CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is 56, 1.6-7; Rm 11, 13-15.29-32; Mt 15, 21-28
——–
- Chuyện Tình Đẹp(Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Thiên Chúa Có Lạnh Lùng?(Thiên San, MTG.Thủ Đức)
-
Dân Ngoại Cũng Được Hưởng Ơn Cứu Độ (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Đến với muôn dân (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
-
Lòng tin kiên nhẫn của mẹ đã cứu con (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Bám chắc vào Chúa (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
-
Cho con vững tin (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Nhận biết mình (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Sức mạnh của lòng tin (Maria Phạm Anh, MTG.Thủ Đức)
-
Cảm thấu nỗi đau (Maria Nguyễn Huệ, MTG.Thủ Đức)
-
Ơn Cứu Độ đến với Dân Ngoại (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Ơn Cứu Độ được ban cho mọi người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
-
Mảnh vụn không thừa (Trầm Thiên Thu)
1. Kiên trì và vững tin (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Tin yêu sống bí tích Thánh Thể theo gương Đức Mẹ (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Tình mẹ đã cứu con (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Tình mẹ thương con (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
5. Đối thoại và niềm tin (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
6. Kiên trì và kiên trì (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Sức mạnh của tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
8. Lòng tin (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
9. Đức tin vững mạnh (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
10. Chúa Nhật XX Thường niên_A (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
11. Kiên tâm vững chí (Trầm Thiên Thu)
12. Đức tin cần được tôi luyện qua thử thách (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
13. Bà muốn sao thì sẽ được vậy (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
14. Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi (Fx. Đỗ Công Minh)
15. Tất cả vì yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
16. Một đức tin tuyệt vời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
17. Ân sủng (Lm. Trần Việt Hùng)
18. Văn hóa đức tin (Lm. Vũ Đình Tường)
19. Suy niệm Chúa Nhật XX Thường niên. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
20. Sức mạnh của lòng tin (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
21. “Lời” thử Đức tin (P. Trần Đình Phan Tiến)
22. Niềm tin sắt đá của một dân ngoại (JM. Lam Thy, ĐVD)
23. Bà muốn sao thì sẽ được vậy! (Pio X Lê Hồng Bảo)
24. Chó con cũng được ăn (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
25. Mẫu hình đức tin (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
26. Nhờ Chúa ban hay Bị Chúa giam (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
27. “Dân ngoại” có lòng tin mạnh hơn quân “Giudêu” (Anmai)
28. Các phẩm chất của một đức tin mạnh (Lm. Đan Vinh)
29. Chúa Nhật 20 Thường niên_A (Lm. Antôn)
.
CHUYỆN TÌNH ĐẸP
Tuần 20 TN-A: Mt 15, 21-28
Lm.Jos.DĐH, Gp. Xuân Lộc
Cùng sống trong hoàn cảnh lịch sử, cùng chung hy vọng đổi đời, khi tiếp cận với công nghệ hiện đại, người thì tự tin, kẻ mất kiên nhẫn bởi thực tế cuộc sống không như là mơ ! Chìa khoá dẫn tới cuộc sống mãn nguyện, khi con tim, khối óc, sức khoẻ, thời giờ, được kết hợp nhịp nhàng, và sử dụng chúng, đúng, đẹp nhất. Có bệnh vái tứ phương, từ xa xưa đã được tiền nhân áp dụng, chắc hẳn các đấng bậc muốn nói với con cháu, đừng nản lòng: còn nước còn tát. Ít nhiều gì, chúng ta cũng đã được nhắc nhớ đến công đức sinh thành, ơn cha nghĩa mẹ. Chuyện tình của người phụ nữ Canaan, sẽ còn sống động mãi trước tình gia đình, tình đồng loại, được cảm kích, trân trọng: vì con sống, suốt đời mẹ lam lũ, vì con vui, mẹ gánh hết đau buồn. Người mẹ khổ đau vì con bị “quỷ ám”, người mẹ đó nhẫn nại theo Thầy-trò Giêsu vì tình người, hay do tình mẹ con thôi thúc ?
Câu chuyện tình là phải đẹp, tình gia đình, tình bạn, tình ái, tất cả đều mang dáng dấp: hy sinh, tự do, quan tâm, che chở. Người phụ nữ Canaan bất chấp định kiến xã hội, tôn giáo, chị mong được tiếp cận, thân thưa với Đấng mà tâm tư chị mách bảo thành lời hành động: “lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Lời kêu xin phát ra từ môi miệng, âm thanh rõ ràng, chính xác về thân thế Đấng vì yêu đã đến, đang đến với muôn dân thiên hạ. Con vua Đavít im lặng, không phản ứng, có phải là điều khó hiểu không ? Câu chuyện tình của người phụ nữ Canaan trở nên đậm mùi, được chú ý, và ly kỳ: “xin Thầy thương để chị ấy về đi, kẻo chị cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Đúng, tình phải được hả hê, tài phải được sử dụng (Nguyễn Du), người mắc bệnh nan y, thầy thuốc tài giỏi, gặp nhau là ổn rồi, vấn đề còn lại là thời gian.
Chuyện tình nơi người phụ nữ Canaan đẹp, bởi có tình Giêsu, ở trong tình “mẫu tử”, trong tình đồng loại, có tình hiệp thông, trong hạnh phúc, có khổ đau sợ hãi. Lắng nghe và đối thoại với người phụ nữ Canaan, Đức Giêsu làm cho bức tranh “tin-yêu” hoàn thiện hơn: “này chị, niềm tin của chị mạnh thật, chị hãy về, chị muốn sao thì được vậy”. Tin Đức Giêsu là hiện thân của lòng thương xót Chúa, yêu con, vì hạnh phúc của con, người mẹ sẵn sàng chịu tổn thương, miễn sao con vui khoẻ là được. Niềm tin và tình yêu, không đổi ra thành tiền, không thể chi trả phí tổn, nhưng tin-yêu, chính là điều kiện để phép mầu xuất hiện nơi cuộc đời của ta. Bác sĩ tài giỏi, thầy thuốc dồi dào kinh nghiệm, vẫn cần các bệnh nhân đủ niềm tin, đủ tình yêu, và diễn tiến trở nên hiệu quả tốt đẹp: tài được sử dụng, tình được hả hê.
Câu chuyện tình thú vị: người đau khổ, kẻ bị quỷ ám, gặp được “Con vua Đavít” thực thi lòng thương xót Chúa. Phép mầu xảy ra không phải là chuyện tình cờ, mà là kết quả của tin-yêu được minh chứng từ người mẹ: “thưa Ngài, chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Sự kỳ lạ ở đời: mọi thứ có thể bào mòn, riêng tình mẹ thì không thể ! Thầy Giêsu đầy lòng thương xót mà không gặp được niềm tin, hẳn là rất tiếc ! Bệnh nhân khổ đau, kẻ tội lỗi, họ biết sám hối và gặp Thầy thuốc Giêsu, quả là phúc phần. Cuộc đời của mỗi người là chuyện tình đẹp: cơ hội tìm kiếm hạnh phúc, thời gian trải nghiệm với nén bạc riêng, bạn hãy tự do trang điểm bức tranh cuộc đời của mình. Chuyện tình đẹp, chuẩn, tin-yêu phải được bày tỏ, và không thể thiếu sự hiện diện của Thầy Giêsu Đấng cứu độ trần gian.
Câu chuyện tình – tài của đoạn tin mừng hôm nay sẽ còn được diễn tiến nơi chúng ta, sự kỳ bí của phép lạ sẽ xuất hiện nơi gia đình và từng tâm hồn, khi niềm tin yêu của chúng ta hiệp thông trong Đức Giêsu Kitô. Tình yêu chân thật không phát xuất từ những lời nói ngọt ngào, niềm tin sống động không do khổ đau nước mắt, tất cả vẫn đang được chứng minh bằng sự tinh tế, từ những việc làm bé nhỏ. Sống ở đời, giầu mà không có sức khoẻ, ốm đau bệnh tật mà không gặp thầy gặp thuốc, gọi là bất hạnh. Chuyện người phụ nữ Canaan là chuyện tình đẹp, không hệ tại hình thức bên ngoài, vì yêu con, chị không mất kiên nhẫn với Đấng mà chị tin là sẽ ra tay cứu chữa cho con mình, không ngại hạ mình ngang hàng với “lũ chó con”. Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng vĩ đại nhất chính là trái tim của người mẹ.
Các chuyên gia tiết lộ: nước hoa có 95% là nước, chỉ 5% khác biệt, điều đó nằm ở công thức bí mật nơi các nhà sản xuất. Mỗi chúng ta cũng có 95% cơ bản giống nhau, nhưng 5% khác biệt còn lại chính là yếu tố quan trọng phân biệt ta với người khác. Tâm tính và mơ ước, sẽ quyết định tư cách hình thành nên con người thật đẹp, tương đối hoặc xấu xa. Biết bao người gặp Đức Giêsu, qua người phụ nữ Canaan đã trở thành chuyện tình đẹp, được truyền lại cho hậu thế. Tình yêu nơi con người lớn lên từ trách nhiệm và bổn phận, người phụ nữ Canaan đặt trọn niềm tín thác nơi Đức Giêsu con vua Đavít, và mọi người đã thấy sự kỳ diệu của tình yêu xuất hiện. Đúng như câu ca dao: thương con mẹ dệt niềm tin, cho con ăn học, trọn tình mến yêu, chắc chắn mỗi người kitô hữu chúng ta cũng sẽ là một chuyện tình đẹp và đáng yêu.
THIÊN CHÚA CÓ LẠNH LÙNG?
Thiên San, MTG. Thủ Đức
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu nổi tiếng là Đấng giàu lòng xót thương, Đấng chạnh lòng thương. Có lần, khi từ trên thuyền xuống, nhìn thấy đám đông dân chúng bơ vơ, vất vưởng, Người chạnh lòng thương, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê. Khi nhìn thấy cảnh mẹ già đưa tiến đứa con trai duy nhất về “nơi an nghỉ”, Người cũng chạnh lòng thương, cho con trai bà góa sống lại. Nhiều và rất nhiều lần Tin Mừng đã kể lại cho chúng ta về chân dung đầy lòng thương xót của Người. Lạ thay, hôm nay, trước lời kêu xin của người đàn bà Canaan, Đức Giêsu tỏ ra khá lạnh lùng: “Nhưng Người không đáp lại một lời.” (Mt 15, 23).
Cuộc sống có lắm khi khó khăn, vui buồn lẫn lộn. Sự đời thường khiến ta gặp nhiều trắc trở, gian nan, thử thách nhưng cũng không ít khi đem đến cho ta những cơ hội. Chính những khó khăn, thử thách nhiều khi lại trở nên phương thế Thiên Chúa dùng để tôi luyện, uốn nắn chúng ta. Thường những người thành công là những người biết vượt qua khó khăn thử thách, kiên trì, không bỏ cuộc. Họ biết cách biến tất cả những gì là trở ngại, khó khăn thành cơ hội giúp họ lớn lên, kiên cường và vững mạnh hơn. Nơi họ, ta thấy được sự khiêm tốn. Khiêm tốn khi họ biết chấp nhận sai lầm của mình, chấp nhận được sửa lỗi, chấp nhận làm lại từ đầu, nhận trách nhiệm về mình, khiêm tốn học hỏi và đón nhận sự giúp đỡ từ người khác. Người đàn bà Canaan trong bài Tin mừng hôm nay cũng là một trong những người như vậy.
Khi biết tin Đức Giêsu đến, bà đã không ngần ngại chạy đến kêu xin, nài nỉ sự giúp đỡ của thầy Giêsu. Bà bỏ lại sau lưng sự tự ái, nhảy qua bức tường của sự phân biệt chủng tộc để lẽo đẽo theo Chúa. Nếu khi xin mà được liền thì bà ấy đã chẳng phải theo Chúa một đoạn đường dài như thế. Một tâm hồn đang đau khổ vì đứa con gái bệnh tật, ước mong gặp được thầy Giêsu để được chữa lành ấy thế mà bà chỉ nhận được một sự thinh lặng, không “gật” mà cũng chẳng “lắc”. Tưởng chừng như mọi chuyện đã kết thúc trước sự thinh lặng của thầy Giêsu, nhưng người phụ nữ vẫn kiên trì theo chân Người. Dường như bà ta bị bỏ rơi, chẳng ai thèm để ý đến lời nài van của bà. Thấy vậy, các môn đệ đến xin với Thầy mình rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15, 24). Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Itraen mà thôi.” (Mt 15, 24). Câu trả lời của Thầy đã quá rõ ràng. Bà ấy không phải là con cái Itraen. Nghe thấy thế, bà càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Người đáp lại: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ, Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.” (Mt 15, 25-28).
Trong hoàn cảnh của người phụ nữ Canaan, chúng ta có đủ bình tĩnh, kiên nhẫn và khiêm tốn được như bà ấy? Tình yêu dành cho con gái là động lực giúp bà vượt qua mọi trở ngại. Ngọn lửa tình yêu ấy đã phá tan cái “lạnh lùng” vốn có của sự thinh lặng và đổi lấy một câu trả lời từ tình yêu và sự chữa lành. Dường như sự thinh lặng của Chúa Giêsu thật khó hiểu. Phải chăng Người đang đợi điều gì đó từ người phụ nữ này? Trước sự kiên nhẫn, khiêm tốn và lòng tin vững mạnh của bà, Đức Giêsu đã cho bà được như ý muốn. Chúng ta cũng có thể làm được điều mà người phụ nữ này đã làm. Chỉ cần chúng ta có đủ tình yêu và vững tin vào tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình. Bởi Thiên Chúa không hề lạnh lùng với chúng ta nhưng luôn yêu thương và chờ đợi chúng ta.
DÂN NGOẠI CŨNG ĐƯỢC HƯỞNG ƠN CỨU ĐỘ
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Thường Niên XX, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Gia nghiệp Chúa hứa ban cho ta thì cao quý hơn những gì lòng ta dám ước mong. Do đó, chúng ta phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, hơn hết mọi loài. Không phải: chỉ có dân Dothái được hưởng gia nghiệp của Chúa, nhưng, dân ngoại cũng được thừa hưởng cùng một lời hứa, miễn là: họ yêu mến Chúa và tuân giữ những gì Người truyền dạy. Thật vậy, Thiên Chúa là muốn cho tất cả mọi người được hưởng cứu độ của Người (x.1Tm 2,3-4). Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Dothái, cùng làm một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Eph 3,5-6).
Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia được mời gọi làm ngôn sứ để loan báo cho muôn dân biết: Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt Tuyệt Đối, cả mặt đất sẽ đầy tràn vinh quang Chúa, đồng thời, cũng cảnh báo Ítraen chỉ còn một số nhỏ sống sót mà thôi. Điều này được ngôn sứ nói rõ hơn trong bài đọc một của Thánh Lễ: dân ngoại sẽ gắn bó với Đức Chúa qua việc tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công chính, phụng sự Đức Chúa, yêu mến Thánh Danh, và dân ngoại sẽ được Đức Chúa dẫn lên Núi Thánh của Người.
Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Gioan Kim Khẩu khi chú giải câu Thánh Kinh “Chính anh em là muối cho đời, và ánh sáng cho trần gian”, thánh nhân nói: “Thầy không chỉ sai anh em đến với hai thành, mười thành, hay hai mươi thành, cũng không sai anh em đến với một dân tộc như sai các ngôn sứ xưa, nhưng Thầy sai anh em đi khắp cả địa cầu, biển khơi, đến với toàn thế giới đang bị ảnh hưởng xấu xa… Bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất”. Thánh nhân muốn cho thấy ơn cứu độ là phổ quát, là dành cho tất cả mọi người. Điều này cũng được thánh Phaolô, Tông Đồ của dân ngoại, khẳng quyết trong bài đọc hai của Thánh Lễ: ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa ban, thì không bao giờ Người rút lại, chỉ có điều, chúng ta có yêu mến, vâng phục Chúa để được hưởng ơn cứu độ của Người hay không mà thôi: kẻ bên trong, nhưng lại ở ngoài; kẻ bên ngoài, nhưng lại ở trong.
Bài Đáp Ca với Thánh Vịnh 66, vịnh gia đã kêu gọi “chư dân”, nghĩa là, dân ngoại hãy ca tụng Đức Chúa. Vịnh gia cũng ước mong cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Người.
Dân ngoại cũng được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong bài Tin Mừng hôm nay, mà người đàn bà Canaan là đại diện. Bà đã làm gì, để được hưởng điều cao quý hơn những gì mà lòng bà ước mong? Thưa, bà đã hoàn toàn tin tưởng, yêu mến, vâng phục Đức Giêsu, bằng chứng là, bà tự nhận mình là chó, tự đánh mất phẩm giá của một con người, để được nhận làm con Thiên Chúa, hưởng gia nghiệp, ơn cứu độ của Người.
Đức Kitô chính là Đấng Cứu Độ Duy Nhất, ngoài Người ra không ai có thể đem lại ơn cứu độ. Hội Thánh là nhiệm thể của Đức Kitô, ngoài Hội Thánh, không có ơn cứu độ, nhưng, Hội Thánh ở đây phải được hiểu là Hội Thánh phổ quát, là bí tích cứu độ phổ quát, nghĩa là, bao gồm tất cả những ai kết hiệp với Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu. Do đó, ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, mọi nơi và mọi thời, bất luận, họ sống trong hay ngoài Hội Thánh hữu hình, trước hay sau Đức Giêsu lịch sử.
Chúng ta thuộc về Hội Thánh hữu hình, nhưng, coi chừng: kẻ ở trong nhà, thì lại là người ở ngoài, còn kẻ ở ngoài, thì lại là người ở trong. Chúng ta ở trong Hội Thánh hữu hình, nếu chúng ta không tin nhận Đức Kitô, chối từ ân sủng, thì chúng ta không thể được cứu rỗi. Quả thật, lỗi cố tình này nhiều khi được cho là tội phạm đến Chúa Thánh Thần: cố tình chối từ ơn thánh, và những phương tiện cần thiết để được cứu độ. Qua biến cố Đức Kitô, ơn cứu độ đã được thực hiện cách thành toàn. Ơn cứu độ Người thực hiện mang tính phổ quát, áp dụng cho mọi người, mọi nơi và mọi thời. Lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi lên trời đã chứng thực điều đó (x. Mc 16,15-16). Vì thế, Đức Kitô trở thành Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Nhờ Người, muôn vật được tạo thành, cũng nhờ người muôn loài được ơn cứu độ (x. Cv 4,12). Chính Người cũng ủy thác cho Hội Thánh phân phát các mầu nhiệm cứu độ cho muôn dân.
Chúng ta với tư cách là thành viên của Hội Thánh, chúng ta cũng phải loan truyền ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người bằng chính đời sống chứng tá của chúng ta, bằng những ưu tiên lựa chọn hằng ngày của cuộc sống: quyết chọn Đức Kitô và thuộc về Đức Kitô, cho dẫu, chúng ta phải bị trả giá: bị bách hại, bị khinh khi, bị thiệt thòi mất mát: mất danh dự, mất quyền lợi, hay mất cả mạng sống mình.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
“Đến với muôn dân” là tựa đề của một Sắc lệnh trong văn kiện của Công đồng Vatican II. Nội dung Sắc lệnh này là lời mời gọi mọi thành phần Dân Chúa cộng tác vào sứ mạng truyền giáo, theo lệnh truyền của Đấng Phục sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x. Mt 28,16-20).
Khi xác định “đến với muôn dân”, Giáo Hội không còn là một cơ chế hành chính khép kín, đóng khung trong một nền văn hoá riêng biệt hoặc một châu lục hay một quốc gia. Trái lại, Giáo Hội có sứ mạng đi đến với mọi dân tộc để giới thiệu Chúa, làm cho chất men Tin Mừng thấm nhập vào mọi nẻo đường của cuộc sống, xây dựng Nước Trời ở trần gian. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần mời gọi Giáo Hội hãy đi ra, hãy mở cửa, hãy đến vùng ngoại vi để loan báo Tin Mừng.
Một trong những chủ đề chính trong Lời Chúa hôm nay là lời khẳng định: Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại. Bất kể ai, nếu có Đức tin sẽ được chữa lành và cứu rỗi.
Cũng như lòng nhân hậu, tình mẫu tử, sự tha thứ luôn là chuẩn mực cho con người dù họ thuộc về bất kỳ nền văn hóa nào, khái niệm về Thiên Chúa diễn tả Đấng là nguyên lý của mọi loài và là cội nguồn của Chân Thiện Mỹ. Ngài là Cha của người da trắng cũng như da đen da vàng. Ngài dựng nên những người thánh thiện cũng như những người tội lỗi. Ngài đổ ơn mưa móc xuống cho người công chính cũng như cho kẻ bất lương. Như thế, bất cứ ai sống dưới gầm trời này mà cậy tin vào Chúa và kêu cầu Ngài thì đều được Chúa thương, vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Chúa sẽ dẫn họ lên núi thánh và ban cho họ tràn đầy niềm vui (Bài đọc I).
Thánh Matthêu kể lại: hôm đó Chúa Giêsu đi đến miền Tia và Siđôn. Hai địa danh này diễn tả miền đất của dân ngoại. Người đàn bà xứ Canaan cũng là một người ngoại. Bà đang đau buồn vì con gái bà bị quỷ ám. Chúng ta lưu ý đến hai lời cầu nguyện của người phụ nữ này. Đó cũng là hai lời cầu nguyện trong Phụng vụ, xưa cũng như nay: Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Lời kinh trong phần sám hối mở đầu thánh lễ); “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Lời mở đầu giờ kinh Phụng vụ). Lời van xin của bà chứng minh một nhu cầu khẩn thiết và một niềm hy vọng sâu xa. Tuy vậy, lời van xin thống thiết này ban đầu đã bị Chúa Giêsu khước từ, kèm theo một lời nói xem ra rất “khó nghe”. Cuộc đối thoại giữa người phụ nữ này với Chúa được thánh sử Mátthêu trình bày như tiến trình của lời cầu nguyện nơi người tín hữu: có vẻ như lời cầu nguyện bị khước từ lúc ban đầu, nhưng sự kiên trì và phó thác sẽ làm thay đổi mọi sự. Không thể cầu nguyện trong sự nóng vội với một loạt những nhu cầu cấp bách và đòi Chúa phải chấp thuận ngay theo như ý mình. Bởi lẽ lời cầu nguyện không chỉ đơn giản là những lời xin, mà còn là tâm tình yêu mến tạ ơn, còn là sự diễn tả nỗi lòng của người con thảo đối với cha mẹ mình. Người phụ nữ xứ Canaan đã hiểu điều đó. Bà đã kiên trì và khiêm tốn, do đó lời cầu xin của bà đã được Chúa nhận lời. Ước vọng của bà đã được đáp ứng. Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta hãy kiên trì trong lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim chân thành và tình yêu mến thiết tha chắc chắn sẽ được Chúa nhận lời. Có những khi chúng ta không đạt được ngay tức khắc những điều chúng ta xin, nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Ngài muốn những điều thực sự là tốt và đem lại ích lợi lâu dài cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã đến trần gian để quy tụ muôn người thành gia đình của Thiên Chúa. Người đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa người Do Thái với dân ngoại. Đối với Chúa, người Do Thái hay người ngoại không phải là điều kiện để Người thực hiện những phép lạ, mà điều quan trọng là lòng tin. Lòng tin đôi khi phải trải qua thử thách. “Này bà, bà có lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Lòng tin là điều kiện để con gái bà được khỏi quỷ ám. Lòng tin cũng giúp bà kiên trì trong lời van xin, mặc dầu cảm thấy mình bị chối từ. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần khen lòng tin vững vàng của những người ngoài Do Thái, như trong trường hợp vị sĩ quan đến xin Ngài chữa cho con trai mình: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế” (Mt 8,10).
Tưởng cũng nên tìm hiểu đôi chút về khái niệm “chó con” được Chúa Giê-su dùng để chỉ về người phụ nữ dân ngoại. “Con cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ không có ý mỉa mai. “Chó con” cho ta hình ảnh con vật nuôi trong nhà, mặc dù không được coi trọng như con người, nhưng cũng được quý mến chăm sóc và thương yêu. Lời tuyên bố của Chúa có thể hiểu như một sự thử thách lòng tin của bà. Lập luận của bà chứng tỏ sự kiên trì và cậy trông, chấp nhận chỉ là một con chó con chực chờ những mụn bánh nhỏ rơi xuống trong khi người thực khách đang dùng bữa trên bàn. Sự kiên trì đã đem lại phần thưởng cho bà.
Ngỏ lời với giáo dân Rôma, là những người nguồn gốc dân ngoại, Thánh Phaolô chứng minh cho họ thấy lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài không khước từ ai. Những ai kêu cầu Ngài đều được Ngài thương nhận lời. Chính vì lòng thương xót đối với muôn dân, mà Chúa đã dùng thánh nhân như một tông đồ của dân ngoại. Thánh Phaolô hiểu sứ mạng của mình và ngài đã đi đến mọi nơi, xây dựng các cộng đoàn đức tin và giúp họ nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa, được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu (Bài đọc II). Như thế, mỗi chúng ta cũng đã là những “người thuộc dân ngoại”, nhưng nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta trở thành “con cái trong nhà”, là những người “đồng thừa kế với Đức Giêsu”, nhờ tình thương của Thiên Chúa.
Qua người tín hữu, Đức Giêsu hôm nay vẫn đang đến với muôn dân. Người là Ánh sáng muôn dân, đem ơn Cứu độ cho đến tận cùng trái đất. Mỗi chúng ta như cánh tay nối dài của Người, để đem ánh sáng ấy chiếu soi cuộc đời. “Ở đâu có cộng đoàn Kitô hữu, ở đó có linh địa của lòng thương xót” (ĐTC Phanxicô). Thực thi lòng thương xót trong nội bộ cộng đoàn cũng như đối với anh chị em không cùng niềm tin, đó chính là lời loan báo Tin Mừng hiệu quả nhất.
LÒNG TIN KIÊN NHẪN CỦA MẸ ĐÃ CỨU CON
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Tình mẹ đó là tình bao la và cao với nhất. Bởi vì mẹ chỉ biết cho mà không so đo tính toán, chỉ biết hy sinh mà không đòi đền đáp, nên cha ông ta mới nói rằng: “Ôm con mẹ đếm sao trời. Đếm hoài không hết một đời long đong”. Chính tình yêu cao vời ấy mà con người mới học được bài học yêu thương, mới hiểu được tình yêu cần lòng hy sinh như trong ca dao đã nói:
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.
Cuộc sống chúng ta có thể thiếu nhiều thứ nhưng tình mẹ nếu thiếu đi là một bất hạnh cho cuộc đời chúng ta. Vì chỉ cần có mẹ là ta có tất cả. Chỉ cần có mẹ thì mẹ sẽ lo cho ta mọi sự như ai đó đã nói: “Mẹ là người có thể thay thế tất cả những ai khác, nhưng không có ai có thể thay được vị trí của mẹ”.
Tình hiền mẫu ấy hôm nay đã được bà mẹ Canaan bộc lộ thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám. Bà đã can đảm vượt qua cái hố ngăn cách bất thân thiện, thậm chí thù hận giữa dân Chúa và dân ngoại, hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ Chúa đoái thương cứu giúp.
Bà công khai tuyên xưng đức tin, khi xướng lên thánh danh Đấng Messia. Rồi kể sự tình, không phải cầu xin cho bà, mà thành tâm khẩn khoản xin cho con gái đáng thương: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Mặc dù Người tảng lờ, như không nghe, không biết, không hề đáp lại, bà vẫn khiêm nhường, nhẫn nhục, vẫn không hề chao đảo, nhụt chí trước thái độ ghẻ lạnh của các môn đệ: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15, 23)
Vượt qua thái độ từ khước công khai của Đức Giêsu, bà mẹ kính cẩn khấu đầu, quỳ sụp xuống, van lạy tha thiết khẩn cầu, càng mạnh dạn hơn nữa bà mẹ hoàn toàn tin cậy vào lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu. Lời van xin đầy khiêm tốn của bà đến nỗi chỉ ao ước được tí bánh vụn của con cái vương vãi cũng đủ bà mãn nguyện.
Cuối cùng trái tim thắm tình mẫu tử được toại nguyện. Đức Giêsu cảm động nhận lời giải thoát quỷ dữ khỏi con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15, 28)
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bà mẹ đã cạn kiệt nước mắt. Có biết bao bà mẹ đã khổ vì con cái hư hỏng. Có biết bao gia đình quá cơ cực vì một thành viên bước vào con đường truỵ lạc. Có biết bao cơn bệnh hiểm nghèo đang cướp dần sinh mạng của những người chúng ta thương. Nước mắt vẫn chảy cho những phận đời cơ cực, bị bỏ rơi, bị bội phản. Nước mắt vẫn tuôn chảy cho những trái ngang của cuộc đời, những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy tin tưởng và cầu xin giữa những thử thách gian nan cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đang chờ một lời kinh, một lời cầu của chúng ta. Thiên Chúa cần lòng tin nơi chúng ta. Ngài có thể làm mọi sự. Nhưng Ngài lại bất lực trước sự cứng lòng tin của chúng ta. Phép lạ Chúa làm không nhằm mục đích phô diễn quyền năng của Thiên Chúa. Ngài càng không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ của con người. Ngài chỉ có thể làm phép lạ vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và tin tưởng của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng kêu cầu Chúa khi gặp những gian nan. Xin cho mỗi người chúng ta đừng đánh mất niềm tin khi gặp những thử thách trăm bề, nhưng luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Amen
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Người phụ nữ xứ Canaan bám chắc lấy Chúa để xin cứu chữa cho con gái bà. Giây phút gặp Chúa và bám chắc vào Chúa là một kinh nghiệm để chiến thắng quá khứ và sống niềm tin vào tương lai.
Chúng ta trải qua ba bài học liên tiếp, cỏ lùng giữa lúa, bánh ra nhiều và đi trên mặt biển đến với Chúa. Cả ba đều là những thách đố của thời đại: Về lòng kiên nhẫn làm việc lành giữa sự dữ. Về những gì nhỏ bé có hãy cố làm cho nó sinh hoa kết trái. Hãy bước trên những nghịch cảnh và đến với Chúa. Và Chúa nhật này lại như bà góa xứ Canaan bám lấy Chúa để cầu cứu.
Có thể đúc kết, chiến thắng sự dữ chung quanh, những nghịch cảnh không lường trước luôn đòi hỏi việc kiên trì cầu nguyện, bám chắc vào Chúa.
Hết lần này đến lần khác, người đàn bà kêu cầu dường như Chúa vẫn chưa nhận lời. Phải chăng Chúa bỏ mặc lời kêu cầu? Chẳng phải vậy! Chúa như muốn các tông đồ kêu cùng Chúa cho bà góa này. Như Chúa bảo: “Ở đâu có hai ba người họp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 19). Lời kêu cầu của một người sẽ chẳng bao giờ lẻ loi trong cộng đoàn hiệp thông, dù họ có ở nhà nằm trên giường bệnh một mình, hay dù họ có ở một nơi hẻo lánh hay ở một nơi thanh vắng, họ vẫn cầu nguyện trong cộng đoàn hiệp thông. Vì bản chất lời cầu nguyện là một hiệp thông, hiệp thông cùng các thánh trên trời, hiệp thông cùng bao người khác cũng đang cầu nguyện.
Chúa củng cố niềm tin cho con người bằng cách đối thoại với Chúa. Trong đối thoại, con người nói lên ước mong của mình và không chỉ cho mình còn đối thoại liên quan đến người người mình đang quan tâm. Chúa muốn lắng nghe, Chúa muốn con người thổ lộ tâm can. Không phải vì Chúa không biết, nhưng đối thoại là muốn nghe, muốn chia sẻ để cảm thông, dành thời gian cho con người.
Có hai loại thời gian. Thời gian của những công việc, lịch trình, và một thời gian của tâm hồn. Thời gian tâm hồn dễ bị xao lãng bởi những công việc và theo đó công việc, lịch trình trở nên nặng nề, vất vả, nhiều chuyện mà chẳng nên cơm cháo gì. Thời gian tâm hồn không chỉ là thời gian dành ra cầu nguyện mỗi ngày mà còn là thời gian tràn ngập vào cả trong những lúc làm việc, bận rộn lao động. Có một câu hỏi trả lời thú vị rằng, trong lúc cầu nguyện không được làm việc, nhưng trong lúc làm việc vẫn có thể cầu nguyện. Chúa muốn lắng nghe chúng ta. Hãy thưa chuyện với Chúa cả những lúc nghỉ ngơi và làm việc.
Bám chắc vào Chúa là một kinh nghiệm sống mà Chúa đã dạy: “Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng”. Và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức: Hãy mang lấy ách của Ta vào mình, hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn. Vì chưng ách Ta thì êm ái, và gánh Ta lại nhẹ nhàng”. (Mt 11, 28 – 30)
Bông hồng nhỏ
Trong hành trình bước theo chân Thầy, ta được chứng kiến bao cảnh đời bất hạnh, đã bao lần ta ngậm ngùi trước nỗi thống khổ của họ. Trái tim ta cũng biết chạnh lòng thương, biết bận tâm đến nỗi đau khổ của những người anh em. Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu, ta được cùng Người lui về miền Tia và Xiđôn. Này, có người đàn bà xứ Canaan cứ theo Người mà kêu xin mãi. Bà là một người dân ngoại nhưng đã làm cho ta cảm phục và ngưỡng mộ về một lòng tin mạnh mẽ, lòng cậy trông vững vàng.
Khi một người phụ nữ đang yêu, nhất là khi họ yêu bằng trái tim của một người mẹ thì nghị lực yêu thương trong họ thật phi thường. Quả thế, đôi chân người mẹ xứ Canaan cứ mải miết bước theo chân Thầy Giêsu, mải miết kêu xin Người dù bà chỉ nhận lại một thái độ dường như là quá lạnh lùng. “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm” (Mt 15, 22). Nhìn thấy dáng vẻ hao gầy của người mẹ đã một đời lo lắng cho đứa con bệnh tật ấy, nghe tiếng kêu xin thảm thiết của người mẹ khốn khổ ấy, ai mà không chạnh lòng thương. Vì đâu mà Thầy Giêsu- Đấng giàu lòng thương xót lại chỉ lặng thinh không đáp lời? Các môn đệ đến gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ đi theo sau chúng ta mà kêu xin mãi!” (Mt 15, 23). Chỉ đến khi các môn đệ lên tiếng, Thầy Giêsu mới đáp: “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Ítraen mà thôi (Mt 15, 24). Phải chăng, Thầy đang chờ đợi các môn đệ của mình lên tiếng? Hơn ai hết, Người nhìn thấy và cảm nhận được nỗi đau khổ của bà nhưng dường như người đang chờ đợi các môn đệ của mình lưu tâm đến người phụ nữ khốn khổ này. Người cũng muốn dành cho bà ấy một niềm hạnh phúc lớn lao, niềm hạnh phúc ấy được sinh ra từ những đau khổ và thử thách mà bà đã và đang trải qua; nó cũng là hoa trái của những cái rễ đắng cay từ những tủi nhục và đau khổ mà bà đã phải mang trên đôi vai nhỏ bé và nó cũng đã từng bao lần làm trái tim bà tổn thương.
Câu nói của Người không làm bà chùn bước, không làm bà mất hy vọng. Bà biết mình là người dân ngoại và bà lại càng cầu xin tha thiết hơn: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15, 25). Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Chỉ có dân Ítraen mới xứng đáng được lãnh nhận tình thương của Thiên Chúa hay sao? Chấp nhận thân phận bị khinh chê, bà vẫn kiên cường đáp lại trong thái độ nhẫn nhục: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Câu trả lời của bà khiến cho ta rất đỗi ngạc nhiên và cũng đầy cảm phục. Bấy giờ, câu trả lời của Thầy Giêsu như dòng nước trong lành và ngọt ngào chảy vào đôi tai bà, rung động tâm trí bà và tràn đến chữa lành trái tim bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi (Mt 15, 28).
Càng trải qua những đau khổ và thử thách, niềm tin trong bà càng mạnh mẽ và nó đã giúp bà lãnh nhận niềm hạnh phúc mà bà hằng khát mong. Đức tin của ta cũng sẽ phải được tôi luyện mỗi ngày. Chung chia niềm vui với bà mẹ xứ Canaan, ta cũng được tiếp thêm niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng xót thương những ai cậy trông và tin tưởng nơi Người. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1, 3-4) .
Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết con cần Chúa. Giữa những đau khổ và thử thách trong cuộc sống, xin cho con biết hướng nhìn lên Chúa, kiên trì bước theo đường lối Chúa mời gọi, để nhờ đặt trọn niềm tin và hy vọng nơi Chúa, con cũng được cùng Người hưởng phúc vinh quang. Amen.
Anna Cỏ may
Khi các em nhỏ khi xin cha mẹ điều gì mà không được, các em sẽ khóc òa lên. Cha mẹ đi đâu em theo đó cho đến khi em đạt được như ý muốn. Khi lớn lên, em xin cha mẹ mà không được, em tỏ ra thái độ tức giận và bỏ đi chỗ khác hay tìm cách để có được. Như thế, em đã không có được điều em mong muốn từ bố mẹ. Vì sao vậy?
Tin Mừng theo thánh sử Mátthêu thuật lại câu chuyện người đàn bà Canaan có đứa con bị quỷ ám, bà đã chạy đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa cho con mình. Bà vừa đi vừa kêu xin Đức Giêsu nhưng Người không đáp lại một lời. Các môn đệ lại gần xin Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15,21-28). Đức Giêsu đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi” (Mt 15,24). Dầu bà chỉ nhận được sự thinh lặng và câu nói lạnh lùng của Đức Giêsu, nhưng bà vẫn tiếp tục kêu xin. Bà nhận ra mình thật sự chẳng đáng phúc được nhận lòng thương xót của Đức Giêsu vì bà không thuộc đoàn chiên nhà Ítraen. Dầu thế, bà vẫn kiên trì kêu xin. Bà đặt niềm hy vọng, sự tin tưởng vào Đấng duy nhất sẽ cứu được con bà. Bà nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15,27). Nhờ thái độ vừa đi vừa kêu xin cùng sự tin tưởng vào lòng thương xót và quyền năng của Đức Giêsu, bà đã được như ý muốn: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15,28).
Đức Giêsu đã nói: “Tôi là mục tử nhân lành”(Ga 10,11); “Cha tôi, Đấng đã ban cho tôi, thì còn lớn hơn tất cả và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10,29). Vì vậy, đứng trước thử thách và gian nan của cuộc sống, chúng ta hãy kiên trì kêu xin Chúa, dù Ngài vẫn lặng thinh. Sự lặng thinh của Ngài có thể là đang lắng nghe lời chúng ta xin và xem ơn chúng ta xin có đem lại điều tốt nhất không? Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với một Tập sinh rằng: “Nếu ta cậy trông Chúa ban cho ta một ơn gì mà Ngài không định ban, thì Ngài rất quyền thế và giàu có, vì danh dự, Ngài chẳng để ta thất vọng, và Ngài sẽ ban cho” (Hoàng Trọng, Tinh thần, Đan viện Cát Minh Sài Gòn, chương II đoạn 6, 1970).). Vậy chúng ta hãy nhận biết mình là kẻ tội lỗi mà đặt niềm tin vào Ngài trong mỗi giây phút. Để rồi, chúng ta cũng được nghe ngài nói: “Con muốn thế nào, sẽ được như vậy” (x. Mt 15,28).
Lạy Chúa, Chúa biết rõ tình trạng, hoàn cảnh cùng nỗi âu lo hiện tại của con. Con chẳng xứng đáng với những điều con ước mong. Vậy, con xin dâng lên Chúa tất cả con người tội lỗi này. Nguyện xin lòng thương xót của Ngài bao bọc con suốt cả cuộc đời. Bởi vì Ngài đã dựng nên con và con đã là con của Ngài. Amen.
Maria. Phạm Anh
Khi khởi sự làm bất cứ một công việc nào, chúng ta mong ước hoàn thành nó một cách tốt đẹp. Người nông dân chăm chút cho cây trồng mong đến mùa bội thu. Những học viên ngày đêm miệt mài sách vở chờ đến lúc đỗ đạt. Những công nhân, bác sĩ, kỹ sư,…nỗ lực hành nghề, nghiên cứu để nâng cao tay nghề, kinh nghiệm,… Những mong ước, chờ đợi ấy không chỉ dừng lại trên những thành quả, nhưng ẩn chứa là một lòng tin, sâu xa hơn là lòng tin chúng ta sẽ được hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc thật sự chỉ có ở nơi Thiên Chúa. Hôm nay, người phụ nữ miền Canaan là người hạnh phúc nhất. Bà hạnh phúc không chỉ vì con gái bà được khỏi bệnh, nhưng bà đã gặp được Đấng Toàn Năng, và chứng kiến việc lạ Người làm mà bấy lâu nay bà mới chỉ nghe biết. Tất cả điều ấy xảy ra vì bà đã tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15, 28 ).
Hạnh phúc là một thực tại chúng ta chẳng dễ gì nắm bắt trong tay được. Thật vậy, trong cuộc sống trần gian với biết bao là khó khăn, thử thách, hay những đau khổ, bệnh tật, những nghịch lý, những trái ý,… làm sao chúng ta có thể cảm nhận được hạnh phúc? Lòng tin sẽ giúp chúng ta vượt qua những trở ngại ấy mà đến được những điều tốt đẹp, hạnh phúc theo kế hoạch mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Chúng ta thấy rõ điều này qua tấm gương người phụ nữ dân ngoại miền Canaan. Trước lời cầu khẩn của bà, Đức Giêsu đã lặng thinh, không những thế, dường như bà đang bị từ chối: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15, 26). Dù vậy, bà vẫn tin. Thật ngạc nhiên! Niềm tin của bà càng thêm mạnh mẽ và xác tín hơn, khi bà đáp: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rớt xuống” (Mt 15, 27). Bà tin vào chính Đấng bà đang cầu xin, dù bà chưa nhận biết Người, nhưng bà vẫn tin, Người sẽ đoái thương đến bà. Thật vậy, chẳng có gì ngăn cản được Thiên Chúa thương xót, ban ơn cho con người, dù người được nhận ơn là ai đi nữa: “ hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta” (Is 56, 6-7).
Tin là chúng ta trao phó cuộc đời mình cho Thiên Chúa, Người sẽ thực hiện những điều tốt đẹp trong cuộc đời chúng ta. Nhưng thật là nghịch lý, khi chúng ta nói chúng ta tin, nhưng chính chúng ta lại không làm gì, như dân gian có câu: há miệng chờ sung rụng. Chúng ta tin sẽ thu hoạch được một vụ mùa tốt, nhưng chúng ta lại chẳng đem hết tâm huyết để chăm bón cây trồng thì làm sao có được. Hay muốn trình độ nghiệp vụ được nâng cao nhưng lại không cất công học hỏi, nghiên cứu, thì cũng không có kết quả gì. Hoặc chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nhưng chúng ta lại làm ngơ trước những khó khăn, đau khổ của người khác. Dường như chúng ta chưa thể hiện được lòng tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đang trưng diễn sự kiêu ngạo của chúng ta để thách thức nhiều hơn là tin tưởng, phó thác nơi Chúa. Thật vậy, khi chúng ta tin, chúng ta sẽ đem hết cả tâm trí, con người để chúng ta thực hiện những điều ấy, trong niềm xác tín: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng luôn thực hiện những điều tốt nhất trong cuộc đời chúng ta. Như thế, chúng ta cảm thấy thật hạnh phúc.
Một khi lòng tin của chúng ta đơm bông kết trái, chúng ta cũng muốn cho người khác cũng được như vậy. Chúng ta đã cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc khi được làm con Chúa, được hưởng dư đầy những ân lộc Chúa ban, chúng ta muốn cho những người chưa nhận biết Chúa cũng nhận được hồng ân ấy. Chúng ta nên từ bỏ não trạng “loại trừ” khi những người khác không giống, không cùng tín ngưỡng với chúng ta. Thay vào đó, chúng ta phải có bổn phận khơi lên lòng tin nơi họ qua đời sống bác ái, yêu thương, chia sẻ. Nếu chúng ta không làm được những việc cao cả lớn lao, thì hãy bắt đầu với những hành động nhỏ bé. Như vậy, chúng ta làm cho người khác phải thắc mắc về chúng ta: đây là đạo yêu thương! Chẳng hạn, chúng ta đến nhà để thăm hỏi, trò chuyện, mời người khác đến tham dự Thánh lễ và dùng cơm trong các dịp lễ lớn, trao gửi những nụ cười thân thiện, nói những lời yêu thương,… Tất cả những việc ấy đều nằm trong khả năng của chúng ta. Khi làm như vậy, chúng ta đang sống niềm tin của chúng ta ngay trong cuộc sống hằng ngày.
Lạy Chúa, con tin, con tin Thiên Chúa luôn yêu thương, quan phòng và thực hiện những gì tốt đẹp nhất cho con. Xin cho con biết thể hiện niềm tin ấy qua việc không ngừng nỗ lực đem hết khả năng, nhiệt huyết mà cộng tác với ơn Chúa ban để sinh hoa trái trong đời sống đức tin thường ngày. Nhờ đó, con sẽ trở thành nhân chứng của Chúa cho tha nhân. Amen.
Maria. Nguyễn Huệ
Qua những phương tiện truyền thông, hằng ngày, có hàng chục bài viết, những video clip nói về tình trạng hỗn loạn, khó khăn, mất bình an của xã hội chúng ta đang trong thời gian dịch bệnh Covid hoành hành. Qua thông tin mỗi ngày, chúng ta biết Giáo hội của Chúa đang bị bách hại, bôi nhọ, xúc phạm. Bối cảnh ấy hiện lên biết bao nỗi đau, lo lắng, sợ hãi, bệnh tật của con người, đặc biệt là khát khao một cuộc sống bình thường, hạnh phúc. Ánh sáng Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối diện với nhu cầu của bản thân, tha nhân trong đức tin, qua thái độ khiêm tốn của người phụ nữ Canaan nài xin Chúa Giêsu cứu con gái của bà: “Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khỏ sở lắm!” (Mt 15, 22).
Chúng ta thấy thái độ nài xin của bà thật khác lạ! Bà xin Chúa thương xót bà trong khi chính con gái của bà mới là người đau khổ đang bị quỷ ám. Trong trình thật khác của Tin Mừng, Mt 17,14-15 người cha đến cầu xin Chúa Giêsu chữa con trai mình và nói lên nỗi đau khổ của trai “ thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và bệnh tình nặng lắm”( Mt17,15) . Vậy tại sao bà lại thưa lên với Đức Giêsu như vậy? Phải chăng là tình mẫu tử thiêng liêng và chính nỗi đau khổ của con bà đã trở thành nỗi đau khổ của bà. Bởi bà đã cảm được, đã thấu hiểu được nỗi đau ấy. Dù bà là dân ngoại nhưng đã thấm nhuần tinh thần đức ái của Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có rung cảm trước những nỗi đau khổ của những người đang sống quanh chúng ta, ngay cả với những người trong gia đình? Chúng ta có hiểu được áp lực về bổn phận, trách nhiệm của người chồng (người vợ) , hay những nỗi sợ hãi, lo lắng, đòi hỏi trong học hành của con cái? Dường như những điều ấy thật xa lạ trong cuộc sống của chúng ta! Khi về đến nhà, thường chúng ta chỉ quan tâm tới những vấn đề trên mạng xã hội facebook mà quên đi những người đang sống bên cạnh chúng ta: họ là ai, họ đang có những tâm tư, tình cảm gì, khó khăn gì… Với những người trong gia đình đã khó làm sao chúng ta có thể có thời gian quan tâm tới những người khác?
Qua sứ điệp Lời Chúa hôm nay, Chúa vẫn đang mời gọi Chúng ta hãy quan tâm người khác qua những điều nhỏ nhặt nhất: chăm chút cho những bữa ăn chung của gia đình, cùng nhau trò chuyện về ngày sống đã qua, và cả những khó khăn đang gặp phải trong cuộc sống,… Đặc biệt, chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa những ưu tư, trăn trở trong cuộc sống và chúng ta cũng không quên dâng lên Chúa những nỗi đau khổ của anh chị em đang gặp phải vì bệnh tật, chiến tranh, nghèo đói, những khó khăn bất ổn trong đời sống,… Chúng ta hãy tin tưởng, phó thác nơi Chúa tất cả thao thức cuả chúng ta. Bởi chúng ta đã, đang và sẽ cảm thấu những nỗi đau ấy. Và, chúng ta có thể giúp đỡ người khác trong khả năng về vật chất cũng như tinh thần. Như vậy, chúng ta đang ôm những nỗi đau của người khác và được chính Chúa Giêsu ôm trọn cả chúng ta và những anh chị em khác đến với Người.
Lạy Chúa, trên thế giới còn rất nhiều người đang chịu sự đau khổ. Chúng con tin rằng Chúa biết điều con cái của Ngài đang gánh chịu. Xin Chúa mau đến cứu giúp chúng con. Đồng thời, xin Chúa ban ơn can đảm để giúp chúng con biết sống tâm tình hoán cải và phó thác để đón nhận những khó khăn, thử thách và không ngừng nỗ lực cộng tác với ơn Chúa ban với niềm xác tin rằng: “Thiên Chúa có thể biến những điều chưa tốt thành những điều lành”. Amen.
Lm Trần Bình Trọng
Người Do thái thời Chúa Giêsu coi tất cả những ai không có máu Do thái đều là dân ngoại. Ngay cả những người có máu Do thái, nhưng nếu bị tiêm nhiễm bởi những thói hư nết xấu của dân ngoại bang thì cũng bị liệt kê vào sổ dân ngoại như người Samari chẳng hạn.
Tuy nhiên người đàn bà Canaan ngoại đạo trong miền Tia và Xiđôn đã không sợ đến với Chúa để xin một ân huệ. Các môn đệ Chúa toan đuổi bà đi, vì bà có vẻ quấy rầy. Ðể thử đức tin của bà, ngay cả chính Chúa cũng toan đặt cản trở cho lòng tin của bà lúc ban đầu, khi bảo bà rằng sứ mệnh của Người là được sai đến với những chiên lạc nhà Ít-ra-en (Mt 15:24) mà thôi, nghĩa là sứ mệnh của Người không đến với dân ngoại như bà.
Lúc đầu Chúa tỏ vẻ lãnh đạm, lại còn dùng từ ngữ không đẹp của thời đại mà ám chỉ về dân ngoại như là chó khi nói với bà: Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con (Mt 15:26). Thời bấy giờ người cận đông có thói quen dùng kiểu nói mà ám chỉ về dân tộc khác. Và người Do thái ví dân ngoại như chó. Từ ngữ chó ở đây không mang ý nghĩa nhục mạ trong ngôn ngữ Aram như trong Việt ngữ. Và người đàn bà cũng tỏ ra tài khéo trong cách chơi chữ đối đáp, lặp lại chính kiểu nói chỉ về dân ngoại mà Chúa đã dùng: Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống (Mt 15:27). Lời đối đáp của bà có nghĩa là bà thừa nhận quyền ưu tiên của người Do thái trong việc nhận lãnh ơn cứu độ và khiêm tốn sẵn sàng lượm nhặt những gì con cái sa thải để nhận một ơn huệ nhỏ bé Chúa ban cũng được vậy.
Thấy bà có lòng tin khiêm tốn và vững mạnh, Chúa lên tiếng ca ngợi đức tin của bà. Lòng khiêm tốn và đức tin bất khuất của bà khiến Chúa mủi lòng và ban cho bà được toại nguyện: cho con gái bà được thoát khỏi quỉ ám. Dân riêng của Chúa có được cơ hội trước để nhận lãnh ơn cứu độ, rồi sau đó đến lượt dân ngoại. Bằng việc Chúa ban cho người đàn bà dân ngoại xứ Canaan có lòng tin được hưởng ân huệ, cho viên sĩ quan đội trưởng dân ngoại La mã, cho người phụ nữ Samari dân ngoại ở giếng Giacóp, các môn đệ hiểu được sứ mệnh của Chúa bao quát hơn, rộng lớn hơn, không chỉ giới hạn về một dòng giống hay một dân tộc mà thôi.
Trước những biến cố này, đức tin vào Ðấng cứu thế chỉ giới hạn đến một dân tộc Chúa chọn. Và sứ mệnh của Chúa là giảng dạy và chữa lành dân riêng của Người. Tại sao trước đó Chúa phải chọn một dân tộc làm dân riêng? Chọn một dân tộc làm dân riêng là để Chúa có cơ hội thử thách, luyện lọc và thanh tẩy họ, chỉ cho họ đường lối của Chúa và dạy họ sống thế nào để được gọi là dân riêng. Trong suốt dòng lịch sử Cựu ước, nhiều lần dân riêng của Chúa đã tỏ ra bất trung, phản nghịch cùng Chúa, họ bỏ Chúa để đi thờ các thần ngoại lai. Tuy nhiên khi họ ăn năn sám hối, thì Chúa lại sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của họ. Thánh Phaolô là người Do thái, nhiệt thành theo đạo Do thái đến độ cuồng tín. Chẳng thế mà ông đã xin trát của quan toà để đi bách hại đạo mới là Kitô giáo. Khi được ơn trở lại, thánh Phaolô đã nhiệt thành rao giảng đạo Kitô giáo cho người Do thái. Chỉ khi người Do thái không chịu chấp nhận tin mừng Phúc âm của đạo mới, thì thánh Phaolô mới tìm đến rao giảng giáo lý Phúc âm cho dân ngoại mà thôi (Rm 11:31).
Thiết tưởng câu chuyện Chúa thử thách đức tin của người đàn bà ngoại giáo phải dạy ta bài học về đức tin. Những cử chỉ khó chịu của các tông đồ, cộng thêm thái độ hờ hững của Chúa lúc ban đầu, cũng không làm nản lòng bà. Lời từ chối ban đầu của Chúa với người phụ nữ chỉ là hình thức thử thách đức tin khiêm tốn và lòng kiên trung của bà. Vậy để được đến với Chúa, người ta phải có lòng tin quả quyết như đức tin của viên đội trưởng ngoại đạo người La mã. Ông còn tỏ lòng khiêm tốn, không dám mời Chúa đến nhà, mà chỉ xin Chúa phán một lời thì đầy tớ ông được lành mạnh (Mt 8:5-13). Ðến với Chúa cũng cần biết phục thiện và chấp nhận sự thực như người phụ nữ ngoại đạo Samari. Người phụ nữ Samari lúc đầu tỏ vẻ khép kín khi gặp Chúa và trong cuộc đàm thoại với Chúa còn tỏ ra đanh đá nữa. Tuy nhiên chị ta cũng biết phục thiện và chấp nhận sự thực về mình, mặc dầu sự thật có làm đau lòng (Ga 4:7-42).
Ðối với đạo cũ là đạo Do thái thì ta cũng một thời bị coi là dân ngoại đạo. Bằng việc chấp nhận đức tin vào Chúa cứu thế và sống theo đường lối của Người, ta được trở nên dân mới được chọn làm dân riêng. Bài trích sách ngôn sứ Isaia hôm nay ghi lại: Người ngoại bang nào gắn bó cùng Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, thì Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh (Is 56:6a-7a). Lời ngôn sứ này ám chỉ về những người sẽ tìm đến Chúa để phụng sự, yêu mến Người và trở nên tôi tớ của Người, đều được Người đưa lên núi thánh.
Lời cầu nguyện xin cho được hưởng ơn cứu độ:
Lạy Chúa là Ðấng ban phát mọi ơn lành.
Xin dạy con biết mở rộng tâm hồn đón nhận ơn lành của Chúa.
Xin ban cho con một lòng khiêm tốn, một đức tin quả quyết
của viên sĩ quan La mã và người phụ nữ Canaan,
để ơn Chúa có thể tác động tâm hồn con.
Xin ban cho con một tâm hồn biết phục thiện,
biết chấp nhận sự thực về mình: ưu điểm cũng như khuyết điểm
của người phụ nữ ngoại đạo Samari
hầu ơn Chúa có thể biến đổi và cải hoá tâm hồn con. Amen.
ƠN CỨU ĐỘ ĐƯỢC BAN CHO MỌI NGƯỜI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong tập sách “Những mẩu bánh vụn” của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, đã kể lại một câu chuyện: Một người bạn tù với Ngài là người ngoại giáo, nhưng ông ta rất cảm mến Đức Hồng Y.
Ông ta được ra tù trước và sau này kể lại: Nhà ông ở gần Trung tâm Lavang, vì thế mỗi ngày, ông đều đến với Đức Mẹ Lavang để cầu nguyện cho Đức Hồng Y Thuận. Khi được hỏi: Ông là người ngoại, ông cầu nguyện thế nào? Ông đáp: Tôi nói với Bà Ấy (Đức Mẹ) rằng: Thưa bà, tôi chưa biết Bà là ai, song tôi đến đây để cầu xin Bà thương đến một người bạn của tôi là ông Thuận còn ở trong tù, xin Bà thương cứu giúp ông ấy. Thế là không bao lâu sau, Đức Hồng Y Thuận cũng được ra tù và hai người gặp lại nhau trong sự xúc động.
Người ngoại có tin Chúa và có cầu nguyện không? Trong thực tế, có nhiều người được gọi là ‘bên lương”, là dân ngoại, song họ lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, mặc dù họ chưa thực sự theo Chúa. Đối với những người dân ngoại này, chỉ cần một lòng tin đơn sơ chân thành, thì Thiên Chúa vẫn ghi nhận sự chân thành ấy và ban ơn trợ giúp cho họ. Nếu có dịp đến Lavang, Tàpao, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự thành tâm của những người ngoài Công Giáo. Họ đến đây với lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của Đức Mẹ. Họ thành tâm xin Chúa và Đức Mẹ che chở, chữa lành.
Có một suy nghĩ thường xảy ra nơi người Do Thái và nơi chúng ta hôm nay, đó là chúng ta thường đóng khung Thiên Chúa trong những người có đạo, cho mình là những người độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa và loại trừ người khác ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên Lời Chúa hôm nay cho thấy, Thiên Chúa không hề giới hạn tình yêu của Ngài. Bất cứ ai, dù là là dân ngoại hay Do Thái, nếu tin tưởng vào Thiên Chúa, thì đều được Ngài ra tay cứu độ. Tiên tri Isai đã loan báo về ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, không chỉ người Do Thái, mà người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa, phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cũng trở nên tôi tớ của Người. Những ai tuân giữ lề luật, thì cũng được lên núi thánh của Chúa… và Thiên Chúa sẽ ưng nhận lễ toàn thiêu của họ. Với lời này của Isai, quả thật đã phá đổ hoàn toàn suy nghĩ của người Do Thái, vì họ tự hào mình là dân riêng của Chúa, và ngược lại, Chúa là của riêng Israel mà thôi. Isai cho thấy, Thiên Chúa không hề bị giới hạn, hay nói đúng hơn, ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng không chỉ cho Israel, mà là cho tất cả nhân loại. Những ai tin và tuân giữ giới răn lề luật của Chúa thì trở thành dân của Chúa.
Câu chuyện Thánh Matthew thuật lại hôm nay khiến cho nhiều người thắc mắc: Chúa Giêsu đi về vùng Tia và Sidon, tức là vùng đất của dân ngoại, thì có một người đàn bà chạy đến và kêu lên: Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm. Với lời kêu cầu này, bà đã thể hiện lòng tin vào Đức Giêsu. Bà tin Đức Giêsu là Con vua Đavít, tức là Đấng cứu thế. Tuy nhiên Thánh Matthew cho thấy, Chúa Giêsu dường như dửng dưng trước lời kêu cầu này. Khi các môn đệ lên tiếng giùm bà, thì Chúa Giêsu còn trả lời: Thày chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel thôi. Đến khi bà ấy nài nỉ thì Chúa đã nói với bà: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.
Có nhiều nhà chú giải đã cố gắng giải thích những lời lẽ xem ra từ chối nặng nề này của Chúa Giêsu. Chúng ta không đi sâu và những giải thích này, nhưng chúng ta nhìn vào đức tin và sự kiên nhẫn của người phụ nữ trong khi cầu xin. Người đàn bà này đang gặp đau khổ, đó là con bà đau bệnh gần chết. Trong lúc tuyệt vọng, bà chỉ còn biết chạy đến với Thày Giêsu, mà có lẽ bà đã từng nghe biết về Ngài. Tuy nhiên khi đến với Chúa Giêsu, bà dường như lại gặp một thử thách khác, đó là sự im lặng làm ngơ của Thiên Chúa trước lời cầu xin của bà. Người phụ nữ này vẫn không thất vọng, dù có lúc bà như bị Thiên Chúa không chỉ im lặng mà còn từ chối thẳng thừng lời cầu xin của bà. Thế nhưng, bà vẫn kiên trì trước câu trả lời của Chúa, bà thưa lại với Chúa: Thưa Ngài đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống. Với câu trả lời này, bà đã thể hiện lòng tin của bà nơi Chúa Giêsu dù trước đó bà đã bị từ chối.
Người phụ nữ Canaan không hề tự ái trước lời từ chối của Chúa. Trái lại, bà càng khiêm tốn hơn để “lý lẽ” với Chúa như thế, vì tin rằng con của bà chỉ có thể được chữa lành nhờ quyền năng “dư thừa” của Thày Giêsu. Bà còn nhận mình không xứng đáng được đồng bàn hoặc được chia sẻ tấm bánh ân phúc của Chúa, mà chỉ dám nhận mình là đám chó con, chờ đợi và cầu xin một chút ân lộc dư thừa từ bàn ăn của chủ rơi xuống, chứ cũng không dám mong được ông chủ ném cho một miếng bánh. Chúa Giêsu hết sức ngạc nhiên trước lý lẽ và lòng tin của bà và ngài đã không thể không đáp ứng lời cầu xin của bà: Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Có thể nói, Chúa Giêsu đã phải xiêu lòng và chịu thua trước đức tin mạnh mẽ của một người phụ nữ như thế.
Thánh Phaolô đã nhận ra sự kỳ diệu trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi dân ngoại được mời gọi chia sẻ niềm tin và thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho người Do Thái. Mặc dù dân Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn để thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời, thế nhưng dường như, họ đã coi thường ân phúc này. Họ đã từ chối ân huệ của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã dành ân huệ ấy cho dân ngoại và cho tất cả những ai có lòng tin. Phúc lành mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Do Thái qua các tổ phụ, giờ đây lại được ban cho dân ngoại. Theo Thánh Phaolô, những người Do Thái muốn được hưởng ân phúc này đòi phải có một điều kiện tiên quyết, đó là quay trở lại với thái độ vâng phục Thiên Chúa.
Thưa quý OBACE, cũng đã có một thời, vì tự mãn với ơn gọi làm con Thiên Chúa, được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Giáo Hội, chúng ta cũng rơi vào tình trạng cực đoan, loại trừ những người dân ngoại, khi tuyên bố rằng: Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi. Từ quan niệm này, nhiều người sống đạo không khác gì dân Do Thái, tức là giữ đạo thụ động, không cố gắng, không hoán cải. Nhiều người khác rơi vào tình trạng giữ đạo theo công thức, theo thói quen, thiếu chiều sâu của đức tin, không thực hành đạo, vì thế khi gặp khó khăn thử thách, họ thất vọng oán trách Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào đức tin của những người bị coi là dân ngoại, để biết tôn trọng đức tin chân thành của họ và còn để rà xét lại đời sống đạo và đức tin của mình. Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội và ân phúc, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi đó là những điều tự nhiên, may mắn, hơn là nhận ra tình yêu thương ban tặng của Chúa. Giống như người Do Thái, chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ của mình, từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không hoán cải đời sống, thì cũng sẽ có ngày người từ đông chí tây được mời vào dự tiệc nước Thiên Chúa, còn chúng ta bị loại ra ngoài.
Kế đến, hãy học nơi tấm gương tin tưởng kiên trì và khiêm tốn của người phụ nữ Canaan hôm nay: đừng bao giờ thất vọng trước sự im lặng của Thiên Chúa. Vì để tôi luyện, thử thách đức tin của chúng ta, đôi khi Chúa dường như im lặng hoặc từ chối lời kêu cầu của chúng ta; nhưng nếu chúng ta cứ kiên trì, cứ nài xin, chắc chắn Chúa sẽ ra tay và cho chúng ta được như sự thỉnh cầu.
Người phụ nữ hôm nay quả là tấm gương cho các bậc làm cha mẹ. Nhiều người, nhiều gia đình đang rơi vào cảnh cùng quẫn, đau khổ vì vợ chồng đau yếu, con cái ngỗ nghịch hư hỏng; nhiều người đã ngã lòng vì thấy lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời. Họ trách Thiên Chúa: Tôi đi lễ mỗi ngày, đã đi xin khấn ở nhiều nơi mà vẫn chẳng được… Nhiều người thì xin những người đạo đức, thánh thiện thêm lời kêu khấn cho mình. Đó là điều tốt, thế nhưng đừng quên chính bản thân cần phải hoán cải, cần lắng nghe để nhận ra tiếng nói và sự chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống. Hãy tin tưởng, kiên trì để thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con và gia đình con. Chúa sẽ nghe lời chúng ta.
Nhiều người trẻ vì bị mê hoặc bởi khoa học công nghệ, bị mãnh lực của đồng tiền chiếm trọn cả thời giờ và ưu tư, khiến họ không còn chỗ cho Thiên Chúa. Họ đã để cho đức tin của mình bị mờ nhạt, èo uột khi rời xa gia đình hoặc khi lăn xả vào vòng quay của xã hội. Họ đánh mất thói quen cầu nguyện mỗi ngày, bỏ qua việc xưng tội rước lễ, xa rời với những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ. Những dấu hiệu ấy cho thấy một đức tin đang bị khô héo, mất sức sống. Chúng ta cùng cầu xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, đặc biệt cho những người đang lung lạc đức tin vì thử thách, và xin Chúa giúp chúng ta luôn tin tưởng, cậy trông nơi Chúa dù lúc vui hay lúc buồn, khi thành công hay thất bại. Chúng ta tin rằng, Thiên Chúa luôn ở bên và sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Amen.
Trầm Thiên Thu
Những thứ thừa thì chắc chắn dư, và là thứ bỏ đi, nhưng có những thứ dư mà lại không thừa, nghĩa là vẫn có ích. Rác rưởi có khắp nơi, nhưng chính những đống rác đó vẫn sinh ích bằng cách nuôi sống nhiều người khác…
Không ai đầy đủ đến mức không phải xin ai, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Thật vậy, đối với con người với nhau còn vậy huống chi phàm nhân đối với Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều là những kẻ ăn mày lòng thương xót của Thiên Chúa, cụ thể là những lúc đi xưng tội. Và mỗi ngày chúng ta cũng “ăn xin” Ngài nhiều lần, nhất là trong hoàn cảnh đại dịch corona hiện nay.
Thế giới có nhiều quốc gia, gọi là đất nước, phân định bằng biên giới, với khoảng trời và quốc kỳ riêng. Nhưng thế gian chỉ có hai lãnh thổ – miền sinh và cõi tử. Mọi người chung một dòng sông (nước) gọi là Thời Gian – khi sống, và chung một ngôi nhà gọi là Đất – khi chết. Cuộc sống nhiêu khê hơn chúng ta tưởng, như biển cả luôn động dù nhìn bề ngoài rất tĩnh. Tất nhiên luôn phải chiến đấu, trước tiên chiến đấu với chính mình. Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Tiền nhân đã xác định như vậy. Ngạn ngữ Phi châu nói: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba.” Thật vậy, thử thách càng cao thì cơ hội càng lớn. Thời thế tạo anh hùng nhiều hơn là anh hùng tạo thời thế. Chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940) đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Đau khổ và khó khăn là “bằng cấp sống” chứng minh một con người tài giỏi thực sự.
Thật tuyệt vời với cách so sánh của Garrison Keillor: “Cuộc sống cũng như cuộc chiến, nếu mọi thứ bỗng trở nên yên lặng thì có nghĩa là bạn đang thua trận.” Cuộc sống luôn đầy những thử thách, kinh nghiệm này ai cũng có thể tích lũy theo thời gian. Nếu không có thử thách, người ta không thể nhận ra sức mạnh kỳ lạ vẫn đang tiềm ẩn trong chính mình. Vả lại, cuộc sống bình lặng sẽ đơn điệu, gây nhàm chán. Toni Malliet nói: “Thử thách không là gì cả, nhưng cơ hội ẩn chứa đằng sau thử thách đó mới là điều đáng nói.” Chất liệu sống hơn hoặc kém là chất lượng của sự kiên trì, các thiên tài đều có chất này.
Đối mặt với thử thách, con người cảm thấy thật bé nhỏ và sức mạnh dường như trở thành yếu đuối. Vì thế mà cần can đảm. Chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta cố gắng “đi qua cửa hẹp,” (Mt 7:13-14; Lc 13:24) để tự tôi luyện trong gian khổ chứ không hèn nhát buông xuôi. Chắc chắn mọi thử thách đều có giá trị cao, vì chính những gian nan mới khiến người ta trưởng thành đúng nghĩa, thực sự thành nhân – nên người.
Chính Thiên Chúa truyền lệnh: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.” (Is 56:1) Thời gian là của Chúa, chúng ta chỉ là những người quản lý, không thể biết thời gian còn dài hay ngắn. Tất cả là quyền của Chúa: “Nếu Người muốn rút sinh khí lại và quy tụ hơi thở về mình, mọi sinh vật sẽ tắt thở cùng một lúc và phàm nhân sẽ trở về cát bụi.” (G 34:14-15) Do đó, ai cũng phải tỉnh thức, và đó là một dạng thử thách. Chính sự thử thách khiến chúng ta phải coi chừng để mà sống ngoan, xử khéo.
Thiên Chúa chí nhân nhưng cũng tuyệt đối công bình và chính trực, đặc biệt là không thiên vị bất kỳ ai: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.” (Is 56:6-7) Dù là ai, từ giáo hoàng tới giáo dân, từ bề trên tới người giúp việc, từ tổng thống tới người ăn xin, vô gia cư,… không ai có thể viện cớ gì mà nói: Nếu, Tại, Vì, Bởi, Giả Sử, Giá Mà, Phải Chi,… Những chữ “viết hoa” đáng quan ngại lắm!
Thực sự thiếu gì thì cứ xin. Thiên Chúa muốn được chúng ta quấy rầy, bất cứ lúc nào. “Xin–Cho” là luật công bằng. Ở đây là “xin–cho” trong tương quan yêu thương và bác ái, chứ không “xin–cho” theo kiểu “chế độ” ban phát, hống hách, đàn áp. Tất cả chúng ta đều là những “người làm công” trong Vườn Nho của Chúa, chẳng ai có quyền gì mà “chảnh” với người khác. Ý thức được như vậy để có thể ước mong như Thánh Vịnh gia: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.” (Tv 67:2-3) Tin để hiểu, hiểu để tin hơn. (Thánh Augustinô)
Cuộc sống con người bất trác và bất túc nên luôn có nhiều ước mơ về mọi thứ – tinh thần và vật chất. Nhưng ước mong về tâm linh mới thực sự quan trọng: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.” (Tv 67:5-6) Công lý và công bình phải có thì con người mới được tôn trọng đúng mức – về nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Đó là quyền sống do chính Thiên Chúa ban.
Những lời hay ý đẹp chúc nhau đôi khi chỉ là “xã giao” chứ chưa thật lòng. Trong Thánh Lễ có nghi thức “chúc bình an” nhưng một số người có vẻ vẫn thụ động khi cúi đầu chúc bình an, có người chỉ miễn cưỡng “co cái cổ” chút xíu. Ngay cả chủ tế cũng có người thụ động, gật đầu theo nghi thức, hai cậu lễ sinh hai bên chả sơ múi gì. Nghi thức để tránh lộn xộn, nhưng không nên câu nệ. Ước gì mọi người cùng chân thành với nhau: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8) Có những thứ nhỏ mà cần thiết, vụn vặt mà quan trọng. Chúc bình an cũng là cách thể hiện tình hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.
Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11:13-15) Ông cựu Biệt Phái Saolê muốn người ta ganh tị chứ không ghen tị hoặc ghen ghét, nhưng phải là ganh tị về điều thánh đức, cứu các linh hồn, chứ không ganh tị về những thứ trần tục, hình thức. Trọng hình thức là giả hình.
Thánh Phaolô xác quyết: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý.” (Rm 11:29) Thật vậy, ông nói rằng “trước kia chúng ta đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay chúng ta đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót chúng ta, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục để thương xót mọi người.” (Rm 11:30-32) Một triết lý đầy tính thần học với “chất Phaolô” rất đậm.
Từ xưa, người ta không ưa Chúa Giêsu vì Ngài có cách nói “khác người” và “gây sốc.” Khi Chúa Giêsu đang trên đường tới Tia và Xiđôn, có một người đàn bà Canaan kêu to: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15:22) Ngài vẫn làm ngơ, không nói nửa lời. Có lẽ các môn đệ nói gì đó nên Ngài xác định: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” (Mt 15:24) Bó tay!
Thế nhưng bà ấy vẫn kiên trì tin tưởng đến van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25) Nhưng Ngài thẳng thắn nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15:26) Ôi, nghe “sốc” quá chừng! Vậy mà bà ấy vẫn không tự ái, thản nhiên nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Chúa Giêsu trìu mến nhìn bà ấy, vừa cười vừa nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15:28) Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. Sự kiên trì có sức mạnh vô song. Đó không chỉ là “chất sống” mà còn là một nhân đức.
Thử thách thế thôi. Thử thách để người ta nhận ra chân giá trị của đức tin – càng kiên trì càng mạnh mẽ. Chúa Giêsu thử thách không phải là để “thăm dò” như chúng ta, vì Ngài đã biết lòng ai sâu hay rộng cỡ nào, tim ai cứng hay mềm, nghĩa là Ngài không cần thử thách. Ngài làm vậy để dạy chúng ta bài học vô giá của nỗi gian truân, đồng thời cũng tạo công trạng cho chính người chịu đựng thử thách. Thật tuyệt vời vì chúng ta bớt ngu muội nhờ kiên trì chứ không xơ cứng.
Rõ ràng thử thách và đau khổ là hồng ân. Chắc hẳn chúng ta cũng phải biết tạ ơn về loại hồng ân “dị biệt” như vậy. Thánh Phaolô khuyên: “Hãy tỉnh thức, hãy đứng vững trong đức tin, hãy sống cho đáng bậc nam nhi và ăn ở kiên cường.” (1 Cr 16:13) Một hệ lụy rất tuyệt vời là “đức tin phát triển thì đức ái cũng gia tăng.” (2 Tx 1:3) Cầu nguyện là điều cần thiết, có giá trị và hiệu quả, không chỉ cho mình mà cả những người mình cầu nguyện cho. Thật vậy, chính chúng ta cũng vẫn luôn phải xin Đức Mẹ và các thánh nguyện giúp cầu thay.
Lạy Thiên Chúa, con cũng chỉ là chó con yếu đuối và hôi hám, hoàn toàn bất xứng, cúi xin Ngài thương xót. Mặc dù vô duyên, bất tài, vô dụng, nhưng con luôn khao khát Ngài và tín thác nơi Ngài, xin cho con được hưởng những mảnh vụn bánh rơi xuống từ Bàn Tiệc Thương Xót để con được no thỏa ân tình Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trong thực tế, dường như Chúa ít khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Bởi thế, chúng ta thấy những gì chúng ta xin với Chúa không được Ngài nhận lời. Câu chuyện người đàn bà trong Tin Mừng hôm nay muốn dạy chúng ta về sự kiên trì trong lời cầu nguyện. Thiên Chúa không ngủ say. Ngài cũng không dửng dưng trước nỗi khổ của con người. Trái lại, Ngài vẫn ra tay cứu giúp những ai cầu nguyện với tấm lòng chân thành và sự bền bỉ kiên trì. Cũng có thể Ngài cho chúng ta một ơn khác, mang lại điều tốt lành ơn cho chúng ta.
“Lạy Thày, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm!”. Lời cầu nguyện xuất phát từ tấm lòng người mẹ. Bà có thể hy sinh mọi sự cho con mình. Bà chấp nhận mọi điều phiền toái, thậm chí cả những điều xỉ nhục, miễn là con gái bà được chữa khỏi. Trước lời kêu van này, dường như Chúa Giêsu vẫn dửng dưng. Hơn nữa, Người còn sánh ví người đàn bà như một con chiên lạc, thậm chí như một chó con. Bà không buồn vì điều đó, lại khiêm tốn khẳng định mình chỉ xin làm một con chó con chờ đón những mụn bánh rơi xuống từ bàn ăn. Cách lý luận ấy ẩn chứa một đức tin vững vàng và một kỳ vọng chắc chắn nơi quyền năng của vị ngôn sứ mà bà kêu cầu với danh hiệu “Con vua Đavít”. Sự bền bỉ kiên trì của bà đã sinh hoa trái: Chúa đã nhận lời cầu xin và con gái bà được chữa lành.
Nếu chúng ta cậy trông tin tưởng nơi Chúa, là vì chúng ta tin Ngài là Đấng nhân hậu và Cha của muôn dân tộc. Giáo huấn về Thiên Chúa là Cha của nhân loại được nhấn mạnh trong các tác phẩm ngôn sứ và văn chương Cựu ước. Tuy vậy, một số người Do Thái, nhất là những luật sĩ và biệt phái, thì lại chủ trương ngược lại với giáo huấn này. Chúa Giêsu muốn phá đổ những hàng rào ngăn cách do chủng tộc, địa vị xã hội và tôn giáo, hầu xây dựng một xã hội hợp nhất trong tương lai, như một chủ chiên và một đàn chiên. Nếu Thiên Chúa đã khẳng định qua ngôn sứ Isaia: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Bài đọc I), thì Giáo Hội hôm nay chính là Nhà Chúa, là điểm quy tụ muôn dân để thực thi công bình và xây dựng hiệp nhất yêu thương. Một số người công giáo vẫn còn giữ thói quen kỳ thị khinh miệt những người khác vì họ mắc ngăn trở, hoặc vị địa vị của họ hèn kém trong làng xã. Họ cũng giống như những người biệt phái xưa kia trong Tin Mừng, tự coi mình là hoàn hảo và loại trừ người khác. Cộng đoàn giáo xứ là hình ảnh của Giáo Hội thu nhỏ. Mục đích và đường hướng hoạt động của cộng đoàn này phải luôn theo sát và phù hợp với định hướng chung của Giáo Hội hoàn vũ, tức là trở nên ánh sáng muôn dân, là điểm quy tụ mọi người trong tình hiệp thông và là phương tiện chuyên chở con người về với Chúa.
Câu chuyện người phụ nữ Canaan vừa dạy chúng ta bền chí trong lời cầu nguyện, vừa nhắc chúng ta quan tâm đến người khác, vì hết thảy đều là anh chị em con một nhà và đều được Thiên Chúa yêu thương. Chúa Giêsu đã khen đức tin của người phụ nữ này rất mạnh mẽ và kiên trì. Đức tin của chúng ta sẽ như thế nào, nếu như một ngày kia chúng ta phải đối diện với những thử thách cám dỗ, nhất là những lúc chúng ta cảm thấy dường như bị Thiên Chúa lãng quên?
“Nếu người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabát, không hề sai lỗi và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện” (Bài đọc I). Những lời ngọt ngào trên đây đã chứng minh Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc và hết thảy những ai kêu cầu Danh Ngài được được đón nhận.
Là người được trao phó sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Thánh Phaolô trân trọng và cần mẫn trong trách nhiệm. Đối với thánh nhân, việc dân ngoại nhận biết Chúa là niềm vui lớn lao, nên ngài sẵn sàng chấp nhận mọi gian lao, tù đày và nhục nhã để sứ vụ này mang lại những kết quả (Bài đọc II). Chắc chắn còn những mâu thuẫn, phân bì, nhưng lòng đạo đức, tâm tình cầu nguyện và nghĩa cử bác ái của mọi thành phần Dân Chúa, sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng Giáo Hội của Chúa Kitô.
.
TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.
Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.
Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.
Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.
Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.
Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.
Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.
Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.
Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?
2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?
3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Trong cuộc đời này, có ai lại không được lớn lên trong vòng tay của mẹ, không được nghe tiếng ru hời ầu ơ ngọt ngào, có ai lại không được chìm vào giấc mơ trong gió mát tay mẹ quạt mỗi trưa hè oi ả. Và trong cuộc đời này, có ai yêu con bằng mẹ, có ai suốt đời vì con giống như mẹ, có ai sẵn sàng sẻ chia ngọt bùi cùng con như mẹ?
Thế nên, có ai đó nói rằng: “đi khắp thế gian cũng không ai tốt bằng mẹ”. Tình mẹ mãi ôm ấp che chở đầy tình bao dung cho từng đứa con.
Có một Cô gái mới có 18 tuổi, cô cũng giống như hầu hết các thiếu nữ ngày nay. Muốn tự lập. Sống tự do theo ý mình. Cô đã nói với mẹ:
– Con không muốn sống theo sự áp đặt của ba mẹ. Con sẽ ra riêng để sống tự do!
Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà mình. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, cô bị ruồng bỏ vì không tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ra làm thứ để mua bán, đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi và cô con gái đó ngày càng sa đọa trong lối sống của mình.
Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy. Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:
– Làm ơn cho tôi chưng tấm hình ở đây!
Đó là tấm hình một bà mẹ tóc muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: “Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”.
Rồi một ngày, cô gái đến toán cứu trợ nọ để nhận một bữa ăn cứu đói. Tình cờ mắt lơ đễnh nhìn những tấm hình và tự hỏi: “Có phải mẹ mình không nhỉ?”. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.
Lúc đó trời đã tối nhưng cô vẫn quyết định phải đi bộ về nhà. Về đến nhà trời đã sáng tỏ. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà. Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội lên buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên. Cô đánh thức mẹ mình dậy:
– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!
Không tin vào đôi mắt mình, bà mẹ lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô gái nói với mẹ:
– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm!
Bà mẹ nhìn con âu yếm:
– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá. Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!
Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!
Quả là tình mẹ thật bao la, và to lớn như cha ông ta bảo rằng:
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.
Tình mẫu tử của bà mẹ Canaan hôm nay thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám, nên can đảm vượt qua cái hố ngăn cách chủng tộc, thậm chí thù hận giữa dân Israel và dân ngoại. Bà hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ Chúa đoái thương cứu giúp.
Bà vượt qua thử thách, khinh dể, rẻ rúng, giả điếc làm ngơ, bà mẹ Canaan vẫn kiên trì, vững tin vào lòng từ bi nhân ái của Đức Giêsu. Chẳng hề ngại ngùng quấy rầy Thầy Giê-su, bà cứ mãi lẽo đẽo bám theo, năn nỉ, van nài. Mặc dù bị từ chối phũ phàng và dứt khoát: “Không nên lấy bánh cho con cái mà ném cho lũ chó con!”. Bà vẫn nhẫn nhục, bà chẳng tự ái, chẳng giận hờn, hoặc thất vọng bỏ cuộc. Bà không ao ước được nguyên tấm bánh, mà chỉ dám mong chút vụn bánh rơi rớt dưới nền nhà. Sự khiêm tốn thắm tình mẫu tử ấy đã được toại nguyện. Đức Giêsu cảm động nhận lời chữa lành cho con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15, 28)
Ước gì mỗi người chúng ta có một tình yêu với gia đình như người mẹ hôm nay, để nhờ lòng tin của chúng ta mà ơn Chúa được ban xuống cho gia đình. Ân sủng của Chúa sẽ tuôn đổ dạt dào trên gia đình và giải thoát gia đình khỏi hiểm nguy.
Xin cho chúng ta có một đức tin kiên nhẫn như người phụ nữ hôm nay để chạy đến trao vào tay Chúa những khó khăn của chính mình cũng như gia đình. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao thi ca nhạc phẩm, đã có vô vàn câu hò điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”
Với giai điệu mượt mà sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết ca khúc tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.
Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế. Dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu, tình mẹ muôn đời vẫn thế.
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, đã chôn vùi hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
Bà mẹ Armênia trong câu chuyện và bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình mẫu tử thiêng liêng cao cả.
Thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản. Kiên trì và khiêm tốn chứng tỏ nơi bà có một tình yêu mãnh liệt và một lòng tin mạnh mẽ.
Thật cảm động trước tình thương dạt dào của người mẹ Canaan. Thật cảm phục một lòng tin kiên vững của người phụ nữ ngoại giáo. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu đi đôi với nhau giúp cho con người một sức mạnh để can đảm, kiên trì và khiêm tốn.Lòng tin và tình yêu cho bà mẹ Canaan có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con gái.
Thương con,bà đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.
Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ hận thù để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.
Thương con nên khổ vì con. Người mẹ Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau khổ một, còn mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!”
Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nổi đau của con người như vậy? Chúa thinh lặng để bà thấm thía được sự bất lực của mình, và nhờ đó mà thấy được rõ hơn rằng, Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất của con người.
Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nổi các môn đệ không chịu được những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để đuổi bà về.
Mặc kệ thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin cứu giúp. Lần này thì bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”. Sao lạ vậy? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư? Những lời khó nghe Chúa dùng cũng là lời nói với mọi người, để cho ai cũng thấy được ơn cứu độ là một hồng ân Chúa ban bởi lòng thương xót, chứ không phải bởi sự xứng đáng của bất cứ ai.
Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và lòng tin của bà.
Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Nhận biết mình hèn mọn nên hoàn toàn cậy dựa vào lòng trắc ẩn của Chúa. Đó là sức mạnh của người mẹ Canaan. Thiên Chúa đầy lòng thương xót không thể từ chối lời nài van của một người không sao tìm ra một nơi nương tựa nào khác ngoài lòng trắc ẩn của Ngài, và Chúa Giêsu nói: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.
Làm sao mà Chúa có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ là Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nổi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ của mình. Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, nên chẳng nỡ chối từ những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.
Lòng tin và tình yêu giống như đôi cánh đã giúp người mẹ Canaan bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Đến với Chúa Giêsu bằng lòng tin và tình yêu, người mẹ Canaan nhận được một tình yêu quyền năng. Thánh Phaolô chia sẽ kinh nghiệm này: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi”(Pl 4,13).
Bà mẹ Canaan là tấm gương cho các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào các tệ nạn vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu khẩn, đã tin tưởng cầu nguyện như người mẹ Canaan này chưa?.
Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo. Chúa đã đánh giá lòng kiên nhẫn của bà là một bằng chứng đức tin. Chúa đề cao một mẫu gương về đức khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Giáo Hội chuẩn bị mừng lễ thánh Monica và thánh Augustinô. Xuyên suốt 18 năm dài, mẹ Mônica luôn cầu xin cho con trai Augustinô. Hằng ngày bà hy sinh, ăn chay và hãm mình cầu nguyện cho người chồng khô khan và con trai lầm lạc. Đã có lần đức tin của bà cũng bị lung lay.Thánh Ambrôsiô khuyên nhủ: “Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư mất”. Nhờ niềm tin kiên cường của người mẹ nên Thiên Chúa đã thay đổi cuộc đời người con. Augustinô từ bỏ con đường tội lỗi và sống đời thánh thiện, trở nên vị thánh lớn của Giáo Hội.
Nhiều gia đình ngày nay có những người mẹ khổ đau vì con cái hư hỏng hay lâm bệnh hiểm nghèo. Hãy noi gương bà mẹ Canaan, mẹ thánh Mônica, tin tưởng và cầu xin. Chúa sẽ ban ơn cho những người mẹ có đức tin chân thành, kiên nhẫn.
Tình mẹ thương con là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Chính Con Một Thiên Chúa Nhập Thể làm người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin. Từ đó, Mẹ đã nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu gian truân khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người Mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Cuối cùng, người nữ ấy được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.
Mẹ Maria đang được hưởng niềm vui thiên quốc. Mẹ hằng yêu thương con cái trên đường hành hương về quê trời.Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.Trong niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, kiên nhẫn với tin yêu và hy vọng.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Để có một niềm tin, không phải là cứ cúi đầu chấp nhận, không cần tìm hiểu và đặt lại những câu hỏi phản kháng. Trong mẫu đối thoại giữa Chúa Giê su và người đàn bà xứ Canaan cho thấy, Chúa chấp nhận sự phản kháng của bà để bà được điều bà xin. Như vậy, có thể thấy: Chúa Giê su tôn trọng tự do cá nhân – Sẵn sàng lắng nghe để mở ra một tương quan mới – và củng cố niềm tin sau những đối thoại.
Tôn trọng cá nhân.
Theo chú giải của bản dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Mat thêu ngụ ý: người đàn bà xứ Canaan này đã ra khỏi vùng đất dân ngoại và chỉ trong đất Israel Chúa mới thi ân. Đó là cách suy nghĩ của con người đến gặp Chúa. Thực ra, Chúa Giêsu cũng thuộc những người hay phản kháng, khi Chúa đặt giá trị yêu thương trên lề luật đã quy định: Chúa giao tiếp với người Samari, Chúa đụng chạm đến những người phong hủi, bệnh tật, bênh vực môn đệ bứt lúa trong ngày Sabath…
Chúa thích những người đặt câu hỏi và phản kháng: Đối thoại với ông Ni cô đê mô, với người thanh niên giàu có, với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Gia cóp, và ngay với các môn đệ… Đặt câu hỏi và phản kháng để chứng minh rằng, con người là một chủ thể rõ ràng, hiện diện trước mặt, như Descartes phát biểu: “Cogito ergo sum” – “Tôi suy tư, tôi hiện hữu”. Người đàn bà xứ Canan này cần được tôn trọng, không cần biết từ đâu đến, là dân ngoại hay là dân Israel, Chúa tôn trọng bà như một con người cần được lắng nghe.
Qua mẫu đối thoại này của người phụ nữ Canaan với Chúa, sao ta không thử bắt chuyện với Chúa về những ý kiến riêng tư của mình với Chúa, Chúa đang muốn nghe những đối thoại và sự phản kháng của ta với Chúa. Kể cả việc ta muốn từ bỏ Chúa ngay khi quá chán nản với sứ vụ đang theo đuổi điều công chính mà cứ gặp phải gian truân, như tiên tri Giêrêmia: “Có lần con tự nhủ: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.” Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20, 9). Hãy thưa truyện với Chúa, Chúa đang muốn nghe ta!
Sẵn sàng lắng nghe.
Chúa không đáp lại lời nào, có phải Chúa không muốn nghe lời đàn bà xứ Canaan nói. Không phải như thế, Chúa im lặng để xem phản ứng của các môn đệ đang đi theo Người. Trong câu truyện, các môn đệ cũng đã chuyển lời thỉnh cầu của bà đến Chúa. Chúa muốn mở một đối thoại thông qua cộng đoàn. Đức tin vừa là một hành vi cá nhân vừa là một hành vi cộng đoàn. Bà ngoại xứ Canaan được hỗ trợ bởi niềm tin của các môn đệ, đó là điều cần thiết.
Thế nên, một mình ta không thể nói với Chúa mà từ chối một cộng đoàn đang sống đức tin. Không thể nói đạo tại tâm mà không cần đến hiệp thông cộng đoàn phụng vụ… Chúa Giêsu muốn bà được công nhận vào một cộng đoàn mới, không chỉ là người Do Thái, không chỉ là những người coi mình là công chính… Chúa mời tất cả mọi người hiệp thông vào cộng đoàn đức tin mà các Thánh Tông Đồ tuyên xưng (Giáo hội tông truyền).
Trong khi cầu nguyện, Chúa còn dạy: “Ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 20). Hiệp nhất nhân Danh Chúa trong yêu thương, lời thỉnh cầu của người phụ nữ cũng là lời thỉnh cầu của các môn đệ. Yêu thương nhau là tiêu chuẩn để sống hiệp nhất. Chúa mời gọi ta, hãy mở lòng yêu thương, đón nhận, hy sinh, tha thứ và cầu nguyện cho nhau.
Muốn sao được vậy.
Niềm tin được củng cố sau những nỗ lực cá nhân đi tìm Chúa, đối thoại cá nhân, cầu nguyện với Chúa cùng với cộng đoàn hiệp thông. Đó là một tiến trình của việc Chúa muốn quy tụ một dân hiến thánh cho Thiên Chúa.
Sở dĩ khi diễn tả “chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rới xuống” (Mt 15, 27). Sự sánh vi này cũng giống như người Việt xưa trong lời kêu cứu thảm thiết: “Lạy ông! Con cắn cỏ xin ông..” Hạ mình thật thấp, đó là lời cầu nguyện cho kẻ khiêm cung, để nhận ra mình chỉ là “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.” (Lc 1, 48).
Bái lạy, quỳ gối. Trong nhiều trường hợp ngưới ta quỳ gối: Quỳ một chân của người đàn ông tỏ bày lời cầu hôn đến một cô gái, minh chứng sẽ giữ lời hứa chung thủy. Quỳ gối trước Đấng Toàn Năng. Quỳ gối khi đầu hàng để xin giữ mạng sống… Hành động của người phụ nữ Canaaan tỏ bày niềm tin yêu, tín thác vào tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, như người đàn bà xứ Canaan, xin cho chúng con biết đối thoại và tỏ bày cả những lúc phản kháng với Chúa, để thấy Chúa quyến rũ và chinh phục được chúng con. Cho chúng con luôn gắn kết với cộng đoàn trong yêu thương và thờ phượng Chúa. Xin luôn giúp chúng con học với Chúa lòng khiêm hạ để thi hành ý Chúa.
.
Anna Cỏ may
Hai mẹ con cùng đi chợ, cô bé réo lên:
– Mẹ ơi, mẹ mua cho con cái đầm kia đi! Nó đẹp quá à!
– Ùm đẹp thật, nhưng con có nhiều rồi, mặc chẳng tới mà.
– Không mẹ mua cho con đi mà! Nhiều bạn có đầm loại đó lắm.
– Được rồi, để lần sau mẹ mua cho. Bây giờ về thôi.
– Không, con không về đâu!
Cô bé mặt xị lên, nước mắt ngắn dài chảy ra. Hai chân thì dậm bành bạch khiến mọi người phải hướng về cô. Thấy thế, bà mẹ đành phải mua cho cô bé. Là người mẹ, ai cũng thương con và hằng cầu mong những điều tốt nhất đến với con. Đôi khi người mẹ biết làm như thế là không tốt cho con nhưng cũng không nỡ lòng nào để cho con phải khóc và đau. Mặt khác, sự nài nỉ cầu xin và sự kiên trì của người con khiến bà mẹ phải làm theo điều con muốn và cần. Tương tự như thế, chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh ấy qua người phụ nữ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bà Canaan có con gái bị quỷ ám. Bà biết mình là dân ngoại, dân thấp hèn so với người Do thái, nên bà kêu xin Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài là Con vua Đavít , xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sợ lắm!”(Mt 15, 22). Nhưng đáp lại lời xin này là một sự im lặng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không đáp một lời, có thể vì sứ vụ của Ngài không phải dành cho dân ngoại như lời Ngài nói với các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi”(Mt 15, 24). Hay có thể là một cách Ngài thử lòng tin của bà mức độ nào. Bởi vì bà đã can đảm đến xin Ngài chữa bệnh. Đứng trước im lặng ấy, bà mặc kể, bà cứ nài nỉ, cứ kêu xin mãi và cứ sụp lạy dưới chân Chúa. Còn Ngài, Ngài không trả lời mà còn “dặm” thêm một câu thật khó nghe: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”(Mt 15, 26). Phải như nhiều người khác, nếu nghe như vậy chắc dám sửng sộ lắm, cho dù họ đang cần giúp đỡ. Bởi vì câu nói của Ngài có sự xúc phạm. Nhưng đó là thử thách cho những ai can đảm đón nhận, đón nhận để có được điều mình muốn. Bà đón nhận và bình tĩnh thưa lại rằng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Lời đáp trả của bà thật là hay, vừa hợp lý, vừa khiếm tốn, vừa vững lòng tin và đầy hy vọng. Nhờ đó, bà được Chúa đáp lời: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15, 28). Quả thực, sự kiên trì kêu xin như thế chẳng những làm cho bà không ở yên mà khiến cả Chúa cũng không thể không động lòng. Giống như quan tòa, dù bất chính cũng không thể không hành động trước lời lải nhải của bà góa (Lc 18, 2). Giống như người bạn đến xin bạn mình giữa đêm hôm khuya khoắt (Lc 11, 5-8). Và tất cả những thái độ này được xem như là một cách cầu nguyện.
Ngày hôm nay, chúng ta muốn ăn những món ăn nhẹ, nhanh gọn và nó cũng được áp dụng trong việc xin ơn hay trong giờ cầu nguyện với Chúa. Và khi xin ơn mà không được liền, chúng ta dễ bỏ cầu nguyện, đi tìm hướng giải quyết khác. Chúng ta bắt đầu xa rời Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại lời Thiên Chúa hứa: “Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời, chúng còn đang nói thì Ta đã nghe lời rồi” (Is 65, 24). Bên cạnh đó, chúng ta cần xem lại ơn xin của mình là gì? Mục đích gì? Nếu là về ơn cứu độ của người xin và ơn cứu độ này là phải ước muốn sâu xa của người xin, thì Thiên Chúa luôn nhận lời. Chúng ta có nghĩ rằng sự trì hoãn của Chúa là một sự giúp đỡ, Ngài muốn làm cho đức tin của chúng ta mạnh lên. Ngài còn muốn chúng ta biết suy nghĩ và xin ơn điều gì là tốt hơn. Với bà Canaan, nếu Chúa Giêsu nhận lời cầu xin đầu tiên của bà thì cũng được thôi, nhưng nếu được liền như vậy thì liệu đức tin của bà có vững mạnh không hay cũng như bao người khác, đâu hoàn đó. Ngược lại, khi Ngài thử thách bà, Ngài làm cho lòng tin khiêm hạ của bà lớn thêm. Con gái của bà được khỏi bệnh và ân sủng cao cả nhất là bà trở thành một trong những tín hữu đầu tiên thuộc dân ngoại.
Ngày nay, tại sao có nhiều người ngoại giáo lại đi tìm Chúa hay những vị thánh của chúng ta để xin ơn. Và khi trở về, họ được như ý muốn. Ngược lại, có những người trong chúng ta xin ơn thì lại không được. Đó là một câu hỏi để cho chúng ta suy nghĩ lại đức tin và thái độ của chúng ta với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa luôn nghe và ban ơn cần thiết cho chúng con nhưng chúng con dường như không còn kiên trì trong lời xin. Chúng con dường như đang đi vào cuộc sống “mì ăn liền”, cái gì cũng muốn nhanh gọn. Bởi vậy, xin Chúa hãy đánh thức chúng con và giúp chúng con biết kiên trì, chậm lại và chờ đợi. Nhờ đó, chúng con được hưởng những diễm phúc như bà Cannaan. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
– Bố ơi! Hôm nay, mình có đi học không bố?
– Có chứ con. Con ăn nhanh lên rồi bố chở đi.
– Dạ! Thích quá!
Suốt hơn một tuần nay, ông bố chở con gái đi học nhưng chỉ ngồi ở ngoài. Vì là dân nhập cư nên việc xin cho con vào học lớp một gặp khó khăn. Nhà trường không nhận học sinh từ huyện khác đến. Người bố cứ kiên trì chở con đi học, kiên nhẫn ngồi ở ngoài lớp học ngay cạnh cửa sổ đến khi nào được nhập học mới thôi. Bố nhìn bảng thấy cô giáo dạy chữ gì thì đọc chữ ấy cho con viết. Sau ba tuần kiên trì như thế, cuối cùng cô giáo thấy cảm động quá bèn xin ban Giám hiệu nhận cô bé vào học. Quả thật tình thương con của người bố thật đẹp. Sự kiên trì và nhẫn nhục của người bố cũng thật đáng khen.
Hôm nay, Tin Mừng theo thánh sử Mátthêu cũng cho ta nhìn ngắm một tình mẫu tử rất đẹp. Người mẹ xứ Canaan có đứa con gái bị quỷ ám khổ sở lắm. Có người mẹ nào không đau lòng khi thấy tình trạng của con như thế. Bà nghe danh Đức Giêsu đã lâu nhưng hôm nay mới có dịp để được gặp Ngài. Bà là dân ngoại nhưng cũng đánh liều đến xin Thầy chữa cho con gái mình.
- Tuyên xưng đức tin
Bà tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy là con vua Đavit…”. Bà theo sau Thầy mà Thầy cũng chẳng để ý tới. Phải rồi, bà chỉ là dân ngoại nhưng tình thương con mãnh liệt hơn cả cái gia thế của bà. Bà biết rõ Thầy đã từng chữa bệnh cho bao nhiêu người mà không chịu cho người ta đền ơn. Một Rapbi như thế thì luôn có một trái tim nhân ái, chắc chắn sẽ động lòng thương mẹ con bà mà cứu chữa. Thế nhưng, dù bà van lơn hết lời mà Thầy Giêsu vẫn đi thẳng mà không hề ngoái lại để nhìn đến cái thân tội nghiệp của bà. Thân làm mẹ mà không chăm sóc tốt cho con, không lo cho nó khỏe mạnh được thì bà đau xót lắm. “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin rủ lòng thương tôi. Đứa con gái của tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15, 22). Cứ thế, bà theo sau chân Thầy mà “lải nhải” hầu mong được Thầy nhìn đến.
- Đức tin bị thử thách
Bà kêu xin mãi đến độ làm các môn đệ bực mình. Các ông la rầy bà, khó chịu quá đành phải đến xin Thầy: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt, 15, 23b). Thầy nói với các môn đệ cũng là để trả lời bà: “Thầy chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel mà thôi.” (Mt 15, 24). Bà vẫn kiên nhẫn, tiến lại gần hơn mà thưa rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15, 25).
Đức Giêsu nhìn thẳng vào bà, điềm nhiên trả lời: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15, 26). Đứng trước nỗi khổ đau của người khác nếu ta không có một trái tim nhạy cảm, ta dễ khó chịu, bực bội vì họ cứ kêu xin mãi, cứ làm phiền đến ta. Bị các môn đệ la rầy, bị Thầy Giêsu từ chối thẳng thừng nhưng bà vẫn kiên nhẫn, cúi xuống mà thưa rằng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Thật ngạc nhiên và khâm phục thay tấm lòng của người mẹ. Tình thương con trong bà lớn hơn tất cả mọi cảm xúc khi đứng trước lời chỉ trích, khinh khi, miệt thị. Bà dẹp bỏ cái tôi của mình, hạ mình xuống, nhận mình chỉ là hàng “lũ chó con” để mong được “chút bánh vụn từ bàn chủ rơi xuống.” Bà vẫn tin vào quyền năng và tình thương của Thầy, chỉ cần một chút tình thương của Thầy thôi, con bà sẽ được khỏi. Quả thật, nếu không có một tình yêu con mạnh mẽ, bà sẽ chẳng thể xóa mình đi như thế. Ta tự hỏi mình rằng: liệu ta có một tình yêu thật sự hay không? Tình yêu trong ta có mạnh mẽ đến độ tự nó có một sức mạnh thúc đẩy ta vượt lên trên cả hận thù, ghen ghét và dám đương đầu với thử thách không? Một người biết yêu nghĩa là phải biết hy sinh, xóa mình đi vì người khác, cũng không có nghĩa là đánh mất chính mình nhưng là biết mình, hiểu rằng tại sao ta lại làm như thế.
- Đức tin sinh hoa trái
Lòng tin của bà đã chinh phục Thầy, khiến Thầy phải thốt lên: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” ( Mt 15, 28). Tình yêu con của bà đã được đền đáp. Ngay lúc này, không có một người mẹ nào hạnh phúc hơn bà. Thầy Giêsu thương bà từ lúc nghe tiếng bà kêu xin từ đằng xa. Có lẽ, Thầy đã trông thấy điệu bộ tất tả, đầy lo lắng và phiền muộn của bà ngay từ lúc bà vừa bước ra đầu ngõ. Thầy chạnh lòng thương bà, thương cả con gái bà nhưng Thầy cũng muốn dùng dịp này để dạy dỗ các môn đệ thái độ kiên trì trong thử thách, vững tin và yêu đến cùng, dám hy sinh bản thân vì người mình yêu. Thầy cũng muốn cho các môn đệ biết thương cảm và cảm thông trước nỗi đau khổ của người khác.
Lạy Thầy Giêsu nhân lành! Tình yêu có một sức mạnh phi thường giúp con có thể đương đầu với thử thách. Một đức tin vững mạnh sẽ giúp con luôn thấy sự hiện diện của Chúa, nhận ra tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho con luôn biết bám theo Chúa trong tin yêu và phó thác. Có khi nào con nản chỉ muốn bỏ cuộc, xin Thầy gửi đến con hình ảnh của người mẹ xứ Canaan này để nhắc nhớ con. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “giơ” với những người Biệt phái, Đức Giêsu lui về Tyrô và Sidon, ngày nay thuộc miền nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ Canaan đến gặp Chúa Giêsu. Người Do Thái và người Canaan có một mối thù truyền kiếp, hố sâu ngăn cách không thể vượt qua. Người Do Tháu coi thường, khinh khi những người dân ngoại như những người nhơ uế, như những con chó. Còn tệ hơn nữa bà thuộc dân tộc mà người Do Thái chính thống tránh xa hơn các dân tộc khác.
Tình mẫu tử, tình thương đối với người con bị quỷ ám, đau khổ. Khiến bà Canaan vượt qua mọi ngăn cách để đến với Đức Giêsu, để xin Ngài cứu chữa con mình: “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin dủ lòng thương con, đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm” (Mt 15, 22).
Đức Giêsu làm thinh trước lời van xin của bà. Bà xứ Canaan cứ theo sau nài nỉ van xin làm cho các tông đồ bực bội. Đức Giêsu nhắc lại sứ mạng của Người được sai đến với “Chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Đức Giêsu muốn nói với các tông đồ: Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể dân nước và lan rộng tới tận cùng thế giới. Nói cách khác, Ơn cứu độ bắt đầu là dân Israel.
Khiêm tốn, kiên trì, tin tưởng, người đàn bà Canaan một lần nữa sấp mình trước mặt Đức Giêsu và van xin: “Lạy Ngài, xin hãy cứu giúp”. Bà chỉ muốn một điều là con mình được chữa lành.
Đức Giêsu bấy giờ nói rằng: Người không thể lấy bánh của con cái, là của dân Do Thái, dân của lời hứa – để ném cho con chó nhỏ. Người đàn bà Canaan không buồn trước câu nói có vẻ khinh miệt, nhục mạ, bà còn dùng chính lời nói đáp lại Chúa Giêsu một cách tinh tế và khôn ngoan:
“Đúng vậy. Thưa Ngài, nhưng con chó con cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ”.
Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử Thánh được ưu tiên, họ là chủ, còn bà là dân ngoại, là con chó con, bà chỉ cần được những “miếng bánh vụn” từ bàn ăn rơi xuống.
Đức tinmãnh liệt của bà đã làm cho Đức Giêsu phải ngỡ ngàng, khâm phục, chấp nhận lời van xin của bà, chữa lành con bà. Chúa Giêsu kết luận: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã phá bỏ mọi loại trừ, mọi phân biệt đối xử, những hố sâu ngăn cách mọi người. Theo ý muốn cứu độ của Thiên Chúa, mọi người đều được kêu gọi đến với Chúa Giêsu để được cứu độ, được chữa lành, được hưởng hạnh phúc nước Trời, miễn là chúng ta tin vào Đức Giêsu như người đàn bà Canaan trong Tin mừng.
Đức tin kiên trung của người đàn bà Canaan đáng cho chúng ta khâm phục và bắt chước. Đức tin giúp ta vượt qua mọi hàng rào cản, thử thách, khó khăn để đến với Chúa. Đức tin có thể giúp ta làm được mọi sự, như lời Đức Giêsu đã nói: “Đức tin có thể chuyển núi rời non”. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Do Thái đã nói: “Không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa, và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Dt 11, 6).
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta noi theo gương người đàn bà Canaan ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong cuộc sống đời thường khi gặp gian nan thử thách. Phải chọn lựa giữa giá trị của Tin mừng và lợi lộc trần gian. Tôi có dám đặt chân lý Tin mừng lên trên tất cả không? Thực vậy, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước đi trong niềm tin, người ta sẽ gặt hái được hoa trái tốt đẹp cho cuộc đời!
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Người Do Thái luôn tự hào, tự cao, tự mãn vì mình là dân của Thiên Chúa, được Ngài tuyển chọn, xứng đáng được Ngài cứu độ và đổ xuống muôn vàn ơn phúc, còn dân ngoại, dân Canaan thì không được bất cứ hồng ân nào của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong khung cảnh của Tin Mừng, của Lòng Thương Xót của Chúa, ơn huệ của Thiên Chúa được biểu lộ ra cách lạ lùng và phi thường.
Chúa Giêsu được sinh ra và lớn lên trong văn hóa Do Thái, Ngài hiểu rất rõ điều này, hiểu tường tận quan niệm của dân Do Thái. Thế nhưng, trong hoàn cảnh bi đát của hai mẹ con người Canaan,Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa không dừng lại nơi quan niệm ích kỷ của Người Do Thái. Thiên Chúa sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến trân gian để cứu độ con người, cứu rỗi mọi người, chứ ơn cứu rỗi không dành riêng cho một dân tộc nào, một người nào vv…Bởi vì, “ Ơn cứu chuộc chứa chan nơi Đức Kitô “, ơn cứu độ trải rộng đến mọi người, miễn là con người biết mở rộng lòng để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã để lại một câu nói rất thời danh :” Thiên Chúa dựng nên con người không cần đến con người, nhưng cứu độ con người cần sự cộng tác của con người “. Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc con người, cứu độ loài người. Nên, trong cuộc sống, Ngài đã đến với mọi lớp người, Ngài đã đến với những người bệnh hoạn tật nguyền, đã đến với mọi những người nghèo khó, neo đơn, mồ côi, góa bụa.Ngài đã đến với những người tội lỗi, những kẻ thấp cổ bé họng vv…Chúa nhân từ với hết mọi người. Nhìn thấy lũ người đói khát, bơ vơ vất vưởng, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót, đã truyền lệnh cho các tông đồ : “ Hãy cho họ ăn “. Hôm nay, trước cảnh khốn khổ của hai mẹ con người Canaan, Chúa động lòng xót thương họ, Ngài hiểu họ, thương và quan tâm cứu vớt họ. Do đó, Chúa chạnh lòng xót thương hoàn cảnh bất hạnh, khổ sở của hai mẹ con, Ngài cứu vớt cô con gái của bà quê Canaan bằng một phép lạ, chỉ bằng lời nói quyền uy của Ngài :” Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy “. Vâng , lời nói của Chúa Giêsu vừa diễn tả quyền năng tuyệt đối của Chúa, vừa khen ngợi niềm tin mạnh mẽ và sự khiêm nhường thâm sâu của người phụ nữ ngoại giáo.
Thật vậy, vì có niềm tin mạnh mẽ, đức tin thâm sâu, người phụ nữ Canaan mới vượt qua được sự soi mói, quan niệm ích kỷ của người Do Thái và câu nói của Đức Giêsu :” Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con “. Người Do Thái quan niệm người ngoại đều là chó má vv…Nhờ có đức tin tiềm ẩn sâu xa, nhờ có niềm tin son sắt, và lòng khiêm nhượng thẳm sâu, người phụ nữ Canaan mới vượt được tất cả để đến với Chúa Giêsu và kêu van Ngài giúp đỡ. Người phụ nữ ngoại giáo này tự nhận mình chỉ là “ chó con “ bơ vơ, yếu hèn, cần sự giúp đỡ, cứu chữa của Chúa Giêsu. Người phụ nữ Canaan đã rất khiêm nhường vì tin rằng Chúa Giêsu đầy uy quyền sẽ giải thoát và cứu vớt con của mình khỏi sự dữ, ma quỷ và bệnh hoạn.
Trước Thiên Chúa tối cao, đầy quyền phép uy nghi, con người phải hết sức khiêm tốn, hạ mình để xin ngài cứu vớt. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót luôn chạnh lòng trắc ẩn, yêu thương, cứu vớt mọi người. Con người luôn phải có đức tin và lòng khiêm nhượng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con và ban cho chúng con lòng khiêm nhường thâm sâu để chúng con luôn tín thác vào Ngài và tin tưởng tuyệt đối, phó thác vào sự quan phòng vô biên của Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao người phụ nữ Canaan không tự ái trước lời nói của Chúa Giêsu ?
2.Người Do Thái coi dân ngoại là người thế nào ?
3.Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến với ai ?
4.Ơn cứu độ là ơn nào ? và thuộc về ai ?
5.Đức tin có cần cho con người nhận ơn cứu độ không ?
.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15,28)
Đọc câu chuyện hôm nay, tự nhiên tôi cảm thấy bị “cám dỗ” nhớ lại câu chuyện trong Bài Tin Mừng Chúa nhật tuần vừa qua. Anh chị em còn nhớ: Trong câu chuyện bài Tin Mừng tuần vừa qua, Phêrô bị Chúa quở là “Kẻ yếu lòng tin”. Thật là lạ. Một người theo Chúa suốt mấy năm trời và sau này lại được Chúa đặt làm rường cột Giáo Hội vậy mà bị Chúa chê là yếu lòng tin, còn người đàn bà xứ Canaan, là một người ngoại, một người không có đạo, Chúa lại khen là có một đức tin mạnh. Vậy thì qua câu chuyện chúng ta vừa nghe, chúng ta thử xem xem đâu là những yếu tố làm cho Đức tin mạnh.
A. Khi nói tới Đức tin thì thường người ta không thể bỏ qua được khía cạnh phiêu lưu hay liều lĩnh của nó. Trong Đức tin thường bao giờ cũng có một chút phiêu lưu liều lĩnh nào đó.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolo I trong lá thư viết cho thi sĩ Trilussa có trích lại một câu chuyện của chính tác giả để cắt nghĩa cho ông này biết thế nào là Đức tin của người công giáo. Như chính ông kể thì một hôm ông bị lạc giữa một khu rừng ban đêm. Giữa lúc ông đang cố tìm đường để đi ra thì ông gặp một bà cụ già. Bà bị mù từ lâu. Bà sinh sống gần khu rừng này. Sau khi nghe người đàn ông kể về truyện đi lạc của ông, thì bà cụ già nói với ông:
– Nếu ông không biết đường, tôi sẽ đưa ông đi vì tôi thuộc đường.
Ông ngạc nhiên đáp:
– Tôi lấy làm lạ, bà không thấy gì cả thì làm sao bà có thể dẫn đường cho tôi?
Bà lão ngắt lời, nắm lấy tay ông và ra lệnh:
– Tiến bước!.
Và Ngài kết luận: “Đó là đức tin”. Ngài cắt nghĩa thêm: “Cuộc hành trình Đức tin là một cuộc hành trình đôi khi rất gian nan, nếu không nói là bi đát và bao giờ cũng mầu nhiệm”
Trong câu chuyện mà Tin Mừng kể cho chúng ta, ta thấy người đàn bà xứ Canaan quả thật là một người đàn bà liều lĩnh.
* Trước hết, bà không phải là người Do thái mà lại dám đến với những người Do thái. Chúng ta biết là người Do thái rất khinh bỉ những người ngoại giáo. Họ coi những người ngoại giáo như những con chó. Chính Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lúc đầu cũng muốn đứng trên cương vị của một người Do Thái để nói truyện với Bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà cho con chó”(Mt 15,26)
* Tiếp theo là bà không phải chỉ gặp một mình Chúa Giêsu mà bên cạnh Chúa Giêsu còn cả một đoàn các tông đồ mà các tông đồ này thì bà dư biết là không có một chút cảm tình gì với bà.
* Thứ ba là bà dám đặt một hy vọng thật lớn vào Chúa Giêsu. Vấn đề bà xin với Chúa không phải là vấn đề nằm trong phạm vi của con người. Nó đã chuyển sang một lãnh vực khác: lãnh vực của ma quỉ. Qua cung cách bà đối thoại với Chúa ta thấy bà không có một chút nghi ngờ gì về quyền năng của Chúa và quả thực Chúa đã không để cho bà phải thất vọng.
B. Thêm vào đó theo câu chuyện, chúng ta cũng còn thấy được một khía cạnh khác của một niềm tin mạnh. Đó là một đức tin có kinh qua thử thách. Châm ngôn Việt nam của chúng ta có một câu rất hay: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
* Người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay quả thực đã bị thử thách thật nặng nề. Nếu bà đã không kiên trì trong thử thách và can đảm chấp nhận cả những điều xem ra có vẻ xúc phạm tới phẩm giá cá nhân cũng như danh dự của cả dân tộc mình thì chắc là đã không có phép lạ.
* Bình thường mà nói thì thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay thật là khó hiểu. Một Chúa Giêsu rất hiền lành và nhân từ mà lại quá lạnh nhạt với một người đàn bà đang ở trong một tình trạng thật đau thương như thế, xét theo cách cư xử thông thường của một con người thì quả là một việc thiếu tế nhị nếu không phải là một việc làm bất nhân.
* Ở đây chúng ta phải đặt vào địa vị của Chúa. Chúa muốn dùng biến cố này để dạy cho các tông đồ của Chúa một bài học để sau này khi Chúa về trời lúc các Ngài phải tiếp tục công việc Phúc âm hóa các dân tộc thì các Ngài cũng phải có một cái nhìn giống như Chúa đối với anh em lương dân. Bài học đó là: Cả những người mà người Do thái coi là lương dân và khinh thường họ như những loài “chó má” cũng được Chúa thi ân giáng phúc miễn là họ có lòng tin vào Chúa. Chính vì lý do đó mà Chúa đã thử thách người đàn bà này thật nặng để qua đó các ông thấy được Đức tin của Bà.
– Lúc dầu khi mới đến với Chúa bà đã hết sức khiêm nhường. Phải nói là bà còn hết sức tế nhị nữa. Bằng chứng là bà đã phải học cách cư xử của người Do thái để khi đến gặp Chúa thì biết cách ăn nói với Chúa như một người Do thái. Vừa giáp mặt với Chúa, bà đã cúi đầu xin thưa: “Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin thương xót tôi”(Mt 15,22)
– Và rồi sau đó thì chúng ta thấy. . . bà càng tha thiết bao nhiêu thì xem ra Chúa lại càng lạnh nhạt hững hờ bấy nhiêu. Thậm chí Chúa đã sử dụng cả đến những từ ngữ dường như muốn chọc tức lòng tự ái của Bà. Thế nhưng xem ra Chúa càng như cố ý chọc giận bà bao nhiêu thì bà lại càng khiêm nhường hơn bấy nhiêu. Và chính ở điểm này mà bà đã “thắng” Chúa. Chúa đã khen bà có một đức tin mạnh.
C. Chúa khen bà cũng phải bởi chính chúng ta khi đọc lại câu chuyện này chúng ta cũng cảm thấy bà xứng đáng được khen như thế. Ngoài ra chúng ta còn cảm thấy phải vui với bà vì bà đã thành công trên con đường đi tìm sự giải phóng cho người con gái của bà. Chính đức tin của Bà đã cứu chữa người con đó. Chúa đã xác nhận thật rõ điều đó, để rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm một điều gì đó cho anh em của chúng ta.
Vâng! Chúng ta cũng có thể làm nên những phép lạ bằng đời sống Đức tin của chúng ta.
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“ Điều các con làm cho
người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta”.
Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Với lời khuyên ngắn gọn nhưng Ngài đề cập hai vấn đề: Cầu Nguyện và Kiên Nhẫn. Cầu nguyện giúp chúng ta kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, và làm cho chúng ta trở nên vĩ đại.
Kiên nhẫn là “loại cỏ” luôn phải đặt vào hành lý cuộc đời để đem theo mình, nó như “bùa hộ mệnh” cần thiết cho mọi người. Kiên tâm vững chí là tình trạng không dao động trước mọi hoàn cảnh hoặc bất cứ lời nói của ai. Cứ là chính mình, và cố gắng giữ vững như kiềng ba chân, chắc chắn điều tất yếu sẽ xảy ra: “Có chí thì nên”. Thật vậy, Saint Exupéry có lời khuyên hữu ích: “Đừng đánh mất kiên nhẫn, vì đó là chiếc chìa khóa cuối cùng mở được cửa”.
Sự kiên định và sự thận trọng có liên quan với nhau. Edward Bulwer Lytton (1803-1873, tiểu thuyết gia, thi sĩ, kịch tác gia và chính trị gia người Anh) cho biết: “Ai thận trọng quan sát và kiên quyết vững vàng sẽ tự nhiên dần dần trở thành bậc anh tài”. Người kiên định và thận trọng cũng là người có đủ can đảm để đương đầu với nghịch cảnh. Herbert Kaufman (1878-1947, văn sĩ và ký giả người Mỹ) nhận định: “Thất bại chỉ là thành công tạm thời bị trì hoãn, chừng nào lòng can đảm còn tôi luyện cho khát vọng. Thói quen kiên định chính là thói quen chiến thắng”.
Bất kỳ ai cũng cần kiên trì, và trong mọi tình huống hoặc công việc. Đối với cuộc sống đời thường đã vậy, đối với đời sống tâm linh càng cần lòng kiên nhẫn hơn bao giờ hết – đặc biệt là khi cầu nguyện, chứ không thể tùy hứng – vui thì cầu, chán thì thôi. Kiên tâm cầu nguyện không chỉ có giá trị đối với chính mình mà còn có hiệu quả đối với người khác. Gương Thánh Monica là tấm gương to lớn và sáng tỏ về việc cầu nguyện kiên định. Cách cầu nguyện của bà Rút thật tuyệt vời: “Xin Thiên Chúa giáng phúc cho người đã quan tâm đến con!” (Rút 2:19). Lời cầu đó như đóa hoa tươi nở, chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng. Cầu nguyện cũng không chỉ là xin (cho mình hoặc cho người khác) mà còn phải có tâm tình tạ ơn: “Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1 Tm 4:4).
Từ xa xưa, tiền nhân đã xác định: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Kinh nghiệm sống đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thật đúng như thế. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Thật vậy, thử thách càng cao thì cơ hội càng lớn. Thời thế tạo anh hùng nhiều hơn là anh hùng tạo thời thế, như cụ Phan Bội Châu (1867-1940) đã đặt vấn đề:“Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Nếu anh cũng như tôi, tôi cũng như chị, chẳng có gì hơn nhau thì cũng chẳng có gì đáng nói. Không có bột mà gột nên hồ, thế mới là người đáng cho thiên hạ phải ngưỡng mộ và tâm phục khẩu phục.
Cách so sánh của Garrison Keillor thật thú vị: “Cuộc sống cũng giống như cuộc chiến, nếu mọi thứ bỗng trở nên yên lặng thì có nghĩa là bạn đang thua trận”. Thế đấy, cuộc sống luôn đầy những thử thách, kinh nghiệm này ai cũng có thể tích lũy theo thời gian. Nếu không có thử thách, làm sao chúng ta có thể biết và nhận ra sức mạnh tuyệt vời vẫn đang tiềm ẩn trong chúng ta? Vả lại, cuộc sống bình lặng sẽ nhàm chán vì đơn điệu, rồi lại hóa điên rồ: “Nhàn cư vi bất thiện”. Chắc hẳn đã kinh nghiệm đường đời nên Toni Malliet mới nói: “Thử thách không là gì cả, nhưng cơ hội ẩn chứa đằng sau thử thách đó mới là điều đáng nói”.
Người ta thích chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, nhưng loại “bản lĩnh” đó lại thường là rởm, dạng ngày nay gọi là “chảnh”. Không ai sợ người nói nhiều, người ta chỉ sợ người im lặng. Đó mới là bản lĩnh đích thực. Họ biết mà không nói, vì chưa đến lúc cần nói. Nếu bạn tỏ ra yếu mềm trước thử thách thì bạn thật là “bé nhỏ”, và sức lực của bạn thật là yếu đuối. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta nên cố gắng “đi qua cửa hẹp” (Mt 7:13-14; Lc 13:24), tự tôi luyện trong gian khổ chứ không ung dung tự tại. Chắc chắn Ngài không “xúi dại”, và hẳn là mọi thử thách đều có giá trị cao, bởi vì chính những nỗi gian nan mới khiến người ta trưởng thành đúng nghĩa – gọi là “thành nhân”.
Thuở xưa, Thiên Chúa đã truyền dạy: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56:1). Thời gian là của Chúa, chúng ta chỉ là những người quản lý, không thể biết thời gian còn dài hay ngắn. Do đó, sự tỉnh thức luôn cần thiết và cấp bách. Tỉnh thức là một dạng thử thách. Chính sự thử thách khiến chúng ta phải coi chừng để mà khéo léo (khôn ngoan) “canh me” hoặc “liệu cơm gắp mắm”.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chí nhân nhưng cũng tuyệt đối công bình và chính trực, không thiên vị bất kỳ ai: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56:6-7). Đừng ảo tưởng! Dù là ai, từ giáo hoàng tới giáo dân, từ bề trên tới người giúp việc, từ tổng thống tới người ăn xin,… không ai có thể viện cớ gì mà tự biện hộ: NẾU, TẠI, VÌ, BỞI, GIẢ SỬ, GIÁ MÀ, PHẢI CHI,… Không bao giờ có “chuyện ví dụ” chi ráo trọi!
Nếu cảm thấy mình thiếu thốn gì thì cứ xin – xin nghiêm túc chứ không “xin xỏ”. Khi thấy người khác xin thì chúng ta phải cho, nếu có thể (vì phải có mới cho được). Vả lại, đó là sự công bằng. Ở đây là “xin–cho” trong tương quan yêu thương và bác ái, chứ không “xin–cho” theo kiểu “chế độ ban phát”. Tất cả chúng ta đều là những “người làm công” trong Vườn Nho của Chúa, chẳng ai có quyền gì mà “chảnh” với nhau. Ý thức được như vậy, chúng ta mới khả dĩ ước vọng như Thánh Vịnh gia: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ở đây sử dụng đại danh từ số nhiều chứ không số ít.
Chúng ta là phàm nhân, mà phàm nhân thì bất trác và bất túc, thế nên luôn có rất nhiều mong ước về nhiều thứ – cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng ước mong về tâm linh mới là ước mong quan trọng nhất: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6). Công lý và công bình phải được tôn trọng thì con người mới được tôn trọng đúng mức: Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.
Mỗi khi cầu chúc nhau điều gì thì phải thật lòng, không thể chỉ “xã giao”. Trong Thánh Lễ có nghi thức “chúc bình an”. Nghi thức là để tránh lộn xộn chứ đừng chỉ theo nghĩa đen của nghi thức. Tuy nhiên, một số người tỏ ra thụ động trong khi cúi chào để thể hiện việc chúc bình an cho nhau, có người chỉ “co cái cần cổ” chút xíu, nhìn vẻ rất miễn cưỡng, có người lại cứ đứng “ngay cu đơ”. Ngay cả chủ tế cũng có người thụ động, gật đầu theo nghi thức, hai cậu lễ sinh chả sơ múi gì! Trong tình hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta rất cần chân thành cầu chúc nhau: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).
Với lòng chân thành, “lão gia” Phaolô bộc bạch: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11:13-15). Ông cựu Biệt Phái Saolê muốn người ta “ganh tị” chứ không “ghen tị” hoặc “ghen ghét”, nhưng phải là ganh tị về điều thánh đức, muốn cứu các linh hồn, chứ không ganh tị về những thứ trần tục.
Đúng như thế, Thánh Phaolô đã xác quyết: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29). Ông cho biết thêm rằng “trước kia chúng ta đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay chúng ta đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót chúng ta, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục để thương xót mọi người” (Rm 11:30-32). Một triết lý đầy “chất” thần học và rất đậm “chất” của thức giả Phaolô.
Chúa Giêsu đã từng bị người ta ghen ghét vì cách nói của Ngài “chẳng giống ai” và luôn “gây sốc”. Một hôm, Đức Giêsu đang trên đường lui về miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà Ca-na-an kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15:22). Thế nhưng Ngài làm ngơ, không đáp lại chi cả. Thế nhưng rồi Ngài lại xác định: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15:24). Nghe nói mà “nóng gáy” ghê đi chứ!
Mặc dù bị từ chối thẳng thừng như vậy, người phụ nữ đáng thương ấy vẫn cố lấn đến để bái lạy Ngài và thưa: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25). Người gì mà lắm mồm, léo nhéo dai còn hơn đỉa đói! Thấy phụ nữ này coi bộ “ngon lành” dữ nghen, thế nên Ngài còn nói “sốc” hơn: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15:26). Mèn ơi, chịu gì nổi chứ! Ấy vậy mà bà ấy vẫn thản nhiên phân bua: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bấy giờ Đức Giêsu nhìn bà ấy, vừa cười vừa âu yếm nói:“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15:28). Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. [Cũng nên biết rằng chó là vật cưng, chứ chó không bị coi thường như ở Việt Nam. Văn hóa của họ không như văn hóa Việt Nam].
Và đó chỉ là cách Chúa Giêsu “thử thách” để phụ nữ kia chứng tỏ niềm tin của mình. Tuy nhiên, Ngài thử thách không phải là để “dò tìm” như chúng ta, vì Ngài đã biết rõ cõi lòng ai sâu hay rộng thế nào, trái tim người nào cứng hay mềm, nghĩa là Ngài không cần thử thách vì Ngài là Thiên Chúa, Ngài thấu suốt mọi sự (x. Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài muốn làm như vậy để cho mọi người biết chân giá trị của nỗi gian truân, của đức tin, và của lòng kiên nhẫn, đồng thời Ngài cũng tạo “công trạng” cho chính người chịu đựng sự thử thách.
Và như thế thì thử thách và đau khổ cũng là hồng ân, chứ không chỉ những gì “xuôi chèo mát mái” như chúng ta tưởng. Tất nhiên chúng ta cũng phải biết tạ ơn về loại hồng ân “khác người” như vậy. Vâng, “khác người” chứ không “chết người” đâu!
Lạy Thiên Chúa nhân lành và giàu lòng thương xót, con chỉ là một con chó nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất và nhơ nhớp nhất, xin thương xót dù con hoàn toàn bất xứng. Dẫu con là kẻ vô duyên và bất tài, nhưng con luôn khao khát nên giống Ngài, ngày đêm tín thác vào Ngài qua từng nhịp thở của đời con, xin cho con được hưởng những vụn-bánh-yêu-thương thừa rơi xuống từ Bàn Tiệc Thương Xót của Ngài. Con chân thành tha thiết cầu xin Cha, nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng nhân. Amen.
.
ĐỨC TIN CẦN ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA THỬ THÁCH
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Lời tiên báo của tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5) và niềm hy vọng mà muôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12, 21), hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.
Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.
- Ơn cứu độ phổ quát của Đức Giêsu và niềm tin nơi người đàn bà dân ngoại
Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.
Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.
Dân ở hai vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.
Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.
Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.
Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27)
Dù là bị khước từ, miệt thị, nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái với bà. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật” và hẳn nhiên là Chúa phán: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (x. Mt 15, 28).
Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
- Khám phá sứ điệp Lời Chúa
Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.
Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.
Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.
Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc… thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.
Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong “giấy khai sinh”, hay nơi “sổ Rửa tội” mà thôi! Nếu quả như vậy, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.
Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong đau khổ, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:
Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần túy, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.
Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá đáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.
Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.
Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.
Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.
Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.
.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. LẮNG NGHE LỜI CHỨA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 15, 21-28):
21 Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” 23 Nhưng Người không đáp lại một lời.
24 Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” 25 Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” 26 Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” 27 Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA
2.1 Có một đề tài khá thú vị cho những người muốn nghiên cứu Phúc Âm. Đó là đề tài những người phụ nữ trong cuộc đời trần thế của Đức Giê-su. Ngoài Đức Ma-ri-a là thân mẫu của Người, còn có một số phụ nữ khác đã có mặt trên các nẻo đường của Đức Giê-su: Có những người đi theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, thậm chí đến tận đồi Sọ và giúp đỡ Người và các môn đệ về tài chánh. Có những người đã được Đức Giê-su chữa bệnh và trừ quỷ (như Ma-ri-a Mag-da-la và người bị bệnh băng huyết). Có những người Đức Giê-su gặp trên đường như người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4,1-42) và người phụ nữ Ca-na-an (Mt 15,21-28).
2.2 Khi đọc câu chuyện người phụ nữ Ca-na-an đến xin Đức Giê-su chữa lành cho đứa con gái bị quỷ ám của bà, nhiểu người đã bị sốc với những lời mà Đức Giê-su đã nói với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Nhưng khi nghe người phụ nữ Ca-na-an đáp lại Đức Giê-su thì độc giả vừa hài lòng, vừa ngưỡng mộ: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Những lời đó và thái độ của người phụ nữ Ca-na-an đã chinh phục được trái tìm của Đức Giê-su khiến Người phải thốt lên: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
2.3 “Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Con gái bà ấy đã được khỏi, nhờ lòng tin mạnh mẽ của người mẹ và quyền năng của Đức Giê-su. Quyền năng của Đức Giê-su (hay của Thiên Chúa) thì lúc nào cũng có sẳn đó, nhưng lòng tin của người đối tác thì không phải lúc nào cũng có đó. Mà không có lòng tin thì không có phép lạ, vì lòng tin là điều kiện cần thiết để phép lạ được thực hiện. Chính Phúc âm đã quả quyết như thế: “Người không làm nhiều phép lạ tại đò (Na-da-rét), vì họ không tin” (Mt 13,58).
III. THỰC THI LỜI CHÚA
3.1 Trong cuộc sống hơn 70 năm tôi cũng đã từng chứng kiến phép lạ do Thiên Chúa thực hiện cho tôi và cho những người sống chung quanh tôi. Tôi đã chết hụt vài ba lần nhờ sự che chở của Thiên Chúa. Tôi đã không bị tù tội nhờ lòng thương của Thiên Chúa. Tôi không bị đói khổ và có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, việc phục vụ nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa,
3.2 Nhưng cũng có nhiều phép lạ đã không xẩy ra do tôi còn thiếu lòng tin và cầu xin chưa đủ. Có nhiều điều tôi xin cho gia đình, bạn bè, các học viên, giáo xứ, Giáo hội Việt Nam mà Chúa chưa ban, chỉ vì tôi chưa tin cho đủ, chưa tin cho mạnh.
IV CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, con hết sức ngưỡng mộ người phụ nữ Ca-na-an. Bà ấy tin mạnh thật. Con cũng muốn có lòng tin mạnh mẽ như thế nhưng con chưa được như bà ấy. Dù lòng tin của con còn yếu kém, con cũng đã được Chúa ban nhiều ơn phần hồn phấn xác. Con xin tạ ơn Chúa. Con tha thiết xin Chúa ban cho con một đức tin mạnh mẽ, một đức cậy vững vàng và một đức mến sắt son. Con cầu xin Chúa là Thiên Chúa, Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen.
.
Fx Đỗ Công Minh
Trên các trang mạng Công Giáo những ngày vừa qua tràn ngập các bài viết, bản tin, Clip video trên Facebook, các website tường thuật liên tiếp 3 ngày liền đại hội Thánh Mẫu La Vang lần thứ 31. Các bản tin cho biết có hàng chục ngàn người khắp nơi trên cả nước về dự với chủ đề :”Sống tinh thần Sứ điệp FATIMA”, nhân năm kỷ niệm lần thứ 100 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Các bản tin tường thuật cho thấy những người giáo dân ở miền Đông Nam bộ, miền Cửu Long vượt hàng trăm cây số ra dự. Đông đảo giáo dân ở miền Trung, ở miền Bắc xa xôi như Lạng Sơn, Phú Thọ, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Bình, Hà Nội. . . cũng vào. Nhiều người trong số đó là những người ngọai, chưa tin nhận Thiên Chúa, chưa hề biết về Giáo hội Công Giáo. Họ nghe biết về Đại hội La Vang, đã bỏ mọi công việc riêng để cùng hành hương với những người tín hữu, cầu nguyện với Mẹ Maria, xin những ơn cần thiết. Không ít người trong số họ đã được Mẹ chuyển cầu lên Chúa, họ đựoc Chúa nhận lời và được những ơn lạ. Phải chăng như lời Đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay nói với người phụ nữ Canaan:” Này bà, lòng tin của bà mạnh thật ! Bà muốn thế nào sẽ được như vậy “.
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu tường thuật về việc Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng, Ngài lui về miền Tia và Xiđôn. Đây là miền mà những người cư ngụ hầu hết không theo đạo Do Thái, quen gọi là người ngọai. Người phụ nữ xứ Canaan, dù là người ngọai, nhưng hẳn bà đã nghe nói về Đức Giêsu và ít nhiều bà tôn nhận Chúa là một vị ngôn sứ, nên đã lớn tiếng kêu cầu: “ Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm! “. Tiếng kêu thảm thiết của bà chắc lớn lắm, khiến các môn đệ cũng cảm thấy phiền hà. Các ông cho rằng Chúa không nên đến với người ngọai, nên các ông đã can ngăn Người:”Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi ! “. Thái độ đó của các ông xem ra cũng bình thường, các ông không muốn Thầy mình bị quấy rầy về điều mà các ông cho rằng cũng hợp với ý Thầy. Nhưng để trả lời các ông, những người học trò “bảo thủ “,” cục bộ”; đồng thời còn là để thử thách niềm tin của người phụ nữ dân ngọai. Đức Giêsu đã lên tiếng: “Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Những tưởng nghe điều đó người phụ nữ sẽ im tiếng và bỏ đi , nhưng bà đã chạy đến trước mặt Người bái lạy và lớn tiếng :”Lạy Ngài xin cứu giúp tôi “. Thử thách bước vào cao trào khi Đức Giêsu tỏ ra vô tình: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con “. Một sự xúc phạm chăng? Thực ra là Người muốn đối thọai với bà, thử xem bà kiên trì đến mức nào. Không ngờ lòng tin của bà mạnh tới mức nhận ra thân phận hèn kém của mình, nhưng vẫn tin rằng Chúa sẽ lắng nghe và chấp nhận cho lời van xin :” Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống “. Một lời đối đáp chân thành, một lời tuyên xưng gây rúng động. Đức Giêsu đã phải thốt lên :” Này bà ! Lòng tin của bà mạnh thật. . . ”.
Trong cuộc sống hôm nay, biết bao lần con chứng kiến việc Chúa làm những việc lạ lùng, cho những người chưa nhận biết Chúa. Lẽ ra trong những tình huống ấy con phải nhìn lại đời sống đạo của mình, nhìn lại đức tin của mình. Thế nhưng nhiều khi con lại ngã lòng, thậm chí phiền trách Chúa là không ưu ái con, là con cái Chúa từ thuở lọt lòng mẹ. Mỗi khi cầu nguyện, con có tỏ ra khiêm tốn nhìn nhận mình là người tội lỗi, không xứng đáng trước mặt Chúa? hay tự hào kể công đã giữ đạo nhiều chục năm, hơn bao người khác. Làm biết bao việc đạo đức, góp công góp của vào giáo họ, giáo xứ, tham gia vào nhiều đoàn thể. . .hy sinh thời gian, công sức cho Chúa. Con có kiên trì như người phụ nữ Canaan xưa? Chúa thử thách lòng tin của con, liệu con có vững vàng biểu thị niềm tin ấy mãnh liệt nơi Chúa?
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết nhìn lại mình, nhìn lại đời sống đạo của con. Với biết bao lầm lỗi, thiếu sót, lòng tin của con thật sự còn non yếu. Nếu trong khi kêu cầu lên Chúa, con biết khiêm tốn, kiên trì như người phụ nữ xứ Canaan, lắng nghe Lời Chúa, đạt niềm tín thác, cậy trông nơi Người. Con tin rằng, con sẽ được Chúa nhận lời, như Người đã nhận lời của biết bao người tin vào Chúa. AMEN.
.
Lm. Jos. DĐH.
Xã hội thời nào cũng có những người đáng nể phục: khởi đi từ khả năng hiểu biết, thành công trong lãnh vực kinh tế xã hội, vẻ vang trong ơn gọi gia đình hạnh phúc. Chẳng cần thống kê, đong đo mức độ hoạt động nhiều hay ít, mọi người dù không công khai thì cũng âm thầm đang mưu ích cho gia đình, người thân, đang góp công sức cho đất nước phồn vinh. Tốt danh hơn lành áo ; trẻ vui nhà, già vui chùa, dân gian từ xa xưa vẫn đề cao danh phận, không ai vô duyên vô dụng dù là trẻ thơ hay già lão. Thực ra, thời gian chính là cơ hội để từng người sống và chia sẻ “số vốn” mà ta đang có, với tấm lòng quảng đại phục vụ công ích, sẵn sàng bác ái vì tình yêu tha nhân.
Tất cả vì yêu là tiếng chuông thức tỉnh những ai chưa đủ kiên nhẫn trong tư cách là nhà giáo dục, tất cả vì yêu cũng là lời an ủi vỗ về các bậc làm cha mẹ, hãy thật bình tĩnh. Đừng quên mình được sinh ra và lớn khôn trong tình yêu, đừng khi nào vì sĩ diện mà làm khổ mẹ cha, đừng vì giầu sang mà vô tâm vô tình với người anh chị em mình. Đừng quên rằng: đời này chỉ là cõi tạm mà thôi, giầu sang nghèo khó, chết rồi cũng như nhau. Nếu không phải vì yêu, chẳng ai phải cầu cạnh ai làm gì, không lẽ lại lì lợm đến độ bị xúc phạm, bị xua đuổi mà người phụ nữ Canaan không hay biết ? Tất cả vì yêu nên người mẹ dù có bị khinh thường, bị coi là “mặt dầy”, bị xếp ngang hàng với “chó ki”, người mẹ ấy không hề mất kiên nhẫn !
Tình mẹ thương con, sửa dạy khi con sai sót, khích lệ khen thưởng khi thấy con ốm đau, cần chữa trị ; vì đó là yêu, là trách nhiệm, không phải hoàn toàn do “cố đấm ăn xôi”. Thiên Chúa yêu tất cả, Người lắng nghe kẻ thánh thiện, Người cũng không ngoảnh mặt làm ngơ trước kẻ tội lỗi sám hối, vì yêu thật và muốn con người được hạnh phúc thật, nên Thiên Chúa cần ta bày tỏ một tình yêu chân thật. Nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen, đúng là Đức Giêsu đã làm thinh, đã cho thấy có sự phân biệt Do-thái giáo và ngoại giáo, đã hất hủi tới mức: “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Nếu không phải vì yêu, Đức Giêsu sẽ không quan tâm đến lời kêu xin của người Canaan, không phải giằng co với chị ta làm chi. Nếu không vì yêu, người phụ nữ ngoại giáo kia đúng là chỉ kêu xin Thầy Giêsu trên môi miệng: “lạy Ngài là Con Vua Đavít xin thương xót tôi”.
Xã hội luôn kêu cầu mọi người hãy tin: “lương y như từ mẫu”, Hải Thưởng Lãn Ông Lê Hữu Trác, ông tổ ngành y đã từng nói: “không có nghề nào nhân đạo bằng nghề cứu người, …”. Đức Giêsu vì yêu, Ngài đến trần gian với chủ trương chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Tất cả vì yêu, vì phần rỗi các linh hồn, vì ơn cứu độ, vị trí của Ngài không chỉ dừng lại là “lương y”, người ngoại giáo còn biết gọi Ngài: “lạy Thầy Giêsu Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”. Vì là Con Vua Đavít Ngài đến kêu gọi người tội lỗi sám hối, chữa lành mọi thứ bệnh, Ngài không thể chọn lựa đối tượng để cứu chữa, Ngài cần mỗi người thể hiện niềm tin Ngài là Con Thiên Chúa bằng việc làm.
Nếu chỉ lập lại một cách máy móc: lạy Thầy là Con Vua Đavít, lạy Thầy Giêsu xin thương xót con, xin thương xót gia đình Con, hẳn không khó tí nào, già trẻ, giầu nghèo, chúng ta đều kêu xin dễ dàng. Ở đời khi bị từ chối cho vay mượn đã là một xúc phạm, bị phủi tay làm ngơ, không được giúp đỡ chia sẻ sự mất mát, thất bại, với hoàn cảnh đáng thương của mình đã là khổ lắm rồi. Trong Đức Giêsu, tất cả vì yêu chính là câu hỏi và là câu trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”. “Này bà, bà có lòng mạnh tin, bà muốn sao thì được vậy”. Khi công bố niềm tin mạnh mẽ của người phụ nữ Canan, hẳn cũng là lời nhắc nhớ biết bao người mắc bệnh nan y, họ từng gặp Thầy thuốc Giêsu, họ đang ở sát gần Đức Giêsu, họ đúng là con cháu Abraham, vì sao họ chưa kêu xin Thầy Gisêsu chữa trị ?
Kinh nghiệm người xưa cho rằng: đừng bao giờ níu kéo một ai cả, đơn giản khi người ta muốn ở lại thì có đuổi thế nào cũng không đi ; nếu người ta muốn đi, có giữ thế nào họ cũng không ở lại. Người phụ nữ Canaan hôm xưa, phải chăng vì các lương y tài giỏi bó tay, hết thuốc chữa, hay vì phản ứng tự nhiên, có bệnh vái tứ phương ? Vâng, tất cả vì yêu, vì tin vào đức ái cao dầy của Thầy Giêsu, người phụ nữ đó không kêu xin Thầy thương xót cách máy móc, không lý sự để ăn thua đạo lý làm người với Đức Giêsu. Đúng, chị ta đã được thuyết phục bởi Thầy Giêsu khai mở niềm tin và chị biết hành động bằng đức khiêm tốn yêu thương.
Vì yêu, Thầy Giêsu đã minh chứng cho các môn đệ, cho chúng ta hôm nay, cảm nghiệm rõ hơn thế nào là công bằng tình yêu thương, vì yêu, vì tin, tất cả đều trở nên Con Thiên Chúa. Đức Giêsu là Thầy thuốc quảng đại vô song, Ngài thương thật và không hề có ý thương hại, Ngài dẫn dắt người phụ nữ ngoại giáo từ “cái biết” lý thuyết đến với hành động của đức tin. Ngài biến đổi kiểu cách lý sự của người phụ nữ Canaan trở nên tâm phục khẩu phục, biết rõ và xác tín hơn Thiên Chúa không thiên vị ai, Ngài luôn rộng rãi thi ân với những ai biết sống niềm tin yêu. Phép lạ chữa trị thể xác tâm hồn sẽ không xảy ra, nếu mỗi người chúng ta không phải vì yêu, vì tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa ! Bà muốn Chúa Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao : “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi !” (Mt 15, 22) Bà coi Chúa Giêsu là Đấng Messia.
Sự thinh lặng của Chúa Giêsu
Bà xin, Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn là thế, nhưng bà cứ xin, Chúa phải trả lời : “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” (Mt 15, 24). Câu này thể hiện sự vâng phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israël, và mạc khải cho dân biết về lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.
Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là “bức tường hận thù” (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện “đừng có lải nhải như dân ngoại” (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mạ người nào trong dân Israel, thì hãy “đối xứ với họ như dân ngoại ” (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.
Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng : “Lạy Ngài là con Vua Đavít” (Mt 15, 22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.
Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu : “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi” (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15, 26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin. Bà đáp rằng, “vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Lời này đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.
Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi : điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.
Giao ước và đức tin
Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, “vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Is 56, 7 ) ; để “hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài” (Tv 66). Bà cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó : “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót” (Rm 11, 32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x. Rm 11, 13-15. 29-32)
Bài học cho chúng ta
Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Thứ nhất, nhờ đức tin, Chúa cho chúng ta được đồng bàn tình thương của Chúa, được trở nên con cái Cha trên trời : “Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Yêsu“(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12).
Thứ hai, Thiên Chúa là Đấng luôn có lý. Vì thế, trước nhan thánh Chúa, chúng ta đừng bao giờ cho rằng ý chúng ta là chính đáng và bắt Chúa phải đáp ứng nhu cầu. Vậy, khi ta cầu xin bất cứ sự gì thì hãy kết thúc bằng lời sau đây : “Lạy Chúa, xin cho ý Cha được thể hiện“. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Chúa ban ân sủng ngập tràn,
Cho người tứ xứ, yên hàn an vui.
Đàn bà xứ lạ tới lui,
Con yêu lâm bệnh, chôn vùi nỗi đau.
Xin trừ quỉ ám qua mau,
Dủ lòng thương xót, trước sau tin Thầy.
Không rằng, chẳng nói, chẳng rầy,
Đức tin thử thách, đong đầy khiêm nhu.
Chúa rằng những bánh dự trù,
Dành nuôi con cái, trong khu chốn này.
Không nên lấy bánh trong tay,
Vứt cho con chó, không hay gọi mời.
Bà ta đáp lại đôi lời,
Chó con xứng được, bánh rơi từ bàn.
Động lòng thương xót trao ban,
Đức tin kiên vững, phá tan bóng mờ.
Chữa lành con gái mong chờ,
Quỷ ma trục xuất, nương nhờ xác thân.
Mạnh tin Chúa chữa ân cần,
Một lòng tin tưởng, tinh thần lạc an.
Khi Chúa Giêsu trên đường ra khỏi thành Tyrô và Siđon, một người phụ nữ ngọai giáo đến gặp Chúa và xin chữa bệnh cho con gái bị quỷ ám. Có lẽ bà này cũng đã chạy đi tứ phương cầu khẩn cho con gái mình, nhưng đều vô hiệu. Nghe về danh của Chúa Giêsu, bà không ngại ngùng chạy đến nài van Chúa chữa con gái mình. Bà xin và bà đã nhận được ơn của Chúa.
Con người có biết bao thứ bệnh tật khác nhau. Có bệnh về thể xác, có bệnh về tinh thần, có bệnh từ trong và có bệnh đến từ bên ngòai. Bệnh là một sự khiếm khuyết trong cơ thể con người. Với khả năng được phú ban, con người có thể giúp nhau trị liệu nhiều thứ bệnh, nhưng con người vẫn không đủ khả năng để chữa lành mọi bệnh tật.
Bệnh của người con gái là thứ bệnh rất hiểm nghèo. Bệnh bị qủy ám. Bệnh thuộc loại tinh thần, nhưng lại dày vò thể xác. Một quyền lực sự dữ ám quấy con người. Em gái không còn làm chủ được mình, hoàn toàn sống lệ thuộc vào quyền kẻ dữ bên ngoài ám.
Người đàn bà ngoại giáo đã nghe về Chúa Giêsu. Bà tin vào quyền năng của Chúa. Bà nài xin lòng thương xót của Chúa. Chúa thách thức niềm tin của bà. Bà chấp nhận thân phận ngoại lai và hèn yếu. Bà nghĩ dù sao bà cũng đáng được hưởng những phần dư còn lại của ân sủng. Chúa đã khen lòng tin của bà và bà được toại nguyện.
Cũng như người đàn bà Canaan này, chúng ta là chi mà đáng hưởng ân huệ của Chúa. Nếu chỉ cậy dựa vào công sức, việc lành và việc sống đạo của chúng ta, chúng ta không đáng được thừa hưởng ơn lành của Chúa đâu. Chúng ta hãy đặt lòng tin nơi Chúa và nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.
.
Lm Vũđình Tường
Văn hoá đức tin là văn hoá tiên tri Isaiah kêu gọi con người coi trọng lẽ công chính và đối xử bình đẳng đối với mọi người, già trẻ, lớn bé đều được coi trọng và được đối xử như con người. Isaiah 56,1 kêu gọi như trên bởi có sự hiểu lầm từ dân Chúa chọn. Họ cho rằng chỉ những người thuộc dân Chúa chọn mới được hưởng đặc quyền, đặc lợi. Isaiah cho biết quan niệm sai lầm trên cầm mau mắn xoá bỏ, mau mắn chỉnh đốn cách đối xử với mọi người. Tất cả đều bình đẳng trước mắt Chúa. Dân Chúa chọn có nhiệm vụ loan truyền thánh í Chúa và những ai gia nhập trở thành dân riêng có chung một sứ mạng rao giảng tin mừng, sống công chính và đối xử bình đẳng với mọi người và điều này trở thành bản nhạc tình, thánh vịnh 67,6-7 ca mừng
Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ, chính là Thiên Chúa ngự trong thánh điện Người. Kẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa, hạng tù đày Người trả lại tự do, hạnh phúc.
Dân riêng của Chúa trở thành cái loa của chính Chúa loan truyền tình yêu Chúa cho muôn dân, không phân biệt màu da, sắc tộc. Văn hoá đức tin không phải là văn hoá thống trị hay văn hoá du nhập từ ngoài mà chính là phát xuất từ tâm hồn con người. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa. Tình yêu Chúa dựng nên ta, nên sâu thẳm trong lòng con người luôn có tình yêu và điều này tạo nên văn hoá đức tin. Điều kiện xã hội tạo ra văn hoá ích kỉ, tham lam. Chúng cần được tẩy rửa, tắm gội trở thành văn hoá tôn trọng sự thật, đề cao công chính và đối xử bình đẳng với mọi người. Chối bỏ văn hoá đức tin là chối bỏ tình người, lòng mến và bác ái với tha nhân. Điều này trái nghịch với mục đích tạo dựng con người của Thiên Chúa. Nhóm đề cao văn hoá xã hội viện lí do đại đa số hỗ trợ nên í kiến đại đa số luôn đúng. Sự thật cho biết đại đa số thường bị giới lãnh đạo hướng dẫn theo í riêng của phe nhóm, nên í kiến của đại đa số rất ào ạt. Lịch sử Giáo Hội có danh sách dài những tiên tri kêu gọi đa số từ bỏ con đường bất chính, sống thù nghịch tình yêu Chúa, từ bỏ hưởng lạc để trở về con đường công chính. Cuộc chiến giữa sống trong tình yêu Chúa và chiều theo tính xác thịt là cuộc chiến dài. Hiện nay xã hội đang đương đầu với cuộc sống chiều theo xác thịt và được đại đa số hỗ trợ. Hậu quả sẽ gây nên đau khổ. Hố giầu nghèo sâu hơn, nghèo chịu cảnh sống bất công, bị đối xử bất chính và bị phán đoán thiếu công minh; kẻ quyền thế bị đè nén, tâm thần bất an vì người ta âm thầm hãm hại để tìm đường tiến thân. Văn hoá xã hội dường như đang thắng thế nhưng cuối cùng văn hoá đức tin sẽ toàn thắng bởi sự thật không bao giờ chết.
Văn hoá đức tin giúp nâng cao cuộc sống lên trên những ràng buộc xã hội để tiến đến văn hoá sự sống. Văn hoá đức tin giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu Chúa và dùng giáo huấn của Đức Kitô làm khuôn mẫu chung trên toàn thế giới. Sống văn hoá đức tin cuộc sống thay đổi, cách suy nghĩ thay đổi, cách đối xử thay đổi để tiến đến gần Đức Kitô hơn, nên giống Đức Kitô hơn.
Người phụ nữ thành Samarita kiên trì xin Đức Kitô cứu con bà khỏi bệnh. Đức Kitô không đáp lại nhưng các môn đệ cảm thấy bẽ bàng nên nói với Đức Kitô ban cho bà ơn bà xin. Khi làm bánh hoá nhiều nuôi năm ngàn người Phúc Âm ghi lại ‘Ngài biết rõ Ngài sẽ làm gì’ Gn 6,7. Có lẽ Đức Kitô cũng biết rõ Ngài sẽ làm gì với người phụ nữ nhưng trước khi ban cho bà ơn bà xin Đức Kitô muốn chính bà thổ lộ tâm tư thầm kính trong tâm hồn bà. Khi bà nói ra câu ơn Chúa không riêng cho dân tộc nào nhưng cho toàn thể nhân loại. Đức Kitô đã khen bà và ban cho điều bà xin.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Trong trận động đất xảy ra hồi tháng 3/2014 ở Nhật Bản, khi lực lượng cứu hộ bắt đầu tìm kiếm người bị nạn, họ nhìn thấy thi thể của 1 người phụ nữ qua vết nứt của 1 ngôi nhà đã bị đổ nát. Tư thế của cô khá kỳ lạ: Có vẻ như cô đang quỳ gối cầu nguyện, hai tay đỡ lấy 1 thứ gì đó. Và cả ngôi nhà đang đè hết lên người cô. Mọi người nghĩ rằng cô đã chết rồi, không thể cứu được nữa, toan quay đi. Nhưng đội trưởng đội cứu hộ bỗng có 1 linh cảm kỳ diệu, nên anh lệnh cho cả đội ở lại.
Và điều kỳ diệu đã xảy ra khi anh đưa tay vô khe hẹp để tìm kiếm bên dưới xác chết người phụ nữ. Có một đứa bé! Và đứa bé ấy còn sống! Đứa bé khoảng 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa, nằm an toàn trong vòng tay ôm của người mẹ. Rõ ràng, khi ngôi nhà đổ xuống, cô đã lấy thân mình ra để bảo vệ đứa con. Trong tấm chăn đó có 1 chiếc điện thoại di động với 1 tin nhắn trên màn hình. Đoạn tin nhắn đó đã làm cho tất cả mọi người trong đội cứu hộ phải bật khóc. Tin nhắn viết rằng: “Nếu con có thể sống sót, hãy nhớ rằng, mẹ rất yêu con” (Nguồn: kenh14.vn).
Sự hy sinh cao cả của người mẹ trong câu chuyện trên đây phần nào giúp chúng hiểu hơn câu chuyện mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại. Theo Thánh Mathêu, người phụ nữ dân ngoại Canaan có đứa con gái bị quỷ ám khốn cực lắm. Thời gian qua bà đã tìm thầy chạy thuốc và làm hết cách để cứu chữa đứa con, nhưng tất cả các thầy thuốc đều bó tay. Chắc chắn bà đã nghe nói nhiều về Đức Giêsu, nhất là về những phép lạ Ngài làm, trong đó có phép lạ Người trừ quỷ (x. Mt 8, 28-34; 9,32-34). Nhưng bà là người dân ngoại Canaan. Đức Giêsu lại là người Do Thái. Hai dân tộc này không hề đội trời chung. Họ không hề liên hệ với nhau. Thế mà hôm nay, vì đứa con gái bị quỷ ám mà người đàn bà dân ngoại này đã mạnh dạn vượt qua các rào cản đó để đến với Đức Giêsu. Bà thưa rằng: “Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm.”(Mt 15,22). Đây không chỉ là một lời cầu xin giữa con người với nhau mà là lời cầu xin giữa thụ tạo đối với Thiên Chúa. Bởi vì, trong lời cầu xin này, bà đã tuyên xưng danh hiệu của Đức Giêsu là “con Vua Đavít”. Điều đó cho chúng ta thấy, người đàn bà dân ngoại này coi Đức Giêsu không phải là một người bình thường nhưng là một vị Thiên Chúa.
Bình thường, trước lời van xin của những người đau khổ, Đức Giêsu đều ra tay giúp đỡ ngay, như trường hợp Người chữa hai người mù (x. Mt 9, 27-31). Thậm chí, có những lúc người ta chưa hề kêu xin, nhưng Ngài vẫn ra tay cứu chữa họ, như trường hợp người đàn bà bị bệnh băng huyết 12 năm chỉ động đến gấu áo của Ngài thì đã được khỏi bệnh (x. Mt 9, 20-22). Vậy mà hôm nay trước lời kêu xin của người phụ nữ ngoại giáo, Ngài lại từ chối một cách thẳng thừng: Lần thứ nhất, Ngài im lặng không nói lời nào. Lần thứ hai, với lời đề nghị của các môn đệ, Ngài từ chối một cách thẳng thừng rằng: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi.” (Mt 15,24). Lần thứ ba, khi người đàn bà ngoại giáo tiếp tục van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”(Mt 15,25). Ngài vẫn không động lòng thương, không chấp nhận, trái lại còn từ chối bằng một câu nói hết sức tàn nhẫn rằng: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15,26). Trước thái độ và lời nói của Đức Giêsu, người ta không khỏi thắc mắc: Ngài có thử thách người đàn bà này quá mức chăng?
Nhưng Đức Giêsu càng thử thách thì lại càng cho chúng ta thấy được sự kiên nhẫn, lòng khiêm nhường và lòng tin mạnh mẽ của người đàn bà dân ngoại. Trước câu nói được cho là quá tàn nhẫn của Đức Giêsu, bà vẫn không có một chút tự ái nào, bà thưa lại rằng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” (Mt 15,27). Thấy thái độ kiên nhẫn, khiêm tốn và mạnh tin của người đàn bà, Đức Giêsu không còn cách nào để từ chối lời van xin của bà. Ngài nói: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.” Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành. (x. Mt 15,28).
Lời Chúa hôm nay gởi nhắc cho chúng ta suy niệm và thực hành những điều sau đây:
Thứ nhất, ơn cứu độ không dành riêng cho dân tộc Do Thái, mà còn cho các dân ngoại, không dành riêng cho một ai mà cho hết thảy mọi người. Bài đọc I, tiên tri Isaia cho chúng ta biết: “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Nhưng để được lãnh nhận ơn cứu độ cần phải “giữ luật và thực thi công bình”, cần phải “giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Thiên Chúa”, cần phải có niềm tin mạnh mẽ như người đàn bà Canaan. Mỗi người chúng ta hôm nay muốn được lãnh nhận ơn cứu độ, không chỉ tin mà còn phải thực hành những điều mình tin, đó là tuân giữ giáo huấn của Đức Giêsu và của Hội thánh được tóm lược trong mười điều răn của Chúa và sáu điều răn Hội thánh.
Thứ hai, biết kiên nhẫn trước những thử thách gian nan. Thiên Chúa có thể thử thách đức tin của chúng ta như Ngài đã thử thách lòng tin của người đàn bà dân ngoại, hay như trong thời Cựu Ước, Ngài đã thử thách ông Gióp, tổ phụ Abraham. Thiên Chúa thử thách con người không phải vì ghét bỏ con người cho bằng vì Ngài yêu thương con người. Vì “lửa thử vàng gian nan thử sức.” Vì thế, trước những thử thách của Chúa, chúng ta hãy noi gương người đàn bà ngoại giáo Canaan luôn biết kiên nhẫn đợi chờ trong niềm tin tưởng.
Thứ ba, sống khiêm nhường trước mặt Chúa. Người đàn bà dân ngoại Canaan đã chấp nhận làm “chó con” để được “ăn những mụn bánh từ bàn rơi xuống”. Đó là một thái độ khiêm nhường thẳm sâu. Trước một vị Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng, chúng ta cũng luôn phải có thái độ khiêm nhường: Khiêm nhường như người đàn bà Canana; Khiêm nhường như người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện; Khiêm nhường như Đức Maria. Nếu chúng ta có được thái độ khiêm nhường như thế, chắc chắn sẽ được Thiên Chúa yêu thương và sẵn sàng chấp nhận những lời cầu xin của chúng ta.
Thứ tư, biết quan tâm đến những người ốm đau bệnh tật. Như người đàn bà dân ngoại Canaan đã hy sinh tất cả vì đứa con gái bị quỷ ám. Bà hy sinh vì yêu con, Bà hy sinh vì muốn con mình được cứu chữa. Thái độ đó mời gọi chúng ta luôn biết quan tâm đến những người ốm đau bệnh tật. Đặc biệt, là những người thân trong gia đình của mình như: vợ chồng, ông bà, cha mẹ, con cái.
Lạy Chúa Giêsu, xin thêm đức tin cho chúng con. Xin cho mỗi người chúng con có lòng khiêm nhường, kiên nhẫn đức tin mạnh trước những thử thách của Chúa. Và xin cho chúng con luôn biết quan tâm đến những người đau khổ bệnh tật. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo hội Tin lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất, trong đó có cuốn “Sức mạnh của tư tưởng tích cực” (The Power of positive thinking) xuất bản năm 1952. Tác phẩm này được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn 20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành.
sở dĩ cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế nó vì giúp cho người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công. Bằng cách nào? Tác giả cuốn sách viết: “Người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình. Vậy muốn thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.”
Tác giả trích câu lời Chúa trong Tin mừng Mat-thêu làm bí quyết để thành công trong cuộc đời. Đó là: “Nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được” (Mt 17,20).
Bí quyết đó được sáng tỏ qua sự kiện sau đây:
Khi Chúa Giê-su vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Ca-na-an, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giê-su và thống thiết nài xin Ngài: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Thế mà Chúa Giê-su lặng thinh không đáp.
Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ đi, thầm oán trách Chúa vô tâm. Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Ca-na-an đụng phải, nhưng bà không thối lui.
Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giê-su thì cứ tiếp tục lặng thinh. Bà kêu xin bền bĩ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin Chúa Giê-su đáp lại ước vọng của bà: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !”
Chúa Giê-su lại từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en.”
Sứ mạng của Chúa Giê-su vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Ít-ra-en mà thôi, chưa đến thời đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.
Bị từ chối thẳng thừng, bị dụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà không nhụt chí. Bà vẫn tiếp tục van xin. Bà bái lạy Ngài cách thành khẩn và xin tiếp: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi.”
Lần nầy, Chúa Giê-su trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt: “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con.” Thế là bà lại đụng phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước. Vẫn không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm tốn cầu xin: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Đến đây thì Chúa Giê-su không thể chối từ được nữa. Lòng tin mạnh mẽ và sự bền bĩ cầu xin của người phụ nữ Ca-na-an đã làm thay đổi kế hoạch cứu độ từng bước của Thiên Chúa, khiến Chúa Giê-su phải đáp ứng yêu cầu của bà ngay lúc bấy giờ, là cho con bà được ơn chữa lành, cho dù chưa đến thời kỳ mang ơn cứu độ cho người ngoài Do-thái.
Chúa Giê-su xác nhận rằng chính nhờ lòng tin vững mạnh mà người phụ nữ này đạt được điều mình mong muốn. Ngài nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28).
Ngoài ra, Chúa Giê-su khẳng định rằng ai có lòng mạnh tin thì có thể làm được bất cứ việc gì: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “Hãy rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17, 20).
Như thế,
Lòng tin là chìa khoá vạn năng có thể mở được những cánh cửa dẫn vào những kho tàng quý báu.
Lòng tin cũng là bí quyết để thành công.
Đây là bài học quý báu mà Chúa Giê-su dạy chúng ta qua Tin mừng hôm nay. Tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học này để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa thường đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin. Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để nhờ đó, chúng con có thể vượt qua mọi gian nan thử thách trong đời và giành lấy những thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời cũng như trong đời sống tâm linh.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn , Lời Chúa, Chúa nhật 20 thường niên năm A hôm nay (Mt 15, 21 -28) cho chúng ta một sự tìm tòi lịch sử của Thánh Kinh. (trở về nguồn Cựu Ứơc).
Tai sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, vì :” câu trả lời của Chúa Giêsu” : “ Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi !” (c 24).
Vâng, theo lịch sử Cựu Ứớc, thì miền đất Ca-na-an là miền đất “Hứa”, Thiên Chúa đã hứa với Tổ Phụ Ápraham sẽ dẫn dân tộc Israel về “Đất Hứa”. Thì , Ca-na-an chính là “miền đất hứa” của dân Dothai , vậy tại sao , người xứ Ca-na-an không được xem là dân Israel ?
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ cho toàn thể nhân loại mà !?
Căn cứ vào Bài đọc I hôm nay (Is 56, 1; 6-7), chúng ta biết được Thiên Chúa sẽ ban ơn Cứu Độ cho hết mọi dân tộc, vậy tại sao người xứ Ca-na-an không được xem là “con chiên lạc của nhà Israel” ? Nếu vậy, ngoài người Dothai ra không dân tộc tộc nào được Cứu Độ sao !? Có phải vậy không thưa quý vị ? Thưa, chắc chắn là không phải rồi, vậy thì phải hiểu như thế nào Lời Chúa hôm nay ?
Rõ ràng , qua dân tộc Dothai, Ơn Cứu Độ mới đến được với các dân tộc trên thế giới. Như chúng ta biết, địa hạt Tia( hay còn gọi là Ty-rô),và Xi-đon là miền cực bắc của xứ Ca- na- an. Cũng có thể hiểu Ca-na-an như Sơn La, Tyro như Điện Biên còn Xi-đôn như Lai-Châu của Việt Nam vậy.
Như vậy, khi Chúa Giêsu lui về miền Tia và Xi-đon, cũng ví như Chúa Giêsu lui về miền Lai Châu và Điện Biên, thì gặp người phụ nữ xứ Ca-na-an, là Sơn –La của Việt Nam vậy.
Nhưng, tại sao vùng đất xứ Ca-na-an là miền đất “Hứa” mà chính Thiên Chúa đã Hứa với Tổ Phụ Ápraham lại trở nên bị ”phân biệt” với người Israel. Thưa, vì xứ Ca-na-an là xứ coi như tội lỗi, ngoại tộc vì đã thờ thần Ba-an, là một xứ tội lỗi, dâm loàn và giết chóc. Dân xứ Ca-na-an đã phản bội Thiên Chúa , thờ thần Ba-an, thời ngẫu tượng, bò vàng. Sau đó, Thiên Chúa sai Tiên Tri Giô-suê, là môn đệ theo hầu Môisen trong 40, đã đi vào miền đất Ca-na-an do thám và đã rao giảng sự hồi tâm và trở lại của dân xứ Ca-na-an.( x, Chương 10 của sách St, va 2C, 34 của sách Ds).
Và,vì vậy, trong một xứ sở không tin thờ Thiên Chúa, lại xuất hiện một người phụ nữ tin vào Đức Kitô, có nghĩa là tin vào một Người có Tên là GIÊSU, Người ấy là Đấng Cứu Thế, vì rõ ràng bà đã xác tín và kêu lên như vậy. “ Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin dủ lòng thương xót tôi!” ( c 22 b)
Như vậy, chúng ta biết yếu tố đức tin nằm ở đây.
Ngoài tất cả những thứ mà bà ta đã tin và đã làm theo cho con gái của mình, thì tất cả đều vô vọng. Trong địa hạt mà bà đang sinh sống có truyền thống không tìn vào Thiên Chúa. vậy, mà giờ đây bà đã nghe về Đức Kitô đã xuất hiện và tin vào Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến, là Con Vua Đavit, là cụm từ chỉ về “Đấng Cứu Thế”. Sự kêu cầu tha thiết, van xin hết lòng, bất chấp những lời đàm tiếu, những sự xua đuổi, nhưng bà vẫn đến gần Chúa Giêsu để van xin Người cứu chữa con gái bà..
Vâng, Chúa Giêsu không phải không biết, Người không vô tâm như những vị “lương y” tầm thường.
Lần thứ hai , bà lại đến gần và thưa : “ Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” ( c 25), và Chúa dùng Lời để thứ thách bà. Người đáp : “Không nên lấy bánh của con cái trong nhà mà ném cho lũ chó con.” ( c 26). Nhưng bà đáp lại :” Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” ( c 27)
Vâng, chính Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên với niềm tin của bà, một lòng tin vượt quá ranh giới thành kiến, địa lý. Vâng, giữa lòng thương con của một người mẹ, và sự nhận thức của lòng tin, bà tin rằng : “Ông nầy” quả thật là Đấng Cứu Thế. Vì vậy, bà đã cố gắng và đã đạt được.
Theo đó, lòng tin của người phụ nữ xứ Ca-na-an, thoạt nghe thì dường như có mâu thuẫn, đầy nghịch lý với Bài Đọc I hôm nay ( Is 56 , 1. 6-7), nhưng ý nghĩa sâu sắc thì vô cùng logic, bởi vì, chính Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài luôn lôi kéo, như giữa không trung vẫn có luồng gió thánh thiện, chúng ta nhớ lại Dụ Ngôn “Người gieo giống”, người gieo cứ gieo, cứ vung vãi, Thần Khí Chúa cũng vậy, cứ tung, cứ gieo, cứ vãi khắp nơi, ai đón nhận thì đón. Như vậy, Lời Chúa cứ gieo vãi vào không trung, mảnh đất tâm hồn nào đó nhận, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa.
Bài đọc II hôm nay ( Rm 11, 13 -15 . 29 -32), thánh Phaolo nhắc nhở cho chúng ta biết : “Qủa thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không đổi ý ” ( c 29).
Vì vậy, Lời Chúa hôm nay cũng cho chúng ta biết, phải thận trọng trong việc ban phát ân sủng siêu nhiên, làm bác ái , hay sinh hoạt tôn giáo, hoặc đối đáp với chính quyền đều phải thận trong khôn ngoan, nhất là việc truyền giáo, rửa tội cho tân tong, cũng cần hết sức thận trọng và nhận ra đức tin chân thật của họ, chứ không phải lấy nước mà đổ ào ào..
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian là để cứu vớt tất cả những ai có lòng tin, dù lành hay dữ, tốt hoặc xấu, không phải cứ kêu “ Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời” , nhưng, phải có lòng tin chân thật như người phụ nữ xứ Ca-na-an hôm nay./. Amen.
.
NIỀM TIN SẮT ĐÁ CỦA MỘT DÂN NGOẠI
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XX TN/A – Mt 15, 21-28) trình thuật câu chuyện một người đàn bà từ Ca-na-an (miền Tia và Xi-đon) tới gặp Đức Ki-tô, xin Người chữa bệnh cho con mình. Miền đất quê của bà vốn được người Do-thái coi là dân ngoại. Lần thứ nhất bà cầu xin, nhưng Đức Ki-tô không trả lời. Với một niềm tin vững vàng, bà lại tiếp tục năn nỉ. Các môn đệ có vẻ không hài lòng về bà và xin Đức Ki-tô đuổi bà ấy đi, thì Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.”(Mt 15, 24). Câu nói này của Đức Ki-tô gián tiếp cho mọi người biết bà ấy là dân ngoại; và để thử lòng tin của bà, Người nói thẳng với bà ấy: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26).
Với câu trả lời này, nếu chỉ thoáng nghe và không suy nghĩ thì không thấy ăn nhập gì với chuyện chữa bệnh cho con của bà ta. Nhưng nếu suy nghĩ sâu hơn một chút, thì sẽ thấy Đức Ki-tô ví việc chữa bệnh như đem bánh cho người ta ăn và bánh đó không được cho lũ chó con. Bà bị coi như chó (dân ngoại) và nếu giả thử gặp cỡ các kinh sư hay Pha-ri-sêu chắc chắn sẽ phản ứng rất mạnh. Nhưng bà này vẫn không buồn rầu bỏ đi, mà nhất định ở lại cầu xin cho bằng được. Lời cầu xin quả thật khiêm tốn và tin tưởng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” (Mt 15, 28). Tuyệt vời!
Phải nói rằng bà này là típ người rất thông mình. Nếu không hiểu biết, bà sẽ thấy lời của Đức Ki-tô không dính dáng gì tới việc bà cầu xin, và sẽ xảy ra 2 trường hợp: Một là thấy người mình cầu xin không hiểu được ý mình. Đã không hiểu được mình, thì cầu xin cũng vô ích, bỏ đi cho rảnh. Trường hợp thứ hai, sẽ cho là Đức Ki-tô không nghe rõ lời cầu xin nên mới nói về bánh, và nếu còn tin tưởng, bà ta sẽ cứ một mực xin Người chữa bệnh cho con mình. Cả 2 trường hợp đều không đúng với bà, vì bà đã hiểu ngay Lời dạy của người mà bà tin tưởng. Không dám xin ăn bánh trực tiếp, mà chỉ khiêm tốn xin được ăn những mảnh vụn rơi vãi.
Thêm một đức tính đặc biệt của bà nổi bật lên: Dù có bị coi là chó, bà cũng xin vâng, vì bà nghĩ rằng Người mà bà đang cầu xin đích thị là Đấng Quyền Năng, là Thiên Chúa. Là Thiên Chúa mà chấp nhận xuống phàm trần làm một con người bình thường như bao người khác, thì mình có bị coi là chó cũng xứng đáng thôi. Đức tình khiêm tốn tuyệt vời ấy chắc chắn không thể có được nơi những thượng tế, những kinh sư, luật sĩ, những Pha-ri-sêu, những con người vẫn luôn miệng nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” và tự coi mình mới là “hàng nội” chính tông, là con dòng cháu giống của Thiên Chúa; những con người luôn kiêu ngạo tự cho mình là đệ nhất thông minh và chỉ thích được “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” (Mt 23, 2) thiên hạ. Vậy đó!
Thông minh nhưng khiêm tốn, người đàn bà Ca-na-an đã khiến Đức Giê-su Thiên Chúa chạnh lòng thương, buột miệng khen ngơi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật”. Và thế là: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.” (Mt 15, 28). Quả thực, bài học rút ra được ở đây là đức tính khiêm nhường, đức tính đứng hàng đầu trong bảy đức tính căn bản của Ki-tô giáo. Phải luôn nghĩ rằng tất cả những gì con người có được nơi trần thế đều là ân sủng của Thiên Chúa ban tặng. Những ân sủng đó Thiên Chúa ban cho mỗi người mỗi khác là vì ich chung (1Cr 12, 7). Không tự kiêu, tự mãn khi mình có được sự thông minh hơn người, hoặc có được những đặc ân khác những người xung quanh; nhưng cũng không tự ti mặc cảm khi thấy mình không có được những ân sủng như những người khác.
Tuy nhiên, bài học lớn nhất, bao trùm lên tất cả là đức tin của người đàn bà Ca-na-an. Bà thực sự tin tưởng Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ; và bà vững tin rằng Thiên Chúa không thiên vị một ai, không phân biệt “nội hay ngoại”, nếu chân thành cầu xin với một niềm tin vững vàng, thì dù xin gì, Người cũng sẽ ban cho. Bà không chỉ tin ở trên môi miệng, mà chính là ở chỗ đối diện với thử thách nghiệt ngã (bị dân Do-thái coi là dân ngoại và chính Người mà bà tin tưởng mãnh liệt nhất lại coi bà và con gái bà là chó), vậy mà bà vẫn trung kiên với niềm tin của mình.
Với một người chưa được coi là Ki-tô hữu, mà đã có một niềm tin sắt đá như vậy, thiển nghĩ cũng rất đáng xấu hổ cho những người đã được coi là Ki-tô hữu (đã nhận lãnh Phép Rửa) mà chỉ hơi chạm đến tự ái, hoặc chỉ mới phỏng đoán mình sẽ bị “thử lửa”, đã vội vàng chối bỏ Chúa của mình một cách ngon lành. Hoá cho nên, chính trong cuộc sống đời thường, trong gian truân thử thách, trong tất cả mọi nghịch cảnh, người Ki-tô hữu vẫn sống đức tin một cách chân thực, không màu mè sáo rỗng, như bà mẹ người Ca-na-an trong bài Tin Mừng, ấy mới thực sự xứng đáng với danh hiệu mà Đức Giê-su Ki-tô đã ban tặng: Ki-tô hữu (“Thầy không gọi anh em là tôi tớ, mà gọi anh em là bạn hữu” – Ga 15, 15).
Cho đến hôm nay, phần đông người Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được đời sống đức tin rất tốt, được cụ thể hóa qua việc tham dự Thánh Lễ cũng như lãnh nhận các bí tích. Tuy nhiên, đời sống đức tin ấy nhiều khi chỉ là những thói quen do ảnh hưởng của gia đình, xứ đạo hơn là một chọn lựa và dấn thân cá nhân. Một đức tin như thế sẽ khó lòng đứng vững trong khung cảnh đô thị hóa và xã hội hóa đang và sẽ diễn ra mỗi ngày một nhanh hơn. Vì thế, cần xây dựng một đức tin mang tính cá vị, hiểu như một chọn lựa tự do và ý thức trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Ấy cũng bởi vì “Đức tin là lời đáp trả của con người toàn diện trước tiếng gọi của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô).
Con người toàn diện bao gồm cả lý trí, tình cảm, ước muốn và hành động. Vì thế, để sống đức tin, người Ki-tô hữu không chỉ ngừng lại ở những hiểu biết thuần lý, nhưng phải bước vào hành động – hành động và liên lỉ cầu nguyện – bởi vì “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Vâng, nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ chính Đấng mà chúng ta tin. Và niềm tin đích thực được thể hiện qua đời sống hằng ngày là “chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.” Hệ quả tất yếu sẽ là “ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.” (1 Ga 2, 3.5). Ước được như vậy. Amen.
.
Pio X Lê Hồng Bảo
Sự kiện trong đoạn Tin Mừng hôm nay nằm trong chuỗi những sự kiện mà Chúa Giêsu muốn dùng để thanh luyện niềm tin cho các môn đệ. Trước tiên, Người hóa bánh ra nhiều để nuôi hàng chục ngàn người trước mặt các ông. Kế đến, Người đi trên mặt nước và làm cho Phêrô cũng đi được trên nước mà đến với Người. Thế mà, các môn đệ vẫn còn hoài nghi! Nỗi hoài nghi phát sinh từ sự sợ hãi. Trong đoạn này, Chúa Giêsu lại phải dùng một người phụ nữ dân ngoại để làm điển hình về Niềm Tin.
… Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra… (Mt. 15, 21-22) Miền đất dân ngoại nhưng đã từng được Chúa Giêsu đánh giá cao về niềm tin và lòng sám hối trước đó: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.” (Mt. 11, 21)
Tuy vậy, để thử thách niềm tin của người phụ nữ này, trước tiên “Chúa Giêsu không đáp lại lời nào” (Mt. 15, 23). Sau đó, Người đã phải dùng những biện chứng xem chừng rất hợp lý: “Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel” và “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”…
Bất quá tam, đến lần thứ ba mà người phụ nữ vẫn kiên trì, lì lợm với một lý lẽ kiểu “cối xay cùn”: “Chó con cũng được hưởng những mẩu bánh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt. 15, 27). Đến nước này thì Chúa Giêsu đành… “bó tay”: “Bà muốn sao, thì được vậy!”
Một câu nói mang âm hưởng có vẻ buông xuôi nhưng nội dung lại là một “phán quyết” chắc nịch, bởi vì đây là câu nói phát ra từ Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Tôi lại liên tưởng đến một “phán quyết” cũng chắc nịch như vậy nhưng ở trong một hoàn cảnh khác: Lúc Chúa Giêsu sắp trút linh hồn trên cây Thánh Giá; yếu ớt, cô đơn và hoàn toàn bất lực trước nghịch cảnh. Vậy mà, có kẻ lại đặt cược Niềm Tin vào Người: “Khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc. 23, 42). Tên trộm chỉ cần Chúa Giêsu “nhớ đến” thôi chứ không mơ ước gì hơn, vì anh đã khẳng định thân phận tội lỗi của mình với người bạn cùng chịu hình phạt với anh bên kia Thánh giá. Và anh ta được gì? “Ta bảo thật anh, ngay hôm nay, anh sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng.” (Lc. 23, 43).
Có vẻ như, Chúa Giêsu chỉ bị chinh phục vì Đức Tin! Và, cũng có vẻ như, Người luôn ban phát dư dật cho những ai tin vào Người.
Trong thực tế thì sao? Tôi cũng tin tưởng, kiên trì giữ đạo đàng hoàng mấy mươi năm nay, vậy mà, lắm khi tôi cầu xin có được gì đâu!
- Tôi bị mất trộm, cầu xin Chúa cho Công an bắt được kẻ gian để lấy lại tài sản. Tôi làm tuần tam nhật rồi cửu nhật, vẫn bóng chim tăm cá! Trong khi ông hàng xóm bị mất mấy triệu, nhờ “bà thầy” coi dùm ngày trước, ngày sau đứa đầy tớ khóc thút thít đem trả…
- Con gái tôi có dấu hiệu tâm thần, chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Chỉ xin Chúa cho nó gặp đúng thầy đúng thuốc, vợ chồng tôi không ngại tốn kém. Chẳng thấy kết quả gì! Ông sếp tôi có thằng con trai cũng bị tương tự, rước thầy về cúng có 1 tuần lại khỏi.
- Con trai tôi lấy vợ, một “bà bóng” quen đã nói xa gần là chúng không “hạp tuổi”. Vợ chồng tôi đâu có tin! Vậy mà, y như rằng, cưới nhau về chúng nó gặp đủ thứ “tai ách”: Hết sẩy thai rồi đến tai nạn, lại bị mất việc nữa. Chúng tôi cũng xin lễ bình yên hoài hoài mà chẳng thấy bình yên đâu cả!
- …
Những điều tôi cầu xin, thực ra chỉ là những điều “tôi muốn Chúa làm cho tôi, theo ý tôi, để phục vụ cho lợi ích của bản thân tôi”. Tôi cũng không quên ngó quanh để xem xét, để so sánh thiệt hơn… Tôi không dám “đặt cược” chỉ một cửa. Đó là chưa kể, nhiều khi tôi còn ngụy biện với chính bản thân mình:
- Con bò nhà bị “giòi ăn”, tôi chỉ “chữa mẹo” bằng cách ra gò mối quất mấy roi rồi đọc mấy câu “vô thưởng vô phạt” thôi mà!
- Tôi cũng thử “cầu cơ” để tìm của bị mất, biết đâu Chúa “mạc khải” cho mấy vong hồn về mách cho tôi?
- Chồng tôi làm ăn với dân tộc miền núi bị “ếm”. “Nó ếm thì chỉ có nó gỡ”, nhiều người nói với tôi như vậy, chắc rồi! Ông thầy Chàm là lựa chọn của tôi trong trường hợp này.
- Tôi cũng bắt chước mấy chị bạn hàng “đốt phong long” khi gặp xui xẻo. Chỉ tốn mấy tờ giấy thôi, chỉ là “xưa bày nay làm” chứ có phải cúng kiến gì đâu!
- Gặp nhiều chuyện rủi ro, có người bày cho tôi cách xoay hướng cửa, sửa lối đi, kê lại bếp… Chỉ là “phong thủy” thôi, khoa học huyền bí phương Đông có nhiều thứ chưa lý giải được, tại sao tôi không nghe theo?
- Tử vi, dịch lý cũng có tính “khoa học” đó chứ. Coi ngày tốt, xấu cho thuận tiện công việc làm ăn thì cũng đâu có gì phản lại Đức Tin? Tôi vẫn “giữ ngày Chúa Nhật” mà!
- …
Tôi không xin được gì, chỉ bởi vì: Tôi chưa muốn điều Chúa muốn.
Người phụ nữ Canaan đã muốn đúng điều Chúa muốn:
– Vinh danh Chúa qua phép lạ Người làm (Lạy Ngài, là con Vua Đavít).
– Khiêm tốn nhận mình chỉ là thân phận tôi đòi (chó con).
– Tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào Đức Kitô một cách kiên trì, bền bỉ.
Chính vì thế, bà không “khiến” Chúa phải làm cho con bà khỏi bệnh. Chỉ một mực van nài: “Con gái tôi bị quỷ ám, khổ sở lắm!”, “Xin Ngài cứu giúp tôi!” và “Chó con cũng được hưởng bánh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bấy nhiêu đó đủ nói lên hàm ý: “Xin Chúa lo liệu cho tôi cách nào đó để con gái tôi bớt khổ vì quỷ ám. Rồi nó có tật nguyền hay thế nào cũng đành theo mọi sự Chúa sắp đặt!” Một lời cầu xin thể hiện mong ước hướng thượng của con người và tín thác vào Thánh Ý Thiên Chúa.
Người con trai hoang đàng cũng trở về với tâm trạng đó: “Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người tôi tớ của cha vậy” (Lc. 15, 18-19) Ấy vậy mà: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc. 15, 22-24)
Tôi chạnh nhớ chuyện vợ chồng nhà nọ: Anh chồng làm nghề thủ công, chị vợ ở nhà lo cơm nước và chăm sóc con cái… Thỉnh thoảng có vài chỗ nợ nần dây dưa, chị cũng le te đi hỏi nợ. Nhưng khổ nỗi, vốn chất phác hiền lành, chị rất ít khi đòi được nợ. Có lần, anh chồng cũng phải thở ra: “Trời ơi, chỉ có mỗi việc đi đòi nợ mà em cũng làm không xong!” Chị vợ rón rén lại bên chồng đưa ly nước: “Anh à, trong Kinh Lạy Cha có câu: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Nay, mình cũng đã cố đòi nhưng họ không trả, mình đành phải tha cho họ thôi. Chỉ mong mai sau, Chúa cũng đành tha nợ cho mình vì không đòi được gì là mừng rồi!”
Chị vợ trong câu chuyện trên cũng mang tâm tình của người phụ nữ Canaan, của người con hoang đàng và của cả tên trộm lành: Chỉ cần hưởng “bánh vụn”, chỉ cần là “tôi tớ trong nhà Cha”, chỉ cần được Chúa “nhớ đến”, chỉ cần Chúa “đành phải tha tội” là đủ rồi!
Lạy Chúa Giêsu, xin Người nhớ đến chúng con trong suốt hành trình trần thế này. Xin cho chúng con được nuôi dưỡng bằng bánh vụn của sự sống trường sinh. Chúng con chỉ xin được đối xử như tôi tớ Chúa ở trần gian, và mai ngày chúng con được Chúa tha nợ để trở thành con cái Chúa trên Thiên quốc. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Lời van xin trên của người đàn bà Ca-na-an có gì khác không nhỉ, so với lời kêu cứu của Phê-rô: “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giê-su coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14: 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Ca-na-an ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giê-su đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”
Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương. Bà là người Ca-na-an thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giê-su, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Và trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giê-su lại càng tỏ ra lạnh nhạt: “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà It-ra-en mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu các người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phê-rô) có thể tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết để lãnh nhận được sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Ca-na-an này thực tế chỉ là một con số không, thâm chí còn dưới cả số không nữa. Thế nhưng, chính vì con số không này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó; lòng thương xót trở thành tất cả!
Còn về phía người đàn bà Ca-na-an, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại hình như bà còn muốn đề cao nó hơn nữa thì phải: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Và quả thật là như thế, nếu đã xứng đáng rối thì chẳng cần chi tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng có dịp tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật thật dễ hiểu! Ai kể mình là xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ cầu mong được áp dụng luật công bằng với tất cả cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giê-su hình như muốn cho thấy, nó thật chan hòa tới độ: chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, và thế là nó tuôn trào vô giới hạn: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc người đàn bà Ca-na-an khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà bà hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’! Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!
Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác đã khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Ma-ri-a tại thôn xóm Na-da-rét vô danh; trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố được nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được…, như nhân đức, thánh thiện, hay trở thành vô nhiễm nguyên tội, được làm Mẹ Thiên Chúa hay được hồn xác lên trời v.v. (như ngày nay chúng ta vẫn quen ca ngợi Mẹ), mà chính là vì người nhận biết mình được Thiên Chúa xót thương và cứu độ. ‘Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời’, Ma-ri-a đã nhận ra định luật vĩ đại đó!
Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Ki-tô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Ma-ri-a. Thường thì khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng rất ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Ma-ri-a, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó nhỉ? Ma-ri-a Na-da-rét và Ma-ri-a Mác-đa-la bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có những mảng đời rất khác biệt nhau này chính là: các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín lời tuyên xưng ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’, để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho hết thảy các con cái thấp hèn của Mẹ, cho đến mãi muôn thuở muôn đời. A-men
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Hình mẫu đức tin nơi một thiếu phụ ngoại giáo
Ngạn ngữ phương Tây có viết : “Trên đời này, không có kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng trái tim của người mẹ”. Người đàn bà xứ Canaan trong câu truyện Tin Mừng hôm nay đã đến gặp Chúa Giêsu, mang theo mình một tình mẫu tử bao la và mãnh liệt. Tình yêu cao cả ấy đã rung lên những giai điệu bi thương trước căn bệnh hiểm nghèo của đứa con gái. Trái tim của một người mẹ đang đau khổ là khởi đầu của cuộc hành trình đức tin nơi bà, và cuối cùng phép lạ đã xảy ra. Trước khi bày tỏ quyền năng chữa lành, Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn thế nào sẽ được như vậy”. (Mt 15,28).
Khởi từ ánh mắt thân thương của Chúa Giêsu.
Thánh Augustinô trong tác phẩm ‘Confessio’ đã kể lại một giai thoại gồm hai nhân vật : Ngài và người trộm lành. Ngài hỏi ông thánh ăn trộm : “Thưa ông, ông chưa từng được rửa tội, chưa từng đọc Kinh thánh, chưa lần nào đi vào các hội đường để cầu nguyện và cũng chưa bao giờ gặp Đức Giêsu. Vậy tại sao khi bị đóng đinh trên thập giá, ông nhận ra Đức Giêsu và tín thác vào Ngài ?”. Người trộm trả lời : “Đúng vậy, trước đây tôi chưa hề biết ông Giêsu là ai, càng không phải là môn đệ của Ngài. Qúa khứ của tôi đan kín tội ác vì tôi chỉ là một tay trộm cắp chuyên nghiệp và đã bị kết án như một tên tội phạm đốn mạt. Nhưng trên thập giá, tôi đã nhìn vào ánh mắt của Đức Giêsu. Từ đôi mắt ấy, tôi đã khám phá ra cả một bầu trời lồng lộng đầy ắp yêu thương và tôi hoàn toàn tín thác vào Chúa. Đó là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin nơi tôi”.
Tương tự như thế, người phụ nữ ngoại đạo xứ Canaan đã đến với Chúa Giêsu. Từ ánh mắt yêu thương của Chúa, bà cũng khám phá ra cả một bầu trời tình yêu sâu thẳm, khởi dẫn đến đức tin. Chắc chắn bà ta chưa từng được rửa tội, chưa bao giờ bước chân đến nhà thờ, cũng chẳng thuộc bất cứ một câu kinh nào. Nhưng người phụ nữ này đã có một đức tin rất mạnh mẽ khi biết trải lòng mình ra và tín thác tuyệt đối vào lòng thương xót của Chúa. Đức tin của bà được Chúa Giêsu khen gợi, trở thành chuẩn mẫu cho các tông đồ năm xưa cũng như cho mọi người chúng ta ngày hôm nay.
Đức tin vượt qua thử thách
Đức tin là một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban. Đó không phải là kết quả của những suy tư triết học hay của những lý luận logic nơi đầu óc con người. Tuy nhiên, đức tin không phải chiếm được một lần là xong. Nó còn phải được mài dũa, được nuôi dưỡng, nhất là cần phải được kiện cường qua những thử thách. Điều này đã thể hiện rất rõ nét nơi lộ trình đức tin của người phụ nữ xứ Canaan.
Thử thách đầu tiên đến với bà là sự thinh lặng từ nơi Chúa Giêsu. ‘Người không đáp lại lời nào’ (c. 23). Sự thinh lặng của Chúa dường như rất khó hiểu. Trong cuốn sách ‘Lạy Chúa, tại sao Ngài thinh lặng’ Cha Giuse Đinh thanh Bình, SDB cũng diễn tả tâm trạng này khi Chúa gửi đến cho Ngài những thánh giá khá nặng nề trong cuộc sống. Suốt 2000 năm qua trên Thập giá, Chúa vẫn mãi im lặng, không nói một lời, không đáp lại một câu. Đầu Ngài vẫn cúi xuống, đôi mắt vẫn nhắm nghiền và đôi tay vẫn còn luôn giang rộng. Nhưng sự im lặng triền miên ấy là một loại hình ngôn ngữ rất phong phú diễn bày tình yêu của một con người đã dám hy sinh mạng sống cho người mình yêu, là chính chúng ta.
Thử thách thứ hai, là câu trả lời mà mới thoạt nghe, chúng ta cảm thấy khá phũ phàng : “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel (c.24). Nếu được đáp trả như thế, có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ tự ái và bỏ về, nhưng người phụ nữ kia thì không. Bà đã can đảm và kiên trì vượt thắng tất cả. Bà đã dẹp được tính tự ái và vẫn kiên trì đeo bám Chúa Giêsu. Bà ta quả là rất ‘lỳ đòn’. Bị các tông đồ xua đuổi, bị Chúa Giêsu ‘làm lơ’ không ngó ngàng tới, và còn bị Chúa phán một câu như tạt một gáo nước lạnh vào mặt, người phụ nữ vẫn nhất quyết không bỏ cuộc.
Thử thách cuối cùng, Chúa Giêsu đã nói một cách thẳng thừng : “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Đây là đỉnh điểm của những thử thách mà bà đã trải qua. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng tại sao Chúa Giêsu lại nói một câu xem ra phi nhân bản đến như vậy. Dầu sao bà ta cũng là con người, chứ sao lại so sánh bà như một con chó. Chúng ta đừng vội nghĩ một cách thiển cận như thế, khi chưa đào sâu ý nghĩa thần học mà các trình thuật Tin Mừng muốn lột tả. Chúa kéo dài những thử thách để tôi luyện đức tin nơi một phụ nữ yếu ớt. Trong thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã giáo dục đức tin và huấn luyện dân Ngài qua những thử thách suốt 40 năm trường trong sa mạc. Cuộc lữ hành đức tin hôm nay của chúng ta cũng đầy những thử thách như vậy. Thánh Giacôbê đã viết : “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết, đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Anh em hãy chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo”. (Gc 1,2-4).
Mô hình đức tin.
Người phụ nữ Canaan đã trải qua 3 giai đoạn thử thách. Đáp lại, lộ trình đức tin của bà ngày càng được kiện cường qua 3 lần bày tỏ đức tin. Thoạt đầu, bà nhìn vào Đức Giêsu chỉ như một người bình thường nhưng có lòng nhân ái. Vì thế bà mở miệng kêu xin “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi”. Mọi người Israel đều là con, là cháu, là hậu duệ của vua Đavit. Người phụ nữ ban đầu chỉ nhìn vào Đức Giêsu một cách giản đơn như thế. Đến giai đoạn hai, khi bà bị các môn đệ xua đuổi và chính Chúa Giêsu trả lời thẳng thừng : “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel”, người phụ nữ đã tiến lại phủ phục trước Chúa Giêsu và tiếp tục khẩn nài lòng thương xót từ nơi Ngài. Theo truyền thống Do Thái, hành vi phủ phục chỉ dành để bày tỏ sự kính cẩn đối với các ngôn sứ, những vị sứ giả của Thiên Chúa. Lộ trình đức tin nơi người phụ nữ đã tăng triển. Đến giai đoạn cuối cùng, khi Chúa Giêsu nói một cách đanh thép là đừng nên lấy bánh của con cái mà vất cho chó, người phụ nữ đã hạ mình xuống thật sâu, tự sánh mình như lũ chó con cũng được hưởng ‘sái’ những mẩu bánh vụn còn dư thừa. Bà đã đi sâu vào sự khiêm tốn khi đối diện trước Đấng Toàn năng, và tôn nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Nếu cường độ của những thử thách ngày càng gia tăng, thì đức tin nơi người phụ nữ Canaan cũng ngày càng tiến triển. Lộ trình đức tin đó là chuẩn mẫu cho mỗi người chúng ta.
Kết luận
Trong bài đọc 1, ngôn sứ Isaia đã viết : “Ta sẽ dẫn những người ngoại bang lên núi thánh của Ta”. Hình ảnh ‘người ngoại bang’ được lập lại nơi người phụ nữ Canaan mà thánh sử Matthêu trình thuật trong Tin Mừng hôm nay. Bà đã hiển thị đức tin, và tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Còn chúng ta là những tín hữu, những người nhà, những người đạo gốc và đã được rửa tội từ lâu, chúng ta đã hiển thị đức tin một cách cụ thể như thế nào?
.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong sự không vâng phục để thương xót mọi người” (Rm 11,32).
Câu này của thánh Phao-lô hơi khó hiểu và dễ bị hiểu lầm. Hiểu lầm vì người ta không vâng phục là tại vì Thiên Chúa giam hãm; Khó hiểu vì tại sao lại nói “Thiên Chúa gian hãm người ta trong sự không vâng phục”. Có vâng phục Thiên Chúa hay không là do con người quyết định chứ. Như A-đam và E-và không vâng phục Thiên Chúa. Đức Ma-ri-a và Đức Giê-su thì vâng phục Thiên Chúa.
Ai vâng phục Thiên Chúa, thì được Thiên Chúa yêu thương, quí mến; được Thiên Chúa xót thương, được Thiên Chúa ban ơn. Ai không vâng phục Thiên Chúa thì bị phạt, không được thương, không được xót, không được lãnh ơn. Vậy, tại sao thánh Phao-lô lại ghi một câu như thế? Đối với con người chúng ta với nhau thì ta có thể hiểu được; còn đối với Thiên Chúa làm sao mà hiểu được đây?
Như nhờ sự không vâng phục của dân Ít-ra-en, mà dân ngoại được hưởng ơn cứu độ. Hoặc nhờ sự vâng phục của dân ngoại mà dân Ít-ra-en, có thể quay về với Chúa để lãnh ơn tha thứ và hưởng ơn cứu chuộc. Cũng như thời các Tông Đồ, vì dân Do thái không chịu nghe Tin Mừng, nên các ngài đã quay sang dân ngoại rao giảng Tin Mừng.
Có thể nói Chúa đã “giam hãm” dân Do thái trong sự không vâng phục, để dân ngoại được lãnh ơn cứu độ. Như thế, ta phải hiểu sự “gian hãm” này như thế nào? Thực ra, sự “giam hãm” này như một sự “thử thách” thôi. Trong bài Phúc Âm hôm này, Đức Giê-su đã thử thách đức tin của bà dân ngoại Ca-na-an, khi nói: “Tôi chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi” và “Không được lấy bánh dành con cái mà ném cho lũ chó con”.
Điều đó Chúa muốn nói rằng: dân Do thái là “con người”, còn dân ngoại là “con vật”; dân Do thái là người; dân ngoại là chó. Thế nhưng bà ta cũng không phải tay vừa, cũng chịu “cố đấm” để “ăn xôi”; bà đã hạ mình và nói: “Thưa Ngài đúng thế. Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Đức Giê-su đành bó tay và nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật ! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Như thế, dân ngoại cũng được ơn cứu độ.
Chúa là Thiên Chúa, khoan dung, nhân hậu, từ bi, thương xót, nên Chúa luôn muốn ban mọi ơn lành cho mọi người, nhưng đôi khi Chúa cũng dùng biện pháp mạnh, để ban ơn cho con người. Có nghĩa là Chúa ban ơn cho con người qua hai cách. Đối với người nào vâng phục và vâng nghe Lời Chúa dạy thì Chúa ban ơn; điều này ta dễ hiểu. Nhưng đối với người bất tuân, cứng đầu, cứng cổ, thì Chúa dùng biện pháp mạnh, cũng chỉ để ban ơn mà thôi. Điều này ta phải hiểu thế nào?
Ví dụ như Chúa dùng những bệnh tật chẳng hạn; hay dùng những thiên tai; hoặc ngay cả sự gian ác của con người nữa. Qua bệnh tật, Chúa cho ta biết, mình là con người yếu đuối, phải cần đến ơn Chúa. Qua những thiên tai, Chúa cho ta thấy, con người chúng ta bé nhỏ lắm; mong manh lắm, phải bám vào Chúa mới được, đừng có bám vào tiền tài của cải. Qua việc người Mỹ bỏ hai trái bom nguyên tử xuống Na-ga-sa-ki và Hi-ro-shi-ma, Chúa cho mọi người nhất là người Nhật biết yêu chuộng hòa bình, vì sự man rợ và dã man của chiến tranh.
Ta muốn Chúa ban ơn cho ta bằng cách nào đây?
Nếu ta muốn được Chúa ban ơn, thì ta hãy tuân giữ Lời Chúa: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh”. Dù cho người đó có là người ngoại đi nữa, mà biết “gắn bó cũng Chúa; biết phụng sự Người và yêu mến thánh Danh; cùng trở nên tôi tớ của Người”, thì cũng sẽ nhận được ơn cứu độ Chúa ban. Nếu ta bất tuân, ta cứng đầu, cứng cổ, ta hãy coi chừng Chúa dùng biện pháp mạnh đó; để ta biết thức tỉnh; biết ăn năn sám hối mà quay về với Chúa mà lãnh ơn Chúa ban.
Một đàng là ta được yêu, được thương mà lãnh ơn Chúa ban; một đàng là ta bị giam, bị hãm, bị đau, bị khổ để lãnh được ơn Chúa, ta chọn cách nào thì tùy ta. Nếu ta biết khôn mà theo gương Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a, luôn biết vâng phục theo thánh ý Chúa mà sống, ta sẽ luôn vui mừng và phấn khởi mà nhận lãnh ơn cứu độ của Chúa. Ta mà theo thói đời, theo sự khôn lanh của con người, thì coi chừng ta sẽ vừa khóc lóc, vừa rên rỉ mà lãnh nhận ơn Chúa đó. Nhờ Chúa ban hay bị Chúa giam là tùy ở ta. A-men.
.
“DÂN NGOẠI” CÓ LÒNG TIN MẠNH HƠN QUÂN “GIUDÊU”
Anmai
Tất cả những người “bén duyên” với việc rao giảng tin mừng trong lãnh vực giúp giáo lý dự tòng cho những “người ngoại” ắt hẳn sẽ có rất nhiều kinh nghiệm tuyệt vời từ những “người ngoại” tìm đến Chúa. Với xã hội phát triển vượt bậc về kinh tế như ngày nay tưởng chừng con số gia nhập Kitô giáo sẽ chựng lại hay chỉ vài người nhưng thật may mắn khi còn nhiều và còn nhiều người “ngoại” bỗng nhiên cảm mến Chúa, cảm mến Đạo để tìm đến các lớp Dự Tòng của các giáo xứ để học giáo lý. Trong những người đấy thật sự là có những người học vì phải theo đạo vợ đạo chồng nhưng cũng trong những số ấy, không ít người “ngoại” xuất phát từ niềm tin thật trong lòng của họ.
Một học trò cũ đã bộc bạch với tôi: “Thưa Cha! Thoạt đầu, vì anh ấy con đi học giáo lý để tìm hiểu về Chúa nhưng rồi sau khi đi học con thấy con tin Chúa nhiều lắm! Nhất là sau khi rửa tội, con thấy con bình an hơn, cuộc sống của con thanh thản hơn trước. Con đã bớt đi tính tranh giành, hơn thua, ghen ghét. Hiện giờ thì anh ấy không quen con nữa nhưng con cảm ơn anh ấy vì chính anh ấy là người dẫn con đến với Chúa và Mẹ. Con nghĩ rằng anh là người dẫn đường cho con. Vẫn biết rằng chia tay với anh ấy con rất buồn nhưng con thấy con được rửa tội để theo đạo là con hạnh phúc rồi. Những tối khó ngủ, con đeo chuỗi Mân Côi mà đứa bạn tặng con trong ngày rửa tội (13.07.2008 tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) con thấy con ngủ ngon!”. Tôi không nghĩ ra và không ngờ học trò đã nói rất thật, thật tự đáy lòng và lương tâm của mình. Phải chăng đây là lòng tin kiên vững của một “dân ngoại” thời hiện đại.
Nếu có dịp, ai muốn “tai nghe mắt thấy” thì có thể đến với các lớp giáo lý dự tòng trong đó có lớp giáo lý ở Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải Dòng Chúa Cứu Thế dạy hay hay nổi tiếng nhưng Ban giảng huấn ở đây đã thu thập tất cả các chứng từ, các cảm nghiệm thật đơn sơ, thật chân thành tự đáy lòng của những “dân ngoại” khi họ tìm đến Chúa. Những lời chứng ấy, những niềm xác tín đấy hiện đang còn lưu giữ như lời chứng hùng hồn niềm tin vào Chúa giữa một thế giới mà dường như người ta muốn đẩy Thiên Chúa ra bên lề đời họ.
Với Cha Trương Bửu Diệp, Ngài khá nổi tiếng vì sự tử đạo của mình nhưng nổi tiếng hơn khi Ngài đã làm nhiều và nhiều dấu lạ cho mọi người. Khi đặt chân đến viếng Ngài ở Tắc Sậy, những người mà tôi được tiếp xúc, hỏi thăm đều cho biết: “Cha Bửu Diệp mắc cười lắm! Ngài hay làm dấu lạ cho nhiều người nhưng đặc biệt Cha làm dấu lạ cho những người “lương” (“ngoại giáo”) không à! Còn những người Công Giáo được ơn của Cha rất ít”. Đúng như lời những người ở đây nói khi tôi đi tham quan một vòng nhà thờ cũng như phần mộ của Cha. Hàng ngàn cái ghế đá dâng kính Ngài trong khuôn viên nhà thờ như nói lên lòng biết ơn Cha Bửu Diệp được đề tên nhưng đa số là của “người ngoại” vì có tên người dân nhưng không có tên Thánh như những con nhà “có đạo” mà ta thường thấy.
Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Cha Bửu Diệp đã ban ơn cho “dân ngoại” nhiều hơn con nhà “có đạo”. Nhiều người hàm hồ bảo rằng Thiên Chúa bất công, thiên vị, cho người ngoài chứ không cho con cái trong nhà!
Ở vùng đất Cần Giờ nhỏ bé nghèo nàn cũng thế! Vị linh mục đặc trách đã, đang bị “ném đá” vì ngài đã cứu đói người ngoại nhiều hơn là con cái trong nhà! Lẽ ra con cái trong nhà phải hiểu cho tấm lòng của vị mục tử khi quan tâm, chia sẻ cho “người ngoại” đàng này chia bè chia phái làm vơi đi cái lòng mến cha – con thuở ban đầu. Giờ này đây linh mục đặc trách khá đau đớn trước cách phân chia của mình. Ngài làm theo cách của Chúa Giêsu làm trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại.
Chúa Giêsu, thoạt đầu cũng nói thẳng với bà: “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Phải nói rằng Chúa Giêsu ví von nghe sao mà sốc quá! Người ta đến với mình, hạ mình xuống để xin mình chữa cho con của họ mà họ là phụ nữ nữa chứ! Cho không cho thì thôi, còn ví von này nọ, còn đem hình ảnh của những miếng bánh cho chó! Chúa Giêsu kỳ quá! Không! Chúa Giêsu không kỳ, Ngài dùng lời lẽ đó để thử lòng tinh của người phụ nữ “ngoại giáo” này! Thử thì thử nhưng lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này đã phá vỡ được sự “cứng cỏi” của Chúa Giêsu. Ta có thể nói rằng trong ván cờ này Chúa Giêsu thua 1-0. Thua 1-0 nhưng thật ra là thắng! Thắng vì lẽ Chúa Giêsu đã thu lợi được một con người, một lòng tin từ người “ngoại” này vào Thiên Chúa. Thua như thế cũng đáng thua chứ cũng chẳng mất mát gì. Không chỉ thua mà Chúa Giêsu còn minh chứng, còn công bố cho những người gặp gỡ Chúa hôm ấy rằng: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này được Chúa bù đắp một cách mỹ mãn.
Như trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe: Đây Thiên Chúa phán: “Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. “Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
Đức Chúa hứa với những người ngoại bang sẽ trở thành tôi tớ Chúa vì họ trung thành với giao ước và được Đức Chúa dẫn lên núi thánh. Còn chúng ta, chúng ta được gọi là “con nhà có đạo”, là quân “Giudêu”. Có đạo chục năm, vài chục năm, thậm chí bảy tám chục năm nhưng rồi lòng tin của chúng ta đang ở mức độ nào? Nó còn nồng thắm như cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy” khi mới theo Chúa hay không?
Phải nói rằng như người ta vẫn nói: “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Nhiều khi cứ đi lễ đi nhà thờ như một thói quen chứ niềm tin thì cứ nhạt dần nhạt dần. Người ta có thể cân đo đong đếm thóc lúa tiền nong chứ làm sao mà đo được lòng tin. Thế nhưng, dẫu không đo được lòng tin cao bao nhiêu? sâu baon nhiêu? rộng bao nhiêu? không cân được lòng tin của anh, của chị, của chúng ta được bao nhiêu ký nhưng qua lối sống, qua hành vi, tương quan của mỗi kitô hữu với những người xung quanh có thể biết được người ấy tin Chúa ở mức nào, sống kết hợp với Chúa như thế nào?
Đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống kitô hữu nhưng sau khi suy gẫm, sau khi cầu nguyện ta diễn tả niềm tin vào Chúa như thế nào chứ đâu phải cứ ngày ngày, giờ giờ ngồi bên Chúa là hay đâu. Có những người chăm chăm chú chú, ngày ngày giờ giờ cầu nguyện nhưng sau khi cầu nguyện xong trở lại đời sống bình thường thì cư xử khó có ai đón nhận được?
Chẳng nói đâu xa, trong giới “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cũng thế thôi. Cũng mang trong mình cái áo của “luật sĩ và biệt phái” đấy nhưng cách cư xử chẳng ra làm sao cả. Chính “luật sĩ và biệt phái” không sống lòng tin chân chính vào Chúa, không diễn tả lòng tin thật của mình vào Chúa mà chỉ sống cái hình thức bên ngoài thì làm gì mà đòi hỏi giáo dân sống niềm tin tinh tuyền.
Hình ảnh người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay là cơ hội để chúng ta xét lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Từ “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cho đến giáo dân xét xem mình còn tin Chúa hay không? Nếu còn tin Chúa thì chắc chắc Chúa sẽ ban ơn lành cho chúng ta. Thiên Chúa bao dung, Thiên Chúa quãng đại, Thiên Chúa hào phóng nhiều hơn là chúng ta tưởng.
Chúng ta – quân “Giudêu” – có dám tin vào Chúa như người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay không? Nếu chúng ta tin thật vào Chúa như “người ngoại” thì bảo đảm Chúa cũng phải mềm lòng với những kẻ cứng đầu cứng cổ, chầy cối van xin Chúa như người ngoại đạo hôm nay trong Tin mừng.
.
CÁC PHẨM CHẤT CỦA MỘT ĐỨC TIN MẠNH
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 15,21-28
(21) Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đon. (22) thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !”. (23) Nhưng Người không đáp lại một lời. Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !”. (24) Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi”. (25) Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (26) người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. (27) Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. (28) Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
- Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU CHỮA CON GÁI NGỪƠI ĐÀN BÀ XỨ CA-NA-AN:
Khi nghe người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an kêu xin giúp con gái của bà đang bị quỷ ám, Đức Giê-su im lặng và khi môn đệ cầu bầu cho bà thì Người giải thích lý do là “chỉ được sai đến với chiên lạc nhà It-ra-en mà thôi”. Tuy nhiên các lời bà đối đáp đã chứng tỏ bà có một đức tin mạnh mẽ, nên cuối cùng bà đã được Đức Giê-su khen là có đức tin mạnh và đã ban cho bà được như ý.
- CHÚ THÍCH:
– C 21-22: + Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đon: Tia va Xi-đon là hai thành phố của dân ngoại. Khi âm thầm lui về miền đất ngoại giáo này (x. Mc 7,24), có lẽ Đức Giê-su muốn tránh sự dòm ngó của nhóm Pha-ri-sêu, cũng như tránh sự nồng nhiệt của quần chúng muốn tôn Người lên làm vua sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,15). Ngoài ra, điều này còn tiên báo: Vì dân Do thái đã từ chối ơn cứu độ ưu tiên cho họ, nên dân ngoại sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ ấy. + “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”: Sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết và tuyên xưng Đức Giê-su bằng danh hiệu Con Vua Đa-vít là do bà đã ra khỏi miền đất dân ngoại và được nghe nhiều người Do Thái truyền đạt đức tin về Đức Giê-su (x. Mc 3,8).
– C 23-24: + Nhưng Người không đáp lại một lời: Khi không đáp lại lời cầu xin của người đàn bà này, Đức Giê-su muốn thử để biết về tình trạng đức tin của bà, và thêm lòng tin cho bà. + Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !: Các môn đệ muốn Đức Giê-su thỏa mãn lời cầu xin để khỏi tiếp tục bị quấy rầy. Còn Đức Giê-su lại muốn chứng tỏ Người ban ơn cho ai là còn tùy vào lòng tin yêu của họ. Ở đây không những Người ban cho con gái bà khỏi bị quỷ ám, mà còn ban cho chính bà đức tin vào Người là điều kiện để bà được hưởng ơn cứu độ. + Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi: Sinh thời, Đức Giê-su chỉ rao giảng cho người Do Thái, là những người được thừa kế các lời hứa cho họ là con cái Thiên Chúa (x Rm 9,5; 15,8). Do đó, khi sai các môn đệ đi giảng đạo, Đức Giê-su cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ dân Ít-ra-en (x. Mt 10,5-6). Nhưng rồi thực tế cho thấy: dân Do Thái đã từ chối ơn ấy, nên cuối cùng họ đã bị mất quyền ưu tiên vào Nước Trời (x. Cv 18,17).
– C 25-26: + “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”: Người đàn bà tỏ ra kiên trì trong lời cầu xin: xin một lần chưa được, bà xin hai, rồi ba lần. Khi cầu xin mà chưa được nhận lời, bà vẫn bền đỗ chứ không nản lòng bỏ cuộc (x Lc 18,1). + “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”: Không nên lấy Nước Trời được hứa ban cho con cái trong nhà là dân It-ra-en, để đem cho người ngoài là dân ngoại, là dân bị người Do thái khinh khi như loài vật. Từ chó con ở đây là để làm dịu bớt sự khinh miệt theo quan điểm của dân Do thái.
– C 27-28: + Chó con: là con vật nuôi trong nhà và được mọi người cưng chiều. + Cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống: Câu nói của người đàn bà cho thấy bà có lòng khiêm tốn. Bà công nhận dân Do thái có quyền ưu tiên hơn dân ngoại trong chương trình cứu độ. Điều này cho thấy đức tin của bà thật vững mạnh. + Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy: Khi thấy người đàn bà có lòng khiêm hạ và phó thác cậy trông là biểu hiệu của một đức tin chân chính, Đức Giê-su đã khen đức tin của bà mạnh mẽ và đã ban cho bà được như ý là cho con gái bà được khỏi bệnh quỷ ám.
- CÂU HỎI:
1) Người đàn bà ngoại giáo kêu xin Đức Giê-su bằng danh hiệu nào ? Tại sao bà ta biết được danh hiệu ấy ? 2) Tại sao Đức Giê-su làm ngơ như không biết không nghe lời kêu xin khẩn thiết của người đàn bà này ? 3) Các môn đệ yêu cầu Đức Giê-su thuận theo ý người đàn bà nhằm mục đích gì ? 4) Đức Giê-su cho môn đệ biết sứ mệnh của Người là gì ? 5) Tại sao Đức Giê-su khen đức tin của người đàn bà ngoại giáo và cuối cùng đã ban theo ý bà xin ?
HỎI: TẠI SAO CHÚA IM LẶNG TRƯỚC NHỮNG LỜI CẦU XIN CỦA CHÚNG TA ?
ĐÁP: Khi ta cầu xin mà Chúa vẫn im lặng không nhậm lời thường do mấy nguyên nhân chính như sau:
+ Có thể Chúa đang thử thách để xem đức tin của ta mạnh hay yếu ? Trưởng thành hay ấu trĩ ? Ta cần noi gương người đàn bà xứ Ca-na-an ngoại giáo trong Tin Mừng hôm nay: Một là : phải kiên trì và không ngã lòng cậy trông: Xin một lần chưa được, hãy xin thêm nhiều lần nữa. Hai là cầu xin với lòng xác tín chắc chắn Chúa sẽ ban sự tốt lành cho ta, như Đức Giê-su phán: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
+ Có thể lời cầu xin của ta chỉ mang tính cá nhân. Ta hãy xin cộng đoàn hợp ý cầu nguyện thêm cho ta như lời Đức Giê-su: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18,19). Ta cũng cần xin các thánh trên trời và các linh hồn trong chốn luyện hình cầu bầu cùng Chúa cho ta, theo tín điều “Các Thánh Cùng Thông Công”.
+ Có thể lời cầu xin của ta chưa khiêm tốn đủ: Do ta phô trương lòng đạo đức để tìm tiếng khen nơi người đời (x. Mt 6,5-6). Có thể do ta đòi Chúa phải ban ơn theo ý riêng của ta, thay vì ta phải “xin vâng” theo ý Thiên chúa như lời cầu của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu: “Ba ơi ! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Có thể lời cầu xin của ta còn thiếu hy sinh: Muốn cho lời cầu xin được chấp nhận, ta phải có lễ vật kèm theo là các việc lành như xưng tội rước lễ, hy sinh hãm mình, lòng tha thứ sẵn sàng làm hòa với tha nhân như lời Đức Giê-su: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
+ Có thể ta xin những điều có hại cho phần rỗi mà ta không biết: Đừng đòi Chúa phải ban theo ý mình, nhưng hãy tin cậy vào lượng từ bi của Chúa, Đấng hằng muốn ban ơn cứu độ cho ta như Đức Giê-su: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những thứ tốt lành. Phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin người” (Mt 7,7-11; Lc 11,13).
+ Có thể do ta cầu nguyện với lòng ích kỷ: Do ta chỉ xin những điều có lợi cho mình mà hại cho người, như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã cùng mẹ đến xin Đức Giê-su cho được ngồi hai bên tả hữu của Thầy trong Nước Thầy sắp thiết lập (x. Mt 20-21); hoặc có thể ta đã xin Chúa thực hiện những điều sai trái như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an xin Thầy sai lửa trời xuống thiêu hủy làng Sa-ma-ri vì họ dám từ chối đón tiếp Thầy trò vào ở trọ (x. Lc 9,53-54)… nên những lời cầu xin ấy đã không đựơc Chúa chấp nhận (x. Mt 20,23; Lc 9,55).
+ Có thể ta đã chú trọng xin ơn vật chất thể xác liên quan đến tha nhân: Có lợi cho ta nhưng lại bất lợi cho người khác. Chẳng hạn xin Chúa cho ta buôn bán thuốc đắt hàng, đang khi những bệnh nhân lại xin Chúa ban sớm khỏi bệnh để khỏi tốn tiền mua thuốc. Tốt nhất ta nên xin những ơn tinh thần như kinh Lạy Cha: xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, xin tha tội nợ, xin chớ để phải sa chước cám dỗ. Về phần xác chỉ xin cho hôm nay lương thực hằng ngày (x. Mt 6,9-14).
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Một người đàn bà Ca-na-an kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”… “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi !” (Mt 15, 22a.25b). Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28a).
- CÂU CHUYỆN:
1) TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI NHAU:
Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu chuyện về một bà lão kia. Bà cảm thấy đức tin của bà bị suy thoái theo với sự suy yếu sức khoẻ về thể xác. Ngày nọ bà đến gặp một vị linh mục già tên là DỐT-SI-MA (Zossima). bà đã tâm sự về tình trạng đức tin của bà như sau: “Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không biết Người có quan tâm đến hết mọi loài do Người dựng nên, trong đó có con hay không ? Sau khi chết rồi con sẽ đi đâu ? Ngoài thế giới đời này còn có đời sau không ?…” Vị linh mục già chăm chú nghe bà nói và cuối cùng ông đã trả lời rằng: “thực ra chẳng có cách nào chứng minh cụ thể về những điều mà bà đang hoài nghi kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp dụng một phương pháp giúp bà luôn vững tin vào những chân lý ấy”. Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng cách nào vậy ?” Vị linh mục liền đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy yêu thương người khác cách thành thật. Càng yêu thương người khác bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin của bà càng lớn lên, và các sự ngờ vực kia cũng tự nhiên tan biến hết. Đấy là một phương pháp đã được nhiều người áp dụng và tất cả đều chứng thực là rất hữu hiệu để củng cố đức tin”.
2) TƯƠNG QUAN GIỮA HIỂU BIẾT VÀ ĐỨC TIN:
Một luật sư luôn tự hào về kiến thức uyên bác của mình. Một hôm ông huênh hoang tuyên bố trước mặt đám đông như sau : Chúng ta có trí khôn có thể hiểu biết suy luận, nên chúng ta chỉ nên tin vào những điều mắt thấy và trí khôn hiểu được mà thôi”.
Trong đám đông có một em nhỏ thông thạo về giáo lý giơ tay xin phát biểu:
– Thưa luật sư. Vậy là ông sẽ không tin những điều chưa thấy và chưa hiểu phải không ạ ?
– Đúng thật như vậy.
– Vậy xin ông nói cho cháu biết : ông có thể cử động được các ngón tay của ông không và tại sao ông lại cử động được chúng ?
– Ta có thể cử động được các ngón tay của ta vì ta trông thấy nó, hiểu biết sự vận hành của nó và ta ra lệnh cho các ngón tay ấy cử động theo ý ta. Thế thôi.
– Vậy ông có thể cử động được đôi tai không, dù ông nhìn thấy, hiểu biết sự vận hành của nó và ông cũng ra lệnh cho nó cử động ?
Ông luật sư bí không thể trả lời được câu hỏi ấy liền nói :
– Thằng nhỏ ngu ngốc này lại đòi tranh cãi với ta hay sao ?
Nghe vậy mọi người đều cười lên thích thú.
(Viết theo “Tìm hiểu ít thắc mắc” của Trần công Hoán).
3) VÌ BỐ EM CHÍNH LÀ THUYỀN TRƯỞNG ĐANG CẦM LÁI CON TÀU NÀY :
Ông Byron, một thi sĩ Anh, có viết một câu truyện như sau :
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển bao la. Phía chân trời xa, một luồng mây đen nổi lên. Bầu trời quang đãng chẳng mấy chốc đã bị mây đen phủ kín, rồi một cơn giống tố ầm ầm kéo tới, sấm chớp nổ vang ầm ầm. Mưa mỗi lúc một lớn, gió rít ngày càng mạnh hơn. Các hành khách trên tàu đều bị hoảng loạn kêu la thất thanh. Duy chỉ có một đứa trẻ 8 tuổi cứ tiếp tục ngồi chơi trên ban công, bình tĩnh nhìn con tầu đang chòng chành nghiêng ngửa giữa muôn sóng to gió lớn như không có việc gì xẩy ra chung quanh.
Thấy lạ ! Một anh thủy thủ đến bên em và hỏi : “Này em bé kia. Em không sợ chết sao ?”
Em bé liền trả lời rằng: “Mà tại sao em lại phải sợ, khi chính ba em là thuyền trưởng cừ khôi nhất đang cầm lái của con tầu này mà !”
Ước chi mỗi tín hữu chúng ta đều có thể trả lời được như em bé nói trên, khi chúng ta gặp phải các cơn thử thách gian nan trong cuộc sống. Chúng ta sẽ luôn an tâm vui sống dù đang gặp nhiều tai ương tật bệnh : “Phúc bất trùng lai. Họa vô đơn chí !”… Vì tin rằng chính Thiên Chúa là Cha chúng ta luôn quan phòng gìn giữ chúng ta khỏi mọi nguy hại, che chở chúng ta trong vòng tay yêu thương của Ngài, như Đức Giê-su sđã dạy về tình thương của Chúa Cha: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11).
4) ĐỨC TIN ĐƯỢC TÔI LUYỆN NHỜ THỬ THÁCH GIAN NAN:
Thánh nữ Mo-ni-ca luôn khóc lóc, ăn chay và hãm mình để cầu xin cho đứa con hoang đàng của bà là Au-gút-ti-nô được ơn sám hối. Bà là một người phụ nữ bất hạnh vì có ông chồng khô khan, và đứa con trai ăn chơi trác táng. Đã có lần đức tin của bà bị lung lay và bà muốn thôi không cầu xin nữa. Nhưng bà dã được giám mục Am-brô-si-ô khuyên như sau: “Bà hãy yên tâm, đứa con của bao giọt nước mắt sẽ không thể bị hư mất”.
Thực vậy, nhờ niềm tin của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi số phận của người con bà: Au-gút-ti-nô về sau đã từ bỏ con đường tội lỗi để sống tốt lành thánh thiện, đã từ bỏ công danh sự nghiệp trần thế để tận hiến cuộc đời phụng sự Thiên Chúa. Đã không còn đi tìm thú vui thể xác bèo bọt để đi tìm kiếm hạnh phúc tồn tại muôn đời là Nước Trời đời sau.
5) THIÊN CHÚA KHÔNG THIÊN VỊ NHƯNG BAN ƠN CỨU ĐỘ CHO HẾT MỌI NGƯỜI:
Ngày nọ, Chúa Giê-su cải trang đến thăm một hội chợ Tôn giáo. Ngài thấy những người đứng đầu các gian hàng đều tỏ thái độ hung hãn và huênh hoang tuyên truyền về Tôn giáo của mình.
Tại quầy hàng của Do thái giáo, người chủ quầy nói : “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất quyền năng, công minh và chỉ có dân tộc Do thái mới được Ngài tuyển chọn làm dân riêng. Ngoài dân Do thái ra, không có dân tộc nào khác được Đức Chúa ban ơn cứu độ”.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, người bán hàng rêu rao : “Vạn tuế Thánh A-la vĩ đại và đầy quyền năng và vạn tuế Mô-ha-mét. Người ta chỉ được cứu độ nếu vâng lời Tiên tri Mô-ha-mét là vị Tiên tri tối cao và duy nhất của Thánh A-la”.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, thì trưng một biểu ngữ : “Thiên Chúa là Tình Yêu và không có ơn cứu độ nào bên ngoài Giáo hội. Người ta phải nhập vào Giáo hội mới được cứu độ”.
Trên đường ra về, một bạn đồng hành hỏi Đức Giê-su : “Ngài đánh giá thế nào về những điều người ta nói trong Hội chợ Tôn Giáo vừa qua ?” Người trả lời : “Ta không chủ trương tổ chức Hội Chợ Tôn giáo này, và ta cảm thấy vô cùng xấu hổ vì đã lỡ đến thăm viếng nó !!!”
6) THẾ NÀO LÀ MỘT ĐỨC TIN PHÓ THÁC:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm nọ, một đám cháy đã bùng lên từ nhà bếp của một căn nhà. Bấy giờ ông bố bà mẹ đã bế mấy đứa con trong nhà ra sân và buồn bã đứng nhìn ngôi nhà đang cháy rất to, chứng kiến căn nhà là kết quả của bao năm ăn tằn hà tiện giờ đang bốc cháy. Bất chợt bà mẹ phát hiện ra còn thiếu thằng con trai út năm tuổi nằm ngủ ở tầng trên. Đứa bé này nghe tiếng báo cháy và khói bốc vào phòng đã thức giấc và chạy ra khỏi phòng về phía cầu thang xuống nhà. Nhưng khói lửa lại đang từ cầu thang bốc lên khiến em không thể xuống dưới nhà với gia đình, em đành đứng khóc ngoài ban công lầu một. Cha mẹ em hiểu rằng không thể liều mình vào trong nhà đang bốc cháy như một lò lửa rất lớn. Bấy giờ cha mẹ em thấy con đang đứng khóc bên ngoài ban-công. Nhìn thấy con, ông bố đứng dưới sân hét to: “Con mau nhảy xuống đi”. Đứa bé nhìn đâu cũng chỉ thấy khóí lửa mịt mù và đang bị ho vì hít phải khói độc. Em nghe thấy tiếng nói của bố liền đáp: “Bố ơi, con không nhìn thấy bố”. Ông bố lại quát lớn: “Bố đứng dưới này nhìn thấy con rất rõ. Con hãy nhảy xuống đi có bố đỡ”. Khi thấy lửa sắp cháy tới nơi, em bé liền vâng lời nhảy xuống đất và đã nằm an toàn trong vòng tay của bố, vì ông đang đứng chờ đón nó ngay ở phía dưới.
Đứa bé trong câu chuyện trên chính là hình ảnh của các tín hữu chúng ta hôm nay. Trong cơn cùng khốn, chúng ta được nghe tiếng Chúa phán : “Anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Chắc đã có lần chúng ta thưa : “Chúa ơi, con chẳng nhìn thấy Chúa đâu cả”, và chúng ta tưởng Chúa đã bỏ rơi mình rồi, mà không biết rằng Chúa luôn ở bên chúng ta và sẵn sàng dang tay cứu giúp chúng ta, như Người đã từng nói với các môn đệ : “Cứ yên tâm. Chính Thầy đây. Đừng sợ !” (Mc 6,50).
7) TÔI MUỐN CHO CON TÔI ĐƯỢC SỐNG:
Câu truyện này xẩy ra vào tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất đã xẩy ra ở Armenia thuộc Liên xô cũ đã giết chết hàng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Su-zan-na. Hai mẹ con đã may mắn nằm lọt trong một khoảng trống nhỏ khi cơn động đất làm sụp đổ ngôi nhà đang ở. Tất cả lương thực hai mẹ con có lúc này chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng đã hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi liền nói : ”Mẹ ơi, con khát quá”. Bà Su-zan-na không biết phải tìm đâu ra nước cho con uống. Rồi tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo : bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay của mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta đào bới tới nơi và cứu thoát được hai mẹ con. Khi được hỏi lý do tại sao bà làm điều nguy hiểm như thế, bà mẹ đã trả lời như sau : ”Lúc đó tôi nghĩ chắc mình sắp chết, nhưng tôi lại muốn cho con tôi được sống”.
- SUY NIỆM:
Một người đàn bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con gái bị quỷ ám đã đi tìm Đức Giê-su để xin Người chữa cho con gái bà được lành bệnh. Nhờ đức tin mạnh mà bà đã được Người ban như ý. Vậy để lời cầu xin của chúng ta xứng đáng được Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải tin cậy cầu nguyện như thế nào ?
1) CẦN CẦU NGUYỆN VỚI MỘT ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH: Người đàn bà này đã kêu to lên để xin Đức Giê-su thương cứu con gái bà đang bị quỷ ám. Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !” Nhưng Đức Giê-su im lặng không đáp lại một lời ! (22-23). Thực ra không phải Người thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ đau của người khác. Nhưng Người muốn thử thách để xem đức tin của bà ra sao ? Nếu bà không xin nữa thì đức tin nơi bà chỉ là thứ đức tin vụ lợi: “Tin Chúa để được ơn theo ý riêng mình” như người ta thường nói: “Theo đạo lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ !”… Ngày nay nhiều lần người tín hữu chúng ta cũng cầu xin và cũng gặp phải sự im lặng của Chúa như thế. Khi ấy, có người sẽ biểu lộ sự hồ nghi qua lời than trách: “Thiên Chúa có hiện hữu hay không ? Ngài có nghe thấy lời cầu xin của con không ? Có nhìn thấy những khó khăn của con và ra tay cứu giúp không ?”.
2) CẦN MỘT ĐỨC CẬY VỮNG VÀNG: Người đàn bà Ca-na-an trong Tin Mừng hôm nay đã không ngã lòng trông cậy, dù bị Đức Giê-su im lặng như đang giả điếc làm ngơ. Bà luôn vững tâm và kiên trì nhiều lần kêu xin Người thương cứu giúp: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (23b-25) Cuối cùng bà đã được như ý. Nhiều tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không được nhậm lời ngay, đã vội chán nản ngã lòng trông cậy, thôi không cầu nguyện nữa và “hữu sự vái tứ phương”: chạy đến với thầy bói, thầy bùa ngải hay làm những điều mê tín dị đoan khác…
3) CẦN MỘT ĐỨC MẾN KHIÊM TỐN: Nghe Đức Giê-su trả lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa: “Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà vì thương con sẵn sàng chịu đựng những lời nói miệt thị của dân Do Thái, vì họ luôn coi dân ngoại như loài chó hạ cấp. Chính sự khiêm tốn của bà đã khiến bà được Chúa Giê-su yêu mến khen ngợi và ban cho bà được như ý.
Như vậy, tin không phải là đòi Chúa luôn phải ban ơn theo ý riêng mình, nhưng do lòng yêu mến thôi thúc, chúng ta hãy nêu ra ý cầu nguyện cho mình và tha nhân, phó thác để Chúa toàn quyền quyết định ban hay không ban, và ban như thế nào, rồi sẵn sàng xin vâng ý Chúa, vì biết rằng mọi sự xảy ra đều tốt và hữu ích cho phần rỗi đời đời của ta.
4) TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỨC MẾN VÀ ĐỨC TIN:
– Một điều hiển nhiên mà ta có thể khẳng định, đó là tình yêu thương của người đàn bà ngoại giáo dành cho con thật dạt dào. Vì thương con, chị ta đã kiên trì đi theo kêu xin Đức Giê-su. Cũng vì thương con, chị đã vượt qua sự tự ái, đồng thời bày tỏ lòng tin khiêm nhu: “Vâng, thưa Ngài, dẫu sao, chó con cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống” (Mt 15,27).
– Như vậy: tin phát sinh từ con tim hơn là từ khối óc. Quả thật. lịch sủ Hội Thánh minh chứng rằng nhiều người đã có đức tin do cảm nhận một tình thương, do nhận được một nghĩa cử cao đẹp của một ai đó hơn là vì biết giáo lý. Xét theo chiều ngược lại, khi niềm tin của một tín hữu bị ngả nghiêng, chao đảo hay khô khan nguội lạnh, thường là do đời sống luân lý bị sa sút hơn là do sự thiếu hiểu biết đức tin. Nói như vậy không có nghĩa loại trừ hay giảm nhẹ vai trò quan trọng của lý trí trong việc tìm hiểu giáo lý, gìn giữ và củng cố đức tin của mình.
– Trong thời gian rao giảng tin mừng Nước Trời, Đức Giê-su cũng luôn biểu lộ tình thương của Người qua việc thi ân giáng phúc trước, rồi mới mời gọi người ta tin theo Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn no, cũng như chữa lành người mù từ thuở mới sinh… là một minh chứng ( Ga 6,35; 9,35 ). Là những người đã có đức tin, ước gì chúng ta biết củng cố niềm tin bằng những hành động bác ái yêu thương, như lời thánh Gia-cô-bê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17 ). Việc làm nói đây chính là các việc bác ái yêu thương, khiêm nhường phục vụ những kẻ nghèo hèn bệnh tật và đau khổ.
Có nhiều cách thế để thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, tuy nhiên phương cách thiết thực và hữu hiệu nhất, là quảng đại chia sẻ tinh thần vật chất cho người nghèo, bệnh tật và bất hạnh… Việc bác ái phát xuất từ một tấm lòng yêu thương chân thật của chúng ta sẽ có sức thuyết phục rất lớn như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5 16).
- THẢO LUẬN:
1) Khi gặp tai ương họan nạn, bạn thường cầu xin với Thiên Chúa, với Chúa Giê-su hay với Đức Mẹ và các thánh làm phép lạ ? 2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su dạy có những đặc điểm nào ? 3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng đến lúc đi ngủ ban đêm ?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA CHA NHÂN ÁI. Con xin cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên như: khí trời con thở, cơm bánh con ăn, áo quần con mặc, đồ dùng con sử dụng… Thế mà con lại đau khổ khi không được Cha ban theo điều con xin, hay những khi Cha để con gặp phải những sự rủi ro trái ý. Con đã quên rằng đời con luôn được Cha bao bọc bằng muôn ngàn hồng ân lớn lao cả hồn lẫn xác.
– LẠY CHA. Con xin cảm tạ Cha vì những gì Cha đã không ban, vì con tin chắc rằng Cha biết điều ấy có hại cho phần rỗi đời đời của con, hoặc vì Cha muốn ban nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương quan phòng chở che của Cha giống như “gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh”. Nhờ đó khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi đuợc may lành như ý cũng như khi bị những điều trái ý cực lòng… Xin cho con luôn biết cậy trông và phó thác trọn vẹn nơi tình thương quan phòng của Cha.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Một buổi sáng sớm khi tôi đang tưới vườn hoa bên cạnh, thình lình một chiếc xe chạy tới và dừng lại. Cửa xe mở ra và một người phụ nữ lạ, không phải giáo dân xuống xe với một khuôn mặt thật buồn và nói với tôi: “Thưa linh mục! Xin cứu gia đình con với.” Tôi mời chị vào văn phòng và đưa cho chị một chai nước. Đón lấy chai nước, chị vội vàng nói với giọng tha thiết: “Thưa linh mục, xin ngài cứu gia đình con với, xin cứu người chồng đáng thương của con. Anh ấy ngã bệnh đã hai năm nay, con đã cố gắng hết sức chữa trị. Nhưng cho đến nay, bệnh tình chẳng đỡ chút nào, còn gia đình con thì lại rơi vào cảnh thật khó khăn. Con không thể đi làm được vì phải săn sóc chồng và bận rộn với 2 đứa con nhỏ.” “Vậy chị muốn tôi giúp gì cho chị, chị cứ nói. Trong khả năng của tôi, tôi sẵn sàng giúp chị” Tôi nói với chị. Xúc động và trong tiếng nghẹn ngào chị thưa lại: “Thưa linh mục, gia đình con không có đạo, tuy chúng con không biết gì về Chúa, cũng chẳng quen biết linh mục, nhưng nhờ những người bạn Công giáo làm cùng tiệm giới thiệu, cho nên con mạnh dạn đến đây để nhờ linh mục cầu nguyện cho chồng con qua khỏi cơn nguy biến này.” Tôi hỏi chị: “Chị không có đạo vậy chị có tin vào lời cầu nguyện không?” Chị đáp: “Thưa linh mục, giờ con biết làm gì hơn ngoài điều này, vả lại có tin con mới đến đây để cậy nhờ linh mục.” “Thế thì chị hãy an tâm, tôi hứa sẽ cầu nguyện và chiều nay, tôi sẽ dâng Thánh lễ cầu nguyện cho chồng và gia đình của chị.” Cảm động chị cám ơn và lên xe về. Khoảng mấy tháng sau, người phụ nữ ấy trở lại với người chồng và con để cám ơn, và cũng từ đó bắt đầu cho hành trình niềm tin của hai vợ chồng và gia đình.
Ông bà anh chị em thân mến. Tôi nghĩ câu chuyện trên đây diễn tả phần nào ý nghĩa của bài Tin mừng hôm nay: niềm tin của người đàn bà xứ Ca-na-an ngoại đạo vào Chúa Giê-su, một người Do thái, và quyền năng của Người. Trong lúc tuyệt vọng vì đứa con gái bị quỉ ám khốn cực, người đàn bà đã tìm đến với Chúa Giêsu và tin rằng cơ may đã đến, con bà có hy vọng khỏi bệnh, vì vậy bà thành khẩn thưa với Chúa: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít. Xin thương xót tôi!” Dù chỉ nghe nói về Chúa qua những người chung quanh, nhưng bà đã có một niềm tin mạnh mẽ vào Chúa, và chúng ta thấy Chúa đã khen bà có lòng tin lớn lao. Khi nghe bài Tin mừng chúng ta biết rõ điều này.
Và cũng qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kêu mời chúng ta hãy có một lòng xác tín vào Người. Hãy có một niềm tin to lớn và mạnh mẽ như người phụ nữ Ca-na-an. Chúng ta tự hỏi: lòng xác tín hay một niềm tin mạnh mẽ và vững chắc giúp chúng ta điều gì? Tôi xin chia sẻ 3 điều sau đây.
Thứ nhất lòng xác tín vào Chúa giúp chúng ta kiên trì khi bị thử thách hay đối diện với gian nan, khó khăn. Chúng ta thấy người đàn bà không ngã lòng, nản chí trước sự thinh lặng lạnh lùng đến độ như vô cảm của Chúa. Bà đến với Chúa với một niềm lo lắng của một người mẹ trước sự khốn cực của đứa con. Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau khổ của một người mẹ, đang đau buồn vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giê-su không đáp lại một lời. Phải chăng Người lạnh lùng trước sự đau khổ, lãnh đạm trước điều Người có thể làm được?
Ông bà anh chị em thân mến. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế, và chúng ta tự hỏi: Chúa có nghe lời cầu nguyện của chúng ta không? Chúa có thấy được nỗi đau khổ của chúng ta không? Bị thất bại nhưng chúng ta thấy người đàn bà cứ kêu hoài, kêu mãi rồi bà gặp mặt và nài xin Người, nhưng kết quả là một lời từ chối mặc dầu đã có thêm lời hỗ trợ của các môn đệ: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi.” Chúng ta thấy vẫn chưa chịu thua, bà đến sụp lạy trước chân Chúa để nài xin. Lần này bà không những bị từ chối mà còn nhận sự sỉ nhục: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.” Chúng ta hỏi: bà có bị sốc không? Tự ái của bà có bị tổn thương không? Nếu vào trường hợp của chúng ta chúng ta có thể chịu đựng, có thể kiên nhẫn được không? Nhưng chúng ta thấy bà đã không bị sốc, không tự ái và cũng chẳng thất vọng trước lời từ chối và sỉ nhục này.
Điểm thứ hai mà tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em là lòng xác tín hay niềm tin mạnh mẽ và vững chắc là lòng tin khiêm tốn. Chúng ta thấy người đàn bà chấp nhận sự so sánh xem ra có vẻ “khiêu khích và khinh thường” của Chúa Giê-su. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con trong nhà, chỉ trông chờ những miếng bánh vụn từ bàn rơi xuống. Bà không dám mong được phần ăn của các con. Chúng ta có thể nhận ra sức mạnh và kết quả của lòng tin phát xuất từ sự khiêm tốn. Vì vậy chúng ta phải luôn ý thức khi cầu nguyện chúng ta không thể “bắt” Chúa phải làm theo ý của chúng ta, phải “thi hành” ngay lập tức ý chúng ta muốn. Tin không phải là đòi hỏi. Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón lấy như hồng ân nhưng không.
Điểm thứ ba mà tôi muốn chia sẻ là vì lòng tin mạnh mẽ, kiên trì và khiêm tốn, Chúa đã thay đổi sứ vụ của mình. Chúa Giê-su từ chối giúp người đàn bà dân ngoại vì Người thấy rõ sứ vụ Chúa Cha trao phó cho Người, đó là chỉ được sai đến với người Israel, dân riêng thôi. Nhưng qua lòng tin mạnh mẽ của người đàn bà, Chúa đã để cho trái tim của mình mở ra và bị chinh phục, chấp nhận thay đổi để nới rộng sứ vụ, ban phát hồng ân và tình yêu của mình cho muôn dân muôn người mọi thời đại.
Ước gì tất cả chúng ta có một niềm xác tín vào Chúa và quyền năng của Người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, nhất là những lúc chúng ta phải đối diện với những sự gian nan, khó khăn và thử thách. Biết tìm đến Chúa với lòng tin của người đàn bà xứ Ca-na-an. Xin Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta, nhất là biết vươn cánh tay, mở rộng con tim của chúng ta để chúng ta có lòng bác ái và quảng đại, chia sẻ hồng ân Chúa ban để làm sáng danh Chúa.
.