chúa Giêsu nói thật, không bóng gió, không bông đùa, nhưng liệu có mấy ai thực hiện đúng như vậy?
Có thể nói rằng “ai sống khiêm nhường là người hoàn thiện”. Tuy nhiên, văn sĩ Lev Nikolayevich Tolstoy (1828-1910, người Nga, có tác phẩm nổi tiếng là “Chiến Tranh và Hòa Bình”, 1869) đã nhận xét: “Khi bạn ý thức được mình là người khiêm tốn thì bạn không còn khiêm tốn nữa”. Một câu nói đáng lưu ý, đầy tính triết-lý-sống. Bởi vì ý thức ở đây muốn nói tới việc “cố ý” hoặc “ra vẻ” khiêm nhường, đã biết, tức là bắt đầu giả dối. Tương tự, khi chúng ta nghĩ là mình vô vi là không vô vi rồi. Hay quá sức!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết mình là ai và đứng ở chỗ nào, chân nhận mình là hạt bụi nhỏ nhất trong các hạt bụi, và thực sự là vậy. Do đó, con không có gì để khoe mẽ, bởi vì con hoàn toàn tay trắng, tất cả là của Ngài, do Ngài thương ban, nếu không có Ngài thì con không thể làm được gì – dù là điều nhỏ nhoi nhất. Nếu con là bài thơ, con xin được Ngài gieo vần; nếu con là khúc nhạc, con xin được Ngài hòa âm; nếu con là bài văn, con xin được Ngài liên kết. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
———–
(*) Theo nguyên ngữ tiếng Do Thái, chữ Pharisêu có nghĩa là “riêng biệt” hoặc “tách rời” – Biệt Phái. Do đó, những người thuộc nhóm này luôn tỏ ra mình “ngon” hơn người khác, ngày nay gọi đó là “chảnh”. Họ lo giữ luật nghiêm ngặt (hơn 600 điều khoản), nhưng họ lại không thực thi điều Thiên Chúa dạy – tức là chỉ “giả hình” mà thôi.
Họ là những người mà Chúa Giêsu đã từng phải nói gay gắt và thẳng thắn: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là ráp-bi” (Mt 23:1-7 – x. Mc 12:38-40; Lc 11:43-46 và Lc 20:45-47).
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi đề cập về Chúa Giê-su, người ta thường giới thiệu Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai cao cả, là Vua hoàn vũ, là Thẩm Phán tối cao, là Đấng quyền năng phép tắc… nhưng Chúa Giê-su còn có một phẩm chất cao đẹp khác ít được đề cập đến: Ngài là Đấng rất khiêm nhường!
Trong thư Phi-lip (2, 6-11), thánh Phao-lô trình bày sự khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giê-su như sau:
Mặc dù Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa quyền năng, đồng hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài đã hủy mình ra không! Từ tột đỉnh danh dự và vinh quang, Ngài đã gieo mình xuống cõi đời ô trọc, hoá thân thành một trẻ sơ sinh yếu đuối, được sinh ra trong nơi rốt hèn; khi lớn khôn thì sống bằng nghề mộc ngày ngày đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm; rồi cuối cùng, Ngài đón nhận cái chết thấp hèn và đau thương trên thập giá cùng với hai kẻ bất lương.
Chúa Giê-su là Đấng rất khiêm nhường nên Ngài cũng muốn cho chúng ta trở nên khiêm nhường như Chúa. Chúa Giê-su không kêu mời chúng ta hãy học cùng Ngài vì Ngài thông thái, vì Ngài có tài hùng biện thu phục quần chúng, vì Ngài khôn ngoan… nhưng trước hết, Ngài kêu gọi chúng ta hãy học với Ngài, vì Ngài có lòng “dịu hiền và khiêm nhường.” (Mt 11, 29)
Vì khiêm nhường là một phẩm chất cao đẹp nên Chúa Giê-su thuyết phục chúng ta sống khiêm nhường bằng một dụ ngôn rất cụ thể và thực tế như sau: “Khi anh em được mời dự tiệc, đừng chọn chỗ nhất, kẻo khi có người khách khác quan trọng hơn đến sau, chủ nhà sẽ đến nói với anh em: Mời anh xuống ngồi chỗ dưới nầy cho… Trái lại, khi được mời dự tiệc, anh em hãy chọn chỗ cuối…. Vì hễ ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 14, 8-11).
Cây cao, tàng lớn, đứng trên đỉnh cao thì nguy cơ bật gốc hay gãy đổ càng cao. Cây nhỏ, thân mềm như lau sậy, dù đứng ở vị trí nào cũng được an toàn trước cuồng phong bão tố.
Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi giòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: “Biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông.”
Ai hiền lành khiêm nhượng, biết hạ mình xuống thì tình trạng tâm hồn của họ như là chỗ trũng, là lũng sâu. Ơn phúc của Thiên Chúa cũng như tình yêu của bạn bè sẽ chảy tuôn vào những con người ấy.
Khiêm nhường không phải là thua kém
Có một số người không thích khiêm nhường vì cho rằng khiêm nhường là thua kém. Nghĩ như vậy không đúng.
Ta hãy nhìn xem nước. Nước tuy rất mềm mại, rất dịu dàng, có thể nói là rất khiêm nhường nhưng đồng thời cũng rất hùng mạnh.
Nước luôn luôn tìm chỗ thấp nhất mà đến. Nước luôn mềm mại dịu dàng.
Nước không hề kháng cự với bạo lực, nhưng nước vẫn chiến thắng bạo lực nhờ sự mềm mại của mình. Búa tạ giáng vào tường, tường đổ; búa đập vào đá, đá tan; nhưng nếu có ai quai búa đập mạnh vào vũng nước, nước không cần kháng cự, nước dùng sự mềm mại của mình để nuốt lấy búa; búa sẽ phải cắm xuống đáy bùn! Đúng là “nhu thắng cương, nhược thắng cường.”
Nước luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao nên mới tạo ra thủy năng, thuỷ điện, một nguồn năng lượng tuyệt vời!
Khi bị hỏa thần tấn công, nước nhẹ nhàng bốc mình lên cao thành những lớp mây trời và khi hỏa thần hừng hực thiêu rụi những cánh rừng tươi tốt, nước có thể gieo mình xuống dập tắt hỏa thần.
Tuy mềm mại nhưng nước có sức xói mòn tất cả; dù rắn như đá thì “nước chảy đá cũng phải mòn”.
Nhờ mềm mại, nước rửa sạch tất cả, cuốn trôi tất cả.
Nhờ biết hóa mình thành muôn hạt li ti, nước có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của các địa tầng, thấm nhập khắp muôn nơi.
Tuy hạ mình thấp hèn, nước đem lại sự sống cho mọi loài. Nơi đâu thiếu nước, ở đó chỉ còn là sa mạc, khô cằn. Nơi đâu nước ngấm đến, ở đó sự sống sẽ trở nên trù phú tốt tươi.
Lạy Chúa Giê-su, Đấng hiền lành khiêm nhượng, xin cho chúng con, những người môn đệ Chúa, biết chọn chỗ rốt hèn như nước, biết sống khiêm hạ như Chúa đã nêu gương.
.
Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Đọc Tin Mừng, thánh Luca kể chuyện Chúa Giêsu dự tiệc tại nhà một thủ lãnh các biệt phái, và có lời trách cứ từ khách dự tiệc đến chủ nhà, cảm nhận đầu tiên của tôi là, hình như Chúa Giêsu quá đáng. Sao Chúa lại “chơi quê” người khác đến vậy?
Đã là tiệc, luôn có hai đối tượng: chủ nhà và khách được mời dự tiệc. Thấy nhiều người được mời tìm chỗ nhất để ngồi, Chúa Giêsu lên tiếng: “Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người này’. Bấy giờ ngươi phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết…”. Nói như thế, khác gì đuổi khách dự tiệc: “Xuống đi, xuống chỗ chót mà ngồi…”.
Chưa dừng ở đó. Thấy toàn khách sang trọng tới dự, Chúa quay qua chủ nhà, ban cho ông mấy lời như tạt gáo nước lạnh: “Khi ông dọn tiệc, đừng mời bạn bè, anh em, bà con láng giềng giàu có… Hãy mời những người nghèo, mời những người què quặt, đuôi mù vì họ không có gì trả lễ…”.
Chúa Giêsu đúng là người thích gây sự? Với những lời chỉ trích công khai, chắc chắn Chúa sẽ bị không ít người thù ghét. Trong số những người thù ghét đó, chắc chắn có nhiều người nuôi lòng thù hận mãi về sau.
Nếu bạn và tôi đứng trong trường hợp của Chúa Giêsu, không đời nào làm như thế. Chúng ta không dám lên tiếng, không dám day dưa và chuyện người khác, càng không dám làm thầy đời của anh chị em mình. Bởi ta chẳng có tư cách nào để chỉnh đốn ai. Nhưng với Chúa Giêsu, luôn ý thức mình là Thiên Chúa, là Đấng mọi người phải tôn thờ, Người tự biết mình có quyền làm như vậy.
Đó là ý thức của Chúa Giêsu. Về phía chúng ta, nếu nhìn xa hơn và suy nghĩ sâu hơn bản chất của lời Chúa nói, ta sẽ phải đặt lại vấn đề: Có thật Chúa đang “chơi quê” người khác? Người gây sự với họ? Hoàn toàn không đúng như thế.
Nếu tôi gây sự với ai, muốn hạ nhục ai, thì hàm ý trong lời của tôi, chứa đựng sự thù ghét. Chúa Giêsu không nuôi lòng thù ghét để tìm cách vỗ vào mặt người ta, để trả thù và làm cho người ta sượng sùng. Chúa không bao giờ làm điều đó. Trong lời nói của Chúa Giêsu không hề chứa đựng ác ý.
Đúng hơn, Người rút ra từ những câu chuyện đời thường để dạy chúng ta, dạy mỗi người qua từng thời đại một bài học quý giá nào đó.
Bởi rút ra từ thực tế và từ kinh nghiệm cuộc sống, những bài học Chúa Giêsu trao ban đều dễ hiểu, dễ nhớ, cụ thể, phù hợp mọi nơi, mọi lúc. Bài Tin Mừng hôm nay có hai bài học quý giá, rút ra từ những lời phê phán đối với chủ và khách.
Bài học thứ nhất: sự khiêm nhường. Đối với khách dự tiệc, nếu Chúa bảo đừng ăn trên, ngồi trước, thì sau đó có một kết luận: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Bài học này làm ta nhớ lại lời ca tụng Chúa của Đức Maria: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 51-52).
Chúa luôn luôn yêu thương những ai khiêm nhường, những ai mang thân phận nhỏ bé. Từ ngàn xưa, lịch sử đã chứng minh lòng yêu thương đó.
Chẳng hạn, Để lãnh đạo dân Người, Chúa không chọn ai khác, nhưng lại chọn một Môisen ngọng ngệu. Để tiếp tục công cuộc giải phóng dân, Chúa nâng lên địa vị quốc vương một Đavít chỉ là đứa em bé bỏng, sức yếu, lực kém trong số các anh em. Chuẩn bị cho Con Một của mình làm người, Chúa chọn một vị tiền hô là Gioan Tẩy giả, sinh ra từ một người mẹ son sẻ, lớn lên giữa cảnh nghèo hèn chỉ có núi đồi làm bạn, hoang địa làm nhà cư trú…
Đến lược Chúa Giêsu, để chuẩn bị cho một dòng tộc cưu mang ơn cứu độ đời đời, Người tuyển chọn cho mình mười hai tông đồ dốt nát, đầy bất toàn, yếu đuối.
Chính Đức Maria là một bằng chứng về lòng Chúa yêu thương những người phận nhỏ. Muốn có một người mẹ để sinh ra làm người, Chúa không chọn bất cứ một phụ nữ trang đài nào, lại chọn Đức Mẹ, vốn là một thiếu nữ nghèo hèn, không tiếng tăm, chìm khuất giữa làng quê Nagiaret bình dị.
Đúng là “Chúa đã nâng cao những người phận nhỏ”, bởi một lẽ rất đơn giản: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
Còn bài học thứ hai, bài học của lòng bác ái. Nếu Chúa bảo ông chủ nhà hãy mời người nghèo, người thấp bé, ngưới tật nguyền dự tiệc, thì sau đó có một kết luận: “Ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại”.
Chúa yêu thương chúng ta. Người đòi chúng ta, một khi đã đón nhận lòng yêu thương, hãy chia sẻ tình yêu ấy cho anh chị em quanh mình, nhất là những người nghèo, người bất hạnh.
Chúng ta đừng quyên rằng, thực hành bác ái, sự trao ban và cho đi chính mình, lòng yêu thương quan tâm đến anh chị em xung quanh là tấm vé để chúng ta vào Nước Trời.
Hai bài học được rút ra từ Tin Mừng hôm nay có một tương quan rất lớn. Bởi lòng yêu thương bao giờ cũng cần khiêm nhường. Không có khiêm nhường thật, không bao giờ có bác ái, yêu thương đúng nghĩa, mà chỉ là khoe khoan, chỉ là sự bố thí nếu có cho ai cái gì.
Mặt khác, một người kênh kiệu, thích ra oai tác oái, làm sao có thể yêu thương người khác. Yêu thương và khiêm nhường là hai bài học của một thái độ sống. Nếu ta xưng mình là con Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa, chắc chắn thái độ sống của ta sẽ là sự khiêm nhường và bác ái thẳm sâu.
Bạn thân mến, chính vì nêu gương sống yêu thương và khiêm nhường, Chúa Kitô, Thiên Chúa quyền năng nhưng đã hạ mình sống kiếp phàm nhân.
Là Thầy Cả của mọi người, Chúa cúi mình rửa chân cho môn đệ.
Là Đấng bất tử và là chủ của sự sống, Người chấp nhận chết thương đau để cứu độ loài người.
Xứng đáng được tôn vinh trên trời cao thẳm, Người lại chọn cho mình chỗ rốt hết trong nhân loại.
Chúa Kitô chính là bài học sống động về tình yêu và lòng khiêm nhường cho tất cả những ai muốn nên giống Người.
Là Kitô hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm bài học sống động là chính cuộc đời Chúa Kitô và nghe theo lời Người dạy mà sống khiêm nhường và bác ái trong cuộc sống của mình. Biết chấp nhận sống như thế, chúng ta mới mong vững niềm hy vọng “sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại” (Lc 14, 14).
.
AM. Trần Bình An
Vào ngày Thứ Sáu, 28.11.2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu chuyến công du quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi máy bay hạ cánh tại phi trường Ankara-Esenboga, thay vì lên một chiếc xe limousine Mercedes bóng nhẫy, lộng lẫy, dành cho quốc khách, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại tự ý lên một chiếc xe Volkswagen Passat tầm thường, cùng ở trong đoàn xe đón ngài, khiến các quan chức Thổ bất ngờ, lúng túng không biết phải ứng xử ra sao.
Trước khi bắt đầu cuộc công du Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo Hoàng đã ngỏ ý không muốn đi xe sang trọng, nhưng chính phủ Thổ làm ngơ. Nhưng rồi họ cũng đành chấp nhận, khi ngài lên chiêc xe Volkswagen Passat không bọc sắt chống khủng bố. Khi đến thăm bảo tàng Hagia-Sofia-Museum, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng dùng xe Renault Clio rất nhỏ thay vì xe Mercedes sang trọng.
Quan sát viên cho rằng đây là một tấm gương khiêm nhường. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hiện thân của sự khiêm nhường đạm bạc, muốn bày tỏ với Tổng thống Thổ Recep Tayyip Erdogan vừa cho xây xong dinh thự tổng thống tốn đến hơn 500 triệu Euro. TT Erdogan là người chuộng sang trọng, xa xỉ, hệt như chính trị gia ở nhiều nước khác. (Duong Hong-An, Tấm Gương Khiêm Nhường)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đầy Tớ các đầy tớ của Chúa, đã dứt khoát từ chối sự ưu ái đặc biệt dành cho quốc khách, để hoà mình vào công chúng, theo như huấn dụ Tin Mừng. Trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu được mời dự tiêc trong ngày Sabat tại nhà một thủ lãnh Biệt phái. Thấy thực khách tranh giành nhau chỗ ngồi trên, Người giảng huấn về lòng khiêm nhường và yêu thương phục vụ.
Tự hạ
“Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa; vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa.” (Hc 3, 18) Lời giáo huấn của kinh sư Ben Xira sau này được Đức Giêsu tóm tắt cụ thể và súc tích hơn: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.” (Mc 9, 35) Lời Chúa không chỉ dành cho những người lãnh đạo có chức có quyền, mà còn dành cho tất cả mọi người, đều cần khiêm tốn, tự hạ đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Khiêm hạ trước Thiên Chúa, vì con người chỉ là tạo vật đầy khiếm khuyết, bất toàn, hữu hạn trước Đấng Tạo Hoá chí tôn toàn năng, vĩnh cửu. Tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Chúa trao ban nhưng không, từ thân xác, tinh thần, linh hồn, sở trường, trí tuệ, tài năng.”Tất cả là hồng ân,” như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm sống, tuy đời ngài ngắn ngủi, đầy gian nan, thử thách.
Trong tâm tình khiêm hạ, biết ơn, cảm tạ, nhạc sĩ Phanxicô đã thành tâm cảm nhận phận hèn con người, chẳng biết lấy gì báo đáp Đấng Tạo Hoá: “Lạy Chúa con chỉ là tạo vật, Chúa thật (í a) sang giàu. Có gì mà dâng Chúa đâu, có gì mà dâng Chúa đâu. Vì trước mặt Chúa Thái Sơn cũng mọn hèn, dòng sông cả mấy sâu có là mấy đâu. Giữa đời con đây nhỏ bé, biết tìm chi dâng tiến Ngài.” (Ns Phanxicô, Con chỉ là tạo vật)
Tiếp đến, mỗi người còn cần khiêm tốn với đời, vì biết bao học thuật, nghệ thuật, kiến thức được chắt lọc, tích luỹ từ hàng bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu công sức sáng tạo, tìm tòi, thử nghiệm, của các nhà thông thái, học giả, khoa học gia, nghệ sĩ. Chẳng qua, ai đó biết làm mới lại, đào sâu thêm, hay dựa vào đó sáng chế. “Điều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra: Dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ?” (Gv 1, 9)
Cuối cùng, ai cũng thật cần khiêm nhường với tha nhân, vì chẳng ai tài sắc vẹn toàn. Người được cái này, thì mất cái nọ. Cũng chẳng ai nắm tay thâu đêm. Nên luôn phải hãm mình khiêm hạ, chớ tự cao, tự đắc, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn, kinh rẻ, xúc phạm tha nhân, kẻo bị luận phạt. “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mt 5, 22) Hơn nữa, có khiêm nhường mới có thể nhận ra cái sai, cái thiếu sót, lỗi phạm của mình, để học hỏi, canh tân, nhờ tha nhân giúp đỡ, chỉ dạy.
Tóm lại, khiêm nhường là đức tính thiết yếu của thân phận làm người, dám can đảm chấp nhận sự thật của chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh, dẫu có bẽ bàng, yếu đuối, khiếm khuyết, tội lỗi, xấu xa, để biết ứng xử đúng đắn, lễ độ, cung kính, với Chúa và tha nhân. Với người Kitô hữu, càng nhất thiết phải sống thật khiêm hạ, vì Đức Giêsu “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), vì Người đã hết sức chân tình khuyên nhủ và mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhượng, tâm hồn anh em sẽ được nghỉ yên bồi dưỡng.” (Mt 11, 29. Nếu không thì “kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó.” (Hc 3, 28)
Trước nhan Thánh Chúa, dù đã làm tròn bổn phận và trách nhiệm cũng cần luôn khiêm nhường thân thưa:“Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (Lc 17, 10) Đừng vênh váo, kiêu căng kể lể, khoe khoang công đức, như dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ:“Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 19, 10-14)
Yêu thương phục vụ
Bữa tiệc của một thủ lãnh Biệt phái hôm nay phục vụ thật chu đáo, nhằm phô trương thanh thế, bánh ít đi bánh qui lại, vừa có tiếng lẫn có miếng. Nên ngoài Đức Giêsu và các môn đệ, thực khách còn lại toàn là các bậc vị vọng, đáng kính, đồng trang lứa, đồng vai vế, chức sắc, quyền cao chức trọng, “phe ta” cả. Chẳng hề thấy bóng dáng một người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù, sứt mẻ nào dám bén mảng đến. Nếu ông chủ tiệc hào phóng, tha thiết mời cả những kẻ bần cùng khốn khó ấy vào chung vui, thì chắc hẳn “ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại.” Nhưng sự khôn ngoan thế gian chẳng bao giờ dễ dàng chấp nhận như thế.
Tin Mừng luôn nghịch lý thế gian. Người thủ lãnh “không dùng quyền uy mà thống trị,” trái lại trở nên người phục vụ thân thương và chu đáo, như Đức Giêsu đã xác định công khai sứ vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22, 24-27). Vì thế, Người khuyên nhủ các môn đệ, các tín hữu Kitô hãy noi gương phục vụ: “Các con hãy biết rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 1-15)
Theo Đức Giêsu, phục vụ tha nhân hoàn toàn vô vi lợi, thắm tình yêu thương, bác ái, nhân ái, không phân biệt hay loại trừ bất cứ ai. Dân Việt ta có câu: “Thương người như thể thương thân,” cũng giống với Tin Mừng: “Hãy yêu người thân cận như chính bản thân mình.” (Mt 22, 35-40) Người thân cận nghèo khổ, đói rách, bệnh hoạn cần được giúp đỡ, chính là Đức Giêsu ẩn mình: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; …(Mt 25, 35-36)
“Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con khiêm nhượng thật.” (Đường Hy Vọng, số 509)
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu và soi sáng chúng con nhận biết mình là “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” trước Thiên Chúa chí thánh, để chúng con luôn biết khiêm hạ với Chúa và với tha nhân. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con luôn yêu thương phục vụ mọi người trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.
.
JM. Lam Thy ĐVD.
Cổ nhân sáng tạo ra bàn ghế chỉ có mục đích phục vụ cho cuộc sống con người. Chiếc ghế chỉ là một dụng cụ dùng để ngồi ăn uống hay làm việc trong sinh hoạt hàng ngày nơi gia đình hay những nơi công cộng tại làng xóm, rộng ra là xã hội. Cũng vì loài người coi trọng chức quyền, danh vọng, từ đó phân biệt ngôi thứ và chỗ ngồi trong xã hội, nên chiếc ghế trở thành một thứ hấp lực gây nên những cuộc tranh chấp. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình bằng mọi giá. Con người luôn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế. Chiếu trên, chiếu dưới, ghế cao, ghế thấp chẳng phải là chuyện cổ xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những bạn trẻ cố kiếm cho được mảnh bằng, ngõ hầu có được chỗ làm lương cao để ung dung hưởng thụ một chỗ ngồi trên chiếc ghế danh vọng trong xã hội. Mảnh bằng đó, nếu là do sự cố gắng “dùi mài kinh sử” (học tập) thì không có vấn đề gì; nhưng nếu là chạy chọt, mua bán những tấm bằng giả, ấy mới là chuyện đáng bàn.
Nhìn vào hương thôn Việt Nam thủa xưa sẽ thấy ngay cái hủ tục “mua quan bán tước” để giành chỗ ngồi (chiếc ghế) trong làng xã. Nhỏ thì mua nhiêu mua xã, lớn lên thì mua chức mua tước (từ trương tuần đến phó lý, rồi lý trưởng, phó tổng, chánh tổng v.v…). Tất cả đều phải mua bằng tiền (hoặc gán đất, gán ruộng). Rồi khi mua được những thứ đó, còn phải tổ chức khao vọng đãi tổ, đãi làng. Ngoài ra, nếu học hành đỗ đạt (từ Khoá sinh đến thi Hương, thi Hội, thi Đình) cũng đều phải tổ chức khao vọng (vinh quy bái tổ). Và nếu cứ đà ấy mà phất lên, đến tuổi lão niên sẽ được xếp vào “cỗ nhất” trong hương đẳng, đó là “tứ trụ” – 4 vị cao trọng nhất của làng: Ngồi thì ngồi chỗ cao trọng nhất, ăn thì được ăn những thứ được cho là ngon bổ nhất, như thủ lợn (đầu heo) chẳng hạn; bất cứ thứ gì dành cho “tứ trụ” cũng “nhất” hết trơn!.
Đã có không ít những cảnh cười ra nước mắt vì cái hủ tục này: Chồng lo chạy chọt mua được chức lý trưởng, bao nhiêu ruộng nương cầm cố cho bằng hết, cuối cùng phải cho vợ đi ở đợ (làm người giúp việc cho một gia đình giàu có), cho con đi làm tôi mọi cho người khác (ở những nơi thật xa làng để tránh thiên hạ chê cười, đàm tiếu), ngõ hầu có tiền trang trải nợ nần chồng chất vì cái chỗ ngồi của mình (câu tục ngữ “cầm vợ đợ con vì miếng đỉnh chung” đã nói lên cảnh này). Đi đâu cũng khăn đóng áo dài và gặp ai cũng được chào là “cụ lý”, “cụ chánh”, hách lắm; nhưng về đến nhà, chẳng có ai phục dịch miếng cơm chén nước, đêm nằm vắt tay lên trán mới thấm thía sự đời dâu bể!
Ngày nay, hủ tục khao vọng đình đám tuy không còn, nhưng lại nảy sinh những mưu ma chước quỷ để tranh bá đồ vương, tiếm quyền tiếm chức, tranh danh đoạt lợi, để được nổi danh nổi tiếng, tiền hô hậu ủng, xe hơi nhà lầu, võng lọng xênh xang. Và câu “một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” vẫn luôn luôn và mãi mãi đúng. Tâm lý chung con người ai chẳng muốn chọn cho mình phần tốt nhất, ai chẳng muốn đi ăn tiệc được ngồi vào cỗ nhất. Ngay đến các Tông đồ ở cận kề với Người Thầy luôn dạy dỗ môn đệ phải khiêm nhường, vậy mà cũng có hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an muốn ngồi cỗ nhất (bên tả và bên hữu Chúa: Tả hữu Thừa tướng của vua Giê-su!). Không phải chỉ có 2 môn đệ này đâu, mà các môn đệ khác cũng tỏ ra tức tối (“Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. ” – Mc 10, 41). Tức tối tức là ghen tị, là mong muốn mình phải được coi trọng hơn. Các kinh sư và Pha-ri-sêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Đến ngay cả Phi-la-tô vẫn cho rằng Ðức Giê-su vô tội, nhưng vì sợ mất ghế cao (Tổng trấn), nên vẫn cho đóng đinh Người. Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXII/TN-C – Lc 14, 1-7.14) cho thấy các khách dự tiệc cứ thích chọn ghế cao, cỗ nhất mà ngồi.
Thấu hiểu được tâm địa con người như vậy, nên Đức Ki-tô luôn răn dạy các môn đệ: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9, 35). Rõ ràng “Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”, nên Người mới dạy: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.” (Lc 14, 8-9). Người còn chỉ rõ những người ham ngồi “cỗ nhất”, đó là : “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.” (Lc 20, 46). Ngay đến cả việc đãi khách, mời khách dự tiệc, Người cũng dạy trái ngược với thông lệ của người đời: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có… Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù…” (Lc 14, 12-13).
Lời dạy của Đức Ki-tô mới thoạt nghe sẽ thấy là mâu thuẫn, khó chấp nhận được, chẳng hạn như Người muốn ai đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả, từ của cải vật chất đến cha mẹ anh em họ hàng, kể cả từ bỏ chính mình. Trong khi đó, Người lại dạy phải yêu thương mọi người như yêu thương chính bản thân mình, thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù của mình nữa. Tuy nhiên, suy nghĩ cho thấu đáo, thì thấy Đức Ki-tô chuyên dùng dụ ngôn với những cách nói tương phản, phản đề, cốt ý nhấn mạnh để nêu bật ý chính (chủ đề). Như Lời dạy trên, nếu trích đầy đủ, sẽ là: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14, 12-14). Và như vậy, mục đích nhắm tới của Lời dạy là “ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” Rõ ràng Đức Giê-su chỉ luôn mong muốn Lời dạy của Người có tác động mạnh mẽ, làm cho người nghe hiểu được ý nghĩa sâu xa và cái mục đích tối hậu cần đạt tới.
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, Đức Ki-tô chỉ muốn dạy môn đệ đức tính khiêm nhu tự hạ. Và nếu anh biết khiêm nhường chịu luỵ, anh sẽ được mời lên ngồi “cỗ nhất”. Anh đừng nghĩ khi được ngồi cỗ nhất là anh sẽ được kẻ hầu người hạ, anh sẽ vênh vang nhìn đời bằng nửa con mắt. Trái lại, “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.” (Hc 3, 18), “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mt 20, 43-44). Khiêm nhường cũng có nhiều cách thể hiện, có thể thực lòng và cũng có thể màu mè bên ngoài, thậm chí còn có trường hợp giả bộ khiêm nhường để nói móc, nói xỏ nói xiên. Và cũng vì thế nên cách đây 2.000 năm, Đức Giê-su Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người khó nghèo và dùng chính cuộc sống cùng những Lời truyền giảng của Người để dạy dỗ loài người về đức khiêm nhường. Người đã khiêm nhường vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu để cái tính kiêu ngạo của loài người hành hạ, đánh đòn, sỉ nhục, đóng đinh Người trên thập tự. Người đã thức tỉnh nhân loại bằng cách hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Tuy nhiên, cho đến ngày nay, thử hỏi đã được bao nhiêu người ý thức được tội kiêu ngạo đứng hàng đầu trong 7 mối tội đầu, hiểu được chính tội kiêu ngạo đã đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá? Và chẳng hiểu có được bao nhiêu con người dám hy sinh chỗ ngồi “cỗ nhất” (chưa dám nói hy sinh mạng sống mình) cho anh em, cho đồng loại, để sẵn sàng xuống ngồi “chỗ cuối” mà phục vụ mọi người? Quả thực “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó.” (Hc 3, 28). Ôi! “Lạy Chúa, mọi sự tốt lành đều bởi Chúa mà ra, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển, và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện nhập lễ CN. XXII/TN-C).
.
Lm. Phạm Thanh Liêm
Ai cũng thích được trọng vọng; tuy nhiên Lời Chúa hôm nay dạy con người sống khiêm nhường. Ai sống khiêm nhường, sẽ được yêu thương và hạnh phúc.
Khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình
Có một số người tưởng rằng, khiêm nhường là phải nhận mình là dở nhất hoặc mình chẳng có gì hay. Vì quan niệm như vậy, nên có người thấy mình có điều hay, cũng không dám nhận và còn phủ nhận điều đó. Thật sự, khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình. Điều rất căn bản mà những người khiêm nhường xác tín: “tất cả những gì mình có hoặc hay hơn người khác, là ơn Chúa ban, chứ tự mình thì không chừng mình còn tệ hơn cả những người tệ nhất”.
Khiêm nhường là chấp nhận mình như “mình là”. Chấp nhận điều hay mình có, để tạ ơn Chúa. Chấp nhận điều dở như mình là, để “khiêm nhường”, không buồn phiền, không dằn vặt, không oán trách hay càm ràm con người hay Thiên Chúa. Nếu mình có gì hay, và cũng có thể hay hơn người khác, hãy “khiêm tốn”nhận thực rằng, nhờ ơn Chúa mà mình có được điều đó. Nếu nhờ ơn Chúa mà mình hay hơn người khác, vậy thì tại sao mình lại hành xử như thể do tự mình mà mình có điều đó? Nếu nhờ ơn Chúa mà mình có điều đó, thì đâu có gì để vênh vang tự hào!
Hay không kiêu, dở không thất vọng! Đó là thái độ của người khiêm nhường. Nhận thấy mình hay, hoặc được người khác khen mình, hãy tạ ơn Chúa. Trong trường hợp này, Chúa được tôn vinh. Con người nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho họ.
Người khiêm nhường có thể sống với mọi người
“Càng khiêm nhường, càng trở nên tuyệt, và càng đẹp lòng Thiên Chúa”. Một người khiêm nhường, là người “đẹp”. Họ không khinh người kém hơn họ, hơn nữa, họ luôn kính trọng người khác, và coi mình cũng như tất cả mọi người, nếu họ có gì hay, đó là do được ban cho, chứ tự họ, họ cho rằng họ cũng bình thường và không chừng còn dở hơn mọi người.
Người khiêm nhường, là người đề cao Thiên Chúa trong đời sống. Những người kiêu ngạo, thường cho mình hơn người khác, đòi người khác đối xử với mình cách đặc biệt như mình muốn. Hình ảnh của người đi dự tiệc muốn ngồi chỗ nhất trong dụ ngôn Đức Yêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là một thí dụ. Người không khiêm nhường, dễ làm cho người khác khó chịu, đặc biệt những người “kiêu ngạo”như họ. Họ đòi ngồi chỗ nhất, đòi người khác phải chào hỏi, đòi người khác phải xưng hô với họ thế này thế kia.
Người khiêm nhường, không ước vọng quá sức mình. Chấp nhận mình như mình là, chấp nhận mình như Chúa muốn vậy, và an bình trong cuộc sống của họ. Nói như vậy, không có nghĩa là những người “khiêm nhường”này không phấn đấu hoặc không cố gắng. Một khi họ đã cố gắng hết sức, họ chấp nhận kết quả một cách an bình. “Không tìm điều ngoài sức mình”.
Đức Yêsu- người khiêm nhường tuyệt vời
Đức Yêsu, vốn là Thiên Chúa, nhưng đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự huỷ trở nên một người phàm (Pl.2, 6). Người yêu thương người khác, bất chấp họ cư xử như thế nào với mình, vẫn yêu thương và chấp nhận họ, đó là người khiêm nhường tuyệt vời.
“Yêu mến là chu toàn tất cả lề luật”. Yêu mến bao gồm mọi nhân đức. Yêu mến, là chấp nhận người khác như họ là, và cố gắng giúp họ trở nên tốt hơn, ngay cả phải chết. Những người này, khi làm như vậy, đang trở nên giống Đức Yêsu, đang trở nên một Yêsu khác.
Thập giá, ngày xưa, bị coi là dấu chỉ của sự đáng nguyền rủa và bị khinh bỉ. Hôm nay, với tình yêu và cái chết của Đức Yêsu, thập giá trở thành dấu chỉ của tình yêu, dấu chỉ của sự chiến thắng. Ước gì mọi Kitô hữu đều giống Thầy Chí Thánh, khiêm tốn và yêu thương đối với mọi người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Có người cho rằng, khiêm nhường đồng nghĩa với giả hình và nhu nhược. Bạn trả lời sao?
- Theo bạn, tại sao người ta thường không muốn nhận sự thật về chính mình?
- Bạn có nghĩ rằng, khiêm nhường giúp người ta dễ sống hạnh phúc không? Tại sao?
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước.
Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi hai bên tả hữu Thầy Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội, vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy các khách dự tiệc cứ chọn ghế nhất mà ngồi.
Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế.
Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những bạn trẻ cố kiếm được mảnh bằng và chỗ làm lương cao để ung dung hưởng thụ một chỗ đứng trong xã hội.
“Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên.”
Đức Giêsu mời ta vượt qua thói háo danh, để sống khiêm tốn.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên.
Khiêm tốn không phải là coi thường mình hay sợ người khác.
Khiêm tốn không phải là rụt rè, không dám nhận trách nhiệm.
Khiêm tốn là biết mình đã nhận tất cả từ Chúa, và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân.
Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất.
Chiếc ghế không phải là mục đích họ cần chiếm được, nhưng là phương tiện để phục vụ mọi người.
Chức vụ cho họ cơ hội cúi xuống thật gần với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ.
Người khiêm tốn không tự tìm vinh quang cho mình, họ hồn nhiên vô tư để Thiên Chúa tự do định liệu.
Chúng ta dễ đánh giá người khác dựa trên ghế của họ. Nhưng một người quét đường có lương tâm còn giá trị hơn một giám đốc tham ô lãng phí.
Đức Giêsu nói đến việc chọn khách để mời ăn. Ngài khuyên nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Ngài đưa chúng ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh.
Chúng ta thường thích giao du với người có thế giá, có học thức, có của cải, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, kém cỏi về mọi mặt.
Hãy ra khỏi thế giới quen thuộc của mình, để đến với những người cần chúng ta hơn.
Bao trẻ em ở vùng xa cần giáo viên. Bao bệnh viện ở các huyện cần bác sĩ.
Ước gì chúng ta hạnh phúc khi cho không tính toán vì thấy mình đã nhận được gấp trăm điều mình cho.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những hình thức khiêm nhường giả tạo? Một người khiêm nhường thực sự phải là người như thế nào?
Trong môi trường bạn sống, bạn có thấy những người bất hạnh, ít được nâng đỡ quan tâm không? Bạn đã làm gì để giúp họ?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
.
Lm. Jos. DĐH.
Sống trên đời, lạ kỳ ở chỗ người ta không tranh giành nhau làm việc bác ái, tại sao ta không thể ca ngợi tán dương một người đang bất hòa với mình ? Ấy vậy, người ta thường thích được đề cao, muốn được người khác xem mình là nhân vật quan trọng. Dù hiệu quả trong “đối nhân xử thế” ta cho rằng, biết khen đúng chỗ, chê đúng nơi, mọi người mới thán phục, kính nể. Vị trí của tôi là gì trong hiện tại, thì vẫn phải sống đúng, sống đẹp, chu toàn bổn phận mình trong tương quan gia đình và xã hội, trước ơn gọi làm con Chúa.
Là học sinh sinh viên các em có quyền mơ tưởng tới danh hiệu xuất sắc, giỏi, đoạt giải nhất, giải nhì… Ở gia đình anh chị em có thể ganh tỵ nhau vì được yêu nhiều, yêu ít ; nhưng do các em trẻ con, hoặc chưa trưởng thành, nên cha mẹ, xã hội, tạm chấp nhận được. Cách cư xử nơi người lớn, nếu chỉ quy chiếu về hơn thiệt : hòn đất ném đi, hòn chì ném lại ; hoặc có qua có lại mới toại lòng nhau. Gia đình, xã hội, sẽ đi về đâu, vì tính toán thái quá, người ta chỉ thấy xã hội có lý mà không có tình, có yêu mình, nhưng không biết yêu tha nhân nữa !
Quan niệm đẹp, xấu, đặt giá trị cao thấp sang hèn, sống lý tưởng đơn giản hay phức tạp, cũng đều phát xuất từ hoàn cảnh gia đình, từ môi trường xã hội. Để minh chứng vị trí của mình nơi cuộc sống, cha ông chúng ta dạy con cháu : khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Chúa Giêsu hôm nay Ngài nói tới bài học khôn ngoan, khiêm tốn, khi giới thiệu dụ ngôn đi ăn tiệc, nhằm ý thức mỗi người cần xác định vị trí của mình, hiểu mình là ai, và áp dụng luật yêu thương vào cuộc sống cho thật ý nghĩa.
Sở dĩ có tranh chấp hơn thiệt, có đòi hỏi vị trí cao thấp, chỗ nhất chỗ nhì nơi cộng đồng xã hội là vì thiếu hiểu biết, chưa xác định được đâu là hạnh phúc thật trong Nước Chúa. Thực tế cho thấy, không phải cứ ai khỏe mạnh, dành được ghế số một trong bàn tiệc, đó là chủ tiệc. Đâu phải cứ khoác lên mình chiếc áo “blouse trắng”, người khác sẽ gọi ta là bác sĩ ? Đâu phải là nhìn mặt đặt tên theo kiểu : cứ người ăn mặc sang trọng, tướng tá cao to, khuôn mặt xinh đẹp…, đó là người tài giỏi nhất, người bề thế nhất, đáng kính trọng hơn ?
Khi được mời đi ăn tiệc, Chúa Giêsu nói rằng đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người quan trọng hơn… Thực ra, Ngài không có ý khuyên người ta tìm kiếm chỗ khuất, chỗ kém vinh dự trong buổi tiệc, hoặc là cần có chiến thuật, chiến lược trong các tương quan xã hội. Sự sai lầm mà Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy cảnh giác, đó là đừng lầm tưởng cứ tranh giành cho mình cái chỗ “hư danh” trong bàn tiệc trần gian, là được cả bàn tiệc thiên quốc.
Đừng giả nai, giả hưu, để ảo tưởng vị trí thật của mình trong xã hội, nhưng hãy thực hành bài học yêu thương trong cuộc sống hiện tại của mình. Đúng là cái ghế, hay chỗ đứng ở công ty xí nghiệp, bao giờ cũng quan trọng, vì xã hội vẫn căn cứ vào vị trí, bằng cấp, để định mức lương, liên hệ công việc, phù hợp với những cố gắng nỗ lực họ đầu tư. Hơn nữa, chỗ nhất nơi bàn tiệc không phải là chỗ ăn ngon hơn, có chăng, vì cái ghế số 1 đó làm cho họ vinh dự hơn, mọi người kính nể hơn khi sống ở đời này.
Kinh nghiệm cũng cho thấy, khước từ một tiếng khen, dễ lắm, nhưng đón nhận một lời chỉ trích, lại rất khó. Rõ ràng chúng ta đã nằm lòng câu nói của tiền nhân : ai khen ta mà khen phải, kẻ ấy là bạn ta ; ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta. Tiếc thay, bàn tiệc gia đình, bàn tiệc xã hội, chỉ có một ghế nhất, vì vậy mà ngay trong gia đình, xã hội vẫn có những người ganh tỵ, đòi hỏi chỗ nhất, tranh giành quyền lực, muốn được vinh dự trần thế.
Chỗ quan trọng, vị trí cần thiết nơi bàn tiệc thiên quốc, đó là có Chúa, có tình yêu thương giữa người được chọn gọi, giữa những ai biết thực thi tình bác ái trước ơn ban của mình. Nhiều người chúng ta đây cũng từng đọc câu ca dao : bực mình đem lửa đốt trời, ai hay lửa cháy lửa rơi xuống đầu. Đại ý cha ông ta có ý nhắc nhớ là hãy ăn ở khiêm nhường, đừng hành xử bằng thái độ tự cao tự đại, đừng lầm tưởng khả năng hiểu biết của mình sẽ phá đổ được kẻ nghịch với ta.
Thiết tưởng ai cũng hiểu sống khỏe là hạnh phúc hơn bệnh tật, được mời dự tiệc là vinh dự hơn phải “chầu rìa” ; được mời dự tiệc Nước Trời là hạnh phúc hơn chỉ ngồi bàn tiệc trần gian. Đúng là mâm cao cỗ đầy, nhà cao cửa rộng hay chức trọng quyền uy…, luôn hấp dẫn, và là niềm mơ ước của nhiều người. Do đó không lạ gì khi mà anh chị em, cộng đồng xã hội thời nào người ta cũng phấn đấu, tìm kiếm, có khi dùng cả thủ đoạn để đạt mục đích ấy. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, có phải là khẩu hiệu không, vì cái bên ngoài người ta có thể sơn phết, làm mới lại, nhưng bản chất là gỗ mục, thì dù sơn phết tu sửa cũng hoài công thôi.
Không tìm hư danh ở đời này là biết ý thức sống vị trí của mình tại cuộc sống này rồi ; biết sống thế nào để được Chúa mời dự tiệc đó là khôn ngoan, là hạnh phúc. Người xưa có câu, tự khiêm thì người ta càng phục, tự cao thì người ta càng khinh. Có khoe thì hãy khoe mình là con cái Chúa, là môn đệ Chúa, có tỏ ra mình là khôn ngoan thì đừng phân biệt, chọn lựa đối tượng khi thực thi bác ái. Giả nai, giả hình, đều không thật, biết được vị trí của mình là ai, hẳn cũng biết phải sống, biết thể hiện niềm tin của mình trong chiếc áo cưới mà ta sẽ mặc dự tiệc ngày sau hết. Amen.
.
KHIÊM TỐN PHỤC VỤ TRONG CÁCH ĐỐI NHÂN XỬ THẾ
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 14,1.7-14
(1) Một ngày Sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: Họ cố dò xét Người. (7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: (8) “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10) Trái lại, khi anh được mời thì hãy ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. (12) Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. (13) Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. (14) Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
- Ý CHÍNH:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các người Pharisêu và cũng dạy các môn đệ của Người hai bài học về cách đối nhân xử thế: Một là khi được mời dự tiệc phải biết hành xử khiêm tốn bằng cách tránh tranh giành chỗ ngồi hơn kém. Hai là các người chủ tiệc phải tránh phân biệt đối xử để mời cả những người nghèo khó, tàn tật… đến tham dự. Đây là điều kiện để được Chúa mời tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau.
- CHÚ THÍCH:
– C 1: + Đức Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu: Tin mừng Luca cho thấy người đứng đầu nhóm Pharisêu ở đây có thiện cảm với Đức Giêsu, nên đã mời Người đến nhà mình dùng bữa (x Lc 11,37), + Dùng bữa: Tin mừng ghi lại nhiều sinh hoạt của Đức Giêsu liên quan đến việc dùng bữa: Dự tiệc cưới tại Cana (x. Ga 2,2), dự tiệc do người Pharisêu khoản đãi (x. Lc 14,1), ăn bữa cơm gia đình ở làng Bêtania (x. Lc 10,38-42), đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi (x. Mt 9,10), hai lần nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng (x. Mt 14,19-21; 15,36-38), dùng bữa Tiệc Ly với các môn đệ trước cuộc khổ nạn (x. Lc 22,14-20). Ngoài ra, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu cũng dùng bữa tối với hai môn đệ tại làng Emmau (x. Lc 24,30), Người ăn cá nướng trước mặt các môn đệ (x. Lc 24,41-43), và cùng ăn bữa sáng với các ông tại bờ hồ Galilê (x. Ga 21,9-13).). + Họ cố dò xét Người: Ở đây những người Pharisêu dò xét không phải để bắt lỗi, nhưng chỉ để tìm hiểu về Đức Giêsu.
– C 7-9: + Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi: Đây là thái độ biểu lộ thói kiêu ngạo của người Pharisêu khi luôn tìm kiếm hư danh trước mặt người khác. + Khi anh em được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất…: Đức Giêsu dạy bài học khôn ngoan và phép xã giao khi tham dự tiệc cho người Pharisêu và các môn đệ.
– C 10-11: + Thì hãy ngồi vào chỗ cuối, để người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”…: Điều kiện để được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa là phải trở nên như trẻ nhỏ (x. Mt 18,3-4). Cần ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, coi mình chỉ là đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), để không cậy vào sức riêng khi làm các công việc siêu nhiên, nhưng biết cậy trông vào ơn Chúa giúp (x. Ga 15,5). + Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống…: Tội nặng nhất chính là tội kiêu ngạo và ngược lại, nhân đức lớn nhất là đức khiêm nhường như lời ca ngợi Thiên Chúa của Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Thánh Phaolô cũng đề cao sự khiêm hạ của Đức Giêsu trong thư gửi tín hữu Philip (x Pl 2,6-11). Chính Người đã hạ mình rửa chân cho môn đồ trước khi dạy các ông bài học thể hiện tình yêu thương lẫn nhau (x Ga 13,14).
– C 12-14: + Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè… Lời dạy của Đức Giêsu trái với lối ứng xử của người đời. Những hạng người được Đức Giêsu đề cập tới ở đây đều là những người nghèo: Nghèo tiền bạc (so sánh với Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh đến sự nghèo khó trong tâm hồn), bé mọn (x. Lc 10,21), khiêm hạ (x. Lc 18,14). Chính Đức Giêsu cũng được sinh ra như một người nghèo. Qua câu này Người kêu gọi mọi người hãy đối xử tốt với những ai đang lâm cảnh khốn cùng, làm ơn cho những người không có khả năng báo đáp. Đó là điều kiện để được vào Nước Trời đời sau.
- CÂU HỎI:
1) Hãy kể ra những lần Đức Giêsu dùng bữa được ghi trong Tin mừng ? 2) Khi dạy người dự tiệc chọn ngồi chỗ cuối để được chủ nhà mời lên cỗ trên. Phải chăng đó cũng là một hành động kiêu ngạo ? 3) Đức Giêsu đã dạy thế nào về giá trị của đức khiêm nhường ? 4) Thánh Phaolô dạy về gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giêsu ra sao trong thư thứ hai gửi giáo đòan Philíp ? 5) Tội nặng nhất khiến Luxiphe và các thần dữ phải sa hỏa ngục và ông bà nguyen tổ Ađam Evà bị đuổi ra khỏi địa đàng là tội gì ? 6) Đức Giêsu đã dùng phương thế nào để ban ơn cứu độ, giải thóat lòai người khỏi chết và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).
- CÂU CHUYỆN:
2.1. KHIÊM TỐN SẼ ĐƯỢC MỌI NGƯỜI KÍNH TRỌNG YÊU MẾN:
Sách Trang Tử có thuật lại câu chuyện như sau: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa. Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
2. 2. CUỘC BIẾN DẠNG KỲ LẠ SAU BẢY NĂM PHÓNG ĐÃNG:
Họa sỹ kiêm điêu khắc gia thiên tài LEONARDO DA VINCI đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly trong vòng 7 năm. Đó là bức tranh Đức Giêsu và 12 Tông đồ đang dùng bữa ăn cuối cùng trước khi Người chịu tử nạn. Cuộc đi tìm khuôn mặt làm người mẫu rất khó khăn: Giữa hàng ngàn thanh niên, họa sĩ mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện và thanh khiết tuyệt vời để vẽ Đức Giêsu.
Sáu năm tiếp theo ông mới vẽ xong 11 Tông đồ, chỉ còn người môn đồ phản Thầy Giuđa là chưa vẽ. Họa sỹ đã bỏ ra nhiều công sức để tìm kiếm một người đàn ông có khuôn mặt cực kỳ gian ác làm mẫu vẽ Giuđa. Cuối cùng ông đã tìm được tên tử tội ở Rôma có khuôn mặt thích hợp để vẽ kẻ phản bội. Người tử tù này đã từng giết người và cướp của. Được phép của Hoàng đế, tên tử tội được đưa tới Milan nơi bức tranh đang vẽ dở dang. Khi nét vẽ cuối cùng được hoàn thành, Leonardo bảo người lính gác mang người tử tù đi, nhưng bỗng nhiên hắn ta vùng vẫy và quỳ xuống bên người họa sỹ khóc nức nở: “Ôi, ngài Da Vinci, ngài không nhận ra tôi sao? Tôi chính là người mà 7 năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Đức Giêsu!”.
Quả thật, chỉ có 7 năm thôi mà cuộc sống trác táng tội lỗi đã làm biến dạng một người có khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu trở thành người mang gương mặt xấu xa của Giuđa! Đó là sự biến đổi lạ kỳ trong quá trình hình thành bức tranh “Bữa Tiệc Ly” nổi tiếng.
Nhưng cũng trong bữa tiệc ly này còn có một sự đảo ngược kỳ lạ hơn nữa: Đức Giêsu, vốn là Thầy là Chúa nhưng đã tình nguyện làm việc của người tôi tớ phục vụ, khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đó chính là bài học khiêm hạ mà Đức Giêsu muốn dạy cho mọi tín hữu chúng ta hôm nay.
2.3. CÂU CHUYỆN XỬ SỰ CỦA HAI CON DÊ NÚI:
Một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên con đường nhỏ hẹp sát bên sườn núi, một bên là vách núi cao cheo leo, bên kia lại là vực sâu thăm thẳm, có hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con đi qua, nên hai con dê đứng đối đầu nhau không biết làm gì để tiếp tục đi. Nếu chen lấn, chúng chắc sẽ bị rơi xuống vực thẳm tan xương nát thịt. Sau cùng chúng đã nghĩ ra một cách hoàn hảo: một con dê đã chịu qùy mọp xuống đất để con kia bước qua thân mình. Thế là sau đó cả hai lại có thể tiếp tục đi theo con đường của mình.
2.4. NGƯỜI HUẤN LUYỆN CÁ HEO KHIÊM TỐN:
Cách đây ít lâu, tại bang Phờloriđơ (Florida) Hoa Kỳ, tờ Thời báo Xanh Pitơbớc (St Petersburg Times) có đăng một câu chuyện thú vị về Đông Sulơ (Don Shula), huấn luuyện viên của đoàn cá heo ở Maiơmi (Miami). Ông đang cùng vợ con nghỉ hè tại một thị trấn nhỏ ở miền Bắc tiểu bang Maiơmi. Vào một buổi chiều nọ, vì trời mưa nên Sulơ cùng vợ và 5 đứa con quyết định đi xem một xuất phim đang chiếu tại rạp hát của thị trấn. Khi họ đến nơi thì đã trễ mất 10 phút. Thế nhưng họ thấy đèn trong rạp vẫn còn sáng báo hiệu phim vẫn chưa bắt đầu. Khi Sulơ và gia đình bước vào trong rạp thì tất cả 6 người đang ngồi ở băng ghế đầu liền hân hoan đứng dậy hướng về phía họ và vỗ tay hoan hô. Sulơ vừa vẫy tay chào lại vừa mỉm cười đáp lễ. Sau khi đã ngồi vào chỗ, Sulơ quay sang nói với bà vợ: “Chúng ta từ Maiơmi cách xa cả ngàn dặm đến đây, thế mà người ta vẫn nhận ra và đón tiếp anh thật nồng nhiệt! Chắc hẳn là đám cá heo trình diễn trên truyền hình đã lan đến tận nơi ngõ ngách này!” Ngay lúc đó, một người đàn ông tiến lại bắt tay và Sulơ đã vui vẻ hỏi ông ta rằng: “Làm sao ông bạn biết tôi sắp đến đây xem phim để chào đón tôi như vậy?” Ông ta trả lời: “Thưa ông, tôi chẳng biết ông là ai cả. Chẳng qua là ngay trước khi gia đình ông bước vào rạp hát, viên quản lý rạp có nói với chúng tôi rằng: “Trong vòng 15 phút nữa, nếu không có thêm 4 khán giả nào vào rạp thì ông ta sẽ buộc phải trả lại tiền vé và hủy bỏ xuất chiếu này”. Vì thế khi thấy gia đình ông đến vừa đủ 4 người theo yêu cầu của quản lý rạp, nên chúng tôi rất vui mừng và giờ đây tôi đến để cám ơn gia đình ông đã đến kịp thời, giúp chúng tôi khỏi phải về không”.
Câu chuyện trên làm sáng tỏ giáo huấn của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: Người đòi các tín hữu chúng ta phải khiêm tốn noi gương Người. Đông Sulơ đã thể hiện sự khiêm tốn ấy: Là một huấn luyện viên cá heo tài giỏi, nên cũng thật tự nhiên khi Sulơ nghĩ rằng những người trong rạp hát đã nhận ra ông là ai. Đến khi người đến bắt tay cho biết mình chẳng hề biết ông thì Sulơ lại là người đầu tiên tự chế giễu mình. Ông rất vui khi phát hiện ra điều này, nên đã kể chuyện đó trên báo cho nhiều người biết về thói háo danh của ông, điều mà bình thường lẽ ra ông đã phải giấu kín. Chỉ người nào thực sự khiêm tốn mới làm được như Sulơ mà thôi !
- SUY NIỆM:
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các người biệt phái hai bài học như sau: Một là nếu họ là khách được mời thì cần khiêm tốn để ngồi vào chỗ xứng hợp với mình, tránh cảnh “trèo cao té đau”. Hai là nếu họ là chủ nhà thì phải quan tâm mời cả những người nghèo khó bệnh tật đến dự tiệc nữa. Cũng vậy, bàn tiệc Nước Thiên Chúa cũng chỉ dành cho những ai có lòng khiêm hạ và có tinh thần nghèo khó (x. Lc 14,21). Vậy khiêm hạ là gì ? Phải chăng khiêm hạ là phủ nhận giá trị thực sự của mình ? Ta phải làm gì để học gương khiêm hạ của Đức Giêsu ?
1) Gương khiêm hạ của Đức Giêsu và Thánh Mẫu Maria:
– Khiêm hạ hay khiêm nhường là thái độ tự hạ mình xuống trong khi giao tiếp với tha nhân. Người tín hữu cần học tập theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu vè sự khiêm hạ này như Người đã dạy: ”Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Đức Giêsu «vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế… » (Pl 2,6-7). Tuy là Thầy là Chúa, nhưng Người đã nêu gương khiêm nhường cho các môn đệ khi tự hạ mình rửa chân cho các ông trong bữa tiệc ly và sau đó dạy các ông cũng phải khiêm hạ rửa chân phục vụ lẫn nhau (x Ga 13,14-15). Hơn nữa, Đức Giêsu còn nêu gương khiêm hạ «vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá» (Pl 2,8). Tin mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện: Khi được viên thủ lãnh các người biệt phái mời đến nhà dự tiệc, Đức Giêsu thấy một số khách thuộc nhóm biệt phái tranh nhau ngồi chỗ nhất trong bàn tiệc. Người đã dạy họ như sau: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia đành phải đến nói với anh: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ để xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14,8-9).
– Khiêm nhường tự hạ noi gương Đức Maria: Trong biến cố truyền tin, khi được sứ thần chào là đấng «đầy ân phúc luôn có Chúa ở cùng», Đức Maria đã tự xưng là nữ tì của Thiên Chúa và đã cúi đầu «xin vâng» như lời sứ thần truyền (x Lc 1,38). Sau khi nghe biết bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, Đức Maria đã vội vã lên đường đến thăm và chào hỏi bà trước. Cuối cùng ngài còn ở lại để giúp đỡ phục vụ bà trong suốt ba tháng cuối, cho đến khi bà sinh con mới trở về nhà mình (x Lc 1,39-56).
2) Phân biệt giữa khiêm nhường thật với khiêm nhường giả tạo: Đức khiêm nhường không phải là giả vờ tự hạ để chờ được người khác tôn lên. Khiêm tốn cũng không phải là thái độ tự ti mặc cảm, tự khinh bản thân hay trốn tránh trách nhiệm… Nhưng là ý thức khả năng và ưu điểm của mình là do Chúa ban, rồi quy mọi vinh quang về cho Thiên Chúa, noi gương Đức Maria khi được bà Êlisabét khen có phúc, Mẹ đã dâng lời ca ngợi Chúa trong kinh Manhiphicát như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn !” (Lc 1,48-49). Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay sợ ngồi vào ghế nhất, nhưng đối với họ: chiếc ghế không phải là mục tiêu phải đạt được, nhưng chỉ là phương tiện để có thể phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Người khiêm tốn sẽ luôn ý thức về thân phận yếu đuối của mình nên sẽ bình tĩnh khi nghe người khác phê bình, và sẵn sàng nhận lỗi để khắc phục những sai sót. Người khiêm tốn không tự tìm vinh danh cho mình, nhưng luôn cố gắng làm hết sức mình rồi phó thác thành bại cho Chúa quan phòng.
3) Thiên Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo: Đức Giêsu đã ca tụng Chúa Cha “Vì đã mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn…” (x Mt 11,25). Những kẻ bé mọn ở đây là những người khiêm nhường tự hạ. Đức Giêsu đã yêu thương những kẻ khiêm nhường và quở trách bọn người tự cao giả hình: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác”(Mt 23,27-28).
4) Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giêsu ?
– Phải tránh thói kiêu ngạo:
Tránh tự ái cao: Không dễ nổi nóng khi nghe người khác phê bình mình hay kể tội người thân của mình. Tránh nói to tiếng xúc phạm đến người khác.
Tránh “nổ” nghĩa là khoe khoang thành tích để tự đề cao mình, và chứng tỏ mình trổi vượt hơn người khác.
Tránh thái độ ganh ghét đố kỵ những ai hơn minh qua việc dèm pha nói xấu những ai hơn mình, nhằm hạ giá trị của họ.
Tránh thái độ độc đoán háo thắng: Người kiêu ngạo thường cao ngạo nên không chấp nhận những ý kiến đối lập, không muốn nghe những sự góp ý của thuộc cấp, nên công việc họ làm khó thăng tiến phát triển.
– Tập sống khiêm nhường như sau:
Cần nhìn nhận cả ưu lẫn khuyến điểm của mình. Trong việc tông đồ cần nhận ra sự yếu đuối bất toàn của mình để khiêm tốn xin ơn Chúa giúp, như Đức Giêsu đã dạy môn đệ: ”Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5b).
Tập nhận ra những ưu điểm của người khác và thành thật khen ngợi họ.
Tập chọn phần thua thiệt: quyền lợi ít hơn và trách nhiệm nhiều hơn anh em.
Tập đi bước trước đến với tha nhân hơn là đòi họ phải đến với mình trước.
Tập nói năng bình tĩnh vừa đủ nghe khi sửa dạy con cái hay thuộc cấp.
Tập làm những việc nhỏ bé tầm thường ít ai muốn thực hiện.
Tập nhận nguyên nhân thành công là do ơn Chúa giúp và là kết quả của tập thể. Khi thất bại thì nhận là do sự thiếu sót bất toàn của mình và tránh đổ lỗi cho hoàn cảnh hay cho người dưới.
Chỉ những ai biết hóa nên như trẻ nhỏ mới được Thiên Chúa yêu thương và được Người đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này (x Lc 9,48).
Tóm lại, khiêm nhường là học tập theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu như Người đã nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Khiêm nhường còn là sẵn sàng rửa chân phục vụ tha nhân trong tình yêu thương (x. Ga 13,4.14), nhất là hiến thân phục vụ người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi để nên giống Đức Giêsu, Đấng “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 35-45).
- SỐNG LỜI CHÚA:
1) Kẻ kiêu ngạo thường biểu lộ qua cử chỉ lời nói nào khi tiếp xúc với tha nhân ? 2) Người khiêm nhường giả tạo thường biểu lộ qua những câu nói nào ? 3) Người hay la lối to tiếng và dễ tức giận khi kẻ dưới làm trái ý mình có đức khiêm nhường không ? 4) Khi nghe người khác phê bình mình trực tiếp hay qua người trung gian, chúng ta nên phản ứng thế nào để thể hiện đức khiêm nhường noi gương Đức Giêsu ?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU. Thích được người khác khen ngợi, thích được ăn trên ngồi trước, thích được danh vọng chức quyền… cũng chính là thói xấu của chúng con. Hôm nay Chúa dạy các người Pharisêu bài học khiêm nhường và cũng là dạy chúng con: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất… Nhưng hãy vào ngồi chỗ cuối”. Con biết Chúa không dạy con giả đò theo kiểu khiêm nhường giả tạo, nhưng Chúa muốn chúng con coi thường danh vọng hão huyền và luôn sống nhỏ bé khiêm hạ. Chúa cũng dạy chúng con phải noi gương Chúa rửa chân phục vụ lẫn nhau.
– LẠY CHÚA. Chúa đã đi con đường khiêm hạ và mời gọi chúng con bước theo. Xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai sót và quyết tâm sửa đổi. Xin cho chúng con biết cảm thông và mở lòng đón nhận tha nhân. Xin giúp chúng con tránh lên mặt xét đoán ý trái cho kẻ khác, nhưng biết học tập những điều tốt đẹp nơi họ. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa đón nhận chúng con vào Nước Trời sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.