CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Cn. 9, 1-6; Ep. 5, 15-20; Ga. 6, 51-58
——-
- Ta hãy lấy đức tin bù lại (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Để Được Trường Sinh(Lm. Jos. DĐh, Gp. Xuân Lộc)
- Nguồn sống (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Lương thực linh hồn (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
- Bí tích Thánh Thể: biểu lộ tuyệt vời của đức tin và tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
- Bữa tiệc Thánh Thể (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- Suy niệm Chúa Nhật 20 Thường niên_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
- Suy niệm Chúa Nhật 20 Thường niên_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
- Tôi là Bánh Hằng Sống (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
- Hồng ân Thánh Thể (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
- Đắn đo (Trầm Thiên Thu)
- Hãy lo tìm kiếm đức khôn ngoan (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
- Thánh Thể (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
- Bánh Giêsu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Bánh Hằng Sống (Lm. Nguyễn Thái)
- Tiệc Thánh Thể (Lm. Minh Trân, CRM)
- Bánh ban sự sống (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
- Suy Lời Chúa, Sống Sự Đời (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
- Chúa cho con tất cả (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
- Mầu nhiệm đức tin (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
- Thánh Thể, nhiệm tích vô cùng cao quý! (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
- Mở hồn ra với Chúa (JM. Lam Thy, ĐVD)
- Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời (Fx. Đỗ Công Minh)
- Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 20 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
- Chúa Nhật 20 Thường niên_B. (Lm. Antôn)
1. Thịt và Máu Chúa (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Thịt Ta là của ăn (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Hạnh phúc đời đời (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
4. Ăn Thịt và Uống Máu (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
5. Cho thì có phúc (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
6. Bánh Thánh Thể (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Chúa Nhật 20 Thường Niên_B (Lm. Antôn)
8. Sự sống (Trầm Thiên Thu)
9. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
10. Tôi là bánh (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
11. Đón nhận Thánh Thể để được biến đổi nên giống Chúa (Lm. Đan Vinh)
12. Lương thực trường sinh (Huệ Minh)
Trong bốn Chúa nhật liên tiếp, Lời Chúa trong Phụng vụ đều mang nội dung chính là giáo huấn về Bí tích Thánh Thể. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của Bí tích này đối với đời sống của Kitô hữu. Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Thánh Thể là nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống Kitô hữu” (GH 11). Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công giáo cũng tiếp nối giáo huấn của Công đồng để tái xác quyết điều này (x. SGLGHCG số 1324). Tuy vậy, không ít Kitô hữu hiểu và ý thức được điều này. Trong một bài chia sẻ về Bí tích Thánh Thể, Phó tế Mike Houghton cho biết, theo kết quả một cuộc thăm dò, có đến trên 50% tín hữu Công giáo không tin sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Điều này dễ hiểu, vì “đây là màu nhiệm đức tin”. Con người không thể dùng lý trí mà chứng minh sự hiện diện của Chúa trong Hình Bánh và Hình Rượu. Chính vì vậy, trong bài ca kính Mình Thánh, chúng ta hát: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì” (Ca kính Thánh Thể – Tantum ergo).
Những đoạn Tin Mừng được đọc trong bốn Chúa nhật (từ Chúa nhật 16 đến Chúa nhật 20 Thường niên, năm B) đều được trích từ Tin Mừng Thánh Gioan, và khởi đi từ việc Chúa Giêsu làm “dấu lạ” cho bánh hóa ra nhiều. Từ năm cái bánh lúa mạch và hai con cá của một bé trai mang theo, Chúa đã nhân ra nhiều và nuôi năm ngàn người ăn no nê dư thừa, không kể phụ nữ và trẻ em. Việc nhân bánh ra nhiều được những người đương thời đón nhận nhiều cách khác nhau. Trước tình trạng này, Chúa Giêsu đã tranh luận với người Do Thái về đề tài “bánh hằng sống”. Khởi đi từ bánh vật chất và manna trong hành trình sa mạc, Chúa Giêsu đã từng bước mạc khải cho họ về Bánh Trường sinh và quả quyết: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Nếu chỉ căn cứ vào ngôn từ, đây quả là một điều mạo phạm và kiêu ngạo. Người Do Thái đã lập tức phản ứng trước lời tuyên bố này: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với những lời lẽ khôn ngoan và đầy uy quyền, Chúa Giêsu đã chứng minh cho họ sự khác biệt giữa manna và Bánh Hằng Sống mà Người sẽ ban. Tổ tiên của người Do Thái đã ăn manna và đã chết. Những ai ăn Bánh Hằng Sống là Thịt của Người thì sẽ được trường sinh. Nhờ kết hợp với Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, các tín hữu được hiệp thông trong tình yêu viên mãn của Ba Ngôi Thiên Chúa.
“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Đây cũng là vấn nạn được đặt ra, mỗi khi chúng ta nói về Bí tích Thánh Thể. Bởi lẽ điều mà chúng ta nhìn thấy sau khi truyền phép, không là gì khác một tấm bánh và một ly rượu bình thường. Tuy vậy, Thiên Chúa quyền năng đã sáng tạo mọi sự từ hư vô, có lẽ nào Người không làm cho bánh hóa thành Thịt và rượu hóa thành Máu của Người? Như thế, sự hiện của Chúa Giêsu chỉ có thể được đón nhận bằng đức tin và lòng yêu mến. Tin vào quyền năng vô biên của Chúa và vào tình thương của Người. Tình thương ấy đã thể hiện qua việc trao ban chính thân mình làm của ăn của uống cho con người. Chính vì vậy, “ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”. Nếu giác quan thể lý bất lực trước huyền nhiệm Thánh Thể, thì đức tin lại khẳng định với chúng ta: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Thánh Thể là bữa tiệc Chúa dọn sẵn cho chúng ta. Tác giả sách Châm ngôn đã diễn tả bữa tiệc chính Đức khôn ngoan thết đãi những ai thiện chí và thành tâm kiếm tìm Chúa. Ai đến với bàn tiệc này sẽ được hạnh phúc no nê (Bài đọc I). Người Kitô hữu vừa cung kính tôn thờ Thánh Thể, vừa sống ý nghĩa của Thánh Thể trong cuộc đời. “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thày”. Đó là lời căn dặn của Chúa Giêsu khi Người lập Bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đã trao ban chính bản thân mình cho chúng ta. Chúng ta cũng phải noi gương Người để sống tinh thần chia sẻ, cảm thông và liên đới với tha nhân, nhất là những người nghèo khổ cô đơn và bất hạnh. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Mane Nobiscum Domine – lạy Chúa, xin ở lại với chúng con” đã viết: “Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng” (Mane Nobiscum Domine, số 24).
Thánh Thể vừa nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, vừa giúp chúng ta canh tân đổi mới để nên giống Chúa. Sự canh tân này cần có nỗ lực cộng tác từ phía chúng ta. Thánh Phaolô khuyên mọi người hãy tận dụng thời gian hiện tại, từ bỏ mọi nết xấu như chơi bời say sưa, rượu chè trụy lạc. Hãy dùng thời gian để cầu nguyện và tôn vinh Chúa bằng những bài thánh ca cùng Thánh vịnh. Đây chính là một hình ảnh lý tưởng của cộng đoàn tín hữu, được thấm nhuần tâm tình cầu nguyện và tình bác ái huynh đệ. Bí tích Thánh Thể là mối dây liên kết mọi người trong tình hiệp nhất yêu thương, vì mọi người đều được nuôi dưỡng bằng một lương thực thiêng liêng là thịt và máu Đức Kitô.
“Ta không được để đời mình xa lìa Thánh Thể. Làm như thế, ta sẽ suy nhược. Người ta hỏi : ‘Các sơ tìm đâu ra sức mạnh và niềm vui để phục vụ ? ‘ – Trong Thánh lễ không phải chỉ có việc rước lễ, mà thánh lễ còn làm dịu đi cơn đói của Chúa Giêsu. Người nói : ‘Hãy đến với Ta’. Người đói chính linh hồn ta » (Mẹ Têrêsa Calcutta – được trích trong Youtcat, Tr. 176).
.
Lm. Jos. DĐh, Gp. Xuân Lộc
Cơm áo gạo tiền, là nhu yếu phẩm bồi bổ thân xác; yêu thương, tha thứ, là lương thực nuôi hạnh phúc, đó là sự thật. Tìm kiếm của ăn thức uống, chăm chỉ làm việc, để sống và sống trọn nghĩa vẹn tình, không bao giờ là lời nhắc nhớ thừa dư. Các em bé làm sao hiểu: thương cho roi cho vọt ? Người trẻ đâu dễ dàng để đối phó với thực tế: tình cay đắng biết sống sao đây ? Người khôn ngoan, tài giỏi, chắc gì đã hiểu đầy đủ lời tiền nhân: một sự nhịn, chín sự lành ! Người kitô hữu chúng ta mấy ai sống được lời giáo huấn của Đức Giêsu: “nếu ai vả má này hãy đưa má bên kia cho nó”. (Mt 5, 39). Cũng vậy, đám đông năm xưa họ “phải lắc đầu” trước lời quả quyết: “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này thì sẽ sống đời đời”. (Ga 6, 51).
Kinh nghiệm của cha ông hướng dẫn con cháu trong cư xử: cơm sôi bớt lửa, hoặc mềm nắn, rắn buông, được gọi là khôn ngoan trong giao tiếp ở đời. Khi nói về bánh hằng sống, Đức Giêsu quả quyết hơn: “và Bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống”. (Ga 6, 52). Ngày nay, chẳng ai “ăn tươi nuốt sống”, hơn nữa, người ta dễ dàng nhận biết của ăn nuôi xác và nuôi hồn không giống nhau. Bánh nuôi linh hồn, thứ “Bánh” mà tình yêu và niềm tin, giúp người tín hữu hiểu “ai ăn” hoặc đón nhận “Bánh Giêsu”, người ấy sẽ có Chúa, có đủ sức mạnh của Chúa. Đâu phải tự nhiên mà người xưa nói: dù là vua chúa hay dân cày, kẻ nào được yêu, được bình an, người đó hạnh phúc nhất. (Goethe). Đâu phải cứ có tiền, có quyền, là có sức khoẻ, cũng đâu phải cứ nghèo là do không thông minh, hoặc không bằng cấp là khổ ?
Con người tự nhiên là “tham sống sợ chết”, biết bao thầy thuốc đã thao thức và tìm kiếm “linh dược” để hy vọng được sống khoẻ, sống thọ, cũng vô vọng. Kitô giáo chúng ta lưu ý con cháu: sống như thế nào để không phải hối tiếc, cuộc sống dài ngắn không phải là vấn đề, quan trọng là hành trình làm người của bạn có hạnh phúc không ? Đức Giêsu không nói với đám đông tìm kiếm thuốc trường sinh ở các nước văn minh, Ngài quả quyết: “Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi”. (Ga 6, 53). Để được yêu thương, được hạnh phúc, được trường sinh bất tử, ai cũng có cơ hội, giầu sang hoặc đói nghèo, tri thức hoặc bình dân, miễn sao cuộc sống của ta luôn có “Chúa Giêsu”.
Xã hội thời nào cũng có người tài đức, văn võ song toàn, nhưng kẻ gian ác, tâm địa xấu xa, vẫn đang trà trộn, gây đau khổ cho nhiều gia đình, đúng là ai cũng cần được yêu thương, cần có Chúa hiện diện. Người Việt chúng ta có câu: mạng sống quý hơn đống vàng. Phương Tây thì họ nói: thà làm con chó biết sủa hơn là được làm con sư tử bằng đá. Đức Giêsu cùng các môn đệ năm xưa đã hết tình, hết mình, trải lòng với đám đông về thứ lương thực nuôi hồn, bảo đảm cho sự sống đời. Nay, hiện diện trong giáo hội, nơi bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, Đức Giêsu còn tiếp tục làm cho tình yêu Chúa sống động nơi mỗi người tín hữu: “ai ăn Thịt và uống Máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Ta sống nhờ Cha thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta”. (Ga 6, 56-57).
Để được khoẻ mạnh, để được hạnh phúc, để được trường sinh, không phải là ăn ngon miệng, ngủ ngon giấc, không phải chỉ là hy vọng, mà là xác tín về tình yêu được Đức Giêsu diễn tả nơi đau khổ thập giá và phục sinh. Cũng không biết vì vô tình hay chỉ có ý kích thích sự say mê về sức khoẻ mà cha ông ta có câu: ăn gì bổ nấy ? Ăn uống ngủ nghỉ điều độ sẽ bổ dưỡng thân xác, thì người Kitô hữu “ăn Chúa”, đón nhận Chúa, hẳn sẽ bổ khoẻ linh hồn. Sự sống đời đời hay trường sinh bất tử, mãi mãi xa lạ, khó hiểu, đối với ai từ chối Đức Giêsu, dù người đó tài giỏi, địa vị chức danh, bổng lộc nhiều. Để sống và sống hạnh phúc, người ta phải đầu tư, dấn thân phục vụ, biết buông bỏ, xứng hợp tình yêu Chúa.
Để xua tan sự kỳ thị giữa giầu nghèo và sự chênh lệch giữa khôn ngoan khờ dại, người ta rất cần đến kỷ luật bản thân, khiêm tốn học hỏi. Mọi người sẽ giầu có bởi tinh thần yêu thương, phục vụ, và sẽ túng nghèo bởi những gì họ từ chối. Để được trường sinh, tâm hồn bạn phải có Thầy Giêsu hiện diện, để nên vẹn nghĩa thuỷ chung, tương quan xã hội không thể thiếu tình yêu và sức sống của Đấng đã ban Thịt Máu làm lương thực nuôi hồn. Cha ông chúng ta mời gọi con cháu sống tình sống nghĩa: ai ơi cứ ở cho lành, tu thân tích đức để dành về sau. Chúa Giêsu không phải là “của ăn mới lạ” được ban phát, mà là sự hiện diện không nhạt phai để mọi người nhận ra sự “bất tử” như Ngài nói: “Vì Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống”.
.
Bông hồng nhỏ
“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được.” (Ga 6, 52). Đó là điều mà người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau sau khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”(Ga 6,51). Quả là khó mà tin rằng một người bình thường có thể cho người khác ăn thịt mình.
“Truyện một tâm hồn” có kể lại việc chị Céline hỏi bé Têrêsa (Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu) rằng: “Làm sao Chúa có thể ở trong một tấm bánh nhỏ xíu như thế ?” Dù còn rất nhỏ tuổi, bé Têrêsa cũng mau mắn trả lời: “Có gì khó, vì chúa là Đấng Toàn Năng mà.” Chị Céline hỏi tiếp: “Toàn Năng nghĩa là gì ?” “Là làm được bất cứ những gì Ngài muốn!” Câu trả lời quá tuyệt vời. Chúa Giêsu là Đấng Toàn Năng và cũng là Đấng yêu thương. Nếu người Do Thái cảm thấy không thể chấp nhận được điều Thầy Giêsu mạc khải, không thể tin được Đức Giêsu lại cho họ ăn thịt của chính mình thì một tâm hồn trẻ thơ như bé Têrêsa lại được Chúa mạc khải cho hiểu. Trong mắt người Do Thái lúc bấy giờ, Đức Giêsu chỉ là một anh thợ mộc bình thường, không thể là Đấng từ trời xuống. Và như thế, họ đã tự đóng khung trong cái nhìn hạn hẹp và một tấm lòng không thể mở ra để được “Thiên Chúa dạy dỗ.” (x.Ga 6,45).
Đức Giêsu là người thật và là Con Thiên Chúa, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay Người mạc khải cho người Do Thái biết rằng Ngài chính là “ bánh từ trời xuống”, là chính nguồn sống để “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Ta đã được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng và Chúa đã thánh hóa tâm hồn ta, làm cho trái tim biết mở ra để yêu thương anh em. Ta đã hạnh phúc biết bao khi được Chúa tình yêu ngự vào tâm hồn. Ta được hạnh phúc hơn người Do Thái ngày xưa vì hôm nay ta được lớn lên trong lòng Giáo hội, được thừa hưởng đức tin tinh tuyền và thánh thiện. Còn họ, họ được gặp và nghe Chúa Giê-su nói nhưng họ đã chỉ nhận biết một Đức Giê-su rất đỗi bình thường, một người thợ, một người bình dân. Có một lần ta mời người bạn thân cùng đi lễ, thấy ta lên rước lễ thì bạn thắc mắc. Lời bạn như giúp ta phản tỉnh lại: “Bánh Thánh đó có thật là Chúa Giê-su không?”. Giáo lý ta thuộc lòng rồi nhưng Đức tin của ta đang được thử luyện. Bao nhiêu năm nay, ta cũng rước lễ nhưng tại sao đến bây giờ câu hỏi của bạn lại khiến ta bối rối đến vậy? Nhìn lại thái độ của ta khi đến với Thánh Thể, ta chợt giật mình. Ta đã từng rước lễ chỉ như một thói quen. Ta đã đón Chúa Giê-su vào nhà mình với thái độ nào? Hân hoan, vui mừng, phấn khởi hay chỉ lãnh đạm thờ ơ? Nếu ta thờ ơ, ta đã biến mình trở nên xa lạ với Chúa. Chúa là vị khách quý nhưng đã không được ta đón rước và tiếp đãi tử tế. Có lẽ nào ta không tin Thánh Thể là chính Chúa?
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, con tin Chúa ngự thật nơi tấm bánh trắng tinh và Chúa đã ban chính Thịt Máu mình nuôi sống linh hồn con. Mỗi lần con rước Chúa ngự vào lòng, xin cho con biết thân thưa và chuyện trò tâm tình cùng Chúa vì Chúa là Đấng đã yêu con trước. Xin thêm sức cho con và củng cố đức tin cho con vì nơi Thánh Thể cả thiên tính và nhân tính của Chúa đều được ẩn dấu, và con cần dâng hy lễ đời con lên Chúa để được tháp nhập vào Thánh Thể Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ May
Chúng ta thường có thói quen thích gì thì giữ lại, không thích là bỏ đi, hay quý mến ai thì vồn vã, không quý thì làm ngơ. Và tin việc gì thì làm, không tin là chối từ. Những người Do thái sau khi nghe Chúa Giê-su nói rằng chính Ngài là của ăn thì họ đã tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể cho ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52). Sự cứng lòng của họ có làm cho Chúa Giê-su ngừng giảng dạy không?
Không, Chúa Giê-su không chùn bước vì trong họ vẫn còn có vài người tiếp tục lắng nghe Ngài. Ngài gọi mời những ai đang tìm kiếm sự sống và có lòng tin vào Ngài thì hãy đến mà ăn bánh trường sinh. Ngoài lương thực chính là Mình và Máu Ngài thì không còn một thứ lương thực nào đem lại sự sống đời đời cho con người. Ai ăn thịt và uống máu Ngài sẽ được sự sống muôn đời, sự sống vào ngày sau hết và được luôn ở trong Ngài. Ngài luôn cho con người cơ hội nghe – sống – thưởng thức sự sống trong Ngài (x.Ga 6,53 -56).
Lời rao giảng về lương thực trường sinh của Chúa Giê-su vẫn âm vang cho đến ngày hôm nay và muôn đời. Đó là lời tình yêu tha thiết dành cho con người. Ngày hôm nay, chúng ta đã và đang nghe những lời ấy như thế nào? Xầm xì to nhỏ hay tranh luận sôi nổi mỗi ngày? Bỏ đi hay hờ hững? Và thái độ khi đến chung hưởng sự sống với Ngài là gì? Theo thói quen hay bị ép buộc? Theo phong trào anh rước lễ thì tôi cũng rước lễ hay phong cách thể hiện tôi là người có đạo khi đi lễ?… Không ai nhìn thấy những thái độ của mình bằng chính bản thân mình. Nếu chúng ta mang thái độ như vậy khi tham dự Thánh lễ, đặc biệt là rước Mình và Máu Chúa thì Thánh Lễ không đem lại sự sống cho linh hồn chúng ta. Chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”(Ga 6,51).
Lạy Chúa, thật là quý giá cho chúng con khi chúng con được sống trong tình yêu của Chúa. Thế nhưng, chúng con lại cứ mải mê vui cuộc sống thế gian mà không tìm sự sống vĩnh cửu trên Nước Trời. Chúa đã biết rõ tình trạng linh hồn chúng con. Xin Chúa hãy nói, hãy làm trong chúng con như Chúa đã nói và làm cho các Thánh. Nhờ đó, chúng con được xứng đáng hưởng sự sống trong Nước Trời. Amen!
.
BÍ TÍCH THÁNH THỂ: BIỂU LỘ TUYỆT VỜI CỦA ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Lương thực hằng ngày vẫn là điều tối quan trọng để con người được sống đời tạm bợ ở trần gian này. Không có của ăn, con người sẽ đói, sẽ chết. Do đó, trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và nhân loại :” Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Tại sao Chúa lại nhắc nhớ chúng ta phải xin cơm bánh hằng ngày ?
Bởi vì lương thực chúng ta xin, chúng ta cặm cụi làm ăn, kiếm tìm, nhưng chính Chúa mới là Đấng ban cho chúng ta! Tuy nhiên, Chúa nói:” Người ta sống chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn bởi Lời do miệng Chúa phán ra “.
Vâng, con người sống trong thế giới, trong xã hội, nơi trần gian: banh, cơm, gạo, lương thực có giới hạn vô cùng. Bao lâu Chúa còn cho chúng ta sống nơi thế gian, nhu cầu lương thực vẫn là ưu tiên số một cho mỗi người. Bánh hay lương thực cơm,gạo Chúa ban, con người hưởng dùng và dù con người có ăn, ít ăn nhiều, ăn no, ăn tới đâu đi nữa,rồi một lúc nào đó, con người cũng phải nhắm mắt xuôi tay. Manna, chim cút Chúa ban cho dân Do Thái trong sa mạc đi về đất hứa do Môsê kêu khẩn Chúa…Dân Do Thái nhặt ăn hằng ngày nhưng họ vẫn phải chết vì đó chỉ là thứ bánh tạm bợ, thịt tạm bợ Chúa ban cho dân Do Thái ăn cho qua ngày, qua tháng hầu có sức tiến vào đất hứa. Bánh, hay lương thực chúng ta dùng ở đời này không đủ sức mạnh để giúp chúng ta sống hoài, sống mãi. Hôm nay, Chúa quả quyết :” Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.Và, bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống “. Người Do Thái khi nghe Chúa nói thì khó chịu và không tin. Nhưng chính Mình Thánh Chúa mới làm được việc này :” mới ban cho con người sự sống vĩnh cửu, sự sống đời đời “. Chúa để lại cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta chính Mình Máu của Người. Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu, bí tích ban sự sống…Mỗi ngày khi chúng ta tham dự thánh lễ, linh mục sẽ cử hành Bí tích ThánhThể, Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt Máu của Người.Chúng ta được mời gọi chia sẻ Mình Máu Thánh Người và chính nơi bàn tiệc thánh, chúng ta lãnh nhận sự sống và ơn cứu độ.Bởi vì, Chúa đã phán :” vì Thịt tôi thật là của ăn.Máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy “. Lời xác quyết của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được tình yêu vô biên của Chúa. Thật thế, Chúa yêu nhân loại, yêu thương con người, yêu thương chúng ta không chỉ bằng lời nói suông, nhưng Người đã cụ thể bằng chính cái chết tự hiến của Người trên thập giá để cứu độ con người, cứu rỗi chúng ta. Người đã để lại cho nhân loại bí tích Thánh Thể là Mình Máu Thánh của Người để nuôi sống loài người, nuôi sống chúng ta cả hồn lẫn xác. Do đó, bí tích Thánh Thể là biểu hiệu lớn lao nhất của đức tin và tình thương mà Lòng Thương Xót và nhân từ của Chúa ban tặng cho con người, cho chúng ta. Thánh Phaolô đã diễn tả đức tin và đức ái chúng ta phải có khi tiến lên dự Tiệc Thánh :” Chén chúc tụng chúng ta dùng trong bữa tiệc của Chúa, chính là sự thông hiệp vào Máu Chúa Giêsu và tấm bánh chúng ta bẻ ra, chính là sự thông hiệp vào Mình Thánh Chúa Kitô.Vì chỉ có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều nhưng cũng chỉ là một thân xác bởi vì chúng ta thông dự vào cùng một tấm bánh “ ( 1 Co 10, 16-17 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin một cách sâu xa lời quả quyết của Chúa :” Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống.Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sống trong Ta và Ta sống trong kẻ ấy “.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
- Lương thực cần thiết làm sao đối với con người ?
- Manna do ai ban ?
- Người Do Thái khi nghe Chúa quả quyết về Mình Máu Thánh của Người ban sự sống vĩnh cửu, họ có tin không ?
- Bánh Trường Sinh là gì ?
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Ăn uống là nhu cầu khẩn thiết cho con người, nó cần thiết đến nỗi người ta phải nói :”Dĩ thực vi tiên”. Trong cuộc lữ hành của dân Do thái đi về đất hứa, Thiên Chúa đã ban manna cho họ để làm lương thực hằng ngày trong suốt 40 năm ở hoang địa. Tuy manna ấy là vật từ trời xuống nhưng chỉ là bánh vật chất nuôi thể xác, không có sức đem lại sự sống vĩnh cửu cho người ăn. Cha ông họ đã ăn manna ấy nhưng đã chết.
Đức Giêsu hứa sẽ ban cho người Do thái và cho chúng ta hôm nay một thứ manna khác từ trời xuống có sức đem lại sự sống đời đời cho người ăn. Bánh ban sự sống trường sinh ấy là Mình và Máu Đức Kitô. Ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô tức là lãnh nhận bí tích Thánh Thể, thì ở đời này sẽ được kết hiệp mật thiết với Ngài, được tham dự vào đời sống thần linh của Ngài, và trong ngày sau hết sẽ được sống lại.
Thánh Thể là bàn tiệc Thiên Chúa dọn sẵn cho con người, có đủ mùi vị thơm ngon. Chúa mời mọi người tới tham dự. Chúng ta hãy là người khôn ngoan không những biết tìm của ăn vật chất để nuôi thân, nhưng còn biết tìm lương thực thần linh có sức bổ dưỡng và đem lại cho linh hồn sự sống đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cn 9,1-6.
Đây là một ngụ ngôn trong sách Châm ngôn. Khôn ngoan đây là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hay nói cách khác, đó là chính Thiên Chúa. Khôn ngoan được nhân cách hóa như một Mệnh phụ hào phóng dọn một bữa tiệc thịnh soạn và kêu mời mọi người đến dự. Những ai sẽ được mời ? Đó là những kẻ nghèo và tất cả những ai sẽ chấp nhận hoán cải khỏi những lầm lạc, họ là những kẻ khôn ngoan chứ không như những kẻ khờ dại.
Những món ăn được dọn để dùng có giá trị tượng trưng : nhằm trình bầy những giáo huấn Thiên Chúa dạy để mọi người đem ra thực hành hầu cho cuộc sống được thành đạt mỹ mãn. Như vậy, hình tượng về sự khôn ngoan nói trên sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu.
+ Bài đọc 2 : Ep 5,15-20.
Đoạn thư này cũng trùng hợp với hai bài Cựu ước và Tân ước vì cùng nói đến sự khôn ngoan. Trong đoạn thư này, thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô không nên làm uổng phí thời giờ mà phải tận dụng để sống khôn ngoan theo Thần Khí hướng dẫn và thúc đẩy, chứ đừng sống như những kẻ khờ dại.
Đây là lời khích lệ mời gọi tỉnh thức : chúng ta đang sống trong một thế giới đầy đam mê dâm loạn. Với tư cách là một Kitô hữu khôn ngoan, chúng ta hãy tránh xa những điều phù phiếm ấy mà hướng lòng về Chúa và điều chỉnh cuộc sống theo thánh ý Ngài.
+ Bài Tin mừng : Ga 6,51-56.
Đây là cao điểm của bài diễn từ của Đức Giêsu về bánh ban sự sống. Ngài quả quyết rằng chính Ngài là nguồn mạch sự sống trường sinh và làø bánh ban sự sống từ trời xuống.
Ngài giáo dục dân chúng theo cách tiệm tiến : Chúa nhật 18 Ngài chỉ khẳng định mình là Bánh hằng sống từ trời xuống. Chúa nhật 19 vừa qua Ngài nói rõ hơn :”Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây”(Ga 6,51). Hôm nay Đức Giêsu hướng thính giả về bí tích Thánh Thể : Ngài nói rõ hơn về Bánh ban sự sống, đó là Thịt và Máu Ngài:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”
Đức Giêsu còn nhấn mạnh thêm : Ai muốn Thiên Chúa ban cho sự sống thật, kẻ đó phải lấy đức tin mà lãnh nhận mình Ngài đã hiến tế và máu Ngài đã đổ ra, thực sự hiện diện trong Thánh Thể. Ngài ban chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người. Nếu chúng ta biết rước mình máu Ngài thì hiệu quả sẽ là:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời… thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bữa tiệc Thánh Thể
Tiếp nối Tin mừng của hai Chúa nhật trước nói về sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và Bánh Hằng sống từ trời xuống nuôi linh hồn loài người, trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu khẳng định một cách quyết liệt Bánh hằng sống từ trời đó chính là Thịt và Máu Ngài và hứa sẽ ban Bánh hằng sống đó trong phép Thánh Thể.
I. LỜI KHẲNG ĐỊNH CỦA ĐỨC GIÊSU.
- Lời khẳng định tiệm tiến.
Đức Giêsu không nói ngay đến Bánh hằng sống là Mình Máu Ngài được ban trong phép Thánh Thể, mà Ngài còn dọn lòng dân chúng để họ có thể chấp nhận chân lý cao siêu mà Ngài muốn dạy dỗ họ. Trước tiên, Đức Giêsu phân biệt hai thứ bánh : bánh vật chất nuôi xác tức Manna trong Cựu ước và bánh thiêng liêng nuôi hồn tức là Thánh Thể Chúa Kitô trong Tân ước. Tiếp đến Ngài nói đến việc Ngài ban mình làm Bánh hằng sống từ trời xuống và kêu gọi người ta ăn bánh đó. Hôm nay Ngài khẳng định Bánh Hằng Sống đó chính là Thịt và Máu Ngài và hứa Bánh hằng sống ấy trong phép Thánh Thể.
- Lời khẳng định quyết liệt.
Hôm nay Đức Giêsu dọn lòng dân chúng tiến dần đến tột điểm cùng đích của Ngài, đón nhận một mầu nhiệm thẳm sâu, Ngài cho biết rằng Bánh sự sống chính là Thịt và Máu của Ngài khi Ngài phán:”Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55). Phép Thánh Thể là một bữa tiệc hy lễ trong đó chúng ta thực sự “ăn thịt và uống máu Chúa”. Lời tuyên bố vừa được nói ra thì nhiều người phản đối, ngờ vực, bỏ đi. Ai lại làm một việc kinh tởm như vậy ? Nhưng Đức Giêsu chẳng những không làm nhẹ bớt ý nghĩa mà lại nói cách rõ rằng hơn, không có thể hiểu một cách khác được :”Thật, Ta bảo thật các ngươi : nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”(Ga 6,53-54).
- Phản ứng từ phía dân chúng.
Khi nghe lời tuyên bố của Đức Giêsu : Thịt Ngài là của ăn, máu Ngài là của uống cho sự sống muôn đời thì người Do thái đã phản ứng rất mạnh:”Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được”?(Ga 6,52) ? “Ông này chẳng phải ông Giêsu, con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta , chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói:”Ta từ trời xuống”(Ga 6, 42).
Trước phản ứng dữ dội của họ, Đức Giêsu vẫn không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm:”Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”. Hơn nữa con người còn đi vào sự kết hiệp mật thiết với Ngài:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở lại trong Ta và Ta ở lại trong kẻ ấy”(Ga 6, 56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ nói:”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”(Ga 6,60). Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui không còn đi với Ngài nữa.
- So sánh Manna xưa và nay.
Nhân dịp người Do thái gợi ra câu chuyện Manna, Đức Giêsu lại dùng ngay câu chuyện ấy để so sánh và mạc khải về Bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống muôn đời.
Nếu ngày xưa, manna như một thứ nhựa cây, ngày nay bánh Thánh Thể chính là Mình Máu Đấng là Thiên Chúa làm người. Nếu ngày xưa ăn manna chỉ là ăn bánh, ngày này lãnh bí tích Thánh Thể là ăn chính Chúa Kitô. Ngày xưa manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót của Thiên Chúa đã trao tặng cho con người chính Người Con Một yêu dấu. Ngày xưa manna chỉ là của ăn mang lại sự no nê cho thể xác, ngày nay mình máu Chúa Kitô trở thành thần lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Ngày xưa manna chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô không chỉ là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức mạnh, đủ nghị lực tiếp bước hành trình về quê trời, mà lại còn đưa họ vào vĩnh cửu và sống vĩnh cửu. Ngày xưa manna cho thấy Chúa không bỏ dân của Ngài, ngày nay Chúa hiện diện giữa Hội thánh và hiện diện giữa thế giới này bằng chính Con của Ngài trong bí tích Thánh Thể (Vũ xuân Hạnh)
II. PHẢI HIỂU LỜI CHÚA THẾ NÀO ?
- Hiểu theo nghĩa đen.
Những lời Đức Giêsu giảng dạy ở đây nói về phép Thánh Thể, chúng ta phải hiểu theo nghĩa nào : nghĩa đen hay là nghĩa bóng, nghĩa tượng trưng ? Anh em Tin lành không tin có Đức Giêsu trong phép Thánh Thể. Để phủ nhận, đoạn văn về việc hứa lập phép Thánh Thể phải hiểu theo nghĩa bóng, chứ không thể hiểu theo nghĩa đen được. Còn đối với chúng ta, giáo lý công giáo đã dạy chúng ta phải hiểu theo nghĩa đen thông thường khi nói về phép Thánh Thể, chứ không theo nghĩa bóng được.
Ta thử đọc lại đoạn văn này: Đức Giêsu nói:”Ta là Bánh hằng sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trên rừng và họ đã chết. Đây là Bánh từ trời xuống : ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ cho chính là Thịt Ta cho thế gian được sống”(Ga 6,48.49.51).
Người Do thái nghe Đức Giêsu nói thế thì lẩm bẩm rằng:”Ông Ta lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn sao được”(Ga 6,52) ? Thế là họ hiểu theo nghĩa đen, đúng như ý Ngài muốn nói. Cho nên, Đức Giêsu không chữa lại (nghĩa là không bảo rằng : các người lẩm bẩm làm chi, Ta nói bóng đấy mà), mà còn nói hăng hơn :”Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi : nếu các ngươi không ăn thịt Con Người, và uống máu Ngài, thì các ngươi không có sự sống trong mình… Vì thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống”(Ga 6,53.55).
Nhiều người trong môn đệ nghe nói thế, rất khó chịu nên nói :”Lời nói chướng tai quá, nghe sao được”(Ga 6,60). Ngài không rút lời, không cải chính, nên có một số môn đệ bỏ đi. Giả như Đức Giêsu nói nghĩa bóng, thì Ngài giải thích cho họ chứ ? Chẳng những không cải chính, Ngài còn quay lại hỏi các Tông đồ rằng:”Còn các con, các con có muốn bỏ mà đi không” ? Nghĩa là Ngài muốn nói : nếu các con không tin mà bỏ Ta, thì Ta cũng cứ nói thế, chứ không rút lại lời đã nói.
- Sự hiện diện thực sự.
Dân chúng trong hội đường Capharnaum đã không hiểu hay không muốn hiểu. Ngày nay cũng có nhiều người không muốn hiểu và muốn coi đó chỉ là một cách nói. Còn chúng ta, chúng ta tin rằng lời Chúa là sự thật. Khi chúng ta “ăn thịt và uống máu Chúa”, không phải chỉ là một sự hiện diện, mà là sự thông phần thực sự vào Thánh Thể vinh quang của Ngài. Sự sống của Ngài tuôn chảy trong mạch quản của chúng ta. Ngài ở trong Ta và Ta ở trong Ngài.
Thánh Cyrillô nói:”Đừng nghi ngờ đó là sự thật, nhưng tốt hơn nên đón nhận Lời của Đấng Cứu thế trong đức tin, vì Ngài không thể nói dối”.
Truyện : Ông Daniel Connell
Daniel Connell, người đã giải phóng dân tộc Ái-nhĩ – lan, là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi có một số bạn bè theo đạo Tin lành chế nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin Đức Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Bấy giờ Daniel đã trả lời như sau:”Sao các ông lại hỏi tôi ? Lẽ ra các ông phải hỏi Đức Giêsu mới đúng. Phần tôi, tôi chỉ tin vào lời Chúa nói. Nếu Lời Chúa khẳng định rằng :”Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” mà thực sự không đúng, thì người nói là Đức Giêsu mới đáng trách chứ không phải là tôi ! Nhưng tôi luôn tin rằng : Lời Chúa là sự thật, là Lời hằng sống và sẽ tồn tại đến muôn đời”.
Câu nói của Daniel Connell cho ta thấy : niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta đã được xây dựng trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, là sức sống của ta, là căn bản đức tin của ta, la ølương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Do đó, ta cần phải có thái độ tôn trọng Lời Chúa, yêu mến và thực hành Lời Chúa, là đều kiện để ta được ơn cứu độ (Vietcatholic).
- Lời Chúa và Thánh Thể.
Ngày nay có những người Công giáo bị ảnh hưởng các giáo phái khác, có khuynh hướng nhấn mạnh đến việc đọc lời Chúa, họp nhau chia sẻ lời Chúa, mà không quan tâm đến việc đi dự lễ để được rước Mình thánh Chúa. Đối với người công giáo, Lời Chúa và Mình thánh Chúa đều là lương thực thiêng liêng. Đọc lời Chúa và suy gẫm lời Chúa mà không đi dự lễ để được kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể thì không còn cái căn tính của người công giáo. Cha ông ta thường nói :”Quen quá hoá nhàm”, nghĩa là người ta không qúi trọng cái mà người ta có trong tay mà còn muốn tìm cái khác…
Đức tin của người công giáo về bánh hằng sống khác hẳn với người Tin lành. Người công giáo tin có Chúa hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể, và tin việc rước lễ là rước Mình thánh Chúa. Vì nếu ta tin Chúa có quyền phép, ta cũng tin Chúa có thể biến đổi bánh rượu thành Mình thánh Người, mặc dù hình thái bên ngoài vẫn giống bánh rượu. Nếu ta tin Chúa có quyền thế, ta cũng tin Chúa trao quyền cho Linh mục, để truyền cho bánh rượu trở thành Mình Máu thánh Người.
III. HÃY ĐẾN DỰ BÀN TIỆC THÁNH THỂ.
- Thánh Thể là bữa tiệc.
Thánh lễ trong đó có Thánh Thể là bữa tiệc mà Đức Giêsu đáp ứng cho các môn đệ Ngài. Tất cả chúng ta đều đến dự bữa tiệc ấy với cái đói, chúng ta đều cần bánh ăn mà chỉ có Đức Giêsu có thể ban cho – bánh của sự sống đời đời. Và tất cả chúng ta đều được nuôi sống và được vinh dự, bởi vì ở đây mỗi người cho là một vinh dự. Ở đây mọi người trở nên bình đẳng, vì tất cả chúng ta là những người nghèo về mặt thiêng liêng nên tất cả đều được ăn uống no nê. Ngoài ra, tất cả những người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia sẻ một thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Chúa đã tự hiến mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và mời gọi chúng ta đến ăn, tại sao chúng ta không đến dự ?
Truyện : Người mẹ hy sinh để con sống.
Vào cuối thế kỷ trước, bên Anh có phong trào di dân sang lập nghiệp tại Úc châu. Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ goá chồng, mang theo một đứa con thơ đang bú sữa mẹ. Sau khi đi được một tuần, thì một cơn bão bất ngờ ập tới làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột buồm bị gẫy. Từ đó, con thuyền phải lênh đênh trên mặt biển trong nhiều ngày. Lương thực trên tầu hầu như cạn kiệt. Nhiều người trên thuyền bị chết đói và bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ kia đã bị chết đói, đang khi đứa con bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà mẹ này trước khi chết đã dùng dao cắt đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu mình thay cho dòng sữa. Bà đã hy sinh chết để cho con bà được sống !
Về sau đứa bé lớn lên đã trở thành một dân biểu nổi tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ và biết ơn người mẹ thân thương và một ngày kia, ông đã đứng trên diễn đàn quốc hội, kể lại câu chuyện đau thương cuộc đời mình, và đề nghị Quốc hội chọn một ngày trong năm làm ngày để nhắc nhở con cái tỏ lòng biết ơn đối với mẹ mình. Đó là nguồn gốc của Ngày Quốc tế các Bà Mẹ hiện nay.
2. Hiệu quả việc tham dự Thánh Thể.
Đức Giêsu đã giãi bầy tâm sự với các môn đệ :”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”(Ga 6,56). Khi chúng ta rước mình và máu thánh Chúa thì chúng ta được kết hợp với Ngài như Ngài ở trong chúng ta vậy. Một cuộc kết hợp giao thân như cành nho với thân nho (Ga 15,4-7), một cuộc trao đổi tình thương có một không hai, chỉ có trong phép Thánh Thể.
Để minh hoạ cho sự kết hợp trên, tôi xin đưa ra hình ảnh cụ thể : Đây là tủ sách của tôi, trong đó có một quyển sách mà tôi chưa hề đọc. Dù cho quyển sách đó có qúi và bổ ích đến bao nhiêu, nhưng nếu tôi không đọc đến thì nó vẫn ở ngoài tôi. Nhưng một ngày kia, tôi lấy nó ra đọc, tôi cảm thấy hồi hộp, lôi cuốn và rung cảm. Câu truyện đó thôi thúc tôi, những dòng chữ quan trọng được ghi khắc vào tâm trí tôi. Bây giờ lúc nào cần, tôi có thể lấy những điều kỳ diệu đó từ bên trong, hồi tưởng lại, suy gẫm nó bồi dưỡng tâm trí mình. Trước kia cuốn sách đó vốn ở ngoài tôi, nằm trên kệ sách. Bây giờ, nó đã thâm nhập vào tôi, tôi có thể lấy nó để nuôi mình. Những kinh nghiệm và từng trải trọng đại trong đời cũng vậy, chúng vẫn ở ngoài ta cho đến khi chúng ta nhận lấy cho riêng mình.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Bao lâu Ngài còn là một nhân vật trong sách, thì Ngài vẫn ở ngoài ta, nhưng một khi Ngài đã vào lòng chúng ta, thì Ngài ở trong chúng ta, chúng ta có thể nuôi dưỡng bằng sự sống, sức mạnh và sinh động mà Ngài ban cho. Đức Giêsu dạy chúng ta phải uống máu Ngài, điều ấy Ngài muốn nói “Các ngươi phải tiếp thu sự sống của ta, đưa vào bên trong các ngươi. Phải thôi nghĩ về Ta như một nhân vật trong sách hay một đề tài thảo luận thần học, mà phải nhận lấy Ta vào bên trong các ngươi, và các ngươi vào trong Ta, lúc ấy, các ngươi sẽ có sự sống, và đó là sự thật”. Đó là điều Đức Giêsu muốn nói khi Ngài đề cập đến việc chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta. Khi Đức Giêsu dạy chúng ta ăn thịt và uống máu Ngài là dạy chúng ta hãy lấy nhân tính của Ngài để nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn mình, hãy bồi bổ lại đời sống mình bằng sự sống của Ngài cho đến khi chúng ta được thấm nhuần, tràn ngập, đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa (Trần văn Hàm, Tin mừng Chúa nhật, năm B, tr 185).
Muốn thực sự gặp gỡ Đức Kitô, muốn được kết hợp chặt chẽ với Ngài, có lẽ chúng ta phải có chút duyên như người ta thường nói :
Hữu duyên vạn lý năng tương ngộ,
Vô duyên đối diện bất tương phùng.
Muốn gặp Chúa kết hiệp nên một với Ngài thì phải có “duyên” với Ngài, nghĩa là phải có một sự đồng cảm hay một sự giống nhau nào đấy với Ngài. Ta thấy dầu và nước không thể hoà tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải có những hoá tính căn bản giống nhau mới hoà tan với nhau được. Cũng vậy, “Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,8.16), nên muốn gặp Ngài hay kết hiệp với Ngài thì chính mình cũng phải có ít nhiều tình yêu, có lòng vị tha, có thiện chí muốn gặp gỡ Ngài bằng bất cứ giá nào. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có rước lễ cả chục lần một ngày. Thánh Gioan xác định:”Ai không yêu thương, thì không biết (=kinh nghirệm về) Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8) ; “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12) ; “Nếu ai có của cải thế gian mà thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao Thiên Chúa ở trong người ấy được?” (JKN).
Để kết thúc tôi xin đưa ra đây câu truyện có vẻ hơi “kỳ kỳ”, không biết có tương xứng không, nhưng cũng có thể giúp chúng ta suy nghĩ, may ra có thể kiếm được một vài tư tưởng nào đó để áp dụng vào cuộc sống mình :
Truyện : Thánh Gióng.
Thời vua Hùng Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không biết ngồi, cũng không biết cười nói gì, cứ nằm ngửa đòi ăn.
Thời ấy giặc Ân kéo đến xâm chiếm, quân ta nhiều lần bại trận. Vua Hùng lo sợ, sai sứ đi khắp nước tìm kiếm tướng tài cứu nước. Nghe báo cứu nước, tự nhiên bé Gióng nhìn mẹ bật lên tiếng nói :
– Mẹ gọi sứ giả vào đây cho con.
Sứ giả vào nhà thấy bé liền hỏi:
– Bé ơi, bé bị tật như thế, mời ta vào làm gì ?
Bé dõng dạc nói :
– Về bảo vua đúc một con ngựa sắt, một mũ sắt đưa đến cho ta đi đánh giặc Ân.
Rồi bé bảo mẹ thổi nhiều cơm cho con ăn. Mẹ thổi bao nhiêu, bé ăn hết bấy nhiêu. Hết gạo, mẹ kêu làng xã mang gạo, khoai, bánh rượu, trâu bò cho bé ăn. Bao nhiêu cũng hết. Ăn xong, lúc vươn vai thành người khổng lồ, mặc áo giáp, câm gươm, hét lớn tiếng :
– Ta là tướng nhà trời.
Gióng nhảy lên ngựa sắt phun ra lửa, phi như bay đến phá tan giặc Ân. Dẹp xong giặc. Gióng chạy lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ lại, biến lên trời. Vua phong thánh Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thở kỷ niệm ở làng quê (Vũ khắc Nghiêm).
Câu chuyện có vẻ thần thoại, nhưng cũng có ý nghĩa. Nếu sứ giả của nhà vua cùng bà mẹ và dân làng khinh chê đứa bé tàn tật, cố chấp không nghe lời bé Gióng, không góp công góp của một chút, thì đâu được bé Gióng là tướng nhà Trời đến cứu dân cứu nước. May thay, họ đã khiêm tốn nghe lời đứa bé ba tuổi tàn tật và họ đã được tướng nhà trời cứu sống.
Người Do thái đã không học bài học đó. Họ khinh chê Đức Giêsu, không tin lời Ngài vì Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse và cũng là người ở Nazareth, theo họ, tại Nazareth có cái gì hay đâu ! Ngày nay, người ta cũng chẳng khác gì người Do thái xưa. Đức Giêsu đã bảo họ :”Ai có tai để nghe thì hãy nghe”, nhưng đâu người ta có nghe, nếu có nghe thì cũng chỉ như hạt giống gieo bên vệ đường chim trời ăn mất vì họ từ chối :”Người đi thăm trại, kẻ đi buôn, đứa thì lo cưới vợ. Họ khinh thường lời nói của vua trời đất, họ sẽ bị tru diệt”(Mt 22,5-7).
Cuối cùng, chúng ta hãy đọc lại lời nói của Đức Giáo hoàng Phaolô VI trong thông điệp Mysterium Fidei nói về việc tôn sùng phép Thánh Thể :
”Trong khi nhớ đến sự cao cả và lòng thương lạ lùng của Chúa Giêsu, Đấng đã ban sự sồng rất qúi giá của mình để làm giá cứu chuộc chúng ta và là Đấng đã ban thịt mình cho chúng ta ăn, các tín hữu hãy tin vững chắc và kính thờ sốt sắng mầu nhiệm Mình Máu thánh Người với một niềm kính trọng và đạo đức khả dĩ cho phép họ được năng rước lấy bánh siêu thể đó. Ước chi Người thực là đời sống của linh hồn họ, và là sức khoẻ vĩnh viễn của tinh thần họ ; ước chi, sau khi được tăng cường bởi nghị lực của Người, từ cuộc hành trình gian khổ đời này dần dà họ tới nơi quê trời, để được ăn ở đó bánh không còn che phủ của các thiên thần : bánh mà bây giờ họ được ăn dưới những tấm màn thánh che phủ”
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Tin mừng hôm nay ghi lại nội dung quan trọng nhất trong bài giảng của Chúa Giêsu về bánh hằng sống trong hội đường Capharnaum sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Đức Giêsu hướng thính giả về bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập vào thứ năm Tuần Thánh, khi Ngài nói: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời. Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”.
Những lời khẳng định của Chúa Giêsu đã khiến người do Thái tranh luận với nhau: “Làm sao ông này lại có thể cho chúng ta ăn thịt của ông ta được?”. Họ tranh luận sôi nổi vì họ không hiểu hay hiểu theo nghĩa đen: ăn thịt người tức là ăn thịt một con người đang nói với họ, ở đây cho thấy người Do Thái thắc mắc vì họ không hiểu để phân biệt “Thịt” của một con người thần linh mà Chúa Giêsu muón nói đến, với thịt của một con người theo xác phàm mà họ nghĩ theo nghĩa thông thường.
Trong bài diên văn về Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần động từ “ăn” và “uống”: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời”. Như thế Chúa Giêsu nói tới bí tích Thánh Thể, trong bí tích Thánh Thể, Ngài ban chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn, của uống cho nhân loại được sống: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời”. Đức Giêsu là thần lương nuôi sống chúng ta trong cuộc lữ hành tiến về quê trời.
Ăn thịt và uống máu người quả là một điều khó nghe và khó hiểu! Nhưng có những điều rất hiển nhiên vào năm Thìn nhiều người bị chết đói. Người ta thấy có nhiều bà mẹ đã lấy máu thịt mình nuôi con để con được sống. Năm 1982, trận động đất ở Armenia, bà Suzanne đã lấy máu cho con bú khi con kêu khát lúc nằm dưới đống gạch vụn. Bà có sáng kiến vô cùng táo bạo vì bà muốn con bà sống.
Một sự kiện hiển nhiên và dễ hiểu là mỗi người chúng ta khi thành thai trong lòng mẹ đã được nuôi dưỡng bằng thịt máu của người mẹ truyền từ nhau thai qua dây rốn đến với thai nhi. Thai nhi được nuôi sống bằng máu thịt của người mẹ một cách trực tiếp trong suốt thời gian trong bụng mẹ. Khi được sinh ra, em bé được nuôi dưỡng bằng thịt máu của người mẹ đã biến thành sữa trắng ngon ngọt và nhiều chất bổ dưỡng. Sự sống của người mẹ được ban cho người con biểu lộ tình mẹ bao la như biển Thái Bình.
Thời thượng cổ bên Tây Tạng có một bộ lạc tục lệ rất lạ, nhưng suy nghĩ chúng ta thấy rất có ý nghĩa. Khi cha mẹ về già thì con cháu tụ họp lại đưa cha mẹ lên một ngọn cây rồi tất cả rung cây… Nếu người cha, người mẹ còn khỏe thì không bị rơi xuống đất, ai mà yếu thì té xuống đất, con cháu liền làm thịt ông bà. Tất cả thân tộc ăn thịt ông bà với mục đích là để ông bà trở thành xương thịt máu huyết con cháu và như thế người chết luôn hiện diện, luôn sống bên con cháu. Đối với người Tây phương thì đây là một tục lệ dã man, mọi rợ. Nhưng đối với dân Tây Tạng xưa thì quả thật là ý nghĩa.
Hành động của Chúa Giêsu cũng vô cùng ý nghĩa khi Ngài muốn trở nên lương thần nuôi sống nhân loại trong bí tích Thánh Thể. Chính vì yêu thương mà qua tác động của Chúa Thánh Thần, bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Đức Giêsu để nuôi dưỡng ta trong cuộc hành trình tiến về quê Trời: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống đời đời”.
Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm tình thương Thiên Chúa muốn con người thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương trở thành của ăn của uống nuôi sống con người. Lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể là ăn thịt và uống máu Chúa mà không yêu thương anh em, là chúng ta đã không “tiêu hóa” Mình và Máu Chúa, thì không thể được sống đời đời như Chúa dạy trong bài Tin mừng hôm nay.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn người Kitô hữu xác tín vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Qua sự hiện diện nay, Chúa Giêsu tiếp tục sống giữa chúng ta. Ai từ chối Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể, người đó không có đức tin đích thực. Ai không tha thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể, không tham dự thánh lễ, người đó kém đức tin, không bảo đảm sự sống đời đời. Người Kitô hữu không bao giờ tham dự thánh lễ được kể như người bỏ đạo, người khô khan, người nguội lạnh.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN_B.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối tư tưởng các bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước. Trong những bài Tin Mừng trước chúng ta thấy Chúa đã tuyên bố những lời làm cho người nghe phải khó chịu. Hôm nay những lời tuyên bố của Chúa lại càng làm cho người ta thắc mắc và khó chịu hơn nữa.
1- Ta là bánh (Ga 6,15)
Đây không phải là lần duy nhất Chúa dùng thuật ngữ này. Kiểu nói “Ta là” là kiểu nói Chúa dùng nhiều lần để định nghĩa về mình. Chẳng hạn Chúa nói: “Ta là cái cửa”(Ga10,7), “Ta là mục tử” (Ga 10,11),”Ta là ánh sáng” (Ga 8,12), “Ta là con đường”(14,6),”Ta là cây nho” (Ga,15,1). Và hôm nay Chúa tự định nghĩa: “Ta là bánh”(Ga 6,15).
Định nghĩa nào trên đây cũng nói về mối tương quan giữa Chúa và thế giới con người nơi Chúa được sai đến. Cửa là để chiên ra vào. Mục tử là để lo cho chiên được sống và sống sung mãn. Ánh sáng là để cho người ta thấy đường mà đi. Con đường là để cho người ta đến được với Thiên Chúa. Cây nho là để cho ngành nho được sinh nhiều hoa trái. Ngay cả khi Chúa định nghĩa mình là “sự thật”(Ga 14,6) là sự sống và là sự sống lại (Ga 11,25) thì đó cũng là những gì cụ thể nhằm việc phục vụ con người.
“Ta là bánh”. Bánh là lương thực không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày của người Do Thái. Bánh của người Do thái là cơm gạo của chúng ta. Đức Kitô nhận mình là bánh, một thức ăn thông thường, nhưng rất cần thiết. Bánh không phải để ngắm nhưng để ăn. Bánh là thứ ăn được, tiêu hóa được. Bánh đem lại sự sống cho người ăn nó. Như thế sự hiện hữu của bánh là vì người khác. Chấp nhận làm bánh có nghĩa là chấp nhận mình bị tan biến, bị mất đi. Và chỉ khi mất mình đi như thế bánh mới thật là bánh. Khi bánh được ăn, bánh trở nên xương thịt của người ăn. Bánh tiếp tục hiện diện trong người ăn một cách sâu thẳm, khó lòng mà tìm lại được bánh, khó lòng mà bảo bánh đang ở chỗ nào nơi người ăn vì bánh đã nên một với người ăn.
“Ta là bánh và là bánh trường sinh” (Ga 6,35,48). Bánh trường sinh là bánh ban sự sống, không phải là sự sống của thân xác, bánh ở đời này – mà là sự sống muôn đời. Sự sống ấy bắt đầu ở đời này và tiếp tục mãi mai sau bất kể việc thân xác có bị kết thúc ở đời này bằng cái chết hay không. Đức Giêsu là bánh ban sự sống muôn đời vì Ngài là bánh hằng sống (Ga 6,51) – bánh có sự sống. Sự sống ở nơi Đức Giêsu sự sống đã đạt tới mức độ viên mãn khi Ngài được phục sinh. Ngài được Cha ban cho sự sống dư tràn để rồi Ngài trở thành “Thần khí ban sự sống” cho chúng ta. (1Cr15,45).
“Ta là bánh”. Đây không phải là một ẩn dụ mà là một giấc mơ của Đức Giêsu. Ngài muốn trở nên của ăn của uống để nuôi chúng ta, để ban cho chúng ta sự sống thần linh vĩnh cửu. Ngài không muốn nuôi chúng ta bằng cái gì ở ngoài Ngài như là Manna hay là những tấm bánh do Ngài hóa ra nhiều năm xưa. Ngài muốn nuôi chúng ta bằng chính con người của Ngài, bằng thịt và máu của Ngài.
2. Nhưng làm sao một giấc mơ như thế có thể thực hiện được? Làm sao Ngài có thể trở thành lương thực cho mọi thời đại? Người Do thái thuở xưa cũng hỏi những câu hỏi tương tự như thế: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” (Ga 6,52).
* Đối với người Do thái ngày xưa thì quả thực chưa có câu trả lời. Nhưng với chúng ta hôm nay thì câu trả lời đã rõ. Chính qua Bí tích Thánh thể mà Chúa có thể thực hiện được những gì mà loài người không thể nghĩ ra. Bí tích Thánh thể là sáng kiến bất ngờ và cũng là sáng kiến ngoạn mục tuyệt vời của Chúa. Ngài trở thành thức ăn cho loài người khi biến tấm bánh trong bàn tiệc thành thịt của Ngài và Ngài trở thành của uống cho con người khi Ngài biến rượu thành máu của Ngài: “Này là mình Thầy, chúng con hãy cầm lấy mà ăn. Này là máu Thầy các con hãy cầm lấy mà uống”. Ăn bánh và uống rượu đã được truyền phép là ăn uống chính thịt và máu của Đức Kitô phục sinh. Ngài thành tấm bánh cho ta khi Ngài biến tấm bánh ta dâng cho Ngài nhờ Bí tích Thánh thể.
Vâng Chúa muốn cho chúng ta được sống. Ngài muốn trở thành của nuôi chúng ta mãi mãi, không bao giờ ngưng nghỉ. Và như Ngài đã hứa, ngài muốn cho chúng ta có được sự sống dồi dào, sự sống của chính Ngài.
Trong các câu truyện có liên quan đến Bí Tích Thánh Thể người ta thường nhắc và truyền tụng cho nhau về câu truyện có liên hệ đến một em bé có tên là Macxellinô. Câu truyện có nguồn gốc từ Tây Ban Nha. Khi vừa được sinh ra, Macxellinô đã bị mẹ đem bỏ đi. Mẹ em đã bỏ em trước cổng một Tu viện. Tình cờ một tu sĩ đi ngang qua, nghe thấy có tiếng “oe oe” của một đứa trẻ, ông cúi xuống thấy em. Ông bồng em, đem vào tu viện. Em được các tu sĩ Đan viện chăm sóc và nuôi nấng và dần dần em được lớn lên trong tu viện.
Vốn tính tình nghịch ngợm, nên thầy đầu bếp cấm không cho em được leo lên gác. Nhưng rồi vì tính tò mò, một ngày kia Macxellinô lẻn leo lên. Đến nơi em vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một người khổng lồ bị treo trên Thập giá. Bao nhiêu ngày như vậy mà chẳng thấy ai cho ăn. Bản tính tự nhiên em nghĩ rằng chắc là người bị treo trên đó đói lắm, nên một đêm kia Macxellinô vào bếp ăn cắp bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đưa tay đón nhận bánh của cậu bé và cười với cậu.
Từ đó trở đi, ngày nào cậu cũng mang bánh lên cho người khổng lồ. Một hôm tay người khổng lồ tự rời bỏ thánh giá, cúi xuống, vòng hai tay ôm choàng lấy cậu. Ông hỏi:
– Điều gì làm cho con thấy thích nhất ở trần gian này?
Cậu nói:
– Con muốn được thấy mẹ con.
Người khổng lồ liền nói với cậu bé:
– Con sẽ được thấy nếu con chấp nhận chết.
Cậu bé bằng lòng và cậu đã an giấc trong tay người khổng lồ.
Hôm sau các thầy không thấy em trong nhà, đi tìm lục lọi khắp nơi nhưng cũng không thấy đâu. Cuối cùng các thầy lên gác và vô cùng xúc động khi thấy em đang nằm gọn trong vòng tay của Chúa.
Câu chuyện của Macxellino là một trong những câu truyện rất đẹp, đầy ý nghĩa về Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã lập và để lại cho Giáo hội như một giao ước muôn đời.
Chúa Giêsu không ngừng mời gọi con người mở rộng tâm hồn để đón nhận Ngài như Ngài nói với cậu bé Macxellinô trong truyện trên. Bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói lên với Chúa Giêsu, cậu bé cũng muốn săn sóc Chúa. Bánh và Rượu Ngài ban trong Thánh Thể cũng là cách Ngài tỏ tình yêu, Ngài muốn nói với chúng ta ‘Ta yêu thương các con, Ta săn sóc các con”. Ngài chính là Bánh và Rượu nuôi sống chúng ta. Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận Ngài. Khi chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, thì lúc đó chúng ta mới có thể mở rộng trái tim và bàn tay để đón nhận người khác.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời được ban xuống để lôi kéo chúng ta lên với Chúa Cha. Người tín hữu Kitô tiếp nhận Thánh Thể là để được lãnh nhận tình yêu của Chúa và từ đó mới có thể trào sang cho người khác để đưa mọi người về với Thiên Chúa. Có chia sẻ bàn tiệc với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, chúng ta mới có thể chia sẻ cơm bánh cho những người khác chung quanh chúng ta.
Xin Chúa Giêsu Thánh Thể cho chúng con cảm nếm được sự sống trường sinh và niềm hạnh phúc khi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng để chúng ta cũng có thể trao ban và chia sẻ tình yêu của Chúa cho mọi người.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: “ Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng” (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu .
Suốt bốn tuần qua, chúng ta đã suy gẫm bài diễn từ về “Bánh” trong chương 6 của tin mừng thánh Gioan. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta một lần nữa lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.
Bàn tiệc tình yêu.
Thánh Gioan đã viết: “ Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm”(Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài”. Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà sách Khôn ngoan nhắc tới trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng: “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn : “ Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu”.
Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu”. Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói “Tôi là Bánh trường sinh”, bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.
Bàn tiệc đức tin.
Mỗi khi chầu thánh thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: “ Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại”. Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc. Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời” (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị : “Ai tin vào con của Người, sẽ được trường sinh” (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất : Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải thể hiện, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.
Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Qua lăng kính đức tin chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự.
Bàn tiệc hiệp thông.
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong từng mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu “luôn chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu “ Ut unum sint ” (xin cho chúng nên một).
Một tu sĩ nọ khi tham dự một thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện : Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Cả cộng đoàn lập lại : Xin Chúa thương xót chúng con. Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: “ Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn”.
Kết luận
Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề “ Năm chiếc bánh và hai con cá” để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao? Đặc biệt đối với anh em linh mục là những “alter Christus”, đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành thánh lễ “in personna Christi”, chúng ta đã dâng các thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn “ Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế”.
Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Không gì quý bằng sự sống. Dù bị thiên tai càn quét hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng người nhà chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống trên cõi đời là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Sách Giảng Viên viết: “Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết.” (Giảng Viên 9,4). Thà làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Đúng là “Mạng sống quý hơn đống vàng.”
Vì yêu thương con người vô hạn nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý nhất, đó là sự sống; và Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật (sự sống tự nhiên) mà còn thông ban cả Sự Sống thần linh của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban Sự Sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha, rồi Chúa Cha thông ban Sự Sống của mình cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con) và Chúa Thánh Thần. Chúa Giê-su xác nhận sự sống của mình từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giê-su không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su.
Thế nên, Chúa Giê-su lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Ngài, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Ngài thì được nên một với Ngài, được ở lại trong Ngài:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giê-su và có Chúa Giê-su ở lại trong người ấy”, thì kẻ ấy nên một với Chúa Giê-su và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giê-su thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Ngài, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giê-su khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giê-su và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời.
Biến đổi con người thành Chúa Giê-su
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giê-su trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giê-su khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Ki-tô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy.” (Trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giê-su, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa: “Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Ki-tô, bạn nên một với Ngài, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Ki-tô, có Mình Máu Ngài thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giê-su,
Hồng ân Thánh Thể Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
.
Trầm Thiên Thu
Đắn đo là cân nhắc và so sánh mức độ hơn – kém nhau như thế nào. Khi đó cần có trí tuệ sáng suốt để có thể cân nhắc một cách chính xác nhất. Tác giả sách Huấn Ca xác định: “Ăn nói thì phải cân nhắc đắn đo, miệng con phải như là cửa có khoá. Hãy ý tứ, đừng để lỡ lời, kẻo vấp ngã trước kẻ rình rập con” (Hc 28:25-26). Và rồi tác giả kết luận: “Làm việc gì cũng phải đắn đo cân nhắc” (Hc 31:15). Đắn đo có thể tốt và cũng có thể không tốt – không tốt vì đắn đo thái quá nên hóa ra nhút nhát.
Đắn đo không phải là để thoái thác hoặc lẩn tránh, mà là cân nhắc điều hơn lẽ thiệt để không phải hối tiếc. Người Việt có cách ví von: “Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương chỉ tổ người ta ghét”. Kinh Thánh cũng có cách nói còn đáng quan ngại hơn: “Vì ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:16). Rất cần cân nhắc để có thể dứt khoát, vì người ta chỉ có thể chọn một trong hai, không thể “bắt cá hai tay”.
Cuộc sống có vẻ đơn giản mà lại luôn nhiêu khê, đôi khi quá sức tưởng tượng của chúng ta. Ngay trong cuộc sống đời thường cũng luôn có nhiều “chuyện lạ”, nhưng mỗi chuyện đều có những mức độ “lạ” khác nhau, thậm chí là khác hẳn. Tốt cũng “lạ”, xấu cũng “lạ”. Vì vậy mà cần phải tỉnh táo, biết phân biệt cái gì đúng hoặc cái gì sai. Người cẩn trọng luôn biết đắn đo cân nhắc, đó là người thông minh và khôn ngoan. Về cách xử sự này, Chúa Giêsu dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải KHÔN như rắn và ĐƠN SƠ như bồ câu” (Mt 10:16). Đắn đo cân nhắc như vậy không hề dễ dàng gì, nhưng phải cố gắng!
ĐẮN ĐO KHÔN
Khôn ngoan là một nhân đức, rất quan trọng trong mọi trường hợp. Kinh Thánh cho biết: Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tỳ ra đi. Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi: “Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây!” (Cn 9:4). Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo: “Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9:5-6). Mỗi người có mức độ nhận thức khác nhau, cao – thấp và rộng – hẹp, dù là ai cũng phải luôn trau dồi để khả dĩ đạt mức hiệu quả nhất.
Chúng ta là phàm nhân cát bụi, trí óc thấp hơn ngọn cỏ, không thể nào hiểu nổi đường lối cao siêu của Thiên Chúa. Thánh LM TS Thomas Aquino (1225–1274) là tác giả bộ Tổng Luận Thần Học đồ sộ, thế mà khi được hỏi thì ngài bảo “chỉ là rơm rác”. Thật vậy, đối với Thiên Chúa thì chỉ là thế thôi. Vì vậy, chúng ta chẳng có gì để dám mạo nhận, mà phải luôn thầm nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi” (Tv 34:2), đồng thời còn phải chia sẻ với người khác: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Ngài” (Tv 34:3-4). Có thể có người sẽ thắc mắc, và đây là lý do: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Ngài đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” (Tv 34:5). Chắc chắn Thánh Vịnh gia đã đắn đo khôn lắm mới có được lý do độc đáo như vậy.
Tình yêu của Thiên Chúa bao la, lòng thương xót của Ngài vô biên, chắc chắn rằng “ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34:6). Sự thường thì “vô tri, bất mộ”. Nhưng một khi đã “nếm thử” sự ngọt ngào của Ngài rồi, người ta sẽ khiêm nhường khi làm chứng về Ngài: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:7). Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, không thể chối cãi.
Có một điều cần thiết Thánh Vịnh gia muốn nhắc nhở và động viên chúng ta: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9). “Nghiệm xem” là cách “nếm thử”. Và khi nghiệm ra Chúa rồi thì người ta sẽ thêm khôn ngoan, biết sống theo lời khuyên tốt lành: “Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; hãy làm lành, lánh dữ;, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:14-15). Lời do lưỡi, lưỡi như lửa, nó có thể thiêu rụi mọi thứ.
Cách đắn đo khôn khéo của Việt nhân đơn giản mà thú vị: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Đồ ăn ngon lành, chỗ ăn thú vị, người cùng ăn phù hợp, nhưng còn phải biết cách ăn, đặc biệt là cách ngồi ăn. Không đơn giản chi cả! Đó là phép lịch sự cơ bản nhưng lại thể hiện sự ý tứ, tinh tế và khôn khéo. Cách ăn bình thường mà đã quan trọng như vậy, huống phi “cách ăn nết ở”. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep 5:15-16). Thánh nhân “vuốt mặt” mà không cần “nể mũi”, cứ nói thẳng nói thật: “Anh em ĐỪNG hoá ra ngu xuẩn, nhưng HÃY tìm hiểu đâu là Ý Chúa. CHỚ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng HÃY thấm nhuần Thần Khí” (Ep 5:17-18). Một câu ngắn mà có tới bốn mệnh lệnh cách phủ định: CẤM. Đó mới là cách sống khôn ngoan, mà người nào có “sống khôn” thì mới có thể “chết thiêng”. Hệ lụy lô-gích lắm!
Theo quan niệm xưa, những người có “máu nhạc” đều bị coi là “xướng ca vô loài”, nghĩa là “không hề giống ai” theo dạng “kỳ quặc”, kiểu như “con giáp thứ 13” không có trong danh sách các con giáp. Thế mà Thánh Phaolô lại khuyên: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Quan niệm xưa sai hay là chúng ta hiểu không đúng? Đặc biệt hơn, thánh nhân nhấn mạnh: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5:20). Tạ ơn khi vui mừng và may mắn thì đó là điều dễ dàng, không có gì đáng nói; nhưng tạ ơn khi buồn rầu và kém may mắn thì đó mới là điều đáng nói. Khó lắm! Thế mà Thánh Gióp đã làm được điều đó, dù đời ông là bản “trường ca đau khổ”, khổ tới mức trắng tay – cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Chúng ta phải nỗ lực noi gương Thánh Gióp mới mong “xách dép” theo ngài được. Và rồi Thiên Chúa đã “bù lỗ” cho ngài Gióp. Phúc thay!
CÂN NHẮC KHÉO
Có cách đắn đo khôn thì cũng có được cách cân nhắc khéo. Cái gì cũng có hệ lụy, chẳng có gì gọi là ngẫu nhiên đâu. Có những lúc đắn đo cân nhắc rất dễ, nhưng cũng có những khi đắn đo cân nhắc rất khó.
Thật vậy, giả sử lần đầu nghe Chúa Giêsu xác định Ngài là “bánh hằng sống từ trời xuống”, bất cứ ai ăn loại bánh ấy sẽ “được sống muôn đời”. Ngài còn nói rõ ràng rằng bánh Ngài ban tặng chính là thịt của Ngài và loại thít ấy làm cho thế gian “được sống” (Ga 6:51), liệu chúng ta có thể tin “chuyện động trời” như vậy? Chắc hẳn là không! Ngày xưa, người Do-thái khi nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ không tin và tranh luận sôi nổi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Đó cũng là một cách phản đối. Ăn thịt sống của động vật đã là “điều lạ”, huống chi là “ăn thịt và uống máu người”. Ôi, phải nói là… kinh dị thật!
Vâng, phàm nhân không thể tin nếu không có đức tin. Lúc đó chắc là Chúa Giêsu cười thầm trong bụng. Biết họ không thể tin vì “chói tai”, nhưng sự thật mãi mãi là sự thật, và Ngài vẫn xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông KHÔNG ăn thịt và uống máu Con Người, các ông KHÔNG có sự sống nơi mình. Ai ĂN thịt và UỐNG máu Tôi thì được SỐNG muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy SỐNG LẠI vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6:53-55). Chắc là lúc đó ai cũng trố mắt và há hốc mồm miệng vì ngạc nhiên, vậy mà họ vẫn vểnh tai nghe “điều kỳ lạ” ấy. Rồi Chúa Giêsu nói tiếp: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6:56-57). Cách lý luận của Thánh Bernadette rất chí lý: “Đối với người tin thì không cần giải thích, đối với người không tin thì giải thích cũng vô ích”.
Thật tuyệt vời vì Chúa Giêsu là nhà hùng biện vĩ đại nhất. Và thật lạ, họ nghe rồi không còn “khó chịu” nữa mà chỉ im lặng, như vậy có nghĩa là cảm giác của họ “khác” rồi. Đúng là “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Ngài tiếp tục tái xác định: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:58). Nghe “chết” thì buồn, chứ nghe “sống” thì khoái lắm, đặc biệt là “sống muôn đời”. Thế thì trên cả tuyệt vời rồi!
Ôi chao, thế thì còn gì bằng, chí lý lắm! Chắc hẳn lúc đó có nhiều tâm hồn đang cứng như sáp nguội bỗng chốc hóa “mềm nhũn” như sáp nến gặp lửa nóng vậy. Trong số những người biết cách đắn đo cân nhắc khôn ngoan thì chắc cũng không thiếu những người dại khờ, ngớ ngẩn hoặc ngu xuẩn. Tại sao? Vì cố chấp, biết đúng mà cứ muốn chứng tỏ “bản lĩnh dốt” của mình, vì quá tự ái quá cao, vì “cái tôi” quá lớn, vì không muốn tin vào quyền năng của “chàng trai trẻ” Giêsu, người làng Nadarét, chẳng học trường nào, chẳng bằng cấp gì mà giỏi quá chừng. Vô cùng lạ lùng!
Chuyện người đời vẫn thế. Thời nào cũng vậy, xã hội nào cũng vậy. Ai ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét, ở đâu cũng có người thế này và người thế nọ, cũng có người khôn và người dại, nhưng người dại thì không biết ngại, ưa tài lanh, dốt mà chảnh. Thật là nhiêu khê, thế nên càng cần phải khôn ngoan đắn đo và cân nhắc.
Nói về hệ lụy Gieo – Gặt, nhưng vẫn liên quan vấn đề đắn đo cân nhắc, Dick Lyles nhận định: “GIEO suy nghĩ, GẶT hành động; GIEO hành động, GẶT thói quen; GIEO thói quen, GẶT tính cách; GIEO tính cách, GẶT số phận”.
Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm khôn ngoan cho con và giúp con sống khiêm nhường để nên công chính theo Tôn Ý Ngài, hầu đáng được mãi mãi “ở lại trong tình thương của Ngài” (Ga 15:9). Xin Ngài giáng phúc cho người đã quan tâm đến con (Rút 2:19), xin tha thứ cho họ nếu họ xúc phạm tới con, và cũng xin tha thứ cho con vì con đã không đủ tốt để làm họ vừa lòng. Con chân thành cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
HÃY LO TÌM KIẾM ĐỨC KHÔN NGOAN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, tiếp tục diễn từ về bánh hằng sống, Chúa Giêsu kêu gọi những người Do thái và cả chúng ta nữa, hãy đến mà ăn cho no uống cho thoả. Nếu chúng ta khao khát sự sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người : “Là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Lời Chúa trong sách Châm Ngôn giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của lời Chúa Giêsu phán ở trên : ” Sự khôn ngoan đã xây nhà mình… Pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tỳ lên các nơi cao trong thành mà công bố rằng: Hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi” (Cn 9, 1-5).
Nhưng Đức Khôn Ngoan ở đây là ai vậy ?
Theo thánh Irênê, vị giáo phụ thời danh của Giáo hội thì Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa không phải ai khác ngoài chính Ngôi Vị Thứ Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đúng như sách Khôn Ngoan mô tả : Người tìm thấy niềm vui giữa loài người … “Người đã làm người giữa muôn người … Người đã trao ban sự sống và thiết lập sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người ” (Kinh Tin Kính của Thánh Irênê).
Con người có được sự sống là nhờ Đức Khôn Ngoan nhập thể làm người thông ban sự sống ấy cho, và sở dĩ con người được hiệp thông với Thiên Chúa là nhờ Đức Khôn Ngoan ở giữa loài người, là chiếc cầu nối kết giữa con người với Thiên Chúa. Những lời cuối trong diễn từ về Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng (Ga 6, 51-58) hôm nay là bằng chứng.
Theo tác giả sách Châm Ngôn thì chính Đức Khôn Ngoan ban tặng đồ ăn thức uống cho những kẻ ngây thơ, tín thành và ban tặng sự sống cho kẻ bỏ đi sự ngây dại và bước đi theo đường lối khôn ngoan (x. Cn 9, 6). Theo thánh Gioan, Chúa Giêsu chính là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa từ trời nhập thể, đích thân mời gọi chúng ta ăn Người, để có sự sống trong chúng ta : “Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi” (Ga 6, 53). Bắt đầu đặt bút viết Tin Mừng, Gioan đã viết: ” Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1). Thiên Chúa đã dùng chính Ngôi Lời mà tạo thành vũ trụ, nay lại sai Ngôi Lời xuống thế để ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Tin và đón nhận Chúa Giêsu là tin và đón nhận sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Tự chúng ta không thể có sự sống đời đời được, phải cậy nhờ vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa là Chúa Giêsu. Vì thế, kết hợp cả hai dòng tư tưởng, một của thánh Gioan và một của sách Khôn Ngoan, chúng ta thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời : “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 54) và hơn thế nữa còn được Người đến cắm lều ngay nơi lòng kẻ ấy : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56).
Vậy, hãy nghe và thực hành lời khuyên của thánh Phaolô mà thận trọng trong cách ăn nết ở : ” Đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan” (Eph 5, 15). Ai bước theo đường lối khôn ngoan, và cư ngụ trong nhà Đức Khôn Ngoan đã xây dựng, ngồi tại bàn của của Đức Khôn Ngoan thì sẽ được ăn thoả thích những đồ ăn mỹ vị và uống rượu ngon do Đức Khôn Ngoan dọn sẵn cho.
Chính do sự khôn ngoan của Thiên Chúa, con cái Israel mới có Manna từ trời rơi xuống làm lương thực để ăn dòng dã suốt 40 năm trường (x. Xh 16, 1- 36 ) ; Và nhờ lòng từ bi mà Chúa sai Thiên Thần mang bánh đến cho Êlia ăn, nhờ “sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa” (1V 19, 8) ; Hay do chạnh lòng thương, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho “ai muốn bao nhiêu tuỳ thích” (Ga 6, 11)
Cho dù là Manna từ trời xuống, hay bánh Thiên Thần mang đến nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ là thứ lương thực rất tạm bợ, kẻ nào ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết, nghĩa là không có sự sống nơi mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là cái ước vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là sự sống đời đời.
Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao nên thánh, nên trọn lành hãy nhớ lời sách Châm Ngôn dạy : “Hỡi những người ngây thơ hãy lại đây… hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế” (Cn 9, 5).
Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thịt Ta là thật của ăn,
Máu Ta của uống, tự căn sống đời.
Chúa thương nhân loại mọi thời,
Hiến thân chịu chết, cho người trần gian.
Con Người Máu Thịt thương ban,
Thần lương sự sống, muôn vàn ân thiêng.
Của ăn nuôi dưỡng thiêng liêng,
Thông ban sự sống, thần thiên cao vời.
Đức tin phó thác gọi mời,
Tin yêu nguồn sống, rạng ngời phúc ân.
Dưới hình bánh rượu dự phần,
Nhiệm mầu Thánh Thể, vô ngần cao siêu.
Hy sinh cứu độ vì yêu,
Dưỡng nuôi hồn xác, huyền siêu ơn trời.
Chúc khen thờ phượng Chúa Trời,
Nguồn ban sức sống, muôn đời suy tôn.
Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời. Đây là lời truyền dậy của chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là bánh hằng sống từ trời xuống. Thịt Máu của Chúa chính là bánh bởi trời. Bánh được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể. Chúa hiện diện thực sự trong Thánh Thể. Bánh và rượu không phải là biểu tượng mà là một thực tại biến đổi. Mọi người đều có thể lãnh nhận bánh hằng sống, nếu họ chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng và muốn lãnh nhận.
Vào một buổi lễ sáng Chúa Nhật, tôi thấy một cặp vợ chồng trẻ và bốn đứa con nhỏ ngồi hàng ghế đầu trong nhà thờ. Trong lúc truyền phép, mọi người tập trung hướng về bàn thờ cầu nguyện và thờ lạy Chúa. Người cha bế em nhỏ lên hướng về bàn thờ và thì thầm bên tai em: Đó là Chúa Giêsu nhưng em bé chẳng hiểu chi. Em hỏi lại: Cái gì? Tôi cảm nhận rằng không phải câu nói của em bé, nhưng là một diễn tả niềm tin của người cha muốn truyền lại cho con cái.
Nhìn lại chính lòng mình, đôi khi chúng ta phải chấp nhận rằng chúng ta không luôn ý thức và tin tưởng thật vào sự biến đổi lạ lùng khi cử hành Bí Tích Thánh Thể. Nhà sư Nhất Hạnh trong cuốn “Sống tin Phật, sống tin Chúa Kitô” ông viết: Người giáo dân nghe lời truyền phép qúa nhiều lần và họ cảm thấy đôi khi lo ra và không tin thực sự. Nhận xét của nhà Sư Nhất Hạnh không sai.
Chúa Giêsu xác tín: Đây là Mình Ta. Đây là Máu Ta. Khi chúng ta nhận biết sâu xa sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Đây là một thực tại sống. Mình Máu Chúa có sức dưỡng nuôi tâm hồn. Đời sống linh thiêng sẽ không trở nên già nua và cằn cỗi.
Phép Thánh Thể là nguồn mạch sự sống. Có lần tôi ghé thăm nhà Dòng Thánh Thể, trong nhà nguyện luôn có một chị quỳ trước Mặt Nhật chầu Thánh Thể. Các chị thay phiên hiện diện cùng với Chua Giêsu nơi Bí tích Thánh Thể suốt ngày. Nhìn gương mặt các chị rất an bình và đầy sự xác tín có Chúa đang ở cùng.
Chúa hiện diện trong Thánh Thể không chỉ để dưỡng nuôi linh hồn mà Chúa còn muốn gặp gỡ mỗi người chúng ta. Chúa chờ đón chúng ta nơi Nhà Tạm nhưng mấy khi chúng ta dừng chân bên Chúa. Có khi cả tháng hay cả năm, chúng ta chẳng khi nào thăm viếng Chúa. Đôi khi chúng ta quá thờ ơ, ngay cả thái độ cúi đầu hay bái chào cũng không có.
Khi xưa, tôi nhớ sau mỗi tiết học, các chú chủng sinh thường có thói quen ghé nhà nguyện viếng Chúa. Ngày nay, rất hiếm khi chúng con có thời giờ thăm viếng Chúa nơi Nhà Tạm Thánh Thể. Xin Chúa thứ tha sự vô tâm và vô tình của chúng con.
.
Lm. Jos. DĐH.
Cơm bánh, bơ sữa, cháo phở, đều được gọi là thực phẩm nuôi sống thân xác con người. Lao động chân tay, lao động trí óc, cũng là công sức đầu tư nhằm mang lại thu nhập. Tự do để kiếm tìm của cải vật chất, chức danh bổng lộc, tự do để phát tín hiệu yêu thương, kiếm tìm hạnh phúc, ai cũng có. Dù hạnh phúc vững chắc bởi công danh sự nghiệp, ý chí quyết tâm, hay hạnh phúc do vừa đủ cơm ăn áo mặc, như thế, đã được xem là thành công ở đời này rồi. Bánh cao cấp, thức uống ngoại nhập, giá cả bao giờ cũng mắc, không phù hợp cho người nghèo, mặc dù nhà sản suất không có ý làm ra sản phẩm cho người giầu. Tính thời sự mà các chuyên gia kinh tế, thời nào cũng muốn sản phẩm của mình có tính sáng tạo: ngon bổ rẻ, đảm bảo được tính vệ sinh an toàn thực phẩm, thu được lợi nhuận cao.
Tuy không hứa hẹn một thứ bánh ngon bổ rẻ như các thương gia làm kinh tế, Đức Giêsu đã công khai rao giảng về thứ lương thực trường tồn: “bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Đức Giêsu còn mạnh mẽ hơn khi nói: “nếu các ngươi không ăn thịt Con Người, và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi”. Đồng ý rằng khát vọng của con người là tìm kiếm “bánh trường sinh”, là mong có được bí quyết sở hữu thứ lương thực bất tử. Nhưng đám đông hôm đó họ phải khựng lại vì lời Đức Giêsu, họ cho là chói tai: làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được ? Của ăn trường sinh được Đức Giêsu ban phát đã trở nên mầu nhiệm, dù không mất tiền mua, song cần phải có niềm tin, dù không trải qua sát hạch, nhưng cần có tình yêu và tấm lòng thành.
Được trường sinh bất tử, hay được sự sống đời đời, là mơ ước của con người, là thao thức của các tôn giáo, thuốc mang lại hạnh phúc là thứ thần dược quá đặc biệt, kỳ diệu đến độ người nghèo, người không học rộng hiểu sâu lại dễ đón nhận. Kinh nghiệm cho thấy: muốn biết phải học, muốn hiểu phải nghiêm túc với chính mình, “cái được” không dừng lại ở lý thuyết, mơ ước suông. Tiền nhân đã từng nhắc con cháu: ăn có nhai, nói có nghĩ, phản ứng nhanh là cần, biết ứng phó trong mọi tình huống xảy đến là tốt, nhưng biết đúng, biết chính xác, mới đáng gọi là đạt tới hạnh phúc thật.
Bánh trường sinh còn gọi là Bánh Giêsu, nhiều tâm hồn thành kính đang hàng ngày, hàng tuần, sốt sáng lãnh nhận, qua thực hành niềm tin, Bánh Giêsu biến đổi tâm tính các nhiệm thể nên giống Chúa, và dẫn dắt họ đạt tới sự sống đời đời. Bánh, cá, là thứ lương thực nuôi người Do-thái, cơm, phở, người Việt vẫn ăn để thân xác tồn tại, còn “thần lương” nuôi linh hồn, ban sự sống đời đời, vẫn mãi là niềm tin người ta phải thực hành. Đức Giêsu nói với đám đông năm xưa: “ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”; nhưng họ không hiểu, không tin, phải chăng vì con người chỉ thích những thứ hạnh phúc ở hiện tại ?
Thực ra: hạnh phúc không tự đến, đau buồn không phải sự việc bất ngờ…, việc ăn bánh gì để sống, hoặc tại sao muốn được trường sinh bất tử, luôn cần đến tình yêu và lương thực đặc biệt. Làm sao hôm nay chúng ta có được lập trường vững chắc về sự sống đời đời, nếu chúng ta không thật lòng tin tưởng và kết hiệp với Đấng đã công khai về Bánh thần lương được ban phát. Bánh nuôi xác, Bánh nuôi hồn, tuy khác nhau, nhưng đã cho thấy một điểm chung là sống hạnh phúc và sống đời đời, đều phải có tình yêu thương của người lãnh nhận. Tìm hạnh phúc đời đời thì đến với Đức Giêsu, đến với niềm tin để có Bánh nuôi hồn. Cơm áo gạo tiền để nuôi thân, để che đậy những khiếm khuyết thân xác. Bánh Giêsu là Bánh nuôi dưỡng tình yêu, bình an, và niềm vui, xoa dịu những khổ đau tinh thần trên hành trình đạt tới hạnh phúc trường sinh.
Trong cuộc sống, có những người chỉ lo chạy bon bon trên đường, nên đã không thể tìm thấy thứ mình cần tìm, họ đánh mất cả cơ hội thưởng thức tiếng suối reo và hoa đồng nội xinh đẹp bên đường. Người ta vì quá bận tâm đến cơm bánh nuôi thân xác, nên không còn thời giờ để chia sẻ tình yêu thương cho gia đình bé nhỏ mà các thành viên của họ đang cần. Bánh Giêsu là Bánh trường sinh được ban tặng cho những ai sống niềm tin kitô giáo, nhưng vì nhiều lý do, vẫn không ít người để mất cơ hội không đón nhận thần lương bất tử đó. Bánh Giêsu là Bánh nuôi linh hồn, Bánh có sức mạnh thiêng liêng nhằm giúp tâm hồn trưởng thành và thấy được, cảm nhận được “trường sinh bất tử” là có thật, là đang tuỳ thuộc tự do chọn lựa của mỗi người tin vào Đức Giêsu. Amen.
.
Lm. Nguyễn Thái
Tôi còn nhớ một trò chơi khi còn bé có tên là “thiên đàng hỏa ngục”. Trẻ con thường tụ họp nhau lại ở sân trường học. Nhiều trò chơi cần có hai nhóm, hoặc là “oánh tù tì” hay “thiên đàng hỏa ngục”. Một chuỗi trẻ con xếp hàng dài, chui qua một cái cổng do hai đứa đứng nắm tay nhau giơ cao lên làm cổng. Trẻ con vừa đi chui qua cổng vừa đọc: “Thiên đàng hỏa ngục hai bên. Ai khôn thì dại, ai dại thì khôn. Đêm nằm nhớ Chúa nhớ cha. Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn. Đến khi gần chết được lên thiên đàng.” Vừa đọc xong câu này, cổng xập xuống, chặn lại hỏi: “Lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục?” Bọn con trai thường mánh mung với nhau để về một phe, phe đó là phe xuống hỏa ngục. Thường thì phe này bao giờ cũng thắng trừ trò chơi nhẩy dây!
Trong các bài đọc hôm nay chúng ta được mời gọi để trở nên khôn ngoan và tìm kiếm sự khôn ngoan đích thực. Tuy nhiên sự khôn ngoan đích thực không thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu, ngoại trừ nơi chính Thiên Chúa, nơi Lời của Người, nơi chính Mình và Máu Con Thiên Chúa ban sự sống đời đời: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống ” (Ga 6: 51).
Trong bài đọc thứ hai hôm nay (Ep 5:15-20), Thánh Phaolô nói đến một khía cạnh của sự khôn ngoan. Đó là sự chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu, giữa sự thật và sự giả dối. Sống vâng theo thánh ý Thiên Chúa là đầu mối của sự khôn ngoan: “Hãy sống như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ… hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa” (Ep 5: 15-17).
Thánh ý Thiên Chúa nằm trong những luật tự nhiên của vũ trụ, trong lương tâm đạo đức của con người, và trong mạc khải của Thánh Kinh và Thánh Truyền. Trong những huyền thoại về “Vua Salomon Khôn Ngoan” đã được truyền tụng qua các thế hệ, có câu chuyện kể sau đây: ngày xưa, có một bà hoàng hậu rất giầu sang đã mời vua Salomon tới cung điện của bà để thử tài khôn ngoan chưa từng có trên đời của vị vua nổi tiếng này xem có đúng không. Bà đem trình vua Salomon hai bó hoa và tuyên bố: “Một bó hoa được chế tạo ra bởi một tay thợ thủ công tài giỏi, và một bó hoa thật cắt từ vườn hoa. Chúng tôi muốn được chứng kiến, qua sự khôn ngoan của ngài, xin ngài cho chúng tôi biết bó hoa nào là bó hoa thực.” Vua Salomon ngồi quan sát kỹ lưỡng mỗi bó hoa. Mầu sắc cũng như cành lá thật giống nhau. Cả hai đều có những giọt sương, và ngay cả những khuyết điểm bất toàn cũng giống nhau. Vua Salomon không thể nói lên sự khác biệt được. Ngay lúc vua sắp sửa chấp nhận thua cuộc thì một con ong đã bay vào cung điện qua cánh cửa sổ mở. Những cận thần trong cung điện cố gắng ra sức bắt đuổi con ong, nhưng vua Salomon ra dấu cho họ cứ để con ong trong phòng. Con ong bay lượn một vòng khắp phòng và sau cùng nó đã đậu lên một trong hai bó hoa. Lập tức, vua Salomon công bố bó hoa đó là hoa thật. Đấng Sáng Tạo đã xếp đặt định luật của Ngài nơi vũ trụ thiên nhiên để dạy ta biết phải học hỏi sự khôn ngoan của Ngài, Nguồn Mạch của thiên nhiên và sự sống trên vũ trụ nầy.
Một trong những tác giả bảo vệ đức tin ở thế kỷ thứ 20 là G.K. Chesterton. Trong cuốn “Orthodoxy” (New York: Image Books, 1959), Chesterton đã viết về sự quan trọng của truyền thống, một nguồn sống khôn ngoan vĩ đại cho các Kitô hữu: “Truyền thống có thể được định nghĩa như một sự mở rộng của quyền bầu cử. Truyền thống có nghĩa là bỏ phiếu cho phần ít người biết đến nhất trong tất cả các giai cấp, tổ tiên của chúng ta. Đó là nền dân chủ của những người đã chết. Truyền thống từ khước chịu phục tùng tập đoàn đầu sỏ nhỏ bé và kiêu căng của những người có vẻ tỏ ra quyền hành. Tất cả những người dân chủ phản đối lại những con người đang bị mất tư cách bởi tình cờ sinh ra. Truyền thống chống lại sự đánh mất tư cách của họ bởi tình cờ chết đi. Dân chủ nói với chúng ta không được chểnh mảng ý kiến của một người tốt, ngay cả nếu người đó là cha của chúng ta. Ở bất cứ cấp độ nào, tôi cũng không thể tách rời hai tư tưởng dân chủ và truyền thống; đối với tôi dường như chúng là một.”
Người khờ dại là một người hay một cộng đoàn tự giới hạn mình vào thời gian hiện tại. Chúng ta có rất nhiều điều phải học hỏi từ các tiên tri, các tư tưởng gia và các nhà hiền triết ở quá khứ. Truyền thống là tiếng nói khôn ngoan của họ.
Và trong bài Phúc Âm Chúa Giêsu đã mạc khải chân lý tối hậu của sự khôn ngoan là được nối kết với đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa qua việc đón nhận Mình và Máu của Con Thiên Chúa: “Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính Người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta” (Ga 5:57).
Trong Thông Điệp Ecclesia De Eucharistia, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hiệu năng ban ơn cứu độ của hy tế được thực hiện trọn vẹn khi Mình và Máu Chúa được tín hữu lãnh nhận qua việc rước lễ. Tự bản chất, hy tế tạ ơn hướng đến sự kết hiệp nội tâm của người tín hữu với Đức Kitô qua việc rước lễ, sự kết hiệp đó mà Người so sánh với sự kết hiệp trong đời sống Thiên Chúa Ba Ngôi thật sự đã thực hiện” (đoạn 16). Ngài đã trích lời của Thánh Êphrem đã viết như sau: “Người đã gọi tấm bánh là Thân Mình hằng sống của Người và đã lấp đầy tấm bánh đó bằng chính Người và Thánh Khí của Người. Tất cả anh chị em, hãy cấm lấy mà ăn; và cùng với bánh ấy, hãy ăn Chúa Thánh Thần. Vì đó đích thật là Mình Thầy và ai ăn sẽ có được sự sống đời đời” (đoạn 17).
Chúa Giêsu đã biết rằng đời sống con người tuy được Thiên Chúa ban cho mọi ơn lành, nhưng do tội lỗi đã làm cho cuộc sống trở nên đầy những gian nan, thử thách và thù nghịch. Để giúp chúng ta vượt qua những khó khăn này, Ngài đã trở nên “bánh từ trời”, hiện diện trong Nhà Tạm để thực hiện lời Ngài đã hứa. Ngài đã trở nên nguồn sức mạnh như Lửa và Thánh Khí để nâng đỡ chúng ta trên cuộc hành trình chông gai về thiên quốc.
Một câu chuyện kể về một em bé trai sống trong viện mồ côi. Em luôn ước ao rằng mình có thể bay được như chim. Em luôn thắc mắc tại sao mình không bay được, và lý luận rằng ở sở thú có những con chim còn to lớn hơn em nữa nhưng chúng lại bay được. “Tại sao mình không thể bay? Chắc có gì không ổn!” Em tự nghĩ như vậy.
Một em bé trai khác bị khuyết tật từ khi mới sanh. Em bị què không thể đi và chạy được. Em luôn mơ ước làm sao mình có thể đi lại và chạy nhảy như mọi em khác. Một ngày kia, em bé trai muốn được bay như chim, đi lang thang ngoài công viên, tình cờ gặp em bé bị khuyết tật đang chơi nghịch cát. Em đến làm quen và hỏi xem nó có muốn được bay như chim không. “Không”, em khuyết tật trả lời. “Tôi chỉ muốn được đi lại và chạy nhảy như mọi người thôi!” “Thế hả, tội nghiệp cho bạn!” “Thế chúng mình có thể làm bạn với nhau được không?” em muốn được bay như chim hỏi. “Được chứ!” Rồi hai em cùng chơi với nhau. Chúng đắp những ngôi nhà bằng cát, bắt chước những âm thanh của các loài chim chóc và thú vật, rồi lăn ra cười thích thú. Đang vui đùa thú vị thì cha của em khuyết tật đến với chiếc xe lăn đón con về nhà. Em muốn bay như chim nói: “Bạn là người bạn duy nhất, bạn ước ao đi lại và chạy nhảy như mọi người, nhưng không thể làm được. Tôi có thể làm điều đó cho bạn.” Rồi em trai mồ côi quay lưng lại, nói với em khuyết tật bám chặt lấy cổ nó, cõng trên lưng. Nó lấy đà chạy thật nhanh. Hai tay vòng ra sau ôm chặt lấy em khuyết tật. Nó chạy băng qua vườn cỏ. Ráng sức chạy nhanh hơn nữa băng qua công viên. Gió thổi vù vù trên khuôn mặt rạng rỡ của hai đứa trẻ. Người cha cảm động nhìn thấy đứa con khuyết tật của mình giang hai cánh tay ra đập lên đập xuống như chim bay, rồi nó la thật to: “Con đang bay! Ba ơi! Con đang bay!”
Dưới một góc cạnh nào đó, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu về sức mạnh của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Ngài sẽ giúp vượt qua nhưng gian nan thử thách mà tự sức chúng ta không làm được. Chúng ta phải lấy Bí Tích Thánh Thể làm trung tâm điểm của đời sống thiêng liêng.
Trong cuốn “The Song of the Bird”, cha Anthony de Mello, S.J., đã kể câu chuyện ngụ ngôn “Thượng Đế Là Lương Thực” như sau: Ngày kia Thượng Đế quyết định thăm viếng trái đất. Do đó Ngài đã sai một thiên thần đi dò thám trước khi đích thân Ngài xuống thăm viếng. Thiên thần trở lên và làm tờ tường trình như sau: “Phần đông loài người thiếu ăn và nhiều người không có công việc làm.” Thượng Đế phán: “Vậy chính Ta đích thân làm của ăn cho những ai đói khát và trở nên việc làm cho những ai thất nghiệp.”
Ngay những tháng đầu tiên bước chân vào tiểu chủng viện, chúng tôi đã được các cha giáo dạy bảo và thực hành việc tham dự Thánh Lễ mỗi ngày. Sau mỗi giờ học, trong thời gian giải lao 15 phút, tất cả các chủng sinh có thói quen vào nhà nguyện viếng Thánh Thể. Chính sự thực hành này đã là nguồn sức mạnh thúc đẩy và hỗ trợ tôi trong bước đường theo đuổi ơn kêu gọi.
Nơi Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta tất cả những gì Ngài có: Mình Máu Ngài, tình yêu, sức mạnh, niềm vui, sự bình an và khôn ngoan. Ngài không còn gì quý hơn để cho chúng ta nữa. Chính sự hiện diện thực sự của Ngài sẽ thay đổi cuộc đời của ta.
.
Bm. Minh Trân
Anh chị em thân mến,
Hôm nay con xin chia sẻ một vài suy tư về vấn đề ăn uống. Lý do là vì Lời Chúa trong Chúa Nhật tuần này nói đến chuyện ăn uống: bài đọc 1, nói đến rượu, tiệc: “Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi.” Bài đáp ca, thì kêu gọi: “Các bạn hãy nếm thử…” Và đến bài Phúc Âm, Chúa cũng phán: “Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống… ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời.”
Ngồi dọn bài giảng mà bụng con cứ sôi sùng sụng. Lời Chúa thì hướng về các vấn đề siêu nhiên, mà tâm trí con thì cứ toàn nghĩ lung tung… nào là dê nướng, heo rừng xào lăn, rồi lại thêm mấy đĩa tiết canh vịt thỉnh thoảng bà con mời thưởng thức đó đây… tội lỗi, tội lỗi…
Ăn uống, như chúng ta đều biết, là chuyện bình thường và là nhu cầu cần thiết của hết mọi người. Chúng ta được nghe, “Có thực mới vực được đạo.” Không ăn, thì không thể sống… trừ một vài trường hợp đặc biệt như trong trường hợp của cô Therese Newmann, là người được in 5 dấu thánh. Suốt 36 năm trường, cô chẳng ăn uống gì cả ngoài trừ rước Mình Thánh Chúa.
Therese được sinh ra đúng vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, 8 tháng 4, 1898, trong một gia đình Công Giáo đạo hạnh tại Bavaria, miền Bắc nước Ðức. Gia đình của Therese rất nghèo, sống bằng nghề nông. Ngay từ thuở niên thiếu, Therese đã mơ ước trở thành một nữ tu sang Phi Châu truyền giáo. Nhưng Thiên Chúa đã an bài một hướng truyền giáo khác cho cô.
Vào buổi sáng thứ Sáu đầu tiên của Mùa Chay, ngày 5 tháng 3 năm 1926, Therese được lãnh nhận dấu thánh. Khi nằm nghỉ trên giường, cô chợt thấy trong một thị kiến, Ðức Giêsu đang quì cầu nguyện ở vườn cây dầu và thấy các môn đệ đang ngủ. Cô cảm thấy dấy lên nơi tâm hồn niềm thương cảm vô biên đối với Ðấng Cứu Chuộc. Cô cảm thấy đau đớn tột độ ở gần nơi trái tim đến nỗi có thể chết được. Khi tỉnh lại, cô thấy một vết thương ở cạnh sườn bên trái, máu rỉ ra cho đến ngày hôm sau.
Các tuần lễ sau, cũng vào giờ đó Therese lại thấy Ðức Giêsu trong vườn cây dầu, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai. Mỗi lần như thế, vết thương cạnh sườn cô chảy máu chan hoà đến ngày hôm sau. Ngày thứ sáu 26 tháng 3, Therese thấy Chúa vác thánh giá và té ngã dưới sức nặng. Khi tỉnh lại cô thấy một vết thương hiện lên nơi bàn tay trái của cô, không cách chi che giấu được. Khi mẹ cô hỏi tại sao bị thương như thế, Therese trả lời rằng vết thương ấy đã xuất hiện cách tự nhiên. Trong đêm thứ năm tuần thánh, tức ngày 1 tháng 4, lần đầu tiên Therese được mục kích trọn đường thánh giá từ vườn cây dầu tới đỉnh núi Sọ và cái chết của Chúa trên thập giá.
Sau đó những vết thương khác xuất hiện thêm trên tay mặt và hai chân của cô. Cha sở Naber được mời đến. Cha vội đến nói với một linh mục khác và cha đã ghi như sau trong nhật ký của cha: “Therese nằm đó như một vị tử đạo, cặp mắt cô đầy máu và hai giọt máu chảy xuống má cô. Gương mặt cô nhợt nhạt như một người chết. Ðến 3 giờ chiều, giờ chết của Ðấng Cứu Chuộc, cô phải chịu những cơn đau khủng khiếp đến chết đi được. Sau đó, cô ngất đi hoàn toàn. Cha sở bị đánh động mạnh trước biến cố. Các dấu thánh ấy đồng thời khiến cha mẹ và cả gia đình của Therese sầu khổ tột độ.
Ngày 4 tháng 4 là Chúa Nhật Phục Sinh, Therese được thấy Ðấng Cứu Chuộc Phục Sinh. Cô cảm thấy khoẻ khoắn trong người để có thể ra khỏi giường.
Từ lễ Giáng Sinh 1926, Therese cảm nghiệm một sự thay đổi đột ngột là ngưng hẳn việc ăn uống. Hằng ngày sau khi rước lễ cô chỉ dùng vài giọt nước để giúp cô nuốt trôi Mình Thánh Chúa. Nhưng cha sở Naber chứng thực rằng sau tháng 9, 1927, cô không cần những giọt nước này nữa.
Từ đó trở đi, trong 36 năm liền, Therese sống mà không cần ăn uống gì cả. Mình Thánh Chúa là thức ăn duy nhất của cô. Có lần người ta hỏi cô rằng sao cô lại có thể sống được như vậy? Cô đơn giản trả lời: “Chúa làm được tất cả mọi sự mà.” Và chẳng phải Chúa đã nói: “Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống’ sao?”
Tiến trình phong chân phước và á thánh cho Therese Newmann đã chính thức được mở ngày 13 tháng 2 năm 2005 do Đức Cha Gerhard Mueller tại Regensburg, Germany.
Kính thưa quí ông bà anh chị em,
Ăn uống là nhu cầu cần thiết cho thân xác của chúng ta thế nào, thì việc Rước Mình và Máu Thánh Chúa cũng là nhu cầu cần thiết cho linh hồn và sự sống đời sau của chúng ta như vậy… và còn hơn thế nữa.
Chúng ta cũng biết rằng máu tiêu biểu cho sự sống. Do đó, ở điểm này, chúng ta hiểu thêm khi Chúa Giêsu phán dạy phải ăn thịt và uống máu Ngài, là Ngài dạy chúng ta phải nhận lấy sự sống của Ngài vào trong mình.
Như thế có nghĩa là gì? Con xin chia sẻ bằng một hình ảnh cụ thể. Mấy năm trước đây con có một cha bạn về thăm gia đình bên Việt Nam và khi về lại Mỹ có tặng cho con bộ sách chú giải thánh kinh của William Barclay. Cha nói bộ sách này rất hay. Và suốt mấy tháng trời mặc dù sách hay cỡ nào đi nữa thì nó cũng chẳng bổ ích gì cho con vì nó vẫn nằm trên giá sách, nằm ở ngoài con. Mãi cho đến một hôm con mở ra đọc… và rồi những dòng chữ quan trọng, những tư tưởng xúc tích được ghi khắc vào tâm trí con… thấm nhập vào con… Với Chúa Giêsu cũng thế, bao lâu Ngài chỉ là một nhân vật trong sách, trên kệ sách… và lại thật sự không ở trong ta, thì bấy lâu Ngài vẫn chẳng ích lợi và ý nghĩa gì cho ta.
Xin Chúa ban cho chúng con lòng yêu mến Thánh Thể tha thiết. Biết sốt sắng dọn mình và rước Mình Máu Thánh Chúa để được sống và được sống dồi dào.
.
Lm.Giuse Đỗ Đức Trì
Có nhiều người nói rằng: “Ở Việt Nam cứ quảng cáo tặng quà miễn phí là sẽ thu hút được nhiều người”. Có một cửa hàng bán sushi quảng cáo tặng mỗi người một miếng sushi bằng miếng chả giò ăn thử, vậy mà đã có hàng ngàn người xếp hàng lũ lượt để được ăn thử. Các cửa hàng, siêu thị quảng cáo: mua một tặng một (buy one get one free) luôn luôn đông người.
Hôm nay, Lời Chúa cũng đang mời gọi chúng ta: Hãy đến ăn bánh, uống rượu mà không phải trả tiền – free. Tuy nhiên, nhiều người tỏ ra dửng dưng với lời mời gọi quảng đại này của Chúa. Bài đọc một sách Châm Ngôn nói đến lời mời gọi của Đấng Khôn Ngoan. Đấng Khôn Ngoan chính là Thiên Chúa, là chủ tiệc, Ngài đã cất công dựng rạp, xây nhà, ủ rượu, làm thịt, dọn cỗ và cho các đầy tớ đi khắp nơi, mời gọi mọi người: “Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế, …các ngươi sẽ được sống và bước đi trong sự hiểu biết”. Lời mời gọi của Đấng Khôn Ngoan cho thấy sự quảng đại của Thiên Chúa. Thiên Chúa như người cha, như ông chủ hào phóng với tất cả mọi người. Ngài không quan tâm đến điều gì khác ngoài việc muốn cho mọi người được bước vào nhà, chung hưởng niềm vui và hạnh phúc với Chúa.
Tất cả hình ảnh các ngôn sứ Cựu ước dùng để diễn tả trước về bữa tiệc Thiên Chúa thiết đãi dân Người và đều nhắm tới một bữa tiệc ngập tràn niềm vui hạnh phúc cùng với thịt béo, rượu ngon mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện trong thời Tân Ước. Chúa Giêsu là Đấng đến để xây dựng Nước Thiên Chúa và Ngài mời gọi mọi người, mọi dân bước vào nhà của Chúa để cùng hưởng chung bữa tiệc hạnh phúc. Trong bữa tiệc này mọi người được ăn, uống chính máu thịt Con Thiên Chúa. Của ăn của uống này sẽ đem lại niềm vui, hạnh phúc và sự sống đời đời cho con người.
Tin Mừng hôm nay tiếp nối những đoạn Tin Mừng chúng ta đã nghe vào các tuần trước: Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người, những người Do Thái nghĩ rằng từ nay, theo Chúa họ sẽ không phải làm việc nữa vẫn có bánh ăn. Chúa Giêsu đã cảnh báo họ không những phải siêng năng làm việc để nuôi sống thể xác, mà còn phải chuyên chăm tìm kiếm lương thực nuôi sống linh hồn. Đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói rõ thứ lương thực nuôi sống linh hồn, đem lại sự sống đời đời là chính máu thịt của Ngài: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Khi Chúa Giêsu nói đến bánh từ trời, người Do Thái có thể dễ dàng chấp nhận, vì cha ông họ ngày xưa cũng được ăn Manna từ trời. Tuy nhiên, khi Chúa nói bánh đó là máu thịt của Ngài thì người Do Thái đã thực sự bị sốc. Họ tranh luận: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” Đối với người Do Thái, luật buộc họ phải tránh xa máu. Vì máu là sự sống, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, không ai được phép đụng đến máu, chỉ trừ các tư tế. Cũng vậy, luật Do Thái chỉ cho phép ăn một số thịt loài vật, có những con vật bị coi là vật cấm không được ăn vì ô uế. Do đó, khi Chúa Giêsu nói đến việc ăn thịt của Ngài là điều người Do Thái khó chấp nhận, họ nghĩ rằng, Chúa Giêsu mời gọi họ ăn thịt người.
Chúa Giêsu không mời chúng ta ăn thịt thường, mà Ngài mời gọi chúng ta ăn thịt và uống máu của Ngài. Thịt máu này được Chúa Giêsu ban tặng trong bữa Tiệc Ly khi Người cầm lấy bánh trao cho các môn đệ và nói: “Đây là mình thầy sẽ bị nộp vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn”. Người cầm lấy chén rượu trao cho các môn đệ và nói: “Đây là chén máu Thầy đổ ra cho muôn người được tha tội, các con hãy cầm lấy mà uống”. Với hành động này, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng của Thiên Chúa biến bánh thực sự trở nên thịt của Ngài và rượu nho trở nên máu của Người thật. Chúa Giêsu lại còn làm phép lạ để cho thịt của Ngài vẫn giữ nguyên hình dạng và mùi vị của bánh, và máu Người vẫn giữ nguyên hình dạng và mùi vị của rượu, để cho con người có thể dễ dàng đón nhận và hưởng dùng. Khi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu, chúng ta đón nhận trọn vẹn Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Vì là thịt máu của Thiên Chúa thật, nên lương thực này có sức mạnh thần linh của Thiên Chúa. Đón nhận máu thịt này, chúng ta đón nhận chính sức sống thần linh từ nơi Thiên Chúa thông chuyển cho chúng ta. Vì thế, Chúa Giêsu quả quyết: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”. Thiên Chúa sẽ ban cho những ai ăn thịt, uống máu Ngài được sống lại trong ngày sau hết và là bảo đảm cho sự sống đời đời.
Tuy nhiên, một khi đưa tay đón nhận máu thịt Chúa, chúng ta phải đáp ứng những đòi hỏi của Chúa, đó là không ngừng để cho máu thịt của Chúa thấm vào con người chúng ta, nuôi dưỡng và biến đổi chúng ta nên giống Chúa mỗi ngày. Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta cách sống phù hợp những đòi hỏi của Chúa, đó là phải tìm hiểu ý Chúa mỗi ngày để điều chỉnh lại cách ăn nết ở của mình: “Đừng sống như kẻ khờ dại nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời gian hiện tại để sống tốt”. Thánh Phaolô còn căn dặn kỹ hơn: “Anh em đừng để mình ngu muội, nhưng hãy tìm ra ý Chúa. Chớ rượu chè say sưa, vì say sưa đưa đến trụy lạc”. Thánh Phaolô còn khuyên chúng ta phải sống thể hiện niềm vui của những người con Chúa: “Hãy cùng nhau hát những bài thánh vịnh, thánh ca do thần khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca tụng Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha”. Sống như thế là chúng ta sống con người mới, con người được nuôi dưỡng bằng lương thực thần linh, bánh ban sự sống.
Thưa quý OBACE, lời mời gọi của Chúa ngày xưa cũng đang được gửi đến mỗi chúng ta ngày hôm nay. Cũng như các cha mẹ trong gia đình vui mừng khi thấy các con cái cùng xum họp trong nhà. Thiên Chúa cũng như thế, Ngài là cha muốn thấy tất cả con cái xum họp trong nhà của Ngài, cùng ăn tiệc thánh mà Chúa thiết đãi. Vì thế, sống tình con thảo trước hết là mỗi người đáp lại lời mời gọi của Chúa và sự mong đợi của Chúa, đến tham dự bữa tiệc Chúa ban tặng. Kế đến là lãnh nhận lương thực Chúa dọn sẵn là Mình và Máu của Chúa Giêsu. Ăn tiệc thánh này, Chúa sẽ đi vào trong trái tim, tâm hồn từng người chúng ta, thông truyền sự sống và biến đổi chúng ta nên con người mới và trở nên thánh. Đón nhận Mình Máu Chúa chúng ta được trợ lực để chiến đấu với những khó khăn thử thách và những cám dỗ của xác thịt, ma quỷ. Đón nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta được nuôi sống cả thể xác lẫn linh hồn và còn là bảo đảm chắc chắn cho hạnh phúc đời đời.
Thưa các bậc làm cha mẹ! Chúng ta vất vả sớm tối để lo cơm áo gạo tiền cho con cái là điều chính đáng. Chúng ta vất vả để lo cho gia đình được sung túc là điều hợp lý, nhưng nếu chúng ta không lo tìm kiếm lương thực thiêng liêng cho gia đình là điều vô cùng thiếu sót và không lo xây dựng cho gia đình mình êm ấm hạnh phúc, đạo đức đó là thiếu trách nhiệm. Có nhiều người cảm thấy lúng túng không biết phải bắt đầu từ đâu. Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta: Hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày trong Thánh Lễ, đón rước Ngài vào tâm hồn và đem Chúa về gia đình. Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết cách phải làm và Chúa sẽ biến đổi bản thân và gia đình chúng ta.
Lối sống của xã hội ngày nay đang khuyến khích và lôi kéo con người chiều theo bản năng. Mỗi khi để mình sống theo bản năng, con người sẽ bị suy thoái xuống hàng con vật. Chúng ta là con của Thiên Chúa, Chúa muốn chúng ta sống xứng với phẩm giá con người và còn xứng với phẩm giá là con Thiên Chúa. Chúa ban cho chúng ta phương thế để thực hiện lời mời gọi này. Mỗi người, cách riêng các bạn trẻ đừng ngại đến với chúa Giêsu Thánh Thể, đừng ngại rước mình máu Chúa, đừng ngại sống theo Lời của Chúa. Lời Chúa không làm cho chúng ta trở nên quê mùa lạc hậu, nhưng Lời Chúa giúp chúng ta mỗi ngày nên mới mẻ sinh động hơn; Mình Máu Chúa sẽ giúp ta mỗi ngày trở nên xinh đẹp hơn, đáng yêu hơn trước mắt Chúa và mọi người. Vì tâm hồn có Chúa sẽ có niềm vui, cuộc đời có Chúa, ta sống sẽ có ý nghĩa hơn. Amen.
.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Anh em hãy cẩn thận xét xem cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan” (Ep 5,15).
Khờ dại ở đây là gì ? Khôn ngoan ở đây là gì? Vấn để ở đây là không phải khôn ngoan theo kiểu người đời mà là những hiểu biết khôn ngoan của người có lòng tin làm vui lòng Thiên Chúa. Khôn ngoan theo kiểu người đời là khờ dại. Khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa mới là khôn ngoan. Vậy ta phải xem xét cẩn thận cách ăn nết ở của mình, đừng sống khôn ngoan theo kiểu người đời, nhưng hãy khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa. Khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa là gì, ta cùng suy gẫm.
Trong bài đọc 1 có viết: “Hãy đến mà ăn Bánh của Ta và uống Rượu do Ta pha chế. Đừng ngây thơ khờ dại nữa và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9,5-6).“Ta” đây là Đức Khôn Ngoan, tức là chính Thiên Chúa. “Bánh” đây, không phải là bánh mì mà là Bánh của Thiên Chúa, tức là Lời của Chúa. “Rượu” đây, không phải là rượu đế, rượu nho mà là Rượu của Thiên Chúa, tức là sự khôn ngoan của Chúa.
Ta hãy nghe thánh Phao-lô nói về sự khôn ngoan này: “Biết tận dụng thời buổi hiện tại” (c16); “tìm hiểu đâu là ý Chúa” (c17); “thấm nhuần Thần Khí” (c18). Như thế, người khôn ngoan là người biết tận dụng thời buổi hiện tại; biết tìm hiểu đâu là ý Chúa và thấm nhuần Thánh Thần.
Ta tận dụng thế nào và tìm hiểu ý Chúa ra sao ? Ta hãy đặt ra những câu hỏi và trả lời như: Ta sống trên đời này để làm gì ? Sống để ăn hay ăn để sống? Tại sao ta phải đau khổ, bệnh tật và phải chết ? Chết rồi đi đâu ?
Người khôn ngoan là người biết mình sống ở đời để làm gì. Vì khi biết được mục đích, ta sẽ làm mọi sự vì mục đích đó.
Nếu mục đích của ta là tiền của, danh vọng thì ta sẽ ra sức làm việc này việc kia để có được nhiều tiền, nhiều của; giàu sang phú quí và có danh vọng. Nếu mục đích của ta chỉ là sống ở đời này thôi, ta sẽ không cần đọc kinh, cầu nguyện làm chi cho mất thì giờ, mất công.
Nếu mục đích của ta là sự sống đời đời, ta phải lo tận dụng những năm tháng ta sống trên trần thế và tận dụng mọi cơ hội, mọi hoàn cảnh để đạt được Nước Trời. Nếu mục đích của ta là ơn Chúa, ta sẽ lo đọc kinh, cầu nguyện và dâng lễ. Nếu mục đích của ta là thiên đàng, ta sẽ tận dụng mọi khó nhọc, những bệnh tật, ta chịu đựng để đền bù những tội lỗi của mình, mai sau đỡ ở lâu trong luyện ngục.
Vậy ai là người khôn ngoan đây ?
Người ta nói, kiếp người là sinh-lão-bệnh-tử. Nghĩa là ai đã là người thì có lúc được sinh ra, lớn lên và già đi. Trong thời gian sống, lúc còn trẻ thì khỏe nhưng khi có “tí tuổi” thì hết bệnh này đến bệnh kia; lục phủ ngũ tạng “rơ” hết. 60 năm còn chạy tốt, nhưng 80 năm e sụm bà chè. Và cuối cùng là chết. Ai cũng phải chết.
Về kiếp người ta nghĩ cũng lạ. Lúc mới sinh, tay chân nhỏ xíu, làm việc, đi đứng không được, phải nằm, phải lật, phải bò, rồi mới tập tễnh bước đi. Răng cỏ không có, ăn không được, phải có người đút, mớm cho ăn. Ấy thế, khi lớn lên, trưởng thành được một thời gian, khi tuổi già sức yếu, có chân, có tay đấy nhưng cũng chẳng làm được gì, đi đứng phải có người giúp hay phải chống gậy; răng cỏ rụng dần, trơ trơ cái lợi; cũng không tự mình ăn được phải có người đút cho. Khi không còn sức ăn nữa thì chết.
Thế thì, trước khi được sinh ra ta ở đâu và sau khi chết ta đi đâu? Ta sống ở đời này để làm gì thế ? Chẳng lẽ ta sống chỉ để ăn sao ? Chết rồi là hết sao ?
Con vật chết là hết, nhưng con người chết chưa hết, vì ta có linh hồn. Thực tế cho thấy, ở đâu hay bất cứ thời đại nào, có đạo hay không có đạo, người ta đều cầu cho người chết. Cầu nguyện để làm chi ? Cầu nguyện cho người chết mau lên nhập Niết Bàn hay mau được lên Thiên Đàng. Nếu người chỉ lo sống ở đời này, không lo nên thánh nên thiện, thì chết rồi có được lên thiên đàng không; có được nhập niết bàn bàn không ? Chắc chắn là không rồi.
Bởi đó mà thánh Phao-lô khuyên: “Đừng sống khờ dại nữa, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì ta đang sống trong những ngày đen tối”. Nghĩa là ta phải biết tận dụng những thời gian mình còn đang sống, không phải để làm giàu mà là để lập công; để nên thánh nên thiện. “Ta đang sống trong những ngày đen tối”, không phải là ta đang sống trong những ngày xấu, mà những ngày này đối với những ngày ta được sống trong ánh sáng hạnh phúc thiên đàng thì những ngày ta sống trên trần gian này là đen tối. Một cách chơi chữ thôi.
Có thể nói những ngày ta đang sống là những thời cơ thuận lợi, là dịp rất tốt để ta có thể đạt được hạnh phúc thiên đàng. Ta phải chuẩn bị cho sự sống đời đời của ta ngay từ bây giờ, chứ đừng chỉ dựa vào sự cầu nguyện của người khác. Phần của ta phải là chính, ta phải cố gắng đến 90 hay 99%, thì ta mới cơ may lên thiên đàng nhanh chóng, không thì sẽ rất lâu đấy.
Người có được sự hiểu biết này là người khôn ngoan và thấm nhuần Thánh Thần. Vì họ ăn Bánh Lời Chúa; họ nghe, suy niệm và sống Lời Chúa. Hằng ngày họ đến với Chúa để xin ơn trợ lực. Với ơn Chúa họ đã, đang và sẽ cố gắng cho đến hơi thở cuối cùng. Còn sống được ngày nào là họ cố gắng ngày đó. Họ tận dụng mọi cơ hội để nên thánh nên thiện; họ tận dụng những thời gian, những giây phút, những ngày giờ để lập công, đền tội.
Nào là những khó khăn, vất vả; nào là thất bại, ốm đau; nào là những gian truân, khốn khổ, họ chấp nhận hết những sự đó để đền tội ngay ở đời này, cũng như giúp họ biết kiên trì, nhẫn nại mà sống khiêm nhường, hạ mình. Chắc chắn họ sẽ có những thành công và thành công lớn nhất của họ là nên thánh nên thiện. Đó chẳng phải là người khôn ngoan lắm sao !!!
Cái khôn ngoan này là khôn ngoan của Chúa, vì do việc nghe, suy niệm và sống Lời Chúa mà ra. Càng suy niệm và sống Lời Chúa bao nhiêu ta càng hiểu biết nhiều bấy nhiêu. Hiểu biết đây là hiểu biết chân lý; hiểu biết ý Chúa; hiểu biết về thiên đàng và tận dụng những thời gian mình đang sống để lên thiên đàng sống đời đời.
Việc này tôi gọi là : “Suy Lời Chúa, sống sự đời”. Nghĩa là ta suy gẫm Lời Chúa, để ta có sự khôn ngoan của Chúa mà sống sự đời. Nói theo kiểu thánh Phao-lô là tận dụng sự đời, nhằm chuẩn bị cho tương lai của mình. Tương lai của mình có sáng lạn hay không là do mình biết chuẩn bị ngay từ bây giờ. Mình có được lên thiên đàng hay không là do có biết tận dụng những thời gian mình sống trên trần gian này hay không.
Thế thì thì ai khôn ai dại ? Người biết chuẩn bị xa là người khôn ngoan. Người biết tận dụng thời buổi hiện tại để mai sau được lên thiên đàng là người khôn ngoan.
Vậy ta hãy suy gẫm Lời Chúa để ta có sự hiểu biết và nhờ sự hiểu biết đó mà ta biết tận dụng những ngày tháng mình sống trên trần gian này để chuẩn bị sau này ta lên thiên đàng. Ta sẽ nên người khôn ngoan, sống vui, sống khỏe ở đời này và ngày sau được sống đời đời với Chúa.
.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Có những tình yêu cho đi mà không cần hồi đáp. Quảng đại trao ban mà không toan tính thiệt hơn. Như tình yêu của dòng Nước. Nước ôm ấp đất, trao ban cho đất sự sống , và phù sa một cách nhưng không. Vượt hơn hẳn tình yêu của nước người ta ví đó là tình mẹ. Tình người mẹ không chỉ là giọt nước mà là cả một biển cả bao la biển rộng.
Trong bài hát “Mẹ cho con tất cả” đã nói lên điều ấy.
“Lòng mẹ cho con như trời như biển
Con sẽ muôn đời nhớ mãi không quên”
Bởi vì, trong biển bao la ấy :
“Mẹ cho con máu đỏ hình hài
Mẹ lo con hơi ấm những ngày trong nôi”,
Tình mẹ mãi theo con qua dòng sữa ngọt và tiếng hát ầu ơ có khi thức trắng đêm thâu:
“Dòng sữa thơm môi bao canh dài mẹ thức
Câu hát ầu ơ con ngủ trên tay”
Sự sống của mẹ là sự sống của con. Mẹ hy sinh đến hao gầy vì con:
“Mẹ cho con bước nhỏ đầu đời
Mẹ nhai cho cơm bún lưỡi lừa cá xương”
Có mẹ con không sợ đói, không sợ khổ và cả không sợ hiểm nguy, vì:
“Giọt nắng quê hương mẹ nghiêng đầu che mát
Cơn giông bất chợt mẹ khoác áo che mưa”
Hôm nay Chúa Giê-su bảo chúng ta rằng: tình yêu của Ngài vượt xa mọi tình yêu trên thế gian. Bởi tình Ngài như dòng nước mang lại sự mát mẻ trong ta và như tình mẹ mang lại hơi ấm tình thương.
Cuộc đời của Ngài luôn cho đi, cho đi để tha nhân được sống và sống dồi dồi. Trong suốt hành trình dương thế, Ngài luôn cho đi tình thương, cho đi thời giờ để xoa dịu nỗi đau cho nhân thế. Sự cho đi của Ngài đi đến tột cùng là cho đi đến giọt máu cuối cùng để nguồn ơn thánh đổ tràn đầy xuống nhân gian. Ngài còn cho đi qua tấm bánh được bẻ ra để trao ban sự sống đời đời cho nhân loại. Ngài bảo rằng “ai ăn bánh Ngài thì sẽ sống muôn đời”.
Xem ra cuộc đời phải biết cho đi, càng cho đi thì giá trị mình càng cao. Giá trị con người không dựa vào tiền tài hay địa vị mà dựa trên những gì họ cống hiến cho tha nhân.
Nhưng trong dòng đời luôn vội vã với “cơm áo gạo tiền”. Tất bật lo toan đủ điều khiến chúng ta chẳng có giờ nghĩ đến tha nhân. Trong dòng đời vội vã đó nhiều người dường như đã bỏ rơi đồng loại, đôi khi thiếu sót bổn phận với cả người thân của mình. Họ chỉ lo đối phó với công việc, với nhu cầu bản thân mà cả người thân và bạn bè.
Chúng ta được tạo dựng đâu phải để sống riêng cho mình, mà còn phải biết quan tâm tới những người khác, đặc biệt là người bất hạnh, nghèo đói. Đây là quy luật của cuộc đời luôn “cho” và “nhận”. Đã nhận nhưng không thì cũng phải quảng đại cho đi. Nhưng đáng tiếc, nhiều người chỉ biết nhận mà chẳng bao giờ biết cho.
Có một người sắp chết đuối, mọi người vây quanh hô lớn: “Hãy đưa tay ông ra cho chúng tôi cứu!”, nhưng ông ta lưỡng lự để rồi vật vã chống cự với dòng nước. Và dường như thà chết chứ không chịu đưa tay ra. Một người bạn thân biết ý liền nói: “Thằng này nó chỉ nhận chứ không bao giờ cho ai nên nó thà chết chứ không đưa ra đâu”. Thế là, người ta nói với nó: “Hãy nắm lấy tay tôi đi!”, và ngay lập tức, ông ta đã nắm chặt lấy!
Sự khác nhau đó là gì? Rõ ràng người đàn ông trong câu chuyện này thường được nhận nhiều hơn là cho đi và ông ta đã suýt chết vì chỉ muốn được nhận!
Con người là thế! Từ thuở lọt lòng mẹ, đã biết nắm tay lại. Chỉ biết nhận và không biết cho. Đó là lý do cuộc đời thường tranh giành nhiều hơn là nhường nhịn, là loại trừ nhiều hơn là đùm bọc yêu thương.
Ước gì mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Xin cho tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Một giáo lý viên muốn chơi khăm ông cha phó: “Thưa cha, Hội Thánh dạy rằng phải kiêng thịt mỗi ngày thứ sáu. Vì thế, hôm nay ngày thứ sáu, con không dám rước Chúa vì rước Chúa là ăn thịt, uống máu Chúa Giêsu. Mà ăn thịt là lỗi luật Hội Thánh dạy”. Chắc hẳn ông cha phó dù mới ra lò cũng có đủ cách, đủ kiểu để thoát cạm bẩy của mấy tay giáo lý viên tinh nghịch ấy. Tuy nhiên, qua câu chuyện vui này, chúng ta có lẽ dễ thông cảm với người Do Thái xưa thấy khó chịu khi nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Tin mừng tường thuật rằng họ đã tranh luận sôi nổi với nhau rằng: “làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52).
Kho tàng các chuyện dân gian về tình mẫu tử hay tình hiếu thảo vẫn có đó nhiều mẫu gương các bà mẹ cho con “uống máu”mình hay những người con hiếu thảo cắt thịt để nuôi mẹ già. Dù vậy, khi nghe đến các từ ăn thịt và uống máu người, thì chúng ta vẫn thấy gai gai, rờn rợn chút nào đó. Thế nhưng, có thể nói rằng tất cả mọi người đều đã từng ăn uống thịt máu người để được sống. Cứ vào mỗi dịp chuẩn bị cho các em xưng tội rước lễ lần đầu, tôi thường nói lên sự thật này, đó là con người chúng ta thoặt sinh ra hầu hết đều nhờ chính thịt máu của mẹ qua dòng sữa để sống và lớn lên. Đã từng một thời, nhiều bà mẹ không ý thức tầm quan trọng của dòng sữa mình trong việc nuôi con thưở con mới lọt lòng và khi con còn thơ bé. Nhờ khoa học tiến bộ và cũng nhờ các phương tiện thông tin đại chúng, ngày nay người ta biết khôn ngoan hơn khi nhìn nhận: “sữa mẹ là sữa tốt nhất cho trẻ sơ sinh và các trẻ nhỏ”. Qua hình ảnh dòng sữa mẹ, xin được chia sẻ đôi điều về chính Thịt Máu Chúa Kitô là quà tặng nhưng không, là phương dược kháng bệnh tuyệt vời và là nguồn ban sự sống đời đời.
Thánh Thể là quà tặng nhưng không. Nói rằng nhưng không thì có thể là thừa, vì đã nói là quà tặng thì không đòi hỏi phải trả tiền hay công sức. Tuy nhiên, không nói thì cũng có thể thiếu vì trong thực tế đằng sau nhiều quà tặng vẫn có đó hậu ý “bánh ít trao đi, bánh nhì trả lại” hay chuyện trả nợ đời của những bữa tiệc cưới hỏi, đám đình. Dòng sữa mẹ trao ban cho con thơ thì như là tuyệt đối nhưng không, nghĩa là tất cả chỉ vì con và cho con, ngay cả khi con chưa cất tiếng khóc vì khát sữa. Thiên Chúa được nhân cách hóa bằng Đức Khôn ngoan đã bảo “Hãy đến mà ăn bánh của Ta, và uống rượu do Ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa…”(Cn 9,5). Ngôn sứ Isaia cũng đã từng khẳng định: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon…”(Is 25,6) và ngài đã nói thay Thiên Chúa: “Đến cả đi, hỡi những ai đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mà mua mà dùng; đến mua rượu, mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1). Thánh Thể là quà tặng nhưng không. “Anh em đã lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không”(Mt 10,8).
Thánh Thể la phương dược kháng khuẩn, phòng bệnh tuyệt vời. Khôn ngoan hơn người xưa, các bà trẻ ngày nay ý thức tầm quan trọng của những “giọt sữa trong” của mình khi đứa con vừa chào đời, là một linh dược giúp đứa trẻ kháng bệnh tật hữu hiệu. Chúa Kitô minh nhiên phán: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,27-28). Mẹ Hội Thánh còn dạy chúng ta: “Việc rước lễ giúp chúng ta xa lánh tội lỗi. Chúng ta rước lấy Mình Chúa Kitô, “đã phó nộp vì chúng ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế, bí tích Thánh Thể không thể kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, nếu không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi” (GLCG chung số 1393).
Thánh Thể là nguồn ban sự sống thần thiêng, nhờ được kết hiệp nên một với Chúa Kitô. Qua dòng sữa, đứa trẻ ngày càng khắng khít với người sinh ra nó. Nhờ dòng sữa, cái tình giữa người mẹ và đứa con thêm đậm đà. Chúa Kitô đã từng khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hiệp với Tôi, và Tôi luôn kết hiệp với người ấy”. Đời sống trong Chúa Kitô có nền tảng nơi bí tích Thánh Thể: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57) (GLCG chung số 1391).
Không ai tự nhận là người khờ dại. Chúng ta đều muốn là những người khôn ngoan, nhưng có thể là “khôn ngoan của con cái thế gian”. Người khôn ngoan kiểu này thì tìm mọi cách thế để có được những thiện hảo đời này kể cả những cách thế phi nghĩa (x.Mt 16,1-8). Không chối cãi rằng vẫn có đó những bậc hiền triết và khôn ngoan đáng trân trọng. Tuy nhiên khôn ngoan theo kiểu này vẫn chưa đủ bảo đảm cho sự sống đời đời vì người ta có thể ỷ lại vào luận lý nhân loại để khước từ Đấng là bánh hằng sống từ trời xuống (x.Mt 11,25-56; Lc 10,21). Ngoài sự khôn ngoan chính đáng thì cần phải có lòng tin. Dù luận suy thế nào đi nữa thì Bánh hằng sống là nguồn ban sự sống đời đời, là phương dược xóa tội và giúp chống lại chước cám dỗ, là quà tặng nhưng không, mãi là mầu nhiệm của đức tin.
Nói đến đức tin thì chúng ta nhìn nhận đó là hồng ân Chúa ban và cũng là sự dấn thân đáp trả của chúng ta. Sự đáp trả này đòi hỏi nhiều sự từ bỏ. Một trong những sự từ bỏ phải có, đó là chấp nhận sự hạn chế của lý trí trước các thực tại siêu nhiên, vì đối tượng của đức tin không minh nhiên rõ ràng theo sự luận lý của trí khôn nhân loại. Vì tin Chúa Kitô là Đấng có lời quyền năng trên bệnh tật, trên sự chết, trên cả thiên nhiên và Người là Đấng từ bi, nhân hậu, đầy lòng xót thương, nên chúng ta tin nhận những gì Người mạc khải.
Lạy Chúa, con tin, nhưng xin củng cố đức tin cho chúng con (x.Mc 9,24)
.
THÁNH THỂ, NHIỆM TÍCH VÔ CÙNG CAO QUÝ!
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong ba Chúa Nhật liền, Lời Chúa tập trung một chủ đề duy nhất, đó là Thánh Thể. Điều này cho thấy bí tích Thánh Thể quan trọng như thế nào đối với người Kitô hữu. Giáo Hội dành nhiều thời gian tìm hiểu ý nghĩa bí tích Thánh Thể, là bí tích được cử hành mỗi ngày. Theo ý định đó, hôm nay, chúng ta tìm hiểu về ba điều quan trọng nhất nơi bí tích Thánh Thể bằng việc trả lời ba câu hỏi này: 1) Làm sao bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa? 2) Chúa Giêsu hiện diện thực sự nơi Thánh Thể không? 3) Chúng ta phải chuẩn bị thế nào là để rước lễ?
1- Bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa
Trước hết, chúng ta phải nói rằng bí tích Thánh Thể là sự mới mẻ nhất do Chúa Giêsu mang lại, nhưng đồng thời cũng là mạc khải khó tin nhất đối với con người mọi thời. Quả thế, khi Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Người Do Thái đã sốc khi nghe những lời này. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52).
Đối với chúng ta hôm nay, khi dự thánh lễ, câu hỏi đầu tiên mà chúng ta thường được đặt ra là làm sao bánh và rượu trở thành Mình và Máu thánh Chúa?
Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong Giáo Lý Công Giáo, theo đó, khi linh mục truyền phép, chính Chúa Thánh Thần là Đấng ngự xuống trên các lễ vật, nhờ quyền năng thần linh mình, Người biến đổi bánh thành Mình Chúa Kitô và rượu thành Máu Chúa Kitô.
Theo ngôn ngữ thần học, đây là sự biến thể (transsubstantiatio), nghĩa là một sự biến đổi từ bên trong, bản thể của bánh rượu không còn là bánh rượu nữa, nhưng trở thành bản thể của Chúa Kitô, thành Thịt và Máu Người. Thánh Cyrillô thành Giêrusalem (313-387) giải thích về sự biến thể này như sau: “Bánh này không còn là bánh, dù bằng chứng của vị giác thế nào đi nữa, nhưng là thân mình Chúa Kitô. Rượu này không còn là rượu dù giác quan có nói thế nào đi nữa, nhưng chính đây là máu Chúa Kitô” (Giáo Lý Nhiệm Huấn IV, 9)
Bởi vậy, khi chủ tế đọc lời khẩn cầu (epiclesis) chính là lúc Chúa Thánh Thần thực hiện sự biến đổi kỳ lạ này: “Chúng con nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hoá những của lễ này, để trở nên cho chúng con, Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.” Sau đó, chủ tế mới đọc: “Này là Mình Thầy… Này là chén Máu Thầy… sẽ đổ ra cho các con…” (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
Như thế, qua linh mục, Chúa Thánh Thần dùng quyền năng thần linh của Người biến đổi bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô.
2- Sự hiện diện đích thực
Câu hỏi thứ hai mà chúng ta thường thắc mắc là Chúa Giêsu có hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể không? Đây cũng là “hòn đá vấp chân cho nhiều người.” Đối với những người Tin Lành và Anh Giáo, họ chỉ tin và cử thành thánh lễ như là sự tưởng nhớ; bánh và rượu chỉ là biểu tượng về sự hiện diện thiêng liêng của Chúa; họ không tin rằng Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Thánh Thể.
Đối người Công Giáo, di sản quý báu nhất mà Giáo Hội có được chính là niềm tin vào bí tích Thánh Thể. Theo đó, chúng ta xác tín và tuyên xưng rằng: “Trong bí tích Thánh Thể cực trọng, sự hiện diện “Mình và Máu, cùng với linh hồn và thần tính, của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và vì vậy, Đức Kitô được ẩn chứa cách đúng đắn, chân thật và bản thể” (Giáo Lý, số 1374).
Thế nên, Chúa Giêsu thực sự hiện diện dưới hình bánh rượu, dầu giác quan con người không thấy. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng hiện tại hóa hy tế thập giá xưa của Chúa Giêsu trong mỗi thánh lễ được cử hành. Nên mỗi thánh lễ là một phép lạ đang diễn ra trước mắt chúng ta. Thánh Thể quả là “mầu nhiệm Đức Tin”; Thánh Thể là nhiệm tích vô cùng cao quý!”
Bởi thế, để đến với Thánh Thể, chúng ta cần có đức tin. Nhờ cặp mắt đức tin, chúng ta tin nhận rằng Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Thánh Thể, Người ban Thịt và Máu Mình làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Về điều này, trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều phép lạ Thánh Thể xảy ra để cũng cố niềm tin cho chúng ta. Ở Lanciano, nước Italia, vào thế kỷ thứ VIII, có một linh mục, thuộc Dòng thánh Basiliô, rất giỏi về khoa học, nhưng lại yếu đức tin, ngài thường nghi ngờ sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thánh lễ. Một ngày nọ ngài đi hành hương ở Rôma. Trên đường về, ngài dâng lễ tại một nhà Dòng, sau khi truyền phép, một phép lạ xảy ra ngay tại bàn thờ, bánh trở thành thịt và rượu trở thành máu thật Chúa Giêsu. Ngày nay, người ta còn lưu giữ dấu tích cục máu đông tại Lanciano, được các nhà khoa học kiểm chứng thuộc nhóm AB như là bảo chứng của niềm tin vào Thánh Thể.
3- Chuẩn bị xứng đáng để rước lễ
Chúa Giêsu không chỉ mời gọi chúng ta đến nhà thờ để tham dự thánh lễ nhưng Người còn mời gọi chúng ta chuẩn bị xứng đáng để rước lễ.
Liên quan đến vấn đề này, trong văn kiện Bữa Tiệc Thánh thánh, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói đến ba hạng người lên rước lễ:
1) Hạng người thứ nhất lên rước lễ chỉ vì phong trào, họ sợ người ta nghĩ mình không đạo đức hay thấy người khác lên, mình cũng lên, nhưng họ không có lòng yêu mến Thánh Thể. Họ rước lễ cách bất xứng.
2) Hạng người thứ hai là những người đang mắc tội trọng, nhưng đã đánh mất cảm thức về tội, không xưng tội, nhưng vẫn lên rước Mình Thánh Chúa. Họ rước lễ cách bất xứng và thêm tội phạm thánh. Giáo Hội dạy phải xưng tội trọng trước khi lên rước lễ.
3) Hạng người thứ ba lên rước lễ với tâm hồn sạch tội và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể. Họ đón nhận được muôn vàn phúc lành đến từ Thánh Thể.
Chúng ta thuộc hạng người nào trong ba hạng người trên? Tôi không có quyền xét đoán và xếp loại ai, nhưng tôi để cho mỗi người xét mình và tự trả lời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ, rước Mình Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời, xin giúp chúng con luôn ý thức rằng bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và mỗi người chúng con. Amen!
.
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XX.TN-B – Ga 6, 51-58) trình thuật tiếp “Diễn từ trong hội đường Ca-phac-na-um” của Đức Giê-su Ki-tô (Ga 6, 21-66). Nghe lời giảng, đám người Do Thái xầm xì với nhau: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6, 42). Tuy vậy, nhưng Đức Ki-tô vẫn tiếp tục bài giảng về Bánh Trường Sinh. Người khẳng định: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”; khiến đám người Do Thái lại càng thắc mắc: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
Cứ kể ra với trí khôn loài người thì điều Đức Ki-tô nói là thậm vô lý. Nếu nói rằng Man-na là bánh từ trời xuống do Thiên Chúa ban tặng thì còn có thể hiểu được, bởi thực sự Man-na từ trời đổ xuống như mưa trước mắt mọi người (Xh 16, 1-36). Tuy nhiên, giờ đây Đức Ki-tô lại nói chính Người là bánh hằng sống từ trời xuống, rồi còn khẳng định: “bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”; thì làm sao nghe lọt tai, nhất là loài người vẫn tự cho mình là “người” chứ không phải là “thú vật” mà có thể ăn thịt đồng loại. Cái động lực cơ bản khiến đám người Do Thái cho Lời dạy của Đức Ki-tô là vô lý, chính là lòng tin. Bởi họ không tin “ông Giê-su con bác thợ mộc Giu-se” là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên mới xầm xì: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
Nếu họ hiểu và tin rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa thì vấn đề sẽ sáng tỏ ngay: Với quyền năng vô hạn của Thiên Chúa thì mọi điều “không thể” đều trở nên “có thể”. Dựng nên cả vũ trụ và con người còn được, thì sá gì một chuyện nhỏ nhặt đó. Không hẳn chỉ có đám người Do Thái thời đó cho Lời dạy của Đức Ki-tô là thậm vô lý, mà ngay ở cái thế kỷ XXI này cũng không thiếu những kẻ nghe xong liền chẹp mịêng: “Ôi dào! Chuyện không tưởng!” Họ cứ hiểu Lời dạy của Đấng Cứu Độ theo nghĩa đen và theo quy ước của loài người, bởi cho đến hiện nay đâu có một chứng tích nào cho thấy thật sự các Tông đồ tiên khởi và các tín hữu đã trực tiếp ăn thịt và uống máu của Đức Ki-tô.
Vấn đề đặt ra ở đây là họ không hiểu “nghĩa ẩn dụ” (ví ngầm) của Lời Chúa, như trong Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 37) đã dạy: “Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; ẩn dụ nói về đức tin; luân lý nói tới hành động; loại suy nói về số phận ta)”
Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 116-118) giải thích rất rõ:
- Nghĩa văn tự:Đây là nghĩa mà lời Thánh Kinh nêu lên và được khoa chú giải khám phá ra khi tuân theo những qui luật để giải nghĩa đúng. “Tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh đều dựa vào nghĩa văn tự” (Thánh Tô-ma A-qui-nô. Tổng luận 1,1,10, 1.). (Giáo lý HTCG, số 116).
- Nghĩa thiêng liêng :Nhờ sự thống nhất trong ý định của Thiên Chúa, không những bản văn Thánh Kinh, mà cả các thực tại và biến cố được bản văn đề cập đến, đều có thể là những tiên trưng:
a- Nghĩa ẩn dụ: Chúng ta có thể hiểu thấu đáo hơn các biến cố bằng cách nhận ra ý nghĩa của nó trong Đức Ki-tô. Ví dụ cuộc vượt qua Biển Đỏ là tiên trưng cuộc chiến thắng của Đức Ki-tô, do đó cũng là tiên trưng của phép Thánh Tẩy ( x. 1Cr 10,2).
b- Nghĩa luân lý: Các biến cố được Kinh Thánh thuật lại phải dẫn chúng ta đến một cách ăn ở chính trực. Các biến cố đó được viết ra “để răn dạy chúng ta” (1 Cr 10, 11) ( x. Dt 3-4, 11).
c- Nghĩa thần bí: Chúng ta có thể đọc thấy ý nghĩa vĩnh cửu của các thực tại và biến cố, khi chúng hướng chúng ta về Quê Trời. Ví dụ Hội Thánh dưới đất là dấu chỉ Giê-ru-sa-lem trên trời ( x. Kh 21,1-22,5) (Giáo lý HTCG, số 117).
Hai câu thơ thời trung cổ tóm tắt ý của bốn nghĩa như sau : “Nghĩa văn tự dạy về biến cố, Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin, Nghĩa luân lý dạy điều phải làm, Nghĩa thần bí dạy điều phải vươn tới.” (Rotulus prigiecaris I : ed A WALZ : Angelium 6 (1929) Augustin de Dace).” (Giáo lý HTCG, số 118).
Đúng là Đức Ki-tô luôn dùng dụ ngôn trong khi giảng dạy. Người muốn cụ thể hoá ý nghĩa thiêng liêng thần bí ra bằng những hình ảnh sự vật trong thiên nhiên hay con người trong xã hội. Trước đó, Người đã dùng hình ảnh thực vật hay khoáng vật và nếu có dùng tới động vật thì chỉ là động vật cấp thấp như súc vật nuôi trong nhà hay động vật hoang dã. Lần này thì Người dùng tới động vật cao cấp là con người, và hơn thế nữa còn là Con Người siêu đẳng vì ngoài bản tính loài người còn có cả một bản tình siêu việt là bản tính Thiên Chúa nữa. Vì thế, phải hiểu Thịt và Máu Đức Giê-su là của ăn tâm linh bổ dưỡng linh hồn. Thức ăn tâm linh thì chủ yếu phải ăn bằng tâm linh, chớ không phải bằng thể xác. Điều quan trọng để được bổ dưỡng tâm linh là phải gặp gỡ được Đức Giê-su và nhận được sức mạnh từ nơi Người. Việc gặp gỡ Người ở đây cũng cần được hiểu là gặp gỡ bằng tâm linh chứ không phải bằng thể chất.
Nói đến gặp nhau thường thì người ta hay nói đến cái “duyên”, nghĩa là phải có một sự đồng cảm hay một sự cộng hưởng tư tưởng nào đó làm “duyên cớ” hội ngộ (Vd: Tư tưởng lớn gặp nhau). Tất nhiên ở đây không nói đến chuyện gặp nhau bằng thể xác kiểu như “Gặp nhau tay bắt mặt mừng” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Dầu và nước không thể hòa tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải có những hóa tính căn bản giống nhau mới hòa tan với nhau được (Vd: muối hoặc đường có thể hòa tan trong nước).
Cũng vậy, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8), nên muốn gặp hay kết hiệp với Người thì chính mình cũng phải có tình yêu. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có rước lễ hết ngày này qua tháng khác. Vâng, “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1Ga 4, 8); “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta… Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4,12-16). Quả thật không tình yêu thì đừng nói đến chuyện gặp gỡ Thiên Chúa.
Hóa cho nên “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. Vì thế, anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa.” (Ep 5, 15-17). Muốn hiểu được ý Chúa thì phải làm sao gặp gỡ Chúa, mà muốn gặp gỡ Chúa thì phải “sống như người khôn ngoan”. Những tư tưởng trong Bài đọc 2 hôm nay (Ep 5, 15-20) đã nhắc nhở người tín hữu phải biết “sống khôn ngoan theo Thánh ý Chúa”, phải biết chăm lo đến đời sống thiêng liêng, phải biết nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng bằng phương cách cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, ca tụng ngợi khen Thiên Chúa, và nhất là phải biết dự Tiệc Thánh Thể, rước Mình và Máu Thánh Chúa.
Phải luôn luôn tâm niệm rằng việc ăn Mình và uống Máu Chúa hằng ngày không bao giờ là những hành động biểu diễn bên ngoài hoặc những việc làm vô thức theo thói quen hay vì sĩ diện. Ý Chúa dạy không phải và không thể là trực tiếp ăn Thịt và uống Máu Chúa, cũng như không phải và không thể là cứ vô tư ăn bánh và uống rượu đã truyền phép mà không biết dọn dẹp sạch sẽ ngôi đền Thánh Linh, sẵn sàng “Mở hồn ra với Chúa, mở tim ra với đời”. Thật vậy, việc “mở miệng ra ăn” Mình Thánh Chúa chỉ thực sự đem lại hiệu quả tốt đẹp, đem lại cuộc sống vĩnh cửu mai sau, khi linh hồn biết “mở ra đón Chúa” và trái tim biết “mở ra với anh em”. Lương thực siêu nhiên phải được ăn bằng hành động siêu nhiên là thế.
“Mở hồn ra với Chúa” ư? Kẻ viết bài này vẫn chưa quên câu chuyện Mẹ thánh Tê-rê-sa Calcutta khi được hỏi về “bí quyết nào giúp Mẹ có thể làm được những việc vĩ đại như vậy?” Mẹ đã trả lời: “bí quyết của tôi rất đơn giản: Tôi cầu nguyện”. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 2626-2643) dạy Cầu nguyện là: “chúc tụng và thờ lạy” (số 2626-2628), “khẩn cầu” (số 2629-2633), “chuyển cầu” (số 2634-2636), “tạ ơn” (số 2637-2638) và “ca ngợi” (số 2639-2643). Dựa theo định nghĩa ấy, Thomas H. Green, S.J. – tác giả cuốn “Opening to God” (Mở ra với Chúa) – dùng cách ghép những mẫu tự đầu của mỗi từ làm nên một tổng hợp cụ thể đặc biệt: “Cầu nguyện (prayer) là: Adoration (thờ lạy) + Contriction (ăn năn) + Thanksgiving (tạ ơn) + Supplication (cầu xin) => ACTS (hành động).”
Vâng, quả nhiên “cầu nguyện là hành động”, muốn cầu nguyện phải hành động, chính bởi vì: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” (Mt 6, 7-8); và “Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý. Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em.” (Mc 11, 24); “Anh em hãy siêng năng cầu nguyện; hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn.” (Cl 4, 2).
Nếu “cầu nguyện là “nâng tâm hồn và trí khôn lên cùng Thiên Chúa” (Giáo lý HTCG, số 2590) thì xin hãy “Mở hồn ra với Chúa”:
MỞ HỒN RA VỚI CHÚA
(OPENING OUR SOUL TO GOD)
Mở hồn ra với Chúa
Mở tim ra với Đời
Đất trời muôn vạn thuở
Một Tình Yêu lên ngôi.
Nói tóm lại, “Trong mọi hoàn cành, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su. Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.” (Pl 4, 6-9). Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Con đã “ăn Mình, uống Máu Thánh Chúa” suốt bao nhiêu năm trường, nhưng dường như đời sống tâm linh của con chẳng tăng trưởng bao nhiêu. Xin cho con biết đặt lại vấn đề một cách nghiêm chỉnh: Thịt Máu Chúa là lương thực tâm linh, tại sao con ăn uống Máu Thịt ấy hằng ngày, hằng tuần, mà tâm linh con vẫn hèn yếu, bạc nhược? Xin ban Thần Khí soi sáng và dạy bảo con cách thức “ăn Mình, uống Máu Thánh Chúa” cho đúng với ý mà Chúa hằng mong muốn con thực hiện. Ôi! Lạy Chúa! “Tâm tư con hoan lạc được rước Mình Máu Thánh. Tâm tư con vinh hạnh được diện kiến Thánh Tâm. Biết nói chi cho cân tình Chúa thương muôn vàn. Biết đáp chi cho cân tình Chúa thương rộng ban.” (“Mình Máu Thánh” – Thu Lâm – TCCĐ). Amen.
.
AI ĂN BÁNH NÀY SẼ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục diễn từ Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu, với lời khẳng định: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi thì được sống muôn đời”. Bánh Hằng Sống được ban cho con người chính là Thịt Máu của Đức Giêsu, nghĩa là bằng chính thân mình của Ngừơi. Như vậy, con người được nuôi sống, không chỉ bằng cơm bánh, nhưng nhất là bằng sự sống thần linh của Đức Giêsu, qua chính Thịt Máu Ngài.
Những người Do Thái lúc ấy tranh luận với nhau về việc “ Làm sao Ông này có thể cho chúng ta ăn thịt Ông ta được ?”,lời tranh luận ấy đến hôm nay và sau này vẫn còn mãi.
Một vị Linh mục thánh thiện đã kể lại, mỗi lần Cha dâng lễ, khi đưa cao bánh Thánh và công bố lời “Đây Chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian “, ông nhận ra Chúa hiện thân khuôn mặt Người trong Bánh Thánh. Lúc thì Chúa Giêsu với khuôn mặt vui tươi, như đang cười với Ông. Ông hiểu rằng Chúa hài lòng về ông. Lúc khác, vị Linh mục lại nhìn ra gương mặt đau khổ, buồn sầu trong Bánh Thánh, ông hiểu ra Chúa đang đau khổ vì tội lỗi con người xúc phạm đến Chúa, trong đó có ông. Ông xin Chúa thứ tha và tha thiết cầu nguyện nhiều hơn. Cũng có lúc với khuôn mặt tư lự trong Bánh Thánh, ông nhận ra Chúa đang ưu phiền vì nhân lọai thờ ơ với Chúa. Số người đón nhận Thánh Thể Chúa sút giảm.
Phần con trong lòng tin, con biết rằng điều ấy không có gì khó hiểu, bởi con được sống trong bầu khí Thánh Kinh từ nhỏ, được học hỏi giáo lý, được Thánh Thần Chúa soi sáng. Con lại vẫn đang sống trong môi trường Xứ Đạo, nói rộng ra là trong lòng Giáo hội Công Giáo. Thế nhưng việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa có tác động gì đến cuộc sống của con?
Con rước Mình và Máu Thánh Chúa, nhưng con có Chúa ở trong lòng ? Con có thể hiện mình đang ở lại trong Chúa? hay sau mỗi Thánh Lễ, Chúa tiếp tục ở trong nhà Tạm, trong nhà thờ. Còn con, con ra đi giữa chợ đời. Chúa vẫn là Chúa, con vẫn là con với tất cả hỉ nộ ái ố của cuộc sống trần gian.
Nếu con có Chúa trong lòng, con có minh chứng điều ấy bằng những hành động cụ thể không? Con có mạnh dạn sống niềm tin của mình giữa xã hội hôm nay không ? Tự nhận là con cái Chúa, con có mạnh dạn “Sống Tin Mừng Đức Giêsu giữa dân tộc mình “ như lời Đức Thánh Cha Bênêdictô đã nhắn nhủ ? tại đất nước Việt Nam của con, những người chưa nhận biết Chúa chiếm số đông, trên 90% dân số. Sống Phúc Âm chính là Sống Thánh Thể, sống có Chúa trong lòng. Sống bác ái thực sự, hy sinh xả kỷ vì anh em. Con có làm được và dám làm?Những câu hỏi ấy vẫn theo con mỗi ngày trong cuộc sống này.
Trong bầu khí tục hóa đang lan tràn, lắm khi con cũng trở nên hờ hững với việc đến với Chúa.Bị chi phối bởi các thế lực trần tục, lắm lúccon không dám đặt hết niềm tin nơi Chúa.
Xin Chúa giúp con, mỗi khi tham dự thánh lễ là mỗi lần con ý thức mình đang dự tiệc, với lương thực thần linh mà Đức Giêsu thết đãi và nuôi sống linh hồn con.
Xin chocon ao ước và say mê rước Thánh Thể với tất cả lòng tin và sự trân trọng.Dám sống và giới thiệu Chúa cho những người sống bên con, là con đang có Chúa ở cùng .AMEN.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 20 TN_B
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên năm B chứa đựng hai đề tài xen lẫn vào nhau:
Chúng ta được mời gọi nuôi dưỡng sự sống đời đời bằng thần lương mà Thiên Chúa thiết đãi (Bài Đọc I và Tin Mừng).
Đề tài khôn ngoan ngự trị trong Bài Đọc I và Bài Đọc II nhưng xuất hiện trong Tin Mừng như lời thách đố của Thiên Chúa đối với sự khôn ngoan của phàm nhân.
Cn 9: 1-6
Trong Bài Đọc I trích từ sách Châm Ngôn, Đức Khôn Ngoan mời gọi nhân loại và đặc biệt những người túng thiếu, hãy đến dùng thần lương mà mình thiết đãi. Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan loan báo bàn tiệc Thiên Sai.
Ep 5: 15-20
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu của mình sống theo sự khôn ngoan độc đáo của Kitô giáo.
Ga 6: 51-58
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần cuối của diễn từ “Bánh Hằng Sống”, trong đó bằng những ngôn từ rất hiện thực, Đức Giê-su loan báo ân ban Thánh Thể: Thịt và Máu của Ngài. Đây là lương thực mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân với sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Ngài, nhưng được cho là điên rồ dưới con mắt phàm nhân.
BÀI ĐỌC I (Cn 9: 1-6)
Sách Châm Ngôn là một trong những sách minh triết Cựu Ước, cũng được gọi là các sách Huấn Giáo (những lời khuyên bảo của các tiền nhân). Trường phái văn chương này xuất xứ từ nguồn gốc bình dân và nguồn gốc bác học.
Về nguồn gốc bình dân, sự khôn ngoan là thành quả thường nghiệm được tích lũy qua bao nhiêu đời, nó diễn tả bằng những câu châm ngôn, thường rất phổ biến. Chúng ta thấy trào lưu này khắp bốn phương trời, hình thành nên “túi khôn của loài người”.
Về nguồn gốc bác học, sự khôn ngoan là những suy tư sâu sắc về cuộc sống của các bậc hiền triết, thậm chí của vua chúa nữa, như ở Ít-ra-en, vua Sa-lô-môn là một bằng chứng điển hình: nhiều câu châm ngôn được gán cho vị vua được cho là khôn ngoan bậc nhất này (sách Châm Ngôn được đặt dưới quyền bảo trợ của vua Sa-lô-môn). Trong miền Cận Đông cũng vậy, có nhiều tác phẩm giáo huấn ở đó, vua (hay một quan đại thần) cho con mình hay người kế nghiệp của mình những lời khuyên khôn ngoan. Su-me, A-khát, Ai-cập đã để lại cho chúng ta nhiều sử liệu thuộc thể loại văn chương này.
- Nét đặc trưng của sách Châm Ngôn:
Sách Châm Ngôn kết hợp hai nguồn này. Nét đặc trưng của sách Châm Ngôn đó là, ở giữa những câu châm ngôn rất dị biệt, sách dâng hiến một phân đoạn đề tặng Đức Khôn Ngoan. Ở đây, Đức Khôn Ngoan được nhân cách hóa thành một Bà Chúa hiếu khách mở tiệc khoản đãi. Việc nhân cách hóa này mang tính chất thi ca. Đức Khôn Ngoan được ca ngợi ở đây cốt yếu là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, tự nó không thể cấu thành một thực thể biệt phân với Thiên Chúa. Độc thần giáo tuyệt đối của dân Ít-ra-en: “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra, không có vị Chúa nào khác”, không thể nào quan niệm khác đi được. Trong Cựu Ước, sự Khôn Ngoan của Đức Chúa cũng như Thần Khí của Ngài là những quyền năng của Thiên Chúa chứ không là những ngôi vị biệt phân với Thiên Chúa.
- Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi:
Trong đoạn văn được đề nghị cho chúng ta, giáo huấn mà Đức Khôn Ngoan ban cho được sánh ví với một bàn tiệc khoản đãi cho tất cả nhưng ai muốn làm môn đệ của mình.
“Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột”: Điều này muốn nói rằng một nội thất nguy nga lộng lẫy, ở đó các khách mời có thể trò chuyện thân mật; “bảy cây cột”: con số bảy là con số chỉ sự hoàn hảo. Đức Khôn Ngoan đích thân “hạ thú vật”, tự mình “chế rượu” và “dọn bàn”, nghĩa là chủ nhân muốn thiết đãi khách những món ăn thức uống tuyệt hảo.
Đức Khôn Ngoan “sai các nữ tỳ ra đi”. Câu này xem ra không quan trọng lại là câu then chốt của bản văn. Trong Kinh Thánh, việc sai phái các tôi tớ của mình đi thi hành sứ vụ quan trọng là hành vi của Thiên Chúa. Truyền thống sẽ xem hành vi này thậm chí là hành vi của Đấng Thiên Sai. Đó là lý do tại sao các tác giả Tin Mừng thường nhấn mạnh hành vi này được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su khi “Người sai hai môn đệ ra đi” để chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua (Mc 14: 13; Lc 22: 8); trong dụ ngôn Tiệc Cưới, vua sai các gia nhân ra đi mời khách dự tiệc, như Đức Khôn Ngoan đã làm.
- Lời mời được gởi đến hết mọi người:
“Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố” để lời mời gọi của mình được vang lên khắp hang cùng ngỏ hẽm ngỏ hầu mọi người đều có thể nghe được; lời mời này mang tính phổ quát. Đức Khôn Ngoan mời mọi người tham dự bàn tiệc mà mình thiết đãi. Ở bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su cất tiếng mời gọi:“Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn và uống”.
Tuy nhiên, lời mời trở nên trực tiếp hơn và khẩn thiết hơn được gởi đến cho những ai “ngây thơ khờ dại”. Đó là những người khao khát hiểu biết và muốn mỗi ngày được sống trong sự hiểu biết, chứ không phải là những bậc thông thái tự mãn, khép kín mình trong sự hiểu biết của riêng mình. Ngôn sứ I-sai-a đã loan báo rằng rồi sẽ đến ngày Đức Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho dân Ngài: “Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy sự thất bại, và trí thông minh của những kẻ thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14).
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa Tin Mừng hôm nay. Dự định của Thiên Chúa, được chuẩn bị trong sự khôn ngoan khôn dò của Ngài, xem ra điên rồ dưới con mắt của con người dù họ đã được báo trước đi nữa.
BÀI ĐỌC II (Ep 5: 15-20)
Đoạn thư gởi tín hữu Ê-phê-xô được trích dẫn hôm nay thuộc chương 5, trong đó thánh Phaolô trình bày cách sống mới mẻ mà người Kitô hữu đem lại. Những lời khuyên ở đây hòa điệu tuyệt vời với những lời khuyên của sách Châm Ngôn.
- Cẩn thận xem xét cách ăn nếp ở của mình:
Đây cốt là lời kêu mời khái quát và có tính cách khuyên bảo. Cách ăn nếp ở của người Ki-tô hữu phải là cách sống của một người khôn ngoan, đây là sự khôn ngoan đặc thù Ki-tô giáo mà thánh Phao-lô chú ý mời gọi. Ở môi trường chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, sự khôn ngoan Hy-lạp mà người ta tìm kiếm là một cuộc sống quân bình, điều độ và mực thước, thánh nhân đề cao sự khôn ngoan Ki-tô giáo, sự khôn ngoan cao vời khôn ví, vì nó mở đường đến sự hiểu biết của Thiên Chúa và ơn cứu độ đời đời.
- Hãy biết tận dụng thời buổi hiện tại:
Chúng ta đừng quên rằng thánh Phao-lô viết thư này đang khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma để gởi đến các cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang gặp phải những khó khăn và quấy nhiễu. Lời khuyên của thánh Phao-lô ở đây có thể được quảng diễn như sau:“Anh em được dịp sống vào thời buổi khó khăn, đó là cơ hội thuận tiện tuyệt vời để anh em hoàn thiện chính mình và sống theo Đức Ki-tô. Hãy tận dụng tận mức cơ hội này”.
- Chớ say sưa rượu chè:
Thánh nhân đưa ra một mẫu gương khác cho thấy cách sống của người khôn ngoan: sống điều độ. Thánh nhân dường như nhắm đến sự lạm dụng xảy ra trong những bữa ăn huynh đệ của cộng đồng Ki-tô hữu. Quả thật, thánh nhân gợi lên những buổi nhóm họp ngay sau khi thánh nhân mong ước rằng những buổi nhóm họp phải tập trung vào việc cầu nguyện. Thánh nhân đối lập việc thấm nhuần Thần Khí với việc rượu chè say sưa:“Hãy thấm nhuần Thần Khí”.
- Hãy cùng nhau xướng đáp những bài thánh vịnh:
Chúng ta biết rằng những người Ki-tô hữu tiên khởi đã được gợi hứng từ những tập quán hội đường để cấu trúc những buổi hội họp của họ: xướng đáp những bài thánh vịnh, thánh thi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện… Sơ đồ của Thánh Lễ làm chứng như vậy. Nhưng các cộng đồng Ki-tô hữu đã sáng tác rất sớm các bài thánh thi của riêng mình, đọc kinh Lạy Cha và những lời ngợi khen chúc tụng Chúa tự phát. Thánh Phao-lô luôn luôn nhấn mạnh tâm tình tạ ơn như yếu tố cốt yếu của lời cầu nguyện.
TIN MỪNG (Ga 6: 51-58)
Với đoạn trích Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn tất bài diễn từ “Bánh Hằng Sống”.
- “Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”:
Đức Giê-su công bố một lời gây sửng sốt:“Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Lời công bố khó lọt tai này gây phản ứng ngay tức khắc từ phía người Do thái, vốn trước đây đã nghi ngờ, tranh luận sôi nổi với nhau:“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Lời công bố của Đức Giê-su ở đây rất gần với lời công bố của Ngài vào lúc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể:“Này là Mình Thầy, anh em hãy cầm lấy mà ăn”, được thuật lại trong các sách Tin Mừng nhất lãm. Tuy nhiên, ở đây thánh Gioan không dùng từ “sô-ma” (“thân xác Thầy” được dịch “Mình Thầy”) như các sách Tin Mừng nhất lãm, mà là từ “sarsh” (“thịt tôi”). Từ “sarsh” này, theo tiếng A-ram cũng như Hy-ngữ, chỉ toàn bộ con người đang sống, trong khi từ “sô-ma” chỉ một thân xác đối lập với linh hồn theo thuyết nhị nguyên của người Hy-lạp. Vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng từ “thịt tôi” chính là từ gốc mà Đức Giê-su đã sử dụng khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Với từ “thịt tôi”, thánh Gioan thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa “Nhập Thể” và “Thánh Thể” để có thể nói “Ngôi Lời làm người (“sarsh”) trở thành bánh Thánh Thể”.
- “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời”:
Đức Giê-su nhận ra thái độ kinh ngạc của thính giả. Ấy vậy, nếu như câu nói này chỉ là biểu tượng, chắc chắn Ngài sẽ đính chính, nhưng không, Ngài lại càng nhấn mạnh hơn nữa:“Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời”. Lời khẳng định này lại còn gây sửng sốt hơn nữa: Đức Giê-su không chỉ nói đến “thịt của Ngài”, nhưng còn “máu của Ngài” nữa. Đây không còn là lời khẳng định không thể tin được, nhưng còn gây kỳ chướng hơn nữa. Người Do thái không bao giờ dùng máu; máu là trung tâm sự sống, được dành riêng cho Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống. Trong các hy lễ, máu được hoàn toàn dâng tiến cho Thiên Chúa.
Chắc chắn trong ngôn ngữ sê-mít, cách nói thông dụng “thịt và máu” chỉ toàn thể con người, một phàm nhân, như Đức Giê-su nói với thánh Phê-rô sau khi thánh nhân tuyên xưng đức tin: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải thịt và máu mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Nhưng khi khảo sát theo văn mạch cặp “thịt và máu” này, chúng ta nhận ra rằng khi gợi lên máu sẽ đổ ra để chúng ta uống, cũng như thịt sẽ được trao ban để chúng ta ăn, Đức Giê-su loan báo rằng bàn tiệc Thánh Thể không thể tách khỏi cuộc Tử Nạn của Ngài trên đồi Sọ. Ngoài ra để tránh việc hiểu lầm bàn tiệc Thánh Thể quá vật chất, quá phàm trần, Đức Giê-su sử dụng kiểu nói “ăn thịt và uống máu Con Người”, một nhân vật có nguồn gốc thần linh đến trên mây trời trong sách Đa-ni-en. Như vậy, thịt và máu mà Ngài ban tặng để chúng ta ăn và uống ngõ hầu có sự sống đời đời, không là thịt và máu của Đức Giê-su thành Na-da-rét bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước thính giả, mà là thịt và máu của Đấng đã chết, sống lại và nay đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chính vì thế thịt và máu mà Người ban tặng sẽ là nguồn sống đời đời cho nhân loại.
- “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”:
Toàn bộ phần cuối của diễn từ nhấn mạnh lời hứa ban sự sống; lời hứa này được lập đi lập lại hầu như ở mỗi câu. Chúa Con nhiệm sinh từ Chúa Cha Hằng Sống; vì thế, Ngài nắm trong tay mọi nguồn phong phú của sự sống thần linh mà Ngài chuyển thông cho nhân loại khi hiến thân mình thành của ăn thức uống, nghĩa là một sự hiệp thông mật thiết đến mức không gì có thể sánh ví được: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su nhắc lại mối liên hệ tròn đầy của Ngài với Chúa Cha: “Như Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha”, và mời gọi các môn đệ đi vào trong mối hiệp thông tròn đầy này: “Anh em hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”. Thế nên, động từ “ở trong” là một trong những động từ thánh Gioan rất tâm đắc, qua đó, thánh ký diễn tả tính nội tại của Vương Quốc Thiên Chúa.
Cuối cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh sự sống bất khả hư nát mà Ngài ban, một lần nữa Ngài củng cố lời hứa ban sự sống phục sinh của Người. Như vậy, Đức Giê-su mạnh mẻ khẳng định ý nghĩa cuối cùng của “Bánh Hằng Sống”. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã không tường thuật sự kiện Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, nhưng trong chương 6 này, thánh ký muốn chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm vĩ đại này, còn hơn cả các tác giả Tin Mừng nhất lãm có thể làm trong những bài trình thuật “Chúa Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể” của các ngài.
.
Lm. Antôn
Có câu truyện về 2 bà chủ quán. Một người tên là Khôn ngoan và người kia là Khờ dại. Mỗi bà đều bận rộn với công việc mời khách đến ở và ăn uống trong quán của mình. Những ai nhận lời mời của bà Khôn ngoan sẽ được hưởng sự vui mừng và sự sống. Còn ai nhận lời mời của bà Khờ dại thì bước vào một cạm bẫy đưa đến đau khổ và sự chết. Chúng ta hãy nghe lời bà Khôn ngoan mời khách: “Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan.” Đó cũng chính là lời mời của bài đọc 1 trích sách Khôn ngoan ám chỉ đến lời mời của Chúa Giê-su trong bài Tin mừng hôm nay, hãy đến với Người trong Bí tích Thánh thể để có sự sống đời đời.
Trong mấy tuần Chúa nhật vừa qua, chúng ta đọc và nghe chương 6 Tin mừng của thánh Gioan về Bánh Hằng sống là chính Chúa Giêsu. Chương 6 Tin mừng của thánh Gioan cũng là nền tảng thần học của Bí tích Thánh Thể. Trong bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục cho đám đông dân chúng biết chính Người là Bánh Hằng Sống, Chúa tuyên bố: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống.”
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta xác tín vào Người là Bánh Hằng Sống và đến với Người trong Bí tích Thánh Thể. Chúa biết rõ lời Người giảng dạy về Bánh Hằng Sống làm cho dân chúng thời xưa phản đối. Ngay cả các môn đệ theo Chúa lúc đó cũng cảm thấy chói tai. Họ thắc mắc, xì xầm, bàn tán: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Tuy nhiên Chúa không rút lại hay thay đổi hay đính chính lời Người giảng dạy khi các môn đệ tỏ ra nghi ngờ, và Chúa cũng không trở nên dễ dãi để hi vọng dụ dỗ thu hút được nhiều người theo. Chúa nói rõ cho họ biết Người là Đấng bởi trời mà đến và nói lời của Thiên chúa. Ai đón nhận Người là đón nhận Thiên Chúa và ai nghe lời Người là nghe lời Thiên Chúa. Trước sự phản ứng mạnh mẽ, dữ dội của dân chúng, Chúa quả quyết, khẳng định và giải thích rõ hơn, Người nói: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi.”
Ông Đa-ni-en Côn-neo (Daniel Connell), người đã giải phóng dân tộc Ái-nhĩ-lan, là một tín hữu Công giáo can đảm và nhiệt thành. Khi bạn bè giáo phái Tin Lành chế nhạo và thách thức niềm tin của ông về sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể, ông đã trả lời như sau: “Sao các ông lại hỏi tôi? Lẽ ra các ông phải hỏi Đức Giêsu Ki-tô mới đúng. Phần tôi, tôi chỉ tin vào Lời Chúa nói. Nếu Chúa khẳng định rằng: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” mà thực sự không đúng như vậy, thì người nói là Chúa Giêsu mới đáng trách, chứ không phải là tôi! Với tôi, tôi luôn xác tín rằng: Lời Chúa là sự thật, là chân lý, là lời hằng sống và sẽ tồn tại đến muôn đời, như lời Chúa nói: Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.”
Lời tuyên bố của ông Đa-ni-en Côn-neo trên đây cho chúng ta thấy niềm xác tín của chúng ta vào Bí tích Thánh Thể được xây dựng trên nền tảng vững chắc đó là Lời Chúa. Lời Chúa là ánh sáng soi chỉ đường, là sức sống của chúng ta, là căn bản nền tảng đức tin, và cũng là lương thực nuôi dưỡng linh hồn thể xác chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải có tấm lòng khao khát, yêu mến và nhất là thực hành Lời Chúa, đó là điều quan trọng và cần thiết để chúng ta được sống trong ơn sủng, bình an và lãnh nhận ơn cứu độ.
Khi giảng dạy về Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu đã cùng cho chúng ta biết: Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, cả hai chỉ là một. Khi tham dự Bí tích Thánh Thể, chúng ta lắng nghe Lời Chúa lãnh nhận Mình Thánh Chúa vào trong tâm hồn. Vì thế, khi ăn “Thịt Chúa” và khi sống “Lời Chúa” là khi chúng ta hòa nhập sự sống của chúng ta vào với sự sống của Chúa. Do đó, Thánh lễ mà chúng ta cử hành tuy có hai phần: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể, nhưng chỉ là một, nơi đó Chúa Giêsu ban cho chúng ta hai của ăn là Lời Chúa và Thịt Máu Người.
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết ba hiệu quả, ba tác dụng quan trọng và cao cả của bí tích Thánh Thể. Thứ nhất là ban cho chúng ta được sống muôn đời và được sống lại, Chúa nói: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” Thứ hai là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa, Người nói: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người ấy.” Cuối cùng thứ ba là được sống nhờ sự sống của Chúa Giêsu, theo khuôn mẫu sự kết hiệp giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha như Chúa nói: “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Ta, và Ta sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Ta, cũng sẽ nhờ Ta mà được sự sống như vậy.” Có nghĩa là khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể vào trong tâm hồn và khi chúng ta sống Lời Chúa, chúng ta trở nên đồng hình đồng với Chúa Giê-su và cùng có một sứ mạng như Người.
Xin Chúa Giêsu Thánh Thể giúp chúng ta có một niềm xác tín mục đích lời Chúa giảng dạy về Bánh Trường Sinh hôm nay chính là Bí tích Thánh Thể, vì thế chúng ta đến với Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể là đến với nguồn sống và gặp gỡ Chúa thật. Xin Chúa cũng giúp chúng ta dọn mình sốt sắng và lãnh nhận Thánh Thể Chúa vào trong tâm hồn một cách xứng đáng, để càng ngày chúng ta càng yêu mến và khao khát Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa hơn, để có sức mạnh và can đảm sống Lời Chúa dạy, trở nên giống hình ảnh của Chúa, trở nên những chứng nhân tình yêu của Chúa, bằng những việc tốt lành, hy sinh, bác ái và quảng đại.
.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và người Do Thái về chủ đề Bánh. Càng về cuối, cuộc tranh luận càng gay cấn. Chúa Giêsu đã khẳng định rõ, Người là Bánh trường sinh và Bánh chính này là Thịt và Máu của Người. Hai từ “Thịt – Máu” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Nhờ được nuôi dưỡng bằng Thịt và Máu Chúa Giêsu, thế gian tìm được sự sống
Thánh Gioan đã khởi đầu tác phẩm Tin Mừng của mình bằng lời xác quyết: “Ngôi Lời đã hóa thành xác thịt” (Ga 1,14). Qua lời khẳng định ấy, tác giả muốn diễn tả Con Thiên Chúa thực sự là con người như chúng ta. Đấng Cao cả đã hóa thân làm người. Thiên Chúa đã đến để ở cùng người thế. Đất với Trời trở nên một. Tuy vậy, sự hiện diện của Ngôi Lời như một con người trên trần gian chỉ kéo dài trong khoảng thời gian 33 năm. Trước khi về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã muốn tiếp tục hiện diện giữa loài người dưới một dạng thức khác, đó là Bí tích Thánh Thể. Nếu khởi đầu của công trình nhập thể là Ngôi Lời trở nên xác thịt, thì nay, xác thịt lại trở thành Bánh để nuôi dưỡng con người.
Hình ảnh thịt và máu gợi lại cho chúng ta sự dưỡng nuôi của người mẹ đối với thai nhi. Nhờ dưỡng chất từ người mẹ, thai nhi phát triển và lớn lên hằng ngày. Thiên Chúa quyền năng đã lấy những tế bào của người mẹ mà tạo thành người con. Nhờ được “ăn thịt và uống máu” của người mẹ, mà thai nhi có sự sống cho đến ngày chào đời. Nhờ được “ăn thịt và uống máu” của Chúa Giêsu, chúng ta được nếm hưởng sự sống đời đời ngày từ khi còn sống trên trần gian. Chúa Giêsu đã hứa ban cho những ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sự sống đời đời.
Khi dùng hình ảnh “thịt và máu” để diễn tả lương thực thiêng liêng được ban cho thế gian, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, Thánh Thể là của ăn thiết thực, nhờ đó chúng ta được sống tình thân nghĩa với Chúa, tức là sự hiệp thông với Người. Quả vậy, nhờ được nuôi dưỡng bởi Bánh Thánh Thể, chúng ta trở nên một với Chúa Giêsu. Trong cơ thể của chúng ta, có thịt và máu của Người. Khi ngự trong ta, Chúa Giêsu sẽ biến đổi chúng ta mỗi ngày, khác với thực phẩm chúng ta hưởng dùng hằng ngày. Nếu thực phẩm mà chúng ta ăn uống sẽ trở nên máu thịt chúng ta, thì Mình Thánh chúng ta đón nhận lại biến đổi chúng ta mỗi ngày nên giống Chúa Giêsu hơn. Thánh Augustinô đã diễn tả sự biến đổi huyền nhiệm này như sau: “Ta là thức ăn của người mạnh, hãy lớn lên và ăn Ta. Nhưng con không biến đổi Ta trong con như biến đổi một thức ăn, mà đúng ra là con sẽ được biến đổi thành Ta”.
Để được Chúa biến đổi cuộc đời, ta phải cộng tác với Ngài. Thánh Phaolô đã khẳng định với giáo dân Ephêsô như vậy. Vị tông đồ dân ngoại đã khuyên mọi người hãy tận dụng thời gian hiện tại, từ bỏ mọi nếu xấu như chơi bời say sưa, rượu chè trụy lạc. Hãy dùng thời gian để cầu nguyện và tôn vinh Chúa bằng những bài thánh ca cùng Thánh vịnh. Đây chính là một hình ảnh lý tưởng của cộng đoàn tín hữu, được thấm nhuần tâm tình cầu nguyện và tình bác ái huynh đệ. Bí tích Thánh Thể là mối dây liên kết mọi người trong tình hiệp nhất yêu thương, vì mọi người đều được nuôi dưỡng bằng một lương thực thiêng liêng là thịt và máu Đức Kitô.
“Hãy nhận lấy mà ăn, vì này là Mình Thày; hãy nhận lấy mà uống, vì này là Chén máu Thày”. Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta đến dự tiệc do Người dọn sẵn. Đây cũng là lời mời gọi được tác giả sách Châm Ngôn trước Chúa Giêsu vài thế kỷ, ghi lại: “Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế. Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Bài đọc I). Quả vậy, nhờ được ăn thịt và uống máu Chúa, chúng ta được liên kết với Người và hiểu biết thánh ý của Người, nhờ đó, chúng ta sống hoàn thiện trong cuộc đời đầy bóng tối hôm nay.
“Ta phải quyện đời ta quanh Thánh Thể. Mắt hướng về Chúa là Ánh Sáng; trái tim đặt rất gần trái tim thánh của Chúa; cầu xin Người ơn để tuyên xưng Người, tình yêu để yêu mến Người, can đảm để phụng sự Người » (Mẹ Têrêsa).
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gen” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.
Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.
Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.
Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.
Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.
Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?
3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?
4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?
Lm. Jos. DĐH
Người xưa nói rằng : có tiền mua tiên cũng được, quan niệm như thế, tiền sẽ là giấy thông hành mở ra nhiều hứa hẹn cho con người. Không dừng lại ở việc sở hữu “danh, lợi, thú”, người ta còn mơ ước cao xa hơn, đó là được hạnh phúc, được trẻ mãi không già, được trường sinh bất tử. Để đạt được lý tưởng sống, người ta kiếm tiền, kiếm tình, xem ra rất hợp lý cho hạnh phúc ở đời này, có gieo, ắt có gặt; có công mài sắt, có ngày nên kim.
Sung túc vì nhiều tiền lắm của, hạnh phúc bởi ngày ngày được no say yến tiệc linh đình, hoặc công danh sự nghiệp ổn định, suy đi nghĩ lại cũng chỉ là niềm vui thoáng qua. Hạnh phúc đời đời ẩn chứa qua cung cách sống của mỗi người, là khái niệm có thật được Đức Giêsu quả quyết : “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Nghèo tiền, đói tình, không biết yêu và chẳng được yêu, đều khổ; đáng lưu ý hơn, Đức Giêsu hôm nay minh xác rõ ràng : “không có Bánh Giêsu, sẽ không có sự sống đời đời”.
Đám đông dân chúng xưa kia không thể hiểu được “chữ tình” mà Chúa Giêsu sẽ thánh hóa trở nên của ăn nuôi linh hồn, bảo đảm trường sinh bất tử. Người Do-thái và cả chúng ta hôm nay đều nghe nói tới Manna ở sa mạc, thứ bánh được ban bởi trời, nuôi đoàn người tiến về miền đất hứa. Bánh được biến đổi thành Chúa, tình yêu Giêsu trở nên Máu – Thịt, ban hạnh phúc đời đời cho nhân loại, thật khó hiểu, nếu người ta không hiệp thông với Thầy Giêsu.
Theo lẽ tự nhiên, người ta có thể ăn các loại động thực vật nấu chín, còn ăn tươi nuốt sống, dám chắc chỉ có yêu quái chúng mới nghĩ đến chuyện đó. Thời đại hôm nay, có đủ các hình thức quảng cáo nhằm tiêu thụ sản phẩm, tìm thu lợi nhuận, nhưng chưa ai đủ mạnh mẽ nói tới thứ thuốc trường sinh, chỉ duy Đức Giêsu dám công bố về thứ Bánh hằng sống. Cái biết tự nhiên, mọi người ai cũng hiểu tiền Việt hay bất cứ tiền nào đều có mục đích là giao dịch, trao đổi, ngoại trừ tiền giả, tiền âm phủ. Người Do-thái trông chờ Đức Giêsu ban tiền của vật chất, ban sự sống trường sinh ở đời này; đối với hạnh phúc đời đời, người lãnh nhận bánh hằng sống, trước hết tâm hồn nhất định phải có tình yêu Giêsu.
Nếu thành công ở đời này, có tiền có quyền, rồi nghỉ ngơi hưởng thụ, nếu gặp Đức Giêsu chỉ để có cơm bánh vật chất, như thế chúng ta cũng đi theo qui luật sinh lão bệnh tử mà thôi ! “Bách niên giai lão hay trường sinh bất tử, vẫn mãi là thao thức của con người; tình yêu của Thiên Chúa và hạnh phúc đời đời, sẽ không xa vời đối với người tin vào Đức Giêsu, bánh từ trời xuống. Khi nói “ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”, chắc chắn Ngài sẽ ban cho nhân loại chúng ta thứ lương thực có trọn vẹn thiên tính ở trong Bánh Thánh Giêsu.
“Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được” ? Làm sao chúng ta có được niềm vui bình an, khi chúng ta hàng ngày gian tham, hành xử như kẻ giang hồ, chỉ biết sống luật rừng, không hề biết đến luật yêu thương ? Bánh Giêsu là hồng ân Thiên Chúa yêu thương, được ban phát, không phải mua bán trao đổi, khi người ta tự do để Đức Giêsu hoàn thành kế hoạch cứu độ qua các thời đại. Bánh Thánh Giêsu không chỉ là lời hứa trường sinh bất tử, mà luôn là khẳng định : hôm nay thân xác chúng ta được tham dự tiệc Mình Máu Chúa, mai này thân xác chúng ta sẽ được dự tiệc thiên quốc.
Tục ngữ có câu : biết tội đâu mà tránh, biết phúc đâu mà tìm. Đúng là sống chết không ai biết trước được, thực tế phúc họa là do tự mỗi người tạo nên; thật giả lẫn lộn, nhưng chân lý không hề thay đổi : “Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta”. Bánh Giêsu là thứ bánh đặc biệt, giầu hay nghèo, da mầu hay da trắng, tất cả mọi đối tượng đều được ban tặng theo tiêu chuẩn công bằng tình yêu thương.
Hạnh phúc đời này, người ta vẫn kiểm soát đánh giá bằng trí óc thông minh; hạnh phúc đời sau, người Kitô hữu chỉ cảm nhận được do tình yêu Đức Kitô, do chúng ta biết kết hiệp với Bánh Giêsu. Hạnh phúc đời đời không đến từ kinh doanh buôn bán, cũng không do làm nông nghiệp hay công nhân có thu nhập ít hay nhiều. Hạnh phúc đời đời chính là có tình yêu Đức Giêsu, như lời Ngài đã phán : “đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các người đã ăn Manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Amen.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Tại Hàn Quốc cách đây hơn một tháng, Hải quan đã bắt một lô hàng là loại thuốc viên nhập từ Trung Quốc. Xét nghiệm chất bột trong những viên thuốc này, người ta thấy có ADN của người. Có lẽ chỉ những bộ lạc cổ xưa trong rừng sâu mới có thói quen ăn thịt người, những người sống trong thời văn mình coi việc ăn thịt người là một việc man rợ, là hành động của một con thú. Trong xã hội văn minh của chúng ta, có những người sau khi đã ăn đủ mọi thứ cao lương mỹ vị thì họ ăn thịt thai nhi, ăn thịt người như là một món ăn thú vị.
Sau ba tuần các bài Tin Mừng nói về tình trạng đói khát, về việc tìm kiếm của ăn nuôi sống linh hồn, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hứa ban bánh từ trời xuống cho những ai tìm kiếm Ngài. Tuần này, Ngài nói rõ hơn về bánh ban sự sống chính là thịt và máu Ngài để cho thế gian được sống.
Chúa Giêsu nói đến ăn thịt và máu Ngài khiến người Do Thái cảm thấy khó chịu và chướng tai. Họ nghĩ rằng Chúa Giêsu mời họ ăn thịt người. Đối với Người Do Thái, máu là sự sống, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, không ai được phép ăn máu, ai đụng đến máu đều bị ô uế theo pháp luật. Cũng vậy, người Do Thái cũng chỉ được phép ăn thịt của một số con vật mà thôi. Vì thế, lời mời “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi, để cho thế gian được sống”, đã khiến người Do Thái xầm xì : Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được ?
Người do Thái không hẳn là cứng lòng trước lời mời gọi này, kể cả các tông đồ, nếu không được Thiên Chúa tỏ cho biết, các ông cũng sẽ phải ứng giống như thế. Cụ thể là có một số người sau khi nghe Chúa nói về việc ăn mình máu Người, họ đã bỏ đi. Chỉ khi lãnh nhận Thánh Thần sau ngày Chúa Phục sinh, các tông đồ mới hiểu việc Chúa Giêsu làm trong đêm tiệc ly. Trong đêm thánh thiêng ấy, Chúa đã cầm lấy bánh trao cho các tông đồ và nói : Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em ; đây là máu Thầy, sẽ đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Với hành động đó, Chúa đã thực hiện một phép lạ lớn lao là làm cho bánh và rượu trở nên máu thịt của Người, làm của ăn của uống cho nhân loại. Đồng thời, Chúa cũng thực hiện một phép lạ khác nữa là làm cho thịt máu ấy vẫn giữ nguyên hình dạng và mùi vị của bánh và rượu để cho con người có thể dễ dàng đón nhận. Bánh rượu đã trở thành thịt máu Chúa và thịt máu Chúa lại “trở thành” bánh và rượu để thực sự trở nên lương thực, nên của ăn cho con người. Đón nhận thịt và máu Chúa, chúng ta được đón nhận trọn vẹn Thiên Chúa và sức sống thần linh của Ngài thông truyền cho chúng ta, để ta được sống trường sinh bất tử. Sức sống của Thiên Chúa được thông truyền cho chúng ta qua việc chúng ta ăn và uống thịt máu Ngài. Sức sống ấy không chỉ là gia tăng sức lực cho linh hồn và thể xác, mà còn là bảo đảm chắc chắn cho sự sống đời sau.
Giống như thịt bánh thường ngày khi được ăn vào sẽ biến thành dưỡng chất nuôi sống cơ thể, ai ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu thì sẽ được ở lại trong Chúa Giêsu, tức là sống trong tình yêu của Chúa, được nên một và được biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Khi được ở trong Chúa Giêsu thì cũng là được ở trong cung lòng của Thiên Chúa Cha, được Cha yêu thương.
Với mặc khải này của Chúa Giêsu, con người ngày nay không dễ để chấp nhận. Chỉ những người khôn ngoan, biết khao khát tìm kiếm Thiên Chúa thì mới có thể nhận ra mà thôi. Khi đã nhận ra giá trị tuyệt vời của lương thực này, mỗi người cũng phải khôn ngoan để chọn cho mình một cách sống sao cho phù hợp với đòi hỏi của Chúa. Thánh Phaolô đã chỉ ra một số việc được coi là khôn ngoan : Trước hết là biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống trong những ngày đen tối. Có nghĩa là, chúng ta đang sống trong thời đại thật giả lẫn lộn. Chúng ta đang bị lạc trong mê cung của thế giới vật chất, bị chìm ngập trong thế giới quảng cáo, khiến nhiều người không còn sáng suốt để chọn lựa đâu là điều đúng, đâu là điều sai, đâu là việc nên làm và đâu là việc phải tránh. Kế đến là tìm ra ý Chúa trong mọi biến cố của bản thân, gia đình và xã hội để kiên quyết tuân theo ý Chúa. Sau nữa là đừng để mình bị say sưa, lú lẫn trong đam mê, nhưng tỉnh táo, sáng suốt để dùng lời ca tiếng hát và cả cuộc đời mà ca tụng Thiên Chúa.
Thưa các bạn, bánh rượu là thịt và máu Chúa Giêsu vẫn đang được dọn ra nơi Thánh lễ hằng ngày, thế nhưng dường như nhiều người vẫn không đủ sáng suốt để nhận ra giá trị cao quý và sức sống thần linh từ nơi của ăn này. Nhiều người vẫn chỉ lo tìm kiếm cơm bánh thường ngày để đáp ứng nhu cầu sống của thể xác, mà không quan tâm đến việc tìm kiến lương thực bảo đảm cho hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Nhiều người chỉ lo chăm sóc cho thể xác mà quên ăn thịt và uống máu Chúa để gia tăng sức sống thần linh trong con người của mình.
Không ai có thể ăn một lần thay cho tất cả. Cũng vậy, việc ăn và uống thịt máu Chúa không phải chỉ cần một lần hoặc vài lần trong đời, nhưng, như thể xác cần cơm bánh thế nào thì linh hồn cũng không thể thiếu bánh của Chúa nuôi dưỡng thế ấy. Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ để mình béo phì thể xác nhưng lại suy dinh dưỡng trong đời sống thiêng liêng ; đừng để mình dư thừa dinh dưỡng thể xác mà linh hồn gầy gò, ốm yếu. Siêng năng đến ăn thịt và máu Chúa, không những để ta được có sức sống của Thiên Chúa dưỡng nuôi, mà còn được ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa, nên một với Chúa Giêsu và sống sự sống của Chúa Giêsu.
Trong một thế giới quá ồn ào và quá nhiều khuynh hướng cùng những lôi kéo của vật chất, của xã hội, chúng ta sẽ phải là những người khôn ngoan để biết tận dụng thời gian, hoàn cảnh, điều kiện đang có để làm gia tăng sức sống thần linh cho mình và cho gia đình. Chỉ khi được nuôi dưỡng bằng sức sống của Thiên Chúa, chúng ta mới tránh khỏi sự suy thoái trong con người và trong lối sống của mình. Chỉ khi gia đình được nuôi dưỡng bằng thịt máu Chúa, thì gia đình mới bằng an và hạnh phúc. Xã hội văn minh phát triển, nhưng dường như con người lại đối xử với nhau theo bản năng hơn là theo lý trí và văn minh tình thương. Vì thế, sự ác ngày càng gia tăng trong xã hội. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi phải luôn tỉnh táo, sáng suốt, để đừng bị lôi kéo, nuông chiều theo bản năng thú tính của con người, nhưng cần được trợ lực để hướng thượng, sống xứng với phẩm giá là con người và con Chúa.
Lối sống thực dụng, sống vội theo kiểu mì ăn liền cũng đang kiến nhiều người, nhiều bạn trẻ bị lún sâu tìm kiếm những lợi ích trước mắt, lo thỏa mãn những đòi hỏi của bản năng hơn là lo bồi bổ cho tâm hồn. Vì thế, họ để mình rơi vào tình trạng trống rỗng trong đời sống đức tin, suy dinh dưỡng trong đời sống đạo. Nhiều bạn trẻ biết rất nhiều thứ, sành điệu trong nhiều lãnh vực, nhưng lại tỏ ra kém cỏi, ấu trĩ, dửng dưng trong đời sống đức tin, đời sống đạo.
Lời Chúa hôm nay vừa là lời cảnh báo, vừa là lời mời gọi mỗi người xác tín hơn vào Chúa Giêsu Thánh Thể, để mỗi người siêng năng đến lãnh nhận, tôn thờ Chúa, đón nhận nguồn trợ lực và sức sống từ nơi Bí tích cực trọng này, là Bí tích bảo đảm cho đời sống hôm nay và mai sau. Amen.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống luôn vồn vã với “cơm áo gạo tiền”. Tất bật lo toan đủ điều khiến chúng ta chẳng có giờ nghĩ đến tha nhân. Trong dòng đời vội vã đó nhiều người dường như đã bỏ rơi đồng loại, đôi khi thiếu sót bổn phận với cả người thân. Họ chỉ lo đối phó với công việc, với nhu cầu bản thân đôi khi còn quên cả gia đình.
Nhưng đã là cuộc đời thì đâu phải chỉ trải đầy hoa hồng, đâu phải ai sinh ra cũng có được cuộc sống giàu sang, có được gia đình hạnh phúc mỹ mãn mà còn đó nhiều mảnh đời đau thương, bất hạnh cần chúng ta sẻ chia, giúp đỡ. Cuộc đời vẫn còn đó những mảnh đời lây lất đang cần chúng ta đùm bọc, chia sẻ, yêu thương. Chúng ta được tạo dựng đâu phải để sống riêng cho mình, mà còn phải biết quan tâm tới những người khác, đặc biệt là người bất hạnh, nghèo đói. Đây là quy luật của cuộc đời luôn “cho” và “nhận”. Đã nhận nhưng không thì cũng phải quảng đại cho đi. Nhưng đáng tiếc, nhiều người chỉ biết nhận mà chẳng bao giờ biết cho.
Có một người sắp chết đuối, mọi người vây quanh hô lớn: “Hãy đưa tay ông ra cho chúng tôi cứu!”, nhưng ông ta lưỡng lự để rồi vật vã chống cự với dòng nước. Và dường như thà chết chứ không chịu đưa tay ra. Một người bạn thân biết ý liền nói: “Thằng này nó chỉ nhận chứ không bao giờ cho ai nên nó thà chết chứ không đưa ra đâu”. Thế là, người ta nói với nó: “Hãy nắm lấy tay tôi đi!”, và ngay lập tức, ông ta đã nắm chặt lấy!
Sự khác nhau đó là gì? Rõ ràng người đàn ông trong câu chuyện này thường được nhận nhiều hơn là cho đi và ông ta đã suýt chết vì chỉ muốn được nhận!
Con người là thế! Từ thuở lọt lòng mẹ, đã biết nắm tay lại. Chỉ biết nhận và không biết cho. Đó là lý do cuộc đời thường tranh giành nhiều hơn là nhường nhịn, là loại trừ nhiều hơn là đùm bọc yêu thương.
Cuộc đời Chúa Giê-su luôn cho đi, cho đi để tha nhân được sống và sống dồi dồi. Trong suốt hành trình dương thế, Ngài luôn cho đi tình thương, cho đi thời giờ để xoa dịu nỗi đau cho nhân thế. Sự cho đi của Ngài đi đến tột cùng là cho đi đến giọt máu cuối cùng để nguồn ơn thánh đổ tràn đầy xuống nhân gian. Ngài còn cho đi qua tấm bánh được bẻ ra để trao ban sự sống đời đời cho nhân loại. Ngài bảo rằng “ai ăn bánh Ngài thì sẽ sống muôn đời”.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Bài đọc 1 trích sách Châm Ngôn: “Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế”. Theo lời sách Châm Ngôn, bánh và rượu đây là Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan được “thiên cách hóa” như chính Thiên Chúa: “đừng ngây thơ dại ngờ nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết”.
Tin Mừng thánh Gioan chương 6 cho thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Đức Khôn Ngoan Nhập Thể, là Bánh Hằng Sống, “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Trang Tin Mừng hôm nay là đỉnh cao của mạc khải Đức Khôn Ngoan Nhập Thể trở thành Bánh Thánh Thể.
Chúa Giêsu khẳng định: “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Người Do thái phản ứng và tranh luận sôi nổi: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Chúa Giêsu giải thích và khẳng định thêm: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Chúa Giêsu cho biết hiệu năng khi “ăn thịt và uống máu” là được kết hiệp mật thiết với Chúa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu năng của Manna mới: “Tổ tiên các ngươi đã ăn mana và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Những lời Chúa Giêsu giảng dạy mạc khải rõ ràng về Bí Tích Thánh Thể.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa thiết lập trong Tiệc Ly: “Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. (Mt 26,26-29).
Bí Tích Thánh Thể được Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau “Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh” (Lc 24,13-35).
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một tấm bánh là thân mình Đức Kitô (1 Co10,17). Như thế bàn tiệc Thánh Thể là nguồn mạch của yêu thương, cảm thông và hiệp nhất.
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc linh mục Truyền Phép:
- “Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
- “Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
- “Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống...” (Mt 25, 35- 36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x.simonhoadalat.com, Tặng phẩm Thần Linh, ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian nỗi ban chính Con Một…” (Ga 3, 16) và Con Một là Chúa Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên các tín hữu: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha”, đồng thời: “Hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời gian hiện tại…hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa…hãy thấm nhuần Thần Khí”. Ý Thiên Chúa muốn chúng ta sống yêu thương như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Những bài Tin mừng trong mấy Chúa nhật vừa qua và tuần này được trích trong chương 6 Tin mừng của thánh Gioan nói về Bánh Hằng sống là chính Chúa Giêsu, và những hiệu quả của sự lãnh nhận Bánh Hằng Sống này.
Trước khi đi sâu vào bài Tin mừng hôm nay, tôi xin có mấy lời về bài đọc 1 hôm nay trích sách Châm ngôn. Sách Châm ngôn hướng dẫn những người trẻ lớn lên đến tuổi trưởng thành, và nhấn mạnh đến những đề tài như giáo dục, tự hãm, sự cẩn trọng, chân thật và cách cư xử tốt. Sách Châm ngôn cho chúng ta biết tất cả những điều này dẫn đến sự khôn ngoan, và cũng đề cập đến khía cạnh ngây ngô, ngu xuẩn là sự bồng bột, thiếu tự chủ và tự chế, là thái độ gian dối, lười biếng, không có lòng tôn kính và là cuộc sống buông thả.
Chín chương đầu của Sách Châm ngôn diễn tả 2 người đàn bà, không phải người thật, mà chỉ là biểu hiệu, nhân cách hóa mà thôi, một người có tên là Bà Khôn ngoan và thứ hai là Bà Ngu xuẩn. Mỗi bà được diễn tả như một hình trạng của một người chủ quán trọ bận rộn với công việc mời khách đến trọ, và ăn uống trong quán của mình. Những ai nhận lời mời thân thiện của Bà Khôn ngoan sẽ được hưởng sự vui mừng và tràn đầy sự sống. Còn ai nhận lời mời của Bà Ngu xuẩn thì bước vào một cạm bẫy đưa đến sự diệt vong và sự chết.
Hôm nay, chúng ta nghe phần đầu của chương 9, trong đó chỉ chứa đựng lời mời những bạn trẻ của Bà Khôn ngoan tham dự bữa ăn của bà thôi. Và lời mời của bà là “Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan.”
Ông bà anh chị em thân mến. Lời mời của Bà Khôn ngoan trong bài đọc 1 này rõ ràng ám chỉ đến những lời mời chúng ta của Chúa Giê-su trong bài Tin mừng hãy đến ăn thức ăn và uống nước Chúa đã dọn sẵn và ban cho chúng ta. Thức ăn và thức uống là chính Mình và Máu của Chúa trong Bí tích Thánh thể để có sự sống đời đời. Nhận và đến với Chúa Giê-su Thánh Thể là quyết định và lựa chọn của những người khôn ngoan. Những người khôn ngoan có cái nhìn vượt qua sự hiện hữu, còn người ngu xuẩn chỉ nhìn thấy những gì trước mắt. Và đây cũng là chủ đích của bài đọc hai.
Trong bài đọc này, thánh Phaolô khuyên các tín hữu phải biết sống như những người khôn ngoan bằng cách theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra và sống theo thánh ý Thiên Chúa. Ngược lại, người khờ dại, thánh Phao-lô cho chúng ta biết, là những người chỉ sống theo ý muốn xác thịt, say sưa rượu chè, và rượu chè đưa tới truỵ lạc. Những người khờ dại không biết lợi dụng ơn thời giờ Chúa ban cho, phí thời giờ vào các việc vô ích, không đem lại lợi ích cho cuộc sống tương lai. Và vì không biết thánh ý Chúa nên người khờ dại chỉ biết làm theo ý riêng mình, không mang lại những hiệu quả thiêng liêng cho cuộc đời của họ.
Ông bà anh chị em thân mến. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi dân chúng tin hãy vào lời người giảng dạy về chính Ngài là bánh hằng sống, và phải ăn thịt và uống máu Ngài thì mới có sự sống đời đời. Chúng ta thấy ngay cả các tông đồ và môn đệ của Chúa cũng cảm thấy chói tai về những lời giảng dạy này của Chúa. Họ thắc mắc, xì xầm bàn tán “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6 : 52). Nhưng Chúa không rút lại lời Ngài giảng dạy, và cũng không mơn trớn họ về sự nghi ngờ vào lời Người giảng dạy. Chúa đã không thay đổi lời Ngài giảng dạy, và cũng không làm theo những đòi hỏi dễ dãi của dân chúng để hi vọng dụ dỗ thu hút được nhiều người theo. Lời giảng dạy của Chúa là lời ban sự sống, nên Chúa nói sự thật và khẳng định “Thịt Ta là thật của ăn, và máu Ta là thật của uống.” (Ga 6:55).
Ông bà anh chị em thân mến. Ngày xưa người Do thái tranh luận với nhau, làm sao ông Giê-su có thể ban cho họ thịt máu Ngài làm của ăn thiêng liêng, và trong suốt dòng lịch sử Ki-tô giáo, người ta cũng tranh luận tương tự như vậy, về sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể. Chúng ta biết những người trong các giáo phái Tin lành không tin vào Lời Chúa phán, cho nên, họ chỉ coi việc bẻ bánh như một kỷ niệm, một hình bóng biểu hiệu sự hiện diện của Chúa mà thôi. Họ không tin sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể.
Ông Daniel Connell, người đã giải phóng dân tộc Ai-nhĩ-lan, là một tín hữu Công giáo can đảm và nhiệt thành. Khi một số bạn bè đạo Tin Lành chế nhạo ông vì họ không tin Chúa Giêsu hiện diện trong Tí tích Thánh Thể, và ông đã trả lời họ như sau “Tại sao các ông lại hỏi tôi? Lẽ ra các ông phải hỏi Chúa Giêsu mới đúng, vì đó là lời của Ngài. Phần tôi, tôi tin vào lời Chúa nói. Nếu lời Chúa khẳng định “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” mà không đúng, thì người nói là Chúa Giêsu mới đáng trách, chứ không phải là tôi! Tôi luôn tin rằng: Lời Chúa là sự thật, là lời hằng sống và sẽ tồn tại đến muôn đời.”
Ông bà anh chị em thân mến. Và cũng qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy và cho chúng ta biết ba hiệu quả quí trọng và cần thiết của Bí tích Thánh Thể. Hiệu quả cần thiết thứ nhất là ban cho chúng ta được sống lại và được sống muôn đời. Chúa nói “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.”(Ga 6, 54). Hiệu quả quí trọng thứ hai, chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, Ngài nói “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người ấy” (Ga 6, 56). Và hiệu quả thứ ba, có sự sống của Chúa Giêsu, theo khuôn mẫu sự kết hiệp giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, Chúa nói “Cũng như Cha, là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta.” (Ga 6, 57).
Chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đã đặc biệt nhấn mạnh nhiều lần hai từ “thịt” và “máu.” Thịt – máu, nghĩa là trọn vẹn con người, và có nghĩa là Chúa trao ban hoàn toàn sự sống của Chúa cho chúng ta, để chúng ta nhận được những hiệu quả là được kết hiệp mật thiết với Ngài và với Chúa Cha, hiệp thông với anh chị em, và được sự sống đời đời.
Hôm qua, hôm nay và ngày mai, Chúa Giêsu vẫn luôn mời gọi chúng ta đến và sẵn sàng ban Thịt Máu cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Xin Chúa cũng ban cho chúng ta sự khôn ngoan, chấp nhận và hân hoan đón tiếp Chúa vào trong tâm hồn một cách sốt sắng và chân thật, cùng với một niềm tin vững chắc, để chúng ta trở nên giống Chúa, được tháp nhập vào Chúa và sống bằng sự sống của Chúa.
Trầm Thiên Thu
Sự sống là một quá trình diễn ra từ lúc sinh vật được tạo thành (sinh ra) cho đến lúc bị phân hủy (chết đi). Sự sống là một điều kiện cho phép một thực thể sinh ra, được tồn tại và phải chết đi tại một thời điểm nào đó. Có khởi đầu và có kết thúc. Nhân loại đúc kết: “Sinh ký, tử quy”.
Người ta tóm tắt công trình của bác học Pasteur thành định luật: “Mọi sự sống đều bắt đầu từ trứng – omne vivum ex ovo”. Sự sống vô cùng kỳ diệu, người ta đúc kết thành ba quy luật: (1) Có cấu trúc phức tạp và tổ chức tinh vi, (2) Có cấu trúc phức tạp và tổ chức tinh vi, (3) Thông tin của sự sống ổn định, chính xác và liên tục.
Trong thông điệp “Evangelium Vitae” (Tin Mừng Sự Sống, 25-3-2995), Thánh GH Gioan Phaolô II tái xác định giá trị của sự sống con người và tính bất khả xâm phạm của sự sống, đồng thời nhân danh Thiên Chúa mà thiết tha kêu gọi mọi người phải tôn trọng, bảo vệ, yêu mến và phục vụ sự sống con người. Ngài mời gọi mọi người dấn thân vào cuộc chiến giữa “nền văn hóa sự chết” và “nền văn hóa sự sống”. Cuộc chiến đấu này được biểu hiện qua Thập Giá của Đức Kitô mà Giáo Hội xác tín: “Ánh rạng ngời của Thập Giá không bị bóng tối này che đi; thậm chí Thập Giá càng nổi bật rõ nét và sáng tỏ hơn, xuất hiện như là trung tâm, ý nghĩa và cứu cánh của toàn thể lịch sử và toàn thể sự sống con người” (Evangelium Vitae, số 50).
Sự sống cần có lương thực. Nhưng sự sống đời này chỉ tạm bợ, mau qua và chắc chắn sẽ kết thúc, quan trọng là sự sống vĩnh hằng. Khi một thanh niên giàu có hỏi về sự sống đời đời, Chúa Giêsu xác định: “Nếu anh muốn vào cõi sống, hãy giữ các điều răn” (Mt 19:17).
Ngoài các điều răn, Chúa Giêsu còn trao ban cho chúng ta loại lương thực đặc biệt để nuôi dưỡng chúng ta trên đường lữ hành trần gian: Bánh Trường Sinh – tức là Bánh Hằng Sống, Bánh của Sự Sống đời đời. Chúa Giêsu lặp đi lặp lại và nhấn mạnh vấn đề này để chuẩn bị tinh thần cho người ta có thể hiểu về Thánh Thể – loại Bánh đặc biệt là chính Thân Mình Ngài. Một sự thật vượt ngoài trí hiểu của nhân loại, phàm nhân khó có thể chấp nhận, vì thế mà Ngài đã chuẩn bị tinh thần cho chúng ta.
Được nghe nói tức là được biết, biết thì phải suy nghĩ, nhờ đó mà có thể hiểu, nhưng hiểu rồi có tin hay không lại là chuyện khác. Ai hiểu và tin thì thật là người khôn ngoan. Khôn ngoan là một nhân đức cần thiết trong đời sống, cả đời thường và tâm linh. Kinh Thánh cho biết: “Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tỳ ra đi” (Cn 9:2-3). Rồi Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi: “Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây!” (Cn 9:4). Thiên Chúa yêu quý người ngây thơ, đơn sơ như trẻ thơ, tức là sống khiêm nhường. Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo: “Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9:5-6). Thiên Chúa muốn “phá ngu kẻ dốt”, để rồi cũng được nên khôn ngoan.
Có ai muốn khờ dại chứ không muốn khôn ngoan? Chắc chắn không ai muốn, nhưng muốn thì phải hành động. Đó mới là vấn đề quan trọng, vấn đề sinh tử. Muốn thì quá dễ, làm mới khó biết bao, nhưng ai cố gắng làm được thì là người thực sự khôn ngoan!
Nhờ Thiên Chúa, chúng ta có sự sống. Nhưng đó mới là sự sống đời thường, sự sống sinh học. Nhưng nếu có Thiên Chúa trong mình, chúng ta thực sự có sự sống tâm linh, sự sống siêu nhiên. Tác giả Thánh Vịnh vui mừng chia sẻ và mời gọi: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3).
Tác giả Thánh Vịnh có Thiên Chúa, nhưng không ích kỷ, mà muốn mọi người cũng có Thiên Chúa như mình nên không thể không lên tiếng: “Kính sợ Chúa đi, đoàn dân thánh hỡi, vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi. Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ, còn ai tìm kiếm Chúa chẳng thiếu của gì. Các con ơi, hãy đến mà nghe, ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ Chúa” (Tv 34:10-12). Ý tưởng tương tự cũng đã được Đức Maria bày tỏ trong bài ca Magnificat: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:52-53).
Tác giả Thánh Vịnh vừa hỏi vừa trả lời: “Ai là người thiết tha được sống, ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan? Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:13-15). Chắc chắn ai cũng muốn vế thứ nhất, nhưng vấn đề vô cùng quan trọng là phải biết cố gắng thực hành vế thứ hai cho bằng được. Như vậy mới có sự sống của Thiên Chúa, như vậy mới là khôn ngoan!
Song song với ý tưởng đó, Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep 5:15-16). Nhận xét của Thánh Phaolô càng đúng hơn trong thời đại ngày nay. Điển hình như mới đây, một cô gái trẻ đẹp, người Công giáo ở Ai Cập, là nạn nhân của một số tín đồ Hồi giáo. Cô gái này bị 20 người hãm hiếp. Sau khi thỏa mãn thú tính, họ dùng cây Thánh Giá cắm vào họng cô. Quá đỗi dã man! Quả thật, “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7).
Sống khôn ngoan không là điều dễ dàng. Chúng ta đang sống trong thời buổi nhiễu nhương, sự khôn ngoan càng cần thiết hơn bao giờ hết. Thánh Phaolô nói về cách sống khôn ngoan: “Vì thế, anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa. Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5:17-20).
Trình thuật Ga 6:51-59 là phần cuối của diễn từ mà Chúa Giêsu nói tại hội đường Ca-phác-na-um. Ngài xác định: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Nghe vậy, người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ cho rằng Chúa Giêsu không thể cho chúng ta ăn thịt của mình. Họ không hiểu nổi điều Ngài nói. Nếu chúng ta hiện diện với họ và được nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn chúng ta cũng chẳng hiểu nổi. Thậm chí chúng ta có thể còn dám manh động kiểu “xã hội đen” chứ chẳng vừa đâu. Nhưng thật may là chúng ta đã “kịp hiểu” nhờ tiếp nhận đức tin tông truyền!
Biết họ đang “lùng bùng lỗ tai” và “quay cuồng đầu óc”, nhưng Ngài vẫn nghiêm túc phân tích tỉ mỉ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông KHÔNG ăn thịt và uống máu Con Người, các ông KHÔNG CÓ sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Khi chúng ta tiếp rước Thánh Thể là chúng ta được “hòa tan” vào Chúa Giêsu, được sống bằng sự sống của Ngài. Chúng ta sẵn sàng mở lòng ra với Ngài thì Ngài sẽ đại lượng trao ban, vì Ngài luôn muốn chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10:10).
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và hằng sinh, xin giúp con biết tiếp nhận Thánh Thể Đức Kitô để được sống dồi dào, cả đời này và đời sau. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
AI ĂN BÁNH NÀY SẼ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu nói “thịt Ngài là thật của ăn và máu Ngài thật là của uống”, và hơn nữa, “ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”.
Kitô hữu tin rằng bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thực là mình và máu Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Với giác quan, con người vẫn thấy đó là tấm bánh và rượu, nhưng với con mắt đức tin, đó là mình máu Chúa Giêsu Kitô. Đây không là phép lạ, vì nếu là một phép lạ, thì mọi người đã nhận biết đó là thịt máu Đức Giêsu, và con người không thể chối cãi được; chẳng hạn một số người nhận được phép lạ chữa lành bệnh tật ở Lourdes, người ta không thể phủ nhận điều này. Bánh rượu sau truyền phép là một bí tích, nghĩa là, là một dấu chỉ hữu hình để Thiên Chúa ban ơn sủng thiêng liêng cho con người.
Bí tích Thánh Thể không đơn thuần là dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để ban ơn thiêng liêng, nhưng còn là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa. Biểu tượng là dấu chỉ liên hệ mật thiết với điều dấu chỉ trỏ tới, và cũng là chính thực tại, chẳng hạn thân xác là biểu tượng của con người toàn diện. Bánh rượu nuôi sống và làm hoan lạc con người, bí tích Thánh Thể, mình và máu Đức Giêsu Kitô, cũng nuôi sống và làm hoan lạc con người, thể chất và tinh thần.
Bí tích Thánh Thể cho thấy Lời Thiên Chúa tiếp tục tự hủy cho con người được sống. Lời Thiên Chúa đã tự hủy, nhập thể làm người, giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được tôn vinh, thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục tự hủy nơi bí tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành mình máu Đức Giêsu Kitô: ôi vật chất sao được diễm phúc đặc biệt này. Lời Thiên Chúa tự hủy cho con người thấy nét đẹp và cao quý của thân xác, điều mà nhiều người tưởng rằng thân xác là cái gì kém giá trị. Bí tích Thánh Thể cho thấy vật chất cũng là cái gì tuyệt vời, vì Lời Thiên Chúa nhập thể đã dùng để làm nên mình máu thánh Ngài.
Bí tích Thánh Thể, mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, là bánh ban xuống bởi trời. Là lương thực ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Bí tích Thánh Thể là bánh hằng sống đối với những người tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Với những người này, chính qua bí tích Thánh Thể mà các tín hữu được quy tụ, để họ được nghe Lời Chúa và được rước mình và máu Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi sống đời sống thiêng liêng của họ, củng cố đức tin của họ vào Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, giúp họ sống bình an hạnh phúc trong những ngày ở dương gian này.
Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, vì Thánh Thể là chính mình máu Ngài. Nơi bí tích Thánh Thể, người ta đọc thấy tình yêu của Đức Giêsu đã hiến mạng sống cho con người, cho những ai tin vào Ngài. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình (Ga.15, 13). Đức Giêsu đã hiến mạng cho con người, và điều này được thấy một cách cụ thể qua qua bí tích Thánh Thể khi Đức Giêsu nói: “các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị nộp vì anh em…. Này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Bí tích Thánh Thể là chính mình máu thánh Người, được ban tặng cho con người, để trở thành bánh ban sự sống, để trở thành giá cứu chuộc con người. Con người thật là tạo vật được Thiên Chúa quý trọng biết bao, vì nó đã được Đức Giêsu hiến mình cứu chuộc.
Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách bí tích nhưng thật cụ thể đối với những người tin. Thiên Chúa ở với con người qua Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu; giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang ở với con người tuy dù con người không thể thấy Ngài bằng mắt trần, và rồi Ngài đang hiện diện với tín hữu cách đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cụ thể với con người. Thiên Chúa luôn ở với con người, và Ngài còn luôn ở lại với con người một cách cụ thể qua bí tích tình yêu này.
Khi một người nhận lãnh lương thực nuôi thân xác, lương thực được biến hóa thành thịt máu người nhận; khi một Kitô hữu đón nhận mình và máu Đức Giêsu Kitô vào lòng, Đức Giêsu Kitô làm cho người lãnh nhận được trở nên một với Ngài, được thần hóa nhờ Ngài. Mình máu Đức Giêsu Kitô thánh hóa Kitô hữu, làm Kitô hữu trở nên thánh một khi họ rước mình và máu Ngài. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Bí tích Thánh Thể, thần lương quy tụ, gầy dựng, và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ước gì mỗi Kitô hữu nhận biết giá trị vô lường của bí tích Thánh Thể, để trân trọng và hân hoan đón nhận bí tích cao quý này mỗi ngày, để bí tích Thánh Thể trở thành nguồn sống cho cá nhân và cộng đoàn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống hạnh phúc không?
- Theo kinh nghiệm sống, bí tích Thánh Thể ảnh hưởng trên đời bạn thế nào?
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể.
Ăn thịt và uống máu người mình yêu
là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới.
Nhưng Ðức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại
bằng Thịt và Máu Ngài.
Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá –
ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Ðúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài:
sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện,
và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
Ðức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51).
Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51):
Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống.
Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Ðức Giêsu về mình.
Ðịnh nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không?
Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống.
Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình,
mà chỉ khi mất mình như thế,
bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình.
Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn.
Ðức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt.
Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài.
Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi
thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ.
Ðức Giêsu sống nhờ Cha
và chúng ta sống nhờ Ðức Giêsu (c.57).
Như cành nho sống nhờ thân cây nho,
chúng ta cũng sống nhờ,
nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ
nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn.
Ðộng từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này,
như một lời mời gọi tha thiết của Ðức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước.
Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã,
thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên.
Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn.
Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa…
Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi.
Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào
bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế!
Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra,
nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm,
người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đến với chúng con
dưới dạng tấm bánh bình thường.
Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi.
Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người.
Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé,
có thể bị ẩm mốc làm hư hoại,
và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự
giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa.
Xin cho chúng con biết cách
đến với con người hôm nay:
đơn sơ, khiêm hạ,
không chút vinh quang hay quyền lực.
Nhờ ăn tấm bánh của Chúa,
chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon,
được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người.
Ước gì chúng con dám rước Chúa
đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình,
để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên.
Và ước gì chúng con trở thành
những Nhà Tạm di động,
đem Chúa đến cho đồng bào
và quê hương chúng con. Amen.
ĐỂ ĐƯỢC BIẾN ĐỔI NÊN GIỐNG CHÚA
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG : Ga 6,51-59
(51) Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. (52) Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ?” (53) Đức Giêsu nói với họ: “Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”. (54) Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. (59) Đó là những điều Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường ở Caphácnaum.
- Ý CHÍNH : Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều, tại hội đường thành Caphácnaum, Đức Giêsu đã giảng về Bánh Hằng Sống là bí tích Thánh Thể. Nội dung bài giảng được tóm lược như sau: Ai ăn Thịt và uống Máu Người, tức là lãnh nhận bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập, thì ở đời này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người, được tham phần vào sự sống thần linh của Người, và đến ngày tận thế sẽ được sống lại để hưởng hạnh phúc muôn đời với Người.
- CHÚ THÍCH :
– C 51 : + Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống…: Đức Giêsu tự xưng là tấm Bánh với hai đặc tính thần linh là “hằng sống” và “từ trời xuống”. + Bánh Tôi sẽ ban tặng: Sẽ ban là chưa ban ngay lúc này, nhưng sẽ ban khi lập bí tích Thánh Thể vào bữa Tiệc Ly sau này (x. Mt 26,26-28). + Chính là Thịt Tôi đây : Thịt (Sarx) trong ngôn ngữ Hy Lạp ám chỉ con người toàn diện gồm cả xác lẫn hồn. Thịt ở đây cũng chính là Thịt (Sarx) trong câu: “Ngôi Lời đã hóa thành “nhục thể” – hay là “Thịt” (Sarx) hoặc “người phàm” (Sarx) – và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14). Ở đây, “Bánh” được liên kết với “Thịt” và với “Sự Sống”, là hai đặc tính của bí tích Thánh Thể. + Cho thế gian được sống : Thịt của Đức Giêsu tức là bánh Thánh Thể, là lương thực thần linh, sẽ đem lại hiệu quả là ban sự sống cho người lãnh nhận.
– C 52-53 : + Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ? : Dân chúng Do Thái nghe Đức Giêsu giảng và đã hiểu đúng ý của Người. Đó là Người cho người ta ăn chính Thịt của Người. Họ thắc mắc và phản đối Đức Giêsu vì nghĩ rằng Người đã hóa điên khùng nên mới ăn nói bừa bãi như vậy. + Thật, Tôi bảo thật các ông: Trước sự thắc mắc về việc cho người ta ăn Thịt của mình, Đức Giêsu đã không làm dịu kiểu nói này lại và cũng không cải chính để tránh cho họ hiểu sai ý mình, nhưng Người lại tiếp tục xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình : Đây là cách diễn tả khác nhằm nhấn mạnh sự thật này: người ta chỉ có sự sống của Chúa nơi bản thân khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể, tức là ăn Thịt và uống Máu của Người.
– C 54-56 : + Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết : Kẻ lãnh nhận Thịt Máu Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể sẽ được tham phần vào sự sống đời đời và được Đức Giêsu cho sống lại vào ngày tận thế. + Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống : Trong bốn câu liền (c. 53.54.55.56), Tin Mừng Gio-an dùng cặp từ: Thịt (Sarx) và Máu (Haima) để chỉ con người toàn diện của Đức Giêsu. + Thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy : Hiệu quả của việc lãnh bí tích Thánh Thể là người ta được kết hiệp thân mật với Chúa Giêsu. Nghĩa là được “ở lại” trong Người, đón nhận sự sống dồi dào của Người và trở thành bạn tâm giao của Người, như thánh Phao-lô đã viết : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
– C 57-59 : + Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy : Đức Giêsu nói đến sự sống siêu nhiên nhờ bí tích Thánh Thể. Ai ăn Bánh Thánh Thể thì sẽ được tham phần vào sự sống siêu nhiên phát xuất từ nơi Chúa Cha thông qua Chúa Giêsu. + Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời : Sự sống siêu nhiên mà Bánh Thánh Thể ban cho người lãnh nhận, khác với sự sống tự nhiên thể xác do bánh Man-na mang lại. Vì thế mà dân Ít-ra-en xưa, dù đã ăn Man-na trong sa mạc nhưng vẫn bị chết do tội đã phạm. Còn ai ăn Bánh do Chúa Giêsu ban trong bí tích Thánh Thể thì sẽ được sống đời đời, nhờ đón nhận được sự sống siêu nhiên của Người.
- CÂU HỎI : 1)Bánh Thánh do Đức Giêsu hứa ban có hai đặc tính thần thiêng nào ? 2)Bánh đó sẽ được ban khi nào và là Bánh gì ? 3)Từ Thịt (Sarx) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là gì ? 4)Khi Đức Giêsu hứa sẽ ban Bánh Hằng Sống là Thịt của Người trong bí tích Thánh Thể, người Do Thái đã hiểu ra sao ? Có hiểu đúng với ý Người muốn nói không ? Tại sao ? 5)Khi thấy họ phản đối, Đức Giêsu không những không thay đổi điều vừa nói hay nói nhẹ đi, mà Người càng nhấn mạnh hơn qua câu nào ? 6)Ai ăn Thịt uống Máu Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể sẽ nhận được hiệu quả nào ? 7)Trong 4 câu liền (câu 53.54.55.56), Đức Giêsu dùng hai từ Thịt và Máu ám chỉ điều gì ? 8)Câu nào cho thấy hiệu quả của việc ăn Thịt uống Máu Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể ? Thánh Phao-lô viết về sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua câu nào ? 9)Sự sống siêu nhiên nhận được do bí tích Thánh Thể là sự sống nào ? 10)Sự sống siêu nhiên nhận được từ Bánh Thánh Thể thời Tân ước với sự sống tự nhiên từ Manna thời Cựu ước khác nhau thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA : “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
- CÂU CHUYỆN :
1) MẸ SẴN SÀNG HY SINH CHỊU CHẾT ĐỂ CON ĐƯỢC SỐNG:
Vào cuối thế kỷ trước, bên Anh quốc có phong trào di dân sang lập nghiệp tại Úc Châu. Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ góa chồng, mang theo một đứa con thơ còn bú sữa mẹ. Sau khi thuyền khởi hành được mấy ngày, thì một cơn bão bất ngờ ập đến làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột buồm đã bị gãy. Từ đó, con thuyền lênh đênh trôi trên mặt biển nhiều ngày. Lương thực trên thuyền đã dần dần cạn kiệt. Nhiều người bắt đầu bị chết đói và sau đó bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ trẻ kia cũng đã bị chết đói, trong khi đứa con nằm bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà mẹ này trước khi chết đã dùng dao cứa đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu của mình thay cho sữa mẹ đã hết. Bà đã hy sinh chịu chết để cho đứa con của bà được sống ! Về sau đứa trẻ kia lớn lên đã trở thành một vị dân biểu nổi tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ đến công ơn trời biển của người mẹ đã hy sinh lấy máu mình để làm lương thực nuôi ông khỏi bị chết. Rồi một hôm, ông đã đứng trên diễn đàn quốc hội kể lại câu chuyện thời thơ ấu của mình, và đề nghị quốc hội chọn một ngày trong năm để tôn vinh các bà mẹ, nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với mẹ của mình. Đó là nguồn gốc ngày Quốc Tế Các Bà Mẹ hiện nay.
2) CÂU CHUYỆN GIÚP BỆNH NHÂN ĐÓN NHẬN THÁNH THỂ:
Một nữ tu được cha sở nhờ mỗi sáng Chúa Nhật mang Mình Thánh Chúa đến thăm viếng và giúp đỡ một bà cao niên tại tư gia. Chị đã kể lại diễn tiến một buổi trao Mình Thánh Chúa như sau:
– Giúp bà cụ hồi tâm sám hối để dọn lòng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể.
– Đọc một câu Lời Chúa trọng tâm trong Tin Mừng Chúa Nhật và áp dụng vào đời sống.
– Đọc chung kinh Lạy Cha.
– Đưa Mình Thánh Chúa lên đọc câu xướng đáp : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. – “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà linh hồn con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ được lành mạnh”.
– Cho bệnh nhân rước lễ và uống thêm chút nước suối.
– Dâng lời nguyện kết thúc: “Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể. Ước gì Mình Thánh Chúa con vừa lãnh nhận, gia tăng sức khoẻ hồn xác cho con. Xin thương chữa con mau lành bệnh. Xin ban ơn nâng đỡ con và giúp con sẽ được sống lại vào ngày tận thế và được sống mãi mãi với Chúa trên thiên đàng. Từ nay con xin hứa sẽ luôn nở nụ cười với người chung quanh, sẵn sàng đón nhận mọi đau khổ trái ý gặp phải để đền tội con và cầu xin cho một tội nhân được mau trở về với Chúa, cho một người lương quen biết được sớm nhận biết tin yêu Chúa để cũng được hưởng niềm vui ơn cứu độ với con.- Amen”.
– Cuối cùng nói chuyện thân tình, hứa luôn cầu nguyện và hẹn gặp lại vào tuần sau.
- THẢO LUẬN :
1) Bạn nhận xét trong câu chuyện của chị nữ tu nói trên có những yếu tố nào giúp đỡ thiết thực cho bệnh nhân ?
2) Mỗi người chúng ta cần làm gì để được biến đổi nên tốt hơn sau mỗi lần rước lễ ?
- SUY NIỆM :
Câu chuyện bà mẹ nuôi con bằng dòng máu của mình, là hình ảnh tuyệt hảo nói lên tình thương của Đức Giêsu khi lập bí tích Thánh Thể. Người đã tự hiến mình trở thành Bánh thiêng nuôi dưỡng và ban sự sống đời đời cho các tín hữu chúng ta. Vậy Bánh Thánh Thể là bánh gì?
+ Sứ mệnh của bánh : Bánh là lương thực có thể ăn được và giúp người ta duy trì sự sống (Ga 6,51). Bánh không sống cho mình, mà luôn sống “vì và cho” con người. Đức Giêsu tự xưng mình là Bánh, vì Người đã tự hủy bản thân, hy sinh chính mình để cho loài người chúng ta được sống. Chỉ khi nào chúng ta sẵn sàng hy sinh bản thân cho tha nhân được sống, thì bấy giờ ta mới trở thành tấm bánh giống như Bánh Thánh Thể của Đức Giêsu.
+ Ăn Bánh Thánh Thể là đón nhận Đức Giêsu : Đức Giêsu nói : “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57). Khi lên rước lễ, là chúng ta được sống nhờ, sống trong và sống cho Đức Giêsu, như cành nho chỉ sống nhờ hút được nhựa sống từ thân cây chuyển sang (x. Ga 15,5).
+ Đức Giêsu là tấm Bánh để người ta ăn : Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã chủ trương chiêm ngưỡng và thờ lạy Bánh Thánh Thể hơn là hãy cầm lấy mà ăn như lệnh truyền của Đức Giêsu. Động từ ăn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Tin Mừng hôm nay, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu là: hãy siêng năng tham dự bữa tiệc Thánh Thể do Người khoản đãi, với hai của ăn cao quý trên bàn thờ là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa.
+ Phải ăn Bánh Thánh Thể cách nào cho hữu hiệu ? : Để việc rước lễ mang lại lợi ích thiêng liêng, thì người rước lễ cần được chuẩn bị trước, và phải đối thoại thân tình với Chúa Giêsu Thánh Thể sau khi đón rước Người vào lòng. Cần tránh rước lễ như một thói quen hay do vị nể, rước lễ để làm vui lòng người khác, nên thiếu sự chuẩn bị, bỏ thưa chuyện với Chúa sau khi rước lễ. Ngày nay tuy các tín hữu đã lên rước lễ nhiều hơn, nhưng phần đông lại rước lễ cách hờ hững : Thiếu tâm tình mến Chúa, bỏ phút thinh lặng thánh sau rước lễ, ra về sớm để tiện lấy xe và lo việc làm ăn, hay đi dự liên hoan với bạn bè… Vì thế việc rước lễ đã trở thành một lễ nghi mang tính hình thức : Lên đón nhận một tấm Bánh Thánh, thay vì được gặp gỡ Chúa Thánh Thể. Quả thật, ít có vị khách quí nào lại bị chủ nhà tiếp đón lạnh nhạt như Chúa Thánh Thể ! Do đó, dù năng dự lễ và rước lễ hằng ngày, nhưng nhiều tín hữu vẫn không gặp được Chúa Giêsu, không được ơn biến đổi nên giống Chúa, nên họ vẫn sống vô cảm, ích kỷ, tự mãn, lười biếng và vô trách nhiệm… như bao năm qua !
- LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Con cảm thấy có sự giống nhau giữa thân phận làm Bánh của Chúa với thân phận làm người của con. Nhờ ăn Bánh Thánh Thể của Chúa, con sẽ được biến hóa nên tấm bánh thơm ngon, được bẻ ra để phục vụ tha nhân. Ước gì con dám đón Chúa vào vùng mờ tối của lòng con, để sự hiện diện của Chúa làm cho con được bừng sáng ngọn lửa tin yêu. Ước gì sau khi được đón Chúa ngự vào lòng, con sẽ trở thành một Nhà Tạm di động, luôn mang Chúa chính là Tình Yêu, để sẵn sàng chia sẻ cho tha nhân chung quanh, để họ cũng được hưởng hạnh phúc đời đời với con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Huệ Minh
Là con người, nhịn ăn nhịn uống có thể trong một thời gian nào đó, nếu không ăn không uống chắc chắn con người sẽ phải chết. Đó là chuyện bình thường và hết sức bình thường của cơ thể con người.
Ngày xưa, cũng buồn cười là vào cái thời bao cấp, thời còn nghèo khổ thì thiếu thốn đủ thứ đủ điều và nhất là thiếu về cái ăn. Gạo, mắm muối … và đặt biệt là thịt, muốn có mà ăn phải có sổ lương thực và xếp hàng để mà mua. Mỗi người chỉ có khẩu phần là như thế.
Còn nhớ, hôm nào mua được khoanh thịt mỡ có lẽ mừng hơn thịt nạc. Đơn giản là có mỡ về có thể thắng ra lấy nước để có thể chiên, xào … thêm món khác. Ngày nay thì ngược lại, cái ăn cái uống nó dư đầy và người ta ngại đưa thức ăn vào trong người bởi lẽ thức ăn bây giờ dường như là chất độc.
Ngày nay, tràn ngập thị trường nhiều loại thực phẩm không được sạch. Heo, gà, bò, cá , tôm, cua, ghẹ … tất cả đều được nuôi bằng thức ăn nhân tạo. Và dĩ nhiên là thức ăn đó ngậm một lượng hóa chất đáng kể. Chưa hết, sau khi xuất chuồng, sau khi đánh bắt người ta còn bơm vào con gà, con heo, con trâu, con tôm thêm những hóa chất nữa. Bơm vào hoặc là để nó nặng thêm ký lô để bán hoặc là bơm vào cho nó xỉu để giữ cho nó được lâu.
Thế nhưng, dù làm gì thì làm, tất cả thực phẩm dường như đều ngậm hóa chất để rồi con người càng dung nạp vào thì con người càng … chết sớm.
Điều đáng tiếc, điều bi đát là con người nếu không ăn thì không sống được nhưng càng ăn vào thì lại càng chết sớm.
Cơ thể con người là như thế. Ngoài cái cơ thể 40, 50, 60 ký cần nạp thực phẩm vào trong người để nuôi cơ địa của mình thì con người cần lắm một thứ lương thực khác đó chính là lương thực tâm linh, lương thực thường tồn … Lương thực mà con người ăn vào sẽ có sự sống đời đời đó chính là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống như Chúa Giêsu nói với người Do Thái trong diễn từ Bánh Hằng Sống mà chúng ta vừa nghe : “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”.
Đứng trước lời lẽ đó, người Dothái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” Bản thân chúng ta cũng thế thôi, chúng ta cũng khó mà tin vào những lời ấy vì lẽ làm sao ta có thể ăn thịt và uống máu của Chúa Giêsu được ?
Thế nhưng, dù chúng ta có băn khoăn, dù chúng ta có chất vấn, dù chúng ta có nghi ngờ đi chăng nữa thì lời Chúa nói vẫn là sự thật : “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Lời Chúa nói đó và vẫn là thách đố, là lời mời gọi mỗi người chúng ta lựa chọn Bánh Trường Sinh hay chọn thứ bánh hay hư nát đó là quyền của chúng ta.
Sách khôn ngoan hôm nay nói rõ cho chúng ta rằng : Sự khôn ngoan đã xây nhà mình và dựng bảy cột trụ, đã giết các sinh vật, pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tỳ lên các nơi cao trong thành mà công bố rằng: “Ai ngây thơ, hãy đến cùng ta”. Và bảo những kẻ mê muội rằng: “Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan”.
Rất am hợp với những lời lẽ như thế trong bối cảnh mà ta lưỡng lự, ta chất vấn về Bánh Hằng Sống. Thánh Phaolô tông đồ vừa khuyên chúng ta : Anh em thân mến, anh em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Thật vậy, cuộc sống này qua đi quá mau và quá vội để rồi chúng ta nhìn lại lựa chọn của chúng ta. Những thứ gọi là lương thực vật chất, danh vọng, quyền lực mà ta càng đi tìm, ta càng lấp đầy cuộc đời ta tưởng chừng như làm no đủ, làm thỏa mãn ta nhưng dường như ngược lại. Những thứ ấy, ta càng đi tìm thì ta càng thấy hụt hẫng vì không bao giờ đủ cũng như nó cũng chỉ làm thỏa mãn cơn “khát” của cái tôi, của con người trần gian của ta mà thôi.
Ta, được mời gọi sống ở đời này nhưng không bám vào đời này, không lệ thuộc vào đời này mà là được mời gọi hướng về đời sau, về Nước Thiên Chúa. Và như vậy, ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta để ta nhận ra đâu là lương thực trường tồn cho ta.
Xin Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đến và ở lại trong ta và nuôi dưỡng linh hồn ta để ta không còn cảm thấy đói, thấy khát bao giờ nữa.