Các bài suy niệm Chúa Nhật 21 Thường Niên A

1936

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN – NĂM A

Lời Chúa: Is 22, 19-23;  Rm 11, 33-36;  Mt 16, 13-20

——-

Mục lục

  1. Tình Thầy Trò(Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Đấng Giữ Chìa Khóa Nhà Đavít (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB)
  3. Đức Giêsu, Ngài là ai?(Thiên San,  MTG.Thủ Đức)
  4. Cầm buộc và thảo cởi (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  5. Tôi biết tôi được yêu thương  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  6. Tuyên xưng Đức Kitô (Lm. Thái Nguyên)
  7. Tôi đã làm gì để bảo vệ Giáo hội?  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
  8. Đức Kitô đang sống (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  9. Thầy là ai?  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  10. Chìa khóa Nước Trời (Maria Phạm Anh, MTG.Thủ Đức)
  11. Sự hiện hữu của Thiên Chúa(Maria Nguyễn Huệ,  MTG.Thủ Đức)
  12. Thầy sẽ xây Hội thánh trên tảng đá này (Lm. Trần Bình Trọng)
  13. Chìa khóa trường sinh (Lm. Vũ Đình Tường)
  14. Chìa khóa và đá tảng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  15. Chiếc chìa khóa  (Trầm Thiên Thu)
  16. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 21 TN_A  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

1. Đức tin và cuộc sống (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hội thánh của Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Nền đá Phêrô  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Thầy là ai?  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Tưởng biết nhưng chưa biết (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

6. Chúa Giêsu là ai trong tôi? (Hoa Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

7. Tôi đang tìm kiếm gì? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

8. Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

9. Đá tảng xây dựng Hội thánh tại gia  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

10. Anh em bảo Thầy là ai? (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

11. Suy niệm Chúa Nhật XXI Thường niên. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)

12. Suy niệm Chúa Nhật XXI Thường niên_A  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

13. Hãy xây dựng Giáo hội bằng những viên đá sống động  (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển,SSP)

14. Chìa khóa Nước trời (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

15. Chuyện to – nhỏ  (Trầm Thiên Thu)

16. Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống  (P. Trần Đình Phan Tiến)

17. Đức tin vững như bàn thạch  (JM. Lam Thy, ĐVD)

18. Hội thánh hôm nay  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

19. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? (Fx. Đỗ Công Minh)

20. Tuyên tín Giê-su là Đấng Ki-tô (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

21. Cơ chế hữu hình (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

22. Sứ mạng yêu thương  (Lm. Giuse Nguyễn)

23. Trở nên viên đá sống động xây dựng đền thờ Hội thánh  (Lm. Đan Vinh)

 

TÌNH THẦY TRÒ

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Quan điểm về niềm vui, giầu sang phú quý, nơi mỗi người rất tự do và khác nhau, nhưng người tốt, việc làm chuẩn, luôn có sức thu hút. Xã hội thời nào cũng có người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra, nếu biết cách làm giảm khổ đau cho mình, cho đời, trên hết và trước hết nhiều bậc cha mẹ sẽ sẵn sàng. Cuộc sống phức tạp có thể do những kẻ quậy phá, gây rối, trong khi đó nhiều hoạt động bình thường, đang làm đổi thay biết bao tâm hồn, phản ánh một chân lý: việc nhỏ, giá trị cao. Nổi tiếng, tai tiếng, phản ánh một thực tại hạnh phúc và khổ đau, theo lý giải chữ tài đi với chữ tai một vần. Nếu bạn là đại gia, nếu bạn nổi tiếng, hoặc chẳng là gì cả, bạn vẫn có cơ hội trở thành một người đáng yêu cho gia đình, xã hội. Học trò mơ ước thu thập được kiến thức bổ ích cho cuộc sống, người thầy lại mong muốn có điều kiện, trải rộng sự hiểu biết và kinh nghiệm đến với các trò.

Không cần biết bạn là ai, chỉ mong bạn cùng chung thao thức trở nên người hữu ích, không phụ lòng thương yêu của tổ tiên dòng tộc, người thân quen. Không cần biết bạn là học trò hay thầy dạy, dù tri thức, bình dân, làm được việc to lớn hoặc đang làm những việc tầm thường nhất, hãy ý thức để sống tốt: cọp chết để da, người chết để tiếng. Từ xa xưa các đấng bậc đã lưu ý, người khôn ngoan là người biết uyển chuyển theo thời thế: gió chiều nào, theo chiều ấy, người thành đạt là người biết suy xét và hành động đúng để bước tới đỉnh cao. Trong tình Thầy-trò, Đức Giêsu mời gọi, hãy nói lên lập trường của mình về niềm tin và tình yêu: “người ta bảo Thầy là ai” ? Rất may dư luận đám đông không ai nói: “Thầy là đô la, là đại gia, hay Thầy là cây ATM” ! Tình Thầy-trò không phải là kinh tế chính trị, không thể là những con số vô hồn, tình Thầy – nghĩa trò chỉ sống động khi có tin-yêu và thực hành.

Tình thầy trò luôn quy hướng tới giá trị cao đẹp và bền vững, tương quan yêu thương khởi đầu phải là hiểu mình, hiểu bạn, rồi việc trao nhận mới đong đầy ý nghĩa. Đức Giêsu đã đặt câu hỏi đơn giản, sau đó các học trò phải trả lời theo cảm nhận rõ ràng hơn: “phần các con, các con bảo Thầy là ai ?” Để biết, để nói và để trả lời nhanh nhậy như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” đã khó rồi, và để sống những đòi hỏi niềm tin về cha mẹ, ông bà, về các đấng bậc đang hướng dẫn dạy dỗ ta, bao giờ cũng khó hơn. Đâu là bổn phận sống thảo sống hiếu, làm gì để thực thi sứ đức sinh thành, và kinh nghiệm nào mở ra cho người học trò sống tình Thầy, tình bạn ? Câu trả lời thiết thực: hãy giữ cho mình sự tò mò của trẻ thơ, nhưng là sự trải nghiệm của người trưởng thành.

Tình Thầy-trò, không phải chỉ có yêu và thương, tình Thầy-trò không phải chỉ là kiến thức, là sự vâng lời tối mặt, mà cần có sự tín thác, cậy trông bằng việc làm: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Tình Thầy-trò đã mở ra một sự thật: …“con thật có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con biết, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời đã cho con biết”. Lập lại lời giống như Phêrô, nói về Đức Giêsu là Đấng Kitô hay hơn, ngọt ngào hơn Phêrô, có thể rất dễ, nhưng nghe được, hiểu được, phải đi đằng sau Thầy, đó mới là điều cần để trở nên môn đệ Đấng Kitô. Nói lên quan điểm của mình về Thiên Chúa yêu thương, hãy chứng minh sự khôn ngoan và ơn hiểu biết của mình trước một thế giới thật giả lẫn lộn, không hề đơn giản !

Tình Thầy-trò, đã khai mở cho Phêrô, cho tất cả chúng ta: hãy đặt để niềm tin vào hành động của mình, nhưng đừng bao giờ đặt để niềm tin vào lời nói ! Phêrô được Thầy xây dựng trên nền đá của Thầy chứ không phải của cá nhân Phêrô. Bài học cho các môn đệ, cho chúng ta hôm nay, Phêrô đã lấy tư cách của người đứng đầu trong nhóm 12 để trấn an, để nói lên quan điểm của mình: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó, Thầy chẳng phải như vậy đâu” ! Vì tình Thầy-trò, Đức Giêsu xây dựng Hội Thánh của Thầy trên nền đá Phêrô, khác với xây dựng trên sự hiểu biết của loài người, của tính kiêu căng tự mãn. Đức Giêsu không cần một cơ cấu: lớp trưởng, lớp phó, Chúa cần người tin yêu và theo Thầy, phải biết mình là ai, mình là kẻ giới hạn tội lỗi đầy bất xứng, do đó phải đi sau, không thể đi trước Thầy.

Có ba cô gái tìm thầy xin được thầy huấn luyện đào tạo làm ca sĩ, sau khi đã cân nhắc tìm hiểu, các cô hỏi thầy: phải mất bao nhiêu tiền, bao nhiêu thời gian, mới trở thành ca sĩ ? Thầy ân cần chia sẻ: thầy ghi nhận tinh thần của các con, nhưng thời gian bao lâu để trở thành ca sĩ, phải mất bao nhiêu tiền học phí, thầy mong các con hết tình, hết mình, với những gì thầy truyền dạy, việc trờ thành tài, thành ca sĩ, trở nên chứng nhân tình yêu, tuỳ thuộc với các con ! Chẳng có một ai vui vẻ thật sự khi thiếu tình bạn bè, chẳng ai nên người hữu ích mà không có thầy. Chẳng ai trồng cây ở nơi thiếu ánh sáng, cũng không ai chỉ dạy học trò với chút ít nhiệt tâm nhiệt tình. Đức Giêsu nói: “người ta bảo Thầy là ai”, và Thầy muốn những ai là học trò, phải trả lời bằng niềm tin, bằng kinh nghiệm, cụ thể tình Thầy-trò là gì nơi cuộc sống này.

Về mục lục

ĐẤNG GIỮ CHÌA KHÓA NHÀ ĐAVÍT

             Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Thường Niên XXI, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: chỉ có Chúa mới có thể làm cho chúng ta trở nên một lòng một ý, vì thế, chúng ta phải xin cho mình biết yêu mến luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dù sống giữa những thế sự thăng trầm, chúng ta vẫn một lòng gắn bó với cõi phúc chân thật.

Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Người bệnh thì mới cần đến thầy thuốc. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Xôphônia đã cho thấy: Những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, những người tìm kiếm Đức Chúa, tìm kiếm sự công chính, đức khiêm nhường, họ là những người nghèo hèn trong xứ sở. Bài đọc hai của giờ Kinh Sách được trích từ Hiến chế mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vaticanô II, về Hội Thánh trong thế giới ngày nay nói: đang khi chúng ta nỗ lực lo cho trái đất này ngày một tốt đẹp hơn, thì chúng ta cũng đang hướng về một vương quốc vĩnh cửu và phổ quát, vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an, đúng như tâm tình mà ngôn sứ Isaia mời gọi: Trời hãy hò reo, đất hãy nhảy múa, núi non hãy bật tiếng hò reo, vì Thiên Chúa chúng ta ngự đến. Người chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Người.

Quả thật, những người yêu mến luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa đều là những người đơn sơ bé mọn. Họ không có niềm trông cậy nào khác, ngoài một mình Chúa, bởi vì, chỉ có một mình Chúa là đầu mối, nguồn gốc mọi sự, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô đã cho thấy: muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Do đó, cũng chỉ có một mình Chúa mới làm cho chúng ta nên một lòng một ý. Đức Giêsu không thiết lập nhiều Hội Thánh, nhưng, chỉ có một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Quyền chìa khóa của thánh Phêrô được lãnh nhận từ Đức Kitô, chính Người là Đầu của Hội Thánh. Chính Người là Đấng giữ chìa khoá vua Đavít, Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được.

Trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia đã tiên báo: Chìa khoá nhà Đavít, Đức Chúa sẽ đặt trên vai Engiakim, vua Giuđa, ông mở ra thì không ai đóng được, ông đóng lại thì không ai mở được. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã trao cho thánh Phêrô chìa khóa Nước Trời: Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Bài Đáp Ca, với Thánh Vịnh 137, vịnh gia cho thấy: Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang. Chắc chắn, Chúa sẽ không để cho công trình của Người bị dở dang, nhưng, với tự do của mình, chúng ta có thể làm cho công trình của Chúa bị dang dở nơi chúng ta.

Ơn cứu độ là một ân huệ nhưng không, chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng, nhưng, không phải một ân sủng chung chung, mà là, ân sủng của Đức Kitô; chúng ta được cứu độ là do bởi đức tin, nhưng, không phải một đức tin chung chung, mà là, đức tin vào Đức Giêsu. Do đó, chỉ có một mình Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ Duy Nhất, chính Người là Đấng giữ chìa khóa nhà Đavít, là cửa dẫn chúng ta vào hưởng ơn cứu độ. Công trình cứu độ của Chúa sẽ dở dang, nếu chúng ta không cộng tác: không để cho Người làm cho chúng ta nên một lòng một ý, để chúng ta có thể tuân giữ luật Người truyền và trông đợi điều Người hứa.

Niềm hy vọng của chúng ta vào lời hứa của Chúa được thể hiện qua việc dù sống giữa những thế sự thăng trầm, chúng ta vẫn một lòng gắn bó với cõi phúc chân thật. Sống giữa thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian. Đây là một thách đố lớn đối với những người môn đệ của Đức Giêsu. Ađam và Eva đã chọn ăn trái cấm, bởi vì, ông bà đã không tuân giữ lời Chúa truyền, và cũng chẳng mong điều Chúa hứa. Ông bà đã tin rằng: ông bà đã chọn một cái gì đó lớn hơn điều Chúa hứa.

Thánh Phêrô được trao chìa khóa Nước Trời, sau khi thánh nhân tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống. Chính trên niềm tin đá tảng này, mà Đức Giêsu đã đặt nền móng xây dựng Hội Thánh. Niềm tin đặt nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, hằng vâng phục thánh ý Chúa Cha, và hoàn toàn tín thác nơi Cha: đến đổ giọt máu, giọt nước cuối cùng, chết tủi nhục trên thập giá để hoàn tất thánh ý cứu độ nhân loại, chính niềm tin đó sẽ giúp chúng ta can đảm, kiên cường khi đối mặt với những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Chúng ta vững tin rằng: mình sẽ chiến thắng được các thế lực tăm tối, nhờ bám chặt vào quyền năng của Đức Giêsu, Đấng nắm giữ chìa khóa nhà Đavít. Nước Trời luôn rộng cửa đón mời chúng ta, nhưng, nếu chúng ta không tỉnh thức, sẵn sàng, chúng ta sẽ bị bỏ lại bên ngoài cửa như những cô khờ dại mang đèn, nhưng không mang theo dầu.

Về mục lục

ĐỨC GIÊSU, NGÀI LÀ AI?

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” (Mt 16, 13). Trước câu hỏi của Thầy, các ông tranh nhau trả lời:  “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” (Mt 16, 14). Câu hỏi này thật không khó. Bởi các ông thừa biết người ta nói gì về Thầy của mình. Dường như sau khi chứng kiến các phép lạ Thầy làm và những lời Thầy rao giảng, họ có những phỏng đoán về căn tính của Ngài. Điều đó liệu có đúng? Đức Giêsu quay sang hỏi các học trò của mình: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16, 15). Trước câu hỏi bất ngờ của Thầy, Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 16).

Khi được hỏi về dư luận nói gì về Thầy của mình, các môn đệ có vẻ nhanh nhẹn trả lời. Họ nghe biết dư luận bàn tán đủ điều về Thầy của mình. Nhưng khi được Thầy hỏi về suy nghĩ của mình về Thầy, các ông lưỡng lự. Chỉ có Phêrô là người đại diện trả lời. Nhưng câu trả lời của Phêrô xem ra cũng là câu trả lời được Chúa Cha soi sáng chứ tự sức mình, ông không biết được điều ấy:“Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16,17). Nếu ở trong hoàn cảnh của các môn đệ, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ không khỏi lúng túng. Câu hỏi của Thầy mời gọi các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta đi sâu vào tương quan cá vị với Ngài. Theo Thầy bấy lâu, chúng ta đã đủ gắn bó để hiểu Thầy và biết Thầy là ai, biết Thầy muốn gì, mong đợi gì nơi chúng ta?

Đức Giêsu hoàn toàn đồng ý với câu trả lời của  học trò Phêrô. Về phần Phêrô, ông có thực sự hiểu câu trả lời của mình? Thế nào là Đấng Kitô? Nếu đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy rằng, quả thực, Phêrô chưa hiểu đúng căn tính Đấng Kitô của Thầy mình. Bằng chứng là khi nghe lời loan báo về cuộc thương khó và những gì sắp xảy ra cho Thầy, chính Phêrô đã kéo Thầy ra và trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22). Phêrô mới chỉ biết Thầy dựa trên những gì ông mong đợi, ông chưa thực sự hiểu Thầy mình, lại càng mơ hồ về con đường Thầy sẽ đi qua. Không chỉ Phêrô mà dường như tất cả các môn đệ đều như vậy. Đức Giêsu vẫn rất kiên nhẫn, yêu thương hướng dẫn các học trò của mình. Người hiểu rằng, để chấp nhận và hiểu đúng căn tính Kitô của thầy, các ông cần có thời gian và ơn Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đi vào tương quan cá vị với Thiên Chúa, đặc biệt là với Đức Giêsu. Trước những khó khăn các môn đệ gặp phải, chúng ta có được thôi thúc xây dựng tương quan với Người? Có người bảo rằng mức độ thánh thiện được đo bằng sự gắn bó thiết thân của bạn với Chúa. Chỉ khi gắn bó với Chúa, chúng ta mới có được cách hành xử và cách sống đúng. Sự thánh thiện của ta cũng từ đó mà tỏa ra. Bởi chưng cổ nhân vẫn có câu: “Hữu xạ tự nhiên hương”. Khi thực sự gắn bó với Chúa, chúng ta sẽ biết Người là ai, Người muốn ta làm gì và ta cũng sẽ có khả năng đón nhận tất cả. Đặc biệt là ta sẽ có khả năng đón nhận và biến những khó khăn đau khổ trong cuộc sống thành cơ hội nên giống Chúa. Tương quan gắn bó với Chúa cũng giúp ta xích lại gần hơn trong tương quan với tha nhân. Chúa Giêsu đến để yêu thương và cứu chuộc nhân loại, Người cũng muốn chúng ta sống yêu thương và tha thứ như Người đã sống. Nếu có ai hỏi chúng ta rằng Chúa của bạn là ai, chúng ta hãy bảo rằng: bạn hãy nhìn vào cách tôi sống, bạn sẽ biết Chúa của tôi là ai.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương chúng con. Đặc biệt là chính Chúa đã mạc khải chính mình cho chúng con. Xin giúp sức để chúng con biết lưu tâm đến việc xây dựng tương quan thiết thân, gắn bó với Chúa. Nhờ đó, khi nhìn vào cách chúng con sống, mọi người có thể biết Chúa là ai. Đó cũng là cách giới thiệu Chúa hiệu quả và xác thực nhất chúng con có thể làm được. Amen.

Về mục lục

CẦM BUỘC VÀ THẢO CỞI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Nói đến chìa khóa là người ta nghĩ đến việc mở hay đóng cửa. Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay trao cho ông Phêrô chìa khoá, nhưng Người lại nói đến việc cầm buộc và tháo cởi: “Thày sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Phêrô vừa thay mặt anh em để tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”. Sau lời tuyên xưng Đức tin của vị tông đồ, Chúa đã đổi tên cho ông từ Simon thành Phêrô, nghĩa là Đá Tảng và trao cho ông quyền cầm buộc và tháo cởi. Quyền này thật lớn lao, đến nỗi trên trời cũng sẽ dựa theo quyền này để quyết định tương lai của một con người, hoặc bị trừng phạt, hoặc được thưởng công. Hai ngàn năm đã qua, Giáo Hội tiếp nối Phêrô lãnh nhận và thực thi quyền này. Nhờ quyền ràng buộc và tháo cởi, Giáo Hội duy trì trật tự nội bộ, đóng góp phần mình xây dựng xã hội trần gian, đồng thời phản chiếu tình thương của Thiên Chúa cho con người của mọi thời đại, mở ra cho muôn dân con đường đến gặp gỡ Đức Kitô và đón nhận ơn cứu độ.

Ý tưởng cầm buộc và tháo cởi được Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa, cũng trong Tin Mừng thánh Mátthêu, ở chương 18, câu 18: “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy”. Nếu ở Mt 16, 19, Chúa trao chìa khoá cho cá nhân Phêrô, thì ở đây, Chúa lại trao chìa khoá cho Cộng đoàn Giáo Hội, với danh nghĩa tập thể. Giáo Hội được ủy thác thay mặt Chúa để hướng dẫn con người đạt tới sự thánh thiện. Giáo Hội là một người mẹ, cưu mang, sinh hạ và chăm sóc các tín hữu. Ai nghe lời Giáo Hội là nghe lời Chúa. Ai hiệp thông với Giáo Hội là hiệp thông với Chúa. Giáo Hội không chỉ là cơ chế của loài người, nhưng trước hết là một tổ chức do Chúa Giêsu thiết lập, là trung gian thông chuyển ơn cứu độ đến cho hết mọi người. Chính Giáo Hội quản lý kho tàng Đức tin và có sứ mạng thông truyền Đức tin cho con người thuộc mọi thời đại và mọi nền văn hóa.

Hình ảnh chiếc chìa khoá cũng được nhắc đến trong Bài đọc I. Đây là chìa khoá Đavít, tượng trưng cho quyền lực của người lãnh đạo dân Israen. Vị tể tướng triều đình thời đó là Sép-na. Ông này vì bê bối và bất trung, nên Thiên Chúa loại bỏ. Qua ngôn sứ Isaia, Chúa phế bỏ Sép-na và thiết lập người thay thế là Engiakim. Người này sẽ được trao chìa khoá nhà Đavít và có quyền đóng cũng như mở. Sở dĩ đoạn Kinh Thánh Cựu ước này được đọc trong Phụng vụ, vì nhãn quan Kitô giáo nhận ra, Engiakim là hình ảnh của Đấng Thiên Sai. Người đến trần gian với quyền lực lãnh nhận từ Đấng Tối cao. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Người được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Người là Đấng được các vị kỳ lão trong sách Khải Huyền tung hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh 5,12). Người cũng là Đấng duy nhất có khả năng mở bảy ấn, vừa bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa, vừa ổn định trật tự trần gian (x. Kh, chương 6).

Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Tuy vậy, trải qua mọi thời đại, con người cũng như sứ mạng của Chúa bị nhiều người hiểu sai lạc, thậm chí có người cố ý xuyên tạc hay làm cho hình ảnh của Người bị biến dạng. Có nhiều người quan niệm về Đức Giêsu như một nhân vật huyền thoại, hoặc chỉ là một vĩ nhân như bao vĩ nhân khác của lịch sử. Một số khác lại coi Chúa như một chính trị gia, hay chỉ là một bậc thày về những tư tưởng đạo đức. Họ kính trọng Chúa, nhưng không công nhận Người là Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai. Điều này dễ hiểu. Bởi lẽ sứ mạng của Chúa được Chúa Cha trao phó. Con người không thể hiểu thế giới thần linh, vì “sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Ngài, ai suy cho thấu!” (Bài đọc II). Các môn đệ đã theo Chúa được vài năm, mà nay khi Người đặt câu hỏi về thân thế và sứ mạng của Người, các ông còn lúng túng: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, người khác thì cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. Thì ra các môn đệ cũng chỉ dựa vào dư luận và những lời đồn. Chúa muốn mỗi người hãy suy tư và tự đưa ra quan điểm của mình: “Còn anh em, anh em nói Thày là ai?”. Tin vào Chúa không thể dựa trên những lời đồn thổi, nhưng là sự hiểu biết kèm theo niềm xác tín nơi Người. Phêrô đã thưa: “Thày là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Người tín hữu chân chính phải xác định rõ Chúa Giêsu là ai trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và Người là ai đối với đời sống của mình. Một Đức tin mờ nhạt mông lung không thể làm nền tảng cho cuộc đời của người tín hữu. Nó giống như ngôi nhà được xây trên cát, lúc bão tố mưa sa dễ dàng bị đổ sập. Một lối sống chỉ dựa vào dư luận của đám đông mà không dựa trên những tiêu chuẩn của giáo huấn Tin Mừng sẽ không chắc chắn vì luôn bị thay đổi cho hợp thời.

“Phần anh em, anh em nói Thày là ai?”. Chúa Giêsu vẫn đang đặt câu hỏi ấy đối với mỗi tín hữu chúng ta. Câu hỏi ấy được đặt ra trong cuộc sống đời thường, nhất là trong cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa, vào lúc sau hết của cuộc đời. Không thể vừa tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa của đời mình, vừa sống trái ngược với Tin Mừng Người rao giảng. Không thể vừa tuyên xưng Đức Giêsu là Sự thật, vừa sống trong sự dối trá với anh chị em mình.

Quyền cầm buộc và tháo cởi mà Chúa đã trao cho Phêrô và Giáo Hội, không chỉ được hiểu như những hình phạt chế tài, mà còn quảng diễn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Ngài không muốn cho con người phải trầm luân đời đời, nhưng được sống trong hạnh phúc đời này và đời sau. Mỗi người tín hữu hãy cảm nhận tình thương ấy, và là chứng nhân đem tình thương đến cho mọi người.

Về mục lục

TÔI BIẾT TÔI ĐƯỢC YÊU THƯƠNG

Lm. Jos. DĐH.

Đã bao nhiêu lần bạn tự tin chứng minh với con cháu: bố mẹ thật hạnh phúc, bởi được sinh ra và trưởng thành từ dòng tộc “biết yêu thương”. Có phải vì mầu cờ sắc áo, vì danh dự tổ quốc, bạn đã và từng nghiêm túc, sống kỷ luật với bản thân, gia đình, quê hương xứ sở của mình. Bậc làm cha mẹ có vượt qua gian khổ là do các ngài đã nghĩ đến tương lai của con cháu. Chính nhờ được chăm sóc giáo dục, nhờ tác động của gương sáng, con cháu mới đủ ý thức về nét đẹp của câu thành ngữ: anh em như thể chân tay, rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Đâu phải tự nhiên mà tiền nhân lại nhắc nhớ hậu thế: nhàn cư vi bất thiện. Không phải vô tình mà các bậc thông thái biết chia sẻ kinh nghiệm: có vấp ngã, người ta sẽ cẩn thận hơn, mỗi khi cất bước. Có đối diện với đau thương, trí lòng sẽ bớt mềm yếu, cuộc sống có căng như sợi dây đàn, mới tạo được âm thanh tuyệt diệu.

Dư luận nói Thầy là ai ? Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? Chắc chắn không ai nghĩ là Thầy Giêsu có ý thăm dò đám đông để biết Thầy nổi tiếng tới đâu, hoặc có ý đong đo sự nhạy bén nơi các học trò. Đúng, Thầy muốn nói với muôn thế hệ về giá trị tình yêu, Thiên Chúa sẽ thông ban cho nhân loại qua các môn đệ của Ngài. Ở đời người ta cho rằng, thành công không hệ tại giầu sang địa vị, cũng không phải có con cháu xinh đẹp, tài giỏi, chung chung, họ vẫn quan niệm thành công là phải có bầu khí bình an, niềm vui, các thành viên gia đình đều chu toàn được bổn phận và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ, cho con cái loài người xác tín, chính Phêrô đã phản ứng nhanh nhất trong số các học trò, không phải vì Phêrô tài giỏi đức độ, mà do ông được yêu thương nhiều hơn.

Câu trả lời vô thưởng vô phạt: hình như, có thể, có lẽ, bao giờ cũng chỉ là câu đối đáp xã giao, vậy vậy thôi. Nói được những lời ngọt ngào yêu thương trên môi miệng, đã là thành công đối với con người mang tính giới hạn rồi. Chúa Giêsu ngay từ ban đầu, Ngài đã muốn các môn đệ theo Chúa phải chứng minh bằng sức mạnh của ý chí, của con tim, đặc biệt phải ý thức đó là tình yêu của Chúa Cha soi sáng. Đọc lại diễn tiến cuộc đối thoại giữa tình Thầy trò Giêsu, thiết tưởng các học trò bị bất ngờ với câu hỏi khó: “phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Xem ra, Thầy Giêsu phải ngạc nhiên vì một ngư phủ mang tên Phêrô đã phản ứng thật chính xác: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Ở đời, người ta chỉ vội vàng không để vụt mất cơ hội làm giầu, không bỏ lỡ cơ hội để được nổi tiếng: phúc bất trùng lai, dịp may, điều thuận lợi, đến rất ít, do đó phải biết tận dụng. Chúa Giêsu thì không trì hoãn niềm vui cho Phêrô, cho các học trò: “hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Sau khi công bố về ơn ban đặc biệt mà Phêrô đã nhận biết Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Thầy Giêsu đã lập Hội Thánh trên nền đá Phêrô, trên sự bé nhỏ hèn mọn, khác với sự thông thái khôn ngoan như các luật sĩ biệt phái. Ngay tự ban đầu, chắc chắn Phêrô đã mập mờ, không hiểu được hết giá trị của tình yêu và trách nhiệm với sứ vụ vừa được trao ban. Phêrô đã lấy tư cách vị trí đứng đầu trong nhóm 12, trấn an, can ngăn Thầy, và Thầy Giêsu đã quở trách, nhắc ông: Phêrô, hãy đi đằng sau Thầy. Dao sắc không gọt được chuôi ; áo mặc sao qua khỏi đầu ?

Tôi biết tôi được yêu thương, chắc không phải do đức độ tự nhiên, cũng chẳng phải là mới tốt nghiệp “bách khoa tổng hợp”, nhưng là nhờ Thầy Giêsu đạo tạo, huấn luyện. Tảng đá Phêrô chính là sứ vụ, là sự tín nhiệm, là sự trao gởi trách nhiệm, không phải do tài đức, mà đúng hơn là vì được yêu thương: “con là Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Phêrô đi sau Thầy của mình được gọi là Đá, đi đằng sau Thầy, Phêrô mới mang trong mình sức mạnh và tình yêu của Đấng Kitô. Tảng Đá Phêrô chỉ vững chắc thật, khi có Đức Kitô, khi đã biết khóc lóc ăn năn, khi đã đứng dậy sau ba lần chối Thầy.

Có 3 điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không thể lấy lại được: thời gian, lời nói, cơ hội. Có 80 năm, cùng lắm là một thế kỷ để sống, để làm người tốt, nếu không nhận ra mình được yêu thương, hẳn thế gian sẽ xem “bạn” là một anh khờ, là một con rối ở xã hội mà thôi. Thầy Giêsu mà đám đông năm xưa cho là Gioan Tẩy giả, là Giêrêmia, là một tiên tri nào đó, chỉ mang tính thời sự, cho dù Thầy xinh đẹp, tài giỏi, đức độ, thu hút. Mỗi chúng ta có môi miệng, có thời gian, cơ hội, hãy mau tuyên xưng niềm tin: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, bằng con tim khối óc, bằng hành động, bằng chính sự khôn ngoan sáng suốt nhất. Đấng Kitô Con Thiên Chúa vẫn mãi là tình liên đới hiệp thông của lời nói, việc làm, và sứ vụ riêng, phải được chu toàn. Đấng Kitô là Con Thiên Chúa phải là lời tuyên tín chân thực: tôi là ai, tôi là kẻ tội lỗi được thứ tha, tôi biết tôi được yêu thương. Amen.

Về mục lục

TUYÊN XƯNG ĐỨC KITÔ

Lm. Thái nguyên

Suy niệm

Nhìn vào bối cảnh dân Israel thời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy toàn dân đang trông chờ một Đấng Mêsia. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện với những lời giảng dạy mới mẻ, đầy quyền năng, thì dân chúng lầm tưởng Người là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hoặc là một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Chúa Giêsu không quan tâm đến việc dân chúng nghĩ gì về mình mà chỉ nhằm đến các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô liền tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời đúng như Chúa Giêsu muốn, nhưng Ngài cho biết, không phải tự ông biết điều đó, mà do Chúa Cha mạc khải.

Chính lúc đó, Chúa Giêsu biết rằng đã đến lúc Ngài phải khởi đầu việc đặt nền móng xây dựng một tòa nhà thiêng liêng, nên đã tuyên bố Phêrô là Tảng Ðá để xây Hội Thánh của Ngài, và trao cho ông chìa khóa Nước Trời. Một quyết định xem ra bất ngờ, và làm mọi người ngỡ ngàng, vì Phêrô cũng chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học. Chắc chắn vì hiểu được Ý Cha trong biến cố này, nên Ngài đã làm như vậy.

Nhìn lại cuộc trắc nghiệm của Chúa Giêsu, chúng ta thấy niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào một quan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Vì vậy mà Đức Giêsu “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô”, bởi vì một lời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho một đức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó.

Bài Tin Mừng cho chúng ta xác tín sâu xa về Giáo Hội trần thế mà Chúa Giêsu đã thiết lập, là con đường đưa tới Nước Trời. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô mà không cần đến Giáo Hội là liều lĩnh, đưa tới nguy cơ lần đường lạc lối. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải cho chúng ta.

Tuy nhiên, cũng có một số người dị ứng với quyền bính trong Giáo Hội. Chúng ta biết rằng, quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, là giúp người ta đến gặp Ngài và trở thành môn đệ của Ngài, chứ không phải là quyền ép buộc đoàn chiên đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của mình. Quyền này được trao để phục vụ sự sống, không phải quyền sinh sát trên đoàn chiên. Trong tiếng La tinh, quyền bính là “auctoritas”, do động từ “augere” có nghĩa là “làm cho lớn lên”. Quyền bính trong Giáo Hội là phương tiện để phục vụ cho sự tăng trưởng mà thôi.

Quả thực, Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì qui tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì Đấng sinh ra trong máng cỏ cũng là Đấng chịu đóng đinh trên đồi Sọ, và là chính Đấng đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.

Cuối cùng, bài Tin Mừng đặt ra cho mỗi người chúng ta hai câu hỏi hết sức quan trọng:

– Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta?

– Và chúng ta là ai dưới cái nhìn của Chúa Giêsu?

Mỗi người phải tự trả lời cho mình. Khi khám phá ra Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ khám phá ra chính bản thân, căn cội và sứ mệnh của đời mình. Nếu ta thực sự muốn kiện toàn đời mình, muốn trở nên trọn vẹn là chính mình, thì không chỉ tuyên xưng Đức Kitô, mà còn tuyên xưng cả lòng yêu mến thẳm sâu, nghĩa là để Chúa chiếm hữu hoàn toàn cuộc đời mình như thánh Phêrô xưa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Giáo lý của Chúa sẽ không đánh động,
không sâu rộng và lôi cuốn hiệp thông,
nếu như không có những mầu nhiệm.

Khát vọng nơi con người là thế,
chiếm hữu rồi mà lòng vẫn chưa thôi,
đạt tới đích rồi mà trí chẳng đặng yên,
vì ngoài Chúa chẳng có gì là mãn nguyện.

Mầu nhiệm khai mở cho con tầm nhìn mới,
hướng con về “phía bên kia” mọi tri thức,
và mời gọi con vươn lên mãi không ngơi.

Thế nên con thích suy gẫm những mầu nhiệm,
mà Giáo Hội là mầu nhiệm đầu đời,
cho con trở thành con cái Thiên Chúa.

Giáo Hội không “nảy sinh từ dưới lên”
do ý muốn hay toan tính của con người,
nhưng “phát xuất từ trên xuống”
do lòng nhân hậu Chúa xót thương..

Từ ngàn đời, trong chương trình Thiên Chúa,
Giáo Hội đã hiện hữu trong thế giới vĩnh cửu,
và rồi đã hiện diện ngay trong dòng lịch sử,
nhưng vẫn siêu vượt trên mọi tâm trí,
vì vừa nhân loại vừa thần linh.

Chính trong Giáo Hội mà nhân loại hợp nhất,
trong một gia đình duy nhất của Thiên Chúa,
nhưng Giáo Hội vẫn mang thân là lữ khách,
đang tiến bước giữa những cám dỗ và thử thách.

Xin cho cho Giáo Hội luôn biết tự thanh tẩy,
để sống trung tín, trong ngần, và thánh thiện,
như một hiền thê xứng đáng của Chúa mình,
biết nương theo tác động của Thánh Linh,
vươn ra khỏi mình để đến với muôn dân,
luôn dấn thân làm đẹp sáng cuộc trần,
để hoàn thành chính mình trong nguồn cội,
là công trình cứu độ của Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục

TÔI ĐÃ LÀM GÌ ĐỂ BẢO VỆ GIÁO HỘI?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Chúa Trao Chìa kHoá Để Bảo Vệ Giáo Hội. Tôi Đã Làm gì?

Ngày 18.08.2011 Đức Giáo hoàng Bênêđictô 16 đến tham dự Đại hội Giới trẻ thế giới ở Madrid, khi tới cổng thành lịch sử Alcala, cửa ngõ của thủ đô Madrid, ông Thị trưởng thành phố Madrid đã đứng chờ chào đón ngài, và trao cho ngài chiếc chìa khóa mở cửa cổng thành Alcala.

Khi trao chìa khoá cho Đức Giáo hoàng là công nhận ngài có toàn quyền đóng và mở cổng thành. Giống như khi khách tới nhà người ta cũng trao cho vị khách yêu quý một chiếc chìa khoá phòng để nói lên quyền ra vào và quyền mở cho ai ra vào căn phòng của mình.

Chiếc chìa khoá còn là biểu tượng cho quyền lực, nó thể hiện tầm quan trọng của ai đó. Ngườinắm giữ chìa khoá có toàn quyền quyết định đón tiếp hay từ chối ai đó . Người cầm chìa khoá còn có bổn phận gìn giữ tài sản của ngôi nhà , thế nên, họ phải khôn ngoan mở để đón tiếp khách hay phải đóng lại để từ chối khách hầu bảo vệ tài sản của mình. Trong tình yêu khi trao cho nhau chìa khoá là dấu chỉ họ hoàn toàn tin tưởng và trao hiến trọn vẹn con tim yêu thương dành cho nhau.

 Thánh Phê-rô cũng được Chúa Giê-su trao cho chìa khoá mở cửa Nước Trời. Khi Chúa Giê-su nói cùng Phê-rô: Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời”, đồng nghĩa với việc trao quyền cho Phê-rô có toàn quyền mở cửa Nước Trời để đón tiếp mọi người từ muôn phương, nhưng cũng phải can đảm đóng lại khi từ chối những thế lực gian tà , chống phá Giáo hội.

Khi nhận chìa khoá Nước trời ta thấy thánh Phê-rô không còn sống cho mình mà là sống cho Thiên Chúa. Ngài đã dành cho Thiên Chúa ưu tiên số một khi ngài nói “phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Ngài đã sống một cuộc đời chứng nhân để giới thiệu Nước Thiên Chúa đến tận cùng thế giới cho dẫu chịu nhiều đau khổ và mất mát nhưng Thiên Chúa đã ân thưởng cho ngài hạnh phúc ngàn thu trong Nước Thiên Chúa.

Mỗi thành phần trong Giáo Hội, thiết tưởng, cũng được tham dự vào việc mở cửa Nước Trời cho chính mình và cho muôn dân bằng đời sống chứng tá của mình, trong gia đình, trong xã hội, khi sống và làm chứng cho tin mừng. Đồng thời cũng biết đóng lại khi cần bảo vệ đức tin cho anh em của mình.

Đó là những  người cha người mẹ trong gia đình phải làm sao nắm giữ chìa khoá Nước Trời cho con cái khi chuyên cần mở Kinh Thánh mỗi tối trong giờ kinh gia đình, để hướng dẫn con cái đi vào trong vương quốc của Nước Thiên Chúa.

Đó là những người vợ người chồng khi nắm giữ chìa khoá yêu thương phải quảng đại mở ra để đưa nhau vào vương quốc tình yêu ngập tràn hạnh phúc.

Đó là những linh mục tu sĩ không chỉ là rao giảng về Chúa để mở cửa Nước Trời mà còn can đảm khoá lại những tư tưởng, những việc làm nguy hại đến đời sống đức tin của cộng đồng.

Thực trạng ngày nay với lối sống cổ suý tự do nên chúng ta cần phải can đảm khoá chặt các cánh cửa trước sự tấn công của những trào lưu chống phá giáo hội như bôi nhọ thanh danh các mục tử, nói xấu kẻ bề trên. . . Điều này chúng ta đang thấy quá nhiều trên các trang mạng. Họ vu khống linh mục này, hay nhà dòng kia. Họ xuyên tạc, bóp méo sự thật khiến nhiều người nghi ngại sự thánh thiện nơi Giáo hội. Đây là lúc các mục tử trong Hội thánh không thể im lặng mà phải lên tiếng để bảo vệ thanh danh Giáo hội, và cũng là bảo vệ cho đàn chiên khỏi sói dữ tấn công.

Do đó bổn phận của từng người chúng ta là phải can đảm khóa chặt cánh cửa nhà mình trước mưu mô tiêm nhiễm sự gian tà luôn phủ nhận Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý của Chúa,  chống lại công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu…

Điều quan trọng là cuộc sống chúng ta cần được xây dựng dựa trên Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Sự tự do tự tại không bị tính xác thịt thống trị. Sự tự do để chúng ta không bị những đam mê lôi cuốn vào vòng xoáy của tiền, tình, quyền mà xa rời Thiên Chúa.

Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình dựa trên lời Chúa để mở cánh cửa Nước Trời tới cho muôn dân và bảo vệ nước Chúa khỏi những ô uế của thế gian. Amen

Về mục lục

ĐỨC KITÔ ĐANG SỐNG

Bông hồng nhỏ

          “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).

Đối với ta, Đức Kitô có đang sống hay không? Lặng nghe lời tuyên xưng của Tông đồ Phêrô, lòng ta vọng về câu hỏi ấy. Đức Kitô vẫn đang sống bên ta, ngay trong lòng ta, Người đã và đang dẫn ta bước đi trên hành trình cuộc đời. Có những lúc gặp sóng gió, thuyền đời ta lênh đênh mà chẳng thấy Người ở đâu, nhưng Người vẫn sống, bởi Người là Đấng Hằng Sống, Người là Thiên Chúa của tình yêu (x.1Ga 4,8).

“Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17). Vì yêu thương, Thiên Chúa đã chúc phúc cho những tâm hồn hằng khao khát tìm kiếm Người. Ông Phêrô được kể là người có phúc vì đã lãnh nhận ân huệ cao quý mà Thiên Chúa ban tặng, bởi chính ông cũng đã khao khát được nhận biết Người. Miệt mài bước theo Thầy, là môn đệ thân tín của Thầy, ông cũng sẽ được Thầy Giêsu chọn là Tảng Đá để xây Hội Thánh của Người. Thiên Chúa cũng đã chọn ta làm một viên đá để xây dựng Hội Thánh, một viên đá được Người sử dụng theo ý muốn của Người. Ta có nhận ra ân huệ mà Thiên Chúa ban tặng cho mình không? Tự sức mình, ta chẳng thể nào nhận ra ân huệ cao quý mà Thiên Chúa dành sẵn cho ta, chẳng thể biết được thánh ý Người dành cho ta nếu ta không hết lòng lắng nghe Lời Người dạy dỗ. Ông Phêrô đã lắng nghe người ta bàn tán về thân thế của Thầy mình, ông cũng lắng nghe lời Thầy chất vấn. Phải chăng, sau những ngày tháng theo Thầy làm môn đệ, nhiều lần ông cũng đã tự hỏi: “Đối với tôi, Thầy Giêsu là ai?”. Từng ngày, ta cũng hãy để cho Lời Chúa chất vấn ta như thế.

Chiêm ngắm cuộc đời của vị Giáo hoàng tiên khởi, vị Giáo hoàng xuất thân là một ngư phủ thất học, một Tảng Đá đã được chính Chúa Kitô chọn để xây Hội Thánh, ta sẽ nhận thấy cuộc đời của thánh nhân đã hoàn toàn được Chúa Kitô chiếm đoạt. Từ một ngư phủ thất học, quanh năm suốt tháng bám trụ với thuyền chài, lênh đênh trên biển khơi để mưu sinh, bỗng một ngày lắng nghe tiếng gọi của Thầy Giêsu, anh chàng Simôn đã lập tức theo Thầy (x. Mt 4,18-20). Vốn tính bộc trực nhưng đầy nhiệt thành, đã bao lần ông lên tiếng đáp lại những câu hỏi của Thầy, có lúc ông được Thầy khen là người có phúc (x. Mt 16,17), nhưng cũng có lúc ông bị Thầy mắng là kẻ kém lòng tin (x.Mt 14,31), nặng lời nhất là khi bị Thầy mắng là Xatan (x Mt 16,23); ông cũng từng vui sướng thốt lên: “Chúng con ở đây thật là hay” (x. Mt 17,4) khi được ngắm nhìn Chúa hiển dung; rồi ông vấp ngã đớn đau khi chối Thầy ba lần, ông khóc lóc thảm thiết khi nhận ra tội của mình (x Mt 26, 69-75), rồi cũng ba lần ông mạnh dạn thân thưa với Người: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (x. Ga 21,15-19). Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, được lãnh nhận Thánh Thần, ông cùng các Tông đồ hân hoan và can đảm rao giảng Tin Mừng phục sinh. Ta hãy để cho Thiên Chúa bước vào tâm hồn ta, để được Người biến đổi. Sống trong tình yêu của Đấng hằng sống, ta sẽ tìm gặp và hưởng nếm nguồn hạnh phúc miên trường.

Lạy Chúa Giêsu là Đấng hằng sống. Xin hãy dùng con theo thánh ý Ngài. Con xin Chúa hãy đến và lên tiếng trong tâm hồn con, cho con được lãnh nhận Lời ân sủng của Chúa, Lời nuôi dưỡng linh hồn con và biến đổi tâm hồn con. Để nhờ đó, con không còn sống cho chính mình nữa nhưng quyết sống theo thánh ý Người. Amen.

Về mục lục

THẦY LÀ AI?

Anna Cỏ may   

Ngày đầu tiên đến nhận lớp, các bạn học sinh, sinh viên hỏi về thầy cô giáo của nhau là ai. Có bạn chỉ biết tên thầy cô, có bạn quan tâm về vẻ đẹp bên ngoài. Đó chỉ là cái nhìn và sự hiểu biết chút ít của các bạn học sinh, sinh viên về thầy cô trong buổi gặp mặt đầu tiên.

Sau thời gian đi theo Thầy, các môn đệ được nhìn thấy các phép lạ Thầy làm, được nghe những bài giảng hay, được cùng ăn uống với Thầy. Các ông cũng  đã từng được nghe người khác nói về Thầy của mình. Họ khen ngợi, thán phục, và bàn tán về thân thế của Thầy.

Đức Giêsu hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15). Đứng trước câu hỏi đầy bất ngờ của Thầy, các môn đệ có thể đã rất lúng túng, nhất là phải trả lời cách trực diện với Thầy. Ông Phêrô, một con người nhanh nhẹn đã thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16). Ông không tự mình nói ra điều ấy nhưng nhờ Chúa Cha mặc khải và Chúa Thánh Thần tác động nơi ông mà ông có thể nói được. Tuy nhiên, nếu ông không có một tâm hồn khát khao sự thánh thiện, cùng một lòng yêu mến Thầy thì ông không thể nói ra được điều ấy. Ông vẫn là một con người yếu đuối. Có lúc, ông tuyên xưng hay nói những lời đầy yêu mến Thầy, cũng có khi ông có những lời ngăn cản Thầy (x.Mt 16,22), ông cũng sẽ vấp ngã đau đớn khi chối Thầy ba lần trong Cuộc Thương Khó của Thầy (x.Lc 22,54-62). Dầu vậy, Đức Giêsu vẫn trao ban cho ông sứ mạng là người cầm chìa khóa Nước Trời: dưới đất ông cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất ông tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy (x.Mt 16,19). Đức Giêsu thấy rõ con người của ông, một người bộc trực nhưng chân thật và luôn chân thành sám hối đã giao chìa khoá Nước Trời cho ông. Chính thái độ sám hối của ông là một lời xác tín mạnh mẽ dành cho Thầy. Sau khi Thầy về Trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng và làm chứng về lòng thương xót của Thầy mà không ngần ngại gian nan.

Mỗi ngày, từng người trong chúng ta vẫn đang tuyên xưng và xác tín niềm tin vào Thiên Chúa bằng việc tham dự Thánh lễ, chu toàn công việc hằng ngày trong tình bác ái, cùng yêu thương giúp đỡ mọi người. Nhưng đôi khi, chúng ta vẫn có những giây phút khước từ Thiên Chúa, vì chúng ta là con người thật và đầy yếu đuối trước mọi cám dỗ. Dầu vậy, mỗi ngày, Đức Giêsu vẫn yêu thương và mời gọi chúng ta hãy sống lời tuyên xưng của mình qua việc ăn năn sám hối mỗi khi lỡ lầm. Chính khi chúng ta nhận ra lỗi lầm của bản thân, biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và bắt đầu lại từ đầu, đó là sức mạnh cho chúng ta vững tin và nói được Thiên Chúa là ai đối với mình.

Lạy Chúa, đứng trước bối cảnh tranh sáng- tranh tối hiện nay, chúng con thật khó để tuyên xưng Ngài là ai. Chúng con vẫn còn sống trong sự ích kỷ của bản thân. Xin Chúa giúp chúng con đi ra khỏi mình, ra khỏi vỏ bọc an toàn của bản thân để cất bước lên đường, đến chia sẻ tình yêu của Chúa với những ai đang gặp đau khổ. Khi đó, niềm xác tín vào Chúa nơi chúng con không chỉ được diễn tả bằng lời nói nhưng hơn hết bằng hành động yêu thương trong cuộc sống. Amen.

Về mục lục

CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

Maria Phạm Anh

Điều tất lẽ dĩ nhiên, khi đứng ngoài một căn phòng đang khóa, muốn bước vào cánh cửa ấy, chúng ta cần phải có chìa khóa để mở. Còn cánh cửa Nước Trời thì sao? Hôm nay, sau khi Thánh Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, ngay sau đó, Người đã đặt ngài làm đá tảng xây Hội Thánh và trao cho ông chìa khóa Nước Trời: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc; dưới đất. anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi” (Mt 16, 19). Phải chăng khi trao chìa khóa Nước Trời, Chúa Giêsu trao cho ngài trách nhiệm và quyền bính để chèo lái con thuyền của Giáo hội? Nhưng ở đây, chúng ta đi không tìm hiểu sâu về vấn đề đó mà tập trung vào biểu tượng cánh cửa là Nước Trời. Chúa Giêsu cũng đang trao cho mỗi người chúng ta chìa khóa Nước Trời để chúng ta có thể bước vào cánh cửa Nước Trời. Vậy chìa khóa là gì? Chúng ta giữ lấy và sử dụng như thế nào?

Trong cuốn sách Lâu đài nội tâm, Thánh Têrêsa Avila đã ví, linh hồn chúng ta như những căn phòng, khi vào đến phòng cuối cùng chúng ta sẽ gặp được Đức Lang Quân là Đức Giêsu mà linh hồn hằng khao khát. Nhưng làm sao để mở các căn phòng ấy? Kinh nghiệm của Thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta lời giải đáp. Khi được Đức Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, ngài đã nhanh nhẹn đáp: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16, 15-16). Chính lời tuyên xưng này là chìa khóa để mở ra cánh cửa cuộc đời của ngài, ngài không còn là một người tầm thường nữa,  nhưng là “đá tảng” để xây Hội Thánh, dù một lần vấp ngã khi chối Thầy. Chính Đức Giêsu là chìa khóa để mở các căn phòng của linh hồn và dẫn ta qua các cánh cửa để vào Nước Trời. Bởi chúng ta nhờ Người mà được tạo thành, được tồn tại và luôn quy hướng về Người, như lời khẳng định của Thánh Phaolô: “ Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người” (Rm 11, 36). Vậy chúng ta hãy đến với Người, giữ Người trong linh hồn chúng ta để chúng ta có thể mở được cánh cửa Nước Trời, vì chính Người là chìa khóa.

Nhưng làm sao chúng ta có thể giữ được chìa khóa ấy? Đó là một việc hết sức khó khăn, bởi con người chỉ là một thụ tạo nhỏ bé, còn Người là Đấng Cao Cả! Tất cả là vì tình yêu thương Người dành cho chúng ta, Người đang mong chờ chúng ta đến với Người để được kết hợp với Người, Người vui thích ngự vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy chạy đến với Người qua Lời Chúa, qua bí tích Thánh Thể, qua các cử hành Phụng vụ, giờ kinh và cả trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta nữa. Điều quan trọng là chúng ta “chọn Người”, đặt Người lên “trước hết và trên hết” trong cuộc sống của chúng ta: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3, 17). Khi chúng ta đặt Chúa làm động lực, làm mục đích cho các hành động của chúng ta, cuộc sống của chúng ta sẽ trở thành khác. Chẳng hạn, có một chuyến du lịch miễn phí, đến một nơi chúng ta rất thích, nhưng hôm đó là ngày Chúa nhật, nếu đi chúng ta sẽ mất Thánh lễ, nhưng chúng ta sẽ chọn hủy chuyến du lịch và ở lại để tham dự Thánh lễ. Hay trong công việc buôn bán, khi thành thật, chúng ta sẽ được ít lợi nhuận hơn, nhưng chúng ta vẫn sẽ chọn thành thật. Đó là những chọn lựa rất khó và nhiều khi phải đánh đổi, bị thua thiệt rất nhiều theo con mắt của người đời, nhưng đó là chọn lựa dẫn chúng ta đến bình an. Khi chọn Chúa làm trọng tâm của đời mình, chúng ta không còn đặt nặng những giá trị vật chất, nhưng quan tâm nhiều hơn đến tình yêu, tình người chúng ta dành cho nhau. Chúng ta đến thăm nhau không cần quà cáp mà chỉ cần sự hiện diện, bởi chính Chúa Giêsu sẽ là quà- sự bình an. Như vậy, chúng ta đang mở được cánh cửa Nước Trời rồi!

Lạy Chúa Giêsu, con đã khám phá ra chìa khóa để mở cánh của Nước Trời là chính Chúa. Xin cho con luôn biết để Chúa là trọng tâm, là động lực, là mục đích của tất cả những chọn lựa, những hành động và trong toàn bộ cuộc sống của con. Khi con đã chọn Chúa là tất cả của con thì xin cho con cũng biết “quy về tha nhân”, những người đang sống quanh con với tình bác ái và lòng vị tha. Để từng ngày, con dần tiến hơn và mở được cánh cửa Nước Trời mà vào chung hưởng bên Chúa. Amen.  

Về mục lục

SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

Maria. Nguyễn Huệ

Khi ngắm nhìn một thế giới sống động, chúng ta thấy rõ sự hiện hữu của muôn loài, muôn vật. Chúng ta thấy rõ và dễ dàng phân biệt được vật thể này với vật thể khác. Chẳng hạn, hoa cúc có những đặc điểm khác với hoa lan, hay chiếc bút bi đầy mực để viết lên những trang giấy trắng. Nhận ra các vật thì dễ còn giữa con người với nhau thật khó, chúng ta chỉ nhận diện qua diện mạo bề ngoài của người ấy, còn bên trong tâm hồn thật khó! Dù thế nào đi nữa thì mỗi sự hiện hữu được Thiên Chúa dựng nên đều rất quan trọng và có liên hệ mật thiết với nhau. Đó là sự hiện hữu của những vật thể đầy giới hạn. Còn sự hiện hữu của Thiên Chúa Toàn Năng còn cao trọng biết chừng nào. Với con người đầy giới hạn, chúng ta khó có thể nhận ra sự hiện diện ấy mà phải nhờ đến sự mặc khải của Thiên Chúa như trong kinh nghiệm của Thánh Phêrô. Khi được Đức Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, ông Phêrô mạnh mẽ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (Mt 16,16)

Sự hiện hữu của Thiên Chúa không nằm trong sự giả định, hay rập theo khuôn mẫu của con người. Nếu chúng ta chỉ nghe người khác nói, chúng ta không thể khẳng định là biết rõ về Người. Dân chúng nói gì về Thầy? “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia” (Mt16,14). Đó là sự nhận định của dân chúng, còn chúng ta, chúng ta đang sống cách thời của Chúa Giêsu hơn 2000 năm. Thật khó để chúng ta trả lời về Người, và khó hơn nữa là trả lời về sự hiện hữu của Thiên Chúa! Chúng ta cần được Thiên Chúa mặc khải về Người qua những lần gặp gỡ thân mật với Người, đó là những lần chúng ta được cảm nghiệm một cách thâm sâu về  tình yêu của Người. Hãy thinh lặng và sống chậm lại để cảm nhận, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện bên chúng ta, nhưng chúng ta có nhận ra sự hiện diện ấy và dám tuyên xưng như Thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” hay không? . Người là Đấng hằng sống, là Đấng luôn hiện hữu cùng chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc, trong mọi biến cố, mọi thử thách và cả trong những thành công hay thất bại,…

Đó là sự thật! Nhưng dường như chúng ta chưa xác tín vào sự thật ấy khi chúng ta chưa nghĩ đến Người, chưa thực sự để Người chiếm hữu cuộc đời chúng ta. Do vậy, những chọn lựa trong cuộc sống còn quy hướng về chính mình, chưa hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Chẳng hạn, trong thực phẩm, chúng ta vẫn thích chọn những cái mang lại cho chúng ta nhiều lợi nhuận, dù biết điều ấy hại đến sức khỏe của người khác. Hay chúng ta đang hướng về thành tích nhiều hơn là những bài học quý giá, những việc ý nghĩa mà chúng ta cần phải nhận ra,… Thật vậy, sống niềm tin Thiên Chúa luôn hiện hữu bên chúng ta, cuộc sống của chúng ta thật khác, đượm tình yêu thương và bác ái. Nhưng với sức con người thật yếu đuối và khó khăn để sống niềm tin ấy trong thế giới hôm nay. Nhưng chúng ta đừng lo, Thánh Phaolô đã an ủi chúng ta: “ơn Thầy đủ cho anh vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trong sự yếu đuối”. Lời Chúa mời gọi chúng ta mỗi ngày xác quyết mạnh mẽ hơn sự hiện hữu của Thiên Chúa. Để nhờ ơn Chúa ban, chúng ta có thêm sức mạnh đáp lại tình yêu cứu độ của Chúa, và trở nên xứng đáng là con cái Chúa.

Lạy Chúa là Đấng hằng sống, luôn luôn ở cùng và nâng đỡ chúng con. Chúa biết chúng con còn rất yếu đuối để tin vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa thương xót và giúp sức cho chúng con  để chúng con luôn biết can đảm tuyên xưng đức tin của mình trong mọi nơi mọi lúc, mọi biến cố cuộc sống này, để chúng con được phụng sự Chúa và làm sáng danh Chúa hơn. Amen.

Về mục lục

THẦY SẼ XÂY HỘI THÁNH TRÊN TẢNG ĐÁ NÀY

Lm Trần Bình Trọng

Ðá mang ý nghĩa dồi dào trong Thánh kinh. Ðá tượng trưng cho sự vững chắc và kiên cố. Vì thế Chúa Giêsu bảo các tông đồ phải xây nhà đức tin trên đá, để khi mưa to, bão lớn, gió cuốn, căn nhà vẫn có thể đứng vững. Khi ông Simon theo Chúa làm tông đồ, Chúa đổi tên ông thành Phêrô, có nghĩa là đá. Và Chúa hứa đặt Phêrô làm nền tảng Giáo Hội. Phúc âm hôm nay ghi lại việc Chúa trao chìa khoá nước Trời cho Phêrô: Thầy sẽ  trao cho con chìa khoá nước Trời: Dưới đất con ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất con tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy (Mt 16:19). Chìa khoá theo nghĩa Thánh kinh là biểu hiệu của trách nhiệm và uy quyền. Người mang chìa khoá có quyền quyết định cho ai vào và ai không được vào như chìa khoá nhà Ðavít được trao cho Engiakim để canh giữ triều đình (Is 22:22). Chìa khoá Chúa trao cho Phêrô tượng trưng cho quyền bính của các vị giáo hoàng.

Ðể giúp đánh giá quyền bính của thánh Phêrô, người ta cần nhìn vào hoàn cảnh mà Chúa trao chìa khoá nước Trời cho ông. Lúc mà thánh Phêrô nhận ra thiên tính của Thầy mình: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16:16) là chính lúc Chúa  trao quyền bính cho Phêrô và cũng là lúc mà Thánh Phêrô qui tụ được các tông đồ đến tụ điểm hiệp nhất. Việc mà thánh Phêrô tuyên xưng đức tin vào Ðấng thiên sai là một việc do ơn Chúa, chứ không phải dựa trên tầm hiểu biết của loài người. Vì thế mà Chúa nói với Phêrô: Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời (Mt 16:17).

Tầm hiểu biết của thánh Phêrô về Thầy mình lúc bấy giờ vẫn còn giới hạn. Do đó khi thánh Phêrô can ngăn Chúa đừng đi Giêrusalem chịu đau khổ, thì bị Chúa quạt cho một trận. Chúa gọi Phêrô là Satan khi ông cản bước của Chúa vì tư tưởng của ông không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người (Mt 16:23). Ðức tin của thánh Phêrô vẫn còn bị khủng hoảng và cần được củng cố sau khi chối Chúa ba lần (Mt 26:69-75).

Ðể sửa soạn cho vai trò lãnh đạo và cai quản, Chúa hỏi xem Phêrô có mến Chúa hơn các tông đồ khác không? Lúc này thánh Phêrô không dám tự hào là mình mến Chúa hơn các tông đồ khác, mà chỉ dám bày tỏ là Chúa biết ông yêu mến Chúa. Lần thứ ba Chúa hỏi xem ông có yêu mến Chúa không (Ga 21:15-19), khiến ông bị nhột, chắc là vì ông liên tưởng đến việc đã chối Chúa ba lần (Ga 13:38; Ga 18:17, 27). Thánh Phêrô hẳn đã có kinh nghiệm, không còn tự hào như xưa nữa, mà chỉ tuyên xưng lòng mến của mình ba lần vào Chúa  như để bù lại ba lần đã chối Chúa. Lúc này Chúa trao cho Phêrô sứ mệnh chăm sóc cả chiên con của Chúa (Ga 21:15) và cả chiên mẹ là chiên cừu lớn (c. 16, 17), gồm các anh em tông đồ, nghĩa là chăm sóc toàn thể Giáo hội mà Chúa sẽ thiết lập. Khi tiên đoán việc Phêrô chối Chúa, Chúa cũng tiên đoán ông sẽ trở lại, nên mới căn dặn ông rằng khi trở lại rồi, ông cần củng cố và nâng đỡ tinh thần các tông đồ khác (Lc 22:32). Lời Chúa trong hai trường hợp trên đây ngụ ý vai trò lãnh đạo của thánh Phêrô.

Phêrô được coi là người phát ngôn viên, đại diện cho các tông đồ bất cứ khi nào có cơ hội đến. Chính Phêrô đã nói thay cho các tông đồ trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 1:15-20; 2:14-16). Phêrô là người đầu tiên chấp nhận người Do thái giáo và cả dân ngoại vào Giáo Hội (Cv 2:37-41; 10:44-48). Chính Phêrô là người đã đề nghị chọn một người làm tông đồ thay thế Giuda (Cv 1:21-26). Và Phêrô là người đã bênh vực các tông đồ khác trước toà án Do thái giáo (Cv 4:8-12; 5:29-33). Cũng chính Phêrô đã triệu tập và chủ toạ công đồng đầu tiên của Giáo Hội ở Giêrusalem (Cv 15:7-11). Ðọc thư thứ nhất của thánh Phêrô, ta thấy thánh nhân viết với vẻ uy quyền của người lãnh đạo. Phêrô viết thư ra lệnh cho các vị đại giáo trưởng và môn đệ trong Giáo Hội ở Tiểu Á. Chính Thánh Phêrô đã thiết lập Giáo Hội ở Rôma. Và bởi vì Thánh Phêrô chọn Rôma như là tông toà, cho nên các vị giáo hoàng kế vị được coi là thủ lãnh của Giáo hội Công giáo.

Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội bằng việc chọn mười hai tông đồ, đặt Phêrô làm Thủ lãnh  và ban cho ông quyền bính. Mục đích của việc thiết lập Giáo Hội với việc chọn Phêrô là người Lãnh đạo là để qui tụ người tín hữu trong việc hiệp nhất đức tin và tinh thần hiệp thông huynh đệ (Giáo Hội # 18). Suy đi nghĩ lại ta nghiệm thấy rằng đường lối của Chúa thật là khôn ngoan và thông suốt như thánh Phaolô đã nhận ra (Rm 11:33). Trải qua suốt dòng lịch sử Giáo hội, ta thấy quyền bính giáo hoàng đã là đề tài tranh luận và mâu thuẫn, đưa đến việc chia rẽ và phân tán trong thế giới Kitô giáo. Và lịch sử đã chứng minh rằng khi mà người ta tách rời khỏi Giáo Hội mà Chúa đã thiết lập: công giáo, thánh thiện, duy nhất và tông truyền (Kinh Tin kính) thì họ còn tiếp tục phân rẽ nếu có sự bất đồng ý kiến về vấn đề thần học và luân lý. Do đó ngày nay người ta thấy có cả hàng trăm giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới. Có những trường hợp mà người ta tách rời ra khỏi Giáo hội để thành lập những giáo phái riêng là tại những lí do khác nhau như tham vọng cá nhân, phán đoán lệch lạc hoặc bất phục tùng quyền bính của Giáo hội.

Quyền bính Chúa ban trong Giáo Hội là để phục vụ. Chúa có thể trực tiếp hướng dẫn loài người mà không cần qua trung gian loài người. Tuy nhiên Chúa đã muốn loài người cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Chúa, nên mới đặt loài người cai quản Giáo Hội. Các vị cai quản Giáo hội cũng vẫn còn mang trong mình những yếu hèn và tội lỗi. Vì thế Giáo hội cũng trải qua những thăng trầm: cũng có những lạm dụng và lầm lẫn do cá nhân trong Giáo hội gây ra. Và bao lâu còn tại thế thì Giáo hội với tính cách lữ hành luôn trên đường tìm kiếm sự thật và tự thanh lọc khỏi những sai lầm và lạm dụng.

Vậy làm sao người tín hữu sống hiệp nhất và hiệp thông với Giáo hội? Người tín hữu cũng cần nhận thức rằng hiệp nhất không có nghĩa là đồng nhất. Nếu trong quá khứ ta hãnh diện về tính cách đồng nhất trong Giáo hội: thánh lễ được cử hành bằng tiếng La tinh khắp nơi với cùng một nghi thức và bối cảnh, thì trong hiện tại ta cũng phải hãnh diện về tính cách đa diện: lễ bằng ngôn ngữ bản xứ, thánh nhạc khác nhau, giáo dân được khuyến khích tham phần vào phụng vụ thánh lễ như thừa tác viên thánh thể, thừa tác viên lời Chúa…

Hình ảnh cụ thể và sống động nhất của Giáo hội là giáo xứ. Xây dựng giáo xứ là xây dựng Giáo hội. Có nhiều cách thế để xây dựng giáo xứ như bằng cách gia nhập giáo xứ, tham gia vào sinh hoạt thờ phượng, giáo dục và công tác từ thiện bác ái của giáo xứ, bằng việc góp công lao, thời giờ và tiền của để giáo xứ có phương tiện làm việc tông đồ và bảo trì cơ sở. Ngoài ra gia đình cũng là hình ảnh của giáo hội nhỏ bé. Gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong gia đình mà những giá trị đạo đức được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo hạnh và những nguyên tắc luân lí. Như vậy xây dựng gia đình và giáo xứ là xây dựng Giáo hội. Và ta có thể cảm thấy vững tâm vào lời Chúa bảo đảm khi Chúa hứa với Phêrô là dù quyền lực tử thần cũng không thắng nổi Giáo hội (Mt 16:18).

Lời nguyện xin cho được ở lại trong Giáo hội:

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã xuống thế làm người,

thiết lập Giáo hội trên tảng đá thánh Phêrô.

Chúa còn cầu nguyện cho các tông đồ được hiệp nhất.

Xin ban cho các giáo phái Kitô giáo

biết khám phá ra căn nguyên cội rễ của mình

để tìm đường trở về hiêp nhất với Giáo hội

mà chính Chúa đã thiết lập.

Và xin cho con được trở nên dụng cụ hiệp nhất

trong cách cư xử, nói năng và viết lách thế nào

để khỏi gây hoang mang và chia rẽ trong lòng Giáo hội.

Cũng xin cho con được sống chết trong Giáo hội. Amen.

Về mục lục

CHÌA KHÓA TRƯỜNG SINH

Lm Vũđình Tường

Từ ngàn xưa, công sở cũng như nhà tư, ổ khoá được dùng để bảo vệ nhà cửa, của cải vật chất. Ổ khoá cũng được chế tạo chắc chắn hơn, tinh sảo hơn và phẩm chất cũng tốt hơn. Ngày nay một số ổ khoá không cần chìa khoá, chúng được thay bằng mật mã. Do kết hợp giữa mẫu tự và số tạo thành mật mã riêng cho cá nhân, nên mật mã có thể thay đổi tuỳ í riêng. Người này chế ra được thì kẻ khác có thể phá huỷ được. Đức Kitô trao cho Phêrô chìa khoá nước trời. Chìa khoá này không ai phá huỷ được và cũng không ai ăn cắp được. Bí mật của mật mã số và chữ ẩn nấp nơi chữ và số. Bí mật của chìa khoá nước trời không cất giữ ở nơi chìa khoá, hay ổ khoá mà nằm sâu trong tim mỗi người, vì thế không ai có thể lấy. Bí mật đó chính là tình yêu cá nhân dành cho Đức Kitô. Người ta thường nhận biết Đức Kitô qua một sứ vụ rao giảng của Ngài. Phêrô là người duy nhất nhận biết toàn thể sứ vụ Đức Kitô khi tuyên xưng, ‘Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’ Mat 16, 17. Đức Kitô ban cho Phêrô một tên mới, ‘Đá Tảng’. Tên mà Đức Kitô thiết lập Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Tên ‘Đá Tảng’ cũng thể hiện tình yêu bền chặt ‘sắt đá’ Phêrô dành cho Đức Kitô. Phêrô là vị Giáo Hoàng tiên khởi coi sóc Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Bởi không thế lực thù dịch nào ăn cắp được ‘Chìa Khoá Trường Sinh’ nên các thế lực thù địch quay sang đánh phá Giáo Hội. Đức kitô cũng cho biết Phêrô biết rõ về gốc tích Đức Kitô là do Chúa Cha mặc khải cho. Những ai chia sẻ điều Phêrô tuyên xưng được chia sẻ ‘Chìa Khoá Trường Sinh’. Không phải chia sẻ quyền lãnh đạo, hướng dẫn Giáo Hội mà chính là chia sẻ cuộc sống mới Chúa ban, và nhận ơn lành đặc biệt thành con Thiên Chúa. Điều này thể hiện qua việc thay đổi lối sống. Nhận đời sống mới từ Đức Kitô, học và thực thi giáo huấn của Ngài. Người đó đổi mới trở thành khí cụ tình yêu, hoà bình cho Đức Kitô. Người đó đổi mới sống cho Đức Kitô, chết trong Đức Kitô, và chia sẻ cuộc sống trường sinh Đức Kitô ban. Có kiến thức về Đức Kitô mà không yêu mến Ngài, không tin theo Đức Kitô là những triết gia tôn giáo. Nói về Chúa, giải thích về đạo thuần theo lí trí con người, bởi trong họ thiếu tình yêu Chúa nên không có ‘Chìa Khoá Trường Sinh’, bởi thiếu điều kiện duy nhất cần thiết, đó là tình yêu Chúa. Yêu Chúa là chìa khoá cần thiết để thay đổi lối sống. Ai yêu mến Đức Kitô người đó trở thành con cái Chúa. Yêu Chúa bằng trọn trái tim, trọn tâm hồn. Đức Kitô là đầu Giáo Hội, những kẻ kế vị thánh Phêrô là quản gia Giáo Hội Chúa. Các vị này luôn trung thành với Đầu là Đức Kitô và có trách nhiệm yêu mến các chi thể trong thân thể Giáo Hội. Sau khi về trời, Đức Kitô ban Ngôi Ba, Thánh Thần Thiên Chúa xuống hướng dẫn Giáo Hội. Dấu chỉ của thời đại có chứa điều bí ẩn. Dựa vào hướng dẫn của Thánh thần Chúa qua cầu nguyện, các vị trong Công Đồng đưa ra những hướng dẫn cho Giáo Hội. Từ đó tạo ra nhiều nhóm với í kiến khác nhau. Có nhóm không đồng í với hướng dẫn của Công Đồng nên đưa ra chỉ trích, phê bình, tạo ra nứt rẽ trong Giáo Hội. Số khác không đồng í với cách tổ chức, điều hành của Giáo Hội. Số khác nữa không tin vào quyền Giáo Huấn của Công Đồng và đòi đổi mới hơn nữa. Tất cả những biến chuyển trong lòng Giáo Hội, cũng như thế lực bên ngoài xã hội đều là những cơn sóng to, nhỏ, gió cuốn, bão tố làm cho con thuyền Giáo Hội lay chuyển. Đức Kitô biết trước việc đó nên Ngài nói, Giáo Hội Chúa luôn đứng vững trước các thử thách, trước phong ba, bão táp gây nên. Đừng quên, ‘Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi’ c.18. Giáo Hội đứng vững bởi Giáo Hội tồn tại không phải do con người, thế lực trần gian, nhưng do Sức Mạnh Chúa- Xây trên ‘Đá Tảng’ của Đức Kitô, xây trên tình yêu Ngài. Giáo Hội lệ thuộc vào hướng dẫn của Thánh Thần Chúa, tìm hiểu và giải thích những dấu chỉ của thời đại. Chúng được xem như là những dụ ngôn trong thời đại mới, trong đó ngầm chứa những bí ẩn về nước trời. Ai cũng nhận biết dấu chỉ, ai cũng quan tâm đến dấu chỉ, nhưng giải thích chúng cách mạch lạc không phải là điều ai cũng có thể làm. Công đồng làm việc chung với nhau qua liên lỉ cầu nguyện, và thành tâm nhận định, lựa chọn đưa ra hướng dẫn cho Giáo Hội. Những kết luận của Công Đồng chắc chắn có sự hoạt động của Thánh Thần Chúa. Chúng ta cầu nguyện cho những vị có trách nhiệm lãnh đạo Dân Chúa.

Về mục lục

CHÌA KHÓA VÀ ĐÁ TẢNG

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trang Tin mừng hôm nay, Chúa trao cho thánh Phêrô hai sứ vụ quan trọng là “Chìa Khóa” và là “Đá Tảng”: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời”; “Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”.

1. Chìa Khóa

Bài đọc 1, Thiên Chúa phán về ông Engiakim con của Khinkigiahu: “Chìa khóa nhà Đavit, Ta sẽ đặt lên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được” (Is 22, 22). Chúa Giêsu không nói về chìa khóa nhà Đavit mà mà chìa khóa Nước Trời. Sau khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, ngài đã được Chúa trao “Chìa Khóa Nước Trời”, đó là quyền lãnh đạo Dân Chúa, quyền đóng mở và bảo quản kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Lời Chúa, các Bí tích. Sau này khi Phục Sinh, bên bờ hồ Tibêria, Chúa trao quyền mục tử quản trị “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy” (Ga 21, 17).

Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Hội Thánh trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. “Trên trời và dưới đất”, “tháo cởi và cầm buộc”, Chúa Giêsu là dòng dõi Đavit, không phải để kế thừa vương quốc trần gian mà là vương quốc vĩnh cửu của Nước Trời. Quyền “cầm buộc và tháo cởi” là hai hành động diễn tả việc giảng dạy và áp dụng Luật Môsê do các thầy dạy (Rapbi) của Itraen, điều đó cũng có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh.
Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khoá mở cửa Nhà thờ. Đức Giám Mục trao chìa khóa cho Linh Mục Quản Xứ để ngài mở cửa Nhà thờ.Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn Giáo phận là thuộc Đức Giám Mục Giáo Phận, còn Linh Mục Quản Xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám Mục, thay mặt Đức Giám Mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này.

Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua ngài, qua Hội Thánh, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa. Quyền làm con Thiên Chúa chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích.

Nói đến chìa khóa là phải nghĩ đến ổ khóa. Ổ khóa là để thực thi chức năng bảo vệ những gì được xem là quý giá mà có thể bị mất vì kẻ trộm, kẻ cướp. Chúa Giêsu nói là trao chìa khóa cho Phêrô, thế thì Người trao cho ông khi nào? Có thể khẳng định là Người đã trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô trong lần hiện ra tại bờ hồ Tibêria khi Người từ cõi chết sống lại. “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy…Hãy chăn dắt chiên của Thầy…”. Nhận lấy chìa khóa là nhận lấy trách vụ bảo vệ. Để có thể chu toàn trách vụ bảo vệ thì trước hết cần phải trân quý cái mình bảo vệ đồng thời nhận rõ các nguy cơ khiến có thể mất nó. Chúa đã trao cho Phêrô chìa khóa để bảo vệ đoàn chiên. Chúa cũng đã trao chìa khóa cho các giám mục để chăm sóc, bảo vệ đặc biệt đoàn chiên trong các Hội Thánh địa phương.

Chúa Giêsu đã trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô, nhưng ngài không cầm chìa khóa bằng sắt thép hay kỹ thuật số, mà chìa khóa ấy chính là bí tích hòa giải. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: Quyền “trói và cởi” là quyền tha thứ các tội lỗi, công bố những phán đoán về giáo lý và đưa ra những quyết định có tính kỷ luật trong Giáo hội (x. số 553).

2. Đá Tảng

Sau khi Phêrô và các môn đệ biết nguồn gốc lời tuyên xưng của Phêrô là do Cha trên trời mạc khải, Chúa Giêsu công bố và thiết lập Hội Thánh, cộng đoàn của Giao Ước Mới: “Thầy báo con biết: con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Chúa xây dựng Hội Thánh của Chúa trên đá tảng Phêrô. Xây trên đá có nghĩa là xây trên một nền tảng vững chắc, vững chắc đến mức độ sức mạnh của hoả ngục cũng không thắng nổi: “trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Cuối bài giảng trên núi, Chúa đã nói ví dụ xây nhà “xây nhà trên cát” thì sẽ bị nước cuốn đi, “xây nhà trên đá” thì “mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào nhà ấy cũng không sụp đỗ”. Bây giờ Chúa đã có được nền đá để xây ngôi nhà là Hội Thánh của Chúa. Việc Cha mạc khải cho Phêrô biết và tuyên xưng Chúa Giêsu là ai, là tín hiệu của Chúa Cha cho Chúa Giêsu thấy Tảng Đá tuyển chọn. Ở cái miền đất “đá nhiều hơn đất” này, núi đá trơ trọi và những tảng đá trơn trượt cao sừng sững, hay hốc đá…là những nơi an toàn. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự an toàn của những người theo đường chính trực : “Người như thế sẽ được ở trên núi cao, có đồn trên núi đá làm nơi trú ẩn. Bánh ăn sẽ được luôn cung cấp, nước uống chẳng lo thiếu bao giờ” (Is 33, 16). Các Thánh Vịnh nhiều lần ví Thiên Chúa lá núi đá, là tảng đá. Thậm chí sách Xuất Hành đẩy đến cùng ý nghĩa cứu độ này, khi kể rằng lúc dân Itraen không có nước uống, họ kêu trách ông Môsê, ông Môsê kêu lên Đức Chúa thì Đức Chúa truyền: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục dân Itraen, cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đàng kia trước mặt mọi người, trên tảng đá núi Khorep. Ngươi sẽ đập vào tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống” (Xh 17, 1-7). Sách Dân số kể chuyện tương tự ở một giai đoạn sau, Thiên Chúa bảo ông Môsê cầm gậy, triệu tập cộng đồng Itraen trước tảng đá rồi “nói với tảng đá” và “từ tảng đá ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho chúng uống”. Nhưng trong cơn tức giận vì sự cứng lòng của dân, ông Môsê đã cầm gậy “đập vào tảng đá hai lần”, “nước trào ra lai láng cho dân và súc vật uống” (Ds 20, 1-11). Nhưng Đức Chúa thịnh nộ với ông Môsê vì đã không tôn vinh Danh Chúa khi trái lệnh: thay vì nói với tảng đá, ông lại đập và đập tới hai lần!

Quyền lực và thù nghịch của Thiên Chúa và loài người từ ban đầu là cái chết do Satan cầm đầu và đưa vào trần gian (x.Kn 1, 13;2,24). Chúa đã thắng cả cái chết, nên ngôi nhà Hội Thánh Chúa xây lên thì quyền lực Tử Thần sẽ không làm gì được. Tất cả những kẻ đã làm tay chân cho tử thần để tìm cách tiêu diệt Hội Thánh của Chúa, từ bên ngoài cũng như từ bên trong Hội Thánh đều đã được tử thần đón về dinh để tưởng thưởng; còn Hội Thánh vẫn sống động và tiếp tục lan rộng đến tận cùng thế giới. “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33). Cái đêm đen tối nhất của lịch sử Hội Thánh đã xảy ra rồi: mười hai ông tông đồ Chúa đã chọn, thì ông thủ quỹ Giuđa bán Chúa; tảng đá Phêrô mới chỉ bị một con hầu giữ cổng “rờ gáy” đã chối Chúa nhanh hơn gà gáy, mười ông kia bỏ trốn ngay khi Chúa bị bắt, còn Chúa thì vào âm phủ, ngôi mộ bị niêm phong với lính gác. Đó chính là cái đêm Hội Thánh sinh ra (x.Ga 16, 20-22) (x.Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Matthêu, Lm Nguyễn Công Đoan SJ).

Nếu Phêrô có quyền giáo huấn, quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh, thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa. Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử. Không chỉ những cuộc bách hại đẫm máu, mà còn có những chia rẽ, tranh chấp nội bộ, những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian. Chúa Giêsu gọi Simon là Phêrô, nghĩa là Đá. Điều này diễn tả sự chia sẻ quyền lực của Thiên Chúa cho người đại diện Chúa nơi trần gian là Phêrô và các Đấng kế vị ngài. Chúng ta tin vào sự vững bền của Hội Thánh vì chính Chúa là Nền Tảng đã đặt ngai tòa Phêrô như Đá vững chắc cho ngôi nhà Hội Thánh. Sức mạnh của Đấng Phục Sinh là cơ sở cho niềm tin và bình an khi chúng ta sống trong Hội Thánh của Chúa.

Chìa Khoá mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.

Tảng Đá, tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho Phêrô. Trên Táng Đá này, Chúa xây Hội Thánh vững bền. Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, Thánh Phêrô đã chia sẻ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta? ’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa Khóa Nước Trời”.

Lời hứa của Chúa Giêsu với Phêrô đã trở thành hiện thực khi nhìn lại lịch sử Hội Thánh hơn hai ngàn năm qua. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà. Dẫu Hội Thánh trải qua nhiều sóng gió nhưng vẫn luôn luôn đứng vững trên nền tảng của Thánh Phêrô. Vị Giáo hoàng tiên khởi và các đấng kế vị luôn đóng trọn vai trò “Đá Tảng”, luôn chu toàn chức vụ “cầm chìa khóa nước trời” để “trói và cởi”. Nhờ đó, nhân loại đón nhận biết bao ơn lành từ Thiên Chúa qua Hội Thánh.

Tạ ơn Chúa đã lập nên Hội Thánh. Hội Thánh trở thành mẹ của mỗi tín hữu trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Vì thế, bổn phận của chúng ta đối với Hội Thánh là biết ơn, vâng lời và xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Ðền thờ thiêng liêng.” (1 Pr 2, 5)

Về mục lục

CHIẾC CHÌA KHÓA

Trầm Thiên Thu

Khoảng năm 1602, họa sĩ Annibale Carracci (1560–1609, Ý) vẽ bức tranh “Domine, quo vadis?” mô tả một cảnh trong ngụy thư Công Vụ Phêrô (Acts of Peter). Annibale Carracci đã sáng lập trường phái hội họa Baroque của Ý, gọi là trường phái Bologna. Bức tranh “Quo Vadis” là m​​ột trong các tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất, mô tả Thánh Phêrô đang trên đường trốn khỏi Rôma thì gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá. Phêrô hỏi: “Domine, quo vadis?” (Thầy đi đâu vậy?) Chúa trả lời: “Romam vado iterum crossifigi.” (Thầy đến Rôma chịu đóng đinh.) Nghe Thầy nói vậy, Phêrô trở lại Rôma ngay lập tức.

Phêrô là một ngư phủ bình thường, không có gì nổi bật, nhưng lại được Chúa chọn làm trưởng Nhóm Mười Hai và trao cho ông chiếc “chìa khóa uy quyền” để cai quản và hướng dẫn Giáo Hội tại thế. Chức vụ và chức danh nghe có vẻ giống nhau, nhưng có phần khác nhau quan trọng. Chức danh đề cập phẩm tước, còn chức vụ đề cập công việc, trách nhiệm và bổn phận về chức vụ – gọi là chức phận. Như vậy, chức danh không cần có chuyên môn, nhưng chức vụ cần có chuyên môn. Danh từ “chức sắc” thường dùng trong tôn giáo, tức là nói về những người có chức vụ nào đó. Chức (tước) luôn gắn liền với (nhiệm) vụ.

Chúa đã muốn thì không thể trốn tránh. Phêrô trốn không thoát. Giêrêmia trốn không thoát. Giôna trốn không thoát. Tuy nhiên, người có chức vụ mà không làm đúng chức năng thì chỉ là “hữu danh vô thực,” là “bù nhìn,” là hình nộm, như ma-nơ-canh (mannequin, người giả ở các tiệm trang phục). Loại người “ham chức, quên vụ” này chẳng làm nên trò trống gì, đôi khi còn phá bướng, nhưng lại hay lên mặt “ta đây.” Chúa rất ghét loại người này. Chắc chắn có hệ lụy, trốn không thoát.

Trình thuật Mt 16:13-20 [≈ Mc 8:27-30; Lc 9:18-21] cho biết rằng, khi đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?” Hỏi để mà hỏi, vì Ngài biết rõ mười mươi rồi. Ngài hỏi là để người khác tự xác tín. Và các ông đều thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” Mỗi người mỗi ý, mỗi cách nhìn, nhưng chung quy vẫn coi Ngài là một “người đặc biệt,” một “dị nhân” ngoại hạng.

Rồi Ngài hỏi chính Nhóm Mười Hai: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Chúa Giêsu nói: “Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Ý Chúa quan phòng và tiền định nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Nghe ông Phêrô nói vậy, Ngài cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô. Sao vậy? Giờ Ngài chưa đến.

Ngay lúc nhận “chìa khóa” cũng là lúc ngư phủ Phêrô đã trở thành giáo hoàng tiên khởi với quyền tối thượng, Công Đồng Vatican I (từ 08-12-1869 tới 01-07-1870, thời ĐGH Pio IX) đã xác nhận ơn bất khả ngộ của giáo hoàng. Chìa khóa mà Sư Phụ Giêsu trao cho đệ tử Phêrô là Chìa-Khóa-Yêu-Thương-và-Tha-Thứ, Chìa-Khóa-Nước-Trời để mở lối vào cho các hối nhân, chứ không là Chìa-Khóa-Nhà-Tù để giam hãm người khác. Có chức thì có quyền, nhưng cũng đầy bổn phận và trách nhiệm. Quyền cũng đi với Hành, gọi là quyền hành, thế nên đôi khi những người có quyền thì cũng dễ lạm dụng rồi khoái “hành” người khác. Việt ngữ thật thâm thúy!

Nhưng là phàm nhân nên dễ “nghiêng ngả” nếu không tỉnh thức để từ bỏ mình. Thật vậy, con người ảo tưởng nên rất dễ háo danh và hám lợi, vì có “cái danh” thì thường có kèm theo “cái lợi.” Chức danh càng cao, bổng lộc càng nhiều. Điều này xảy ra trong xã hội thì quá rõ ràng, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây đều có, nhưng ngay trong Giáo Hội cũng có những người không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của danh lợi đời thường. Người ta cứ chú trọng “cái danh” mà quên “cái phận,” trong khi “cái phận” cần thiết hơn “cái danh.” Thật vậy, Đức Kitô đã động viên người ta phải dám “ngược đời” chứ không theo sự thường: “Nhiệt tâm phục vụ, không mong hưởng thụ.” (x. Mt 20:28) Hai động thái trái ngược mà vẫn xuôi chiều, thuận lý.

Ngày xưa, viên quan Sép-na là tể tướng triều đình (tương tự thủ tướng ngày nay), được người ta coi là “người hùng,” nhưng Đức Chúa tuyên phán thẳng thắn và rõ ràng: “Ta sẽ TỐNG ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ ĐUỔI ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu. Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Giêrusalem và với nhà Giuđa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.” (Is 22:19-23) Chiếc chìa khóa thời Cựu Ước có liên quan chiếc chìa khóa thời Tân Ước: Bí tích Hòa Giải – Bí tích Thương Xót. Thật hạnh phúc, bởi vì chúng ta có thể “tắm gội” nhiều lần để sạch sẽ.

Là Đấng từ bi, nhân hậu, và giàu lòng xót thương, nhưng Thiên Chúa rất thẳng thắn và dứt khoát, không thiên tư tây vị. Ngài đã cho chúng ta thời gian để sửa đổi, nếu không chịu chấn chỉnh, chúng ta sẽ bị Ngài tước hết. Thật vậy, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất.” (Mt 13:12; Mt 25:29; Mc 4:25; Lc 8:18; Lc 19:26) Ngài cũng nói rõ: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi.” (Mt 15:13) Nghe mà cảm thấy sợ hãi, nhưng không nên hoang mang.

Tuy nhiên, đối với những người biết sám hối và sửa sai, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ và phục hồi nguyên trạng: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.” (Tv 103:12) Thật là trên cả tuyệt vời. Khổng Tử cho biết: “Có lỗi mà không sửa mới thành ra có lỗi.” Đúng như vậy. Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta vui mừng, rồi cũng có khi làm chúng ta đau nhói, nhưng tất cả vẫn là hồng ân, Ngài luôn ân cần lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của mọi người. Thánh Vịnh gia khiêm nhường thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự.” (Tv 138:1-2)

Vâng, dù có thế nào thì chúng ta vẫn cần tạ ơn, một động thái rất cần thiết vì nhiều lý do, vừa minh nhiên vừa mặc nhiên: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao!” (Tv 138:3-5) Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên, bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp, và cũng nhắc lên cao. (1 Sm 2:6-7; Kn 16:13; x. Tv 30:4) Tất cả vì thương xót mà thôi.

Thiên Chúa cao vời khôn ví, làm cho chúng ta từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, và chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi lòng thương xót bao la vô tận của Ngài: “Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.” (Tv 138:6 và 8) Được thương xót nhiều hay ít là điều tùy vào niềm tin của mỗi người: “Ai tin thế nào thì được như vậy.” (Mt 8:13; Mt 9:29)

Vừa đặt vấn đề vừa giải thích, Thánh Phaolô nói: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! Amen.” (Rm 11:33-36) Những vấn đề này vẫn luôn nóng bỏng và nhức nhối ở mọi thời đại. Đó cũng là những câu hỏi để mỗi chúng ta tự cân-đo-đong-đếm mức độ tín thác của mình vào Thiên Chúa, một dạng trắc nghiệm tâm linh.

Thiên Chúa là ai mà tôi nên tin? Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ, nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa,” nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – ngôn ngữ @ gọi là bó-tay-chấm-com. Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì chỉ gặp ngõ cụt, những người tin có kiếp luân hồi cũng bế tắc. Thật vậy, một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế mà rồi cũng đành phải “bó tay” trước Thiên Chúa để trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh.

Khi ở trong chốn lao tù, ngôn sứ Gioan đã sai đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11:4-6) Dấu chỉ sự thật mãi mãi bất biến, nếu không nhận ra bởi vì người ta cố ý nhắm mắt, cố chấp.

Khi xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng hỏi Ngài: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63; Mc 14:61) Chúa Giêsu cũng không xác định mà lại nói: “Chính ngài vừa nói.” (Mt 26:64) Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời.” (Lc 22:67-68) Có thể chính chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc đặt vấn đề như vậy. Sự hoài nghi rất tinh vi nên không dễ nhận ra.

Khi còn là TGM Jorge Mario Bergoglio, ĐGH Phanxicô sống giản dị, luôn gần gũi người nghèo, có những lần ngài bất ngờ đến với dân nghèo và người lao động, tự cầm khay và đứng xếp hàng chờ đến lượt mình nhận thức ăn nơi quầy thức ăn, giống như mọi người, không nhận quyền ưu tiên nào, và rồi cùng ăn uống với họ. Điều này chứng tỏ lời ngài là thật đối với câu nói của ngài đã phát biểu trước đám đông giới trẻ: “Tôi không muốn làm giáo hoàng.”

Là giáo hoàng, “vua” của Công giáo, nhưng “ông lớn” lại thích làm “ông nhỏ,” tự phục vụ chứ không cần người khác phục vụ, còn nhiều “ông nhỏ xíu” lại muốn biến thành “ông lớn.” Cười ra nước mắt, vì họ chẳng khác gì chú Ếch con mà muốn to bằng con Bò trong truyện ngụ ngôn “La Grenouille Qui Veut Se Faire Aussi Grosse Que Le Bœuf” của Jean de La Fontaine. Thật là khôi hài, không có năng khiếu mà thích diễn, lố bịch quá chừng!

Cổ nhân có câu: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên.” Trong ba người thì có một người làm thầy. Lẽ tất nhiên. Chức vụ là để phục vụ chứ không để tự tôn hoặc lên mặt với người khác. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi hoạt động trong một lĩnh vực nào đó để cộng tác với Ngài, cùng tiếp tục hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai được phép “hưởng nhàn.” Ai cũng “nói hay” về sự phục vụ nhưng chưa chắc muốn phục vụ. Người ta cứ leo lẻo nói rằng “lao động là vinh quang,” nhưng rồi có mấy ai thích vinh quang mà chỉ ưa ngồi rung đùi, chỉ tay năm ngón, và… hốt bạc tỷ. Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi – đời cũng thế mà đạo cũng vậy. Xong. Nhưng chìa khóa và ổ khóa không hề giống nhau.

Nói trước, bước không qua. Tiền nhân nói vậy. Nói được mà không làm được thì chỉ là “lẻo mép.” Viết hay mà làm dở thì cũng vậy, đừng viết lắm mà nắm không xong, đó là dạng “lẻo bút.” Dù “lẻo” dạng nào nào cũng chết chắc. Bởi vì đó là người di truyền “máu” Pharisêu, có AND đạo-đức-giả, đúng như Thiên Chúa đã nói: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mt 15:8-9) Dạng người như vậy “được” Chúa Giêsu gọi là “mồ mả tô vôi.” (Mt 23:27) Một cái nickname nghe rất “kêu,” nhưng lại làm cho “nhột gáy” lắm!

Đáng sợ thật, bởi vì trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều bình đẳng, chỉ hơn thua nhau về nhân đức mà thôi. Mọi người là con cái Chúa thì tất nhiên là anh em với nhau. (x. Mt 23:8) Chắc chắn Ngài không quan tâm cái CHỨC mà chỉ xét đến cái VỤ. Mười nén, năm nén, ba nén, thậm chí là nửa nén cũng không thành vấn đề, không quan trọng vốn mà quan trọng là số lời. Thế thôi! Nhưng ở đời “nhiều chuyện” lắm. Không nói thì bị chê là hèn nhát, a dua, nịnh hót, theo đóm ăn tàn. Dám thẳng thắn nói thật thì bị ghét bỏ, trù dập, xa lánh. Giàu có thì bị ghét, đói rét thì bị khinh, thông minh thì bị triệt, ngu dốt thì bị đì, cỡ gì rồi cũng… chết. Chúa Giêsu cũng chỉ vì thẳng thắn thật thà mà bị người ta ghét và tìm mọi cách để sát hại.

Cứ bình thường, chẳng nịnh cũng chẳng chê ai, chẳng luồn cúi cũng chẳng hống hách với ai. Cứ là chính mình.

ĐGH danh dự Benedict XVI, khi còn đương nhiệm, đã nhận xét: “Kitô giáo không là triết lý mới hoặc luân lý mới. Chúng ta chỉ là Kitô hữu nếu chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Chỉ trong mối quan hệ riêng với Đức Kitô, Đấng phục sinh, chúng ta mới thực sự là Kitô hữu.” Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, mỗi người mỗi việc, tùy khả năng nhận được. Đó là cách Ngài chia sẻ công việc để chúng ta làm mà có thêm công trạng theo danh chính ngôn thuận, chứ Ngài đâu cần gì chúng ta góp một tay, chỉ một lời Ngài tuyên phán là có tất cả.

Mang thân phận phàm nhân, thân tro xác bụi, con người luôn khắc khoải về số phận, luôn thao thức về chính mình, một hạt bụi nhỏ nhoi mà đầy nỗi gian truân, lắm cảnh đọa đày. Cố NS Trịnh Công Sơn đã tự vấn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?” (Cát Bụi) Nhưng ông không thể giải đáp, nên ông tự nhủ và nhắn nhủ, rồi lại tiếp tục đặt vấn đề: “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng… Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng… Tôi là ai mà còn ghi giấu lệ, tôi là ai mà còn trần gian thế? Tôi là ai, là ai, là ai mà yêu quá đời này?” (Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng) Cuộc đời như một chu kỳ lẩn quẩn, không có lối thoát. Biết suy tư là còn sinh tồn. Cõi lòng Thánh Augustinô cũng luôn như biển động: “Linh hồn con bồn chồn lo lắng mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa.” Thánh Vịnh gia kết luận: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.” (Tv 62:2) Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới thỏa mãn chúng ta, vì Ngài là Đầu và là Cuối. (Kh 1:17; Kh 2:8; Kh 22:13)

Liên quan sự phục vụ, ngôn sứ Êlia cảm nhận: “Lòng nhiệt thành đối với Chúa nung nấu con.” (1 V 19:14) Ước gì mỗi chúng ta cũng cảm thấy như vậy. Biết Chúa và biết mình, điều nào cũng khó, nhưng cần phải biết Chúa thì mới có thể biết mình: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Đó là tâm nguyện của Thánh Augustinô. Khi biết Chúa rồi, ông cảm thấy hối tiếc và thú nhận: “Con yêu Chúa quá muộn màng.” Biết Chúa và được yêu Chúa thực sự là một đại phúc cho phàm nhân chúng ta.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con chân nhận Ngài là Thiên Chúa chí tôn duy nhất, và xin giúp chúng con nhận diện chính mình để không ảo tưởng mà ngu chảnh và ngu kiêu, đồng thời cũng biết sống đúng bổn phận và trách nhiệm hằng ngày. Xin cho mọi người sống trọn Thánh Ý Ngài, nhất là trong thời gian chịu bách hại vì đại dịch corona hiện nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 21 TN_A

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật này có thể được gọi là trao ban quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

Is 22: 19-23

Bản văn I-sai-a gợi lên lễ tấn phong “tổng giám quản hoàng cung” của vương quốc Giu-đa, viên quan này sẽ thực hiện quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

Rm 11: 33-36

Trong đoạn trích thư của thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Rô-ma, bài thánh thi ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa kết thúc phần đạo lý của thư gửi tín hữu Rô-ma.

Mt 16: 13-20

Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su trao quyền lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)

Bài Đọc I hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan này quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a đề cập đến chắc chắn được định vị vào cuối thế kỷ VII tCn, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của đạo quân Át-sua tàn phá vương quốc Giu-đa.

Chính Thiên Chúa truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” vào lúc đó mà trao cho ông En-gia-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài.

“Đức Chúa phán: “Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu”. Câu chuyện này có hai đặc trưng:

– Mô tả lễ tấn phong.

– Hậu cảnh Mê-si-a.

  1. Mô tả lễ tấn phong

“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó;

cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y;

quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó”

Xem ra vị quyền cao chức trọng này mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định địa vị và quyền hành của ông.

“Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa”: Chung chung, tước hiệu “cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”. Chắc chắn, ở đây, muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng mình.

“Chìa khóa nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày vua đăng quang. Chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền lãnh đạo của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích thiên sai.

  1. Hậu cảnh thiên sai

Phần cuối bài thơ được giải thích trong ánh sáng thiên sai:

“Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai nó.

Nó mở ra thì không ai đóng được,

nó đóng lại thì không ai mở được.

Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột,

nó sẽ làm nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó”

Những biểu thức này được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một vị hoàng tử. Nhưng nếu như phải chăng đây thật sự là một vị “hoàng tử của vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích đấng giữ “chìa khóa nhà Đa-vít” theo nghĩa Mê-si-a. Quả thật, sách Khải Huyền đã giải thích bản văn theo truyền thống này, khi áp dụng vào Đức Ki-tô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Tiếp theo sách Khải Huyền, các Giáo Phụ đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh Mê-si-a này.

BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)

Bài thánh thi này tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo l‎ý của thư gửi tín hữu Rô-ma.

  1. Ơn Cứu Độ cho người Do thái

Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định này đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: việc dân Ít-ra-en bất phục tùng lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, kế hoạch dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.

  1. Niềm cảm tạ tri ân

Từ đó, làm thế nào không cất lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi được chứ? Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh Phao-lô diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình. Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị âm vang trong tâm trí của thánh nhân:

“Thần khí Đức Chúa, ai đo cho nổi?

Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13).

Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan của Thiên Chúa:

“Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,

quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!

Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,

tính chung lại, ôi nhiều vô kể.” (Tv 139: 6, 17).

  1. Lời chúc tụng

Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca này với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men”. Câu “Vinh Tụng Ca” này với những thuật ngữ riêng chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xu‎yết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca này cũng có thể được kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi gợi hứng cho thánh nhân.

TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)

Vì các Biệt phái và Kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực, và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tĩnh để được sống riêng tư mật thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền cai trị của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị mực thước và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp này đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gút-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố này được gọi là “Xê-da-rê Phi-líp-phê”.

Trong lãnh địa này, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình này, Ngài bắt chuyện với các ông. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện này vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.

  1. Thăm dò dư luận

Trước khi đề cập chi tiết cuộc chuyện trò giữa Thầy và trò, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện đã xảy ra trước đó ngõ hầu hiểu rõ tầm quan trọng lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ở đây. Sự kiện thứ nhất được thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Thánh Phê-rô tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6: 67-69).

Sự kiện thứ hai đặc biệt chỉ dành riêng cho các môn đệ thân tín của Ngài khi Ngài đi trên mặt biển và dẹp yên phong ba bão tố. Trong sự kiện này, thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và lao mình xuống mặt biển sóng to gió lớn để gặp Ngài. Sau cùng, tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33).

Liệu đức tin mà các ông tuyên xưng trong những giây phút cảm kích này còn đọng lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Đức Giê-su sắp dò xét tâm tư tình cảm của họ. Nhưng trước tiên, Ngài thăm dò tâm tư tình cảm của đám đông dân chúng đối với Ngài, vừa để tạo cơ hội cho các ông trả lời cách chân thật cho câu hỏi thiết yếu của Ngài, đồng thời giúp các môn đệ hiểu biết sâu xa hơn đức tin của họ phải thoát khỏi thế kềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào.

Kẻ thì nói Ngài là ông Gio-an Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc nhớ tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ông Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin này dựa trên Ml 4: 5: “Đây Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Ta đến, ngày vĩ đại và kinh hoàng.” Có người lại cho Ngài là ông Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất trong ba thánh ký nhất lãm nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện này (x. Mt 16: 14; Mc 8: 28: Lc 9: 19). 2Mcb 15: 13-16 chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (Xh 32: 11).

  1. Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Đây mới thật sự là câu hỏi cốt yếu Đức Giê-su nhắm đến trong cuộc trò chuyện thân mật này. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, nhân danh các bạn thánh Phê-rô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. “Đấng Ki-tô” là danh xưng phiên âm từ Hy-ngữ: “Christos” xuất xứ từ nguyên ngữ Híp-ri: “Mesiah” có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”, “Thiên Chúa hằng sống” là cách nói tiêu biểu Cựu Ước, nhắc nhở rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng bất động của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng này, thánh Phê-rô nhận ra vừa “tước vị Mê-si-a” vừa “tử hệ thần linh” của Đức Giê-su: Ngài không đơn giản chỉ là một con người được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng còn là Đấng Mê-si-a có nguồn gốc thần linh.

Đức Giê-su tán dương đức tin này và ơn linh ứng siêu nhiên mà thánh Phê-rô đón nhận: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói: “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu hèn của kiếp người. Như vậy, việc thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đức Ki tô, Con Thiên Chúa hằng sống không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải.

Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được Đức Giê-su xác nhận. Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài. Vài ngày sau đó, Ngài sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự vào biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp-phê.

  1. Tấn phong thánh Phêrô

Phần cuối của câu chuyện này, được gọi là việc tấn phong Phê-rô, chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội. Khoa chú giải Công Giáo giải thích cuộc tấn phong của thánh Phê-rô có hiệu lực không chỉ riêng đối với vị lãnh đạo của các Tông Đồ, nhưng còn đối với những người kế vị thánh nhân: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Képha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Képha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng. Khi nâng danh từ “képha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Képha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên ông từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên của một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy và trao quan cho người ấy một sứ mạng mới, như vậy, một con người mới và một vận mệnh mới: Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay của Giáo Hội Ngài.

Khi tuyên bố: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”, Đức Giê-su khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.

“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”: Hình ảnh này chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao phó cho người ấy quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng gia, ông có nhiệm vụ coi sóc và điều hành dinh thự hoàng gia. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và điều hành Giáo Hội của Đức Kitô.

 “Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy”: “Ngăn cấm” và “cho phép” được dịch theo sát từ là “buộc” và “tháo”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” khi áp dụng chúng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.

  1. Ba truyền thống Tin Mừng về quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô

Ba bản văn Tin Mừng thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô dựa trên lòng tin, niềm hy vọng và lòng mến của thánh Phê-rô:

1- Bản văn của thánh Mát-thêu mà chúng ta vừa mới đọc nhấn mạnh lòng tin, trong đó, Đức Giê-su thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô: “Anh là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy…”căn cứ trên lời tuyên xưng đức tin của thánh nhân: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15).

2- Bản văn của thánh Lu-ca nêu bật niềm hy vọng, trong đó Đức Giê-su thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô trước khi bước vào con đường thương khó, khi căn dặn với chỉ một mình thánh nhân cách long trọng: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22: 31-32). Qua lời này, Đức Giê-su nhắc nhở thánh nhân không bao giờ được mất đi niềm hy vọng ở nơi mình, nhưng còn phải là động lực khơi lên niềm hy vọng của anh em mình.

3- Bản văn của thánh Gioan thắp sáng lòng mến, trong đó Đức Giê-su Phục Sinh thiết lập quyền lãnh đạo của Phê-rô trên toàn thể Giáo Hội của Ngài: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21: 15, 16, 17) dựa trên ba lần lời cam kết tràn đầy lòng mến của thánh Phê-rô đối với Ngài: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21: 15-17).

Cả ba truyền thống: Đức tin, đức cậy và đức mến, bổ túc cho nhau hội đủ ba đức tính của nhà lãnh đạo Giáo Hội. Đó cũng là nền tảng vững chắc của toàn thể Giáo Hội Đức Giê-su Ki-tô mà không thế lực trần thế nào có thể làm lay chuyển được.

Về mục lục

 

 

ĐỨC TIN VÀ CUỘC SỐNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Tuyên xưng đức tin và sống đức tin, đó là đặc tính căn bản của người Kitô hữu. Nhờ tin vào Chúa, chúng ta sẽ sống thánh thiện và hoàn hảo hơn. Tuy vậy, đức tin của chúng ta thường bị chao đảo trước những giông bão của cuộc đời. Nhiều khi những đam mê trần tục lôi kéo chúng ta, làm cho chúng ta quên Chúa và sống như thể Ngài không hiện diện. Tin vào Đức Kitô không dừng lại những công thức ngoài môi miệng, nhưng phải được thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, bằng một cuộc sống ngay lành, chân thực và bác ái.
 
Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Người ta bảo Con Người là ai?”, các môn đệ tỏ ra lúng túng. Điều này chứng tỏ, các ông chưa hiểu rõ Thày mình, mặc dù chấp nhận đi theo làm môn đệ Người. Phêrô đã tuyên xưng: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức tin vừa là một ân ban đến từ Thiên Chúa, vừa là nỗ lực cố gắng của con người để đón nhận và gìn giữ cách trung thành. Vì là ân ban của Thiên Chúa, nên người này có thể được ban, người khác lại không. Vì là nỗ lực của con người, nên người ta có thể khước từ hay đón nhận, có thể trung thành hay phản bội đức tin đã lãnh nhận.
 
Từ việc tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã trao cho ngài quyền “tài thẩm” hay còn gọi là “quyền ràng buộc và tháo cởi”. Điều này giải thích lý do tại sao có cơ chế và quyền hành trong Giáo Hội. Để thiết lập trật tự, chính Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo Hội mà người đứng đầu là thánh Phêrô quyền tha thứ hay ràng buộc. Giáo Hội nhân danh Chúa Giêsu để thi hành quyền này. Tuy vậy, Giáo Hội không cai trị bằng quyền lực thế gian, mà bằng đức yêu thương, vì yêu thương là cốt lõi của Đạo Chúa. Giáo Hội luôn phải đặt đức yêu thương làm đầu, noi gương Chúa Giêsu, đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mình làm giá cứu chuộc con người. Trong Cựu ước, Chúa đã trao chìa khóa nhà Đavít cho ông Eliaqim, để ông đóng và mở (Bài đọc I). Tuy vậy, quyền bính này chỉ là quyền bính thế gian. Quyền bính mà Chúa Giêsu trao cho thánh Phêrô là “chìa khóa nước trời”. Đây là một sứ mệnh cao cả, vì đó chính là sứ mệnh của Thiên Chúa, Đấng có quyền ban thưởng cho thánh nhân hay trừng phạt người tội lỗi. Hơn hai ngàn năm qua, Giáo Hội vẫn thi hành quyền bính được trao phó. Mặc dù có những lạm dụng về quyền bính nơi một số cá nhân, nhưng không vì thế mà Giáo Hội đánh mất căn tính và nhiệm vụ của mình, đó là phục vụ con người và đem ơn cứu độ của Chúa Giêsu cho mọi dân tộc.
 
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình liên lỉ, trải dài trong suốt cuộc đời và có nhiều khó khăn thử thách. Tuy vậy, chúng ta không bước đi một mình. Có Chúa đi cùng chúng ta, để rồi “mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người” (Bài đọc II). Xác tín điều này, chúng ta sẽ thấy tâm hồn thanh thản an vui và kiên vững trên đường đời.

Thánh Phêrô trong Tin Mừng hôm nay đã bị Chúa Giêsu quở trách là “Sa tan”, vì ông định can ngăn Chúa khi Người thông báo cuộc khổ nạn đã gần kề. Vừa trước đó, Chúa khen ngợi ông là “người có phúc” vì ông tuyên xưng: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thánh Phêrô được khen ngợi vì đã nhận rõ sứ mạng thiên sai của Chúa. Ấy vậy mà sau đó Chúa lại trách ông là Sa tan. Sa tan là kẻ luôn quấy phá và làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa. Sa tan cũng là kẻ gian dối và là nguyên nhân của biết bao chia rẽ hận thù. Nhiều lúc chúng ta cũng có quan niệm lệch lạc như Phêrô, tức là hiểu sai sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu. Điều này cũng cho thấy, để duy trì và gìn giữ một đức tin tinh tuyền, cần phải luôn tỉnh thức và thận trọng, để tránh những sai lầm và ngộ nhận. Hiện nay, có nhiều nhóm tín hữu mệnh danh là “được Chúa mạc khải” để tuyên truyền những điều sai lạc về đức tin, kèm theo những lời đe dọa cho những ai khước từ điều họ tuyên truyền. Những người này nhân danh Chúa để gây chia rẽ và làm cho nhiều người lung lạc đức tin. Trước những trao lưu này, người tín hữu phải cẩn trọng và tuân giữ những gì thuộc về đức tin tinh tuyền.
 
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tự vấn lương tâm về cách thức sống đức tin của mỗi người. Có nhiều người chuyên cần trong những bổn phận đạo đức, nhưng lại gian dối và thủ đoạn trong mối tương quan với anh chị em. “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”. Ước chi đó là lời tuyên xưng của mỗi cá nhân chúng ta. Cùng với lời tuyên xưng này, chúng ta cố gắng thực hiện bổn phận của người Kitô hữu, để xây dựng nước trời ngay trên trần gian và trong cuộc sống của chúng ta.

Về mục lục

.

HỘI THÁNH CỦA CHÚA

Tgm. Jos. Ngô Quang Kiệt

“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.

Đó là một Hội Thánh cho con người.

Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.

Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.

Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.

Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.

Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.

Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)

Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.

Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh Chúa. Amen.

Về mục lục

.

NỀN ĐÁ PHÊRÔ

Lm. Jos. DĐH.

Hầu hết những khu công nghiệp “mọc lên” từ vùng nông thôn, vì đối tượng cơ bản mà xã hội nhắm tới là số công nhân phổ thông sẽ nhiều hơn cả. Một nghịch lý khác là đại đa số người tài giỏi, bằng cấp cao, lại tập trung về thành thị, cũng từ đó mà chúng ta thấy các trường đại học, các bệnh viện lớn đều qui tụ về thành phố. Kinh nghiệm bình dân: đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm, lao động làm việc, nuôi dạy con cháu, cuộc sống của họ như thế là đủ ý nghĩa rồi. Trên thương trường và chiến trường người ta quan tâm đến việc: biết mình biết ta trăm trận trăm thắng. Theo triết lý Á-đông thì xây nhà, xây dựng gia đình hạnh phúc, đầu tư làm ăn, họ thường lưu ý đến “phong thuỷ”, yếu tố chính là phải có thiên thời địa lợi nhân hoà.

Đức Giêsu không xây trường, không xây bệnh viện, cũng chẳng làm kinh tế, Đức Giêsu đã cho các học trò, cho chúng ta biết ý định sẽ xây Hội Thánh của Ngài trên nền đá Phêrô. Thông thường người ta chỉ biết đá “cẩm thạch” là cứng là chắc, Đức Giêsu lại hướng chúng ta đến sự vững chắc từ nền đá Phêrô, Ngài quả quyết “cửa tử thần cũng không thắng nổi”. Khởi đi từ dư luận đám đông bất nhất hôm xưa, họ chưa hiểu về khả năng đức độ, về tài hùng biện nơi ông Thầy Giêsu, nhưng đám đông có chung một cảm nhận Đức Giêsu là Vị Thầy vĩ đại hơn các ngôn sứ thời cha ông họ. Trong khi đó, Đức Giêsu không đặt vấn đề địa lý, không tìm kiếm thầy phong thuỷ, Ngài đặt hết tâm huyết cho việc xây dựng Hội Thánh của Thầy trên nền đá Phêrô.

Theo lý lẽ tự nhiên: trên thuận dưới hoà là nhà có phúc, Đức Giêsu mời gọi đừng dừng lại ở phúc lộc trần thế, biết Đức Giêsu là ngôn sứ đã khá rồi, biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhất định “các bạn” phải được gọi là môn đệ, là đang tiến dần tới vinh quang nước trời. Đức Giêsu mà Phêrô đại diện tuyên tín không phải là Đấng chỉ giảng giải, thu hút đám đông bằng phép lạ chữa bệnh, Phêrô và các bạn ông sẽ còn phải minh chứng bằng niềm tin Đấng Kitô đi từ đau khổ thập giá tới vinh quang. Đấng chiến thắng tử thần là Đấng sẽ nối kết tất cả những ai cùng tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa cứu độ, tất cả sẽ đủ sức mạnh để thấy tình yêu thương và sự bao bọc che chở của Đấng Kitô.

Quan điểm hôm xưa và hôm nay có khác gì không, nếu đặt câu hỏi: bạn có muốn trở thành đại gia không ? Bạn có muốn địa vị xã hội không ? Đặt câu hỏi như thế với đám đông, sẽ dễ dàng thu hút hơn, nhưng chắc chắn Đức Giêsu sẽ không thiết lập Hội Thánh như vậy. Cũng không ít những người thắc mắc, nền đá Phêrô là chất liệu gì, có cứng bằng xi-măng đá thép không ? Vâng, Đức Giêsu không có ý biến đổi những ai theo Ngài sẽ thành đại gia, Đức Giêsu cũng không treo giải thưởng cho  người nói đúng danh tính của Ngài, dù trên phương diện lý thuyết hay thực hành. Đức Giêsu có ý mô tả nền đá Phêrô sẽ là sự vững chắc trường tồn, không thế lực nào phá hỏng được, vì nền đá Phêrô có sự hiện diện, có tình yêu thương của Đấng đã thiết lập và thánh hoá Hội Thánh của Ngài.

Câu thành ngữ đầy mỉa mai mà chúng ta đã từng nghe: khen nhà giầu lắm thóc. Đúng, Đức Giêsu không cần Phêrô “tâng bốc” Thầy của các ông tài giỏi, biết phải biết trái, có tinh thần bác ái cao độ, …vì đó chỉ là lời khen thừa thãi đối với sứ mạng Con Thiên Chúa. Qua dư luận của đám đông, Thầy Giêsu ý thức các học trò, những người tin theo Đức Giêsu phải hiểu tình yêu Con Thiên Chúa khởi đi từ đau khổ đến vinh quang, và từng người hãy sống niềm tin yêu đó. Nền đá Phêrô sẽ cứng rắn, mạnh mẽ phi thường, bền vững, bất chấp thời gian và kẻ thù tấn công, khi có sự hiện diện của Đấng sẵn lòng chết vì yêu, sống vì yêu. Nền đá Phêrô vẫn mãi là mầu nhiệm, vì số học trò đa phần là dân chài lưới, quê mùa ít học, nhưng họ có một sức mạnh không kẻ thù nào khuất phục nổi, đó là tình yêu Đấng Kitô.

Con người thời nào cũng ham hố bổng lộc, chức quyền, nhưng không ai dám nghĩ Thầy Giêsu là đồng đô-la, là thầy thuốc tài giỏi, hay Thầy Giêsu gần giống một thương gia. Nền đá Phêrô là đặc ân, là phần thưởng, Thiên Chúa không có ý dành cho một cá nhân nào, dù niềm tin của kẻ tin Ngài còn non kém, chưa xứng với danh phận tín hữu kitô. Sau khi chuẩn nhận Phêrô là nền đá, Thầy Giêsu đã xây dựng sự vững chắc xứng tầm với niềm tin Đức Kitô là Thầy, là Chúa, là Đấng cứu độ muôn dân khắp cùng bờ cõi trái đất. Xưa kia Đức Giêsu không có ý đòi hỏi các học trò phát âm “hay” như câu thành ngữ: con hơn cha, trò hơn thầy, nhưng để nền đá vững chắc, trường tồn, các ông phải được lớn dần trong tình yêu của Thầy. Các môn đệ và cả chúng ta hôm nay, cần phải sống và phát âm chính xác niềm tin: “Con Người phải trải qua nhiều đau khổ, chịu tử nạn rồi mới tiến vào vinh quang Phục Sinh”. Amen.

Về mục lục

.

THẦY LÀ AI?

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan 

Thông thường bài kiểm tra giúp người thầy đánh giá được mức độ tiếp nhận của học viên. Chúa cũng hỏi các môn đệ: “người ta bao thầy là ai?”. Có bốn cấp độ hiểu biết, chỉ cho chúng ta thấy những tình trạng của tâm hồn khi tiếp cận với Chúa.

Là Gioan tẩy Giả.

Mức độ tiếp cận với Chúa như một Gioan Tẩy Giả chỉ ra rằng mức độ của con người đến gặp Chúa, trong tình trạng nhận ra mình cần sám hối. Trong tâm hồn của mỗi người đều có lúc nhận ra mình đang thiếu những điều tốt lành, vắng dần những ý nghĩa cuộc sống. Có những sự dữ rõ ràng nhưng cũng có những sự dữ giấu ẩn, không thể gọi tên. Đôi khi bộc lộ bên ngoài làm đứt gẫy các tương quan, có những hành động thiếu kiểm soát…

Sứ điệp của Chúa như gợi lên những điều tốt đẹp đang bị che giấu trong lòng mình, như dụ ngôn “con chiên lạc” chỉ về niềm vui đánh mất trong cuộc đời và nhờ ân sủng Chúa tìm về: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15, 7 – 8).

Là Elia

Vượt qua những thiếu sót của tội lỗi, người gặp Chúa có một thôi thúc là làm lại mới trong Chúa. Thời đại đang sống cũng đang có những vấn đề cần sửa đổi lại với sứ vụ của Elia.  

Elia có hai sứ vụ nổi bật, đó là chống lại việc sùng bái ngẫu tượng ( 1V 18,18-40) và chống lại sự tham lam, bóc lột, bất công (1Vua 21, 17 19). Cả hai điều này đang làm cho xã hội thêm nhiều người đau khổ và mất đi những khả năng để sống.

Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI nói về việc thờ ngẫu tượng: “Ở nơi không có Thiên Chúa, con người rơi vào cảnh nô lệ thờ ngẫu tượng, vì những chế độ chuyên chế của thời đại chúng ta đã chứng minh điều đó, cùng với những hình thức khác nhau của thuyết hư vô vốn làm cho con người tùy thuộc vào ngẫu tượng, vào việc tôn thờ ngẫu tượng – chúng sẽ bắt con người làm nô lệ.” (Vatican City, ngày 15 tháng 6, 2011)

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói sùng bái tiền của làm đổ vỡ: “Chúng ta hãy xem biết bao gia đình mà chúng ta biết, có những thành viên đấu đá với nhau, không thèm mở miệng chào nhau, thù ghét nhau, chỉ vì thừa kế. Đây chỉ là một ví dụ mà thôi, trong hoàn cảnh này tình yêu gia đình, tình yêu cho con cái, anh chị em ruột thịt, cha mẹ, không còn gì có giá trị hàng đầu nữa, mà thế vào đó là tiền bạc, và chuyện này gây hủy hoại. Thậm chí còn đem lại chiến tranh, các cuộc chiến chúng ta đang thấy ngày nay, đúng thế, chắc chắn là có vì lý tưởng, nhưng còn là vì tiền bạc nữa, tiền để mua bán vũ khí, tiền lợi nhuận từ chiến tranh. Và như thế, một gia đình, là tất cả chúng ta, biết rằng chúng ta bị chia rẽ.” (J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ Vatican Radio, 19 – 10 2015).

Chúa Giêsu khi được cho là Elia, con người đang khát mong Chúa đến để chữa lành một thế giới và nội tâm con người đang bị rơi vào việc sùng bái ngẫu tượng vật chất và sự dữ, bất công đang đè nặng trên những con người phận nhỏ.

Là Một Tiên Tri

Người ta nói Chúa Giê su là tiên tri Giê rê mia hay một tiên tri nào đó. Người ta đã thấy những việc tốt lành Chúa đã làm và giao lý của Người như Đấng có uy quyền (Mc 1, 21 – 28). Nhưng, cũng thấy số phận của con người thi hành đức công chính thường gặp nhiều nỗi gian truân (TV 33, 20). Chúa Giê su mang dáng dấp của tiên tri Giêrêmia đau khổ thưở xưa, nhắc nhở cho người đấu tranh cho công lý hòa bình, bác ái, yêu thương, biết rằng, họ cũng sẽ chung một số phận như vậy: Tù đày, giam hãm, đánh đòn, sỉ nhục… Và cuối cùng cũng như Giêrêmia luôn nghiệm thấy Chúa yêu thương và giữ gìn, Chúa quyến rũ và tăng thêm sức mạnh cho người công chính, để thi hành sứ vụ.

Hay như tiên tri Amot: Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán”. Đức Chúa đã lấy thánh danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng(Am 8, 4 – 7). Người ta chờ đợi Chúa đến để thay đổi diện mạo xã hội người nghèo đang chịu nhiều đau khổ.

Là Đấng Kitô

Câu trả lời của thánh Phêrô, là câu trả lời đầy đủ, bao gồm tất cả những câu trả lời của những người chúng quanh nói về Chúa. Tuyên xưng điều này, Chúa cũng nói với Phê rô: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17)

.

Để nhận biết Chúa, cần được Chúa tỏ lộ cho con người. Chúa muốn cho con người được biết và nhận ra Người. Vì biết Chúa không chỉ là cái biết của tri thức, còn là sự nhận biết của tâm hồn yêu mến, để sống sự sống của chính Chúa.

Việc nhận biết sâu xa này, luôn luôn gợi hứng cho con người khao khát và đi tìm Chúa không ngừng. Chúa là Đấng Mới và là Đấng Khác, nên con người gặp Chúa luôn ngỡ ngàng mỗi khi gặp Chúa. Cuối cùng giống như thánh Phê rô chỉ còn mỗi câu để thưa với Chúa, mỗi khi gặp gỡ Chúa: “Chúa biết, con yêu mến Chúa” (Ga 21, 17).  

Lạy Chúa, chúng con cũng muốn thưa với Chúa điều quan trọng nhất cả những khi lỗi tội, những khi thờ ơ, và những khi say mến Chúa: “Chúa biết, con yêu mến Chúa”. Xin đổi mới chúng con từng ngày và cứu giúp sự yếu hèn của chúng con.

Về mục lục

.

TƯỞNG BIẾT NHƯNG CHƯA BIẾT

Anna Cỏ may

Mỗi ngày sống luôn có những sự kiện lớn nhỏ xảy ra với chính bản thân chúng ta. Những sự kiện có thể làm cho chúng ta vui, cũng có những điều làm cho chúng ta không hài lòng lắm. Và điều đương nhiên xảy ra là, chúng ta không thể tránh được những tiếng xầm xì của mọi người. Khi đó, chúng ta lại càng tò mò muốn biết người khác đang nói gì về mình. Nếu họ nói điều tích cực, chúng ta sẽ dễ đón nhận, ngược lại, chúng ta sẽ đón nhận điều đó như thế nào. Đối với Chúa Giêsu của chúng ta thì sao? Hôm nay, Ngài cũng muốn chúng ta tuyên xưng điều gì đó về Ngài bằng chính cuộc sống của chúng ta. Ngài muốn chúng ta xác định chỗ đứng của Ngài trong lòng ta như thế nào.

Chúa Giêsu đã chữa bệnh cho rất nhiều người và trừ cả ma quỷ nữa. Sau khi chữa khỏi bệnh cho họ, Ngài dặn họ đừng nói cho ai biết gì về Ngài (Mt 9,30). Tuy nhiên, những phép lạ của Ngài luôn diễn ra nơi công cộng, ở chỗ đông người, nên không thể không ai biết tới (Mt 9, 23-26). Làm người như chúng ta khi ở trần gian, khi nghe dân chúng xôn xao về mình, Chúa Giêsu cũng muốn biết dân chúng nói và biết gì về Ngài. Lạ thay, Ngài không hỏi dân chúng mà lại hỏi các môn đệ. Ngài háo hức hỏi “Người ta nói Con Người là ai?”(Mt 16,13-20). Các môn đệ đưa ra nhiều đáp án khác nhau, nào là Gioan Tẩy giả, ông Êlia, ông Giêrêmia hay một trong các ngôn sứ. Nghe như vậy, Chúa Giêsu có lẽ thất vọng, vì dân chúng vẫn chưa hiểu biết về Ngài. Họ còn mang trong mình ý nghĩa về một Đấng mà từ lâu họ cứ chờ mong, Đấng đó là một tiên tri. Họ không nhận ra Ngài là Đấng từ trời cao (Ga 3,31). Và đó không phải là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn nghe. Bấy giờ, Chúa Giêsu chỉ còn hy vọng nơi các môn đệ. Ngài hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai” (Mt 16, 15). Ông Phêrô nói “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Tại sao chỉ có một mình ông Phêrô nói, còn các môn đệ kia thì sao? Chẳng phải lúc trên thuyền, khi thấy Chúa Giêsu dẹp yên biện lặng, các ông đã bái lạy mà nói “Quả thực ông này là Con Thiên Chúa!” (Mt 14, 33). Phải chăng, các ông không dám vì sợ hay chưa kịp nói. Nhưng dù sao, ông Phêrô đã làm cho Ngài vui lên, vì ít ra vẫn có người đã nói ra đúng ý Ngài muốn. Và Ngài vui vì có người hiểu biết một chút về mình. Niềm vui ấy đươc bộc lộ qua ông Phêrô, ông đươc Chúa khen ngợi và trao quyền nắm giữ chìa khóa Nước Trời. (Mt 16,17-18).

Là những người bước theo Đức Giêsu, chúng ta đang học hỏi về Ngài, để hiểu biết Ngài hơn và sống theo những gì Ngài muốn. Vậy, khi mọi người hỏi chúng ta về Chúa Giêsu, chúng ta đã có câu trả lời nào để nói về Đấng mà mình đang tìm kiếm chưa? Có người trong chúng ta có thể cũng trả lời như ông Phêrô “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúng ta biết Ngài là Đấng Kitô, Đấng đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đấng giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Ngài muốn đưa chúng ta vào vinh quang và cho chúng ta trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa. Chúng ta biết Ngài là Con Thiên Chúa qua lời của Chúa Cha “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người!”(Mt 17,5). Hay qua biến cố truyền tin của sứ thần Gaprien “Người sẽ nên trở cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao.” (Lc 1,32). Chính khi chúng ta biết về Ngài nhiều, thì đức tin chúng ta càng mạnh mẽ. Ông Phêrô đã biết và đã tin vào Thầy, nên ông một lòng tuyên xưng đức tin của mình trước mặt Thầy. Phần chúng ta, chúng ta hãy suy xét lại mình đã biết, hiểu Chúa và tin Chúa như thế nào? Chúng ta có dám trả lời chân thật, xác tin như ông Phêrô không? Còn Chúa Giêsu, Ngài vẫn hỏi chúng ta về Ngài qua những sự kiện, những biến cố trong từng ngày sống của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tưởng chừng đã biết nhiều về Chúa, nhưng thật ra sự hiểu biết của chúng con còn quá mơ hồ, nên chúng con đã có những thái độ sống chưa được đẹp ý Chúa. Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn chúng con, giúp chúng con luôn biết tìm kiếm Ngài, học hỏi về Ngài qua những biến cố thăng trầm trong cuộc sống của chúng con. Nhờ đó, niềm tin của chúng con ngày càng thêm vững mạnh, và chúng con sẽ can đảm hơn để tuyên xưng Chúa là ai trong cuộc đời chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU LÀ AI TRONG TÔI?

Bông hồng nhỏ

 “Người ta nói”, đó là cách mà chúng ta vẫn thường viện dẫn ý kiến khi bàn về một vấn đề. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?” (Mt 16, 13). Câu hỏi này quả thật không khó nếu các môn đệ chịu lắng tai và để ý sẽ có ngay câu trả lời. Nhưng câu hỏi đó cũng chỉ là cách dẫn vào câu hỏi thứ hai quan trọng hơn, mà Đức Giêsu sẽ dùng nó để giúp các môn đệ khám phá sâu hơn về chỗ đứng của Thầy trong lòng mình “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16, 15).

  1. Người ta nói

Quả thật, lúc bấy giờ, Thầy Giêsu rất nổi tiếng nên có nhiều cách nhìn về Thầy. Có kẻ thì cho là ông Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại nghĩ đó là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ. Dân chúng được chứng kiến các phép lạ Thầy làm, được Thầy yêu thương chữa lành bệnh tật. Họ nghe những lời Thầy giảng dạy có uy quyền và họ nghĩ ngay Thầy là một trong các vị ngôn sứ. Họ không biết về sứ mạng của Thầy, không rõ Thầy là ai. Cái biết về Thầy cũng chỉ là phỏng đoán dựa trên những việc Thầy làm, nghe người ta nói. Thầy Giêsu biết rõ những lời người ta bàn tán về mình, nhưng vẫn hỏi các môn đệ. Các ông phấn khởi kể ra. Chính những lời ca tụng của dân chúng trở thành niềm vui, là sự hãnh diện cho các ông. Sẽ có một ngày, Thầy làm nên sự nghiệp vĩ đại, Thầy sẽ phất cờ khởi nghĩa và các ông là những môn đệ của Thầy, chắc chắn sẽ nắm những vị thế chủ chốt trong Nước Thầy. Ước mơ ấy các ông vẫn canh cánh trong lòng. Thầy vẫn lắng tai nghe các ông thay nhau kể nhưng không nói gì. Nét mặt Thầy không tỏ ra phấn khởi như các ông. Thầy lại hỏi các ông “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16, 15). Câu hỏi ấy như một lời chất vấn các môn đệ cũng là chất vấn ta, đòi buộc các môn đệ cũng là đòi buộc ta nhìn về những kinh nghiệm sống bên Thầy, nhìn vào lòng mình để thấy vị trí thật sự của Thầy. Nếu ta luôn yêu Thầy thì ta sẽ dành thời gian và tâm hồn hướng về Thầy. Càng yêu nhau thì người ta càng hiểu rõ về nhau hơn. Thầy yêu các môn đệ, đó là điều chắc chắn. Còn tình yêu các ông dành cho Thầy như thế nào, điều đó sẽ giúp các ông hiểu Thầy là ai.

  1. Anh em nói

Trước câu hỏi bất ngờ của Thầy, trong khi các môn đệ khác đang bối rối thì Phêrô trả lời ngay “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 16). Câu trả lời thật xuất sắc! Thật tuyệt vời! Ơn hiểu biết ấy không phải tự sức Phêrô nhưng là mạc khải Chúa Cha dành cho ông. Bởi thế, ông là người có phúc. Nếu được Thầy Giêsu hỏi, thì ta cũng khó mà có được câu trả lời nhanh và chính xác. Hiểu về Thiên Chúa là một ơn ban của Thiên Chúa. Chúa ban cho ai thì người ấy được. Có khi ta sát bên cạnh một người, cùng làm việc, cùng chung một con đường nhưng nếu ta không đủ yêu mến thì làm sao ta biết rõ họ là ai, đặc biệt là xác định chỗ đứng của họ trong lòng ta lại càng khó. Bấy lâu nay, khi ta tham dự Thánh lễ, học hỏi về Chúa, đến với Chúa chỉ vì Chúa mang lại cho ta cái này cái kia, Chúa có ích cho ta nên ta đến. Ta đến với Chúa đơn giản chỉ là để xin điều ta muốn chăng? Khi xin không được thì ta chán, chán quá thì ta bỏ quên Chúa lúc nào không hay. Ta học về Chúa chỉ để thỏa mãn trí tò mò, muốn biết hết mọi sự, biết một chút rồi cứ tưởng là biết hết, biết đủ rồi thôi. Khi đứng trước luồng dư luận về một người, ta sẽ ngả về bên này hay bên kia? Ta có lập trường của mình không? Chúa Giêsu muốn biết tình yêu các ông dành cho Ngài nên hỏi một câu hỏi về chính căn tính của Ngài. Ta hãy cũng tự hỏi lòng mình xem “Chúa Giêsu là ai trong lòng tôi”?

  1. Tháo cởi hay cầm buộc

Sau khi tuyên xưng đức tin của mình về Thầy Giêsu, ông Phêrô được Thầy trao cho sứ mạng cao cả là trở thành người nắm giữ chìa khóa Nước Trời. Dưới đất ông cầm buộc điều gì trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy, dưới đất ông tháo cởi điều gì thì trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Đó là quyền tha tội của Hội Thánh được Chúa Giêsu trao phó. Tha thứ là tháo cởi, là quẳng đi hòn đá trong lòng. Nếu ta bị cột chặt hai tay hay bị trói thì thật khó chịu. Cũng vậy, khi ta cầm buộc ai đó bởi hận thù, thì tự ta cũng tự trói buộc lòng mình như thế. Làm sao ta được tự do, khi cứ mãi giữ hận thù trong lòng. Vì vậy, đời sống chung đòi hỏi ta phải thực thi đức ái mỗi ngày.

Lạy Chúa! Sự trói buộc khiến con không thể sống hạnh phúc. Nếu con tự mình cầm buộc anh chị em của mình thì con tự trói buộc mình trước. Xin Chúa dạy con cách tháo cởi tâm hồn mình, để con biết tha thứ và nâng đỡ người khác. Mỗi ngày xin Chúa cho con biết tự hỏi lòng mình “Chúa Giêsu là ai trong tôi”, để con biết ý thức hơn về sự hiện diện và chỗ đứng của Chúa trong lòng con. Amen.

Về mục lục

.

TÔI ĐANG TÌM KIẾM GÌ?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Một trong những khao khát sâu thẳm của con người là được kéo dài sự sống đến trường sinh bất tử. Con người dường như luôn bị dằn vặt, trăn trở khi phải đối diện với sự già nua, suy thoái của thân xác. Vì thế, họ tìm kiếm linh dược để kéo dài sự sống của mình. Khao khát này được thể hiện qua việc chăm lo cho thân xác luôn được khỏe mạnh, được cường tráng. Tuy nhiên, quy luật của tự nhiên là sinh bệnh lão tử khiến con người vẫn già, vẫn bệnh, vẫn trở về cát bụi. . . Con người đâu hiểu được rằng điều quan trọng không phải là sống thọ hay không thọ, mà là sống như thế nào? Sống với mục đích gì? Điều đó nó mới làm nên giá trị chất lượng cuộc sống và làm nên sự bất tử cho con người.

Thánh Phê-rô sau thời gian dài đi bên Chúa, nhìn và nghe thấy biết bao điều kỳ diệu Chúa đã làm, ông đã khám phá ra phương thuốc trường sinh là chính Đức Giê-su – Đấng hằng sống. Ông đã mạnh dạn tuyên xưng: “Thầy là Đức Ky-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Qua đây Chúa đã khen ngợi Phê-rô vì ông đã được Thiên Chúa Cha mạc khải điều bí nhiệm của Nước Trời. “Này anh Simon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy Đấng ngự trên trời”.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy xây dựng nền móng cho cuộc đời dựa trên lời Chúa và giáo lý của Ngài. Lời Chúa là ngọn đèn dẫn dắt chúng ta đi trong chân thiện mỹ. Lời Chúa luôn xây dựng đời chúng ta trong tình yêu là giới răn cao cả mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thực thi. Khi con người được xây dựng trên tình yêu với Chúa và tha nhân sẽ giúp con người biết sống cho Chúa và tha nhân trong tinh thần khiêm tốn phục vụ. Khiêm tốn để tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Phục vụ để cho danh Chúa được cả sáng qua đời sống yêu thương của chúng ta. Hãy đặt cuộc đời ta trên lời hằng sống. Hãy chọn Chúa là gia nghiệp. Hãy sống gắn bó với Chúa như cành liền cây để được sống sự sống trường sinh của Chúa.

Chọn Chúa hay đặt nền tảng cuộc đời trên Lời Chúa là biết nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho con người để rồi luôn biết quy phục Chúa, và tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Nhờ niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng hằng sống mà con người sẽ sống dưới cái nhìn của Chúa và bước đi trong sự dẫn dắt của Ngài.

 Nhưng đáng tiếc cho con người ngày nay thường quay lưng lại với Thiên Chúa. Khước từ Chúa con người cũng khước từ nhau. Con người sống trong bản năng vì tin vào ma quỷ hơn là tin vào Thiên Chúa. Ma quỷ luôn bảo với chúng ta không có Thiên Chúa, không có đời sau để lôi kéo chúng ta sống một cuộc sống buông thả theo tính xác thịt. Ma quỷ luôn bảo chúng ta xây dựng đời mình một cách hời hợt, nông cạn, sống theo bản năng hơn là theo ý chí và lý trí.  Chính đời sống thiếu chiều sâu đã làm cho con người dễ lao vào hưởng thụ hay dễ thất vọng chán nản nếu gặp thất bại.

 Thế nên, vẫn còn đó những người chỉ lo hưởng thụ vật chất mà xa rời cội nguồn sự sống đời đời. Vẫn còn đó những người tham danh vọng mà đấu đá loại trừ lẫn nhau gây nên những bể dâu cho cuộc sống. Vẫn còn đó những người đặt cuộc sống trên đồng tiền mà đánh mất lương tri con người, sống lỗi công bình bác ái với nhau. . .

 Ước gì chúng ta đừng vì lười biếng mà xây dựng đời mình một cách cẩu thả, hời hợt và thiếu đầu tư cho những giá trị Nước Trời là tình thương, là công lý và hòa bình. Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình dựa trên lời Chúa để thánh hóa bản thân và biến đổi thế gian. Amen

Về mục lục

.

THẦY LÀ ĐỨC KITÔ, CON THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phần các con, các con bảo Thầy là ai?“(Mt 16, 15) là câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ Chúa để trắc nghiệm sự hiểu biết của họ về danh tính của chính Chúa Giêsu, trên hành trình từ thượng lưu Galilê đi xuống. Hẳn đã nhiều lần người ta đặt cho các môn đệ câu hỏi về Chúa Giêsu, nay chính Thầy Giêsu hỏi họ về Ngài, một câu hỏi rất cụ thể được Chúa đặt ra, và chờ họ trả lời. Và này, Simon Phêrô đã thay mặt cả nhóm thưa : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Câu trả lời thật rõ ràng. Ở đây, Đức tin của Giáo Hội phản chiếu một cách trọn vẹn. Chúng ta cũng thế, chúng ta được soi sáng cách đặc biệt do lời tuyên xưng của Phêrô.

Đáp lại lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu trả nói: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17).

Phêrô thật có phúc! Phúc của Phêrô phát xuất từ mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa Cha, chính Chúa Cha mạc khải cho ông. Đây là mạc khải chân lý nội tại, và đời sống của chính Thiên Chúa. Phêrô, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã trở thành chứng nhân tuyên xưng một chân lý siêu phàm. Lời tuyên xưng của ông là nền tảng đức tin của Giáo Hội Chúa : “Trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (x. Mt 16, 18). Dựa vào đức tin và lòng trung thành của Phêrô, Giáo Hội của Chúa Kitô được thiết lập. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ý thức rõ điều ấy, như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết, khi Phêrô bị giam trong ngục. Hội Thánh khẩn thiết dâng lời khẩn nguyện lên cùng Chúa cho ông (x. Cv 12, 5), vì sự hiện diện của Phêrô vẫn cần thiết cho cộng đoàn trong những giai đoạn đầu của Hội Thánh : Chúa đã sai thiên thần của Người đến mà giải thoát họ khỏi tay những người bách hại (x.12, 7-11). Điều này đã được viết trong ý định của Thiên Chúa mà Phêrô, sau khi thừa nhận với anh em mình trong đức tin, đau khổ tử vì đạo ở Rôma, cùng với Thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại, cũng thoát chết nhiều lần.

Hôm nay, lời tuyên xưng đức tin của Phêrô tại địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, vào giai đoạn công khai sứ vụ cuối cùng, chuẩn bị bước vào cuộc thương khó dẫn tới cái chết đau thương và phục sinh của Chúa. Sau khi hóa bánh và cá ra nhiều, Chúa Giêsu đã quyết định cùng với các môn đệ tách khỏi dân chúng, sang bờ bên kia để huấn luyện các ông.

Hai ngày Chúa nhật trước, chúng ta nghe nói về Phêrô xin Chúa cho đi trên mặt nước, đang đi thì ông chìm dần xuống, Chúa cứu ông lên kèm theo lời quở trách : “Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?” (Mt 14,31 ). Hôm nay, Chúa khen ông : “Hỡi Simon con ông Giôna, con có phúc” (Mt 16,17). Phêrô có phúc là vì ông đã mở lòng mình ra để đón nhận mặc khải của Thiên Chúa và nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Câu hỏi: “Người ta bảo Con Người là ai? ” (Mt 16, 13) được đặt ra trong dòng lịch sử cùng một câu hỏi : “Phần các con các con bảo Thầy là ai?” (Mt 16, 15). Và một lúc nào đó chúng ta cũng phải trả lời những câu hỏi : Chúa Giêsu là ai đối với tôi và tôi là ai đối với Chúa? 

Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), là câu trả lời của Phêrô sau khi được Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của mình về chính mình. Nếu ngày hôm nay Chúa Giêsu hỏi chúng ta : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? ” Chúng ta có thể trả lời Chúa một cách rõ ràng và chính xác như Phêrô. Nhưng nếu Chúa hỏi : Thầy là ai đối với mỗi người chúng ta ? Mỗi người phải suy nghĩ, nhìn vào chính tâm hồn mình để trả lời câu Chúa hỏi. Câu trả lời này hết sức riêng tư, không ai giống ai. Đối với người này, Chúa là gia nghiệp, Chúa là bạn trăm năm, là sức mạnh mỗi khi gặp thử thách ; đối với người kia, Chúa là Đấng ai ủi khi buồn phiền,v.v…

Bây giờ chúng ta hãy hỏi ngược lại Chúa: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thấy con là ai ? Chúa xếp con vào loại người nào ?

Tin Mừng hôm nay đặt ra cho mỗi người chúng ta hai câu hỏi quan trọng : Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta ? Và chúng ta là ai dưới cái nhìn của Chúa Giêsu ? Mỗi người chúng ta phải tự trả lời, không ai trả lời thay cho chúng ta được. Khi chúng ta khám phá ra Chúa Kitô, là chúng ta khám phá ra chính bản thân, và căn cội của chính mình. Bước vào trong quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, Đấng sẽ mạc khải cho chúng ta căn tính của chính mình, đó là điều Phêrô làm. Khi nghe lời Chúa, bước đi với Chúa, ta thực sự trở nên chính mình. Điều quan trọng không phải là việc thực hiện ý muốn của riêng ta, nhưng là ý Chúa, cuộc sống sẽ trở nên đáng tin hơn. Và nếu ta thực sự muốn được kiện toàn bản thân mình, không có cách nào khác ngoài việc mở rộng đường cho Chúa Kitô.

Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Amen.

Về mục lục

.

ĐÁ TẢNG XÂY DỰNG HỘI THÁNH TẠI GIA

Lm. Inhaxiô Trần Ngà  

Hai diễm phúc lớn của thánh Phê-rô  

Sau khi Phê-rô tuyên xưng rằng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”,  Chúa Giê-su nói với ông : “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.  Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”

Trích đoạn Tin mừng này cho ta thấy thánh Phê-rô có hai diễm phúc lớn:

Một là được Chúa Cha mặc khải cho biết Chúa Giê-su chính là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống; hai là được Chúa Giê-su đặt làm Tảng Đá kiên vững để xây dựng Hội thánh của Ngài.

Hai diễm phúc tương tự của người ki-tô hữu

Tuy nhiên, không chỉ một mình thánh Phê-rô mới được hưởng hồng phúc lớn lao đó mà bất cứ ki-tô hữu nào cũng được thông phần vào hai hồng phúc quý báu này.

– Hồng phúc thứ nhất: Nhờ ơn Chúa ban, mỗi ki-tô hữu chúng ta cũng được hồng phúc nhận biết Chúa Giê-su như thánh Phê-rô từng biết.

Đây là điều mà các vị ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sa-i-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các nhà thông thái… chưa từng được nghe, chưa từng được biết, vậy mà chúng ta đã được biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, là Con Thiên Chúa hằng sống. Hơn thế nữa, chúng ta còn được nghe Ngài phán dạy qua những trang Tin mừng, qua giáo huấn của Hội thánh từ lâu nay.

Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận đây là đại phúc:

“Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13, 16-17).

Hồng ân này lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giê-su đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25). 

– Hồng phúc thứ hai: Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô như thánh Phê-rô, chúng ta còn được hồng phúc thứ hai là được Chúa chọn làm đá tảng xây hội thánh nhỏ của Chúa.

Thánh Phê-rô dạy rằng Thiên Chúa muốn nhờ đến chúng ta như “những viên đá sống” để xây nên Đền thờ của Chúa. Ngài nói như sau: “Anh em hãy để Thiên Chúa dùng như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5).

Noi gương thánh Phê-rô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia

Phê-rô là Đá tảng được Chúa chọn làm nền để xây dựng Hội thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ. Thế là chúng ta trở thành những Phê-rô khác, những “viên đá” khác trong Hội thánh tại gia. Hội thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phê-rô thì Hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.

Lạy Chúa Giê-su, 

Khi Phê-rô được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội thánh, ngài không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa, mở mang Hội thánh và đem lại ơn cứu độ cho muôn dân.
Xin cho chúng con là những người được Chúa tuyển chọn làm những viên đá xây đền thờ Chúa, thì cũng biết noi gương thánh Phê-rô mà tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng con trở nên một đại gia đình thánh thiện và chan hòa tình yêu thương.

Về mục lục

.

ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?

Lm. GB. Trần Văn Hào

Có một họa sĩ muốn phác lại chân dung của Đức Giêsu, nhưng ông ta không biết phải làm thế nào. Ông lang thang khắp đó đây để tìm một người làm mẫu, nhưng tìm mãi vẫn không ra. Thoạt đầu ông gặp một đứa bé với nụ cười ngây thơ trong trắng. Ông về nhà vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu và cố đưa nét đơn sơ hồn nhiên ấy vào trong bức họa. Gặp một ẩn sĩ đang đăm chiêu cầu nguyện, ông cũng muốn lột tả khuôn mặt sâu lắng và thanh thản nơi bức tranh. Về đến gần nhà, ông gặp một bà mẹ trẻ đang âu yếm vỗ về đứa con thơ, ông cũng khám phá ra nét dịu dàng của tình mẫu tử và cố gắng diễn bày nét đẹp ấy trong tác phẩm của mình. Nói chung, gặp bất cứ nét đẹp nào, người nghệ sĩ kia đều muốn đưa vào trong bức chân dung vẽ Chúa Giêsu. Khi gần hoàn thành xong tác phẩm, ông ta vẫn còn thấy thiếu một cái gì đó. Một bữa nọ, khi lang thang bên bìa rừng, ông bắt gặp một bóng ma đang động đậy, đúng hơn đó là một con người đang nặng nề lê bước với chiếc khăn che kín mặt. Đó là một người cùi đang lầm lũi bước đi với nỗi đau tột cùng. Anh vui mừng về xưởng, vẽ phủ lên khuôn mặt Chúa Giêsu một tấm khăn mỏng, giống như chiếc khăn trùm trên gương mặt đau khổ của người bệnh phong. Người họa sĩ muốn nói lên rằng, Đức Giêsu vẫn mãi là một mầu nhiệm còn đang ẩn dấu đối với sự tìm kiếm của con người.

Anh em bảo Thầy là ai?

Đây là câu hỏi Chúa đặt ra cho các học trò năm xưa, cũng như cho mọi người chúng ta ngày hôm nay. Chúa muốn mời gọi chúng ta nhìn lại đời sống đức tin để thẩm định xem, Đức Giêsu là ai đối với tôi. Chúng ta vẫn giơ tay làm dấu Thánh giá, tin nhận Đấng chịu đóng đinh năm xưa là đối tượng duy nhất của niềm tin, nhưng trong thực tế, chúng ta đã sống niềm tin ấy như thế nào.

Đứng trên góc độ thuần lý, có lẽ mọi người chúng ta là những kẻ xuẩn ngốc nhất. Chúng ta tin vào một con người cũng giống hệt chúng ta, không có gì nổi trội. Con người đó sống cách chúng ta cả 20 thế kỷ, khác màu da, khác chủng tộc, khác nền văn hóa, nói chung đó là một con người hoàn toàn xa lạ. Có một thời, một số cán bộ đã tuyên truyền nói rằng, đạo của các anh, những người công giáo là đạo lai căng, do thực dân Pháp đưa vào. Các anh tôn thờ một con người ở mãi tận đâu, chứ không phải một vị thần ở tại quê hương mình, ví dụ như Thánh Gióng, như Vua Hùng chẳng hạn…Lời nhận xét đó rất đúng, nếu chỉ xét trên bình diện logic của lý trí. Vì vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi Phêrô tuyên tín ‘Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống, Chúa đã nói : “Không phải phàm nhân đã mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Lời tuyên xưng của Phêrô cho chúng ta thấy rằng, Đức Giêsu không phải chỉ là một con người của lịch sử, một vĩ nhân hay là một vị sáng lập tôn giáo như các vị khác. Trên hết, Ngài là một Thiên Chúa – Người, là Messia, là Đấng đã đến trần gian để trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta.

Diễn bày đức tin như thế nào?

Vào năm 1997, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đi thăm viếng mục vụ tại nước Pháp. Giáo hội Pháp từng được mệnh danh là trưởng nữ của Hội thánh, là cái nôi Kitô giáo của Châu Âu. Tuy nhiên, trong lần thăm viếng năm ấy, Đức Thánh Cha cảm thấy rất buồn vì ngoài đường phố có khá nhiều nhóm bạn trẻ Công giáo đứng ra biểu tình để chống đối Ngài và chống luôn cả Giáo Hội. Có nhóm chủ trương phải cấp tiến, có nhóm lại rất bảo thủ. Có nhóm đứng lên đòi Giáo Hội phải cho phép ngừa thai bằng mọi cách, thậm chí cổ xúy ngay cả việc phá thai. Có nhóm đòi Giáo Hội phải cho kết hôn đồng tính hay được quyền ly dị,v…v…Đau lòng hơn cả, là có một số bạn trẻ đã nộp đơn đồng loạt xin rút tên khỏi Giáo Hội vì nhiều lý do. Đức Hồng y Etchegarey nhận định rằng, nước Pháp có 90% dân số theo đạo Công giáo, nhưng chỉ 10% trong số ấy thực hành đức tin, ít ra là còn lui tới nhà thờ. Còn lại, đa số chỉ giữ đạo trên lý thuyết, việc thực hành thì không (Croyant mais non practiquant). Khi đến Việt Nam, Ngài tiên đoán rằng, 30 năm nữa, Giáo hội Việt Nam sẽ rơi vào cuộc khủng hoảng giống như vậy.

Nhiều bạn trẻ tại Việt Nam ngày nay cũng đang sống trong tình trạng tương tự như thế. Việc đi đến nhà thờ trở nên thưa thớt dần. Có muôn ngàn lý do họ trưng ra để biện minh, nhưng tất cả chỉ là ngụy biện, hòng lấp liếm cho sự lười biếng của mình.

Đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng (in primacy).

Đây là đòi hỏi nền tảng mà Chúa Giêsu đã nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã đưa ra 3 nguy cơ làm sói mòn đức tin nơi người Công giáo, đó là sống theo chủ nghĩa duy vật  (matérialism), sống theo chủ nghĩa hưởng thụ (consumérism) và sống theo chủ nghĩa tục hóa (sécuralism). Chủ nghĩa duy vật là một lối sống thượng tôn tiền bạc, đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị. Chủ nghĩa hưởng thụ là sống một cách ích kỷ để chỉ lo cho bản thân, và chủ nghĩa tục hóa là đào thải mọi chiều kích linh thánh trong những sinh hoạt thường ngày. Ngài gọi chung cả ba chủ nghĩa trên là một lối sống vô thần (athéist), từ từ khai tử và gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Để tránh rơi vào những cám dỗ này, thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hãy quy hướng cuộc sống về với Thiên Chúa và đặt Ngài vào chỗ tối thượng. Thánh nhân viết : “Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại, và tất cả phải quy hướng về Người. (Rm 22,36).

Kết luận

Đức Giêsu là đối tượng duy nhất của niềm tin chúng ta. Ngài vẫn đang hoạt động trong lòng Giáo hội. Giáo hội được xây dựng trên đá tảng là Thánh Phêrô, và tòa nhà Giáo hội vẫn luôn đứng vững trước những thử thách. Chúa Giêsu đã khẳng định với Thánh Phêrô “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Để sống đức tin một cách cụ thể, chúng ta phải nuôi dưỡng nơi mình cảm thức thuộc về (sense of belonging), thuộc về Chúa Kitô và thuộc về Giáo hội. Sống với cảm thức sâu xa ấy, đức tin của chúng ta sẽ mãi luôn triển nở.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành 

Vì yêu thương, Đức Giêsu đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại. Để thực hiện sứ mạng đó, Ngài đã ở thế gian 33 năm: 30 năm sống ẩn dật, 3 năm đời sống công khai. Trong 3 năm ngắn ngủi của đời sống công khai, Ngài đã đi khắp đó đây rao giảng Tin mừng. Đồng thời, để chuẩn bị cho việc thiết lập Giáo hội, Ngài đã chọn và huấn luyện nhóm mười hai. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã đặt Thánh Phê-rô làm đầu mười hai Tông đồ, cũng chính là làm đầu Giáo hội mà Ngài sẽ thiết lập.

Bài Tin mừng hôm nay, Thánh Matthêu cho chúng ta biết, sau khi hỏi dư luận quần chúng suy nghĩ như thế nào về Ngài, Đức Giêsu quay sang hỏi các Tông đồ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”(Mt 16,15). Thánh Phê-rô đại diện cho các Tông đồ trả lời rằng: “Thầy là Đức Giêsu Ki-tô Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16). Đức Giêsu khen ngợi câu trả lời của Phê-rô. Đồng thời, Ngài nói với ông rằng: “Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16,18-19).

Đá là một vật thể cứng, bền, chắc…Đức Giêsu gọi Phê-rô là Đá, và trên “viên đá” đó, Đức Giêsu muốn xây Hội thánh của Ngài, chứng tỏ Đức Giêsu xây dựng Hội thánh trên nền tảng vững chắc, đúng như lời Ngài khẳng định: “Dầu cửa địa ngục sẽ không thắng được”. 

Chìa khóa biểu tượng cho quyền lực. Ai được trao chìa khóa thì người đó có quyền đóng mở và bảo quản những gì có trong đó. Bài đọc I cho chúng biết, khi trao quyền lực cho En-gia-kim, Thiên Chúa trao cho ông chìa khóa: “Ta sẽ để chìa khoá nhà Ða-vít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được” (Is 22,22). Cũng vậy, Thánh Phê-rô được trao chìa khóa nước trời, nghĩa là Thánh Phê-rô có quyền lãnh đạo dân Chúa, có quyền đóng mở và bảo quản kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Lời Chúa, các Bí tích. Ngoài ra, Ngài còn có quyền “trói và cởi”. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: Quyền “trói và cởi” là quyền tha thứ các tội lỗi, công bố những phán đoán về giáo lý và đưa ra những quyết định có tính kỷ luật trong Giáo hội (x. số 553).

Nhìn lại lịch sử Giáo hội suốt 2000 năm qua, chúng ta thấy lời hứa của Đức Giêsu với Phê-rô đã trở thành hiện thực. Dẫu Giáo hội trải qua nhiều sóng gió nhưng Giáo hội vẫn luôn luôn đứng vững trên nền tảng của Thánh Phê-rô: Thánh Phê-rô và các đấng kế vị luôn đóng trọn vai trò “Đá tảng”, luôn chu toàn chức vụ “cầm chìa khóa nước trời” để “trói và cởi”.  Nhờ đó, nhân loại đón nhận biết bao ơn lành từ Thiên Chúa qua Giáo hội.

Chúng ta cám tạ Chúa đã lập nên Giáo hội. Giáo hội trở thành mẹ của chúng ta trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Vì thế, bổn phận của chúng ta đối với Giáo Hội cũng tương tự như bổn phận của con cái đối với Cha Mẹ. Đó là chúng ta phải biết ơn, vâng lời và xây dựng Giáo hội.  

Thứ nhất, chúng ta biết ơn Giáo hội, vì Giáo hội đã sinh ra chúng ta trong đức tin, nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời Chúa và các Bí tích. Trong bài huấn dụ với 100.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phê-rô ngày 10/9/2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày đề tài giáo lý “Giáo hội là mẹ”. Ngài cho biết, trong các hình ảnh mà Công Đồng Chung Vatican II đã chọn để giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của Giáo hội nghĩa là bản chất là “mẹ”: Giáo hội là mẹ chúng ta trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Ngài nói: Giáo hội “đồng hành với sự trưởng thành của chúng ta, bằng cách thông truyền Lời Chúa cho chúng ta, là ánh sáng chỉ con đường cuộc sống kitô cho chúng ta, và ban phát các bí tích. Giáo hội nuôi dưỡng chúng ta bằng bí tích Thánh Thế, đem lại ơn tha thứ cho chúng ta qua bí tích Sám Hối, nâng đỡ chúng ta trong lúc đau yếu với bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Giáo hội đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc sống đức tin.” (Nguồn: vi.radiovaticana.va). Vì vậy, chúng ta cần thể hiện lòng biết ơn bằng cách tôn kính và yêu mến Giáo hội.  

Thứ hai, chúng ta phải vâng lời Giáo hội. Vâng lời Giáo hội là vâng lời Đức Thánh Cha, các Đức Giám mục, các linh mục và những người đại diện của Chúa ở trần gian này. Vâng lời trở thành một nhân đức như khi các thành phần trong Giáo hội vâng lời Đức Giáo Hoàng. Vâng lời còn trở thành luật buộc như khi các Giám Mục vâng phục Đức Giáo Hoàng, các linh mục vâng phục  Giám mục Giáo phận của mình, các tu sĩ vâng phục Bề trên hợp pháp của cộng đoàn. Có nhiều mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong Giáo hội, đáng chú ý là mẫu gương vâng phục của Đức Tổng Giám Mục Fénelon, nước Pháp sau đây: Giám Mục Fénelon là Tổng Giám Mục danh tiếng của giáo phận Cambrai nước Pháp vào đầu thế kỷ XVIII. Ngài được mọi người thán phục và kính nể vì ngài đạo đức và thông thái. Ngài sáng tác cuốn sách thiêng liêng rất hay, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.” Ngày kia, khi sắp lên tòa giảng để giảng một bài quan trọng trước một cử toạ đông người đang thán phục, ngài được tin Đức Giáo Hoàng Inôsentê XII đã lên án cuốn sách của ngài và cấm lưu hành. Đến giờ giảng, ngài vẫn bình tĩnh bước lên tòa giảng, nhưng không phải để giảng bài ngài dọn, mà để giảng một bài về sự tuân phục đối với Giáo-Hội. Ngài nói: “Đức Thánh Cha đã lên án cuốn sách của cha. Cha xin hoàn toàn tuân phục quyền bính Giáo Hội cho đến chết để làm gương cho anh em.” Và để tỏ lòng tuân phục công khai một cách khiêm nhượng, ngài cho khắc cảnh thiên thần đang dày đạp dưới đất những tác phẩm bị Giáo Hội lên án, trong đó có cuốn sách của ngài, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.” (Trích bài gợi ý của Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang). 

Thứ ba, chúng ta phải có tinh thần xây dựng Giáo Hội cả về tinh thần lẫn vật chất. Thánh Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội đã cho biết: “Nhờ khả năng chuyên môn và uy tín của họ (Giáo dân), họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ của mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo hội… nhưng luôn với lòng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài” (Ibid., no. 37). Thật vậy, Giáo hội cần những lời góp ý chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến từ phía giáo dân đối với các đấng bậc trong Giáo hội, nhằm mục đích xây dựng và bảo vệ Giáo hội. Đừng bao giờ chỉ trích, lên án hay nói xấu Giáo hội. Còn về vật chất, điều răn Thứ Năm của Hội thánh nhắc nhở mọi tín hữu cần phải chu toàn nhiệm vụ đóng góp công của để xây dựng Giáo hội. Ngoài ra, các tín hữu cũng có thể đóng góp thêm tùy theo khả năng của mình để xây dựng Giáo xứ, Giáo phận, và Giáo hội ngày một thêm lớn mạnh và bền vững hơn. 

Lạy Đức Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã lập nên Giáo hội để sinh ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng con. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu mến, vâng lời và đóng góp tinh thần và vật chất để xây dựng Giáo hội. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Bài Tin mừng Chúa nhật XXI quanh năm hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đặt Phêrô làm vị thủ lĩnh tối cao của Giáo hội, sau khi ông tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Người Do Thái thời Chúa Giêsu luôn khát mong một Đấng Thiên Sai đến để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị đô hộ của ngoại bang. Các tông đồ cũng có quan niệm như thế về Đấng Messia có tính cách chính trị. Để có cái nhìn chính xác về dung mạo và sứ mạng của Đấng Messia, Đức Giêsu đã đặt vấn đề với các tông đồ: “Người ta nói Con Người là ai?”.Nhiều quan điểm, nhiều dư luận khác nhau: kẻ nói là Gioan Tẩy Giả, Elia, Giêrêmia hay một ngôn sứ! Tất cả nhận định này không chính xác về Đấng Messia. Đức Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” – Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nghĩa là Đức Giêsu là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế. Từ ngữ Kitô là tước hiệu của Đấng Thiên Sai. Câu trả lời chính xác của Phêrô nói lên ý nghĩa Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai xuống trần gian để ncứu chuộc nhân loại. Khi tuyên xưng Đức Giêsu  là Đấng Kitô, có lẽ Phêrô cũng chẳng hiểu gì, vì thế Đức Giêsu mới xác nhận “Chính Cha Thầy đã mạc khải cho Con”.Tuy nhiên niềm tin này vẫn còn mong manh vì Phêrô chưa hiểu được chương trình cứu độ của Thiên Chúa, chưa chấp nhận Đức Kitô phải chịu đau khổ (Mt, 16, 23).

Để tiếp tục công việc cứu độ cho đến tận thế, Đức Giêsu đã thành lập Giáo hội trên nền tảng Phêrô và trao cho ông “chìa khóa Nước Trời”, nghĩa là Phêrô là người quản trị của Giáo hội mà chính Ngài thành lập: “Phêrô, con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy”. Việc trao trách nhiệm này có nhiều điều đáng chúng ta lưu ý:

– Phêrô được trao trách nhiệm sau khi tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu:“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Người lãnh trách nhiệm của Chúa, trước hết phải có niềm tin vào Chúa. Tin, đồng nghĩa với bước đi theo Chúa, làm những gì Chúa muốn và muốn những gì Chúa làm.

– Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa sẽ luôn hỗ trợ cho trách nhiệm của Phêrô trong Giáo hội: “Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, điều con ràng buộc, trên trời cũng ràng buộc…”.

Hơn nữa Đức Giêsu còn hứa ở với Giáo hội, đồng hành với Giáo hội, bảo vệ Giáo hội luôn bền vững trường tồn: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.

– Tuy nhiên những người được Chúa trao trách nhiệm không hẳn là những người tài giỏi, hoàn toàn xứng đáng, thánh thiện. Mười hai tông đồ đều là những thuyền chài đơn sơ, tầm thường, học thấp, bất toàn, yếu đuối. Chẳng hạn như Phêrô vừa được Chúa trao cho nhiệm vụ cao cả, đã can ngăn Chúa chịu nạn chịu chết và bị Chúa quở trách nặng lời: “Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy”. Phêrô đã chối Chúa ba lần. Chúa chọn, gọi, trao trách nhiệm cho những người Ngài muốn. Thiên Chúa chỉ cần những ai có thiện chí và vâng phục Ngài để chính Ngài biến đổi thành những khí cụ cứu độ cho anh em.

Qua Lời Chúa hôm nay ghi nhận việc Chúa đặt Phêrô làm đầu Giáo hội, xây dựng giáo xứ, xã hội và gia đình chúng ta trở nên một cộng đoàn yêu thương, an hòa và hạnh phúc qua việc nỗ lực lắng nghe và thực hành lời Chúa.

– Giáo hội hôm nay là nước Chúa ở trần gian, vừa thánh thiện vừa mang chiều kích của nhân loại còn nhiều vết nhăn, nhiều khuyết điểm, lỗi lầm… Nhưng Giáo hội của Chúa Giêsu Kitô luôn là kho tàng ân sủng của Chúa, là cửa đưa ta vào hạnh phúc thiên đàng. Chúng ta hãy yêu mến, tin tưởng và vâng phục Giáo hội qua các vị lãnh đạo Giáo hội của Chúa.

Về mục lục

.

HÃY XÂY DỰNG HỘI THÁNH

BẰNG NHỮNG VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

“Giáo Hội là mầu nhiệm”;“Giáo Hội là dân Thiên Chúa”. Những khái niệm trên cho thấy Giáo Hội vừa mang tính hữu hình vừa mang tính vô hình. Hữu hình: Giáo Hội là một tổ chức như mọi tổ chức trần gian. Có người lãnh đạo và có những cộng sự khác. Vô hình: vì có Thiên Chúa Ba Ngôi là chủ. Mọi thành phần trong Giáo Hội đều có sự liên đới với nhau, ta gọi đó là: “Mầu nhiệm hiệp thông”.

Như vậy, khi thiết lập Giáo Hội, Đức Giêsu muốn thông qua tổ chức hữu hình để Ngài ban ân sủng siêu nhiên nhằm cứu độ con người. Thế nên, trước khi về trời, Đức Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục công trình cứu độ của Ngài cho đến tận thế. Vì lẽ đó, Đức Giêsu đã đặt Phêrô là người thay mặt Ngài ở trần gian để điều hành Giáo Hội. Tuy nhiên, việc trao ban quyền lãnh đạo cho Phêrô, Đức Giêsu muốn Phêrô phải tuyên xưng và xác tín niềm tin của ông nơi Ngài trước khi nhận lãnh sứ vụ. Đồng thời phải có tâm tình khiêm tốn, chân thành của kẻ bé mọn trong việc xây dựng Nước Trời trên trần gian.

  1. Phêrô tuyên xưng đức tin

“Người ta bảo Con Người là ai?” (Mt 16, 13).

Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?

Thưa vì những lý do sau:

Thứ nhất, Đức Giêsu và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê. Đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn rau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias: thần thiên nhiên.

Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống của các tiên tri thời Cựu Ước mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu! Vì thế, không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (Mt 16, 14). Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó. Mặt khác, nhân đây, Ngài muốn mặc khải cho các ông về con người và vai trò Thiên Sai của mình. Vì thế, Ngài đã hỏi trực tiếp các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 15-16).

Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.

Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn“Con Thiên Chúa hằng sống”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế“Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.

Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các ông vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin, kiêu ngạo, tự phụ và không hiểu biết gì về mình.

  1. Phêrô đón nhận sứ vụ

Ngay sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Ðức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời”(Mt 16, 17)Qua câu nói đó của Đức Giêsu, và lúc khác kết hợp với lời tạ ơn của chính Ngài: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25), cho chúng ta thấy rất rõ rằng: sứ vụ mà Phêrô sắp được lãnh nhận ở đây không phải là của người khôn ngoan, trí thức, quyền quý, theo kiểu người đời vẫn hiểu, mà là dành cho những người bé mọn theo ý Chúa. Lời tuyên tín của Thánh Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không thuộc phạm trù “sự hiểu biết thuộc về con người”, nhưng thuộc về “thế giới siêu nghiệm”,và vì thế, để hiểu được tất cả ý nhĩa của lời tuyên tín trên thì cần phải được mặc khải từ Thiên Chúa, và người đón nhận phải đơn sơ, chân thành.

Thật vậy, sứ vụ mà Phêrô sắp lãnh nhận là trở thành chủ chăn, là người lãnh đạo, nhưng khi thi hành thì phải mang trong mình tâm tình khiêm nhường và phục vụ chứ không được dùng quyền để đàn áp, thống lãnh và ăn trên ngồi trước như người đời… Biết can đảm, trung thành trước mọi thử thách và cuối cùng là biết phó thác nơi Thiên Chúa như những người bé mọn.

Vì thế, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”. Nhắc đến đá, ta nhớ ngay những đặc tính của nó như: cứng; bền; chắc. Và khi Đức Giêsu ví Giáo Hội được xây trên nền đá, Ngài cũng muốn nhấn mạnh đến những đặc tính siêu nhiên.

Cứng: nói lên sức mạnh của Giáo Hội.

Bền: nói lên sự trường tồn của Giáo Hội.

Chắc: nói lên sự vững mạnh của Giáo Hội.

Khi đổi tên như thế, Ngài đã biến ông từ một kẻ nhát đảm, kém tin, bồng bột trở thành biểu tượng của sức mạnh, trường tồn và bền vững: “Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Không những thế, Đức Giêsu còn trao cho Phêrô quyền tuyệt đối khi nói: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16, 19).

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Khi Giáo Hội được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa nhà do chính Đức Giêsu xây dựng trên “tảng đá”Phêrô. Mỗi chúng ta cũng được ví: “… như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Ðền Thờ thiêng liêng” ấy (x. 1Pr 2,5). Khi nói đến viên đá sống động, hẳn chúng ta không thể hiểu theo ngôn ngữ chết, mà phải hiểu trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em chúng ta.

Câu hỏi của Đức Giêsu với các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?”cũng là câu hỏi dành cho mỗi người chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải trả lời cho được câu hỏi đó. Nếu trả lời như Phêrô khi xưa: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thì hẳn chúng ta phải biểu lộ niềm tin của mình vào Đấng đã cứu chuộc mình cách đúng nghĩa.

Thật vậy, muốn thuộc về Đức Giêsu, chúng ta phải đi lại con đường thập giá của Ngài đã đi và sống nguyên lý của mầu nhiệm tự hủy, khiêm tốn, can đảm, trung thành và phó thác.

Nếu không, đức tin của chúng ta chỉ là thứ đức tin “ấu trĩ” được mua bằng một “giá rẻ”. Nếu quả là vậy, thì mãi mãi vẫn chỉ là một đức tin “nghèo nàn” và thiếu đi “cốt lõi” của niềm tin.

Thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17), và thánh Gioan đã quả quyết:“Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người […]. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Ðức Giêsu đã đi” (1,Ga 2,3-6).

Như vậy, tin Đức Giêsu thì cũng hành động như Ngài và tuân theo lời dạy yêu thương của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34), và như thế, niềm tin của chúng ta sẽ được lan truyền sang cho mọi người như lời Đức Giêsu đã nói: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 17).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con ngày càng theo sát Chúa trên con đường thập giá là con đường “độc đạo” con “đường thật” dẫn đến “sự sống”. Xin cũng ban cho chúng con luôn yêu mến, vâng phục đấng thay mặt Chúa, kế vị các tông đồ và sẵn sàng dấn thân xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian. Amen.

Về mục lục

.

CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu trao “Chìa Khóa Nước Trời“, tức là quyền lãnh đạo Dân Chúa.

Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, như Thiên Chúa ban cho Êliakim quyền điều hành nhà Ðavid (Is 22,20-22), hay quyền hành của Chúa Giêsu trên sự chết (Kh 1,17-18).

Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho Ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”.Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh (GLHTCG, số 553). Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết nghiêm trọng (NJBC,659).

Ngoài ra, theo một số nhà chú giải Thánh kinh như Kevin O’Sullivan, OFM và Paul J Achtemeier, “Chìa khóa Nước Trời” ám chỉ đến hình ảnh một người đầy tớ với chìa khóa trong tay để mở cửa các phòng trong nhà. Người có chìa khóa trong tay không chỉ có quyền xác định ai được vào và ai không được vào, mà còn có trách nhiệm toàn quyền trông coi để ý mọi sự trong nhà của chủ mình. (Harper’s Dict 524-525).

Nếu trách nhiệm được trao không chu toàn, nếu quyền hành được ban bị lạm dụng, và bị mất tin tưởng, thì chắc chắn chìa khóa sẽ bị lấy lại. Tiên tri Isaia trong bài đọc 1 đã minh chứng điều đó. Sobna, quan cai đền thờ đã bị cách chức và trục xuất khỏi địa vị cũng chỉ vì đã lạm dụng quyền hành. Ông đã lạm dụng quyền hành bắt ép vua Hezekiah (716-687) nổi dậy chống lại Assyria và chạy đến Ai cập cầu cứu. Tiên tri Isaia đã hoàn toàn phản đối việc này. Ngài kêu gọi Giuđa phải nên tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, chứ không phải nơi sự trợ giúp của dân ngoại. Nhưng Giuđa đã không tin tưởng nơi Thiên Chúa, và cuối cùng vào những thế kỷ sau đó, Giuđa và Giêrusalem đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Và như chúng ta được biết, chìa khóa của Sobna đã bị lấy lại và trao cho Êliaqim, con trai Helcia. (Kevin O’Sullivan, OFM, The Sunday Readings (A) 309-314). 

Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khoá mở cửa Nhà thờ. Đức Giám Mục trao chìa khóa cho Linh Mục Quản Xứ để ngài mở cửa Nhà thờ.Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn Giáo phận là thuộc Đức Giám Mục Giáo Phận, còn Linh Mục Quản Xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám Mục, thay mặt Đức Giám Mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này. 

Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua Ngài, qua Giáo hội, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa. Đức tin dạy rằng, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Còn chúng ta cũng là con Thiên Chúa theo ân sủng. Quyền làm con Thiên Chúa và trách nhiệm đi kèm là một ơn rất trọng đại và cũng chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích. “Với Chúa, mọi sự đều có thể” ; “ơn được làm con Thiên Chúa”, đó là chìa khóa Nước Trời mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu. Chìa khoá mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.  

Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Chúa đã đặt Ngài là: “Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, Thánh Phêrô đã chia sẽ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta?’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách Ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa khóa Nước Trời”. 

Có câu chuyện “Chìa khoá và ổ khoá Thiên Đàng” thật ý nghĩa.

Một hôm nọ, khoá cửa Thiên Đàng bị hư, Thánh Phêrô đích thân mang cả chìa lẫn khoá xuống trần gian để tìm người sửa chữa. Ngài tới nhà anh thợ khoá đầu tiên.

 – Chào anh, tôi có cái ổ khoá bị hư, anh làm ơn sửa giùm.

 – Cụ làm nghề gì mà cửa nhà cụ lại có cái ổ khoá to và quý thế này ?

 – Tôi làm nghề đánh cá, sau đổi sang nghề chăn chiên anh ạ .

 – Ừ ! Nhìn quần áo và chân tay của cụ, tôi tin. Nhưng cụ nói thật đi, cụ “chôm” cái của quý bằng vàng ròng này ở đâu vậy?

 Thánh Phêrô tần ngần trả lời :

 – Của tôi đó, vì đây là khoá cửa của Thiên Đàng, còn tôi là Phêrô.

Anh thợ vồn vã :

 – À! Thế thì lại khác, chỉ 1 giờ là tôi sửa xong cho cụ thôi, cụ cho xin 100.000 đồng .

Thánh Phêrô giật mình :

 – Đắt thế à ? Tôi chỉ có 1.000 thôi.

 – Không được đâu cụ ơi. Tôi nghe ngày xưa cụ đứng đầu Hội Thánh, hẳn là cụ giàu có lắm ?

 – Anh hiểu lầm rồi ! Trong Hội Thánh chúng tôi, ai càng đứng đầu thì lại càng là người tôi tớ  phục vụ, sống khiêm hạ khó nghèo như Đức Giêsu làng Nazareth. Thôi anh cố sửa nó đi, có thể vì công khó của anh mà tôi sẽ xin Chúa cho anh vào Thiên Đàng .

Anh thợ mỉm cười lắc đầu

 – Tôi cần cái thực tế. Tiền thôi cụ ạ, còn Thiên Đàng thì xa lạ quá. Vả lại ở Thiên Đàng mà nghèo như cụ thì tôi chẳng ham. Thôi cụ đi xoay xở đâu đó thêm đi, rồi quay lại đây.

Thánh Phêrô bước đi, buồn bã nghĩ thầm : Anh thợ này sửa được  nhiều thứ khoá, chỉ trừ khoá của Thiên Đàng. Đồng tiền quý đến thế kia ư ?

Ngài lại tìm đến nhà một anh thợ khác, nổi tiếng khéo tay và giàu có nhất vùng, hy vọng gặp được người yêu mến Thiên Đàng hơn chuyện tiền bạc.

Anh thợ đon đả chạy ra đón mừng .

 – Tôi nhận ra ngài rồi. Tay cầm chìa khoá vàng, khuôn mặt và thân hình lại giống hệt bức tượng trong nhà thờ xứ tôi. Vào đây, gia đình tôi hân hạnh tiếp đón Thánh Cả.

Thánh Phêrô vui mừng, nhưng cũng ngần ngại dò hỏi :

 – Tôi có cái khoá cửa thiên đàng bị hỏng, tôi chỉ có 1.000 đồng, nhờ anh sửa giúp

 – Xin cất đi, tôi còn phải biếu ngài thêm lộ phí nữa kìa. Còn cái khoá thì không thành vấn đề, chỉ độ nửa tiếng là xong thôi. Có điều là, xin ngài hứa cho tôi một việc.

 – Tốt lắm, anh cứ nói .

 – Xin ngài đưa tôi vào Thiên Đàng và cho tôi làm trùm phường khóa ở trên đấy. Ngồi trên các Thánh hay các thiên thần thì tôi không dám, nhưng làm sếp đám thợ khoá thì tôi dư sức. Ngài sẽ thấy tay nghề của tôi khi sửa khoá cho ngài, xem tôi có đáng ngồi chỗ tốt hay không.

Bỗng có tiếng ầm ầm từ đầu ngõ, hàng trăm dân làng ùa chạy tới nhà anh thợ khoá khi nghe nói Thánh Phêrô đang ở nhà anh. Tiếng hò hét vang lừng từ ở cổng ra vào.

 – Lạy Thánh Phêrô, Ngài cho vợ chồng con vào Thiên Đàng với.

 – Đứa nào xô tao vậy, đây là cổng nhà anh thợ khoá chứ đã phải là cửa Thiên Đàng đâu mà chen dữ thế ? Phải có hàng lối chứ .

 -Gặp Thánh Phêrô chứ có phải đi mua vé xinê,hay đi mua thịt mua cá đâu mà phải xếp hàng cha nội.

 – Chúng mày biết gì ? Ông Trùm nói có lý đấy. Thế chúng mày không nghe cha giảng là ở trên Trời có ” Đám rước mặc quần áo trắng tinh tay cầm cành thiên tuế ” à ?  Phải trật tự chứ !

 – Chúa ơi ! Chết  con rồi.

………

Thánh Phêrô lắc đầu ngán ngẩm. Cần phải “gửi” đi đâu nữa, họ đang ở hoả ngục rồi còn gì! Họ cãi nhau chí chóe, chửi thề, dẫm đạp lên nhau để “tranh” Thiên Đàng. Có kẻ đã dúi được vào túi Thánh Phêrô phong bì, hoa, nến. Rồi hí hửng vì đã “hối lộ” được người giữ cửa đầy quyền uy.

Bỗng có một cơn gió mù mịt cuốn lấy Thánh Phêrô. Thiên Thần đã đưa ngài đi trong gió. Để lại đám dân làng khóc la tiếc nuối, và anh thợ khoá tiu nghỉu vì tan giấc mộng vàng.

Thiên Thần đưa Phêrô tới bên một bờ suối rồi chào tạm biệt ra đi. Thánh nhân nhẹ gật đầu từ tạ. Ngài vẫn còn bực bội vì chuyện xảy ra vừa rồi. Tại sao con người lại coi nhẹ Thiên Đàng để kiếm tìm tiền tài danh vọng nhỉ ? Ngay cả đám dân muốn “xấn xổ” vào Thiên Đàng, họ có nghĩ gì tới Chúa và anh em mình đâu, lợi lộc riêng tư đã che mắt họ. Người ta có thể nhân danh một Thiên Đàng tốt đẹp để giành giật, gấu ó nhau đến vậy hay sao? Ôi ! Nếu có Gioan và Giacôbê ở đây,”những người con của sấm sét” chắc cũng sẽ như xưa, muốn xin lửa Trời xuống đốt tiệt cái đám dân nông cạn này.

 – Hãy uống bát nước này cho mát đi, cụ đang có lửa trong lòng đó.

Thánh Phêrô giật mình quay lại. Một cậu bé thật xinh trai, tay cầm ly nước,đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Ngài cầm lấy ly nước, uống một hơi thật sảng khoái.

 – Cám ơn cậu bé, cậu thật tốt bụng.

Cậu bé lém lỉnh nhìn cái ổ khoá trên tay Thánh Phêrô.

 – Ổ khoá này đẹp quá, cụ cho tôi xem tí nào.

 – Khoá cửa Thiên Đàng đó mà. Cậu có muốn lên đấy không, tôi dẫn cậu đi ?

 – Chả cần cụ dẫn đâu, tôi thừa biết nó ở đâu rồi .

 – Thật không ?

 – Thật chứ !Thiên Đàng thuộc về những người bé nhỏ như tôi mà, cụ quên rồi à ?

Ngạc nhiên trước câu trả lời ngộ nghĩnh, Thánh Phêrô cảm thấy mến cậu bé thông minh này. Ngài đưa cả ổ khoá lẫn chìa cho cậu bé.

 – Cẩn thận kẻo rơi nhé.

Cậu bé cầm cả hai ngắm nghía, rồi cậu tinh nghịch trả lại chìa khoá cho Phêrô.

 – Cụ giữ lấy chìa khoá này như một kỷ niệm hay một biểu tượng cho bổn phận và quyền uy. Còn cái này thì…Chưa dứt lời, cậu đã ném ổ khoá đánh “tõm” xuống giữa lòng suối sâu.

Thánh Phêrô giật mình lớn tiếng :

 – Ôi Chúa ơi ! Cậu làm gì vậy ?

Cậu bé mỉm cười trả lời :

 – Thật ra cửa Thiên Đàng đâu cần ổ khoá. Điều quan trọng không phải là nó đóng hay mở, mà là sự “đóng hay mở” của lòng người. Phải giải quyết chuyện này ở dưới đất chứ không phải trên trời cụ ạ .” Điều gì con cầm buộc dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên Trời cũng tháo mở “. Có người đã nói với cụ câu đó, cụ không nhớ sao ?

Thánh Phêrô ngẩn ngơ hỏi lại :

 – Nhưng làm sao để họ mở hay đóng để tôi cầm buộc hay tháo gỡ ? Vì họ cứ khép kín trước vẻ đẹp của Thiên Đàng, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra với tiền tài, danh vọng. Làm sao để  họ làm ngược lại đây, cậu bé ?

 – Cụ đừng chỉ trỏ lên trời và nói những chuyện cao xa của Thiên Đàng với họ nữa.Ngược lại, phải dẫn họ tới một nơi để họ học biết khó nghèo, khiêm hạ, hy sinh. Cụ có muốn tôi đưa cụ tới đó, để rồi sau cụ có thể dẫn họ đi không ?

Thánh Phêrô sốt sắng :

 – Được rồi, tôi theo cậu. Nhưng đi đâu mới được chứ ?

Cậu bé mỉm cười, nheo mắt nhìn Phêrô :

 – Đi Bêlem, rồi lên Núi Sọ .

Nói xong, cậu quay lưng, lững thững bước đi về phía có ánh nắng chói chang, phía của Mặt Trời.

Về mục lục

.

CHUYỆN TO – NHỎ

Trầm Thiên Thu

Trong cuộc sống có nhiều thứ to – nhỏ, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Có những thứ to mà lại chỉ là nhỏ, có những thứ nhỏ mà lại hóa to. Có những cái đầu to mà chứa những ý tưởng nhỏ, có những chiếc cặp nhỏ mà chứa những dự án to, có những dự án to mà hiệu quả lại nhỏ, có những ông nhỏ mà quyền lại to, mối nguy nhỏ mà mối hại to, lỗ rỉ nhỏ làm đắm thuyền to,… Cứ thế và cứ thế!

Là “người lớn” mà hòa đồng, khiêm nhường, coi mình là “người nhỏ”, thế mới là khéo sống và khôn ngoan, và đó mới đúng nghĩa “lớn” mà Chúa Giêsu đề cập. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20:26-27). Chính Ngài đã nêu gương phục vụ qua việc rửa chân các môn đệ, đặc biệt là Ngài vẫn rửa chân cho cả Giuđa mặc dù Ngài biết đó là kẻ sắp sửa “bán đứng” Ngài.

Thông thường, “thùng rỗng” vốn dĩ “kêu to”, càng rỗng càng kêu to. Bởi vì cái trống rỗng tuếch nên nó kêu to lắm; quả bong bóng cũng thế, nó càng to và càng rỗng thì càng nổ to!

Có những “người lớn” thực sự mà lại hóa “nhỏ bé”. Nếu không tự thu mình nhỏ lại thì Thiên Chúa không thể lớn lên trong chúng ta. Một trong những người gây “ấn tượng” mạnh mẽ là Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963), người được mệnh danh là “ông già tốt lành và nhân từ”.

Khi chưa làm giáo hoàng, trong ngày nhận chức thượng phụ Venezia năm 1953, Thánh Gioan XXIII đã bộc bạch: “Đời giám mục mà cứ phải ngồi bàn giấy và làm ngoại giao thì tội nghiệp quá. Tôi bắt đầu sứ vụ trực tiếp vào tuổi mà người khác kết thúc hoạt động của mình (72 tuổi). Từ nay tôi nghèo hơn trước, một vị hồng y nghèo lo giúp người nghèo… Tôi thấy mình như một bà mẹ nghèo, phải nuôi một đoàn con đông đảo. Tôi xuất thân từ giới bình dân. Cha mẹ tôi là người nghèo. Chúa đã đưa tôi ra khỏi xóm làng quê hương, cho tôi chung đường và kề vai sát cánh với những người có tín ngưỡng khác nhau. Bây giờ cũng vậy, tôi không quan tâm đến những gì gây chia rẽ mà chỉ quan tâm đến những gì gây tình đoàn kết. Xin anh chị em hãy coi tôi như một tôi tớ của Chúa”.

Không chỉ vậy, ngài còn đơn sơ tự bạch: “Sinh ra nghèo, do cha mẹ nghèo nhưng khả kính, tôi đặc biệt sung sướng khi được chết nghèo. Bất luận tôi đi đâu, nếu ban đêm có người nào lỡ đường trước cửa nhà tôi, họ sẽ thấy cửa sổ tôi luôn có ngọn đèn sáng. Xin đừng ngại, hãy cứ gõ cửa. Tôi sẽ không hỏi anh em là Công Giáo hay không, nhưng chỉ xin người anh em cứ vào, sẽ có đôi tay thân ái đón tiếp và tấm lòng thân thiện nồng hậu rộng mở”.

Gương sáng và lớn như thế mà không soi, lẽ nào lại muốn soi gương mờ và nhỏ? Chuyện To và Nhỏ hẳn là có liên quan “chức quyền” – gồm chức tước và quyền hành. Chức vụ và chức danh nghe có vẻ giống nhau, nhưng có phần khác nhau quan trọng. Chức danh đề cập phẩm tước, còn chức vụ đề cập công việc, trách nhiệm và bổn phận về chức vụ – gọi là chức phận.

Theo đó, chức danh không cần có chuyên môn, nhưng chức vụ cần có chuyên môn. Danh từ “chức sắc” thường dùng trong tôn giáo, tức là nói về những người có chức vụ nào đó. Người có chức vụ mà không làm đúng chức năng thì chỉ là “hữu danh vô thực”, là “bù nhìn”, là hình nộm, chẳng khác gì ma-nơ-canh (mannequin, người giả ở các tiệm trang phục). Có “chức” thì tất nhiên có “vụ” kèm theo. Loại người “ham Chức, quên Vụ” thì chẳng làm nên trò trống gì, đôi khi còn phá bướng, nhưng lại hay lên mặt “ta đây”. Chúa rất ghét loại người “ta đây” như thế!

Kinh Thánh Cựu Ước cho biết rằng, viên quan Sép-na là tể tướng triều đình (tương tự thủ tướng ngày nay), được người ta coi là “người hùng”, nhưng Đức Chúa tuyên phán thẳng thắn và rõ ràng: “Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu. Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Giêrusalem và với nhà Giuđa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó” (Is 22:19-23). Quyền “tháo cởi” này trong Cựu Ước có liên quan quyền “tháo cởi” trong Tân Ước: Bí tích Hòa Giải.

Chắc chắn Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, giàu lòng xót thương, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn và dứt khoát. Ngài đã cho chúng ta thời gian để sửa đổi, nếu không chịu chấn chỉnh, chúng ta sẽ bị Ngài tước hết. Có lần chính Chúa Giêsu đã minh định: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất” (Mt 13:12; Mt 25:29; Mc 4:25; Lc 8:18; Lc 19:26). Một lần khác, Ngài nói rõ: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời đã không trồng thì sẽ bị nhổ đi” (Mt 15:13). Thật là đáng sợ biết bao!

Nhưng trái lại, nếu người có lỗi biết sám hối và sửa sai, Chúa sẵn sàng tha thứ và phục hồi nguyên trạng: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta” (Tv 103:12). Sau khi Ép-ra-im sám hối, Thiên Chúa nói về Ép-ra-im: “Mỗi lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương, nên lòng Ta bồi hồi thổn thức, Ta thương nó, thương nó thật nhiều”(Gr 31:20). Ôi, thật là trên cả tuyệt vời! Và Thiên Chúa cũng luôn ưu ái với mỗi tội nhân chúng ta y như vậy. Hãy vững lòng tin, phải “tin” chứ đừng “tưởng”.

Hiền nhân Khổng Tử xác định: “Có lỗi mà không sửa mới thành ra có lỗi”. Tuy nhiên, Lời Chúa có lúc làm chúng ta vui mừng, rồi cũng có khi làm chúng ta đau điếng, nhưng tất cả vẫn là Hồng Ân, Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của mọi người. Thánh Vịnh gia đã thành tâm thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự” (Tv 138:1-2).

Thánh nhân nào cũng có một quá khứ đen tối, và tội nhân nào cũng có một tương lai xán lạn. Và dù cho chúng ta có thế nào thì cũng vẫn cần tâm tình tạ ơn, một động thái rất cần thiết vì nhiều lý do, vừa minh nhiên vừa mặc nhiên: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao!” (Tv 138:3-5).

Và còn hơn thế nữa, Thiên Chúa làm cho chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, và chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi lòng thương xót bao la vô tận của Ngài: “Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:6 và 8). Được thương xót nhiều hay ít là tùy vào niềm tin của mỗi người: “Ai tin thế nào thì được như vậy” (Mt 8:13; Mt 9:29).

Vừa đặt vấn đề vừa giải thích, Thánh Phaolô minh định: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! Amen” (Rm 11:33-36). Những vấn đề như thế này cũng vẫn còn nóng bỏng và nhức nhối ở mọi thời đại. Đó cũng là những câu hỏi để mỗi chúng ta tự trắc nghiệm và tự cân-đo-đong-đếm mức độ tín thác của mình vào Thiên Chúa.

Có lẽ đây là dạng câu hỏi không xa lạ gì: “Tại sao tôi tin vào Thiên Chúa? Ngài là ai mà tôi tin?”. Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta cũng muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa”, nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí “trong suốt”, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – nói khôi hài theo ngôn ngữ thời @ là “bó-tay-chấm-com” (BoTay.com). Vâng, chắc là phải “bó tay chống cằm” mà suy tư và ngán ngẩm sự đời thôi! Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì họ càng đi vào ngõ cụt, hoàn toàn bế tắc. Thật vậy, chính một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế, nhưng rồi cũng đành phải “bó tay”, chịu đầu hàng Thiên Chúa, để rồi trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh. Một sự đối lập rất “thuận chiều”, một dạng nghịch-lý-thuận.

Ngay trước thời điểm Chúa Giêsu công khai sứ vụ, Ngôn sứ Gioan phải chịu cảnh tù đày nên ông đã bảo đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11:4-6). Rồi trong lúc xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng muốn thể hiện quyền bính mà hỏi: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63; Mc 14:61). Chúa Giêsu nói: “Chính ngài vừa nói” (Mt 64). Thánh Luca thuật lại chi tiết hơn về câu trả lời của Chúa Giêsu: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời” (Lc 22:67-68). Và rất có thể chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc tự hỏi về Thiên Chúa như vậy. Cũng có thể đức tin của chúng ta là “theo thói quen” chứ chưa thấm sâu, ở ngọn và ở cành chứ chưa hẳn tới gốc rễ.

Qua trình thuật Mt 16:13-20, Thánh Mátthêu cho biết: Một hôm, khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Ngài hỏi các môn đệ xem người ta nói Ngài là ai. Hỏi để mà hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết rõ mười mươi rồi. Ngài hỏi là để người khác tự xác tín. Và rồi các ông cho Ngài biết: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. Mỗi người mỗi ý, mỗi người mỗi cách nhìn, nhưng chung quy vẫn coi Ngài là một người “đặc biệt”, rất đặc biệt.

Ngay sau đó, Ngài hỏi chính các đệ tử của mình xem họ nhìn nhận Ngài như thế nào. Ông Simôn Phêrô thưa ngay: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Đức Giêsu vui mừng cho biết: “Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:17-19). Ý Chúa quan phòng và tiền định vô cùng kỳ diệu, chúng ta chẳng làm sao suy thấu. Nghe ông Phêrô nói vậy, Ngài cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô.

Và kể từ đó, Ngư phủ Phêrô đã trở thành Giáo hoàng tiên khởi với quyền tối thượng. Chiếc chìa khóa mà Sư phụ Giêsu trao cho đệ tử Phêrô là Chìa-Khóa-Yêu-Thương-và-Tha-Thứ, là chiếc Chìa Khóa đặc biệt có thể mở Cửa Nước Trời, để mở “lối vào” cho các hối nhân, chứ không là Chìa-Khóa-Nhà-Tù để giam hãm người khác. Có chức thì có quyền, nhưng cũng đầy bổn phận và trách nhiệm. Quyền cũng đi với Hành, gọi là quyền hành, thế nên đôi khi những người có quyền thì cũng dễ lạm dụng rồi khoái “hành” người khác. Việt ngữ thâm thúy thật!

Có một câu chuyện về một Tượng Chịu Nạn rất đặc biệt, liên quan Bàn Tay của Chúa. Chuyện kể rằng tại một nguyện đường của tu viện St. Ann & St. Joseph ở Cordoba, Tây Ban Nha, có một Thánh Giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng: Thánh Giá tha tội. Tượng này đặc biệt là có cánh tay phải rời khỏi Thập Giá và hạ thấp xuống.

Một hôm, có một tội nhân đến xưng tội với linh mục ngay dưới chân Thánh Giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một hối nhân mắc nhiều tội trọng, linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc, ra việc đền tội nặng và ngăm đe nhiều điều.

Không bao lâu, người đó sa ngã và lại đến xưng tội. Linh mục đe dọa rằng đó là lần cuối cùng giải tội cho người đó. Sau một thời gian, anh ta lại đến xưng tội với linh mục cũng ở bên Thánh Giá này, nhưng linh mục kia dứt khoát nói: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa”.

Lạ thay, khi linh mục vừa khước từ hối nhân thì Chúa Giêsu liền rút tay phải ra khỏi Thánh Giá và ban phép lành cho hối nhân, rồi Chúa Giêsu thì thầm từ trên Thánh Giá: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi!”. Rất đáng “giật mình” lắm, bởi vì “khí cụ” đã dám lộng hành vì lạm dụng “quyền” để “hành” người khác!

Chúa Giêsu trao quyền “tháo cởi” không phải là thích thì cởi, không thích thì thôi. Thế nhưng điều đó đã bị người ta hiểu sai và lạm dụng. Bài học “tha bảy mươi lần bảy” (Mt 18:21-22) và dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18:23-25) vẫn còn đó, vẫn mới tinh và vẫn nóng hổi!

Bản tính con người rất dễ háo danhhám lợi, vì có “cái danh” thì thường có kèm theo “cái lợi”. Chức danh càng cao, bổng lộc càng nhiều. Điều này xảy ra trong xã hội thì quá rõ ràng, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây đều có, nhưng ngay trong Giáo hội cũng có những người không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của DANH và LỢI. Người ta chú trọng “cái danh” mà quên “cái phận”, trong khi “cái phận” cần thiết hơn “cái danh”. Thật vậy, Đức Kitô đã động viên người ta làm “ngược đời” chứ không theo lẽ thường: “Nhiệt tâm phục vụ, không mong hưởng thụ” (x. Mt 20:28). Hai động thái trái ngược mà vẫn xuôi chiều, thuận lý.

Hẳn là nhiều người còn nhớ điều thú vị này: Thứ Sáu 1-8-2014, ĐGH Phanxicô (TGM Jorge Mario Bergoglio ngày nào luôn gần gũi đám dân nghèo) đã bất ngờ đến ăn trưa tại một tiệm ăn bình dân dành cho các công nhân áo xanh và những người lao công trong khu công nghiệp nhỏ ở Vatican. Ngài vẫn tự cầm khay và đứng xếp hàng chờ đến lượt mình nhận thức ăn nơi quầy thức ăn làm sẵn, giống như mọi người, không nhận quyền ưu tiên nào, đi đây đó thì tự xách cặp. Điều này chứng tỏ lời ngài là thật đối với câu nói của ngài đã phát biểu trước đám đông giới trẻ: “Tôi không muốn làm giáo hoàng đâu”.

Ai cũng biết rằng Giáo hoàng là “vua” của Công giáo, tức là “ông lớn” thực sự, thế nhưng “ông lớn” lại thích làm “ông nhỏ”, tự phục vụ chứ không cần người khác phục vụ, còn nhiều “ông nhỏ xíu” lại muốn biến thành “ông lớn”, chẳng khác gì truyện thơ ngụ ngôn “Ếch Muốn Bằng Bò” (La Grenouille Qui Veut Se Faire Aussi Grosse Que Le Bœuf) của Jean de La Fontaine (Pháp). Vừa khôi hài, vừa đau điếng!

Cổ nhân nói: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên” (Trong ba người cũng có một người làm thầy). Tất nhiên là thế thôi! Tự nhiên, chức vụ là để phục vụ chứ không để tự tôn hoặc lên mặt với người khác. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi hoạt động trong một lĩnh vực nào đó để cộng tác với Ngài mà hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai được phép “ngồi mát ăn bát vàng”, rung đùi hưởng nhàn. Người ta thích “nói hay” về sự phục vụ nhưng chưa chắc muốn phục vụ. Người ta cũng leo lẻo nói rằng “lao động là vinh quang”, nhưng rồi có mấy ai thích vinh quang mà chỉ ưa ung dung tự tại, chỉ tay năm ngón, và… hốt bạc tỷ. Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Thế là ô-kê. Xong. Đời cũng thế mà đạo cũng vậy!

Nói được thì phải làm được, đừng nói trước rồi bước không qua, đó là “lẻo mép”, là ba hoa, là giả hình. Viết được thì cũng phải làm được, đừng viết lắm mà nắm không xong, đó là “lẻo bút”, là phét lác. Dạng “lẻo” nào cũng chết. Chết chắc! Vì đó là người có “máu” Pharisêu, mang gien-đạo-đức-giả, đúng như Ngôn sứ Isaia đã nói trước: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9). Dạng người như vậy “được” Chúa Giêsu gọi là “mồ mả tô vôi” (Mt 23:27). Một biệt hiệu (nickname) nghe rất “kêu”, nhưng lại cảm thấy “nhột gáy” quá chừng! Thánh Phaolô cũng “phang” thẳng: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng ĐỘI LỐT thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó ĐỘI LỐT người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15).

Thiết tưởng cần ghi nhớ rạch ròi để đừng ảo tưởng: Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng bình đẳng, chẳng ai hơn hoặc kém ai, và mọi người là con cái Chúa thì tất nhiên cũng là anh em với nhau (x. Mt 23:8). Chắc chắn Chúa không quan tâm cái CHỨC mà chỉ xét đến cái VỤ. Mười nén, năm nén, ba nén,… thậm chí là nửa nén cũng không thành vấn đề, quan trọng là SINH LỜI hay không. Vậy thôi! Thế nhưng ở đời cũng “lắm chuyện”. Không nói thì người ta bảo hèn nhát, a dua, nịnh hót, theo đóm ăn tàn. Dám nói thẳng nói thật thì bị ghét bỏ, bị trù dập, bị xa lánh. Dốt nát thì bị KHINH, thông minh thì bị GHÉT. Chúa Giêsu cũng chỉ vì thẳng-thắn-thật-thà nên thiệt thòi, bị mỉa mai đủ thứ, và rồi còn bị giết chết thê thảm!

Rất cần can đảm, tức là “dám” nhìn vào sự thật và đối mặt với kẻ giả nhân giả nghĩa. Dù sao thì cũng PHẢI cứ là chính mình, không nịnh bợ, luồn cúi hoặc khép nép trước bất cứ ai – dù ông to hay bà nhỏ, nhưng cũng không hống hách hoặc khinh miệt bất cứ ai. Cứ bình thường!

Thánh Phaolô cho biết: “Kẻ trồng người tưới đều NHƯ NHAU, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình” (1 Cr 3:8). Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, mỗi người mỗi việc, tùy khả năng Chúa ban. Đó là Ngài chia sẻ công việc để chúng ta làm mà có thêm công trạng theo danh chính ngôn thuận, chứ Ngài đâu cần gì chúng ta góp một tay. ĐGH danh dự Benedict XVI, khi còn đương nhiệm, đã nhận xét: “Kitô giáo không là triết lý mới hoặc luân lý mới. Chúng ta chỉ là Kitô hữu nếu chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Chỉ trong mối quan hệ riêng với Đức Kitô, Đấng phục sinh, chúng ta mới thực sự là Kitô hữu”.

Con người luôn khắc khoải về thân phận hoặc số phận, luôn thao thức về chính mình, một hạt bụi nhỏ nhoi mà đầy nỗi gian truân, nỗi đọa đày. Cố NS Trịnh Công Sơn đã tự hỏi: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?” (Cát Bụi). Nhưng ông không thể giải đáp, nên ông tự nhủ và nhắn nhủ, rồi lại tiếp tục tự vấn: “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng… Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng… Tôi là ai mà còn ghi giấu lệ, tôi là ai mà còn trần gian thế? Tôi là ai, là ai, là ai mà yêu quá đời này?” (Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng). Cuộc đời như một chu kỳ lẩn quẩn. Biết suy tư là còn sinh tồn. Cõi lòng Thánh Augustinô cũng luôn như biển động: “Linh hồn con bồn chồn lo lắng mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”. Cuối cùng, Thánh Vịnh gia kết luận: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62:2).

Đó là một quá trình gian nan, chiến đấu với nhiều thứ và phải cố gắng vượt lên chính mình. Ước gì mỗi chúng ta khả dĩ xác định được như vậy, đồng thời có thể nói như Ngôn sứ Êlia: “Lòng nhiệt thành đối với Chúa nung nấu con” (1 V 19:14). Biết Chúa và biết mình, điều nào cũng khó, nhưng cần phải biết Chúa để có thể biết mình. Vâng, Thánh tiến sĩ Augustinô đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con – Domine, noverim Te, noverim me”. Chính Thánh Augustinô cũng đã tỏ ra hối tiếc mà thú nhận: “Con yêu Chúa quá muộn màng”. Biết Chúa và được yêu Chúa thì quả là đại phúc!

Cả đời Chúa Giêsu chỉ chạnh lòng thương người ta, chẳng chơi ép ai bao giờ, và Ngài còn là người-nghèo-chính-hiệu, thế nên Ngài rất yêu thương người nghèo, Ngài nghèo tột cùng: SINH nơi hang chiên, SỐNG ở ngoài đường, và CHẾT trần trụi trên đồi hoang. Thật vậy, từ ngàn xưa Thiên Chúa đã minh định: “Ta KHÔNG hề ở trong một NGÔI NHÀ, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một CÁI LỀU và trong một NHÀ TẠM” (2 Sm 7:6). Còn chúng ta, thế nào là Nhỏ và thế nào là To? CHỨC (tước) sinh ra QUYỀN (lực), sinh ra HÀNH (hạ). Quả là TO thật!

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giúp con chân nhận Ngài là Thánh Phụ, tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa chí tôn duy nhất, và xin giúp con nhận biết chính mình để khả dĩ sống khiêm nhu đúng mức, chứ không ảo tưởng mà kiêu ngạo, giả hình, đồng thời cũng biết sống đúng bậc mình, quyết tâm sinh lời theo “số vốn” Ngài trao cho con. Xin cho những người có chức có quyền đừng “hành hạ” người khác, nhưng biết dùng quyền để yêu thương và dẫn đưa người khác đến với Chúa. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

THẦY LÀ ĐỨC KITÔ, CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG

P. Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, thánh Phêrô quả là “mau miệng”, câu nói để đời của ngài là câu “tuyên xưng” Chúa Giêsu là “ĐẤNG KITô – CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG “.

Rõ ràng câu nầy là câu “tuyên xưng đức tin“ của Phê-rô, tuyên xưng Thầy mình, quá hay, quá chính xác , ( chính xác thì không thể quá được), có nghĩa là chính xác 101%, phải không ạ ( cười).

Vâng, quả thật ,thưa quý vị, nếu ngày nay, và mãi mãi về sau ,bất cứ ai tuyên xưng câu nầy vào Chúa Giêsu, thì người đó chắc chắn sẽ nhận được ơn Cứu Độ, bởi vì đúng như vậy. Vâng, chính Chúa Giêsu xác nhận điều đó. Bởi vì, không ai trừ Chúa Cha đã mạc khải điều ấy cho thánh Phê-rô. Bản thân Phê-rô không thể biết được, bởi vì Chính Chúa Giêsu chưa tiết lộ, chưa bày tỏ cho bất cứ ai, thì tại sao Phê-rô biết. Nếu nói như kiểu ngày nay, thì Phê-rô quả là ”thánh sống”. Vâng, quả thật “thánh” là nhận biết điều Thiên Chúa mặc khải và dám tuyên xưng dám sống điều ấy cách trọn vẹn.

Rõ ràng , chính Chúa Giêsu nói : “ Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì chẳng phải phàm nhân nào mạc khải cho anh biết điều đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” ( c 17) .

Như vậy, dựa vào Lời Chúa Giêsu, chúng ta biết được chính Chúa Cha là Đấng “chọn “ Phê-rô và Chúa Giêsu là Người thi hành đặt để cho Phê-rô. Nên Người nói tiếp :” Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : Anh là Phê-rô nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” ( c 18)

Bối cảnh Tin Mừng :

  • Chúa Giêsu đến địa hạt cận thành Xê-za-rê Phi-líp-phê. ( c 13)

Thành Xê-za-rê Phi-líp-phê nằm ở đầu nguồn sông Gióc-đanh, ở phía đông, đối diện với miền Canaan , sông Gióc-đanh bắt nguồn từ núi Hermon, chạy dài đến Biển Chết là 251 Km, biển Chết là biển cùng, chảy từ biển Đỏ của Ai-Cập phía Nam vào Nước Israel và Jordan nẳm kẹt tại đó, nên được gọi là Biển Chết. Biển chết có đặc tính như một phép lạ hiện hiện duy nhất trên thế giới là rớt xuống không bơi vẫn không chìm. Ngày nay, ai có dịp đi du lịch Thánh Địa sẽ tận hưởng điều đó.

Như vậy, có thể nói, từ miền Canaan, Chúa Giêsu băng qua sông Gióoc-đanh để đến vùng kế cận thành Xê-za-rê Phi-líp-phê, vùng truyền giáo cực Bắc của Israel, đầu nguồn sông Giôc-đanh, sông Gióoc-đanh là sông chạy dọc đất nước Israel, nếu tính đến cực Nam của Israel, băng qua Giêrusalem, đến vịnh Agapa thì dài 321 Km, là con sông chia cắt giữa Israel và Vương Quốc Jordan. Vì vậy có bờ Tây Sông Gioc-đanh, nằm trọn bên Nước Dothai, vì Israel gồm có dân Dothai và Ả-Rập . Như vậy, Chúa Giêsu đang ở vùng dân ngoại để truyền giảng Tin Mừng. Qua Lời rao giảng đầy uy quyền và đầy thán phục, dân chúng tại đây xôn xao, bàn tán , tưởng là một trong ba vị ngôn sứ nổi tiếng trong Cựu Ứơc, Gioan Tẩy Gỉa là gạch nối giữa Cựu và Tân , vừa của Cựu Ứơc và Tân Ứơc.

  • Thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu (c 16)

.Đức Tin là một ân ban vô điều kiện đến từ  tình thương của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa thấu suốt mọi tâm can con người. Vì vậy, đức tin phải có hai yếu tố chính là: Thiên Chúa mặc khải và con người đáp trả. Trường hợp thánh Phê-rô là một trường hợp cụ thể, chính Chúa Cha đã mạc khải cho Phê-rô biết về Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô. Và Phê-rô đã thể hiện niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua Đức Kitô.

  • Chúa Giêsu đã mặc khải điều mà Phê-rô tuyên xưng ( c 17)

Chúng ta biết được điều nêu trên là nhờ vào sự mạc khải của Chúa Giêsu, Người nói với Phê-rô: “Không phải phàm nhân mạc khải cho anh, mà Cha Thầy, Đấng ngự trên trời đã mạc khải cho anh biết điều đó “

  • Chúa Giêsu đặt tên cho Phê-rô , nghĩa là : Tảng Đá. ( c 18)

Phàm nhân là tro bụi, nhưng kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được xây dựng trên Đá Tảng. Một sự so sánh mầu nhiệm mà chính Chúa Giêsu thiết lập cho chúng ta thấy Hội Thánh Công giáo là một “Đường lối” Cứu Độ nhân loại không thể bị một áp lực trần thế nào phá nổi. Vì, không một phàm nhân nào là “ĐÁ” trừ Phê-rô. Điều nầy tưởng như đơn giản , nhưng quả thật nhiệm mầu, vì không phải ngẫu nhiên, mà Chúa Giêsu thiết lập như vậy, nhưng điều nầy đã có từ trước muôn thuở và tồn tại muôn đời. Thiên Chúa đã muốn thiết lập ơn Cứu Độ từ Cựu Ứơc, khi dân tộc Dothai bị ngược đãi, làm nô lệ Thiên Chúa đã dùng Moisen dẫn dắt dân của Ngài, bốn mươi năm trong samac, đến khi thiếu nước uống, Thiên Chúa đã sai Môisen dùng gậy đâp vào “Tảng Đá” để có nước vọt ra cho dân uống.

Khí Đấng Cứu Thế đến, Người vừa là Thiên Chúa vừa là Môisen, chính Tảng Đá Phê-rô là nền tảng Hội Thánh hữu hình, là ơn Cứu Độ viên mãn từ Thiên Chúa. Vì vậy, Hội Thánh Công giáo không phải là một tổ chức trần thế, chúa Giêsu đã tiên liệu trước, dù satan có lấn át cũng không thắng nổi. Thánh Phê-rô là vị giáo hoàng đầu tiên, là người bước theo Đức Kitô cách trung thành cho đến vị giáo hoàng sau cùng cũng vậy, là những “con người”, nhưng là chính những “Tảng Đá”, mà Chúa Giêsu đã thiết lập.

  • Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh Công giáo trên Phê-rô. ( c 19)

Ngoài Hội Thánh Công giáo không có Đức Giáo Hoàng, điều nầy không một phàm nhân nào “bóp méo” được, rõ ràng là một mặc khải hiển nhiên đến từ Thiên Chúa.

“ Thầy trao cho anh : Chìa khóa Nước Trời, dưới đất anh cầm buộc điều gì, thì trên Trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, thì trên Trời cũng tháo cởi như vậy .” ( c 19)

Vâng, không ai có quyền phán như vậy, trừ Đấng thiết lập. Và , Đấng thiết lập chính là Thiên Chúa. Khi truyền cho Phê-rô là “Đá “, Chúa Giêsu đã muốn mạc khải cho muôn thế hệ biết “lòng tin “ phải như đá, trung thánh như ĐÁ, vững bền như ĐÁ, kiên trung như ĐÁ , rồi chính từ ĐÁ, có nghĩa là từ Đức Tin son sắt, kiên trung như ĐÁ, sẽ vọt ra ơn CỨU ĐỘ như tảng đá Cựu Ứơc.

Câu cuối cùng, “Người cấm ngặt không cho ai được tiết lộ Người là Đấng Kitô ”, bởi vì mầu nhiệm Thập giá chưa được thực thi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, lời tuyên xưng duy nhất ấy  đem lại cho chúng con ơn Cứu Độ, xin thương ban cho mọi nhân thế nhận ra và tôn thờ Chúa như thánh Phê-rô, hầu họ đáng hưởng nhờ ơn Cứu Độ bởi Chúa./. Amen

Về mục lục

.

ĐỨC TIN VỮNG NHƯ BÀN THẠCH

 

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng Chúa nhật XXI/TN-A (Mt 16, 13-20) trình thuật: “Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê (là vùng đất dân ngoại ở phía bắc Ga-li-lê), Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 13-16). Nghe lời tuyên xưng chắc nịch như vậy ai cũng tin chắc rằng Thánh Phê-rô có một đức tin “vững như bàn thạch” (vững chắc như bàn đá), không gì lay chuyển nổi. Ấy vậy mà khi thấy Thầy đi trên mặt biển, hoặc sau Phục Sinh hiện ra, thì lại cho là… ma! Thậm chí khi Thầy tiên báo sẽ chối Thầy 3 lần trước khi gà gáy, thì Phê-rô khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy.” (Mt 26, 35); nhưng thực tế đã xảy ra đúng như Lời Thầy tiên báo (Chỉ bị một tớ gái nhà Cai-pha vặn hỏi, Phê-rô đã chối Thầy 3 lần trong một đêm bằng cách “thề độc mà quả quyết rằng: “Tôi thề là không biết người ấy.” – Mt 27, 74).  

Như vậy thì vấn đề tuyên xưng đức tin cần phải hiểu thế nào cho ổn? Nói đến vấn đề tuyên xưng đức tin ai cũng cho rằng “xưa như trái đất” và khi nhắc tới thì phần lớn đều có chung một lý luận: “Biết rồi… Khổ lắm… Nói mãi…! Tôi có tin thì tôi mới theo Đạo! Nếu tôi không tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Cứu Độ, mầu nhiệm Giáo hội, mầu nhiệm các thánh thông công, mầu nhiệm Phục Sinh, thì đâu có ai ép được tôi giữ Đạo?” Nghe qua lập luận, biết ngay là người đưa ra lập luận ấy đã thuộc làu làu Kinh Tin Kính. Đúng là như thế, và quả thực nội dung Kinh Tin Kính mà lý luận nêu ra làm luận cứ (“mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Cứu Độ, mầu nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm Giáo hội, mầu nhiệm các thánh thông công”) thì ai cũng thuộc nằm lòng, Thánh lễ Chúa nhật nào cũng đọc vanh vách, trơn tru như cháo chảy. Tuy nhiên, tuyên xưng như vậy đã đủ chưa, ấy mới là vấn đề cần xem xét. 

Tuyên xưng đức tin như vậy thì mới chỉ là nói lên (tuyên – tuyên bố) niềm tin của minh, chớ chưa thật sự chứng minh được (xưng – xưng ra) niềm tin ấy trong cuộc sống. Nói cách khác, đó mới chỉ là “nói” chớ chưa thực sự “làm” đúng như những điều đã nói. Nói, tuyên bố thì ai cũng nói được; nhưng đụng chạm vào thực tế có còn dám ngẩng cao đầu tuyên xưng đức tin được như 130.000 chứng nhân anh dũng của Việt Nam liên tục trong 3 thế kỷ (1580-1888) hay không? Cứ nhìn vào khoảng thời gian sau 30/4/1975 ở miền Nam Việt Nam thì đủ rõ. Chưa có ai tra khảo, chưa có ai vặn hỏi (kiểu như tớ gái nhà Cai Pha), vậy mà đã có không ít những người có Đạo vội vàng cất bàn thờ lên gác để chưng hình lãnh tụ, khai vào lý lịch là không tôn giáo, là theo đạo thờ ông bà! Nếu gặp cảnh Đạo Chúa bị bách hại giống như ở triều đại nhà Nguyễn, thì không hiểu con số người ngoan ngoãn, mau lẹ bước qua (thậm chí còn đạp lên) Thánh giá nhiều gấp bao nhiêu lần con số 130.000 anh hùng tử vì đạo? 

Quả thật ở cái thế kỷ XXI này, thực tại lịch sử minh chứng vấn đề tuyên xưng đức tin còn thê thảm hơn thời điểm 2000 năm trước. Và một vấn nạn nảy sinh: Tại sao Đức Giê-su khi nghe Thánh Phê-rô tuyên xưng như vậy lại tin tưởng đến độ trao cho thánh nhân một sứ vụ vô cùng quan trọng như thế? (“Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” – Mt 16, 18-19). Vấn đề đặt ra ở đây là vì Đức Giê-su là Thiên Chúa, Người thấu hiểu tận chân tơ kẽ tóc con người Thánh Phê-rô (“ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” – Mt 10, 30): Với bản tính loài người thì Phê-rô cũng như bao người khác, nhưng Thánh nhân hơn hẳn họ ở đức tính chân thực, công chính, bộc trực và lòng mến bao la. Chỉ cần thêm cho ngài sức mạnh và sự sáng suốt của Chúa Thánh Thần, thì chắc chắn ngài sẽ là Tảng Đá kiên trung xây dựng Hội Thánh Chúa. Và sự thực lịch sử Giáo hội trải qua 2000 năm đã hùng hồn chứng minh điều đó, không ai phủ nhận được. 

Cũng vì thế, nên Đức Giê-su rất thương mến và tin tưởng thánh Phê-rô, và ngay sau khi Thánh nhân tuyên xưng đức tin, Đức Ki-tô đã đặt lại tên là Phê-rô (nghĩa là “Tảng Đá”) thay cho tên gọi trước của ngài là Si-môn. Chẳng những thế, khi thấy đức tin của Phê-rô (và nói chung là các môn đệ) vẫn chưa được kiên định, Đức Giê-su còn âu yếm phán dạy: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22, 31-32). Chính sự kiện này, một lần nữa lại minh họa cho vấn đề tuyên xưng đức tin không những phải được tuyên bố bằng lời nói xuất phát tự tâm can (“có tin thật trong lòng mới được nên công chính, có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ.” – Rm 10, 10), mà còn phải được thể hiện bằng hành động, bằng cả cuộc sống, bởi “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17);  

Suy niệm cho chín chắn bài Tin Mừng hôm nay, sẽ nhận chân được vấn đề là dù thế nào mặc lòng, cũng phải đặt lại việc củng cố đức tin, hãy coi đó luôn luôn và mãi mãi là mối quan tâm hàng đầu của người Ki-tô hữu. Mà muốn củng cố đức tin cho thật vững mạnh thì không gì bằng “nâng tâm hồn và trí khôn lên với Chúa” (cầu nguyện). Đến như Đức Giê-su Thiên Chúa, với quyền năng vô hạn, Người có thể làm cho kẻ chết sống lại (“anh La-da-rô chết 4 ngày sống lại” – Ga 11, 1-45), cho cả kẻ “mù nội tâm” được sáng mắt sáng lòng (trường hợp Thánh Phao-lô Tông đồ Trở Lại), thì còn việc gì Người không thể làm được? Vậy mà Người vẫn nói với Phê-rô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin”. Chính Người đã nói như vậy (và Người cũng làm như vậy trong suốt hành trình thi hành sứ vụ, là Người luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha), là để dạy các môn đệ, các tín hữu hãy cầu nguyện, liên lỉ cầu nguyện (“Anh em hãy cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” – Lc 22, 40;  “Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.  Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.” – Ga 14, 13-14). 

Cầu nguyện là nhu cầu thiết yếu cho đời sống tâm linh Ki-tô hữu, Có thể khẳng định cầu nguyện gắn chặt với Ki-tô hữu, không thể tách rời; vì Ki-tô hữu là ai, nếu không phải là người nhờ Chúa Thánh Thần, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su mỗi ngày một hơn. Cuộc sống đó chính là đích điểm của đời cầu nguyện. Xin lắng nghe lời Thánh Gia-cô-bê Tông đồ: “Anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca. Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực.” (Gc 5, 13-16).

Người ta hỏi Mẹ Thánh Tê-rê-sa Calcutta làm thế nào để Mẹ yêu thương được đám người mà nhân loại đã coi như một đống phế liệu, Mẹ trả lời: “Bí quyết của tôi thật đơn giản: Tôi cầu nguyện”. Cuộc đời của Mẹ Thánh là cả một chuỗi dài hoạt động bác ái không ngưng nghỉ, vậy mà Mẹ chỉ có một bí quyết: “cầu nguyện”! Sống trước Mẹ hàng thế kỷ, Thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su (1873-1897) cũng đã chứng minh hùng hồn hiệu lực của “cầu nguyện”, vì cả cuộc đời ngắn ngủi của ngài sống trong 4 bức tường khép kín của tu viện chỉ là cầu nguyện và cầu nguyện. Quả thật “Nếu không có cầu nguyện, những việc làm của chúng ta trở nên trống rỗng và lời rao giảng của chúng ta không có hồn, vì nó không được sinh động hóa bởi Chúa Thánh Thần. Cầu nguyện là nói chuyện hằng ngày với Chúa, Đấng luôn lắng nghe chúng ta.” (xc. Bài Giáo lý về Kinh Tin Kính và năm Đức Tin của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô ban hành ngày 22/5/2013 – nguồn Thanhlinh.net).

Tóm lại, vấn đề tuyên xưng đức tin tuy “xưa như trái đất”, nhưng coi chừng chúng ta mới chỉ tuyên bố bằng đầu môi chót lưỡi chớ chưa thật sự tuyên xưng bằng chính cuộc sống của mình. Mà như thế thì nào có khác chi mấy ông Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê thủa xưa. Xin hãy khắc ghi vào tận đáy lòng Lời dạy của Người mà Thánh Phê-rô đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 13-16), đó là: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 2-3). Muốn có một đời sống đức tin kiên trì và vững mạnh để có thể tuyên xưng trước mặt thiên hạ, mà không hề lùi bước trước ba thù, người Ki-tô hữu hãy cầu nguyện, vì cầu nguyện chính là ân huệ của Chúa Thánh Thần. Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

HỘI THÁNH HÔM NAY

Lm. Trịnh Ngọc Danh 

Đức Giêsu biết rõ dân chúng nhận định về Ngài như thế nào. Nhưng như để gián tiếp cho chúng ta thấy rằng dân chúng cũng có mặt trong buổi tiến cử hôm nay, nên Ngài đã hỏi các môn đệ: “ Người ta bảo Thầy là ai?” Thay mặt cho dân chúng, các ông đã trình lên Thầy ý kiến, nhận định của họ: “ Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy giả. Kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” Dân chúng xem Ngài như một kẻ chết sống lại. Rồi Đức Giêsu quay về với các môn đệ là những người đi theo Ngài để xem các ông nhận định thế nào:“ Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đại diện cho anh em, ông Phêrô đã tuyên xưng: “ Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”  

Qua lời tuyên xưng của ông Phêrô, Đức Giêsu đã xác nhận: “ Này anh Simon con ông Gioana, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Như thế, lời tuyên tín của Phêrô không phải do con người, nhưng là do sự mặc khải của Chúa Cha. Khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, ông Phêrô đã nói lên căn tính của Ngài là Đấng được xức dầu, là Đấng Mêsia mà muôn dân mong đợi, là Đấng  cứu thế. Từ đây, Đức Giêsu đã đổi tên ông Phêrô và tiến cử ông vào một chức vụ mới: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.” Phêrô trở thành người đứng đầu Hội Thánh sơ khai ở nơi trần thế. 

Đức Giêsu có vội vàng  lắm không khi chỉ mới nghe một lời tuyên xưng như thế mà đã quyết định ngay việc thiết lập Hội Thánh trên nền tảng đức tin của ông Phêrô? Đức Giêsu không vội vàng, cũng không sai lầm, mặc dù Ngài biết những khuyết điểm của ông: Ông là một ngư phủ, ít học, bộc trực. Ông ba lần khẳng định ông yêu mến Thầy, nhưng rồi lại ba lần ông chối Thầy. Đức Giêsu không lấy tiêu chuẩn khôn ngoan hay đạo đức làm nên tảng để trao trách nhiệm, nhưng Ngài dựa trên đức tin, đức mến và lòng nhiệt thành. Ông Phêrô tuy yếu đuối, bất tài nhưng ông lại là một con người khiêm tốn, đầy nhiệt tình, tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa. 

Đức Giêsu đã khai sinh Hội Thánh bằng việc rao giảng Tin Mừng, loan báo nước Thiên Chúa đã hứa trong Kinh Thánh. Ngài đã khai sinh Nước Trời trên trái đất. Trước hết, Ngài tuyển chọn nhóm Mười Hai với Phêrô làm thủ lãnh. Việc tiến cử ông Phêrô làm thủ lãnh không những có hiệu lực với các tông đồ mà còn có hiệu lực cho những người kế vị ông. 

Một vị linh mục kia cảm thấy rất chán nản vì giáo dân của ngài tỏ ra hờ hửng, thiếu thái độ hợp tác. Môt hôm, cha sở loan báo Giáo Hội đã chết, và Chúa Nhật tới, nếu không ngại, họ có thể đến để dự nghi thức an táng cho Giáo Hội. Ai nấy đều lấy làm lạ về điều cha sở loan báo. 

Sáng Chúa nhật sau, mọi người đến và nhìn thấy một chiếc quan tài được đặt trên gian cung thánh, nắp còn mở để sang một bên. 

Cha sở mời mọi người, từng người một, lên chào Giáo Hội lần cuối. Mọi người lần lượt đi lên, nhìn vào quan tài để xem thi hài Giáo Hội như thế nào. Họ thấy dưới đáy quan tài có một tấm gương lớn. Khi họ nhìn vào đó, họ nhìn thấy gì? Họ đã nhìn thấy Giáo Hội. 

Kitô hữu hôm nay không phải chỉ hiệp thông cầu nguyện và xây dựng Giáo Hội phổ quát, nhưng còn được kêu gọi cầu nguyện, cộng tác để xây dựng Giáo Hội địa phương là Giáo phận, Giáo xứ; vì ở đây, chúng ta được sinh ra trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng các bí tích, được chăm sóc mục vụ từ nơi cộng đoàn. Đừng đứng bên ngoài Giáo Hội để chỉ trích phê phán, nhưng hãy ý thức vai trò tích cực của mình trong công việc xây dựng giáo phận, giáo xứ. Đó là sự tích cực xây dựng và cộng tác với Giáo Hội hoàn vũ.

Về mục lục

.

CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?

  Fx Đỗ Công Minh

 Bài Tin mừng hôm nay đặt ra cho con một dấu hỏi rất lớn “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Có người cho rằng đọan  trích của Thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu là một diễn giả rất đáng khâm phục, một nhà tâm lý lỗi lạc đáng để các nhà sư phạm, những nhà họat động xã hội, những người lãnh đạo một tổ chức trong đạo, ngòai đời noi theo cung cách của Người. Đó là sau một thời gian giảng dạy, họat động thì lui vào một nơi nào đó để chiêm nghiệm, nhìn lại mình. Suy đi nghĩ lại về những việc đã làm, đã nói, đã sống hầu rút ra những bài học kinh nghiệm.Đến miền đất Xê-da-rê  Phi-lip-phê, một nơi thị tứ, khi ấy đang nổi lên phong trào xưng danh của những nhân vật đương thời trong xã hội, muốn trở thành các lãnh tụ hầu tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng trong vùng. Đức Giêsu đã làm một cuộc thăm dò  bỏ túi, Người hỏi các học trò  về dư luận của dân chúng, những người đi theo Chúa, những người đang cư ngụ  những nơi Người đến rao giảng: “Người ta nói Con Người là ai?”. Một cách thành thật nhà Đạo, các ông nhanh nhảu phản ánh:“ Kẻ thì nói (Thầy) là Ông Gioan Tẩy giả , người khác lại cho là Ông Giêrêmia hay một trong những vị ngôn sứ “, những vị cao trọng,  có uy tín trong dân Israel. 

Thực ra Đức Giêsu không làm động tác phỏng vấn theo kiểu trò chơi Games Show: “ Chung Sức “ như trên Truyền hình HTV hôm nay, xem có bao nhiêu người đồng ý về một nhận định nào đó? Người muốn các tông đồ nói lên suy nghĩ của bản thân sau những ngày theo Chúa, được Người dạy dỗ, từng chứng kiến việc Người đã làm, đã sống. Người hỏi các ông: “ Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?” Một câu hỏi không dễ trả lời. Các ông đã nhận ra Người là đấng có uy quyền. Thiên hạ, những người chỉ đi theo, chỉ nghe tiếng Người, chỉ một vài lần chứng kiến phép lạ Chúa làm mà còn lên tiếng ca ngợi, cho rằng Đức Giêsu, một vị ngôn sứ trong dân ISRAEL đã tái thế. Họ nói  dưới nhãn quan của họ. Nếu không phải các bậc xuất chúng, cao trọng trong dân mà họ được biết đến trong kinh Thánh, thì không thể rao giảng và làm những điều lạ lùng như thế. Còn các tông đồ,  đại diện là Phêrô,  đã nói lên điều ông nhận ra nơi Thầy mình: “ Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “.Phêrô, một người học trò đã nói lên những gì mà ông cảm nghiệm được sau những ngày tháng theo Thầy. Ông không nói theo cách thậm xưng của người đời, không theo kiểu tâng bốc, xu nịnh, đưa Thầy mình lên cao vút theo cung cách ngôn ngữ thời đại hômnay, thường gọi là những lời có cánh, nhưng là theo lương tâm chân thật của chính mình. Đức Giêsu đã chúc phúc cho ông:”Này anh Si-Mon con ông Gio-Na,anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. . .”. 

Câu hỏi của Đức Giêsu đặt ra cho các tông đồ vẫn là câu hỏi mang tính thời đại hôm nay. Chúa cũng đang hỏi con “ Còn anh em, anh em  bảo Thầy là ai ?” . Đã có những câu trả lời trong thực tế con nghe:  Người là bậc Thầy trong dân Israel;  Người là một bậc vĩ nhân, một nhà hiền triết sánh ngang vị này vị khác trong lịch sử; Người khai sáng đạo Kitô; vị lãnh tụ của người nghèo, người bị bỏ rơi, bị bách hại. . . Những điều đó không sai. Phần con, Lạy Chúa, xin cho con nhận biết “ Người là Đức Kitô con Thiên Chúahằng sống “. Nhưng để xác tín điều ấy , con phải vâng nghe và giữ Lời Người,noi gương các Tông đồ trong suốt cuộc đời, để có thể trả lời tiếp câu hỏi nếu có ai đó đặt ra cho con:“Nhưng Đức Kitô là ai ?”. Con có sẵn sàng trả lời cho được bằng chính cuộc sống và niềm tin của con ? 

Lạy Chúa ! Xin thương cứu giúp con. Xin ban thêm Đức tin cho con . AMEN.

Về mục lục

.

TUYÊN TÍN GIÊ-SU LÀ ĐẤNG KI-TÔ

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

“Thầy là đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!”, câu tuyên tín này của Phê-rô hẳn phải có một tầm quang trọng lớn lắm, căn cứ vào phản ứng trang trọng của Đức Giê-su khi tuyên bố: “Này anh Si-môn con ông Gio-na, anh thật có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Ngược lại, chính vì là tín hữu (hơn nữa tu sĩ linh mục) mà thường khi nhiều người trong chúng ta lại có cảm tưởng là: lời tuyên xưng trên cũng tầm thường thôi, chẳng có chi mới lạ; chắc hẳn vì chúng ta đã quá quen thuộc với công thức tuyên tín thuộc lòng này.

Gần đây, khi theo dõi chương trình Frontline series có tựa đề From Jesus to Christ: The First Christians, một chương trình hội thảo 02 ngày (two-day symposium) tại Đại Học Harvard (Hoa Kỳ) qui tụ nhiều học giả thuộc các lãnh vực khảo cổ, lịch sử, nhân văn, thánh kinh, thần học… trao đổi nghiên cứu để tìm hiểu cách hết sức khoa học đề tài: ‘làm sao đế quốc Rô-ma đã từng đóng đinh tên nô lệ Giê-su vào thập giá, chỉ trong vòng 300 năm sau, lại quay ra tiếp nhận Ki-tô giáo?’ nói cách khác, làm sao một Giê-su Na-da-rét lại có thể trở thành một Giê-su Ki-tô? tôi mới nhận ra câu tuyên xưng của Phê-rô – một ngư phủ bình dị,quả là một bước nhảy vọt ghê gớm. Phê-rô đáng được gọi là Ki-tô hữu tiên khởi, vì là môn đệ đầu tiên đã mạnh dạn tuyên xưng: “Thầy là đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!

Tên gọi Giê-su (Ya-su / Gio-su-ah) trong tiếng Aramaic tự nó đã mang một ý nghĩa rất độc đáo: ‘Thiên Chúa cứu vớt’. Tuy nhiên tên này trở thành khá phổ biến giữa các người Do Thái vì nó hàm ý: căn cứ vào trình thuật của sách Xuất Hành, chỉ dân riêng mới được Đức Chúa cứu với, giải thoát khỏi mọi ách thống trị. Còn danh xưng ‘đấng Ki-tô’ (Christos tiếng Hy-lạp, Mashiah tiếng Do Thái), được hiểu là người được Thiên Chúa ‘sức dầu tấn phong’, thì trong suốt Cựu Ước được dành cho một nhân vật đặc biệt nào đó, như vua Sao-lê, như Đa vít, như các quan án hay tiên tri… vì, kể từ lúc được sức dầu, họ mang trong mình cả hai chức năng: giải thoát và lãnh đạo. Càng về sau này, danh xưng này càng bị giới hạn dần vào một vị lãnh tụ tối cao, Vị Thiên Sai được Đức Chúa hứa gởi đến trong ngày sau hết, để vĩnh viễn giải thoát dân khỏi mọi ách thống trị. Tới thời Đức Giê-su, vì danh xưng này đã bị nhiễm nặng mầu sắc xã hội và chính trị nên Người đã chủ động tế nhị né tránh nó (xem Mt 16:20; Lc 22:67); điều này càng rõ ràng hơn trong Phúc Âm Mác-cô (xem Théo 610a). Chính trong bối cảnh này, mà câu tuyên xưng của Phê-rô trong Tin Mừng Mát-thêu được coi là rất đặc biệt, đặc biệt tới độ nhiều tác giả cho là: nó được thêm vào chỉ sau này, khi các tín hữu nhìn lại cả quãng thời gian hơn ba thế kỷ lịch sử đã qua. Cho dầu thế nào đi nữa thì, đối với các tín hữu gốc Do Thái, đây chắc hẳn phải là lời tuyên xưng căn bản nhất: Giê-su chính là Đấng được Thiên Chúa sức dầu tấn phong (Ki-tô) hằng được mong đợi, Người là Đấng giải thoát tối hậu và trọn vẹn, không chỉ cho dân riêng mà là cho toàn thể nhân loại. Chúng ta biết rằng: cho tới ngày hôm nay Do Thái giáo và Hồi giáo, cho dầu chia sẻ với Ki-tô giáo rất nhiều điều trong niềm tin, nhưng vẫn một mực từ chối chấp nhận điều căn bản này.

Chắc hẳn Phê-rô cũng như mọi môn đệ khác đều hiểu rõ: đối với các ngài nói riêng và đối với toàn dân Do Thái và nhân loại  nói chung, Giê-su phải là Đấng Ki-tô, nghĩa là Đấng giải thoát tối hậu và vĩnh viễn. Trong một khoảng khắc siêu đẳng của niềm tin, không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, đấng ngự trên trời”, Phê-rô đã đạt được điều mà, dưới khía cạnh nghiên cứu, các học giả cho thấy phải mất gần ba thế kỷ xã hội Rô-ma mới đạt được.

Và toàn bộ sứ mệnh của Hội Thánh được đặt trên lời tuyên tín này của Phê-rô, căn cứ vào khảng định của chính Đức Giê-su. Ai nhận Giê-su là Ki-tô – Đấng giải thoát cứu độ tối hậu và duy nhất, người đó sẽ có chìa khóa để mở toang cánh cửa giải thoát và cứu độ, còn ai không tin nhận cũng có nghĩa là không có chìa khóa mở, và do đó sẽ vĩnh viễn bị giam cầm: “Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời…” Trước đây, trong câu chuyện trao đổi với Ni-cô-đê-mô về việc sinh lại, Đức Giê-su cũng đã từng khảng định cùng một nội dung đó rồi: “Ai tin vào con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi” (xem Ga 3:18). Qua mọi thế hệ, Hội thánh được xây dựng trên nền đá tảng Phê-rô sẽ không ngừng tuyên xưng: Đức Giê-su là đấng Ki-tô duy nhất và tối hậu; đồng thời các phần tử của Hội Thánh, tức mọi Ki-tô hữu, nhờ tác động của Thần Khí và trong đức tin đối thần chân chính, cũng sẽ phải, trong sâu thẳm nhất của cõi lòng mình và với tất cả niềm xác tín, mở miệng tuyên xưng: “Đức Giê-su chính là Đấng cứu độ duy nhất của tôi, và là Đấng tối hậu giải thoát tôi khỏi mọi tội lỗi!”

Mỗi người chúng ta, nhất là các linh mục của Đức Ki-tô, cũng cần tự vấn: ‘riêng tôi, tôi đã làm điều đó cách thâm tín tới độ nào rồi?’ Tôi cần nhớ rằng: chìa khóa mở Nước Trời cho tôi, và cho mọi tín hữu mà tôi có bổn phận dẫn dắt, hệ tại duy nhất ở điều này. Nếu không sở đắc được chìa khóa vạn năng này thì rất có thể cánh cửa cứu rỗi sẽ vĩnh viễn bị khóa chặt ngay trước mặt tôi đấy!

Lạy Chúa, xin cho con hiểu hết ý nghĩa của danh xưng Ki-tô hữu mà con được diễm phúc mang nơi mình; thường khi con vẫn hay hời hợt coi đây chỉ là một công thức đức tin, một danh xưng trống rỗng. Từ nay xin cho con, trong mọi hoàn cảnh sống, biết cùng Phê-rô tuyên xưng ‘Thầy quả là đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống’; và con mong rằng: không chỉ khi sống mà cả trong giờ chết, con vẫn có thể tiếp tục tuyên xưng như thế, để có được chìa khóa vạn năng mở tung cho con cánh cửa Nước Trời cứu rỗi. A-men

Về mục lục

.

CƠ CHẾ HỮU HÌNH

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Chúa Kitô đã thiết lập Hội Thánh. Ngoài thực thể siêu nhiên thì Hội Thánh vẫn có đó và phải có đó cơ chế hữu hình. Đã nói đến cơ chế thì không thể phủ nhận phẩm trật hay luật lệ. Đã nói đến cơ chế thì cần chấp nhận những con người cụ thể trong phận “nhân bất thập toàn”. Thế mà Chúa Kitô như đồng hóa chính Người với Hội Thánh Người thiết lập, với cả những con người của cơ chế ấy đến nỗi Người đã từng nói: “Ai nghe anh em là nghe Thầy…Ai đón tiếp anh em là đón tiếp chính Thầy…Anh em cầm buộc điều gì thì trên trời cũng cầm buộc. Anh em tháo cởi điều gì thì trên trời cũng tháo cởi (x.Mt 16,19). Sự hiện hữu của Hội Thánh là cần thiết như tất yếu. Là Kitô hữu ít có ai nghi ngờ về vai trò và vị trí của Hội Thánh trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên sẽ mãi còn là vấn nạn khi đề cập đến tính hữu hình và cơ chế của Hội Thánh.

Đã là người trong thân phận có xác và hồn, có tinh thần và thể chất, có bên trong và bên ngoài…và có tính xã hội, thì cơ chế hữu hình là điều tất yếu cần thiết. Tính xác thể đòi hỏi có cái hữu hình và tính xã hội đòi hỏi có các quy chế, luật lệ. Phẩm trật, quyền bính, luật lệ…của Hội Thánh cơ chế hiện hữu là do bởi yêu cầu của đoàn dân Thiên Chúa đang còn lữ thứ. Sự tồn tại khách quan của cơ chế hữu hình có nền tảng trên các chức năng mà nó đảm nhận. Ngoài chức năng tổng quát là phục vụ, xin được đề cập một số chức năng cụ thể của các cơ chế hữu hình.

  1. Chức năng chuyển giao thông tin: Hội Thánh phẩm trật, cơ chế, đặc biệt qua các Đấng bậc được trao quyền bính chính là phương thế Chúa dùng để bày tỏ thánh ý của Người. Một trong các nhiệm vụ hàng đầu mà Chúa Kitô trao cho các tông đồ là rao giảng Tin mừng cho mọi người (x.Mt 28,19-20; Lc 24,47). Giáo luật buộc các linh mục trong ngày Chúa Nhật và Lễ buộc, nếu không có lý do nghiêm trọng thì phải giảng Lễ (GL 767.2). Cơ chế phẩm trật Hội Thánh còn là phương thế Chúa dùng để chuyển giao thông tin giữa con người với nhau và từ con người lên đến Thiên Chúa. Trong Thánh lễ, cách riêng Thánh Lễ Chúa Nhật, đoàn tín hữu tụ họp không chỉ để lắng nghe Lời Chúa mà còn để lắng nghe nhau và cùng nhau dâng lên Thiên Chúa tâm tư ước nguyện của mình. Điều này được thực hiện rõ nét trong phần “kinh nguyện đại đồng”(lời nguyện giáo dân).
  2. Chức năng trung gian của sự hiệp thông: Hội Thánh hữu hình là nơi ta gặp gỡ nhau, là nơi tập thể này mở lòng với tập thể khác trong tình một Cha trên trời. Cơ chế hữu hình của Hội Thánh giúp đoàn tín hữu có điều kiện thuận lợi để thông phần sự sống Chúa ban tặng, đặc biệt qua các cử hành phụng vụ và sự sẻ chia trong đức ái. Điều này được thể hiện cách cụ thể khi ta cùng tham dự Nghi Lễ Tạ Ơn (cử hành Thánh Thể). Chính khi cùng chia một tấm bánh và nâng cùng một chén, chúng ta được nên một với nhau trong Đức Kitô (x.1Cr 10,15-17).
  3. Chức năng gìn giữ sự công bằng, đặc biệt bảo vệ những người yếu thế, cô thân: Các tổ chức, luật lệ có ra là nhằm nâng đỡ, gìn giữ chúng ta những lúc ta yếu đuối, buông xuôi. Cái cơ chế hữu hình một cách nào đó chính là dây cương giữ ta khỏi ngã bên này, nghiêng bên kia theo cám dỗ của sự xấu, của ác thần. Ngoài ra, sự hiện hữu của các luật lệ, các tổ chức là một sức mạnh bảo vệ kẻ cô thế, kém phận khỏi những bất công do cảnh mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé. Như thế, quy tắc luật lệ hay quyền bính hữu hình vừa đảm nhận vai trò gìn giữ sự công bằng xã hội cũng vừa đòi hỏi chúng ta mãi vươn lên và lướt thắng chính mình.

Tương tự như các cơ chế hữu hình khác trong xã hội, Hội Thánh phẩm trật với quyền bính, luật lệ…hiện hữu là tất yếu theo thánh ý của Thiên Chúa, đặc biệt theo ý định minh nhiên của Đức Kitô. Hội Thánh hiện hữu là để tiếp tục công trình cứu độ của Đức Kitô cho đến tận cùng thời gian và không gian. Tuy nhiên một điều chúng ta cần chân nhận với nhau rằng không phải một sớm một chiều mà cơ cấu tổ chức hữu hình của Hội Thánh có ngay và hình thành xem ra khá hoàn bị và có vẻ cồng kềnh như hiện nay.

Nếu nhìn Hội Thánh dưới chiều kích bí tích thì chúng ta cần xác nhận Hội Thánh là một phương thế, một công cụ Chúa Kitô thiết lập, Chúa Kitô dùng để tiếp tục chương trình cứu độ của Người. Đã là phương thế, là công cụ thì không phải cho chính nó nhưng là cho mục đích cần đạt tới, đồng thời cần được chỉnh sửa và hoàn bị luôn mãi. Điều này được lịch sử minh chứng rõ nét. Cơ cấu tổ chức, quyền bính cũng như luật lệ và cách thế vận hành của Hội Thánh hữu hình không bao giờ ở mãi một trạng thái nhất định, nghĩa là chỉ có một cách, một kiểu duy nhất không thay đổi. Tuy nhiên dù có thay đổi hay chỉnh sửa Giáo Luật, cơ cấu tổ chức, cách hành xử quyền bính, thì đều nhắm để phụng sự Chúa và phục vụ con người cách hữu hiệu hơn, để thực thi các chức năng chuyển giao thông tin, làm trung gian sự hiệp thông, bảo vệ sự công bằng… cách tốt đẹp hơn.

Chúa Kitô khẳng định chính Người xây dựng Hội Thánh. Vì thế, chúng ta vững tin vào sự cần thiết và sự trường tồn của Hội Thánh trong thời gian lữ thứ này. Thế nhưng niềm tin ấy không loại trừ bổn phận của mỗi người chúng ta trong việc góp phần hoàn thiện Hội Thánh xét về phương diện hữu hình qua cơ cấu tổ chức, quyền bính, luật lệ, thể chế. Con người và các hình thái xã hội ngày mỗi đổi thay không ngừng. Chính vì thế các mối tương quan giữa người với người, giữa tập thể này với tập thể kia cũng ngày càng đa dạng và phức tạp. Các Đức Thánh Cha gần đây đã khẳng định rằng: “con người, chính là con đường của Hội Thánh”. Lời khẳng định này đòi hỏi chúng ta không chỉ chuyên chăm cầu nguyện cho Hội Thánh, cho các đấng bậc mà còn phải tích cực góp phần cách cụ thể, cho dù là bé nhỏ. Công đồng Vatican II đã lật ngược “tòa nhà Kim tự tháp” của quan niệm xưa khi đề cao khái niệm Hội Thánh là đoàn Dân Thiên Chúa. Không phải vì thế mà tín hữu chúng ta thừa cơ tung hoành kiểu “phép vua thua lệ làng” nhưng phải làm sao để cho chuyện “ý dân là ý trời” được thể hiện một cách nào đó dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đang đồng hành với Hội Thánh, Đấng đang cùng với Hội Thánh khẩn khoản nài xin Đức Kitô lại đến (x.Kh 22,17).

Về mục lục

.

SỨ MẠNG YÊU THƯƠNG

Lm. Giuse Nguyễn

  1. Linh mục, nhạc sĩ Thái Nguyên đã cảm tác: “Chúa gọi con vào đời, không phải để làm điều chi, nhưng là để sống tình yêu…”Đúng thế, giá trị của mỗi con người là ở nơi tình yêu Thiên Chúa, như lời kinh cám ơn chúng ta vẫn thường đọc: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh ra con cho con được làm người…”, nhờ Tình Yêu mà chúng ta được tác thành ; vì thế cuộc đời của chúng ta cũng chỉ có ý nghĩa khi biết sống trọn vẹn tình yêu đó, nghĩa là đã được yêu thì phải biết yêu. Hay nói ngắn gọn lại, mỗi người phải lo chu toàn sứ mạng yêu thương.
  2. Thời vua Êdêkia (Thế kỷ 8 TCN), ông Sepna được đặt làm quan cai quản đền thờ, là nơi quan trọng nhất của đất nước Giuđa. Tuy nhiên, ông đã không chu toàn bổn phận của mình, nên Thiên Chúa đã lấy chức vụ đó trao lại cho Engiakim, cùng với những điều kiện để ông có thể chu toàn bổn phận đó. Nào là: “…áo thụng, cân đai, quyền bính…”, và nhất là “chìa khóa nhà Đavit”.Thiên Chúa đã trao cho Engiakim một vinh dự không vì ông xứng đáng, mà hoàn toàn vì yêu thương. Những điều kiện thuận lợi Thiên Chúa đã trao cũng là để ông làm cho tình yêu đó nên trọn vẹn nơi chính ơn gọi của ông.

Cũng vậy, Đức Giêsu đã trao cho Phêrô “chìa khóa Nước Trời” không phải vì ông xứng đáng hơn các anh em mình, nhưng đơn giản vì “Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được” (Rm11, 33). Thiên Chúa là Tình yêu, vì vậy Nước Trời, “xứ sở” của Thiên Chúa cũng chính là tình yêu. Việc trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô tức là trao cho ông sứ mạng dẫn người khác đến với tình yêu thương, mở cửa cho họ vào một cách an toàn. Hay nói ngắn gọn lại, sứ mạng của Hội thánh là sứ mạng của tình yêu thương.

  1. M.Go-rơ-ki đã nói “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu vắng tình thương”. Đó là một sự thật trong xã hội hôm nay. Thực sự tình thương không bao giờ thiếu, nhưng vì những giá trị khác làm lấn át tình thương.

Việt Nam đang trong cơn điêu đứng trong vụ mua gần 10.000 hộp thuốc trị ung thư giả để bán cho bệnh nhân của Công ty VN Pharma. Rõ ràng ngay chính trong lãnh thực đáng phải yêu thương nhất, vì bệnh tật là một trong những đau khổ của con người, vậy mà trong đau khổ đó người ta còn bị lợi dụng chứ không được yêu thương. Tình thương không thiếu vắng, nhưng vì lòng tham của một số người đã đẩy tình thương ra khỏi bệnh viện để nó thành “nơi lạnh nhất”.

Thực trạng các gia đình ngày hôm nay cũng là nơi “lạnh nhất”. Đây là một nghịch lý, vì lẽ ra gia đình phải là “tổ ấm” như bản chất của nó, nhưng vì thiếu vắng tình thương mà nó đã làm cho “Bắc Cực” ngày càng mở rộng ra không còn biên giới. Thiếu vắng vì không phải không có tình thương, nhưng vì những giá trị khác đã làm cho tình thương bị đem xuống hàng thứ yếu hoặc vĩnh viễn biến mất khỏi gia đình. Khi người chồng hoặc người vợ chạy theo một tình cảm khác, lúc đó hơi ấm bị san sẻ và sẽ đến lúc hơi ấm thuộc về người khác, thì đương nhiên gia đình phải lãnh lẽo. Khi cha mẹ suốt ngày chỉ lo kiếm tiền mà quên đi con cái đang cần một vòng tay, một ánh mắt, một nụ cười, một lời chỉ bảo, thậm chí là một trận đòn từ sự sửa dạy của cha mẹ… cũng là lúc hơi ấm đang mất dần trong gia đình. Những đứa con chỉ đòi hỏi làm sao cha mẹ phải cho chúng những thứ chúng cần mà quên đi những cực khổ, những gánh nặng mà lẽ ra chúng phải san sẻ với cha mẹ trong khả năng của chúng, những lúc đó gia đình thiếu vắng hơi ấm, mà dư thừa lạnh lẽo của sự trách móc, giận hờn…

Tác giả V.Huy-gô trong tác phẩm kinh điển “Những người khốn khổ” đã từng viết “Trên đời này chỉ có một việc duy nhất, đó là yêu thương nhau, thế thôi”.Chỉ có một việc duy nhất, đó là yêu thương nhau, thế thôi! Nếu mọi người trên trái đất này đều yêu thương nhau thì thiên đàng không ở đâu xa, mà ngay tại trần gian này.

Ađam, Eva trong vườn địa đàng thuở khai thiên lập địa đã có được điều đó khi họ sống mối tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha của họ, và yêu thương nhau thắm thiết nồng nàn. Thế nhưng những ham muốn, kiêu ngạo đã làm họ mất đi tình yêu thương đó. Khi đánh mất tình yêu thuở ban đầu, con người đã lâm vào cơn khốn cùng, họ “sẽ phải đau khổ và phải chết”.

Đức Giêsu là tình yêu của Thiên Chúa Cha được trao gởi cho nhân loại để hàn gắn lại vết thương bị rạn nứt bằng chính tình yêu tự hiến của Ngài. Ngài đã thực hiện sứ mạng yêu thương một cách trọn vẹn. Đó chính là “tình yêu cao siêu huyền diệu, là tình yêu Chúa đã một chiều, yêu thương nên liều mạng sống, để cho con vuông tròn nghĩa ân”.

Giáo hội đón nhận sứ mạng từ nơi Ngài để tiếp tục sống tình yêu thương. Việc trao ban chìa khóa Nước Trời cho Phêrô không phải là quyền bính để Phêrô muốn cho ai được vào hay bị đuổi ra ngoài là tùy ông, nhưng sâu xa chính là trách nhiệm ông phải hướng dẫn Giáo hội bằng tình yêu thương để họ được bước vào Vương Quốc Tình Yêu.

  1. Nếu mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn, mỗi Giáo xứ đều ý thức và sống sứ mạng yêu thương ; luôn luôn tự nhủ: “Chúa gọi con vào đời, không phải để làm điều chi nhưng là để sống tình yêu”thì mỗi người sẽ được hạnh phúc, mỗi gia đình sẽ được an vui, mỗi cộng đoàn, Giáo xứ sẽ trở thành ánh sáng…

Sứ mạng này trước hết phải là của những người đứng đầu một tập thể. Khi lãnh trách nhiệm làm phụ huynh, làm mục tử, làm người điều hành, thì phải nhớ sứ mạng chính yếu của mình là tình thương đối với những người mình có trách nhiệm. Một khi có những giá trị khác xen vào thì chắc chắn nó sẽ lấn át tình yêu thương của chúng ta dành cho họ. Vì vậy những người đứng đầu phải luôn luôn xin Chúa cho mình nhớ sứ mạng yêu thương mình đã lãnh nhận.

Tình yêu thương theo khuôn mẫu của Đức Giêsu phải là một trái tim đầy thương tích, nhưng chính nhờ thương tích sẽ làm cho họ hạnh phúc hơn, vì họ biết mình đã sống hết tình cho sứ mạng.

Ngày xưa người mẹ phải đau đớn, quặn lòng để sinh ra một đứa con, đến nỗi có thành ngữ: “mang nặng đẻ đau”. Nỗi đau đó là thiên chức của người mẹ, cũng chính nhờ nỗi đau đó mà người mẹ thương con mình nhất trên đời và làm tất cả mọi sự để bảo vệ đứa con, vì để có nó bà đã phải đau đớn đến tột cùng.  

Một người chồng có vợ bệnh tật đã chia sẻ trong dịp Thường Huấn Linh mục Giáo phận Cần Thơ khóa III rằng: ông sẽ làm tất cả để vợ ông còn căn nhà để ở, kể cả bệnh tật ông cũng không điều trị, vì ông sợ phải bán căn nhà, vợ ông không có nơi để ở.

Giáo hội vẫn luôn mong muốn những mục tử hết lòng chăm sóc đoàn chiên của mình. Giáo dân vẫn luôn cần những mục tử hiểu biết, thông cảm để đồng hành, dẫn dắt họ… Đó là mong muốn chính đáng. Nhưng để được như vậy, thì đòi hỏi những mục tử phải ra khỏi chính mình: Hy sinh thời giờ, sức lực, tiền bạc, khả năng cho giáo dân của mình. Cha PX. Trương Bửu Diệp là tấm gương của một vị mục tử đã tận tụy hy sinh cho đoàn chiên, kể cả tính mạng của mình.

“Con sinh ra từ tình yêu Ngài, con lớn lên trong vòng tay Chúa”. Luôn ý thức điều đó để sống trọn vẹn tình yêu với Chúa trong bổn phận của một Kitô hữu.

Và vì được Chúa yêu thương như vậy, nên hãy hết lòng chu toàn sứ mạng yêu thương đối với những người chúng ta có trách nhiệm. Đừng sợ khó, sợ khổ, nhưng hãy sợ mình yêu chưa đủ để cố gắng, nỗ lực mỗi ngày. Gia đình, Giáo hội và xã hội hôm nay đang rất cần tình yêu thương để chống lại những giá trị sai lạc, hoặc nếu không sai lạc thì là không phù hợp với gia đình, Giáo hội và xã hội. Xin Chúa cho mỗi người chúng con chu toàn sứ mạng yêu thương.

Về mục lục

.

TRỞ NÊN VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG XÂY DỰNG ĐỀN THỜ HỘI THÁNH

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 16,13-20

(13) Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai ?” (14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ” (15) Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (17) Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon con ông Giô-na. Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (20) Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.

  1. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU HỨA XÂY HỘI THÁNH TRÊN NỀN ĐÁ ĐỨC TIN PHÊ-RÔ:

Để trả lời cho câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai ?”, Các môn đệ kể lại dư luận về vai trò và sứ mệnh của Đức Giê-su. Riêng Tông đồ Si-mon đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Ông đã được Đức Giê-su khen là có phúc, được Người đổi tên thành Phê-rô, nghĩa là “Tảng đá”. Người còn hứa sẽ xây Hội Thánh trên đức tin của ông, và ban cho ông khả năng chiến thắng ma quỷ. Người cũng trao quyền tối thượng với quyền cầm buộc và tháo cởi về đức tin và luân lý.

  1. CHÚ THÍCH VÀ HỎI ĐÁP:

HÒI 1: Tên Phê-rô nghĩa là gì và việc đổi tên mang ý nghĩa gì ? Tại sao Đức Giê-su lại xây Hội Thánh của Người trên con người bất toàn Phê-rô, đang khi chỉ mình Người mới là Tảng Đá đích thực (x. 1 Pr 2,4)?

ĐÁP:

– Phê-rô hay Kê-pha nghĩa là Tảng Đá và có hai nghĩa: Một là viên đá lớn, hai là tên riêng do Đức Giê-su đặt để thay tên cũ là Si-mon. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa thường đổi tên kẻ mà Người muốn trao cho nhiệm vụ đặc biệt. Chẳng hạn: tổ phụ Áp-ram được Thiên Chúa đổi tên thành Áp-ra-ham nghĩa là “Cha của vô số người” (x. St 17,5) và trao sứ mệnh làm “Tổ phụ nhiều dân tộc” (x. Rm 4,17).

– Phê-rô tuy yếu đuối và đã từng sa ngã phạm tội chối Thầy ba lần (x. Mt 26,69-74), nhưng ông đã được cái nhìn của Đức Giê-su thức tỉnh và lập tức hồi tâm sám hối (x. Lc 22,61-62). Ông cũng tuyên xưng lòng mến Thầy ba lần, nên đã được Người tha tội, như Người cũng nói về người phụ nữ tội lỗi: “Tội của chị ta rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị ta đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (x. Lc 7,47).

– Vậy phải chăng Đức Giê-su hứa sẽ xây dựng Hội Thánh của Người trên Tảng Đá là con người Phê-rô yếu hèn hay Tảng Đá vững chắc là chính Người ? Thánh Phê-rô viết: “Anh em hãy lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng… Còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa” (1 Pr 2,4-7). Thánh Phao-lô trong thư thứ nhất Cô-rin-tô viết như sau: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô” (1 Cr 3,11).

Như vậy Tảng Đá góc tường là chính Đức Giê-su. Nhưng các tín hữu là những kẻ tin vào Người cũng trở thành những viên đá sống động. Riêng đối với Si-mon Phê-rô, nhờ tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, mà ông đã được Người khen là có phúc và được đổi tên từ Si-mon thành Phê-rô nghĩa là Tảng Đá đức tin. Trên nền Đá đức tin vào Đức Giê-su đó mà Hội Thánh đã được xây dựng. Đức Giê-su còn trao chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông. Người hứa sẽ cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và khi đã trở lại ông sẽ có trách nhiệm củng cố đức tin của các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Người còn trao quyền chăn dắt đoàn chiên của Người cho ông nữa (x. Ga 21,15-17).

HỎI 2: Phải chăng Đức Giê-su chỉ trao quyền cầm buộc tháo cởi riêng cho Tông Đồ Phê-rô, chứ không trao quyền ấy cho các giáo hoàng kế vị sau này ?

ĐÁP:

Nếu hiểu theo nghĩa đen thì câu Đức Giê-su trao chìa khóa kèm theo quyền cầm buộc và tháo cởi chỉ được ban riêng cho Phê-rô. Nhưng câu này cũng ngầm ý nói đến Hội Thánh mà Phê-rô được đặt đứng đầu. Thực vậy, Đức Giê-su đã hứa rằng Hội Thánh được xây trên nền đá đức tin của Phê-rô sẽ luôn trường tồn bất diệt, nên Người cũng muốn quyền được ban cho Phê-rô cũng sẽ tiếp tục được truyền cho các đấng kế vị sau này là các Đức Giáo hòang. Chính vì thế, Giáo hội đã công nhận rằng: Khi Đức Giáo hoàng đứng trên tòa thánh Phê-rô mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì sẽ được Chúa Thánh Thần ban ơn vô ngộ, nghĩa là không thể sai lầm được. Vì cũng như Phê-rô xưa, các Đức Giáo hoàng có thể sai lầm trong những lãnh vực khác như chính trị, kinh tế…, cũng có thể phạm tội như Giáo hoàng A-le-xan-der VI… Nhưng các Đức Giáo hoàng kế vị cũng được Đức Giê-su cầu nguyện giống như đã cầu cho Phê-rô, để ông khỏi mất đức tin, và chu toàn sứ vụ củng cố đức tin cho các anh em mình như sau : “Si-mon, Si-mon ơi. Kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,31-32).

 

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) TÌNH HÌNH XUỐNG CẤP CỦA HỘI THÁNH NƯỚC ĐỨC HIỆN NAY :

Số liệu thống kê từ Hội đồng Giám mục Đức mới công bố vào ngày 21/7/2017 như sau:

Trong năm 2016 có 28,5% người Đức theo Công giáo gồm 23,582,000, giảm so với con số năm 1996 là 27.533.000 người.

Trong hai thập kỷ qua, đã có hơn 3.000 giáo xứ phải đóng cửa, giảm từ 13.329 giáo xứ xuống còn 10.280 giáo xứ. Riêng năm 2016 đã có 537 giáo xứ phải đóng cửa.

Về số linh mục: năm 2016 Giáo hội Đức có 13.856 linh mục, sụt giảm so với năm 2015 là 14.087 linh mục. Tỷ lệ người tham dự lễ Chúa nhật là 10,2% năm 2016, giảm so với năm 2015 là 10,4%.

Chính do lòng tin của các tín hữu không được củng cố bằng việc sống Lời Chúa và lười biếng lãnh nhận các bí tích, kèm theo tội lỗi và gương xấu của một số vị mục tử bị giới công nghệ thông tin thổi phồng, là nguyên nhân làm suy giảm số lượng tín hữu và số các linh mục tu sĩ nơi một đất nước nổi tiếng có truyền thống công giáo này.

2) VIÊN ĐÁ TẢNG XÂY DỰNG ĐỀN THỜ HỘI THÁNH :

Cho đến năm 1896, vùng Cayenne ở Saint Ouen không bao giờ thấy bóng chiếc áo dòng đen. Nhưng một ngày trong năm đó, một vị linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy. Một người thấy vậy liền ném đá vào đầu linh mục. Vị linh mục đã cúi xuống nhặt lấy viên đá đầy máu đỏ kia và nói: “Xin cảm ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của một Đền thờ tôi muốn xây dựng tại đây.”

Và về sau viên đá đó trở thành viên đá đầu tiên xây dựng ngôi Đền thờ kính Đức Mẹ Mân côi. Nước Thiên Chúa là Hội thánh, cũng bắt đầu trong nhỏ bé và bạc đãi như vậy: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.” (Mc 4,31-32).

Chúng ta tin tưởng rằng Hội thánh của Chúa Giê-su luôn vững bền, dù gặp muôn vàn khó khăn, vì Hội Thánh như ngôi nhà được xây trên nền đá là sự thực hành Lời Chúa (x Mt 7,24-27).

3) THÀNH QUẢ 20 NĂM GIÁO HOÀNG CỦA ĐỨC GIO-AN PHAO-LÔ II:

Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, (1978-1998) người ta đã thống kê được những con số chính xác những việc ngài đã thực hiện như sau:

– 84 chuyến công du và hành hương ngoại quốc.

– 134 chuyến viếng thăm mục vụ trong nước Ý.

– 3,078 bài nói chuyện và bài giảng.

– 700 chuyến đi thăm nhà tù, dòng tu, chủng viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, giáo xứ.

Ngài đã viết:

– 13 thông điệp

– 36 Tông thư

– 15 Thư cho các nhân vật và các nhóm đặc biệt

– 9 Tông thư tổng kết sau Thượng Hội đồng.

Ngài đã đọc diễn văn cho:

– 600 chuyến “Đi Viếng Mộ Thánh Phêrô” của các giám mục.

Ngài đã công bố:

– Giáo luật mới và sách Giáo Lý Công giáo, (Giáo luật cũ đã công bố cách đây 400 năm)

Ngài đã tôn phong:

– 798 chân phước.

– 280 thánh mới (trong đó có 117 thánh tử đạo Việt nam vào ngày 19-6-1988).

– Chưa kể phong thánh cho 233 vị Thánh Tử Đạo tại Tây Ban Nha.

– Tổng cộng chủ sự 145 buổi lễ phong thánh.

Ngài đã chọn:

– 2650 Giám mục trong số 4200 giám mục trong Hội thánh.

– 159 Tân Hồng Y.

– Thiết lập quan hệ ngoại giao với 64 nước, phục hồi quan hệ ngoại giao với 6 nước khác, nâng tổng số các quốc gia có liên hệ với Tòa Thánh là 168 nước.

Đó là những con số biết nói trong 20 năm phục vụ Chúa và Giáo hội của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II, vị Giáo hoàng thứ 264 kế vị thánh Phêrô tông đồ, giáo hoàng tiên khởi, đã được Chúa trao cho quyền tối thượng Tin Mừng hôm nay đã nhắc lại sự kiện quan trọng ấy.

4) GƯƠNG THA THỨ CỦA THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ II:

Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về đức Gio-an Phao-lô II như sau: Khi còn là sinh viên du học tại Rô-ma, một hôm ngài đi cùng các bạn đến thăm linh mục đáng kính là cha Pi-ô rất đạo đức thánh thiện, đã được in năm dấu thánh lên thân xác. Vừa gặp mặt cậu sinh viên, cha Pi-ô đã ôm chầm lấy cậu và nói tiên tri rằng: “Một ngày kia, con sẽ làm Giáo hoàng, và đời của con sẽ gặp nhiều trắc trở, bị đau khổ và còn chịu đổ máu mình ra vì Chúa nữa”. Bấy giờ cậu sinh viên trả lời: “Nhưng con không sợ sau này sẽ bị đổ máu, vì con tin rằng làm sao con có thể trở thành Giáo hoàng được !”. Nhưng thánh ý Chúa thật nhiệm mầu : Hồng y Vốt-ti-la người Ba-lan đã được bầu làm Giáo hoàng, với danh hiệu là Gio-an Phao-lô Đệ Nhị. Rồi về sau ngài đã bị đổ máu trong cuộc mưu sát bất thành vào năm 1981 tại quảng trường thánh Phê-rô.

Mới đây ngày 05 tháng 07 năm 2005, hãng thông tấn Apcom của Ý và nhật báo Ba-lan Rzeczpospolita đã đưa tin đức cố Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã từng viết một bức thư chưa công bố cho M.Agca, kẻ đã bắn ngài trọng thương năm 1981. Bức thư được viết không lâu sau vụ ám sát, đức cố Giáo hoàng đã hỏi Agca người Thổ Nhĩ Kỳ rằng: Tại sao hắn lại bắn ngài, trong khi cả hai cùng tôn thờ Chúa ? Lúc đầu, đức cố Giáo hoàng định công bố nội dung bức thư này. Nhưng sau đó ngài lại quyết định không gửi đi, và đến năm 1983 ngài đã đến gặp trực tiếp Agca, kẻ đã muốn lấy mạng ngài tại một nhà tù ở Ý, và đã tỏ ý sẵn sàng tha thứ cho hắn ta. Đến năm 2000, Agca đã bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã thụ án gần 20 năm ở Ý.

Đức Gio-an Phao-lô II là vị Giáo hoàng thứ 264 kể từ vị Giáo hoàng tiên khởi là thánh Phê-rô. Hiện nay Đức Bê-nê-đích-tô XVI lên nay thế Đức Gio-an Phao-lô II và ngài là vị Giáo Hòang thứ 265 kể từ thánh Phê-rô Tông đồ. Sau đó ngài từ chức nhường chỗ cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô ngưới Ác-hen-ti-na lên ngôi Giáo Hoàng thứ 266. Gần đây đức Giáo hòang Gio-an Phao-lô II đã được Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô chủ lễ phong thánh chung với thánh Giáo Hoàng Gio-an 23 tại Rô-ma vào Chúa Nhật II Phục Sinh, kính Lòng Chúa Thương Xót ngày 27 tháng 04 năm 2014 với sự hiện diện của khoảng 800 ngàn tín hữu.

5) CẬU ĐÃ LÀM ĐƯỢC GÌ CHO CHÚA GIÊ-SU ? :

Trong tiểu sử của thánh Sác đơ Phu-cô kể rằng: sau khi từ Ma-rốc trở về, anh say sưa kể lại cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi Châu, người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kể xong, bất ngờ cô bé hỏi: “Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc rất hay, thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa ?”. Câu hỏi ấy như một luồng điện giật làm Sác đờ Phu-cô bất động. Từ bao lâu nay chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Anh lục soát tâm hồn mình, anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy, anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng thấp hèn, mắt anh bỗng mở ra để thấy nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.

Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, ít lâu sau, anh xin đến Nagiarét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu. Một ngày kia, khi đang cầu nguyện sốt sắng trong phòng, bỗng anh nghe thấy từ căn nhà bên cạnh tiếng rên rỉ của một người Hồi giáo, nhớ lại gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi: tôi có thể giam mình cầu nguyện trong phòng trong lúc có những anh chị em chung quanh đang khốn khổ thất vọng chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn. Những năm cuối đời, anh sống giữa sa mạc Sa-ha-ra, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống cho những người cùng khổ, và chia sẻ đến giọt máu cuối cùng khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc đang cầu nguyện.

Mọi Kitô hữu chân chính đều phải tự hỏi mình: tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Chúng ta cũng tự hỏi mình như thế. Qua bao nhiêu năm tháng cuộc đời, qua bao nhiêu nhiệm vụ lớn nhỏ đã hoặc đang đảm trách, qua bao nhiêu hồng ân đã lãnh nhận, tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng là cho Chúa Giêsu đang tiếp tục ngự đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi mình, mà chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày: “Con đã làm được gì cho Cha?”, cũng có nghĩa là “Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha?”. Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và trả lời với Chúa.

6) LỜI CẦU KHIÊM TỐN CỦA MỘT VIÊN GẠCH TẦM THƯỜNG :

Mỗi tín hữu chúng ta chính là một viên gạch tầm thường, góp phần xây nên tòa nhà Hội Thánh. Chúng ta cần ý thức chu toàn sứ mệnh như câu chuyện về một viên gạch sau đây :

Có một viên gạch nằm sát chân tường của một tòa nhà lớn. Đôi khi nó nhìn lên những viên gạch khác và trong lòng chợt nảy ra ý so sánh, ước ao, và nó đã cầu nguyện với Chúa như sau :

Lạy Chúa, con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát dưới chân tường. Con không được như viên gạch xây ngoài cửa ra vào, ở ngay tầm mắt của mọi người. Con không được như viên gạch xây ở mặt tiền ngôi nhà, hãnh diện nhìn người qua kẻ lại và sung sướng được người ta khen là đẹp tốt. Con không được như viên gạch trong phòng khách, hàng ngày được lau chùi đánh bóng.

Con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát ở dưới chân tường ngôi nhà.

Tuy nhiên sau đó viên gạch đã bằng lòng với hoàn cảnh của mình và cầu nguyện như sau :

Nhưng lạy Chúa, con vui vì chỗ ở của con, con vui với nhiệm vụ của con. Con mừng vì con cũng được góp phần vào việc hình thành nên ngôi nhà xinh đẹp này. Không có phần nhỏ bé và âm thầm của con thì bức tường sẽ bị đổ, ngôi nhà sẽ bị sập. Mặt tiền xinh đẹp kia sẽ không còn, cánh cửa xinh đẹp kia cũng không có, phòng khách xinh đẹp kia cũng không tồn tại.

Xin cho con vui với công việc hiện tại đang làm và biết luôn cảm tạ hồng ân của Chúa.- AMEN.

  1. SUY NIỆM:

Chức vụ Giáo hoàng là người kế vị thánh Phê-rô Tông đồ, để thay Chúa Giê-su chăn dắt đoàn chiên của Người là Hội thánh và được chia sẻ quyền tối thượng với Chúa Giê-su. Do đó chức vụ Giáo hòang được Chúa ban ơn bất khả ngộ, nghĩa là không thể sai lầm, khi chính thức công bố các tín điều đức tin và lề luật luân lý, như Chúa Giê-su đã hứa với thánh Phê-rô khi xưa.

1) PHÊ-RÔ – TẢNG ĐÁ ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH :

Trong Bài Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ gì về Người. Các ông lần lượt thưa: Thầy là một trong các vị Ngôn sứ. Riêng Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đức Giê-su đã khen ông có phúc vì được Chúa Cha mặc khải điều ấy (x. Mt 16,17). Người đổi tên Si-mon thành Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá đức tin này, Người sẽ xây dựng Hội Thánh của Người. Người hứa sẽ làm cho Hội thánh luôn vững bền (x. Mt 16,18). Cuối cùng Người còn ban tối thượng quyền khi trao chìa khoá Nước Trời cho Phê-rô, để ông thay Chúa ở trân gian cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,19). Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là Tảng Đá sống động và là nền móng xây dựng Hội Thánh (x. 1 Pr 2,4-5). Cũng chỉ mình Đức Giê-su mới nắm giữ “chìa khóa vua Đa-vít” (x. Kh 3,7), nhưng Phê-rô cũng được Người trao chìa khóa Nước Trời để thay Người giáo huấn, thánh hóa và chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh.

2) PHÊ-RÔ – MỤC TỬ ĐƯỢC CHÚA GIÊ-SU TUYỂN CHỌN VÀ HUẤN LUYỆN :

Không những Tông đồ Phê-rô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng sống” (Mt 16,16), mà ông còn ba lần nói lên lòng yêu mến: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17). Chính nhờ lòng tin yêu ấy, mà Tông đồ Phê-rô đã được Đức Giê-su đặt làm đầu Hội Thánh và được chia sẻ quyền chăn chiên. Đức Giê-su cũng cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và Người trao cho ông nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Phê-rô đã sẵn sàng chịu chết vì đoàn chiên Hội Thánh (x. Ga 10,11). Thực vậy, khi về già, Phê-rô đã vâng lời Chúa Phục Sinh quay vào thành Rô-ma, sẵn sàng chịu chung số phận với các tín hữu đang bị Đế Quốc Rô-ma bách hại. Ông đã phải giang tay chịu đóng đinh thập giá để nên giống Thầy, và “đến nơi ông không muốn đến” (x. Ga 21,18-19).

3) VAI TRÒ CỦA CÁC TÍN HỮU TRONG HỘI THÁNH:

Giáo dân là thành phần Dân Chúa đông đảo nhất trong Hội Thánh. Ngoài hàng giáo phẩm, Giáo sĩ và Tu sĩ, Giáo dân là những người đã lãnh nhận, hoặc đang khao khát lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, tức là nhiệm tích làm cho họ trở nên “Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki-tô theo cách thức của họ”. Tước vị này của Giáo dân vốn xuất phát từ Phép Rửa Tội. Công Đồng Va-ti-ca-nô trong Hiến Chế Tín Lý “Lumen Gentium” đã nhấn mạnh về vai trò và trách nhiệm của người Giáo dân trong Giáo Hội. Theo đó, Giáo dân, nhờ Bí Tích Rửa Tội, được tham dự vào ba sứ vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Ki-tô, theo cách thức riêng, và họ có bổn phận tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

4) MỖI TÍN HỮU CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ ĐỂ GÓP PHẦN XÂY DỰNG HỘI THÁNH ? :

Hội Thánh hôm nay cũng đang gặp nhiều khủng hoảng: Nhiều tín hữu đã bị mất đức tin và không còn đến nhà thờ nữa; Số chủng sinh tại nhiều nước Âu Mỹ bị giảm sút số lượng khiến nhiều nhà thờ bỏ không vì không có linh mục coi sóc; Nhiều nhà dòng to lớn nhưng phải đóng cửa vì không còn lớp tu sĩ trẻ kế thừa. Các đức Giáo Hoàng cũng bị tấn công: Đức Gio-an Phao-lô II bị ám sát hụt; Đức Bê-nê-dic-tô bị giới truyền thông phê bình đả kích; Đức Phan-xi-cô cũng gặp rất nhiều chống đối bên trong và bên ngoài hội Thánh như: Nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng, đòi cho nữ tu được làm linh mục. Giới truyền thông và một số chính quyền tại một số quốc gia đã toa rập với nhau để tấn công Hội Thánh: tố cáo hàng giáo sĩ lạm dụng tình dục và ấu dâm nhằm hạ uy tín của Hội Thánh Công giáo …

Ước gì mỗi tín hữu chúng ta biết cảm thông với các vị chủ chăn trong hoàn cảnh hiện nay bằng cách năng nhớ cầu nguyện cho các ngài, trung thành và yêu mến Hội Thánh, tích cực góp phần canh tân Hội Thánh bằng việc năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa, năng tham dự thánh lễ rước lễ và năng lãnh nhận các bí tích khác như bí tích hòa giải…

Chúng ta hãy xin Chúa thực hiện một lễ Hiện Xuống Mới cho Hội Thánh hôm nay, để mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, giáo phận… được ơn Thánh Thần đổi mới, hầu có thể biến đổi thế giới chúng ta đang sống trở nên “Trời Mới Đất Mới” : an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn theo thánh ý Chúa…

  1. THẢO LUẬN:

1) Theo ý bạn, Hội Thánh hôm nay gồm các tín hữu chúng ta, đang có những khuyết điểm nào nổi cộm cần phải cấp thời canh tân ? 2) Bạn có yêu mến Hội Thánh, có sẵn sàng cảm thông nâng đỡ các vị chủ chăn, tích cực cộng tác với ngài chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng không ?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con không hiểu tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học, nhiều khuyết điểm và đã có gia đình làm Tông đồ và làm vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh. Chúng con biết rằng Chúa muốn xây dựng Hội Thánh trên Tảng Đá đức tin của Phê-rô, một người tuy yếu hèn nhưng lại có lòng mến Chúa nhiều. Khi được kêu gọi, Phê-rô và các Tông đồ đã mau mắn đáp lại đi theo Chúa để được Chúa huấn luyện và sai đi rao giảng Tin mừng, trở thành chứng nhân của Chúa đến tận cùng thế giới.

– LẠY CHÚA. Hôm nay Chúa cũng kêu gọi mỗi tín hữu chúng con đi theo làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con một chút can đảm của thánh Phê-rô và các Tông đồ, để sẵn sàng đến với lương dânloan báo Tin Mừng cho họ. Xin cho chúng con luôn biết hồi tâm sám hối và sẵn sàng hy sinh mọi sự để làm vinh danh cho Chúa và góp phần cứu rỗi các linh hồn.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.