Chúa Nhật XX thường niên – năm A
Lời Chúa: Is 56,1,6-7; Rm 11,13-15.29-32; Mt 15,21-28
***************
1. Tình Mẹ Thật Bao La (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
2. Ơn Cứu Độ Được Ban Cho Mọi Người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, GP. Xuân Lộc)
3. Tình Yêu Thương (Lm. DĐH, GP. Xuân Lộc)
4. Thử Thách (Trầm Thiên Thu)
5. Đức Tin Cần Được Tôi Luyện Qua Thử Thách (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
6. Tình Mẹ Cao Quí (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Có một lời kêu cứu của người mẹ có con mắc bệnh hiểm nghèo được chia sẻ rất nhanh trên mạng. Riêng trên Facebook Jack Mummy có tới 16.000 lượt chia sẻ. Đằng sau lời kêu cứu này là câu chuyện số phận buồn của người phụ nữ khát khao làm mẹ đã 2 lần mất con.
Đó là chuyện đau lòng của Chị Hà Thị Quỳnh Nga (Đông Anh, Hà Nội) hạ sinh người con thứ 3 vào lúc 14h30 ngày 3/6 tại bệnh viện Bạch Mai. Nhưng niềm hạnh phúc mong manh bỗng nhiên sụp đổ khi sáng ngày hôm sau, bác sĩ chuẩn đoán bé trai Nguyễn Hà Hải Đăng bị nhiễm độc do nhóm máu hiếm ORh-.
Cùng ngày hôm đó, bác sĩ huy động người nhà truyền máu cho Hải Đăng nhưng không ai thuộc nhóm máu này. Gượng dậy sau nỗi đau mới mổ khi sinh, chị Nga vội vã lên mạng nhắn tin cho người em với những dòng vội vàng, nhờ chia sẻ lên Facebook: “Mình mới sinh con được một ngày, con thuộc nhóm Rh-, cần được truyền máu. Mình đang ở Bệnh viện Nhi Hà Nội, cầu xin mọi người giúp mẹ con mình. Mình mới mất 2 cháu rồi, đây là cơ hội làm mẹ còn lại duy nhất của mình. Xin mọi người giúp mẹ còn mình với, mọi người liên hệ số điện thoại….”. Chị gửi tin và hi vọng, cuộc sống luôn có phép nhiệm màu.
Nhờ thông tin lan nhanh trên mạng, một số người có cùng nhóm máu đã nhanh chóng đến viện hỗ trợ máu cho bé Hải Đăng. Hiện tại, nhờ sự giúp đỡ của cộng đồng Facebook, cháu Hải Đăng đã thay máu 3 lần, qua được cơn nguy kịch.
Quả là tình mẫu tử đã khiến chị Nga đầy khôn ngoan và kiên trì để cầu cứu cho đứa con. Dù mong manh. Dù tỉ lệ rất thấp nhưng nếu cứu được con chị sẵn lòng làm tất cả. Chị đã biết sử dụng thông tin hiện đại để viết lên lời kêu cứu của mình. Chị đã được toại nguyện. Tình mẫu tử cao sâu đã cứu con chị khỏi lưới hái tử thần.
Đó cũng là hình ảnh kiên cường của người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay. Bà đã mang con đi vái tứ phương nhưng vô vọng. Bệnh tật vẫn bám chặt đời con bà. Sự sống như đang dần trôi qua với con bà. Bà vẫn quyết chí dành giựt lại sự sống cho con bà. Bà đã khiêm tốn đến với Chúa, dù rằng bà là người ngoại đạo. Bà đã van xin Chúa, dù rằng lời van xin tưởng chừng như Chúa bỏ ngoài tai. Bà vẫn không ngã lòng. Bà vẫn níu kéo Chúa bằng những mẩu đối thoại thật khiêm tốn và kiên trì. Bà chỉ nhận mình là một thân phận thấp hèn nhưng vẫn ao ước được đón nhận hồng ân từ Chúa.
Chúa Giê-su đã chạnh lòng thương trước niềm tin không thay đổi của bà. Chúa đã thấy sự chân thành của bà. Chúa cũng thấy một tình mẫu tử thật cao cả của bà đã dám làm mọi sự vì đứa con. Niềm tin và sự can trường của bà đã được Chúa đền đáp bằng phép lạ tình thương của Ngài.
Con người chúng ta khi đứng trước khó khăn vẫn mong cầu phép lạ. Phép lạ là điều ai cũng mong đến với mình. Nhưng không mấy ai hiểu rằng: phép lạ chỉ đến sau những nỗ lực của con người. Phép lạ không bổng dưng đến với chúng ta như kiểu “ngồi chờ sung rụng”. Phép lạ đòi hỏi niềm tin bằng hành động của con người được biểu lộ một cách chân thành và khiêm tốn. Đó là điều tối cần thiết để Thiên Chúa có thể thi ân cho con người.
Thế mà vẫn còn đó những người mong được phép lạ chữa lành bệnh tật mà lại chẳng bao giờ bày tỏ lòng thành qua những giờ kinh, qua thánh lễ hay cầu nguyện riêng với Chúa hay Đức Mẹ. Vẫn còn đó những người muốn được phép lạ có cuộc sống sung túc, thế mà chẳng bao giờ chú tâm vào công việc. Vẫn còn đó những người muốn Chúa giúp vượt qua hoạn nạn nhưng chẳng bao giờ nỗ lực đứng lên để Chúa dìu bước.
Quyền năng Chúa vẫn bao trùm trên con người. Phép lạ của Chúa vẫn tiếp diễn trong cuộc sống hôm nay. Nhưng để đón nhận phép lạ của Chúa đòi hỏi con người nỗ lực vươn lên và bày tỏ lòng tín thác nơi Chúa. Như người phụ nữ trong Tin Mừng, bà chỉ có thể đón nhận phép lạ của Chúa sau bao nhiêu những nỗ lực phấn đấu cùng với niềm tin trung kiên.
Cuộc sống luôn có những khó khăn, xin cho chúng ta biết chạy đến với Chúa trong niềm tin phó thác. Ước gì chúng ta không bao giờ bỏ cuộc trước gian nguy nhưng luôn tin tưởng vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua. Amen.
ƠN CỨU ĐỘ ĐƯỢC BAN CHO MỌI NGƯỜI
Trong tập sách “Những mẩu bánh vụn” của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx.Nguyễn Văn Thuận, đã kể lại một câu chuyện : Một người bạn tù với Ngài là người ngoại giáo, nhưng ông ta rất cảm mến Đức Hồng Y. Ông ta được ra tù trước và sau này kể lại : Nhà ông ở gần Trung tâm Lavang, vì thế mỗi ngày, ông đều đến với Đức Mẹ Lavang để cầu nguyện cho Đức Hồng Y Thuận. Khi được hỏi : Ông là người ngoại, ông cầu nguyện thế nào ? Ông đáp : Tôi nói với Bà Ấy (Đức Mẹ) rằng : Thưa bà, tôi chưa biết Bà là ai, song tôi đến đây để cầu xin Bà thương đến một người bạn của tôi là ông Thuận còn ở trong tù, xin Bà thương cứu giúp ông ấy. Thế là không bao lâu sau, Đức Hồng Y Thuận cũng được ra tù và hai người gặp lại nhau trong sự xúc động.
Người ngoại có tin Chúa và có cầu nguyện không ? Trong thực tế, có nhiều người được gọi là ‘bên lương”, là dân ngoại, song họ lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, mặc dù họ chưa thực sự theo Chúa. Đối với những người dân ngoại này, chỉ cần một lòng tin đơn sơ chân thành, thì Thiên Chúa vẫn ghi nhận sự chân thành ấy và ban ơn trợ giúp cho họ. Nếu có dịp đến Lavang, Tàpao, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự thành tâm của những người ngoài Công Giáo. Họ đến đây với lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của Đức Mẹ. Họ thành tâm xin Chúa và Đức Mẹ che chở, chữa lành.
Có một suy nghĩ thường xảy ra nơi người Do Thái và nơi chúng ta hôm nay, đó là chúng ta thường đóng khung Thiên Chúa trong những người có đạo, cho mình là những người độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa và loại trừ người khác ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên Lời Chúa hôm nay cho thấy, Thiên Chúa không hề giới hạn tình yêu của Ngài. Bất cứ ai, dù là là dân ngoại hay Do Thái, nếu tin tưởng vào Thiên Chúa, thì đều được Ngài ra tay cứu độ. Tiên tri Isai đã loan báo về ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, không chỉ người Do Thái, mà người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa, phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cũng trở nên tôi tớ của Người. Những ai tuân giữ lề luật, thì cũng được lên núi thánh của Chúa… và Thiên Chúa sẽ ưng nhận lễ toàn thiêu của họ. Với lời này của Isai, quả thật đã phá đổ hoàn toàn suy nghĩ của người Do Thái, vì họ tự hào mình là dân riêng của Chúa, và ngược lại, Chúa là của riêng Israel mà thôi. Isai cho thấy, Thiên Chúa không hề bị giới hạn, hay nói đúng hơn, ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng không chỉ cho Israel, mà là cho tất cả nhân loại. Những ai tin và tuân giữ giới răn lề luật của Chúa thì trở thành dân của Chúa.
Câu chuyện Thánh Matthew thuật lại hôm nay khiến cho nhiều người thắc mắc : Chúa Giêsu đi về vùng Tia và Sidon, tức là vùng đất của dân ngoại, thì có một người đàn bà chạy đến và kêu lên : Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm. Với lời kêu cầu này, bà đã thể hiện lòng tin vào Đức Giêsu. Bà tin Đức Giêsu là Con vua Đavít, tức là Đấng cứu thế. Tuy nhiên Thánh Matthew cho thấy, Chúa Giêsu dường như dửng dưng trước lời kêu cầu này. Khi các môn đệ lên tiếng giùm bà, thì Chúa Giêsu còn trả lời : Thày chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel thôi. Đến khi bà ấy nài nỉ thì Chúa đã nói với bà : Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.
Có nhiều nhà chú giải đã cố gắng giải thích những lời lẽ xem ra từ chối nặng nề này của Chúa Giêsu. Chúng ta không đi sâu và những giải thích này, nhưng chúng ta nhìn vào đức tin và sự kiên nhẫn của người phụ nữ trong khi cầu xin. Người đàn bà này đang gặp đau khổ, đó là con bà đau bệnh gần chết. Trong lúc tuyệt vọng, bà chỉ còn biết chạy đến với Thày Giêsu, mà có lẽ bà đã từng nghe biết về Ngài. Tuy nhiên khi đến với Chúa Giêsu, bà dường như lại gặp một thử thách khác, đó là sự im lặng làm ngơ của Thiên Chúa trước lời cầu xin của bà. Người phụ nữ này vẫn không thất vọng, dù có lúc bà như bị Thiên Chúa không chỉ im lặng mà còn từ chối thẳng thừng lời cầu xin của bà. Thế nhưng, bà vẫn kiên trì trước câu trả lời của Chúa, bà thưa lại với Chúa : Thưa Ngài đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống. Với câu trả lời này, bà đã thể hiện lòng tin của bà nơi Chúa Giêsu dù trước đó bà đã bị từ chối.
Người phụ nữ Canaan không hề tự ái trước lời từ chối của Chúa. Trái lại, bà càng khiêm tốn hơn để “lý lẽ” với Chúa như thế, vì tin rằng con của bà chỉ có thể được chữa lành nhờ quyền năng “dư thừa” của Thày Giêsu. Bà còn nhận mình không xứng đáng được đồng bàn hoặc được chia sẻ tấm bánh ân phúc của Chúa, mà chỉ dám nhận mình là đám chó con, chờ đợi và cầu xin một chút ân lộc dư thừa từ bàn ăn của chủ rơi xuống, chứ cũng không dám mong được ông chủ ném cho một miếng bánh. Chúa Giêsu hết sức ngạc nhiên trước lý lẽ và lòng tin của bà và ngài đã không thể không đáp ứng lời cầu xin của bà : Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Có thể nói, Chúa Giêsu đã phải xiêu lòng và chịu thua trước đức tin mạnh mẽ của một người phụ nữ như thế.
Thánh Phaolô đã nhận ra sự kỳ diệu trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi dân ngoại được mời gọi chia sẻ niềm tin và thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho người Do Thái. Mặc dù dân Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn để thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời, thế nhưng dường như, họ đã coi thường ân phúc này. Họ đã từ chối ân huệ của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã dành ân huệ ấy cho dân ngoại và cho tất cả những ai có lòng tin. Phúc lành mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Do Thái qua các tổ phụ, giờ đây lại được ban cho dân ngoại. Theo Thánh Phaolô, những người Do Thái muốn được hưởng ân phúc này đòi phải có một điều kiện tiên quyết, đó là quay trở lại với thái độ vâng phục Thiên Chúa.
Thưa quý OBACE, cũng đã có một thời, vì tự mãn với ơn gọi làm con Thiên Chúa, được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Giáo Hội, chúng ta cũng rơi vào tình trạng cực đoan, loại trừ những người dân ngoại, khi tuyên bố rằng : Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi. Từ quan niệm này, nhiều người sống đạo không khác gì dân Do Thái, tức là giữ đạo thụ động, không cố gắng, không hoán cải. Nhiều người khác rơi vào tình trạng giữ đạo theo công thức, theo thói quen, thiếu chiều sâu của đức tin, không thực hành đạo, vì thế khi gặp khó khăn thử thách, họ thất vọng oán trách Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào đức tin của những người bị coi là dân ngoại, để biết tôn trọng đức tin chân thành của họ và còn để rà xét lại đời sống đạo và đức tin của mình. Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội và ân phúc, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi đó là những điều tự nhiên, may mắn, hơn là nhận ra tình yêu thương ban tặng của Chúa. Giống như người Do Thái, chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ của mình, từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không hoán cải đời sống, thì cũng sẽ có ngày người từ đông chí tây được mời vào dự tiệc nước Thiên Chúa, còn chúng ta bị loại ra ngoài.
Kế đến, hãy học nơi tấm gương tin tưởng kiên trì và khiêm tốn của người phụ nữ Canaan hôm nay : đừng bao giờ thất vọng trước sự im lặng của Thiên Chúa. Vì để tôi luyện, thử thách đức tin của chúng ta, đôi khi Chúa dường như im lặng hoặc từ chối lời kêu cầu của chúng ta ; nhưng nếu chúng ta cứ kiên trì, cứ nài xin, chắc chắn Chúa sẽ ra tay và cho chúng ta được như sự thỉnh cầu.
Người phụ nữ hôm nay quả là tấm gương cho các bậc làm cha mẹ. Nhiều người, nhiều gia đình đang rơi vào cảnh cùng quẫn, đau khổ vì vợ chồng đau yếu, con cái ngỗ nghịch hư hỏng ; nhiều người đã ngã lòng vì thấy lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời. Họ trách Thiên Chúa : Tôi đi lễ mỗi ngày, đã đi xin khấn ở nhiều nơi mà vẫn chẳng được… Nhiều người thì xin những người đạo đức, thánh thiện thêm lời kêu khấn cho mình. Đó là điều tốt, thế nhưng đừng quên chính bản thân cần phải hoán cải, cần lắng nghe để nhận ra tiếng nói và sự chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống. Hãy tin tưởng, kiên trì để thưa với Chúa : Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con và gia đình con. Chúa sẽ nghe lời chúng ta.
Nhiều người trẻ vì bị mê hoặc bởi khoa học công nghệ, bị mãnh lực của đồng tiền chiếm trọn cả thời giờ và ưu tư, khiến họ không còn chỗ cho Thiên Chúa. Họ đã để cho đức tin của mình bị mờ nhạt, èo uột khi rời xa gia đình hoặc khi lăn xả vào vòng quay của xã hội. Họ đánh mất thói quen cầu nguyện mỗi ngày, bỏ qua việc xưng tội rước lễ, xa rời với những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ. Những dấu hiệu ấy cho thấy một đức tin đang bị khô héo, mất sức sống. Chúng ta cùng cầu xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, đặc biệt cho những người đang lung lạc đức tin vì thử thách, và xin Chúa giúp chúng ta luôn tin tưởng, cậy trông nơi Chúa dù lúc vui hay lúc buồn, khi thành công hay thất bại. Chúng ta tin rằng, Thiên Chúa luôn ở bên và sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Amen.
.
Giầu sang phú quí ở đời là một vinh dự; tài giỏi, đức độ hơn người thường được kính trọng, nể phục; giầu tình yêu thương là người luôn có nhiều bạn bè và niềm an vui tâm hồn ! Ai cũng có tự do để chọn lựa cho mình một cách sống, một lối đi dễ dàng nhất mà đạt tới thành công hạnh phúc. Có người dùng quyền lực để chinh phục, lại có người dùng sự hiểu biết của mình để thu hút đám đông; Thiên Chúa lại muốn người tín hữu chúng ta hãy dùng tình yêu thương làm mục đích cho hạnh phúc đời đời.
Thiếu tiền của vật chất, thiếu tình yêu thương đều khổ, vì vậy mà xã hội mới có những câu nói : “điếc không sợ súng”, nghĩa là người lì, người liều, cũng do hoàn cảnh mà xuất hiện, thay vì “thời thế tạo anh hùng” ! Tài giỏi chưa chắc đã giúp được con cháu ấm no hạnh phúc, nhưng tình yêu thương luôn giúp cho con cái tự tin bước vào đời. Tình yêu thương của người phụ nữ Canaan đưa dẫn chúng ta đến một kết quả, “này bà, bà có lòng tin mạnh, bà muốn sao thì được vậy”.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một cảm nhận về kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Bài đọc I, ngôn sứ Isaia nhìn thấy trước ngày những dân ngoại sẽ gắn bó cùng Thiên Chúa, yêu mến Danh Người, được trở nên tôi tớ Chúa, lời của họ cầu xin và lễ vật họ dâng, sẽ được Thiên Chúa mừng vui chấp nhận. Trong thư Roma, thánh Phaolô làm cho mọi người sáng tỏ hơn kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Ngài đã chọn dân tộc Do Thái như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai tới. Lý do một số người Do Thái cứng lòng tin nơi Đức Kitô lại là dịp Tin Mừng được lan rộng đến dân ngoại; nhưng sau cùng, người Do Thái cũng sẽ trở lại và tin vào Đức Kitô để tất cả cùng được cứu độ.
Việc công khai của người phụ nữ Canaan tìm gặp Đức Giêsu là điều lạ lùng, thật đáng khinh bỉ đối với người Do Thái, nhưng có thể hiểu được do tình yêu thương của người mẹ đối với đứa con có bệnh “vái tứ phương”. Tình yêu thương của Đức Giêsu đối với người phụ nữ Canaan thật khó hiểu, Ngài làm thinh, Ngài chất vấn và buông lời nói quá nặng nề : “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” ! Nếu không đọc ra chương trình và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho muôn dân thiên hạ, cho người Do Thái trở lại, làm sao chúng ta có thể hiểu được Thiên Chúa là tình yêu.
Lòng mến và niềm tin luôn đi với nhau, tình yêu thương của người mẹ đối với con mình, người mẹ ấy đã cho thấy như thế nào là tin vào Thầy Giêsu quyền năng. Đức Giêsu đã cho muôn dân trên khắp địa cầu thấy “Ơn Cứu Độ” không chỉ giới hạn ở một dân tộc hay một quốc gia nào; tình yêu thương của Thiên Chúa là kế hoạch đã có từ đời đời. Tình yêu thương không sản sinh ra người “đạo gốc” hay “đạo theo”; nhưng tình yêu thương đã làm cho tự do của con người biết tín thác và tìm gặp Đức Kitô để có tất cả : niềm vui, hạnh phúc, và đời đời có Chúa.
Tình yêu thương là gì ? trắng hay đen, mùi thơm hay mùi khó chịu, nói dễ hay thực hành dễ, hẳn vẫn tùy vào mỗi người tự trả lời nơi cuộc sống. Ngày nay vẫn không ít người chủ trương “lấy độc trị độc”, lấy đau khổ túng thiếu để rèn luyện con cháu nên người hữu ích. Vitor Hugo bằng kinh nghiệm của mình ông nói : trí tuệ giầu lên nhờ biết cho đi, con tim giầu lên nhờ biết nhận vào. Trong ca dao Việt Nam, tình yêu thương của người mẹ được diễn tả thật cảm động : Mẹ nằm chỗ ướt canh sương, chỗ khô lót tiếng ru nhường con thơ. Tất cả chỉ có được, hiểu được khi cụm từ tình yêu thương giữa người cho và người nhận cùng khởi đi từ trái tim.
Người ta có thể sống thiếu anh chị em, nhưng chẳng ai có thể sống được mà không có bạn bè. Người ta thiếu tiền, thiếu tiện nghi vật chất vẫn sống được; nhưng gia đình, tâm hồn sẽ không thể tồn tại, bình an, nếu cuộc sống không còn tình yêu thương. Thánh Augustinô có chia sẻ một kinh nghiệm để đời : “nếu bạn hỏi tôi, đường nào đến với Thiên Chúa ? tôi sẽ trả lời đường thứ nhất là đường khiêm tốn, đường thứ hai là đường khiêm tốn, đường thứ ba là đường khiêm tốn. Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho đứa trẻ con người phụ nữ Canaan cũng phát xuất từ lời kêu xin thật khiêm tốn : Lạy Ngài là Con Vua Đavit, xin thương tôi : “con gái tôi bị quả ám khốn cực lắm”. Tình yêu thương của Chúa Giêsu không thể im lặng được khi Chúa nghe câu nói thật khiêm tốn : vâng lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống. Tình yêu thương của Chúa Giêsu chắc chắn sẽ thực hiện phép lạ cứu chữa đứa con người phụ nữ Canaan, ấy vậy Chúa cũng không thể không nói cho mọi người chúng ta biết : “này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”.
Thiên Chúa sẽ không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ cho người đạo đức hay tội lỗi. Ngài chỉ có thể làm phép lạ vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và sự hiểu biết về tình yêu của chúng ta. Xin Chúa Giêsu tiếp tục làm cho mọi người biết yêu thương nhau, tin tưởng nhau, qua đó tất cả thế giới sẽ tiếp tục được thấy phép tạ diệu kỳ của Chúa. Amen.
.
Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Tiền nhân đã xác định như vậy. Quả nhiên đúng như thế. Ngạn ngữ Phi châu nói: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Thật vậy, thử thách càng cao thì cơ hội càng lớn. Thời thế tạo anh hùng nhiều hơn là anh hùng tạo thời thế. Như cụ Phan Bội Châu (1867-1940) đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”.
Garrison Keillor so sánh: “Cuộc sống cũng giống như cuộc chiến, nếu mọi thứ bỗng trở nên yên lặng thì có nghĩa là bạn đang thua trận”. Cuộc sống luôn đầy những thử thách, kinh nghiệm này ai cũng có thể tích lũy theo thời gian. Nếu không có thử thách, làm sao chúng ta có thể biết và nhận ra sức mạnh tuyệt vời vẫn đang tiềm ẩn trong chúng ta? Vả lại, cuộc sống bình lặng sẽ nhàm chán vì đơn điệu. Toni Malliet nói: “Thử thách không là gì cả, nhưng cơ hội ẩn chứa đằng sau thử thách đó mới là điều đáng nói”.
Nếu bạn tỏ ra yếu mềm trước thử thách thì bạn thật là bé nhỏ và sức mạnh của bạn thật là yếu đuối. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta nên “đi qua cửa hẹp” (Mt 7:13-14; Lc 13:24), tự tôi luyện trong gian khổ chứ không ung dung tự tại. Chắc chắn mọi thử thách đều có giá trị cao, vì chính những gian nan mới khiến người ta trưởng thành đúng nghĩa, gọi là “thành nhân”.
Thiên Chúa phán: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56:1). Thời gian là của Chúa, chúng ta chỉ là những người quản lý, không thể biết thời gian còn dài hay ngắn. Do đó, ai cũng phải tỉnh thức. Tỉnh thức là một dạng thử thách. Chính sự thử thách khiến chúng ta phải coi chừng để mà khéo léo (khôn ngoan) “canh me” hoặc “liệu cơm gắp mắm”.
Thiên Chúa chí nhân nhưng cũng tuyệt đối công bình và chính trực, không thiên vị bất kỳ ai: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56:6-7). Dù là ai, từ giáo hoàng tới giáo dân, từ bề trên tới người giúp việc, từ tổng thống tới người ăn xin,… không ai có thể viện cớ gì mà nói: NẾU, TẠI, VÌ, BỞI, GIẢ SỬ, GIÁ MÀ, PHẢI CHI,…
Ai tự cảm thấy mình thiếu thốn thì xin – xin nghiêm túc chứ không “xin xỏ”. Khi thấy người khác xin thì chúng ta phải cho. Đó là công bằng. Ở đây là “xin–cho” trong tương quan yêu thương và bác ái, chứ không “xin–cho” theo kiểu “chế độ” ban phát. Chúng ta đều là những “người làm công” trong Vườn Nho của Chúa, chẳng ai có quyền gì mà “chảnh” với nhau. Ý thức được như vậy, chúng ta có thể ước mong như tác giả Thánh Vịnh: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3).
Phàm nhân bất trác và bất túc nên luôn có rất nhiều mong ước, về mọi thứ, cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng ước mong về tâm linh mới quan trọng nhất: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6). Công lý và công bình phải có thì con người mới được tôn trọng đúng mức: Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.
Chúc nhau điều gì thì phải thật lòng, không thể chỉ “xã giao”. Trong các Thánh Lễ có nghi thức “chúc bình an”. Nghi thức là để tránh lộn xộn chứ đừng chỉ theo nghĩa đen của nghi thức. Tuy nhiên, một số người thụ động trong khi cúi chào chúc bình an cho nhau, có người chỉ “co cái cần cổ” chút xíu, nhìn vẻ rất miễn cưỡng. Ngay cả chủ tế cũng có người thụ động, gật đầu theo nghi thức, hai cậu lễ sinh hai bên chả sơ múi gì! Trong tình hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng chân thành chúc nhau:“Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).
Thánh Phaolô bộc bạch: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11:13-15). Ông cựu Biệt Phái Saolê muốn người ta “ganh tị” chứ không “ghen tị” hoặc “ghen ghét”, nhưng phải là ganh tị về điều thánh đức, cứu các linh hồn, chứ không ganh tị về những thứ trần tục.
Thánh Phaolô xác quyết: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29). Thật vậy, “trước kia chúng ta đã không vâng phụcThiên Chúa, nhưng nay chúng ta đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót chúng ta, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục để thương xót mọi người” (Rm 11:30-32). Một triết lý đầy tính thần học và rất đậm “chất Phaolô”!
Người ta đã từng ghét Chúa Giêsu vì có cách nói “chẳng giống ai” và luôn “gây sốc”. Một hôm, Đức Giêsu đang trên đường lui về miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà Ca-na-an kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15:22). Thế nhưng Ngài làm ngơ, không đáp lại một lời. Nhưng rồi Ngài lại nói: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15:24). Nghe “nóng gáy” ghê đi!
Dù vậy, bà ấy vẫn đến bái lạy Ngài và thưa: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25). Người gì mà lắm mồm, léo nhéo dai còn hơn đỉa đói! Thế nên Ngài nói thẳng: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15:26). Nghe “sốc” không chịu nổi! Vậy mà bà ấy vẫn thản nhiên nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bấy giờ Đức Giêsu nhìn bà ấy, vừa cười vừa âu yếm nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15:28). Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Đó là cách Chúa Giêsu thử thách. Tuy nhiên, Ngài thử thách không phải là để “dò tìm” như chúng ta, vì Ngài đã biết rõ cõi lòng ai sâu hay rộng thế nào, trái tim người nào cứng hay mềm, nghĩa là Ngài không cần thử thách. Nhưng Ngài làm vậy để cho mọi người biết giá trị của gian truân, giá trị của đức tin, đồng thời Ngài cũng tạo công trạng cho chính người chịu đựng thử thách.
Như vậy, thử thách và đau khổ là hồng ân. Tất nhiên chúng ta cũng phải biết tạ ơn về loại hồng ân “khác người” như vậy. Vâng, “khác người” chứ không “chết người” đâu!
Lạy Thiên Chúa, con chỉ là con chó nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất và nhơ nhớp nhất, xin thương xót dù con hoàn toàn bất xứng. Con vô duyên và bất tài, nhưng con luôn khao khát nên giống Ngài và tín thác vào Ngài, xin cho con được hưởng những vụn-bánh-yêu-thương rơi thừa từ Thạch Bàn Thương Xót của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của con. Amen.
.
ĐỨC TIN CẦN ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA THỬ THÁCH
Lời tiên báo về tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5) và niềm hy vọng màmuôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12, 21) hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.
Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.
- Ơn cứu độ phổ quát của Đức Giêsu và niềm niềm tin nơi người đàn bà dân ngoại
Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời:“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.
Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.
Tưởng cũng nên nhắc lại, theo truyền thống thì đây là vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc – đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia.
Vì thế, dân ở vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi, trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.
Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.
Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.
Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27)
Dù là bị khước từ, miệt thị , nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật” và hẳn nhiên là Chúa phán “Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (x. Mt 15, 28).
Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
- Khám phá sứ điệp Lời Chúa
Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.
Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.
Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.
Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc… thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.
Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong“giấy khai sinh”, nơi “sổ rửa tội” mà thôi. Như thế, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.
Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong thử thách, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:
Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần lý, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.
Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá dáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.
Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.
Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.
Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.
Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.
.
Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu thi ca nhạc phẩm, đã có vô vàn câu hò điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”
Với giai điệu mượt mà sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết ca khúc tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.
Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế. Dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu, tình mẹ muôn đời vẫn thế.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, đã chôn vùi hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
Bà mẹ Armênia trong câu chuyện và bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình mẫu tử thiêng liêng cao cả.
Thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản. Kiên trì và khiêm tốn chứng tỏ nơi bà có một tình yêu mãnh liệt và một lòng tin mạnh mẽ.
Thật cảm động trước tình thương dạt dào của người mẹ Canaan. Thật cảm phục một lòng tin kiên vững của người phụ nữ ngoại giáo. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu đi đôi với nhau giúp cho con người một sức mạnh để can đảm, kiên trì và khiêm tốn.Lòng tin và tình yêu cho bà mẹ Canaan có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con gái.
Thương con,bà đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.
Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ hận thù để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.
Thương con nên khổ vì con. Người mẹ Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau khổ một, còn mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!”
Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nổi đau của con người như vậy? Chúa thinh lặng để bà thấm thía được sự bất lực của mình, và nhờ đó mà thấy được rõ hơn rằng, Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất của con người.
Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nổi các môn đệ không chịu được những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để đuổi bà về.
Mặc kệ thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin cứu giúp. Lần này thì bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”. Sao lạ vậy? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư? Những lời khó nghe Chúa dùng cũng là lời nói với mọi người, để cho ai cũng thấy được ơn cứu độ là một hồng ân Chúa ban bởi lòng thương xót, chứ không phải bởi sự xứng đáng của bất cứ ai.
Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và lòng tin của bà.
Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Nhận biết mình hèn mọn nên hoàn toàn cậy dựa vào lòng trắc ẩn của Chúa. Đó là sức mạnh của người mẹ Canaan. Thiên Chúa đầy lòng thương xót không thể từ chối lời nài van của một người không sao tìm ra một nơi nương tựa nào khác ngoài lòng trắc ẩn của Ngài, và Chúa Giêsu nói: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.
Làm sao mà Chúa có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ là Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nổi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ của mình. Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, nên chẳng nỡ chối từ những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.
Lòng tin và tình yêu giống như đôi cánh đã giúp người mẹ Canaan bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Đến với Chúa Giêsu bằng lòng tin và tình yêu, người mẹ Canaan nhận được một tình yêu quyền năng. Thánh Phaolô chia sẽ kinh nghiệm này: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
Bà mẹ Canaan là tấm gương cho các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào các tệ nạn vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu khẩn, đã tin tưởng cầu nguyện như người mẹ Canaan này chưa?.
Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo. Chúa đã đánh giá lòng kiên nhẫn của bà là một bằng chứng đức tin. Chúa đề cao một mẫu gương về đức khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Tình mẹ cha yêu thương với tất cả hy sinh chịu đựng luôn đóng ấn và trải dài suốt những năm tháng của cuộc đời con.
Tình mẹ thương con là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Chính Con Một Thiên Chúa Nhập Thể làm người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin. Từ đó, Mẹ đã nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu gian truân khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người Mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Cuối cùng, người nữ ấy được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.
Mẹ Maria đang được hưởng niềm vui thiên quốc. Mẹ hằng yêu thương con cái trên đường hành hương về quê trời.Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.Trong niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, kiên nhẫn với tin yêu và hy vọng.
.