Các Bài suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Vọng Năm A

1310

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG_A

Lời Chúa: Is 11, 1-10; Rm 15, 4-9; Mt 3, 1-12

——-

Mục lục

1. Tìm một con đường (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên) 

2. Vị tiên tri từ hoang mạc (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

3. Noi gương Gioan sống khiêm tốn  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Hoán cải  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

5. Sống Lời Chúa  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)

6. Tiếng gọi  (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

7. Sứ vụ dọn đường  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Sám hối là con đường dẫn tới ơn cứu độ (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

9. Sống Mùa Vọng bằng niềm vui trong Chúa (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

10. Nguyên nhân bất công(Trầm Thiên Thu)

11. Anh em hãy hối cải (Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)

12. Nước Thiên Chúa đã đến gần(Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

13. Hãy sám hối ăn năn (Lm. Phêrô Trần Minh Đức)

14. Lời công bố của Gioan Tẩy Giả  (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

15. Thế giới luôn cần những con đường đầy hoa (Lm.Giuse Trương Đình Hiền)

16. Nước Trời đã gần bên (Lm. Louis Đặng Quang Tiến)

17. Chuẩn bị đón nhận Nước Trời  (Lm. Bùi Mạnh Tín)

18. Xin cho con biết lắng nghe(Lm. Bùi Quang Tuấn)

19. Thống hối  (Lm. Cao Vũ Nghi)

20. Lời khuyên duy nhất (Lm. Phạm Quốc Hưng)

21. Chúa chỉ cần tôi một tấm lòng  (Lm. Giuse Lê Quan Trung)

22. Hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã gần đến (Lm. Thu Băng, CRM)

23. Con một Cha trên trời (Lm. Minh Vận, CRM)

24. Thu lúa, đốt rơm  (Lm. Trọng Thưởng, CRM)

25. Dọn đường cho Chúa (Lm. Bùi Công Huy)

26. Sứ mạng tiền hô  (P.Trần Đình Phan Tiến)

27. Tương lai  (Thiên Phúc)

28. Hãy trở thành con đường tốt cho Chúa ngự đến (Jos.Vinc.Ngọc Biển, SSP)

29. Một con đường  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

30. Sám hối để được sống(Sr. Anna Nguyễn Như Ý, MTG.Thủ Đức)

31. Bình an đích thực (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

32. Tiên phong(Lm. Vũ Đình Tường)

33. Mùa Vọng và con đường đón nhận nhau (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

34. Kêu gọi sám hối!  (P.Trần Đình Phan Tiến)

35. Lời công bố của Gioan Tẩy Giả (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

36. Suy niệm chúgiải Lời Chúa-Chúa Nhật II MùaVọng_A (Lm.Inhaxio Hồ Thông)

37. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng. Năm A  (Lm. Antôn)

 

 

Mục lục

1. Dọn đường chào đón Vua Hòa Bình (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Các sứ điệp của Gioan Tiền hô  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Dọn đường tình yêu (Gm. Antôn Vũ Huy Chương, Gp. Đà Lạt)

4. Món “ăn năn”  (Gm. Giuse Vũ Duy Thống, Gp. Phan Thiết)

5. Đấng Messia hiền lành và khiêm nhường  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

6. Hãy thống hối vì Nước Trời đã đến gần (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Sứ điệp sám hối  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Sứ điệp của Gioan (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Hãy dọn đường cho Chúa (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Vua hòa bình đến  (P. Trần Đình Phan Tiến)

11. Lời nói thật thì khó nghe (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

12. Dọn cho Chúa một con đường (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

13. Suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Vọng_A  (Lm. Anthony Trung Thành)

14. Thanh lọc (Trầm Thiên Thu)

15. Thời hoang dã  (Lm. Vũ Đình Tường)

16. Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần  (Fx. Đỗ Công Minh)

17. Chung một lý tưởng (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

18. Mong chờ Chúa đến  (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)

19. Làm lành lánh dữ  (Lm. Trần Ngà)

20. Chúa đang đến (AM. Trần Bình An)

21. Canh tân và sám hối  (JM. Lam Thy, ĐVD)

22. Thay đổi bản thân, thế giới sẽ thay đổi (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

23. Sám hối để dọn đường đón Chúa đến  (Lm. Đan Vinh)

24. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng_A (Lm. Antôn)

 

.

TÌM MỘT CON ĐƯỜNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

“Tìm một con đường, tìm một lối đi
ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi
lạc loài niềm tin, sống không ngày mai

sống quen không ai cần ai”.

Đó là lời mở đầu bài hát “Và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy. Bài hát mở ra một cái nhìn lạc quan giữa cuộc sống còn đầy nghi ngờ, chia rẽ và hận thù. Vâng, giữa bối cảnh hỗn độn và đầy vấn nghi đó, cần phải tìm một con đường để đem lại niềm vui cho con người, giúp họ sống tích cực yêu thương, bất kể trong hoàn cảnh nào.

Mỗi khi Mùa Vọng về, lại thấy xuất hiện hình ảnh Gioan Tẩy giả trong Phụng vụ. Vị ẩn sĩ này khiêm tốn chỉ nhận mình là một tiếng kêu trong sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu bát ngát, chỉ có nắng, gió và cát. Một tiếng kêu trong sa mạc nhiều khi như vô vọng và vô ích. Tuy vậy, tiếng kêu ấy vẫn vang lên, và đã lôi kéo nhiều người trở lại với Chúa. Ông được gọi là vị “Tiền hô”, nghĩa là người đi trước mở đường. Gioan Tẩy giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối thẳng để Người đi”. Con đường mà vị ẩn sĩ này nói đến, chính là con đường tâm hồn. Ông đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể với dân chúng và với từng hạng người đang xếp hàng xin ông thanh tẩy. Tựu trung những lời khuyên nhắm tới tâm tình sám hối, sửa lại những sai lầm, thay đổi cuộc sống và thân thiện với tha nhân. Lời phê phán của ông rất nghiêm khắc: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: chúng ta đã có tổ phụ Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Qua những lời này, ông cảnh báo: một thứ đạo đức bề ngoài không có khả năng cứu rỗi con người, nhưng cần có tâm tình đạo đức và đời sống nội tâm, thiện chí quay về với Chúa và phục thiện.

Mùa Vọng là mùa tìm một con đường để đến với Chúa, nhưng cũng là dọn một con đường để Chúa đến với mình. Thiên Chúa là Cha, luôn bao dung chờ đợi và giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân để họ trở về và được tha thứ. Tuy vậy, nhưng tâm hồn ngổn ngang bề bộn những đam mê dục vọng hoặc đầy ắp những hận thù thì không thể đón Chúa. Khi thiện chí canh tân đời sống và thanh tẩy tâm hồn, chúng ta sẽ được đón Chúa đến. Con đường Chúa đến tâm hồn ta sẽ thênh thang rộng mở.

Và con tim đã vui trở lại
tình yêu đến cho tôi ngày mai
tình yêu chiếu ánh sáng vào đời
tôi hy vọng được ơn cứu rỗi
và con tim đã vui trở lại
và niềm tin đã dâng về người
trọn tâm hồn, nguyện yêu mãi riêng người mà thôi…

Nhạc sĩ Đức Huy không trực tiếp nhắc đến Chúa trong ca từ của ông, nhưng chúng ta thấy hiện rõ hình ảnh của một Đấng là đối tượng của tình yêu và niềm tin tuyệt đối. Đấng ấy, người Kitô hữu gọi là Cha. Hình ảnh “dẫu như tôi phải đi qua vực sâu tối, tôi vẫn không sợ hãi gì vì người gần bên tôi mãi” chính là ý tưởng của Thánh vịnh 23, câu 4 mà chúng ta vẫn thường xuyên hát trong Đáp ca của Thánh lễ cầu hồn.

Một khi có Chúa đến trong tâm hồn, con tim chúng ta sẽ được phục hồi và vui trở lại. Tình yêu đến thức tỉnh chúng ta và chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc đời. Đó là kết quả của thiện chí sám hối phục thiện.

Xã hội hôm nay đang có nguy cơ bị hoang mạc hóa. Mỗi người tín hữu được mời gọi trở nên một tiếng kêu giữa sa mạc để giới thiệu Chúa và chuẩn bị con đường cho Ngài đến giữa con người. Ta hãy xem ngôn sứ Isaia diễn tả một xã hội mơ ước trong tương lai, khi Chúa đến: « Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta. Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương » (Is 11,6-9). Vâng, chính chúng ta hãy cộng tác với Chúa để làm cho hình ảnh ấy trở thành hiện thực. Giáo Hội của Chúa Giêsu, xuyên suốt lịch sử, vẫn đang cố gắng để làm giảm thiểu bạo lực và chiến tranh. Giáo Hội cổ võ hòa bình và phát triển, giúp con người xích lại gần nhau hơn để sống trong sự thân thiện hài hòa. Nhờ lời cầu nguyện và cộng tác của Giáo Hội, các cường quốc trên thế giới đã có thể bàn bạc với nhau tìm ra những giải pháp xây dựng hòa bình và góp phần thăng tiến phẩm giá con người.

Hãy cùng tìm một con đường để dẫn đưa cuộc sống này tới niềm vui. Con đường ấy chính là Chúa Giêsu. Chính Người đã tuyên bố là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Nhờ con đường Giêsu mà chúng ta gặp Chúa Cha là suối nguồn hạnh phúc và là nguồn mạch của sự thánh thiện. Đến với Chúa Giêsu, chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và con tim chúng ta sẽ vui trở lại sau những tháng năm u buồn. Hạnh phúc sẽ tràn trề như đại dương và tình yêu sẽ nối kết muôn người.

Về mục lục

.

VỊ TIÊN TRI TỪ HOANG MẠC

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Thư Do Thái viết rằng: “ Ðã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri. Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con.” (Dt 1, 1 -2). Vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước cũng như khởi đầu Tân Ước không ai khác là Gioan Tẩy Giả. Một vị tiên tri đi ra từ hoang mạc với lời mời gọi hùng hồn “Dọn con đường Chúa đến!”

Tính cách của Gioan Tẩy Giả có lẽ ảnh hưởng từ lối sống của nhóm Ê xen, giữ thanh khiết tâm hồn bằng lối sống nhiệm nhặt trong hoang địa. Tâm tình tôn giáo sâu đậm, một lòng thiết tha sửa soạn “con đường của Thiên Chúa”. Thường nhóm Ê xen tổ chức như một tu viện ẩn, không tiếp xúc với dân chúng. Vào thời của Chúa Giê su, những người Ê xen đã thu nhận thêm khoảng bốn ngàn người. Họ vẫn giữ những nhiệm nhặt, tránh những xa hoa, những tham muốn thấp kém, họ bước vào thế gian như một tu sỹ thực thụ, một số có thể kết hôn, sống đời sống gia đình đạo nghĩa.

Gioan tẩy giả có lẽ là con người đặc biệt trong nhóm Ê Xen. Vẫn giữ đời sống thanh khiết, ẩn tu, ăn châu chấu, mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà, đi ra từ hoang địa. Sứ điệp của ông mang tính khẩn thiết và nghiêm khắc: “Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa.” (Mt 3, 10).

Tại sông Gio đan, Goian tẩy giả làm phép rửa tỏ lòng sám hối cho nhiều người đã nghe sứ điệp rao giảng của ông. Thời đó, những người rao giảng như Gioan tẩy giả không hiếm; nhưng thần thái của Gioan tẩy giả có gì đó rất đặc biệt làm cho người ta kéo đến với ông nhiều hơn. Đủ các thành phần trong xã hội được lời rao giảng của ông thuyết phục, họ tuôn đến chịu phép rửa và hỏi ông: “tôi phải làm gì? (Lc 3, 10).

Gioan tẩy giả có sức hút mãnh liệt với quần chúng, nhiều người tự hỏi: “Không biết ông có phải là Đấng Messia phải đến?” (Lc 3, 16). Ông thẳng thắn trả lời: “Phần ta, ta thanh tẩy các ngươi bằng nước để lo hối cải; còn Ðấng sẽ đến sau ta, quyền thế hơn ta và ta không đáng xách dép cho Ngài; Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3, 11).

Bài giảng của Gioan tẩy giả cũng liên hệ với chúng ta ngày nay. Không chỉ là những người bình dân, ngay cả những người biệt phái, sa đốc, binh lính, quan quyền… Tất cả đều cần sám hối để dọn mình đón nhận hồng ân cao cả nhất là chính Chúa sinh hạ trong tâm hồn.

Trong bài diễn văn tại bữa ăn sáng cầu nguyện quốc gia lần thứ 66, tại khách sạn Hilton, Washington city. Tổng thống Trump giảng về Chúa như một linh mục giảng đạo hùng hồn, ông nói “Đức tin là trung tâm của cuộc sống và niềm tự do của Hoa Kỳ” và trong giấy bạc của Hoa kỳ: “Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa”.

Cần trở về với Thiên Chúa để có thể xây dựng trên nền tảng công chính, hoà bình, bác ái, yêu thương. Những giá trị cơ bản của con người vươn tới cũng là những giá trị của Tin Mừng. “Hãy sinh quả phúc đức, xứng với lòng hối cải !” (Mt 3, 8). Lời kêu gọi này chẳng bao giờ lỗi thời, vì con người cần được sống trong hoà bình và yêu thương, xoá tan mọi hận thù, tham lam, ích kỷ, gian dối..

Sám hối để Chúa sinh hạ trong tâm hồn! Không có Thiên Chúa, cuộc sống con người trở nên vô nghĩa và chẳng thể xây dựng công bình, bác ái. Đón nhận Chúa sinh hạ, “Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa”. (Is 2, 4).

Về mục lục

.

NOI GƯƠNG GIOAN SỐNG KHIÊM TỐN

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Đọc bài tin mừng hôm nay chúng ta thấy cảm phục con người của Gioan. Ngài thật thánh thiện và đầy khiêm tốn. Ngài không lợi dụng để đánh bóng tên tuổi mình. Ngài luôn biết mình là ai để sống đúng với vai trò của mình.

Phúc âm tường thuật rằng với lối sống chay tịnh khắc khổ và lời giảng dạy cứng rắn, thuyết phục đã khiến hàng ngàn người tuôn đến với Gioan. Gioan có thể lợi dụng sự tin tưởng của dân chúng để xưng mình là Đấng Cứu Thế có thể ban phát ơn lành, nhưng ông đã không làm vậy. Ông biết đó là hư danh, là hão huyền. Ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa. Ông còn nói rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho người”.

Gioan đã biết mình là ai? Nhờ đó mà Gioan đã sống đúng với phận mình. Còn chúng ta, có bao giờ chúng ta đã dừng lại để nghĩ: TA LÀ AI CHƯA?

Có ai đó từng hỏi với mình như vậy:

“Thử hỏi một lần ta là ai?

Mà sao mộng mãi giữa đêm dài

Đêm dài quên ngủ trong sinh tử

Thử hỏi một lần ta là ai?”

Ta là ai vậy nhỉ, ta có phải là cái tên này không? Không rồi, cái tên là do cha mẹ đặt cho, nên nó không thuộc về mình. Ta là ai phải chăng là thân xác này, nhưng thân xác này rồi cũng không ra khỏi vòng sinh lão bệnh tử, sẽ có ngày trở về cát bụi. Ta là ai mà giữa trốn hồng trần này, cứ mải miết, mải miết trong những vòng xoáy cuộc đời, và rồi cứ luẩn quẩn trong kiếp sinh tử cát bụi.

Và như thế , ta chẳng là gì, chỉ là cát bụi hư vô. Và một khi ta trở về hư vô thi chẳng ai biết ta và ta cũng chẳng còn quan trọng với ai?

Nhưng có một Đấng biết ta, và Ta biết Đấng ấy. Đó chính là Đấng tạo thành ta. Một mai ta sẽ trở về hư không, chẳng ai biết ta, cần đến ta, nhưng lại là thời gian ta ở trọn vẹn bên Đấng đã sinh ra ta. Đấng đã nuôi dưỡng ta và mãi mãi yêu ta, thế nên, ở đời này ta chẳng là gì nhưng với Đấng đã sinh ra ta thì ta mãi mãi là hình ảnh của Ngài, là con cái thần linh của Ngài.

Mùa vọng luôn nhắc nhở chúng ta về Đấng tạo thành đã đến trần gian và đang đi tìm chúng ta.  Ngài là Đấng đã sai Gioan và hôm nay đang sai chúng ta đi trước để dọn lối cho Người. Người dọn đường phải biết khiêm tốn để cho Chúa được lớn lên còn mình thì nhỏ lại. Đừng ngộ nhận mình là Đấng cứu thế có thể ban phát ơn lành. Hãy biết khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ là hư vô như tiếng kêu vô nghĩa trong sa mạc mà thôi.

Nhưng thật đắng lòng khi nhìn vào những ngôn sứ trong thời đại hôm nay. Dường như họ đang tìm vinh quang và bổng lộc cho bản thân. Có những người tự hào là ai đến với họ thì sẽ được ơn lành của Chúa. Có những người tự hào về khả năng xây dựng những công trình nguy nga đồ sộ cho Chúa. Có những người tự hào nhờ họ mà biết bao lương dân trở về với Chúa. Hoá ra Chúa phải nhờ họ mới có thể ban phát ơn lành cho dân, nhờ họ mà Chúa mới có những nhà thờ hay đền đài nguy nga , nhờ họ mà Chúa mới có thêm những tín hữu cho  Ngài . . .

Lịch sử Giáo hội đã nhiều lần chứng minh khi con người đề cao mình là họ đang gieo vãi sự chia rẽ và phản loạn. và lịch sử Giáo hội cũng từng chứng minh rằng Thiên Chúa chỉ tuyển chọn những ai khiêm tốn để làm việc cho chương trình của Ngài như Gioan, hay như Mẹ Maria.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy bắt chước Gioan luôn biết khiêm tốn trước mặt Chúa dầu mình có làm được việc gì cũng chỉ là nhỏ bé tầm thường. Xin cho chúng ta luôn biết nhận ra mình là thụ tạo nên phải  tôn thờ Đấng tạo hoá hết linh hồn mình và biết sống để cho Chúa lớn lên còn tôi thì nhỏ bé đi. Amen

Về mục lục

.

HOÁN CẢI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Một cha bề trên đang đi dạo với các đệ tử, một em trong nhóm hỏi: Thưa cha, khi nào con người nên hối cải? Cha bề trên trả lời cách nhẹ nhàng: “Con hãy bảo đảm rằng con sẽ hối cải vào ngày sau cùng của cuộc đời”. Nhưng rồi có vài em khác phản kháng lại, chúng ta không bao giờ biết được ngày giờ nào là ngày sau cùng của cuộc đời. Cha bề trên cười và nói: “Cách đơn giản nhất là hãy hối cải ngay bây giờ”.

Thánh Gioan được sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ngài kêu gọi rằng hãy dọn đường Chúa và hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Dọn đường bằng cách hoán cải cuộc sống. Sự hoán cải sẽ giúp cải đổi và chuyển biến trong cách sống. Đã bao lần chúng ta có những thái độ quanh co, dối trá, dối mình và dối người. Hoán cải sẽ dẫn chúng ta tới hành động cụ thể. Hoán cải đưa ta ra khỏi sự tự mãn trong sự công chính.

Sự hoán cải sẽ sinh hoa quả tốt. Hối cải phải là nỗ lực thường xuyên để điều chỉnh hướng đi của mình. Giống như người hoa tiêu luôn điều khiển con tàu đi đúng hướng. Hối cải tự bản chất là một ơn huệ Chúa ban. Một lời mời gọi thân thương trở về. Trở về với lòng mình và trở về với Thiên Chúa, Đấng yêu thương và chờ đợi chúng ta. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt nhưng là để cứu độ.

Mỗi người chúng ta, ai cũng là tội nhân. Chúng ta sa ngã phạm tội nhiều lần. Chúa mời gọi chúng ta đừng ngụp lặn trong vũng tội. Những giây phút hoan lạc, những con đường rộng rãi thênh thang và những ánh sáng chập chờn dễ đưa chúng ta vào con đường trụy lạc xa Chúa.

Lắng nghe lời thánh Gioan kêu gọi, chúng ta hãy bắt đầu hối cải từ chính mình. Thật ra từ bỏ con đường cũ không dễ, xa tránh dịp vui sẽ không thoải mái và chừa tội như cảm thấy mất mát thiệt thòi. Biết rằng tất cả những thú vui trong tội chỉ mau qua chóng hết. Hãy bắt đầu trở về ngay bây giờ. Không khi nào trễ nếu chúng ta biết bắt đầu.

Rìu đã để sẵn gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Mùa Vọng là cơ hội tốt giúp mỗi người tự sửa mình và dọn đường đón Chúa. Chúa sẽ đến đem sự bình an và an vui đích thực. Chúa chính là niềm hoan lạc của tuổi xuân.

Về mục lục

.

SỐNG LỜI CHÚA

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, Lời Chúa cho ta lắng nghe một tiếng gọi rất tha thiết, tiếng gọi trong sa mạc. Đó là lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,2).

Có rất nhiều người đã đến xin ông làm phép rửa tỏ lòng sám hối, trong đó có cả những người Pharisêu và những người thuộc nhóm Xađốc. Ông Gioan nói với họ rằng: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3,9-10). Ngày hôm nay, ta cũng được mời gọi như vậy. Thánh Giacôbê đã dạy: “Anh chị em hãy thuộc về số những người thực thi Lời Chúa chứ không phải chỉ nghe suông mà thôi” (Gc 1, 22). Để sống Lời Chúa không phải là điều dễ dàng, bởi nhiều lúc ta thích nghe Lời Chúa nhưng chưa quyết tâm sống Lời Chúa. Lời Chúa không chỉ đánh động tâm hồn ta nhưng còn có sức uốn nắn ta thành một con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô. Nếu chỉ dừng lại ở những cảm xúc, ơn an ủi khi lắng nghe Lời Chúa mà không tiến xa hơn, nghĩa là để Lời Chúa trở nên cuộc sống của ta thì ta vẫn chưa sám hối thật sự. Lời Chúa được cưu mang tâm hồn ta sẽ trổ sinh hoa trái trong cuộc sống. Hoa trái của Lời Chúa chính là tình bác ái huynh đệ. Thật khó chấp nhận một người Kitô hữu đạo đức, siêng năng tham dự Thánh lễ, tham gia các đoàn hội nhưng lại thiếu lòng cảm thông với những người sống bên cạnh mình. Thực tế vẫn có những trường hợp đáng buồn như thế. Một người vừa ra khỏi nhà thờ lại tức tối la mắng người vừa vô ý giẫm lên chân mình: “Con này mày bị mù à!”. Nhìn người khác để nhìn lại chính mình, đã lắm lúc ta cũng thiếu lòng bác ái với người chị em. Vì sao ta dễ tự ái trước một lời nói thiếu thông cảm? Cũng có khi chính ta lại là người mang lại nỗi buồn phiền cho người khác. Điều gì khiến ta chưa quảng đại để đón nhận người khác, chưa khiêm tốn nhìn nhận con người đầy giới hạn của ta?

Vẫn còn đó một lời mời gọi tha thiết, rất tha thiết vang lên trong lòng ta. Lời Chúa vẫn không ngừng chất vấn ta. Những khi Lời Chúa ban tràn đầy an ủi, đỡ nâng và bổ sức cho ta cũng chính là lúc Lời Chúa mời gọi ta tiến xa hơn, đó là sống Lời Chúa. Lời Chúa ở rất gần ta, ngay nơi miệng, ngay trong lòng cốt để ta đem ra thực hành (x. Đnl 30, 14). Để có thể sống Lời Chúa đòi hỏi ta phải luôn luôn biết trở về với sa mạc lòng mình, để lắng nghe, để nhìn lại và nhận định. Điều gì khiến ta làm như vậy? Nếu Chúa Giêsu ở trong hoàn cảnh của ta, Ngài có làm như ta đã làm không? Điều ta làm có phải là điều Chúa muốn? Chúa Giêsu có hài lòng với cách ta đã làm không? Đó là những câu hỏi giúp ta lắng nghe được thánh ý của Chúa. Khi nhìn tất cả dưới ánh sáng Lời Chúa, mọi sự đều được sáng tỏ. Nếu quá vội vã và cuốn theo nhịp sống hối hả này, ta sẽ không nghe được Lời Chúa nói dù ta vẫn nghe đọc Tin Mừng mỗi ngày. Chỉ những ai để tâm lắng nghe thật sự, muốn nghe thật sự và biết mở lòng thì mới đi đến việc sám hối để thay đổi đời sống. Tự sức ta thì sẽ chẳng bao giờ làm được vì con người tự nhiên trong ta vẫn nghiêng chiều về tội lỗi. Quả đúng như kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí nhưng tôi lại mang tính xác thịt. Điều tôi muốn thì tôi không làm nhưng điều tôi ghét thì tôi cứ làm” (Rm 7,14-15).

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết con yếu đuối và hay thay đổi. Xin ban ơn cho con biết hăng say yêu mến Lời Chúa và không ngừng để Lời Chúa trở thành cuộc sống của con. Nếu mỗi ngày con biết nỗ lực sống Lời Chúa dạy thì con tin, chính Chúa sẽ làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng trong đời sống của con, để khi sám hối cũng chính là khi con trổ sinh hoa trái của tình yêu. Amen.

Về mục lục

.

TIẾNG GỌI

Anna Cỏ may 

Hằng ngày, chúng ta nghe và đọc rất nhiều thông tin của cuộc sống qua truyền hình, qua các trang mạng và báo chí. Lời Chúa hôm nay nói về một thông tin được loan báo bằng lời của vị ngôn sứ được Thiên Chúa tuyển chọn. Ông kêu gọi và báo cho mọi người biết về Đấng sẽ đến: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,2).

Ông Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa thánh hiến và tuyển chọn. Ông thi hành sứ mạng dọn đường cho Chúa và mời gọi dân chúng chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa đến. Khi đó, người Do thái cũng đang mang trong mình sự chờ mong Đấng Mesia đến để giải phóng dân tộc, mong đợi một kỷ nguyên mới và hòa bình. Từ sứ mạng được trao cùng sự thao thức của dân, lời rao giảng của ông đã thu hút rất nhiều người đến thú tội và chịu phép rửa (x.Mt 3,6). Trong số những người đó, có những người thuộc nhóm Pharisêu và phái Xađốc cũng đến. Ông Gioan đã nhìn thấy hành động sám hối của họ chỉ là để tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống (x.Mt 3,7). Ông cho họ biết, Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can của con người, chính Ngài mới là Đấng thật sự thanh tẩy mỗi người bằng Thánh Thần và lửa quyền năng. Chỉ những ai thật sự sám hối mới được hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa. Ông Gioan khuyên nhủ: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3,9-10).

 Nhìn lại chính mình, mỗi người chúng ta là một Gioan Tẩy Giả mới của Thiên Chúa trong cuộc sống này. Nhờ bí tích Rửa tội, mỗi người được lãnh sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Liệu chúng ta có dùng thời gian và khả năng để ra đi dọn đường cho Chúa đến, hay chúng ta chỉ biết nghe người khác nói thôi? Trong cuộc sống, bí quyết để thành công trong việc rao giảng Tin Mừng là làm rồi hãy nói, không để việc làm mâu thuẫn với lời nói. Biết bao nhiêu người nói về Chúa rất hay, đi nhà thờ rất chăm nhưng lại thất bại trong đời sống, chỉ vì thái độ và nếp sống của họ không thể hiện bác ái với người khác. Nói cách khác, chúng ta không rao giảng Tin Mừng bằng lời hô hào hùng mạnh nhưng bằng chính cuộc sống bác ái yêu thương của mình.

 Dù bất cứ ai hay thuộc địa vị nào đi chăng nữa, thì mỗi người trong chúng ta cũng là kẻ có tội và cần sự thống hối, cần thật lòng quay về cùng Thiên Chúa. Mỗi người cần kiểm điểm lại cuộc sống của mình, xem còn có trở ngại nào khiến chúng ta không thể sống cho Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa vẫn đang đứng gõ cửa lòng chúng ta trong cuộc sống hiện tại mỗi người.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng gọi tên chúng con mỗi ngày. Xin Chúa tiếp tục gọi chúng con và ban cho chúng con lòng khao khát lắng nghe Lời Chúa, mau mắn quay trở về để chuẩn bị tâm hồn ngay thẳng đón Chúa đến. Amen.

Về mục lục

.

SỨ VỤ DỌN ĐƯỜNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ngài tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ngài công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ngài mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ngài  đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ngài đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.

Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đày và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường, sang Ai cập, về Nazareth, vào sa mạc, lên đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa, ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Người lên đường về nhà Cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô thường cổ võ nền văn hóa đối thoại và gặp gỡ : “Môn đệ của Chúa Giêsu là người luôn cố gắng đi gặp gỡ tha nhân, trao tặng sự đón tiếp, đối thoại với bất kỳ ai, làm chứng về kinh nghiệm sống của mình được thay đổi nhờ gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng là lòng Thương Xót, vì một cuộc sống được biến đổi, chắc chắn sẽ lây sang người khác (x.vaticannews.va).

Cuộc đời mỗi người là một con đường: con đường hai chiều đưa ta đến với Chúa và Chúa đến với ta, hay đưa ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Người.Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Người đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như người lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, những vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Về mục lục

.

SÁM HỐI LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi  

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 11:1-10;  Rm 15:4-9;  Mt 3:1-12)

          Nhờ Phụng vụ Lời Chúa tuần I mùa Vọng, chúng ta đã hiểu được ý nghĩa và mục đích của việc Con Thiên Chúa giáng trần:  Người đến thiết lập triều đại cứu độ.  Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta đi trên con đường dẫn vào triều đại ấy:  con đường sám hối.  Trước khi bước vào con đường sám hối mà thánh Gio-an Tẩy Giả đã rao giảng và mời gọi, chúng ta dừng một chút với bài đọc 1 để chiêm ngưỡng hình ảnh triều đại cứu độ được ngôn sứ I-sai-a mô tả.  Tiếp đến là bài đọc 2 với lời thánh Phao-lô kêu gọi chúng ta hướng về nhân vật chính đã thiết lập và điều hành triều đại ấy là Chúa Ki-tô, Đấng cứu độ mọi người, để ta “được đồng tâm nhất trí với nhau” mà tôn vinh Thiên Chúa.  Cuối cùng, chúng ta lắng nghe những đề nghị thực tế thánh Gio-an Tẩy Giả nói với những ai muốn thực hành việc sám hối và đó cũng có thể là những lời khuyên cho ta nữa.

          Vậy ngôn sứ I-sai-a đã nhìn thấy trước triều đại cứu độ sẽ xuất hiện như thế nào?  Đấng thiết lập triều đại ấy giống như “một mầm non” đâm ra “từ gốc tổ Gie-sê”.  Mà Gie-sê là cha của vua Đa-vít, cho nên Đấng cứu độ xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít.  Người sẽ được đầy tràn Thánh Thần của Thiên Chúa là “thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mạnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa”.  Những đức tính này chúng ta đều gặp thấy nơi con người Chúa Giê-su, vì sách Tin Mừng đã mô tả Chúa Giê-su “được Thánh Thần xức dầu tấn phong” để thi hành sứ vụ và Người luôn hành động dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần (Lc 4:14, 18-19).  Đặc biệt cách hành xử của Đấng thiết lập triều đại là cách hành xử của lòng Chúa thương xót:  Người không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài hoặc theo sự phê phán của kẻ khác, luôn bênh vực người thấp cổ bé miệng và kẻ nghèo hèn.  Nhưng Người lại thẳng tay trừng trị kẻ gian tà.  Nhờ việc cai trị của Người, triều đại cứu độ sẽ là triều đại đầy ắp bình an của Thiên Chúa.  Bình an ấy được nói lên qua những hình ảnh thật dễ thương:  Nào là cảnh sống chung hòa bình, như sói ở với chiên con, beo với dê nhỏ, bò tơ với sư tử, thêm vào là khung cảnh thực sự gây ấn tượng: “một cậu bé sẽ chăn dắt chúng”!  Rồi lại một hình ảnh không thể tin được, là “bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang”.  Ở đây sự đối nghịch giữa thiện và ác, độc dữ và hiền hòa không phải chỉ nói lên thực tại “sống chung hòa bình”, mà còn quả quyết rằng Đấng cứu độ sẽ thiết lập một triều đại để hoán cải.  Sám hối có sức mạnh thay đổi ác tính của sói, beo và sư tử.  Cũng vậy, bản chất độc hại của rắn rết không còn tác dụng giết hại đối với trẻ thơ nữa.  Tất cả chỉ còn là sự bình an giữa người với người và giữa con người với Thiên Chúa!

          Làm sao chúng ta được thu nhận vào triều đại cứu độ ấy?  Phải đi qua con đường sám hối.  Song song với việc sai Chúa Giê-su đến trần gian, Thiên Chúa còn sai một người đến trước để giúp chúng ta chuẩn bị tiếp nhận Con Một Người, đó là thánh Gio-an Tẩy Giả.  Ngài xuất hiện trước Chúa Giê-su và lời giảng của ngài quy tụ vào chủ đề duy nhất:  “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.  Lời kêu gọi đã được hưởng ứng nhiệt tình.  Rất nhiều người đến với ngài, họ thú tội và nhận phép rửa của ngài như một dấu chỉ chứng nhận họ quyết tâm thi hành sứ điệp “Anh em hãy sám hối”.  Mọi người đều phải sám hối, nhưng các sách Tin Mừng chỉ ghi lại vài ba thành phần tiêu biểu trong xã hội đã được thánh Gio-an chỉ dạy phải sám hối cách nào.  Đặc biệt thánh Mát-thêu, ngài “quan tâm” đến nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc!  Tại sao?  Vì độc giả của ngài là người Do-thái, mà nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc có ảnh hưởng lớn đối với dân tộc họ.  Thật ra nhóm này đến không phải để thực tâm sám hối.  Họ chỉ muốn nhận phép rửa Gio-an như dấu hiệu bề ngoài để “trình diễn” với thiên hạ rằng họ sám hối, nhưng tâm hồn họ thì “vũ như cẫn” (vẫn như cũ).  Thánh Gio-an đã lột mặt nạ giả hình của họ bằng những lời nghiêm khắc, kèm theo lời cảnh báo:  Này, cái rìu đã đặt sát gốc cây rồi đấy!  Liệu sám hối cho mau!  Đấng đến sau tôi và phép rửa của Ngài mới quan trọng.  Phép rửa tôi làm là để kêu gọi các anh sám hối thôi, chứ không tha thứ tội lỗi cho các anh được.  Chỉ có phép rửa của Ngài, phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, mới xóa bỏ tội lỗi cho các anh và mọi người.  Ôi, chỉ Chúa biết có bao nhiêu người Pha-ri-sêu và Xa-đốc sám hối!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Vậy chúng ta, nếu muốn có được một lời khuyên thực tế để sống tinh thần sám hối, ta hãy lắng nghe thánh tông đồ Phao-lô nhắn nhủ.  Trước hết ngài dạy chúng ta cứ tin vào Đấng Cứu Độ là Chúa Giê-su đã được  Kinh Thánh nói đến, để ta được “kiên nhẫn”, được “an ủi” và “vững lòng trông cậy”.  Theo ngài, những ơn vừa kể sẽ giúp chúng ta “đồng tâm nhất trí” mà tôn vinh Thiên Chúa.  Rồi khi chúng ta đã đồng lòng phụng sự Thiên Chúa, thì hệ quả tất nhiên là sẽ yêu thương đón nhận nhau để làm rạng danh Thiên Chúa.  Thực hiện được lý tưởng này có nghĩa là chúng ta đã quay một trăm tám mươi độ, từ bỏ con người tội lỗi, ích kỷ, thù địch với Chúa và anh chị em để trở thành công dân chân chính của Nước Trời.  Không phải trong nháy mắt là chúng ta quay một trăm tám mươi độ đâu, nhưng đòi hỏi thời gian.  Sống sám hối là một diễn trình kéo dài suốt cuộc đời.  Nhưng Chúa Giê-su, Đấng cứu độ đã tới gần và đang đợi chúng ta!

Về mục lục

.

SỐNG MÙA VỌNG BẰNG NIỀM VUI TRONG CHÚA

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Hãy sống mùa Vọng bằng sự vui tươi của niềm hy vọng và nụ cười. Đã bao lâu rồi bạn chưa có những nụ cười thực sự, nụ cười của những người ấp ủ những hoài bão, những định hướng mới trong niềm tín thác, biết đặt trọn lòng tin tưởng vào Chúa?

Hãy lợi dụng tinh thần mùa Vọng, lợi dụng bầu khí thánh thiện của mùa chờ đợi Chúa đến, chờ đợi niềm vui Giáng sinh mà khoác lấy niềm vui trong tinh thần, trong cuộc sống từng ngày của mình.

1. Xác tín niềm vui trong Chúa của người Cựu Ước.

“Đừng buồn bã vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nhm 8, 10). Đó là lời mà tư tế Nehemiah mời gọi toàn dân sau khi kết thúc 70 năm lưu đày bên Babylon và được trở về cư ngụ trên chính quê Cha đất Tổ.

Toàn dân vui mừng họp lại cùng nhau cử hành phụng vụ trên chính quê hương. Từ đây, họ bắt đầu công cuộc tái thiết quê hương trong rạng rỡ của niềm hạnh phúc.

Họ lắng nghe tư tế Ezra công bố Lời Chúa. Họ khóc. Nhưng không khóc vì thân phận lưu đày, mà khóc trong niềm vui sướng, khóc vì lại được sống trên quê hương là đất mà Thiên Chúa ban cho cha ông và dòng dõi của họ.

Vừa trở về từ phương xa, từ đất lưu đày khổ ải, cho nên họ khóc. Họ khóc vì cứ ngỡ mình đang mơ, trong khi đang thực sự hiện diện trong nhà mình, nơi quê hương của mình. Khóc vì cuộc gặp gỡ thân tình gắn bó cùng cội rễ của chính mình.

Nhưng trên hết mọi sự, họ khóc trong sung sướng vì tin rằng, Chúa giải thoát họ. Và nơi Chúa cũng đang tràn đầy niềm vui. Thiên Chúa vui trong niềm vui tuyệt đỉnh của chính Người.

Từ đây họ sống niềm vui của tương lai đời họ, tương lai dân tộc họ là niềm vui trong Chúa. Và niềm vui của Chúa là niềm vui của họ, là “thành trì bảo vệ họ”.

2. Xác tín niềm vui trong Chúa của chúng ta.

Sống những ngày mùa Vọng, Như người Cựu Ước vừa thoát ách lưu đày, chúng ta hãy tận hưởng niềm vui của Chúa bằng cách sống niềm vui trong Chúa.

Sống niềm vui trong Chúa là biết cậy dựa vào Chúa, tín thác đời mình trong tay Chúa, biết để Chúa an bài trong sự khôn ngoan quan phòng của Người.

Hãy xác tín mạnh mẽ như niềm xác tín của dân Chúa xưa, đó là: chỉ có niềm vui của Chúa mà chúng ta tận hưởng mới thực là “thành trì bảo vệ” chúng ta mà thôi.

Vui trong Chúa mới thực là vui, mới chính là niềm vui. Vui trong Chúa mới là niềm vui trọn vẹn. Vui trong Chúa chính là điểm nhấn, là đích đến của niềm vui. Vui trong Chúa là niềm vui bền đổ, mang đến cho người sở hữu nó sức sống vĩnh cửu.

Vui trong Chúa là niềm vui mang lấy sự hãnh diện của đức tin. Tin rằng, Thiên Chúa là gia nghiệp, là lẽ sống, là tình yêu, là nguồn đón nhận bền bỉ không chê chối ai, không bao giờ mai một, không bao giờ suy giảm.

Vui trong Chúa là tin tưởng tuyệt đối, một khi có Chúa, thì không còn gì đáng sợ. Bởi “án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại; thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa” (Sph 3, 15).

Vui trong Chúa còn là niềm ý thức rằng, trong mọi khó khăn, ta luôn có thể hướng về Chúa, Người không bao giờ từ chối những lời khẩn cầu của ta.

Vui trong Chúa là niềm vui có sức nuôi dưỡng trong ta tràn đầy hy vọng và can đảm, ngay cả khi đối diện khó khăn và đau khổ.

Vui trong Chúa còn là niềm vui xác tín: Không có bất cứ hoàn cảnh nào có thể cướp mất niềm bình an nội tâm mà Thiên Chúa trao ban cho bất cứ ai tin tưởng và yêu mến Người.

Về mục lục

.

NGUYÊN NHÂN BẤT CÔNG

Trầm Thiên Thu

Tín Nghĩa Với Ân Tình Nay Hội Ngộ

Hoà Bình Và Công Lý Đã Giao Duyên

Tv 85:11 đã xác định như vậy. Hòa bình không chỉ là không có bom đạn và máu lửa, mà là không có thù hận, hiềm khích, áp bức, bóc lột, cướp phá,… Muốn có hòa bình thì công lý phải được tôn trọng đúng mức.

Rất có thể có người ngạc nhiên về lời xác định của Thánh GH Phaolô VI: “Chính trị là một trong các hình thức bác ái cao cấp nhất.” Chính trị không là gì xa lạ mà là những gì rất đời thường liên quan công lý.

Vì kiêu ngạo mà sinh ra tội lỗi, vì tội lỗi mà hành xử bất công, vì có bất công nên cần có công lý, ở mọi cấp độ – từ gia đình tới xã hội. Vì thiếu công lý mà người ta nổi loạn, đấu tranh, để đòi lại công lý – cho chính mình và cho người khác. Chính Chúa Giêsu đến thế gian để đòi lại công lý cho chúng ta.

Công lý là gì? Đó là công bằng xã hội, là nghĩa vụ đầu tiên của xã hội, đặc biệt là Thánh Luật của Chúa. Bất công xã hội là phi công lý. Theo La ngữ, chữ “Justitia” nghĩa là Nữ Thần Công Lý (Lady Justice), một nhân vật nữ được cách điệu hóa để trở thành biểu tượng của công lý, pháp luật, được khắc họa và được miêu tả với ba biểu tượng đặc trưng: [1] một tay cầm thanh gươm (biểu tượng về quyền lực cưỡng chế, quyền uy của toà án; [2] một tay cầm chiếc cân để phân định cái thiện và cái ác (biểu tượng cho lẽ phải, sự công bằng, chính trực, nghiêm minh, không thiên vị); [3] mắt bịt chiếc khăn (tượng trưng cho ý tưởng công lý, đối lập với áp lực và sự ảnh hưởng từ bên ngoài).

Thần Công Lý là một trong các biểu tượng tiêu biểu, nhưng Thần Công Lý đến từ đâu và ủng hộ cái gì? Chắc chắn vị thần này bảo vệ công lý và chân lý. Chúa Giêsu đã xác định: “SỰ THẬT sẽ giải phóng quý vị.” (Ga 8:32)

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã ban luật về công lý: “Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.” (Xh 23:1-3) Ngài luôn thẳng thắn, nói tận nơi, không vòng vo, vì sợ nên người ta tìm cách né tránh, thích đường vòng, để thừa nước đục thả câu rồi tìm cách “chơi bài chuồn” luôn. Con chó sủa to là con chó nhát, và người ta cũng thế.

Kinh Thánh luôn đề cập rõ ràng vấn đề công lý, cả Cựu Ước và Tân Ước. Tuy nhiên, nhân danh lòng thương xót, công lý cũng phải được thể hiện đối với kẻ thù: “Nếu gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy. Nếu thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người ấy; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.” (Xh 23:4-5) Công lý rất cần thiết và rất quan trọng, phải được tôn trọng tuyệt đối và phải được thể hiện với mọi người, không trừ ai. Thật vậy, Eleanor Roosevelt xác định: “Công lý không phải chỉ dành cho một phía, nó phải dành cho cả hai phía.” Đó là lý lẽ chung, không dành riêng cho ai, và cũng không ngăn cấm ai.

Người ta lạm dụng và áp dụng sai trái nên cố ý làm lệch cán cân công lý. Nhưng từ xưa, sách Đệ Nhị Luật đã nói rõ: “Anh em KHÔNG ĐƯỢC làm sai lệch công lý, KHÔNG ĐƯỢC thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.” (Đnl 16:19) Ngày nay người ta còn nói tới “chỉ số công lý”, tức là đề cao sự công tâm và tính hợp lý. Horace Walpole định nghĩa: “Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là hành động của dối trá.” Một cách nhận định và lý luận tuyệt vời!

Thế gian bất an vì thiếu công lý, loài người có nhiều kiểu bất công, vì vậy mà người ta luôn khao khát bình an. Do đó nhân loại không ngừng mong chờ Đấng Thiên Sai – Đức Giêsu Kitô – xuất hiện để đòi lại công lý cho những chính nhân, bởi vì họ bị áp bức, bị đối xử tệ quá nhiều. Không thể tách rời công lý và hòa bình, có cái này thì ắt có cái kia, không có cái kia thì cũng chẳng có cái này. Điều đó như một hệ lụy tất yếu vậy.

Thuở xưa, ngôn sứ Isaia đã xác định: “Từ gốc tổ Gie-sê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” (Is 11:1-2) Thánh Phaolô cho biết: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa.” (Rm 8:14) Ai không yêu công lý là người không chuộng chân lý, ai bóp méo sự thật là người không thích hòa bình, ai cố ý né tránh sự thật là kẻ hèn nhát – đối với cả Chúa và tha nhân. Đó là một hệ lụy vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, không thể biện hộ bằng bất kỳ lý do nào hoặc bất cứ kiểu lý luận nào. Thiên Chúa là Đấng công chính, (Tv 11:7) là Đấng không ưa thích bạo tàn. (Tv 11:5)

Từ cổ chí kim, thời nào cũng vậy, xã hội luôn có bất công, đủ kiểu và đủ mức, nên luôn cần công lý của Thiên Chúa, vì chính Ngài là công lý: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.” (Is 11:3-4) Còn có bất công vì con người bất chính, thế nên cứ lẩn quẩn trong cái “tam giác” Tham-Sân-Si của kiếp phàm nhân.

Thật thú vị với cách giải thích của ngôn sứ Isaia: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò.” (Is 11:5-7) Có công lý thì có hòa bình, đó là thời đại mà Đức Kitô xuất hiện. Ngài chưa xuất hiện nên loài người ngày đêm mong đợi Ngài đến giải thoát, cứu độ.

Trong thời đại đó, mọi thứ trở nên dễ dàng, tuyệt vời, ngỡ là điều không tưởng, nhưng lại là sự thật minh nhiên: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang.” (Is 11:8-10) Nhân loại biết mình không làm được gì nên hằng khao khát Đức Kitô như đất hạn chờ mưa. Trong xã hội loài người, có những người lấy danh nghĩa là công lý nhưng thực ra lại chỉ mạo danh để trục lợi cho mình mà làm khổ người khác. Công lý của họ là “đầu môi, chót lưỡi,” hành động của họ lại trái ngược. Tất nhiên điều đó không hợp với Thiên Chúa.

Như một lời cảnh báo với câu nói của người Pháp: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác.” Câu nói giản dị mà thâm thúy, đơn giản mà sâu sắc. Rất hay và chí lý biết bao!

Thánh Vịnh gia đã sử dụng lời của vua Salômôn: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:1-2) Quả thật, công lý luôn “gắn liền” với đám dân đen, những người vừa nghèo vừa hèn, vừa thấp cổ vừa bé miệng, vừa khốn khổ vừa bị nhục, không có ăn mà còn bị bóc lột tận xương tủy. Khốn thay những kẻ lạm dụng quyền bính mà hành hạ người khác, trong khi đáng lẽ phải dùng quyền mà phục vụ. Thế nhưng họ lại làm sai ý muốn của Thiên Chúa.

Thật tồi tệ đối với những người có quyền hành và chức tước chỉ lo vinh thân phì da chứ chẳng làm lợi gì cho dân, thế mà vẫn “mồm loa mép dải”, thế nên mới có vụ “cóc kiện trời”. Xã hội ngày nay cũng vẫn có những người “liều mình” như Cóc ngày xưa, nghèo và khổ nhưng vẫn kiên trì đòi cho được công lý. Tuy nhiên,, ai cũng biết rằng “quan nhất thời, dân vạn đại,” đáng lẽ biết vậy để sống sao cho dân thương, đàng này họ lại hiểu theo ý riêng họ, thế nên họ “tận dụng” thời gian làm quan mà “vơ vét” lợi lộc để hưởng riêng. Thật hèn nhát với lũ “đỉa người” như vậy! Người ta không thể không mơ ước thời vua Nghiêu, vua Thuấn. (Ba ông vua Thuấn, Nghiêu và Vũ được Khổng giáo coi là các vua kiểu mẫu, nêu gương đạo đức, thời Tam Hoàng Ngũ Đế, năm 2852-2205 trước công nguyên, nhân dân an cư lạc nghiệp.)

Xã hội nhân loại quá lộn xộn, Thiên Chúa biết rõ đám người “bụng to” (cả đời và đạo) làm ăn ra sao nên Ngài mới sai Con Một Ngài tới trần gian. Con Một Thiên Chúa chính là Đức Kitô, là Hoàng Tử Bình An, là Vua Công Lý. Khi Con Ngài tới cai trị thì đám dân đen mới có thể ngóc đầu lên được. Thánh Vịnh gia cho biết: “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.” (Tv 72:7-8) Thật tuyệt vời! Và vì thế mà nhân loại luôn khao khát Đấng Công Bình – Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.

Thật vậy, công lý của Thiên Chúa luôn được thực hiện đúng mức: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn.” (Tv 72:12-14) Đức Kitô chính là Vua Hòa Bình, vì thế danh Ngài sẽ lưu trong sử sách và trong trí nhớ của mọi người ở mọi thời: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.” (Tv 72:17) Đó là điều tất yếu – ắt có và đủ.

Như một cách giải thích, Thánh Phaolô nói: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” (Rm 15:4) Và thánh nhân chân thành cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.” (Rm 15:5-7) Lời cầu chúc này đồng nghĩa với lời khuyên nhủ, mệnh lệnh hoặc cảnh báo. Và đó cũng là “phong cách sống” mà ai cũng phải thực hiện, nhất là trong Mùa Vọng – thời gian tín nhân chúng ta chờ đợi Đấng Cứu Thế đến thực hiện công lý cho mỗi tội nhân chúng ta.

Thánh Phaolô quả quyết: “Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.” (Rm 15:8-9) Thánh nhân cũng nói đến lòng thương xót của Chúa, vì lòng thương xót này đã có từ ngàn xưa, trải qua đời nọ đến đời kia, chứ chẳng riêng gì là lòng sùng kính Thánh Tâm hoặc lòng sùng kính Lòng Chúa Thương Xót. Hai cách gọi lòng sùng kính nhưng vẫn chỉ là một, phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa. Sống tinh thần Mùa Vọng cũng là sống lòng thương xót của Chúa, và Lòng Chúa Thương Xót cũng chính là công lý.

Chắc chắn ai cũng phải sống lòng thương xót, và mọi người đều phải thể hiện công lý. Tuy nhiên, những người mệnh danh là những người truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của hội này hay đoàn nọ thì phải chứng tỏ rõ nét hơn. Nếu vẫn cứ kèn cựa và phe cánh thì đó là trái ngược với Thiên Chúa – ngôn hành không song song. Như thế thì thật nguy hiểm, nghĩa là đi ngược với tinh thần Mùa Vọng: Chưa thực sự sám hối, chưa sửa đường-lòng-mình cho thẳng, mà cái gì chưa “thẳng” thì không thể là công lý, tức là giả hình, loại người mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nguyền rủa là “nòi rắn độc” hoặc “mồ mả tô vôi” mà thôi.

Theo lời kể của Thánh sử Mát-thêu, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2) Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Ông chỉ là “tiếng kêu trong hoang địa” nên chẳng ai thèm nghe, có nghe thì “tai này qua tai kia” mà thôi. Ông cũng bị người ta ghét vì ông là người dám nói thẳng nói thật, nói “chạm tự ái” bất kỳ ai, đồng thời luôn thể hiện công lý, vì ông yêu chuộng hòa bình và chân lý của Đức Giêsu Kitô.

Là người sống nội tâm và rất giản dị, dạng rất “bụi đời”, ông Gioan thể hiện ra cả bề ngoài: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Thế thì đúng là “dân bụi đời” thứ thiệt. Như vậy mới là “ngon” vì dám sống “khác người.” Ở đời dễ có mấy ai, thế nhưng loại “hàng hiếm” mới quý giá.

Nhưng rất lạ, bởi vì vẫn có người thích tìm hiểu “sự lạ” về Ông-Bụi-Đời ấy. Chứng cớ là người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. Có thể mới đầu họ chưa thực tâm mà chỉ vì tò mò và hiếu kỳ, nhưng rồi sẽ khác, mưa dầm thấm sâu.

Đúng là lạ thật, người ta quyết tâm thú tội và xin ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. Lạ hơn nữa là còn có nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. Thấy vậy, ông biết lòng họ thế nào nên nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3:7) Chúa Giêsu luôn thẳng thắn, nhiều lần dùng cụm từ “nòi rắn độc” để nguyền rủa những kẻ ưa thói giả hình, thính khoe hình thức.

Và rồi Ông-Bụi-Đời nói một lèo với đám người giả hình: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham’. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3:8-12) Nghe mà thấy “đầy lỗ tai” quá!

Chắc hẳn những ai thành tâm thiện chí thì sẽ cảm thấy “rát tai” với những lời thẳng thắn của Ông-Bụi-Đời. Nếu nghe và thấy “giật mình” thì thật là phúc, bởi vì có cảm thấy như vậy mới chân thành sám hối và cố gắng chấn chỉnh lối sống.

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con luôn biết sống tích cực khi trông mong Đấng Thiên Sai – đặc biệt là sẵn sàng chờ đợi Con Chúa đến thế gian lần thứ hai, xin soi sáng để chúng con biết yêu mến chân lý, quyết tâm bảo vệ công lý, sống công bình, và triệt tiêu mọi bất công. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

ANH EM HÃY HỐI CẢI

Lm. JB. Hoàng Văn Khanh

Suốt tuần I Mùa Vọng đã vang lên lời loan báo đầy hứa hẹn của ngôn sứ Isaia về một Đấng Thiên sai cứu độ thuộc vương triều Đavít, mang tên gọi Emmanuel (Is 7,14), sẽ xuất hiện như vị Thủ lãnh để giải cứu dân Chúa khỏi vùng bóng tối (Is 9,1-5) và phục hưng dân Chúa trong trật tự công lý và hoà bình (Is 11,1-9); bấy giờ toàn nhân loại sẽ hành hương về Giêrusalem để phụng thờ Giavê (Is 2,2-5). Vào những lúc bi thảm của lịch sử, những sấm ngôn ấy đã nung nấu nơi tâm hồn con người niềm hy vọng tha thiết: “Trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa vị Cứu tinh”. Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay nói cho ta vị Cứu tinh mà nhân loại ngàn năm chờ mong ấy đang đến qua sự dọn đường của Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị, đồng thời là vị Tiền hô loan báo và chỉ cho thấy khi Đấng Cứu thế xuất hiện.

  1. Gioan Tẩy giả là vị Tiền hô

Gioan Tiền hô, cũng gọi là Tẩy giả, xuất hiện trên sân khấu cứu độ cách đặc biệt. Đặc biệt vì ông được cưu mang và sinh hạ cách lạ thường khi cha mẹ là Giacaria và Elisabeth đã hết thời sinh nở (Lc 1,7). Điều đó nói lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đúng với tên mà thiên thần đã đặt cho ông ngày truyền tin: Gioan nghĩa là “Thiên Chúa thương”. Đặc biệt vì ông đã được thánh hoá từ trong lòng thân mẫu nhờ cuộc viếng thăm của Đức Maria đang cưu mang Ngôi Lời (Lc 1,15.44). Ngày ông sinh ra, phụ thân hết câm và mở miệng tiên báo về sứ mệnh cao cả và định mạng của con mình (Lc 1,64.67), đến nỗi mọi người đều sửng sốt và tự hỏi: “Rồi đây con trẻ này sẽ thế nào?” (Lc 1,66). Ông rút vào hoang địa tĩnh lặng, sống đời khổ chế, ăn châu chấu và uống mật ong rừng (Mt 3,1-4), để trầm tư mặc tưởng về sứ vụ sắp thi hành. Ông xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng và làm phép rửa sám hối chuẩn bị cho phép Rửa của Chúa Giêsu bằng Thánh Thần để ban ơn tha tội (Mt 3,11) Ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa (Mt 3,3), là người tôi tớ không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng sắp đến, Đấng có trọn quyền phán xét (Mt 3,11), là tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên sai cứu độ đang đến là chính Chúa Giêsu (Ga 1,15). Ông đã làm chứng Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34) và chỉ cho mọi người biết Ngài là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,35). Thế mà khi ngồi trong tù vì đã thẳng thắn vạch tội nhà vua, ông đã băn khoăn sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu là đấng phải đến hay còn phải đợi một ai khác (Lc 7,18). Cái chết của ông vì chân lý cũng loan báo trước cái chết vô tội của Đấng mà ông có sứ vụ dọn đường. Cả cuộc đời của Gioan là một chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Thiên sai Giêsu xuất hiện để cứu độ.

Giáo hội tiếp tục bước đi trên con đường của Gioan để thực thi sứ vụ truyền giáo mà Giáo hội xác tín là lý do hiện hữu của mình: “Giáo hội lữ hành, tự bản chất, là truyền giáo”(AG 2). Kitô hữu luôn noi theo gương Gioan để sống ơn gọi của mình là làm chứng nhân cho Đức Kitô, giới thiệu Ngài cho mọi người và dọn đường để Ngài đến với mọi tâm hồn.

  1. Hãy sám hối

Lời rao giảng của Gioan gồm tóm trong câu:Hãy sám hối. Các ngôn sứ thời Cựu ước luôn mời gọi mọi người hãy trở về với Thiên Chúa để được tha thứ. Khi bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu cũng tha thiết mời gọi hãy sám hối (Mc 1,15). Ngài truyền cho các Tông đồ hãy đi rao giảng để mọi người sám hối mà nhận lãnh ơn tha tội (Lc 24,47).

Hoán cải là sự thay đổi tận căn và toàn diện: từ não trạng, tư tưởng đến bản thân, hành động và cuộc sống. Cuộc trở lại nào cũng đòi phải chiến đấu cam go, cho đến lúc được Chúa chiếm hữu qua những thanh luyện. Chướng ngại lớn nhất của hoán cải là tính kiêu căng, sự tự mãn cho mình là công chính không cần ơn cứu độ, là mãi mê với sự đời và hưởng thụ vật chất. Gioan đã tuyên bố cách đanh thép: “Hãy làm việc lành chứng tỏ lòng sám hối. Lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây. Cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,7-10). Ông Giakêu đã thật sự hoán cải khi sẵn sàng đền bù gấp bốn cho những ai bị ông làm thiệt hại, bố thí phân nữa tài sản cho kẻ nghèo và từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu (Lc 19,8). Hoán cải theo sấm ngôn Isaia là lấp đầy những hố sâu của lòng ích kỷ, tham vọng và hưởng thụ, là bạt đi những đồi cao của kiêu căng tự mãn, là uốn cho ngay những quanh co lươn lẹo trong tư tưởng và hành động dối trá, để có thể đón nhận Đấng Cứu thế và sống tình liên đới huynh đệ với mọi người.

Kết luận

Hãy hoán cải. Hãy thành tâm trở về với Chúa, nổ lực tìm kiếm Người, nhiệt thành đáp ứng lời mời gọi sám hối bằng việc thực thi đức bác ái là giềng mối trọn lành (Cl 3,14) và là sự chu toàn mọi lề luật (Rm 13,10). Đó là điều kiện tiên quyết để dọn đường Chúa đến trong tâm hồn và đời sống của mình và của mọi người.

Về mục lục

.

NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ ĐÊN GẦN

Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê” (c.1). Tác giả Tin Mừng không cung cấp các thông tin chính xác về thời điểm ông Gioan xuất hiện, nhưng cẩn thận cung cấp thông tin về nơi chốn: “trong hoang địa miền Giuđê”. Đây không chỉ là một ghi chú địa dư, mà chính yếu là một ghi nhận thần học. Quả thực, trong truyền thống Thánh Kinh, “hoang địa” là nơi chốn lý tưởng của những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và chính trong hoang địa, Thiên Chúa đã nói lời của Ngài với ông Môsê, với ông Êlia và với Israel (Xh 3; 1V19; Xh 19).

Vậy, trong nơi chốn đặc biệt như thế, ông Gioan rao giảng. Động từ “rao giảng” là một thuật ngữ của Tân Ước để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này là ông Gioan (3,1), Chúa Giêsu (4,17) và các tông đồ (10,7). Nội dung lời rao giảng của ông Gioan là: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (c.2). “Nước Trời đã đến gần” là thông tin được công bố, và điều kiện để có thể “đi vào” Nước đó chính là sự hoán cải đời sống (metanoia). “Nước Trời” là một kiểu nói sêmít để tránh đọc tên Thiên Chúa, vì thế, có ý nghĩa như kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong các Tin Mừng khác. Để gia nhập Nước Trời, người ta phải hoán cải (metanoeô), tức là thực hiện một sự thay đổi con người mình, từ nội tâm bên trong đến thái độ bên ngoài, hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Sự hoán cải đời sống hay cuộc metanoia đó có nền tảng trong lời giảng dạy ngôn sứ, như được trình bày trong Is 1,16-17: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”.

Trong niềm trông chờ Nước Thiên Chúa, vốn rất mãnh liệt suốt lịch sử Israel, dân chúng nói chung nghĩ rằng Nước ấy sẽ được thực hiện nhờ Đấng Mêsia, vị Vua thuộc dòng dõi Đavít, Đấng sẽ chiến thắng muôn dân và đem lại vinh quang vĩ đại cho Israel. Tuy nhiên, khi rao giảng về sự hoán cải đời sống như là một điều kiện để được gia nhập Nước Thiên Chúa, ông Gioan đã cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là kết quả can thiệp của Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi sự cộng tác của con người.

Tác giả Mt quy chiếu lời rao giảng của ông Gioan về một bản văn ngôn sứ Isaia. Ông viết: “Ông [Gioan] chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c.3). Đây là lời trích từ Is 40,3tt theo bản LXX, khác biệt một chút với bản văn Hípri. Bản văn Hípri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa hãy dọn sẵn một con đường cho Đức YHWH; trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Lời ngôn sứ này nói đến cuộc giải thoát và hồi hương từ chốn lưu đày của dân Do Thái. Tác giả Tin Mừng áp dụng lời này vào sự kiện ông Gioan rao giảng và công cuộc Đức Giêsu sắp khởi sự. Ngoài ra, cả bản Hípri lẫn bản LXX đều không xác định ai là người cất tiếng hô, nhưng Mt gán vai trò đó cho ông Gioan, và thay thế hạn từ “Thiên Chúa” trong bản văn Is bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Chúa Giêsu. Kiểu nói “hô trong hoang địa” không có nghĩa là tiếng hô vô vọng trong nơi hoang vắng không người, mà là tiếng hô từ hoang địa, nhưng vọng vang ra bên ngoài hoang địa, vang đến tận Giêrusalem và khắp miền Giuđê (c.5).

Thần học của các rabbi Do Thái, dựa trên Ml 3,23 (“Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”), đã khai triển sâu rộng một quan điểm, theo đó, ngôn sứ Êlia sẽ đến như người tiền hô của Đấng Mêsia, để thanh luyện Israel và chuẩn bị cho dân đi vào Vương quốc Mêsia. Chính với hậu cảnh thần học đó mà ông Gioan được miêu tả trong hình dung của chính ngôn sứ Êlia: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (c.4). Quả thực, hình ảnh ông Gioan mặc áo dệt bằng lông lạc đà và nhất là thắt lưng bằng dây da, khiến người đọc nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2V 1,8; chú ý: chỉ Êlia và Gioan mới được Kinh Thánh mô tả là thắt lưng bằng dây da). Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Mà nếu như thế, thì có nghĩa là biến cố sắp xảy đến chính là “Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”, vì nhiệm vụ của ngôn sứ Êlia quy chiếu về chính Thiên Chúa, và ông không chuẩn bị cho biến cố “đến” của bất cứ ai khác.

Đáp lại lời rao giảng của ông Gioan là một sự kiện đặc biệt.“Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan” (c.5). Rõ ràng đám đông kéo đến bao gồm hai “cánh” khác nhau: một bên là những người đến từ trung tâm quyền lực tôn giáo – chính trị (Giêrusalem) và bên kia là từ khắp vùng xung quanh “hoang địa miền Giuđê”. Đám đông dân chúng, như vậy, đã tỏ rõ thái độ không hài lòng đối với các thiết chế tôn giáo – chính trị đương thời và đối với những nhà lãnh đạo thuộc về các thiết chế đó.

Đám đông đó kéo đến với ông Gioan, đoạn “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (c.6). Đương thời, người Do Thái rất quen với những nghi thức thanh đẩy theo luật lệ và thói tục. Nhưng phép rửa của ông Gioan ở đây có những yếu tố khác thường. Thay vì cử hành nghi thức thanh tẩy cho chính mình tại một nơi do Luật ấn định và nước phải được giữ sạch theo quy định, ông Gioan lại làm phép rửa cho những người khác và là trong dòng nước sông Giođan. Đàng khác, phép rửa này được ban với dấu chỉ của một sự hoán cải luân lý, và có ý nghĩa đánh dấu sự thay đổi đã hoặc sắp xảy đến nơi người lãnh nhận.

Trong số những người kéo đến với ông Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc. Những người Pharisêu thường tự hào về sự trung thành của họ đối với Luật được giải thích theo các truyền thống rabbi. Họ có ảnh hưởng trên dân chúng và đại diện cho một thứ quyền bính thiêng liêng. Những người Xađốc thì thuộc về tầng lớp lãnh đạo, gồm phần đông là những nhà quý tộc hoặc giới tăng lữ quý tộc giàu có. Họ là những đại diện cho quyền lực kinh tế, chính trị và tôn giáo. Họ kéo đến với ông Gioan để chịu phép rửa, nhưng lại không ý thức đầy đủ về tình trạng bất chính của mình, trái lại, hình như còn có thể làm cho dân chúng tưởng rằng những hệ thống áp bức bất chính đó không đối nghịch với hình ảnh ngôn sứ của ông Gioan và biến cố mà ông công bố rằng sắp xảy đến.

Vậy, “thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Ông Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác của quyền bính chính trị – tôn giáo mà họ có trong tương quan với dân chúng. Sau này, chính Đức Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Ông khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.

Rồi ông Gioan tiếp tục nói với họ: “Đừng tưởng có thể tự nhủ rằng: “Chúng ta có tổ phụ là ông Abraham.” Quả thật, tôi bảo các anh: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (c.9). Họ tưởng rằng để được cứ, chỉ cần là con cháu ông Abraham là đủ. Ông Gioan cho họ biết rằng không phải dòng dõi mà chính hành động của người ta mới là yếu tố quan trọng. Ông chơi chữ khi cho biết có là con cháu (benayyâ’) của ông Abraham hay chỉ là những hòn đá (abenyyâ’) thì cũng chẳng khác gì. Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10).

Như thế, không phải sự tinh tuyền về di truyền (là người Do Thái chính hiệu), không phải sự thực hiện các nghi lễ phụng tự tại đền thờ (phái Xađốc), cũng chẳng phải sự trung thành giữ những quy định chi li của Luật (phái Pharisêu), mà chính thái độ sống với những người khác trong thực tế, mới là yếu tố làm cho người ta không “bị chặt đi và quăng vào lửa”.

Cuối cùng, ông Gioan so sánh mình với Đấng sắp đến. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh hối cải. Còn Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn (ischyroteros) tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (cc.11-12). Ông Gioan tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng đang đến, tức là không đáng làm một công việc bình thường mà người đầy tớ vẫn làm cho chủ mình. Đồng thời, ông cũng cho thấy Đấng đang đến có ba đặc điểm quan trọng: (1) có “quyền thế”, (2) “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”, và (3) là thẩm phán cánh chung rất nghiêm khắc “sẽ rê sạch lúa trong sân”.

Việc gắn tính từ “thánh” vào hạn từ “Thần Khí”, trước hết, có nghĩa là phép rửa trong Thần Khí mà Đấng đang đến sẽ thực hiện chính là thực tại thuộc về cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Thứ hai, điều đó có nghĩa là hoạt động của Đấng đang đến sẽ là hoạt động thánh hóa, tức là đưa con người vào cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Sự thông ban sự sống thần linh từ bên trong sẽ biến đổi con người, làm cho con người gắn kết với Thiên Chúa và trung thành với Người (Ed 36,26t).

Gợi ý suy niệm và chia sẻ:

Đọc bài Tin Mừng hôm nay trong khung cảnh Mùa Vọng, chúng ta có thể suy niệm về ba điểm quan trọng:

  1. Đấng đang đến chính là Đức Chúa.

Một trong những điểm nhấn quan trọng của bài Tin Mừng hôm nay là việc giới thiệu Đấng đang đến trong dung mạo Đức Chúa. Sứ điệp của ông Gioan (“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần”: c.2) liên quan đến chính Đức Chúa. Việc giới thiệu ông Gioan là ngôn sứ Êlia cho thấy Đấng sắp đến sau ông sẽ chính là Đức Chúa, vì ngôn sứ Êlia có nhiệm vụ chuẩn bị cho Đức Chúa ngự đến chứ không phải chuẩn bị cho một ngôn sứ khác xuất hiện. Bằng việc cử hành phép rửa, ông Gioan nhấn mạnh sự cần thiết phải thanh luyện để đến gần Đức Chúa đang đến. Khi so sánh mình với Đấng đang đến, ông Gioan nhấn mạnh quyền thế hơn hẳn của Đấng ấy, và nhất là ông khẳng định rằng Thánh Thần (vốn là sự sống và sức mạnh của chính Thiên Chúa) sẽ hiện diện với Đấng đang đến; Đấng ấy sẽ hành động trong quyền năng của Đức Chúa và sẽ ban cho người ta sự sống của Thiên Chúa. Với Đấng ấy, chính Thiên Chúa đến để ban sự sống và đồng thời để phán xét.

Đó chính là Đấng mà chúng ta đang đợi chờ trong suốt Mùa Vọng này. Mùa Vọng không phải là sự chuẩn bị và chờ đợi một lễ hội lớn lao, hoành tráng và vui tươi sẽ được cửa hành vào cuối tháng 12! Mùa Vọng là thời gian đón chờ chính Đức Chúa, Đấng đang đến.

  1. Hoán cải là đòi hỏi khẩn thiết.

Nội dung căn bản trong lời rao giảng của ông Gioan là: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (c.2). Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10). Đấng đang đến là Thẩm Phán cánh chung, “tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”” (c.12).

  1. Những nghi thức và hoạt động bề ngoài không phải là điều chính yếu trong khi chuẩn bị đón Chúa đến.

Những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc muốn tránh cơn thịnh nộ sắp giáng xuống bằng cách đặt mình vào một nghi thức bề ngoài nhưng không thực hiện đòi hỏi nghiêm túc là phải hoán cải đời sống, tức là không thay đổi hệ thống bất chính đang kềm tỏa mình. Theo ông Gioan, những nghi thức bề ngoài không đủ để người ta được bước vào Nước Thiên Chúa; cần phải thay đổi đời sống thật sự.

Đó cũng có thể là vấn đề của chúng ta trong Mùa Vọng này. Tất nhiên những hành động bề ngoài là cần thiết: trong bài Tin Mừng hôm nay, việc hoán cải được thể hiện qua việc để cho mình được dìm trong một phép rửa tỏ lòng sám hối, tức là qua một hành động bề ngoài. Nhưng chỉ những hoạt động bề ngoài thấy được thôi, thì chưa đủ. Điều chính yếu cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”. Đó chính là điều quan trọng nhất trong Mùa Vọng này.

Về mục lục

.

HÃY SÁM HỐI ĂN NĂN

Lm. Phêrô Trần Minh Đức

Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa ra những dự đoán cho năm mới. Báo chí, truyền hình làm thống kê, thường đề cập tới những chuyện không may trong thời gian qua: nơi này phong ba bão tố; nơi kia hạn hán mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tai nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả đều tuỳ thuộc vào đó.

Năm xưa, Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Ông được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của ông luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng sám hối ăn năn.

Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống ‘khẩu phật tâm xà’: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác!

Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sĩ kỹ sư thì tự cho rằng mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ rằng mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tư phụ của dân Do thái xưa: Họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.

Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng còn phải đi xa hơn một bước nữa. Sám hối phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: ‘Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối’, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: ‘Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em’.

Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.

Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.

Về mục lục

.

LỜI CÔNG BỐ CỦA GIOAN TẨY GIẢ

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Gioan, có biệt danh là Tẩy giả. Mátthêu trích dẫn Isaia 40,3 để giới thiệu: Gioan Tẩy giả chính là tiếng kêu trong hoang địa mà ngôn sứ Isaia tiên báo, có nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sống trong hoang địa từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), Gioan xa lánh mọi tiện nghi (Mt 11,8; Lc 7,25), xa lánh những khuôn khổ đạo đức Dothái, đặc biệt của đền thờ và hội đường. Ông gần những người Esseniens ở Qumrân. Mátthêu khi phục sức cho Gioan Tẩy giả giống Êlia, mang một bộ áo da lông, ngang lưng thắt dây da (2V 1,8). Mátthêu mặc nhiên bảo, Gioan Tẩy giả chính là Êlia. Theo truyền thống, ÊLia đã được đưa lên trời, không chết, sẽ trở lại làm Tiền hô cho ngày cánh chung, ngày Đấng Messia đến (Mt 3,23).

Trong hoang địa, Gioan lấy châu chấu và mật ong làm thức ăn. Mátthêu không quả quyết Gioan chỉ sống bằng hai thức ăn đó. Châu chấu chẳng phải thức ăn lạ thường. Người Bédouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Tài liệu Damas ở Qumrân có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn. Còn mật hoặc mật ong tìm trong các hốc đá, hoặc nước rỉ của cây Tây hà liễu.

Bởi cuộc sống đơn sơ đạm bạc, Gioan không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, tiểu đường hay dư cholesterone. Gioan, một con người với thân hình khoẻ mạnh và khắc khổ, nhưng nơi ông toát ra một tâm hồn thánh thiện. Hữu xạ tự nhiên hương, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđêa, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến với ông.

Thi hành sứ vụ trong hoang địa, có lẽ Gioan muốn gắn liền với truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ Ai cập vào đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7). Vì thế, người ta tin, thời cánh chung, nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu trong hoang địa và Đấng Messia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24,26). Do đó, một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào hoang địa (Cv 21,38).

Ở hoang địa Gioan rao giảng gì? Gioan kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến”. Sám hối hay hối cải, tiếng Latinh “conversio”, tiếng hy lạp “metanoia”, có nghĩa thay đổi não trạng, ăn năn trở lại, canh tân đổi mới. Trong Cựu ước, từ này có nghĩa bỏ tà thần trở về với Đức Giavê. Trong Tân ước, nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện bao hàm cả về phương diện tiêu cực bỏ đàng tội lỗi, lẫn phương diện tích cực hướng con người về Thiên Chúa.

Với Gioan, chốn hoang địa không còn là nơi cô tịch, nó đã trở thành trung tâm khơi động một phong trào sám hối, đầy nghịt những người. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến chịu phép rửa, Gioan nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” Tại sao Gioan gọi họ như thế? Có lẽ Gioan thấy nơi họ có sự gian dối, giống con rắn trong sách Sáng thế. Họ đến chịu phép rửa không để được tha tội, nhưng để dò xét ông (Ga 1,19-28).

Tuy gọi là “nòi rắn độc”, nhưng Gioan vẫn cho họ một lời khuyên: “Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối, đừng nghĩ: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham.” Người Dothái thường tự hào là con cháu Abraham. Họ quan niệm: Ngày cánh chung, ngày Giavê sẽ biểu lộ cơn thịnh nộ của Người. Cơn thịnh nộ ấy sẽ giáng trên lương dân, những kẻ tội lỗi. Còn toàn thể con cái Israel được tham dự vào thế giới tương lai, bởi lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và các tổ phụ vẫn có giá trị cho hậu duệ. Theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy, trong Dothái có câu châm ngôn quả quyết, ai thuộc dòng máu Dothái, chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Một châm ngôn kiểu đó dễ làm cho một số người Dothái sống phóng túng về mặt luân lý và làm cho những người Pharisiêu và Sađốc tự mãn kiêu căng. Đối với Thiên Chúa là con cháu Abraham hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là có giữ giao ước, có yêu mến và thực thi ý Người hay không. Nếu Israel không trung thành với Thiên Chúa, không tin vào Đấng Người sai đến, Người sẽ làm cho những hòn đá trở nên con cháu Abraham, nghĩa là loại trừ Israel và kêu gọi lương dân làm thành một Israel mới phát sinh hoa trái (Mt 8,11-12).

Bởi thế, Gioan đã kêu gọi họ sám hối. Nếu họ không sinh quả phúc đức để chứng tỏ lòng sám hối, họ không thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Theo Gioan điều đó cần thiết và cấp bách, không trì hoãn được, vì Nước trời đã đến: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn oán phạt.

Đấng sáng lập đến sau ông, quyền thế hơn ông. Sánh với Người ông chẳng là gì. Phép rửa ư? Phép rửa của Gioan là phép rửa tạm thời, phép rửa bằng nước, giục lòng sám hối. Phép rửa của Người là phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, là sự thanh tẩy tuyệt đỉnh, ban ơn tha tội và sự sống mới. Con người ư? Ông chỉ là Tiền hô, là người dọn đường không đáng xách dép cho Người. Người là Đấng Messia, là Đấng thẩm phán đầy quyền năng: tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

Thật tuyệt vời, Gioan Tẩy giả đã khiêm nhường tự xóa mình đi trước Đấng mà ông đã nhận nhiệm vụ dọn đường. Đức Giêsu phải lớn lên, ông phải nhỏ đi. Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ là lúc ông vào nhà tù Macheronte, ở đó ông đã bị chém đầu. Với cái chết, Gioan đã hoàn thành sứ vụ Tiền hô dọn đường. Ông là người vĩ đại. Jean Perron viết: “Thu tóm trong chính mình tất cả những ngôn sứ từ thời Êlia, đấng Tiền hô rõ ràng là ngôn sứ sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo, kết thúc ngôn sứ và mở đầu Phúc âm, ông là bản lề nối Cựu ước và Tân ước”. Đức Giêsu quả quyết: “Trong các người nam không ai trọng hơn Gioan Tiền hô”.

Về mục lục

.

THẾ GIỚI LUÔN CẦN NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐẦY HOA

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Mùa Vọng thường gợi lên hình ảnh những con đường: con đường về Núi Thánh Sion, con đường hồi hương tái thiết lại Sa Lem, con đường trong hoang mạc, con đường gồ ghề, con đường cong queo…cùng với những nỗ lực để có những con đường đẹp, con đường thẳng như “bạt thấp nổng đồi”, “lấp đầy hố sâu”, “uốn thẳng con quẹo…”.

Và tất cả những cuộc hành trình đó, những con đường đó chỉ là hình ảnh, biểu trưng để dẫn dắt chúng ta biến thời gian cử hành Mùa Vọng thành một cuộc “lên đường”, một cuộc tiến bước trên “lộ trình” hướng đến và gặp gỡ Thiên Chúa. Và trong cuộc lên đường để gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ phải “bạt xuống nhưng đồi núi của kiêu căng, hợm hĩnh, của tham vọng ngông cuồng”, mà còn phải “lấp đi những hố sâu của hận thù chia rẽ, ghen ghét giận hờn, đố kỵ, cách ngăn”. Có nghĩa là để đón nhận Đức Kitô và sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa, phải sửa dọn con đường thích hợp, con đường ăn năn sám hối (metanoia), con đường từ bỏ hy sinh, con đường yêu thương thuận hòa…. Chúng ta cần sửa dọn “con đường tâm hồn” ta, “con đường cuộc sống” ta. Chúng ta cần sửa dọn những con đường đến với anh em, những con đường là các tương quan người với người trong gia đình, trong cộng đoàn, trong môi trường xã hội quanh ta…

Câu chuyện “con đường giữa hai cái hang” sau đây có thể là một minh họa rõ nét cho câu chuyện “dọn đường, sửa đường đón Chúa” mà chúng ta chia sẻ với nhau hôm nay:

Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy: Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách chọn con đường ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để qua hết cuôc đời trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả cao, và để khỏi bận tâm, chia trí về những “sự thế gian”, cả hai quyết định, hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng, một thế giới riêng, không liên hệ, không giao tiếp với nhau và với mọi người… Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như nhai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu. Thời gian sau đó, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên, đổi họ, lần mò trốn lên núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai nẩy sinh sáng kiến: chọn nơi đây làm chốn dừng chân để sám hối và làm lại cuộc đời. Thế là cả hai dọn sạch hang cũ và bắt đầu cuộc sống mới của những người “ẩn tu bất đắc dĩ.” Chỉ khác với hai thầy dòng trước một điều là cả hai quyết định làm một con đường nối liền hai hang để thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã mọc đầy hoa, xung quanh hang động cảnh trí phô đầy sức sống và vẻ đẹp. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng khiến nhiều người cất công lên núi để xin “Hai Thầy” cầu nguyện và hưóng dẫn đạo đức. Từ đó, phát xuất phát từ hai cái hang đó, đã có nhiều lối đi, nhiều con đường dẫn đến các khu dân cư, và trên các lối đi đó cùng mọc đầy hoa tươi thắm… Và rồi, hai “thầy tướng cướp ẩn tu” đó qua đời. Vì đời sống thánh thiện và vì có những phép lạ xảy ra cho một số người lên núi cầu xin, nên dân chúng vùng đó “tự động” phong thánh cho hai “thầy cướp ẩn tu” nầy…

Con đường đến với Thiên Chúa và đến với anh em của mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng nầy cũng phải được phát quang và trồng đầy hoa như thế. Và chỉ có những con đường “hiệp thông, chia sẻ, bác ái, khoan dung, quảng đại, tha thứ…như thế mới có thể biến những “hang đá tâm hồn” lạnh lẽo hiu quạnh của những tên cướp trở thành thánh nhân, mới biến chúng ta trở nên những Kitô hữu đích thực, mới biến thế giới quanh ta trở thành an vui hòa bình, và đặc biệt, biến Mùa Vọng, Mùa Giáng sinh năm nay trở thành một “Tin Vui đích thực” cho chính chúng ta và cho mọi người quanh ta. Quả thật trong thế giới nầy, trong cuộc đời nầy, cần thiết biết bao những con đường đầy hoa như thế. Amen.

Về mục lục

.

NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN BÊN

Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến

Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3,1-12). Theo sau đoạn nầy là hai biến cố quan trọng: Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,13-17), và chịu cám dỗ (4,1-11). Sau đó, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu cách chính thức (4,12-17) với lời rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (4,17).

Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: – Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6); – Gioan ngỏ với nhóm Pharisêô và Sađucêô (3,7-10); – Gioan loan báo Đấng sẽ đến và sứ vụ trổi vượt của Người (3,11-12). Chủ đề chính của đoạn nầy là “sám hối”, metanoeò (3,2.8 ) và “phép rửa” baptizò (3,1.7.11[2x]). Gioan rao giảng sự sám hối vì “Nước Trời đã gần đến” (3,2), và ông thanh tẩy bằng nước cho những ai tỏ lòng sám hối (c.11). Chúa Giêsu sẽ xuất hiện ở câu 3,13. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước khi Người đến để chuẩn bị lòng dân đón tiếp Người.

Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6): – Gioan xuất hiện và lời rao giảng của ông (3,1-2); – Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4); – Dân chúng đến với ông (3,5-7).

Trong hai câu đầu tiên Matthêô giới thiệu ngay khung cảnh, thời gian và lời rao giảng của Gioan (c.1). Gioan xuất hiện (c.1), paraginomai, “đến”, động từ nầy cũng được dùng cho Chúa Giêsu (3,13). Matthêô muốn gắn liền sứ vụ của Gioan vào sứ vụ của Chúa Giêsu (4,17). Chỉ dẫn thời gian “trong những ngày ấy” ám chỉ lúc Gioan xuất hiện Chúa Giêsu đang còn ở Giuđêa (x. 2,1). Khung cảnh “trong sa mạc xứ Giuđêa” đặt con người Gioan và lời loan báo của ông liên hệ đến Isaia người loan báo kế hoạch cứu độ mới của Thiên Chúa cho dân Israel (x. Is 40,1-11).

Lời kêu gọi của Gioan là “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (3,2; 4,17; 10,7)

Đặc điểm của Matthêô là đặt việc sám hối liên hệ với Nước Trời, chứ không trực tiếp với việc tha tội (x. Mc 1,4; Lc 3,3). Động từ metanoeò theo nguyên tự có nghĩa là “thay đổi tâm trí” “thay đổi cách hiểu/cách suy nghĩ”; trong meta-noeò có “meta” có nghĩa là “thay đổi”, “chuyển sang”, “biến đổi” (x. 21,29.32; 17,2); và “noeò” có nghĩa là nhận thức bằng tâm trí, là hiểu biết. Matthêô dùng động từ noeò nầy ở thể phủ định trong lời Chúa Giêsu khiển trách hoặc người Pharisêô hoặc các môn đệ của Người, vì họ không hiểu đúng theo cách của Chúa (x. 15,17; 16,9.11). Liên quan đến động từ metanoeò, trong 11,20-21 Chúa Giêsu trách dân thành Kôrazin và Bêthsaiđa vì họ đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện, nhưng họ không “sám hối”, vì họ đã không hiểu/nhận ra Người là ai dù đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện (x. 11,20.21; 12,41). Cũng thế, trong 12,41 Chúa Giêsu lại khiển trách “thế hệ nầy” vì họ đã không “sám hối” khi nghe lời Người rao giảng. Lý do duy nhất là vì họ không nhận Người là “cao trọng hơn Giôna”.

Cách nói “Nước Trời” là theo cách dùng của người Do thái để tránh gọi tên “Thiên Chúa”. Matthêô dùng nó đến 24 lần, trong khi “Nước Thiên Chúa” chỉ bốn lần (12,28; 19,24; 21,31.43). Ý nghĩa của hai cách nói nầy giống nhau (x. 19,23-24). Động từ “gần đến”, egizò, chỉ một sự kiện tới giai đoạn cuối cùng và sắp hoàn tất. Khi Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem là lúc Người sắp kết thúc của sứ vụ cứu chuộc (21,1; 26,45-46); cũng thế về mùa gặt (21,34). Như thế, “Nước Trời đến gần” là giai đoạn cuối cùng trong chương trình cứu chuộc và không còn một nước nào khác nữa. Nước Trời nầy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy, sám hối là thay đổi cách suy nghĩ để nhận ra Nước Trời đang đến và có điều kiện đi vào Nước Trời. Đó cũng chính là nhận ra và tin vào Chúa Giêsu.

Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4)

Câu 3,3 trích dẫn từ phần mở đầu của sách Isaia 40,1-11. Đoạn mở đầu nầy loan báo thời kỳ cứu độ mới cho dân Israel. Tiếng kêu “dọn đường cho Chúa” ngỏ đến một tập thể. Hình ảnh “bạt lối Người đi” nói đến việc tiến vào khải hoàn của một vị vua. Theo sau lời kêu gọi dọn lối sửa đường, Isaia loan báo việc Thiên Chúa đến để cứu độ dân Người (Is 40,4). Matthêô mô tả Gioan Tẩy Giả theo hình tượng của Isaia là thắt lưng bằng da thú vật (3,4; 2 V 1,8) để xác nhận ông là chính là Isaia mà các ngôn sứ loan báo là phải đến trước để dọn đường cho Đấng Kitô (x. 11,14). Như thế sự cứu độ mà Isaia đã loan báo, nay sắp được thực hiện. Như Isaia đã chỉ chuẩn bị đường cho Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả cũng thế. Đấng sắp đến không phải là một ngôn sứ, mà là Thiên Chúa. Tuy nhiên, Gioan còn hơn mọi ngôn sứ thời Cựu ước, khi ông loan báo cùng một sứ điệp Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ làm là “Nước Trời đang đến gần” (3,2; 4,17; 10,7). Làm như thế ông được thông phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu thời Tân ước, và được nhận là “còn hơn một ngôn sứ nữa!” (x. 11,9).

Dân chúng đến với ông (3,5-6)

“Tote” “bấy giờ”, mở đầu câu 5, liên kết đoạn nầy lại với câu 3,2. Nghe lời Gioan rao giảng dân chúng kéo đến với ông. Matthêô kể tên Giêrusalem, Giuđêa và vùng dọc theo sông Giorđan (c. 5); nghĩa là cả miền Giuđêa. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng, dân chúng sẽ kéo đến với Người, không chỉ từ các vùng nầy mà cả Galilêa và Đêcapolis nữa (4,25). Chú ý ở đây là Matthêô phân biệt “dân chúng từ Giêrusalem” ở đây với “tất cả Giêrusalem với vua Hêrôđê” (x. 2,3). “Tất cả” bấy giờ có cả nhóm Pharisêô và Sađucêô nữa (c. 7). Họ đến để chịu phép rửa tại sông Giorđan trong khi xưng thú tội lỗi (c. 6). Tên Gioan “Tẩy Giả” liên kết với việc thanh tẩy ông làm và sông Giorđan. Việc xưng thú tội của dân chúng được xem là kết quả của lời rao giảng “hãy sám hối” của ông (c. 2; 3,11). Trong Cựu ước sông Giorđan gợi lại giai đoạn sau cùng của thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc: vượt qua sông để vào đất hứa, theo sự chỉ huy của Giôsuê (Giôsua 3-4). Giôsuê là tên bằng tiếng hipri của cùng tên Giêsu bằng tiếng aramaic. Tên nầy có nghĩa là “Chúa cứu độ” (x. 1,21). Như thế, sông Giorđan có ý nghĩa đặc biệt trong kế đồ cứu chuộc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sẽ bước xuống sông Giorđan để dẫn đầu cuộc xuất hành mới nầy (3,13-17).

Chúa Giêsu đến để dẫn dân Người vào Nước Trời, chứ không vào bất cứ một đất nước nào. Chỉ ai biết sám hối, nghĩa là thay đổi tâm và trí theo ý Thiên Chúa, mới có thể nhập vào cuộc xuất hành nầy.

Về mục lục

.

CHUẨN BỊ ĐÓN NHẬN NƯỚC TRỜI

Lm. Bùi Mạnh Tín

Để mang lại kết quả, mỗi công việc cần được chuẩn bị kỹ lưỡng và thích hợp. Thiếu chuẩn bị hay chuẩn bị không đúng cách sẽ trở thành nguyên nhân của những thất bại. Đón nhận Nước Trời là công việc rất quan trọng vì liên quan đến định mệnh mai sau của nhân loại.

Trong bài giảng hôm nay, Gioan Tiền hô đề ra cho chúng ta hai khía cạnh của việc chuẩn bị: tiêu cực và tích cực.

Tiêu cực: Cản trở lớn lao nhất trong việc đón nhận ơn Cứu độ là các khuynh hướng xấu và tội lỗi. Thật vậy, chính các khuynh hướng xấu đã đẩy con người xa lìa Thiên Chúa, làm con người lạc hướng và quên hẳn cuộc gặp gỡ quan trọng của mình với Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã tạo nên bức tường ngăn cách giữa con người và Thiên Chúa, một hố sâu giữa thân phận nhân loại và Ơn Cứu độ. Chúa Giêsu đã từng nói:Chỉ những tâm hồn trong sạch mới nhìn thấy Thiên Chúa. Nhưng thật đáng tiếc, các khuynh hướng xấu và tội lỗi đã dần dần làm lu mờ tâm hồn con người, đánh mất sự trong sạch nguyên thủy. Gioan Tiền hô đã cụ thể hóa thái độ tiêu cực này bằng hình ảnh con rắn độc hay một cây cằn cỗi không sinh hoa trái.

Tích cực: Sau khi dẹp bỏ những cản trở, con người sẽ dễ dàng nhìn thấy đích điểm cần tiến tới, rồi hăng hái bước đi, bước đi về phía Nước Trời, về phía ơn Cứu độ. Nói cách cụ thể, nhân loại phải đến gặp Thiên Chúa, Đấng không còn xa lạ và cao vời ở một thế giới thần thánh nào đó, nhưng đã nhập thể hóa thân làm người mà Gioan tuyên bố: “Đấng ấy sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Chính Đấng ấy sẽ thanh tẩy anh em…” Bước về phía Nước Trời, có nghĩa là chúng ta cần tích cực trong cuộc sống Đức Tin của mình: cầu nguyện, tham dự các Bí tích, chia sẻ cơm áo cho tha nhân, sống hòa hợp và tạo niềm cảm thông với người khác, v..v..

Công việc chuẩn bị này cần được thực hiện liên tục để tạo nên tư thế “sẵn sàng”, vì chúng ta không biết ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, như ông chủ đi xa bỗng trở về, như tân lang xuất hiện lúc nửa đêm. Nói theo kiểu của Gioan: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây.”

Mùa Vọng này chính là thời gian thuận tiện, thời gian cứu rỗi, để mỗi người chúng ta, theo lời kêu gọi của Gioan và sự trợ giúp của Thiên Chúa, mạnh dạn dẹp tan mọi cản trở và những ràng buộc bất chính, rồi hăng hái nhanh bước tiến về phía Đức Kitô để lãnh nhận Nước Trời.

Về mục lục

.

XIN CHO CON BIẾT LẮNG NGHE

Lm. Bùi Quang Tuấn

“Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt 3:3)

Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong sa mạc mà không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, chợ búa, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay vui chơi tội lỗi? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới mong có kẻ hồi đầu qui chánh, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ.

Gioan sống trong sa mạc. Tiếng hô của ông vang lên giữa vùng hoang vắng.

Không biết chốn trời không mông quạnh thế kia thì tiếng hô được mấy ai chú ý. Tiếng hô vang. Vang lên mãi. Nhưng trong nơi trống vắng thì ai nghe cho!

Phải chăng Gioan đã hô lên cho chính mình? Nếu thế thì lời kêu gọi “Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” trước tiên phải là lời nói với chính mình.

Nhờ biết hô với chính mình trước hết nên Gioan đã có sức lôi kéo từng đoàn người từ khắp xứ Giuđê đến với ngài, để nghe tiếng ngài hô, và chịu làm theo lời răn dạy. Nhờ hô với chính mình mà tiếng hô đã vang đến tận khắp các vùng Giêrusalem, xâm nhập tới cõi lòng của bao kẻ sa đoạ khô khan.

Không phải chỉ sau khi nghe tiếng hô của Gioan mới bắt đầu có người ăn ăn hối cải, chịu thanh tẩy để dọn đường cho Chúa đến. Đúng hơn, từ hoang vắng của sa mạc và trong nơi tịch liêu của cõi lòng, Gioan đã nghe tiếng hô “hãy dọn đường cho Chúa đến” phát ra. Lời đó vang đi dội lại trong lòng ông, thúc bách ông nối dài tiếng hô bằng cách ra đi “dọn lòng người cho Chúa đến.”

Cho nên, Gioan chính là người đã dọn đường lòng mình trước nhất. Vì biết lắng nghe những điều mình hô nên tiếng hô của mình có người đáp lại. Sự lắng nghe không chỉ bằng thính giác, nhưng còn bằng tâm hồn. Và từ tâm hồn mới phát sinh những thái độ sống. Một đứa trẻ “biết nghe” không cứ phải là một đứa trẻ có thính giác tốt, song là một đứa trẻ biết ghi tâm lời nói của bố mẹ, thầy cô, và thực thi.

Những gì phát xuất từ con tim cũng đều mang sắc thái của tình yêu và sự sống.

Thế ra, không biết lắng nghe bằng con tim thì con tim sẽ không thể cất lời. Và nếu lời cất lên không phát xuất từ con tim, lời đó sẽ chẳng mang hiệu quả gì. Thomas Merton đã từng nhận xét:

“Nếu đời ta cứ phun ra những lời vô ích

Chẳng bao giờ ta nghe được bất cứ điều gì,

Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ điều gì,

Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ cái gì.

Thế rồi,

Vì cứ nói mãi trước khi có cái gì để nói,

Ta trở thành người không biết nói.”

Không biết nói hoặc nói điều vô ích mà cứ bắt người khác lắng nghe thì chỉ tạo nên những cực hình, phản kháng.

Nhiều gia đình bất an, nhiều cộng đoàn bất thuận, nhiều quốc gia bất hoà chỉ vì có kẻ không biết nói. Nguyên do là thiếu lắng nghe, sự lắng nghe của tâm hồn. Tâm hồn không nghe được vì còn ngổn ngang đây đó nhiều chướng ngại của tự ái, ích kỷ, kiêu căng, tự mãn…

Lắm khi ta than thở: Chúa không chịu nghe tiếng tôi. Nhưng thử hỏi: Chúa không nghe tiếng tôi hay vì tôi không nghe được tiếng Ngài? Rồi khi nghe được tiếng Chúa, liệu tôi có chấp nhận để tiếng ấy nhồi nắn biến đổi đời mình chăng?

Nhiều lúc tôi buồn vì người ta không chịu nghe điều tôi muốn nói. Nhưng thử hỏi: họ không nghe tiếng lòng của họ? Mà nghe tiếng lòng người khác sao được khi chính tôi lại bịt tai tâm hồn? Âm thanh của lời tôi nói sẽ chẳng truyền lan nếu nó không phải là Lời đã vang dội lại trong sa mạc lòng mình.

Có nghe được tiếng nói nơi lòng mình mới mong đổi được đời mình. Có đổi được đời mình mới làm thẳng đường cho Chúa đến. Chúa đến trong đời tôi để rồi qua tôi Ngài đến với người khác.

“Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi.” Tôi muốn hô vang lời ấy cho mọi người nghe. Nhưng trước hết, tôi bắt chước thánh Gioan, đi vào sa mạc cuộc đời, tức là bước vào nơi thanh vắng và tĩnh lặng của nguyện cầu, nơi đó tâm hồn tôi sẽ nghe được tiếng nói của trời cao. Tiếng ấy sẽ dần dần lớn mạnh, cho đến khi oà vỡ và tuôn chảy đến muôn tâm hồn.

Phải chăng đó chính là thái độ sống mà Tin Mừng mùa Vọng năm nay muốn tôi mặc lấy.

Về mục lục

.

THỐNG HỐI

Lm. Cao Vũ Nghi

Đứng trước tình trạng của một quốc gia không còn nhận biết hồng ân Thiên Chúa, Tổng thống Abraham Lincoln đã chỉ định ngày 30 tháng 4 năm 1863 là Ngày Toàn Quốc Chay Tịnh, Hãm Mình, và Cầu Nguyện. Trong dịp này, Tổng thống Lincoln đã nói: “Chúng ta đã được lãnh nhận biết bao ơn phúc của trời cao. Qua nhiều năm, chúng ta được sống trong bình an và thịnh vượng. Đất nước chúng ta đã phát triển về dân số, thế lực, và kinh tế, như chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Nhưng chúng ta đã quên Thiên Chúa… Với một trái tim đầy ắp tự mãn, chúng ta mộng tưởng rằng những gì chúng ta có là do sự khôn ngoan vượt mực của mình. Say sưa trong sự thành công của mình, chúng ta không còn thấy sự cần thiết của ơn thánh Chúa, và trở nên kiêu hãnh đến nỗi không còn cảm thấy nhu cầu phải cầu nguyện với Đấng đã tác thành nên mình. Vì vậy, chúng ta cần phải hạ mình xuống trước Đấng mà chúng ta đã xúc phạm, phải xưng thú tội chung của quốc gia, và cầu xin ơn thương xót và tha thứ.”

Đó cũng là lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy giả đối với mỗi người chúng ta trong những ngày chuẩn bị mừng kỷ niệm ngày Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến.” Nhưng phải chăng, cũng như các tiên tri trong thời Cựu Ước, chúng ta không muốn nghe những lời kêu gọi này. Chúng ta không muốn nghe là vì chúng ta đã quá chán ngán khi nghe những lời này, hay cũng có thể vì chúng ta không muốn phải bỏ đi nếp sống thoải mái, bỏ đi những đam mê, tật xấu, và phải ép mình để tuân theo những điều Chúa dạy, và cũng có thể vì chúng ta thấy chúng ta có tội lỗi gì đâu mà phải ăn năn thống hối.

Mới đây, khi nhìn vào hiện trạng của thế giới, mục sư Billy Graham đã có nhận xét sau đây: “Chúng ta đang mắc phải một chứng bệnh trầm trọng. Chứng bệnh này không liên quan đến vấn đề chủng tộc, không phải là cảnh nghèo khó, và cũng không phải là chiến tranh. Chứng bệnh trầm trọng này liên quan đến trái tim của chúng ta. Chúng ta cần một trái tim đổi mới.” Chúng ta cần một tấm lòng dám nhìn thẳng vào sự thật về con người của mình. Nhưng đối với con người, đây là một vấn đề thật khó khăn. Người Rôma có những cách xử tử tội nhân thật man rợ, như đóng đinh vào thập giá, dùng người để làm đuốc, hay…nối kết người sống với người chết. Họ lấy giây buộc người bị xử tử dính liền với một người đã chết: mặt đối mặt, tay liền tay. Sức sống của người tử tội tiêu hao một cách mau chóng, để rồi cũng đồng hóa với người chết. Con người chúng ta có lẽ phần nào cũng vậy. Khuyết điểm tội lỗi đã ăn liền với con người của mình, đến nỗi cho dù muốn thoát ly, chúng ta cũng không thể tự giải thoát mình được. Nhưng chúng ta đã có ơn phù trợ của Thiên Chúa. Ngài đã kêu gọi chúng ta hãy ăn năn thống hối trở về với Ngài, thì chắc chắn Ngài sẽ ban ơn cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta muốn.

Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay là cơ hội để chúng ta trở về với tâm hồn mình, để chúng ta ý thức rõ ràng hơn những lỗi tội nào đang làm cho chúng ta xa cách Chúa, để chúng ta bắt đầu con đường trở về với Thiên Chúa trong tâm tình ăn năn thống hối, và nhất là để chúng ta có một thái độ khác đối với Thiên chúa. Ngày nay, nhiều người nhận mình là Kitô hữu, nhưng trong hành động họ lại sống như Thiên Chúa không hiện hữu. Những người này tỏ ra họ không cần ơn phù trợ của Chúa và bất chấp những giáo huấn của Ngài. Một cách nào đó, có lẽ cũng có những lúc chúng ta sống như vậy, và vì thế, với tấm lòng ăn năn thống hối, chúng ta hãy bỏ đi thái độ tự kiêu, tự mãn, và thay vào đó, là tấm lòng thảo hiếu tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời. Ngài đã tạo dựng chúng ta, đã cứu chuộc chúng ta, và đã ban tràn đầy ơn phúc cho chúng ta. Trong thời gian qua, chúng ta đã bội bạc với tình yêu thương của Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy đền bù bằng tấm lòng thảo hiếu mến yêu. Chíng tấm lòng thảo hiếu mến yêu này sẽ giúp cho chúng ta có được một tấm lòng ăn năn thống hối thật, và giúp chúng ta bền vững trong ơn nghĩa Chúa.

Về mục lục

.

LỜI KHUYÊN DUY NHẤT

Lm Phạm Quốc Hưng

“Hãy hối cải, vì nước trời đã gần”

Truyện ngắn Lời Khuyên Duy Nhất đăng trên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp từ số tháng 12/1996-05/1997 là một truyện giả tưởng thuật về việc Chúa Giêsu đích thân đến giảng tĩnh tâm vào mùa Vọng 1999 ở một giáo xứ của người Việt Nam tại Hoa kỳ, để giúp mọi người chuẩn bị bước vào đệ tam thiên niên kỷ.

Vì được cha xứ cho biết chính Chúa Giêsu sẽ đến giảng tĩnh tâm cho giáo xứ vào tối thứ bảy 27/11/1999, áp Chúa nhật thứ nhất của mùa vọng dẫn vào năm 2,000, mọi người trong xứ đều thu xếp công việc để đến tham dự. Ai nấy đều cảm thấy mình bị đánh động mãnh liệt khi lắng nghe những lời giảng dạy từ môi miệng của chính Chúa Giêsu. Sau khi nghe Chúa giảng, một số người muốn xin Chúa cho họ một lời khuyên để làm hành trang cho cuộc sống mới của họ sau khi gặp gỡ Chúa.

Lời khuyên duy nhất mà Chúa nói với mọi người – từ những người mang tiếng là xấu xa tội lỗi như cậu Johnny Lê, cô Tư Ngựa và ông Sơn Rô đến những người được tiếng là đạo đức thánh thiện như “bà Năm xướng kinh”, từ giáo dân trong xứ đến cả cha xứ và cha phó – chính là những lời Chúa đã nói với mọi người khi bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai của Người. Đó là: “Hãy hối cải và tin vào Tin mừng”. Và ai nấy đều cảm nhận rằng đó chính là lời khuyên thích đáng nhất, cần thiết nhất, và ích lợi nhất cho họ.

Với Johnny Lê, hối cải nghĩa là phải bỏ lối sống đi hoang và băng đảng để trở về nhà giúp mẹ, học hành tử tế và sống đạo tích cực qua việc xin làm huynh trưởng đoàn thiếu nhi.

Với Tư Ngựa, hối cải nghĩa là phải trở về làm hòa với cha mẹ, bỏ lối sống lang chạ để bắt đầu một cuộc đời trong sạch.

Với ông Sơn Rô, hối cải nghĩa là đóng cửa sòng bài, sàn nhảy, bỏ luôn lậu cần sa, không tiếp tụd mướn bọn cao bồi cướp phá uy hiếp các cửa tiệm của bà con đồng hương, bồi thường các thiệt hại đã gây cho người khác, và trở về sống với vợ con và sinh hoạt cùng giáo xứ.

Với “bà Năm xướng kinh”, hối cải nghĩa là phải từ bỏ hình ảnh một Thiên Chúa khó tính và khắc nghiệt để tin tưởng nơi một Thiên Chúa đầy lòng khoan dung từ ái; phải tìm sự an bình nội tâm bằng cách cậy trông nơi tình thương vô cùng của Chúa và công nghiệp Chúa Kitô chứ không phải dựa vào các việc thiện của riêng mình.

Với ông chủ tịch hội đồng giáo xứ, hối cải nghĩa là phải bỏ đi sự tự ái, tính sợ dư luận gièm pha, để dấn thân cho lợi ích chung.

Với cha phó, hối cải nghĩa là phải từ bỏ lối nhìn Giáo hội với con mắt thế gian, phải cố gắng sống theo các Giáo huấn chân thực tốt lành của Giáo hội chứ không đòi Hội thánh phải thay đổi Giáo huấn cho phù hợp với lối sống của mình, và phải gia tăng lòng yêu mến gắn bó với Mẹ Maria và Hội thánh.

Với cha xứ, hối cải nghĩa là phải tận lực quan tâm làm đẹp lòng Chúa hơn là tìm cách lấy lòng dân chúng, phải sống như một ngôn sứ chứ không phải một chính khách, phải quan tâm đến việc truyền giáo chứ không được tự thỏa vì sự sung túc điều hòa của giáo xứ.

Câu truyện kết thúc bằng việc chính cha xứ đã thực hiện lời khuyên ấy trước tiên qua việc ngài xin xưng tội cùng cha phó khi đồng hồ điểm 12:00 AM, giờ bắt đầu Chúa nhật thứ nhất mùa vọng dẫn vào năm 2000.

Cũng như Chúa Giêsu đã kêu gọi mọi người phải hối cải và tin vào Tin mừng trong truyện Lời Khuyên Duy Nhất, trong Tin mừng hôm nay, thánh Gioan Tiền hô đã kêu gọi mọi người “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần bên.”

Lời mời gọi hối cải của Gioan mà Giáo hội muốn chúng ta lắng nghe trong phụng vụ Chúa nhật tuần này tiếp tục lời mời gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng của chính Chúa Giêsu như chúng ta đã được nghe trong Phúc âm tuần trước. Đây là một sự nối tiếp rất hợp lý và cần thiết. Thực vậy, chúng ta sẽ không cảm thấy phải mau mắn hối cải, phải thay đổi tâm hồn và cải thiện đời sống, nếu chúng ta không tỉnh thức để nhận ra sự hèn yếu, tội lỗi và bất toàn của mình, nếu chúng ta không nhận ra tính cách khẩn cấp của sứ điệp Tin mừng. Cái đẹp của truyện ngắn Lời Khuyên Duy Nhất trên đây là trong đó con người cảm thấy chính mình là người tội lỗi cần phải hối cải hơn cả, không phải là ai khác những lại chính là cha xứ, người từng được bà con trong xứ khen là hiền lành, khiêm nhường và thánh thiện.

Những người không nhận ra nhu cầu phải hối cải thường lại là những người cần phải hối cải hơn cả. Tin mừng hôm nay nói đến việc những người biệt phái và Sađốc đến với Gioan và xin thanh tẩy. Họ là những người thường được tiếng là đạo đức trong dân và tự hào là con cháu Abraham, nhưng họ đã bị Gioan gọi là “nòi rắn độc” đáng “cơn thịnh nộ” của Chúa. Ngài còn cảnh cáo họ phải gấp rút ăn năn thống hối vì “lưỡi rìu đã sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa.”

Nhiều lần chúng ta được nhắc nhở phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại, cho những người chưatin Chúa, chưa biết Chúa, chưa yêu Chúa, được ơn tin Chúa, biết Chúa, và yêu Chúa. Đó là điều chúng ta phải luôn ghi nhớ và thực hiên trong liên hệ yêu thương đối với người khác. Nhưng điều chúng ta phải ghi nhớ và thực hiện hơn cả đó là chúng ta phải thành thực xét mình trước mặt Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối và là Đấng đã mời gọi chúng ta nên thánh, để nhận biết và xác quyết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi cần phải hối cải hơn cả, chính chúng ta là những người cần đến lòng thương xót của Chúa hơn cả. Chúng ta phải nhận ra rằng mình chưa thực sự biết Chúa và yêu Chúa cách hoàn hảo như Chúa muốn nơi chúng ta. Vì thế, chúng ta phải có tinh thần khiên cung thống hối trong mọi nơi mọi lúc vì “không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa” (Mc 10:18).

Cha giáo tập của tôi trước đây, cha Andrew Costello, CSsR, trong cuốn sách của Ngài mang tựa đề “Thank God – It’s Friday” có viết như sau: “Người phải hối cải chính là người đang ngồi trong chỗ tôi ngồi, đang ở trong làn da của tôi, đang suy tưởng với khối óc của tôi.”

Chính tôi là người phải hối cải hơn cả, phải hối cải trước hết.

Nếu tôi là người đang sống trong tội lỗi như ngoại tình, tà dâm, gian dối, bất công, tham lam, ghen ghét, tị hiềm, tôi phải gắng chừa bỏ và xa lánh dịp tội.

Nếu tôi là người đang lãnh đạm thờ ơ, đang khô khan nguội lạnh và biếng nhác trong đời sống đức tin, tôi phải sốt sắng nhiệt thành và siêng năng hơn.

Nếu tôi là người có cảm nghĩ lệch lạc và thiếu sót về Chúa Kitô và Hội thánh của Người, tôi phải ra công học hỏi để hiểu biết và yêu mến Chúa và Giáo hội một cách đúng đắn và đầy đủ hơn.

Nếu tôi chưa dấn thân vào việc tông đồ, chưa hề giúp người khác biết Chúa và yêu Chúa, tôi phải nổ lực trong việc giúp những người khác cũng biết Chúa và yêu Chúa.

Bao lâu còn sống ở trần gian, bấy lâu tôi còn phải nỗ lực hối cải liên lỉ cho đến lúc tôi được Chúa biến đổi để nên giống hệt Chúa Kitô và nên một với Người trong cõi vĩnh hằng của Chúa Ba Ngôi.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ “cầu cho chúng con là kẻ có tội” biết nhìn nhận sự yếu đuối, tội lỗi, và thiếu sót của mình, nhất là biết cậy trông ở ân sủng và lòng thương xót Chúa, để nỗ lực cải thiện đời sống không ngừng đùng như lời Chúa khuyên dạy chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA CHỈ CẦN TÔI MỘT TẤM LÒNG

Lm. Giuse Lê Quan Trung

Một trong những điều tôi cảm thấy thấm buồn khi màu tím mùa vọng ngày càng đậm nét trong mùa Phụng vụ đón mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng trần là: “Rất nhiều người không đủ can đảm tha thứ cho chính mình vì những lầm lỗi đã vô tình hay cố ý mắc phải trong đạo làm chủ quản lý đối với tâm hồn và thân xác mình; trong đạo làm người đối với ông bà cha mẹ và tha nhân; và đặc biệt là đạo làm con đối với Đấng đã yêu thương tạo tác nên mình!”

Đâu phải mỗi lần đối diện với thử thách của cuộc sống, là ai cũng thắng được hết đâu? Không ai muốn mình xấu bao giờ! Không ai muốn mình thất bại bao giờ! Và cũng chẳng ai muốn mình sai lầm bao giờ! Nhưng không ai có thể lường trước được hết những gì sẽ sắp xảy tới cho mình! Những “biển báo giao thông tâm linh” vẫn có đó nhưng đâu phải lúc nào mình cũng chú tâm nhìn chúng để đừng vấp ngã, đừng lỡ chân, đừng trật bước trên vạn nẻo đường đời mà ngày ngày mình dấn bước đâu? Chủ quan luôn là một thói tật không hay, không tốt, không đẹp! Nhưng mấy ai trong đời không từng thất bại, không từng đau đớn, không từng cay đắng ngập lòng bởi cá tính này đâu? Và điều này đã từng được Đức Giêsu thốt lên trong đau khổ nhưng với trọn tấm lòng đầy cảm thông cùng ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu năm xưa: “các con hãy canh thức cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”(Mt 26,41; Mc 14,38). Một sự thương cảm đầy tình người, bởi ngoài Đấng tối cao, còn có ai hoàn hảo?

Mặc cảm lỗi lầm kéo dần ta ra xa nguồn ân phúc; né tránh mối tình tự hiến mà Con Chúa Trời đang mong mõi ban tặng cho đời, cơn cám dỗ “mình không xứng đáng vì đã xúc phạm quá nặng nề đến Đấng Cao Xanh” nên “ làm sao Chúa có thể tha cho tôi được!” đã đẩy ta vào mạng nhện của sự dữ, làm ta quên hay cố tình quên Đấng Cứu Tinh đã từng khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”(Mt 9, 13; Mc 2, 17; Lc 5, 32) bởi vì “người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”(Mc 2,17; Lc 5,32). Biết thụ tạo mạnh sức – yếu hồn, Chúa đã tự nguyện bước tới đưa tay ra trước để chờ đợi ôm ta vào lòng, để Người có cơ hội vỗ về an ủi, để Người có điều kiện thể hiện chức năng của một lương y tâm linh đầy nhiệt huyết, sao ta cứ xa tránh Người?

Khi mở quyển “Vượt Lên Nghịch Cảnh” của loạt sách Chicken Soup for the Surviving Soul” do nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn in ấn, trong câu chuyện đầu tiên “Cậu bé và nhà tỷ phú”, tôi gặp ngay câu tiêu đề cho cả cốt truyện: “Không có cái gọi là tuyệt vọng” (Henry Ford) làm tôi rộn lên trong lòng một niềm vui khó tả vì hiểu rằng, tình đồng loại không thể thiếu cho tôi, nếu tôi biết vượt lên mặc cảm của đời mình. Cậu bé Craig Shergold là niềm vui không những cho gia đình, mà còn cho cả chòm xóm, láng giềng, bạn bè và cả thầy cô nữa. Vậy mà một khối u trong não đã làm cho mọi người thân của cậu bé vùng Carohalton, ngoại ô London hốt hoảng bởi biết rằng sinh mạng của cậu khó được bảo toàn. Nhưng rồi cậu bé đã dũng cảm chấp nhận hoàn cảnh hiện tại để đi vào phòng mổ với lời khuyên của người mẹ thân yêu: “Mẹ muốn con phải thật dũng cảm!” Với khối u ác tính, một dạng ung thư não hoạt tính, mấy ai thoát chết đâu? Nhưng rồi những cánh thiệp khắp nơi đổ về động viên, khuyến khích đã làm cậu bé phấn chấn hơn. Với 1.000.266 thiệp, trong đó có cả những tấm thiệp của một số vị lãnh tụ trên thế giới như Magaret Thatcher, Thái tử Charles, George Bush, Ronald Reagan, Mikhail Gorbachev và cả hai thần tượng của Craig là Michael Jackson và Sylvester Stallone, Craig đã phá vỡ kỷ lục Guinness về người nhận được nhiều thiệp nhất mà trước đây một cậu bé người Anh khác nắm giữ (1.000.265 thiệp). Niềm vui nối tiếp niềm vui, cách đó 6000km nhà tỷ phú 77 tuổi- John Kluge ở Charlottesville, bang Virginia đã nhận được một lá thư từ những người bạn về tình trạng quá hiểm nghèo của cậu bé. Ông đã từng quyên góp hàng triệu đô la cho những người xứng đáng, nhưng chưa bao giờ ông tặng tiền trực tiếp cho một cá nhân nào. Và cũng không muốn tạo thành một tiền lệ hay khơi dậy những hy vọng hư ảo cho gia đình Craig. Nhưng rồi, khi tiếp xúc với gia đình, qua câu nói dũng cảm của cậu bé bởi gia đình không muốn cậu đau đớn nữa vì đã chịu phẫu thuật nhiều lần: “Mẹ ơi, không có thắng lợi nào mà không phải trả giá mà mẹ!” chính ý chí phấn đấu của cậu bé đã làm nhà tỷ phú quyết tâm nổ lực bằng mọi giá giành lại mạng sống cho em.Và rồi nụ cười đã tỏa rạng trên mọi khuôn mặt: Ca phẫu thuật đã thành công vượt quá mong đợi của nền y học hiện đại. Mùa xuân đã trở về trên khắp nước Anh với lời tạ ơn của Manon khi nói với chồng là Ernie lúc nhận được tin nhà tỷ phú John Kluge đã tài trợ trọn vẹn cho ca phẫu thuật của con mình: “Em nghĩ Chúa đã ban cho chúng ta một phép mầu!”.

Nhìn lại đời mình, tôi cũng đã từng chán nản, đã từng thất vọng, đã từng không ít lần mặc cảm với Chúa, tránh né Chúa, xa lìa Chúa vì phải đối diện, phải đối đầu, phải chứng kiến với quá nhiều nghịch cảnh mà sức mình không kham nỗi bởi chẳng ai đỡ nâng, chẳng ai trợ giúp, chẳng ai đồng hành! Nhưng rồi, trong thanh vắng, trong trầm lặng, trong những đêm hôm khuya khoắt, bỗng nghe như có tiếng thủ thỉ bên tai tôi những lời thánh thi trong kinh sáng ngày thường của mùa vọng vọng về:

“Đừng mê ngủ đứng lên hồn ta hỡi,

Dẫu thấy mình còn hôi hám bùn nhơ,

Vì hào quang chói lọi của kim ô

Làm tiêu tan hết những gì nguy hại.

Chiên Thiên Chúa đã từ nơi thượng giới

Xuống cõi trần đền tội vạ chúng ta.

Nào cùng nhau chạy đến lượng hãi hà,

Xin tha thứ bằng lời kinh thắm lệ”

Rồi lời thánh vịnh 26, 10 lại tiếp tục trấn tĩnh tôi:

“Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,

Thì hãy còn có Chúa đón nhận con”

Và thúc giục tôi hãy xóa đi mặc cảm: mặc cảm thật! bởi thấy mình bất xứng với tình yêu vời vợi từ Trời. Mặc cảm giả! Bởi mình chỉ muốn sống theo ý mình,đạt ý mình mà vẫn biết rõ điều mình đang muốn không phải là ý Chúa! Cũng chẳng đi đúng nền đạo đức nhân gian!

“Hãy cậy trông vào Chúa,

Mạnh bạo lên can đảm lên nào!

Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 26, 14)

Cậu thiếu niên Craig đã phấn đấu hết mình, cố vượt qua những giây phút chán nản, suy sụp để vươn lên tìm nguồn sống với sự trợ lực của tình người và sự can thiệp thần thiêng của Đấng Tạo Thành. Và cậu đã chiến thắng! Còn tôi? Còn chúng ta? Lời mời gọi từ vị Tiền Hô của Đấng Cứu Tinh thúc giục: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Mt 3, 3), không lẽ nào không động lòng ta? Nếu thực lòng ta quay về với NGUỒN BÌNH AN ĐÍCH THỰC, với tâm tình khiêm tốn như thánh Gioan Tiền Hô: “còn Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 12), chắc chắn cơn cám dỗ với mặc cảm TA KHÔNG XỨNG ĐÁNG sẽ không còn là chướng ngại, không còn là rào chắn, không còn là e dè sợ hãi cản bước ta mở rộng lòng mình, để Đấng Cứu Tinh có thể đến cư ngụ nơi mái nhà đổ nát của ta! Chúa chỉ cần nơi ta tấm lòng chân thành, còn mọi sự, Chúa sẽ tính cho! Ta có tin điều đó không?

Về mục lục

.

HÃY ĂN  NĂN THỐNG HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN ĐẾN

Lm. Thu Băng

Trong bài Phúc Âm, thánh Mathêu đoạn 3, câu 1 đến 12 đã nói đến lời tiên tri Isaia, một vị tiên tri sống vào khoảng 765 năm trước Chúa Cứu Thế đã nói: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Một lời mà Gioan tiền hô đã suy gẫm, đã ăn chay, đã sống nhiệm nhặt, ăn chay đánh tội, đến nỗi Chúa khen ông là người cao trọng nhất trong Cựu Ước (Mt.11:11). Ngài đã kêu gào người ta thống hối và tin vào phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa của đấng đã thiết lập sau này.

Mùa Vọng này, Giáo Hội muốn chúng ta dọn đường cho Chúa, hãy dọn tâm hồn mình cho trong sạch, đời sống của mình còn có điểm nào quanh co, hãy sửa chữa cho ngay thẳng, cho đoan chính, cho ăn nhập với lời khuyên của Phúc Âm. Những hố sâu tội lỗi, hãy bồi đắp cho bằng, những quăn queo, gồ ghề của tư tưởng vẹo vò, của kiêu ngạo, của tự ái, của ích kỷ, hãy bạt xuống cho bằng. Hãy nghe lời Gioan Tiền hô kêu gọi mà thực hành cho ráo riết, đừng coi thường và hãy thúc đẩy mọi người trong gia đình, trong chòm xóm thi hành lời kêu gọi. Hãy lấy đức ái mà che lỗi cho người sai lầm, chữa chạy cho họ, để cả hai được minh chính trước mặt Chúa, kẻo cái rìu đã đặt dưới gốc cây, cây nào mà không sinh trái, người nào mà không sửa mình sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt.3:10).

Cũng tại Hoa Kỳ, Luật Tiểu Bang cấm gọi điện thoại khi lái xe. Ai vi phạm sẽ bị phạt 100 đồng. Một hôm ông Thị Trưởng đi làm bị kẹt xe giữa đường. Hàng xe dài nối duôi nhau chẳng tiến mà cũng chẳng lùi được. Quên luật cấm, ông Thị Trưởng móc điện thoại di động ra liên lạc xem Ty Cảnh Sát có trách nhiệm giải quyết vụ kẹt xe đến đâu rồi. Bị nhà báo chụp hình ông đang nói điện thoại vi phạm luật cấm. Khi nạn kẹt xe được tháo gỡ, lưu thông trở lại bình thường. Ông Thị Trưởng lái xe thẳng tới sở Cảnh Sát, ông bình thản móc túi nộp 100 đồng tiền phạt.

Khi được hỏi, ông trả lời: “Đã có luật thì phải chấp hành, bất kể trong trường hợp nào và là ai. Tôi vi phạm nên tôi phải nộp phạt”.

Khi đã khẳng định: Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, nghĩa là người trên, kẻ lớn chả ra sao, thì cấp dưới, con cái nhất định cũng chẳng ra lề thói gì. Ngược lại, lời khẳng định trên cũng hàm chứa điều này: Nếu người trên, kẻ cả tuân thủ luật pháp một cách nghiêm túc, thì chắc chắn cấp dưới sẽ chẳng có cửa nào để làm càn. Chẳng cần ngồi lắc đầu nhìn những việc lỗi đạo hoặc than ngắn thở dài về sự xuống cấp đạo đức nơi gia đình, ngoài xã hội, có lẽ nên bắt chước gương người cha hoặc gương cấp trên của ông Thị Trưởng, chắc là hữu ích.

Lạy Chúa, để dọn mình chờ đón Chúa đến, con xin hứa sẽ nghe lời Gioan kêu gọi mà thực tâm cải thiện đời sống chính mình và kêu gọi người khác cùng thi hành với con.

Về mục lục

.

CON MỘT CHA TRÊN TRỜI

Lm. Minh Vận

Gia đình bà Tâm có 7 người con, 4 trai 3 gái. Gia đình sống hạnh phúc, đầm ấm, đến nỗi làm cho nhiều người phải thán phục khen ngợi. Nhiều vị phụ huynh thấy thế đã sinh lòng thèm khát ước mong gia đình mình cũng được như vậy; nhưng trái lại, toàn gặp phải những đau xót chua cay tủi nhục. Một hôm, một bà hàng xóm đã giãi bày tâm sự với bà Tâm về nỗi lòng đau buồn của bà, chồng bà thì rượu bia nhậu nhẹt tối ngày, nóng nảy đập đánh vợ con; con cái thì lêu lổng chơi bời và luôn xảy ra những cuộc tranh cãi bất bình và đánh lộn. Trong gia đình thường luôn phải hô hấp một bầu không khí chiến tranh.

Để an ủi bà bạn, bà Tâm đã chân thành tỏ bày tâm sự một cách khiêm nhu sự thật về gia đình mình: “Chị thấy gia đình em được như ngày nay thật là một ơn trọng Đức Mẹ ban; nhưng đồng thời chúng em cũng phải cộng tác với Mẹ, bằng cách cố gắng lo giáo dục con cái nên người tốt, xứng với nhiệm vụ Chúa trao phó. Sự thực thì 7 đứa con nhà em, tính tình cũng rất ngạo ngược, xung khắc nhau, không đứa nào chịu đứa nào cả… luôn có những bất đồng cãi vã. Trước tình cảnh đau buồn đó, vợ chồng em đã cầu nguyện và bàn tính với nhau tìm cách nào để giúp đỡ các con. Một buổi tối nọ, em đã họp các cháu lại trước sự chứng giám của chồng em, em đã thành thật nói với các cháu: “Chúng con tuy tính tình khác nhau, sở thích khác nhau, quan niệm và nghề nghiệp cũng khác nhau; nhưng chúng con cũng hãy nhớ rằng: Chúng con là con cùng một cha một mẹ. Chính do lòng mẹ đây đã sinh ra các con. Vậy tại sao chúng con không thương yêu nhau, đùm bọc và xây dựng cho nhau?”

Rồi như để nêu cho các con một tấm gương, bà Tâm đã cảm động nói với các con: “Chính cha mẹ đây cũng đã phải nhường nhịn nhau nhiều, cha mẹ không những khác nhau xa vời về phái tính; mà sở thích, xu hướng và quan niệm của mẹ cũng rất khác với ba, nhưng vì yêu thương nhau, chấp nhận nhau và đã được Chúa liên kết nên một, nên cha mẹ đã sẵn sàng hy sinh cho nhau, bù trừ, chịu đựng, tha thứ lẫn cho nhau, để tạo nên một gia đình và nếp sống hạnh phúc cho nhau như chúng con đã thấy đây. Vậy mẹ xin chúng con hãy tha thứ cho cha mẹ về những điều thiếu sót và xin chúng con hãy noi gương cha mẹ, để chúng con biết hiệp nhất nên một, hòa thuận thương yêu nhau, hy sinh cho nhau, hầu cùng nhau tạo dựng một cuộc sống an bình và hạnh phúc”.

Đó là tất cả một nghệ thuật mà bà Tâm đã giáo dục con cái bà và do sự tài khéo đó, gia đình bà đã được nhiều người khen ngợi.

CON CÙNG MỘT CHA TRÊN TRỜI

Qua thư gởi Tín Hữu Roma, Thánh Phaolô cũng đã cầu nguyện cùng Chúa cho chúng ta: “Xin Thiên Chúa là nguồn sự kiên tâm và an ủi, ban cho anh chị em biết thông cảm với nhau theo gương Chúa Kitô, để anh chị em đồng tâm tôn vinh Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rom 15:5). Ai trong chúng ta cũng đều thực nghiệm thấy rằng: “Bá nhân bá tính”, trăm người trăm tính, không ai giống ai. Điều đó không lạ gì, vì một bàn tay có 5 ngón, cũng có ngón dài ngón vắn. Mà cũng chính vì sự khác biệt, sự bất đồng ý kiến, những tương phản đó mà chúng ta đã tìm ra những điểm tương đồng, những lẽ phải, để cùng nhau chấp nhận một luật lệ, một lẽ sống xứng hợp với chân lý, với thánh ý tối thượng của Thiên Chúa.

Không quốc gia hay cộng đồng nào, không đoàn thể hay gia đình nào không có những khác biệt, đối chọi, xung khắc nhau; nhưng nếu chúng ta biết tôn trọng nhau, nhường nhịn nhau, hy sinh tư kiến và chấp nhận lẽ phải, coi nhau như anh chị em con cùng một Cha Trên Trời, cùng chung một Giáo Hội duy nhất chính Chúa Kitô thiết lập, cùng tuân giữ một luật lệ, cùng tiến về một mục đích là Thiên Chúa, thì tất cả những xung khắc dị biệt sẽ được giải quyết dễ dàng.

Nếu chúng ta có tình bác ái huynh đệ chân thành, có lòng xả kỷ vị tha, chúng ta sẽ có thể đoàn kết xây dựng công ích để làm vinh danh Thiên Chúa, khi đó chúng ta mới dễ dàng: “Biết đón nhận anh chị em mình như chính Chúa Kitô đã đón nhận chúng ta, để làm rạng danh Thiên Chúa” (Rom 15:6-7) theo giáo huấn của Thánh Tông Đồ đã dạy. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không còn lý do để chia rẽ nhau; mà trái lại, chúng ta sẽ biết xích lại gần nhau hơn, thông cảm chia sẻ, tôn trọng yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, chỉ lo xây dựng hạnh phúc cho nhau, tạo nên một sức mạnh vô song của tập thể, một đại gia đình Thiên Chúa, là anh chị em con cùng một Cha Trên Trời.

DỌN LÒNG ĐÓN CHÚA XỨNG ĐÁNG

Mùa Vọng là mùa trông đợi Chúa đến, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta sống theo lời kêu gọi của tiên tri Isaia và lời kêu gọi của Thánh Gioan Tiền Hô: “Hãy dọn đàng Chúa cho ngay thẳng, đồi cao hãy bạt xuống, hố sâu hãy lấp cho đầy, đường cong queo hãy nắn cho ngay, nơi gồ ghề hãy san cho phẳng” (Lc 2:4-5). Chúng ta hãy bạt núi đồi kiêu căng tự phụ, hãy lấp đầy hố chia rẽ ganh tỵ, hãy nắn cho ngay những mưu mô quanh quéo, hãy san cho phẳng những bất đồng ý kiến… Khi đó, chắc chắn chúng ta sẽ cùng nhau tạo dựng được một đại gia đình hiệp nhất và vững mạnh của Giáo Hội Chúa Kitô, cổ động được tình đoàn kết đồng hương dân tộc, biến đổi gia đình chúng ta nên một tổ ấm yêu đương, trên thuận dưới hòa, cha mẹ, con cái, anh chị em thương yêu nhau, tâm đồng ý hiệp để cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc.

Kết Luận

Vậy để đón Chúa ngự đến cộng đồng chúng ta, gia đình và tâm hồn chúng ta cách xứng đáng, chúng ta hãy đón rước Mẹ Maria ngự đến làm Nữ Vương cai trị cộng đồng, gia đình và tâm hồn chúng ta trước. Với tư cách là một người Mẹ, Mẹ có biệt tài chinh phục, hướng dẫn, giáo huấn chúng ta nên những người con ngoan thảo của Thiên Chúa, biết thương yêu nhường nhịn nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau, như anh chị em con một Cha Chung Trên Trời và con cùng một Hiền Mẫu Maria, là Mẹ yêu dấu của tất cả và của riêng mỗi người chúng ta.

Hình ảnh bà Tâm trong câu truyện vừa kể trên đây, chính là hình bóng Mẹ Maria ngự giữa chúng ta. Bao lâu chúng ta biết lắng nghe và tuân giữ lời giáo huấn đầy yêu thương của Mẹ, gia đình chúng ta sẽ thuận hòa hạnh phúc, vợ chồng thương yêu nhau, con cái theo gương tốt lành của cha mẹ, trọng kính và ngoan thảo với cha mẹ, cha mẹ yêu thương săn sóc giáo dục con cái Chúa trao ban theo tinh thần Chúa, anh chị em biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, và tất cả tạo nên một cuộc sống hạnh phúc, xứng danh con cái ngoan thảo của Thiên Chúa và của Mẹ Maria.

Về mục lục

.

THU LÚA, ĐỐT RƠM

Lm. Trọng Thưởng

Trong xã hội ngày nay, con người đề cao tự do nên rất quen thuộc với sự lựa chọn. Khi đi mua quần áo, đồ đạc, người ta lựa chọn những cái có mầu sắc hợp với thị hiếu, kiểu cách hợp với thời trang hoặc sở thích. Khi lựa chọn người để làm nơi nương tựa, các cô thích tìm những anh chàng cao ráo, đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, có bằng kỹ sư, bác sĩ, luật sư…. Và loại bỏ những cậu có chiều cao khiêm tốn, “nhan sắc” kém cỏi, nghèo lủng cả túi quần… Khi lựa chọn những cái đó người ta có quyền đặt tiêu chuẩn theo ý riêng mình. Thiên Chúa cũng lựa chọn con người để cho họ được hưởng phúc thiên đàng hay phải đoạ phạt trong hoả ngục. Hình ảnh tượng trưng mà thánh Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy về Đấng Cứu Thế lựa chọn đó là “cầm nia trong tay mà sảy lúa”; lúa được thu vào kho, còn rơm bị đốt trong lửa không hề tắt.

Thiên Chúa lựa chọn theo tiêu chuẩn nào? Thánh Gioan Tẩy Giả là bậc tiên tri được Thiên Chúa tuyển chọn, cách sống và lối ăn mặc của ngài đã nói lên điều đó. Ngài là ngôn sứ của Thiên Chúa, ánh mắt nhìn và sự xét đoán của ngài dựa vào tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Dân chúng đủ loại từ khắp miền Giuđêa, người giầu sang cũng như nghèo khó, nông dân cũng như thương gia, học giả cũng như người thất học, tuốn đến để xin Gioan làm phép rửa. Gioan không lên án một ai ngoài những người Pharisiêu và ký lục. Họ là những người tự cho mình là công chính, sau này cũng bị Chúa Giêsu lên án. Họ bày tạo ra những luật thanh tẩy rườm rà và giữ rất nghiêm nhặt, nhưng lại lơ là với những điều chính yếu trong sách luật. Chúa đã lên án họ là bọn giả hình, nối dài thẻ kinh và tua áo để nuốt chửng gia tài các bà goá. Gioan cũng thấy việc họ đến xin chịu phép rửa là một hành vi giả tạo nên đã cảnh cáo: đừng tự phụ là con cái Abraham rồi sống bừa bãi, làm điều xằng bậy. Nếu không ăn năn hối cải, sửa đổi đời sống, họ vẫn bị tiêu diệt như một cây sinh ra trái xấu là những hành động tội lỗi ngấm ngầm của họ.

Tật xấu tự phụ, cho mình là người công chính có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình không có. Nhưng xét cho kỹ thì hầu như không ai tránh khỏi. Khi chúng ta nhìn người khác làm điều sai rồi kết án họ là người xấu, chê họ thế này, chê họ thế khác, đó là lúc chúng ta ngầm cho rằng mình khá hơn những người đó, nên có quyền xét đoán, kết án họ. Đây là những hoa quả xấu mà cây đời sống của chúng ta có thể sinh ra, còn nhiều hoa quả xấu nữa như lòng ghen tỵ, hằn thù, ganh ghét, kiêu căng, chia rẽ, chống đối, bạo động… Những hoa quả xấu đó sẽ đưa chúng ta vào số cây bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy chúng ta hãy cẩn thận, cố gắng đạt được tiêu chuẩn mà Thiên Chúa muốn tìm kiếm nơi mỗi người chúng ta: đó là hoa quả yêu thương, hy sinh, quảng đại, phục vụ, đoàn kết, tha thứ.

Về mục lục

.

DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA

Lm. Bùi Công Huy

1- Chúng ta vẫn thường coi việc sám hối và hoán cải như là những điều kiện tiên quyết để kết hợp với Chúa. Cái tiến trình nhỏ bé ấy có thể ví như một vốc bột giặt dùng để tẩy rửa quần áo cho sạch vậy. Quan niệm như thế chẳng khác gì coi việc hoán cải hoàn toàn là do nỗ lực riêng của chính chúng ta, trong khi việc Chúa đến lại hoàn toàn do sáng kiến của Thiên Chúa

Việc Chúa Nhập thể nguyên nó đâu cần chúng ta sám hối, chúng ta hoán cải. Như một em bé vốn đang trong vòng tay âu yếm của mẹ, nó dở chứng muốn buông ra để được tự do trên đất, rồi lại muốn tự chỗi dậy, nhưng làm sao được vì nó bé bỏng quá. Lúc ấy, người mẹ lại phải cúi xuống bồng nó lên và ôm nó vào lòng. Cũng thế, tội lỗi khiến cho con người xa rời Thiên Chúa và hoán cải làm cho con người trở về với Chúa. Việc hoán cải hay sám hối này chẳng qua chỉ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy chúng ta. Như thế, chính Thiên Chúa là tác nhân của việc chúng ta hoán cải. Và việc Chúa Giáng sinh chẳng qua cũng chỉ là điều kiện tiên quyết để tình yêu của Thiên Chúa được hiển hiện. Khi ấy, sám hối như là ánh sáng báo hiệu sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Như ánh sáng chiếu soi trên khắp ngọn đồi, xua tan mọi bóng mờ tăm tối, sự tha thứ của Thiên Chúa cũng đáng tan mọi quá khứ u tối và còn lôi cuốn cơn khát khao gặp gỡ chính nguồn mạch của sự tha thứ.

2- Như thế, lý lịch Kitô hữu hay bằng chứng phép Rửa tội không đủ cho chúng ta gặp được Chúa: “Các anh đừng tưởng có thể nghĩ bụng rằng chúng ta đã có tổ phục Abraham”… để gặp được Chúa, bản thân chúng ta phải xác tín: chúng ta vốn hoàn toàn xa cách Thiên Chúa và đang xa rời vòng tay của Thiên Chúa. Ai có thể gần Chúa được nếu như Chúa không dủ lòng xót thương và nếu chúng ta không biết khẩn cầu lòng thương xót đó. Thánh Phao-lô trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đã chẳng nhắc nhở chúng ta về lòng trung thành và lòng thương xót của Thiên Chúa đó sao? Chính vì thế, chẳng có công trạng riêng tư nào của chúng ta cân xứng với lòng thương xót ngàn đời của Thiên Chúa, bởi chính Ngài là nguồn kiên nhẫn và an ủi của chúng ta mà chúng ta phải khẩn cầu.

3- Như Gioan Tẩy giả, hôm nay, đến lượt mình, chúng ta cũng phải trở nên những “tiền hô” dọn đường cho người khác. Được liên kết với nhau trong Mầu nhiệm Thánh Thể, chúng ta cũng phải liên đới với nhau trong Mầu nhiệm Nhập thể. Lời mời gọi này mời gọi chúng ta, những Kitô hữu, phải trở nên những người dẫn đường chỉ lối cho người khác đến gặp được Chúa. Trong gia đình, nơi xí nghiệp, tại công sở… hay bất cứ nơi đâu, chúng ta phải trở nên những người phục vụ cho sứ mạng đó.

Là “tiền hô” của Đấng Cứu Thế, chúng ta phải nên như những dấu chỉ loan báo Đấng Cứu Thế qua lối sống của chúng ta hay cách xử thế của chúng ta đối với những người chúng ta có dịp gặp gỡ. Khi ấy, chúng ta như ngọn lửa nóng cháy chiếu sáng và sưởi ấm môi trường sống của chúng ta với họ. Và khi ấy, chúng ta không có mối quan tâm nào khác ngoài việc ước ao và nỗ lực làm cho tha nhân ngày một lớn lên hơn và hạnh phúc hơn.

Sống như thế, chúng ta sẽ thấy ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế đang thực sự triển nở trong mọi người: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.

Về mục lục

.

SỨ MẠNG TIỀN HÔ

P. Trần Đình Phan Tiến

Vâng, người ta thường nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Đó là cụm từ dùng để cổ vũ một nhân vật có thế giá nào đó. Từ bậc quan đến bậc vua chúa, hoặc như quan trạng về làng, hay là “võng anh đi trước, kiệu nàng theo sau”.

Quả thật, một nhân vật trần thế được đón rước một cách trịnh trọng, thì người ta nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Nhưng hôm nay, theo lịch phụng vụ Công giáo, Giáo Hội trình bày cho chúng ta một nhân vật đảm nhận vai trò “ Tiền Hô”, đó là Gioan Tiền Hô. Vâng, Gioan Tiền Hô thực thi sứ mạng Tiền Hô của mình đối với ai? Thưa đối với “ Vua Hòa Bình”, vâng, Vị Vua Hòa Bình đến.

Vị Vua Hòa Bình, mà Thiên Chúa đã Hứa từ ngàn xưa qua các tiên tri sẽ đến. Giữa loài người, không có vị vua nào xừng đáng để thay mặt Thiên Chúa chăn dắt muôn dân, thì Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian, nhưng Vị Vua ấy rất nhân từ, xứng với tước hiệu của Người, đó là “ Vua Hòa Bình” hay là” Vua Bình An”.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Is 11,1-10), chúng ta thấy, Đấng Cứu Thế chính là Vị Vua nhân ái. Sự nhân từ của Người mang đến sự bình an đích thực. Sự bình an đến độ mọi thứ, mọi vật hung ác đều phải hiền hòa. Mọi sự vật phải thay đổi hoàn toàn180 độ. Vì Người là Thần khôn ngoan duệ trí, thần mưu sự can trường, thần thông minh hiếu thảo ( Is11,2).

Vì thế, sự hòa bình và an lạc sẽ ngự trị giữa chúng dân đến độ chiên con chơi đùa với sư tử và trẻ con. Vâng, ngày nay Vị Vua ấy sắp đến, tất nhiên sẽ có một người làm sứ mạng Tiền Hô cho Người, đó là Gioan Tiền Hô, mà Isaia đã nói: “ Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mt 3,3)

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, nhân vật Gioan rất thành công trong sứ vụ Tiền Hô của mình. Ông nói: “ Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” ( c 2). Và cách thức sám hối là chịu phép rửa, vì vậy Gioan Tiền Hô được gọi là Tẩy Giả. Nhưng phép rửa được thực hiện bởi Gioan là phép rửa bằng nước, chỉ có giá trị để giục lòng sám hối. ( c11). Nhưng Đấng mà Gioan rao giảng sẽ làm phép rửa trong”Thánh Thần và Lửa”. Thánh Thần và Lửa chính là Thiên Chúa.

Thiên Chúa sẽ dùng Thánh Thần để Thánh Hóa và dùng Lửa để thiêu đốt. Có nghĩa là sự thanh tẩy trọn vẹn, chính là tình yêu của Thiên Chúa, là sự cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Thánh Thần và Lửa là một tình yêu bao la, một sự tha thứ vô cùng, vô hạn. Phép Rửa ấy chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô. Nhưng Gioan Tiền Hô cũng cho thấy sự công minh, lý đoán của Người bằng một câu nói theo nghĩa đen: “ Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. ( c 12).

Như vậy, Vị Vua Hòa Bình đồng thời cũng chính là Vị Thẩm Phán chí công, Người nhân từ nhưng không nhu nhược. Điều nầy cho thấy, từ khi Người đến lần thứ I cho đến khi Người lại đến, là một hành trình cứu chuộc duy nhất kế tiếp, không đứt quãng. Dựa vào ý tưởng nầy, Giáo Hội mong đợi Đức Kitô lại đến lần Thứ II. Đây cũng là ý nghĩa đích thực của mùa vọng, vì không phải chỉ đón mừng Người đến bằng hình thức bên ngoài là Lễ Giáng Sinh, nhưng quan trọng không kém là chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người trong bất cứ giây phút nào. Đón mừng Lễ Giáng Sinh là Đón Mừng một Mầu Nhiệm Nhập Thể của Đấng Cứu Thế, để suy tôn, thờ là, cảm tạ Người. Nhưng để đón Người đến với chính tâm hồn của từng người trong chúng ta là một điều quan trọng, đó là giờ chết, một sự thật không thể chối cải được.

Nên chi, khi Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người mà chúng ta tỉnh thức thì thật là diễm phúc.

Vậy chúng ta là dân ngoại được kêu mời bởi lòng thương xót của Người, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ mọi người, chúng ta hãy cùng với thánh Phaolô cất lên lời ca: “ Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn, ca mừng Danh Thánh Chúạ” ( c 9).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cư ngụ giữa loài người, dù phàm nhân bất xứng. Nhưng để ban ơn cứu độ, Chúa đã trở nên Hy Tế. Khởi sự là Máng Cỏ Bêlem, ôi! Mầu nhiệm thật cao vời, xin cho chúng con biết nhận ra và đền đáp muôn một tình Chúa yêu thương chúng con. Amen.

Về mục lục

.

TƯƠNG LAI

Thiên Phúc

Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ tính hay du đãng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim chơi chó. Bà mẹ vốn là người nghiêm khắc thấy con như thế thì quở phạt luôn mà cậu vẫn không chừa.

Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm quả cân ném trúng chân ông máu chảy đầm đìa. Từ bấy giờ ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập.

Về sau ông thi đỗ làm quan đến chức tể tướng. Lúc ông quí hiển thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ đến vết thương ở chân thì ông lại nức nở khóc lóc mà nói rằng: “Chính vết thương này đã làm cho ta nên người”.

Có nhiều dòng nước mắt trong cuộc đời: Có những nước mắt của đau khổ, nước mắt của niềm vui, nước mắt của ly biệt, nước mắt của tiếc thương. Nhưng chỉ có nước mắt của sám hối là có giá trị hơn cả. Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối rửa sạch tội lỗi để lộ ra ân sủng.

Trong Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy giả đã khơi lên dòng nước mắt ấy: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu cuộc đời rao giảng cũng đã gói trọn sứ điệp nền tảng của Kitô giáo trong lời kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).

Sám hối là bước khởi đầu và là nền tảng của đời sống đức tin. Một trong những nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo là càng nhận ra sự nhỏ bé yếu đuối của mình, con người càng lớn lên trong ân sủng và tình thương của Chúa. Càng nhận ra thân phận tội lỗi của mình, con người càng dễ cảm thông trước vấp ngã của anh em.

Thiên Chúa không mong chờ nơi con người điều gì khác hơn là tấm lòng sám hối: “Chúa ở bên những người sám hối, và cứu chữa những ai sầu khổ” (Tv 33,19). Chính lòng sám hối chân thành đã đem lại niềm vui cho cả thiên đàng: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 17,7). Toàn bộ Tin Mừng cao rao Đức Giêsu nhân hậu với người tội lỗi.

Tuy nhiên, lòng sám hối đích thực đòi hỏi con người phải có một quyết định dứt khoát. Sám hối, theo truyền thống Kinh Thánh, chính là quay trở lại hoàn toàn theo hướng ngược lại. Sám hối, theo tiếng Hy Lạp “metanoia” có nghĩa là “thay đổi = Meta não trạng = noia”. Như vậy, sám hối đòi hỏi người ta phải triệt để thay đổi: từ tư tưởng cho đến hành động, từ hướng đi cho đến cách sống. Cuộc đời của thánh Phaolô là một kinh nghiệm thật sâu sắc về lòng sám hối, và ngài có đầy uy tín để khuyên bảo chúng ta: “Hãy quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3, 13b).

Sám hối không chỉ là công việc của cá nhân mà là của cả Giáo hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI là vị Giáo Hoàng đầu tiên thay mặt Hội Thánh bày tỏ lòng sám hối: “Nếu có lỗi lầm nào về sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là do lỗi lầm của chúng tôi, chúng tôi thành thật xin Chúa tha thứ và chúng tôi cũng xin anh em bị xúc phạm tha thứ cho chúng tôi”. Đặc biệt, trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liệt kê rất nhiều lỗi lầm của Giáo hội trong hai thiên niên kỷ qua. Ngài đã công khai cử hành nghi thức sám hối và xin tha thứ hôm 12 tháng 3 năm 2000.

Ngọn lửa sám hối mà Đức Thánh Cha đã thắp lên trong lòng Giáo hội, không chỉ là ánh sáng xua tan bóng đêm tội lỗi, mà còn là sức nóng thôi thúc mỗi người tín hữu Kitô cũng hãy thật lòng sám hối những lỗi lầm của mình xúc phạm đến Chúa và anh em.

Về mục lục

.

HÃY TRỞ THÀNH CON ĐƯỜNG TỐT CHO CHÚA NGỰ ĐẾN

Giuse Vinh Sơn Ngọc Biển

Mỗi khi chuẩn bị đón tiếp một vị khách đặc biệt nào đó, người ta thường hay thăm dò để biết vị thượng khách này thích những thứ gì, hầu đáp ứng nhu cầu để làm hài lòng khách đến chơi.

Cũng vậy, Đức Giêsu chính là vị Đại Thượng Khách. Ngài đến viếng thăm dân của Ngài. Không những thế, Ngài còn ở lại và đồng hành với mọi người. Vì thế, Gioan, trong vai trò là người chuẩn bị, ông đã làm những điều cần thiết để sửa soạn lòng dân đón đợi Đấng Cứu Thế đến một cách xứng đáng.

  1. Uy tín của Gioan

Một trong những điều mà Gioan chú tâm và không ngừng lên tiếng, đó là sự sám hối, ông nói: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1); “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mt 3,3).

Lời mời gọi của Gioan cộng với đời sống gương mẫu nơi ông trong hoang địa đã khiến cho dân chúng từ khắp nơi, đâu đâu người ta cũng hướng về ông như một điểm quy chiếu. Cũng chính vì uy tín của ông nên lời mời gọi một khi cất lên, đã được hưởng ứng cách rất tích cực qua tất cả mọi thành phần.

Thật vậy, không chỉ những người bình dân học vụ đến nghe giảng, mà cả những người học thức sâu rộng; không dừng lại ở người thường dân, mà cũng rất nhiều binh lính; không chỉ với người nghèo mà cả giới thượng lưu; không chỉ người đạo đức, nhưng có luôn cả những người tội lỗi…

Tại sao Gioan lại hấp dẫn đến như vậy? Lời rao giảng sao lại hợp thời đến thế? Thưa, bởi vì nơi ông, ngôn hành thống nhất. Ông đã thực hành rồi mới nói. Quả thật, Gioan đã sám hối, ăn chay, hãm mình trước rồi mới khuyên răn người khác, vì vậỵ: “Hữu xạ tự nhiên hương” .

Khi đã thu phục được lòng dân, Gioan lên tiếng kêu gọi họ hãy sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Nói cách khác, sám hối chính là thay đổi lối sống cho phù hợp với Tin Mừng.

  1. Những ai cần phải sám hối?

Vào thời Gioan, khi ông cất tiếng kêu gọi dân chúng sám hối, người ta đã ùn ùn kéo đến với ông và nghe ông giảng. Người ta không cần phải thắc mắc xem: tôi có cần phải sám hối hay không? Nhưng lòng dân lúc này là: cần phải lãnh nhận phép rửa để tỏ lòng sám hối và quay trở về với Thiên Chúa.

Còn thời nay, lời mời gọi của Gioan có còn trở nên cấp bách hay không? Ai là người cần sám hối?

Trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng ta cần phải khẳng định ngay rằng: lời mời gọi của Gioan: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1); “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mt 3,3), vẫn rất thời sự và khẩn thiết ở mọi thời.

Tuy nhiên, khẩn thiết là vậy, cấp bách là thế, nhưng con người ngày hôm nay lại xem thường đến độ dửng dưng. Họ viện đủ mọi lý do để không cần phải sám hối, hay sống như vậy là đủ rồi…

Nguyên nhân chính yếu dẫn đến thái độ tự mãn như vậy chính là không biết mình, nhưng lại đề cao cái tôi.

Nếu không biết mình thì không thể sám hối được. Cũng vậy, nếu đề cao cái tôi sẽ dẫn đến thái độ kiêu ngạo. Biết mình chính là điều cốt yếu trong hành trình sám hối. Từ bỏ cái tôi chính là biết ý thức giới hạn của kiếp con người.

Nhà hiền triết Socrate đã khởi đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même). Ông nói như thế là vì nếu không biết mình thì không thể nào phát huy cái tốt và loại trừ cái xấu được. Không biết mình thì chẳng khác gì: “Vô tri bất mộ”. Những người không biết mình thì không hề biết sai trái để mà sửa, cũng chẳng cần biết những điều hay mà học. Vì thế, người ta rất sợ những người không biết mình. Vì thế có câu: điều làm ta sợ nhất chính là “người không biết sợ”. Nói cách khác: “Sợ nhất là người không biết mình”.

Khi họ không biết những giới hạn của mình, lúc đó, họ ung dung và coi mình là “đệ nhất đế vương”, là “cái rốn của vũ trụ”.

Thấu hiểu được lòng dạ con người, vì thế, thời xưa Gioan đã kêu gọi mọi thành phần cần phải sám hối để quay trở về với Thiên Chúa. Không ai là người tinh tuyền đến độ không cần phải sám hối. Thì ngày nay, cũng lời mời gọi ấy, Gioan tiếp tục kêu mời mỗi người chúng ta cần phải sám hối để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đã là con người, không ai là người vô tội.

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

Lời Chúa hôm nay làm cho chúng ta nhớ lại suy tư của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Đấng Cứu Độ Nhân Trần số 4, ngài viết: “Con người là con đường của Giáo hội”.

Nói cách khác, mỗi người là một con đường. Ngang qua con đường ấy, Thiên Chúa có thể đi vào cuộc đời của ta và đi đến với tha nhân.

Tuy nhiên, muốn cho con đường ấy được xứng đáng để đón Chúa ngự đến, chúng ta hãy thực thi những gì mà Gioan đã kêu gọi dân chúng khi xưa.

Nếu con đường tâm hồn chúng ta đầy rẫy những sự hận thù, chia rẽ, ghen ghét, nói hành nói xấu, thì giờ đây, hãy thay thế nó bằng con đường của yêu thương, bác ái, hiệp nhất, chân thành.

Nếu lòng dạ chúng ta không trong sạch, mà là đầy những âm mưu đen tối, lừa thầy, phản bạn, gian dối lọc lừa, luôn trách móc, than phiền và lợi dụng nhau, thì giờ đây, hãy thay vào đó một trái tim nhân hậu, một lối sống công bằng, liêm chính, trung thực, nhất là ý ngay lành.

Nếu lựa chọn của chúng ta là sống huênh hoang, tự đắc, kiêu ngạo, coi khinh người khác, ham mê danh vọng, tiền bạc và sắc dục, thì giờ đây, hãy thay vào đó một tâm hồn khiêm nhường, yêu thương, tôn trọng anh chị em thật lòng, sống trong sạch và biết từ bỏ…

Nếu thái độ chúng ta đang thờ ơ, lãnh đạm, dửng dưng trong mối tương quan với Thiên Chúa và vô cảm với nhu cầu và sự liên đới với anh chị em, thì giờ đây, hãy thay vào đó một ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, yêu anh chị em như chính mình.

Nếu chúng ta can đảm để cho lời mời gọi của Gioan chạm đến tâm hồn, trái tim và khối óc của mỗi chúng ta, thì chắc chắn mỗi người sẽ là một con đường xứng hợp để cho Thiên Chúa đi vào cuộc đời của mình và đến với tha nhân.

Lạy thánh Gioan Tiền Hô, lời mơi gọi của ngài đã vang lên cách đây hơn 2000 năm. Tuy nhiên, ngày nay chúng con vẫn thấy rất cấp bách và ý nghĩa trong thời đại mà chúng con đang hiện diện. Vì thế, xin ngài bầu cử cho mỗi người chúng con biết sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón nhận lời mời gọi của ngài để biết sám hối, ngõ hầu tâm hồn được trở nên xứng đáng đón Chúa ngự đến trong cuộc đời của chúng con cũng như đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.

Về mục lục

.

MỘT CON ĐƯỜNG

Lm. Jos. DĐH.

Dọn đường sửa lối để lưu thông, kiêng ăn bớt uống để giảm cân hoặc chữa bệnh, quy cách đó nhiều người vẫn áp dụng, chẳng có gì là bí mật cả. Biết tìm nơi thanh vắng nghỉ ngơi, đến với thầy tài giỏi đức độ để thọ giáo, tư vấn, cũng đâu còn là chuyện mới mẻ. Người hùng, người tài giỏi, thời nào cũng xuất hiện như một nguyên lý: tre già măng mọc. Khả năng suy tính mỗi người rất riêng tư, tuy nhiên mơ ước chung đều muốn được công thành danh toại, cho dù ý chí quyết tâm có khác nhau. Sở thích nghề nghiệp ở thời điểm hôm nay và tương lai người ta có thể điều chỉnh, nhưng hướng tới mục đích ở phía trước vẫn luôn cố định là “hạnh phúc”. Có được thiên thời địa lợi mà nhân không hoà, hẳn không ai gọi là thành công. Tìm được việc làm như ý, sắm được phương tiện di chuyển tốt, mà đường xấu, đường hư hỏng, cũng không ai nói là bạn đã có một cuộc sống hài hoà, hạnh phúc.

Chúa nhật 2 mùa vọng, người tín hữu chúng ta được nghe vị Tiền hô nhắc nhớ dọn đường, dọn tâm hồn, dù ở đời có nhiều con đường để tới thành công, Gioan vẫn hô hoán mọi người: “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Dù thiên hạ chủ trương: to khoẻ béo bền, mập nhưng tấp nập người theo…, Gioan vẫn giữ lập trường tự sống kham khổ ở hoang địa, và không ngừng kêu gọi mọi người ý thức, chỉ duy một con đường dẫn tới hạnh phúc thật: “hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Thông thường người ta tìm đến những vị quan thanh liêm, những người thầy có tâm, có đức, hoặc đến với những quân sư nhiều kinh nghiệm để mong được các ngài vẽ đường chỉ lối cho công việc làm giầu. Nơi hoang địa hôm xưa, người ta từ Giêrusalem, từ Giuđêa, từ khắp vùng phụ cận tìm đến sông Gio-đan, không phải xin địa vị, xin no cơm ấm áo, mà họ xin Gioan làm phép rửa sám hối ăn năn.

Chắc không phải bằng cấp cao là sẽ có việc làm tốt, không phải giầu có địa vị sẽ không cần đến chuyên gia tư vấn, cũng không phải đường rộng rãi thênh thang là con đường đưa tới thành công, hạnh phúc. Gioan thu hút được số đông mọi thành phần xã hội, ông trở nên vĩ đại, đáng được lưu danh hậu thế, nhiều người đã phát hiện ra là ông thiên về đời sống thực hành hơn là lý thuyết. Ông Gioan đã tìm thấy một con đường đưa tới sự sống: sám hối, hầu nhận ra nước trời đang tới, ông đã sống kỷ luật, sống niềm tin vào Đấng đang đến, sẽ đến. Gioan tự sống nhiệm nhặt khó nghèo như câu thành ngữ: cán bộ đi trước, làng nước theo sau, tất cả những gì ông trải lòng nơi hoang địa không phải là bậc quân vương, mà là sứ mạng Tiền hô như lời ông chia sẻ: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi giây giầy cho Ngài”.

Ở trần gian này, không ai tự phong chức tước cho mình, kitô giáo không chủ trương nên thánh một mình, trong đời sống cầu nguyện, chẳng ai ích kỷ đến độ chỉ xin ơn cho riêng mình. Gioan bằng đời sống cầu nguyện, ông nhận ra sứ mạng của ông là dọn đường, dọn lòng, là tiếng kêu, giúp mọi người sám hối ăn năn. Gioan vào sa mạc không phải là tìm đường tiến thân, ông đã phản chiếu được thế nào là từ bỏ, là tin vào Đấng cứu độ trần gian đang tới, sẽ tới. Ngày hôm nay, bằng tình yêu, bằng những hy sinh, những từ bỏ, cũng là bằng chứng người tín hữu đang góp phần làm cho tiếng hô nơi tâm hồn mỗi người sẽ vang vọng hơn nữa. Gioan đã cho đám đông hiểu rằng, sức mạnh của tình yêu, tác động của ý chí, là dịp thuận tiện cho việc thực hành sám hối, người ta sẽ đi, sẽ tự tin bước trên một con đường duy nhất vào sa mạc lòng mình, và mọi người sẽ nhận biết thế nào là Thiên Chúa cứu độ.

Gioan năm xưa đã hô vang ở hoang địa: “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở thành con cháu Abraham. Cái rìu đã để sát gốc, cây nào không sinh trái quả, đều bị chặt và quăng vào lửa”. Đúng, Thiên Chúa làm được mọi sự, Ngài đã cho các sứ giả đến chỉ đường dẫn lối, đã cho Vị Tiền hô đến chuẩn bị tâm hồn cho từng đối tượng, tiếng hô vang ở hoang địa có khả năng thức tỉnh mọi người nhận biết con đường đưa tới sự sống: hãy sám hối và tin vào Tin-mừng. Nếu các đấng bậc của chúng ta nói: bến hiền, thuyền đậu, bến dữ, thuyền lui, thì mãi mãi: yêu và được yêu, tin và sống niềm tin, chính là kết quả minh chứng một con đường sám hối cho Nước Trời đến thật với tâm hồn con người. Sứ mạng của Gioan là tiếng kêu dọn đường, sửa đường, tiếng kêu chỉ hữu hiệu khi tâm hồn đến được với sa mạc của cõi lòng, là nhận biết mình tội lỗi cần được thứ tha, cần được thánh hoá, hầu đáng được dự phần vào mầu nhiệm cứu độ Con Thiên Chúa thực hiện. Amen.

Về mục lục

.

SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC SỐNG

Sr. Anna Nguyễn Như Ý

Mùa vọng là thời gian Thiên Chúa tỏ lòng thương xót những ai đang trông đợi Người đến. Mùa vọng cũng là thời gian chờ đợi. Nhưng ai sẽ chờ ai. Chúa đang chờ ta hay ta chờ Chúa đến giống như lời của một bài hát vẫn được cất lên “Chúa chờ ta, từ bao năm ta vẫn ngủ mê, từ bao năm quên lối đường về, Chúa chờ ta” (K.T). Chúa chờ ta để cho ta thấy rằng, dù là thân phận mỏng giòn yếu đuối hay lầm lỗi thì ta vẫn luôn được Người yêu thương, quan tâm và chăm sóc. Vì lẽ đó, Gioan Tẩy giả trong Tin mừng hôm nay tha thiết mời gọi những ai khao khát muốn được sống hạnh phúc trong tình yêu của Chúa thìhãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (x. Mt 3, 2).

Sám hối không chỉ là việc đi xưng thú tội lỗi với linh mục là xong, nhưng là sự từ bỏ tận căn những việc làm đen tối. Đó cũng là lý do tại sao khi thấy những người Pharisêu và Xađốc đến chịu phép rửa, thì Gioan lại trách mắng họ, chẳng lẽ việc họ làm lại không xứng đáng để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa hay sao? Hình ảnh này cho chúng ta nhận ra rằng ơn cứu độ không phụ thuộc vào việc được chịu phép rửa hay không, nhưng “phải được chứng tỏ bằng hoa trái của lòng sám hối” (x. Mt 3, 8 ).

Lời mời gọi sám hối cách quyết liệt và dứt khoát của Gioan đã thức tỉnh  chúng ta, những Kitô hữu đang mang trong mình hình ảnh Chúa Kitô cũng phải suy xét lại việc làm của chính mình. Để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa hứa, chúng ta cũng phải cố gắng sống hết mình qua những đòi hỏi của Tin mừng ngay từ trần gian này. Trần gian chỉ là phương tiện để ta chiến đấu và lập công cho tương lai vĩnh hằng. Sống nơi trần gian, chúng ta cũng dễ bị lôi kéo đi theo chiều hướng của nó, nó hấp dẫn đến nỗi làm cho nhiều người trong chúng ta lắm lúc không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Thiên Chúa vô hình tạo dựng nên trần gian hữu hình với sức cuốn hút quá mạnh làm cho chúng ta quên mất định hướng của cuộc đời. Hơn thế nữa, có nhiều người còn cho rằng trần gian là thiên đường và rồi họ chẳng còn thèm khát chi thiên đàng vĩnh cửu nữa. Họ mê muội trong những cái hảo huyền đến nỗi lầm tưởng mình chỉ có sống ở trần gian này thôi. Tuy nhiên, cho dù là thiên đàng trần gian thì nó cũng không thể đem lại cho chúng ta hạnh phúc viên mãn, cái chúng ta đang hưởng thụ chỉ có thể là thứ chóng qua và chắc chắn mỗi người trong chúng ta vẫn luôn khao khát một điều gì đó mang tính bất tận.

Bởi thế, Gioan Tẩy Giả đã không ngại mời gọi chúng ta hãy thật lòng ăn năn sám hối, phải được cắt tỉa, sinh hoa trái và để được lãnh ơn cứu độ từ nơi Thiên Chúa. Chúa không muốn chúng ta giống như “cành nho bị chặt đi và quăng vào lửa” (x. Mt 3, 12) nhưng sẽ là những thóc mẩy được thu vào kho lẫm của Nước Trời, nơi đó chỉ có tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Có lẽ ai trong chúng ta cũng mong mình là thóc mẩy, nhưng chẳng ai muốn mình bị cắt tỉa bởi vì điều đó làm cho chúng ta đau đớn và đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những cái chúng ta không muốn rời xa. Nếu muốn hạnh phúc vĩnh hằng, chúng ta phải chịu đau đớn thiệt thòi, nhưng đó chỉ là thử thách trong thời gian ngắn, còn nếu không, chúng ta sẽ không cùng Chúa chung hưởng vinh quang mãi mãi. Vì thế, chúng ta hãy để cho Lời Chúa cắt tỉa cuộc đời mỗi người chúng ta. Lời Chúa có khi rất khó để cho chúng thi hành, nhưng mang lại sức sống, ánh sáng, hi vọng và hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta.  

Lạy Chúa, chúng con biết rằng sống theo lời dạy của Chúa không mấy dễ dàng cho những con người mang thân phận yếu đuối như chúng con, nhưng nếu không có ơn Chúa giúp sức và đỡ nâng, chúng con không thể làm gì được. Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa để biến đổi cuộc đời, hầu mai sau chúng con được cùng Chúa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

BÌNH AN ĐÍCH THỰC

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Chúng ta nghe lại những lời sau đây từ các bài đọc của Lời Chúa trong thánh lễ này:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau” (Is 11,6).
“Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc” (Is 2,4).
“Thái bình thịnh trị tới này nào tuế nguyệt chẳng còn” (Thánh Vịnh đáp ca 72,7).

Nếu Lời Chúa mà chúng ta suy niệm làm cho chúng ta rơi vào khủng hoảng nội tậm, thì đó là dấu chỉ của sự tác động của Lời đó trên chúng ta. Khi so sánh với những cảnh tượng mà chúng ta chứng kiến trong cuộc sống hằng ngày, trên tivi và mặt báo, những lời này xem ra như một điều mỉa mai cay đắng, xa rời thực tiễn. Bình an ở đâu? Thánh lễ kết thúc, nhưng đâu thấy cảnh thái bình thịnh trị xuất hiện? Ngược lại, thế giới tiếp tục với các cuộc chiến tranh. Chiến tranh và rồi một lần nữa tiếp tục chiến tranh: chiến tranh thế giới hay quốc gia, địa phương hay các sắc tộc, chiến tranh bên ngoài hay chiến tranh “dân sự.” Quả thế, thế giới đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu, xương chất thành núi, máu đổ thành sông. Đất nước chúng ta cũng đã trải qua những kinh nghiệm đau thương như thế.

Trong một bài thơ của mình, Charles Péguy trình bày cho chúng ta nhân vật Jeanne d’Arc trong thời chiến “một trăm năm” giữa Pháp và Anh, sau khi đã đọc Kinh Lạy Cha, ông chú giải một cách chua xót: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, sao nước Cha lại không đến! Sao ý Cha lại không được thực hiện! Sao chúng con hôm nay không có lương thực hằng ngày!” Chúng ta có thể thêm: “Sao cảnh thái bình thịnh trị của Chúa vẫn mãi xa vời.”

Thánh lễ xong, nhưng sao người ta không đúc gươm đao thành lưỡi cày, cũng không biến giáo mác nên liềm nên hái. Hay đúng hơn, sao hôm nay người ta không biến súng đạn thành đồ chơi trẻ em và tên lửa thành những máy bay miễn phí. Đây là lý do mà người Do Thái không tin vào Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Bởi vì họ không thấy Người thực hiện những lời tiên báo về Đấng Cứu Thế. Họ giải thích lời hứa về một nền thái bình đó theo nghĩa đen và chính trị.

Chúng ta có thể nói gì về vấn đề này? Trước hết, chúng ta cần tránh cảm tưởng rằng chúng ta có câu trả lời ngay lập tức và dễ dàng cho vấn đề này theo cái nhìn đức tin. Cả những vấn đề khác giống như vấn đề này.

Chúng ta cần khởi đi từ Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên thần ca hát: “Bình an dưới thế cho người Chúa thương.” Đây không phải là một lời chúc, một lời nguyện cầu, nhưng là một sự kiện, một sự hiện hữu xuất hiện. Bình an đã đến trên trái đất. Nhưng thứ bình an này rất khác, rất mới. Như có lần Chúa Giêsu giải thích: ““Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27a).

Từ những lời này, chúng ta có thể diễn giải thế này: bình an không có nghĩa là vắng bóng chiến tranh, hoặc là cân bằng lực lượng đối lập, như điều người ta gọi trong những thập niên gần đây, đó là “chiến tranh lạnh.”

Nhưng trước hết, bình an là sự hòa điệu, sự viên mãn, sự an toàn của cuộc sống. Kinh Thánh gọi đó là “hoa quả của công lý.” Theo nghĩa này, thánh Augustinô định nghĩa: “Bình an là bình thản trong trật tự của mình,” nghĩa là giữ đúng trật tự giữa chúng ta với Thiên Chúa, giữa chúng ta với tha nhân, giữa các giai cấp xã hội, giữa lý trí và bản năng trong mỗi người chúng ta. Kinh Thánh định nghĩa: Bình an là “hoa trái của Thánh Thần.” Hay bình an là chính Chúa Kitô, như thánh Phaolô quả quyết: “Người là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Trong từ bình an có điều gì đó vô biên hơn những gì mà con người suy tưởng. Bình an là “sự viên mãn và là chóp đỉnh của sự thiện hảo cứu độ,” mà chúng ta khao khát, tin tưởng và tìm kiếm. Nếu chúng ta hỏi dân chúng: “Bạn tìm kiếm cái gì nhất trong cuộc sống?” Tôi chắc chắn rằng nhiều người sẽ trả lời: “Tôi tìm kiếm sự bình an.”

Vậy, tại sao Chúa Giêsu nói: “Thầy ban bình an cho anh em, nhưng không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27)? Thế gian ban bình an như thế nào? Ở Tiểu Á người ta tìm thấy một tấm bia mộ, trên đó hoàng đế Augustô khắc ghi những công trình của mình, nhất là về “Pax Romana” (nền hòa bình La Mã) do ông thiết lập trên thế giới. Ông cho rằng nền hòa bình này có được là nhờ “Victoriis Pax,” nghĩa là nền hòa bình này có được nhờ những chiến tích lừng danh. Như vậy, trong nền hòa bình này, cũng như trong tất cả các công trình con người, có những người thất bại và những người chiến thắng. Cả Chúa Giêsu đã chinh phục nền hòa bình cho chúng ta với một chiến thắng, nhưng chiến thắng nào? Câu trả lời là chiến thắng thập giá, như thánh Phaolô quả quyết: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2,16-17). Người đã tiêu diệt mọi sự thù địch, chứ không phải là địch thù, Người đã tiêu diệt sự thù địch nơi chính mình, chứ không phải nơi người khác, nhờ sự tự hủy chính mình, chứ không phải hủy diệt người khác. Trên thập giá, Đức Giêsu là người “chiến thắng vì là nạn nhân” (victor quia victima). Bình an quả thực đã được ban cách dồi dào nhờ Người và không thể tính được có bao nhiêu người có kinh nghiệm về sự “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,7). Họ sẵn sàng làm chứng cho chân lý qua câu nói nổi tiếng của văn hào Dante Alighieri: “Sống theo ý muốn của Người, chúng ta có bình an.”

Điều mà tiên tri Isaia loan báo đã được ứng nghiệm, nhưng ở trên cấp độ cao cả, theo nghĩa tinh thần và hoàn vũ. Không phải dành riêng cho một dân tộc nào, nhưng là cho mọi dân tộc. Khởi đi từ Chúa Giêsu, hòa bình không chỉ là ước mơ, nhưng là thực tại đã thực hiện, ít ra là “khả thể” đích thực ban tặng cho tất cả “mọi người thiện tâm.” Bình an của Chúa Giêsu là thứ bình an mà thế gian không thể ban, cũng như không thể xóa bỏ được.

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng trái tim là trung tâm lưu giữ và lan tỏa sự bình an ra bên ngoài. Trái tim là nguồn gốc phát xuất sự bình an hoặc sự bất an. “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? (Gc 4,1). Chúng ta nhận thấy rằng, tất cả các cuộc chiến tranh đều phát xuất từ lòng người, thường từ lòng của những người có quyền lực. Lòng người thực sự là “ổ chiến tranh.” Hàng triệu giọt nước bẩn sẽ làm cho đại dương không sạch; cũng vậy, hàng triệu người không có bình an trong tâm hồn, sẽ làm cho nhân loại bất an. Bình an hệ tại nơi lòng người.

Tuy nhiên chúng ta đừng ảo tưởng khi nghĩ rằng ở trần gian này sẽ có sự bình an trọn vẹn. Không phải thế. Sự bình an hoàn toàn và trọn vẹn chỉ có thể đạt được trong ngày cánh chung, nghĩa là vào thời sau hết. Chúng ta chỉ có bình an thực sự khi mọi sự được hoàn tất, “chúng ta mong đợi trời mới và đất mới, nơi công lý sẽ ngự trị” (2 Pr 3,13).

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một phương thế để đạt được bình an: “Anh em hãy sám hối! Anh em hãy làm những dấu chỉ sám hối.”

Cần phải có sự thay đổi tận căn của con tim. Hãy hoán cải để có bình an. Bình an đích thực mà chúng ta có được, vâng, nhờ những “chiến thắng” như Cesare Augustô nói, nhưng là chiến thắng chính mình, chứ không phải chiến thắng người khác.

Tôi không thể làm cho mọi nơi trên thế giới và những nơi đang có chiến tranh được bình an, nhưng tôi có thể mang bình an đến trong gia đình tôi. Tôi không thể mang bình an đến các bộ tộc đang xung đột ở Châu Phi, nhưng tôi có thể mang bình an cho những người anh em tôi, cho vợ, chồng, con cái, bạn bè, người đồng nghiệp, cho những người xung quanh…

Thật đẹp thay khi chúng ta làm những nghĩa cử hòa bình và hòa giải! Chúa Giêsu nói rằng: “Phúc cho những người xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.” Tại sao chúng ta không bắt đầu biến gươm giáo nên liềm nên hái ngay lúc này? Nghĩa là biến những lời nói cứng cỏi, khó nghe, thành những lời nói cảm thông, tha thứ; biến những bàn tay đóng kín và gây gỗ thành những cánh tay mở rộng để hòa giải và yêu thương? Chúng ta đã quá nhiều đau khổ: chúng ta có cần phải làm cho cuộc sống và người khác ra nặng nề hơn không?

“Hỡi con người, bình an! Trên mặt đất quá nhiều huyền nhiệm!” Đó là một trong những câu đẹp nhất của triết gia Blaise Pascal. Bình an phụ thuộc nơi tôi và nơi mỗi người. Nếu chúng ta thực hiện những điều đó, thì lời tiên báo trên sẽ được hiện thực: “Thái bình thịnh trị tới ngày nào tuế nguyệt chẳng còn.” Chúng ta kết thúc với lời cầu nguyện được cho là của thánh Phanxicô:

“Lạy Chúa, xin dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp.”

Vâng, lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Amen!

Về mục lục

.

TIÊN PHONG

Lm Vũđình Tường

Hai ba tháng trước lễ Giáng Sinh các cửa hàng trưng bày đèn chớp và mầu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng báo hiệu Giáng Sinh sắp đến. Mục đích chính của nhóm thương mại là nhắc nhở khách hàng mua sắm càng nhiều, người bán thu lợi càng lớn. Giáo Hội mừng kính Giáng Sinh hoàn toàn khác. Mục đích chính chú trọng ít về hình thức hào nhoáng bên ngoài. Mừng Giáng Sinh chính là chú trọng vào việc chuẩn bị tâm hồn, đón Đức Kitô vào trong tâm hồn, vào trong gia đình, vào trong đời sống con người. Đây không phải là cách mới mẻ gì bởi các bài đọc trong tuần này chú trọng đến thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan kêu gọi đổi mới tâm hồn. Một đề tài cũ rích, cũ từ ngàn xưa được lập đi, lập lại hàng năm. Lạ lùng thay đề tài cũ rích, cách đổi mới cũng cũ nhưng nếu tuân theo sẽ đổi mới, làm trong sáng tâm hồn. Như thế cho biết không phải tất cả những gì cũ, lâu đời đều không có giá trị trong xã hội tân tiến. Phương pháp Gioan rao giảng là phương pháp cũ, nhưng phương pháp này không bao giờ quá hạn, lỗi thời vì nhiều lí do. Thứ nhất những gì Gioan rao giảng là kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Thứ hai, kinh nghiệm khôn ngoan, kinh nghiệm sống còn này học được trong những ngày sống trong hoang địa. Thứ ba, thánh nhân trải qua kinh nghiệm ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương, đói, khát, sống, chết cạnh kề nhau. Thứ tư thánh nhân tận mắt chứng kiến cảnh sống, chết cạnh tranh, giành giựt từng phút giây. Chỉ cần sơ í là chết hay mang thương tật suốt đời. Thứ năm thánh nhân tận mắt trông thấy cảnh con vật giả chết rình mồi, nhìn thấy cảnh súc vật giết nhau, một cái vồ của móng vuốt, hay của cào cắn ngay tim mạch, đoạt mạng nhanh như chớp. Tất cả những kinh nghiệm đó được thánh nhân học được không phải bằng suy luận của khối óc, mà của rung động con tim. Bởi chúng đến từ tim nên không bao giờ cũ, không bao giờ lỗi thời vì nhịp đập, rung động của con tim luôn luôn mới. Thánh nhân kêu gọi đổi mới, canh tân con tim để sống đời sống mới, và được sống muôn đời. Đường lối cũ là đường dẫn đến diệt vong. Thần chết nấp sau hào nhoáng bên ngoài, nghiện ngập ẩn sau mùi men, chất độc lắng đọng sau làn khói. Cái đê mê của lạc thú làm say đắm chí khí phấn đấu. Điểm khác thánh Gioan chọn cuộc sống đơn sơ, sống nghèo nhưng không hèn, bởi thánh nhân không sống cho chính mình mà sống cho Đấng Cứu Thế. Ngài kêu gọi khán thính giả đến nghe hãy nhìn sâu vào hồn mình, tâm mình, nghe tiếng mời gọi thay đổi; thay đi những gì có hại cho cuộc sống tâm linh, vứt bỏ những gì cản trở ta đến cùng Chúa; đổi cách sống cũ ngăn cản ta đến với anh em; dứt khoát từ bỏ những gì cản trở ta thương yêu đồng loại. Thánh nhân dùng hình ảnh núi rừng để nói về núi rừng trong tâm hồn. Bạt đi núi cao trong tâm hồn ngăn cản ta đến cùng Đấng Cứu thế. Từ bỏ thung lũng thấp ngăn cản ta có cái nhìn rộng lượng; uốn thẳng con đường cong để nhìn thấy tương lai tươi sáng. Lắng nghe chọn lựa tiếng nói trung thực, tiếng kêu gọi sống công chính và tiếng van nài xin tha thứ. Rừng rậm, núi đồi, thung lũng trong tâm hồn trở thành bức màn khói ngăn ta nhìn nhận thực tế cuộc sống. Nhìn sai, dẫn đến nhận xét sai, phán đoán sai và hiểu sai về í nghĩa cuộc đời, mục đích cuộc sống. Thánh Gioan biết rất rõ về mục đích của Ngài nơi trần gian, bởi trong tâm trí Ngài không có núi đồi, hố thẳm. Chúng ta đôi khi biết rõ mục đích cuộc sống nhưng núi vô hình, rừng giả tưởng và đường thênh thang dẫn ta đi vào con đường xa lánh mục đích Chúa dựng nên ta. Một số còn phản bác sự hiện diện của Chúa trong vũ trụ. Vì sao thế? Vì đặt niềm tin vào vật chất, vào khoa học và ngay cả vào tài chánh dồi dào. Thành phần trí thức này bị vật chất đánh lừa, đến độ họ không biết họ sai vì thế rất khó cho họ nghe theo lời Gioan rao giảng. Gioan ra đời trước Đức Kitô, vào hoang địa trước Đức Kitô, rao giảng công khai trước Đức Kitô, làm phép rửa tại sông Giođan, và chết trẻ, trước Đức Kitô. Ông không làm phép lạ, cũng không làm gì đặc biệt, ngôn ngữ ông rao giảng là ngôn ngữ bộc trực, nói thẳng, nói thật, không ngoại giao. Ôn sống rất đơn sơ, chân thành và hoà toàn rao giảng về Đấng Cứu thế. Chỉ điểm này thôi cũng đủ cho tên tuổi ông sống mãi trong Giáo Hội Chúa. Gia đình có lịch trình mua sắm mừng Giáng Sinh. Tốt hơn hãy có chương trình cho Đức Kitô, xin ơn khôn ngoan biết nhận điều công chính, ơn can đảm chấp nhận trở về, dù có bị thiệt thòi, khi vượt qua được núi đồi lòng mình. Không quà Giáng Sinh nào tốt hơn, cao quí hơn là chuẩn bị tâm lòng mình đón nhận Chúa Cứu thế. Làm như thế chính ta có lợi nhưng Đức Kitô hài lòng bởi đó là lí do chính Ngài đến trần gian, mang an vui, hạnh phúc cho đời và ban ơn trường sinh cho những con tim thống hối, ăn năn.

Về mục lục

.

KÊU GỌI SÁM HỐI!

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn Đức Tin được định nghĩa là: “ Kiếm tìm sự hiểu biết”. Như vậy, Đức Tin chính là : “ Nguồn cội của tri thức”, người ta thường nói :” Tri thức là sức mạnh”. Nhưng, người ta lại lập lờ đánh lận con đen, khi cho rằng “ khoa học là tri thức”, người ta muốn chối bỏ thực tại của cội nguồn tri thức, đó là ” ĐỨC TIN “, thì người ta thế chỗ cho “ KHOA HỌC” . Như thế, mặc nhiên vô hình trung, người ta “không thể” chối bỏ tri thức, vì vốn dĩ nếu không có tri thức, con người không thể có cuộc sống văn minh được, như vậy loài người không thể tiến bộ.

Theo đó, há “tri thức” không phải là sự hiểu biết của nhân loại đến từ Thiên Chúa hay sao ? Vì, Đức Tin là điều để “kiếm tìm sự hiểu biết”, vậy sự hiểu biết chính là ‘ Chân lý”, mà Thiên Chúa chính là CHÂN LÝ. Vậy tại sao, con người chối bỏ “Tri thức của Đức Tin”, vì Đức Tin là phạm trù siêu nhiên, vì vậy, Đức Tin thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Thần Linh. Vì vậy, nhân loại không thuộc Thần Linh, vì là loài hữu hình, nên con người dựa vào “khoa học” là tri thức của họ. Con người xem khoa học là “ chúa” của họ, vì đó là thế giới hữu hình, họ không thể đạt đến thế giới siêu nhiên được, nếu Thiên Chúa không mặc khải cho. Theo đó, Đức Tin là sự mặc khải đến từ Thiên Chúa và sự đáp trả của con người. Cũng có thể gọi Đức Tin là:” Khoa học siêu nhiên của tri thức”. Nhưng,Thiên Chúa không hoàn toàn dùng “LÝ ” để đối xử với nhân loại, mà Người luôn luôn dùng “ TÌNH “ để đối đãi với chúng ta, vì ,Người còn là “TÌNH YÊU” nữa.Vì Người là Thần Chân Lý và là Thiên Chúa của tình yêu.

Vâng, trên hết chính là tình yêu nơi Thiên Chúa, sự khác biệt giữa Thiên Chúa và nhân loại chính là ở điểm nầy. Khi tha nhân xúc phạm đến chúng ta, thì chúng ta dùng lý để chiến thắng, nhưng, chúng ta thường thất bại, còn khi chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa, thì người lại dùng tình để thứ tha cho chúng ta thì Người lại chiến thắng vì có được chúng ta, còn nếu Người dùng lý, thì người hoàn toàn mất chúng ta. Từ đó, suy ra, Thiên Chúa yêu thương nhân loại hơn loài thiên thần, vì khi thiên thần xúc phạm đến Thiên Chúa, thì Người dùng lý mà xử ngay, tại sao Người không cho thiên thần cơ hội là dùng tình để xử. từ đó, chúng ta biết được , vì thiên thần là loài siêu nhiên, giống hình ảnh vô hình của Thiên Chúa, nên thiên thần không có được diễm phúc tha thứ. Thiên Chúa yêu thương loài người, bởi vì họ là loài hữu hình, nhưng được dựng nên bởi siêu nhiên từ Thiên Chúa, vì thế khi loài người sa ngã, Thiên Chúa không đoạn tuyệt như loài thiên thần. Nên chi, loài người luôn còn cơ hội cho đến khi được chính Ngôi Vị Thiên Chúa cứu  chuộc, là Ngôi Hai đã mang lấy chính thân phận loài người như chúng ta hoàn toàn, ngoại trừ tội lỗi, và đến giờ đã định, Người đã giáng trần vì chúng ta. Đó là Mầu Nhiệm Cứu Độ.

Trở lại Lời Chúa hôm nay, khởi đi từ Bài đọc I, (Is 11, 1-10) nói lên hình ảnh của một Ngôi Vị Thiên Chúa sẽ làm thay đổi mọi sự, từ sự dữ hóa ra sự lành. Người sẽ đem đến một nên hòa bình thật sự mà từ nơi Thiên Chúa mới có được. Người được mệnh danh là “Vua Hòa Bình”, một Vị Vua không xét xử chỉ bằng công lý mà bởi tình thương nữa. Người sẽ thiết lập một nền hòa bình thịnh trị trong Vương Quốc của Người, đó là Vương Quốc sự thật và tình thương. Vì lúc đó, khắp địa cầu sẽ tràn ngập trí năng Chúa như dòng nước đầy ngập biển khơi.

Như chúng ta biết, “gậy” giám mục không chỉ tượng trưng cho sự chăn dắt dân Chúa,như chiếc gậy mục tử là người chăn súc vật là con chiên, mà còn  như “ Lời “ của  Chúa để chăn dắt, vì:  “Người sẽ dùng gậy là miệng Người mà đã kích thế gian, lấy hơi thở nơi môi mà diệt gian ác”, rõ ràng (hơi thở nơi môi chính là Thần Khí, tức Chúa Thánh Thần) (Is 11,4)

Như vậy, Đức giám mục không phải chỉ thay thế các thánh Tông Đồ, mà còn là đại diện chính Chúa Giêsu – Kitô  và nhờ quyền năng Thần Khí khi thi hành nhiệm vụ nữa.

Tin Mừng thánh Mat-thêu 3, 1- 12 , hôm nay cho chúng ta thấy một nhân vật “dọn đường “ cho Đấng Cứu Thế đến, Vị Vua Hòa Bình mà Bài đọc I trình thuật cao cả và sẽ thay đổi diện mạo trái đất như vậy, thì nhân loại cần có một điều kiện để đón nhận, đó là “lòng sám hối”, nếu không có lòng sám hối, thì như cây rìu để sẵn gốc cây, sẽ đốn bỏ bất cứ cây nào không sinh quả tốt mà bỏ vào lửa. như vậy nhân vật Tiền Hô cho chúng ta biết “Chân Dung “ Đấng Cứu Thế là : “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước để giục lòng anh em sám hối. Còn Đấng đến sau tôi, thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người, Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa và Tay Người sẽ cầm nia rê sạch lúa trong sân,thóc tốt thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (c 11- 12)

Như vậy, nhân vật dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến cho chúng ta biết, sự “dọn đường” cho Người chính là dọn tâm hồn tức sám hối nội tâm của chúng ta. Như vậy, mới xứng đáng để một Vị Vua Hòa Bình ngự đến, nếu không chúng ta sẽ bị người rê sạch như lúa lép bị bỏ vào lửa đời đời. Chúng ta thấy, ý nghĩa của Bài Đọc I (Is 11, 1-10) và Đoạn Tin Mừng ( Mt 3, 1-12) hôm nay thật trùng khớp, đọc lên chúng ta thấy ý nghĩa “Vương Quyền” của Đấng Cứu Thế, một Vị VUA Hòa Bình, đồng thời, Người cũng là Vị Vua Công Lý nữa. Người sẽ cầm nia, hay cầm gậy để lý đoán thiên hạ chính là dùng Lời của Người tức là Thần Khí để xét xử. Khí giới của Người chính là “Môi, Miệng” của Người, là dùng Lời chỉ dạy thế gian, nếu ai không nghe thì như lúa lép, bị bỏ vào lửa không hề tắt. như vậy,NIA, GẬY, và HƠI THỞ của Người chính là LỜI và THẦN KHÍ của sự sống hằng hữu vậy.

Theo đó, Bài đọc II, thánh Phao-lô cho chúng ta biết qua thư Rôma (15, 4-9) như sau:” … Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ , dâng điệu hát cung đàn ca mừng Danh Thánh Chúa.”

Thánh Vịnh 71 cho chúng ta biết “Vương Quốc của Đấng Kitô” là một Vương Quốc thái bình , không có khổ đau, vì trong thực tại, người dân đang sống trong cảnh lầm than , bị ức hiếp, đau khổ, họ đang mong đợi một vương quốc thái bình thật sự đến với họ. Mặc nhiên trong vương quốc ấy, phải có một Vị Vua nhân ái, tràn đầy yêu thương, vì :” Người dân khốn khổ đầy đường, mong Người giải phóng xót thương dân lành”, vâng, và như vậy sự mong đợi một vì vua anh minh, nhân ái là điều hết sức mong mỏi. Chúng ta thấy ” tâm tình mong chờ” ngày xưa của dân Dothai là như vậy, và “ tâm tình “ Mùa Vọng ngày nay của chúng ta như thế nào ? Chúng ta có mong mỏi một Đấng Cứu Chuộc không? Người đã yêu thương đến với chúng ta lần thứ nhất, và trong giai đoạn nầy, chúng ta sống lại tâm tình kỷ niệm Mùa Vọng lần I, Người đã đến với chúng ta, để chúng ta luôn tỉnh thức chờ đợi Người lại đến với chúng ta lần thứ II trong vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trong thế gian lần thứ I vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Chúa muốn con người sám hối, để đón nhận Lời Chúa, hầu canh tân cải thiện cuộc đời, để sau khi lìa khỏi nơi chốn tạm là chốn đời đầy bất trắc, họ sẽ có Chúa là chốn tựa nương vĩnh hằng muôn thuở. Xin thương ban cho chúng con sống một Mùa Vọng đầy tràn Thánh Ân bởi Chúa, hầu hướng về một Lễ Giáng Sinh an bình mà chỉ có Chúa mới thoả mãn tâm hồn chúng con./. Amen

Về mục lục

.

LỜI CÔNG BỐ CỦA GIOAN TẨY GIẢ

Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

  1. Mt dùng cùng một động từ “xuất hiện” để đưa Gioan (3, 1) và Chúa Gỉêsu (3,13) vào câu chuyện; sứ điệp của Gioan (3, 2) và của Chúa Giêsu (4,17) đều giống nhau; lời ngôn sứ Isaia được trích ra trong câu chuyện của cả hai nhân vật: sự song đối này có ý nghĩa gì? Mt có đưa vào những yếu tố dị biệt không ?
  2. Đâu là chủ đề rao giảng của Gioan? Chủ đề đó đóng vai trò nào trong trình thuật Tin Mừng?
  3. Vào thời Chúa Giêsu, đâu là những bè phái hay khuynh hướng tôn giáo khác nhau? Chúng có đặc điểm nào?
  4. Trong tất cả đoạn này, chủ đề sa mạc gợi lên những âm hưởng nào trong Cựu ước?
  5. Vào thời Chúa Giêsu, có những thiên sai chủ nghĩa hiện hành nào? Chúa Giêsu tỏ thái độ gì đối với chúng?

CHÚ GIẢI

  1. Để hiểu việc nhập cuộc của Gioan, cần nhớ rằng vào thời ấy, thời đô hộ của đế quốc Rôma, thời ra oai tác quái của vua Hêrôđê, người Do thái tìm mọi cách để được giải phóng. Giữa lòng Do thái giáo và đặc biệt tại Giêrusalem, nhiều “phe phái” dần dần thành hình. Nhóm Biệt phái (hay phái cách biệt), phát sinh từ thời Macabê (x.1 Mcb 2, 42) mà Flavius Josèphe bảo là có hơn 6000 phần tử (Antiquités Juives, XVIII,42), đã quy tụ được một vài tư tế với một số lớn thường dân, thường mộ từ các ký lục hay tiến sĩ Luật. Nhờ trung thành với lề luật, với khẩu truyền của tổ tiên, họ trở thành những nhà lãnh đạo tinh thần của dân chúng thời Chúa Gìêsu; do đó ảnh hưởng tôn giáo và luân lý cua họ rất đáng kể; trên phương diện chính trị, họ bênh vực sự tự trị của dân tộc Do thái và tỏ ra dè dặt trong việc tiếp xúc với người Rôma. Bên cạnh họ, nhóm Saducêo, con cháu Sađốc, vị thượng tế thời Salomon (1V 2, 35), làm thành phái các tư tế, vì quy tụ những gia đình tư tế khá giả. Họ chấp nhận các phong tục Hy lạp và thích nghi với chế độ thống trị của Rôma; thừa nhận sách Torah hay Ngũ kinh trên phương diện tôn giáo, nhưng chối bỏ khẩu truyền, chối bỏ đức tin về sự sống lại, sự hiện hữu của các thiên thần và việc Thiên Chúa quan phòng. Người ta cũng thấy có nhiều khuynh hướng cực đoan. Một trong những khuynh hướng đó là phái Nhiệt thành (Zélotes), một đảng chính trị và tôn giáo quá khích, được Giuđa người Galilê lập năm thứ sáu kỷ nguyên chúng ta. Với niềm mơ ước một quốc gia thần quyền, họ cho rằng chỉ Giavê mới là vua Israel và nhằm dùng bạo lực bẻ gấy ách thống trị của Rôma. Họ từ chối đóng thuế và lánh vào hoang địa để chuẩn bị cuộc thánh chiến; cuộc thánh chiến này sẽ thực sự bùng nổ vào năm 66, khi xảy ra “vụ nổi loạn của người Do thái”. Ngược lại những người Essêni cũng rút vào sa mạc, nhưng để âm thầm chuẩn bị cho cộng đoàn thiên sai của giao ước. Chính trong môi trường đa diện ấy đã hiện ra khuôn mặt vĩ đại của Gioan Tẩy Giả, con người đang cực lực kêu gọi toàn dân Israel hối cải trở về.
  2. Lời công bố kiểu ngôn sứ của ông có ý nghĩa gì? Đối với Gioan, nó xác quyết rằng sự chờ mong của toàn dân đã đến ngày loại nguyện; như các người đương thời, ông tin rằng người ta chỉ được thỏa lòng chờ mong khi xuất hiện Đấng Thiên Sai, Đấng mà ông sẽ giới thiệu như vị Thẩm phán của thời sau hết (3, 10-12). Thực vậy, giữa thời Gioan rao giảng và “ngày tận thế”, chỉ còn chỗ cho một biến cố duy nhất, việc Quang lâm của Đấng đến để chấm dứt thế giới. Gioan lớn hơn một ngôn sứ nhiều (11, 9),ông là kết tinh của mọi ngôn sứ, vì ông không loan báo một biến cố xảy ra trong lịch sử, mà loan báo biến cố chấm dứt lịch sử (Guillet).
  3. Như các vị ngôn sứ tiền nhiệm, Gioan Tẩy Giả tố cáo sự giả hình của lối sống đạo thuần túy bên ngoài (Am 5,21-27; Is 1,10- 20; 29, 13-14; Gr 7, 1 – 8, 3; v.v…). Ông chống lại óc duy luật, thái độ tự mãn, tự trấn an rằng mình là con cháu Abraham (3, 9). Đức tin đâu phải là một di sản giống nòi: Đức tin là một dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi. An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với Israel, trong lúc sự hối cải đích thực đòi hỏi phát sinh những hoa trái bên ngoài (3, 10; 7, 17- 19; 12, 33). Gioan đã đặt giai cấp lãnh đạo Do thái trước sự phán xét của Thiên Chúa, y như Chúa Giêsu sẽ làm về sau (ch.23). Như vậy, qua việc trình hãy vai trò của Gioan và Chúa Giêsu trong lịch sử cứu rỗi cũng như trình bày thái độ các ngài chống lại Israel cứng lòng, Mt đã liên kết cả hai lại. Có sự liên tục hoàn toàn giữa Gioan và Chúa Giêsu. Sự liên tục này nhất thiết cũng có ở mọi ngôn sứ thuộc mọi thời đại, vì sự cứng lòng và giả hình là một đe dọa thường xuyên đối với bất cứ cộng đoàn nào tự cho mình là cộng đoàn được cứu độ. Và đấy là lý do sâu xa khiến Mt đưa vào trong Tin Mừng của ông những lời xỉ vả của Gioan: các lời quở trách thủ lãnh Israel ấy cũng nhắm đến những kẻ điều hành cộng đoàn Mt, cũng như cộng đoàn Kitô hữu, nhắm đến những kẻ lãnh đạo chẳng hề quan tâm đến việc phát sinh “hoa quả tốt lành” (3, 10). Thái độ của họ là cách duy nhất giúp người ta nhận ra họ là ngôn sứ giả vậy (7,16).

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

Câu 1 nói đến việc Gioan Tẩy giả xuất hiện trong sa mạc Giuđêa. “Trong những ngày ấy” không phải là một tiếng xác định thời gian, vì những sự kiện tường thuật trong chương 3 xảy ra khoảng 30 năm sau những biến cố của chương 2, song là một công thức chuyển mạch có ít nhiều tính chất thần học, một công thức các ngôn sứ Cựu ước quen dùng để chỉ thời đại phục hưng của Đấng Thiên sai (Is 25, 9; 26, 1; 27, 1 .2.6. 12. 13…). “Xuất hiện”: động từ được dùng ở thì hiện tại để đặc trưng việc Gioan và Chúa Giêsu đến (3, 1. 13) và gợi lên tính cách hiện thực của lời các ngài loan báo. “Rao giảng” (kêrussôn, kerygma): một từ ngữ chuyên môn trong Tân ước (61 lần) dùng để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan, Chúa Giêsu, các sứ đồ. Đối tượng của việc công bố bao giờ cũng là Tin Mừng, Nước Trời hay một cái gì tương đương. Mượn từ Cựu ước (38 lần theo bản 70), có lẽ từ Is 61, 1 , từ ngữ “rao giảng” như vậy liên kết Gioan Tẩy giả với truyền thống lớn của bao lời giảng có tính cách tiên tri, thiên sai và khải huyền. “Trong sa mạc Giudêa”: sa mạc nằm giữa tuyến đường Giêrusalem- Hêbron và Biển chết.

Câu 2 tóm tắt lời rao giảng của Gioan và tương ứng từng chữ một với lời rao giảng của Chúa Giêsu ở 4, 17. Viết như thế, Mt muốn nhấn mạnh rằng lời loan báo của Gioan Tẩy giả hoàn toàn liên lục với lời của Chúa Gỉêsu. Như Chúa Giêsu, Gioan chuyên rao giảng việc thống hối.

“Hãy hối cải”: Metanocô, theo nguyên ngữ, là “nghĩ lại, suy tư tiếp sau “, do đó mà có nghĩa là: “thay đổi ý kiến” rồi “hối tiếc, ăn năn, hoán cải”. Bản 70 dùng động từ này đặc biệt  trong các lời ngôn sứ kêu gọi Israel từ bỏ tà thần và trở về (shub) với Giavê. Ngôn ngữ Hy-lạp bình dân hiểu tiếng này theo một nghĩa rất đơn sơ: thay đổi ý kiến, hối tiếc một hành động, chứ không hối tiếc một tình trạng. Trong – Tân ước, metanocô nói lên việc đi từ tình trạng này sang tình trạng khác. Nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện, biểu lộ ra trong toàn thể thái độ sống. Việc thay đổi ấy bao hàm một phương diện tiêu cực (bỏ đàng xấu xa tội lỗi) và một phương diện tích cực (hướng cả con người về với Thiên Chúa). Nguyên nhân hối cải là vì Nước thiên sai gần đến. Câu 2 này tiên báo 3, 7-10 (lời kêu gọi hoán cải) và 3, 11- 12 (lời công bố Đấng Thiên Sai sắp thiết lập Vương quốc). “Đã gần bên”: công thức chung cho lời rao giảng của Gioan lẫn của Chúa Giêsu đây mô phỏng theo công thức sách Isaia đệ nhị đã dùng để nói về sự công chính và ơn cứu rỗi cánh chung đang “đến gần” (với dộng từ Hy bá qârab, được bản 70 dịch ra là eggizein, động từ mà Mt dùng ở đây = có lẽ ám chỉ Is 46, 1 3; 50, 8; 51, 5; 55, 6; 56, 1; 58, 2). Khi minh nhiên tham chiếu Isaia trong câu tiếp theo, Mt muốn dạy rằng lời rao giảng của Gioan Tẩy giả dựa trên chính quyền bính của Thiên Chúa.

Câu trích dẫn Is 40, 3: Đầu “Sách an ủi” (Is 40- 55), Thiên Chúa loan báo Ngài sẽ nâng đỡ dân Ngài, lúc phục hưng họ sau thời lưu đày (Is 40, 1-2). “Tiếng hô” nơi Is 40, 3 xem ra khác tiếng Thiên Chúa (Is 40, 1), vì lời công bố của Thiên Chúa đã chấm dứt nơi câu 2, trong khi câu 3 mở đầu với một “tiếng hô” đưa vào lời công bố tiếp; hơn nữa, khó mà hiểu được Thiên Chúa lại bảo: “Hãy vạch một con đường cho Thiên Chúa chúng ta”. Cho nên đấy là một tiếng nói mông lung, có lẽ của một thiên thần. Thể song đối của câu này khiến các nhà chú giải thời nay đặt hai chấm trước chữ “trong sa mạc”: Có tiếng hô: “trong sa mạc hãy dọn đường cho Giavê, trong đồng cỏ hoang hãy vạch thẳng lối cho Thiên Chúa chúng ta”. Theo bản Hy bá, nơi vang lên tiếng vô danh ấy không được xác định rõ ràng. Tiếng hô loan báo rằng Thiên Chúa sắp dẫn đầu dân Ngài trong một cuộc tiến rước khải hoàn. Ngài sẽ dẫn Israel từ Babylon về Giêrusalem. Bỏ lộ trình thông thường đi qua miền lưỡi liềm phì nhiêu, đoàn người sẽ trực liếp ngang qua sa mạc

Siri Ả-rập. Nhân danh Thiên Chúa, tiếng nói ra lệnh phải sửa đường cho bằng phẳng, thẳng tắp. Khi dịch câu này, bản 70 có đổi một  ít chi tiết. Chữ “trong sa mạc” được nối liền với chữ “một tiếng hô”. Các tác giả Tin Mừng Nhất lãm lấy lại nguyên văn bản 70, trừ nơi đoạn cuối, họ bỏ chữ “Thiên Chúa chúng ta” mà thay bằng chữ “của Người”. Vậy là “tiếng của người hô trong sa mạc” bấy giờ rõ ràng trở thành Gioan Tẩy giả. “Chúa” trong thành ngữ “đường Chúa” ở đây chỉ Chúa Kitô: “Chúa” là tước hiệu chính mà Giáo Hội gán cho Chúa Giêsu sau khi người phục sinh, một tước hiệu cho thấy trong cuộc tôn vinh đó lời Tv 2,7 đã được hoàn thành. Việc thay chữ “Thiên Chúa chúng ta” bằng chữ “của Người” xác nhận lối giải thích chữ “Chúa” theo ý nghĩa thiên sai. Như trong nhiều câu trích dẫn khác ở đây Tân ước gán cho Chúa Giêsu một phẩm vị mà Cựu ước thường dành cho Giavê. “Hãy sửa lối đi của Người cho thẳng” nghĩa là hãy sửa lối của Đấng Thiên Sai đang đến gần. Bởi vì tiếng hô được đồng hóa với Gioan, nên những lời này là lời ông ngỏ với dân để chuẩn bị cho họ đón. Đấng Messia tới, việc sửa soạn đó là hối cải, điều kiện cần thiết để được tha tội.

Việc bốn Tin Mừng đồng trích dẫn Is 40, 3 cho thấy “chứng từ” đó được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội sơ khai. Đàng khác, Isaia là vị ngôn sứ có ảnh hưởng nhất trong Giáo Hội thời ấy; ông được Tân ước nhắc đến tên 22 lần và như vậy là cuốn sách Cựu ước được trích dẫn nhiều nhất.

“Trong sa mạc”: Vì sống trong sa mạc từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), nên Gioan đã xa lánh mọi tiện nghi của đời sống (Mt 11, 8; Lc 7, 25), nhất là xa hẳn những khuôn khổ đạo đức Do thái, đặc biệt của Đền thờ và của hội đường. Nét đó đưa ông đến gần những người phái Qumrân. Tại sao Gioan lại thi hành sứ vụ trong sa mạc thay vì rao giảng như Chúa Giêsu trong. Các hội đường? Không chắc là vì chỉ để làm phép rửa tại sông Giođanô. Về điểm này, Gioan xem ra gắn liền với một truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống ấy, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ lúc ra khỏi Ai-cập đến khi vào Đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, thời kỳ tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7; 8, 2- 5; Gr 2, 25; Hs 2,16). Vì thế người ta tin rằng vào thời cánh chung, Nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu từ trong sa mạc và Đấng Mêsia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24, 26).  Do đó một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào sa mạc (Cv 21, 38).

Y phục và thức ăn của Gioan (c.4) biểu lộ con người đã từ bỏ mọi tiện nghi để trở thành người của Thiên Chúa. Qua lối  sống đó ông cũng gợi lên hình ảnh ngôn sứ chính danh. Song ở đây ông đặc biệt gợi lên hình ảnh Elia, kẻ thường mang “một bộ lông và ngang lưng quấn xiêm da” (2V 1 ,8). Theo một truyền thống kỳ cựu (2 V 2), Elia đã được đưa lên trời không chết, truyền thuyết xác nhận thế) và sẽ trở lại làm tiền hô cho Ngày cánh chung (Mt 3, 23). Khi phục sức cho Gioan giống Elia, Mt măc nhiên bảo rằng Gioan Tẩy giả chính là Elia, nghĩa là kẻ thi hành chức vụ Elia, chức vụ tiền hô. Nên lưu ý là theo Dcr 13, 4, chiếc áo lông tượng trưng nét đặc biệt của các ngôn sứ “Châu chấu” và “mật ong dại” là hai thức ăn đơn giản của Gioan, nhưng Mt không quả quyết là Gioan chỉ sống bằng châu chấu và mật. Châu chấu chẳng phải là một thức ăn lạ lùng đâu: Tài liệu Damas (Document de Damas, của Qumrân) có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn; người Béđouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Còn mật thì hoặc là mật ong tìm trong hốc đá, hoặc là nước rỉ của cây tây hà liễu (tamaris).

Câu 5 ghi nhận ảnh hưởng sâu xa của Gioan trên dân chúng. “Và trẩy đến với ông” (nguyên tự: và đi ra đến với ông – kai exseporeueto): có thể động từ này gợi lại Is 48, 20 và 52, 11 (lời khuyên bả o đi ra khỏi Babylon để thanh tẩy). Từ thời Isaia đệ nhị, hình ảnh một cuộc hành hương thanh tẩy tội lỗi luôn nằm trong cánh chung luận Do thái. “Tất cả” dân chúng:  trái với những người Essêni, Gioan ngỏ lời với toàn thể Israel chứ không với một giai cấp nào đặc biệt. Dầu sao đây là một thành ngữ phóng đại, vì ta biết rằng nhóm Biệt phái và Sađucêo đã từ chối sứ điệp và phép rửa của Gioan (Mt 21, 32; Mc 9, 13; 11, 31; Lc 7, 29tt). Kiểu nói phóng đại này, vừa gợi lên thành công Gioan thu đạt được, vừa nối kết sứ mệnh Gioan với Is 40, 3, nơi mà “tiếng của người hô” ngỏ cho toàn dân và chuẩn bị mọi người đón chờ Đấng Messia đến.

“Xưng thú tội lỗi”: Exsomologeô, “thừa nhận, tuyên xưng, cáo mình công khai”. Trong bản 70, động từ này đặc biệt diễn tả sự khen ngợi, lòng tạ ơn (so sánh với Mt 11, 25). Việc xưng thú tội lỗi hình như đi liền sau phép rửa hoặc xảy ra ngay trước đó. Có lẽ đây chỉ là một lời xưng tội tổng quát.

“Ông thấy nhiều người Biệt phái và bè Sađucêo đến chịu thanh tẩy”. Xét theo lịch sử, khuynh hướng của hai nhóm này thường đối nghịch nhau. Tuy nhiên Mt gộp chung họ lại (x. 16, 1; 16, 11 -12), đặt họ cùng hứng những lời quở mắng của vị Tẩy giả. Đó là vì Mt muốn tấn công trực tiếp các thủ lãnh của dân, muốn vạch trần thái độ tráo trở và tự mãn của họ, thái độ mà mỗi người có thể khám phá thấy nơi chính mình. Chắc hẳn, vào thời Mt biên soạn Tin Mừng, nhóm Sađucêo đã mất ảnh hưởng, nhất là từ lúc thành Giêrusalem bị tàn phá; tuy nhiên mối tranh chấp giữa các cộng đoàn Do thái và Kitô giáo ngày càng thêm sâu rộng. Trong bối cảnh ấy, thành ngữ “Biệt phái và Sađucêo” có ý chỉ các lãnh tụ tôn giáo nói chung, thường dân lẫn giáo sĩ. “Đến chịu thanh tẩy”:.giới từ epi ở đây xem ra hàm hồ, vì có thể làm cho người ta nghĩ rằng Biệt phái và Sađucêo đến xin chịu thanh tẩy. Thật ra, sau này ta sẽ thấy, Biệt phái không tin vào Gioan và chẳng chấp nhận phép rửa của ông (Mc 11, 27- 33; Mt 21, 32; Lc 7, 30); ở đây có lẽ họ đến là để điều tra về ông (Ga 1, 19- 28). Ta biết rằng Do thái giáo chính thức đã bắt bớ những người Essêni ở Qumrân. Do đó có thể nghĩ rằng nhóm Biệt phái cũng có thái độ thù nghịch tương tự đối với Gioan là kẻ cũng đang đứng bên lề tôn giáo chính thức.

“Nòi rắn độc” nghĩa là con cháu Satan. St 3 đã từng trình bày con rắn như là tiêu biểu của tính xảo trá lừa lọc. Về sau rắn được liên kết với Satan; Kh 12, 9 mô tả Satan như  “con rắn thuở xưa”. Lời của Gioan Tẩy giả ở đây đối nghịch dữ dội với mặc cảm tự tôn của Biệt phái (x. “con cái Abraham” ở câu 9).

“Cơn Thịnh nộ hòng đến”: Cơn Thịnh nộ, theo nghĩa tuyệt đối là cơn thịnh nộ của “Ngày giao”. Truyền thống ngôn sứ Cựu ước đã liên kết hai ý niệm này với nhau Is 13, 6-9; Xp 2, 2; Ml 3, 2. 23- 24). Nó là yếu tố chính mà niềm hy vọng thiên sai hằng chờ đợi. Mặc dầu các ngôn sứ đã quả quyết: Cơn Thịnh nộ cánh chung ấy sẽ giáng xuống trên các tội nhân (x. Am 3, 2), Do thái giáo thời Tân ước vẫn quan niệm rằng nó chỉ dành cho lương dân (tức những kẻ chẳng phải là “con cái Abraham”), những kẻ bị coi là tội lỗi. Quan niệm độc đoán ấy bắt nguồn từ thời bách hại của các vua Hy lạp dòng dõi Séleucos (tk IV-I) do ảnh hưởng của luồng tư tưởng khải huyền. Cơn Thịnh nộ ấy của Thiên Chúa, một cơn thịnh nộ tiêu diệt bọn lương dân thống trị Israel, đã được đưa vào trong một thuyết thiên sai đầy màu sắc chính trị. Phản ứng của Gioan là nhằm đưa người ta trở về viễn tượng đích thực của các sứ ngôn:  cơn giận Thiên Chúa sẽ đè nặng trên mọi tội nhân, bất kể họ là ai. Bởi đấy mà ông tuyên bố, như  Chúa Giê su (Mt 4, 17; Mc 1, 15) là mọi người cần phải hối cải và lãnh nhận phép rửa, một điều tương đương với việc tái nhập vào Israel đích thực, y như người tân tòng đi vào cộng đoàn Israel qua phép rửa vậy. Thánh Phaolô đã lấy lại thành ngữ “Cơn Thịnh nộ hòng đến” (1Tx 1, 10; Rm 5, 9) để khẳng định rằng Chúa Kitô sẽ cứu ta khỏi cơn giận ấy.

“Hy sinh quả phúc đức xứng với lòng hối cải”. Hối cải, một tình cảm nội tâm, phải được minh chứng ra bên ngoài bằng những hành vi tương ứng. Hình ảnh được lấy từ câu 10: cây sinh trái (so sánh với Mt 7, 16- 19; kết luận của Diễn từ trên núi, và với Lc 13, 6: cây vả cằn cỗi).

“Chúng tôi có cha là Abraham” (so sánh với Ga 8, 33). “Cha Abraham” là một thành ngữ các giáo sĩ Do thái năng dùng. Nó đã xuất hiện trong Is  51, 2. Tân ước cho thấy nó cũng được sử dụng thường xuyên vào thời ấy (Lc 16, 24; Cv 7, 2; Rm 4, 1). Từ ngữ nhắc đến một trong những lý do vững tâm của Israel: lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và cho “các tổ phụ” vẫn có giá trị cho hậu duệ. Thế mà theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy mà trong Do thái giáo có câu châm ngôn quả quyết ai thuộc dòng máu Do thái thì chắc chắn sẽ được cứu rỗi: “Toàn thể Israel được tham dự vào thời tương lai”. Một châm ngôn kiểu đó giả thiết rằng mỗi người Do thái đều được một quyền lợi mà Thiên Chúa phải thỏa mãn; họ không còn là người tôi tớ trông chờ Chủ mình thương xót ban ơn. Thứ an toàn đó tự nhiên dễ làm cho một số người Do thái sống phóng túng về mặt luân lý và giải thích được thái độ tự mãn kiêu căng của nhóm Biệt phái.

“Vì Thiên Chúa có thể lấy các viên đá này mà gầy nên con cái cho Abraham cũng được”. Ở đây có một lối chơi chữ theo tiếng Aramêo: abenyyâ “viên đá” và benayâ “con cái”. Do thái giáo ít ra mặc nhiên kết luận rằng Thiên Chúa, vì bị trói buộc bởi lời hứa cứu rỗi với Abraham, nên cần có Israel để trung thành với chính lời mình. Phản ứng của Gioan là đòi lại tự do hoàn toàn cho Thiên Chúa, Đấng vẫn chu toàn lời hứa được khi loại trừ con cháu Abraham theo xác thịt nếu họ từ chối hối cải và tạo nên một Israel mới. Bằng cách đó, rõ ràng là Gioan khai mào cho lời công bố của Chúa Giêsu: Israel sẽ bị khai trừ và lương dân sẽ được kêu gọi làm thành một lsrael mới phát sinh hoa quả (Mt 8, 11- 12; 21, 43; so sánh với Rm 9, 6- 8). Tuy nhiên tư tưởng của Gioan chưa có tính cách phổ quát như tư tưởng Chúa Giêsu. Tầm nhìn của ông vẫn còn giới hạn nơi Israel. Ông chỉ trực tiếp tấn công ảo tưởng kiêu căng dựa trên những đặc quyền quốc gia, thứ ảo tưởng muốn chối bỏ tự do Thiên Chúa và miễn cho Israel khỏi thống hối trở về.

“Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây”: Trong Cựu ước, cây là hình ảnh các dân tộc. Chắc ta còn nhớ hình ảnh cây thông bị đốn ngã (Is 6, 13) hay cây trắc bá vĩ đại tượng dưng Israel bị quân xâm lăng tàn phá (Ed 31,10- 13), một hình ảnh đã được Đanien lấy lại để diễn tả sự bành trướng và tàn lụi của đế quốc Babylon (Đn 4,7-12). Ở đây các động từ đều ở thì quá khứ hay hiện tại, chứ chẳng bao giờ ở tương lai: nghĩa là cuộc phán xét tương lai được xem như hiện tại. Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, thì cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn đoán phạt. Bài diễn từ trên núi cũng chứa một lời cảnh cáo tương tự (7, 19): Mt tái xác nhận sự hòa hợp hoàn toàn giữa lời rao giảng của Gioan và của Chúa Giêsu vậy.

“Người sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần”: Đối với Mt và cộng đoàn của ông, đó là việc ban Thần khí của Thiên Chúa (x. Lc 24, 49; Cv 1, 5; 11, 16; 19, 1 -7). Phép rửa trong Thần khí để ban sự sống mới ấy đã hoàn thành lời hứa của Ge 3, 1 mà Is 44, 3; Ed 11, 19; 18, 31; 36, 25tt; Dcr từng loan báo.

“Trong Thánh Thần và lửa”, lai pu ri: Thành ngữ này tạo nên một khó khăn cổ điển. Ta có thể hiểu nó bầng hai cách. Hoặc lửa, liên kết với Thánh Thần, tượng trưng cho sự thanh tẩy mà Ngài thực hiện, thanh tẩy hiệu lực hơn là với nước hoặc lửa là hình ảnh cuộc phán xét cánh chung mà Đấng Thiên Sai đang đến thi hành.

Sau đây là vài chỉ dẫn chính của khoa chú giải giúp ta giải thích đoạn văn. Cũng một giới từ en (tương đương với dia, chỉ nguyên nhân tính dụng cụ) đứng đầu “Thánh Thần” và “lửa” cho phép ta nghĩ rằng Mt cố ý nối kết “lửa” với “Thánh Thần” và cả hai phải hiểu trong tương quan với nhau. Tuy nhiên văn mạch gần đó lại cho thấy là “lửa” tượng trưng sự phán xét. Quả vậy, “lửa” xuất hiện trong ba câu liên tiếp nhau. Thế mà trong câu 10 và 12, “lửa” rõ ràng tượng trưng sự phán xét. Vậy thì làm sao “lửa” của câu 11, đóng khung bởi “lửa” phán xét, có thể có một nghĩa khác được? Vả lại tất cả sứ điệp của Gioan đều nhấn mạnh đến vai trò Thẩm phán cánh chung của Đấng Thiên sai: “cơn thịnh nộ hòng đến” (c.7), “rìu” và “lửa ” (c. 10), việc phân biệt người công chính và kẻ tội lỗi (c. 12).

Nhưng nếu khảo sát văn mạch xa hơn, ta nhận thấy rằng “lửa” được liên kết với Thần khí trong quang cảnh ngày Hiện xuống: việc ban Thánh Thần được biểu trưng bằng các ngọn lửa (Cv 2,3). Thế mà Chúa Kitô phục sinh đã loan báo việc ban Thần Khí đó như là một phép rửa” (Cv 1, 5; so sánh với Cv 11, 16). Đoạn Cv 1, 5 này liên hệ chặt chẽ với bản văn của ta đây bởi vì Chúa Giêsu, như ở đây, cũng đặt phép rửa nước của Gioan gần kề phép rửa bằng Thánh Thần. Về phần Cựu ước, người ta biết có tới hai lời loan báo về thời đại cánh chung: loan báo Thần khí (Is 44,3; Ed 11, 19; 18, 31; 36, 25- 28; Ge 3, 1tt) và loan báo lửa báo thù quân vô đạo (Is 30, 33; 34, 9tt; Ml 3, 19). Biểu tượng lửa tương quan với Thiên Chúa thường được nhắc tới trong Cựu ước. Giavê biểu lộ sự hiện diện của Ngài bằng lửa. Lửa trừng phạt quân vô đạo nhưng thanh tẩy người công chính (ví dụ thị kiến khai mạc của Is 6). Lửa loại trừ những gì xấu xa và biểu lộ sự đòi hỏi thánh thiện của Thiên Chúa.

Tất cả mọi chỉ dẫn chú giải ấy đều có giá trị, nhưng lại đẩy bản văn chúng ta theo hai hướng khác nhau: lửa của Thần khí và lửa của phán xét. Chọn một trong hai cách giải thích là độc đoán phủ nhận các lập luận vững chắc. Giả thuyết dung hòa hơn cả là cho rằng trước tác sau cùng của Mt đã giữ lại câu nói của Gioan với ít nhiều thay đổi mà người ta đã thêm khi lưu truyền lại bằng miệng hoặc bằng viết. Vào thời đầu lúc mới lưu truyền, lời ấy loan báo cuộc phán xét, và tiếng “lửa” của câu 11 có cùng một nghĩa như nơi câu 10 và 12 so sánh Ml 3, 1- 3). Kiểu nói lúc bấy giờ có lẽ là: “Người sẽ thanh tẩy các ngươi trong gió (tiếng aramêo rua và tiếng Hy lạp tương ứng:  pneuma đều có nghĩa là “gió” và “sinh khí” hay “thần khí”) và “lửa” “Gió ” và “lửa” đồng tượng trưng việc phán xét, như câu 12 về việc sảy sạch bằng rê lúa cho thấy. Phép rửa lúc bấy giờ là hình ảnh của việc hủy diệt (Mc 10, 38tt; Lc 12, 50). Ẩn dụ này đã từng được dùng trong Cựu ước rồi: con người gặp cảnh đau khổ được Cựu ước trình bày như kẻ bị đắng chìm, ngụp lặn trong đó (Tv 69, 2- 4; 124, 4- 5). Như vậy, vào thời đầu ấy, người ta không nói có sự đối nghịch giữa phép rửa của Gioan và một nghi thức cao cả hơn; đối nghịch đúng ra nằm trong ngôn từ (thanh tẩy bằng nước và thanh tẩy bằng lửa), và ám chỉ rằng phép rửa của Gioan là cơ hội sau cùng giúp người ta tránh được một phép rửa khủng khiếp hơn, tức là cuộc phán xét.

Một thời gian sau khi lưu truyền câu đó, các Kitô hữu, được giáo huấn Chúa Giêsu và kinh nghiệm Hiện xuống soi sáng, đã đọc lại và khai triển lời loan báo của Gioan. Câu nói nguyên thủy có lẽ đã muốn đặt nổi vai trò Thẩm phán cánh chung của Chúa Kitô. Còn các Kitô hữu lại muốn nói đến vai trò cứu rỗi của Chúa Kitô, Đấng đã ban Thần khí, đã dùng Thần khí hầu tái tạo nhân loại. Để phù hợp với quan điểm đó, có lẽ người ta đã thêm chữ “thánh” vào chữ “thần khí” (pneuma) để hiểu chữ này theo nghĩa Thánh Thần Chúa Kitô đã ban, cùng hiểu từ ngữ “lửa” theo nghĩa “biểu tượng của Thánh Thần”. Thành ra trong đoạn này, Mt đã gán cho Gioan lời loan báo: phép rửa chuẩn bị của ông đối nghịch với phép rửa chung quyết trong đó con người sẽ được Thần khí của Thiên Chúa biến đổi từ bên trong.

Câu 12 đưa ra một hình ảnh mới về Đấng Mêsia-thẩm phán. Lối so sánh trong câu mượn từ các ngôn sứ. Các ngôn sứ mô tả việc Giavê đến lần sau hết như một người, sau khi gặt lúa xong, bắt đầu sàng gạo để bỏ vào kho và quét trấu dọn sạch sân lúa (Hs 9, 1- 2; Mca 4, 11 -13; Gr 4, 11); ngọn lửa thiêu hủy và thanh tẩy diển tả việc Thiên Chúa hăng say trừng phạt quân vô đạo (Am 1, 4-2, 5; Ed 22, 18- 22; Xp 1, 18; Ml 3, 2- 19; Is 66, 15-16). Biểu tượng của việc phán xét thần linh ấy ta sẽ thấy lại trong dụ ngôn cỏ lùng (Mt 13, 30). “Lúa” dĩ nhiên chỉ những kẻ đã hối cải và sinh hoa quả thống hối trước khi cuộc phán xét xảy ra. “Trấu” nói đến những quân vô đạo không chịu’sinh hoa kết quả. Lửa “không hề tắt” (Is 66, 24; Mt 13, 42. 50) là một kiểu nói Gioan dùng để diễn tả số phận chung cục, vĩnh viễn của con người tội lỗi.

KẾT LUẬN

Sứ vụ của Gioan khai mạc một chương mới trong lịch sử cứu rỗi: các ngôn sứ đã loan báo việc Chúa đến, còn ông là kẻ sửa soạn cho Người. Với tấm lòng nhiệt thành, Gioan xứng danh là Elia mới, người chuẩn bị cho Đấng Thiên sai đến và là kẻ mà thiên hạ mong chờ. Sự cao cả của ông là ở chỗ đó.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Mọi Kitô hữu đều có thể bị cám dỗ bắt chước người đương thời của Gioan Tẩy giả, những kẻ tự hào về danh hiệu “con cái Abraham”, khi tự nhủ mình rằng: tôi đã chịu thanh tẩy trong Giáo Hội, tôi thuộc về một giới trọng vọng, tôi đi lễ thường xuyên, như vậy là tôi được bảo đảm trước mặt Chúa. Gioan Tẩy giả bấy giờ sẽ trả lời cho ta như cho người Biệt phái: không phải hễ được mang danh hiệu tín hữu, đã chấp nhận nghi thức như một thứ bùa chú hộ mệnh, là được miễn thực thi trong thân xác, tâm hồn và trí tuệ việc sám hối mà Chúa đòi hỏi khi Người khai mạc Nước trời.
  2. Chấp nhận việc Chúa đến trong ngày Giáng Sinh là mong cho ngọn lửa mà Chúa Kitô mang tới sẽ thanh tẩy và biến đổi ta, là muốn rằng Thánh Thần của Người trở thành sự khôn ngoan và sức mạnh cho ta.
  3. Lòng ăn năn đích thật, sự hối cải chân thành không nằm nơi những tình cảm đẹp đẽ suông hay nơi những nghi thức bên ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể lôi kéo toàn thể con người ta.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này nêu bật hai viễn cảnh thời Mê-si-a: viễn cảnh xa là sấm ngôn của I-sai-a vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, và viễn cảnh gần là lời loan báo của thánh Gioan Tẩy Giả vào thời Đức Giê-su. Hai viễn cảnh này sẽ được thực hiện ở nơi Chúa Ki-tô và bởi Chúa Ki-tô, như thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu điều này.

Is 11: 1-10

Ngôn sứ I-sai-a tiên báo rằng một vị vua công chính, thuộc dòng dõi Đa-vít, sẽ đến trong tương lai. Ngài sẽ quan tâm đến những người khiêm hạ, sẽ làm cho sự công chính hoàn hảo ngự trị và sẽ thực hiện sự hòa giải giữa muôn loài thọ tạo.

Rm 15: 4-9

Thánh Phao-lô mời gọi những người tín hữu Rô-ma phải nên tâm đầu ý hợp với nhau, theo tinh thần Chúa Ki-tô, Đấng đã hiệp nhất và hòa giải người Ki-tô hữu gốc Do thái với người Ki-tô hữu gốc lương dân; người đầu tiên là con cái của Lời Hứa, người thứ hai, con cái của Lòng Xót Thương.

Mt 3: 1-12

Thánh Gioan Tẩy Giả loan báo một biến cố được chờ mong và chuẩn bị trong suốt nhiều thế kỷ: Đấng đến, Ngài sẽ tuyển lựa giữa thóc mẩy được đưa vào kho và thóc lép bị thiêu đốt. Không có lối thoát nào có thể ngoài tấm lòng hoán cải, đó là điều kiện tất yếu.

BÀI ĐỌC I (Is 11: 1-10)

Bản văn này là một trong ba sấm ngôn về Đấng Mê-si-a được gặp thấy ở đầu sách I-sai-a, thuộc các chương 7, 9 và 11. Trong Năm Phụng Vụ Năm A này, chúng ta sẽ đọc cả ba sấm ngôn này, vào Chúa Nhật II Mùa Vọng này, vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng và vào ngày lễ Giáng Sinh.

Cả ba sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đều nêu bật “Đấng Mê-si-a vương đế”, vì chúng được định vị vào trong sự nối dài của sấm ngôn Na-than cho vua Đa-vít: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi… Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 12-16). Vì thế, cả ba sấm ngôn này đều hướng đến cuộc sinh hạ của một con trẻ thuộc hoàng tộc Đa-vít, mà tên của con trẻ này là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14-17). Con trẻ này sẽ giải thoát dân Thiên Chúa khỏi cảnh đời tối tăm và áp bức (Is 9: 1-6), sẽ thiết lập triều đại công minh chính trực và kiến tạo một nền hòa bình viên mãn (Is 11: 1-9).

Cả ba sấm ngôn này được công bố cho dân thành Giê-ru-sa-lem vào hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Đối với toàn dân Ít-ra-en, đây là thời kỳ bi thảm: đế quốc Át-sua đang bành trướng thế lực, bắt triều cống và cuối cùng tiêu diệt vương quốc miền Bắc vào năm 721 trước Công Nguyên. Vương quốc miền Nam cũng không thể tránh khỏi, phải chịu số phận chư hầu và nhận biết những đột biến đầy bi thảm.

Bản văn chúng ta đọc vào Chúa Nhật này là sấm ngôn thứ ba trong ba sấm ngôn này; niên biểu của nó thật khó xác định; chắc chắn phải đặt nó vào một trong những giờ phút lịch sử nghiêm trọng này (có thể vào cuối thế kỷ thứ tám khi vua Xan-khê-ríp, vua Át-sua, xâm lăng và bao vây thành đô Giê-ru-sa-lem?). Dù hoàn cảnh lịch sử có nghiêm trọng đến mấy đi nữa, sấm ngôn này là bài ca tràn đầy niềm hy vọng.

  1. Một niềm hy vọng lớn lao

“Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,

từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non”.

Hình ảnh này chắc chắn gợi lên tình trạng bi thương của vương tộc Đa-vít được ví như một cây bị chặt cả thân lẫn cành chỉ còn trơ trọi một gốc cây; nhưng vương tộc này sẽ hồi sinh, như gốc rễ mà người ta tưởng là đã chết lại đâm chồi nẩy lộc. Trong sấm ngôn, vị ngôn sứ tránh nêu tên Đa-vít, thậm chí cả tước hiệu vương đế nữa; ông chỉ kể một tên duy nhất: Gie-sê.

  1. Gốc tổ Gie-sê

Việc không nêu tên Đa-vít có thể xem ra khác thường. Nhưng nếu khảo sát Kinh Thánh, chúng ta nhận ra rằng ông Gie-sê luôn luôn được gọi là “người Bê-lem”, trong khi vua Đa-vít gắn liền tên tuổi mình vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Về phương diện lịch sử, ông Gie-sê vẫn là một nông dân khiêm tốn của làng Bê-lem. Có thể qua cách phác họa đạm bạc này, vị ngôn sứ có một linh cảm: hậu duệ tương lai của ông Gie-sê sẽ là một con trẻ Bê-lem khiêm tốn.

  1. Thánh Thần xức dầu tấn phong

“Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này”. Những ân huệ của Chúa Thánh Thần được liệt kê từng cặp, theo kiểu văn chương Do thái:

– thần khí khôn ngoan và minh mẫn,

– thần khí mưu lược và dũng mãnh,

– thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.

Như vậy tổng cộng là sáu ân huệ. Bản Bảy Mươi, bản dịch Hy lạp, đã thêm vào “lòng xót thương” để cho có bảy ân huệ, bởi vì con số bảy là con số chỉ sự viên mãn. Đây là nguồn gốc bảy ơn Chúa Thánh Thần của chúng ta.

Việc nhấn mạnh đến những ân huệ phong phú và thường hằng của Chúa Thánh Thần thật đáng chú ý. Nhân vật thuộc hậu duệ Gie-sê sẽ lãnh nhận ơn phù trợ, không phải tùy dịp, nhưng thường hằng. Chúng ta biết rằng Đấng mà Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong này bắt nguồn từ chữ Hy bá “Mê-si-a”, được dịch sang Hy ngữ “Christos” và được phiên âm sang tiếng Việt là “Ki-tô” nghĩa là “Đấng được xức dầu” phong vương.

  1. Triều đại của vua công chính

“Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài,

cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói,

nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng,

và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở”.

Chân dung của vị vua lý tưởng trước hết là chân dung của vị vua công chính: đức công chính của vua được thể hiện ở nơi việc bênh vực những kẻ nghèo hèn trong xứ sở, vốn là những kẻ thấp cổ bé miệng không có tiếng nói trong xã hội, những nạn nhân của những kẻ quyền cao chức trọng.

Được cai trị theo lẽ công minh, vương quốc của Ngài sẽ được hưởng một nền hòa bình chân thật và viên mãn. Những bất công xã hội mà các ngôn sứ không ngừng tố cáo và lên án sẽ không còn nữa. Sẽ không còn cảnh người bốc lột người, sẽ không còn cảnh áp bức và cấu xé lẫn nhau như lang sói, thiên hạ sẽ vui hưởng cảnh thái bình. Cảnh thái bình này được vị ngôn sứ diễn tả bằng những hình ảnh rất sống động:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.

Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,

một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.

Bò cái kết thân cùng gấu cái,

con của chúng nằm chung một chỗ,

sư tử cùng ăn rơm như bò.

Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,

trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang”.

Phải chăng ở nơi bức tranh nhiều hình tượng tuyệt đẹp này chúng ta thấy chủ đề về vườn địa đàng đã mất nay được tái lập? Thực ra, đề tài này thì hiếm tại các văn sĩ kinh thánh, họ quan niệm lịch sử thánh theo chiều hướng đi lên: nhân loại tiến bước đến một trật tự mới của các tạo vật, họ hướng đến một Đấng. Cuộc trở về “thời hoàng kim” thuộc văn chương ngoại giáo, theo đó lịch sử được quan niệm như một chu trình: “hết hồi bĩ cực lại sinh thời thái lai”.

Vì thế, chắc chắn đề tài được đề cập ở nơi sấm ngôn này là đề tài Kinh Thánh, đề tài về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh của con người. Chúng ta có thể trích dẫn nhiều ví dụ về đề tài này. Chẳng hạn như vào Chúa Nhật tới chúng ta sẽ đọc thấy rằng sa mạc tưng bừng nở hoa hân hoan chào đón bước chân của những người lưu đày Ba-by-lon trở về cố hương (Is 35: 1-10).

  1. Sự hiểu biết về Thiên Chúa

Thiên hạ sẽ vui hưởng cảnh thái bình chân thật, bởi vì mọi người đều được hiểu biết Thiên Chúa cách sung mãn:

“Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá

trên khắp núi thánh của Ta,

vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này,

cũng như nước lấp đầy lòng biển”.

Đó là những dấu chỉ của thời đại Mê-si-a, thời mà sự hiểu biết về Thiên Chúa sẽ tràn ngập giữa con người. Đó sẽ là công trình của chồi non Gie-sê. Không có sấm ngôn nào tốt hơn sấm ngôn này về việc mặc khải Chúa Cha mà Chúa Con đem đến.

Câu cuối cùng này đã được ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ thời hậu lưu đày, lấy lại hầu như theo sát từng từ, và đặt vào trong viễn cảnh cánh chung:

“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,

không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa

……

Sói với chiên con sẽ cùng ăn cỏ,

sư tử cũng ăn rơm như bò,

còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực.

Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá

trên khắp núi thánh của Ta” (Is 65: 17 và 25).

  1. Cờ hiệu cho các dân tộc

“Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân.

Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người,

và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”.

Đề tài này rất gần với chủ đề mà ngôn sứ đã khai triển ở chương 2, chương nói về thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ, thật sự lôi cuốn tâm trí của toàn thể nhân loại.

BÀI ĐỌC II (Rm 15: 4-9)

Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Rô-ma này, thánh Phao-lô đề cập đến hai chủ đề: chủ đề thứ nhất về tầm quan trọng của Kinh Thánh trong việc nâng đỡ đức tin và đức cậy của người Ki-tô hữu và chủ đề thứ hai về lời kêu gọi hãy đồng tâm nhất trí với nhau giữa người Ki-tô hữu gốc Do thái và người Ki-tô hữu gốc lương dân.

  1. Tầm quan trọng của Kinh Thánh

Ở đoạn văn trước, thánh Phao-lô đã trích dẫn Thánh Vịnh 69 mô tả những nỗi đau khổ của người công chính bị bách hại: “Lời kẻ thóa mạ Ngài, này chính con hứng chịu” 15: 3). Đây là một ví dụ tuyệt vời cho thấy một sấm ngôn đã được chứng thực ở nơi con người và sứ vụ của Đức Ki-tô. Đây cũng là dịp để thánh nhân nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc đọc Kinh Thánh: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiễn nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy”.

Chúng ta lưu ý rằng trong thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, khi nói về người Do thái đọc Kinh Thánh, thánh Phao-lô viết: “Cho đến nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ” (2Cr 3: 14). Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “Cựu Ước” xuất hiện trong văn chương Ki-tô giáo. Thánh Phao-lô biết Kinh Thánh rõ hơn bất cứ ai, vì trước kia khi còn là một người Do thái nhiệt thành với niềm tin của cha ông, thánh nhân đã nghiên cứu Kinh Thánh một cách cẩn trọng qua việc thụ giáo với kinh sư Ga-ma-li-en danh tiếng; bây giờ đã là môn đệ của Chúa Ki-tô, thánh nhân thích thú đọc và chiêm niệm những mầu nhiệm loan báo cuộc đời của Đức Ki-tô trong Kinh Thánh.

Lời khuyên bảo của thánh nhân cho ông Ti-mô-thê-ô, vừa là người môn đệ vừa là cộng tác viên thân tín của mình, chứng thực điều đó: “Tất cả những gì viết trong Kinh Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2Tm 3: 16-17). Giờ đây, lời khuyên bảo tương tự như thế được gửi đến cho các tín hữu Rô-ma: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trong cậy”. Lời khuyên này chứng thực rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân đã bắt đầu học Kinh Thánh mà không cần phải học tiếng Híp-ri, vì họ đã có trong tầm tay bản Bảy Mươi, bản dịch Kinh Thánh bằng Hy ngữ.

Thật có ý nghĩa biết bao khi mà trong các sách Tin Mừng những lời trích dẫn Cựu Ước hầu như luôn luôn được trích dẫn từ bản Bảy Mươi chứ không từ bản Híp-ri. Sự kiện này ghi nhận một điều rất quan trọng theo đó, ngay từ khởi đầu Giáo Hội, những Ki-tô hữu gốc lương dân đã được Lời Chúa quy tụ và hiệp nhất với nhau nhờ bản Bảy Mươi, bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Hy-lạp. Hiện nay cũng thế, các Ki-tô hữu thuộc mọi dân mọi nước trên thế giới được quy tụ và hiệp nhất với nhau nhờ các bản dịch Kinh Thánh sang tiếng mẹ đẻ của mình. Bởi lẽ, đối với mỗi người Ki-tô hữu, trước tiên, Kinh Thánh chính là Lời Thiên Chúa và trên tất cả là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thứ nữa, khi đọc Kinh Thánh, họ ý thức với một niềm xác tín sâu xa rằng không đơn thuần đọc lại những lời nói và những hành động của Thiên Chúa trong quá khứ mà cốt yếu là nhận ra rằng vị Thiên Chúa, Đấng đã phán: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, vẫn tiếp tục nói và hành động trong Giáo Hội và trong cuộc đời hiện nay của họ qua từng biến cố nhỏ to.

  1. Lời kêu gọi hãy đồng tâm nhất trí với nhau

“Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Giê-su Ki-tô đòi hỏi”. Lời khẩn cầu này khai mào chủ đề thứ hai và nói lên nỗi bận lòng sâu xa của vị Tông Đồ: sự hiệp nhất của cộng đồng gồm những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô hữu gốc lương dân, mà biết bao những đối kháng ngay từ đầu có nguy cơ dẫn đến sự đối lập giữa họ.

Đây không là một vấn đề đặc thù mà cộng đoàn Rô-ma gặp phải, tất cả thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên đều đã nhận biết những căng thẳng như thế. Tuy nhiên, trong thủ đô đế quốc, tình trạng đã trở nên trầm trọng hơn vì hoàn cảnh lịch sử. Hoàng đế Claudius đã ban chiếu chỉ vào năm 49 ra lệnh trục xuất những người Do thái khỏi kinh thành Rô-ma, lấy cớ những rối loạn “do bởi ông Ki-tô”. Có lẽ lời rao giảng của Ki-tô giáo đã gây nên những xáo trộn trong cộng đồng Do thái, một cộng đồng quan trọng trong thủ đô Rô-ma. Và vì không thể phân biệt giữa những người Do thái trung thành với luật Mô-sê và những người Do thái theo Ki-tô giáo, nên chiếu chỉ này được áp dụng cho cả hai (chính vì thế mà ông bà A-qui-la và Pơ-rít-ki-la rời Rô-ma và đến lánh nạn ở Cô-rin-tô: Cv 18: 2-3).

Sau khi hoàng đế Claudius băng hà vào năm 54, những Ki-tô hữu gốc Do thái trở lại Rô-ma. Ấy vậy, chỉ sau vài năm, Giáo Đoàn Rô-ma chỉ còn toàn những người Ki-tô hữu gốc lương dân. Những xích mích khó mà tránh khỏi giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô đã viết thư này vào mùa xuân năm 57. Những sự căng thẳng vẫn còn hiển hiện trong bức thư này.

“Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa”. Lời khuyên bảo của thánh Phao-lô chủ yếu gửi đến những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ phải cho thấy mình là anh em đối với những người con của Lời Hứa, tức người Ki-tô hữu gốc Do thái; chính nhờ họ, những lương dân, do lòng thương xót của Thiên Chúa, đã trở thành những người con mới của Lời Hứa, nhờ đó họ cũng có thể tôn vinh Thiên Chúa chân thật.

Và như để nhắc lại lời khẳng định ban đầu về giá trị của Kinh Thánh, thánh Phao-lô kết thúc khi trích dẫn Tv 18: “Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa”. Qua hình thức đóng khung này, thánh Phao-lô một lần nữa nhắc cho họ nhớ rằng không phải lời giáo huấn của thánh nhân, nói cách chính xác lời khuyên bảo của thánh nhân chỉ là phục vụ Lời Chúa mà thôi, nhưng chính Lời Chúa mới có thể quy tụ và hiệp nhất tất cả các tín hữu, dù người Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái hay từ lương dân, và thậm chí cả người Do thái nữa. Đó cũng là phương sách mà Đấng Phục Sinh đã vận dụng khi đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau “bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24: 27).

TIN MỪNG (Mt 3: 1-12)

Thánh Mát-thêu dẫn đưa chúng ta vào lãnh vực hoạt động của Gioan Tẩy Giả mà không có bất kỳ lời mào đầu nào. Chính nhờ một tác giả Tin Mừng khác, thánh Lu-ca, mà chúng ta nhận biết nhân cách của Gioan Tẩy Giả, gia đình của ông, hoàn cảnh chào đời của ông, vân vân (Lc 1: 5-25, 57-80). Như vậy, chắc hẳn khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với sự xuất hiện đột ngột của vị Tiền Hô và sứ điệp của ông. Sách Tin Mừng Mác-cô và sách Tin Mừng Gioan xác nhận lời chứng này, theo cùng một hướng đi như phần mở đầu đột ngột của Tin Mừng Mát-thêu. Phân đoạn mà chúng ta thường gọi là “Tin Mừng Thời Thơ Ấu” theo Thánh Mát-thêu (ch. 1-2) đã được thêm vào sau như Tựa Ngôn.

  1. Hoang địa miền Giu-đê-a

Việc thánh Gioan Tẩy Giả chọn hoang địa làm khung cảnh cho lời rao giảng của ông không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đối với dân Ít-ra-en, hoang địa gợi lên biết bao kỷ niệm sống động trong tâm trí của họ. Hoang địa là nơi dân Ngài gặp gỡ Thiên Chúa của mình, là nơi Thiên Chúa kết giao đính ước với dân Ngài và cũng là nơi dân Ngài đã trải qua kinh nghiệm tôn giáo trong những gian nan thử thách. Đã có một khoa thần bí về hoang địa, mà sự hiện diện của cộng đoàn Qum-ran trong vùng đất này làm chứng. Cộng đoàn này chuẩn bị tâm hồn trong đời sống khổ chế, cầu nguyện và thanh tẩy để chờ đón kỷ nguyên Mê-si-a. Mặt khác, hoang địa ban cho “nước” ý nghĩa tròn đầy của nó: hơn bất cứ nơi nào khác, ở đây nước là sự sống, đồng nghĩa với ơn cứu độ. Sau cùng, hoang địa còn mang biết bao giá trị biểu tượng: chính hoang địa khô khan cằn cỗi của những tâm hồn mà Gioan Tẩy Giả mời gọi biến thành những mảnh đất tâm linh phì nhiêu.

  1. Nước Trời đã đến gần

“Anh em hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”“Ăn năn sám hối” được dịch từ động từ Hy lạp, có hai nghĩa, nghĩa tiêu cực: suy nghĩ lại, đổi mới tâm tư tình cảm, thay lòng đổi dạ, thay đổi cách ăn nếp ở, và nghĩa tích cực: từ bỏ đàng tội lỗi mà quay trở về cùng Thiên Chúa. Nguyên do của việc hoán cải là vì “Nước Trời đã đến gần rồi”.

Động từ Hy ngữ được dùng trong câu: “Nước Trời đã đến gần” ở thì hiện tại chưa hoàn thành, vì thế, phải hiểu: “Nước Trời đã đến và hiện có mặt ở đây rồi”. Thánh Mát-thêu hầu như luôn luôn dùng diễn ngữ: “Nước Trời”, khác với thánh Mác-cô và thánh Lu-ca: “Nước Thiên Chúa”. Đây là kiểu nói sê-mít để tránh gọi tên cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, từ Hy-lạp “basileia” có nghĩa, “nước” hay “vương quốc”, hoặc “triều đại”. Thuật ngữ “triều đại” thích hợp hơn, vì trong Tin Mừng thuật ngữ này được dùng để chỉ không là một thực thể địa lý: một nước, một quốc gia, hay một vương quốc, nhưng là thời điểm thánh ý Thiên Chúa sẽ được thực hiện ở dưới đất cũng như ở trên trời. Đó là mục đích mà Thiên Chúa nhắm đến cho toàn thể vũ trụ như trong lời kinh Chúa dạy: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Thánh Gioan Tẩy Giả cất tiếng kêu gọi sự hoán cải. Nhiều ngôn sứ đã cất cao lời mời gọi như thế rồi. Nhưng từ lâu, đã không còn có ngôn sứ nào xuất hiện trong dân Ít-ra-en kể từ ngôn sứ Ma-la-khi, Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ cuối cùng, ông công bố Đấng Mê-si-a sắp đến rồi, ông là vị Tiền Hô mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã loan báo: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẳn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Trong bối cảnh của mình, vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc hồi hương trở về của những người lưu đày Ba-by-lon sắp đến và mời gọi những người lưu đày này hãy chuẩn bị chờ đón Đức Chúa, Ngài sẽ thực hiện một cuộc xuất hành mới để dẫn dân Ngài hồi hương trở về quê cha đất tổ.

Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu trích dẫn Is 40: 3 theo bản dịch Hy-lạp, bản Bảy Mươi, chứ không theo bản gốc Híp-ri. Có hai điểm khác nhau giữa bản Híp-ri và bản Hy lạp về cách ngắt câu và về từ ngữ. Về cách ngắt câu, trong bản Híp-ri cụm từ chỉ nơi chốn: “trong hoang địa”, bổ nghĩa cho câu theo sau và có vài sửa đổi từ ngữ giữa bản Híp-ri và bản Hy-ngữ: thay vì “hãy mở một con đường” và “hãy vạch một con lộ”, bản Hy-ngữ lại viết: “hãy dọn sẵn một con đường” và “hãy sửa cho thẳng những nẻo đường”. Như vậy, bản Híp-ri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”, thì bản Hy-ngữ điều chỉnh lại: “Có tiếng người hô trong hoang địa: ‘Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Vì thế, qua việc ngắt câu khác và qua các việc sửa đổi vài từ ngữ, bản Hy-ngữ đem lại cho sấm ngôn I-sai-a một chiều kích tâm linh hơn.

Các sách Tin Mừng Nhất Lãm trích dẫn Is 40: 3 theo bản Hy-ngữ, tuy nhiên các tác giả Tin Mừng có vài sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh hiện nay của mình. Thay vì kiểu nói mơ hồ không  xác định: “Có tiếng hô trong hoang địa” của bản Hy-ngữ, Tin Mừng Nhất Lãm thêm từ “người”“Có tiếng người hô trong hoang địa”, nhờ đó các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm có thể áp dụng câu này vào sứ mạng của Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Đấng Mê-si-a. Và thay vì kiểu nói: “sửa lối cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta” của bản Hy-ngữ, thì các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm lại thay từ “Người” cho từ “Thiên Chúa”“sửa lối cho thẳng để Người đi”, nhờ đó Tin Mừng Nhất Lãm dễ dàng quy chiếu đến Đức Giê-su.

  1. Cách sống của thánh Gioan Tẩy Giả

Cách ăn mặc quá đạm bạc của Gioan Tẩy Giả: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, cho thấy mẫu gương của đời sống khổ chế và tấm lòng sám hối. Cách ăn mặc này gợi nhớ cách ăn mặc của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ đã chọn cách ăn mặc như thế để bày tỏ sự phản kháng của mình chống lại thói xa hoa và hư hỏng của vương quốc Ít-ra-en (2V 1: 8). Ấy vậy, rõ ràng ngôn sứ Ê-li-a là vị ngôn sứ mà dân chúng đang mong đợi sự trở lại của ông vào thời đại Mê-si-a. Còn về châu chấu và mật ong rừng, mà vị Tiền Hô dùng làm lương thực, là những thức ăn được gặp thấy trong hoang địa này.

  1. Phép rửa tỏ lòng sám hối

Nghi thức phép rửa mà thánh Gioan Tẩy Giả đề xướng như dấu chỉ bày tỏ sự hoán cải là nghi thức rất phổ biến vào thời đó. Các vị lãnh đạo tôn giáo đòi hỏi các tân tòng muốn gia nhập vào cộng đoàn Ít-ra-en phải lãnh nhận phép rửa, ngoài phép cắt bì. Người Do thái thực hành nhiều nghi thức thanh tẩy, và họ còn thêm một số lượng lớn vào thời hậu lưu đày. Những nghi thức này được thực hành hằng ngày tại cộng đoàn Qum-ran. Tuy thế, phép rửa mà thánh Gioan Tẩy Giả đề xướng là một nghi thức thanh tẩy độc nhất vô nhị; bởi vì ngoài việc thanh tẩy bên ngoài, nghi thức này là dấu hiệu của việc thanh tẩy nội tâm: chuẩn bị tâm hồn để đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng chưa có quyền năng tha thứ tội lỗi.

  1. Khắp miền Giu-đê-a

“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê-a, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông”. Việc Gioan Tẩy Giả rao giảng thành công là điều chắc chắn. Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta biết rằng có những cộng đoàn tự nhận mình là môn đệ của vị Tiền Hô lâu sau khi Gioan Tẩy Giả qua đời. Những cộng đoàn này đã được hình thành thậm chí vượt ra bên ngoài miền Giu-đê-a nữa, như ở Ê-phê-xô (Cv 19: 1-7) và ở A-lê-xan-ri-a (Cv 18: 24-25). Nhưng kiểu nói của thánh Mát-thêu “khắp miền Giu-đê-a” là kiểu nói phóng đại có chủ ý để nhấn mạnh trước sự tương phản mà sau này đám đông dân chúng căm thù Đức Giê-su bày tỏ  ra.

  1. Những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc

Đây là lúc tác giả Tin Mừng cất cao giọng: qua Gioan Tẩy Giả, thánh ký lớn tiếng tố cáo thói giả hình của những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc, như sau này Chúa Giê-su cũng sẽ làm như vậy. Những người này đến chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối, nhưng tự thâm tâm, họ tự hào tự phụ rằng mình chẳng có gì phải sợ sự phán xét của Thiên Chúa cả, vì mình là “con cháu ông Áp-ra-ham” (x. Ga 8: 33-40; Rm 9: 7-8).

-Phái Xa-đốc cốt yếu là giai cấp giáo sĩ; họ đại diện khuynh hướng bảo thủ tôn giáo: chỉ chấp nhận truyền thống văn tự mà các tư tế là những người chú giải duy nhất, chứ không các kinh sư giải thích Luật; họ thuộc vào giai cấp giàu có và tán thành cuộc chiếm đóng của đế quốc Rô-ma. Phái này biến mất sau năm 70, tức là, sau khi kinh thành Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ và Đền Thờ bị phá hủy.

-Phái Pha-ri-sêu, đông hơn phái Xa-đốc nhiều, đại diện yếu tố sống động của Do thái giáo. Ngoài truyền thống văn tự, họ còn chấp nhận các truyền thống miệng. Nhưng lòng nhiệt thành của họ đối với Lề Luật đã sinh ra muôn vàn luật cảnh huống nghiêm nhặt; họ hình thành nên một tầng lớp trung lưu; họ không là những người phục vụ Đền Thờ nhưng phục vụ các hội đường; chính qua các kinh sư thuộc phái của họ mà họ có ảnh hưởng trên dân chúng. Những kinh sư danh tiếng đều thuộc phái Pha-ri-sêu, như kinh sư Ga-ma-li-en, thầy của thánh Phao-lô sau này.

Thánh ký liên kết trong cùng một tiến trình hai nhóm người rất đối lập với nhau, bất đồng sâu xa về thái độ tôn giáo, xã hội và chính trị; nhưng họ đại diện những đối thủ tiêu biểu của Chúa Giê-su cũng như của Giáo Hội tiên khởi sau này. Những lời chỉ trích sinh động được đặt trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, tiên báo hoàn cảnh căng thẳng mà Chúa Giê-su và Giáo Hội tiên khởi sẽ trải qua.

Gioan Tẩy Giả chỉ trích nặng lời hai nhóm này bằng ba câu. Trước hết, “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ngươi cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?”“Ai” được ám chỉ ở đây nếu không là quỷ? Do đó, việc kể ra con rắn độc là ám chỉ đến con rắn của sách Sáng Thế, con rắn dẫn đưa con người đến chỗ xa rời Thiên Chúa. Nhưng “nòi rắn độc” cũng là thành ngữ chung của mọi nền văn hóa để chỉ những những con người có tâm địa ác độc bày mưu tính kế giết người.

Thứ đến, thánh Gioan nhắc nhớ rằng đừng tự hào tự phụ mình là con cháu ông Áp-ra-ham vì “Thiên Chúa có thể làm cho những viên đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Qua câu nói này, thánh Gioan nhắc cho họ nhớ rằng đừng tự hào tự phụ mình là con cháu ông Áp-ra-ham, vì không có gì Thiên Chúa không làm được.

Và cuối cùng, “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Trong Cựu Ước, dân Ít-ra-en được ví như cây không sinh trái tốt như lòng Thiên Chúa mong đợi. Như vậy, hành vi sám hối mà thánh Gioan mời gọi không đơn giản đón nhận nghi thức phép rửa mà phải phát sinh những việc lành phúc đức. Đó là điều Thiên Chúa chờ đợi ở nơi từng người tín hữu.

Theo văn mạch, chắc chắn những lời này nhắm đến tính tự phụ tự mãn của những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc, nhưng bài học cũng được gửi đến cho bất cứ những ai lấy cớ này hay cớ nọ để ru ngủ tiếng lương tâm mình.

  1. Đức khiêm hạ của vị Tiền Hô

Gioan Tẩy Giả có một cảm thức sâu xa về sự cao cả của Thiên Chúa, đồng thời ông có một ý thức sắc bén về tội lỗi. Hai thái độ này chung chung được liên kết với nhau trong con người của Gioan: ông nhận ra sự nhỏ bé của mình trước Đấng đến sau ông đến mức ông không xứng đáng xách dép cho Ngài. Hình ảnh so sánh này rất sinh động: những hối nhân cởi dép trên bờ để bước xuống sông Gio-đan. Quả thật, truyền thống kinh sư dạy rằng không được bắt những nô lệ gốc Do thái làm những việc quá nặng nhọc hay thấp kém, như “cởi dép cho chủ hay rửa chân cho chủ”. Như vậy, thánh Gioan Tẩy Giả tự đặt mình vào hàng nô lệ rốt hết để nhấn mạnh một khoảng cách quá lớn giữa thánh nhân, vị Tiền Hô, và Đấng Mê-si-a mà thánh nhân có sứ mạng loan báo.

Sau cùng, thánh nhân tuyên bố phép rửa mà ông làm thì chưa đủ, bởi vì phép rửa trong nước này chỉ thúc giục lòng ăn năn sám hối để chuẩn bị đón nhận ơn tha thứ mà Đấng Mê-si-a đem đến. Còn Đấng mà ông loan báo đến sau ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Phép rửa của Ngài mới có quyền năng tha thứ tội lỗi.

  1. Đấng Mê-si-a Thẩm Phán

Gioan Tẩy Giả thoáng thấy Đấng Mê-si-a đến như một vị Thẩm Phán. Quả thật, đây là một chủ đề thường hằng của trào lưu ngôn sứ, các ngài loan báo “Ngày của Chúa” như Ngày Chung Thẩm và trình bày kỷ nguyên Mê-si-a như khai mào kỷ nguyên cánh chung. Đức Giê-su thật sự sẽ là vị Thẩm Phán của thời cuối cùng: sự hiện diện của Ngài sẽ đòi buộc một sự chọn lựa dứt khoát.

Hình ảnh mùa gặt là hình ảnh kinh điển để chỉ cuộc tụ họp vĩ đại của ngày cánh chung, ví dụ như Is 27: 12: “Rồi ngày kia Đức Chúa sẽ đập lúa từ sông Cả cho tới suối Ai-cập. Và anh em, hỡi con cái Ít-ra-en, từng người một, anh em sẽ được Chúa mót nhặt về”. Chủ đề “lửa” xuất hiện ở đây với hai giá trị: lửa thanh luyện người công chính và ngay lành, vì thế, tác dụng của lửa gần với tác động của Chúa Thánh Thần: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thần Khí và lửa”; đồng thời cũng là lửa trừng phạt không hề tắt sẽ thiêu hủy những kẻ bất chính và bất lương.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã thấy sự xuất hiện của Đức Giê-su như vị Thẩm Phán: thưởng những người lành thánh và phạt những kẻ gian ác. Vì thế, thánh nhân so sánh hành động của Ngài như một người tiều phu dùng rìu hạ những cây nào không sinh trái tốt và như một người nông dân sàng sẩy sân lúa, lúa tốt thì chất vào khó lẫm, còn lúa xấu thì sẽ dùng lửa không hề tắt mà thiêu hủy.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG. NĂM A

Lm. Antôn

Trong mùa Vọng, chúng ta được Lời Chúa kêu gọi ăn năn sám hối chuẩn bị tâm hồn cho Chúa đến mang vui mừng và hy vọng cho cuộc sống. Tiên tri I-sa-i-a trong bài đọc một đã loan báo cho dân Do thái lúc đó sứ điệp đầy vui mừng và hy vọng. Tiên tri cho họ biết Thiên Chúa sắp đến và thực hiện lời Ngài đã hứa, thiết lập lại sự công bằng, hiệp nhất và hòa bình.

Thế giới và xã hội ngày nay tuy xa cách thời điểm của tiên tri Isaia, nhưng thật sự cần lắng nghe sứ điệp của ngài.  Chúng ta thấy sự dữ, tội lỗi và thảm cảnh xảy ra hàng ngày.  Có những người phải đối phó với bao nhiêu sự khó khăn về tinh thần, gia đình, con cái và đức tin. Con người ngày nay hình như đang có âm mưu loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống.  Nhiều người, kể cả những người tự xưng là Ki-tô hữu, chỉ có đời sống đạo hay đức tin hình thức bề ngoài, thờ ơ với Lời Chúa, chạy theo những cám dỗ của vật chất, thú vui và sống ích kỷ. Chúng ta thấy có những gia đình không được hòa thuận, hôn nhân vợ chồng đổ vỡ, con cái hư hỏng mất dức tin. Thật vậy, con người đang và sẽ phải đối phó với những thảm cảnh và hậu quả do chính con người tạo nên, và còn sẽ tiếp tục nếu không nghe Lời Chúa kêu gọi ăn năn sám hối.

Vì yêu thương và muốn cứu rỗi, Thiên Chúa không thể bỏ mặc con người chúng ta sống trong tội lỗi, lo âu, sợ hãi và vô vọng. Chúa vẫn luôn tiếp tục thực hiện chương trình cứu độ nhân loại của Ngài, và dùng mọi phương cách để kêu gọi mọi người thức tỉnh sửa đổi, hay thay đổi đời sống, để đón nhận niềm vui ơn cứu độ và hy vọng mà Chúa đưa đến.   Thật vậy, chúng ta đang cần đến một Thiên Chúa xét đoán công bằng, nhưng giàu tình yêu thương và thương xót.  Ngài sẽ thiết lập cuộc sống vui mừng, bình an và hạnh phúc cho chúng ta.

Trong mùa Vọng, chúng ta cũng thường nghe đề cập đến Gioan Tẩy giả hay Tiền hô, vì đời sống và sứ mạng của ngài gắn liền với Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền hô được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Thánh Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Ngài chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà thánh Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa, và nhận biết rõ sứ vụ của mình.

Chúng ta thấy cảm phục con người của thánh Gioan. Ngài thật thánh thiện và đầy khiêm tốn. Ngài không lợi dụng để đánh bóng tên tuổi mình hay nâng mình lên.  Ngài luôn biết mình là ai để sống đúng với vai trò và sứ vụ của mình kêu gọi mọi người đến gặp ngài chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến với họ.

Bài Tin mừng cho chúng ta biết trong số những người đến với thánh Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xađốc. Họ kéo đến với thánh Gioan để chịu phép rửa, nhưng không có thiện ý ăn năn sám hối từ bỏ đời sống tội lỗi để chuẩn bị tâm hồn đón chờ Đấng Cứu Thế đến.  Vì thế, Gioan đã nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Thánh Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ngài gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác, thù ghét, lừa dối và kiêu căng của họ. Chúng ta thấy sau này, chính Chúa Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Thánh Gioan khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.

Thánh Gioan còn báo cho mọi người biết Đấng Cứu Thế và Nước Trời đã gần đến rồi.  Vì thế ngài kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”

Có một người nói rằng: cuộc đời mỗi người Ki-tô hữu là một con đường, con đường hai chiều đưa chúng ta đến với Chúa và Chúa đến với chúng ta, hay đưa chúng ta đến với tha nhân và tha nhân đến với chúng ta. Chúng ta biết đường ở đây ám chỉ tâm hồn hay cuộc sống, vì thế dọn đường cho Chúa vào trong tâm hồn có nghĩa là sửa chữa những khía cạnh hư và xấu trong cuộc sống. Nếu cuộc sống có những chỗ quanh co, gồ ghề và hố sâu thì cần phải sửa lại chon gay thẳng, lấp cho đầy và san cho bằng phẳng. Chúng ta hiểu quanh co là sự lừa dối, gian dối và thù ghét. Gồ ghề là những sự tham lam, nghiện ngập.  Hố sâu là cuộc sống ích kỷ, lười biếng và cá nhân thu hẹp.  Đồi cao là sự tự cao, kiêu căng và tự ái.

Chúng ta thấy trước khi sửa chữa đường phố, người ta phải biết chỗ nào hư, hư như thế nào và lên kế hoạch để sửa chữa. Cuộc sống hay tâm hồn chúng ta cũng vậy, cần sự chân thành để có thể nhận ra tình trạng tội lỗi, hư xấu, và phải can đảm tuân theo sự chỉ dẫn của Lời Chúa và ơn Chúa để biết cách thoát ra hay từ bỏ.  Vì thế thánh Gioan thiết tha kêu gọi và nhắc nhở chúng ta: nếu muốn lãnh nhận ơn Chúa, muốn có cuộc sống bình an, vui mừng và hạnh phúc thì hãy thành tâm, hãy can đảm, khiêm nhường và cố gắng uốn nắn cuộc sống cho ngay thẳng, bạt đồi cao và lấp hố sâu cho bằng phẳng, và phải biết khiêm tốn để cho Chúa được lớn lên còn mình thì nhỏ lại.

Lời Chúa trong tuần thứ hai mùa Vọng này cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của thánh Gioan, kêu gọi chúng ta nghe và sống lời mời gọi của ngài, mở con đường tốt cho Chúa đến với tâm hồn để chúng ta sống gắn bó với Chúa, để đời sống với tất cả niềm vui, bằng an và hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Về mục lục

.

DỌN ĐƯỜNG CHÀO ĐÓN VUA HÒA BÌNH

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Hòa bình là niềm khát khao của cả nhân loại, mọi nơi, mọi thời. Hòa bình cũng là lời hứa của Chúa cho muôn dân, từ thời xa xưa của lịch sử. Tuy vậy, xem ra, hòa bình còn xa vời so với những ước vọng của con người. Trên thế gian này, không bao giờ ngưng tiếng súng, chẳng chỗ nào hết xung đột. Người Kitô hữu tin rằng, Đức Giêsu là hoàng tử của hòa bình. Người đến để thiết lập hòa bình giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Như vậy, nếu con người chưa được hưởng hòa bình, là vì họ chưa đón nhận vị hoàng tử của hòa bình và giáo huấn của Người.

Chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, Phụng vụ Lời Chúa hướng lòng chúng ta về Đấng đã được tiên báo trong Cựu ước: Người là nhánh nhỏ vươn lên từ gốc Giêsê, tức là gia đình vua Đavít. Người được trang bị sức mạnh thần thiêng, có đủ mọi nhân đức và quyền năng để thiết lập hòa bình trong thiên nhiên vũ trụ cũng như nơi cuộc sống con người. Đó là Đức Giêsu. Người đến trần gian để thiết lập hòa bình. Những hình ảnh tuyệt vời được ngôn sứ Isaia diễn tả: sói nằm chung với chiên con, bò ở chung với gấu, sư tử hiền lành giống như bò… tất cả những hình ảnh ấy đều nhằm diễn tả một trật tự hài hòa của vũ trụ. Mọi thú dữ đều trở nên hiền hòa, không còn giết hại và cắn xé nhau, nhưng chung sống trong hòa bình. Hình ảnh này diễn tả thế giới loài người: các dân tộc không còn gây chiến với nhau nữa, nhưng sẽ trở nên những thành viên trong một gia đình thân thương.

Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: hòa bình vừa là ơn ban từ trời, vừa là kết quả của những cố gắng nỗ lực của con người. Người đã chúc phúc cho những ai gây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (Mt 5,9). Khi chuyên tâm gây dựng hòa bình là chúng ta cùng với vị vua hòa bình tái lập trật tự đã mất do tội lỗi và sự hận thù của con người gây nên.

Làm thế nào để được đón vị vua hòa bình? Thánh Gioan Tẩy giả trả lời: Hãy sám hối và canh tân cuộc đời. Mỗi năm, khi Mùa Vọng về, lại xuất hiện hình ảnh và lời giảng của Thánh Gioan Tẩy giả. Dân chúng tuốn đến nghe lời rao giảng của Gioan, họ bày tỏ lòng sám hối và lãnh nhận phép rửa. Những người đến với ông thuộc đủ giai cấp xã hội. Tất cả cùng chung một tâm tình, đó là nhìn nhận tội lỗi của mình, ăn năn hối cải để mong được đón Đấng Thiên sai. Ông Gioan tiên báo, khi Đấng Thiên sai đến, Người sẽ thanh tẩy mọi  người bằng Thánh Thần và bằng lửa. Người cũng sẽ xây dựng một vương quốc của tình yêu thương và an bình.

Đấng Thiên sai ông Gioan loan báo là Đức Giêsu. Người là Thiên Chúa quyền đang hiện diện giữa chúng ta. Người là mối giây liên kết muôn người nên một để cùng nhau xây dựng một thế giới huynh đệ hòa bình. Những ai muốn đón Người ngự đến trong tâm hồn, cần phải sám hối tội lỗi và canh tân đời sống. Sở dĩ chúng ta cần phải sám hối, vì trong con người của chúng ta còn nhiều bất xứng. Đó là những lời nói không đúng sự thật hoặc làm tổn thương người khác. Đó cũng là những ý tưởng xấu, ghen tỵ, vu khống làm cho người khác thiệt thòi. Đó còn là những việc làm bất chính, đi ngược lại với giáo huấn của Chúa. Sám hối là nhìn nhận những sai lầm của mình, và hứa với Chúa sẽ cố gắng sửa chữa những sai lầm đó, đồng thời sống tốt hơn trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Những tín hữu đạo đức thường có thói quen lĩnh nhận bí tích hòa giải trong Mùa Vọng, để tâm hồn họ thanh thản, an vui đón Chúa đến. Đây là một thực hành đạo đức tốt lành cần động viên khích lệ.

Nhờ thành tâm sám hối và thiện chí canh tân, chúng ta sẽ được đón Chúa Giêsu, vua hòa bình, ngự đến trong tâm hồn. Một khi tâm hồn bình an, chúng ta có thể cộng tác phần mình kiến tạo một môi trường an bình nơi gia đình, làng xóm và cộng đoàn đức tin. “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa”. Đó là lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô. Đó cũng phải là lời cầu nguyện của mọi tín hữu, khi chuẩn bị dọn mình mừng lễ Giáng Sinh.

Lễ Giáng Sinh không phải là một lễ hội văn hóa. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật lịch sử, giống như những vĩ nhân khác, mà Người là Thiên Chúa làm người. Người là Đấng Cứu độ muôn dân. Ai đón nhận Người, Người sẽ ban cho họ niềm vui và sự an bình. Chúng ta hãy nghe lời Thánh Gioan mời gọi: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”, nhờ đó, lễ Giáng Sinh sẽ mang lại những hiệu quả cụ thể trong đời sống chúng ta.

Về mục lục

.

CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Các nước đang phát triển có hướng đô thị hóa rất mạnh. Dân quê bỏ đồng ruộng ra thành thị. Chính phủ lo đô thị hóa nông thôn. Càng phát triển, người ta càng có khuynh hướng tiêu thụ rất mạnh: ăn sang, mặc đẹp. Vậy mà Phúc Âm hôm nay đưa ra hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô, một người sống trong sa mạc, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú. Phải chăng là Phúc Âm đã lỗi thời, đi ngược với đà tiến hóa của nhân loại?

Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết ta hãy cùng nhau đào sâu những sứ điệp Phúc Âm được nhắn gửi qua đời sống của thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan Tiền Hô tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đây không phải là một tiếng kêu vô hồn vô nghĩa. Nhưng là tiếng kêu có nội dung, là những sứ điệp gửi đến loài người.

1) Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.

Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Thiên nhiên đang bị hủy diệt, rừng xanh đang lâm nguy, súc vật đang kêu cứu. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.

Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Vì các đô thị lớn đã hoàn toàn bị ô nhiễm: ô nhiễm vì tiếng động, ô nhiễm vì khói xăng, ô nhiễm vì rác rưởi, ô nhiễm vì bụi bặm.

Thế nhưng sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Nhịp sinh hoạt trong xã hội công nghiệp càng ngày càng tăng tốc độ. Con người luôn luôn vội vã đuổi theo công việc. Vì thế dễ rơi vào tình trạng sống hời hợt bề mặt. Không có thời giờ lắng xuống bề sâu. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.

Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành dân của Chúa. Như tiên tri Êlia chạy trốn trong sa mạc đã chẳng tìm được đường thoát thân. Nhưng đã được Chúa chỉ cho con đường hy vọng. Như Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, nên đã tìm thấy con đường của Chúa Cha là hy sinh, khiêm nhường, sống trọn tình con thảo.

Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.

2) Sứ điệp thứ hai mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sống khổ hạnh.

Ta tưởng sống khổ hạnh đã đi vào quá khứ. Thực ra các nước văn minh đang đi vào con đường của thánh Gioan Tiền Hô. Một trong các vấn đề lớn của người phương tây hiện nay là giữ sao cho khỏi lên cân, để khỏi bị cholesterol, để khỏi bị chứng bệnh xơ cứng động mạch, để ngăn chặn bệnh tiểu đường, để khỏi bị mỡ bao tim, người ta đã phải kiêng ăn, bớt uống.

Ăn uống đơn sơ đạm bạc không những có lợi cho sức khỏe mà còn giúp ta tiết kiệm để chia sớt với những vùng thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng vượt lên trên tất cả sức khỏe thân xác lẫn đạo đức liên đới xã hội, nếp sống khổ hạnh trước hết và trên hết nhắm phục vụ đời sống tâm linh. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Nó thuộc về bản năng sinh tồn. Ăn uống đứng đầu các khoái lạc. Khi làm chủ được ăn uống, người khổ hạnh cũng dễ tiến tới làm chủ được bản thân. Chế ngự được bản năng ăn uống, ta sẽ dễ chế ngự được tham, sân, si khác trong con người. Đó là bước khởi đầu trên con đường đức hạnh dẫn ta đến gặp Chúa và trở nên thân thiết với Chúa.

3) Sứ điệp thứ ba mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sám hối.

Phải sám hối vì con người là lầm lỗi, là xa lạc. Các thánh chính là những vị không ngừng sám hối để đổi mới bản thân cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng.

Phải sám hối vì đó là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin Mừng, để được vào Nước Trời.

Có hai đặc tính giúp xác định một sám hối đúng nghĩa:

Đặc tính thứ nhất là triệt để. Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…

Đặc tính thứ hai là cấp bách. Không từ từ do dự vì thời giờ đã tới hồi cấp bách. Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây. Cái sàng đã đặt sẵn ở sân lúa. Cây không sinh trái sẽ bị đốn ngay. Trấu sẽ bị sàng lọc ra ngoài.

Như vậy, con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không hề lỗi thời. Những sứ điệp sa mạc, sứ điệp khổ hạnh và sứ điệp sám hối vẫn luôn hiện thực. Những sứ điệp ấy soi sáng con đường ta đi, phải tu sửa để gặp được Thiên Chúa Cứu Độ. Cuộc đời gương mẫu của thánh nhân là sức nóng vừa lôi cuốn vừa thúc giục ta. Vì thế Chúa Giêsu đã khen Ngài là “ngọn đèn chiếu sáng và tỏa nóng”. Ánh sáng của Ngài báo hiệu một bình minh chói lọi huy hoàng. Sức nóng của Ngài dẫn ta đến tận nguồn lò lửa. Lò lửa ấy sẽ chiếu sáng, sẽ đốt cháy mọi trái tim trong tình yêu và sẽ thanh luyện ta nên tinh tuyền. Bình minh ấy, lò lửa ấy chính là Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu mà chúng ta đang chờ mong trong đêm tối cuộc đời này. Amen.

GỢI Ý SUY NIỆM

1) Thánh Gioan Tiền Hô chuyển đến ta những sứ điệp nào?

2) Đối với bạn, sứ điệp nào cấp bách hơn cả?

3) Cấp bách và triệt để là hai đặc tính của sám hối Phúc Âm. Bạn có quyết tâm làm lại cuộc đời của mình hoàn toàn và ngay hôm nay không?

4) Bạn đã bao giờ cảm nghiệm niềm vui thiêng liêng do cầu nguyện, sám hối và tự chế chưa?

Về mục lục

.

DỌN ĐƯỜNG TÌNH YÊU

Gm. Antôn Vũ Huy Chương

Giáo hội bước vào Mùa Vọng, 4 tuần lễ chuẩn bị cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Lời Nhập Thể. Ngôi Lời đã làm người bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và đã được Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ cách đây hơn 20 thế kỷ. Cử hành Mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh là cử hành việc Chúa ĐÃ ĐẾN để khởi đầu công trình cứu độ trần gian, mà cao điểm là sự kiện CHẾT và SỐNG LẠI của Người, một lần là đủ cho tất cả mọi thời và mọi nơi, nhưng mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo này được cử hành trong Thánh Lễ mà chúng ta cử hành mỗi ngày nhằm “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chính vì thế, Mùa Vọng còn hướng về việc Chúa SẼ ĐẾN.

Khi cá nhân và tập thể định hướng cho THỜI GIAN thì con người và thời gian đó làm nên LỊCH SỬ. Khi cá nhân người Kitô hữu và tập thể Giáo hội định hướng cho lịch sử theo ý định của Thiên Chúa là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho lịch sử đó trở thành LỊCH SỬ CỨU ĐỘ. Như thế, lịch sử mỗi người và lịch sử nhân loại nằm giữa RỒI và CHƯA: Chúa đã đến rồi (Giáng Sinh) để định hướng cho Lịch Sử Cứu Độ, nhưng chưa hoàn tất, nghĩa là chưa đạt tới cứu cánh chung cuộc (Cánh Chung). Mùa Vọng vừa cử hành việc Chúa đã đến RỒI, vừa hướng về việc Chúa CHƯA đến. Do đó, nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu cũng như của tập thể Giáo hội, trong thời gian này của Lịch Sử Cứu Độ, là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô sớm tới ngày hoàn tất, ngày đó Chúa Kitô sẽ đến lần thứ hai để khánh thành công trình cứu độ mà Người đã khởi sự.

Theo bài Tin Mừng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống tinh thần SÁM HỐI theo lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần… Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi… Hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”. Dọn đường là tuyên xưng Đức Tin và Đức Cậy vào Tình yêu Nhập Thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là sống Đức Ái một cách cụ thể và thiết thực theo gương Người, để đem lại niềm tin và hy vọng cho những người chung quanh. Đặc biệt khi làm việc bác ái từ thiện, mọi người nhớ lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Cagliari: “Chúng ta phải thực thi các công việc từ bi bác ái với lòng từ bi, dịu dàng, và luôn luôn với lòng khiêm tốn! Anh chị em biết không: Đôi khi người ta  cũng thấy sự kiêu hãnh trong việc phục vụ người nghèo! Một số người làm đẹp, sống bằng người nghèo; một số người lợi dụng người nghèo để phục vụ cho tư lợi hoặc cho phe nhóm của họ. Tôi biết đó là chuyện phàm nhân, nhưng điều ấy không tốt! Và tôi muốn nói hơn nữa, đó là tội lỗi! Tốt hơn những người ấy nên ở nhà”.

Thánh Gioan Tông Đồ viết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 9-11). Chúa Giêsu đã không nói “chúng ta cũng phải yêu thương Thiên Chúa”, mà nói “chúng ta cũng phải yêu thương nhau”. Rõ ràng yêu người và mến Chúa là một giới răn duy nhất!

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải cho Môsê biết Ngài là “Thiên Chúa thương xót và nhân hậu, nhẫn nại và đầy lòng trắc ẩn” với những ai cậy trông vào Ngài (Xh 34,6). Trong Tân Ước, lòng thương xót của Chúa Cha trở nên hữu hình và sống động nơi Đức Giêsu,  vì ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Qua những dụ ngôn nói về lòng thương xót, dụ ngôn về con chiên lạc, dụ ngôn về đồng bạc được tìm thấy và dụ ngôn về người cha với hai người con (x. Lc 15,1-32), Chúa Giêsu đã mạc khải bản tính Thiên Chúa như một người Cha luôn đi bước trước cảm thương và tha thứ.

Chúng ta cùng nhau DỌN ĐƯỜNG TÌNH YÊU để đón Chúa đến trong Mùa Giáng Sinh, đến trong cuộc đời mỗi người và đến trong ngày Chúa quang lâm.

Về mục lục

.

MÓN “ĂN NĂN”

Gm. Giuse Vũ Duy Thống

(Trích từ ‘Làm Nụ Hoa Trắng’)

Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh. Món ấy là món gì?

Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, cũng là món ăn hữu ý được nhìn qua trang Tin Mừng hôm nay. Nhưng để tránh dị ứng hoặc phản ứng phụ, đồng thời để tận hưởng những hiệu quả bổ dưỡng, trang Tin Mừng đề nghị ta những động tác quan trọng để hưởng dùng món “ăn năn sám hối”.

1) Động tác thứ nhất là chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình.

Đây là động tác mở đầu trong tiến trình ăn năn sám hối, cũng là động tác mở đầu cho bất cứ một sinh hoạt phượng tự nào khi con người tiếp cận với Thiên Chúa: ta vừa mở đầu Thánh Lễ với tâm tình thú tội ăn năn. Chính Chúa Giêsu ngày trước cũng đã mở đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời kêu gọi không quên “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm”. Và ngay Gioan Tẩy Giả cho dẫu trong hoang địa nắng cháy khô cằn chẳng có gì ăn, cũng hô vang đồi núi: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần trong không gian và cũng vì Nước Trời đã gần đến trong thời gian.

Động tác “nhìn nhận tội lỗi” trong mắt nhìn của những kẻ xa lạ với Tin Mừng có thể là một thứ tâm lý xa rời thực tế theo kiểu “không ai bắt lỗi ngu gì mà thú nhận”; nhưng đối với những kẻ tin vào Phúc Âm đó lại là hai mắt nhìn của một tấm lòng chân thành: một mắt nhìn vào mình để nhận ra thân phận mình tội lụy và một mắt nhìn lên Chúa để nhận lấy lòng thương bao dung tha thứ của Ngài. Ta nhận mình có tội bởi ta đã nhìn vào tình thương của Chúa từ hồi nào. Ta nhận ra Chúa yêu ta bởi ta đã nhìn thấy từng ngày lỗi tội của mình.

Như vậy, “nhìn nhận tội lỗi” chính là động tác mở đầu của món “ăn năn sám hối”, cũng là động tác mở về tình thương của Thiên Chúa và mở vào kho tàng thiêng liêng chất chứa ơn tha thứ do Thiên Chúa thết đãi con người. Tự căn bản, xưng thú tội lỗi của mình cũng là tuyên xưng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

2) Động tác thứ hai được gặp thấy trong lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”.

Có thể có ai đó ngẩn ngơ thầm nghĩ: “Ơ hay, cái ông Gioan Tẩy Giả này mới thật là ngớ ngẩn, sám hối như trong động tác thứ nhất tự nó đã là một việc lành rồi, cần phải làm thêm việc lành khác nữa sao? Vẽ chuyện!”. Xin thưa rằng ông Gioan Tẩy Giả không ngớ ngẩn đâu, ngược lại, trong lời kêu gọi đơn giản của ông đã hàm chứa những ý nghĩa đẹp đến độ ngẩn ngơ cho một lòng ăn năn tích cực và đích thực.

Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.

Đó cũng là lòng ăn năn đích thực không đồng hóa với một thứ tình cảm chợt đến chợt đi, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ cảm tình vị kỷ theo kiểu làm việc lành cho “sướng”, thế thôi, trong khi lòng ăn năn đích thực gọi đến một phẩm cách, một trách nhiệm. Gioan Tẩy Giả không bảo làm việc lành cho “sướng” mà hãy làm việc lành cho “xứng” với lòng sám hối.

3) Động tác thứ ba để thưởng thức món “ăn năn”, đó là khiêm tốn đợi chờ Đấng đang đến.

Đấng ấy không phải là người xa lạ, mà là một THỰC KHÁCH viết hoa viết đậm của mọi Kitô hữu quanh bàn “ăn năn”. Đấng ấy là Đức Kitô đã đến lần thứ nhất trong lịch sử với ngả nghiêng cây Thập Tự, sẽ đến lần thứ hai ngày cánh chung với sự công chính và nền hòa bình viên mãn, và Người đến từng ngày cho tất cả những ai khiêm tốn đợi chờ với lòng sám hối.

Thảo nào trang Tin Mừng hôm nay nói nhiều đến từ ngữ “dọn đường và sửa đường”. Dọn đường bởi vì Đấng ấy đang trên đường đến với ta và sửa đường “quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống” là bởi vì Người chỉ thích đến với ta trên đường công chính.

Hiểu như thế, ăn năn không phải là ăn điều gì khác hơn là ăn chính Đấng đang đến: Chúa Kitô. Chính Người là đích điểm của việc sám hối. Vắng Người là thiếu tất cả: việc sám hối có thể co cụm lại như một thứ nghi thức thực hiện cho yên lương tâm; nhưng có Người là có tất cả: việc sám hối bấy giờ sẽ trở nên một mạch nguồn sức sống mới trong Thánh Thần. Nói cách khác, lòng người sám hối Mùa Vọng ví tựa những căn phòng, quá ngổn ngang chật hẹp, Chúa Kitô sẽ không thể chen chân bước đến; nhưng ngược lại biết dọn dẹp sạch sẽ thẳng ngay, Người sẽ ung dung tìm vào như vào trong căn hộ của mình.

Tóm lại, dẫu chẳng phải là “người có tâm hồn ăn uống” mà chỉ vì cái phong phú và lắt léo của tiếng Việt, nên đã xin chia sẻ Phúc Âm hôm nay qua dạng thức của một món ăn: món “ăn năn sám hối” với ba động tác: nhìn nhận tội lỗi, thực hiện việc lành và chờ đợi Chúa đến; một cách trực tiếp là họa lại lời Gioan Tẩy Giả vang lên trong trang Tin Mừng, một cách gián tiếp là lòng hẹn lòng hãy tìm đến món “ăn năn” qua việc sống Bí tích Hòa Giải.

Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân.

Mười năm trước khi kinh tế còn khó khăn, trên đường đi hằng ngày thấy xuất hiện những tấm bảng hiệu nhận phục hồi những cơ phận máy móc, tôi đã có ý nghĩ nên ghi trên tòa Hòa Giải một tấm bảng hiệu nhận “phục hồi sự sống các tâm hồn”. Hôm nay, thời kinh tế mở cửa, trên đường từ chợ Bến Thành về đây thấy nhan nhản những bảng hiệu của các quán ăn đặc sản, từ Hương phố tới Hương đồng, từ Hương xưa tới Hương rừng lao xao. Tôi nghĩ có lẽ phải ghi trên tòa Hòa Giải tấm bảng khác thôi: Hương thiêng đặc sản tâm hồn, món “ăn năn” dẫn đến nguồn thánh ân.

Về mục lục

.

ĐẤNG MESSIA HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Sau ngày bầu cử 08/11, ông Donald Trum đã đắc cử tổng thống. Sự kiện nước Mỹ có tổng thống mới đã làm xôn xao cả thế giới. Bởi vì, tổng Thống Hoa Kỳ gần như là 1 trong những ông vua của Thế Giới hiện đại. Quyết định của họ, chính sách của họ, cách điều hành của họ không chỉ ảnh hưởng Hoa Kỳ mà cả phần còn lại của Thế Giới. Họ gánh trên vai trọng trách bảo vệ hòa bình thế giới. Bởi trên đỉnh vinh quang ấy, không có chỗ cho bất kỳ phút bốc đồng nào. Chỉ một cơn giận vu vơ cũng sẽ châm ngòi chiến tranh và thậm chí hủy diệt toàn nhân loại.

Thế nhưng, những điều ông nói, những cách ông nghĩ khiến cho nhiều người lo lắng, ông sẽ dẫn dắt thế giới đi về đâu? Nhiều nhà bình luận cũng nói đông nói tây, nhưng tất cả vẫn còn ở phía trước? Sự thật ông chưa bước vào Nhà Trắng? Mọi sự vẫn chỉ là tin đồn, tiên đoán và sự thật vẫn còn xa. . .

Cách đây hơn 2000 năm, thánh Gioan B cũng từng tiên đoán về thời của Đấng Messia. Đây là thời của phán xét công bình. Đây là thời mà sự công thẳng của Thiên Chúa sẽ giáng xuống cho nhân loại. Gioan B bảo rằng: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Ga 3, 10). Thánh nhân nói như đinh đóng cột: “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Ga 3, 11). Thánh nhân kêu gọi mọi người hãy mở một con đường mang tên sám hối. Con đường sám hối sẽ dẫn con người đến với Chúa và đến với tha nhân. Con đường ấy sẽ giúp nhân lại thoát khỏi án phạt công minh của Thiên Chúa.

Thế nhưng, Gioan B đã hoàn toàn bất ngờ khi quan sát con người của Đấng Messia mà ông từng loan báo. Ngài là một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan nhân. “Ngài không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng” (Mt 12, 20). Điều quan yếu trong sứ vụ của Đấng Messia là đến không phải để hủy diệt nhưng là để chữa lành. Chính Chúa Giê-su đã trả lời thắc mắc cho Gioan khi ông sai môn đệ đến hỏi Chúa Giê-su: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay không?”. Chúa Giê-su bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.

Thiên Chúa chúng ta không phái là Thiên Chúa của oán phạt. Ngài là Thiên Chúa của tình thương. Ngài luôn đến với con người để ngỏ lời yêu thương. Hai ngàn năm qua Ngài đã và đang đến với mọi phận người. Nhất là những con người cùng khổ bởi đói nghèo, bởi bệnh tật, bởi thất bại, bị hiểu lầm và cô đơn. Ngài tiếp tục cúi xuống từng phận người để an ủi, để khích lệ, cảm thông.  

Lời ngôn sứ Gioan vẫn đang mời gọi chúng ta mở lối đường cho Chúa ngự trị. Gioan vẫn thiết tha mời gọi chúng ta hãn san bằng núi đồi của kiêu căng. Hãy lấp đầy thung lũng của đam mê tật xấu. Hãy nắn cho ngay thẳng tính gian dối hại người. Hãy sống một cuộc đời cho xứng với lòng sám hối ăn năn để niềm vui ngày Con Thiên Chúa giáng trần được trọn vẹn.

Xin cho chúng ta đủ niềm tin về lòng xót thương của Chúa để dầu trong hoàn cảnh nào cũng tín thác theo sự quan phòng của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta biết sám hối ăn năn và thay đổi lối sống cho phù hợp với tin mừng yêu thương mà Chúa đã mang xuống trần gian. Amen.

Về mục lục

.

HÃY THỐNG HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion… (Này hỡi Dân Sion…) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực chuẩn bị đón Chúa đến. Sự kiện này đã được ghi khắc từ lâu trong lịch sử. Một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn. Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ, Ngài mời chúng ta đến gặp gỡ Ngài trong khiêm hạ: “Này dân Sion hỡi, Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy… ” (Ca nhập lễ).

Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở… ” (x. Is 11, 1-10).

Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, là nhân vật đã được tiền báo trong một lời tiên tri nổi tiếng của sách ngôn sứ Isaia (Is 42,3). Gioan Tẩy giả lui vào sa mạc của vùng Giuđêa, dùng lời rao giảng của mình kêu gọi toàn dân hoán cải để sẵn sàng đón Đấng Mesia quang lâm. Lời kêu gọi của Thánh Gioan, vị tiên tri được Thiên Chúa sai đến như là vị tiền hô của Đấng Thiên Sai, vang lên trong tuần thứ II của Mùa Vọng, vạch ra cho chúng ta thái độ cần phải có để sẵn sàng đón chờ Chúa đến: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”. Nếu như xưa kia Gioan rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn thống hối, kết quả là: “Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan”; thì ngày nay sứ điệp này vẫn vang dội qua các thời đại và gửi đến với chúng ta ngày nay với tính cách thật cấp bách.

Với giới biệt phái và văn nhân, Gioan Tẩy Giả bảo họ: “Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối”. Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng (540 – 610) đã bình giải rằng: “Gioan Tẩy Giả rao giảng kêu gọi một Đức Tin chân thật và những việc làm tốt lành, để nhờ đó sức mạnh của ân sủng được thấm nhập, ánh sáng của chân lý được chiếu giãi, và những nẻo đường hướng về Thiên Chúa được sinh ra trong những tư tưởng thành tâm thiện chí, sau khi đã lắng nghe Lời Chúa, là Lời dẫn đến mọi sự tốt lành”.

“Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”. Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn.

Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: “Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an”. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến. Trích “Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng”, 39, 1-3.

Có thể nói bốn tuần Mùa Vọng là như “tiền đường” dẫn chúng ta chuẩn bị tinh thần sẳn sàng tiếp đón Đấng Cứu Thế ngự đến! “Hãy ăn năn thống hối”. Để gặp được Đấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.

Trước Tin Mừng của một Vị Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta đã tự hạ chính mình và mặc lấy thân phận con người, chúng ta không thể nào không mở rộng tâm hồn ăn năn hối cải. Để gặp được Hoàng Tử Bình An, chúng ta phải mở rộng lòng mình, khiêm tốn và ngay thẳng.

Đó là lý do tại sao Mùa Vọng là thời gian chờ đợi và hy vọng. Giáo Hội lấy lại vào chúa nhật II Mùa Vọng lời tiên tri đầy an ủi của ngôn sứ Isaisa như sau: “Mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu rỗi của Thiên Chúa”. Chúng ta hãy đặt tay chúng ta vào tay Mẹ Maria, Nữ Vương của niềm hy vọng để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Amen.

Về mục lục

.

SỨ ĐIỆP SÁM HỐI

Lm. Giuse Nguyn Hu An

Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.

Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.

Bài Phúc Âm: Chúa nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ : Hãy tnh thc; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi : Dn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyn tin cho Đc M và Thánh Giuse.

Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.

Với Chúa Nhật II, chúng ta bước vào lịch sử: những loan báo trong Cựu Ước bắt đầu thực hiện và giấc mơ của nhân loại trở thành hiện thực. Người loan báo Tin Vui này là Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: “Hãy hi ci vì nước tri đã cn k”. Giống như các Ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Ba bài Tin Mừng từ Nhất Lãm (Mt 3, 1-12; Mc 1, 1-8; Lc 3, 1-6), thuật lại niềm hăng say rao giảng của Đấng Tiền Hô, kêu mời hối cải và loan báo sẽ có một đấng quyền năng hơn, Ngài sẽ rửa tội trong Chúa Thánh Thần.

  1. S đip hãy sám hi

Gioan Tiền Hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa và cũng rất gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mi thung lũng phi lp cho đy, khúc quanh co phi un cho ngay, đường li lõm phi san cho phng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Lập lại lời sấm của ngôn sứ Isaia nói với người xưa, thánh Gioan muốn nói với người thời nay về một cuộc xuất hành thiêng liêng mà tất cả những ai muốn đi vào Nước Trời đều phải thực hiện. Không phải chỉ xuất hành khỏi Ai cập để đi vào Đất Hứa chảy sữa và mật. Không phải chỉ xuất hành khỏi vương quốc Babilon để trở về xây dựng lại Đền Thờ đã bị phá hủy. Nhưng là xuất hành khỏi con người tội lỗi để lột xác thành con người mới. Như thế, muốn được trở thành con người mới và con đường cho Chúa đến, người ta phải sám hối, phải quay đầu trở lại. Gioan đi thẳng vào một thái độ gốc rễ cần phải thay đổi của nhóm Pharisiêu và Xađốc. Họ lúc nào cũng tự phụ là con cháu tổ phụ Abraham mà khinh người và sống câu nệ vào Lề Luật đến nỗi hoàn toàn mất đi động lực đích thực là giữ luật vì lòng yêu mến. Cho nên Gioan nói thẳng nói thật: “Tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có th làm cho nhng hòn đá này tr nên con cháu ông Abraham”. Sám hối phải cụ thể bằng cách thay đổi trong lối sống, là thay đổi não trạng, là sẵn sàng và mở lòng để đón đấng Cứu Thế đến. Trong tiến trình sám hối ấy, vai trò của Gioan chỉ là chuẩn bị. Ông khẳng định: “Tôi làm phép ra cho các anh trong nước đ gic lòng các anh sám hi”. Còn giai đoạn chính là công việc của Chúa Giêsu “Người s làm phép ra cho các anh trong Thánh Thn và la”. Gioan là tiếng kêu, còn Chúa Giêsu mới là người rao giảng. Gioan răn đe, còn Chúa Giêsu dạy dỗ và hoàn tất. Gioan nói đến niềm hy vọng cuộc sống mới, còn Chúa Giêsu thể hiện niềm hy vọng ấy. Gioan là chiếc cầu nối liền Cựu Ước với Tân Ước.  Cựu Ước không bị hủy bỏ, nhưng sát nhập với Tân Ước như dòng sông nối vào biển cả. Cuộc chuyển tiếp này được thực hiện như một chương trình: chương trình sám hối canh tân. (Lm Đaminh Trần Đình Nhi).

2.  Đường vào cõi lòng

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.

Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đày và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài.

Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao ngạo cần bạt thấp xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

3.  Tnh thc và sn sàng

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, những vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, các điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.  

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Về mục lục

.

SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Sứ điệp của Gio-an có giá trị nào cho chúng ta?

 Hình ảnh Gio-an, vị tiền hô của đấng Thiên Sai, được Mát-thêu phác họa thật quá ấn tượng; và cũng ấn tượng không kém, những lời kêu gọi thống hối của ông! Có lẽ tác gỉả đã dày công viết lên đoạn Phúc Âm này với chủ đích: làn sao cho độc giả là những người Do Thái, chịu tìm hiểu về Giê-su Na-da-rét, vị mà Gio-an có nhiệm vụ loan báo; nếu vị tiền hô đã hấp dẫn được ‘người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông’, thì nhân vật phải đến sau sẽ là như thế nào? Tất nhiên điều quan trọng chính là không ai  được nhầm lẫn người dọn đường với vị phải đến, vị tiền hô với đấng Thiên Sai, và nhất là đừng nhầm lẫn sứ điệp của Gio-an với Tin Mừng của Đức Giê-su.

Mát-thêu phác họa một Gio-an tiên tri ‘mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn’, những hình ảnh in đậm nét một nhà tu hành khắc khổ. Tác giả muốn chứng minh cho thấy: Gio-an ‘chính là người được ngôn sứ I-sai-a nói tới: có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn săn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi’ (Is 40:3…). Nếu Gio-an đã là như thế, thì chính vị Thiên Sai sắp tới sẽ phải có diện mạo như thế nào…? Sách Tin Mừng ông viết sẽ dần phác họa lên diện mạo độc đáo đó, có điều ngay từ lúc này tác giả đã cho thấy: chắc chắn nó sẽ khác xa với diện mạo mà Gio-an – vị tiền hô đang phô diễn trước đám dân chúng tới nghe ông giảng dạy.

Sứ điệp Gio-an rao giảng có phần mạnh mẽ, cứng rắn và khẩn trương: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Nội dung sứ điệp tập trung vào việc kêu gọi mọi người ‘thú tội’ tức là nhìn nhận tội lỗi mình phạm và ăn năn; đồng thời sứ điệp đó phải được tất cả mọi người, không trừ một ai, đón nhận: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: chúng ta đã có tổ phụ Ap-ra-ham!”. Do đó đón nhận nhân vật vĩ đại sẽ đến sau,đấng mà Gio-an chỉ có nhiệm vụ dọn đường, tất nhiên phải là điều rất khẩn trương đối với hết thảy mọi người: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Khi sử dụng lối hành văn khải huyền vốn rất quen thuộc với các người Do Thái, Gio-an giới thiệu vị Thiên Sai như nhân vật phải đến để thanh lọc, để tẩy rửa trong ngày thế tận ‘Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi’.

Có điều là: chính Gio-an có vẻ như đã không có một khái niệm nào về nhân vật sẽ đến sau mình, ngoại trừ xác tín rằng: giữa ông và vị đó có một khoảng cách vô biên; “Đấng đến sau thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người”. Cũng vậy, giữa phép rửa sám hối ông làm và phép rửa Người sẽ thực hiện không hề có gì tương đồng: “Tôi dìm (làm phép rửa cho) các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối… Còn Người sẽ dìm các anh trong Thánh Thần và lửa”. Ở đây ta cũng nên lưu ý: có đối kháng giữa nước và lửa! Thậm chí ông còn không hình dung nổi nội dung sứ điệp của vị thiên sai sẽ hệ tại ở điều gì: sứ điệp trừng phạt hay tha thứ? Đức Giê-su nói cho các môn đệ được Gio-an đang bị cầm tù sai tới để tìm hiểu về Người: hãy về thuật lại cho Gio-an biết về các hành động xót thương lúc đó Người đang thực hiện; ‘người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (xem Mt 11:2-6). Đức Giê-su không phủ nhận việc khắc kỷ tu thân, công minh chính trực của Gio-an là điều cao trọng; Người lớn tiếng ca ngợi ông là người có cuộc sống đi đôi với lời rao giảng. Người hết lời đề cao sự vĩ đại của ông: “trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả” (xem Mt 11:7-11). Thế nhưng Người cũng thẳng thắn cho biết: những điều trên không ăn nhằm gì tới Tin Mừng mà Người đang rao giảng, đó là: tin và đón nhận lòng từ bi nhân hậu vô biên của Thiên Chúa. Đây mới đích thực là điều cao cả hơn hết, vì “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11:11)!

Như vậy thì nội dung mùa vọng, hay việc chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế, đã lộ rõ: nó không cốt yếu hệ tại ở việc cải tà qui chính hay chấn chỉnh đời sống, nhất là về mặt luân lý, cho dầu các việc đó có tốt đẹp tới đâu. Mùa vọng chính yếu phải là thời gian mời gọi ta đón lấy hồng ân cứu độ, đón nhận lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Đó là thời gian vui mừng tột độ, một khi các Ki-tô hữu hiểu biết rằng: Hài Nhi Giê-su giáng sinh chính là bảo chứng tình yêu nhân hậu vô biên mà Thiên Chúa đang muốn thực hiện. Nếu có lắng nghe sứ điệp sám hối của Gio-an thì cũng chỉ là để mau mắn đón lấy ơn cứu độ xót thương của Thiên Chúa, để có thể ký gửi niềm tin tuyệt đối vào Hài Nhi giáng trần mà thôi.

Có như thế Mùa Vọng mới đáng được gọi là thời gian của hy vọng và cậy trông chứ!

Lạy Hài Nhi Giáng Trần, xin mau đến, mau đến chính vì sự yếu hèn tội lỗi của chúng con! Chúng con quả đang cần tới lòng xót thương vô biên của Chúa. Con không thấy mạc cảm hay sợ hãi gì khi nhận ra thân phận tội lỗi của mình; ngược lại, một khi càng khiêm tốn nhận ra thân phận thấp hèn, con càng vui mừng vì biết rằng: chính qua Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem mà con được dạy cho biết: mình được Thiên Chúa yêu thương, yêu vô hạn không bờ bến. Chúng con xin sấp mình thờ lạy mầu nhiệm tình yêu giáng thế. A-men.

Về mục lục

.

HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA

Lm. GB. Trần Văn Hào SDB

Hãy dọn con đường cho Đức Chúa (Mt 3,3)

Khi thành phố bắt đầu về đêm, dòng người và xe cộ trở nên thưa thớt, người ta thấy xuất hiện những công nhân cặm cụi đi ra quét dọn các con đường. Niềm vui của họ là nhìn  những con đường sạch bóng cho ngàn người đi qua. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một bài hát cũng mượn những vần thơ diễn tả hình ảnh người phu quét đường: “Người phu quét lá bên đường, quét cả nắng vàng quét cả chiều thu”. Có một vị chính khách nọ khi ra tranh cử tổng thống cũng nói với mọi người :“ Nếu tôi được bầu chọn làm nguyên thủ quốc gia, công việc đầu tiên tôi sẽ làm là cho xây dựng những con đường”.

Cũng vậy, Giáo hội ngày hôm nay mời gọi chúng ta đóng vai người phu quét lá để dọn con đường trong tâm hồn đón Chúa đến. Giáo hội trích mượn lời hiệu triệu của Thánh Gioan tiền hô để nhắn gửi chúng ta :“ Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi (Mt 3, 3 )”.

Nhưng dọn đường như thế nào?

Đạo là đường. Đạo Công giáo không phải là một pháo đài gồm chứa những luật lệ cứng ngắc để chúng ta rút lui vào đó cố thủ. Đạo mà Chúa Giêsu khai sáng là một con đường rộng mở thênh thang để chúng ta bước tới, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng chính là con đường đưa dẫn chúng ta tiến về ánh sáng và sự sống vĩnh cửu. Nhưng con đường đó nhiều khi ngập đầy bụi bặm và rác rưởi của tội lỗi mà chúng ta cần phải quét dọn hằng ngày.

Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã viết “ Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy anh em hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương” (Rm 13, 12.13). Bóng tối của màn đêm là hình tượng biểu trưng tội lỗi và sự chết. Vũ khí của sự sáng mà Thánh Phaolô nhắc bảo chính là sức mạnh Thiên Chúa ban cho những ai được Thần khí hướng dẫn để không sống theo xác thịt. Điều mà Thánh Phaolô nói tới cũng tương hợp với lời hiệu triệu của thánh Gioan mà chúng ta nghe trong bài Tin mừng hôm nay. Con đường cong queo của những luồn lẹo gian dối phải uốn cho ngay. Lũng sâu chất chứa những thù hận và cách ngăn phải lấp cho đầy. Núi cao của tham vọng và ích kỷ phải bạt cho bằng. Muốn sửa lại những con đường đó, chúng ta phải đi vào hành trình hoán cải nội tâm một cách sâu xa.

Hoán cải và trở về

Có một người đàn ông nọ vô tình đọc thấy một bản cáo phó trên một trang báo. Người ta nhầm lẫn đưa tin ông vừa mới chết. Ông xúc động, nhưng bàng hoàng hơn cả vì bản cáo phó xem ông như một kẻ giết người hàng loạt, vì ông đã chế tạo nhiều vũ khí để sử dụng trong chiến tranh. Bản cáo phó đã đánh động tâm hồn ông, và ông quyết định chuyển hướng. Thay vì phục vụ chiến tranh như trước đây,  ông bắt đầu dấn thân phục vụ cho hòa bình. Ông đã hiến dâng toàn bộ tài sản ông sở hữu để cổ vũ cho công lý và hòa bình trên khắp thế giới. Người đàn ông ấy chính là Alfred Nobel, người đã khai lập giải Nobel hòa bình để phục vụ cho mục đích này. Đó là một con người đã biết thức tỉnh và trở về trong sám hối.

Hoán cải (metanoia) theo nguyên ngữ Hy lạp chính là trở về, trở về với Chúa và trở về với anh em. Trong mùa vọng cũng như trong mùa chay, chúng ta được nhắc nhở thực hành việc sám hối. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì trong suốt cuộc lữ hành trần thế, chúng ta vẫn luôn cần phải trở về liên tục, bởi vì đây là thái độ nội tâm căn bản thể hiện đức tin của mọi tín hữu quy hướng về Thiên Chúa. Sám hối không phải chỉ là nhớ lại một vài lỗi phạm và đến tòa cáo giải xưng thú để lương tâm được thanh thản. Sám hối trước hết và trên hết chính là một tư thế nội tâm để quay trở về. Cuộc lữ hành đức tin chúng ta giống như một con  thuyền nhỏ trên dòng sông chảy ngược. Con thuyền không thể đứng yên một chỗ mà phải tiến tới, nếu không, con thuyền sẽ bị dòng nước cuốn ngược lại. Vì thế cuộc hành trình trở về được Giáo hội nhắc nhở trong mùa vọng như một động thái cần thiết để đón chờ Chúa đến. Chúng ta không thể trở về với Chúa mà lại không biết cách trở về làm hòa với nhau. Cũng thế, sự hoán cải mà thánh Gioan Tiền hô nói đến, đòi hỏi chúng ta phải phá đổ bức tường cách ngăn của những thù hận, phải uốn lại cho ngay những luồn lẹo gian dối trong cách hành xử thường ngày làm phương hại đến cận nhân chung quanh. Thánh Gioan tiền hô còn vay mượn hình ảnh 1 cái rìu đặt sẵn dưới gốc cây và 1 người cầm nia rê lúa trong sân để mạnh mẽ khuyến mời chúng ta hoán cải (Mt 3,10-12). Trở về với Chúa và trở về với nhau là dấu chỉ biểu tỏ sự sám hối cách chân thực.

Có lẽ chúng ta đều biết bức tranh nổi tiếng vẽ bữa tiệc ly của danh họa Leonardo da Vinci. Ông tập trung cao độ để phác họa dung mạo Chúa Giêsu ngồi giữa các học trò trong giờ phút ly biệt đầy thân thương và quyến luyến. Nhưng cầm cọ lên, ông lại buông xuống vì không thể vẽ nổi. Nguyên nhân vì chiều hôm trước, ông mới cự cãi kịch liệt với anh hàng xóm bên cạnh và tâm hồn đầy bất an. Cuối cùng ông quyết định gác bút, đi làm hòa với người bạn ấy rồi mới trở về xưởng vẽ. Chúng ta thấy dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh rất sống động và toát lên một tình yêu vô hạn. Không có bình an trong tâm hồn, Leonardo da Vinci không tài nào thể hiện được chân dung Đức Giêsu trong bức họa nổi tiếng ấy. Cũng vậy, chúng ta không thể nào đến với Chúa mà tâm hồn vẫn còn những rào chắn khổng lồ cách ngăn chúng ta với anh chị em chung quanh mình.

Hình mẫu nơi Gioan tiền hô

Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu giao nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ‘Ngôi Lời đã trở thành xác phàm’. Vì thế Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn ‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.

Kết luận

Trong một cuộc triển lãm, họa sĩ Vangog có trưng bày một bức tranh tuyệt đẹp với tựa đề ‘Chúa đến’. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ cửa trước một căn phòng. Một người bạn đến xem tranh, tấm tắc khen ngợi tài nghệ của ông, nhưng anh bạn góp ý: “Này Vangog, bức tranh của anh khá hoàn hảo nhưng còn thiếu xót một chi tiết, có lẽ anh quên không để ý tới. Căn phòng Chúa đứng gõ cửa còn thiếu một nắm đấm để mở ra”. Vangog trả lời: “ Không phải thế đâu. Chúa đang đứng gõ cửa căn phòng tâm hồn mỗi người chúng ta. Còn bạn hay tôi, chúng ta có mở hay không là do chúng ta quyết định. Nắm đấm để mở cửa phòng nằm ở bên trong, chứ không nằm phía bên ngoài”.

Trong mùa vọng, chúng ta đợi chờ Chúa đến. Ngài đang đến gõ cửa tâm hồn từng người. Cửa phòng có được mở ra hay không, và Chúa có đi vào được căn phòng tâm hồn chúng ta hay không, còn tùy nơi cá nhân từng người.

Về mục lục

.

VUA HÒA BÌNH ĐẾN

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, chủ đề lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng là một chủ đề của sự chuẩn bị tâm hồn. Chúng ta thấy Tin Mừng hôm nay nêu bật “sứ vụ” của Gioan Tiền Hô, hoặc Tẩy Gỉa. Vâng, cái “danh gọi” của thánh Gioan Baotixita nói lên “sứ vụ” “dọn đường “ , “mở đường ”của ngài cho Đấng Cứu Thế đến. Vì vậy, thật ra vai trò Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế chính là Isaia, chứ không phải là Gioan Tẩy Gỉa. Vì, Gioan Tẩy Gỉa ra đời trước Đấng Cứu Thế có 06 tháng, nghĩa là Gioan Tẩy Gỉa hơn Chúa Giêsu có ½ tuổi.

Theo đó, vai trò của thánh Gioan là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế là vai trò ” chứng nhân “ cập nhật sát với Chúa Giêsu, rõ ràng như một người “hộ tống” Đấng Cứu Thế thật sự, theo sát nghĩa. Như vậy, có thể gọi thánh Gioan Tiền Hô là “đương kim tiền hô”, còn Isaia là “ nguyên tiền hô” cho Đấng Cứu Thế.

Vâng, thưa quý vị, một chút suy tư trên để đưa chúng ta về Cựu Ứơc “hơi lâu” một chút. Bởi vì, khi Isaia rao giảng, tức Tiền Hô về Đấng Cứu Thế, thì dân tộc Dothai đang sống trong một tâm trạng “chờ mong”. Một sự khát khao” ơn cứu chuộc” kinh khủng. Và trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa đã cho ngôn sứ Isaia tiên báo về “ĐẤNG CỨU THẾ “, vâng: ”    Từ gốc Giê-se có một chồi sẽ nứt đọt, từ rễ nó một bông hoa sẽ nở ra…” ( Is 11, 1). Rõ ràng, từ đoạn (Is 11, 1-10) chúng ta thấy một hình ảnh tuyệt đẹp của một “ sứ giả thần linh”, đó là Đấng Cứu Thế, vâng, không có cảnh tượng nào, vương quốc nào, lãnh địa nào có được một cuộc sống thần tiên đến vậy. Rõ ràng, đây là cảnh ” Địa Đàng” được Thiên Chúa thiết lập để “thay thế” cho “địa đàng cũ” mà Adong đã làm hư mất, để đặt dưới quyền “Đức Vua Giêsu”, Vị Vua Hòa Bình đích thực.

Vâng, sứ mạng Tiền Hô của Isaia là ở thì tương lai của quá khứ, còn sứ mạng Tiền Hô của Gioan là ở thì hiện tại trong hiện tại. Bởi vì, sự rao giảng , hay sứ vụ Tiền Hô của Gioan không nằm ở thì quá khứ hay tương tai. Sứ vụ Tiền Hô của Gioan tiếp diễn ở thì hiện tại và kéo dài đến ngày cánh chung. ( là Tân Ứơc).

Chúa Nhật II Mùa Vọng là Chúa Nhật của sự “sám hối” tức dọn đường tâm hồn. vâng, dọn tâm hồn , tức sám hối, dọn đường tâm linh để làm gì ? Nếu , không phải để đón “Đức Vua Hòa Bình “ đến. “ Hãy dọn đường cho ngay thẳng, sửa lối để Người đi…” (Mt 3, 3),( Mc 1, 3); (Lc 3, 4). Theo đó, chính Gioan Tiền Hô cũng lãnh lấy “ sứ mạng ngôn sứ ” từ thời Isaia. Sứ mạng Tiền Hô của Gioan Tẩy giả đi liền với sứ mạng của Đấng Cứu Thế.

Như vậy, thánh Gioan Tiền Hô là vị tông đồ, đồng thời là vị tử đạo tiên khởi của Tân Ứơc.

Chân dung vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế là một chân dung “tu” thật sự, cuộc sống nhiệm nhặt của ngài là một minh chứng cho lời ngài rao giảng, sự khiêm hạ, không mạo nhận mình là “Đấng Cứu Thế” của ngài là một mính chứng.

Tin Mừng Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng ( A ) ( Mt 3, 1-12) hôm nay, cho chúng ta một chân dung của Vị Tiền Hô của “ĐỨC VUA HÒA BÌNH “. Từ ngữ Việt Nam có câu : “Tiền Hô, Hậu Ủng”, nói lên “vương quyền” của vua chúa trần gian. Vua đi đến đâu, thì phải có loa đi trước mở đường, hoặc người sứ giả của vua, hoặc là quan trạng về làng cũng có “Tiền hô, hậu ủng”.

Như vậy, “tiếng kêu trong hoang địa” mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo hàng ngàn năm trước về Gioan Tiền Hô là gì? Thưa là : “Hãy dọn đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi “ ( Mt 3, 3). Con đường ở đây chắc chắn không phải là con đường “đất, hay bê tông”, mà là con đường “tâm hồn “ của nhân thế. Muốn đón rước vị vua trần gian, người ta phải chuẩn bị con đường trần gian, cho sạch sẽ, ngay ngắn. Chẳng lẽ Vị Vua Nước Trời sắp giáng lâm, không được đón tiếp long trọng hay sao ?

Vâng, Vị Vua Nước Trời đến để ban muôn vàn bình an, ân sủng và nhất là trao ban chính sứ vụ Thiên Sai của Người là “làm giá chuộc muôn người ”, thì nhất thiết , Người phải được đón tiếp mợt cách long trọng.

Ý thứ hai : Đừng nghĩ rằng mình có Đạo, cũng như những người Phariasieu  và Xa-Doc nghĩ rằng họ là con cháu Apraham , thì tự nhiên sẽ được cứu, không cần “sám hối ”. Nhưng, “Thiên Chúa sẽ biến những hòn đá trở nên con cháu Apraham ”, vì quyền năng cùa Ngài.  Đó là lẽ đương nhiên, vì “ cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây…”. Chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã nói : “ Cây nào không sinh trái tốt thì, Cha thầy sẽ chặt đi mà bỏ vào lò lửa…”

Ý thứ ba : “Hai Phép Rửa”, thánh Gioan Tiền Hô nói rõ : “ Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng, Đấng đến sau tôi sẽ làm Phép Rửa trong Thánh Thần và Lửa ..” (câu 11c).

Như vậy , Phép Rửa bởi Chúa Giêsu mới có giá trị cứu độ, còn phép rửa của Gioan Tẩy Gỉa chỉ giục lòng sám hối.  Tại sao vậy? Thưa, bởi vì : “Thánh Thần và Lửa” có nghĩa là : “ Ơn Cứu Độ không đơn thuần chỉ là nước lã, mà là giá Máu của Ngôi Hai làm Người” ,mặc nhiên, “Lửa “ ở đây chính là ”TÌNH YÊU TỰ HIẾN “. Thánh Thần, có nghĩa là : “Quyền năng tuyệt đối” bởi Thiên Chúa, tính siêu việt bởi Thiên Chúa toàn năng” tỏ hiện, tỏ rõ, mặc khải Ba Ngôi Thiên Chúa hiệu hữu. Nhưng, “LỬA” chính là sự hữu hình, sự hữu thể của Ngôi Hai làm Người, còn “Thánh Thần” là sự vô hình, siêu nhiên tuyệt đối, chính là Thần Khí của Thiên Chúa.Tượng trưng quyền năng vô biên, tối thượng bởi Thiên Chúa.

Đấng Cứu Thế được toàn năng, toàn quyền trong Ba Ngôi Cực Thánh, vừa hữu hình vừa vô hình, thống trị và phán xử vì : “Người cầm nia trong tay, rê sạch lúa mẩy và lép, rồi thu vào kho lẫm” ( c 12). Mặc nhiên, Người là Đấng cầm quyền sinh tử.

Như vậy, phép Rửa ấy chính là “Bí Tích” là như vậy, sự chứa đựng mầu nhiệm bởi Thiên Chúa.

Bài đọc thứ II hôm nay ( Rm 15, 4-9), thánh Phaolo cho chúng ta biết có một Đấng Cứu Thế sẽ ở giữa nhân loại để chúc tụng Thiên Chúa, đó là Đức Giêsu – Kitô,  như có lời chép : “ Vì thế giữa muôn dân, Con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng Danh Thánh Chúa” ( c 9).

Vâng, cũng vậy, “màu tím mùa vọng” khác với” màu tím mùa chay”, “Màu Tím Mùa Vọng” thì “vui hơn” bởi vì có hy vọng. Điều gì “còn “ hy vọng, thì mặc nhiên còn vui mừng. Vì thế, tuy là ” màu tím” trong phụng vụ mùa vọng, nhưng vẫn có “Haleluja”, khác với “ màu tím “ của tháng các linh hồn. vậy, thiết nghĩ, cần chia sẻ thêm một chút về “màu tím”, để quý vị bớt thắc mắc, tại sao, có người nói :” màu tím, màu buồn, màu ly biệt.” . Nhưng, lại có người nói :” màu tím “ là “màu vui” là như vậy.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang được sống những ngày trong mùa vọng. Xin thương ban cho những ai chưa tìm được niềm vui đích thực trong cuộc đời họ, biết tìm đến Chúa là  “ nguồn hy vọng” duy nhất, vì Chúa là Đấng Duy Nhất và vĩnh cửu cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen.

Về mục lục

.

LỜI NÓI THẬT THÌ KHÓ NGHE

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng

Ngôn sứ Isaia đã nói trước về ông Gioan Tẩy Giả, gọi ông là “tiếng người hô trong hoang địa”. Hôm nay tiếng hô ấy không lọt tai chút nào, trái lại ít ra làm cho nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xa-đốc phải khó chịu hoặc choáng váng mặt mày. Tại sao thế? Vì ông Gioan thẳng thắn sửa sai họ. Vậy chúng ta hãy xem tiếng hô đã nói gì về nhóm người ấy và có lẽ cả về chúng ta hôm nay nữa.

Chúng ta thử hình dung khung cảnh bờ sông Gio-đan, khuôn mặt ông Gioan Tẩy Giả, nhóm người Pharisêu và Xa-đốc. Nét mặt ông Gioan không dữ dằn hay đỏ gay vì nóng giận, nhưng nghiêm nghị và đượm một chút thất vọng. Ông nhìn thẳng vào họ và cất tiếng nói. Ông không nói bóng gió hay rào đón, nhưng đi thẳng vào vấn đề của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa như bao người thì đâu là vấn đề? Theo lời ông Gioan, đây là vấn đề thứ nhất của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gioan là một thứ nghi thức hay phù phép để giữ cánh tay trừng phạt của Thiên Chúa lại. Cái chứng đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính! Nhưng thực ra phép rửa của ông Gioan chỉ là dấu hiệu mời gọi họ hãy thay đổi cuộc sống mà “sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”.

Vấn đề thứ hai của nhóm Pharisêu và Xa-đốc là tính tự tôn, dựa vào gốc gác là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Quả thực họ mang cái vỏ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng trong lòng họ đâu còn chút tinh thần nào của tổ phụ Áp-ra-ham nữa! Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của đức tin. Còn họ thì sẽ chẳng tin vào Chúa Giêsu và sứ mệnh cứu độ của Người (xem Gioan 8:31-41). Tổ phụ Áp-ra-ham “đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của [Chúa Giêsu]”. Còn họ thì “lượm đá để ném Người” (8:56-57).

Để sửa sai các “vấn đề” của họ và cũng là vấn đề của chúng ta hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi tất cả hãy thực lòng sám hối và tin vào Đấng sẽ đến sau ông, tức là Chúa Giêsu, Đấng “sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa, tay cầm nia rê sạch lúa trong sân”. Nói khác đi, chúng ta phải tin vào sứ mệnh của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa và sẽ tiếp tục thanh tẩy chúng ta thành “thóc mẩy” để được thu vào kho lẫm đời đời của Thiên Chúa.

Sống sứ điệp Tin Mừng

Có lẽ chúng ta tự hào mình không giống như những người nhóm Pharisêu và Xa-đốc, và những lời cảnh báo của ông Gioan Tẩy Giả không nhắm vào chúng ta. Không phải vậy đâu! Cách sống đạo của chúng ta nhiều khi không khác gì “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, làm mọi sự vừa đủ để khỏi bị xuống… hỏa ngục! Chúng ta đi lễ Chúa Nhật vì luật buộc, đọc kinh hạt theo số lượng mà không có lòng. Chúng ta cứ tưởng hễ mình mang danh Công giáo là mai sau sẽ ung dung bước vào thiên đàng. Chúng ta không cần để ý phải “sinh quả tốt” là đời sống Kitô hữu đích thực với đức tin sống động ngay ở đời này.

Sứ điệp của ông Gioan Tẩy Giả thuộc loại “sự thật mất lòng”! Nó đòi chúng ta phải can đảm nhìn thẳng vào cuộc sống mình, để nhận diện những “vấn đề” trong đời sống thiêng liêng cũng như gia đình và xã hội của chúng ta. Sứ điệp của ông Gioan không đe dọa, nhưng thành thực giới thiệu với chúng ta Đấng cứu độ là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Vậy thì mùa Vọng cũng là thời gian để chúng ta thay đổi lối sống và theo Chúa Giêsu làm môn đệ Người.

Về mục lục

.

DỌN CHO CHÚA MỘT CON ĐƯỜNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

TỪ TIẾNG KÊU SA MẠC…

Thành tâm đón nhận:

Nói đến “hoang địa”, “sa mạc”, ta nghĩ ngay đến nơi vắng vẻ, hiu quạnh. Đó là những vùng đồi núi chập chùng cằn khô sỏi đá, hoặc là những vùng đất cát thênh thang trải dài như bất tận. Điều kiện sống ở đây khắc nghiệt quanh năm, nên hầu như không có ai lai vãng đến đây. Sự sống ở đây là một cuộc chiến đấu cam go. Cuộc chiến đấu thanh luyện để tồn tại.

“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắc lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt.3,4).

“Lạc đà” là biểu tượng của sa mạc. Hầu như đó là phương tiện duy nhất để di chuyển trên sa mạc. Người ta gọi con lạc đà là “con thuyền sa mạc, con thuyền trên biển cát”. “da”, “châu chấu”, “mật ong rừng” là những thứ hoang dã. Gioan đã tự nguyện thành “người sa mạc” để thanh luyện mình. Tiếng “người hô trong sa mạc” không phải là người thành phố sang trọng vào sa mạc để réo gọi, Nhưng đó chính là người thật sự đang sống với cung cách sống ở sa mạc, đã kêu lên bằng chính tiếng nói và đời sống của mình. Đời sống được thanh luyện để lời nói được trong sáng, đủ sức chuyên chở thông điệp của Thiên Chúa về ngày Thiên Chúa đến. Như hình ảnh các ngôn sứ xưa, mang sứ mạng chuyển tải Lời Chúa đến với dân riêng Ngài. (2V.1,8).

Tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối người đi. (Mt.3,3). (Bản dịch của Cha Thuấn).

Tiếng vọng từ sa mạc, chỉ có ai biết tìm về sa mạc mới nghe thấy được. Tìm về nơi thanh vắng, tìm về cõi tĩnh lặng để lắng nghe tiếng gọi vang vọng trong chính tâm hồn mình.

“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-dê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan”. (Mt. 3,5-6).

Đón nhận cách giả hình:

“Có tiếng người hô trong sa mạc…” (Mc.1,3).

Sao không là tiếng hô trong thành phố? Sao không là tiếng hô ở Giêrusalem? Vì con người cần phải vào sa mạc. Sa mạc ở đâu? – Sa mạc ngay tại lòng mình.

Đó là cõi nội tâm thênh thang với những buồn vui, những yếu đuối, những khát vọng của kiếp người. Trong thinh lặng nội tâm, ta dễ dàng nhận ra tiếng lòng mình. Tiếng Chúa hướng dẫn đời ta. Đó là giây phút gặp gỡ Chúa một cách thân tình. Đó là giây phút cầu nguyện, ta biết ta yếu đuối và ta biết Chúa yêu thương ta. Ta dọn đường Chúa đến với niềm tin yêu vững vàng. Ta loại trừ những chướng ngại đang vây quanh ta, làm cản bước Chúa đến với ta. Những chướng ngại mà từ lâu ta tưởng chúng bảo vệ ta, hóa ra chúng cô lập ta, chúng làm ta mất liên lạc với Chúa. Chúng ta được vây bọc bởi những tham vọng và thụ hưởng trần tục, và chính ta biết những điều ấy không phải là những điều thuộc về Thiên Chúa, trong sâu xa cõi lòng mình, ta biết mình đang ở vị trí nào trên nấc thang đạo đức, trên nấc thang vươn lên Thiên Chúa ta còn ở vị trí là đà trên mặt đất, nhưng lòng ta vẫn muốn mọi người tin rằng ta cao cả, ta đang ở trên cao, và, thế là, ta sống giả hình. Ta khoát lên mình chiếc áo đạo đức giả hình đề che dấu một tâm hồn kiêu căng và gian dối.

“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt.23,27).

Thế nên, phải dọn cho Chúa một con đường nội tâm chân chính. Con đường ấy là một cuộc hành trình sa mạc đầy thử thách gian nan, như dân It-ra-en trải qua 40 năm sa mạc để về miền Đất Hứa. Con đường ấy, trong ánh sáng mạc khải Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, đó là Con Đường Thập Giá.

“Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt.3,7-8)

… ĐẾN TIẾNG GỌI TRONG LÒNG

Tình Yêu và Chân Lý có tiếng nói mạnh mẽ trong con tim mỗi người, khó mà chối bỏ được. Nhiều khi vì danh vọng, bạc tiền, tư lợi nào đó, người ta tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Người ta khóa chặt cửa lòng từ chối đón Chúa vào căn nhà tâm hồn mình. Nhưng tiếng gọi trong lòng vẫn không hề tắt lịm. Tiếng gọi thiêng liêng vẫn mãi mãi còn đó như Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người mãi mãi còn đó. Con người chối bỏ là sự chọn lựa của chính mình. Là do con tim nguội lạnh. Ngọn lửa tình yêu không còn bùng cháy trong trái tim nữa.

“Thầy đã đến ném lửa trên thế gian và Thầy mong biết bao nhìn thấy nó bùng lên” (Lc.12,49).

Con người chối bỏ Thiên Chúa, vì con người không đón nhận Thánh Thần. Không lớn lên trong Thánh Thần. Không có Thánh Thần con người không thể được nâng lên khỏi lãnh vực xác thịt, không thể trở nên con Thiên Chúa, không có khả năng công nhận Thiên Chúa là Cha.

“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga.4,24).

Chính vì thế, chúng ta phải dọn cho Chúa một con đường để Ngài đến với ta. Để Ngài thật sự thuộc về ta, ta thuộc về Ngài. Chỉ có Ngài – Đấng Cứu Thế – mới có thể ban phát cho ta hồng ân vô biên đó, vì được làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, là hạnh phúc lớn nhất mà con người tìm kiếm.

“Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt.3,11).

Khi ấy, lòng ta trải rộng, Ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta một cách trọn vẹn. Hình ảnh Thiên Chúa không còn đóng khung trong trí tưởng tượng hẹp hòi của con người. Con tim ta sẽ mở ra, để đón nhận và cho đi suối nguồn tình yêu mà nhờ Chúa Giêsu Kitô ta được ban phát dồi dào đến vô tận. Khi ta khát khao tìm Chúa, ta mới được Chúa soi sáng tâm trí để nhận ra chân dung đích thực của Chúa. Có nhận ra được chân dung đích thực của Chúa, ta mới cảm nhận được sự cao cả và ngọt ngào của Thiên Chúa Tình Yêu. Và đó là niềm tin yêu và hy vọng mà ta hằng luôn ấp ủ trong tận cùng khối óc và con tim ta trong suốt cả đời. Và đó cũng là Mùa Vọng của một đời người.

Có một câu chuyện kể về một bé trai sống trong viện mồ côi: Một đêm nọ, nó giật mình thức giấc. Trời vẫn tối đen, nhưng nó biết rằng hừng đông chẳng mấy chốc nữa sẽ tới. Nó cảm thấy rất nóng lòng muốn thấy cảnh bình minh bên bờ hồ, nhưng các quy định trong viện thật khắt khe: không có lý do chính đáng thì không một em nào được thức dậy trước chuông và cấm ngặt không được ra khỏi phòng ngủ tập thể cho đến khi được phép. Nhưng nó quyết định liều một phen. Nó vội vàng mặc quần áo, cầm giày trên tay và bò ra ngoài để khỏi đánh thức ai. Nó bò một hồi đến hành lang dài và không muốn bắt gặp những cái nhìn không tán thành của các hình ảnh trên tường.

Sau cùng cũng đến được bờ hồ, trong bóng tối, nó ngồi đợi hừng đông. Và kìa! Ngày mới đang bắt đầu, ánh dương ngả từ màu cam sang màu đỏ. Nó mải mê ngắm những tia sáng phản chiếu trên mặt hồ, say sưa với vẻ đẹp tinh khôi. Thình lình nó chợt nhớ đã hết giờ. Lúc này mọi người hẳn đã thức dậy. Nó sẽ trễ mất. Nhất định gặp rầy rà rồi. Nghĩ vậy, nó đứng lên và nói những lời sau cùng với hồ nước: “Bây giờ mình phải về đây. Cám ơn bạn. Mình không lo nếu có bị phạt, bởi vì mình đã hiểu ra rồi. Bây giờ mình biết rằng Thiên Chúa của hồ nước vĩ đại hơn Thiên Chúa của viện mồ côi (Gallagher).

Lạy Chúa,

Xin soi sáng lòng trí con,

Để con nhận ra những lỗi lầm.

Sửa đổi cuộc đời con,

Để nên một con đường,

Ngài đoái thương thăm viếng. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG_A

Lm. Anthony Trung Thành

Tiếp tục chủ đề “chờ đợi Chúa đến” của Mùa vọng, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: Hãy ăn năn thống hối; hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối; bởi vì, cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây.

  1. Hãy ăn năn thống hối

Thống hối là gì? “Thống hối là cảm thấy đau buồn, gớm ghét tội đã phạm và quyết chí chừa cải” (DZ.1676, Cđ Trentô). Những ai phải thống hối? Tất cả mọi người cần phải thống hối. Vì sao? Vì ai cũng có thể phạm tội. Thánh Gioan khẳng định: “Ai bảo mình vô tội là kẻ nói dối” (1Ga 1,10). Sách châm ngôn thì cho biết: “Người lành thánh có thể sa ngã mỗi ngày 7 lần”( 24,16). Nhà giảng thuyết trứ danh của Pháp, Cha Lacordaire cũng nói rằng: “Tổ tông chúng ta đã phạm tội, cha ông chúng ta đã phạm tội, thì tại sao chúng ta lại thanh sạch đến thế? Chớ thì con cái lại khôn hơn ông bà cha mẹ ư? Kẻ nói mình không có tội là người có tội – có tội vì nói dối – có tội vì kiêu ngạo. Kiêu ngạo và nói dối mà không có tội gì, thì thế nào mới là có tội?”  

Vì vậy, ai cũng cần phải Thống hối. Thống hối là từ bỏ tội lỗi: tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Tội lỗi làm cho con người xa cách Thiên Chúa. Thống hối làm cho con người xích lại gần Thiên Chúa. Thống hối là điều kiện cần thiết để lãnh nhận các Bí tích: Người lớn khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội cần phải  có lòng thống hối ăn năn tội mới có thể được khỏi tội riêng; hối nhân khi lãnh nhận Bí tích Xức Dầu nếu vì lý do nào đó không thể xưng thú tội mình ra thì cần phải có lòng thống hối mới được khỏi tội; hối nhân khi lãnh nhận Bí tích Hòa Giải cần phải có một trong hai cách thống hối này: thống hối cách trọn, tức là ghét tội vì lòng mến Chúa và thống hối cách chẳng trọn, là ghét tội vì sợ sa Hỏa ngục. Nếu không có một trong hai cách thống hối đó thì hối nhân sẽ không được tha tội.

Thống hối cũng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày giữa con người với nhau. Bởi vì, con người không chỉ phạm tội làm mất lòng Chúa mà còn phạm tội làm mất lòng anh chị em mình. Vì vậy, cần có thái độ thống hối đối với anh chị em bằng những hành vi như xin lỗi, chấp nhận sửa sai…Để nhận được sự tha thứ từ anh chị em mình. 

  1. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối

Nói đến thống hối, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc xét mình xưng tội, nhưng lại không nghĩ đến những việc làm sau khi được khỏi tội. Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi: “Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối”(x. Mt 3,8). 

Thật vậy, sau khi xưng tội, tùy vào tội đã phạm, cha giải tội ra việc đền tội cho hối nhân. Việc đền tội có thể là: đọc kinh, lần hạt, ăn chay hãm mình, tham dự thánh lễ, làm việc bác ái, đền trả tiền bạc, của cải nếu hối nhân lỗi phép công bằng…Đó là những việc lành mà hối nhân cần làm để đền bù tương xứng với tội mình đã phạm. Mặt khác, hối nhân cũng có thể làm nhiều việc lành phúc đức khác để đền vì tội lỗi mình. Giáo lý dạy ta về Luyện ngục là nơi các linh hồn phải chịu hình phạt vì các tội nhẹ cố tình hoặc vì việc đền tội chưa đủ ở đời này. Vì vậy, chúng ta cố gắng dùng thời gian ở đời này để làm việc đền tội cho cân xứng với các tội mình đã phạm, nhất là những tội lỗi đức công bằng. Tội lỗi đức công bằng có thể về tiền bạc, của cải, cũng có thể là những lời nói hành nói xấu phạm đến thanh danh của người khác. Phúc Âm cho chúng ta gương của ông Gia-kêu (x. Lc 19,1-10). Sau khi gặp Đức Giêsu, ông quyết tâm lấy ½ của cải mình có để làm phúc bố thí. Còn nếu làm thiệt hại ai ông sẽ đền gấp bốn. 

Ngoài ra, chúng ta còn phải quyết tâm giữ sự công bằng: không trộm cắp gian lận, không tham ô tham nhũng, không dối trá lừa lọc, không nói xấu nói hành, không bỏ vạ cáo gian người khác… 

Để dạy cho một phụ nữ quen tật nói xấu người khác, Thánh Philiphê Nêri dạy hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp ngài. Chị ta ngạc nhiên, nhưng vẫn làm như vậy. 

Tới nơi thánh nhân dạy: Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.

Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không?

Và thánh Nhân khuyên nhủ: Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai. 

  1. Cái Rìu đã để sẵn dưới gốc cây

Cái rìu là dụng cụ quen thuộc của dân vùng núi. Nó thường được dùng để đốn cây…Hình ảnh “cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây”, làm cho chúng ta liên tưởng đến một lúc nào đó gốc cây sẽ bị đốn. Hình ảnh đó cũng nhắc nhở chúng ta về biến cố ra đi của mỗi người chúng ta, đó là giờ chết, xa hơn nữa là ngày Tận thế. Cây có thể bị chết lúc nào đó do nhiều nguyên nhân: chết do sâu đục; chết do thiếu nước; chết do trốc rễ…Nhưng nếu bị con người dùng rìu mà đốn thì không thể thoát chết. Mạng sống con người của chúng ta cũng giống như gốc cây. Chúng ta có thể chết lúc nào không hay biết: có thể chết do bệnh tật; chết do tai nạn; chết do thiếu thức ăn nước uống…

Sau khi chết, chúng ta sẽ chịu phán xét. Thiên Chúa lấy sự công minh mà xét xử mọi người (x. Is 11, 4). Vì thế, tùy theo tội phúc mà chúng ta sẽ được lên Thiên đàng hay xuống Hỏa ngục, tương tự như cây tốt và cây xấu, lúa và rơm: “Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa” (Mt 3,10); “Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt” (Mt 3,12). 

Như vậy, ngày chết sẽ đến bất ngờ, sự phán xét thì công minh nên đòi hỏi mỗi người chúng ta luôn phải tỉnh thức sẵn sáng bằng cách tỏ lòng thống hối và làm những việc lành cho xứng với sự thống hối. 

Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con luôn có tinh thần thống hối và biết làm nhiều việc lành cho xứng với sự thống hối của mình để khi Chúa đến chúng con được Ngài dẫn chúng con vào hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa. Amen.

Về mục lục

.

THANH LỌC

Trm Thiên Thu

Thanh lọc là làm cho trong sạch, làm cho tinh khiết, bỏ chất dơ bẩn và lấy chất tốt lành. Anh ngữ dùng chữ “purge” để chỉ hành động thanh lọc, do đó sinh ra tính từ “purgatory” (có tính chất làm trong sạch), vì thế mà sinh ra danh từ “purgatory” (nơi thanh lọc, chốn thanh luyện). Theo Công giáo, Purgatory có nghĩa là Luyện Hình hoặc Luyện Ngục.

Mùa Vọng là thời gian tẩy rửa linh hồn để đón Con Thiên Chúa giáng sinh. Thanh lọc là hành động cần thiết trong cuộc sống, nhất là thời đại ngày nay, nhiều thứ ô nhiễm. Càng phải thanh lọc kỹ hơn khi sống trong môi trường ô nhiễm nặng như Việt Nam hiện nay – mọi nguồn đều ô nhiễm, kể cả ẩm thực.

Thanh lọc là bảo vệ mình khỏi những thứ tác hại do môi trường. Đơn giản nhất là dạng “khẩu trang” được đa số sử dụng khi ra đường, có người không chỉ đeo vài lớp khẩu trang, mà còn thêm vải tấm chụp từ đầu tới cổ, đôi khi nhìn phụ nữ Việt Nam mà cứ ngỡ là phụ nữ Hồi giáo. Ai cũng bịt kín mít, thật khó có thể nhận biết ai quen hay lạ. Kỹ quá cũng… mệt!

Thể lý đã vậy, tinh thần còn cần được bảo vệ kỹ hơn nữa. Ngày nay có quá nhiều thứ rác rưởi nguy hiểm trên internet – net trắng thì ít mà net đen thì nhiều. Facebook được nhiều người “ưa dùng” nhưng lại có quá nhiều mối nguy hiểm. Có những người commen những câu chẳng đâu vào đâu, vu vơ, linh tinh, vớ vẩn. Và tất nhiên cũng không ít kẻ lợi dụng Facebook để mưu tính những chuyện khuất tất.

Có những tên nghe rất “kêu” hoặc có vẻ “đạo đức” nhưng trong đó có mối nguy tiềm ẩn khó lường trước. Ngay cả hình đại diện cũng chưa đáng tin nếu chúng ta không biết họ là ai, vì có những kẻ lấy “râu ông nọ cắm vào cằm bà kia”, không biết đâu là thật hay giả. Cũng có những trang xem chừng “nghiêm túc” nhưng biết đâu chừng phía sau là một ổ virus độc hại. Những kẻ câu LIKE (thích) là những kẻ tồi tệ. Nên block (khóa) họ để tự bảo vệ, tức là tự thanh lọc trước khi quá muộn!

Vì thế mà luôn phải cảnh giác cao độ, đúng như tiền nhân đã xác định: “Cn tc vô ưu. Thời buổi này cũng nên “di truyền” máu-đa-nghi của Tông đồ Tôma lắm đấy! Và thật chí lý với câu nói nghe như vè thế này: “Đng cãi lý vi k say, đng bt tay vi k xu, đng chiến đu vi k liu, đng nói nhiu vi k ngu. Chí lý lắm đấy chứ. Thật thà thì thẳng thắn, thẳng thắn thì thật tốt. Những kẻ nói ngọt và lấy lòng thì chẳng ra gì, người Anh gọi họ là dân “fair-weather” – tức là những người bạn phù thịnh, ưa nịnh, chỉ chấp nhận quen khi chúng ta có cái gì đó mà họ có thể lợi dụng, nhưng khi chúng ta gặp hoạn nạn thì họ không bao giờ xuất hiện.

Mùa Vọng về, năm mới Phụng Vụ tới, đó là thời điểm chúng ta cần thanh lọc kỹ lưỡng hơn, thanh lọc bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.

Trình thuật Is 11:1-10 nói về vị Minh Quân thuộc dòng dõi Đa-vít. Ngôn sứ Isaia mô tả: “T gc t Giessê, s đâm ra mt nhánh nh, t ci r y, s mc lên mt mm non. Thn khí Đc Chúa s ng trên v này: thn khí khôn ngoanminh mn, thn khí mưu lượcdũng mãnh, thn khí hiu biếtkính s Đc Chúa. Lòng kính s Đc Chúa làm cho Người hng thú, Người s không xét x theo dáng v bên ngoài, cũng không phán quyết theo li k khác nói, nhưng xét x công minh cho người thp c bé ming, và phán quyết vô tư bênh k nghèo trong x s. Li Người nói là cây roi đánh vào x s, hơi ming th ra giết chết k gian tà. Đai tht ngang lưng là đc công chính, gii buc bên sườn là đc tín thành”.

Nông dân Việt Nam có câu: “Nó bé nhưng gié nó to. Ý nói về những cây lúa tuy nhỏ bé nhưng trổ ra những gié lúa trĩu nặng những hạt căng mọng. Những thứ nhỏ bé thường là những thứ quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn như DNA (deoxyribonucleic acid), dạng chuỗi xoắn đôi quá nhỏ bé, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng nó lại khả dĩ duy trì sự sống, khỏe hay yếu lệ thuộc vào nó và nó mang tính di truyền. DNA ở người có khoảng 3 ngàn tỷ cặp base – gồm 4 hóa chất: Adenine (A), Guanine (G), Cytosine (C), và Thymine (T). Thật kỳ diệu, và chỉ có Thiên Chúa mới tạo được như vậy!

Kinh Thánh cho biết về thời đại của Thiên Chúa: “By gi sói s vi chiên con, beo nm bên dê nh. Bò tơ và sư t non được nuôi chung vi nhau, mt cu bé s chăn dt chúng. Bò cái kết thân cùng gu cái, con ca chúng nm chung mt ch, sư t cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú gin chơi bên hang rn lc, tr thơ va cai sa thc tay vào rn h mang. S không còn ai tác hi và tàn phá trên khp núi thánh ca Ta, vì s hiu biết Đc Chúa s tràn ngp đt này, cũng như nước lp đy lòng bin. Đến ngày đó, ci r Giessê s đng lên làm c hiu cho các dân. Các dân tc s tìm kiếm Người, và nơi Người ng s rc r vinh quang.

Đó là sự bình an đích thực, chỉ có ở Vương Quốc của Thiên Chúa. Hòa bình mà chúng ta hưởng ngày nay không vững bền, đôi khi chỉ là hòa-bình-ảo, nghĩa là không có chiến tranh súng đạn nhưng vẫn lo sợ đủ thứ, sợ vì nạn ô nhiễm khắp nơi, ngay cả thực phẩm cũng không an toàn thì làm sao bình an được đây? Ảo giác về hòa bình thôi!

Chưa được hưởng nền hòa bình đích thực vì chưa có công lý nghiêm minh. Có công lý mới khả dĩ có hòa bình. Có thời đại nào kỳ cục đến mức độ phải báo cáo hoặc khai báo khi đi làm từ thiện? Những người hảo tâm muốn làm từ thiện là có tội sao? Thật tồi tệ! Thảo nào tác giả Thánh Vịnh đã từng phải tha thiết cầu xin: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyn bính Ngài cho v Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái T, đ Tân Vương xét x dân Ngài theo công lý, và bênh vc quyn li k nghèo hèn (Tv 72:1-2).

Vương Triều Thiên Chúa rất tuyệt vời, bởi vì Ngài là Quốc Vương Chân Lý, và Ngài chỉ tuyển trạch các quần thần thực sự có lòng nhân ái, vì thế “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Tv 72:7-8).

Thế lực trần gian luôn coi thường công lý và rất sợ sự thật, đám dân đen luôn bị những kẻ ăn trên ngồi trước đày đạo và áp bức, ăn chặn mọi thứ, kể cả túi mì tôm. Những người hảo tâm biếu một chút thực phẩm và ít tiền thì bị chúng cướp mất. Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã nói rất chính xác: “Chính nhân cm quyn, dân mng r. Ác nhân cai tr, dân oán than (Cn 29:2). Trái ngược với nhân gian, Thiên Chúa là tình yêu, Ngài luôn chạnh lòng trắc ẩn với những kẻ thấp cổ bé miệng: “Người gii thoát bn dân kêu kh và k khn cùng không ch ta nương, chnh lòng thương ai bé nh khó nghèo. Mng sng dân nghèo, Người ra tay tế đ (Tv 72:12-13).

Lời hay thì không thật, lời thật thì không hay, thế nên người ta nói rằng “sự thật thì hay mất lòng”. Thà mất lòng trước rồi được lòng sau. Thiên Chúa luôn thẳng thắn, những người ưa lươn lẹo cảm thấy khó chịu và chói tai khi nghe Ngài giáo huấn, nhưng ai chịu nghe thì sẽ được an tâm và sống thanh thản. Quốc Vương Công Lý là Đức Giêsu Kitô, luôn nói thật và nói thẳng. Không thế cũng không được, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát con người khỏi lầm lạc (x. Ga 8:32).

Kinh Thánh xác định rạch ròi: “Danh thơm Người s trường tn vn k, nc tiếng gn xa dưới ánh mt tri. Ước gì mi sc tc trn gian, nh Người được chúc lành, và muôn dân thiên h ngi khen Người có phúc (Tv 72:17). Chắc chắn như thế. Sự thật mãi mãi là sự thật, người ta có cố ý bóp méo cỡ nào cũng không được. Người Việt cũng có câu: “Cây ngay không s chết đng.

Kinh Thánh cũng đã nói rõ: “Nnh hót ai là giăng lưới dưới chân k y (Cn 29:5). Những kẻ bất tài vô dụng thì ưa nịnh bợ, khoái tâng hót. Chắc chắn kẻ nịnh hót là kẻ xấu, không đáng tin, vì họ là kẻ giăng bẫy hại chúng ta. Vậy mà thế gian lại “chuộng” phong cách đó. Thế nên ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã gióng lên hồi chuông cảnh báo: “Hãy dn đường Chúa, hãy sa đường Chúa cho ngay thng; và mi người s thy ơn cu đ ca Thiên Chúa (Lc 3:4 & 6). Con đường đó chính là lòng dạ con người, là chính nếp nghĩ và các động thái khúc khuỷu đầy mưu mô thâm độc. Sửa cho thẳng con đường là một cách thanh lọc cần thiết để tâm hồn trở thành nơi xứng đáng cho Thiên Chúa ngự vào.

Dù có thế nào thì cũng đừng tự ái, đừng tuyệt vọng về tình trạng của mình. Mùa Vọng không chỉ nhắc chúng ta mong chờ Đấng Cứu Thế, mà còn dạy chúng ta duy trì niềm hy vọng. Có “lửa” hy vọng rồi sẽ có thể thắp sáng những thứ khác. Hãy lưu ý “chuỗi liên kết” này: Cuộc sống sẽ chấm dứt khi chúng ta NGỪNG mơ ước, hy vọng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn tin tưởng, tình yêu cũng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn quan tâm người khác. Thật đáng lưu ý biết bao!

Kinh Thánh là kho tàng vô giá, vì mọi thứ đều có thể tìm thấy trong đó. Càng biết Kinh Thánh càng thấy kỳ diệu. Thánh Phaolô cho biết: “Mi li xưa đã chép trong Kinh Thánh đu được chép đ dy d chúng ta. Nhng li y làm cho chúng ta nên kiên nhn, và an i chúng ta, đ nh đó chúng ta vng lòng trông cy (Rm 15:4). Vững lòng trông cậy tức là tiếp tục hy vọng. Niềm hy vọng là cửa ngõ dẫn tới những vùng miền kỳ diệu mà con người chưa bao giờ ngờ tới.

Là con người, ai cũng rất yếu đuối, vấn đề là có cố gắng hay không. Thánh Phaolô đã kinh nghiệm như vậy, thế nên ông chân thành cầu mong: “Xin Thiên Chúa là ngun kiên nhn và an i, làm cho anh em được đng tâm nht trí vi nhau, như Đc Kitô Giêsu đòi hi. Nh đó, anh em s có th hip ý đng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Ph Đc Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (Rm 15:4-6).

Không ai có thể giúp mình bằng chính mình tự giúp mình. Thánh Phaolô cầu mong như vậy, nhưng chúng ta có nỗ lực thay đổi hay lại là chuyện khác. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Vy, anh em hãy đón nhn nhau, như Đc Kitô đã đón nhn anh em, đ làm rng danh Thiên Chúa. Tht vy, tôi xin qu quyết: Đc Kitô có đến phc v nhng người được ct bì, đ thc hin nhng gì Thiên Chúa đã ha vi t tiên h, đó là do lòng trung thành ca Thiên Chúa. Còn các dân ngoi có được tôn vinh Thiên Chúa thì đó là do lòng thương xót ca Người, như có li chép: Vì thế gia muôn dân con ct li cm t, dâng điu hát cung đàn ca mng danh thánh Chúa (Rm 15:7-9).

Phục vụ là điều cao cả. Chính Chúa Giêsu đã phục vụ và khuyên chúng ta phải phục vụ lẫn nhau. Phục vụ không hẳn là phục dịch như tôi tớ, mà đơn giản chỉ là yêu thương nhau, thiện cảm phải chân thành thể hiện từ ánh mắt.

Trình thuật Mt 3:1-12 nói về “con người giao thời” có tên gọi là Gioan. Ông là người-nối-kết-Tân-Cựu-Ước, là người tiền phong đi trước “mở đường” cho Chúa Giêsu.

Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đã rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: “Anh em hãy sám hi, vì Nước Tri đã đến gn. Kinh Thánh cho biết rằng ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong hoang đa: Hãy dn sn con đường cho Đc Chúa, sa li cho thng đ Người đi. DỌN và SỬA là hai hành động cần thiết: DỌN là làm sạch, SỬA là làm cho ngay ngắn. Phải DỌN trước rồi mới SỬA, không thể làm ngược lại.

Ông Gioan là “dị nhân” thứ thiệt, “bụi đời” chính cống, sống rất giản dị: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, thực phẩm là châu chấu và mật ong rừng. Người giản dị là người có chiều sâu nội tâm, thần kinh vững mạnh. Tất nhiên ông cũng có đặc điểm khác người: thật thà và thẳng thắn. Và chỉ vì ông nói thật, nói thẳng, muốn bảo vệ công bình xã hội, bảo vệ luân thường đạo lý nên ông bị những kẻ mưu ác ghét bỏ, toa rập với nhau lấy thủ cấp của ông (x. Mt 14:3-11).

Nghe nói có “anh chàng bụi đời” tên là Gioan ăn nói lưu loát và có phong cách lạ lùng, từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, người ta kéo đến ùn ùn để xem “người cõi trên” thế nào. Có lẽ mới đầu họ chỉ tò mò theo bản tính hiếu kỳ mà thôi, nhưng càng nghe càng thấm. Thế là họ cùng nhau thú tội và xin ông Gioan làm phép rửa cho họ ở sông Gio-đan.

Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc đến chịu phép rửa, ông biết họ giả vờ để mưu mô chuyện khuất tất, nên ông nói thẳng với họ: “Nòi rn đc kia, ai đã ch cho các anh cách trn cơn thnh n ca Thiên Chúa sp giáng xung vy? Các anh hãy sinh hoa qu đ chng t lòng sám hi. Đng tưởng có th bo mình rng: Chúng ta đã có t ph Ápraham. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có th làm cho nhng hòn đá này tr nên con cháu ông Áp-ra-ham. Mèn ơi, nói “xóc óc” ghê đi! Nhưng không thể không nói thẳng với những người giả hình, bề ngoài hiền như chiên ngoan mà bề trong là con cọp dự gầm gừ.

Chắc là họ cũng “chạm tự ái” lắm, nhưng họ không biết nói gì để phản đối, và lại họ thấy ông Gioan “chửi” đúng quá trời mà! Thấy họ im như thóc thối, ông Gioan nói luôn một lèo: “Cái rìu đã đt sát gc cây: bt c cây nào không sinh qu tt đu b cht đi và quăng vào la. Tôi, tôi làm phép ra cho các anh trong nước đ gic lòng các anh sám hi. Còn Đng đến sau tôi thì quyn thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người s làm phép ra cho các anh trong Thánh Thn và la. Tay Người cm nia, Người s rê sch lúa trong sân: thóc my thì thu vào kho lm, còn thóc lép thì b vào la không h tt mà đt đi. Cách thanh lọc của Thiên Chúa rất kỹ lưỡng!

Những lời của ông Gioan nói với nhóm Pharisêu và Sađốc cũng là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta hôm nay. Có hồn thì tự liệu lấy. Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, thuốc đắng mới đã tật. Phúc cho ai cảm thấy “ngứa tai” và “đắng lòng” khi nghe những lời thật như vậy!

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết nhn ra Ngài qua các biến c ca cuc đi đ con kp chn chnh trong thi gian còn Gi Thương Xót ca Ngài. Xin giúp con dn sch và sa li đường đi con cho ngay ngn đ con được dim phúc đón Đng Emmanuel, Con Yêu Du Ngài, ng vào hôm nay và mãi mãi. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi và luôn vi chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THỜI HOANG DÃ

Lm Vũ Đình Tường

Những tuần sắp tới Kinh Thánh nhắc nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả vì thế chúng ta đi tìm hiểu về con người đặc biệt này.

Là người đặc biệt với sứ vụ đặc biệt. Sứ vụ đó nghe có vẻ đơn giản nhưng là nguyên nhân dẫn đến việc đầu Gioan lìa cổ. Một là do giằng co giữa hai thế lực giữa sự công chính và sự gian ác. Hai là do quyết định hồ đồ, quyết định lúc cao hứng của người lãnh đạo trong dân chúng. Ba là do con người quan trọng hóa danh tiếng, địa vị cá nhân hơn mạng sống người khác. Điểm này cho thấy việc quí sự sống cách hẹp hòi, ích kỉ dẫn đến tình trạng sự sống cá nhân mình, thân nhân mình thì trọng còn sự sống thiên hạ thì coi thường. Bắt người khác hi sinh để mình sống hạnh phúc đồng nghĩa tội sát nhân.

Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi thay đổi quan niệm sai lầm phò sự sống một cách hẹp hòi, ích kỉ. Sự sống con người quí trọng giống nhau, dù lớn hay nhỏ, dù khôn hay khờ sự sống của họ đều quí vì đều do Thiên Chúa ban cho. Trước khi xuất hiện trước công chúng, rao giảng về thống hối và kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, đừng ngủ mê nhưng tỉnh thức chuẩn bị tấm lòng đón mừng Chúa Cứu Thế, thánh Gioan Tẩy Giả sống một cuộc sống hoang dã thời xưa. Mình mặc áo lông lạc đà, đai lưng bằng da thú và sống nơi xa mạc. Nuôi thân bằng châu chấu và mật ong rừng nhưng ngài nuôi đời sống tâm linh bằng một tình yêu cao vời. Tình yêu cao vời đó thấm nhuần cuộc đời Gioan. Nhờ cha mẹ sống trung tín, thánh thiện của ông Zacaria và bà Elizabeth. Chính lối sống cao trọng đó thấm nhập vào tâm hồn con trẻ Gioan. Ông lớn lên trong một gia đình hết lòng yêu mến Thiên Chúa. Tình yêu chân chính uốn nắn tâm hồn Gioan biến ông thành người khiêm nhường.

Thánh Luca 3,16 thuật lại lời của Gioan

Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho người.

Ơn gọi làm nhân chứng cho Đức Kitô là kêu gọi mọi người thống hối, ăn năn, thay đổi cách sống theo xã hội để trở về với đường lối Chúa. Gioan không mang một chức vị nào trong xã hội thế nhưng lời kêu gọi của Gioan đánh động tâm não hàng nhiều ngàn người. Phúc âm thuật lại khắp mọi ngành nghề tìm đến hỏi Gioan về cách hoán cải tâm hồn. Gioan trở nên nổi tiếng giữa muôn người nhưng danh tiếng vang lừng không mê hoặc lòng ông, không rơi vào cạm bẫy của vinh quang giả tạo, không lạc vào mê hồn của phồn hoa. Gioan đứng vững, không lung lay trước cám dỗ, tán tụng, tung hô của đại chúng mong ông làm lãnh đạo họ. Ông biết rõ nhiệm vụ của mình là mở đường cho Chúa. Ông luôn vững vàng trong ơn gọi chứng nhân. Đời sống chứng nhân được an bài nơi Thiên Chúa. Kinh thánh thuật lại,

Cậu bé càng lớn thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel. Lc 1,80.

Kinh thánh không ghi chép về cuộc đời của phân phụ ông là Zacaria nhưng truyền thống thuật lại là ông bị hoàng đế Hêrôđê cha giết chết nên bà Elizabeth phải bồng con chạy trốn trong hoang địa, trở thành dân tị nạn chính tại quê hương mình.

Dù là dân tị nạn, dù bị bách hại, dù phải sống nơi hoang địa nhưng sứ mạng của Gioan là đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế vẫn được thực hiện một cách trọn hảo. Điều này cho thấy quyền hành, thế lực thế gian không đủ khả năng ngăn cản điều Thiên Chúa muốn thực hiện để cứu dân Người. Thiên Chúa có cách riêng của Ngài và cách đó thường vượt quá trí hiểu, vượt trên suy đoán, vượt qua mọi tính toán của cả ma quỉ lẫn con người. Lời Gioan rao giảng không mới lạ gì. Nếu có mới là cách rao giảng mới mẻ. Cái mới trong con người Gioan chính là ông rao giảng với tất cả tâm hồn và thực hiện điều mình rao giảng và cuối cùng là sẵn sàng đổ máu đào làm chứng điều ông tin và rao giảng. Chính lối sống chứng nhân nhiệt thành làm rung động bao tâm hồn, chuyển hoá bao con tim.

Nhiệm vụ của Gioan được tiên tri Isaiah 40,3 tiên báo trước đó bảy thế kỉ

Có tiếng hô trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chống gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.

Tiên tri Malachi cũng tiên đoán về ơn gọi của Gioan khi ông thông báo,

Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. 3,1

Sứ giả đây chính là Gioan và Ta chính là nói về Đấng Cứu Thế.

Về mục lục

.

ANH EM HÃY SÁM HỐI, VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN

Fx Đỗ Công Minh

        Mùa Vọng, mùa trông đợi lại trở về với nhân lọai chúng con. Tuần này đã là tuần thứ hai của mùa Vọng. Những âm thanh rộn rã của những bài Thánh Ca mùa Giáng Sinh đang vang lên trên mọi góc phố, quán xá, nơi mọi gia đình. Những cây Noel với đèn màu nhấp nháy đang xuất hiện ngày càng nhiều trên đường phố, siêu thị, nhà hàng, tiệm ăn. Không khí của những ngày mùa đông với chút se lạnh lúc đêm xuống hay về sáng tinh sương. Mọi người đang chuẩn bị đón chào một ngày lễ hội Quốc  tế :  lễ NOEL với hàng chữ MERRY CHRISTMAS and HAPPY NEWYEAR đi kèm. 

     Lạy Chúa, 

     Con cũng đang chuẩn bị cho ngày ấy, con dọn lại nhà cửa, sắp xếp cho Chúa một chỗ nhỏ trong căn phòng khách. Nơi đó sẽ có một cây thông nhỏ, có bộ tượng be bé xinh xinh, có những dây đèn điện, những quả cầu trang trí, những dây kim tuyến đủ màu. Nhìn vào là thấy một bầu khí ấm cúng của đêm Chúa ra đời, thay cho một đêm đông giá rét ngòai đồng vắng không người qua lại, chỉ có những chú mục đồng nghèo nàn trong các căn chòi tá túc hơn 2000 năm trước đây. Con dọn chỗ đón Chúa bằng những hình thức quả có trang trọng, đẹp đẽ trong căn nhà của con, với những thứ đẹp đẽ bên ngòai, như mọi người trên thế giới này. Như thế có đầy đủ ? 

         Bài tin mừng hôm nay Thánh Matthêu nhắc lại lời ngôn sứ I-sai-a khi nói về Thánh Gioan Tẩy giả  rằng : “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Lời Chúa cho con nhận ra rằng chuẩn bị cho ngày lễ bằng những hình thức bên ngòai không có gì sai, nhưng quả thật là chưa đủ. Chúa đến trần gian này để con người được chia sẻ hạnh phúc là  làm con Thiên Chúa, được hưởng niềm vui Chúa trao, đó là sự bình an. Con người không còn sống trong tội lỗi, không còn tranh chấp, khinh chê lẫn nhau, áp bức nhau, coi nhau là anh em con một Cha, sẵn sàng đến với nhau , giúp nhau cùng thăng tiến. Và để có được những điều ấy con phải mở lòng đón tiếp Chúa, dọn cho Chúa một con đường  “ Thẳng “ vào nhà linh hồn con. Con đường ấy không thể lồi lên những thói xấu, những ích kỷ. Không lõm xuống nhửng đam mê dục vọng. Những  núi đồi kiêu căng, tự mãn, coi rẻ người khác nơi con phải được bạt đi cho phẳng. Những khúc quanh dối trá, lươn lẹo của con phải được uốn nắn lại theo sự công chính và ngay thẳng . Con có dám làm những điều ấy?  Lời Chúa đang tra vấn con. 

        Lạy Chúa, 

        Nếu con vẫn sống như con đang sống hôm nay, và mỗi năm, mùa Vọng về, con vẫn dọn nhà cửa, trang trí trong ngòai căn nhà vật chất này thì nào đâu nhà con, tâm hồn con có chỗ cho Chúa ngự đến

         Xin cho con nhân những ngày này biết dọn lòng đón Chúa ngự vào linh hồn con, vào gia đình con như lời Chúa dạy, con biết thay đổi cách sống. Bây giờ con còn tội lỗi, vấp phạm  thì nhờ ơn Chúa, con sẽ đứng lên và đi đến với Chúa để xin ơn tha thứ. Xin Chúa giúp con. Chúa ơi!

Về mục lục

.

CHUNG MỘT LÝ TƯỞNG

Lm. Jos. DĐH.

Tuổi sung mãn mà tiền nhân chúng ta nói : 17 bẻ gẫy sừng trâu, câu thành ngữ có thể làm nản lòng nơi những ai không còn ở lứa tuổi mạnh mẽ đó nữa. Nét căn bản của tình nghĩa phu-thê được nhắc nhớ bởi đạo lý: thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn. Tinh thần kiên cường của truyền thống dân tộc anh hùng được thể hiện qua nét đẹp thật mạnh mẽ: giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Lý tưởng về sức mạnh cơ bắp, cá nhân, xem ra không được đề cao, người hôm nay lưu tâm đến sức mạnh của đồng minh, giải quyết tranh chấp bằng đối thoại, hòa bình…

Chúng ta không ai nhìn Gioan theo chiều kích chính trị, nhưng qua cách rao giảng, sống nhiệm nhặt của ông nơi hoang địa, lời kêu gọi sám hối khẩn thiết đến độ các biệt phái, văn sĩ,…cũng phải đến xin chịu phép rửa. Tiếng hô âm vang nơi hoang địa không chỉ đánh động tâm hồn một số người đang trông chờ ơn cứu độ, cả những người tội lỗi, bất xứng, ở thành thị, nông thôn đều tìm đến bày tỏ lòng thống hối. Gioan hôm xưa sống khắc khổ, chay tịnh, cầu nguyện, từ nơi rừng sâu, từ nội tâm, tư tưởng và hành động của ông đã trở thành “tiếng hô trong sa-mạc: hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.

Ngày hôm nay, xã hội vẫn chú trọng đến gương sáng của người đứng đầu, nên có câu: cha mẹ hiền để đức cho con ; cán bộ đi trước làng nước theo sau. Thực ra Gioan xuất hiện nơi hoang địa, ông vẫn tiếp tục truyền thống nên một với tiền nhân: chờ đợi ơn cứu độ, qua đó ông hô hoán mọi người cùng sám hối, chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến. Lý tưởng của Gioan cũng không xa vời gì, ông tự nguyện vào sa-mạc, chú tâm đến việc thực hành, cụ thể hóa cõi lòng cho xứng với tâm tình đón Chúa. Dọn đường, dọn tâm hồn, chính là sứ mạng, là tiếng hô, cùng đồng lòng sửa chữa cách sống, cùng giúp nhau hoán cải, trở về với tình yêu thương của Chúa.

Ý thức con người bất toàn, nên cần ra khỏi “thành thị” để vào sa-mạc cõi lòng, đó là bước đầu của từ bỏ, là tự giác đến với “thao trường” tập luyện, cầu nguyện, chờ đợi Chúa đến chỉ dạy sống ơn cứu độ. Tiếng hô của Gioan từ rừng sâu âm vang đến mọi đối tượng, tiếng kêu ấy lại thu hút, lay động nhiều tâm hồn sám hối cụ thể. Tất cả qui trình sa-mạc cõi lòng, được phát triển, mạnh mẽ hơn là nhờ hiệu ứng của đám đông cùng chung lý tưởng theo Chúa với Gioan. Tại nơi rừng sâu, Gioan “tự sự” với mọi người: “phần tôi, tôi chỉ lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi được lòng sám hối. Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa”.

Đến sa-mạc để xa tránh những tiếng ồn ào, đến với cõi lòng để biết mình còn nhiều thiếu sót, và rất cần sự bình an, niềm vui và tình yêu. Đúng như câu ca dao, nếu ta không có giây phút lắng đọng tâm hồn làm sao thấy được điều cần thiết: nhân tâm ai bán mà mua, ai cho mà lấy ai đưa mà mừng. Ở sa-mạc Gioan đã cho mọi người biết ông chính là tiếng hô, hô to, nói lớn, để không ai có thể khiếu nại vì chưa nghe rõ: “hãy làm việc lành cho xứng với việc sám hối, chớ tự phụ nghĩ rằng, tổ tiên chúng ta là Abraham. Vì ta bảo các ngươi, Thiên Chúa quyền năng có thể khiến hòn đá trở nên con cái Abraham”. Đến hoang địa không phải chỉ để xem nơi đó có gì lạ, sám hối không phải chỉ bằng môi miệng lý thuyết.

Theo quan niệm của Gioan, lý tưởng dọn đường, dọn lòng đón Chúa, không phải là con đường tự nhiên mà là làm sạch đẹp tâm hồn, cõi lòng mình. Sám hối không phải ngồi đó khóc lóc kêu gào vì lầm lạc, hư hỏng, chờ đợi Chúa đến đâu phải thụ động, tùy nghi Chúa bố thí, ban bổng lộc. Chung lý tưởng với Gioan là mọi đối tượng hãy cùng vào sa-mạc nơi cõi lòng mình, ai cũng cần phải canh tâm sám hối, hầu mỗi người sẽ trở nên tiếng hô dọn đường đón Chúa. Lời thúc giục của Gioan mạnh mẽ như đấng có quyền: “đây cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây, cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa”.

Cổ nhân có cho chúng ta kinh nghiệm: nhiều người nhận ra lời khuyên hay, song chỉ những ai khôn ngoan mới tận dụng được lời khuyên đó. Gioan xác định, ông không đáng cởi dây giày cho Đấng đến sau, ấy vậy lời chân thực, mạnh mẽ phát xuất từ nội tâm của ông sẽ không còn là lời khuyên, mà như ngôn sứ Isaia nói, Gioan chính là tiếng hô trong hoang địa. Tin vui cho mọi người mọi thời, đó là Thiên Chúa luôn sử dụng những con người cụ thể: ông bà cha mẹ, người thân để ‘Tiền Hô”, cùng giúp nhau sám hối, sửa đường đón nhận hồng ân cứu độ. Xin tình yêu Chúa thánh hóa, chúc lành, để chúng ta biết nghe tiếng hô của Gioan, sám hối, và cũng góp phần làm cho tiếng hô mạnh hơn nữa, đủ thức tỉnh tất cả anh chị em của chúng ta chuẩn bị gặp Chúa cách xứng đáng. Amen.

Về mục lục

.

MONG CHỜ CHÚA ĐẾN

Lm. Giacobe Tạ Chúc  

Bước vào Mùa Vọng, phụng vụ Lời Chúa xoay quanh các đề tài: tỉnh thức, chờ đợi Chúa đến, ăn năn sám hối tội tình…Niềm tin Ki-tô giáo dạy cho mỗi người biết, Chúa đã đến trong thế gian, lần thứ nhất: trong hang đá kiếp phận người. Lần đến thứ hai là trong ngày phán xét, ngày quang lâm. Khắc khoải chờ mong Ngài ngự đến đó là tâm trạng của những người con của Chúa. Như trẻ thơ mong đợi cha mẹ mình trở về sau mỗi ngày làm việc. Con người cũng vậy, luôn ngước mắt và cậy trông ơn Cứu độ từ trời cao ban xuống.

Như lời Thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng tại hoang địa miền Giu-đê-a rằng: “ Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,1). Trong những năm gần đây, người ta thi nhau đoán ngày tận thế, có nhiều người còn đưa ra cả những con số chính xác về ngày giờ tháng năm. Nhưng có lẻ chẳng ai biết được ngày giờ nào. Chỉ biết vào giờ nó không ngờ, thì con người sẽ đến, như kẻ trộm, như chiếc lưới phủ xuống bất thình lình. Vì vậy, chúng ta hãy sẵn sàng, hãy đèn dầu cháy sáng trong tay, như người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới trở về. 

Mong đợi Chúa không phải trong thái độ thụ động, khoanh tay đứng nhìn. Ngược lại, người tín hữu phải tích cực chung xây cuộc đời. Hãy bước vào miền Sa mạc, nơi linh thiêng và là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ kinh thánh, sa mạc là nơi trần trụi, nghèo hèn, và là chốn gặp gỡ Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả đã chọn sa mạc để rao giảng và làm phép rửa. Những người đến cùng Gioan đủ mọi thành phần: dân thành Giê-ru-sa-lem, dân miền ven sông Gio-đan. Thậm chí ngay cả những người chống đối Chúa, như nhóm Sa-đốc và Pha-ri-siêu. Gioan loan báo Nước trời đã gấn đến, mọi người hãy sám hối tội lỗi để thoát khỏi chốn lầm than. Chớ có ỷ lại, cậy mình là con cháu Ab-ra-ham mà tránh được cơn thịnh nộ đến từ Thiên Chúa. Chờ  đón Chúa đến làm cho con người tích cực hơn trong bổn phận hằng ngày của mình. Trái đất, ngôi nhà chung của nhân loại đang bị lở loét và xuống cấp một cách trầm trọng bởi những chiến tranh, lòng hận thù, sự phá hoại, lòng tham lam, ích kỷ của con người. Tội lội đã làm hoen ố hành tinh xanh của nhân loại. Những biến đổi về môi trường khí hậu, đã ảnh hưởng không nhỏ lên cuộc sống chung của mọi người. Nhân loại cần sám hối để đón nhận ơn tha thứ đế từ Thiên Chúa, bằng không: “ Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10). 

Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời. Ước mơ về một thế giới tốt đẹp, trong đó con người có Thiên Chúa là Cha và tất cả là anh em một nhà, như là một lực của  pít-tông đẩy chúng ta lên đường hăm hở đi đón Chúa. Bởi vì, Ngài là Đấng quyến năng, từ bi và nhân hậu. Mong chờ Ngài, nguồn ơn cứu độ sung mãn cho bất cứ ai tìm kiếm, tin tưởng và mến yêu.

Về mục lục

.

LÀM LÀNH LÁNH DỮ

Lm Trần Ngà

Có người nghĩ rằng: Cứ sống thoái mái với những thói hư tật xấu của mình… Cần gì phải ăn năn sám hối, cần chi phải cải thiện cuộc đời cho nhọc xác… Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, đến giờ phút cuối đời, Ngài sẽ thứ tha tất cả mọi lỗi phạm và cho hưởng phúc thiên đàng. 

Nói như thế là lầm to, vì Chúa Giê-su đã nhiều lần, nhiều cách cảnh báo rằng ai không sám hối, không cải thiện cuộc đời thì sẽ bị huỷ diệt. 

Sám hối hay cải thiện cuộc đời là điều kiện tối cần để được cứu độ. 

Chính vì thế, khi khởi đầu công cuộc rao giảng, sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giê-su gởi đến nhân loại là lời kêu gọi: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 4,17) 

Trước đó ít lâu, khi Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng, thì sứ điệp đầu tiên mà ngài gửi đến mọi người cũng là lời kêu gọi sám hối: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”  (Mt 3, 2). 

Sám hối là làm lành, lánh dữ 

Sám hối không phải chỉ là hối tiếc trong lòng vì những điều dữ đã làm, mà phải được thực hiện bằng hành động cụ thể. Sám hối đúng nghĩa là phải làm lành lánh dữ. Về điểm này, thánh Gioan tẩy giả dạy: 

“Các anh hãy sinh hoa quả (tức là làm việc lành) để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3, 8). 

Không làm lành, lánh dữ thì sẽ bị huỷ diệt 

Nhân sự kiện có một số người Ga-li-lê bị Phi-la-tô tàn sát cách man rợ, Chúa Giê-su lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Ga-li-lê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Ga-li-lê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, (tức là làm lành lánh dữ) thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13, 3). 

Và khi thấy có mười tám người bị tháp Si-lô-e đổ xuống đè chết thình lình, Chúa Giê-su cảnh báo: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13, 5). 

Qua bài Tin mừng được trích đọc hôm nay, thánh Gioan tẩy giả cảnh báo rằng: 

– Ai không làm lành, lánh dữ bị xem như một thứ cây xấu, sẽ bị chặt bỏ đi và bị ném vào lửa. Ngài nói: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10). 

Thánh Gioan cảnh báo tiếp: 

– Ai không làm lành, lánh dữ bị xem như lúa lép sẽ bị thiêu đốt trong lửa không hề tắt. Ngài nói: “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”  (Mt 3, 12). 

Chúa Giê-su cũng răn đe những ai không làm lành, lánh dữ bằng nhiều dụ ngôn khác. 

– Ai không làm lành, lánh dữ bị xem như một thứ cá xấu bị vứt ra ngoài. Ngài nói: “Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá.  Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 13, 47-50).

– Ai không làm lành, lánh dữ bị xem như cỏ lùng trong ruộng lúa, khi cuối mùa, sẽ bị đốt đi như lời Chúa nói:  “Cứ để cả lúa và cỏ lùng cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi” ( Mt 13, 30). 

– Ai không làm lành, lánh dữ sẽ bị xếp vào thành phần bị chúc dữ  và sẽ bị Chúa Giê-su lên án như được viết trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng”: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó…” Mt 25,41). 

Lạy Chúa Giê-su, 

Hậu quả của việc không sám hối thật là khủng khiếp. 

Xin giúp chúng con quyết tâm sám hối, làm lành lánh dữ, hầu có thể tránh thoát hậu quả khủng khiếp sau này và được hưởng phúc thiên đàng với Chúa muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA ĐANG ĐẾN

AM. Trần Bình An

Hoang mạc là vùng đất rất khô do có lượng giáng thủy thấp (chủ yếu là mưa, còn tuyết hay sương giá thì rất thấp), thường có ít lớp phủ thực vật. Các hoang mạc còn được mô tả là những khu vực mà nước bị mất theo phương thức bốc hơinhiều hơn so với mưa. Nhìn chung các hoang mạc có lượng mưa ít hơn 250 mm mỗi năm.  

Các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích bề mặt Trái Đất. Các hoang mạc nóng thường có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và theo mùa, với nhiệt độ ban ngày cao và ban đêm thấp. Ở các hoang mạc nóng, nhiệt độ ban ngày có thể lên đến 45 °C/318 F, hoặc cao hơn trong mùa hè, và xuống 0 °C/273 F, hoặc thấp hơn vào ban đêm trong mùa đông. Không khí các hoang mạc không có khả năng ngăn chặn ánh sáng mặt trời ban ngày (trời không mây) hoặc giữ nhiệt vào ban đêm. Do đó, vào ban ngày hầu hết nhiệt từ mặt trời sẽ tiếp cận đến mặt đất, và ngay sau khi mặt trời lặn, hoang mạc lạnh rất nhanh. (Wikipedia) 

Ông Gioan Tiền Hô đã không khôn ngoan chọn chốn thành thị đông đúc để tiện rao giảng, nhưng lại dại dột vào hoang địa, vốn gay gắt, khắc nghiệt, cả ngày lẫn đêm, lại chẳng khoác áo tu sĩ đúng quy cách, cũng chẳng dùng lương thực đủ dinh dưỡng, thế mà thiên hạ cứ ồ ạt kéo vào hoang địa nghe ông kêu gọi sám hối. 

Tịnh tâm 

Ngày nay, chỉ những du khách thừa tiền lắm của, mới có thể đi đến hoang địa, để thưởng ngoạn những cảnh vật thiên nhiên kỳ vỹ, cùng thụ hưởng đầy đủ tiện nghi, với chi phí ngất ngưởng cao. Có lẽ bây giờ ông Gioan Tiền Hô sẽ chẳng kêu gọi Kitô hữu đi vào hoang địa nữa, mà chỉ yêu cầu tìm những giây phút tĩnh lặng tại tư gia, hay chốn yên tĩnh nào đó, như giáo đường, tu viện, để tịnh tâm xét mình và cầu nguyện. 

Thoát ra khỏi xã hội xô bồ, ô nhiễm tiếng động, vấy bẩn bởi tiền bạc tanh tưởi, ngột ngạt tranh chức, giành quyền, bon chen hưởng lạc, sống mái danh lợi, thì con người mới có thể thư giãn, khỏi trầm cảm, mà thanh thoát, bình tĩnh nhìn lại bản thân, cùng dâng lời nguyện cầu.  

Nếu mỗi ngày chỉ dành ít nhất 15 phút trong 1.440 phút, để tịnh tâm, tự vấn đã làm gì tốt và xấu trong ngày, đã kết thêm bạn, giúp đỡ phục vụ ai, hay chỉ chuốc thêm oán thù, ganh ghét, dối gian, để ăn năn, sám hối và cầu nguyện, thì chắc hẳn mai rày sẽ khấm khá hơn, thăng tiến hơn. 

Sám hối

“Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng.” Nếu tử tế tịnh tâm, khách quan và khiêm nhu, thì có thể dễ dàng nhận ra mình đã tà tâm, tà ý, tiểu xảo, ma mãnh, ứng xử vụ lợi, vun quén cá nhân, hay đã bỏ mình, hy sinh, dấn thân phục vụ tha nhân. Tư tưởng, lời nói, hành động của mình liệu có cảm thông, chân thành, chính đáng, hữu ích, chia sẻ, giúp đỡ, yêu thương và thương xót tha nhân, hay hoàn toàn ngược lại. Vậy chần chừ chi nữa, mà không ăn năn, sám hối? 

Sám hối không dừng lại viêc thống thiết hối hận, xin chừa thói hư tật xấu, mà còn cải tiến, đổi mới, tân trang, lên đời sao cho xứng đáng là chiên ngoan của Mục Tử Nhân Lành. Người luôn đòi hỏi tấm lòng nhân ái chân tình, chứ đâu thích hình thức rềnh rang bề ngoài.“Ta muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ.” (Hs 6, 6 & Mt 12, 7) 

Ông Gioan Tiền Hô còn chỉ dạy chu đáo về tâm tình sám hối, chứ không chỉ kêu gọi dân chúng đến chịu phép rửa qua loa chiếu lệ cho xong. “Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối.” Như thế, sám hối cần có hành động cụ thể tốt lành tiếp theo, chứ không thể thú tội suông là đã hoàn tất. Với mình, cần chay tịnh, hãm mình, bỏ mình, không chiều theo tánh xác thịt. Với người, cần nhân ái, khoan dung, tha thứ, tận tuỵ phục vụ, vác thập giá mà theo Chúa.  

Đón Chúa 

Đức Giêsu đã đến rồi, vẫn còn mãi đang đến và sẽ đến. Người đã đến hơn hai nghìn năm tại Bêlem, vẫn đang ở với con người qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tha nhân chung quanh mỗi người. Người đang đến qua Mùa Vọng năm nay. Người còn sẽ đến vào thời mạt thế. “Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa.” Với ơn cứu độ, Người đến giải thoát con người khỏi kiếp vong nô, thánh hoá con người, đưa con người trở lại vị thế con Thiên Chúa, nếu con người sẵn sàng hoan hỷ chấp nhận.

Nhưng để xứng đáng đón rước Đấng Cứu Thế, mỗi người cần trở nên bé mọn, đơn sơ, nghèo khó, vâng phục, như chính Người đã làm gương sáng, trở nên hài nhi yếu đuối, bị truy sát giữa một xã hội thực dụng, bái vật, thậm chí từ khước Thiên Chúa. Chính Người đã tiết lộ rằng, những đối tượng đón nhận Chúa là những kẻ bé mọn.“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Lc 10, 21-24) 

Người còn nhiều lần tái khẳng định mục đích đến thế gian cứu độ những kẻ bé mọn lầm lạc, tội lỗi:“Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi.” (Mc 2, 17). Những người đạo đức giả hình, kiêu căng, tự phụ, mạo nhận là công chính, thì dĩ nhiên chẳng thể nào thật lòng muốn đón Chúa. 

Ông Gioan Tiền Hô, ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, tuy đã vào sống trong hoang mạc chay tịnh, đạm bạc, kham khổ, nghèo khó, thế mà ngài còn tự nhận rằng không đáng xách giày cho Đức Kitô, thì người Kitô hữu liệu còn hy vọng gì chăng? Rất hy vọng, vì Đức Giêsu vô cùng đại lượng, giầu lòng thương xót, đã mở rộng vòng tay mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”(Mt 11, 28-30) Vấn đề là có thành tâm ước nguyện đón rước Chúa hay không? 

“Người Công Giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng.” (Đường Hy Vọng, số 950) 

Trời cao hãy đổ mưa xuống. Và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội. Trời cao hãy đổ sương xuống. Và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời. Trong đêm u tối chúng con mong ngày mau tới. Như nai đang khát ước mong mau tìm thấy suối. Chúa ơi! Dừng con giận Chúa lại thôi. Chúa ơi! Đoàn con đã hối tội rồi…(sáng tác Duy Tân, Trời Cao) 

Kính xin mẹ Maria cầu bầu cho chúng con khiêm nhu, sốt sắng sám hối, đổi mới, hoan hỷ và hy vọng đón Chúa giáng sinh trong tâm hồn chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CANH TÂN VÀ SÁM HỐI

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.II/MV-A – Mt 3, 1-12) trình thuật: Sau thời gian chay tịnh 40 ngày trong hoang địa, “Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng”. Nói đến Thánh Gio-an Tẩy Giả, không thể quên Lời khẳng định của Đức Giê-su: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. Cho đến ông Gio-an, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến. Ai có tai thì nghe.” (Mt 11, 12-15). “Các môn đệ hỏi Đức Giê-su: “Vậy sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến trước?” Người đáp: “Ông Ê-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự. Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.” (Mt  17, 10-13). 

Điều đó cho thấy Thánh Gio-an Tẩy Giả là vị ngôn sứ nối Cựu Ước và Tân Ước. Ngài xuất hiện trước mọi người với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Gio-an là vị ngôn sứ đặc biệt, thánh nhân được đánh giá như một Ê-li-a mới. Ngay từ trong lòng mẹ, ngài đã được thánh hiến cho Thiên Chúa và được tràn đầy Chúa Thánh Thần, như lời sứ thần truyền tin cho ông Da-ca-ri-a (thân phụ của thánh Gio-an Tẩy Giả): “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” (Lc 1, 13-17). 

Tuy nhiên, vì đức tính khiêm nhường, thánh Gio-an Tẩy Giả đã khẳng định mình không phải là Đức Ki-tô, cũng không phải là ngôn sứ Ê-li-a (“Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai? ” Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô.” Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không”. Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người… Người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” – Ga 1, 19-28.33). 

Thánh Gio-an Tẩy Giả đã được Cựu Ước tiên báo là một nhân vật đi trước để dọn đường đón Đấng Cứu Thế. Ngài chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: “Có tiếng hô: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán.” (Is 40, 3-5). Ngài kêu gọi mọi người đến chịu phép rửa tỏ lòng ăn năn sám hối, nhưng khi thấy trong đám đông có những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc thì ngài lại nổi nóng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7). Tuy đối với nhóm người Xa-đốc và Pha-ri-sêu thì rất đáng để nhận những lời ấy, vì họ quả thực là những “con rắn độc”; nhưng ở câu nói này, Thánh Gio-an Tiền Hô lại nói là họ muốn “trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”. Vậy chẳng lẽ Thánh Gio-an đang dọn đường đón Đấng Thiên Sai đến để trút cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hay sao? 

Trước hết, thử tìm hiểu xem vì sao mà Thánh Gio-an lại nặng lời như vậy. Với đám đông thì khác hẳn, khi họ hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì đây?” thì ngài trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”, với những người thu thuế thì ngài bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”, còn với binh lính thì: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 10-14). Chỉ riêng có đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc, Thánh Gio-an quá rõ họ đến xin ngài làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của Thánh Gio-an chỉ là một thứ nghi thức hay phù phép để tránh sự trừng phạt của Thiên Chúa, không hơn không kém. Cái kiểu đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính! 

Không những tự coi mình là người công chính, đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc còn tự phụ về gốc gác của họ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Xét theo vỏ bọc, thì quả thực họ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng trong lòng họ đâu còn chút tinh thần nào của tổ phụ nữa! Vì thế, Thánh Gio-an mới nói thẳng: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.” Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.” (Mt 3, 9). Tổ phụ Áp-ra-ham đã tin tưởng vào Thiên Chúa và những việc Người làm, nhất là đã hiểu và đã vui mừng vì hy vong được thấy ngày Con Thiên Chúa giáng trần cứu độ nhân loại  (như chính Đức Giê-su đã khẳng định khi nhóm người này tự nhận là con của Áp-ra-ham: “Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.” – Ga 8, 56). Còn đám “con của Ap-ra-ham” thì nói Đức Giê-su là “người Sa-ma-ri bị quỷ ám”, rồi “lượm đá để ném Người” (Ga 8, 31-57). Thế đó! 

Chính vì hiểu rõ tâm địa đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc chỉ muốn “trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, nên Thánh Gio-an Tẩy Giả mới gọi họ là “nòi rắn độc”. Tuy nhiên, sau khi nổi nóng, Thánh nhân đã đi thẳng vào vấn đề: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”, và cảnh tỉnh đám “rắn độc” đó: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.” (Mt 3, 10). Nói với đám đông đến chịu phép rửa thì Thánh Gio-an đã rất ôn tồn; nhưng với đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc thì Thánh nhân đã “đi guốc ở trong lòng” (tục ngữ VN) họ rồi, nên ngài mới nổi nóng và thẳng thừng như vậy. Vấn đề đã sáng tỏ, tuy nhiên, vẫn còn đó vấn nạn: “Vậy chẳng lẽ Thánh Gio-an đang dọn đường đón Đấng Thiên Sai đến để trút cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hay sao?” Xin cùng suy niệm: 

Nhiều người thường nghĩ khi linh hồn lìa xác về trước Tòa Chúa và đặc biệt lúc sống lại sau hết, mọi người sẽ phải trình diện trước mặt Ðấng Chí Tôn để chịu phán xét. Đúng vậy, nhưng như thế không có nghĩa là Đấng Thiên Sai giáng thế lần đầu tiên chỉ để cứu độ, không phải để phán xét. Cả ngôn sứ I-sai-a và Thánh sử Gio-an đều không nghĩ như vậy. Theo các ngài, khi Ðấng Cứu Thế đến, dù là đến trong thế gian để làm công việc cứu chuộc, Người đã là Ðấng Thẩm Phán Chí Công rồi. Cụ già Si-mê-on chia sẻ quan niệm đó, khi ẵm kính Hài Nhi Giê-su đã cất tiếng loan báo: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống (bị hư đi) hay đứng lên (được cứu rỗi).” (Lc 2, 34). Và thật sự hễ Ðức Ki-tô đến nơi nào là ở chỗ đó có người tin theo và có người chống đối. Giáo lý Người truyền ra tức khắc làm cho nhiều người tin nhận (“đứng lên”), nhưng cũng không ít kẻ nhạo báng chê cười (“ngã xuống”). Chỉ với 12 Tông đồ tiên khởi, Người đã khiến 11 người trở thành “những kẻ lưới người như lưới cá”, nhưng vẫn còn một Giu-đa It-ca-ri-ốt trở thành tên phản phúc. Đến ngay trên đỉnh Núi Sọ, dưới đất thì những người lành (Đức Mẹ, thánh Gio-an…) chen vai với những kẻ dữ (treo Người trên thập tự giá cho đến chết); và trên thập giá, cũng có một tên trộm lộng ngôn, đang khi người trộm khác được vào nơi an nghỉ. 

Đức Giê-su đã từng khẳng định: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Ga 12, 47). Người đã nói như vậy mà cứ gọi Người là Đấng Xét Xử e có vẻ khiên cưỡng. Tuy nhiên, tiếp liền với lời dạy trên, thì Người lại tiếp: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.” (Ga 12, 48). Người không xét xử, nhưng chính Lời Người “sẽ xét xử”, mà Đức Giê-su Ki-tô là Ngôi Lời nhập thể, nên Người và Lời chỉ là một. Điều đó cho thấy chính Người là Ðấng Xét Xử. Để hiểu rõ hơn, thì phải trở về nguyên ủy vấn đề. Vì tình yêu, Thiên Chúa dựng nên loài người và ban cho loài người được tự do. Chính cái quyền được tự do ấy đã làm cho con người sa ngã, bị tội lỗi thống trị. Vậy thì phải nói con người đã tự kết án mình vì không tuân giữ giới răn của Thiên Chúa. Mặc dù vậy, Thiên Chúa vẫn thương xót và cứu vớt (câu chuyện “Lụt Hồng Thủy” và mầu nhiệm “Ngôi Lời Giáng Thế”). Vậy thì Đức Ki-tô không xét xử, nhưng con người đã tự kết án mình khi không tuân giữ Lời Người. 

Nói Đức Giê-su là Đấng Xét Xử chỉ là cách nói nhấn để cụ thể hóa vấn đề. Cũng như lời Thánh Gio-an Tẩy Giả: “Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3, 11-12). Thánh sử Gio-an cũng trình thuật lời Đức Giê-su: “Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho Người Con mọi quyền xét xử” (Ga 5, 22). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, Người chính là vị Thẩm Phán Tối Cao chí công vô tư. Duy có điều “Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo hèn trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.” (Is 11, 3-4). Nói “Lời Người nói là cây roi” thì có khác gì chính Ngôi Lời dạy “chính lời tôi đã nói sẽ xét xử”. Rõ ràng Người là Ðấng Xét Xử, nhưng là Ðấng Xét Xử đầy Thánh Linh, mà Thánh Linh là tình yêu, nên sự Phán Xét của Người không giống như “tư tưởng loài người” vẫn nghĩ. 

Cũng vì thế nên Thánh Gio-an Tẩy Giả mới kêu gọi người ta sám hối để được ơn tha tội. Ngay như với đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc, Thánh nhân cũng khuyên bảo “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”. Chỉ có “cây nào không sinh quả tốt” mới “bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10) mà thôi. Một cách cụ thể, vì Thiên Chúa Cha đã “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,16-17). Đức Ki-tô là hiện thân Tình Yêu của Chúa Cha gửi đến cho loài người một cách nhưng không. Còn loài người vì được tự do lựa chọn nên có thể đón nhận hoặc từ khước. Ai “sinh hoa quả tốt” thì được cứu độ, còn ai “không sinh hoa quả tốt” thì bị “chặt đi và quăng vào lửa” là điều tất nhiên. 

Tóm lại, vấn đề đặt ra cho người Ki-tô hữu là đừng bao giờ chờ “nước đến chân mới nhảy”, mà phải là sống trong một tư thế tỉnh thức và sẵn sàng đón Đấng Xét Xử. Hãy tự hỏi như những người đến chịu phép rửa tại sông Gio-đan đã hỏi Thánh Gio-an Tẩy Giả: “Chúng tôi phải làm gì?”, và kiên quyết thực hành theo đúng lời dạy của Thánh nhân. Cứ kể lời dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả cũng đơn giản thật: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”, đâu đã đến nỗi chỉ có một áo, hoặc chỉ có một chén cơm, mà phải nhường hết cho anh em, còn mình thì cởi trần, nhịn đói. Mà thậm chí, đến như kẻ thù đã đoạt áo ngoài thì cũng sẵn sàng nhường luôn áo trong cho nó (“Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” – Lc 6, 29), hoặc như bà goá sẵn sàng “rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Lc 21, 4). Ấy mới là biết dọn đường cho Chúa đến. Vâng, hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào lòng mình, lấp cho đầy những thung lũng tị hiềm, bạt cho thấp mọi núi đồi kiêu căng, uốn cho ngay khúc quanh co hiểm ác, san cho phẳng những lồi lõm bất minh; tắt một lời, hãy sửa lối đi tâm hồn cho ngay thẳng, công chính. Có như vậy mới xứng đáng theo chân thánh Gio-an Tiền Hô mà gióng lên “tiếng hô trong sa mạc”, tiếng hô trong hoang mạc cuộc đời. 

Nói và diễn cho hết ý thì dài dòng văn tự, nhưng rút gọn lại chỉ cần nhấn mạnh điều mà Thánh GH Gio-an Phao-lô II trong suốt triều đại của ngài, đã đề ra và kêu mời tín hữu thực hiện, đó là “canh tân và sám hối”. Để thực sự dọn dẹp con đường tâm linh cho ngay thẳng đón Cứu Chúa, thì cần phải đổi mới (canh tân) con người và ăn năn (sám hối) về những sai phạm thiếu sót của mình. ĐTC Phan-xi-cô cũng dạy: “Đức Chúa Giê-su Ki-tô có thể phá vỡ các mô hình nhàm chán mà chúng ta có ý giam hãm Người vào đó và Người làm chúng ta ngạc nhiên với óc sáng tạo thần linh không ngừng của Người.  Mỗi khi chúng ta tìm cách trở về nguồn để lấy lại sự tươi mát ban đầu của Tin Mừng, thì những con đường mới, những phương pháp sáng tạo, các hình thức diễn tả khác, những dấu chỉ hùng hồn nhất, những lời nói đầy ý nghĩa mới mẻ cho thế giới ngày nay được nảy sinh.  Thực ra, tất cả các hoạt động rao giảng Tin Mừng đích thực vẫn luôn luôn “mới mẻ.” (Tông huấn “Evangelii Gaudium – Niềm Vui của Tin Mừng” – số 11). 

Muốn đổi mới con người, cuộc đời của mình, cần phải đổi mới cả phương cách dọn dep, tẩy uế con đường tâm linh để dọn đường đón chờ Chúa đến. Nói khác hơn, muốn đổi mới, cần phải biết nhìn lại mình mà sám hối và đổi mới luôn cả tư duy và hành động sám hối. Sám hối không phải là ngoẹo đầu méo miệng, đấm ngực thật mạnh, day tay vào mắt cho đỏ lên và chảy nước mắt ra; sám hối cũng không phải là hô khẩu hiệu, kêu gọi người khác ăn năn khóc lóc; mà phải là toàn tâm toàn ý đối diện với con người thực của mình, bóc trần mình ra trước thánh nhan Chúa để cầu xin được thứ tha mọi lỗi lầm thiếu sót, đồng thời cầu nguyện cho mình có đủ dũng khí và kiên tâm như một Gio-an Tẩy Giả đã sám hối trong sa mạc, rồi làm phép rửa và kêu gọi mọi người sám hối để  ”dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3, 3). 

Sẽ có thật nhiều câu hỏi được đặt ra: “Anh có thực sự tin rằng Đấng Xét Xử đã đến, đang đến và sẽ đến với anh, với cả nhân loại không? Với những hiện tượng thiên nhiên và nhân sinh như hiện nay, anh có tin rằng Nước Chúa đã đến gần không? Anh có tin rằng “những sợi tóc trên đầu anh đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30), hay nói khác hơn, anh có tin rằng Chúa thấu suốt mọi điều tới tận chân tơ kẽ tóc con người của anh không? Nếu anh tin, thì đừng quanh co che giấu nữa, mà hãy ăn năn sám hối và đổi mới (“sám hối và canh tân”) cuộc đời của anh để chờ đón Chúa đến. Cụ thể nhất, nếu anh thực lòng tin, thì đừng chần chờ nữa, mà hãy hành động, bởi “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17)”. Vâng, hãy tỉnh thức và sẵn sàng hành động dọn đường chờ đón Chúa quang lâm. Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

THAY ĐỔI BẢN THÂN, THẾ GIỚI SẼ THAY ĐỔI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Sau những cuộc tranh luận gắt gao không phân thắng bại, cuối cùng, người dân Hoa Kỳ cũng đã chọn cho mình một tổng thống. Những ngày vừa qua, nhiều chuyên gia bình luận đưa ra lý do khiến bà Hilary thất bại, họ cho rằng: Người Mỹ đang mong muốn có một sự thay đổi sâu xa từ trong nước. Họ kỳ vọng ông Trump như một con người dám nói, dám làm và dám thay đổi, từ chính sách đối nội phát triển quốc gia, đến các chính sách quốc phòng và các quan hệ quốc tế. Sự thay đổi đầu tiên nhiều người cảm nhận nơi ông Trump, đó là tinh thần dân tộc, sự canh tân quốc gia, thay đổi các chính sách đối ngoại và kinh tế để có lợi cho nước Mỹ.
Vào những năm tháng cuối cùng trước Công nguyên, tại Israel, dân chúng cũng đang mang một tâm trạng chờ đợi sự thay đổi giống như nước Mỹ hôm nay. Họ đã chán ngán ách thống trị của người Roma, họ mệt mỏi với các lời giáo huấn nhàm chán của các thầy tư tế và luật sĩ trong dân. Thời điểm này, lời tiên báo về một Đấng Cứu thế đã là động lực thúc đẩy dân chúng sống và chờ đợi những dấu hiệu báo trước về thời kỳ thay đổi này. Trong bối cảnh ấy, sự xuất hiện của Gioan Tiền hô đã tạo được sự chú ý của nhiều người. Dân chúng thấy nơi Gioan là một con người khác thường, từ trong cách sống đến những lời rao giảng. Cách sống của ông hết sức giản dị: ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Cuộc sống của ông đi ngược hoàn toàn với trào lưu xã hội hưởng thụ lúc đó. Lời giảng của Gioan thật rõ ràng, đanh thép: Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.
Sứ điệp của Gioan rõ ràng và cụ thể, ông kêu gọi mọi người chuẩn bị đón nhận Nước Trời, là một tương lai mới, một thế giới mới, cần phải bắt đầu từ sự sám hối. Sám hối theo lời mời gọi của Gioan, không chỉ là lời lẽ trên môi, nhưng phải là một sự thay đổi sâu xa từ trong tâm hồn, trong suy nghĩ dẫn đến thay đổi nếp sống, hành động. Khi mỗi người chấp nhận thay đổi suy nghĩ, thay đổi bản thân, thì cuộc sống xã hội và cả thế giới này sẽ thay đổi. Như thế, sám hối không phải là việc của ông này bà nọ, mà là của chính tôi dám chấp nhận thay đổi hay không. Gioan kêu gọi mọi người sám hối, từ bỏ những lối sống chạy theo tiền bạc, danh vọng, thì chính ông đã chấp nhận từ bỏ để lui vào sống trong hoang địa, sống một cuộc sống đơn sơ nhiệm nhặt, làm chủ bản thân. Ông đã để cho Chúa thanh luyện, biến đổi, trở nên như cây tre trống rỗng, để cho làn hơi của Thiên Chúa thổi vào và làm vang lên những giai điệu du dương. Vì thế, ông chỉ nhận mình như là một tiếng kêu, tiếng vang trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
Lời kêu gọi của Gioan đã chạm đến tâm hồn nhiều người, họ lũ lượt kéo đến với ông, cúi đầu lãnh nhận phép rửa để bày tỏ lòng sám hối. Theo Gioan, sám hối phải là việc phát xuất từ trong tâm hồn mỗi người, được thúc đẩy bởi lòng yêu mến Thiên Chúa và quyết tâm muốn nối lại mối dây thân tình với Ngài, chứ không phải là cảm tính bên ngoài hoặc a dua theo đám đông. Những người Pharisêu và những người thuộc nhóm Sađốc đến với Gioan xin chịu phép rửa, không phải vì được thúc đẩy sám hối cá nhân, nhưng là vì đi theo đám đông như một phong trào. Vì thế, Gioan đã thẳng thắn nói với họ: Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa? Gioan đã hướng nhưng người này trở về với sự thay đổi bản thân, cá nhân mỗi người, bằng cách: Hãy làm trổ sinh hoa quả tốt lành để chứng tỏ lòng sám hối.
Như thế, Gioan cho thấy, việc sám hối, chuẩn bị tâm hồn đón chờ Nước Trời mà Đấng Cứu thế mang lại không chỉ là khóc than về quá khứ, nhưng là phải tích cực trổ sinh hoa trái trong hiện tại. Những hoa trái này phải tương xứng với tâm tình sám hối. Sám hối giả tạo, hình thức bên ngoài hoặc a dua theo đám đông, không thể sinh hoa trái; nếu chỉ sám hối cách hời hợt, thì hóa trái từ sự sám hối này cũng chỉ là những hoa héo, trái chua. Hơn nữa, việc gia nhập vào thời đại của Đấng Cứu thế và vương quốc của Ngài, phải là sự mở lòng đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa, cùng với sự nỗ lực hết mình của bản thân. Việc gia nhập vào Nước Trời không thể cậy dựa vào tiền bạc hoặc thế giá gia đình như kiểu xã hội hôm nay, vì vậy, đừng từ hào tự mãn mình là con cháu tổ phụ Apbraham.
Gioan thực sự đã gây sốc cho nhiều người, ông quả quyết mạnh mẽ: Cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Điều đó có nghĩa là, đòi hỏi của Nước Trời là một đòi hỏi quyết liệt, không nửa vời. Đấng Cứu thế sẽ đến, chính Ngài sẽ cầm nia mà sảy sân lúa của Ngài. Những hạt lép hạt xấu sẽ bị loại trừ và bị thiêu đốt.  Tiên tri Isaia đã mô tả sự thánh thiện của Đấng Cứu thế: Ngài đầy tràn Thần Khí, là Đấng công minh chính trực và là Thẩm phán chí công. Ngài sẽ xét xử muôn dân muôn nước theo lẽ công bình. Ngài không xét đoán theo hình thức bên ngoài, cũng không theo những lời đồn đoán, nhưng xét xử mỗi người theo hành vi đời sống của họ.
Chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta được mời gọi bước vào một cuộc sám hối, canh tân đời sống và bản thân. Chúng ta không chỉ mừng lễ bằng những trang trí bên ngoài, cũng không chỉ là những bữa tiệc hoặc những cuộc vui, hoặc đi bão thâu đêm, nhưng phải là một sự thay đổi từ bên trong của mỗi người. Chúng ta phải mạnh dạn làm mới lại tương quan của chúng ta với Chúa qua việc lãnh nhận bí tích Giao hòa, tham dự thánh lễ chu đáo, uốn nắn lại những chỗ quanh co gập ghềnh trong cách sống với Chúa và với anh chị em. Những hố sâu là tội lỗi, hận thù đang cản trở chúng ta đến gần Chúa và đến gần anh chị em, cần được lấp đầy bởi tình yêu thương và sự tha thứ. Tích cực hơn nữa, mỗi chúng ta phải sinh hoa trái tốt lành bằng những việc làm bác ái yêu thương cụ thể đối với anh em.
Đấng Cứu thế đã đến cách đây hơn hai ngàn năm, tuy nhiên, Ngài vẫn chưa bước vào được trong tâm hồn và trong gia đình ta, bởi vì nhiều người đã không sẵn sàng mời đón Người vào; nhiều tâm hồn vẫn trống rỗng, buồn chán; nhiều gia đình thiếu vằng tình yêu, thiếu niềm vui và tiếng cười. Lời mời gọi sám hối và gương sống của Gioan hôm nay là lời mời gọi cách riêng cho mỗi người và mỗi gia đình. Chúng ta không thể biến đổi thế giới, biến đổi xã hội này, nếu chúng ta không chấp nhận thay đổi thói quen cũ, cách suy nghĩ và cách sống thụ động của mình. Cũng vậy, chúng ta không thể canh tân biến đổi gia đình nếu mỗi thành viên không tự sám hối, không tự biến đổi. Chúng ta không thể đòi vợ, chồng, con cái ta thay đổi mà chính mình không cố gắng thay đổi, làm mới bản thân. Khi không chấp nhận thay đổi bản thân, tức là ta chưa nhận ra sai lỗi và trách nhiệm của mình, ta tự cho mình quyền xét đoán vợ, chồng, con cái, vì thế, bản thân ta không thay đổi.
Nhiều bạn trẻ đang lên cho mình những kế hoạch mùa lễ Giáng sinh, họ đưa ra nhiều chương trình bên ngoài, đáp ứng cho những cuộc vui, nhưng không quan tâm tìm kiếm niềm vui và sự bình an đích thực của Chúa trong tâm hồn. Cuộc sống không có Chúa là một cuộc sống trống rỗng buồn chán; các tụ điểm vui chơi, các kế hoạch du lịch không thể lấp đầy tình trạng trống rỗng và buồn chán đó. Hãy trở về với điều cốt lõi của mùa Vọng và Giáng sinh, đó là dám mở lòng để cho Chúa đến trong tâm hồn; hãy sống tâm tình mùa Vọng bằng những khao khát và thực hiện nhiều việc tốt đẹp, đó là những hoa trái yêu thương bác ái, hiền hòa các bạn làm cho người khác.
 Các bạn đừng chờ đợi ngày mai cuộc sống sẽ tốt hơn, nhưng hãy bắt đầu ngay từ hôm nay, hãy thay đổi cuộc sống, thói quen của mình. Hãy đứng dậy khỏi chiếc màn hình, tạm cất chiếc điện thoại để bước đến với nhau, tiếp xúc và nói chuyện với nhau một cách thân tình hơn, cụ thể hơn, và dành cho nhau nhiều thời giờ hơn, để cùng nhau làm những việc có ích cho mọi người. Đó là cách sống mùa Vọng và đón mừng Chúa Giáng sinh có ý nghĩa nhất.
Xin Chúa thêm sức để mỗi chúng ta có một quyết tâm thay đổi bản thân trong mùa Vọng này. Amen.

Về mục lục

.

SÁM HỐI ĐỂ DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA ĐẾN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 3,1-12

(1) Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: (2) “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. (3) Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. (4) Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. (5) Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. (6) Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. (7) Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? (8) Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. (9) Và đừng tưởng có thể nghĩ bụng rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham”. Vì tôi nói cho các anh hay: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. (10) Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (11) Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. (12) Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân. Thóc mẩy thì cho vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”.

  1. Ý CHÍNH:

Tin Mừng hôm nay tường thuật sứ vụ tiền sứ của Gio-an Tẩy Giả. Ông chính là “Tiếng hô trong hoang địa kêu gọi người ta dọn đường đón Đấng Thiên Sai”. Ông đã thi hành sứ vụ bằng một lối sống khổ hạnh, nên được dân chúng tín nhiệm và lũ lượt kéo đến nghe giảng, thú tội và chịu phép rửa tại sông Gio-đan. Ông cũng nặng lời quở trách những kẻ đạo đức giả và loan báo Tin mừng về Đấng Thiên Sai sắp đến.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 1-3: + Ông Gio-an Tẩy Giả: Là con trai của tư tế Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Gio-an là tên mà sứ thần đã đặt cho ông khi hiện ra với cha của ông trong Đền Thờ (x. Lc 1,13). Gio-an là anh họ Đức Giê-su và lớn hơn Người sáu tháng tuổi (x. Lc 1,36). Ông được đặc ân khỏi tội tổ tông truyền khi nhảy mừng khi nghe lời chào của Đức Ma-ri-a đem theo thai nhi Giê-su đến viếng thăm (x. Lc 1,44). Ngay từ nhỏ Gio-an đã ẩn mình trong hoang địa. Trước khi Đức Giê-su ra giảng đạo, ông đã đến rao giảng tại vùng sông Gio-đan và làm phép rửa cho những ai thành tâm sám hối để dọn lòng đón Đấng Mê-si-a hay Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Lc 3,3-6). Cuối cùng ông đã bị vua Hê-rô-đê giết chết vì đã dám đứng ra can ngăn nhà vua lấy bà chị dâu làm vợ (x. Mt 14,3-12). + Đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: Đây là vùng đồi núi khô cằn phía Nam thành Giê-ri-khô, cách Biển Chết 6 cây số. + Anh em hãy sám hối: Sám hối (Mê-ta-noi-a) nghĩa là: nghĩ lại, thay đổi ý kiến, hoán cải, thay đổi hoàn toàn con người, từ nội tâm đến cách sống quay về với Thiên Chúa. +Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời hay Nước Thiên Chúa (trong các Tin Mừng khác). Đây là kiểu nói tránh nêu thánh danh Thiên Chúa. Người Do thái thời Đức Giê-su cũng mong Đấng Mê-si-a đến thiết lập một Nước Trời mang tính thế tục. Ở đây Gio-an kêu gọi dân chúng sám hối để chuẩn bị gia nhập Nước Trời thiêng liêng do Đấng Mê-si-a sắp thiết lập. + Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới…: Ngôn sứ I-sai-a sống vào thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên. Ngôn sứ này đã tuyên sấm về thân thế, nơi sinh và triều đại của Đấng Thiên Sai. Lời tuyên sấm của I-sai-a (40,3-5), gợi lại cuộc giải phóng và hồi hương của người Do thái từ xứ Ba-by-lon. Lời này được một Ngôn sứ vô danh loan báo sắp xảy ra như một cuộc Xuất Hành thứ hai của dân Do thái. Lời tuyên sấm ấy được ứng nghiệm nơi Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su.

– C 4-6: + Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà: Cách ăn mặc của Gio-an giống như ngôn sứ Ê-li-a (x. 2V 1,8). Ông có sứ mệnh tiên báo về “Ngày của Thiên Chúa” sắp đến (x. Mt 3,1-23). + Ông làm phép rửa cho họ: Thời bấy giờ, người Do thái đã quen với các nghi thức tự mình thanh tẩy theo tục lệ và Lề luật. Ở đây Gio-an cử hành nghi thức thanh tẩy bằng nước cho những ai đến nghe giảng để bày tỏ lòng sám hối và chuẩn bị tâm hồn đón chờ Đấng Mê-si-a sắp đến. Phép rửa của Gio-an chỉ là một nghi lễ biểu lộ lòng sám hối, chứ không tha tội như bí tích Rửa tội do Đức Giê-su thiết lập sau này.

– C 7-9: + Phái Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là một nhóm người có khuynh hướng duy linh, ái quốc quá khích, nhiệt tình với Luật Mô-sê và tuân giữ nhiều luật truyền khẩu. Về đời sống luân lý và đạo đức, họ thường chú trọng hình thức bên ngoài. Về mặt chính trị, họ là những kẻ thù của đế quốc Rô-ma, nên được dân chúng dành cho nhiều thiện cảm. + Phái Xa-đốc: Xa-đốc hay Văn nhân là nhóm người xu thời và phóng khoáng, không nhìn nhận truyền thống mà chỉ tuân giữ Lề luật. Họ theo khuynh hướng duy vật, thích văn hóa Hy-lạp. Họ giữ địa vị cao trong hàng hàng giáo phẩm và thường là người giàu có, nên dù chỉ là thiểu số nhưng họ rất có thế lực. Họ ủng hộ chính quyền Rô-ma, nên bị dân chúng không ưa. + Nòi rắn độc kia: Trong Kinh Thánh, con rắn đồng hóa với sự xảo trá lọc lừa (x St 3,1). + Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống: Theo các Ngôn sứ, cuộc chung thẩm và báo oán sẽ xảy ra khi thời đại của Đấng Mê-si-a bắt đầu. Lúc đó, mọi kẻ tội lỗi đều bị loại khỏi Nước của Đấng Mê-si-a (x. Is 30,27-33). Ông Gio-an tiên báo vị thẩm phán thời cánh chung sẽ đến trong uy quyền, đang khi Đức Giê-su lại xuất hiện như một người tôi tớ hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 12,18-21). + Sinh hoa quả xứng với lòng sám hối: Việc ăn năn sám hối trong lòng phải được chứng minh bằng những việc làm bác ái cụ thể. + Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham: Áp-ra-ham sống vào thế kỷ 20 trước Công Nguyên. Ông là tổ tiên của người Do thái và tên ông nghĩa là “Cha của những kẻ tin vào Đức Chúa”. Người Do thái cho rằng chỉ cần là con cháu của Áp-ra-ham là đương nhiên được cứu độ như lời Đức Chúa đã hứa (x. Lc 1,55). Nhưng họ đã lầm, vì để được cứu độ người ta còn phải tuân phục thánh Ý Thiên Chúa nữa (x. Mt 8,11). + Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham: Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ tùy theo người ta có lòng ăn năn sám hối hay không.

– C 10-12: + Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Trong Cựu Ước, cây là hình ảnh ám chỉ các dân tộc (x. Is 6,13). Cái rìu để sẵn gốc cây nhằm diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa dành cho dân Do thái đã sắp xảy đến. + Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước…: Gio-an đã so sánh để cho thấy sự khác biệt giữa mình với Đấng Thiên Sai như sau: Một là ông chỉ làm phép rửa bằng nước sông để khơi dậy nơi người chịu phép tâm tình sám hối, còn Đấng Thiên Sai sẽ thanh tẩy người ta nhờ ơn của Chúa Thánh Thần và lửa tin yêu. Hai là ông chỉ là người có thân phận thấp kém đang khi Đấng Thiên Sai lại có thân phận cao quý. Ba là ông chẳng có quyền hành gì, đang khi Đấng Thiên Sai lại có quyền xét xử thưởng người lành và phạt kẻ dữ. + Tay Người cầm nia…: Các Ngôn sứ Cựu Ước thường diễn tả ngày tận thế bằng hình ảnh của một người đang sàng sảy sân lúa của mình (x. Is 9,2). Ở đây vai trò của Đấng Thiên Sai được diễn tả giống như ông chủ ruộng trong dụ ngôn Nước Trời về cỏ lùng (x. Mt 13,30).

  1. CÂU HỎI:

1) Gio-an Tẩy Giả là ai ? 2) Sứ mạng của ông là gì ? 3) Phái Pha-ri-sêu khác với phái Xa-đốc ở những điểm nào ? 4) Áp-ra-ham là ai ? Điều kiện để được ơn cứu độ là gi ? 5) Gio-an so sánh sự khác biệt giữa ông với Đấng Thiên Sai về phép rửa, thân thế và quyền năng thế nào ?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT SÁM HỐI:

Ông KHẤU CHUẨN thuở nhỏ tính tình du đãng, không biết giữ lề thói phép tắc, lại lười biếng tối ngày chỉ biết chơi chim chơi chó không chịu học hành. Bà mẹ vốn nghiêm khắc thấy con như thế thì thường la mắng quở phạt, nhưng cậu bé vẫn chứng nào tật đó không chịu chừa cải. Một hôm, cậu trốn học đi chơi và bị thầy giáo mời bà mẹ đến trường làm việc. Khi về nhà bà rất giận dữ, nên khi cậu vừa về đến nhà đã bị mẹ cầm quả cân đang sử dụng ném trúng chân làm cậu bị thương, máu chảy đầm đìa. Từ bấy giờ cậu mới biết sợ không dám tiếp tục chơi bời lêu lổng, mà chuyên lo công việc đèn sách.

Về sau Khấu Chuẩn thi đỗ làm quan và thăng tiến nhanh lên đến chức tể tướng triều đình. Khi ông đạt được vinh hoa thì mẹ ông đã qua đời. Mỗi khi ông nhìn thấy vết thương ở chân do quả cân gây ra, thì ông lại nức nở khóc mà nói với mọi người rằng: “Ta phải cám ơn mẹ ta, vì thương ta mà ra tay đánh phạt ta gây ra vết thương này. Nhưng cũng chính nhờ nó mà ta được nên người thành đạt như ngày hôm nay”.

2) LÒNG SÁM HỐI CÓ SỨC HÓA GIẢI HẬN THÙ:

GIĂNG-KAI (Zenkai) là một thanh niên Nhật bản khỏe mạnh, là con trai của một gia đình Công giáo. Anh đến thành phố Ê-đô lập nghiệp. Anh được nhận làm cận vệ cho một quan chức cao cấp của thành phố này. Giăng-kai đem lòng yêu cô vợ trẻ của ông chủ và “cây kim lâu ngày cũng lộ ra”, một hôm ông chủ đã bắt gặp hai người phạm tội thông dâm với nhau. Đang lúc nóng giận, ông đã thách đấu kiếm với Giăng-kai. Trong cuộc đọ sức, Giăng-kai khỏe và tài giỏi hơn nên đã đâm ông chủ một nhát trúng ngực và ít ngày sau thì ông qua đời, để lại một đứa con trai mới được 7 tuổi. Giăng-kai đem bà vợ ông chủ đi chạy trốn. Hai người đến một vùng đồi núi hẻo lánh và phải sống những ngày nghèo khổ đói khát, nhiều khi phải đi trộm lương thực của dân địa phương ăn cho đỡ đói. Nhưng khi sống gần nhau, Giăng-kai mới phát hiện ra người phụ nữ trẻ đẹp kia chỉ là một mụ đàn bà lăng loàn trắc nết. Nhiều lần chị ta đã nặng lời mắng chửi Giăng-kai và sau cùng đã bỏ rơi anh để theo làm hầu thiếp cho một người giàu có và thế lực trong vùng. Anh cảm thấy buồn bã không thiết đến ăn uống. Càng suy nghĩ anh lại càng thấm thía cho tình đời đen bạc. Rồi anh quyết tâm sám hối bằng việc dành trọn quãng đời còn lại để làm một công việc gì hữu ích để chuộc lại phần nào tội lỗi của mình.

Một hôm thấy trên sườn núi gần nơi đó có một đường đèo lởm chởm và trơn trượt rất nguy hiểm cho người qua lại. Nhiều người đã bị té xuống vực sâu chết thảm khi phải đi qua đoạn đường nguy hiểm này. Anh quyết định sẽ đào một đường hầm xuyên qua núi để giúp người ta tránh khỏi các tai nạn rủi ro tương tự. Ban ngày anh vào làng làm thuê kiếm sống. Đêm đến anh đốt đèn và miệt mài đào hầm xuyên qua vách núi. Mười ba năm sau, khi Giăng-kai được 40 tuổi, thì con đường hầm đã gần hoàn tất. Ước tính chỉ hai năm nữa là anh sẽ hòan thành con đường hầm. Ngày nọ, đứa con trai của ông chủ cũ giờ đã thành một trang thanh niên 20 tuổi khỏe mạnh tìm đến gặp Giăng-kai và đòi thách đấu để trả thù cho cha. Giăng-kai đồng ý nhưng yêu cầu hoãn lại 2 năm để có thời giờ hoàn thành tâm nguyện và được anh kia đồng ý. Rồi khi thấy Giăng-kai hằng ngày phải làm việc quá vất vả, anh ta đã tình nguyện giúp một tay cho công việc chóng xong hầu sớm trả thù cho cha. Nhưng trong thời gian làm việc chung, chàng thanh niên khâm phục trước dũng khí và sự chuyên cần của kẻ thù. Cuối cùng thì công việc đào hầm cũng xong và dân chúng hai bên đã có thể qua lại dễ dàng. Bấy giờ Giăng-kai nói với chàng thanh niên: “Tâm nguyện của ta đã hoàn tất. Vậy anh hãy lấy đầu của ta để báo thù cho cha anh”. Nhưng chàng thanh niên kia đã nghẹn ngào xúc động nói: “Bây giờ làm sao con có thể giết chết thầy được, khi mà thầy đã thật lòng sám hối và đã làm được một việc lớn lao như thế kia để đền tội?”.

Chính tinh thần sám hối và sự quyết tâm làm việc thiện của Giăng-kai đã có sức mạnh cảm hóa và biến một kẻ vốn là kẻ thù trở thành bạn hữu của mình. Một con người mang tâm trạng thù hận mà còn mủi lòng trước sự thành tâm sám hối như vậy, phương chi Thiên Chúa lại chẳng đoái thương tha thứ và ban ơn cứu độ cho những tội nhân thật lòng sám hối hay sao?

3) HAI ẨN TU BẤT ĐẮC DĨ:

Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy: Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách chọn con đường ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để qua hết cuôc đời trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả và khỏi bận tâm, về những “sự thế gian”, cả hai quyết định sống cô độc: hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng…

Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như hai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu. Thời gian sau đó, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên, đổi họ, lần mò trốn lên núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai đã chọn nơi đây làm chốn dừng chân để sám hối làm lại cuộc đời. Thế là cả hai dọn sạch hang cũ và bắt đầu cuộc sống mới của những người “ẩn tu bất đắc dĩ.” Chỉ khác với hai thầy dòng trước một điều là cả hai quyết định làm một con đường nối liền hai hang để thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã mọc đầy hoa, xung quanh hang động cảnh trí phô đầy sức sống và vẻ đẹp. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng khiến nhiều người cất công lên núi để xin “Hai Thầy” cầu nguyện và hưóng dẫn đạo đức. Từ đó, phát xuất từ hai cái hang đó, đã có nhiều lối đi, nhiều con đường dẫn đến các khu dân cư, và trên các lối đi đó cũng mọc đầy cỏ hoa tươi thắm… Và rồi, hai “thầy tướng cướp ẩn tu” đó qua đời. Vì đời sống thánh thiện và vì có những phép lạ xảy ra cho một số người lên núi cầu xin, nên dân chúng vùng đó “tự động” phong thánh cho hai “thầy cướp ẩn tu” nầy…

4) SÁM HỐI LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ:

 Trong khi thực hiện bức hoạ nổi tiếng “Bữa tiệc ly”, Leonard de Vinci đã cãi lộn với một người bạn. Trong lúc nóng giận ông đã nhiếc mắng bạn bằng những lời gay gắt kèm theo những cử chỉ doạ nạt. Khi cuộc cãi vã qua đi, Leonard quay trở lại với công việc đang làm là tiếp tục vẽ khuôn mặt từ bi của Chúa Giêsu. Nhưng dù cố gắng hết sức ông vẫn không thể vẽ thêm được nét cọ nào. Cuối cùng khi khám phá ra nguyên nhân khiến công việc bị ngưng trệ là do trong lòng cảm thấy bất an, họa sĩ liền bỏ giá vẽ, đi tìm người bạn mới bị ông xúc phạm xin tha thứ. Sau đó ông đã bình tĩnh trở lại và đã hoàn tất được bức họa “Bữa Tiệc Ly” nổi tiếng.

  1. SUY NIỆM:

1) HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI:

Chúa nhật thứ II mùa vọng hôm nay, Hội Thánh kêu gọi các tín hữu hãy ăn năn trở về với Thiên Chúa để chuẩn bị đón Chúa sắp đến.

Trong tiếng Hy Lạp chữ mê-ta-noi-a (sám hối) vừa diễn tả sự hối tiếc về những lỗi lầm đã phạm đến Thiên Chúa để xin ơn tha thứ, vừa đòi hỏi sự thay đổi sâu xa trong tâm trí và trong cuộc sống: thay đổi từ cách suy nghĩ, nói năng, đến thái độ ứng xử và hành động công minh chính trực. Hôm nay, Hội Thánh giới thiệu cho các tín hữu chúng ta về sự sám hối qua khuôn mặt của Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước. Gio-an được sinh ra cách lạ lùng, lớn lên trong sa mạc với lối sống khổ hạnh như ngôn sứ Ê-li-a xưa: mặc áo bằng da thú vật, ăn châu chấu với mật ong rừng, uống nước lã… Ông ăn ở khổ hạnh để chờ đến ngày sẽ ra giảng đạo, thi hành sứ vụ tiền hô, đi trước mở đường cho mọi người đón Đấng Thiên Sai…

Thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô cai trị Rô-ma, hai Thượng tế Khan-na và Cai-pha, Tổng trấn Phi-la-tô cai trị Giu-đê, tiểu vương Hêrôđê tại Ga-li-lê-a… Gio-an đã được Chúa sai đi đến vùng ven sông Giođan để mời gọi mọi người ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng như sau: “Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến”. Ông đã mạnh dạn kêu gọi mọi người: hãy sống công chính để đón chờ Đấng Cứu Thế sắp đến. Dân chúng lũ lượt đến với ông, ăn năn thú tội và ông đã làm phép rửa cho họ trong dòng sông Giođan.

2) NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN ĐẾN:

Là nội dung Tin Mừng mà Gio-an Tẩy Giả loan báo tại miền sông Gio-đan.

– Đấng Thiên Sai là Thẩm phán công minh sẽ đến tách biệt người lành khỏi kẻ dữ, giống như người nông dân phân biệt thóc mẩy với thóc lép: “Thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa mà đốt đi” (Mt 3,12).

– Ngày Đấng Thiên Sai đến sẽ là ngày thịnh nộ: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Người sẽ thanh tẩy người ta nhờ quyền năng Thánh Thần và trong lửa tin yêu như trong lễ Ngũ Tuần sau này. Nếu muốn được cứu độ thì ngay từ bây giờ ta phải có lòng sám hối ăn năn.

3) SÁM HỐI CỤ THỂ NGHĨA LÀ GÌ ?:

– Sám hối là tự vấn lương tâm về lời nói việc làm đã gây ra thù hằn ganh ghét lẫn nhau, về những hành động thiếu khoan dung. Sám hối là nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao cái xấu cái ác đã và đang xảy ra trên thế giới hôm nay. Một Hội Thánh có can đảm sám hối là một Hội Thánh đang vươn tới sự thánh thiện.

– Chúng ta cần nghe lại những lời giáo huấn của Gio-an trong bài Tin Mừng hôm nay, kéo chúng ta ra khỏi thái độ tự mãn của người Pha-ri-sêu xưa: “Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham” (Mt 3,8). Cũng vậy, đừng tưởng rằng hễ là tín hữu là đương nhiên ta sẽ được vào Nước Trời. Hôm nay Gio-an mời gọi mọi người thú nhận tội lỗi và giao hòa với Thiên Chúa nhờ lòng sám hối chân thành và bằng hành động khiêm tốn phục vụ tha nhân.

4) SÁM HỐI ĐÒI TA PHẢI LÀM GÌ?

– Cách đây ít lâu có một bài báo viết về việc tẩy xóa những vết xăm trên thân mình của giới trẻ. Một điều lạ là sau khi bài báo xuất hiện, đã có trên 1000 lá thư từ các bạn trẻ khắp nơi gửi về tòa soạn để hỏi thêm chi tiết về cách tẩy xóa đi các vết xăm này. Từ đó, một cuốn phim tên là “Untatoo You” – “Hãy tẩy xóa vết xăm cho bạn” ra đời. Nội dung về những nguy hiểm của việc xăm mình và trình bày sự khó khăn của việc tẩy đi những dấu xăm nhỏ trên những cánh tay, khuôn mặt, và những vết xăm lớn hơn trên ngực và phía sau lưng… Các tài tử đóng phim này chính là những bạn trẻ đã từng xăm mình. Họ đã chia sẻ cách thành thật về lý do tại sao lúc đầu họ đã xăm mình, và bây giờ tại sao họ lại muốn tẩy xóa các vết xăm đó đi.

– Hôm nay, cũng như các bạn trẻ sau khi đã khám phá ra cách tẩy xóa các dấu xăm trên người, đã cố gắng tìm cách để tẩy xóa nó đi, thì các tín hữu hôm nay, một khi đã ý thức các vết nhơ tội lỗi trong tâm hồn mình, chúng ta cũng cần xin ơn Chúa gia tăng lòng tin yêu Chúa và ăn năn sám hối để lãnh nhận bí tích giao hòa. Chắc chúng ta cũng sẽ được ơn tẩy xoá những vết nhơ và xứng đáng hưởng niềm hoan lạc của Mùa Giáng Sinh sắp đến.

  1. THẢO LUẬN:

1) Hiện nay bạn thấy Giáo xứ, Hội đoàn hay Gia đình của bạn có điều gì chưa phù hợp với đòi hỏi bác ái yêu thương của Đức Ki-tô, và nên cớ cho lương dân khinh thường đạo Chúa không ? 2) Hiện giờ bạn thấy mình cần cấp thời hoán cải và canh tân điều gì trong những ngày Mùa Vọng này ?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sám hối không phải là điều dễ làm, vì chúng con thường không đủ khiêm tốn để nhận ra khuyết điểm lỗi lầm của mình. Xin cho chúng con biết dũng cảm điều chỉnh những sai lỗi, luôn biết tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng về sự thánh thiện của mình và tránh thói đạo đức giả hình của người Pha-ri-sêu xưa.

– LẠY CHÚA. Thánh Gio-an Tẩy Giả đã nặng lời quở trách các thói hư của những kẻ đạo đức giả, không chịu hồi tâm sám hối để được hưởng ơn cứu độ. Con cảm thấy những lời đó rất phù hợp với thực trạng tâm hồn của con. Nhiều lần con cũng tự mãn về lòng đạo đức và nghĩ mình xứng đáng hưởng ơn cứu độ vì năng đến nhà thờ dự lễ mỗi ngày. Thực ra ngòai việc chuyên cần cầu nguyện dự lễ, con còn cần phải sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống để ngày một nên giống Chúa hơn.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Trong các bài Tin mừng mùa Vọng, chúng ta thường nghe đề cập đến Gioan Tẩy giả hay Tiền hô, vì đời sống và sứ mạng của ngài gắn liền với Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền hô là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Trong bài Tin mừng hôm nay, Gioan Tiền hô báo cho mọi người biết Đấng Cứu Thế ,mà ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc 1, và Nước Trời đã gần đến rồi.  Gioan Tiền hô kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” 

Lời kêu gọi và thúc dục của Gioan Tiền hô này lúc nào cũng chính đáng và thích hợp với tất cả mọi người Ki-tô hữu chúng ta, già trẻ, nam nữ, tu sĩ hay giáo dân, trong mọi thời đại và mọi nơi. Nếu ai chưa có thì phải khai mở một đường cho Chúa.  Nếu đã có, và tôi biết chắc chắn tất cả mọi người hiện diện trong thánh đường đã có, nhưng nếu con đường đó quanh co, gồ ghề hay có ổ gà và hố sâu rộng thì cần phải sửa lại, lấp đầy cho bằng phẳng và trơn tru. Và cũng như những công trình sửa chữa đường phố, các công ty phải giám nghiệm và có kế hoạch, cuộc chuyển hướng tâm hồn hay cuộc sống tinh thần của chúng ta cũng cần phải có những bước hay giai đoạn.  Giai đoạn thứ nhất là phải can đảm nhận biết tình trạng tội lỗi và quyết chí thoát ra.  Có lẽ chúng ta chưa đến nỗi lâm vào tình trạng “death end”, hay ngõ cụt không lối ra, nhưng có thể mắc kẹt hay bị vướng mắc vào một tình trạng khó khăn, như: cảm thấy cần và muốn đón Chúa, nhưng lại chưa sẵn sàng đoạn tuyệt với tội lỗi, hay dứt khoát từ bỏ những thói hư tật xấu.  Biết rõ tình trạng bắt cá hai tay đó không đem lại bình an và ân sủng, nhưng còn luyến tiếc lối sống cũ, luyến tiếc những lợi lộc và sự thoải mái.  Hay còn bị giằng co, do dự giữa hai tiếng gọi là trái nghịch, giữa gian dối, tham lam và ngay thẳng, công bằng, giữa tốt xấu, giữa phải trái, giữa lành dữ. Như vậy là đã có sẵn một con đường, nhưng chỉ là một con đường mòn chật hẹp, lầy lội và nhiều trở ngại.  Đối với những người trong tình trạng này, Gioan Tiền hô kêu gọi họ hãy uốn nắn đường cho ngay thẳng, bạt đồi cao và lấp hố sâu cho bằng phẳng để Chúa có thể đến được.

Bước thứ hai là cần khơi lên trong tâm hồn ngọn lửa tin yêu mến Chúa.  Sạch tội đã là một tình trạng tốt, là một bước tiến đáng kể.  Tôi thấy nhiều người tự cho mình là sạch tội, không có tội nặng, nhưng lòng thì vẫn hờ hững, nguội lạnh hay có một cuộc sống và tâm hồn xa Chúa.   Có thể không xa Chúa nhưng chẳng gần Chúa bao nhiêu, bởi vì không có lòng xác tín và khao khát sống, thực hành Lời Chúa, không có nỗ lực tiến tới sự thánh thiện, tốt lành, công bằng, hy sinh, bác ái và quảng đại.  Hay chưa xác tín, chưa cảm thấy Thiên Chúa là sự chân thật, là nguồn hy vọng và sự sống, hay là niềm khát lớn nhất của đời mình.  Trong những điều kiện hay tình trạng như vậy, chúng ta phải mở rộng đường cho Chúa đến, càng ngày càng rộng, có nghĩa là càng ngày càng có lòng xác tín, có lòng khao khát Thiên Chúa hơn, cũng như cố gắng và thành tâm sống giáo huấn Lời Chúa dạy nhiều hơn. Như vậy cuộc sống tinh thần sẽ được biến đổi tốt hơn, đức tin thêm vững mạnh hơn, đức mến tràn đầy hơn, và đức cậy phong phú hơn, và có một mùa Vọng trường kỳ và liên tục trong ân sủng và bình an của Chúa.

Có câu chuyện về một nhóm 5 người Anh khởi hành thám hiểm phía cực Nam trái đất bằng đường bộ. Họ phải hành trình qua một con đường dài 800 dặm gian khổ với những khu vực phủ đầy tuyết dầy và lạnh buốt.  Một năm sau họ mới thành công tiến vào Nam cực.  Nhưng cuộc hành trình trở về họ gặp nhiều thảm cảnh.  Hai người chết dọc đường và 3 người còn lại bị chết đông lạnh cách nơi an toàn khoảng một dặm. Khi tìm được các xác chết, người ta còn nhận được những dòng chữ vĩnh biệt của họ. Một trong những người bị thiệt mạng là một tiến sĩ có tên là Bill, đã từng theo học tại đại học nổi tiếng. Bạn bè thường gọi ông là người nham hiểm và ác tâm vì ông có một cái “lưỡi gian ác.” Có một lần ông đã tự thú là một người kêu ngạo, có tính thù hằn và ích kỷ.   Nhưng trong cuộc thám hiểm địa cực này, những người đồng hành đã nhận ra ông Bill nham hiểm ác tâm đã biến trở thành ông Bill bác ái, quảng đại và nhân từ. Trước khi chết, người trưởng toán của cuộc thám hiểm đã viết về ông Bill như sau:  “Nếu ai đọc được dòng chữ này thì tôi và ông Bill đã chết, nhưng tôi muốn mọi người biết ông Bill không còn như xưa.  Ông Bill đã hoàn toàn thay đổi, bây giờ ông là một người rất tốt, quảng đại và đầy hy vọng.  Ông hy sinh và sống cho người khác.  Chúng tôi đang sống và cố gắng hết sức để tồn tại, nhưng không biết lúc nào sẽ kiệt sức và chết, cho nên chúng tôi phó thác định mệnh cho Thiên Chúa. Chúng tôi đặt niềm xác tín nơi Thiên Chúa bây giờ hay nơi nào chúng tôi sẽ đến.’’

Ông bà anh chị em thân mến.  Câu chuyện đơn sơ trên đây diễn tả điều mà Lời Chúa, nhất là bài Tin mừng, kêu gọi và thúc đẩy chúng ta thực hành trong mùa Vọng này.  Có nghĩa là phải bạt núi cao của kiêu ngạo và tự cao; uốn nắm những chỗ quanh co của gian tham, gian dối và ích kỷ; lấp đầy những hố sâu của sự chia rẽ, thù oán và ghen ghét.  Chúng ta phải sống theo tinh thần và giáo huấn của Đức Giê-su Kitô như thánh Phao-lô khuyên bảo trong bài đọc 2: “Thiên Chúa, nguồn kiên tâm và an ủi, ban cho anh chị em biết thông cảm với nhau theo gương Chúa Giêsu Kitô, để anh chị em đồng thanh tôn vinh Thiên Chúa.”

Sau khi kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối dọn đường cho Chúa đến, chúng ta thấy Gioan còn cho họ biết mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa, như những lời trong tấm băng rô trên cung thánh đây.  Nếu chúng ta xác tín vào Chúa, yêu mến Người, thật lòng tìm kiếm và quyết tâm mở hay dọn đường cho Chúa, thì chúng ta chắc chắn sẽ nhận được ơn sủng cứu độ, nghĩa là sẽ gặp Chúa và Nước Trời cũng sẽ đến với chúng ta trong niềm hân hoan và vui mừng.

Về mục lục

.