CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_C
Lời Chúa: St 15,5-12.17-18; Pl 3,17–4,1; Lc 9,28b-36
——-
1. Sự khiêm hạ của Thiên Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Dựng ba lều (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
3. Chúa Giêsu biến hình trên núi (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Thiên Chúa vẫn còn hiển dung (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
5. Vâng nghe Lời Người (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Lên núi với Chúa (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
7. Chúa biến hình (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
8. Xuống núi-Mật đắng cuộc sống thành mật ngọt cứuđộ(Lm.Đaminh Hương Quất)
9. Những câu chuyện biến hình (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
10. Taborê – Một thoáng vinh quang thiên giới (Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
11. Vinh quang Chúa (Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, CSsR)
12. Núi Tabor và cuộc sống hằng ngày (Lm. Nguyễn Hữu Thy)
13. Qua đau khổ đến vinh quang (Lm. Nguyễn Minh Chánh)
14. Đức Giêsu biến hình (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
15. Đỉnh cao hạnh phúc (Trầm Thiên Thu)
16. Nghe lời Chúa Giê-su Ki-tô (Giêrônimô Nguyễn văn Nội)
17. Mặc khải vinh quang (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
18. Chúa Hiển Dung (Hoa Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
19. Kiên nhẫn vượt qua (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
20. Xin Chúa biến đổi cuộc sống chúngta nên như Ngài (Lm.Anthony NguyễnNgọc Dũng)
21. Vinh dự của chúng ta (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
22. Tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
23. Vinh quang và sự tự hiến (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
24. Mùa Chay là thời gian của sự biến đổi (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
25. Cảm nghiệm sống động về Thiên Chúa (Lm. Giuse Lê Danh Tường)
26. Vinh quang Chúa. (Lm. Trầm Phúc)
27. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật II Mùa Chay_C(Lm.Inhaxio Hồ Thông)
28. Suy niệm Chúa Nhật II Mùa Chay_C (Lm. Simon-Phêrô Võ Hoàng Sâm)
29. Cơn đau sinh nở của sự sám hối (JM. Lam Thy, ĐVD)
30. Hãy vâng nghe Lời Người (Fx. Đỗ Công Minh)
31. Biến hình đẹp lunh linh thần thánh (Lm. Đaminh Nguyễn Xuân Trường)
32. Gói hành trang duy nhất (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
33. Rất sáng và rất ngắn (Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)
34. Chúa Giê su biểu lộ thần tính trên núi Tabore (P.Trần Đình Phan Tiến)
35. Chúa Nhật 2 Mùa Chay_C. (Lm. Antôn)
36. Lên núi (Lm. Thái Sơn)
.
1. Canh tân bản thân (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Biến hình (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Lạc Chúa ở đâu? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Khuôn mặt nào được Chúa hiển dung trên núi Ta-bo? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
5. Tin và kết quả của lòng tin (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
6. Biến hình – Qua Thập giá đến vinh quang (Lm. GB. Văn Hào, SDB)
7. Biến đổi (Trầm Thiên Thu)
8. Vững tin hơn (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Chúa biến hình, xin cho con được ơn biến đổi (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
10. Sống trong niềm tin (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
11. Hãy biến hình để được trở nên giống Chúa (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
12. Cầu nguyện biến đổi (AM. Trần Bình An)
13. Chúa Nhật 2 Mùa Chay_C (Lm. Antôn)
14. Biến đổi đời con Chúa ơi! (Lm. Giuse Trực)
15. Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ)
16. Cần nghị lực để vững đức tin (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
17. Mùa Chay biến đổi đời sống (Lm. Đan Vinh)
18. Mù lòa (Joseph Nguyen)
19. Vinh quang của Đức Giêsu (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
20. Chúa Giêsu là chủ lịch sử (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
21. Biến hình với Chúa (Huệ Minh)
22. Vững bước trong đức tin (Dã Quỳ)
23. Củng cố đức tin (P. Trần Đình Phan Tiến)
.
Tgm.Giuse Vũ Văn Thiên
Kinh Thánh là mạc khải của Thiên Chúa cho con người. Hành động mạc khải của Chúa giống như “vén một bức màn” để chúng ta là người trần mắt thịt có thể nhìn thấy Ngài. Trong Cựu ước, Thiên Chúa tỏ mình cho ông Abraham và cho dân tộc Do Thái, là dân riêng Ngài đã chọn. Trong Tân ước, chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai đã xuống thế làm người, mặc lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để tiếp tục ngỏ lời với con người và để cho con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Việc tỏ mình trong Cựu ước và mầu nhiệm Nhập thể thời Tân ước đều nói lên sự khiêm hạ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa khiêm hạ khi chấp nhận ký kết giao ước với con người. Thông thường, người ta ký kết những giao ước giữa hai người ngang hàng với nhau về quyền lực, về khả năng kinh tế hay về trình độ bằng cấp. Sách Sáng thế đã ghi lại giao ước giữa Thiên Chúa với Ông Abraham (Bài đọc I). Ông Abraham đại diện cho cả nhân loại để ký kết giao ước với Chúa. Nội dung của giao ước là lòng trung tín của cả hai bên. Nếu Abraham và con cháu giữ lời giao ước và sống ngay thẳng đẹp lòng Thiên Chúa, thì Ngài sẽ làm cho dòng dõi của ông “đông như sao trên trời và như cát dưới biển”. Qua việc ký kết này, Thiên Chúa khiêm nhường, đã hạ mình trở thành đối tác của con người. Thiên Chúa cũng tự giới hạn mình để chấp thuận những ràng buộc với con người trong giao ước với họ. Lời giao ước này được truyền cho các thế hệ, và đã trở thành một công thức quen thuộc: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp….”
Sự khiêm nhường của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể qua chính Chúa Giêsu. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã hạ mình để sống thân phận thụ tạo. Khi mặc lấy thân phận con người, Người đã “ẩn mình đi”, đã giấu vinh quang của mình để sống như người phàm nhân. Thánh Luca kể lại sự kiện Chúa Giêsu tỏ vinh quang đích thực của Người cho các môn đệ (Bài Tin Mừng). Sự kiện này được gọi là “biến hình”, vì Chúa thay đổi hình dạng, không giống như thường ngày. Qua sự kiện biến hình này, ba môn đệ là Phêrô Gioan và Giacôbê được thấy vinh quang của Chúa. Các ông ngất ngây chiêm ngắm và không muốn rời những giây phút huy hoàng đó. Chúa Giêsu tỏ vinh quang huy hoàng để giúp các ông có quan niệm chính xác hơn về sứ vụ thiên sai của Người. Trước đó, Chúa Giêsu loan báo cho các ông biết, Người sẽ phải chịu khổ nạn, phải loại bỏ và sẽ bị giết chết (x. Lc 9,22). Trước sự lo lắng đến mức hoảng loạn này, Chúa đã biến hình để an ủi và khích lệ các ông, đồng thời khẳng định rằng: Người là Đấng quyền năng, có quyền trên sự sống và sự chết.
Sứ vụ thiên sai của Chúa Giêsu được khẳng định với hai chứng nhân. Ông Môisen và ông Elia là hai nhân vật quan trọng của Cựu ước. Ông Môisen tượng trưng cho Lề luật, ông Elia đại diện cho truyền thống Ngôn sứ. Chi tiết các tông đồ được thấy hai vị này đàm đạo với Chúa Giêsu, vào lúc Người biến hình, giúp các ông vững tin hơn vào sứ mạng của Thày mình. Trong Cựu ước, ông Môisen và ông Elia cũng đã phải trải qua nhiều thử thách gian nan trong khi thi hành sứ mạng, nay các tông đồ cũng phải đối diện với những nghịch cảnh, nếu muốn trung thành với Chúa để thi hành sứ vụ Người trao. Sự hiện diện của hai nhân vật quan trọng trong Cựu ước giúp các ông vững niềm xác tín ấy, đồng thời tự chuẩn bị cho mình để sẵn sàng đón nhận biến cố thập giá của Thày, cũng như gian nan mà họ sẽ gặp.
Thiên Chúa là Đấng khiêm hạ. Sự khiêm hạ của Ngài thể hiện nơi Đức Giêsu. Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục khiêm nhường hiện diện âm thầm trong Bí tích Thánh Thể. Người cũng khiêm nhường hiện diện nơi những người nghèo khó và đau khổ, đến mức đồng hóa với họ, để rồi, ai giúp đỡ họ là giúp đỡ Chúa, ai xúc phạm họ là xúc phạm Chúa. Trong khi Thiên Chúa là Đấng cao cả tự nguyện hạ mình, thì con người vốn bản tính tội lỗi lại muốn kiêu ngạo. Câu chuyện ông Ađam bà Evà vẫn là câu chuyện của chúng ta hôm nay. Thánh Phaolô đã phê phán một số người tham lam, kiêu ngạo. Họ đam mê trần thế đến mức bỏ Chúa và coi cái bụng mình như một vị thần! Muốn trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô, mỗi chúng ta hãy tìm vinh quang Thiên Chúa chứ không phải vinh quang tạm thời. Sống giữa thế gian này, nhưng lòng chúng ta hướng về quê trời, để chờ đợi và đón chào Đức Giêsu Kitô trở lại. Sự kiện Đức Giêsu trở lại, cũng được gọi là ngày quang lâm, tức là Người sẽ đến trong vinh quang quyền uy, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Chính vì vậy, người tín hữu được mời gọi sống vững vàng, kiên trì trong gian nan, với xác tín rằng Chúa là Đấng quyền năng và nhân hậu (Bài đọc II).
Nếu vào thời Cựu ước, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với ông Abraham bằng của lễ toàn thiêu gồm bò, dê, cừu, chim gáy và bồ câu; thì vào thời sau hết, Thiên Chúa lại ký kết giao ước mới (hay là Tân ước) bằng chính máu Chúa Giêsu đổ ra trên Thập giá. Vì vậy chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ nhân loại. Khi giới thiệu chân dung Đức Giêsu biến hình vinh quang, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay vừa khuyên chúng ta hãy sống khiêm nhường, vừa kêu gọi chúng ta hãy biến đổi chính mình để xứng đáng hơn với danh hiệu Kitô hữu. Biến đổi canh tân, đó chính là mục đích của hành trình Mùa Chay.
“Tôi tin chắc rằng tình yêu thương và sự khiêm nhường là những thành tựu cao nhất trong trường học của Đức Kitô và là minh chứng rõ ràng nhất rằng Ngài thực sự là Giáo sư của chúng ta” (John Newton).
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Từ trong vô thức, Thánh Phê rô bất thần xin dựng ba lều. Điều này dễ thấy trong tâm lý phòng vệ, trốn chạy hay ẩn nấp trước cho chắc. Chúa Giê su mở dần từng khúc mắc, để sống con người tự do, khỏi những điều ràng buộc, yếu nhược, trốn chạy khỏi Chúa.
Tâm lý phòng vệ.
Phòng vệ với việc che đậy bằng lý tưởng cao đẹp.
Kinh nghiệm của Thánh Phê rô cho thấy, khi Chúa cho biết, chính Người sẽ bị nộp vào tay người đời, bị giết chết và sau ba ngày sống lại. Thánh Phê rô đã phản ứng ngay, Thầy không thể như thế! (Xem Mt 16, 21 – 23). Không thể đang kỳ vọng hết sức vào Chúa mà lại rớt thê thảm vào tay người đời. Không thể, là một phản ứng phòng vệ, trước một lý tưởng cao đẹp, đi chinh phục các linh hồn, chữa lành nhiều đau thương mà chính mình lại rơi vào thảm hoạ. Không công bằng chút nào, vì gieo lành sao lại gặp dữ?
Biết bao lần mình nói những ước mơ cao đẹp, sao lại rơi vào những vũng lầy, không thể chấp nhận như thế? Nhưng, thực ra, mình đã quên mất lý tưởng, ước mơ cao đẹp kia đang là bình phong che cho mình những khuyết điểm, những yếu đuối thật của con người mình. Đối diện cách can đảm với những yếu nhược, khuyết điểm của mình, mới mong khắc phục được nó. Chúa bảo: “Hãy vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24).
Phòng vệ bằng cách chạy trốn.
Trước ánh sáng quá sáng, trắng đến loà mắt, trong buổi hiển dung. Thánh Phê rô đã phản ứng xin dựng ba lều, với ý chỉ của việc chạy trốn trước những gi vượt quá hiểu biết. Tư thế phòng thủ bao giờ cũng được cho là thích ứng với những cái quá mới. Điều ấy đôi khi là tốt nhưng cũng đôi khi mất đi những cơ hội để thăng tiến. Cho nên, Chúa Giê su mời gọi hãy ra khỏi cái lều tạm ấy mà đối diện với thực tế, ra khỏi cái mơ màng về cái vinh quang mà không có đau khổ. Đón nhận thực tế, vươn lên bằng mọi nỗ lực như Chúa Giêsu mời gọi: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11, 12).
Phòng vệ bằng cách chối bỏ.
Hoảng sợ đến chối bỏ, như Thánh Phê rô ở sân thượng tế, khi họ bắt Chúa Giêsu, xử án trong đêm. Có nhiều bản án trong đêm tối, không cần bản án ngay chính. Một bản án Chúa Giê su bị quy chụp, bởi sự oán ghét, Chúa cũng đã báo trước cho các môn đệ: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15, 18). Sự việc đến lúc không ngờ và cũng chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, nên thông thường cứ chối trước rồi tính sau. Không ngờ việc chối bỏ như vậy lại là thảm kịch đổ vỡ của tâm hồn. Đã bao lần quyết tâm, rất hào hùng: “Dù có chết con cũng không chối bỏ Thầy” (Lc 22, 33), nhưng cái chết gần kề mới thấy con người nhát đảm của mình.
Tình Yêu Của Chúa
Chạy trốn, rút lui, thường là yếu tố khiếm khuyết của con người trước những nguy cơ. Chúa biết tất cả những yếu kém của con người. Nhiều khi Chúa còn chịu đựng cả những vấp ngã của con người, nhưng tất cả điều đó là vì Tình yêu của Chúa dành cho con người: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mc 2,17).
Vì lẽ đó, Chúa không ngừng bảo khuyên và tha thứ. Tình yêu làm cho con người yếu kém trở nên mạnh sức, yếu nhược trở nên can đảm, chạy trốn trở nên người chinh phục… Tình yêu hoán cải con người như người phụ nữ ngoại tình được tha thứ, như Thánh Phê rô được gặp ánh mắt nhân từ, như tên trộm trên thánh giá được lòng xót thương.
Dựng ba lều từ nay không còn là nơi ẩn nấp mà trở thành nơi đón Chúa đến để Người thay đổi chính con. Dựng ba lều không còn là nơi để lẩn tránh, nhưng được hoán đổi thành nơi dừng lại cầu nguyện, tịnh tâm, sám hối.
Xin Chúa cứu giúp sự yếu kém của con.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê vẫn gây ấn tượng đậm nét nơi nhiều người. Ba môn đệ thân tín là Phêrô,Giacôbê và Gioan được Thầy Giêsu đưa lên núi cao. Ba môn đệ này cứ tưởng Thầy dẫn mình lên núi để tham quan, để khảo sát núi đồi,tuy nhiên, Tin Mừng của thánh Luca hôm nay viết:” Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa “ ( Lc 9,29 ). Thì ra, Đức Giêsu biến hình trước mặt các ông…
Vâng, Tin Mừng thánh Luca cho hay :” Chúa Giêsu đang chìm sâu trong cầu nguyện. Ngài đang trò chuyện thân mật cùng Chúa Cha”. Thực tế, lúc cầu nguyện Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì đang chờ đợi Người: đau khổ, thử thách, bắt bớ,giam cầm, chịu xỉ nhục, bị đánh đập, kết án bất công, chịu chết và sống lại khải hoàn ( Lc 9,22). Đức Giêsu cầu nguyện, chìm sâu trong sự thân mật thâm sâu với Chúa Cha. Đêm khuya, Người vẫn cầu nguyện.Các môn đệ từ Phêrô, Giacôbê đến người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến nhất đều lăn ra ngủ say. Ba môn đệ không hề biết rằng Thầy của mình đang phải đương đầu nặng nề với thử thách.Người sẵn sàng chấp nhận ý của Cha…Chợt tỉnh dậy, các môn đệ ngất ngây, say đắm trước cảnh tượng diễn ra phi thường trước mặt các ông. Thầy Giêsu đang đàm đạo, trò chuyện thân mật với ông Môsê và Êlia.Vinh quang rực rỡ bao trùm ba Đấng. Dung mạo, khuôn mặt của Thầy Giêsu biến đổi khác thường. Y phục của Người cũng trở nên trắng tinh chói lọi.
Ba môn đệ chắc chắn muốn cảnh tượng này kéo dài, và kéo dài mãi mãi…Khi môn đệ Phêrô thấy Thầy Giêsu sắp chia tay Môsê và Êlia. Phêrô muốn sống mãi trong niềm vui, hạnh phúc này. Ông đề nghị dựng ba lều để Ba Đấng ở lại núi qua đêm và để các ông được hưởng nếm vinh quang lâu dài.Tuy nhiên, một đám mây bao phủ các môn đệ đưa các ông đi vào sự hiệp thông với thần linh. Các môn đệ hoảng sợ, kinh hồn, khiếp vía khi các ông nhận ra Thiên Chúa quá ư gần gũi các ông. Việc biến hình, việc thân mật gần gũi Thiên Chúa và đám mây bao phủ, tất cả chuẩn bị để các môn đệ nghe được lời giới thiệu của Thiên Chúa Cha :” Đây là Con Ta,người đã được ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người “ (Lc 9,35 ). Ba môn đệ được chiêm ngắm Đức Giêsu trong vinh quang củng cố niềm tin, giúp các ông không ngỡ ngàng mấy khi cùng Thầy Giêsu trên đường đi Giêrusalem. Kinh nghiệm hôm nay, lúc này,ở đây giúp các môn đệ nhận ra số phận của mình, để cùng Chúa Giêsu Thầy của mình đón nhận vinh quang. Sự sáng láng,vinh quang trên núi Taborê giúp các môn đệ hiểu trước sự đau khổ trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu.
Qua cuộc biến hình, các môn đệ được trải nghiệm hạnh phúc, niềm vui các Ngài sẽ được nhận lãnh, rồi các Ngài cùng Chúa Giêsu xuống núi, tiếp tục công việc rao giảng, công trình cứu thế của mình. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hướng về vinh quang, thân xác của mỗi người chúng ta một ngày nào đó cũng được vinh hiển, dù cuộc sống trần, cuộc hành trình đức tin của chúng ta có gặp thử thách, đau khổ và bất hạnh như thế nào đi nữa! Đức Giêsu biến hình sáng láng, chói lọi, vinh quang, nêu gương cho mỗi người chúng ta phải canh tân, biến đổi, sám hối từng ngày, để con người luôn luôn được trong sáng, tinh tuyền và bắt chước Chúa “ hiền lành và khiêm nhượng “, biết quảng đại, chia sẻ và yêu thương phục vụ người nghèo.
Lạy Chúa Giêsu, trên đường dương thế chúng con gặp không biết bao nhiêu thử thách, khó khăn,xin cho chúng con biết chấp nhận từ bỏ con người cũ, mặc lấy Đức Kitô và vác thập giá mà theo Người.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa Giêsu biến hình ở đâu ?
2.Tại sao lại gọi Phêrô , Giacôbê và Gioan là ba môn đệ thân tín ?
3.Chúa Giêsu biến hình làm sao ?
4.Ai đã hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu ?
5.Việc biến của Chúa Giêsu dạy chúng ta điều gì ?
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nếu bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh bướm, mỗi bông hoa… đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng thật quyến rủ, thật nhiệm mầu và tâm hồn bạn sẽ ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của chúng.
Thế nhưng trong thực tế, không mấy ai cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của những tạo vật như thế. Tại sao?
Vì mỗi lần nhìn vào những sự vật chung quanh, chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta không nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về chúng (vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên những vật đó.
Thế là vạn vật chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán. Vẻ đẹp tinh khôi nhiệm mầu của chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên không còn hiển dung ra được nữa. Một trong những nỗ lực của các thiền giả là thanh tẩy cái nhìn mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được vạn vật đúng với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện nguyên hình.
Trong cuốn sách The Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.
Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến thế.
Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang nhởn nhơ mỉm cười và niềm nở chào đón cậu trông dễ thương đến lạ lùng và đang toả hương thoang thoảng trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.
Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống để bày tỏ một niềm cảm xúc rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tạo vật của Người.
***
Theo Tin Mừng Lu-ca được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giê-su. Cũng vẫn là Chúa Giê-su bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Mô-sê và tiên tri Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.
Lòng đầy hoan lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phê-rô thay mặt anh em thưa với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
***
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ nên không nhận ra Người.
Vinh quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của Người, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh…
Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.
Không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19, 2)
Tình yêu của Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan chứa của người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người mẹ, vắt kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn…
Và đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung (tỏ lộ mình ra) nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm xưa, ba môn đệ vui sướng nhận ra Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Ngài, thì hôm nay, nguyện xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh chị em đang sống chung quanh. Nhờ đó, chúng con sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan hoà vì được sống-cùng, sống-với những chi thể của Chúa mỗi ngày và có thể reo lên như thánh Phê-rô hôm xưa: chúng con được ở chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. Amen.
.
Lm.Giuse Nguyễn Hữu An
Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.
Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).
Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).
Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).
Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.
1. Núi Tabor
Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1.634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ. Ngôi nhà thờ đầu tiên do thánh nữ Hêlêna mẫu hậu của hoàng đế Costantin cho xây vào thế kỷ IV SCN, qua thời kỳ Bizantin và thời thánh chiến bị phá hủy. Ngôi nhà thờ hiện tại được xây dựng trên chính nền nhà thờ cũ đó. Nhà thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.
2. Biến hình
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.
Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).
Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
3. Nghe Lời Người
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Muốn vâng nghe lời ai đó, trước hết phải tin vào người đó. Tin một ai thì phải hiểu biết về người ấy, phải có mối liên hệ thân thiết với người ấy. Muốn tin Chúa, chúng ta phải hiểu biết và sống tương quan mật thiết với Ngài. Nhờ Lời Chúa, chúng ta được hiểu biết về Ngài và được lớn lên trong niềm tin. Nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ, hiểu biết và kết hiệp với Chúa ngày càng thân mật hơn, đức tin sẽ vững vàng hơn. Có tin mới yêu và nghe lời người mình yêu. Chúa Cha muốn chúng ta phải vâng nghe Lời Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Ngài.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cả cuộc sống luôn quy chiếu suy nghĩ hành động theo Chúa Giêsu. Để có thể vâng nghe lời Chúa Giêsu, chúng ta phải gặp Ngài khi dự thánh lễ, khi đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày.Nhờ đó cuộc đời chúng ta sẽ biến đổi, dung mạo sẽ đổi khác. Vâng nghe Lời Chúa, dung mạo chúng ta sẽ ngày càng thân thiện hơn, bình an vui tươi hạnh phúc hơn.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Lịch sử cứu độ được tiếp nối bằng những cuộc ra đi. Dường như Thiên Chúa không muốn con người dậm chân tại chỗ
Để thành lập một dân riêng, Thiên Chúa kêu gọi Abraham từ bỏ quê hương xứ sở đi đến một nơi mà ông không hề hay biết, đó là vùng đất Hứa mà sau này Thiên Chúa sẽ ban cho Tổ phụ và dòng tộc của ông.
Ngài ra lệnh cho Môisen phải đưa dân Israel ra khỏi đất Aicập, để trở về miền đất Hứa.
Ngài kêu gọi Êlia hãy đến ngọn núi cao để nhận ra sứ điệp của Ngài. Cuối cùng, vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu đã từ bỏ trời cao xuống đất thấp để cứu độ con người.
Tin Mừng hôm nay kể lại, Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín nhất, riêng biệt lên núi cao vắng vẻ, để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông.
Theo truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người, những mặc khải quan trọng trong Thánh kinh thường được diễn ra trên núi cao.
Từ trên núi cao, Thiên Chúa hứa ban cho tổ phụ Abraham một dòng tộc đông như sao trời, như cát biển.
Từ trên núi Sinai, Thiên Chúa ban lề luật cho Môisen, để ông truyền lại cho dân Israel.
Đức Giêsu cũng công bố Tám mối phúc thật trên núi.
Từ trên núi Tabor, Đức Giêsu hé mở cho các môn đệ thấy trước vinh quang của Ngài trong ngày phục sinh. Đồng thời, cũng hé lộ cho các ông thấy cuộc khổ nạn và cái chết đau thương mà Ngài sắp trải qua.
Qua cuộc biến hình này, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ và báo trước cho các ông thấy con đường Ngài sẽ đi, đi từ sự sống đến sự chết, rồi mới tới phục sinh vinh thắng, và đó cũng là con đường tất yếu dành cho những ai muốn làm môn đệ Đức Kitô.
Trên đỉnh núi Tabor, đang lúc Chúa Giêsu biến hình, có tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống: “Đây là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Tiếng nói ấy không chỉ dành riêng cho ba môn đệ, nhưng còn dành cho tất cả những người tin theo Đức Kitô.
Thế thì, chúng ta lắng nghe lời Chúa rất nhiều lần trong đời sống đức tin. Đã nghe lời mời gọi của Chúa rất nhiều lần mỗi khi đến nhà thờ tham dự thánh lễ, hay khi cử hành phụng vụ lời Chúa. Thế nhưng, dường như chúng ta vẫn chưa thực hiện được những gì gọi là đáng kể? Dường như chúng ta vẫn còn dậm chân tại chỗ trên hành trình đức tin.
Từ trên núi cao, ba môn đệ đã ngất ngây trong niềm hạnh phúc, muốn cắm lều ở lại đó. Thế nhưng, Đức Giêsu không có ý đưa các ông lên núi cao để ở lại đó, mà là để các ông nhìn thấy rõ hơn con đường Chúa sẽ đi, đó là chu toàn sứ mạng thánh ý Chúa Cha trao phó.
Sau khi biến hình, Đức Giêsu lại đưa các môn đệ xuống núi, để các ông trở lại với đời thường, trở lại với những thử thách, những đau khổ mà sau này các ông sẽ phải đối diện, khi làm chứng cho Chúa.
Anh chị em thân mến,
Trên hành trình đức tin, có những giây phút chúng ta cũng được lên núi cao với Chúa. Núi cao của giờ cầu nguyện hay khi tham dự Thánh lễ. Tại nơi đây, Chúa vẫn tiếp tục biến hình: từ tấm bánh, Chúa biến thành Mình thánh Chúa; từ chén rượu, Chúa biến thành Máu thánh của Ngài.
Nhưng chúng ta không lên núi cao để ở đây mãi, mà phải trở lại với những công việc thường ngày, với những vui buồn trong cuộc sống. Nhưng nếu chúng ta biết đón nhận với tinh thần lạc quan, vui lòng đón nhận những thánh giá do Chúa an bài gửi đến, sống được như thế, là chúng ta đang bước đi trên con đường theo Chúa.
Hôm nay nhắc lại biến cố Chúa biến hình, chúng ta tự đặt cho mình câu hỏi: tôi có thực sự muốn được lên núi biến hình với Chúa không? Tôi có thực sự muốn làm môn đệ của Đức Kitô không? Đức tin của tôi có đủ mạnh để biến đổi cuộc sống của tôi nên tốt hơn mỗi ngày không?
Chúng ta không thể biến hình thành người con Chúa, nếu chúng ta không cùng lên núi cao với Chúa. Chỉ khi nào chúng ta lên núi cầu nguyện với Chúa và được ơn Chúa biến đổi, đồng cảm với sứ vụ của Ngài, thì lúc đó chúng ta mới có thể xuống núi, để tiếp tục đi theo con đường Chúa đã đi.
Xin Chúa thương củng cố đức tin hèn yếu của chúng ta, để những vất vả khổ đau mà chúng ta đang gặp trên đường đời, cần phải được sống, và được nhìn với niềm hy vọng vào cuộc biến hình vinh hiển, mà Chúa sẽ trọng thưởng cho chúng ta mai sau trên Nước trời. Amen.
.
Lm Giuse Đinh tất Quý
“Ðây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9,35)
Anh chị em thân mến
Hằng năm cứ vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Giáo Hội dọc lại cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa biến hình trên núi. Đây là câu chuyện đặc biệt chỉ xẩy ra có một lần duy nhất trong cuộc đời của Chúa. Câu chuyện được cả ba Tin Mừng nhất lãm: Matthêo, Maccô và Luca thuật lại.
Nếu đọc cả ba bản văn, chúng ta thấy có một vài chi tiết hơi khác nhau nhưng nội dung thì cả ba hầu như hoàn toàn như nhau. Vậy chúng ta thử hỏi: Chúa muốn dạy các môn đệ và chúng ta điều gì qua biến cố biến hình hôm nay?
- Với các môn đệ thì bài học tương đối đã khá rõ.
Tin Mừng cho biết Chúa thực hiện cuộc biến hình này ngay sau lời báo trước về cuộc khổ nạn của Chúa 8 ngày trước. Lời tuyên bố ấy như thế này: “Con người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục và thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” Đó là lời tuyên bố gây choáng váng cho các môn đệ.
Để các môn đệ Chúa khỏi thất vọng, Ngài đã cho các ông ấy thấy một phần vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ hưởng sau phục sinh. Như vậy, qua biến cố biến hình Chúa muốn dạy các ông rằng khổ nạn không phải là tận cùng, nhưng chính là bước đường dẫn tới vinh quang. Và đồng thời như lời của Jean-Luc Vesco chú giải, Chúa cũng muốn cho họ hiểu rằng: “Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn; một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo Người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly ” (“Giêrusalem và ngôn sứ của nó “, Cerf, trg 38).
Sau khi Chúa phục sinh các tông đồ đã hiểu thật rõ những gì Chúa muốn nói ở đây.
- Còn đối với chúng ta, Chúa Giêsu muốn dậy điều gì ?
Dĩ nhiên là Chúa không cần phải củng cố niềm tin của chúng ta như đối với các môn đệ thuở xưa, nhưng bài học cũng vẫn còn đó: Chúa muốn cho chúng ta xác tin hơn vào một tương lai vinh hiển của chúng ta.
Tương lai ấy như thế nào thì đây chúng ta nghe lời của Thánh Phaolô: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta..” (Pl 3,20)
Có lần trong cuộc đời công khai Chúa đã nói: “Các người công chính sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước Cha mình.” (Mt 13,43) Qua việc biến hình Chúa đã muốn cho chúng ta nhìn thấy phần nào vinh quang ấy, nếu chúng ta là những người công chính. Thánh Phao-lô còn quả quyết “Chúa Giê-su có quyền năng khắc phục muôn loài, và Ngài sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3,21). Và nơi khác “gieo xuống thì hèn hạ mà chỗi dậy thì vinh quang” (1 Cr 15,43).
Muốn trở thành người công chính để được hưởng vinh quang như Chúa cho thấy, chúng ta phải làm gì? Câu trả lời đã có sẵn : “Phải nghe Lời Ngài.” Nghe Lời của Chúa Giêsu. Đó là con đường giúp chúng ta trở thành người công chính trước mặt Chúa. Lời Chúa có sức biến đổi cuộc đời chúng ta.
Thánh Gioan Thánh giá quả quyết “Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với loài người thì Ngài đã nói qua Chúa Giê-su vào thời gian viên mãn (x. Dt 1,1) Thế nên ngày nay ai muốn hỏi, muốn xin một thị kiến hay một mạc khải, thì không chỉ là điên khùng, mà còn nhục mạ Thiên Chúa, vì không tập chú vào Chúa Giê-su. Thiên Chúa có thể trả lời hạng người đó như thế này: Ta đã nói với ngươi tất cả nơi “Lời Ta” là Con Ta rồi. Giờ dây, ngoài Chúa Giê-su Ta không còn gì để mạc khải hay nói cho ngươi nữa. (Gio-an Thánh giá, Monttee du Carmel).
“Hãy vâng nghe Lời Người”. Lời có sức biến đổi lạ lùng.
Xin được mượn một câu chuyện để minh họa. Câu chuyện xẩy ra vào năm 300 trước Chúa Giáng sinh. Vào một sáng kia lúc nhà hiền triết Bolena đang chơi giải trí với các sinh viên trước hàn lâm viện thành Athène, thủ đô Hylạp, thì có một người đàn ông đến. Ông tự giới thiệu mình là một thày tướng thời danh. Các sinh viên nghe thế nên mới đề nghị ông xem cho thày mình là hiền triết Bolena một quẻ. Ông thày tướng nhìn nhà hiền triết Bolena một lát, rồi nói : “Giáo sư của các anh chỉ là một con người “Mũi dòm miệng”, tức là con người ưa nhậu nhẹt, say xỉn. Nghe thế các sinh viên giận sôi ruột lên, định xông vào cho ông thày tướng dám nói ẩu một trận. Thế nhưng nhà hiền triết Bolena đã kịp can ngăn. Rồi sau đó ông chậm rãi giải thích cho các học trò của mình như thế này: “Này các trò, ông thày tướng này rất giỏi, ông đã coi tướng thày rất trúng; khi còn trẻ, chính thày là một thanh niên “mũi dòm miệng”. Một lần kia, sau khi đã nhậu nhoẹt say sỉn, thày đã đến Hàn Lâm Viện này, để nhạo báng các sinh viên bằng những cử chỉ và lời nói rất ư là thiếu lễ độ. Bấy giờ giáo sư của thầy là nhà hiền triết Socrate bình tĩnh, bỏ ngay vấn đề đang nói, mà bàn ngay tới vấn đề đức tính và tiết độ, làm cho con người có giá trị, đáng được trọng kính. Nhưng lời giảng dạy trên đây, đã giáo dục thày, đã làm cho thày bỏ được tính mê nết xấu, và luyện tập đức tính nên ngày nay, thày mới trở nên con người ích lợi cho xã hội và đất nước như thế này.
Chúng ta có thể coi đây là một cuộc biến hình, một cuộc lột xác được không? Tôi tưởng là được lắm chứ!
Cũng vậy muốn được biến hóa nên giống Chúa Giêsu, chúng ta phải thực hành Lời của Chúa. Việc nghe và thực hành Lời Chúa sẽ làm cho chúng ta được biến đổi.
Năm 1215 thánh Daminh giảng tuần Đại phúc ở nhà thờ Saroza nước Tây Ban nha, lúc đó có một người giáo dân khô khan tội lỗi tên là Don Perez Petro, nhất định không chịu cải quá tự tân. Thánh Daminh lần chuỗi cậy nhờ Đức Mẹ cho anh ta biến hình thành một tên quỉ xấu xa dữ dằn khiến mọi người trong nhà thờ, sợ hãi chạy tán loạn. Về tới gia đình anh nhìn vào gương…thấy hình ảnh mình ghê tởm, xấu xa quá nên phát sợ. Ngay sau đó anh ta đã tìm đến với thánh Đaminh và xin cứu giúp. Ngài đã giải tội cho anh và sau khi lãnh phép giải tội, lạ thay con người anh biến hình đẹp như một thiên thần tốt đẹp sáng láng.
Lạy Thiên Chúa, đây lời cầu nguyện của con:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim con mọi biển lận tầm thường.
Xin cho con sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho con sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho con sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho con sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi những ti tiện hằng ngày.
Và cho con sức mạnh tràn trề để nâng mình theo ý Ngài luôn.
R.Tagore.
.
XUỐNG NÚI – MẬT ĐẮNG CUỘC SỐNG
THÀNH MẬT NGỌT CỨU ĐỘ
Lm. Đaminh Hương Quất
Chúa nhật II Mùa Chay Thánh sử Luca đưa chúng ta lên núi Tabor, cùng với ba Tông đồ Phêrô- Giacôbê và Gioan chứng kiến Chúa Giêsu hiển dung, cho thấy- cho cảm nếm chút vinh quang thật của Chúa Giêsu. Phêrô vốn còn nặng cái nhìn trần thế, theo cảm tính đã ‘chớp’ ngay dịp may hiếm có này khi đề nghị dựng ba lều để ở lâu dài trên núi.
Thực ra việc Chúa Giêsu biến hình, tỏ thật vinh quang Thiên Tính vốn có của Ngài, như cách Chúa Giêsu cho nếm ‘mật ngọt’ thật của Thiên đàng để củng cố niềm tin cho các môn đệ, nhất là khi họ sẽ chứng kiến cuộc Tử nạn thương khó của Chúa Giêsu; khi gặp những vấn nạn- đau khổ sau này trong hành trình Loan báo Tin Mừng.
Đau khổ trần gian chẳng là gì cả so với mối phúc Thiên đàng!
Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy rõ, ngất ngây hạnh phúc trước Hồng ân Chúa ban; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa quá, yêu thương anh chị em quá; sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình… nhưng giây phút “vinh quang” này thường ngắn ngủi, chớp nhoáng. Điều này chứng tỏ những an ủi thiêng liêng Chúa ban luôn có và luôn đồng hành cần đủ để củng cố Đức tin. Như biến cố Biến hình trên núi Tabor, chúng thường ngắn ngủi, chớp nhoáng một phần để khỏi xâm phạm đến tự do của ta, một phần tránh cho cho ta sống Đức tin bằng cảm tính.
Cũng như Chúa Giêsu và các Môn đệ, sau khi cảm nếm phúc ân Thiên Chúa đụng chạm đến đời mình, cùng Chúa Giêsu các Môn đệ lại xuống núi. Xuống núi để tiếp tục trực diện với trần thế, để sống theo ý Chúa, sẵn sàng đón nhận chén đắng trần thế trong Thánh ý Chúa.
Và chúng ta, sau những ngày Tết Nguyên đán nghỉ ngơi bên Chúa và bên gia đình, như Chúa Giêsu và các môn đệ, chúng ta lại xuống núi, lại tiếp tục với bao lo toan cuộc sống, tiếp tục trực diện những mật đắng trần gian…
Vấn đề khi gặp gian nan thử thách cuộc sống, khổ đau trần gian ta có nhận ra ý Chúa, có can đảm đón nhận sống theo ý Chúa hay không, kết hợp với Thập giá Chúa Giêsu! Một khi ta nhận ra ý Chúa và sống theo ý Chúa, nhờ Chúa Giêsu thì những mật đắng cuộc sống ấy trở thành mật ngọt Tin Mừng.
Quả thế, biến cố biến hình cho thấy một chân lý: Chúa Giêsu phải trải qua cái chết đau khổ- nhục nhã mới bước đến Phục sinh vinh hiển;Thánh Phaolô nhận rõ: Không có ơn Cứu độ nến không có đổ máu (x.Dt 9,15tt) và Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô. Theo Chúa không có hy sinh, không chịu cố gắng đời Kitô hữu sẽ nhạt nhẽo, vô vị, bế tắc và không cần phải đợi đến đời sau, ta đã thấy hoả ngục ngay tại đời này.
Đừng mơ có thành công mà không chịu cố gắng phấn đấu, không chấp nhận hy sinh. Cố gắng mỗi ngày để chu toàn bổn phận trong gia đình, cuộc sống, để nên người hơn, nên con cái Chúa hơn.
Đức Tân Giáo hoàng Phanxicô trong huấn từ đầu tiên đã nói “Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian”[1]
Nhờ Chúa Giêsu – Kitô Tử nạn – Phục sinh, trong Chúa Giêsu tất cả những khổ đau, những mật đắng- chén đắng cuộc đời đều là Hồng ân- đều có giá trị Tin Mừng Cứu độ. Đây chính là Tin Mừng lớn nhất, quan trọng nhất, là giá trị -động lực- mục đích cuộc sống trần thế của con người. Chỉ trong Đôi mắt Đức tin ta mới nhận ra chân giá trị cao đẹp này.
Tin Mừng ở chỗ, chính lúc ta đau khổ là lúc ta đang nên giống Chúa Giêsu, đang cho thấy rõ được cộng tác vào công trình Cứu độ của chính Chúa Giêsu. Một thụ tạo hèn mọn, tội lỗi như ta lại được Chúa mời gọi cộng tác vào công trình vĩ đại nhất của chính Chúa, ta phải thấy là niềm vinh dự, niềm vui lớn… Cảm niệm được điều đó thì đau khổ không còn đau khổ nữa, đau khổ có giá trị Tin Mừng. Trong Đức tin, chính nhờ khám phá Thập giá trong Chúa Giêsu trở nên Tin Mừng Cứu độ, do đó, các Thánh luôn khao khát được khổ đau vì Tình yêu Chúa Giêsu thúc bách.
Điều này thấy rõ thời Giáo hội sơ khai, khi Phêrô và Gioan rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Tử nạn – Phục sinh, bị lãnh đạo Do Thái giáo bắt tù, đánh đập những tưởng làm các ngài lo sợ không có dám Loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Tử nạn – Phục sinh, ai dè phản tác dụng. Sách Công vụ Tông đồ cho thấy rõ: bị tù đày, đánh đập… các ngài lại thấy hân hoan vì Danh Chúa Giêsu (x. 6, 40).
Điều này thấy rõ nơi các Thánh Tử Đạo mọi thời của Giáo hội, trong đó có hàng trăm ngàn tổ tiên chúng ta là những dấu chứng sáng rõ nhất cho chân lý Khổ đau- thậm chí khổ đau tột cùng là cái chết trong Chúa Giêsu đã nên Tin Mừng Cứu độ.
Xuống núi– trở về với cuộc sống đời thường, trực diện cuộc đời được coi là bể thẳm ấy, giờ đây nhờ có đôi mắt Đức tin ta khám phá bể thẳm ấy giờ thành biển Hồng ân.
Điểm đáng lưu ý: Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu biến hình khi đang cầu nguyện. Cầu nguyện- kêu xin Lòng thương xót của Chúa là ta đang để Chúa biến đổi nên giống Chúa. Nhờ ơn Biến đổi này ta mới khám phá mật đắng cuộc sống thành mật ngọt Cuộc đời; sẽ trải nghiệm sống đồng lời Chúa Giêsu: ách của ta thì êm ái, gánh ta nhẹ nhàng.
Xin Chúa gia tăng Đức tin- men Tin Mừng để hành trình theo Chúa- vâng nghe Lời Chúa, nhất là khi trực diện mật đắng trần gian chúng con khám phá Tin Mừng, nhất là trong Năm thánh Từ Bi này.
.
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People (“Bảy Thói Quen Của Người Làm Việc Có Hiệu Quả”), Steve Covey, trên một chuyến xe điện ngầm tại thành phố New York vào một sáng Chúa nhật, đã thu được một kinh nghiệm sống rất quí như sau. Steve kể:
Mọi người ngồi yên lặng. Vài kẻ đang đọc báo. Số khác đang chập chờn ru giấc ngủ. Số khác nữa đang suy nghĩ miên man. Thật là một cảnh yên tĩnh, thanh bình.
Tàu dừng lại tại một nhà ga. Một người đàn ông và mấy đứa nhỏ, có lẽ là con ông ta, bước lên. Lập tức bầu khí yên bình bị phá tan. Những đứa bé la hét om sòm. Chúng vất đồ đạc qua lại. Thậm chí còn lấy báo của người khác vò lại ném nhau. Thật là phiền hà hết sức! Nhưng sao người cha của mấy đứa bé kia lại không có phản ứng nào?
Steve cảm thấy bực bội khó chịu trước thái độ của cha con những người khách mới. Anh ta không thể hình dung ra được trên đời này lại có những kẻ vô cảm và vô tâm như gã đàn ông kia. Con cái quậy phá làm phiền biết bao nhiêu người, thế mà vẫn cứ ngồi im. Steve quan sát và thấy nhiều hành khách khác cũng có vài nếp nhăn khó chịu.
Cuối cùng, khi sức kiên nhẫn đã vượt mức tối đa, Steve bèn lên tiếng với người bố: “Thưa ông, con ông đang làm phiền nhiều người lắm đấy. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông không làm gì để kiềm chế chúng một chút.” Người đàn ông nhướng mắt nhìn Steve như vừa sực tỉnh lại từ một ưu trầm lắng. Nén tiếng thở dài, ông ta nói: “Tôi thành thật xin lỗi. Tôi cũng không biết phải làm sao. Chúng tôi mới rời khỏi bệnh viện nơi mẹ chúng nó vừa qua đời cách đây một giờ. Tôi suy nghĩ mãi mà không biết cuộc đời rồi đây sẽ ra sao khi không còn nhà tôi, và chắc là chúng nó cũng không biết chịu đựng thế nào khi chẳng còn có mẹ.”
Steve kết luận bài viết của mình: “Bạn có thể tưởng tượng được cảm giác của tôi lúc đó như thế nào không? Ngay lập tức tôi thấy mọi sự đổi khác. Vì thấy mọi sự đổi khác nên thái độ của tôi cũng đổi theo. Cơn khó chịu bực bội trong tôi biến mất. Thay vào đó là niềm cảm thông cho nỗi đau của người chồng mất vợ và những đứa con mất mẹ.”
Nhờ “thấy” được chiều sâu tâm hồn của cha con người đồng hành mà Steve đã thắng vượt những khó chịu bực bội trong mình, và sau đó đã đến với họ bằng tâm tình cởi mở chân thành. Phải chăng trong đời sống, người ta cũng cần có con mắt nội tâm để “thấy” được nền tảng và ý nghĩa của cuộc đời hầu có những thái độ và cách sống thích hợp? Phải chăng nhờ sự biến hình trên núi Tabor, các môn đệ đã “thấy” được hình ảnh phục sinh vinh quang của Đức Giêsu, để từ đó họ bớt nao núng khi bước vào nẻo đường thánh giá và đón nhận khổ nạn với Ngài? Phải chăng đời ta và đời người cũng cần những giây phút biến hình để dung nhan Thiên Chúa, trong tha nhân và nơi mình tôi, được bừng sáng, đón nhận, và tin yêu hơn?
Trong một bài báo tự thuật, Malcolm Muggeridge có kể lại việc nhóm chuyên viên truyền hình của anh ta cố gắng thực hiện một bộ phim tài liệu về Mẹ Têrêsa Calcutta.
Họ muốn quay cảnh mẹ cùng các chị nữ tu Bác ái đang làm việc trong căn nhà Hấp Hối, bên cạnh những kẻ sắp từ biệt cõi đời. Thế nhưng nhóm của Malcolm đã gặp phải một vấn đề khó khăn: căn phòng họ tính quay phim hơi tối, không đủ ánh sáng cần thiết cho việc thâu hình, mà trong nhà lại không có một ổ cắm điện nào cả.
Tuy nhiên, sau khi bàn thảo, họ quyết định cứ tiến hành thu hình trong cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng Hấp Hối.
Nhưng rồi, kết quả, trước bao cặp mắt ngạc nhiên, những thước phim thâu được lại tuyệt vời quá sức tưởng tượng. Ánh sáng trong các hình ảnh đạt đến mức độ hoàn hảo. Dường như đã có một luồng sáng ấm dịu nào đó phát ra trong lúc họ đang quay phim.
Malcolm, người mà sau này trở thành một Kitô hữu, lúc bấy giờ đã bị thuyết phục hoàn toàn với ý nghĩ là ánh sáng đã phát ra từ tình thương mà người ta có thể bắt gặp khắp nơi trong căn nhà Hấp Hối kia. Malcolm viết lại trong nhật ký của mình: “Chính tình yêu đã chiếu sáng, một thứ ánh sáng giống như hào quang trên đầu các thánh mà tôi từng được xem thấy.”
Phải chăng đó cũng là thứ ánh sáng mà Đức Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacobê khi Ngài biến hình trước mặt các ông? Trong cuộc biến hình này, các môn đệ được nghe một lời phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Lc 9:35). Trong chương kế tiếp, Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày việc “nghe lời” Đức Giêsu không gì khác hơn là ra đi rao giảng Tin mừng Tình thương. Chương 10 đã kể việc Chúa sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, đồng thời cũng làm nổi bật giáo lý của Đấng Cứu Thế qua câu hỏi “giới răn nào trọng nhất” của một luật sĩ và qua câu chuyện “Người Samari Nhân Hậu” như những minh hoạ cho giáo lý yêu thương.
Cao điểm của cuộc biến hình là lời mời gọi “Hãy nghe Ngài”. “Nghe Ngài” là để tiếp nối những cuộc biến hình khác, giữa cuộc đời này, bằng tình yêu. Chính nhờ tình yêu mà Mẹ Têrêsa đã biến những thân xác tanh hôi, đau yếu, bị bỏ rơi, nên những con người có đầy đủ phẩm giá và đáng tôn trọng. Chính nhờ tình yêu mà mẹ đã biến đổi tâm hồn của Malcolm, một kẻ “coi trời bằng vung”, nên cung điện tươi xinh cho Thiên Chúa ngự trị.
Không phải Chúa Giêsu đã từng nói: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ của Ta: ấy là các ngươi có lòng mến thương nhau” (Ga 13:35)? Chính với yêu thương, cảm thông, cứu giúp, chia sẻ mà tha nhân thấy được dung mạo của Đức Kitô trong cuộc đời của bạn và tôi.
Ước gì tình yêu thương nhau sẽ biến hình đời ta và biến đổi đời người. Ước gì tình yêu đó cũng giúp ta thắng vượt bao gian nan, trắc trở, và khổ giá trên đường đời, để tiến đến một ngày Phục sinh tươi sáng.
.
TABORÊ – MỘT THOÁNG VINH QUANG THIÊN GIỚI
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Cũng vào dịp đầu Mùa Chay này năm trước, người CGVN khắp nơi, đặc biệt ở Giáo phận Xuân Lộc đang xôn xao về hiện tượng Đức Mẹ hiển dung tại Giáo xứ Bạch Lâm, thuộc Giáo hạt Gia Kiệm. Sự thật đến đâu, xin để cho giáo quyền xác nhận. Tuy nhiên, rất nhiều người chứng kiện hiện tượng đã chia sẻ những cảm nghiệm chung như sau:
Nếu ai đã trơng thấy sự kiện thay đổi dung nhan nơi Thánh tượng Đức Mẹ Bạch lâm thì đều mang một tấm lịng yếu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria. Tất cả những ai đã một lần gặp được khuôn mặt kiều diễm của Mẹ sau nhiều ngày đêm thao thức thì lại thấy trong lịng vang lên tiếng mời gọi đến gặp Mẹ nhiều hơn. Tất cả những ai gặp khuơn mặt thánh thiện của Mẹ thị đều run sợ và nhận ra thân phận tội lỗi của mình để xin sự thứ tha của Chúa và để bắt đầu lại cuộc sống của mình.
Câu chuyện về Đức Mẹ Bạch lâm Hiển dung và những cảm nghiệm về hiện tượng đó có lẽ cũng gợi lại cho chúng ta câu chuyện về biến cố Chúa Giêsu hiển dung cách đây hơn 2000 năm. Vậy thì đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu hiển dung?
– Trước hết, biến cố hiển dung là biến cố chứng thực cho sự sống sau cái chết.
Quan niệm của người Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên, trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung các môn đệ có thể khẳng định một cách không sai lầm rằng có thế giới bên kia, và hai vị đại tiên tri đang sống hạnh phúc trong thế giới đó.
– Thứ đến, biến cố hiển dung là biến cố biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.
Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu. Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp mặt xuống đất: “Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng sáng như sơn tuyết”. Rạng ngời đến độ các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tuyệt cú mèo rồi. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều….. Rõ ràng nếu các môn đệ không nhìn thấy vinh quang thần tính của Đức Giêsu thì các ông không thể có những phản ứng như thế. Dù vinh quang ấy chỉ một thoáng thôi cũng đủ làm cho các môn đệ ngây ngất cõi lòng.
– Sau nữa, biến cố hiển dung còn là biến cố khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Ta thấy rằng khi Chúa Giêsu bị bắt thì ít là có 2 trong 3 môn đệ đã từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều này chứng tỏ niềm tin của 3 môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài”. “Lời Ngài” mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ, tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.
Khi tái khám phá những ý nghĩa của biến cố hiển dung, chúng ta được mời gọi điều gì? Chúng ta được mời gọi mỗi khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, hãy chiêm ngắm biến cố hiển dung để hy vọng, để cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau. Sau nữa chúng ta còn được gọi mời khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể vượt qua những thử thách đau thương trong cuộc đời này.
.
Lm JB. Nguyễn Minh Phương
Người Việt Nam đã quan niệm “Sống gửi thác về”.
Quan niệm này thật đáng trân trọng. Tuy nhiên “về đâu” thì lại còn tùy thuộc vào kinh nghiệm tâm linh của từng người.
Riêng người tín hữu, được lời Chúa hướng dẫn, trên cuộc lữ hành trần thế, họ bước đi theo ánh sáng của vinh quang thiên giới mà đích đến sẽ là quê trời vĩnh cửu.
Là người, ai cũng cần đến nhu cầu vật chất để tồn tại. Để có vật chất, nhiều người đã vất vả ngược xuôi để tìm định cư nơi những miền đất trù phú tràn trề sữa mật…; không ít người xây dựng cuộc đời trên những theo cách trần thế. Nhiều vị vua trần gian còn xây những lăng mộ cho chính mình để kéo dài sự tồn tại của bản thân bên kia cái chết.
Trái lại, ngày nọ, trong khi ông Áp-ra-ham già nua cùng với gia đình sống giàu sang sung túc thì Đức Chúa đã kêu gọi ông phải từ bỏ tất cả để đi theo tiếng Chúa (x. St 12, 1-9). Đức Chúa đã hứa ban cho cho ông: có đất làm gia nghiệp, có con để nối dõi. Người còn hứa ban cho ông được dòng dõi đúc như những vì sao trên vòm trời. Để giữ đúng lời hứa, Đức Chúa đã kết giao ước với ông (x. St 15, 5-12.17-18).
Thì ra, tất cả sang trọng của thế gian chỉ là phù vân; của cải, tài sản, niềm vui, ngay cả những khôn ngoan của con người cũng chỉ là phù vân. Ông Áp-ra-ham đã không rơi vào cơn cám dỗ đắm mình trong những phù vân. Ông đã hoàn toàn tin tưởng Đức Chúa và bước đi theo đường lối của Người.
Nối tiếp lòng tin của ông Ap-ra-ham, hôm nay, các môn đệ Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê cũng theo Đức Giêsu lên núi và đã chiếm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu.
Trên núi cao Đức Giêsu đã mạc khải chính Người là trung tâm của lịch sử khi đàm đạo với hai nhân vật đặc biệt trong lịch sử cứu độ: ông Mô-sê đại diện cho lề luật, ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ. Như thế, tất cả lề luật và lời dạy của các ngôn sứ đã hướng về Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người.
Đang khi Đức Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa (Lc 9, 28). Thánh Mác-cô còn xác định “Y phục người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9, 3). Rõ ràng không có điều gì ở trần gian có thể so sánh được với Đức Giêsu. Người là Thiên Chúa vĩnh cửu “là một hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời (Dt 13, 8).
Dung mạo Đức Giêsu rực rỡ, y phục Người đã chói lòa vinh quang thiên giới. Vinh quang ấy đã tỏa sáng trên cuộc đời các môn đệ, cuốn hút các ông đến nỗi ông Phê-rô tràn ngập niềm hạnh phúc quyết định nhanh chóng và vui sướng thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a” (Lc 9, 33).
Vinh quang thiên giới đã được Đức Giêsu mạc khải và cuốn hút ông Phê-rô khiến ông quên đi tất cả chuyện trần gian, quên luôn bản thân mà chỉ còn biết phục vụ Thiên Chúa, phục vụ lề luật, phục vụ lời ngôn sứ, phục vụ ơn cứu độ.
Vinh quang thiên giới tiếp tục cuốn hút thánh Phao-lô khi ngài xác tín: “Quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl3, 3) và mời gọi: “Anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (Pl 4, 1).
Vinh quang thiên giới cũng đang cuốn hút người tín hữu hướng tới và mở ra cho họ cách thế để đạt thấu bằng đời sống đón nhận và “vâng nghe lời Người” (Lc 9, 35).
Vinh quang thiên giới đã được Đức Giêsu mạc khải nhưng trong thực tế nhiều người trong nhân lọai vẫn “sống đối nghịch với thập giá của Đức Ki-tô” (Pl 3, 18). Họ chỉ nghĩ đến “cái bụng” nghĩ đến chuyện thế gian, đắm mình trong những đam mê của thế trần,
Mùa chay thánh là lúc Hội Thánh khẩn thiết nhắc nhở người tín hữu:
– Hướng về Chúa Giêsu nguyện xin Người soi sáng để cảm nhận ánh sáng siêu nhiên của Chúa đang chiếu soi tâm hồn mình và sẽ cuốn phăng đi những tội lỗi và thay thế vào lòng yêu mến Chúa và dấn thân yêu thương phục vụ tha nhân.
– Từ bỏ cái tôi hầu mở rộng tấm lòng thiện chí để vâng nghe lời Chúa, để ý thánh Chúa được lớn lên trong cuộc đời, để ý kiến của người khác được đón nhận, để cộng đòan được hòa điệu hầu trở thành nơi tin tưởng chốn yêu thương.
– Nhìn mọi sự với ánh mắt tâm linh để chọn lựa thánh ý Chúa, hầu tự chủ đới với bản thân, kiên nhẫn với người vô kỷ luật, nâng đỡ những người yếu, khuyến khích người nhút nhát, luôn làm điều thiện.
– Theo gương Đức Giêsu, trước những thử thách không óan trách thiên hạ, đối thủ, xã hội, Thiên Chúa… không chui vào cái vỏ tủi thân, cay đắng buông xuôi chán đời… nhưng đón nhận đón nhận khổ chế như cơ hội “vàng” để rèn luyện và thánh hóa bản thân nên giống Chúa Giêsu.
Tất cả những điều nêu trên sẽ thể hiện qua những việc thực hành đạo đức: gia tăng cầu nguyện, xưng tội, dâng lễ, nghe giảng dạy, chay tịnh, khổ chế… hầu trở thành thói quen nhân đức khiêm tốn, giúp tan biến đi những tội lỗi hư đốn, thêm sức mạnh để vực dậy những đau khổ, hướng đến quê trời là niềm hy vọng bất diệt.
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp. Sử dụng những tiện ích trần gian thuộc họat động chính đáng của con người.
Tuy nhiên, mùa chay Hội Thánh nhắc nhở người tín hữu đừng ngủ quên trong những phù vân trần thế mà hãy chọn con đường về trời là con đường luyện tập chiến đấu thiêng liêng.
Con đường ấy Đức Giêsu đã đi với thập giá trên vai.
.
NÚI TABOR VÀ CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY
Lm. Nguyễn Hữu Thy
“Thật phi thường! Quá trời! Không thể tưởng tượng được! Số dách! Số một! Kinh khủng! Hạng nhất!” và còn bao nhiêu danh từ kỳ cục khác, nếu không nói là nhiều khi còn vô nghĩa nữa, mà chúng ta đã xử dụng khi phải diễn tả một sự kiện ngoại thường mà chúng ta chưa tìm ra được những danh từ và những ý niệm thích hợp. Ðó là những sự kiện hay biến cố điển hình đã làm cho chúng ta quá sung sướng và ngạc nhiên, những sự kiện và biến cố cực kỳ lạ thường, độc nhất vô nhị và không sao diễn tả hết! Và trong hoàn cảnh đó, chúng ta thường nói: “Tôi không có đủ lời để nói; nó làm cho tôi hết đổi sững sờ và không sao nói lên lời; thật không sao diễn tả hết!”
Các môn đệ xưa kia cũng đã từng đứng trước những trường hợp kỳ lạ tương tự. Bởi vì Ðức Giêsu đã làm những việc “có một không hai”, như: Người làm cho bệnh nhân nan y lành mạnh, mở mắt người mù, cho người chết sống lại, v.v… Nhiều người sau khi gặp gỡ và nói chuyện với Người đã cảm thấy được giải thoát, cảm thấy lòng mình thơ thới nhẹ nhàng, đầy vui mừng. Họ trở nên lạc quan và như được biến đổi hoàn toàn. Vì thế, xưa kia các môn đệ chắc chắn cũng đã tự hỏi: “Làm thế nào mà Người có thể hành động được như vậy, là thay đổi được bao nhiêu người khác và cả chính chúng tôi nữa?”
Những điều được tường thuật trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, đã giúp cho các môn đệ – ít là từ từ – hiểu được Ðức Giêsu cách sâu xa và rõ ràng hơn.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt, và đã trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Thế nhưng biến cố Tabor đối với các môn đệ vào lúc bấy giờ còn là một điều xa lạ, không trực tiếp liên quan đến họ. Họ chỉ nhìn thấy được trong biến cố đó sự quan hệ của Ðức Giêsu với Thiên Chúa, Cha của Người, trong sự vinh quang thần thiêng, chứ họ chưa cảm nhận được rằng biến cố đó xảy ra là vì họ. Chẳng những thế, họ còn tỏ ra rối rắm và mất hết tự chủ. Bởi vì một biến cố như thế không nằm trong khả năng hiểu biết về đức tin, cũng như không thuộc về phạm vi thực hành đức tin của họ. Họ cảm thấy mình là những người ngoại cuộc! Cũng vì thế họ đã ngủ gật, tương tự như sau đó ít lâu tại Vườn Cây Dầu: Trong khi Ðức Giêsu đầy lo âu sợ hãi trước cuộc khổ nạn, đến đổ mồ hôi máu ra, thì các môn đệ vẫn dửng dưng và ngồi ngủ gật!
Chỉ sau đó khá lâu, các ông mới khám phá ra được ý nghĩa quan trọng của biến cố Tabor. Ðó là lúc các ông cảm nhận và hiểu rõ được cuộc khổ nạn vả sự vinh hiển trong biến cố phục sinh của Ðức Giêsu. Bấy giờ lòng trí các ông mở ra và hiểu được những gì mà các ông đã từng cảm nhận và từng chứng kiến phần nào trong cuộc sống trần thế của Ðức Giêsu. Nhất là họ hiểu được một cách sâu xa đầy đủ, tại sao họ cần phải lắng nghe các giáo huấn của Ðức Giêsu và chiêm ngưỡng cuộc đời của Người. Bởi vì đã có tiếng từ trời bảo họ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”
Dĩ nhiên đối với Phêrô, Gioan và Giacôbê: Biến cố trên núi Tabor là một hiện tượng có một không hai. Ðó là một biến cố không ai có thể áp đặt hay tạo ra được. Ðối với ba ông, đó là một điều ngoại lệ. Ðể hiểu được như vậy, đòi hỏi người ta phải có tâm hồn cởi mở và thuần phục. Nếu không, người ta sẽ nói ngay: “Ðiều đó chẳng có gì liên quan tới tôi cả! Tôi chẳng có ý kiến gì về chuyện đó cả!”
Những biến cố đặc biệt và độc nhất vô nhị trên núi Tabor, ngày nay cũng vẫn còn xảy ra trong nhiều lãnh vực – thuộc tôn giáo cũng như dân sự -, thí dụ:
Những ai khi đi vào trong rừng rậm xa lạ, mà vẫn tìm ra lối đi, chứ không bị lạc đường, sẽ cảm thấy sung sướng.
Một nhà thể thao sau khi đã đạt được những thành công vàng son của mình, anh sẽ bày tỏ cho người khác hay sự hạnh phúc của mình. Và anh càng được động viên trong những nỗ lực mới.
Khi một người nhận được sự thông cảm và tha thứ mà anh không dám chờ đợi. Phải chăng đó không phải là một sự kiện quan trọng đáng mừng?
Hay khi một người có được một cảm nghiệm ngọt ngào và đầy an ùi trong khi cầu nguyện, mà người đó không hề dám nghĩ tới. Ðiều đó chắc chắn sẽ giúp anh ta rất nhiều trong việc tiếp tục trông cậy vào Thiên Chúa hay lại có được sự phó thác vào Thiên Chúa, v.v…
Vâng, đức tin của chúng ta sống nhờ những cảm nghiệm đặc biệt và cả những cảm nghiệm bình thường hằng ngày. Trong cuộc sống cụ thể, nhiều khi chúng ta cảm thấy lòng đầy sốt sắng và hạnh phúc trong việc đọc kinh xem lễ, và chúng ta rất vui mừng khi tiếp xúc với cộng đồng dân Chúa. Thế nhưng, thường tình thì chúng ta lại phải đối mặt với cuộc sống vật lộn hằng ngày.
Ðúng vậy, Ðức Giêsu không để các môn đệ ở lại trên “núi Tabor của những an ủi” lâu, ngay sau đó Người đã dẫn họ trở lại với cuộc sống thường nhật của họ. Người không để họ xây dựng những căn lều trên núi Tabor, nhưng ở dưới thung lủng của cuộc sống đức tin hằng ngày với bao những thử thách. Vâng, cuộc sống hằng ngày phải thực sự là nơi các môn đệ vâng nghe Ðức Giêsu, là nơi họ phải hướng nhìn lên Người, và là nơi họ phải bước theo Người.
Tuy nhiên, biến cố trên núi Tabor vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của họ trong suốt tiến trình theo Ðức Giêsu. Cũng vậy, trong cuộc sống đức tin, trong cuộc sống đạo hằng ngày, chúng ta cần có ơn an ủi đỡ nâng của Thiên chúa, để chúng ta có thêm sức mạnh chống chọi với các thách đố của cuộc sống, nhưng chính chúng ta phải tự ra tay chiến đấu lấy. Và để cuộc chiến đấu đức tin đạt được thắng lợi, chúng ta phải thực hành theo lời khuyên đến từ trời cao: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Amen.
.
Lm. Nguyễn Minh Chánh
1/ Trong cuộc sống khi làm bất cứ việc gì cũng đòi hỏi một sự đầu tư tương xứng. Muốn làm một ngôi nhà đẹp và hiện đại, thì đòi hỏi đầu tư tiền của thật nhiều, thời gian xây dựng cũng không phài là ít, về phương diện mỹ thuật cũng không quá xơ xài. Hay trong lãnh vực tinh thần: Một người nam muốn đi tu làm linh mục cũng phải trải qua thời gian tu học thật chu đáo trong môi trường đào tạo, thật nghiêm túc đối với bản thân. Đến khi tuyển chọn để phong chức linh mục khách quan phải có sự đánh giá rất nghiêm túc của bề trên, của những vị có trách nhiệm về cách sống của ứng viên qua quá trình tu học, cũng như thời gian thực tập mục vụ…
Như vậy dầu trong lãnh vực tinh thần hay vật chất, nếu ta không đầu tư cho công việc cách chính trực và chính đáng thì sẽ không thu lợi, nhưng đó là điều bất lợi cho cá nhân và tập thể, cuối cùng sẽ gây nên tai hại khó lường.
2/ Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô trong tư cách là con người, Chúa cũng đi theo quy luật trên. Khi chiêm ngắm sự kiện Chúa biến hình trên núi Tabor, đó là câu trả lời cho chúng ta biết trước sự kiện Chúa hiển dung là kết quả công trình đầu tư của Đức Giêsu. ” Đang khi Chúa cầu nguyện dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà”(Lc 9,29). Đây là hình ảnh báo trước về cuộc phục sinh siêu tôn của Chúa. Thế nhưng để đi đến con đường vinh quang phục sinh, trước hết Chúa phải trải qua con đường đau khổ, đường thập giá, cuối cùng là cái chết. Vì tám ngày trước khi Chúa biến hình, Chúa đã báo trước cho các tông đồ biết là Ngài” phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”(Lc 9,22).
Như vậy đường phục sinh vinh hiển mà Chúa đến đó không phải là con đường rộng dễ đi, nhưng là con đường phiêu lưu với nhiều khó khăn và đau khổ. Hơn nữa đó không phải là con đường để Chúa thể hiện sức mạnh bằng cuộc chiến đấu tranh giành theo kiểu trần thế, nhưng là con đường Chúa hạ mình nhận lấy phần xấu nhất của loài người qua việc đón nhận thập giá và chết trên thập giá. Con đường này là con đường Chúa Giêsu đầu tư theo Thánh ý Chúa Cha khi cứu độ loài người. Công trình ấy còn rất quan trọng cho con người, vì có liên quan đến sự sống vĩnh cửu của con người.
3/ Thông thường ai trong chúng ta cũng muốn sống và sợ chết. Riêng đối với sự sống vĩnh cửu thì chúng ta lại càng mong muốn hơn. Thế nhưng muốn được sống hạnh phúc vĩnh cửu, chúng ta hãy can đảm đầu tư cho sự sống cao quý ấy ngay từ bây giờ. Phải hy sinh từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý Chúa, chấp nhận thập giá và chết trên thập giá. Đây như là một kiểu nói rất quen thuộc đối với chúng ta, bên cạnh đó vẫn còn rất xa với hành đông đáp trả của chúng ta. Lý do đa số chúng ta chưa cảm nghiệm đầy đủ về chiều sâu, chiều rộng, chiều cao của thập giá Chúa Giêsu. Hay phần nhiều chúng ta còn rất mơ hồ về ý nghĩa thập giá của Chúa trong đời sống của mình. Từ đó chúng ta rất xa lạ với thập giá, rất sợ đón nhận thập giá. Khi càng xa lạ và càng loại trừ thập giá ra khỏi đời sống, chắc chắn công trình đầu tư cho đời sống vĩnh cửu của chúng ta sẽ kém chất lượng, nó giống như “người ngu dại xây nhà trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”(Mt 7, 26-27).
4/ Người ta kể một câu chuyện tưởng tượng nhưng mang một ý nghĩa sâu sắc:
Một đoàn người bước theo Chúa Giêsu với thập giá trên vai. Chúa Giêsu dẫn đầu cũng mang thập giá mà Ngài đã vác hôm xưa trên đường núi sọ. Trong đoàn, có một chàng thanh niên kéo lê thập giá của mình một cách mệt mỏi. Miệng anh luôn kêu trách phàn nàn vì nghĩ rằng thập giá anh nặng hơn và dài hơn của những người khác. Chẳng mấy chốc anh là người kéo lê cuối đoàn. Cuối cùng anh quyết định dừng lại và cưa bớt thập giá của anh một đoạn để có thể nhẹ nhàng bắt kịp những người đi trước. Khi đoàn đến cuối đường thì gặp một hố sâu. Chúa Giêsu bảo: Bây giờ mỗi người hãy đặt thập giá mình ngang qua miệng hố làm cầu và tiến vào thiên đàng. Chúa Giêsu đặt thánh giá của ngài xuống và bước ngang qua, những người khác cũng đều làm theo, lạ lùng thay, thập giá cỡ nào cũng vừa khoảng cách hai bờ miệng hố, tất cả mọi người theo Chúa Giêsu đều vào thiên đàng, ngoại trừ anh chàng kia, vì anh cưa ngắn một đoạn thập giá nên anh không được vào thiên đàng.
Câu chuyện trên như muốn dạy chúng ta bài học: Khi càng tạo thập giá theo ý mình thì chúng ta sẽ loại trừ thập giá của Chúa ra khỏi đời ta. Vì Chúa muốn chúng ta vác thập giá theo ý Chúa chứ không phải theo ý ta. Hơn nữa khi càng xa thập giá của Chúa trong đời sống thì con đường hạnh phúc mai sau sẽ rất xa lạ đối với chúng ta. Ngược lại khi chấp nhận vác thập giá theo ý Chúa, thì mỗi ngày chúng ta sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Khi đời ta luôn gắn bó với thập giá của Chúa thì đó là dấu hiệu chúng ta đang gắn bó với hạnh phúc sau này.
Mẹ Maria là người rất có kinh nghiệm về việc vác thập giá trong đời. Xin Mẹ giúp chúng ta ngay từ bây giờ biết làm quen với thập giá của Đức Giêsu, biết vui lòng đón nhận thập giá của Đức Giêsu. Vì muốn vươn đến cuộc sống toàn thiện mai sau, điều cơ bản chúng ta phải từ bỏ tất cả để vác thập giá theo Đức Giêsu. Đây chính là cuộc đầu tư chính xác nhất cho sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng. Vì qua sẽ đau khổ đến vinh quang.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Mùa Chay là thời gian tập chiến đấu và chiến thắng ma quỉ cũng như các khuynh hướng xấu để đổi mới con người cũ của mình, làm cho linh hồn trở lại thời thanh xuân của ân sủng. Vì thế, mỗi năm, vào Chúa nhật thứ hai mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng về việc Đức Giêsu biến hình để khích lệ chúng ta.
Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín của mình là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabor và đã biến hình trước mặt các ông. Nói khác đi, Đức Giêsu đã cho rạng sáng lên trong giây lát cái vinh hiển của “hình dạng” Thiên Chúa, đã bị che giấu đi trong cái “hình dạng” con người của Ngài. Vì thế, Tin mừng cho biết : Ba môn đệ thấy vinh quang của Ngài.
Đây là dịp Đức Giêsu cho ba môn đệ trông thấy trước vinh quang sáng chói của Ngài, nhìn ra con người thật của Ngài; đồng thời chuẩn bị tinh thần cho các ông , giúp các ông bình tĩnh trước cuộc khổ nạn của Ngài. Qua biến cố này, Đức Giêsu dạy cho các ông một bài học xem ra khó thực hiện đối với các ông nhưng là một điều kiện thiết yếu : phải chết đi rồi mới được sống lại, phải qua thập giá thì mới tiến tới vinh quang : Per crucem ad lucem !
Qua việc biến hình của Đức Giêsu, Giáo hội muốn cho chúng ta trong Mùa Chay thánh này phải bắt chước Đức Giêsu mà thay hình đổi dạng, phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện, phải chết đi cho tội lỗi mà sống cho Chúa để qua cuộc lột xác này mà trở thành một tạo vật mới xinh đẹp với ân sủng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : St 15,5-12.17-18.
Nhân loại cũ do Adong kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từø Abraham. Vì thế, Thiên Chúa ký kết giao ước với ông.
Giao ước được trình bầy dưới dạng một bản giao kèo theo tập tục các chiến binh thời đó : được đóng ấn bằng việc xẻ thịt một bò cái tơ, một dê cái và một cừu đực. Giao ước giữa Thiên Chúa và Abraham sửa soạn cho một giao ước sẽ ký kết giữa Thiên Chúa và Israel tại núi Sinai (Xh 19). Thiên Chúa nhận của lễ Abraham dưới hình dạng ngọn lửa thiêu. Theo giao ước này, nếu Abraham nhận Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ ban cho ông hai điều : một dòng dõi đông đúc và một vùng đất rộng rãi phì nhiêu.
+ Bài đọc 2 : Pl 3,17-4,1.
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước ngài. Sở dĩ ngài dám nói như thế là vì ngài muốn nhắc lại cuộc trở lại của mình với Đức Kitô và từ đây ngài hết lòng tin tưởng theo gương ông Abraham ngày xưa đã tin tưởng vào Thiên Chúa.
Ngài muốn hiệp thông cùng cuộc tử nạn và Phục sinh với Đức Kitô. Ngài khuyên nhủ các tín hữu đừng bắt chước những người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô, họ là những kẻ hưởng lạc chỉ nhắm những sự thấp hèn đời này, mà hãy kiên trì theo đuổi việc chạy đua đến vương quốc trên trời, nơi họ sẽ được hoàn toàn hóa thân trong Đức Kitô, vì “quê hương chúng ta ở trên trời”(Pl 3,20).
+ Bài Tin mừng : Lc 9, 28b-36.
Trong trình thuật của thánh Luca về cuộc biến hình cách mầu nhiệm, chúng ta chú ý đến chi tiết Đức Giêsu đàm đạo với ông Maisen và ông Êâlia về cuộc “xuất hành” của Ngài tại Giêrusalem, ý nói đến cuộc tử nạn của Ngài sẽ được thực hiện tại đó.
Cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa là hình ảnh cuộc xuất hành của Ngài ngày nay. Ngày xưa trong cuộc xuất hành, Maisen đã dẫn dân ra khỏi đất nô lệ, thì giờ đây, Đức Kitô là Maisen mới sẽ dẫn đưa mọi người thoát khỏi cảnh thống trị của sự dữ.
Chi tiết thứ hai là đám mây trắng tinh sáng ngời là điềm tiên báo sự phục sinh, lên trời của Chúa và của chúng ta, nếu chúng ta nghe Lời Chúa và theo gương Chúa cho đến cùng.
Việc biến hình trước mặt ba môn đệ thân tính hé mở cho ba ông thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.
- Khung cảnh cuộc biến hình.
Câu chuyện Đức Giêsu biến hình đã được Tin Mừng nhất lãøm tường thuật theo một tài liệu duy nhất. Biến cố biến hình này xẩy ra khoảng 8 ngày sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài, và cũng xẩy ra đồng thời khi ông Phêrô truyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Lc 9,20). Và Đức Giêsu, khi đón nhận lời tuyên xưng ấy, đã dùng cuộc biến hình này để chỉ cho các tông đồ thấy trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng cho các ông thấy rõ ý nghĩa cuộc thử thách mà Ngài đã loan báo, tức là cuộc thương khó và cuộc tử nạn sắp xẩy đến.
Đức Giêsu chỉ đem theo ba Tông đồ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi như xưa ông Maisen khi lên núi Sinai đã đem theo một số người đồng hành (Xh 24,9). Ba ông này được chọn riêng trong 3 trường hợp :
– Chúa cho con ông Giairô sống lại (Mt,9,18).
– Chúa biến hình (Mt 17,1)
– Tại vườn Cây dầu (Mt 26,3).
Đang khi các ông ngủ, Đức Giêsu biến hình trước mặt các ông. Thánh Matthêu và Marcô thì dùng chữ “biến hình”, còn thánh Luca thì nói là “dung mạo Ngài biến đổi khácthường”. Tuy dùng từ khác nhau nhưng đều nói lên việc Đức Giêsu biến đổi con người nên sáng láng tốt đẹp vô cùng, làm cho các ông ngây ngất đến nỗi không biết mình đang nói gì. Các ông còn được thấy sự hiện diện của ông Maisen và ông Eâlia, và cũng được nghe tiếng từ trời xuống:”Đây là Con Ta yêu dấu, Người được Ta tuyển chọn. Hãy vâng nghe lời Ngài”.
Các ông đã nghe nhưng không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn” trong biến cố Vượt qua, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.
- Mục đích cuộc biến hình.
Đức Giêsu chỉ đưa ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi để chứng kiến việc Ngài biến hình vào khoảng 8 ngày sau khi Ngài báo tin cho môn đệ biết : Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ… bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ngài cũng bảo : Ai muốn đi theo sau Ngài thì hãy từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài. Những lời ấy không làm cho môn đệ an tâm, nên Ngài đã hứa sẽ cho một số môn đệ có mặt đó được thấy vinh quang của Ngài.
Do đó, việc Đức Giêsu biến hình có 2 mục đích :
– Thứ nhất, Đức Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thân tín và mọi người biết rõ ràng Ngài là Thiên Chúa làm người. Bởi vì người Do thái nói chung và nhất là các môn đệ, đã sống gần Ngài 3 năm rồi, đã nghe biết bao nhiêu lời Ngài giảng dạy, và đã chứng kiến nhiều phép lạ Ngài làm, nhưng họ chỉ thấy Ngài là một người như mọi người khác, họ không thấy chân tướng đích thực của Ngài.. Hôm nay qua sự biến hình, Ngài cho họ thấy rõ Ngài là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.
– Thứ hai, Ngài muốn củng cố đức tin cho các môn đệ. Bởi vì Ngài thấy các ông quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã hé mở sự vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để tăng thêm cho các ông niềm tin và hy vọng vào ngày mai. Như vậy, việc Chúa biến hình cũng dạy bảo cho các môn đệ biết : phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang bởi vì không ai có thể “Ngồi mát ăn bát vàng”.
II. CHÚNG TA CŨNG PHẢI BIẾN HÌNH.
Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đã được tha tội tổ tông và tội riêng, linh hồn ta đã được trong sạch sáng láng như các thiên thần, xứng đáng là nơi Chúa ngự. Nhưng qua thời gian, qua những thămg trầm của cuộc sống và bị ma quỉ cám dỗ, chúng ta đã sa ngã và làm cho linh hồn chúng ta ra nhơ bẩn, linh hồn cần phải được tẩy sạch để trở nên tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu. Vậy Mùa Chay là thời gian thuận lợi để linh hồn được biến hình đổi dạng để trở nên con người mới hoàn thiện hơn.
- Nhu cầu cầu được biến đổi.
Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm bản thân của Ngài về sự biến đổi đó nên Ngài đã nói:”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-24).
Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta những kinh nghiệm quí giá về đời sống tâm linh của Ngài mà không ai trong chúng ta có thể chối cãi được. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, Ngài đã cho biết : trong con người của Ngài có hai lực lượng xung khắc nhau kịch liệt, làm cho Ngài phải bận tâm và đau khổ, và ngài không thi hành được cái ngài muốn :
“Điều tôi làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính những điều tôi ghét”(Rm 7,15).
“Sự lành tôi muốn, tôi lại không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành”(Rm 7,19)..
Nhưng cũng may, trong con người chúng ta, tuy có hai lực lượng xung khắc nhau, nhưng luật của Thiên Chúa vẫn còn đủ sức mạnh để lôi kéo ta làm việc lành, chứ không phải buông theo luật của xác thịt:
“Tôi hớn hở đồng ý với luật của Thiên Chúa theo con người bên trong, nhưng tôi thấy một luật khác nơi chi thể mình tôi, cự lại luật của lương tri tôi, và giam tù tôi trong luật của sự tội nơi chi thể mình tôi”(Rm 7,22-23)
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô bảo tín hữu Philipphê hãy noi gương đổi mới của ngài. Ngài đã đổi đời từ kẻ hung ác bắt bớ hành hung các tín hữu của Đức Giêsu trở thành tông đồ hăng hái nhiệt tình rao giảng Đức Giêsu. Nhưng còn nhiều kẻ chưa đổi đời như ngài, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã thương khóc họ, vì họ sẽ phải hư vong. Ngài cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống khăng khít với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của thánh Phaolô.
Truyện : Văn hào André Froissard.
Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ôâng đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, Tổng thư ký đảng Cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố:”Nếu có Thiên Chúa, thì tôi khuyên “ông ấy” lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định:”Khi người ta may mắn được gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8.4.1988)
- Biến đổi và thập giá.
Có một mối tương quan giữa thập giá và vinh quang. Sự Chúa biến hình trên núi Tabor hôm nay đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, cho chúng ta thấy trước sự vinh quang với Chúa. Nhưng muốn biến đổi không phải là chuyện đơn giản vì nó không phải là cái gì có sẵn, hay dễ dàng, mà đòi hỏi thời gian, vì đây là một tiến trình vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi chúng ta phải đối diện với thực tại hằng ngày của cuộc sống, nhiều khi phải lội ngược dòng đời, lột xác từng tí một, nhiều lúc phải chịu thử thách, đắng cay, mất mát. Hôm nay 5 đầy tớ ưu tuyển của Chúa, tiêu biểu cho cả Cựu ước lẫn Tân ước cùng chứng kiến sự kiện lạ lùng này. Họ cũng được can dự vào sự “biến đổi”.
Trong mùa chay này, Giáo hội cho chúng ta đọc đoạn Tin mừng này để khích lệ chúng ta, nghĩa là bảo cho chúng ta biết : khổ giá mà không có vinh quang phục sinh thì khổ giá vô nghĩa. Vinh quang Phục sinh mà không có khổ giá thì vinh quang không bao giờ có được. Vì thế, mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cũng nói đến Phục sinh vinh quang. Cũng vậy, sau khi nói về cuộc khổ nạn sắp xẩy đến, Đức Giêsu đã biến hình để các môn đệ thấy vinh quang của Ngài, để động viên khích lệ các ông và dạy cho các ông cũng như mọi người biết rằng : đau khổ chỉ là bước đường phải đi qua để đưa chúng ta tới quê trời, tới hạnh phúc đích thực mà mọi người mong đợi.
Truyện : Con sâu thành con bướm.
Có một con sâu nhỏ bò mãi, cho đến thời điểm cuối của cuộc đời thì tới thiên đàng. Nó gõ cửa, một giọng nói phát ra từ bên trong :
– Không có sâu bọ nào được phép vào đây. Ta thấy ngươi quá vội vã đấy.
– Lạy Chúa, xin dạy cho con biết phải làm gì bây giờ ?
– Chịu đựng hơn một chút nữa, chiến đấu một chút nữa, và hãy biến thành bướm đi.
Thế là con sâu quay lại trần gian bắt đầu lại cuộc hành trình bò lên thiên đàng. Nó bò nhanh hơn, cố gắng nhiều hơn. Mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi càng đổ ra, sức lực nó càng tiêu hao, nó càng cảm thấy nhẹ nhàng để bò nhanh hơn. Gần tới cửa thiên đàng rồi nhưng nhìn lại nó vẫn là con sâu xấu xí, khốn khổ. Nhưng nó vội xua nỗi buồn bằng sự cố gắng chính mình, nó rướn người lên và cảm thấy tàn hơi, kiệt sức. Chính lúc nó cúi đầu tuyệt vọng lại là lúc nó chợt cảm thấy thân hình nó nhẹ nhàng lạ thường. Nó đã hóa thành chú bướm xinh xắn bay vào khung cửa thiên đàng đang rộng mở. Nó đã biến hình trọn vẹn.
Con sâu biểu tượng mỗi con người chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin đời mình. Chúng ta khao khát bò lên cao trên đường thánh đức với bao nỗi nhọc nhằn, vất vả. Vì phải chiến đấu chống lại những chước cám dỗ nội tâm để đáp trả tiếng nói của chân lý, hay phải đối diện với những cám dỗ thế gian đang phơi bầy trước mắt, khiến chúng ta thường có tư tưởng buông xuôi.
Tội lỗi, yếu đuối và sự nhát đảm như chiếc vỏ bọc gồ ghề vây hãm chúng ta. Đó là lớp vỏ chúng ta cần thoát ra để trở thành con người hoàn hảo, tỏa sáng như Đức Kitô trên núi thánh nhờ vào thái độ quy phục thánh ý Cha trên trời, “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Vì chính lòng nhẫn nại tín trung vào ơn Chúa sẽ giúp chúng ta thoát khỏi mọi nghi ngại, mọi suy tính đầy vụ lợi. Và lòng khiêm nhường thẳm sâu sẽ phá tung lớp vỏ kén tự mãn để trao tặng chúng ta đôi cánh đức tin hy vọng cao bay xuyên qua những đám mây mờ của tháng ngày thử thách gian ngay (Theo Internet).
- Ơn gọi biến đổi con người.
Việc Đức Giêsu biến hình là mẫu gương cho mọi người noi theo để cố gắng biến đổi con người cũ thành con người mới, từ loài sâu bọ trở nên con bướm xinh đẹp. Mọi người đều có ơn gọi biến đổi không trừ một ai.
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamia tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền : bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ôâng lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng. Diệt cái kiêu căng và cuồng tín biệt phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách mắng nhẹ:”Saulê, sao ngươi bắt bớ Ta”? Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông đồ Dân ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa, từ gái giang hồ thành thánh nhân, từ trai tứ chiếng nên Đấng lập Dòng, từ kẻ khô khan đến người sốt mến, từ người tham lam, hà khắc trở thành người rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xẩy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân (Carôlô).
Trong việc làm biến đổi con người mình, người ta phải nỗ lực chứ không phải khoán trắng cho Chúa. Chúa không muốn làm biến đổi thay cho chúng ta mà Ngài chỉ trợ lực để chúng ta làm lấy công việc này :”Hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp cho” (Ngạn ngữ Pháp).
Truyện : Hãy tự giúp mình trước.
Người ta kể rằng : một bác tiều phu kia đi lấy được một xe bò củi chất đầy. Nhưng khi đi tới một khúc đường sình lầy thì đôi bò dừng lại. Xe bò sụn lún xuống bùn. Bác ta ngồi khóc than. Khóc một hồi, bác ta nhớ ra có một vị thần và bắt đầu van xin. Vị thần hiện ra phán bảo:”Thay vì ngồi khóc thì ngươi hãy ghé vai vào xe thử đẩy đi và ta sẽ giúp”. Bác tiều phu làm theo lời vị thần, cố gắng mọi cách, cuối cùng chiếc xe bò đã vượt qua khúc đường sình lầy.
Đó là ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết mọi việc. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta còn biết nhờ vả vào những người khỏe mạnh hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ Chúa, là Đấng toàn năng và hay cứu giúp. Ngài sẽ giúp chúng ta vượt thắng đau khổ nếu chúng ta tin tưởng, cậy trông và kêu xin Ngài.
- Cầu nguyện và biến đổi.
Trước những biến cố trọng đại, Đức Giêsu thường lên núi hoặc đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện, trò chuyện với Chúa Cha. Hôm nay cũng vậy. Đem theo ba môn đệ là những người đã theo Đức Giêsu từ những giây phút đầu tiên trong sứ vụ rao giảng. Các ông là những trụ cột của Giáo hội và vì thế, biến cố biến hình là biến cố rất quan trọng cho đức tin của các ông mà Đức Giêsu cách nào đó muốn tỏ hiện để củng cố niềm tin vốn còn yếu nơi con người các ông.
Ngược lại nếu không biết cầu nguyện, chỉ cậy dựa vào sức của mình, chỉ dùng những phương thế tự nhiên tuy là tối hảo thì “mèo vẫn hoàn mèo”, không thể tiến triển được trên đường biến đổi vì Chúa đã nói :”Sine me nihil potestis facere” : không có Ta các con không thể làm gì được.
Truyện : bốc cát cọ mình.
Người ta thuật lại rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia quyến người da đen ở. Gia quyến đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi, Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau cùng, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.
Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học sinh về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem màu da đen mất chưa. Chao ôi ! Mầu đen quá sậm cậu mất công toi.
Vài phút sau thầy giáo gọi cậu :
– Này em làm gì vậy ?
Cậu giật mình thưa :
– Con cố sức kỳ cọ hết màu da đen để nên người da trắng, song không sao được.
(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)
Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ sự cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi, chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi”, phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương (2Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay phải là khuôn mặt biến đổi.
Tóm lại, sự thay đổi là trọng tâm của Mùa Chay, và mục đích của Giáo hội là tìm cách cho con cái mình lãnh nhận dồi dào ân sủng, để biến đổi họ trong vui mừng của Mầu nhiệm Phục sinh. Hôm nay Chúa dạy chúng ta bài học cầu nguyện, cầu nguyện thật sự, đúng cách sẽ thay đổi được tâm hồn con người, sẽ làm cho người khác nhận diện được sự đổi thay lạ lùng – dĩ nhiên là qua những việc làm lành thánh -, đó là cầu nguyện, đàm đạo với Chúa về con đường đi đến đồi Calvê, con đường khổ giá của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn từng ngày, từng lúc.
Ước gì trong Mùa Chay thánh này, mỗi người tín hữu sẽ nhận ra được giá trị thật sự của sự cầu nguyện, biết trở về với Giáo hội để lãnh nhận ân sủng, những ơn cần thiết, được ban nhưng không, để cùng được biến đổi, cùng được dự phần vào ngày vinh thắng của Chúa. Nếu như không có thứ Sáu Chịu nạn, sẽ không bao giờ có Chúa Nhật Phục sinh. Đây là định luật bắt buộc cho bất cứ ai muốn tiến vào Vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
- Chúa sẽ biến đổi thân xác chúng ta.
Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng :”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Chúa sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta trong ngày sau hết. Với niềm tin tưởng ấy, thánh Phaolô, trong bài đọc 2, đã khuyên mọi người bắt chước Ngài, vì Ngài tin tưởng và hoàn toàn sống theo mầu nhiệm thập giá. Đang khi ấy có lắm kẻ sống như thù địch với thập giá của Đức Kitô. Họ lấy bụng làm Chúa và chỉ nghĩ đến những sự dưới đất. Họ đặt vinh quang nơi những điều đáng phải xấu hổ, ngay cả nơi phép cắt bì của người Do thái. Họ là những người chỉ cậy vào sức mình và chỉ lấy những mối lợi trước mắt làm hạnh phúc. Họ sẽ đi tới diệt vong.
Trái lại, quê hương của ta là trời cao, tự đó sẽ đến vị Cứu Chúa là Đức Giêsu Kitô. Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh quang của Ngài. Chính vì vậy mà chúng ta phải đi vào con đường thập giá, là con đường đã dẫn Chúa chúng ta đạt tới vinh quang.
.
Trầm Thiên Thu
Là người dày dạn kinh nghiệm, Thánh Augustinô nói về hạnh phúc: “Đức cậy khuyến cáo chúng ta coi nhẹ đời này là hư ảo, hy vọng tương lai là hạnh phúc. Người nào đem hy vọng của họ ký thác nơi chóng qua như mây khói ở đời này, đó là đi ngược lại đức cậy”.
Chắc hẳn chẳng ai có một định nghĩa chính xác nhất về hạnh phúc, vì mỗi người có quan niệm khác nhau. Người thì cho thế này là hạnh phúc, người thì cho thế kia là hạnh phúc, người lại cho thế nọ là hạnh phúc. Chẳng ai giống ai, quan niệm khác nhau thì cách sống cũng khác nhau. Quan niệm của Kitô hữu khác với quan niệm của người vô thần.
Liên quan vấn đề hạnh phúc, người ta có truyện kể thế này: Người nọ nghe nói có một đạo sư nổi tiếng nên tìm đến hỏi về đạo. Đến nơi, anh thấy trong nhà của vị đạo sư trống trơn, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cuốn sách.
Rất ngạc nhiên, anh ta hỏi: “Sao nhà của đạo sư trống trơn, không có đồ đạc gì cả?”. Đạo sư đáp lại bằng một câu hỏi: “Thế anh có hành lý gì không?”. Anh đáp: “Dạ, có một va-li”. Đạo sư hỏi: “Sao anh có ít đồ vậy?”. Anh đáp: “Vì đi du lịch nên chỉ đem ít đồ”. Đạo sư cười và nói: “Tôi cũng là một KHÁCH DU LỊCH QUA CUỘC ĐỜI NÀY nên KHÔNG MANG theo đồ đạc gì nhiều”.
Một câu nói mang triết-lý-sống thâm thúy. Chúng ta thường quên rằng mình cũng chỉ là “khách du lịch qua cuộc đời này” – lữ khách trần gian, nhưng lại lầm tưởng mình sẽ ở mãi nơi đây, nên tham lam, ôm đồm, tích trữ quá nhiều đồ vật, tài sản. Đàn bà lo tích trữ đủ loại quần áo, giầy dép, vòng vàng, nữ trang,… Đàn ông lo thu gom đủ thứ máy móc, xe cộ, ti-vi, điện thoại,… Có cái này rồi muốn có thêm thứ khác. Có cái gì rồi thì rất khó buông bỏ vì “nặng lòng” với nó, không dễ gì “gỡ” ra được!
Trong cuộc sống đời thường, người ta thường cho rằng hạnh phúc là có được cái này hoặc cái kia – như nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con ngoan, tài sản, địa vị, chức quyền,… Thế nên, khi chưa có thì người ta muốn có, làm đủ mọi cách để chiếm hữu; có rồi thì người ta sợ mất hoặc xem thường, rồi lại muốn có cái những thứ khác “cao cấp” hơn, nếu không thỏa mãn thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở,… Người ta không bao giờ bằng lòng với hiện tại, đúng như tục ngữ nói: “Đứng núi này trông núi nọ”. Cứ tìm kiếm hạnh phúc mà không thỏa mãn, giống như con chó cứ muốn cắn cái đuôi nó mà không thể.
Gọi là đời thường mà lại nhiêu khê và nan giải quá! Không “nhẹ” vì “nặng” sự đời, chứa”thoát” được. Nhưng đối với người biết tu thân, họ cảm thấy tình trạng “không có” là thanh thản và hạnh phúc. “Không có” ở đây là do trí tuệ quán chiếu, thấy mọi sự phiền toái đều do ham muốn mà ra. Bởi thế người tu thân không muốn có, không đòi hỏi, nếu đã có rồi thì họ vẫn thản nhiên, dửng dưng, không bận lòng về vật chất. Tại sao? Bởi vì những thứ “có” trên thế gian này đều là sự ràng buộc khó thoát ly. Một thanh niên giàu có muốn theo Chúa nhưng lại tiếc của cải vật chất nên anh ta lặng lẽ bỏ đi (x. Mt 19:16-22 ≈ Mc 10:17-22; Lc 18:18-23).
GIAO ƯỚC VỀ HẠNH PHÚC
Gia đình là tế bào gốc, rất quan trọng. Thật vậy, con cái là hồng ân của Thiên Chúa (Tv 127:3), là tài sản vô giá của cha mẹ, và đàn con cháu là triều thiên của người già (Cn 17:6). Một hôm, Đức Chúa đưa ông Áp-ram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5). Nghe vậy, ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là NGƯỜI CÔNG CHÍNH. Bất cứ ai thành tâm và tuyệt đối tin kính Thiên Chúa đều được kể là công chính. Rồi Ngài phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu” (St 15:7). Ông liền thưa: “Lạy Đức Chúa, Đức Chúa làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (St 15:8). Ngài phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non” (St 15:9). Về Người Công Chính, Kinh Thánh cho biết đặc điểm: “Người công chính PHẢI có lòng nhân ái” (Kn 12:19).
Rồi ông Áp-ram tìm cho Đức Chúa tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. Sau đó, mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông. Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Những hình ảnh đó cho biết là Thiên Chúa đã nhận lễ vật. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát” (St 15:18).
Giao Ước dành cho Tổ phụ Áp-ra-ham cũng là Giao Ước dành cho Dân Chúa, cũng là chúng ta, vì Thiên Chúa là Chân Lý, là Ánh Sáng, là Điều Thiện, Ngài chỉ có muốn và làm Điều Tốt Lành. Thánh Vịnh gia đã vinh hạnh và tin tưởng cất tiếng ca tụng: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1), đồng thời cũng kêu xin và tự khuyến cáo: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: Hãy tìm kiếm Thánh Nhan” (Tv 27:7-8a). Ngài mong muốn chúng ta hoàn thiện (x. Mt 5:48), nhưng Ngài biết chúng ta rất khó hoàn thiện, và Ngài muốn ít ra chúng ta phải biết muốn thực sự hướng thiện. Goethe nhận định: “Toàn thiện là luật của Trời, hướng thiện là lối của người”. Dù chưa hoàn thiện nhưng chúng ta cần phải biết khao khát sự thiện, rồi dần dần biến đổi.
Thiên Chúa im lặng, không nói, không phải Ngài thử thách chúng ta, vì Ngài biết chúng ta thế nào nên Ngài không cần thử thách, mà Ngài chỉ muốn chúng ta nhận biết mình bất túc và bất trác, nhận biết mình bất lực mà thành tâm và kiên trì cầu nguyện: “Lạy Chúa, con tìm Thánh Nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con” (Tv 27:8b-9). Được Thiên Chúa thực hiện lời hứa thì chúng ta phải biết tạ ơn thật lòng. Đó cũng là niềm hạnh phúc. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Không phải Đức Chúa ngắn tay không thể cứu, cũng chẳng phải Người nặng tai không nghe được, mà chính lỗi lầm của các ngươi đã phân cách các ngươi với Thiên Chúa các ngươi; chính tội lỗi các ngươi đã khiến Người ẩn mặt để khỏi nhìn, khỏi nghe các ngươi” (Is 59:1-2). Lỗi tại tôi mọi đàng!
Và rồi Thánh Vịnh gia xác định: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27:13). Đức Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết. Thực sự hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, nên Thánh Vịnh gia cũng muốn động viên mỗi chúng ta: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa!” (Tv 27:14). Ai biết trông cậy, tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa thì thật là hạnh phúc biết bao!
HẠNH PHÚC VỚI GIAO ƯỚC
Thánh Augustinô nói: “Không ai thực sự hạnh phúc chỉ vì có được những gì họ muốn, nhưng ước chi họ chỉ muốn những gì họ phải muốn”. Thật không dễ, bởi vì phàm nhân luôn sử dụng loại “túi tham không đáy”.
Là người đã dày kinh nghiệm – cả về “bước lầm lạc” lẫn “bước đức tin”, Thánh Phaolô chân thành tâm sự: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với Thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là CÁI BỤNG, và cái họ lấy làm vinh quang lại là CÁI ĐÁNG HỔ THẸN. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3:17-21). Thánh nhân nói thẳng thắn và rõ ràng, chẳng úp mở chi. Chỉ vì “cái bụng”, tức là “miếng ăn”, mà người ta có thể sát hại nhau không gớm tay, thế nên chiến tranh vẫn xảy ra và không ngừng leo thang!
Với lòng chân thành, Thánh Phaolô tiếp tục nhắn nhủ: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy KẾT HỢP VỚI CHÚA mà sống vững vàng như vậy” (Pl 4:1). Cầu nguyện liên lỉ là không ngừng kết hợp với Chúa – mọi nơi và mọi lúc, đó là việc thực sự rất cần thiết đối với mọi người, dù lớn hay nhỏ: Ăn với Chúa, chơi với Chúa, vui với Chúa, buồn với Chúa, cười với Chúa, khóc với Chúa, làm việc với Chúa, nghĩ với Chúa, viết với Chúa, nghỉ ngơi với Chúa, thư giãn với Chúa, ngủ với Chúa, thức với Chúa, hít thở với Chúa,… đặc biệt là nói với Chúa và nói về Chúa. Được như vậy thì chẳng còn hạnh phúc nào hơn nữa!
Trước đó, khi đề cập “Triều đại Thiên Chúa gần đến”, Chúa Giêsu đã kết luận: “Trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9:27). Và rồi khoảng tám ngày sau, khi lên núi Tabor để cầu nguyện (thuộc miền Galilê, ngày nay là một Vương Cung Thánh Đường), Ngài có đem theo ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Trên núi Tabor, trong lúc Ngài đang cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà. Và thật bất ngờ, xuất hiện hai nhân vật đàm đạo với Ngài là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và các bạn đồng môn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Ngài. Thật lạ lùng và choáng ngợp!
Trong lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Ngài: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9:23). Nửa tỉnh nửa mê nhưng ngư phủ Phêrô vẫn thấy “ép-phê” vô cùng. Lạ lùng mà hay lắm, thú vị lắm. Cứ lâng lâng thế nào ấy. Khó tả lắm! Ông Phêrô vốn dĩ bộc trực, tính nóng như lửa, thẳng như ruột ngựa, có gì “phang” ngay, muốn gì thì làm cho bằng được. Nhưng hôm nay nói xong rồi mà ông không biết mình nói gì, y như kẻ mộng du vậy. Nhưng dù sao thì ông cũng rất hạnh phúc với cái cảm giác kỳ lạ, lạ lắm luôn!
Ông Phêrô còn đang nói thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình ở trong đám mây như vậy, các ông cảm thấy hoảng sợ. Họ chả biết gì ráo trọi. Quái lạ thật! Càng lạ hơn khi thấy có tiếng phán ra từ đám mây: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9:35). Ôi, thật là choáng ngợp! Tiếng phán vừa dứt, họ chỉ còn thấy một mình Thầy Giêsu. Lạ ghê đi! Sao lại thế nhỉ? Ba ông nín thinh, vừa vui vừa sợ, vừa thích thú vừa lo lắng. Thế là trong những ngày ấy, các ông “ngậm tăm”, không hề kể lại cho ai biết gì về những điều mà họ đã thấy tường tận, chính mắt họ nhìn thấy rõ ràng.
Người Pháp có câu ngạn ngữ: “Đừng sống theo điều bạn mơ ước, hãy sống theo điều bạn có thể”. Mơ ước thì vô hạn, con người thì hữu hạn, vì thế mà không nên ảo tưởng, mà hãy thực tế với khả năng của mình, chính Thiên Chúa sẽ nâng đỡ và luôn đồng hành với chúng ta. Và rồi chúng ta cũng sẽ được tận hưởng niềm hạnh phúc đích thực như ba tông đồ đã được “nếm thử” hạnh phúc đích thực trước khi hồn ra khỏi xác.
Không thể có hạnh phúc trọn vẹn trên thế gian này, nếu có thì chỉ tạm bợ, mau qua, chóng hết. Thật vậy, Thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Tâm hồn con mãi khắc khoải cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa. Đối với con, tất cả những gì không phải từ Chúa đều là sự bần cùng”. Hạnh phúc đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa – bởi vì Ngài là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22:13).
Lạy Thiên Chúa nhân lành và thấu suốt mọi sự, xin hướng dẫn con biết cách tìm kiếm những gì thuộc về Nước Trời, xin cho con cảm nghiệm được giọt mật hạnh phúc ngọt ngào ngay giữa miền khổ não trần ai này, và xin Ngài gia tăng mức tin yêu trong con hằng ngày. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
I. DẨN VÀO PHỤNG VỤ
Được kể là con ngoan những đứa con biết nghe lời cha mẹ. Nghe lời cha mẹ có nghĩa là vâng nghe lời cha mẹ, là làm theo lời cha mẹ dây bảo, chứ không chỉ đơn thuần là nghe tiếng cha mẹ nói.
Bài Phúc âm Chúa Nhật II Mùa Chay Năm C là câu chuyện Chúa Giê-su hiển dung trên núi Ta-bo. Một trong những thông điệp của câu chuyện là tiếng nói hay lời phán của Thiên Chúa Cha: ”Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (là Chúa Giê-su). Thông điệp ấy, trước hết Thiên Chúa Cha gửi cho ba môn đệ thân cận nhất của Chúa Giê-su là Si-mon Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an; kế đến là cho 12 tông đồ và các môn đệ đương thời và sau cùng là cho mọi Ki-tô hữu của các thế hệ, trong đó có chúng ta ngày nay.
II. LẮNG NGH.E LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA 9,28-36:
Khi ấy, Chúa Giê-su đưa Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Mô-sê và Ê-li-a, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giê-ru-sa-lem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phê-rô thưa cùng Chúa Giê-su rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê, và một cho Ê-li-a”. Khi nói thế, Phê-rô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giê-su. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
III. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA 9,28-36:
3.1 Chúa Cha muốn chúng ta nghe lời Chúa Giê-su vì Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu của Cha: Vì Chúa Giê-su là Con Chí Ái, là Con Ngoan của Thiên Chúa Cha nên nghe lời Người là chúng ta nghe lời của chính Chúa Cha. Trong Phúc âm nhiều lần Chúa Giê-su đã khẳng định điều ấy.
3.2 Chúa Cha muốn chúng ta nghe lời Chúa Giê-su vì Chúa Giê-su là Lời của Thiên Chúa: Vì Chúa Giê-su là Lời của Thiên Chúa Cha nên nghe lời Người là chúng ta nghe lời của chính Chúa Cha. Thánh Phao-lô đã khẳng định trong các thời đại trước (Cựu Ước) Thiên Chúa dùng các ngôn sứ mà nói với nhân loại, nhưng trong thời sau hết (Tân Ước) Người đã nói qua Thánh Tử là Chúa Giê-su. Trong lời ngỏ của Tin Mừng Gio-an Thánh Kinh xác nhận Chúa Giê-su là Ngôi Lời và Ngôi Lời là Thiên Chúa, Ngôi Lời ở nơi Thiên Chúa.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA 9,28-36:
4.1 Nghe lời Chúa Giê-su mỗi ngày chúng ta phải nghe, đọc và học Thánh Kinh, nhất là bốn Phúc Âm: Điều này là đương nhiên vì Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa, Phúc Âm là lời của Chúa Giê-su. Nhưng đây cũng là điều mà giáo dân chúng ta còn thiếu sót một cách trầm trọng. Ngày xưa không có Sách Thánh, giáo dân mù chữ nên việc đọc Thánh Kinh là chuyện khó khăn. Ngày nay Sách Thánh bán ở các nhà sách công giáo, giáo dân ai cũng biết đọc biết viết nên việc không đọc Thánh Kinh là lỗi của chúng ta. Muốn nghe đọc và hiều được Thánh Kinh, chúng ta nên ghi danh tham dự các Khóa học Thánh Kinh hay chia sẻ Lời Chúa trong giáo xứ, giáo hạt, giáo phận.
4.2 Nghe lời Chúa Giê-su, mỗi ngày chúng ta phải thực hành những việc Thánh Kinh dậy: Đọc Thánh Kinh chúng ta sẽ khám phá ra chân dung hay dung mạo và sứ điệp của Thiên Chúa. Nhận ra dung mạo của Thiên Chúa chúng ta sẽ biết cách phải sống với Người như thế nào. Đón nhận được sứ điệp của Lời Chúa, chúng ta phải đem ra thực hành. Như thế chúng ta mới là con ngoan, con thảo của Thiên Chúa! Chúa Giê-su đã khẳng định: Nghe Lời Chúa và đem ra thực hành mới là người khôn, biết xây nhà trên nền tảng vững chắc.
V. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN VỚI LỜI CHÚA TRONG LU-CA 9,28-36:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha vì chúng con đã được Cha nhắn nhủ là hãy nghe lời của Con Yêu Dấu Cha là Chúa Giê-su Ki-tô. Chúng con xin dâng lên Cha lời cầu xin tha thiết của chúng con.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN:
1.- «Khi ấy, Chúa Giê-su đưa Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho mọi người trên thế giới này biết quan tâm đến đời sống tôn giáo, tâm kinh và cảm nghiệm được chiều kích thiêng liêng trong cuộc sống để khám phá ra Thiên Chúa là Đấng vô hình nhưng hiện hữu.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Mô-sê và Ê-li-a, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giê-ru-sa-lem.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ và cho hết mọi Ki-tô hữu để mọi thành phần Dân Chúa quan tâm đến việc nghỉên cứu và học hỏi Thánh Kinh để phát triển đời sống tâm linh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phê-rô thưa cùng Chúa Giê-su rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê, và một cho Ê-li-a.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người gặp được Thiên Chúa và có được những giây phút linh thiêng với Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người thành tâm thiện chí để họ nhận ra tiếng nói của Đấng Tối Cao mà vâng nghe.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã nhắn nhủ chúng con là hảy nghe Lời Con Yêu Dấu của Cha là Chúa Giê-su Ki-tô.
Chúng con quyết tâm siêng năng nghe/đọc, suy niệm và học hỏi Thánh Kinh là Lời của Cha và của Con Cha Yêu Dấu.
Xin Cha ban Thánh Thần cho chúng con để chúng con được Ngài hướng dẫn và soi sáng khi tiếp cận với Lời của Cha.
Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con. Amen
.
Anna Cỏ May
Hôm nay, trên núi cao, Chúa Giêsu đã biến hình. Ngài biến hình trong sự thánh thiện, biến hình để mặc khải vinh quang phục sinh và để cứu giúp con người. Ma quỷ nó cũng biến hình, nhưng kiểu biến hình là để nhằm cám dỗ và hủy hoại cuộc sống của con người.
Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, đem theo ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện, dung mạo người bỗng thay đổi, y phục trở nên trắng tinh chói lòa, và có ông Môsê cùng ông Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài. Lúc Chúa Giêsu đang cầu nguyện thì các môn đệ đang ngủ. Một giấc ngủ mê mệt đã ập xuống trên các ông. Có lẽ cuộc đàm đạo diễn ra cũng không ngắn nên khi các môn đệ thức giăc thì cuộc đàm đạo vẫn đang xảy ra. Do đó, các môn đệ được thấy dung nhan của Thầy. Tuy nhiên, để nhìn thấy và nhận ra trong ba người ai là Thầy của mình, các môn đệ cần có một sự tỉnh táo hẳn, tỉnh thật. Ngay cả khi tỉnh hẳn, các môn đệ vẫn còn lúng túng bàng hoàng. Phêrô thưa Thầy: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia” (Lc 9,33). Ông cũng không biết mình đang nói gì (x.Lc 9,33). Khi đứng trước những việc bất ngờ và tuyệt vời, thông thường người ta vẫn muốn giữ lại sự tuyệt vời ấy. Ông Phêrô cũng không là ngoại lệ, ông cũng muốn giữ lại dung mạo của Thầy nhưng không thể được, vì đó là cái mong muốn ích kỷ của ông chứ không phải ý của Thầy. Ngay lúc ông Phêrô đang nói thì có tiếng từ đám mây phán: “Đây là con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Tiếng phán từ trời xác tín một lần nữa Chúa Giêsu là con Thiên Chúa và kêu mời cac môn đệ vâng nghe lời Người. Tiếng phán vừa dứt lời, chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu, mọi sự đã trở lại bình thường.
Chúa Giêsu nhìn thấy lòng hoang mang khủng hoảng của các môn đệ trong hành trình sứ mạng nên Ngài đã củng cố tinh thần cho các ông trước. Ngài đã cho các ông thấy vinh quang Thiên Chúa và niềm vui hạnh phúc Nước Trời là thế nào qua cuộc biến hình. Nhưng trước khi đạt tới vinh quang ấy, Chúa Giêsu phải chịu khổ hình thập giá và chết đau thương. Trong mầu nhiệm thánh này môn đệ nào cùng với Ngài vượt qua sự đau khổ thì sẽ được chung hưởng vinh quang. Tuy nhiên các môn đệ vẫn không hiểu ý Thầy, để rồi khi Thầy bị bắt, các môn đệ bỏ chạy hết.
Các môn đệ là những người được mắt thấy tai nghe, được sống gần Thầy mỗi ngày mà các ông vẫn còn kém lòng tin. Phần chúng ta là những người con sinh sau đẻ muộn thì phải làm sao đây? Chúa Giêsu đã hiểu điều đó và đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29). Chúng ta đang cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc chiến thiêng liêng, cùng với Ngài vượt qua trần gian với tất cả thực tại cuộc sống, từ sự chết do tội lỗi đến sự sống vinh hiển bởi tình yêu Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta cần bước đi trong hy vọng, hy vọng được phục sinh với Chúa Giêsu và được nghỉ ngơi trong suối hồng ân là Nước Trời.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã biến hình để củng cố lòng tin cho các môn đệ. Ngày nay, Chúa xin Chúa cũng củng cố lòng tin yếu kém của chúng con. Xin cho chúng con trong Mùa Chay Thánh này biết dõi theo Chúa trên đường thương khó để nhờ đó, chúng con được chung hưởng vinh quang phục sinh với Ngài. Amen.
.
Bông Hồng Nhỏ
Thầy Giêsu thường lên núi một mình để cầu nguyện nhưng hôm nay Thầy đem theo ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang khi Thầy Giêsu cầu nguyện thì ba môn đệ ngủ mê mệt. Có lẽ, Thầy dẫn các ông lên núi vào ban đêm nên mắt các ông nặng trĩu. Khi tỉnh hẳn, các ông được chứng kiến vinh quang của Thầy Giêsu và được thấy ông Môsê và Êlia. Đó là biến cố Đức Giêsu hiển dung.
Thánh sử Luca thuật lại : “ Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê” (Lc 9,28). Trước đó, Đức Giêsu đã tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất, ông Phêrô đã đứng ra ngăn cản Thầy. Con đường mà Thầy Giêsu sẽ đi là con đường của nhiều đau khổ, bị loại bỏ, bị giết chết và những điều đó làm cho các môn đệ lo sợ; dù cho các ông đã được loan báo “ngày thứ ba người sẽ trỗi dậy” nhưng dường như các ông chỉ chú ý đến những gian truân, bắt bớ, bị giết chết và các ông vẫn chưa hiểu được gì. Ngay lúc này, các ông đã theo Thầy lên núi nhưng các ông đâu có cùng Thầy cầu nguyện. Các ông ngủ li bì. “Khi tỉnh hẳn các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người” (Lc 9,32b). Được nhìn thấy vinh quang của Thầy mình, lòng các ông ngây ngất trước cảnh tượng phi thường và ông Phêrô muốn giữ mãi hạnh phúc này. Ông đề nghị: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia” (Lc 9,33). Được chiêm ngắm một Đức Giêsu vinh quang quả là hạnh phúc cho người môn đệ và người môn đệ nào cũng muốn giữ mãi hạnh phúc này. Tuy nhiên chẳng mấy ai muốn cùng đi lên núi sọ với Thầy vì đường lên núi Sọ có lắm gian truân, có ai can đảm chiêm ngắm khuôn mặt bầm dập, không còn hình dạng con người của Thầy Giêsu và ở với Thầy trong giây phút tột cùng trên thập giá?
Bước đường theo Thầy của người môn đệ cũng sẽ giống Thầy vì môn đệ không hơn Thầy. Theo Thầy Giêsu, ta cũng sẽ được chiêm ngắm vinh quang của Thầy trong cầu nguyện, Thầy mời gọi ta không chỉ dừng lại trong giây phút sốt mến ấy nhưng “xuống núi” để bước vào cuộc sống với niềm hân hoan, sẵn sàng từ bỏ mình và vác lấy thập giá mình mà bước theo Thầy, để cùng Thầy dâng hy lễ tình yêu. Đang khi nhiệt tâm phục vụ Nước Trời, người môn đệ cũng sẽ gặp gian truân, bắt bớ, bị bách hại… vì danh Đức Kitô; và rồi cũng được bước vào vinh quang của Thầy. Khi hiểu được ý nghĩa của con đường thập giá của Thầy Giêsu và hiểu được con đường Thầy Giêsu muốn ta đi, ta tin rằng ta cũng sẽ được hưởng vinh quang với Chúa, khi đó ta mới thực sự được bừng tỉnh để sám hối đích thực, để được biến hình cho nên giống Đấng chịu đóng đinh .
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã hiển dung để bày tỏ vinh quang cho các môn đệ, giúp các ông vững tin để theo Thầy hơn và nhất là “vâng nghe lời Người” như lời Chúa Cha truyền dạy trong mùa chay Thánh này, xin Chúa cho con được bừng tỉnh khỏi những u mê, khỏi những ích kỷ, khỏi cái ách đè nặng của tội khi con biết trung thành với Chúa trong đời sống cầu nguyện thâm trầm, trong chay tịnh lặng lẽ, biết chia sẻ cho anh chị em tình yêu con đón nhận nơi Chúa. Để nhờ đó con được cùng Chúa chiến đấu trong cuộc chiến đấu thiêng liêng để thông phần với Chúa sống mầu nhiêm Vượt Qua. Amen.
.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Có ai đó nói rằng : kiên nhẫn là chỗ dựa của thành công. Tài năng chỉ là xúc tác. Trên đời này có nhiều người có tài nhưng không thành công là do thiếu kiên nhẫn. Kiên nhẫn và dũng cảm là chìa khóa vạn năng đưa con người tới thành công.
Trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng có những câu nhớ đời, ai đọc cũng phải suy ngẫm cho đến suốt đời, lúc nào cũng thấy đúng, đó là:
“Muốn no thì phải chăm làm, một hạt thóc vàng chín giọt mồ hôi”.
“Ở đời khôn khéo chi đâu, chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần”.
“Có công mài sắt có ngày nên kim”.
“Kiến tha lâu cũng đầy tổ”.
Có một chuyện ngụ ngônkể rằng: Một hôm, bác nông dân có một chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa tội nghiệp kêu la thảm thiết cả buổi mà bác chẳng biết làm cách nào đưa nó lên. Cuối cùng bác nông dân nghĩra cách đổ thêm cát vào giếng, thề là bác liền gọi hàng xóm giúp bác một tay.
Tất cả mọi người hè nhau lấy xẻng xúc cát đổ xuống giếng. Lúc đầu, chú lừa chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình nên la hét khủng khiếp. Rồi bỗng dưng lừa ta im lặng khiến mọi người ngạc nhiên. Sau khi đổ đất được một hồi, bác nông dân nhìn xuống và kinh ngạc vô cùng trước những gì mình thấy: cứ một lớp đất đổ xuống lưng mình, nó giũ lớp cát xuống và giẫm chân lên. Khi mọi người tiếp tục đổ xuống đầu con vật, nó lại giũ lớp cát và giẫm chân lên một bước nữa. Cứ thế, cứ thế. Chẳng bao lâu con vật đã leo lên được thành giếng và bước ra ngoài trước sự sửng sốt của mọi người.
Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Qua biến cố Chúa hiển dung, Ngài mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giê-su đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh.
Cuộc đời con người cũng là một hành trình đầy cam go và thử thách. Hãy xin Chúa cho ta được gặp gỡ thân tình với Chúa như các môn đệ trên núi Tabor để can đảm dấn thân vào cuộc sống. Năm xưa, trên núi Tabor Chúa Giêsu đã tỏ rõ dung nhan của một vì Thiên Chúa quyền năng. Ngài muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, đểcác môn đệ hiểu được“phải qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Trên núi Tabor, Chúa Giê-su cho ba môn đệ nếm trước sự sống thần linh vinh quang của Chúa để thêm sức cho các ông, nhờ đó mà vượt qua những thập giá gian truân. Chính nhờ ánh sáng trên núi Tabor, sẽ giúp cho các ông can đảm đón nhận từng đớn đau, từng gian truântrong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan.
Năm nay với chủ đề “đồng hành với gia đình khó khăn” như lời mọi gọi các gia đình đừng thất vọng, đừng buông xuôi. Hãy tin tưởng phó thách nơi Chúa. Hãy chạy đến với Chúa để thêm sức mạnh từ Ngài.Cuộc sống luôn có thập giá nhưng Chúa bảo phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Đừng thất vọng than van trước khó khăn cuộc sống, nhưng hãy kiên nhẫn vượt qua. Đừng bi quan về những gì đang diễn ra chung quanh cuộc sống chúng ta, vì Chúa bảo sau đêm dài là ánh bình minh. Hãy can đảm đứng lên từ trong khó khăn vì phần thưởng chiến thắng đang chờ chúng ta phía trước. Hãy như con lừa biết trút bỏ mọi lo âu để tâm hồn được thảnh thơi, được nhẹ nhõm để bước đi trong thánh ý Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận thập giá trong đời sống của mình với hai tiếng xin vâng. Xin cho chúng ta cùng đi với Chúa trong cuộc khổ nạn để mai sau cùng được chia sẻ vinh phúc trên quê trời. Amen
.
XIN CHÚA BIẾN ĐỔI CUỘC SỐNG CHÚNG TA NÊN NHƯ NGÀI
Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng
Trong Chúa Nhật I Mùa Chay, lời Chúa trình bày cho chúng ta vềviệc ma quỷ cám dỗ và thử thách Chúa Giêsu, điều mà chính dân Israel và mỗi người chúng ta cũng phải đối diện trong cuộc sống. Trong Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta đến với Thiên Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ, vì chỉ với Ngài, chúng ta sẽ không còn sợ người nào, ngay cả cám dỗ và ma quỷ như Thánh Vịnh đáp ca trình bày: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào?”Khi đến với Thiên Chúa và ở lại với Ngài, chúng ta sẽ được Ngài soi đường chỉ lối, nhất là khi chúng ta đối diện với cám dỗ và thử thách, hầu giúp chúng ta đạt đến sự biến đổi như Chúa Giêsu biến mình trên núi Tabor trong Tin Mừng hôm nay.
Ánh sáng đến từ Thiên Chúa là loại ánh sáng nào? Chúng ta nhận thấy trong ngày sống có nhiều loại ánh sáng: ánh sáng đến từ mặt trời, từ mặt trăng, hoặc đến tứ các loại đèn khác nhau. Bản chất của ánh sáng là giúp chúng ta nhìn thấy sự vật và người khác. Một người đi trong đêm tối thì dễ dàng vấp té hơn là người đi trong ánh sáng. Tuy nhiên, những loại ánh sáng từmặt trời, mặt trăng, tinh tú và các loại đèn chỉ giúp chúng ta nhìn thấy vẻ bề ngoài của sự vật và của người khác. Chúng không giúp chúng ta nhìn thấy điều gì trong tâm trí của người khác. Chỉ ánh sáng đến từ bên trong và có nguồn từ Thiên Chúamới giúp chúng ta nhìn thấy và cảm nhận được những gì đang xảy ra bên trong của người khác. Hơn nữa, loại ánh sáng này giúp chúng ta biết được điều Chúa muốn. Loại ánh sáng này có tên là“ánh sáng đức tin” mà chúng ta nhận được trong ngày rửa tội [được tượng trưng qua cây nến sáng]. Chính trong ánh sáng này Ápram đặt trọn con tim của mình vàolời hứa của Thiên Chúa để bỏ “quê cha đất tổ” đi đến vùng đất mà Thiên Chúa hứa ban cho ông và con cháu ông; cũng trong ánh sáng đức tinnày mà Thánh Phaolô sống trọn vẹn niềm vui và hy vọngvào sự phục sinh vinh hiển của thân xác yếu hèn của ngài.
Chi tiết đầu tiên chúng ta có thể rút ra từ bài đọc 1 hôm nay cho ngày sống là việcÁpram được nên công chính vì ông đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa dù ông không biết “tương lai sẽ như thế nào.”Những người bạn đồng hành của đức tin là “sự mơ hồ, không hiển nhiên và không chắc chắn.” Tuy nhiên, với đức tin, ông Ápram đã ra đi khỏi quê hương của tổ tiên. Đây là điều không thể chấp nhận trong nền văn hoá thời đó, vì khi đi ra khỏi “nhà cha” của mình thì đồng nghĩa với việc “sẽ chết.” Điều này nói lên sự hoàn toàn cắt đứt với liên hệ máu mủ, để sống với một mối tương quan mới trong đức tin. Như thế, qua hành vi tin, Ápram đã nói lên một ý nghĩa mới về việc thuộc về dân riêng của Thiên Chúa, đó là không còn theo huyết nhục, nhưng theo sự vâng phục mệnh lệnh Thiên Chúa đã truyền khi ký kết giao ước với ông. Điều này có ý nghĩa gì với cuộc sống của chúng tangày hôm nay? Nhiều lần, chúng ta cũng gặp hoàn cảnh vô phương vô hướng cho cuộc đời của mình và gia đình mình. Chúng ta không biết tương lai sẽ như thế nào. Trong những giây phút đó, chúng ta thường loay hoay tìm cách giải quyết và đôi khi còn than trách Thiên Chúa. Như Ápram đã bỏ tất cả và hoàn toàn đặt cuộc đời của mình, của gia đình và của dân tộc sẽ phát xuất từ ông vào tay Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào Chúa, vì chúng ta biết rằng: đường lối của Chúa thì tuyệt hảo hơn đường lối của chúng ta.
Một chi tiết khác trong bài đọc 1 mà chúng ta sẽ thấy được lặp lại trong bài Tin Mừng mà đáng cho chúng ta suy gẫm là việc “lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Ápram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông” (St 15:12).Giấc ngủ mê ập đến khi Ápram đang dâng lễ vật lên cho Thiên Chúa; “một nỗi kinh hoàng, một bóng tối bỗng ập xuống” khi ông đang cử hành nghi lễ hiến dâng lên Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói rằng đây cũng là kinh nghiệm thường xảy đến cho chúng ta. Cơn ngủ mê thường xảy ra khi bóng tối của sự vắng bóng Thiên Chúa ập đếntrên cuộc đời chúng ta, khi chúng ta cầu nguyện và đau khổ, nhưng chúng ta không thấy Chúa đâu và không cảm nghiệm được sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài. Hệ quả là chúng ta dần dần xa rời Thiên Chúa và chạy theo tôn thờ những chúa khác, những chúa đemlại cho chúng ta sự an ủi tức thời và thoả mãn những nhu cầu trần thế của chúng ta. Điều này mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức vì không phải là Thiên Chúa không hiện diện với chúng ta, nhưng là chúng ta chưa cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài mà thôi. Khi Thiên Chúa dường như xa vời khỏi cuộc đời của mình, chúng ta cần học nơi Thánh Phaolô sự kiên định và trung thành trong đức tin. Điều chúng ta nghe trong bài đọc 2.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu Philiphê bắt chước nơi ngài để sống một lối sống không đối nghịch với thập giá Chúa Kitô, tức là“chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian” (Pl 3:19).Thánh Phaolô khuyên họ đừng chạy theo của cải vật chất (cám dỗ thứ nhất mà Chúa Giêsu đã đối diện), nhưng hướng lòng về quê hương thật của chúng ta là quê trời, nơi mà thân xác yếu hèn của chúng ta sẽ được Đức Giêsu Kitô biến đổi để trở nên giống thân xác của Ngài (x. Pl 3:20-21). Để làm được điều này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng trongđức tin qua đời sống cầu nguyện. Đây chính là bối cảnh giúp chúng ta khám phá ra ý nghĩa và sứ điệp của lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay.
Điều đầu tiên chúng ta lưu ý trong Tin Mừng hôm nay là việc Chúa Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi để cầu nguyện. Đây chính là một trong ba việc đạo đức Giáo Hội mời gọi chúng ta thực hiện cách đặc biệt trong Mùa Chay. Tuy nhiên, cầu nguyện không đơn giản là kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, nhưng còn kết hợp với anh chị em của mình. Kết quả của cầu nguyện là chúng ta được biến đổi. Chúng ta thấy điều này xảy ra nơi Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (Lc 9:29). Sau thánh lễ hôm nay và sau mỗi lần cầu nguyện (lần hạt, đọc kinh lòng Chúa thương xót, đi đàng thánh giá, chầu Thánh Thể và cầu nguyện cá nhân), chúng ta có thấy mình biến đổi trở nên tốt hơn và thánh thiện hơn không?
Như chúng ta đã trình bày ở trên, trong Tin Mừng Thánh Luca, chúng ta thấycác môn đệ luôn “ngủmê mệt” trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt” (Lc 9:29-32). Điều này lặp lại trong vườn cây dầu khi Chúa Giêsu chuẩn bịđối diện với Thập Giá (Lc 22:39-46). Khi chúng ta đến với Thiên Chúa và Đức Giêsu, tinh thần và thân xác của chúng ta thế nào? Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta được an ủi ởđây là dù chúng ta có ngủmê, Chúa Giêsu vẫn luôn cầu nguyện với Chúa Cha cho chúng ta. Chúng ta hãy tỉnh thức và tìm thấy niềm vui trong cầu nguyện. Vì chỉ với cầu nguyện chân thành chúng ta mới được biến đổi và “không bị rơi vào chước cám dỗ” (Lc 22:40).
Thái độ của Phêrô và hai môn đệ Giacôbê và Gioan đáng để chúng ta học hỏi, nhất là khi đến với Chúa. Bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta thấy họ cảm thấy rất hạnh phúc, kinh ngạc và vui sướng khi được ở với Chúa Giêsu. Phêrô thay mặt Gioan và Giacôbê thốt lên rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9:33). Họ hạnh phúc đến độ quên chính mình. Họ chỉ dựng ba lều cho Chúa Giêsu, Êlia và Môsê mà không dựng cho mìnhmột lều. Điều này có nghĩa là gì? Điều này ngụ ý nói rằng: Trong cầu nguyện, chúng ta đã có Thiên Chúa là nơi cư ngụ và ẩn thân, nên chúng ta không cần một nơi nào khác cho chính mình. Xin Chúa giúp chúng ta luôn tìm thấy niềm vui và nơi cư ngụ chỉở nơi Ngài.
Chi tiết cuối cùng trong bài Tin Mừng hôm nay mà chúng ta suy gẫm là lời chứng của Chúa Cha. Điều xảy ra khi Chúa Giêsu chịu phép rửa được lặp lại ở đây: “Ông [Phêrô] còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: ‘Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!’”(Lc 9:34-35).Trong những lời này, chúng ta nhận ra rằng, Chúa Cha muốn nơi chúng ta chỉmột điều khi theo Con Yêu Dấu của Ngài, đó là, “hãy vâng nghe Lời Ngài,” vì Lời Ngài mang lại sự sống đời đời. Chúng ta có thể gọi đây là “Shema” cho Israel mới. Thái độ lắng nghe là thái độ cần thiết khi đến với Chúa Giêsu. Thái độ này cũng cần thiết không kém khi chúng ta đến với nhau. Chúng ta thường nghe nói rằng: Biết thì không nói, mà nói thì không biết. Người không biết lắng nghe cũng là người không biết nói. Nghệ thuật đểsống hạnh phúc với nhau đó là: Lắng nghe…lắng nghe….và lắng nghe. Nếu có nói, thì chúng ta cần hỏi những câu hỏi sau: Tôi sẽ nói cái gì? Tôi sẽ nói như thế nào? Tôi sẽ nói khi nào? Nội dung, cách thức và thời gian để nói là những yếu tố quan trọng đến từ việc lắng nghe.
Tóm lại, sứ điệp của Lời Chúa trong Chúa Nhật II Mùa Chay là gì? Lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay có chung một sứ điệp, đó là, chỉ có qua thập giá mới đến vinh quang; và chúng ta chỉ có thể biết và chấp nhận sứ điệp này với ánh sáng của đức tin. Nói cách khác, trong cuộc sống không có “đường tắt” để đến vinh quang. Đây là điều nhiều người trong chúng ta không muốn và thấy nặng nề khi theo Chúa Giêsu. Chúng ta thường muốn có cuộc sống sung túc, tiện nghi mà không phải “đổ mồ hôi sôi nước mắt.”Chúng ta thường tìm kiếm những câu trả lời mang tính “ăn liền” trong cuộc sống. Tuy nhiên, người ta thường nói: không có đau khổ sẽ không có hoa trái. Đây là điều Chúa Giêsu trình bày cho các môn đệ và chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: muốn hưởng niềm vui của Phục Sinh, chúng ta phải trải qua đau khổ và thập giá. Con đường thập giá là con đường dẫn tới sự thánh thiện và vinh quang!
.
Lm. Jos. DĐH.
Cuộc hành trình ngàn dặm, cũng bắt đầu từ bước chân. (Lão Tử). Dù sống thân phận là thầy, là trò, đang thực thi thiên chức làm vợ, làm chồng, là những đứa con được dưỡng dục trong yêu thương, tất cả đúng là đang đi theo quy luật: đầu tư công sức, gặt hái thành công. Để có một thân hình khoẻ đẹp, người ta phải sống điều độ, thao luyện thường xuyên, gọi là kỷ luật với chính mình. Nhờ tấm gương soi, ta thấy khuôn mặt của mình sạch đẹp hoặc nhem nhuốc. Nhờ kinh nghiệm, nhờ phân biệt được vinh dự trần thế khác với vinh quang trên trời, người ta đã không ngại dấn thân, tiến bước, dù đường đời đầy nguy khó. Không duyên, nhưng có nợ, cũng không sợ, dù túng thiếu về vật chất hay tinh thần, chẳng ai nỡ lòng cư xử bất nhất với người thân hoặc lẫn lộn giữa hiếu thảo và nghĩa tình với mẹ cha.
Vinh dự của các học trò là gặp được người thầy vĩ đại để thọ giáo, hạnh phúc của người thầy là nhìn thấy các đồ đệ trưởng thành, nắm bắt được kiến thức, lĩnh hội được lời hay ý đẹp mà bấy lâu thầy đã đầu tư huấn luyện. Cùng chung niềm vinh dự với thầy trò Giêsu, mỗi chúng ta đều được mời gọi sống tình hiệp thông cầu nguyện. Ở núi cao, ở biển hồ, ở đền thờ, hay nhà thờ, đều là cơ hội quý báu mà ta đang được Thầy Giêsu từng giây phút biến đổi hồn xác, hầu cứu độ chúng ta. Tại núi cao, Thầy Giêsu cầu nguyện, đàm đạo với các chứng nhân cựu ước, Ngài hiểu và Ngài còn phải sống, phải thực thi sứ mạng người tông đồ theo thánh ý Chúa Cha. Vấn nạn, thắc mắc, cả một chút hoài nghi nữa, tại sao đau khổ thập giá gắn liền với vinh quang phục sinh ? Vì sao vinh dự của các môn đệ, vinh dự của người kitô hữu đều phát xuất từ tình yêu và lòng mến như một quy luật: mất và được ?
Vinh dự của người học trò đâu phải chỉ là lâng lâng hạnh phúc, là được mắt thấy tai nghe, hoặc thoáng qua một vài phút say mê: “thưa thầy, chúng con ở đây thật là hay, nếu được con xin làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”. Vinh dự của các môn đệ, của tất cả cả những ai theo Đức Giêsu đều gắn liền với việc “lên núi” và “xuống núi”. Niềm vui và hạnh phúc thật của người học trò không phải chỉ là nhìn xem “Dung mạo Chúa phục sinh”, mà người môn đệ phải được biến đổi mỗi ngày mỗi lúc trở nên giống “Sư phụ” của mình. Được làm người, được làm môn đệ Đức Kitô là đúng, là thật, là đẹp, khi người học trò đó phải được gọt giũa, sửa đổi tâm tính và đi con đường thập giá vinh quang, chết đi và sống lại. Vinh dự của người tín hữu không phải chỉ dừng lại ở xem, xét, mà còn phải biết yêu mến, biết hành động, biết tin theo Chúa và sống ơn gọi làm môn đệ của mình.
Tâm trạng của các đệ tử theo Thầy Giêsu hôm xưa và chúng ta hôm nay vẫn là một, vinh dự của người môn đệ theo Thầy lên núi và người kitô hữu hôm nay vẫn không khác nhau: yêu và được yêu, lên núi phải xuống núi, hiểu biết thánh ý Chúa phải sống thánh ý Chúa. Nếu người ta không lên núi cao, sao biết cái lo nghiêng ngả, không xuống vực sâu, sao biết cái lo đắm đuối, không ra bể lớn, sao biết cái lo sóng gió ? (Mạnh Tử). Các môn đệ nhờ được theo Thầy lên núi, các ông mới vinh dự được chứng kiến cuộc đàm đạo giữa Thầy và hai chứng nhân cựu ước, được mắt thấy tai nghe: “đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Ngày hôm nay, nhờ kết hiệp cầu nguyện, người môn đệ theo Chúa mới biết và hiểu: vinh quang mà không có đau khổ, hy sinh mà thiếu tập luyện, chỉ là vinh quang thế trần, là hy sinh mù quáng, có tính toán vụ lợi, không xứng hợp với Thầy Giêsu.
Người xưa có câu: áo đẹp không làm nên người sang, người khôn ngoan là kẻ mà cái gì cũng thấy là mới lạ. Vinh dự của con người không hệ tại là môn đệ Đức Giêsu, được là người kitô hữu, mà chính là nhận ra sự bất toàn của mình, hầu biết kết nối với Thầy Giêsu, lúc nào cũng cần ơn ban và sức mạnh tình yêu của Chúa. Gần đèn thì sáng, tất nhiên mọi người đều hiểu “gần đèn”, “gần Chúa”, bao giờ cũng ấm áp, cũng dễ dàng được biến đổi, được nên giống Đấng là Thầy là Chúa yêu thương. Vinh quang của Thầy Giêsu sẽ không bao giờ là trừu tượng, lý thuyết, nửa tỉnh nửa mơ, vì chưng, Đức Giêsu đã biến đổi các học trò từ quê mùa, ít học, từ tham sống sợ chết, từ ích kỷ nhỏ mọn, các ông đã trở nên những chứng nhân Tin mừng.
Mang khuôn mặt rạng rỡ của thành công ở đời là giầu sang chức quyền, chứng kiến cảnh nhăn nhó như khỉ ăn gừng: đụng đâu hỏng đó, nghèo hèn thất bại, có thể do người ta chưa làm một cuộc lên núi với Chúa và trở về với cõi lòng mình. Số các vị chài lưới năm xưa đã từ từ trở nên môn đệ, nên thầy dạy đức tin, tiếp tục và hoàn thành tốt sứ mạng được Thầy giao phó, chắc chắn không phải do tài sức của các ông. Vinh dự của các môn đệ, vinh dự của người tin Chúa, theo Chúa, không thể dừng lại ở việc lên núi, xuống núi, hoặc được nhìn xem “Dung mạo Đấng Kitô”, mà chính là được biến đổi con người giới hạn tội lỗi của mình, hầu tất cả nhân loại cùng vinh dự được trở nên “Con yêu dấu” của Đấng chúng ta tin thờ. Amen.
.
TÔN VINH THIÊN CHÚA NƠI THÂN XÁC
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay kể lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín là “Phêrô, Giacôbê và Gioan” (Lc 9,28). Đây là lần duy nhất Chúa Giêsu biến hình trước mặt các môn đệ: “Dung mạo người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29). Chúng ta tìm hiểu ý nghĩa biến cố này.
1- Ý nghĩa của biến cố biến hình
Biến cố biến hình có một ý nghĩa thần học liên hệ tới mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Biến hình xác nhận biến cố nhập thể. Khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người, vinh quang của thiên tính bị ẩn dấu. Việc Chúa Giêsu biến hình là hé mở phần nào vinh quang của thiên tính cho các môn đệ. Biến hình giúp họ chuẩn bị đón nhận cuộc tử nạn sắp diễn ra. Biến hình còn báo trước vinh quang phục sinh và minh chứng rằng Chúa Giêsu hoàn tất lề luật (Môsê) và lời các tiên tri (Êlia).
Nhưng không chỉ dừng lại những điều này, biến cố này còn là một kinh nghiệm tuyệt vời về niềm vui và hạnh phúc khi vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa được tỏ lộ. Trong ngày đó, Chúa Giêsu tràn đầy niềm hạnh phúc, Người xuất thần. Ánh sáng là dấu chỉ của tất cả điều này. Ánh sáng phát xuất từ chính Người. Chúa Giêsu tỏa sáng như một luồng sáng. Niềm vui, tình yêu Ba Ngôi lan tỏa trong Người. Lời Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con Ta yêu dấu.” Đám mây bao phủ trên núi là biểu tượng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần vốn là “niềm vui thỏa” trong Ba Ngôi.
2- Ý nghĩa của thân xác
Cũng như tất cả những biến cố trong đời Chúa Giêsu, biến hình là một mầu nhiệm liên quan đến vận mệnh của chúng ta. Thánh Phaolô trong bài đọc II cung cấp cho chúng ta chìa khóa để áp dụng biến cố này với chúng ta. Ngài nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,2-21).
Theo ý nghĩa này, biến cố biến hình là một cửa sổ mở ra cho tương lai chúng ta; nó báo trước cho chúng ta biết rằng một ngày kia thân xác hay hư nát của chúng ta sẽ được biến đổi thành ánh sáng vinh hiển nên giống với thân xác vinh hiển của Chúa; nó còn là một luồng sáng chiếu vào đời sống hiện tại, giúp chúng ta hiểu rằng thân xác này là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự. Vì thế, biến hình cũng là cơ hội để suy tư về giá trị của thân xác.
Đối với Kinh Thánh, thân xác không phải là một yếu tố tùy phụ hay tách biệt nơi con người; thân xác là toàn bộ con người. Thân xác được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng, được Người biến đổi (x. St 1,17tt); thân xác được Ngôi Lời đảm nhận trong mầu nhiệm nhập thể và được Chúa Thánh Thần thánh hóa trong bí tích Rửa Tội.
Theo Kinh Thánh, con người lộng lẫy và rạng ngời nhờ thân xác. Thánh vịnh gia cảm tác: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139,13-14). Quả thật, trong tất cả công trình của Thiên Chúa, không có gì đẹp hơn thân xác con người. Thân xác được tiền định để chia sẻ vinh quang đời đời với linh hồn. Charles Péguy cho rằng: “Thân xác và linh hồn cùng chia sẻ vinh quang đời đời hoặc phải chịu cảnh trầm luân vĩnh cửu.” Không như lạc giáo Manikê và Ngộ Đạo thuyết cho rằng cứu độ là loại bỏ thân xác để chỉ lấy linh hồn, Kitô giáo loan báo ơn cứu độ bao gồm cả thân xác và linh hồn.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội bị thống trị bởi nền văn hóa tôn thờ thân xác. Thân xác con người, đặc biệt thân xác phụ nữ bị coi như một món hàng, như trò chơi tình dục. Người ta không còn tôn trọng thân xác trong mối liên hệ với linh hồn, với nhân vị và phẩm giá con người. Cả những ý tưởng về cái đẹp cũng được quan niệm rất nghèo nàn. Người ta chăm sóc vẻ đẹp bên ngoài, mà ít chú ý và trau dồi vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp của tâm hồn.
3- Tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác chúng ta
Biến hình còn là thông điệp về cái đẹp. Nhà thần học Chính Thống, Pavel Evdokimov viết một cuốn sách có tựa đề “Thần học về cái đẹp,” khi phân tích bức Icône Chúa biến hình trên núi Tabor và lời các môn đệ: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là tốt!” Ông cho rằng: Chúa Giêsu chiếu tỏa vẻ đẹp của Người. Vẻ đẹp đó đến từ bên trong, được diễn tả ra bên ngoài nhờ thân xác.
Biến hình theo ý nghĩa này là một thông điệp đặc biệt gửi tới mọi người hôm nay. Như thánh Phaolô yêu cầu các Kitô hữu sơ khai: “Vậy anh em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác của anh em” (1 Cr 6,19).
Đối với đời sống hôn nhân, anh chị em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình khi anh chị em biết làm cho thân xác trở nên quà tặng tình yêu cho nhau và là phương tiện để kết hợp nên một với người phối ngẫu trong hôn nhân.
Đối với đời sống tu trì, anh chị em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình khi biến thân xác thành quà tặng trực tiếp và “hy lễ sống động” cho Thiên Chúa để phục vụ anh chị em đồng loại.
Đối với mọi người, chúng ta vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình cả trong lĩnh vực nghệ thuật, lao động và tất cả mọi hoạt động con người.
Đối với các bạn trẻ, một phương thế để vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình là sống đoan trang, tiết hạnh. Đó là chọn lựa sống theo Tin Mừng, can đảm đi ngược lại với não trạng và lối sống chỉ biết dùng thân xác để thỏa mãn thú vui, quyến rũ người khác.
Mùa Chay là hành trình thanh luyện để giúp mỗi người chúng ta trở nên con người mới trong Chúa Kitô. Biến cố hiển dung minh chứng rằng: càng gần gũi với Thiên Chúa con người càng được biến đổi trở nên sáng láng. Môsê sau khi tiếp xúc với Thiên Chúa, mặt ông trở nên sáng chói. Đức Giêsu biến hình sau khi Người đã cầu nguyện. Người gặp gỡ Chúa Cha, dung nhan Người trở nên chói lòa. Nhiều vị thánh cũng trải qua những kinh nghiệm như thế. Nếu chúng ta biết dìm mình trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, toàn bộ con người cũng sẽ được biến đổi, nên sáng chói nhờ ánh sáng Thiên Chúa.
Một cách gần gũi nhất, Chúa Giêsu tiếp tục biến hình cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Sau khi truyền phép, bánh và rượu biến hình thành Mình và Máu Người. Thay vì làm ba lều, chúng ta hãy biến tâm hồn chúng ta thành “lều” cho Chúa Giêsu Thánh Thể cư ngụ, nhờ đó chúng ta sẽ được biến đổi và tràn ngập niềm vui. Amen!
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Sự thường khi nghe nói đến hai từ vinh quang, người ta dễ liên tưởng đến hai từ quyền lực. Bởi chưng, chuyện như nhãn tiền, đó là khi có quyền lực thì vinh quang ào tới, nhất là do bởi “thói đời” thích khúm núm, quỵ lụy, tâng bốc, tung hô người có lực, có quyền.
Vào Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A, B, C, các bài tin mừng Giáo Hội dọn cho đoàn tín hữu đều tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Và chúng ta dễ nhận ra hữu ý của việc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang cho ba môn đệ thân tín, đó là để động viên tinh thần các vị trước khi Người lên Giêrusalem chịu tử nạn. Nội dung cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môsê và Êlia chính là “cuộc xuất hành Chúa Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem”. Chúa Giêsu trước đó cũng đã công khai tiên báo cuộc khổ nạn Người sẽ chịu do bởi các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư gây ra và Người mời gọi những ai muốn theo Người thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo (x.Lc 9,22-26).
Vinh quang được xem là tình trạng có giá trị tinh thần cao, đáng được tôn kính và ái mộ. Tuy nhiên cũng cần phân biệt vinh quang thật và vinh quang giả hiệu. Vinh quang thật thì lâu bền vì được dệt xây bằng những hành vi tốt đẹp, chính đáng và cao cả. Trái lại vinh quang giả hiệu lại chóng qua và nhất thời, vì nó thường được xây dựng trên bạo lực hoặc những mưu đồ bất chính…Như thế chúng ta có thể nói rằng chỉ mình Thiên Chúa mới có vinh quang đích thật. Nhân loại chúng ta có được vinh quang là nhờ thông dự phần nào đó vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chúa Kitô tỏ vinh quang để rồi tự hiến dâng mạng sống vì người mình yêu. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Nhìn thấy vinh quang của Thầy chí thánh, một cách như bị thúc bách, Phêrô đã cất tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9,33). Dường như Phêrô quên mất chính mình cũng như hai bạn đồng môn. Lịch sử minh chứng cho ta hay những tâm hồn nào càng kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì luôn quảng đại trao ban chính mình cho tha nhân. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này nơi những con người được diễm phúc chiêm ngắm Chúa Giêsu, Mẹ Maria hiện ra đó đây theo dòng lịch sử. Có thể nói rằng tất thảy đều thay đổi cách diệu lạ, đều sống tự hiến cách phi thường. Và đây cũng là một trong những tiêu chí mà Giáo Hội dùng để kiếm tra các hiện tượng cho rằng Chúa, Mẹ hiện ra với người này, người kia. Hãy xem đời sống của những người ấy có đổi thay cách tích cực không, nghĩa là họ có quảng đại hiến thân vì tha nhân hơn không?
Mặt khác, chính khi tự hiến vì yêu thương thì vinh quang được hiển lộ. “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Khi Giuđa ra đi để thực hiện âm mưu nộp Thầy thì đó “là lúc Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định rằng khi Đức Kitô tự nguyện khước từ vinh quang danh dự của một vị Thiên Chúa, trở nên giống phàm nhân, mặc lấy thân nô lệ và hạ mình vâng lời chịu chết vì chúng ta thì được Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2,6-11).
Nhân loại xưa lẫn nay đều vinh danh những con người biết xả thân tự hiến vì đồng loại. Đó là các bậc vĩ nhân, là các anh hùng dân tộc và đặc biệt là những thánh nhân. Cần thừa nhận rằng vẫn có đó nhiều vinh quang giả tạo, nhất thời. Đó là những vinh quang vắng bóng sự tự hiến. Tìm kiếm vinh quang mà không biết hiến thân thì chỉ là ảo vọng. Trái lại nếu chúng ta chủ ý tự hiến để kiếm tìm vinh quang thì nhiều khi cũng gặp thất bại, nếu sự tự hiến ấy thiếu trong sáng trong ý hướng kiếm tìm. Như thế có thể nói vinh quang không phải là một tình trạng đến sau nhưng chính là ánh sáng huy hoàng của sự tự hiến. Đến đây chúng ta mới hiểu được vì sao “vinh quang của ta chính là thập giá Chúa Kitô”. Chúa Kitô đã được viên đại đội trưởng thi hành án nhìn nhận: “Người này đích thực là người công chính” ngay phút giây Người tắt thở trên cây thập giá (Lc 23,47). Và mầu nhiệm Phục Sinh không phải là sự vinh quang đến sau nhưng là một sự chứng thực cái vinh quang đã có nơi mầu nhiệm Tử Nạn.
Dưới cái nhìn đức tin, được vào vinh quang, dù lớn hay bé, tất thảy đều để hiến thân vì hạnh phúc tha nhân và qua đó làm rạng danh Thiên Chúa. Vinh quang ấy có thể là một thánh chức, có thể là một thừa tác vụ hay một bậc sống…Các Đức Giáo Hoàng khi được Hồng Y đoàn bầu vào vai trò vị trí kế vị thánh Phêrô hẳn nhiên đều ý thức là để làm tôi tớ các tôi tớ như Đức Kitô đến thế gian không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Điều cần lưu ý đó là đừng quá mong chờ vinh quang sẽ đến trong thời gian tại thế, sau khi chúng ta hiến thân vì tha nhân. Ước gì chúng ta không chỉ tin mà còn cảm nhận sự thật này đó là sự vinh quang đã có ngay trong chính hành vi tự hiến của chúng ta. Việc Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang của Người trước khi chịu khổ hình không chỉ để động viên các môn đệ vững tin bước theo Người lên Giêrusalem mà còn khẳng định rằng chính khi người chịu khổ hình là Người được vinh quang. Thấy được hay cảm được sự vinh quang ngay trong sự tự hiến thì chắc chắn chúng ta sẽ can đảm bước theo Chúa Kitô để sống yêu thương cho đến cùng.
.
MÙA CHAY LÀ THỜI GIAN CỦA SỰ BIẾN ĐỔI
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (St 15:5-12, 17-18; Pl 3:17 – 4:1; Lc 9:28b-36)
Phải làm gì trong mùa Chay? Sống và phát huy đức tin là câu trả lời mà Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã trình bày cho ta. Làm như thế, đời sống thiêng liêng của chúng ta sẽ thay đổi. Việc thay đổi nội tâm đã được Lời Chúa hôm nay mô tả qua biến cố đổi đời của tổ phụ Áp-ra-ham và nhất là qua cuộc Hiển Dung của Chúa Giê-su trên núi. Khi nói về cuộc biến đổi nội tâm, thánh Phao-lô cũng không ngại chia sẻ với tín hữu cộng đoàn Phi-líp-phê kinh nghiệm bản thân ngài và ngài còn kêu gọi họ hãy bắt chước ngài như ngài đã noi gương Chúa Giê-su nữa.
Trước hết chúng ta hãy xem cuộc đổi đời của tổ phụ Áp-ra-ham đã xảy ra như thế nào. Bắt đầu chương 12, sách Sáng Thế thuật lại sự tích tổ phụ Áp-ra-ham. Sau cơn hồng thủy, con cháu ông Nô-ê đã trở nên đông đúc. Một hậu duệ của ông là Tê-ra đã đem con trai là Áp-ram, con dâu là Xa-rai và cháu nội là Lót, con của Ha-ran, rời khỏi thành Ua của người Can-đê để đi tới đất Ca-na-an. Nhưng họ đến Kha-ran thì ở lại đó. Tại đây, Thiên Chúa đã kêu gọi Áp-ram rời Kha-ran để đến miền đất Người hứa ban cho ông . Hành trình của Áp-ram tới đất hứa đầy nguy hiểm và hầu như tuyệt vọng. Tới Si-khem là nơi Thiên Chúa hứa, ông ở lại. Nhưng một nạn đói khiến gia đình ông phải xuống trú ngụ tại Ai-cập một thời gian. Trở lại đất hứa và tại Khép-ron, Thiên Chúa hứa ban cho ông có con cháu đông đúc như sao trời cát biển, mặc dù bà Xa-rai vợ ông đã lớn tuổi mà không có con. Từ khi rời quê cha đất tổ cho đến lúc ấy, cuộc đời của ông Áp-ram khác nào một “mùa Chay” vì không có con cháu nối dòng và nơi chốn cố định. Vậy thì điều gì đã giúp thay đổi hoàn toàn cuộc đời ông? Đó là đức tin vào Thiên Chúa. Nhờ đức tin, ông đã vượt qua được mọi khó khăn trên hành trình đến đất hứa. Con người cũ Áp-ram biến thành con người mới là Áp-ra-ham, cha của đức tin. Bà Xa-rai vợ ông cũng mang một tên mới là Xa-ra và từ một phụ nữ son sẻ bà trở thành mẹ của dân tộc lớn. Tuy nhiên, hiệu quả lớn nhất của đức tin nơi Áp-ra-ham là: “Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính”. Sau này, đoạn thư Do-thái 11:8-19 đã không tiếc lời ca ngợi đức tin của ông Áp-ra-ham vậy!
Trong khi bài đọc nhấn mạnh đến vai trò của đức tin đã biến đổi thân phận ông Áp-ra-ham, thì bài Tin Mừng lại cho chúng ta thấy đang lúc Chúa Giê-su cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác. Rõ ràng là cầu nguyện đã ảnh hưởng thật nhiều trên đời sống Chúa Giê-su. Người cầu nguyện luôn luôn, nhất là trong những biến cố trọng đại của Người. Cuộc Hiển Dung của Người xảy ra sau khi Người báo trước cho các môn đệ biết về cuộc Thương Khó Người sắp phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Để được vững chí và giúp củng cố đức tin của các môn đệ, Chúa Giê-su đã cùng lên núi với ba môn đệ Người tuyển chọn và trong lúc cầu nguyện Người đã biến đổi hình dạng nên sáng láng, lại thêm có ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a hiện đến đàm đạo với Người. Ai cũng nghĩ là các vị đàm đạo với nhau về sứ mệnh của Chúa Giê-su, nhất là về cuộc Thương Khó sắp tới, bởi vì sứ mệnh ấy đã được nhắc đến nhiều lần trong sách Luật (đại diện là ông Mô-sê) và trong sách các Ngôn sứ (đại diện là ngôn sứ Ê-li-a). Nếu chúng ta định nghĩa cầu nguyện là nói chuyện với Chúa, thì đây quả thực là một buổi cầu nguyện vô cùng sốt sắng giữa Chúa Giê-su với hai ông Mô-sê và Ê-li-a. Chính trong bối cảnh “đang lúc Người cầu nguyện”, Chúa Giê-su đã biến đổi hình dạng và được vững tâm can đảm để tiếp tục sứ mệnh.
Riêng đối với thánh Phao-lô, ngài lại có một suy tư thần học sâu sắc. Ngài coi cuộc sống trần gian chẳng khác gì một “mùa Chay” để trong khoảng thời gian này chúng ta biến đổi trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” và đạt tới “tầm vóc” của Chúa. Cuộc sống hiện tại là một hành trình tiến về “quê hương chúng ta ở trên trời”. Không những thánh Tông đồ đề cập đến cuộc biến đổi nội tâm, mà ngài còn tin rằng quyền năng Chúa Ki-tô sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển cùa Người” nữa! Với xác tín ấy, thánh Phao-lô khích lệ tín hữu Phi-líp-phê: Anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi, nếu anh em kết hợp với Chúa Ki-tô mà sống vững vàng trong niềm tin vào Người!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tận dụng mùa Chay để thay đổi đời sống. Giống như Áp-ra-ham đã rũ bỏ quá khứ để mỗi ngày một tin vào Thiên Chúa hơn, chúng ta cũng hãy quay lưng lại với đời sống tội lỗi và đầy khuyết điểm, để hướng mặt về Chúa Ki-tô, lắng nghe và sống những giá trị Tin Mừng của Người. Rồi theo lời thánh Phao-lô, chúng ta kết hợp với Chúa để nhờ sự kết hợp này ta sẽ mỗi ngày một trở nên giống Chúa Ki-tô hơn. Nên giống Chúa Ki-tô (Christlike) không phải là một động tác xảy ra trong khoảnh khắc, nhưng là kết quả của cả một đời lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa, thực hành những nhân đức Phúc âm (Tám mối phúc), sống đời yêu thương và bác ái, yêu thương anh chị em như Chúa yêu thương chúng ta. Ông Áp-ra-ham đã trở thành “cha của đức tin”; Chúa Giê-su thì hiển dung đang khi Người cầu nguyện; còn chúng ta, chúng ta sẽ trở nên thế nào mai sau, cụ thể là trong mùa Chay 2019 này?
.
CẢM NGHIỆM SỐNG ĐỘNG VỀ THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Lê Danh Tường
Niềm xác tín vào sự hiện diện của Thiên Chúa là điều tối quan trọng để tôi đặt lại trật tự cuộc đời mình. Sang Chúa nhật thứ II, tôi được mời gọi tìm đến và chiêm ngắm chính Thiên Chúa mà tôi đã xác tín. Có Chúa Trời đấy, nhưng vóc dáng Ngài ra sao, trái tim Ngài thế nào? Ngài ở đâu và làm sao tôi gặp được Ngài?…
Thiên Chúa của Abraham
Gần 4 nghìn năm qua, nếu ai đó hỏi người Israel rằng Chúa của bạn là gì, thì câu trả lời đã có ngay trên môi miệng họ: là Thiên Chúa của Tổ phụ Abraham, Isaac, và Gia-cóp. Ông Abraham đã cảm nghiệm về một Thiên Chúa sống động đến nỗi: không chỉ ông mà cả con cháu ông ngàn đời sau vẫn không thể quên được.
Trong bài đọc thứ nhất, Abraham đã trải qua những giờ phút “kinh hãi” trước sự can thiệp của Thiên Chúa vào đời ông. Abraham đã đối thoại với chính Thiên Chúa, được Ngài hứa ban một tương lai tươi sáng. Nếu những lời hứa ấy làm ông ngạc nhiên phần nào, thì việc Thiên Chúa can thiệp nhãn tiền trên lễ vật giao ước đã làm ông “sợ hãi khủng khiếp”. Một sự sợ hãi, kinh ngạc đến đê mê của con người trước cảnh tượng thần linh. Đó không phải là một cơn kinh hoàng khi đứng trước sự hủy diệt tàn khốc, nhưng là một sự ngỡ ngàng, đê mê toàn thân trước quyền uy tác tạo và thông ban sự sống.
Cảm nghiệm sâu đậm về Thiên Chúa đã khiến Abraham tin tưởng mãnh liệt vào lời hứa của Ngài. Cho dù thực tế có phũ phàng đến mấy, niềm tin vào Thiên Chúa nơi ông không bao giờ lay chuyển. Sức sống của niềm tin ấy lan truyền từ đời này qua đời khác. Cảm nghiệm thực tế trong cuộc đời mình về Thiên Chúa sẽ giúp tôi có được niềm tin như Abraham.
Cảm nghiệm siêu nhiên hằng ngày
Chàng và nàng gặp nhau trong khung cảnh hữu tình đã nảy sinh tình cảm quyến luyến. Nhưng tình yêu ấy cũng vẫn chỉ là một thứ cảm giác nào đó, nó dễ dàng tan biến hay chỉ còn là những kỷ niệm thầm kín đã qua. Cho đến một ngày, nàng chứng kiến chàng sẵn sàng hy sinh đến cả tính mạng để bảo vệ mình thì tình yêu đôi lứa đã bước vào một không gian mới.
Miệt mài tìm kiếm lẽ đời, tìm kiếm chân nguyên của lẽ sống nhưng chàng Tất Đạt Đa đã chẳng thỏa mãn với bất cứ lý giải của môn phái nào. Cho đến một ngày, luồng ánh sáng hư không đã làm ngài thái tử giác ngộ dưới gốc cây bồ đề. Kể từ giây phút được chứng nghiệm sự giải thoát siêu phàm ấy, niềm tin vào con đường thoát bến mê nơi Đức Phật đã không hề thay đổi. Trải qua hơn 2500 năm, niềm tin mãnh liệt ấy vẫn trải rộng khắp nhân gian.
Kể từ ngày Chúa Trời xuống thế làm người, hình hài Đức Chúa Trời đã trở nên rõ nét. Chính nơi Đức Giê-su, con người đã có được cảm nghiệm rõ nét về Chúa hơn bao giờ hết. Hàng hàng lớp lớp các chứng nhân, những con người đã chứng nghiệm về tình yêu của Giê-su dành cho họ, đã cao rao niềm tin của mình bất chấp khổ đau hay cái chết.
Thiên Chúa là Đức Giê-su
Trong thân phận con người, Đức Giê-su đã thấu cảm mọi ngõ ngách tâm hồn con người. Trên ngọn núi cao, Ngài đã để cho các môn đệ được diện kiến vinh quang của Ngài, vinh quang nơi Thiên Chúa. Với một cảm nghiệm trực diện như thế, làm sao các ông có thể quên được. Thánh Luca đã thuật lại khung cảnh mà Phêrô, Giacôbê và Gioan diện kiến dung nhan Chúa chẳng khác gì với cảnh tượng của Abraham năm xưa.
Phê-rô đã đã cất lời thân thưa với Chúa, nhưng “Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì”. Tâm hồn ông ở trong tình trạng ngây ngất, ngây thơ như một em bé chỉ biết nói mà không biết mình nói gì. Cuộc thần hiện đã khiến “các môn đệ đều kinh hoàng”, một sự kinh hoàng trước ánh vinh quang bất diệt, xóa tan mọi lo lắng, mọi khổ đau của kiếp người. Nhờ cuộc diện kiến này mà niềm tin nơi các ông đã trở nên kiên vững. Các ông vẫn có đấy những lần vấp ngã, chán nản và muốn bỏ cuộc. Nhưng lặng lại để hồi tâm suy xét, các ông lại sống lại những giờ phút cảm nghiệm sâu đậm về Thầy Chí Thánh. Những cảm nghiệm ấy lại thôi thúc và vực các ông đứng dậy, bước tiếp trên con đường hướng tới vinh quang, tới bến bờ giải thoát.
Với cảm nghiệm trực diện về ánh hào quang làm mình ngã ngựa, thánh Phao-lô đã không nén được cảm xúc trước cảnh người đời xa lánh Giê-su: “giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này”.
Giờ này, nếu ai đó hỏi tôi rằng Chúa của bạn là gì, tôi không ngần ngại mà thưa rằng: Chúa của tôi là Giê-su. Đấng mà hằng ngày tôi được đụng chạm, được chia sẻ, được cảm nếm ân tình mà Ngài hằng ưu ái cho tôi. Đấng mà tôi đã từng ngụp lặn trong vòng tay nhào nặn của Ngài.
Ôi Chúa Giê-su mến yêu, con hạnh phúc và bình an bên Ngài. Vắng bóng Ngài con sẽ gục ngã đau thương. Chỉ bên Ngài và trong Ngài, con mới thấy tâm hồn mình yên vui, thanh tịnh.
.
Lm Trầm Phúc
Có bao giờ chúng ta thấy được vinh quang của Chúa như các thánh tông đồ chưa ? Chắc là không bao giờ. Nhưng chúng ta có tin rằng Chúa chúng ta là Đấng Quyền Năng tuyệt đối không ? Ngài không tỏ hiện vinh quang của Ngài cho chúng ta bằng những dấu hiệu bên ngoài, nhưng Ngài vẫn tỏ hiện vinh quang của Ngài trong sự khiêm hạ âm thầm, nhưng rất mãnh liệt : trong một tấm bánh nhỏ, trong một của ăn đơn thường. Chúng ta có nhìn thấy vinh quang và quyền năng của Ngài trong sự khiêm hạ nhỏ bé đó không ?
Thánh Thể chính là một cuộc hiển dung quyền năng của Chúa trong sự nhỏ hèn. Ai có thể làm được như Ngài ? Chỉ có Ngài, với quyền năng vô song của Ngài mới làm được một việc lạ lùng như thế. Chúng ta có nhìn thấy không ? Cần một niềm tin vững mạnh mới nhận ra quyền năng lạ lùng đó.
Nhìn thấy được vinh quang của Thầy chí thánh của mình, các môn đệ phải lên một đỉnh núi cao và ở một mình với Ngài. Các ông phải bỏ hết mọi sự, bỏ hết mọi lo lắng vật chất, để chỉ chú trọng đến một mình Ngài thôi, đắm chìm trong cầu nguyện.
Hôm nay, chúng ta họp nhau trong nhà thờ nầy, cách ly khỏi gia đình, khỏi mọi lắng lo vật chất, để chỉ tìm gặp Chúa mà thôi, may ra chúng ta sẽ thấy được vinh quang của Ngài.
Hôm nay, chúng ta sẽ nghe Ngài ngỏ lời với chúng ta, chúng ta mới thấy được Ngài ân cần yêu thương chúng ta như thế nào. Chỉ cần chú ý đến Ngài thôi, quy hướng về Ngài và mang đến cho Ngài tất cả gánh nặng của cuộc sống chúng ta.
Nơi đây, chúng ta mới thấy Ngài là trung tâm của mọi sự, là nguồn vui và hạnh phúc của chúng ta. Ngoài Ngài ra, mọi sự chỉ là tro bụi. Tại sao Môsê và Êlia có mặt ở đó với Ngài ? Môsê là đại diện của Lề Luật, Êlia là đại diện cho các tiên tri. Hai nhân vật nầy đại diện cho Cựu Ước. Điều nầy chứng tỏ rằng, Chúa Giêsu là trung tâm của mọi sự, của lịch sử. Nơi Ngài, mọi giao ước xưa, mọi lời tiên tri được thực hiện, ơn cứu chuộc được bày tỏ. Hai vị nầy nói gì với Ngài ? “ Các ngài đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc xuát hành của Ngài mà Ngài sắp thực hiện”. Cuộc xuất hành nào ? Là cuộc tử nạn mà Ngài đã báo trước hơn một lần với các môn đệ : “Con Người sẽ bị các kinh sư và thượng tế loại bỏ, Ngài sẽ bị giết và sẽ sống lại sau ba ngày”. Các ông ngủ mê mệt, khi thức dậy nhìn thấy vinh quang của Ngài. Phêrô, trong một lúc quá vui mừng hứng khởi đã nói : “Thưa Thầy, ở đây thật tuyệt ! Xin Thầy cho chúng con làm ba lều cho Thầy, cho ông Môisê, cho ông Êlia…” nghĩa là chúng con sẽ ở lại đây mãi.
Chúng ta cũng đang ở với Chúa, đang nghe lời Chúa, chúng ta có vui mừng như Phêrô không ? Hay chúng ta mong sao cho nhanh để ra về ? Đức tin của chúng ta ở đâu khi chúng ta đến dự thánh lễ ? Nếu chúng ta tin thật rằng, Chúa đang ở giữa chúng ta, đang lắng nghe chúng ta, đang nhìn chúng ta với tất cả tình yêu của Ngài, chúng ta có cảm thấy vui mừng không ? Chúng ta có mong ra về càng sớm càng tốt không, hay chúng ta sẽ nói như thánh Phêro : Ở đây thật tuyệt, con muốn ở lại với Chúa lâu dài…? Ở lại để tâm sự với Chúa, để cảm thấy tình yêu của Chúa êm đềm, thanh thản. Nhưng rất nhiều người không muốn ở lại với Chúa, nại lý do nhiều công việc phải lo. Những giây phút ở lại với Chúa quí báu biết bao ! Ngày Chúa nhật là ngày của Chúa, chúng ta dừng chân bên Chúa một lúc, chúng ta sẽ mất mát những gì ? Chúa mong mỏi biết bao được chuyện trò thân mật với chúng ta ! Nhưng chúng ta không muốn ở lại, vì chúng ta có yêu mến Chúa đâu ! Những người yêu nhau thích ở lại lâu giờ với nhau, nhiều lúc cũng không cần nói gì, miễn là ở bên nhau thôi. Ở lại với Chúa, chính là cử chỉ yêu thương êm đềm, sao chúng ta tiếc với Chúa từng giây phút đang lúc Chúa không tiếc gì với chúng ta ?
Và môt đám mây bao phủ các ngài, và từ đám mây đó, Chúa Cha phán : “ Nầy là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn. Hãy nghe lời Người”. Lần nầy là lần thứ hai Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con rất yêu dấu của Ngài. Điều nầy là bằng chứng cho thấy Chúa Cha đã yêu trần gian đến nỗi ban Người Con Một cho thế gian, và Người Con Một ấy đang ở giữa chúng ta, đầ ân sủng và chân lý. Vì thế chúng ta hãy nghe lời Ngài. Ngài là lời nói yêu thương của Chúa Cha, là sự sống. Chúng ta đã thấy vinh quang của Người Con Một trên đỉnh núi, nhưng chỉ là giai đoạn. Vinh quang đó sẽ chiếu sáng muôn đời khi Chúa từ cõi chết sống lại, và chúng ta sẽ sống lại với Ngài trong vinh quang, vì Ngài đã biến thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Với điều kiện là lắng nghe lời Ngài và sống với Ngài ngay hôm nay.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT II MÙA CHAY_C
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay là Chúa Nhật của biến cố Biến Hình. Biến cố Biến Hình vừa soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể, đồng thời cũng vận mệnh nhân loại. Chúng ta sẽ khám phá mầu nhiệm này trong các bản văn của Chúa Nhật II Mùa Chay năm C này.
St 15: 5-12, 17-18
Lộ trình tâm linh của nhân loại được vén mở lên cho đến kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đặt trọn niềm tin của mình vào những lời hứa của Chúa.
Pl 3: 17-4: 1
Theo thánh Phao-lô, cuộc Biến Hình của Đức Giê-su loan báo cuộc “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”, đó là giai đoạn cuối cùng lộ trình của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải trung tín.
Lc 9: 28-36
Tin Mừng tường thuật biến cố Biến Hình theo thánh Lu-ca.
BÀI ĐỌC I (St 15: 5-12, 17-18)
Chuyện tích này được trích từ “chuyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham từ chương 12: 1 đến chương 25: 18 sách Sáng Thế. Chuyện tích này tường thuật cuộc Thần Hiển. Nỗi sợ hãi của tổ phụ Áp-ra-ham trước việc Thiên Chúa tỏ mình ra có thể sánh ví với nỗi khiếp sợ của thánh Phê-rô và các bạn đồng môn vào lúc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài trong biến cố Biến Hình.
Đức Chúa tái khẳng định những lời hứa mà Ngài đã hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham. Ngài đã hứa ban đất cho người du mục lang thang này (St 12: 2-3 và 12: 7) và cũng đã hứa ban một dòng dõi đông đúc như sao trên bầu trời cát dưới bãi biển cho một cụ già hiện nay không con này (St 13: 14-16). Nhưng những lời hứa này chậm được thực hiện, vì thế, vị tổ phụ bắt đầu sốt ruột. Trước hết, Đức Chúa trấn an ông, đoạn đưa ra một lời cam kết long trọng được đóng ấn bởi một hy lễ.
- Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của niềm tin
Đức Chúa tái khẳng định với tổ phụ Áp-ra-ham rằng ông sẽ có một đứa con nối dõi tông đường sinh ra từ huyết thống của ông (St 15: 4), đoạn Ngài bảo ông ngước mắt lên trời thử đếm các vị sao và nói với ông: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”.
Đức Chúa mở ra cho vị tổ phụ một viễn cảnh không thể tin được, ấy vậy, “ông tin Đức Chúa”. Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước động từ “tin” xuất hiện. Theo ngôn ngữ Híp-ri, từ ngữ này có cùng ngữ căn với từ “A-men”, từ gợi lên sự vững bền, chắc chắn. Như vậy cuộc mạo hiểm của tổ phụ Áp-ra-ham không chỉ đánh dấu việc chào đời của một dân tộc, nhưng còn khai mào lịch sử của niềm tin, bước khởi đầu của lịch sử cứu độ. Tổ phụ Áp-ra-ham là người tín hữu đầu tiên; ông tin vào lời Thiên Chúa, bất chấp mọi sự việc có thể khiến ông nghi ngờ. Ông là cha của những người tin. “Đức Chúa kể ông là người công chính”, nghĩa là, ông sống một lòng một dạ với những gì Thiên Chúa chờ đợi từ ông. Chúng ta biết thánh Phao-lô sẽ khai triển thần học của mình từ câu này, qua đó thánh nhân sẽ minh họa đề tài đức tin của mình: chính nhờ đức tin, chứ không Lề Luật và công nghiệp của mình, mà chúng ta được ơn công chính hóa.
- Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của Giao Ước
Lời hứa thứ hai nhắm đến việc sở hữu đất. Đức Chúa lập lại lời hứa này cho ông Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Đây là biểu thức tiêu biểu cho phần dẫn nhập của một hiệp ước, như người ta đọc thấy trong nhiều bản văn miền Cận Đông, vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Vị bá vương đề xuất giao ước của mình, mở đầu với việc nhắc lại những ân lộc mà ông đã ban cho chư hầu của mình. Sách Xuất Hành dẫn nhập Thập Giới hay điều khoản Giao Ước Xi-nai theo cùng một cách như vậy: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20: 1).
- Hy tế Giao Ước
Tổ phụ Áp-ra-ham xin Thiên Chúa một dấu chỉ. Dấu chỉ này sẽ là một hy tế có tính chất đặc biệt, một hy tế giao ước. Trong loại giao ước này, những con vật bị sát tế, được xẻ đôi và hai bên ký kết đi qua giữa các tế vật xẻ đôi, nữa này đối diện với nữa kia, theo cách nào đó gợi lên số phận sẽ là như vậy, nếu hai bên không chu toàn những lời cam kết của mình. Từ đó, nguyên ngữ Híp-ri “cắt một giao ước”đồng nghĩa với ký kết một giao ước. Loại hy tế này còn được gợi lên vào thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a khi Đức Chúa công bố Ngài sẽ trừng phạt những ai đã không tuân giữ huấn lệnh bảy năm một lần phóng thích những người nô lệ: “Những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng qua giữa hai phần” (Gr 34: 18).
- Giấc ngủ mê
“Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ra-ham”. Từ ngữ Híp-ri được dùng ở đây không chỉ giấc ngủ tự nhiên. Từ ngữ này chỉ xuất hiện trong Cựu Ước để diễn tả giấc ngủ siêu nhiên. Cũng một từ ngữ được dùng để chỉ giấc ngủ của nguyên tổ A-đam vào lúc Đức Chúa lấy cái xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà. Chuyện tích về giấc ngủ của nguyên tổ A-đam và giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham đều có chung một tác giả Gia-vít. Giấc ngủ huyền nhiệm này muốn nói rằng con người không xứng đáng được nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Trong tất cả văn chương tôn giáo, giấc ngủ hay cái chết muốn nói lên cuộc vượt qua từ cuộc sống này đến cuộc sống khác cao vời hơn. Tổ phụ Áp-ra-ham sắp trở thành người cùng phe với Thiên Chúa, người được ân nghĩa với Thiên Chúa. Đức Chúa cam kết với ông, và lời cam kết này được chuẩn nhận bởi một hy tế.
Vì chính Thiên Chúa có sáng kiến ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham, nên chỉ mình Thiên Chúa, dưới hình ngọn lửa, đi băng qua giữa những tế vật: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bổng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật bị xẻ đôi”. Việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham căn cứ trên đức tin của tổ phụ và có tính cách đơn phương về phía chỉ một Thiên Chúa. Giao Ước Xi-nai sẽ là Giao Ước được ký kết bởi đôi bên và căn cứ trên Lề Luật.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 17-4: 1)
Trước khi đề cập đến câu chuyện Biến Hình theo Tin Mừng Lu-ca, chúng ta đọc đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân nói về cuộc thay hình đổi dạng của chính chúng ta. Khi nói về cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta, thánh nhân không trực tiếp dựa trên sự kiện Biến Hình của Chúa Ki-tô, nhưng trên cái lô-gíc của biến cố Phục Sinh. Quả thật, thánh Phao-lô trước tiên là nhà thần học về biến cố Phục sinh: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.
Xin được nhắc lại rằng thánh Phao-lô thành lập Giáo Đoàn Phi-líp-phê, thuộc miền Ma-xê-đô-ni-a, vào những năm 49-50. Bức thư mà thánh nhân gởi cho cộng đoàn này xem ra được viết vào năm 56 hay 57, lúc đó, thánh nhân đang bị cầm tù, chắc chắn ở Ê-phê-xô.
- Bắt chước thánh Phao-lô như thánh nhân bắt chước Đức Ki-tô
Thánh Phao-lô đã sinh ra các tín hữu Phi-líp-phê trong đức tin; lòng nhiệt thành tông đồ của thánh nhân được sánh ví với nỗi bận lòng của một người cha mong muốn con cái noi gương mình mà sống phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Thánh nhân liên kết những cộng tác viên của mình vào chung cùng mẫu gương mà thánh nhân đưa ra. Đây không là lần duy nhất thánh nhân diễn tả ước nguyện của mình (x. 1Cr 4: 16; 11: 1; 1Tx 1: 6; 2Tx 3: 7-9). Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân xác định: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1).
- Hai con đường
Thánh Phao-lô phác họa hai bức tranh tương phản: bức tranh thứ nhất nêu lên tất cả những người “chỉ nghĩ đến những sự thế gian” và bức tranh thứ hai nói về những công dân Nước Trời.
Ở đây, chúng ta nhận ra đề tài kinh điển về hai con đường như trong Thánh Vịnh 1, sách Đệ Nhị Luật (11: 26-28; 30: 15-20), sách Châm Ngôn (8: 32-36), cũng như sự đối lập giữa hai con đường thường được sử dụng trong các giáo huấn của các kinh sư. Chúa Giê-su lấy lại kiểu nói này trong dụ ngôn của Ngài về hai con đường: con đường thênh thang dẫn đến họa diệt vong, còn đường chật hẹp thì dẫn đến sự sống. Theo giáo huấn của thánh Phao-lô, con đường dẫn đến họa diệt vong là con đường mà những kẻ phóng đãng, những kẻ trụy lạc đi theo: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn”. Tuy nhiên, qua những từ ngữ này, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh Phao-lô nhắm đến những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn duy trì quá mức những kiêng cử đồ ăn thức uống theo luật Mô-sê; còn trầm trọng hơn nữa, họ vẫn cứ đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân phải chịu phép cắt bì. Quả thật, kiểu nói: “cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn” gợi lên điều này, bởi vì thánh nhân vừa mới bàn đến những kẻ cắt bì giả mạo và những người cắt bì đích thật, tức là những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Giê-su Ki-tô, chứ không cậy vào tính xác thịt (Pl 3: 2-3).
- Trời và Đất
Dù thế nào, thánh Phao-lô đối lập những công dân Nước Trời với những người mà Chúa của họ là cái bụng. Dường như thánh nhân đã chọn kiểu nói này khi quy chiếu đến thể chế chính trị đặc thù của thành phố Phi-líp-phê. Thành phố này là thuộc địa của Rô-ma, dân cư có “quyền công dân”; vì thế họ là công dân Rô-ma. Thánh nhân nói cho họ biết rằng quê hương đích thật của người Ki-tô hữu là Nước Trời.
Chính ở nơi tước vị công dân Nước Trời này mà chúng ta mong đợi cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”. Thánh Phao-lô dùng cùng những ngôn từ như khi thánh nhân nói về Đức Ki-tô trong bài thánh thi ở đầu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này. Như vậy, sau khi tự hạ mình và chịu chết, Đức Ki-tô được tôn vinh để đảm bảo cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta.
TIN MỪNG (Lc 9: 28-36)
Câu chuyện Biến Hình được cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ trình bày một trong ba bài trình thuật này vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc bài trình thuật theo thánh Lu-ca.
Xét về cơ bản, cả ba bài trình thuật khá giống nhau. Tuy nhiên, chính những sắc thái của mỗi bài trình thuật làm cho chúng khác nhau. Thánh Lu-ca đem đến những xác định riêng của mình.
Trước tiên, thánh Lu-ca gợi lên khoa thần học về vinh quang được liên kết với viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh; nhờ sắc thái này, bài trình thuật của thánh ký mang một âm hưởng của Tin Mừng Gioan. Người ta đã nghĩ rằng nguồn thông tin của thánh ký đã có thể là thánh Gioan, một trong ba nhân chứng trực tiếp của biến cố Biến Hình này.
Thứ nữa, như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình chỉ vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Chúa Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ngay liền biến cố “hóa bánh ra nhiều”như thánh Gioan, chứ không sau này như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu.
Ngoài ra, thánh Lu-ca cũng khác biệt với hai Tin Mừng nhất lãm kia về một điểm có ý nghĩa khác, ngay trước bài trình thuật của mình về cuộc Biến Hình. Khi Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp tới của Ngài, Ngài liên kết lời loan báo của Ngài với hai thị kiến để làm yên lòng các môn đệ: thị kiến “Con Người từ cõi chết sống lại” và thị kiến “Con Người ngự đến trong vinh quang”. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu viết: “Con Người ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8: 38; Mt 16: 27); còn thánh Lu-ca đính chính: “Người ngự đến trong vinh quang của mình và vinh quang của Chúa Cha” (Lc 9: 26). Theo thánh Lu-ca, vinh quang của chính Chúa Giê-su sẽ là một nét đặc trưng trong bức tranh về biến cố Biến Hình.
Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình được sống bởi Chúa Giê-su và biến cố Biến Hình được sống bởi các nhân chứng.
- Biến cố Biến Hình đối với Chúa Giê-su
A- Chúa Giê-su cầu nguyện:
“Đức Giê-su lên núi cầu nguyện”. Địa danh của Núi không được nêu tên, có lẽ một ngọn đồi miền Ga-li-lê mà Đức Giê-su có thói quen rút lui một mình. Nhưng trong Kinh Thánh, núi được liên kết với mặc khải của Thiên Chúa. Vả lại, núi này sắp mặc lấy một dáng dấp núi Xi-nai trong vài giây phút. Hơn nữa, khi kể ra việc Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện, thánh Lu-ca có chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su. Quả thật, chỉ một mình thánh ký kể ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện vào giây phút này, cũng như chỉ một mình thánh ký đã chỉ ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tầy Giả. Trong cả hai trường hợp, “Trời”đã đáp trả bằng mặc khải hầu như giống nhau.
Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, “dung mạo của Ngài bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Thánh Lu-ca mô tả những thay đổi như vậy để tránh kiểu nói: “biến đổi hình dạng” được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu sử dụng, bởi vì đối với thánh Lu-ca, kiểu nói: “biến đổi hình dạng” âm vang ngôn từ ngoại giáo. Như vậy, thánh ký định vị biến cố Biến Hình ở lòng cuộc sống nội tại của Chúa Giê-su, như một thực tại thần bí xuất phát từ chính Chúa Giê-su; Ngài không đón nhận biến cố này từ bên ngoài; vào lúc đó, nhân cách thực sự của Ngài được bày tỏ ra một cách tỏ tường.
B- Sự hiện diện của hai nhân chứng có thế giá: ông Mô-sê và ông Ê-li-a
“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Rõ ràng, thánh ký ám chỉ luật Mô-sê, theo đó tính xác thực của một sự kiện chỉ được chấp nhận nếu ít nhất có hai nhân chứng (Đnl 19: 15). Cả hai nhân vật này: ông Mô-sê và ông Ê-li-a, đều đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi thánh; và cả hai, theo truyền thống, đều được đưa lên trời bên cạnh Thiên Chúa một cách mầu nhiệm: ông Ê-li-a được đưa lên trời trên một chiếc xe lửa, trước mắt của người môn đệ mình là ông Ê-li-sê (2V 11-12); còn ông Mô-sê, không ai đã thấy ngôi mộ của ông (Đnl 34: 5-6). Chắc chắn ông Mô-sê tiêu biểu Lề Luật, còn ông Ê-li-a đại diện trào lưu ngôn sứ, nhưng trên hết, không ai xứng đáng hơn hai nhân vật này làm chứng về Đấng Mê-si-a.
“Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. Đây là lời ghi chú riêng của thánh Lu-ca, ông Mô-sê và ông Ê-li-a được dự phần vào ánh vinh quang của Thiên Chúa. “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Chỉ một mình thánh Lu-ca xác định điều này. Từ “xuất hành” gợi lên rằng Chúa Giê-su là Mô-sê mới, Đấng sắp giải phóng con người khỏi cảnh đời nô lệ và hướng dẫn dân Ít-ra-en Mới về vương quốc Thiên Chúa, qua cuộc Vượt Qua của Ngài từ Tử Nạn đến Phục Sinh.
Như vậy, biến cố Biến Hình nhằm củng cố niềm tin của chúng ta: hậu cảnh của cuộc quy tụ ở trên núi Biến Hình này là đồi Gôn-gô-tha và vinh quang sau này của Ngài. Vào lúc Chúa Giê-su khởi sự phần khó khăn nhất của sứ mạng Ngài, Ngài nhận được niềm an ủi đặc biệt. Chúa Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp đi qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi nhập thể, và vào lúc này Ngài lấy lại một thoáng ánh vinh quang này. Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng bậc nhất mà Chúa Giê-su đã đón nhận trong suốt sứ vụ của Ngài, ít ra trong chừng mực mà chúng ta có thể biết.
- Biến cố Biến Hình đối với ba môn đệ
A- Họ sẽ là những nhân chứng
Đức Giê-su “đem theo các ông Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê”. Đây cũng là ba vị Tông Đồ mà Chúa Giê-su cũng đã chọn làm nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái của viên trưởng hội đường, ngỏ hầu họ hiểu một cách chính xác mối liên hệ giữa Biến Hình và Phục Sinh. Cũng chính ba người môn đệ này mà Chúa Giê-su sẽ đem theo riêng với Ngài vào vườn Ô-liu ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài.
B- Giấc ngủ của ba môn đệ
Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, các môn đệ “ngủ mê mệt”. Sự kiện chính xác sẽ được tái diễn ở vườn Ô-liu ở đó cũng chính ba môn đệ này ngủ mê mệt. Chắc chắn là giấc ngủ tự nhiên, trừ phi là một trong trong những giấc ngủ đánh dấu khoảng cách giữa con người và mầu nhiệm Thiên Chúa, như giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham trong Bài Đọc I, hay giấc ngủ của ông A-đam trong sách Sáng Thế.
“Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người”. Việc kể ra vinh quang của Chúa Giê-su ở trung tâm bài trình thuật của Lu-ca khiến người ta nghĩ đến Tựa Ngôn của Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Sau này, thánh Phê-rô và các bạn đồng môn của ông sẽ phải đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này lại chiêm ngưỡng cũng một Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh của lịch sử Ít-ra-en. Núi Biến Hình là phản đề của đồi Gôn-gô-tha.
C- Cuộc Thần Hiển
Thánh Phê-rô, bốc đồng và nhiệt thành, muốn thời gian dừng lại, cố định thị kiến này mãi mãi. Thánh nhân đề nghị dựng ba cái lều, một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a; thánh nhân không nghĩ đến mình, cũng như các bạn đồng môn của mình. Nhưng “ông không biết mình đang nói gì” vì biến cố vượt quá khả năng hiểu biết của thánh nhân.
“Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông”, như quyền năng của Chúa Thánh Thần đã bao phủ Đức Ma-ri-a, và như Đám Mây trong Cựu Ước biết bao lần vừa bày tỏ vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là đám mây trên đó Con Người sẽ ngự xuống vào ngày cánh chung…
“Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Đám mây này bao phủ các ông, như vậy hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông với mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của một mặc khải mà các ông sẽ không dám thuật lại cho bất kỳ ai về những điều mình đã chứng kiến.
Một tiếng nói vang lên ngỏ lời với các ông công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Cha đã chọn, như vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng thêm vào một mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mệnh lệnh này chắc chắn ám chỉ đến kinh “Shema Israen”, kinh bắt đầu với “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”. Thánh Phê-rô và các bạn đồng môn đại diện dân Ít-ra-en mới.
“Hãy vâng nghe lời Người!”: mọi điều Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại Ngài đã nói qua Đức Ki-tô, thời gian viên mãn đã đến (x. Dt 1: 1). Thánh Gioan Thánh Giá giải thích: “Hãy chăm chú nhìn vào một mình Ngài, vì ở nơi Ngài Ta đã nói và mặc khải cho con mọi điều, và ở nơi Ngài con sẽ gặp thấy thậm chí nhiều hơn điều con xin và ước muốn… Hãy lắng nghe Ngài, vì Ta không có thêm niềm tin để mặc khải, cũng không có thêm những điều gì để tuyên bố” (Ascent o f Mount Carmel, book 2, chap. 22, 5).
- Bài học của biến cố Biến Hình
Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ Ngài bằng cách mặc khải thân thể vinh quang của Ngài sau khi Ngài sống lại. Ngài muốn họ nhận ra rằng cuộc Tử Nạn của Ngài sẽ không là dấu chấm hết, nhưng đúng hơn con đường Ngài phải đi qua để đạt đến vinh quang của Ngài. “Đối với một người đi liền một mạch trên đường, người ấy phải có một sự hiểu biết nào đó về cùng đích – giống như một cung thủ sẽ không bắn liền ngay mũi tên trừ khi trước hết người ấy thấy mục tiêu… Điều này đặc biệt cần thiết nếu con đường thì cam go hay gập ghềnh, cuộc ra đi nặng nhọc, thì cùng đích lại thú vị” (St Thomas Aquinas, Summa theologiae, III, q. 45, a. 1).
Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su vén mở một trong những phẩm chất của thân thể được tôn vinh, thân thể của các thánh sẽ rạng ngời vinh hiển như lời của Chúa Giê-su được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu: “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” (Mt 13: 43). Về phẩm chất thân xác được tôn vinh này, thánh Phao-lô khi thì gọi vinh quang: “Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 15: 43), khi khác thì gọi vinh hiển: “Người có quyền năng… mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21). Về vinh quang này, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm một hình bóng nào đó trong sa mạc, khi gương mặt của ông Mô-sê, sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, đã chói sáng rạng rỡ đến mức họ không thể nhìn vào gương mặt của ông (Xh 34: 29; 2Cr 3: 7). Tất cả mọi thân thể của các thánh sẽ không bị hư nát, nhưng dự phần vào hạnh phúc trọn vẹn bên cạnh Thiên Chúa.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA CHAY_C
Lm. Simon-Phêrô Võ Hoàng Sâm
Kính thưa quý ông bà anh chị em, Tin Mừng ngày Chúa Nhật II Mùa Chay năm C hôm nay thuật lại cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Hiển Dung trên núi Tabore. “Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng” (Lc 9,28-29). Đi lên núi cầu nguyện để gặp gỡ và lắng nghe tiếng của Chúa Cha và trong sự cầu nguyện này Chúa Hiển Dung sáng láng tuyệt vời, không những diện mạo Chúa biến đổi khác thường mà cả chiếc áo Người cũng trở nên trắng tinh sáng láng. “Biến đổi” và “trở nên” là hai từ quan trọng trong câu Kinh Thánh này. Đó là một sự thay đổi tốt đẹp, hướng đến vinh quang Thiên Chúa. Trong bối cảnh ấy, có hai vị cũng tầm cỡ trong thời Cựu Ước là Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Hai vị này cũng uy nghi sáng láng. Quả là một cuộc gặp gỡ thần thiêng, vinh quang ân phúc mà tông đồ Phêrô phần nào cảm nghiệm được và thấy muốn ở lại nơi mà ông thốt lên rằng “tốt lắm” dù ông không rõ mình nói gì. Và có tiếng Chúa Cha tuyên phán “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Lc 9,35). Đáng chúc tụng thay cuộc gặp gỡ và Hiển Dung vĩ đại mà Thiên Chúa đã thực hiện, mặc khải cho các tông đồ và những tín hữu Chúa hạnh phúc thần thiêng để biết khát khao hướng đến mỗi ngày trong cuộc sống.
Chúa Giêsu Hiển Dung – Biến hình trên núi, chúng ta cũng biến đổi hàng ngày khi :
1.“tin vào Thiên Chúa” (St 15,6) như tổ phụ Apraham và đến với Người mỗi ngày vì “Chúa là sự sáng và là Đấng Cứu Độ chúng ta.” (Đáp ca) Mỗi ngày đến với Chúa, cầu nguyện kiên trì, gặp gỡ và lắng nghe Chúa, chúng ta sẽ được biến đổi để thêm sáng láng hơn, biến đổi tâm hồn nên trung trinh với Chúa, rộng rãi yêu thương, bao dung, độ lượng với tha nhân.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để biến đổi khi thực hiện một sự hoán cải trong tâm hồn, từ chỗ nhìn nhận tội lỗi của mình, dốc lòng chừa cải và đổi mới tâm linh. Đổi mới cái nhìn theo ánh sáng lời Chúa, đổi mới quyết tâm thực thi lời Chúa. Vua Đavit trong thánh vịnh thống hối 51 đã cầu nguyện với những tâm tình như thế. Sau khi “xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con xin Ngài thanh tẩy.” (Tv 51,3-4) thì ông đã xin “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy.” (Tv 51,12). Như vậy, đổi mới tinh thần, một tấm lòng trong trắng là điều mà một tội nhân cần phải hướng đến qua sự biến đổi mỗi ngày.
2.Để được biến đổi thực sự, chúng ta cần phải nghe lời Chúa Giêsu. Khi nghe lời Chúa Giêsu cũng là lúc chúng ta thực hiện lời dạy của Chúa Cha : “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Lc 9,35). Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, Người Con tuyệt hảo, kính trọng và yêu Chúa Cha vô cùng. Chúa Cha cũng yêu Chúa Con vô cùng tận và tình yêu Cha Con tròn đầy viên mãn đến mức nhiệm sinh Ngôi Ba Thánh Thần. Chúa Cha bảo chúng ta hãy nghe lời Con Một của Người. Chúng ta nghe hàng ngày trong đời sống cầu nguyện, lắng nghe trong Thần Khí Chúa, nghe Tin Mừng mỗi ngày, đọc, suy gẫm lời Chúa ngày đêm. Noi gương Đức Mẹ Maria, chúng ta cứ nghe và suy đi ngẫm lại trong lòng, khao khát múc lấy và tích trữ lời Chúa Giêsu mỗi ngày. Đây cũng là lương thực trường sinh cho chúng ta. Chính Lời Chúa sẽ làm biến đổi hàng ngày đời sống đức tin của chúng ta.
Chính lời Chúa, luật Chúa cũng giúp gia đình mỗi người chúng ta vượt khó, có Chúa cùng vui như chủ đề Năm mục vụ 2018-2019 của Giáo phận Qui Nhơn chúng ta. Thánh vịnh 119 đã có những khẳng định :
“Mặc quan quyền họp nhau mưu hại,
Tôi tớ Ngài đây cứ gẫm suy thánh chỉ.” (Tv 119,23)
“Lời hứa của Ngài làm cho con được sống,
Đó là điều an ủi con trong cảnh khốn cùng.” (Tv 119,50)
“Thánh chỉ Ngài là khúc nhạc của con,
Giữa cảnh đời tha hương lữ thứ.” (Tv 119,54)
“Khốn khổ ngặt nghèo tuy ập xuống thân con,
Mệnh lệnh Ngài vẫn làm con vui thỏa.” (Tv 119,143)
…
Lời Thánh vịnh cho thấy dù có bị “quan quyền họp nhau mưu hại”, gặp “cảnh khốn cùng”, “khốn khổ ngặt nghèo ập xuống”, bị “lưới ác nhân vây bủa”,… thì Lời Chúa trong sách Thánh được diễn tả bởi những hạn từ là “thánh chỉ”, “thánh ý Ngài”, “lời hứa của Ngài”, “luật Ngài”, “mệnh lệnh Ngài” vẫn làm “con vui thỏa”, “đó là điều an ủi con”, “là khúc nhạc của con” … và nhận ra rằng “đau khổ quả là điều hữu ích để giúp con học biết thánh chỉ Ngài”.
3.Không những tâm hồn, chúng ta còn hy vọng “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Đó cũng là điều mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Xác đất vật hèn này mà được sống lại và biến đổi nên giống thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu thì còn vinh phúc nào hơn nữa.
Cầu xin Thiên Chúa, qua lời của Người, nhờ sự cầu bàu của Mẹ Maria và thánh Cả Giuse cho chúng ta được biến đổi hàng ngày nên tốt hơn, tin, cậy, yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em hơn, mỗi ngày “vững vàng trong Chúa” (Pl 4,1), tiến bước về chốn vinh quang huy hoàng rực rỡ, được ở với Chúa trong ánh sáng, hạnh phúc muôn đời mà thánh Phêrô đã phần nào cảm nghiệm “chúng con được ở đây thì tốt lắm”, không những tốt lắm mà là tốt nhất, “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3). Amen.
.
CƠN ĐAU SINH NỞ CỦA SỰ SÁM HỐI
JM. Lam Thy
Trong sứ điệp Mùa Chay 2019, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Thông qua Mẹ Giáo hội, mỗi năm Thiên Chúa lại ban cho “các tín hữu của Ngài hồng ân được mong chờ Đại Lễ Phục Sinh trong niềm vui của Chúa Thánh Thần”… Con đường đi tới Đại Lễ Phục Sinh cũng kêu gọi chúng ta hãy canh tân khuôn mặt và con tim Ki-tô giáo của mình nhờ vào sự thống hối, hoán cải và ơn thứ tha, để chúng ta có thể sống sự phong phú hoàn toàn của hồng ân mầu nhiệm Vượt Qua. Sự “ngong ngóng” và mong chờ ấy của thế giới thụ tạo sẽ được hoàn tất nếu những người con trai và những người con gái của Thiên Chúa được hiển thị cách rõ ràng, có nghĩa là, khi các Ki-tô hữu và tất cả con người đón nhận một cách cương quyết “cơn đau sinh nở” của sự sám hối.”
Biến cố hiển dương mầu nhiệm Phục Sinh rõ rệt nhất chính là biến cố “Đức Giê-su hiển dung” (Bài Tin Mừng CN II.MC – Lc 9, 28b-36). Hiển dung là bày tỏ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Khi ba môn đệ theo Đức Giê-su lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” hàng ngày trong suốt hành trình đi khắp đó đây rao giảng Tin Mừng. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (Lc 9, 29). Cũng vì đây là một biến cố biến đổi hình dạng từ dung mạo bác thợ mộc Giê-su bình thường (bản tính loài người) sang chân dung Đức Giê-su Thiên Chúa (bản tính Thiên Chúa), nên có thể gọi đó là biến cố “Đức Giê-su biến hình” hay “Đức Giê-su hiển dung”.
Có một điểm rất đáng lưu ý là biến cố hiển dung đã xảy ra vào khoảng 8 ngày sau Lời dạy về mầu nhiệm Tử nạn: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Lc 9, 22). Như vậy thì cũng có thể nói biến cố biến hình đã hiển dương (bày tỏ sự rực rỡ, vinh quang) mầu nhiệm Phục Sinh. Ðiều này cho thấy mầu nhiệm Phục Sinh luôn đi liền với mầu nhiệm Tử Nạn. Đức Ki-tô muốn cho các môn đệ được thấy trước ánh sáng Phục sinh để họ khỏi nao núng khi Người chính thức buớc vào cuộc khổ nạn thập giá. Tất cả sứ vụ cao trọng của Con Người (từ khổ nạn thập giá đến chiến thắng tử thần để cứu độ nhân loại) đều đã được tiên báo.
Được báo trước bằng lời (Lc 9, 22) thì môn đệ Phê-rô trách Thầy khiến Người phải quở mắng: “Xa-tan! Lui lại đằng sau Thầy” (Mc 8, 33); được báo trước bằng biến cố “hiển dung” thì “ông Phê-rô và đồng bạn ngủ mê mệt” (Lc 9, 32), rồi đến lúc tỉnh dậy được chứng kiến tận mắt Thầy mình đang đàm đạo với các vị ngôn sứ (Mô-sê, Ê-li-a) đã khuất bóng từ mấy thế kỷ trước, thì lại “hoảng sợ” nữa (Lc 9, 32-34). Cho tới khi những sự kiện được báo trước ấy xảy ra, đến nỗi khiến Thầy “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.” (Lc 22, 44), thì các môn đệ lại… ngủ (!), khiến Người phải thắc mắc “Sao anh em lại ngủ?” (Lc 22, 46). Ấy là chưa kể khi Thầy bị bắt thì các môn đệ bỏ trốn hết, chỉ còn một mình Phê-rô lẽo đẽo theo Thầy từ xa xa, để rồi chối Thầy 3 lần trong một đêm. Tới khi Thầy sống lại và hiện ra với các môn đệ thì các ngài lại “kinh hồn bạt vía tưởng là thấy ma” (Lc 24, 37). Thế đó! Tất cả đã nói lên điều gì? Câu trả lời thật rõ ràng: Đức tin của các môn đệ vẫn còn chao đảo nếu không muốn nói là các ngài bị khủng hoảng đức tin.
Chính vì thế nên có thể nói: Với biến cố biến hình, Đức Giê-su Ki-tô muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, đã nhập thế cứu độ nhân loại. Từ đó, giúp củng cố đức tin cho các môn đệ, cho mọi người; đồng thời, cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và nói chung là biến đổi con người các Ki-tô hữu. Biến đổi con người không chỉ là thay hình đổi dạng bên ngoài, vì nếu chỉ thay hình đổi dạng bên ngoài thì ở thế kỷ XXI này, con người dư sức qua cầu. Ôi chao! Nào là giải phẫu thẩm mỹ, cấy da, cắt mắt, kẻ môi, nhuộm tóc, rồi thì tô son trét phấn, tắm sữa, đắp kem…, ấy là chưa kể thời trang nọ, mô đen kia, thậm chí còn thay đổi cả giới tính nữa…
Như vậy, vấn đề đặt ra cho các tín hữu không phải là thay hình đổi dạng bên ngoài, mà chính là làm sao biến đổi được cõi lòng bên trong, canh tân được đời sống tâm linh. Bởi vì và trên hết, trong Mùa Chay, chúng ta “hãy xé lòng, chớ đừng xé áo” (Ge 2, 13). Đừng xé áo để mặc áo mới cho hợp thời trang, cho đúng mốt thời đại, mà cần phải xé lòng ra để rũ bỏ hết những tì ố, những xấu xa, tội lỗi, đồng thời “hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô” (Rm 13, 14) ngõ hầu đón nhận “luồng ánh sáng chói lọi” là chính Con Người đến để thanh tẩy tâm hồn, biến đổi bản thân nên đồng hình đồng dạng với Người.
Dân Chúa thời Cựu Ước mới chỉ được biết Con Một Thiên Chúa sẽ giáng trần cứu độ nhân loại thông qua các lời tiên tri của các ngôn sứ, các lời rao truyền về sấm ngôn của Đức Chúa, chưa được trực diện chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giê-su, chưa được như ba môn đệ thân tín của Đức Ki-tô trực tiếp nghe Lời của Đức Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35). Vậy mà Cựu Ước đã có lời nhắn nhủ: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em.” (Ge 2, 13).
Đến như ngày nay thì người tín hữu không những được nghe lời tiên tri, tiên báo về Đấng Cứu độ Giê-su Ki-tô, mà còn được chính các môn đệ thân tín của Đức Ki-tô tường thuật lại biến cố hiển dung của Con Thiên Chúa và nghe Lời phán dạy của Chúa Cha. Rõ ràng là Dân Chúa ngày hôm nay được biết nhiều hơn Dân Chúa thời Cựu Ước; nhưng thử hỏi đã mấy ai dám mạnh dạn xé lòng hơn là xé áo? Kể ra thì con số những người dám “xé lòng” đã là con số khá nhiều, đó là các vị Tông đồ tiên khởi, và biết bao nhiêu vị hiển thánh – nhất là các thánh Tử vì Đạo – hiện đang được diễm phúc vui hưởng thành quả của hành động “xé lòng” trên Thiên quốc. Tuy nhiên, con số người chỉ thích “xé áo” vẫn là những con số nhiều hơn, áp đảo cả con số những kẻ biết “xé lòng”. Người ta chỉ thích xé áo để khoác vào người bộ áo sặc sỡ thế trần.
Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chúng ta chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình) theo Chúa.
Tin Mừng về biến cố Hiển Dung của Chúa Giê-su đặt trước mắt người tín hữu vinh quang của Đấng Cứu Độ, báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Biến cố này cũng đồng thời giúp cộng đoàn Ki-tô hữu ý thức mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, để tái đón nhận món quà Ân Sủng của Thiên Chúa Cha ban tặng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35). Một cách cụ thể, xin hãy tránh xa sự ồn ào của cuộc sống thường nhật, để ngụp lặn trong sự hiện diện của Thiên Chúa: Người muốn thông truyền cho chúng ta hằng ngày một Lời thấu vào tận thẳm sâu tâm hồn, ngõ hầu phân biệt được thiện và ác (Dt 4, 12), đồng thời củng cố ý chí vác thập giá mình mà theo Chúa đến cùng. Vâng, được mời gọi cùng đi lên núi cao để “mặc lấy Chúa Ki-tô”, được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho ”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3,10)
Trước biến cố hiển dương mầu nhiệm Phục Sinh – cũng tức là lời hứa ban sự sống đời đời cho những kẻ tin – người Ki-tô hữu còn chần chờ gì nữa mà không mạnh dạn bước vào Mùa-Chay-cuộc-đời với quyết tâm như một lời đoan hứa: Tôi quyết tâm từ bỏ tất cả những thói hư tật xấu, như một lần nữa tôi tuyên xưng đức tin. Hãy ao ước được “xé lòng” cho thật sự chảy máu ra như chính Người Thầy Chí Thánh “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.” (Lc 22, 44). Vâng, cũng chính lời hứa của Đấng Cứu Độ thông qua biến cố hiển dung, chúng ta được mời gọi mỗi khi đối diện với những khủng hoảng, bế tắc nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, hãy hướng lòng trí lên Đức Ki-tô để được khích lệ, để được ủi an, hầu có thể vượt qua được những thử thách đau thương ấy.
Tóm lại, người tín hữu sống tinh thần Mùa Chay Thánh tất nhiên không xé áo, mà dứt khoát xé lòng như “Trái Tim Bị Đâm Thâu” của Đấng Cứu Độ trên thập giá, để “mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô” (Rm 13, 14). Như vậy “Toàn thể thế giới thụ tạo sẽ “không còn phải lệ thuộc vào cảnh hư nát nữa, nhưng được cùng với con cái Thiên Chúa, chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). Mùa Chay chính là dấu chỉ mang tính Bí Tích của sự hoán cải. Mùa này kêu gọi các Ki-tô hữu hãy để cho mầu nhiệm Vượt Qua trở nên hữu hình cách mạnh mẽ và cụ thể hơn trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội của họ, đặc biệt là thông qua việc chay tịnh, cầu nguyện và làm phúc bố thí.” (Sứ điệp Mùa Chay 2019).
Xin hãy cầu nguyện để Thần Khí Chúa soi sáng và thêm sức mạnh giúp chúng ta xác tín sứ mệnh Chúa trao cho chúng ta, bởi chính trong cầu nguyện, chúng ta sẽ được biến đổi và biến đổi tận căn. Ước được như vậy. Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy, cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN II Mùa Chay)
.
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu đưa 3 môn đệ Người lên núi Tabor để được chiêm ngưỡng vinh quang của Người.
Lên núi chắc là không phải một ngọn núi cao chót vót, có lẽ cũng cỡ như núi Lớn, núi Nhỏ ở Vũng Tàu. Hay cao nữa như núi Lang-Bi-Ang thuộc thành phố Dalat, nơi người ta có thể tổ chức đi dã ngoại như ngày nay. Nơi Chúa và 3 môn đệ dừng chân chắc cũng là một khu đất bằng phẳng nên các ông mới có thể nghĩ đến việc dựng lều khi Phêrô thốt lên “ Ở đây thực là hay “. Chúa không dẫn các ông đi dã ngoại, giải trí, dù rằng đã có lúc Người nhắn nhủ các ông, sau những ngày đi rao giảng mệt mỏi là, hãy lui vào nơi vắng lặng mà nghỉ ngơi đôi chút. Lần này Người muốn các ông nhận ra được Chúa là đấng có uy quyền. Chúa muốn củng cố niềm tin cho các ông trước khi Người bước vào con đường khổ giá.
Thường ngày Người vẫn ở bên các ông, cùng ăn cùng uống với các ông, dạy dỗ, đào tạo các ông từ những người “Lưới cá thành lưới người “. Trong số các ông, ít nhiều cũng đã từng chứng kiến việc Chúa làm như chữa lành bệnh tật, cho người chết sống lại, rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa và cũng từng nghe dư luận về Thầy mình. Thế nhưng các ông vẫn có người còn nửa tin nửa ngờ. Chưa biết thật Chúa là Đấng thế nào. Sau khi Chúa Giêsu và các ông Moi-sê, Êlia đàm đạo thì các ông mới thực kinh hoàng về sự vinh hiển sáng láng của Người.
Ngày hôm nay, đọc trên báo chí, xem các phương tiện truyền thông hàng ngày, biết bao tin tức về tội ác, về cái xấu trên thế giới. Không ít tệ nạn xã hội, bạo lực, bạo hành diễn ra nơi con sinh sống, khiến một số người mất phương hướng, mất niềm tin. Rồi trong lãnh vực tôn giáo những diễn biến ít năm gần đây ở các nước phương tây về việc bê bối của một số Giáo sĩ, khiến cho nhiều người lên tiếng phê phán, chống phá Giáo hội Chúa nơi trần gian. Không ít người tín hữu chúng con chao đảo, thậm chí ngã lòng. Chúa đã hiển dung nơi các Môn đệ, thì Người cũng tỏ mình ra cho mỗi người chúng con trong cuộc đời này. Lời Chúa “Ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu” sẽ luôn là niềm hy vọng và sự cậy trông của con người.
Xin cho con luôn nhận ra Chúa trong cuộc đời mình. Người sẵn sàng tỏ mình ra với con, nếu con biết đi theo Người, bởi chính “Người là Đường, là sự thật và là sụ sống “. Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời, để giơ tay cứu vớt những con người bị vấp ngã tìm đến. Chúa có ở đó, nhưng còn phần con, con có tin rằng Người ở bên con chăng? Người muốn con thể hiện niềm tin ấy bằng những hành động yêu thương cụ thể cho anh em con, con có làm được không?
“ Biết mấy lúc chúng ta đi trong cuộc sống mọi ngày, đã gặp Ngài nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc chúng ta vô tâm không để ý Ngài : người phu xe gầy yếu, người ăn xin nghèo đói. . .”(Trên đường Emmaus-LM Thành Tâm ) .
Lạy Chúa, Xin Người thương con !
.
BIẾN HÌNH ĐẸP LUNG LINH THẦN THÁNH
Lm. Đaminh Nguyễn Xuân Trường
Sống ở đời ai cũng thích đẹp đẽ. Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ nên cũng muốn chúng ta đẹp cả xác lẫn hồn. Và tuần này Phúc Âm kể chuyện Đức Giêsu biến hình trên núi, lộ ra vẻ đẹp thần thánh rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa.
Trong đời sống xã hội ngày nay người ta đua nhau làm đẹp. Thành thử, không chỉ quần áo giày dép, mà cả tóc tai mặt mũi cũng cứ biến đổi sắc màu hình dạng liên tục. Có ông tếu táo bảo: Bà xã nhà tôi dạo này biến hình nhiều hơn cả Chúa Giêsu! Những kiểu “biến hình” làm đẹp như thế luôn phải trải qua đau đớn luyện tập hay phẫu thuật thẩm mỹ. Muốn đẹp thì phải đau. Nhiều người vì đẹp mà vui vẻ chịu đau đớn. Và trong đời sống thiêng liêng cũng thế, nhà đạo bảo rằng: để hưởng phục sinh vinh quang thì “không tuần chay nào mà không có nước mắt!”
Đúng vậy, mùa chay là dịp để chúng ta làm đẹp tâm hồn. Làm đẹp bằng cách vào luyện tập trong phòng Gym chay tịnh hãm mình, đi chỉnh sửa sắc đẹp ở tiệm thẩm mỹ sám hối yêu thương, đi tắm trắng trong tòa giải tội, đi dưỡng da đắp mặt linh hồn trong Spa cầu nguyện. Chính Chúa Giêsu đã biến hình vinh quang đang lúc cầu nguyện. Cầu nguyện là lúc chúng ta ở gần Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ. Gần Đấng Chân Thiện Mỹ tất nhiên chúng ta sẽ trở nên đẹp đẽ sáng láng bởi vì theo quy luật tự nhiên: gần đèn thì sáng.
Những biến hình thay đổi làm cho con người đẹp hơn. Khi đẹp hơn sẽ thấy vui hơn. Thế thì, sự kiện Chúa Giêsu biến hình cũng mang ý nghĩa làm cho con người và đời sống đạo của chúng ta đẹp hơn, vui hơn. Không chỉ là vẻ đẹp hình dáng bên ngoài và niềm vui vật chất, mà còn là vẻ đẹp tâm hồn bên trong và niềm vui thần thánh. Vẻ đẹp rạng ngời nhất là vẻ đẹp của hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta được tỏ lộ. Niềm vui hoan hỉ nhất là niềm vui chúng ta được làm con Chúa và được Chúa yêu thương cứu độ. Amen.
.
Giuse Trương Đình Hiền
Như một lời mời gọi truyền thống, sứ điệp Phụng vụ Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay đốc thúc chúng ta và các anh chị em Dự tòng lên đường tiến vào Mầu nhiệm Vượt Qua bằng những nỗ lực cụ thể hơn trong hy sinh và từ bỏ, trong sám hối và đổi đời. Đó chính là “tiếng gọi của Lời Chúa hãy “lên cao” như Đức Kitô đưa các Tông đồ lên đĩnh núi Ta-bo để Ngài biến hình rạng rỡ (TM), hãy “đi xa” như tổ phụ Áp-ra-ham bỏ quê cha đất tổ để theo tiếng gọi vô hình mà đón nhận lời giao ước của Gia-Vê (Bđ 1).
Cuộc hành trình Mùa Chay hôm nay của dân Chúa hay cuộc hành trình đức tin của mỗi người chúng ta, phải chăng cũng chính là cuộc nỗ lực phấn đấu để mỗi ngày “lên cao và đi xa” trước Lời Chúa vẫy gọi, trước những đòi hỏi của Tin Mừng, trước những thách đố của Thập giá.
Cuộc hành trình nào, vật lý hay tâm linh, đều đòi hỏi phải lột xác, phải trả giá. Tuy nhiên, người Kitô hữu nắm chắc đích điểm của của mình chính là quê trời, là điểm hẹn gặp gỡ với Đức Kitô, như cách cảm nhận của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Philip (Bđ 2) : “Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó, chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta”.
Chúng ta thử dừng lại để đào sâu thêm những nội dung nầy.
Trước hết, khi nêu bật hai nhân vật cùng gắn liền với hình ảnh của chuyển động, ra đi, bức phá :
– Abraham lên đường đi khỏi thành Ur để đón nhận giao ước của Giavê (BĐ 1) ;
– Đức Kitô lên núi Tabor rồi biến đổi hình dạng nên rực rỡ sáng ngời (Trình thuật biến hình của Tin Mừng Luca),
sứ điệp Lời Chúa hôm nay chắc chắn muốn đưa chúng ta vào chính trọng tâm ý nghĩa đầy năng động của hành trình Mùa Chay.
Hình ảnh Chúa đưa cụ Tổ Áp-ra-ham “nhìn lên bầu trời đầy sao” để rồi nói với ông rằng : “Ta sẽ dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ sở nầy làm gia nghiệp…”, là một dấu chỉ sống động cho mọi ơn gọi trong dân Chúa : ơn gọi ra đi của niềm tin và vì niềm tin, như chính lời sách Sáng Thế xác định : “Abraham tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính”.
Dấu chỉ nầy, lời réo gọi nầy, có lẽ đang vang vọng cách sâu xa và mãnh liệt nơi tâm hồn của những anh chị em Dự tòng, những kẻ đã được Thiên Chúa kêu gọi vào niềm tin vào Ngài và sắp sửa chính thức nói lên cách trang trọng và dứt khoát “TIN và TỪ BỎ” trong cử hành Bí tích Nhập Đạo đêm Vọng Phục Sinh.
Vâng. Đối với những người đã từng gắn bó với một “thành UR” nào đó của tín ngưỡng cũ, của niềm tin ngoại đạo trước đây, của thói tục xa lạ với Tin Mừng, thì việc “bước vào một đức tin mới”, tin thờ một Thiên Chúa, một Đức Kitô hoàn toàn mới mẻ, và gia nhập vào một cộng đoàn Giáo Hội Công Giáo bao gồm những anh chị em xa lạ…không là một cuộc “đi xa, bức phá” của một Abraham lên đường theo tiếng gọi đó sao ?
Và chắc chắn, họ cũng sẽ trải qua những kinh nghiệm trăn trở, ưu tư của các Thánh Tông Đồ trong những ngày gặp gỡ Đức Kitô : Rồi niềm tin nầy sẽ dẫn mình đi đâu, tới đâu ? Sẽ mang lại điều gì giá trị hơn, hay ho hơn chăng ? (Mc 10,28-30). Chẳng lẽ rồi tất cả sẽ dẫn tới một đích điểm “tối om”, buồn rực… như chính Thầy Giêsu đã từng tiên báo không phải một mà nhiều lần : “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống dậy.” (Mc 8,31; 9,31;10,33).
Không. Để củng cố niềm tin và trả lời dứt khoát cho những môn đệ ngày xưa, hay để nói cho muôn thế hệ Kitô hữu muôn nơi muôn thuở, và cho riêng các anh chị em dự tòng hôm nay biết rằng : ở cuối đường thập giá là Phục sinh, tiêu đích của “con đường Kitô”, của sự chọn lựa niềm tin vào Đức Kitô, chính là chiến thắng vinh quang, là rạng ngời vinh hiển của phận người, là cuộc “Biến hình, lột xác” của cái tôi xác thịt nặng nề tội lỗi để trở nên “một con người mới” trong vương quốc rạng ngời thánh thiện của Thiên Chúa !
Thật vậy, biến cố “Biến Hình” không là một sự kiện “ngẫu hứng” trên con đường đi về Giêrusalem của Chúa Giêsu, mà là một mạc khải quan trọng soi chiếu vào con đường dài lịch sử cứu độ; nhất là làm rực sáng lên như một hậu cảnh nền, một “focus” của huyền nhiệm thập giá. Bởi vì, xuyên qua “sự kiện Biến Hình”, chúng ta có thể thấy một sự đối xứng :
– Bên kia “Đồi Sọ” của thương đau khổ nạn, đã vươn lên “Núi Ta-bo” của rạng ngời Phục sinh.
– Đằng sau một Giêsu Nadarét tội nhân xác thân trần truồng, rách nát, chết tủi nhục thương đau trên thập giá, là một Đức Kitô vinh hiển rạng ngời.
Và cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu “biến hình” với hai người : hai nhân vật tượng trưng cho hai truyền thống vĩ đại và nền tảng của Cựu ước : Môsê (Lề Luật), Êlia (Ngôn Sứ), lại xoay quanh câu chuyện “cái chết (hay cuộc ra đi) của Người tại Giêrusalem”. Chi tiết nầy càng củng cố thêm :
– Trong cuộc “xuất hành” thời Môsê, bên nầy Biển Đỏ với sa mạc chết chóc và nô lệ đoạ đầy, đã thấp thoáng bến bờ “Đất Hứa”;
– Trong cuộc lưu đày thời các Ngôn sứ, đã sáng lên niềm hy vọng “trở về và tái thiết Sa-lem”.
Từ hai nhân vật và những dữ kiện tiên trưng của mạc khải Cựu Ước đó đã dẫn tới đích điểm của cuộc hành trình Vượt Qua của Đức Kitô mà cuộc “Biến Hình” của Ngài là một dấu chỉ rõ nét : trong bóng đen của cái chết và thương đau cuối đường thập giá, đã bừng lên ánh sáng rạng ngời của Phục Sinh.
Như vậy, dưới ánh sáng của các “diễn trình” Lời Chúa vừa được công bố đó, chúng ta một lần nữa lắng nghe lời mời gọi tha thiết của Mùa Chay đó là : định hướng lại nhịp sống đức tin có thể đang trên đà sai lệch, và làm mới lại những thực hành sống đạo có nguy cơ đang ngủ vùi trong trạng thái cũ mòn xơ cứng. Đó là cuộc gọi mời không ngừng biết vươn cao và đi xa.
– Vươn cao để lột xác, “biến hình” khỏi “cuộc sống tà tà ở dưới thấp” với những nếp nghĩ và cách hành xử tầm thường, cục bộ, ích kỷ, bon chen, ganh tị, tham lam…hầu trở nên một con người mới : khó nghèo, khiêm hạ, phục vụ, yêu thương…
– và đi xa khỏi “cái tôi ao tù vẩn đục” với trái tim và con mắt chật hẹp, méo mó, xoi mói, giận hờn, thù oán, kiêu căng…để nhìn thế giới và anh em đồng loại bằng đôi mắt mới của tình huynh đệ, hiệp nhất, của mối tương quan thân ái dịu dàng…
Nếu đặt cuộc sống và sự chọn lựa đức tin trong viễn tượng cuộc “ra đi giã từ quê hương cũ của Abraham” và sự “lên núi cao để biến hình của Đức Kitô” như sứ điệp Lời Chúa hôm nay minh hoạ, thì mỗi người Kitô hữu, đặc biệt, mỗi anh chị em dự tòng, không chỉ trong Mùa Chay nầy, mà xuyên suốt cuộc đời, đều có những cuộc “ra đi” và “lên cao”, những cuộc hành trình của riêng mình.
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy những “vấp phạm”, những lực kéo và cám dỗ con người quay lưng lại với những giá trị đạo đức thanh cao để ươn hèn trụ lại trong vũng lầy của dục vọng, một thế giới hùa nhau chống lại Hội Thánh Chúa Kitô, và loại bỏ những giá trị của Tin Mừng bằng nhiều phương thế hiện đại để tự tung tự tác…; một thế giới mà Thánh Phaolô đã từng trải nghiệm nơi cộng đoàn Philipphê : “có những người sống thù nghịch với thập giá Đức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng…” (Bđ 2).
Và vì thế, lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô luôn mãi vẫn hợp thời : “Hãy vững vàng trong Chúa” và luôn đặt niềm trông cậy vững vàng vào cuộc gặp gỡ cuối cùng nơi quê hương Nước Trời “ở đó có Đức Giêsu Kitô, Đấng sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người”. (Bđ 2).
Tóm lại, trong khi cộng đoàn đang nỗ lực tiến bước trên con đường Mùa Chay với khổ chế và sẻ chia, của nguyện cầu và chiến đấu…, các anh chị em dự tòng đang khẩn trương dọn mình để hội nhập vào “Dòng nước tái sinh” và tràn ngập “ngọn lửa Thánh Thần”…, thì cuộc “lên đường của Abraham”, nhất là sự “Biến hình của Đức Kitô”, chính là một lời nhắn gởi, động viên tất cả cùng vươn cao đi tới “chân trời Cứu độ”, tới “Bàn tiệc Nước Trời” trong tin yêu và hy vọng, trong nỗ lực chiến đấu và chiến thắng.
Cuộc “xuất hành tâm linh” nầy luôn đòi hỏi nhiều “từ bỏ, hy sinh, bứt phá…”; tuy nhiên, hãy vững tin rằng : cho dù có những lúc phải đối diện với gian nan thử thách, với cay đắng hy sinh hay đêm tối thập giá… thì Chúa vẫn hiện diện ngay bên khi ta ngước mắt kêu cầu, để “phục sinh” tất cả trong rạng ngời ân sủng hôm nay và trong hạnh phúc viên mãn của Nước Trời mai hậu.
Đơn giản hơn, cứ tạm cho cuộc hành trình Mùa Chay như một “cuộc leo núi dã ngoại” đi, thì ta vẫn cứ phải lắng nghe “cái đập vai của Chúa”, như cảm nhận của thi sĩ Trăng Thập Tự trong bài thơ “LEO NÚI”. Xin trích mấy câu :
Ngài vỗ vai tôi ướm hỏi
Theo Ngài lên tận đỉnh kia chăng?
Ngài rõ lòng tôi, còn phải nói !
Vội vàng tôi xếp gọn hành trang…
Và gói hành trang mà ta phải mang theo và giữ mãi chính là Lời của Chúa Cha trong sự là “Biến Hình” : “hãy vâng nghe Lời Người”.
.
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh
Chúa hiển dung trên núi
Trong thánh lễ cưới, cô dâu thường mặc áo trắng, hoặc soirée trắng hoặc áo dài trắng với voile phủ đầu cũng trắng. Nhưng màu trắng đó khi gặp bóng chiều buông xuống – nếu lễ cưới vào buổi chiều. Hoặc như mấy nhà thờ quê, lễ cưới vào giấc 4:30 hay 5 giờ sáng, gọi là sáng, nhưng trời còn tối. Ngoài trời tối mà trong nhà thờ, đèn có sáng mấy cũng không đủ làm cho màu trắng áo cô dâu sáng lên được. Chỉ thỉnh thoảng khi ánh đèn flash của máy ảnh loé lên để ghi hình cô dâu chú rể, thì màu trắng của y phục cô dâu mới thật là trắng. Đèn flash bật lên rất sáng và cũng rất ngắn.
Cuộc hiển dung của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng rất sáng và cũng rất ngắn.
Sáng đến độ diện mạo Chúa biến đổi khác thường, còn áo Ngài mặc thì trắng tinh sáng láng [Marcô thì ghi rõ: không thợ giặt trần gian nào giặt trắng đến thế ! Chuyên viên tẩy rửa Omo, hay Tide+ cũng không làm trắng đến như thế. Bột giặt với mẩu quảng cáo yêu nhau cởi áo cho nhau trên TV hẳn cũng không cho màu áo trắng sáng được như áo Chúa trong cuộc hiển dung !].
Rất sáng, nhưng lại cũng rất ngắn.
Phêrô vui mừng tột độ, nhưng nói chưa hết câu “làm 3 lều”, thì đã thấy chỉ còn mình Chúa Giêsu, bình thường, chẳng sáng là mấy… Cuộc hiển dung của Chúa rất sáng và rất ngắn. Tại sao ?
Tại sao Vinh quang của Chúa lại xuất hiện rất sáng, nhưng cũng rất ngắn như một tia chớp mau qua như thế ?
Thưa đó là qui luật muôn đời của đức tin.
Vinh quang Thiên Chúa bao giờ cũng chỉ được ban cho ta trong một chớp sáng mau qua vào những lúc ta cần được an ủi nhất: vừa sáng đủ để củng cố đức tin của ta mà cũng vừa ngắn đủ để khỏi xâm phạm tự do của ta. Ta tìm hiểu thêm về sáng và ngắn.
1. Rất sáng :
Các nhà giảng thuyết cũng như các nhà giải thích Kinh Thánh đều đồng ý với nhau về ý nghĩa bối cảnh của cuộc hiển dung. Đó là sau khi tiên báo mình sẽ chịu đau khổ, chịu chết tại Giêrusalem, những môn đệ theo Chúa buồn bã rồi nghi ngờ về người Thầy mà mình đang theo. Ông Giêsu này là ai, mà tương lai ông đen tối như thế: nào là đau khổ, nào là chết trên thập giá. Ông lại còn nói “ai theo ông cũng phải vác thập giá” : cả một bầu trời u ám tối đen ! Giữa lúc ấy thì Chúa hiển dung vinh quang sáng láng, trước khi Ngài hai lần nữa loan báo về khổ đau và cái chết của Ngài: lần 2, lần 3 (thêm : bị nộp, bị khạc nhổ, xỉ vả, đánh đập).
Các nhà canh tân Phụng vụ cũng muốn đồng ý với lối giải thích trên, nên trong Mùa Chay, mùa sám hối đền tội, mùa trời giăng màu tím, ngay sau lễ tro rồi Chúa Nhật I Mùa Chay bị cám dỗ, trước khi đến CN 3, 4, 5 thì chen nằm vào ngay giữa một ngày tường thuật cuộc hiển dung của Chúa : hôm nay Chúa Nhật II, năm A hay B hay C đều là hiển dung sáng láng.
Vậy giữa mùa chay dài 40 ngày mang tính buồn rầu than khóc, sẽ có một Chúa Nhật nói đến sự hiển dung vinh quang. Và Phụng vụ muốn mô phỏng 2000 năm về trước, giữa bầu khí u buồn và nghi hoặc nơi các tông đồ, Chúa đã hiển dung sáng láng ..
Cuộc hiển dung này phải thật sáng thì mới chiếu đủ ánh sáng vào không gian (bầu khí) ảm đạm u buồn khá đậm nơi các đồ đệ của Đức Giêsu. Và cũng phải thật sáng thì mới ảnh hưởng đến thời gian còn rất lâu mới tới một cuộc hiển dung khác là sự phục sinh của Ngài.
Giống như đèn flash phải thật sáng để chiếu vào không gian đen tối hầu lưu ảnh cho thời gian dài lâu, thì cuộc hiển dung phải rất sáng để đủ chiếu soi không gian u buồn rất lớn, và thời gian nghi hoặc rất dài. Cuộc hiển dung rất sáng để phá tan được ảm đạm và nghi ngờ nơi các Tông đồ, giúp củng cố niềm tin của các ông vào người Thầy mà mình đang đi theo. Nhưng cuộc hiển dung rất sáng đó, cũng diễn ra rất ngắn.
2. Rất ngắn. Tại sao lại rất ngắn
Thưa là để khỏi xâm phạm đến tự do của các Tông đồ. Tự do đi theo Ngài, và tin Ngài cách tự do. Giả sử Đức Giêsu cứ xuất hiện dưới dạng uy nghi sáng láng, thì tin vào Ngài là dễ dàng, là đương nhiên. Triết lý gọi là bó buộc, không tự do tin hay không tin tùy ý nữa. Và nếu Ngài cứ uy nghi sáng láng mãi thì đi theo Ngài cũng là bó buộc đương nhiên, nhất là khi Ngài hứa ai theo Ngài sẽ nên giống như Ngài. (Đèn flash mà cứ sáng hoài, ta cũng mất tự do, không dám co tay duỗi chân đập con muỗi !).
Trong cuộc sống thử thách ở trần gian này, Thiên Chúa vẫn cứ muốn là Thiên Chúa mai ẩn, giấu mình đối với những kẻ tin vào Ngài. Ngài muốn họ tự do. Tự do tin Ngài, theo Ngài, yêu mến Ngài. Khi cần, khi rất cần, để an ủi khích lệ những kẻ tin Ngài, Thiên Chúa mới tỏ vinh quang. Nhưng cũng như tia chớp, trong chốc lát. Rất rất ngắn. Vừa đủ sáng để củng cố đức tin ta vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm đến tự do của ta.
Một hôm có người đến báo cho vua Louis IX (nước Pháp) là hãy đến ngay xem phép lạ tại nhà thờ kia : vị linh mục đọc lời truyền phép xong, thì chính Chúa Giêsu hiện nguyên hình trên tấm bánh. Tấm bánh sáng láng lạ thường. Vua Louis đáp lại: Ta không cần đến, vì ta vẫn tin như thế. Không phải vì thấy được ngời sáng mà ta tin hơn đâu. Những ai yếu tin, nghi ngờ thì cứ đến mà xem.
Không thấy sáng, không sờ được mà vẫn tin, cái tin đó mới tự do. Cái tin đó mới là Đức. Đức tin. Phúc cho ai không thấy mà tin. Chỉ cần nghe mà tin mới là phúc, mới là tự do. Tôi nghe nói, tôi nghe dạy : Chúa ngự thật trong hình bánh. Tôi tin. Tin “chất lượng” nhất vì có tự do, tức là tôi có thể tin hay không tin mà chẳng ai cho tôi là mát, là dị.
Còn khi vừa truyền phép xong, tấm bánh sáng láng lạ lùng và cứ sáng mãi bao lâu Chúa còn hiện diện thì tôi chỉ còn một con đường không có chọn lựa nào khác, là tin, là công nhận ; nếu không thiên hạ gọi tôi là khùng là mát… Chính vì để khỏi xâm phạm đến tự do của các tông đồ mà Chúa đã hiển dung sáng láng rất ngắn.
Trong cuộc sống tại trần gian của Kitô hữu chúng ta, rất nhiều khi và rất rất nhiều người không hề gặp được một cuộc hiển dung nào của Chúa cả, cho dù là rất ngắn. Một chút của rất rất ngắn cũng không có !
Nhưng đừng có ganh tị. Bởi cuộc hiển dung xưa kia trên núi, Chúa Giêsu cũng chỉ mang theo ba vị: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chín vị khác và đông đảo đệ tử có thấy được tí loé sáng vinh quang nào của Chúa đâu. Mà họ vẫn tin theo Chúa. Mà ba vị đó khi xuống núi cũng bị cấm không tiết lộ cho chín tông đồ khác và các môn đệ ngơ ngác kia, nhưng họ vẫn tin.
Xin cho chúng ta cũng được như vậy, dù Chúa không hoặc chưa hiển dung với ta, nhưng ta vẫn tin Ngài là Chúa, như kinh Tin Kính ta sẽ tuyên xưng bây giờ đây.
.
CHÚA GIÊSU BIỂU LỘ THẦN TÍNH TRÊN NÚI TABORE
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, Mùa Chay là Mùa Hồng Phúc, Mùa sám hối Mùa chay đi qua được một tuần. Ngày xưa khi đến Mùa Chay, người ta có cảm giác như Mùa Cầu Hồn, bởi vì phụng vụ toàn là một màu tím. Hình ảnh “buồn bã” hiện ra trong Mùa Chay, áo lễ linh mục màu tím đã đành, nhưng phụng vụ gian cung Thánh, người ta cũng thấy toàn sắc thái màu tím. Vì Mùa Chay người ta không chưng hoa, vì là Mùa sám hối. Nhưng, thật ra ngày nay, người ta thấy khi Mùa Chay đến không có buồn như trước, chỉ có màu phụng vụ vẫn là “màu tím”, màu tím nhắc nhớ suy tư nhiều hơn. Suy tư về cái gì? Thưa, suy tư về hành trình Cứu Chuộc của Đức Giêsu- Kitô, Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người.
Mùa sám hối ngày nay đúng nghĩa như Lời giáo huấn của Chúa Giêsu là :” Khi các ngươi ăn chay thì đừng làm như bọn giả hình… mà hãy xức dầu thơm, để đừng ai biết các ngươi ăn chay…”
Như vậy, ăn chay là ”sám hối”, biết mình là kẻ tội lỗi. Nhìn nhận mình tội lỗi , đó là “ ăn chay”. Ăn chay dẫn chúng ta trở về với khiêm nhường, tránh bớt kiêu căng, xa tránh được tội lỗi. Có nhiều thứ tội, nhưng xuất phát từ kiêu ngạo, tự kiêu. Nếu biết mình là kẻ tội lỗi, thật lòng trở về với Chúa, đó là “ăn chay”. Ăn chay tốt nhất , đó là ” chay lòng”, biết từ bỏ nết xấu, nâng cao tâm hồn, biết hãm mình, đó là ”ăn chay”.
Ăn chay là “ kiêng bớt” ăn uống vô độ, để dành của cải vật chất giúp đỡ cho tha nhân, những người thiếu cơm ăn, áo mặc. Đó là bác ái, vì Mùa Chay là Mùa Thiên Chúa thi ân giáng phúc. Là kẻ tội lỗi, chúng ta cũng biết thi ân giáng phúc cho tha nhân, để đền bớt tội cho chúng ta. Như vậy, Mùa Chay gọi là Mùa Đại Phúc là như vậy.
Tuần thứ I Mùa Chay, Hội Thánh cho chúng ta thấy “ Dung Mạo” là phàm nhân của Chúa Giêsu, chịu quỷ cám dỗ, chính là thân phận của chúng ta, mà Chúa Giêsu mặc lấy, nhưng Người đã chiến thắng cám dỗ, chiến thắng satan. Vì thế, tuần II MC, qua trang Tin Mừng theo thánh Luca ( Lc 9, 28b -36) cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu biểu lộ quyền năng tức uy quyền Thần Tính của Người trên Núi Thánh Tabore.
Khi Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, Người dẫn theo ba môn đệ của Người. Như vậy, núi thì khác với sa mạc nơi có quỷ. Lên núi cầu nguyện là lên nơi có Thiên Chúa, như vậy, khi Chúa Giêsu cầu nguyện, Người biểu lộ Thần Tính, đến độ, Người thông hiệp Thần Tính Thiên Chúa nơi Người, thì Dung Mạo Người hoàn toàn đổi khác , điều nầy cho thấy, Chúa Giêsu xuất phát từ trời cao. Vì , trước đó chưa có vị ngôn sứ nào có một biểu hiện thiêng liêng, siêu phàm như thế. Từ nhân chứng Cựu Ứơc là hai vị ngôn sứ lớn là Môi-sen và Ê-lia hiện ra và “đàm đạo” với Chúa Giêsu.
Như thế, điều nầy cho thấy, lịch sử Cựu Ứơc minh chứng Chúa Giêsu là một Vị Kitô cho nhân loại, vì nhân loại. qua việc hiện ra của hai vị ngôn sứ lớn thời Cựu Ứơc nói lên sứ vụ Thiên Sai của Chúa Giêsu. Vì vậy, điều nầy minh chứng Chúa Giêsu có hai bản tính, một là nhân tính , hai là Thiên Tính.
Việc Chúa Giêsu biểu lộ thần Tính của Người là việc bày tỏ vinh quang Phục Sinh sau khi Người chịu Khổ Nạn. Mầu Nhiệm Tử Nạn của Người là một “huyền cơ”, vì thế trong hành trình tiến đến Mầu Nhiệm Tử Nạn để thực thi ơn Cứu Độ nhân loại của Chúa Giêsu là một hành trình huyền nhiệm siêu nhiên, nên chi, satan luôn thách thức và khiêu khích Người.
Một sự cám dỗ của satan mà trong hành trình cứu độ, Chúa Giêsu phải gánh lấy, đó là sự chịu satan “cám dỗ” trong hoang địa. Như chúng ta biết, sự cám dỗ của satan là một sự “ xảo trá” hoàn toàn, mưu chước của satan và ba lần nó nói với Chúa Giêsu là một sự “ xảo trá” lố bịch, bởi vì, nó hoàn toàn không có gì cả, những thứ satan có đều là giả dối, còn những sự chân thật là của Thiên Chúa. Nói tắt cho dễ hiểu, satan là giả dối, còn Thiên Chúa mới là chân thật. Nói cách khác, Thiên Chúa là “ hàng thật”, còn satan là “ hàng giả”.
Trở lại Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có ba vấn đề chính:
- Một là : Quang cảnh xảy ra Mầu Nhiệm Biến Hình của Chúa Giêsu, nói về cuộc “Xuất Hành” của Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. ( từ câu 28 -31)
- Hai là : Các môn đệ bỡ ngỡ kinh ngạc, không hiểu gì cả trong khi chứng kiến “sự kiện “ trọng đại của Thầy mình. ( từ câu 32 -33)
- Ba là : Chúa Cha phán dạy qua đám mây :” Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn , hãy vâng nghe Lời Người” ( 34 -36)
Theo đó, chúng ta biết những hiện tượng vật chất như Núi , Mây, Lều phản ảnh những hiện tương siêu nhiên như : Tiếng phán từ trong đám mây, Dung Mạo Chúa Giêsu biến đổi, sáng láng, Y phục của Người cũng tinh khiết, trắng tinh đến độ không có thợ nhuộm nào của trần thế có thể tẩy nổi. Nói lên huyền cơ trong thời “Cựu Ứơc”, như cảnh được tiếp xúc, diện kiến Thiên Chúa, nơi thánh thiêng huyền nhiệm xảy ra, nơi cực thánh. Điều nầy rõ ràng tiên báo một sự kiện siêu nhiên huyền bí, từ xưa đến nay chưa hề có.
Điều nầy cũng nói lên ý nghĩa, nếu Chúa Giêsu không phải là Đấng Cực Thánh, ngàn trùng Chí Thánh, thì sao có thể xảy ra một hiện tượng như thế đối với Người.
Ý nghĩa thứ hai, nói lên sự tiên trưng về cuộc “xuất hành” tức cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Núi Tabore thì vinh quang rực rỡ, nhưng Núi Cây Dầu thì âu sầu đau khổ, đau khổ cho thân phận con người, đau khổ vì nhân loại xúc phạm đến Thiên Chúa, đến độ một Ngôi Vị Thiên Chúa phải mang thân phận nhân sinh. Chúng ta cảm nghiệm sâu sắc, Chúa Giêsu thật đau đớn, vâng, Người thật sự đau đớn bởi cả hai Bản Tính, Thiên Tính và Nhân Tính của Người, bởi vì, cuộc Tử nạn là ”hoàn toàn “ thật, Người là Người thật và Thiên Chúa thật, khác với satan là giả tạo. Satan là thật, nhưng những gì nó làm là giả trá,và những cái mà nó có đều là xảo trá.
Vì vậy, ba lần nó cám dỗ Chúa Giêsu đều là “ xảo trá”, vì nó không có gì hết, từ lương thực của nó cũng là ” đá”, vương quyền của nó cũng là ”hư vô”, vì bộ mặt thế gian rồi sẽ qua đi. Bên trong nấm mồ thế gian là sự thối rữa, mục nát, rỗng tuếch, mối mọt và côn trùng.
Lần thứ ba, nó trích dẫn Lời Chúa, nhưng, đầy sự kiêu ngạo, điều mà nó không có, thì nó thách thức Chúa Giêsu, hầu cái chính Người có sẽ lộ ra , thì mắc bẫy nó. Nhưng, Thiên Chúa không mắc bẫy satan.
Lời Chúa hôm nay xảy ra trong bối cảnh sau khi, Chúa Giêsu tiên báo cuộc thương khó của Người lần thứ nhất, vì thế, cuộc “ Biến Hình” của Người mang một ý nghĩa “củng cố” niềm tin vào Người cho các môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc Biến Hình của Chúa trên Núi Thánh, bày tỏ cho chúng con một vinh quang Phục sinh của Người, sau khi một biến cố Tử Nạn đau thương hoàn tất. Xin củng cố niềm tin cho chúng con trong Mùa Chay nầy, hầu xứng đáng vững tin vào Chúa là Đấng đã chịu Tử Nạn cho chúng con và vì chúng con, hầu Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được rạng ngời trên vũ trụ đang mang một một xám ảm đạm./. Amen
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_C.
Lm. Antôn
Trong 40 ngày mùa Chay, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội cùng với Lời Chúa kêu gọi mọi người cầu nguyện, ăn chay, hãm mình và làm những việc bác ái. Cố gắng và thành tâm lắng nghe và sống Lời Chúa dạy, hy sinh thời giờ, sốt sắng và siêng năng làm những việc tốt lành, đạo đức để sám hối và dần dần loại bỏ những tật xấu, để kết hợp mật thiết với Chúa hơn, và để chuẩn bị tâm hồn mừng mầu nhiệm Vượt qua và Phục sinh của Chúa Ki-tô.
Chúng ta biết khi chúng ta hy sinh thời giờ cầu nguyện là khi chúng ta đến với Chúa, để lắng nghe lời Chúa và thánh ý Chúa cho cuộc sống. Thành tâm từ bỏ những thói hư tật xấu, và sự hy sinh thực hành những điều tốt lành, đạo đức và bác ái sẽ có những kết quả tốt cho cuộc sống thiêng liêng và có sức biến đổi cuộc sống.
Trong mùa Chay, chúng ta được kêu gọi cố gắng hy sinh thời giờ tham dự Thánh lễ hàng ngày, đi Đàng Thánh giá vào những ngày thứ sáu và tham gia tĩnh tâm. Mấy tuần nữa, giáo xứ sẽ có tuần tĩnh tâm do linh mục Nguyễn Luật Khoa dòng Phan-xi-cô hướng dẫn. Xin đọc chương trình trong tờ Tin mừng. Tôi kêu gọi mọi người cố gắng sắp xếp thời giờ và công việc để tham dự một cách sốt sắng. Ngoài ra như ông bà anh chị em đã biết giáo xứ đang có công việc làm lá. Đây là công việc hy sinh cho giáo xứ, cho Chúa. Trong hai tuần vừa qua tôi thấy nhiều người đã hy sinh thời giờ giúp đỡ, kể cả các em học sinh. Xin kêu gọi mọi người tiếp tục, và ai chưa tham gia được, thì xin kêu gọi hy sinh thời giờ giúp đỡ tuần tới. Xin Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Maria và Thánh Giuse, trả công và ban nhiều ơn lành cho mọi người.
Trong bài Tin mừng Chúa nhật Thứ hai mùa chay hôm nay, chúng ta nghe câu chuyện Chúa biến hình trên núi Ta-bo. Chúng ta tự hỏi: Chúa muốn dạy chúng ta điều gì qua biến cố biến hình hôm nay?
Bài Tin mừng hôm nay trước hết muốn trả lời cho một câu hỏi quan trọng, đã được Chúa đặt ra với các môn đệ tại Cê-xa-rê Phi-líp-phê trên con đường lên Giê-ru-sa-lem: “Phần các con, các con nói Thầy là ai?” Phê-rô đã trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô.” Nhưng câu trả lời này chỉ là một phần về bản tính của Chúa. Tuy Chúa đã khen câu trả lời của thánh Phê-rô, nhưng Phê-rô và các môn đệ còn phải học và biết nhiều hơn. Vì thế bài Tin mừng hôm nay trả lời và cho chúng ta biết một phần khác về bản tính của Chúa. Khi Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê trên đỉnh núi cao với Chúa thì có một tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu. Các ngươi hãy nghe lời Người.” Có nghĩa là Chúa Giê-su không những là Đấng Cứu Thế mà còn là Con Thiên Chúa hằng sống.
Ngoài ra còn có một điểm đáng chú ý đó là ngoại cảnh hay nơi Chúa biến hình. Tuy Tin mừng không để cập đến núi Ta-bo, nhưng theo truyền thống thì Chúa biến hình ở núi Ta-bo. Núi Ta-bo nằm giữa thung lũng của miền Trung Do thái và cách hồ Ti-bê-ri-a khoảng hơn 10 cây số. Trên đỉnh núi này có một ngôi thánh đường do dòng Phan-xi-cô quản trị. Trong chuyến hành hương Đất thánh vừa qua, tôi có dịp được đến viếng thăm và cử hành Thánh lễ trong thánh đường trên đỉnh núi này. Núi là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người chúng ta. Núi còn là nơi Thiên Chúa mạc khải về chính Người và thánh ý của Người cho chúng ta. Vì vậy núi hay nhà thờ nơi thờ phượng còn là nơi có sự hiện diện của Chúa, và khi chúng ta đến để thờ phượng thì niềm tin của chúng ta được củng cố vững mạnh hơn, nhận được thánh ý qua lời Chúa, được sự thanh thản và an bình trong sự hiện diện của Chúa.
Qua biến cố biến hình, Chúa muốn củng cố niềm tin của các môn đệ và qua các môn đệ, Người muốn cho mọi người chúng ta thấy trước phần vinh quang của Người sau phục sinh. Cũng có nghĩa là Chúa muốn cho chúng ta biết rằng cuộc thương khó và khổ nạn mà Người sắp chịu không phải là tận cùng, là hết, nhưng chính là bước đường dẫn tới vinh quang. Như vậy, Chúa biến hình để cho mọi người chúng ta thấy thân xác vinh hiển của Chúa. Chính Chúa Giê-su cũng đã tuyên bố rõ rệt điều đó trong Tin mừng thánh Mát-thêu: “Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình.” (Mt. 13, 43) Vì thế, sự kiện biến hình của Chúa Giê-su cho chúng ta hiểu được ý nghĩa và giá trị đích thực của người Ki-tô hữu là phải qua những sự hy sinh và đau khổ vì đức tin, vì Tin mừng và vì Chúa, thì mới được thông phần vinh quang của Chúa. Chúng ta phải hướng cuộc sống trần gian về sự vinh quang Nước Trời. Vì vậy, sống sự biến hình là một đòi hỏi hằng ngày của người Kitô hữu. Nói cách khác, cuộc sống Kitô hữu của chúng ta phải không ngừng biến đổi để được trở nên đồng hình, đồng dạng với Chúa Kitô hơn. Đây cũng là điều thánh Phaolô dạy chúng ta trong bài đọc 2, ngài nói: “Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người.” Thánh Phao-lô cũng rất đau buồn khi nhận thấy có những Ki-tô hữu sống thù nghịch với thập giá. Vì thế thánh Phao-lô khuyên chúng ta hãy góp phần vào sự biến thân xác của mình bằng cách khử trừ tội lỗi, sửa đổi lại những thói hư tật xấu, thay đổi cuộc sống lầm lạc, biết hãm mình, hy sinh và chịu thiệt thòi, đau khổ để trong ngày sau hết chúng ta sẽ được mặc lấy ánh vinh quang phục sinh của Chúa Ki-tô.
Sự kiện Chúa biến hình còn dạy chúng ta phải lắng nghe và vâng lời Chúa. Thiên Chúa muốn mạc khải, nói hay dạy điều gì cho chúng ta thì Người nói và dạy qua Chúa Giê-su. Lời Chúa là sự sống và là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta đi. Nếu chúng ta muốn có ơn Chúa, muốn sống trong an bình, vui mừng và hạnh phúc đời này, và hưởng vinh quang đời sau thì chúng ta phải lắng nghe và sống lời Chúa dạy.
Xin Chúa giúp chúng ta sống thời điểm mùa chay này can đảm sống lời Chúa dạy, để có sức mạnh chiến đấu và chiến thắng tội lỗi và thói hư nết xấu, biết canh tân và biến đổi đời sống, trở nên tốt đẹp, thánh thiện hơn, cũng như để sống trong bình an, vui mừng, hạnh phúc đời này và hưởng vinh quang của Chúa đời sau.
.
Lm. Thái Sơn
Ngày nọ, có một cô gái lên núi tìm gặp vị Thiền sư. Cô gái bộc bạch: “Thưa thầy, xã hội càng lúc càng loạn, ra đường mà cứ nơm nớp lo sợ. Xin thầy dạy con nên làm thế nào để tự bảo vệ mình?”
Thiền sư nhẹ nhàng đổ cốc nước lên đầu cô. Cô gái sững người một lát rồi nói: “Ý thầy là con nên lạnh lùng tỉnh táo trong mọi hoàn cảnh ạ?”
Thiền sư lắc đầu đáp: “Không, ý ta là con chỉ cần để mặt mộc ra đường là được.”
Còn cánh đàn ông hay đấng mày râu cũng có cái lo lắng khác, không ai giống ai.
Ngày kia, có một chàng trai tìm thầy học đạo nơi vị Thiền sư. Chàng trai hỏi: “Làm thế nào để kết thúc đời độc thân ạ?”Thiền sư chỉ tay về ngọn núi đối diện. Chàng trai hớn hở reo lên: “Ý thầy là người có nhân duyên với con đang ở ngọn núi kia ạ?”
Thiền sư vội nói: “Không, năm đó vì muốn kết thúc đời độc thân, nên ta đã lên núi này làm thiền sư, núi kia còn trống đấy, con có thể sang đó tu hành nhé.”
Thưa các bạn!
Trong Kinh Thánh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa thần linh và con người. Vì thế, dân Chúa lên núi để tìm kiếm ý Chúa, được Chúa chỉ dạy, và khi xuống núi họ biết sống theo lời Chúa.
“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới. Nước nước dập dìu kéo nhau đi… Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên nhà Thiên Chúa của Giacóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ” (Is 2,2-3).
Thực tế, Môsê lên núi Si-nai gặp gỡ Giavê Thiên Chúa để đón nhận lề luật cho dân riêng Israen; Elia lên núi Khô-rép bốn mươi đêm ngày chạy trốn quân thù, để được Chúa cứu thoát.
Tin Mừng Chúa Nhật 2 Mùa Chay C, Đức Giêsu dẫn Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi Tabo, đang khi cầu nguyện, dung mạo Đức Giêsu bỗng đổi khác, y phục trở nên trắng tinh chói lòa… gọi là Chúa hiển dung.
Chúa hiện ra cho ba môn đệ kia và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Elia. Cuộc hiện ra rạng ngời vinh hiển và nói về cuộc xuất hành Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Thưa các bạn!
Ba môn đệ được Chúa đưa lên núi và đã ngất ngây trong niềm hạnh phúc, muốn cắm lều ở lại đó. Nhưng Chúa cho biết, lên núi không phải để ở lại đó, mà để thấy rõ hơn con đường Chúa sẽ đi.
Ba môn đệ được Chúa đưa lên núi và đã được Chúa biến đổi, biến đổi ý nghĩa cuộc đời của các ông, cho các ông biết con đường theo Chúa là đau khổ, thập giá và cái chết đang chờ đợi.
Ba môn đệ được Chúa đưa lên núi và được Chúa lại đưa xuống núi, để các ông trở lại với đời thường, trở lại với những gian nan, thử thách, đau khổ mà sau này các ông sẽ phải đối diện.
Việt Nam có câu: “Sau cơn mưa trời lại sáng”. Đối với Đức Giêsu thì sau thập giá mới tới vinh quang phục sinh. Đó là con đường cứu độ con người thoát khỏi ách tội lỗi và đau khổ.
Đối với “bạn & tôi”, có lẽ trong đời không thiếu những đau thương thử thách, khó khăn vất vả, gian nan buồn phiền… cần lên núi gặp gỡ Chúa, để xin Chúa bảo ban, dạy dỗ, hướng dẫn thì mới dễ dàng vượt qua.
Ước gì “bạn & tôi” biết lên núi qua thánh lễ Misa, lên núi qua giờ cầu nguyện, lên núi qua kinh nguyện tối sớm… và xuống núi “hạ sơn” với công việc hằng ngày, “hạ sơn” với bổn phận gia đình, vợ chồng, con cái…
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Một trong những sứ điệp quan trọng của Mùa Chay, đó là canh tân bản thân, thay đổi đời sống.
Lời kêu gọi này được Giáo Hội gửi đến chúng ta qua Phụng vụ, ngay từ lúc khởi đầu Mùa Chay thánh. Cầu nguyện, chay tịnh sám hối và thực thi bác ái, đó là những thực hành truyền thống của Mùa Chay và đã trở thành rất quen thuộc đối với chúng ta.
Nhờ thiện chí canh tân bản thân, chúng ta trở nên con người mới trong Đức Giêsu, để rồi lời nói, tư tưởng và hành động của chúng ta giống như lời nói, tư tưởng và hành động của Người. Giữa biết bao bon chen toan tính của cuộc sống thường ngày, chúng ta bị cám dỗ quên Chúa và sống ngược lại với giáo huấn của Người. Mùa Chay là mùa trở về với Chúa là Cha, nhìn nhận những lỗi lầm của mình. Mùa Chay là mùa trở về với anh chị em, để xét lại mối tương quan với họ, nhằm khắc phục những lỗi lầm, kết nối tình thân thiện và cùng nhau xây dựng cuộc sống nhân ái.
Một khi đã canh tân bản thân, chúng ta sẽ đổi mới trong đời sống Đức tin và phong cách sống Đạo. Do ảnh hưởng của đời sống hằng ngày, nên quan niệm về Thiên Chúa cũng như hình ảnh của Ngài nơi chúng ta bị biến dạng. Tin Mừng hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu vinh quang, chiến thắng. Người là Thiên Chúa, mặc lấy thân phận con người, sống như mọi người bình thường, chỉ ngoại trừ tội lỗi. Khi Người biến hình trên núi, các môn đệ được chiêm ngưỡng không chỉ vinh quang đích thực của Người, mà các ông còn được mặc khải cho biết sứ mạng thiên sai của Người. Người được Chúa Cha sai đến trần gian để kiện toàn Lề luật và giáo huấn của các Ngôn sứ trong Cựu ước. Hai nhân vật Môisen và Elia hiện ra đàm đạo với Chúa, là hai chứng nhân về sứ mạng đó. Cuộc biến hình này đã giúp ba môn đệ kiên vững lòng tin vào Thày mình. Trước những chống đối gay gắt đến từ phía người Biệt phái và Luật sĩ Do Thái, các ông bị dao động và có nguy cơ nản chí. Việc được chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa giúp các ông trung tín và can đảm đón nhận thập giá sắp xảy đến.
Không chỉ có ánh vinh quang chói loà làm chứng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Thánh Luca còn ghi lại lời phán từ trời xác nhận Đức Giêsu là Đấng được tuyển chọn. Trong truyền thống Thánh Kinh, lời phán từ trời là chính Thiên Chúa, được coi như một cuộc “Thần hiện”. Như vậy, đó chính là lời của Thiên Chúa Cha giới thiệu Con yêu dấu của mình cho nhân loại, đồng thời mời gọi mọi người hãy vâng nghe lời Người, tức là đón nhận giáo huấn do Chúa Giêsu rao giảng.
Đối với các tín hữu, cuộc sống trần gian cũng là một cuộc biến đổi không ngừng. Nhờ cuộc biến đổi này, chúng ta sẽ từ bỏ tội lỗi, nên giống Chúa hơn. Thánh Phaolô trong thư gửi cộng đoàn tín hữu Philipphê đã nhắc mọi người phải cố gắng không ngừng, để hoàn thiện bản thân nhờ những thực hành đạo đức.
Nên hoàn thiện là kết quả của những hy sinh cố gắng. Cuộc biến hình của Chúa được đặt trên núi mang nhiều ý nghĩa. Muốn thay đổi cuộc sống, phải “lên núi”, tức là chấp nhận hy sinh gian khổ. Lên núi còn là tâm tình hướng lên cao, gạt bỏ những gì thấp hèn ti tiện nhỏ nhen, sống cao thượng hơn. Khi chấp nhận lên núi, tâm hồn chúng ta sẽ tìm được sự an bình và dễ dàng gặp gỡ Chúa, tâm sự với Ngài.
Mùa Chay đang từng bước mời gọi chúng ta đi theo Đức Giêsu trên chặng đường thập giá. Chúng ta hãy lên núi với Người, bỏ lại đàng sau những gì là toan tính nhỏ nhen của đời thường. Hãy trung thành với Chúa trong niềm hy vọng và phó thác. Hãy can đảm từ bỏ những gì làm cản trở chúng ta theo Chúa Giêsu. Chắc chắn Người sẽ thêm sức cho chúng ta trong hành trình này, như chính Người đã hứa: “Này đây, Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa biến đổi chúng ta nên con người mới. Amen.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?
- Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
- Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Một người hàng xóm nhìn thấy bạn mình quì gối và chống tay tìm kiếm vật gì đó ngoài sân. Ông lên tiếng hỏi:
- Ông bạn ơi! Ông đang kiếm gì đó?
- Tôi kiếm chìa khóa của tôi.
- Cả hai người cùng quì gối để kiếm. Sau khi tìm kiếm một lúc lâu mà không thấy, người hàng xóm lên tiếng hỏi:
- Ông đã mất chìa khóa ở đâu ?
- Ở trong phòng khách nhà tôi.
- Chúa ôi! Vậy tại sao ông lại tìm kiếm ở ngoài sân?
- Bởi vì ở đây sáng sủa hơn.
Kinh nghiệm cho thấy cái gì đã mất thì tìm lại rất khó. Cái để quên thì dễ tìm thấy, còn cái đã bị lấy đi khó mà tìm lại được. Cái lãng quên còn cơ hội tìm lại được, còn cái đã trao đổi khó mà hoàn lại được.
Không biết có mấy ai biết rằng mình còn Chúa hay đã mất? Mình lãng quên Chúa vì mải mê công việc hay đã vì danh lợi thú mà bán Chúa để có bổng lộc trần gian? Chúng ta đang ở trong ân sủng với Chúa hay đã trao linh hồn mình cho ma quỷ thống lĩnh mà xa rời Chúa.
Nếu phải tìm lại Chúa thì chúng ta phải bắt đầu tìm ở đâu? Chúng ta đã lạc mất Chúa từ khi nào và trong hoàn cảnh nào?
Phải bắt đầu tìm lại Chúa ngay chỗ mình đã bỏ Chúa mới mong tìm lại được. Nếu không biết lạc Chúa ở đâu thì cuộc tìm kiếm sẽ uổng phí như người đàn ông tìm chìa khóa ngoài ngõ chỉ vì nơi đó sáng hơn.
Vâng, có những người đã lạc mất Chúa khi tìm danh vọng trần gian. Có người bỏ Chúa vì đắm chìm trong sắc dục. Có người thờ ơ với Chúa vì họ đã tôn thờ bạc tiền. Họ đã chọn thụ tạo là danh lợi thú mà lạc xa tình Chúa.
Mỗi năm vào Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi các tín hữu hãy cùng với Đức Giêsu lên núi cao để chịu thử thách, để được tôi luyện … Và hãy lên núi cao để gặp gỡ Chúa và sống thân tình với Ngài. Chính giây phút riêng tư này sẽ giúp chúng ta nhìn lại tương quan của chúng ta với Chúa còn hay đã mất?
Các môn để đã trải nghiệm những giây phút thật hạnh phúc bên Chúa ở trên núi. Các ngài đã ngất ngây khi chiêm ngắm dung nhan thật của Chúa. Biết Chúa thật là Thiên Chúa và được ở bên Chúa là hạnh phúc vô biên.
Sự hiển dung của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ khiến các ông dám đánh đổi mọi sự để được ở bên Chúa. Ước gì chúng ta có đủ niềm tin vào sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống sẽ giúp chúng ta chọn Chúa hơn là những danh lợi thú trần gian. Niềm tin ấy giúp chúng ta can đảm vượt qua mọi thử thách để đi theo Chúa tới đỉnh đồi Calve.
Lạy Chúa, khi mang thân phận yếu đuối con người, con luôn luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thật ngọt ngào và hấp dẫn, con không đủ sức để vượt qua những níu kéo mời gọi đang bủa vây trong cuộc đời. Xin cho con cảm nghiệm được sự hiện diện ngọt ngào của Chúa để con nói không với tội lỗi hầu luôn trung thành với Chúa mãi đến cùng. Amen .
.
KHUÔN MẶT NÀO ĐƯỢC CHÚA HIỂN DUNG TRÊN NÚI TA-BO?
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trên núi Ta-bo Đức Giê-su đã hiển dung khuôn mặt chói lọi của Người trước mặt ba môn đệ được chọn lọc; tuy nhiên hình như khuôn mặt hiển dung ấy vẫn còn đậm nét ‘Cựu Ước’, lý do là vì các môn đệ đều là người Do Thái. Một Thiên Chúa của Cựu Ước phải có dung mạo uy nghi sáng láng, thân thể Người phải tỏa chiếu hào quang. Và hình như để nhấn mạnh hơn nữa nội dung Cựu Ước, xuất hiện hai nhân vật tiêu biểu là Mô-sê và Ê-li-a tới đàm đạo với Người. Có điều dung mạo Cựu Ước đó lại không phải là điều Đức Giê-su muốn thực sự tỏ lộ và muốn cho các môn đệ ghi nhận, dù các ông có là người Do Thái đi nữa; vì thế Người đã thẳng thừng từ khước lời các ông đề nghị được duy trì lâu dài dung mạo đó; “Thưa thày, chúng con ở đây, thật là hay. Chúng con xin dựng ba cái lều”.
Biến cố hiển dung được cả ba Phúc Âm Nhất Lãm tường thuật với một số chi tiết khác nhau, nhưng xét về nội dung thì căn bản tương đồng. Nội dung của nó là: cuộc hiển dung trên đỉnh Ta-bô không phải là trọng tâm hay mục tiêu mà chỉ mang tính biểu tượng, dùng để chuẩn bị cho một biến cố khác. Hiển dung Ta-bô chỉ là tiền đề cho một cuộc hiển dung khác sẽ xảy ra sau này còn quan trọng và vinh hiển hơn rất nhiều. Quả thực cả ba trình thuật đều xác định thời gian hiển dung có liên quan tới một lời công bố quan trọng: 06 ngày theo Mát-thêu và Mác-cô, hay khoảng 08 ngày theo Lu-ca, ‘sau khi nói những lời ấy’. Lời công bố ấy mới chính xác là điều Đức Giê-su muốn bày tỏ, hay diện mạo mà Người thực sự muốn hiển dung: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” Lời công bố không nhằm chuẩn bị các môn đệ cho sự kiện hiển dung trên núi Ta-bô, ngược lại là đàng khác; hiển dung Ta-bô giải thích ý nghĩa của lời công bố: sự chết và sống lại của Đức Giê-su mới chính là diện mạo, là vinh quang đích thực của Thiên Chúa, diện mạo và vinh quang mà sự sáng láng chói lọi bên ngoài chỉ là phác họa; “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Cuộc xuất hành được đề cập tới lúc đó chính là cái ‘chết và sống lại của Đức Giê-su’, đây mới là cao điểm của lịch sử Thiên Chúa biểu lộ dung mạo đích thực của Người: một Thiên Chúa cứu độ, một Thiên Chúa xót thương những con người tội lỗi. Đức Ki-tô đã từng gọi Thập Giá Can-vê là giờ phút Người được tôn vinh: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12:23). Và không phải chỉ tôn vinh bản thân cứu độ của Người, mà còn tôn vinh chính Chúa Cha: Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:28).
Tuy nhiên hiển dung của lòng thương xót cứu độ mà Thiên Chúa biểu lộ qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Ki-tô Giê-su thì chỉ ai có con mắt đức tin mới chiêm ngưỡng được. Phê-rô đã từng ngây ngất trước vinh quang của Ta-bô bao nhiêu, thì lại càng bị vấp phạm trước vinh quang của Thập Giá bấy nhiêu: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thày gặp phải chuyện ấy!” (Mt 17:22); ngay cả các môn đệ khác cả khi Đức Giê-su tiên báo cuộc thương khó của Người tới lần thứ ba, “các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18:31-34).
Như vậy, cho dầu Lời Chúa có trình bày quang cảnh hoành tráng của cuộc hiển dung trên đỉnh Ta-bô, Ki-tô hữu biết rõ: mình không được dừng lại ở đó. Cặp mắt đức tin của họ phải hướng về đỉnh Can-vê hơn là Ta-bô, vì nơi Thập Giá Đức Giê-su chết treo Thiên Chúa mới thật sự biểu lộ dung mạo đích thực của Người: đó là một khuôn mặt đầy nhân ái cứu độ; dừng lại và dựng ba lều trên đỉnh Ta-bô là một cám dỗ, nếu không nói là phản bội niềm tin đích thực; “Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9)
Mùa Chay là thời gian để Ki-tô hữu chúng ta khám phá, chiêm ngắm và đi vào vinh quang đích thực của Thập Giá! Hiển dung Ta-bô không phải là đích đến, mà chỉ là bước đầu chập chững của niềm tin. Hội Thánh muốn dẫn mọi Ki-tô hữu đạt tới vinh quang của Thập Giá, chiêm ngưỡng dung mạo chói lọi của một Thiên Chúa đầy xót thương mà Cựu Ước đã không hề biết đến. Cuộc hành trình đức tin này, bất cứ tín hữu nào cũng phải làm, bắt đầu từ Phê-rô thủ lãnh cho tới tất cả các môn đệ Ki-tô, các tín hữu mọi thời đại, các linh mục và tu sĩ…, nói chung là hết thảy mọi người. Và Mùa Chay là thánh vì là thời gian để chúng ta chuẩn bị tâm hồn và củng cố niềm tin để đón nhận và chiêm ngưỡng dung mạo chói lọi của Thập Giá, nơi đó Thiên Chúa hiển thị tình yêu nhân ái cứu độ của Người. Ngoài Đức Giê-su chịu đóng đinh, sẽ không còn dung mạo nào khác mà Thiên Chúa muốn hiển thị; ngay cả Đức Ki-tô phục sinh khải hoàn cũng vẫn luôn mãi là Đấng Chịu Đóng Đinh: ‘Người cho các ông xem tay và cạnh sườn…’ (Ga 20:20). Quả thật ‘Crux est lux’, chứ không phải ‘Per Crucem ad lucem’!
Lạy Chúa, trên thiên đàng con không mong được chiêm ngưỡng ‘thánh nhan vinh hiển’ Chúa! dung nhan mà con mong được chiêm ngưỡng ngay bây giờ, trong giờ chết, và cho đến mãi muôn đời, là dung nhan của Thập Giá nói lên Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Tạ ơn Chúa vì trong cái chết lâm sàng vào cuối năm 2007, khi đó con đã không nhìn thấy ánh sáng chói lọi nào ngoài sự êm dịu của lòng từ nhân. Xin cho con bao lâu còn sống, như Phao-lô, con không muốn biết tới bất cứ một đấng Ki-tô nào khác, ngoài Đức Ki-tô chịu đóng đinh; không biết tới dung mạo của bất cứ một Thiên Chúa nào khác, ngoài dung mạo của Thiên Chúa từ nhân cứu độ. A-men.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày nay, khoa học thực nghiệm phát triển, nó kéo theo một cám dỗ muốn kiểm chứng đức tin bằng thực nghiệm khoa học và gạt Thiên Chúa ra khỏi thế giới. Người ta cho rằng những gì khoa học không giải thích được thì đều không giá trị. Đức tin không đi ngược lại khoa học, nhưng giúp khoa học đi đúng hướng. Để đạt đến được đức tin, cần phải có một bước nhảy dài, nhảy vọt vượt trên những lý luận của lý trí, của khoa học, để dám chấp nhận và tín thác vào Đấng mà mình tin nhận. Nhưng quan trọng hơn nữa, để có được đức tin vào Thiên Chúa, cần phải có ơn Chúa ban, và chỉ nhưng ai được Chúa ban, thì mới có thể hiểu và tin, những người dân ngoại sẽ không thể hiểu được điều này.
Câu chuyện Thiên Chúa ký kết giao ước với Apbraham là một câu chuyện đức tin nghe rất thân tình. Thiên Chúa và Apbraham như hai người bạn. Kể từ khi nghe tiếng Chúa mời gọi, Apbraham hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, ông đã cất bước lên đường, bỏ lại đàng sau tất cả quê hương, gia đình và tài sản. Ông ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ tin rằng, Chúa sẽ cho ông một mảnh đất làm gia nghiệp và có con cháu đông như sao trời cát biển. Tuy nhiên, khi đã già, ông vẫn chưa thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm khao khát lớn lao nhất đối với ông lúc này là có được một người con nối dõi, vậy mà, ước mơ ấy vẫn chưa hiện thực. Thiên Chúa như thấu hiểu được nỗi lòng Apbraham, khi ông dường như dỗi với Chúa. Ông nói : Làm sao mà con biết là con sẽ được đất này làm sở hữu ?
Để chứng minh cho lời hứa, Thiên Chúa đã đề nghị ông cùng ký kết một giao ước. Đáng lẽ Thiên Chúa không cần phải làm như thế, nhưng vì để củng cố lòng tin cho Apbraham, Thiên Chúa đã yêu cầu ông đi kiếm các lễ vật làm của lễ giao ước và lập tế đàn để cùng ký kết. Tuy nhiên, câu chuyện cho thấy, lúc đến giờ long trọng để hai bên cùng thực hiện lời hứa, thì Apbraham chìm vào một giấc ngủ mê mệt, một nỗi kinh hoàng và bóng tối bao phủ ông. Lúc đó, Thiên Chúa xuất hiện như một lò lửa bốc cháy đi ngang qua các của lễ. Thiên Chúa tái khẳng định lời hứa : Đây, Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ Sông Ai Cập đến Sông Cả.
Câu chuyện cho thấy, Thiên Chúa luôn đáp lại sự mong đợi của kẻ có lòng tin. Ngài luôn trung thành với lời đã phán hứa. Về phía con người, kẻ nào hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa, hết lòng tin tưởng, thì Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi họ, nhưng luôn lắng nghe tiếng họ kêu cầu và ban thưởng vinh quang cho họ.
Nếu như Apbraham đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, trở thành bạn thân của Thiên Chúa thì Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện các tông đồ theo Chúa Giêsu, nhưng dường như các ông vẫn chưa đủ tin. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đang lúc Ngài cầu nguyện thì dung mạo Ngài được biến đổi sáng láng, y phục trở nên trắng tinh. Sự kiện này xảy ra để củng cố đức tin cho các tông đồ trước khi Chúa Giêsu bước vào cuộc tử, nạn thập giá.
Mặc dù đã nhiều năm theo Chúa Giêsu, nhưng dường như đức tin của các tông đồ vào Chúa Giêsu còn rất mỏng manh. Các ông theo Chúa nhưng vẫn để ý tìm kiếm những vinh quang vật chất hơn là xác tín phó thác vào Chúa Giêsu. Thời gian bước vào cuộc vượt qua đã gần, Chúa Giêsu biết chắc rằng, các học trò của Ngài sẽ vô cùng hoảng sợ và có thể ngã lòng trước biến cố đau thương này. Ngài đã muốn cho các ông xem thấy trước một chút vinh quang Thiên Chúa ở nơi Ngài, để khi sự việc xảy ra, các ông có thể đứng vững.
Tin Mừng kể lại : Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người biến đổi nên khác. Như thế, Tin Mừng muốn nhấn mạnh rằng, chính qua việc cầu nguyện, gặp gỡ thân mật với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ biến đổi gương mặt con người. Nói đúng hơn khi gặp gỡ tiếp xúc với Thiên Chúa qua cầu nguyện, con người sẽ đón nhận được sức sống thần linh từ Thiên Chúa thông ban và biến đổi con người nên giống Thiên Chúa. Trong lúc đó, có hai vị là Môse và Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Môsê là một vị thủ lãnh, theo lệnh Chúa, ông lãnh đạo dân Israel trốn ra khỏi Ai Cập. Ông đã đón nhận Luật Chúa từ trên núi và đem xuống truyền lại cho dân. Ông cũng là người đại diện cho dân chúng đứng ra ký kết giao ước với Thiên Chúa, thề nguyền trung thành với giới răn lề luật của Thiên Chúa. Theo truyền thống Do Thái, Môsê chính là người đại diện cho các lề luật đã được ban truyền. Êlia là một vị đại tiên tri, ông như một người thừa hành lệnh truyền của Thiên Chúa để nói lời Chúa cho dân. Ông cũng là người tiên báo về sự kiện Thiên Chúa sẽ cho một người phụ nữ sinh con để làm dấu chứng cho vua Akhát. Ông đã được rước về trời bằng xe lửa cháy. Ông được coi như vị đại diện cho tất cả các tiên tri thời cựu ước. Khi kể chi tiết có ông Môsê và Êlia hiện ra, tác giả đã muốn thu gọn tất cả truyền thống cựu ước nơi hai con người đại diện cho lề luật và các tiên tri. Vì chính sách luật và sách các tiên tri mà người Do Thái nghe đọc mỗi ngày Sabát, đã trở thành lương thực nuôi dưỡng đời sống đức tin và niềm hy vọng cho dân Israel.
Khi các sự kiện quan trọng như thế xảy ra, các tông đồ đang chìm vào giấc ngủ mê mệt. Khi tỉnh dậy, các ông thấy vinh quang của Chúa Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Phêrô như say sưa ngây ngất vì vinh quang lạ lùng sáng chói, ông đã thưa với Chúa : Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay ! Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia. Ông nói mà không biết mình nói gì. Điều đó chứng tỏ rằng khi con người được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa, con người sẽ được hạnh phúc đến ngây ngất. Một đám mây bao phủ các ông. Các tông đồ như được đi vào trong thế giới của Thiên Chúa, được gặp chính Thiên Chúa. Trong lúc sung sướng hạnh phúc như thế, thì một tiếng từ trời đã phán : Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người.
Cả Apbraham và các tông đồ đều ngủ mê mệt trước sự xuất hiện của Thiên Chúa, điều đó cho thấy, con người thật giới hạn trước quyền năng của Thiên Chúa. Mặc dù không được trực tiếp nhìn thấy Thiên Chúa bằng con mắt thể xác, nhưng con người vẫn có thể nhìn thấy dấu vết vinh quang, quyền năng của Thiên Chúa để lại trên mỗi biến cố xảy ra trong cuộc sống. Dù không được thấy Chúa bằng con mắt thịt, nhưng bất cứ cuộc gặp gỡ, tiếp xúc nào với Thiên Chúa, thì luôn đem lại sự biến đổi, như Chúa đã biến đổi Apbraham trở thành cha của kẻ tin, biến đổi gương mặt và y phục Chúa Giêsu nên sáng chói như mặt trời. Thiên Chúa cũng làm cho Môsê và Êlia được biến đổi sáng láng nhờ gặp gỡ với Chúa Giêsu. Qua việc được nghe tiếng Chúa, được đám mây của Chúa bao phủ, chắc chắn Chúa sẽ biến đổi các tông đồ, củng cố, gia tăng lòng tin cho các ông, để các ông dễ dàng đón nhận cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Cho đến ngày nay, nhiều người vẫn không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà lại phải chết nhục nhã trên thánh giá. Người ta chỉ muốn một Chúa Giêsu dùng quyền năng để hoá giải mọi đau khổ, khó khăn trong cuộc sống. Nhưng đó lại không phải là cách Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa đã muốn Chúa Giêsu thể hiện tình yêu tột cùng của Ngài dành cho nhân loại bằng chấp nhận cái chết đau đớn trên thập giá. Chúa Giêsu, vì hoàn toàn tin tưởng, yêu mến và vâng phục Chúa Cha đã chấp nhận thực hiện đến cùng thánh ý Chúa Cha và Ngài cũng muốn các tông đồ của Ngài hiểu và đón nhận cách thức diễn tả tình yêu này. Vì thế, Ngài đã bằng nhiều cách tỏ cho các ông thấy vinh quang Thiên Chúa nơi Ngài để các ông tin và nhờ tin, các ông cũng được biến đổi.
Ngày nay, người ta đang tìm nhiều cách để loại trừ Đức Giêsu và thập giá của Ngài. Cùng với lối sống chạy theo khoa học và hưởng thụ, người ta đang muốn tìm cách xóa bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa trong xã hội và cuộc sống. Họ tìm cách xóa bỏ sự hiện diện của Chúa Giêsu và thập giá của Ngài trong tâm hồn của nhiều tín hữu. Nhiều người tin Đức Giêsu, nhưng lại từ chối thập giá, tức là chỉ muốn tìm kiếm một Thiên Chúa dễ dãi chứ không muốn một Thiên Chúa chịu đóng đinh. Là Kitô hữu, chúng ta không chỉ bước theo Chúa khi vui, mà còn phải bước theo Chúa trên hành trình thập giá của Ngài.
Xin Chúa củng cố nâng đỡ đức tin của chúng ta, như xưa Chúa đã củng cố đức tin của các tông đồ qua cuộc biến hình, để dù chúng ta có phải đối diện với thử thách của thập giá cuộc đời, chúng ta vẫn tin tưởng tuyệt đối vào sự dẫn dắt của Thiên Chúa cho dù trước mặt mình là bóng tối dày đặc. Amen.
.
BIẾN HÌNH – QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG
Lm. GB Văn Hào
Biến cố Chúa hiển dung trên núi Thabor được cả 3 thánh ký Tin mừng nhất lãm thuật lại. Sau khi Đức Giêsu loan báo về cái chết và sự thống khổ mà Ngài sẽ phải trải qua, một bầu khí u ám bao trùm trên các học trò. Vì vậy 6 ngày sau, Đức Giêsu dẫn 3 môn đệ thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông, để các ông được tận mắt mục kích vinh quang sáng chói nơi Ngài. Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn ngỏ trao cho các môn đệ, là hãy can đảm đối diện mầu nhiệm Thánh giá, vì con đường Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang. Tương tự như thế, thánh Phaolô cũng đã khẳng định : “Những ai cùng chết với Người, sẽ được cùng Người sống lại trong vinh quang” (2Tm 2, 11).
Vinh quang bị che dấu
Cha Phanxicô Amberat đã so sánh: “ Giống như một đám mây bị xé ra cho thấy ánh mặt trời rực rỡ, việc Chúa biến hình cũng xé toang đám mây trong kiếp người hèn hạ của Đức Giêsu để 3 môn đệ được chiêm ngắm vinh quang bị che dấu nơi Ngài.”
Có nhiều ảo thuật gia tài ba như Coperfield đã khéo léo sử dụng kỹ xảo để đánh lừa thị giác con người, ví dụ biểu diễn màn ảo thuật chặt đôi thân xác, hay đi xuyên qua tường hoặc làm biến mất ngọn tháp Eiffel.. Thế nhưng, đó chỉ là xảo thuật nhờ những kỹ thuật hiện đại. Trong các câu chuyện cổ tích, người ta vẫn hay tạo ra những nhân vật có phép thần thông biến hóa như Tôn Ngộ Không chẳng hạn. Song, cuộc biến hình của Đức Giêsu không phải là một màn ảo thuật. Đây cũng không phải là một câu chuyện hoang đường mang tính giả tưởng. Đức Giêsu là một ‘Thiên Chúa – Người’, một vị Thiên Chúa đầy quyền năng nhưng lại ẩn dấu thiên tính cao sang trong dáng dấp của một người phàm thấp kém. Ngài tự bản tính là Thiên Chúa hằng sống, Đấng không bao giờ phải chết, nhưng lại mang thân phận con người vốn hay chết. Đó là một nghịch lý vĩ đại, không phải thách đố đầu óc suy lý con người, nhưng đây chính là lời mời gọi đức tin để chúng ta mạnh dạn tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường tiến về núi sọ. Mùa chay là thời gian tôi luyện giúp chúng ta tiến sâu vào cuộc hành trình này.
Tính phản diện trong phận người
Biến cố biến hình mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc nêu bật tính phản diện ấy. Trên núi cao, ba môn đệ sung sướng mở to đôi mắt để ngắm nhìn vinh quang chói sáng nơi Đức Giêsu. Nhưng khi đối diện trước viễn ảnh Thập giá nơi vườn cây dầu, cả ba vị lại yếu đuối khép chặt đôi mắt trong giấc ngủ sâu, không thể cùng thức với Thầy mình dù chỉ một tiếng. Một Phêrô đã cao hứng xin dựng 3 lều, lại là một anh học trò nhát đảm đã 3 lần chối Chúa. Trong biến cố đầu tiên, cả 3 vị vui mừng phấn khởi, nhưng trong biến cố sau, cả 3 đệ tử nghĩa thiết đều đã nhát đảm thoái lui. Tính phản diện này cũng được thánh Phaolô lột tả khi Ngài viết : “ Có những điều tôi muốn làm nhưng tôi đã không làm, ngược lại có những điều tôi không muốn làm, nhưng tôi lại cứ làm”
Trong cuộc hành trình nội tâm mà Giáo hội gợi nhắc chúng ta suốt mùa chay này, chúng ta phải nhận ra tính phản diện ấy nơi mỗi người để can đảm đi vào cuộc chiến đấu thiêng liêng. Con người chúng ta ai cũng có những yếu đuối và sa ngã, nhưng không sao, Chúa Giêsu luôn ở với ta và Ngài sẽ nói với chúng ta như đã từng ngỏ lời với Phaolô: “Ơn Thầy thì luôn đủ cho anh.” (2 Cor 12, 9)
Biến đổi nội tâm
Một câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ kể lại rằng, có một gia đình khỉ sống trong một khu rừng rậm. Trời buốt gía, lũ khỉ run rẩy vì lạnh. Chúng gom một ít củi khô để đốt hầu sưởi cho bớt rét. Một con đom đóm bay sà tới. Con khỉ đầu đàn tóm lấy và đặt vào giữa đám củi khô, vì đám khỉ tưởng đó là ánh lửa. Cả gia đình khỉ đều túm lại và phùng mang trợn má thổi mạnh. Nhưng con đom đóm mãi mãi vẫn chỉ là đom đóm, chứ không phải là ngọn lửa. Một con chim bay ngang qua nói với lũ khỉ: “Này các bác ơi, đó chỉ là con đom đóm chứ có phải là ngọn lửa đâu”. Bầy khỉ không nghe, bắt lấy con chim và đập chết. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình nhà khỉ nằm chết cóng bên đống củi khô cùng với xác của một con đom đóm.
Trong cuộc sống đời thường của chúng ta, có rất nhiều con đom đóm xuất hiện mà chúng ta cứ ngỡ tưởng là ngọn lửa thật. Đó là những con đom đóm của tiền bạc, của danh vọng, của những lạc thú trần gian. Nếu cứ bám mãi vào những con đom đóm đó, chúng ta sẽ chết một cách nghiệt ngã giống như đám khỉ trong câu chuyện nêu trên. Muốn thoát ra khỏi ánh sáng lập lòe của những con đom đóm giả hiệu này, chúng ta phải lột xác, phải biến hình với Chúa Giêsu, tức là phải đi vào cuộc biến đổi nội tâm một cách triệt để.
Kết luận
Một nhà tu đức nọ đã viết trong nhật ký của mình những dòng tâm tình sau đây. ‘Lúc còn nhỏ với bao tham vọng, tôi vẫn cầu xin Chúa giúp tôi biến đổi cả thế giới này. Lớn lên khi thấy chưa làm được gì, tôi chỉ cầu xin Chúa giúp tôi biến đổi những con người mà tôi vẫn thường gặp. Bây giờ khi cuộc đời đã xế chiều, tôi thấy mình rất mong manh chẳng làm được gì nên chuyện, tôi chỉ cầu xin Chúa hãy giúp tôi biến đổi chính con người của tôi’.
Michael Angelo, một điêu khắc gia tài ba, đã thổ lộ: “Đứng trước một phiến đá thô, để có được một bức tượng hoàn hảo, chúng ta cần phải biết đục đẽo và loại bỏ đi những gì thừa thãi, chứ không cần đắp thêm vôi vữa”. Cũng vậy muốn biến con người chúng ta trở nên một bức tượng sống, họa lại hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta cũng cần phải biết đục bỏ những gì dư thừa trong cuộc sống. Đó là phương cách để chúng ta đi vào sự biến đổi cách sâu xa.
Chúa biến hình trên núi cao, cũng mời gọi chúng ta ở dưới đất thấp, hãy can đảm lột xác, biến đổi nội tâm cách triệt để. Sự biến đổi ấy là điều kiện cần thiết để chúng ta tiếp nối dấu chân của Đức Giêsu, và cùng bước đi với Ngài trên con đường Thập giá.
.
Trầm Thiên Thu
Theo thời gian, hầu như mọi thứ đều biến đổi. Người trẻ hóa già, người đẹp hóa xấu, hoa tươi hóa héo, lá xanh hóa vàng,… Đá tưởng chừng vẫn trơ trơ cùng tuế nguyệt, nhưng không thể, vì đá cũng bị xói mòn theo thời gian. Ngay cả tình cảm của con người cũng có thể bị biến đổi: “Xa mặt, cách lòng”.
Biến đổi có thể xuôi hay ngược, tiêu cực hay tích cực. Khi nói biến đổi, người ta muốn nói đến chiều hướng tích cực, tốt hơn. Cuộc sống có nhiều thứ cần biến đổi, nên Chúa Giêsu đã nhắc nhở: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
Mùa Chay là cơ hội tốt để biến đổi, là hành trình hoàn thiện, là “mùa lột xác”, từ tội nhân thành thánh nhân. Ai cũng là tội nhân, vì thế ai cũng phải biến đổi theo mệnh lệnh của Thiên Chúa: “Các ngươi PHẢI nên thánh và PHẢI thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11:44; Lv 20:7).
Lột xác là quá trình cần thiết để thay da đổi thịt, nhưng phải chịu đau đớn. Về thể lý, người ta muốn duy trì vẻ đẹp nên làm mọi cách để trì hoãn sự lão hóa, sẵn sàng chịu tốn nhiều tiền để “được” mổ xẻ, bơm, căng, hút, cắt,… nhưng cũng chỉ được một thời gian, không thể vĩnh viễn. Thế mà người ta chấp nhận tất cả. Còn về tinh thần, chẳng lẽ chúng ta lại không muốn tốt đẹp hơn?
Trình thuật St 15:5-12. 17-18 cho chúng ta biết về cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với ông Áp-ram và lời hứa của Ngài dành cho ông.
Một hôm, Thiên Chúa đưa ông Áp-ram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không”. Người lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”. Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính. Đức tin vô cùng quan trọng, đức tin làm cho phàm nhân xấu xa trở nên công chính. Liên quan đức tin, Chúa Giêsu đã thêm một mối phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:19).
Thiên Chúa nói với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Ông thưa: “Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?”. Người phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non”. Cuộc đối thoại rất đơn giản và tự nhiên, không có gì cầu kỳ. Điều đó cho thấy Thiên Chúa rất thân thiện với con người, và con người cũng rất chân thành. Thật vậy, “nhân chi sơ tính bổn thiện” mà.
Sau đó, ông Áp-ram kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. Mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông.
Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram như sau: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát”. Nhân loại bất xứng mà vẫn được Thiên Chúa yêu thương quá đỗi, được ký kết với Thiên Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, phàm nhân không thể nào hiểu hết.
Và rồi Thiên Chúa đã thay tên đổi họ cho ông Áp-ram, nghĩa là ông hoàn toàn trở nên một con người mới: “Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (St 17:5). Một sự biến đổi lạ lùng. Thiên Chúa cũng muốn mỗi chúng ta phải thực sự biến đổi, từ con người CŨ trở thành con người MỚI, đặc biệt là trong Mùa Chay Thánh này.
Có Thiên Chúa thì chúng ta sẽ khả dĩ biến đổi. Nhưng muốn có Ngài thì chúng ta phải đón nhận Ngài, tức là phải tin Ngài. Cứ tín thác vào Ngài thì Ngài sẽ hành động, Ngài sẽ soi đường dẫn lối, vì Ngài là Ánh Sáng Vĩnh Cửu, điều này được tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa? (Tv 27:1).
Đức tin cần được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện. Do đó, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ, cầu xin Thiên Chúa phù trợ: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con” (Tv 27:7-9). Thật vậy, giả sử Ngài chỉ vắng bóng trong tích tắc, chúng ta chết ngắc, chết cả hồn và xác, chết không kịp ngáp!
Cuộc sống nhiêu khê, không ít lần chúng ta đã từng thất vọng về chính mình, thậm chí có lúc như muốn buông xuôi tất cả, nhưng đừng để mình chết trước khi tắt thở. Lời hứa của Thiên Chúa là thật, chắc chắn sẽ được Ngài thực hiện. Hãy tự động viên và lấy lại niềm tin: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 27:13-14). Tự giúp mình rồi trời sẽ giúp. Và hãy ghi nhớ điều quan trọng này: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con” (Tv 27:10).
Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian” (Pl 3:17-19). Những điều này có lẽ chẳng xa lạ gì, thế nhưng người ta nghe tai này chạy qua tai kia, rồi bay theo gió. Cứ thế, người ta vẫn tranh giành nhau mọi thứ, tranh chấp nhau bằng mọi giá. Và như thế là chưa biến đổi, chưa biến đổi là đối lập với Thập Giá, vì Thập Giá là bí quyết “lột xác”.
Thánh Phaolô phân tích: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3:20-21). Một cuộc biến đổi thú vị mà lại không dễ dàng chút nào, tức là khó lắm, nhưng KHÓ không có nghĩa là KHÔNG làm được. Khó mà làm được mới có giá trị.
Ổ khóa nào cũng có chìa khóa, khó khăn nào cũng có cách giải quyết, quá trình biến đổi cũng có bí quyết. Thánh Phaolô cho chúng ta biết bí quyết đó: “Hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng” (Pl 4:1).
Điều kiện theo Chúa là “từ bỏ chính mình và vác thập giá” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Hạnh phúc nào cũng có ít nhiều đau khổ, niềm vui nào cũng có nỗi buồn, thành công nào cũng phải khổ luyện, nước mắt càng mặn thì nụ cười càng rạng rỡ. Tabor chói lọi thì cũng có Can-vê âm u. Đó là lẽ thường ở đời, là sự cân bằng hợp lý.
Trình thuật Lc 9:28-36 (Mt 17:1-8; Mc 9:2-8) nói về cuộc hiển dung của Đức Giêsu. Các nhân chứng là ba môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Một hôm, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, có đem theo ba ông. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Bỗng dưng có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người.
Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Ông không biết mình đang nói gì. Ông rất hạnh phúc, say sưa giữa không gian kỳ diệu, không cảm nhận hết. Bản tính ông chất phác, thật thà, nghĩ sao nói vậy, ông quên mình và chỉ nghĩ đến người khác.
Đó là vinh quang Nước Trời, Đức Giêsu cho ba ông được nếm thử để động viên các ông làm nhân chứng về Ngài, và có trách nhiệm hướng dẫn người khác biến đổi trên hành trình tâm linh.
Tuy nhiên, khi ông Phêrô còn đang nói, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Tiếc quá! Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Thật chứ không mơ, nhéo mặt thấy đau mà. Phàm nhân thích cái lạ, nhưng rồi lại hoảng sợ trước sự lạ.
Đúng là lạ thật, vì họ nghe có tiếng nói vang từ đám mây: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”. Tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Các môn đệ nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy. Nhưng từ đó, các ông đã được biến đổi.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biến đổi tích cực để nên giống Chúa, trút bỏ con người cũ để thành con người mới, thành khí cụ của bình an và công lý, thành khí cụ của lòng thương xót. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sau biến cố Gioan Tẩy Giả bị chém đầu (Mt 14,1-12; Mc 6,14-29), Chúa Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn sắp tới, Người sẽ lên Giêrusalem để chịu thương khó và chịu chết. Một đám mây đen che phủ các môn đệ. Họ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện anh em phản đối kịch liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để khai quang đám mây đen đó và để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi Tabor. Người biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho họ hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin, thêm mạnh mẽ, thêm xác tín.
Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.
Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29). Khi biến đổi hình dạng nên sáng láng, Chúa Giêsu cho các tông đồ thoáng nhận ra vinh hiển tương lai của Người.
Suy niệm biến cố Biến Hình, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết : “Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: “Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng”. (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 268).
Cuộc kết hiệp đã đưa Chúa Giêsu đi vào thiên giới. Cảnh vật chung quanh cũng biến đổi theo cuộc kết hiệp vĩ đại đó: “Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Cuộc kết hiệp thần kỳ đã mở ra tất cả bí mật của thế giới Thiên Chúa. Rõ nét nhất là tương quan phụ tử: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” (Lc 9,35). Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây bao phủ các ông. Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). (sđd, trang 172).
Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn” (sđd trang 268).
Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.
Trên núi cao, Chúa Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia”. Phêrô muốn dừng lại để định cư với những túp lều lý tưởng trên núi cao.
Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Chúa Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (sđd trang 269).
Chứng kiến Chúa Hiển Dung, thấy rõ tất cả sự thật về Thầy, các môn đệ vững tin hơn. Từ nay, các ông tin tưởng tuyệt đối “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21).
Sự kiện Chúa Giêsu biến hình cùng với sự xuất hiện của hai chứng nhân Cựu Ước, Môisen và Êlia, thêm một lần nữa, khẳng định sứ mệnh của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và còn hơn thế nữa, lời Chúa Cha giới thiệu: “Này là con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Mọi người, mọi thời phải nghe Lời Chúa Giêsu, vì đây là Lời Chúa Cha, vì chỉ một mình Chúa Giêsu là Thầy mà thôi. Những chứng cứ về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế thật quá rõ ràng. Con người muốn được sống và hưởng vinh quang Thiên Chúa, điều kiện cần và đủ, là tin vào Chúa Giêsu Kitô.
“Vâng nghe lời Người” là tất cả những gì cần thiết để con người đi đến bến bờ vinh quang của Thiên Chúa. Đó là cuộc hành trình của Đức Tin : “Con người trên đường lữ hành về với Đấng Tuyệt Đối. Đời sống con người trên trái đất là một cuộc lữ hành. Đức Tin lữ hành của con người hướng con người về Thiên Chúa, giúp con người chọn lựa những gì sẽ làm cho mình đạt tới sự sống vĩnh hằng. Do vậy, mỗi giây phút trong cuộc lữ hành trên trái đất đều quan trọng, quan trọng với những thách đố và chọn lựa của nó” (x.Tiến về ngàn năm thứ ba, ĐGH Gioan Phaolô II).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta,
Nếu chúng ta“có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!
Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa.
Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).
Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: ‘Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
.
CHÚA BIẾN HÌNH, XIN CHO CON ĐƯỢC ƠN BIẾN ĐỔI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố biến hình của Chúa Giêsu, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.
Thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện… bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia…. Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình :
- Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?
- Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?
- Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi ?
Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x.Lc 9, 14). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x.Lc 9, 22). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x.Lc 9, 33). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là « Ðức Kitô của Thiên Chúa » và được Đức Giêsu trao cho chìa khóa Nước Trời (x.Mt 16, 19). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, « Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa! » (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là « người môn đệ Chúa yêu » (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: « Chúng tôi có thể uống chén của Thầy » (Mt 20, 22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Đấng Kitô, kẻ khác cho là Môisen hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x.Lc 9,19).
Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.
Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng :
Vinh quang Ba Ngôi
Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: « Ðây là Con Ta Yêu Dấu! » (Lc 9, 35). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ .
Lắng nghe lời Đức Giêsu
Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, còn vang lên Lời của Thiên Chúa Cha chỉ cho chúng ta biết « Con Yêu Dấu của Ngài », và mời gọi chúng ta « hãy nghe lời Người » (Lc 9, 34).
Xin ơn biến đổi
Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.
Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi : biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người ; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh phúc hơn.
Abraham tin vào Thiên Chúa
Thiên Chúa mời gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ cho, rồi Thiên Chúa sẽ làm cho ông có con cháu nối giòng, có đất để sống. 75 tuổi được gọi và ra đi (St.12, 4) nhưng đến 99 tuổi, Abraham vẫn chưa có con với Sara (St.17, 1.17). Khi Sara chết, ông vẫn không có đất để chôn vợ (St.23, 1-20). Lời hứa có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, cũng như lời hứa có đất làm cơ nghiệp vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn khi Abraham chết. Dưới cái nhìn của người đời, Abraham là người dại vì đã tin vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài “quá trễ” đến độ người ta nghĩ rằng Ngài đã quên; tuy vậy Abraham vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, và vì thế ông là người mẫu cho các tín hữu. Thiên Chúa đã hứa, và Abraham đã tin. Tuy dù Abraham sống như những người khác, nhưng ông đã vâng phục Thiên Chúa trong mọi chuyện, kể cả việc sẵn sàng hiến tế Isaac. Chính vì tin vào Thiên Chúa mà ông trở nên công chính (St.15, 6).
Tin là thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở gần bên mỗi người, mời gọi mỗi người bỏ mình để theo Ngài, và Ngài sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống mỗi người khi cần. Xin cho chúng ta tin vào Thiên Chúa như Abraham.
Đức Giêsu lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện Ngài đã biến hình. Có lẽ nhờ cầu nguyện, mà mỗi người được biến đổi, được trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Phêrô rất phấn khởi khi được chứng kiến những điều đang xảy ra. Ông muốn ở lại luôn trên núi, ông sẵn sàng làm lều cho các Ngài. Phêrô nói mà không biết mình nói gì!
Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Cầu nguyện để thấy ánh sáng, để có sức sống, và được nghỉ ngơi trong cuộc sống tất bật mỗi ngày.
Tin vào Thiên Chúa được tỏ lộ qua cách sống
Thánh Phaolô sống rất tuyệt, nên Ngài đã dám nói với tín hữu ở thành Philipphê: “anh em hãy bắt chước tôi”. Ngài là người đã được ơn trở lại trên đường đi bắt các Kitô hữu tại Đamas, và kể từ đó Ngài đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Ngài đã bôn ba đi rao truyền Lời Chúa, và thiết lập các cộng đoàn. Những bức thư Ngài viết cho các cộng đoàn trở thành “Lời Chúa” cho con người của mọi thời đại. Thuộc về Thiên Chúa trong chính cuộc sống và hành động của thánh Phaolô, là mẫu gương sống cho con người hôm nay.
Thánh Phaolô yêu thương những con cái mà Ngài đã sinh ra trong Chúa. Khi xa Ngài, đã có một số người sống như không có Thiên Chúa. Họ đã lấy những của vật chất làm Chúa của họ, họ tự hào nơi những điều đáng lẽ phải hổ thẹn. Thánh Phaolô kêu gọi họ hãy sống trong niềm tin vào Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Không kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không thể đứng vững trong cuộc sống hiện tại.
“Hỡi những người anh em chí thân chí thiết của tôi, anh em là triều thiên và niềm vui của tôi, anh em hãy đứng vững trong niềm tin vào Chúa”. Ước gì mỗi người có thể nói với những người mình phục vụ như thánh Phaolô đã nói với những con cái của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, điều khó nhất đối với Abraham trong việc vâng phục Thiên Chúa là gì?
- Theo bạn, đâu là thập giá lớn nhất đối với thánh Phaolô? Tại sao bạn nghĩ vậy?
- Tin vào Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?
.
HÃY BIẾN HÌNH ĐỂ ĐƯỢC TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng như những khuynh hướng xấu của tội. Đồng thời cũng là mùa của những đổi mới. Đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.
Lời mời gọi đổi mới được chính Đức Giêsu mạc khải qua biến cố Biến Hình mà chúng ta cử hành hôm nay.
- Ý nghĩa cuộc biến hình của Đức Giêsu
Thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất (x. Lc 9, 22) cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Ngài (Lc 9, 23-26), đồng thời nó cũng diễn ra trong bối cảnh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin (x. Lc 9,18-21).
Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến.
Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người về với Thiên Chúa trong vinh quang.
Khi mạc khải như thế, Đức Giêsu muốn lật tẩy những xu hướng và đam mê của các Tông đồ về Ngài theo kiểu trần tục, đó là việc thiết lập triều đại chốn trần thế…, để rồi chính bản thân các ông sẽ được bù đắp bằng những ân lộc trần gian chốn quan trường!
Qua đó, Ngài mời gọi các ông đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang, vì: hạnh phúc, vinh quang không bao giờ dành cho những người trốn tránh đau khổ. Nếu có thì cũng chỉ là thứ vinh quang phù phiếm, hão huyền do con người tưởng tượng ra và gán ghép rồi đặt tên cho nó là hạnh phúc, chứ thực ra không có thật! Vinh quang có thật chính là vinh quang của những người can dự vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của chính Đức Giêsu; để đi từ đau khổ đến vinh quang.
Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, ý riêng và ngay cả sự sống thể xác… Hành trình này quả là cam go, không dễ, sẽ có người chán nản mà bỏ cuộc, nên đây là lý do Đức Giêsu biến hình trước mặt các Tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông.
- Chúng ta cũng được mời gọi biến hình
Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên của chúng ta có thể ví như được đặt vào một khuôn đúc mới để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.
Nhờ cuộc biến hình này, mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi vây phủ.
Điều này cho thấy, nơi con người chúng ta, luôn mang hình ảnh, dáng dấp, thái độ của Tông đồ Phêrô, hay như các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi cơn sốt sắng đến, chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi sự để được ở với Chúa, nhưng khi bả vinh hoa phú quý chào mời, chúng ta cũng tranh dành quyền lực và ganh đua nhất nhì với nhau trong sự ích kỷ, đê tiện của bản năng. Kinh nghiệm này đã được Thánh Phaolô thốt lên: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thủa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
Như vậy có thể nói: nếu muốn được hạnh phúc, vinh quang, chúng ta sẽ phải biến đổi như thánh Phaolô mời gọi. Đây là điều kiện để được chung phần với Đức Giêsu trong vinh quang.
- Không biến hình thì chẳng được chung phần với Chúa!
Khi cử hành lễ Chúa Biến Hình, chúng ta cần xác tín rằng: Thiên Đàng hay hạnh phúc không thể có được nếu chúng ta cứ sống một cuộc sống bê tha, ăn chơi, đàn điếm! Hạnh phúc Nước Trời chỉ có được sau những đêm ngày chiến đấu với bản năng, ý riêng, để chỉ sống cho Thiên Chúa và những giá trị Nước Trời, khi đã sẵn sàng khước từ sự níu kéo đầy hấp dẫn của thế gian.
Vì thế, có lẽ chúng ta phải lội ngược dòng để chấp nhận lột xác, có khi phải chấp nhận mất mát, cay đắng và đôi khi phải đánh đổi ngay cả mạng sống.
Các thánh là những người đã chấp nhận sống ngược đời vì chân lý và Tin Mừng để được đổi mới. Chẳng hạn như:
Môsê đã biến hình khi ông từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa. Êlia cũng vậy. Đức Giêsu thì đến chỉ để làm theo ý Chúa Cha. Phêrô và các Tông đồ, trong đó phải kể đến Phaolô, tất cả đều đã biến đổi từ con người nhát đảm, ham danh, hám lợi trở thành một con người can đảm, trung thành sống chết với đức tin, để chỉ còn giữ lại một mối lợi tuyết đối, đó là được biết Đức Giêsu và được ở trong Ngài.
Rồi nơi lịch sử Giáo Hội, đã có biết bao gương sáng về những cuộc đổi đời ngoạn mục đến kỳ diệu! Thật vậy, có những vị từ một người nghiện rượu, xì ke, ma túy đến nghiện Giêsu; từ những kẻ khát tình, trác táng chốn ăn chơi, trở thành người say mê Giêsu đến độ vì Ngài mà bỏ hết mọi sự; lại có người từ gái làng chơi trở thành vị thánh; có người dùng cả một hệ tư tưởng để chống đối đạo, đi theo bè rối, khi được biến đổi, họ đã trở thành người bảo vệ các chân lý đức tin đến chết trong anh dũng, kiên trung; có người từ trai tứ chiếng, đầu đường xó chợ lại trở thành đấng lập dòng…
Đây chính là mẫu gương điển hình về những cuộc biến hình trong Giáo Hội thời xưa và thời nay cũng như mãi về sau.
Mong sao, nơi sự kiện Chúa biến hình và những mạc khải của Ngài cũng như qua gương sáng nơi các thánh, chúng ta cũng hãy làm một cuộc biến hình mới của mỗi người để được trở nên giống Chúa và được chung hưởng hạnh phúc với Ngài bên các thánh trong Nước Hằng Sống. Amen.
.
Trần Bình An
Hơn 10.000 người đã tụ tập tại một nhà thờ làng thuộc Tổng giáo phận Tellicherry ở Kerala, sau khi tin tức lan truyền rằng khuôn mặt của Chúa Giêsu xuất hiện trên Bánh Thánh trong Thánh Lễ buổi sáng. Tổng giáo phận đã vội vã tập hợp một đội điều tra hiện tượng xảy ra tại Nhà thờ Chúa Kitô Vua, Vilakannur, khoảng 50 km về phía đông của thành phố Kannur.
Linh mục chánh xứ Cha Thomas Pathickal, 60 tuổi, nói với trang web mattersindia. Vị linh mục đã cai quản Giáo xứ này từ ba năm trước, cho biết ngài đã làm theo sự hướng dẫn của Đức Tổng Giám Mục George Valiamattam, của Tổng giáo phận Tellicherry để giữ cho “phép lạ” Thánh thể bên trong Nhà tạm Thánh thể trong nhà thờ.
Hơn 500 giáo dân đang cầu nguyện trong nhà thờ, khi họ chờ đợi các cuộc điều tra Tổng giáo phận, quyết định phổ biến cho mọi người biết. Các quan chức cảnh sát cấp cao từ các Quận, Huyện và địa phương cũng kéo đến, cũng như người dân từ các Giáo xứ khác kéo đến Vilakannur. Nhiều phương tiện xe cộ cũng kéo đến đông nghẹt cả con đường đến vùng Paithalmala, nơi đây cũng là một địa điểm nổi tiếng cho du khách ưa du lịch mạo hiểm.
Cha Thomas Pathickal nói hiện tượng này xảy ra khi Giáo xứ đang chuẩn bị cho lễ Chúa Kitô Vua vào ngày 24 tháng 11. Tường thuật lại sự việc, Cha nói tại thời điểm trong Thánh Lễ sáng lúc 7:00, Cha nhận thấy một điểm trên Bánh Thánh, “trở nên lớn và sáng hơn, sau đó xuất hiện khuôn mặt Chúa Giêsu.” Ngài để Bánh Thánh đó sang một bên và tiếp tục Thánh Lễ bằng Bánh Thánh khác trong Nhà tạm.
Sau Thánh lễ, Cha gọi ông thủ từ đến, người này sau khi xem cũng nói với Cha rằng đó là gương mặt của Chúa Giêsu. Sau đó Cha đặt Bánh Thánh đó vào Mặt nhật và để lên bàn thờ trong Thánh đường. Hàng trăm người khác cũng nhìn thấy khuôn mặt sáng ngời của một người đàn ông râu tóc dài. “Chỉ có màu đen và trắng, ngoài ra không có màu nào khác”, Cha Pathickal nói khuôn mặt sáng ngời đó vẫn có thể nhìn thấy được, sau khi Cha cất Bánh Thánh trong Nhà tạm, lúc đó khoảng 11 giờ sáng theo như sự hướng dẫn của Đức Tổng giám mục. Cha Thomas cho biết lòng tin của Cha trở nên mạnh mẽ sau khi nhìn thấy “Phép lạ”. Cha cho biết mình phải đến Naduvil, trụ sở chính quyền địa phương của vùng này (cách 3 km về phía đông) vì một số vấn đề khi họ nghe về tin này. “Tôi đã chạy vội đến đây và thật may mắn khi được thấy Chúa Giêsu,” Cha nói thêm. Cha cho biết nhiều người đã thất vọng khi Cha từ chối để cho họ được nhìn thấy Bánh Thánh.
Được thành lập vào năm 1962, Giáo xứ có hơn 500 gia đình và 1.250 người Công giáo và hầu hết trong số họ là thế hệ thứ hai và thứ ba của những người đã di cư từ Trung tâm Kerala thế kỷ trước. (Miracle at Vilakkannoor, Kannur, Kerala, India 2013)
Từ hơn hai năm nay, Lm Thomas và giáo xứ Vilakannur được diễm phúc chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa Giêsu trên Thánh Thể, như xưa ba môn đệ đã được hưởng phúc chiêm ngưỡng Người hiển dung.
Trong Tin Mừng thánh Luca Chúa nhật thứ hai Mùa Chay hôm nay, tường thuật Đức Giêsu sau khi cầu nguyện, đã biến hình sáng láng, diệu kỳ trước ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Hai ông Môisen và Êlia, đại diện cho Lề Luật và Ngôn sứ, cùng hiện đến đàm đạo với Người về cuộc Xuất Hành sắp đến. Trong khi ba đấng còn mải mê ngủ vùi, khi chợt tỉnh dậy thì cuộc hiển dung sắp kết thúc, được nghe tiếng phán từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.”
Như vậy, qua Tin Mừng, cầu nguyện hàm chứa nhiều ý nghĩa quan trọng, như hạnh ngộ cùng Thiên Chúa, lắng nghe Thánh Ý Chúa để vâng phục thi hành, cùng niềm hy vọng Nước Trời.
Cầu nguyện hạnh ngộ
Hàng ngày, sau khi giảng dạy, Đức Giêsu luôn lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, như đúc kết những những thành quả và thất bại trong ngày, giãi bày cùng Đức Chúa Cha, lẫn tâm sự vui buồn. Tuy có rất nhiều người hăng hái, đón nhận, nghe theo Người rao truyền ơn cứu độ, nhưng cũng không ít người phản đối, chống báng, vì lời dạy quá tân kỳ, gây “sốc” với mọi người.
Trước những biến cố quan trọng, hay khúc quanh cuộc đời sắp diễn ra, Đức Giêsu càng hết sức tha thiết cầu nguyện: Khi Người chịu phép rửa (Lc 3, 21), sau khi nổi tiếng chữa người phung (Lc 5, 16), cầu nguyện suốt đêm trước khi chọn 12 Tông đồ (Lc 6, 12), trước khi loan báo sự thương khó lần thứ nhất (Lc 9, 18), trước khi Người hiển dung (Lc 9, 28), vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha (Lc 10, 21) Trước khi dạy Kinh Lạy Cha (Lc 11, 1), cầu xin cho Phêrô vững lòng tin (Lc 22, 32), cầu nguyện trước khi chịu thương khó (Lc 22, 41- 42), cầu xin tha thứ cho kẻ dữ hại mình (Lc 23, 34), cầu nguyện phó linh hồn trong tay Chúa Cha (Lc 23, 46)…
Cầu nguyện vốn là việc rất cần thiết và cấp bách của người Kitô hữu, con của Chúa, hầu luôn được hân hạnh gặp gỡ Ngài. Bước vào mùa Chay Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi mọi người chay tịnh qua ba cách thức chính yếu. Đó là cầu nguyện, ăn chay và bác ái. “Cầu nguyện giữ vị thế đầu tiên, đó là việc tỏ ra cởi mở và tin tưởng vào Chúa: nó là cuộc gặp gỡ riêng tư với Người, việc thu ngắn khoảng cách gây ra bởi tội lỗi. Cầu nguyện tức là nói rằng: “Con là kẻ thiếu thốn, con cần Chúa. Chúa là sự sống của con và là ơn cứu độ của con.” (Đức Thánh Cha Phanxicô, Bài Giảng lễ Tro 10. 2. 2016)
“Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 142)
Cầu nguyện hiệp nhất
Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Cả hai người đại diện cho Cựu Ước đến an ủi, chia sẻ, đồng cảm và đồng tình với Đức Giêsu, dấn thân vào cuộc thương khó và tử nạn sắp đến.
Cầu nguyện còn là tỉnh thức lắng nghe, đón nhận và tìm hiểu Thánh Ý, thể hiện qua các chứng nhân, dấu chỉ, ngôn sứ, cùng chấp nhận, vâng phục đau khổ, gian nan, thách đố, mà cao điểm là dâng hiến cuộc đời, hiệp nhất vào cuộc tử nạn của Đức Giêsu.
“Con tìm bạn để an ủi, nâng đỡ con khỏi cô đơn. Sao con không tìm người bạn không bao giờ phản bội con, và có thể ở với con liên lỉ bất cứ nơi nào?” (Đường Hy Vọng, số 130)
Cầu nguyện hy vọng
Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Với con người, cầu nguyện còn có khả năng biến hình, thăng hoa, thánh hoá, bộc lộ thần tính mà Thiên Chúa đã ẩn giấu, khắc ghi trong từng người, ngay từ khi Ngài tạo dựng. Nhờ lời cầu nguyện của Đức Giêsu, ba môn đệ được hạnh phúc chiêm ngưỡng Nước Trời, như Người đã phán: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt tại đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa.” (Lc 9, 27)
Như thế, cầu nguyện liên lỉ với Thiên Chúa, sẽ gia tăng niềm hy vọng được vào Nước Chúa, cùng thoát khỏi cái chết vĩnh viễn. Nhờ sốt sắng cầu nguyện, các thánh thường được xuất thần, vinh dự “thấy Nước Thiên Chúa,” ngay khi còn sống dưới dương thế.
Với người giáo dân bình thường, cầu nguyện là đặt tất cả niềm hy vọng vào Chúa Quan Phòng trong mọi tình huống vui buồn, đau khổ, gian nan, phó dâng lên Chúa, để được an ủi và bình an. Thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Roma luôn siêng năng cầu nguyện trong lúc nguy nan:“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện.” (Rm 12, 12)
“Chúa dạy đọc kinh để giúp con cầu nguyện, nhưng việc chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: “Khi con cầu nguyện, đừng lo phải nói gì! Hãy vào phòng đóng cửa, cầu nguyện với Cha của con cách kín đáo, và Cha con thấy mọi sự, sẽ nghe lời con.”Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.”(Đường Hy Vọng, số 127)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình khi đang cầu nguyện, dung nhan sáng láng, thánh thiện, biểu lộ Thần tính của Người, xin phù trợ, đốt lửa mến cho chúng con sốt sắng cầu nguyện, để chúng con cũng được biến đổi, có thể hạn chế nhân tính, kềm hãm thú tính, hầu chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển Thần tính, siêng năng gặp gỡ, tâm tình, hiệp nhất với Thánh Ý, cũng như hoàn toàn tin cậy, phó thác, hy vọng vào Lòng Thương Xót Chúa vô biên, xứng đáng làm con Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con luôn tha thiết cầu nguyện, luôn biết lắng nghe tiếng gọi đi theo Chúa, luôn sống theo Thánh Ý nhiệm mầu, mặc dù gian nan, đau khổ, hiểm nguy thách thức, hầu luôn được hiếp nhất với Chúa trong niềm hy vọng tràn trề. Amen.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Trong mùa chay này, chúng ta được kêu gọi cố gắng hy sinh thời giờ, và dùng mọi phương cách để lắng nghe lời Chúa nói và dạy bảo chúng ta. Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giê-su đã dùng lời Chúa vượt thắng những cám dỗ và cạm bẫy của ma quỉ, và dạy chúng ta biết noi gương Ngài để chiến thắng những cám dỗ và cạm bẫy của ma quỉ trong cuộc sống. Bài Tin mừng Chúa nhật tuần này cho chúng ta thấy các tông đồ nhận được giây phút hồng ân, nhìn thấy được cảnh huy hòang và vinh quang của Chúa Giê-su, cũng như biết được sứ mệnh và con đường của Chúa đang đi và những sự kiện Chúa sẽ đối diện. Bài Tin mừng là nguồn hy vọng và sức mạnh giúp chúng ta can đảm đối diện với thập giá, khó khăn và hy sinh trong đời sống Ki-tô hữu. Đồng thời củng cố niềm tin của chúng ta vào Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa và lời của Ngài là ánh sáng hướng dẫn chúng ta đi trong bình an và ân sủng của Chúa. Thật vậy, Chúa Giê-su là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của chúng ta. Lời Chúa nguồn sức mạnh giúp chúng ta chống trả lại những cám dỗ, cạm bẫy của ma quỉ, và can đảm sống hy sinh phục vụ để được vinh quang với Ngài. Chúa Giê-su đã trung thành vác thập giá để đến vinh quang, và Ngài kêu gọi chúng ta hãy can đảm đi theo con đường của Chúa. Thật vậy, trong Tin mừng, Chúa đã từng tuyên bố: “Nếu ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Ta.” (Mt. 16, 24) Chúa đã biến đau khổ thập giá trở thành nguồn hy vọng ơn cứu độ và sức mạnh, Chúa sẽ biến sự trung thành, biến những đau khổ, bác ái, hy sinh và thiệt thòi của chúng ta thành ơn sủng bình an và đạt được những điều chúng ta ước muốn trong cuộc sống. Chúng ta tin nếu chúng ta khiêm nhường và thành tâm vác thập giá vì đức tin và vì Chúa trong cuộc sống, chúng ta sẽ có nguồn sức mạnh của Chúa giúp sức, và những hy sinh của chúng ta sẽ trở thành khí cụ tình yêu, an bình và hy vọng cho người khác.
Ông bà anh chị em thân mến. Tuần đầu trong chương trình làm lá mùa chay đã đạt được kết quả thật tốt đẹp, do sự hy sinh thời giờ và công sức của rất nhiều người, kể cả của các em học sinh. Tôi cảm tạ Chúa và rất phấn khởi khi nhìn thấy sự hy sinh và tham gia thật đông đảo này. Tôi cảm nghiệm tinh thần hiệp nhất và sự hy sinh của mọi người, cũng như sự liên kết của những chi thể trong thân thể của Chúa Kitô. Tôi tin những người tham gia cũng cảm nghiệm được ý nghĩa sâu xa và cụ thể sự liên kết mật thiết của những chi thể trong thân thể Chúa Kitô. Tôi nhận biết sự hy sinh thời giờ và công sức để cùng chung xây giáo xứ của ông bà anh chị em là do tác động của lời Chúa kêu gọi trong mùa chay. Chúng ta dâng sự hy sinh và công sức lên Chúa như những lễ vật của A-bram dâng lên Thiên Chúa trong bài đọc 1. Chúng ta cầu xin Chúa nhận và biến đổi trở thành giao ước, trở thành ơn sủng và chúc lành của Chúa cho chúng ta. Chúng ta thấy A-bram đã được Thiên Chúa ban cho một ơn sủng có một viễn ảnh, một cái nhìn xa thấy được Đất hứa, vì vậy, niềm hy vọng và niềm tin của ông được củng cố. Ông và dân chúng có sức mạnh tiếp tục cuộc hành trình về Đất hứa như lòng mong ước và như lời Chúa hứa.
Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong một giây phút đã nhận được một ơn sủng đặc biệt thấy được bản thể Thiên Chúa của Chúa Giê-su, và vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa ra từ con người của Chúa Giê-su, cũng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa Cha từ đám mây khẳng định với họ “Đây là Con ta rất yêu dấu. Các ngươi hãy nghe lời Người.” Đây là đặc ân, là giây phút hồng ân mà Chúa đã ban cho các tông đồ, để các ngài vững niềm tin và trung thành tiếp tục con đường đi theo Chúa hiện tại. Giây phút hồng ân này tạo nên sức mạnh và động lực giúp các ông can đảm vượt qua những khó khăn và gian truân làm chứng cho Chúa, và hy sinh, vui mừng phục vụ Chúa trong sứ mệnh rao giảng Tin mừng khi Chúa đã về trời.
Ông bà anh chị em thân mến. Nếu biến cố biến hình là một sự kiện báo trước vinh quang của Chúa Giê-su và của các môn đệ, thì trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phao-lô cũng tiên báo và cho chúng ta biết một lời hứa về sự vinh quang vĩnh cửu của chúng ta, ngài nói: “Phần chúng ta, Quê hương chúng ta ở trên trời.” Hay nói một cách khác, chúng ta chỉ là những khách hành hương trong cuộc hành trình nơi trần thế, và nơi đây chỉ là nơi tạm bợ không phải là quê hương đích thực. Vì vậy, nếu chúng ta nghe và sống lời Chúa Giê-su dạy bảo, chúng ta sẽ tránh được những cạm bẫy, cám dỗ của ma quỉ. Và nếu chúng ta dâng lên Chúa những việc lành phúc đức, lòng bác ái, quảng đại và hy sinh phục vụ xây dựng giáo xứ, với ý nguyện làm sáng danh Chúa, và là của lễ dâng lên Chúa, thì tôi tin Chúa sẽ không những nhận lời, chúc phúc ban cho chúng ta sức mạnh và ân sủng đời này, mà ngày chúng ta về Quê Hương đích thực, Thiên Chúa sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta trở thành thân xác vinh quang của Chúa Giê-su. Xin Chúa trả công ban nhiều ơn lành cho mọi người.
.
Lm. Giuse Trực
Từ 13-18/02/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có chuyến viếng thăm mục vụ 2 nước Châu Mỹ La Tinh là Cuba và Mêxicô. Trong chuyến đi này, Ngài đã có buổi gặp gỡ lịch sử với Đức Thượng Phụ Kirill I của Chính Thống Giáo Nga và 2 bên đã ký tuyên bố chung lần đầu tiên kể từ khi Giáo hội bị chia cắt.
Ngoài ra trong lịch trình còn có những buổi gặp gỡ với hàng Giáo sĩ, với các bệnh nhân, các tù nhân và một thành phần không thể thiếu trong các chuyến tông du của Đức Thánh Cha là các bạn trẻ. Trong buổi nói chuyện với các bạn trẻ Mêxicô hôm thứ Ba, 16/02/2016, Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ: “Các bạn sẽ không thể sống trong hy vọng, hay nhìn về tương lai nếu các bạn trước nhất không biết cách tự trân qúy chính các bạn, nếu các bạn không cảm thấy đời mình, bàn tay mình, lịch sử mình đáng được cố gắng. Hy vọng phát sinh khi các bạn có khả năng cảm nghiệm rằng chưa mất tất cả; và để điều này xẩy ra, điều cần thiết là khởi sự “tại nhà”, bắt đầu với chính các bạn. Chưa mất tất cả”.
Niềm hy vọng, sự cố gắng mà Đức Thánh Cha muốn nói với các bạn trẻ Mêxicô cũng là muốn nói với các bạn trẻ và tất cả mọi người đang hiện diện nơi đây được đặt trên nền tảng sự biến đổi mà phụng vụ Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: St 15, 5-12.17-18
Sách Sáng Thế trình bày về Apram.Ông được sinh ra tại thành Ua, nằm ở phía Nam con sông Êuphơrat, gần vịnh Ba Tư, một người giàu có và sở hữu rất nhiều đàn súc vật. Sự giàu có này bắt buộc ông phải di chuyển nhiều để tìm thức ăn cho những đàn súc vật. Hôm nay Thiên Chúa đã chỉ cho ông: “Hãy đi tới miền đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Thiên Chúa không nói rõ cho ông biết chính xác miền đất nào. Ngài chỉ đơn giản chỉ cho ông con đường. Và con đường đó chính là Ngài. Thiên Chúa không gọi đi tới một nơi nào cụ thể, Ngài gọi “hãy lên đường”. Lên đường không phải đi về phía Ngài, không phải đi với Ngài, nhưng là đi vào Ngài. Vậy mà Apraham đã đi, đã lên đường. Ông muốn đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa. Và cuộc đời của ông đã biến đổi để trở thành tổ phụ của những kẻ tin. Căn bản của sự biến đổi nơi Apram là niềm tin và sự tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa để ông mạnh mẽ lên đường.
2. Bài Đọc II: Pl 3, 17-4,1
Đây là bức thư rất cảm động của thánh Phaolô. Trong nước mắt ông đã viết cho các tín hữu thành Philipphê, vì “có nhiều người đã sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô”. Thánh nhân nói rất rõ ràng: “Chúa họ thờ là cái bụng và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian”. Thánh nhân khóc là vì nghĩ đến chung cục cuộc đời của họ sẽ không được biến đổi mà sẽ bị trầm luân mãi mãi. Ngài nói cho họ biết: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta… Người có quyền năng biến đổi thân xác yếu hèn chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”. Vì vậy Ngài như năn nỉ họ: “Hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng”. Nghĩa là hãy đi vào sự hiệp thông với Đức Giêsu Kitô để được Ngài biến đổi.
3. Tin Mừng: Lc 9, 28b-36
Đức Giêsu đã cho các môn đệ thân tín của Ngài được nếm vinh quang của sự phục sinh trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Đang khi cầu nguyện, “dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Sự biến đổi này làm cho các môn đệ ngất ngây như người mất hồn đến mấy ngày trời. Đó cũng là căn bản niềm tin của chúng ta. Chúng ta bước theo Đức Giêsu Kitô để có được sự biến đổi bước vào sự sống mới, sự sống ngập tràn vinh quang của Thiên Chúa.
Chính vì điều đó mà chúng ta tin tưởng bước theo Đức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày. Thánh lễ mà chúng ta đang hiệp dâng đây cũng là sự biến đổi của bánh và rượu để trở thành thịt máu Đức Giêsu Kitô; Sự biến đổi của những con người phàm tục được “ăn bánh thiên thần”; và nhất là để bước ra khỏi nhà thờ này chúng ta được biến đổi để trở nên giống Chúa hơn.
II. BIẾN ĐỔI ĐỜI CON CHÚA ƠI !
Linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên đã viết bài thánh ca “biến đổi đời con” do kinh nghiệm được biến đổi và trong sự kết hiệp sâu xa với Chúa: “Biến đổi đời con Chúa ơi, khi con nghe lời Chúa dạy, khi con sum vầy bên Chúa, khi con từng ngày khát mong. Biến đổi đời con Chúa ơi, cho nên tươi mới rạng ngời, tình yêu nồng thắm không vơi, niềm tin chan chứa mọi nơi”.
Trong vài câu ngắn ngủi này tôi xin phép được chia sẻ vài điều để chính bản thân tôi và cũng là một sự gợi ý để nếu phù hợp với anh chị em, chúng ta cùng nhau thực hành để được biến đổi.
- “Khi con nghe lời Chúa dạy”
Căn bản của sự biến đổi chính là việc “nghe lời Chúa dạy”, nhưng không phải nghe bằng lỗ tai, mà nghe bằng con tim, bằng tâm hồn. Lời Chúa như một bức thư tình Thiên Chúa gởi đến cho nhân loại chúng ta. Vì vậy khi nghe lời Chúa chúng ta đừng nghe một cách qua loa, mà phải đặt tất cả tình yêu của mình vào đó, phải biết rằng bằng tất cả tình yêu Chúa muốn trao gởi đến chúng ta những sứ điệp của Ngài.
Khi hái lộc thánh đầu năm, không phải chúng ta tìm kiếm sự may rủi, nhưng chính là tình yêu của Chúa trao gởi đến chúng ta trong năm nay. Hãy cố gắng nhìn lên và đọc mỗi ngày để cảm nghiệm được lời Chúa muốn nhắn gởi đến chúng ta chứ đừng là nghi thức trong ngày đầu năm rồi thôi. Trong suốt năm nay, tôi sẽ cố gắng để luôn nhớ kêu xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi”.
- “Khi con sum vầy bên Chúa”
Yếu tố thứ hai của sự biến đổi chính là việc “sum vầy bên Chúa”. Năm Thánh Lòng Thương Xót, Giáo hội tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để “sum vầy bên Chúa”. Ví dụ những giờ đọc kinh Lòng Thương Xót, những giờ Chầu Thánh Thể, những giờ sám hối, xưng tội và Thánh Lễ tại các nhà thờ trạm hàng tháng, chương trình 24 giờ cho Chúa vào thứ Sáu đầu tháng 3 tới đây; trong Mùa Chay còn có những buổi chặng đàng Thánh giá vào mỗi Thứ Sáu…
Để có thể “sum vầy bên Chúa” đòi hỏi chúng ta phải biết gạt ra những bộn bề của cuộc sống, những lôi kéo của niềm vui khác, và nhất là sự lười biếng. Tôi sẽ cố gắng quý trọng những giờ phút này, và ước mong anh chị em cũng sẽ tìm được những giờ phút “sum vầy bên Chúa” để cuộc sống chúng ta được biến đổi.
- “Khi con từng ngày khát mong”
Yếu tố thứ 3 để được biến đổi là biết khát mong những giá trị cao đẹp từng ngày, từng giờ trong cuộc sống.
Mỗi ngày sống chúng ta nhìn lại mình có nhiều nỗi niềm, nhiều khao khát, nhiều ước muốn. Trong đó khao khát, ước muốn nhiều nhất là gì? Tiền bạc, quyền lực, những thú vui… Tất cả những điều đó Đức Giêsu đã bị ma quỷ cám dỗ trước khi bắt đầu thi hành sứ vụ của Ngài, nhưng Ngài đã chiến thắng nhớ biết hướng về Thiên Chúa Cha. Điều đó nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy biết loại ra khỏi cuộc đời những khao khát, những ước muốn tầm thường. Thay vào đó là những giá trị cao cả hơn.
Chúng ta hãy khao khát để sống có ích cho gia đình, xã hội và Giáo hội. Chúng ta hãy ước muốn dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa. Chúng ta hãy nghĩ đến những người nghèo khổ, bất hạnh đang sống chung quanh chúng ta… Với những khát mong như vậy, chắc chắn cuộc đời chúng ta sẽ được biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Xin biến đổi con!
.
NGƯỜI ĐƯỢC THÁNH THẦN DẪN ĐI TRONG HOANG ĐỊA
VÀ CHỊU QUỶ CÁM DỖ
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
SUY NIỆM:
“Cám dỗ” và “thử thách” là cùng một từ trong tiếng Hi lạp; tiếng Anh và tiếng Pháp cũng chỉ có một từ, to tempt, tenter. Trình thuật Tin Mừng kể lại những “cám dỗ”, vì đến từ ma quỉ. Nhưng cũng thể nói rằng, đó là “thử thách”, vì liên quan đến lòng tin mà Đức Giê-su đặt để nơi Thiên Chúa, chứ không phải là vấn đề luân lí hay giới tính. Theo St 3, thái độ nội tâm nghi ngờ Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ngay trong lòng của mình, mới là gốc của mọi tội.
Nhưng Thiên Chúa cũng “thử thách” con người ngay từ khởi đầu của ơn tạo dựng, đó là hình ảnh “trái cấm” (x. St 2, 16-17), tượng trưng cho tất cả những cái thiếu, nhất là cái thiếu “trung tâm”, những sự bất toàn nơi con người và nơi thế giới sáng tạo; vì thế, thân phận con người là một thử thách.
Nhưng, Thiên Chúa thử thách con người với mục đích khác hẳn, giống như trong sư phạm huấn luyện; thật vậy, Ngươi thử thách là để cho chúng ta lớn lên trong tương quan tình yêu và nhưng không với Chúa; còn Ma Quỉ, và những người hành động theo Ma Quỉ, ý thức hay không ý thức, thử thách người khác nhằm mục đích lên án; theo nghĩa này “thử thách” được gọi là “thử” hay “giăng bẫy”, như những người Pha-ri-sêu và luật sĩ hay làm để hại Đức Giê-su; và ở mọi thời, nhất là thời nay, người ta hay làm hại nhau theo kiểu này, và nhiều khi dưới bỏ bọc huấn luyện hay thử luyện .
Ngoài ra, loài người chúng ta cũng “chuyên môn” thử thách Chúa và thử thách nhau; trong trường hợp này, thử thách có nghĩa là: không tin, nên thử cho biết. Nhưng vì đã không tin, nên loài người chúng ta sẽ thử thách Chúa và thử thách nhau không cùng. Bởi lẽ, tin không phải đến từ biết, vì người ta không biết hết về Chúa và về nhau, nhưng đến từ quyết định tự do của con tim; tin là quà tặng của con tim (điều này được minh họa thật rõ trong tình yêu nam nữ). Trường hợp của người ghen tương là tiêu biểu: người này đòi biết mới tin, nhưng làm sao biết hết, để tin? Và khi nhận ra rằng, mình không thể biết hết, thì thay vì lựa chọn tin tưởng, người này lựa chọn không tin, nghi ngờ, và từ đó đưa ra những quyết định và hành động phá hủy.
Công trình của Thiên Chúa là con người tin vào Đấng Ngài sai đến. Tin là cả một công trình; chính vì thế, công trình của ma quỉ cũng phải là làm cho con người không tin, nghi ngờ; và không tin vào Thiên Chúa, sẽ tất yếu tin vào những điều khác, thuộc về ma quỉ và sự chết. Không tin nơi Thiên Chúa, thì người ta sẽ thuộc về sự chết, làm việc sự chết, bởi vì sự chết là mạnh nhất, có khả năng xí xóa tất cả, giải quyết mọi vấn đề, và nhất là làm cho mọi người đều có kết cục như nhau!
- Hoang địa
Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giê-su được nhìn nhận là Con Thiên Chúa; nhưng điều này không miễn cho Người khỏi chịu thử thách, do chính Thần Khí dẫn đưa. Như thế, Người muốn chia sẻ thân phận đầy thử thách của loài người chúng ta, và qua đó, chia sẻ chiến thắng thử thách cho chúng ta. Bởi vì cả loài người và từng người chúng ta, không ai đứng vững được trước thử thách và cám dỗ.
Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về.
Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. (c. 1-2)
Nhưng tại sao Thần Khí đưa Đức Giê-su vào sa mạc hay hoang địa, chứ không phải là nơi nào khác? Đó là vì, trong bối cảnh lịch sử cứu độ và nhất là khởi đi từ kinh nghiệm Xuất Hành và hành trình tiến về Đất Hứa của Israel, hoang địa là nơi Thiên Chúa dẫn con người vào để gặp gỡ Ngài ; và để gặp gỡ Thiên Chúa, con người phải bỏ lại tất cả phương tiện, công việc, những lo lắng, những ràng buộc, những ngẫu tượng hay thần tượng như tiền bạc, danh vọng, lạc thú, để được tự do và bình tâm. Như xưa kia, Dân Chúa đã phải bỏ lại “Ai Cập” và tất cả những gì thuộc về “Ai Cập” ở đàng sau; nhưng như chúng ta đều biết, điều này không dễ dàng, vì họ bỏ ra đi, nhưng trong lòng còn đầy quyến luyến.
Do đó, hoang địa còn là nơi của thử thách, nhất là thử thách về lòng tin. Thật vậy, hoang địa là nơi không nhiều lương thực hay nước uống, để con người chỉ sống bằng của ăn, của uống, như là ơn Chúa ban từng ngày, giống như em bé được mẹ nuôi nấng từng ngày ; hoang địa là nơi của thiếu thốn, đói khát, gian nan, đau khổ cùng cực ; vì vậy, trong những hoàn cảnh như thế, con người còn nhận ra sự hiện diện quan phòng của Chúa hay không, còn tín thác nơi tình yêu trung tín của Người hay không ? Như lời Thánh Vịnh diễn tả : « Tôi đã tin, cả khi mình đã nói : ôi nhục nhã ê chề ». Ngoài ra, hoang địa còn là nơi không có đường đi, để con người chỉ nhận Lời Chúa là « ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi » (Tv 119, 105).
Xin cho chúng ta cũng ước ao để cho Thánh Thần thúc đẩy, hướng dẫn và ban sức mạnh, để sống bốn mươi ngày của Mùa Chay Thánh như là thời gian sống trong « hoang địa », nghĩa là thời gian :
– Chúng ta được mời gọi từ bỏ ma quỉ và những gì thuộc về ma quỉ ; từ bỏ thái độ tôn vinh, tuyệt đối hóa những phương tiện chóng qua như tiền bạc, phương tiện, của cải ; từ bỏ những gì làm cho chúng ta trở nên nô lệ, mất tự do, như danh vọng, lạc thú.
– Chúng ta được mời gọi tín thác nơi tình yêu muôn ngàn đời của Chúa, được thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô, ngay trong những hoàn cảnh thử thách, thiếu thốn, bệnh tật, tai họa, đau khổ, thuộc về thân phận con người và số phận của mỗi người chúng ta.
– Và chúng ta được mời gọi lắng nghe Lời Chúa và sống bằng Lời Chúa. Bởi vì mọi sự sẽ qua đi, cho dù bây giờ rất quan trọng đối với chúng ta, và chỉ có Lời Chúa mới bền vững, mới là đường đi và ban sự sống hôm nay và mãi mãi.
2. Ba thử thách
Trong cả ba thử thách hay cám dỗ, quỉ nói một lời, Đức Giê-su đáp lại một lời. Và Ngài luôn luôn dựa vào Kinh Thánh, nghĩa là Lời Chúa:
Đã có lời chép rằng… (c. 4, 8 và 12)
Như thế, Lời Chúa là vũ khí tốt nhất để chiến đấu và chiến thắng ma quỉ, bất cứ thứ quỉ nào. Bởi vì, tên quỉ đến thử thách Đức Giê-su, phải là thứ quỉ cao cấp nhất và hùng mạnh nhất.
a). Thử thách thứ nhất
Thử thách thứ nhất liên quan đến nhu cầu căn bản nhất của con người, và cũng là của mọi sinh vật, đó là nhu cầu ăn uống:
Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi! ” (c. 3)
Hơn nữa, Ngài đang rất đói bụng, vì “trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả” (c. 2). Trong sa mạc, dân Do Thái cũng bị thử thách về ăn uống (x. Ds 21, 4-5). Nhu cầu ăn uống tượng trưng cho mọi nhu cầu của con người: tiền bạc, của cải, phương tiện đi lại, truyền thông, giải trí đủ loại, nhà ở, việc học, việc làm… Ngày nay, con người có biết bao nhiêu là nhu cầu, càng ngày càng nhiều: nhu cầu thúc đẩy sản xuất, sản xuất tạo ra nhu cầu. Vòng xoáy này là không cùng và đang gây tác hại cho sự sống: sự sống thiên nhiên và sự sống của con người, cả ở bình diện thể lý lẫn nhân bản và nhân linh. Đức Giê-su đáp lại bằng cách trích dẫn Kinh Thánh:
Nhưng Đức Giê-su đáp lại: « Đã có lời chép rằng:
Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. »
(c. 4; Đnl 8, 3)
Và Sách Đệ Nhị Luật còn viết thêm: « nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng ĐỨC CHÚA phán ra ». “Bánh” tượng trưng cho mọi nhu cầu. Lời Chúa là Lời thốt ra từng miệng Thiên Chúa; nhưng Lời này lại được lắng nghe ngang qua rất nhiều trung gian: sáng tạo, lịch sử, cuộc đời, cuộc sống và nhất là Sách Thánh; Lời Chúa cũng tác tạo và cư ngụ trong mọi tương quan tin tưởng, yêu thương, chia sẻ, bao dung, cảm thông, tha thứ, đón nhận. Vì đó là những tương quan làm phát sinh sự sống và nuôi dưỡng sự sống, sự sống ở mức độ căn bản nhất; bởi vì, nếu không, người ta sẽ sẵn sàng hủy diệt sự sống nhân linh ngay từ trong trứng nước.
Lời Chúa là Lời ban sự sống, sự sống hằng ngày và sự sống muôn đời của chúng ta. Chính vì thế, “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng ĐỨC CHÚA phán ra ».
b). Thử thách thứ hai
Để làm bá chủ thế giới cùng với vinh hoa lợi lộc, chỉ có một cách duy nhất mà thôi, đó là bái lạy ma quỉ:
Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” (c. 6-7)
Điều này có nghĩa là, phải làm tay sai cho sự dữ, hành động theo sự dữ, đồng hóa mình với sự dữ. Lịch sử loài người chứng minh điều này, không chỉ đối với các quốc gia, mà cả với Giáo Hội, nếu quan niệm như một siêu cường quốc, một quốc gia hoàn hảo, làm bá chủ thế giới. Khi đó, tất yếu sẽ có thánh chiến, thanh lọc đức tin, toàn án, lưu đày, hỏa thiêu, lên án các dân ngoại và các tôn giáo, tranh dành ranh giới… Để đối lại, Đức Giê-su trích dẫn Lời Thiên Chúa, đã được cô đọng thành giới răn:
Đã có lời chép rằng: « Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi. » (c. 8)
Đây không chỉ là nghi thức phụng tự, nhưng là cả một cuộc sống, ngang qua những tương quan, các lựa chọn cụ thể và cách sử dụng “những sự khác” khởi đi và hướng tới việc “ca tụng, tôn kính và phụng sự” Chúa. Đức Giê-su nói điều Ngài sống và Người sẽ sống đến cùng trên đồi Can-vê, lựa chọn “thờ phương một mình Thiên Chúa”.
c). Thử thách thứ ba
Trong lời của quỉ có một mâu thuẫn nghiêm trọng: là Con Thiên Chúa, nhưng lại muốn thử thách Thiên Chúa ! Đó là, tự đặt mình trong tình trạng nguy hiểm, để buộc Thiên Chúa phải ra tay, để biết, nghĩa là kiểm chứng Thiên Chúa có thương mình thật không!
Trong Kinh Thánh, câu nói “thử thách Thiên Chúa” mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là không tin Thiên Chúa. Đó là lựa chọn của Ông Bà Nguyên Tổ (x. St 3, 1-7), của Dân Chúa trong sa mạc (x. Ds 14, 22: thử thách 10 lần; Tv 106, 14), của các vị lãnh đạo dân Do Thái đòi Đức Giê-su xuống khỏi thập giá, của những người không tin thuộc mọi thời, của những lúc chúng ta nghi ngờ Thiên Chúa.
Bằng đó dữ kiện, đủ để chúng ta rút ra kết luận: yếu tính của Tội Nguyên Tổ là không tin nơi Thiên Chúa, không tín thác nơi Ngài trong thiếu thốn, gian nan thử thách của thân phận con người. Hành vi vi phạm giới răn chỉ là hệ quả của một thái độ nội tâm.
- “Quỉ bỏ đi”
Quỉ bỏ đi, và theo thánh sử Mát-thêu, có các sứ thần tiến đến phục vụ Đức Giê-su (x. Mt 4, 11). Như thế, chính khi chiến thắng ma quỉ, Đức Giê-su thuộc về Thiên Chúa. Và điều này đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua rồi:
– Không làm phép lạ để thỏa mãn nhu cầu.
– Không thờ lạy ma quỉ, những gì thuộc về ma quỉ; nghĩa là không sống theo ma quỉ, theo năng động tội lỗi, bạo lực, sự dữ, sự chết, gian dối, ghen tị, nghi ngờ, ham muốn.
– Không thử thách Thiên Chúa.
Đó là con đường dẫn đến cái chết! Nhưng đó không phải là ngõ cụt, nhưng là con đường dẫn đến sự sống mới đến từ Thiên Chúa. Thực vậy, Đức Giê-su nhịn ăn bốn mươi ngày, không làm phép lạ là chết; vì thế, nếu có sống, thì Ngài sống sự sống mới, đến từ trời cao, được diễn tả bởi sự hiện diện của các thiên sứ.
Trong Mùa Chay, xin cho chúng ta biết đón nhận và sống với tâm tình tạ ơn và ca tụng, sự công chính Người trao ban cho chúng ta cách nhưng không, như thánh Phao-lô xác tín: “Nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5, 19), để chúng ta sống sự sống mới của Người ngay hôm nay, và ước ao hiểu biết, yêu mến và đi theo Người hơn trong đời sống hàng ngày và trong hành trình làm người hướng về Quê Trời của chúng ta.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Bình thường ít ai suy nghĩ về cuộc đời. Nhưng khi đối diện với đau khổ, ta mới suy nghĩ nhiều. Tôi cũng không là trường hợp ngoại lệ.
Có những lúc, đau khổ như vùi dập đời mình, tôi tự hỏi như bao nhiêu người đã từng thắc mắc: Đời là gì? Tự tìm cho mình câu trả lời, tôi chỉ nhận ra, hình như cuộc đời con người là những bước đi trong một cánh rừng dày đặc, đen tối, không lần ra nổi một lối đi, dẫu chỉ là một lối mòn. Điều mà bản thân suy nghĩ, Pascal cũng đã từng nghĩ như thế.
Cứ cho là tôi bi quan, nhưng chắc cũng không sai. Nhất là những lúc mà đau khổ trong cuộc đời như muốn đè bẹp thân phận mình, như muốn nhận chìm tất cả tương lai của mình. Lúc đó mình cố tìm cách để xoay sở, để bớt khổ tâm hơn, thì có khi lại càng bí lối. Đau khổ không những không giảm mà còn như bám chặt hơn. Những lúc đó, cuộc đời đúng là một cánh rừng đen tối.
Nếu tuần rồi, Chúa nhật I mùa Chay, dựa vào Lời Chúa, chúng ta đề nghị nhau hãy dùng nghị lực, dùng ý chí để thắng chước cám dỗ, để không phạm tội. Hoặc nếu vì yếu lòng, đã lỡ lầm, sa ngã, cũng hãy dùng ý chí, nghị lực đứng lên, trở về với Chúa.
Nghị lực và ý chí để vượt thắng ấy, chính là do chúng ta noi gương Chúa Kitô, sống Lời Thiên Chúa mà có được.
Tuần này, bạn và tôi tiếp tục sống nghị lực và ý chí để giữ vững đức tin trong cuộc đời của mình, dẫu cho đức tin đó có phải chịu thanh luyện trong đau khổ cách mấy đi nữa.
Cũng vẫn là một công thức không thể thiếu: để có nghị lực, để có ý chí giúp mình vượt lên trên đầu sóng ngọn gió của cuộc đời, cách duy nhất chúng ta cần làm, và cần ưu tiên trước hết, chỉ có thể là dựa vào chính Lời Thiên Chúa đã dạy, nhằm trui rèn nghị lực và ý chí cho đời sống đức tin của mình.
Thánh Kinh có nhiều tấm gương về đức tin cho ta noi theo. Trong số những tấm gương ấy, hình ảnh Tổ phụ Abraham, mà hôm nay Hội Thánh đề nghị con cái mình suy niệm trong bài đọc I, là tấm gương nổi bậc.
Một ngày nọ, Tổ phụ Abraham được Chúa kêu gọi: “Hãy bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi đến đất Ta sẽ chỉ cho” (St 12, 1). Thế là Tổ phụ ra đi. Đi trong mịt mù. Đi trong tăm tối. Đi mà chẳng biết mình đi đâu.
Suốt đời Tổ phụ mơ ước có một đứa con nối dõi tông đường, vậy mà cũng chẳng có. Đến khi ông cả trăm tuổi, vợ ông cũng cao niên chẳng kém gì, Thiên Chúa mới hứa ban cho ông một đứa con. Một lời hứa như thế thật khó chấp nhận làm sao. Thế nhưng Tổ phụ Abraham vẫn tin.
Đến khi đứa con trai duy nhất của ông, đứa con thừa tự, đứa con của lời hứa, đứa con ngọc, đứa con ngà đã lớn khôn, Thiên Chúa lại đòi ông đem đứa con đó đi sát tế cho Người. Có tội ác nào lớn cho bằng tội của một người cha giết con. Có còn lời dạy nào khủng khiếp cho bằng dạy một người cha giết chính đứa con là máu, là mủ, hơn nữa là cả cuộc sống của người cha già nua đã từng rút ruột mình sinh ra. Và còn đâu là một Thiên Chúa yêu thương, một Thiên Chúa gần gũi với con người, hay chỉ là một Thiên Chúa tàn nhẫn và say máu cho đến độ đòi một người cha phải thủ tiêu con của ông làm của lễ tế hiến cho mình. Đúng là một Thiên Chúa độc ác, không còn gì độc ác hơn!
Càng suy nghĩ như thế về hình ảnh của Thiên Chúa bao nhiêu, ta càng thấy đức tin của Tổ phụ Abraham lớn bấy nhiêu. Cứ bắt đầu bằng tình cảm con người, ta suy diễn, sẽ thấy, chắc tâm hồn ông chao đảo lắm, lương tâm ông giày vò lắm, cuộc sống của ông chắc mất bình an lắm.
Có lẽ nước mắt đã tràn ngập, đã dàn dụa tâm hồn ông. Và có lẽ giọt nước mắt ấy rất âm thầm, vì ông không thể để lộ cho con mình biết được. Làm sao dám cho con biết khi chính ông sẽ giết chết con! Mà tiếng khóc càng âm thầm, tiếng nấc càng nghẹn ứ, nước mắt càng chảy ngược vào hồn nhiều bao nhiêu, thì nỗi đau càng dằn xé, càng tê tái, càng buốt giá bấy nhiêu. Nhất là mỗi khi ông nhìn đôi bàn tay của mình. Ngày nào đôi tay ấy bồng ẳm con, nâng niu con, bây giờ cũng chính đôi tay ấy sẽ thủ tiêu con. Là cha, là mẹ như bao người cha, người mẹ khác, Tổ phụ Abraham se thắt lòng mình.
Trước nỗi đau đớn khó diễn tả thành lời ấy, Tổ phụ đã vượt qua. Trước lòng tin vững như đá, rắn như thép của ông, Thiên Chúa đã trả lại cho ông đức con duy nhất đó. Ngay chính lúc ông giơ dao sát tế con mình, thiên thần Chúa đã đưa tay đỡ lấy lưỡi dao ấy. Ông xứng đáng được Thánh Kinh gọi là Cha của những kẻ tin. Chính đức tin đã nắn đúc ông thành một con người ngị lực và ý chí vô cùng. Và trong đức tin ấy, hôm nay chính chúng ta, đông lắm, đông như sao trên trời, như cát ngoài biển, là miêu duệ của ông…
Các môn đệ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng vậy. Bài Tin mừng hôm nay kể rằng, các môn đệ hạnh phúc nhìn ngắm vinh quang khi Chúa biến hình trên núi một cách say mê, như chiêm bao. Những tưởng hạnh phúc ấy kéo dài, để còn cất lều, dựng nhà mà chiếm hạnh phúc ấy chứ! Nào ngờ đó chỉ là một ánh chớp chợt lóe lên rồi lịm tắt, trả các môn đệ lại với đời thường.
Dẫu vậy, vẫn chưa thể ở yên trong đời thường ấy. Vinh quang núi cao chấm dứt, thay vào đó là vường Giêtsêmani. Ở đó các môn đệ chứng kiến Thầy của mình hấp hối, sợ hãi trước cái chết, đến nỗi toát mồ hôi pha trong máu.
Các ông sẽ còn chứng kiến cảnh tượng sỉ nhục không gì sỉ nhục bằng, một cảnh tượng làm đau không chỉ thể xác, nhưng nỗi đau ấy xé nát tinh thần: bị lột sạch cho đến trần trụi, không đơn thuần là mảnh áo mà còn là nhân vị con người; cuối cùng dang tay chịu treo giữa trời giữa đất, giữa muôn tiếng sĩ vả, nguyền rủa, để rồi gục đầu chết tức tưởi. Điều còn lại chỉ là thất bại và ê chề.
Đức tin của các môn đệ bị thách thức quá lớn. Theo Thầy là để được cái gì, đàng này mất tất cả. Chính Thầy lại là người mất mạng sống trước tiên. Có còn gì thua thiệt cho bằng để mà nói, để mà có thể so sánh!
Có một điều hết sức quan trọng, chính trong tăm tối của đức tin, các môn đệ biết Thầy của mình đã sống lại. Chính các ngài đã vượt qua nỗi đau cuộc đời, vượt qua sự tăm tối của bất hạnh để đặt nền mống cho Hội Thánh khắp nơi trên thế giới này. Mãi cho đến nay, dẫu đâu đó, vẫn còn bị bách hại cách này, cách khác, Hội Thánh vẫn đang trải rộng và phát triển.
Tôi nghĩ, cũng như Tổ phụ Abraham, đó là nghị lực, là ý chí của các môn đệ. Còn bạn và tôi thì sao? Chúng ta cũng quá dư kinh nghiệm về nỗi đau trong cuộc đời của mình. Có lẽ phần nào đã nắn đúc nên nghị lực và ý chí của chúng ta?
Đau khổ là một sự thật trong cuộc đời. Nó cũng là một cú đấm thẳng vào đức tin của người tin vào Chúa. một cú đấm không khoang nhượng, đấm mạnh. Chính thực tế chứng minh điều đó. Thực tế cho thấy rất nhiều người đã không thể vượt qua nỗi khổ đau, đã thua buồn, đã đánh mất đức tin, đã ngã lòng trông cậy vào Chúa.
Có người còn lên tiếng oán trách Thiên Chúa: Tại sao tôi thờ Chúa, mà Chúa lại để tôi ra nông nổi này? Chúa ở đâu? Chúa có thương tôi không? Có Chúa thật không? Nếu Chúa có thật, nếu Chúa thương tôi, vậy tại sao con tôi, chồng tôi, vợ tôi, gia đình tôi, bản thân tôi… lại phải chịu cảnh bi thương này. Thực tế đã có nhiều người không thể vượt qua, đã đánh mất đức tin. Bởi thế, ở khía cạnh này, tôi dám nói, đau khổ là một cú đấm thẳng vào đức tin của những ai tin Chúa.
Bạn ạ, tôi cũng như bạn: là người Công giáo chính hiệu. Dù là người Công giáo, cũng như mọi người sống trong cuộc đời này: có đau khổ và hạnh phúc. Rất có thể đau khổ triền miên, còn hạnh phúc lại chỉ như một ánh chớp lóe lên, rồi lịm tắt, để lại một cuộc đời tăm tối mênh mông. Lúc đó đức tin của mình bị thử thách nặng nề nhất. Vậy ta phải làm gì để giữ đức tin? Hãy nhìn vào mẫu gương Tổ phụ Abraham và các môn đệ của Chúa Giêsu, nhờ đó thêm nghị lực và ý chí mà sống đời sống đức tin của mình.
Tổ phụ Abraham đã đi trong đêm đen dày đặc, các môn đệ đã vác thập giá với Thầy chí thánh. Chính Thầy cũng đã chết ô nhục trên thánh giá. Cuộc đời của mỗi con người cũng giống y như thế: Biết bao nhiêu cạm bẫy đe dọa. Nhưng đạo Công giáo không chỉ có thập giá. Sau thập giá sẽ là phục sinh vinh quang. Biến cố Chúa biến hình trên núi, dẫu thoáng qua, nhưng là hy vọng của chúng ta.
Nếu các môn đệ ngày xưa, được Chúa cho thoáng thấy vinh quang núi cao, để chắp cánh, dẫu chỉ là một đôi cánh mỏng, cho niềm hy vọng phục sinh của mình, thì biến cố ấy rất nhiều lần lặp lại trong cuộc đời ta, qua những giây phút hạnh phúc, vui cười… Ta hãy xem đó là niềm hy vọng, giúp bản thân ngã mình vào bàn tay Thiên Chúa để mà tin, để mà hy vọng, và dâng hiến lòng mến của mình.
Xin cho chúng ta tràn đầy nghị lực và ý chí để luôn tin tưởng vào Chúa. Xin cho chúng ta vững tin rằng, sau thập giá sẽ là phục sinh, sau cuộc đời đầy long đong, sẽ là hạnh phúc miên trường.
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 9,28b-36
(28b) Hôm ấy Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. (29) Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. (30) Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. (31) Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc Xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (32) Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. (33) Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Êlia, và một cái cho ông Môsê”. Ông không biết mình đang nói gì. (34) Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. (35) Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” (36) Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh. Và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
- Ý CHÍNH: HIỂN DUNG TRƯỚC MẶT MÔN ĐỆ
Cuộc hiển dung của Đức Giêsu xảy ra vào khỏang tám ngày sau khi Người tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua. Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được theo Đức Giêsu lên núi (x. Lc 9,28). Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác: y phục nên trắng tinh chói lòa (c.29), có Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Người về “cuộc Xuất hành” mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c.31). Phêrô đã xin Thầy cho dựng lều (c.33). Rồi có đám mây bao phủ các ông, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người” (c.34-35). Sau cuộc biến hình, các môn đệ đã “nín thinh, không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã chứng kiến” (c.36).
- CHÚ THÍCH:
– C 28b-29: + Đức Giêsu lên núi: Đây có thể là núi Hermon, cao 2.795 mét ở gần thành Xêdarê Philíp. Nhưng ngày nay đa số các nhà chú giải cho núi đó là Thabo, cao 562 mét, cách thành Xêdarê Philíp một đoạn đường, đi bộ mất từ 6 đến 8 ngày. + Cầu nguyện: Tin mừng Luca đã ghi lại nhiều lần Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 10,21 ; 22,41-42 ; 33,34.46). + Đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê: Đây là ba môn đệ thân tín nhất, sau này ba ông cũng sẽ được chứng kiến giờ đau khổ tột cùng của Thầy trong vườn Cây dầu trước khi bị bắt (x. Mt 26,37). Vì thế hôm nay Đức Giêsu cho các ông thấy trước vinh quang của Người, hầu có thể vượt qua thử thách ấy.
– C 30-31: + Ông Môsê và ông Êlia: Môsê là một vị mục tử tài ba, sống vào thế kỷ XII trước Công nguyên. Ông có công cứu con cháu Giacóp thóat ách nô lệ cho dân Ai cập, biến dòng tộc Giacóp trở thành một dân tộc có luật pháp, tôn giáo và quân đội… Cuối cùng Môsê đã thành công trong việc đưa dân tộc Ítraen về tới hứa địa là xứ Canaan. Môsê là tiền ảnh của Đức Giêsu sau này.- Êlia: là một ngôn sứ sống vào thế kỷ IX trước Công nguyên vào thời các Vua. Ông có công chấn hưng tôn giáo, giải thóat dân Ítraen khỏi sự tôn thờ thần tượng của dân ngoại. Ông là tiền ảnh của Gioan Tiền sứ, có sứ vụ đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai sau này (x Ga 1,21; Mc 9,11).- Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển: Vì được tham phần vào công trình cứu độ, nên Môsê và Êlia cũng được tham phần vào vinh quang của Đức Giêsu.- Nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem: Cuộc “Xuất hành” của Đức Giêsu gồm mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, sắp được Người hoàn tất tại Giêrusalem.
– C 32-33: + Ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt: Sự kiện các môn đệ ngủ mê cho thấy cuộc biến hình xảy ra vào ban đêm. Sự kiện này tương tự như sau này, ba ông cũng ngủ mê khi Đức Giêsu cầu nguyện trước khi bị bắt trong vườn cây Dầu (x Mt 26,40.43.45). + Chúng con xin dựng ba cái lều: một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia: Câu này cho thấy khi ấy người Do thái đang mừng lễ Lều trại tại Giêrusalem (x. Lv 23,33-34 ; Ds 29,12-38).
– C 34-36: + Có một đám mây bao phủ các ông: Nhắc lại đám mây bao phủ dân Ítraen trong thời kỳ Xuất hành (x. Xh 40,35). Khi truyền tin, sứ thần cũng đề cập tới quyền năng Thiên Chúa sẽ bang trợ cho Maria như sau: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). + “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn”: Chúa Cha từ trong đám mây xác nhận Đức Giêsu là Con, và là “Người Tôi trung được Thiên Chúa tuyển chọn” (x. Is 49,7). Trong cuộc khổ nạn, các thủ lãnh Do thái cũng nói rằng: “Nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Người được tuyển chọn” (Lc 23,35). + “Hãy vâng nghe lời Người!”: Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể (x. Ga 1,14). Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho loài người (x. Ga 3,34) và Lời Người cần phải được đón nhận. + Tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Cuộc hiển dung chấm dứt sau lời tuyên phán của Chúa Cha. Các môn đệ im lặng, chờ ngày các mặc khải kia được ứng nghiệm.
4. CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu đã biến hình trên núi cao là núi nào ? 2) Tại sao Đức Giêsu cho ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến việc biến hình vinh quang của Người ? 3) Hai nhân vật nào của Cựu ước đã hiện ra khi Đức Giêsu hiển dung và ba vị đã nói chuyện nội dung về vấn đề gì ? 4) Cuộc biến hình xảy ra vào ban ngày hay ban đêm ? Bằng chứng ? 5) Đám mây bao phủ ba môn đệ nói lên điều gì ? 6) Chúa Cha đã giới thiệu Đức Giêsu là ai ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác” (Lc 9,29)
- CÂU CHUYỆN:
1) ĐƯỢC ƠN BIẾN ĐỔI LÀ BẰNG CHỨNG CỦA MỘT ĐỨC TIN THỰC SỰ:
Tân là một thanh niên chuyên bán thịt bò tại một cửa hàng thịt trong chợ AĐ. Anh nổi tiếng là người bán hàng gian dối khi thỉnh thoảng lại bán thịt heo giả làm thịt bò và còn thường hay cân thiếu cho khách hàng. Một ngày nọ, có người thấy anh theo học khóa giáo lý dự tòng để chuẩn bị kết hôn với một cô gái công giáo và sáu tháng sau anh đã được lãnh ba bí tích khai tâm gia nhập đạo. Nghe tin anh theo đạo, nhiều người quen biết tỏ vẻ không tin vì cho rằng anh chỉ giả bộ theo đạo để lấy vợ như câu người đời thường mỉa mai: “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ !”. Nhưng sau nhiều ngày thấy anh cùng vợ thường xuyên dự lễ Chúa Nhật và tỏ ra vui vẻ thân thiện với mọi người, nhất là sau khi kiểm tra thấy việc buôn bán của anh không còn cảnh cân thiếu hay lừa đảo như trước thì họ mới tin anh thực tâm tin theo Chúa.
Lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7,15-20).
2) ĐƯỢC ƠN CHỮA LÀNH NHỜ CÂY THÁNH GIÁ:
Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Salêsiên ở Cáp bên nước Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc PÊRIKHÊT làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà nguyện mới của nhà dòng. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhết lại mới bị phát hiện mắc bệnh ung thư. Viên bác sĩ riêng của nhà điêu khắc, cũng có mặt khi các nữ tu đến nhờ cậy, đã nói với các nữ tu như sau: “Thật tốt biết bao nếu các chị đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi”. Sau đó, viên bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc: “Là một tín hữu, ông hãy cứ cậy trông vào Chúa, cho dù thực tế có xảy ra điều gì bất lợi đi nữa”.
Nhưng từ khi biết mình bị ung thư, nhà điêu khắc Pêrikhêt trở nên chán nản, chẳng còn thiết thực hiện thêm bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào nữa nên từ chối. Ít ngày sau, một nữ tu lại đến gặp Pêrikhêt và năn nỉ ông: “Này ông Pêrikhêt. Các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp ước mong ông làm cho nhà dòng một cây thánh giá dài hai mét thật đẹp như ông đã làm. Họ rất ngưỡng mộ tài năng tuyệt vời của ông! Trước khi có câu trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông thêm một lần nữa”. Bấy giờ nhà điêu khắc im lặng suy nghĩ trong giây lát rồi bình thản nói: “Tôi quyết định nhận lời làm cho nhà dòng. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng của đời tôi trước khi nhắm mắt. Cầu Chúa dủ lòng thương xót linh hồn tôi”.
Thế là từ hôm ấy nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả nhiệt tâm của một người mong hoàn thành tác phẩm để sớm gặp được gặp Chúa. Công việc dĩ nhiên nặng nề khó khăn hơn do bệnh ung thư gây ra. Nhưng có điều lạ là mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho nhà điêu khắc bị mệt mỏi, lại làm cho ông thêm phấn chấn và sức khỏe tốt hơn. Ông tiếp tục làm việc ngày đêm cho chóng hoàn thành. Sau khi hoàn thành công việc thì nhà điêu khắc cũng hoàn toàn được bình phục. Ông đã được ơn Chúa biến đổi là được chữa lành khỏi căn bệnh ung thư quái ác đã bị mắc phải trước đó. Ngày nay, cây thánh giá do Pêrikhêt thực hiện vẫn còn treo trên gian thánh nhà thờ thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu đến kính viếng. Mọi người đến đây đều cảm thấy như được gia tăng sức khỏe khi cầu nguyện trước cây thánh giá kỳ diệu này.
Thánh Phaolô cũng khẳng định về ơn chữa lành kỳ diệu này như sau: “Đức Giêsu có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21).
3) MỘT CUỘC HOÁN CẢI LẠ LÙNG
Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SITA ĐÊLI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sỉn đánh lộn làm mất an ninh trật tự xã hội. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố: “Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng có kết quả. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án cho anh. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm”.
Sau khi vào nhà tù, Đêli vẫn tỏ thái độ ngoan cố và còn coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường hay đánh đập các bạn tù và phản đối lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một căn hầm tối dơ bẩn đầy gián hôi và lũ chuột cống… Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đêli nghe có tiếng nói như sau: “Hỡi Đêli, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức khỏe để phục vụ mà cứ tiếp tục làm điều ác chống lại kẻ khác như thế? ”… Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đêli nhiều phen suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đêli đã gặp được Đức Giêsu trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời anh từ khi mười hai tuổi. Cũng từ đây, hình ảnh của Đức Giêsu thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng khi còn bé: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”, “Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi”… Anh cảm thấy tâm hồn được bình an mà từ trước đến nay chưa khi nào được hưởng. Rồi khuôn mặt của những kẻ đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã mở miệng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).
Cảm nghiệm ấy đã biến Đêli từ một người hung ác gian tham và thù hận, trở thành một người đầy độ lượng nhân ái! Sự biến đổi nội tâm khiến Đêli không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận ra có sự thay đổi rõ rệt xảy ra nơi anh, họ cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án tù từ mười xuống còn 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào “Nhóm cải thiện chế độ lao tù”. Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đêli đi thăm và động viên các tù nhân còn bị giam và khuyên họ hãy học tập cải tạo tốt. Nhờ đó nhiều bạn tù đã sớm được về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pitơ Mácsôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải của Đêli như sau: “Đây là một bằng chứng sống động cho thấy: Sita Đêli không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!”.
- THẢO LUẬN: Cầu nguyện, ăn chay và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo là 3 việc làm tốt trong mùa Chay này để được ơn biến đổi nên tốt. Vậy trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm ba việc đó thế nào?
- SUY NIỆM:
1) Hai cuộc biến hình trong thời gian giảng đạo của Đức Giêsu:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã hiển dung trước mắt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi cao (x. Lc 9,28b-29). Về sau cũng ba ông này sẽ được chứng kiến Đức Giêsu thay đổi hình dạng tại Vườn Dầu vào đêm trước cuộc khổ nạn (x. Mc 14,33). Ở trên núi cao hôm nay, Đức Giêsu hiển dung nên vinh hiển và được Chúa Cha xác nhận là Con yêu được tuyển chọn. Ba môn đệ đã được chứng kiến Đức Giêsu hiển dung, sau này sẽ còn được chứng kiến giờ phút Người buồn sầu xao xuyến tại vườn Cây Dầu như Người đã tâm sự với các ông: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến chết được” (Mc 14,34).
2) Ý nghĩa của hai cuộc biến hình của Đức Giêsu:
– Đức Giêsu hiển dung trên núi cho thấy thân xác loài người chúng ta sau này cũng sẽ được biến đổi trở nên vinh quang sáng láng, cho dù hiện tại thân xác ấy xem ra mỏng dòn yếu đuối. Rồi khi chịu chết đau thương trên cây thập giá, toàn thân Đức Giêsu đã bị biến dạng đầy những vết thương bầm dập do bị quân lính đánh đập hành hạ trong cuộc thương khó, nhưng khi phục sinh thì thân xác của Người lại trở nên tốt đẹp đến nỗi các người thân cận vẫn không nhận ra Người vào sáng ngày Phục Sinh (x. Ga 20,14-16) hoặc khi hiện ra đàm đạo với hai môn đệ ở làng Emmau (x. Lc 24,14-16).
– Đức Giêsu sau Phục Sinh và Đức Giêsu trước cuộc tử nạn vẫn là một, nhưng mang hai khuôn mặt khác nhau. Điều này cho thấy: Thân xác con người ở nơi trần gian và sau khi được sống lại trong ngày Tận Thế tuy là một, nhưng vẫn có sự khác biệt với nhau, như thánh Phaolô đã diễn tả trong thư I Côrinthô : “Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi. Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử (1 Cr 15,51-53).
3) Bài học từ cuộc biến hình của Đức Giêsu:
– Qua cuộc biến hình trên núi cao, Đức Giêsu muốn tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy khía cạnh sáng láng vinh hiển của Người để chuẩn bị cho các ông khi phải đón nhận khía cạnh đen tối của Người khi khởi đầu cuộc khổ nạn tại vườn Cây Dầu. Đây cũng là bài học cho chúng ta trong cuộc sống tương quan với tha nhân:
+ Một tội nhân dù có phạm tội xấu xa đến đâu cũng vẫn có những điểm sáng trong tâm hồn là những tính tốt. Khi đối diện với một tội nhân, cần tránh chỉ nhìn những tội lỗi xấu xa của họ để kết án, mà cần nhìn cả những ưu điểm tốt đẹp của họ để cảm thông và giúp họ hoán cải. Cụ thể: Thánh nữ Maria Mácđala hoặc thánh giám mục Augúttinô đã chẳng trải qua cuộc biến đổi nên thánh từ một quá khứ tội lỗi bất xứng đó sao ?
+ Các cuộc biến đổi kỳ diệu từ xấu nên tốt đều do ơn Chúa Thánh Thần tác động nhờ lời cầu nguyện và sự vâng nghe Lời Chúa của những người trong cuộc:
* Nhờ ơn Chúa ban qua lời cầu nguyện: Cũng như Đức Giêsu đã thay hình đổi dạng khi đang cầu nguyện, thì các thánh nhân cũng được biến đổi nên con người mới, khi các ngài ý thức về thân phận tội lỗi của mình và cầu xin Chúa trợ giúp. Người tín hữu chúng ta cũng chỉ được biến đổi nên tốt lành thánh thiện khi cậy nhờ vào ơn Chúa như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ sau Tiệc Ly: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5).
* Nhờ sự vâng nghe và thực hành Lời Chúa: Trong cuộc hiển dung, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu được tuyển chọn, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Chính Lời Chúa như thanh gươm sắc đã tỉa sạch các thói hư nơi con người cũ của các môn đệ và biến các ông trở nên tạo vật mới của Thiên Chúa (x. Ga 15,2).
4) Chúng tôi phải làm gì? :
Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa để được biến hình.
Sám hối đích thực là điều kiện dẫn tới nếp sống chiếu sáng trước mặt người đời. Chúng ta cần tham dự các tuần tĩnh tâm Mùa Chay để tỏ lòng ăn năn sám hối tội lỗi.
Chiếu sáng qua việc âm thầm cầu nguyện, qua lối sống hãm mình chay tịnh và qua hành động quảng đại chia sẻ cơm bánh với tha nhân.
Cụ thể trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này, mỗi người chúng ta cần thể hiện tình thương thế nào đối với những người đang bị đau khổ bệnh tật và các tội nhân đang lạc xa Chúa?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin biến đổi con nhờ sự suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện hằng ngày:
Xin biến đổi cái nhìn của con nên nhân từ hơn sau mỗi lần con chiêm ngắm Chúa;
Xin thanh tẩy môi miệng con sau mỗi lần con lên rước Chúa vào lòng;
Xin biến đổi đôi tai con sau mỗi lần con lắng nghe lời Chúa phán;
Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời ánh sáng tin yêu mỗi lần con gặp được Chúa.
Ước gì mọi người chung quanh nhìn thấy niềm vui của Chúa qua nụ cười rạng rỡ của con; Thấy sự ân cần dịu dàng của Chúa qua lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con.
– LẠY CHÚA. Xin giúp con biết bỏ đi “cái Tôi” ích kỷ tự mãn và các thói hư gọi là mối tội đầu. Xin cho con sẵn sàng vác thập giá mình hằng ngày là các việc bổn phận, các đau khổ bệnh tật hay các điều cực lòng do người chung quanh gây ra… mà theo chân Chúa giữa đời thường. Nhờ đó hy vọng con sẽ được ơn biến đổi ngày một nên giống Chúa giàu lòng từ bi thương xót hơn, nhất là trong những ngày Mùa Chay Thánh này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Joseph Nguyen
Đức Giê-su, Ngài có thay đổi không? Thưa không, trước sau như một, Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa từ khởi đầu (Alpha) và đến tận cùng (Omega) không có tính bất nhất như con người; không có thay lòng đổi dạ; không có mai thế này mốt thế nọ; không có phán ra rồi lại rút lời, không có hối tiếc vì những gì Người đã sáng tạo…
Đức Giê-su có sáng chói thì không phải ở nơi Ngài có biến đổi mà là biến đổi nơi con mắt loài người. Đức Giê-su từ khởi đầu vẫn thế, vẫn “trắng tinh chói loà”, có điều con mắt chúng tôi mù lòa chẳng thấy gì nên cuộc sống của chúng tôi với Ngài mới ra ỡm ờ như vậy đấy.
– Người Do thái trước đây vì “mù loà” nên chỉ nhìn thấy Đức Giê-su như một con người bình thường “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” Và họ vấp ngã vì Người” (Mt 13,55-57)
“Tiểu vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói: “Đó là ông Gio-an từ cõi chết chỗi dậy.” Kẻ khác nói: “Ông Ê-li-a xuất hiện đấy!” Kẻ khác nữa lại nói: “Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại.” Còn vua Hê-rô-đê thì nói: “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” (Lc 9,7-9).
– Ba ông tông đồ cũng “mù lòa” như ai chứ bộ “Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt”, mặc dù thuộc thành phần ưu đãi đấy thế mà khi Thầy cầu nguyện thì các ông lại lăn ra ngủ, ngủ say, ngủ ngon, ngủ mê mệt… Có điều các ông được mở mắt ra cho “dòm” tí ti “khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người”. Đúng là trong chốc lát rồi sau đó lại khép lại “Ông không biết mình đang nói gì. Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Sau cùng thì các ông cũng được Chúa cho thoát khỏi cảnh “mù loà”, đó là khi Thầy Giê-su Phục sinh. Các ông đã được biến đổi nên con người khác, trở nên những chứng nhân hùng hồn vì những gì các ông đã gặp gỡ, tai đã nghe, tay chân đã đụng chạm, mắt nhìn rõ mồn một… làm cho nhiều người lầm tưởng các ông bị “điên”, bị quỷ nhập.
– Ngày hôm nay chúng tôi cũng vẫn “mù lòa” bởi nhìn vào trong sâu thẳm của lòng mình, chúng tôi cũng chỉ thấy hư vô trống rỗng mà không có sự Hiện Diện. Nơi Bí tích Thánh Thể cũng chỉ là tấm bánh trắng vội vàng nuốt vào mà cũng chẳng thấy gì, rồi tâm trí lòng dạ dồn cho những chuyện khác. Cuộc sống chung quanh, con người và cảnh vật, cũng chỉ là những cái nhìn lơ đãng, có sao thấy vậy mà không nhìn thấy một Ai-đó đang có mặt… Đúng là mù loà dắt mù lòa, cả hai đều lăn tòm xuống hố!
Ước gì ai làm cho long “cái vảy” ở đôi con mắt chúng tôi! Ước gì ai gỡ bỏ màn che trước mặt chúng tôi! Ước gì ai phá đổ bức tường dày đặc đen tối ngay trong mắt chúng tôi! Ước gì và ước gì… Vâng! chỉ một mình Thầy Giê-su thực hiện được chuyện này. Điều quan trọng nơi chúng tôi là khát vọng nồng nàn tình yêu mà Chúa Cha đã dành sẵn cho chúng tôi “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”
Ước gì mỗi người là ngọn núi cao, ước gì mỗi người là cái lều và nhận ra sự hiện diện của Thầy Giê-su mỗi ngày đang ở đó để cuộc sống mỗi người, hành động, lời nói… trở nên sáng ngời vì họ biết có Thầy Giê-su đang ở đó.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui…”
Một bài hát của Trịnh Công Sơn đã bắt đầu như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ba môn đệ của Ðức Giêsu
đã chẳng phải chọn một niềm vui.
Niềm vui chợt đến với họ như một quà tặng.
Ðêm hôm ấy, một đêm giống như nhiều đêm,
Ðức Giêsu lên núi cầu nguyện cùng với ba môn đệ.
Ngài chìm sâu trong cuộc đối thoại thân tình với Cha.
Ngài biết khá rõ những gì đang chờ mình:
khổ đau, nhục nhã, cái chết và phục sinh (x Lc 9,22).
Ðức Giêsu đón lấy con đường Cha muốn Ngài đi.
Ðêm đã khuya, Ngài vẫn còn trò chuyện với Cha.
Các môn đệ đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Khi chợt tỉnh, họ ngất ngây trước cảnh tượng phi thường.
Thầy Giêsu đang đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia.
Vinh quang rạng ngời bao trùm ba đấng.
Khuôn mặt Thầy Giêsu trở nên đổi khác.
Cả y phục Ngài cũng trở nên trắng tinh chói lọi.
Không rõ các môn đệ đã chiêm ngưỡng cảnh này bao lâu,
nhưng chắc chắn họ muốn kéo dài hạnh phúc đó.
Khi ông Phêrô thấy hai vị sắp chia tay Ðức Giêsu,
ông đòi dựng ba lều để tất cả ở lại qua đêm.
Ðêm đẹp quá, đêm huyền diệu! Ðêm bừng sáng như ban ngày!
Bỗng chốc một đám mây bao phủ các môn đệ,
đưa họ đi vào huyền nhiệm của sự hiện diện thần linh.
Họ khiếp sợ khi thấy Thiên Chúa quá ư gần gũi.
Tất cả những gì đã xảy ra đều nhằm chuẩn bị
để các môn đệ nghe được lời giới thiệu của Cha:
“Ðây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn”,
và đón nhận lời Cha nhắn nhủ:
“Hãy vâng nghe lời Người”.
Kinh nghiệm thấy Ðức Giêsu tỏa sáng thật cần thiết.
Nó là một nâng đỡ cho các môn đệ
đang cùng đi với Thầy trên đường lên Giêrusalem.
Nó giúp các ông đón nhận số phận như Thầy,
để được cùng Thầy chia sẻ vinh quang (x. Lc9,23-26).
Vinh quang của Con Thiên Chúa được dấu ẩn khi làm người.
Vinh quang ấy lóe sáng lúc Ngài biến hình trên núi.
Nhưng ngay sau Phục Sinh, Ngài cũng chẳng tỏ hết vinh quang.
Vinh quang tỏ tường chỉ bừng tỏa khi Ngài trở lại.
Ðám mây rồi cũng tan, Môsê và Êlia biến đi.
Chỉ còn mình Ðức Giêsu ở lại,
với khuôn mặt bình thường, với con đường phía trước.
Rồi hôm sau Thầy trò lại xuống núi ruổi rong.
Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa bừng sáng.
Và chúng ta cũng cần được biến hình.
Sám hối đích thực, dẫn tới sự bừng sáng rực rỡ.
Bừng sáng qua cầu nguyện thâm trầm, qua chay tịnh lặng lẽ.
Bừng sáng qua chia sẻ với tha nhân.
Ước gì tôi bừng sáng qua việc biến đổi lối nghĩ, lối sống.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
.
Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Bức tranh của cuộc Hiển dung trên núi cao có ba nhân vật chính, đáng để chúng ta chiêm ngắm: Đó là hai nhân vật vĩ đại bước ra từ Cựu Ước, cả hai cùng là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa: ông Môsê và tiên tri Êlia. Và một nhân vật đại diện Tân Ước, mang tầm mức vĩnh cửu, là trung tâm của lịch sử cứu độ: Chúa Giêsu.
1. Vẻ rạng ngời của hai con người Cựu Ước.
Ông Môsê: Được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành chủ nhân của hành trình vượt qua kỳ diệu, một hành trình thần thánh của dân Chúa. Vì thế, hành trình vượt qua ấy đã làm cho ông nổi bậc, chiếm vị trí quan trọng.
Ông Môsê không chỉ là nhà lãnh đạo, mà còn là nhà giải phóng dân tộc lừng danh. Chính Thiên Chúa ở cùng ông. Người dùng ông như công cụ đặc biệt và riêng biệt của Người để đem dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Aicập.
Ông đã nhận từ chính Thiên Chúa bia đá ghi khắc Mười Giới Răn. Mười Giới Răn ấy vừa là dấu chỉ của Giao Ước, vừa tượng trưng cho Lề Luật mà Thiên Chúa đòi dân của Người phải tuân giữ.
Ông Môsê đóng vai trò tư tế hướng dẫn dân trung thành với giao ước của Chúa. Ông còn là tư tế vì đại diện toàn dân dâng lên Chúa sự tôn thờ rất đẹp lòng Chúa. Ông đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ là trung gian tốt lành giữa Thiên Chúa và dân của Người, chuyển đạt ý Thiên Chúa cho dân, chuyển đạt ước nguyện của dân lên Thiên Chúa.
Chính ông thiết lập hàng tư tế hoạt động muôn đời cho Thiên Chúa, cho dân. Ông là nhà lập luật, khi ông vâng lệnh Chúa đem luật của Chúa đến cho loài người. Ông là đại tiên tri khi trực tiếp lãnh nhận lời Thiên Chúa để nói cho toàn dân.
Ông còn đóng vai trò mục tử dẫn dân tiến về Đất hứa mà Thiên Chúa đã hứa với Tổ phụ Apraham từ xưa. Dù chỉ là thành phần trong đoàn con cháu tổ phụ Abraham, nhưng có thể coi ông Môsê là tổ phụ nối tiếp vai trò các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacob vì cưu mang dân Thiên Chúa. Ông là con người của lịch sử, lập trang sử mới cả về đời sống trần thế lẫn đời sống đức tin…
Ông Môsê là nhân vật quan trọng còn vì tất cả những gì ông có, để báo trước kỷ nguyên mới của thời Tân ước. Chính ông là sự chuẩn bị và loan báo Đấng cao trọng tuyệt đối sẽ hoàn tất ơn cứu độ của Tiên Chúa, nhưng không xuất phát từ loài người, mà chính là Con Thiên Chúa.
Vị trí của ông Môsê được Tân ước ghi nhận: “Những người tin vào ông Môsê, thật sự là tin vào Đức Kitô, và gương mặt của họ cũng như gương mặt của Môsê phản ánh vinh quang của Chúa” (2 Cr 3, 18).
Tiên tri Êlia: sứ giả vĩ đại được Thiên Chúa trao sứ mạng củng cố lòng tin của dân Israel vào lời hứa của Giao Ước mà Thiên Chúa đã cam kết với tổ tiên họ là các tổ phụ Apraham, Isaac, Giacob. Ông là nhà tiên tri lớn nhất trong các tiên tri. Qua ông, Chúa trực tiếp phán cách đặc biệt với loài người.
Tiên tri Êlia là con người của sự dũng cảm. Ông bất chấp mọi đau khổ, mọi đe dọa, trung thành và bền bỉ chống lại việc tôn thờ ngẫu tượng. Đã có lần, một mình ông oai hùng chống trả với 450 tư tế của thần Baan, những kẻ mà hoàng hậu Izabel đưa vào đất nước (1V 18, 1tt).
Qua lòng trung thành với Thiên Chúa, tiên tri Êlia minh chứng cho dân biết rằng, chỉ có một mình Thiên Chúa là Thần. Chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng đáng tôn thờ. Chỉ có một mình Thiên Chúa mạnh mẽ không gì bằng. Chỉ có một mình Người quyền năng vô biên.
Tiên tri Êlia cũng bênh vực quyền con người, mạnh mẽ chống áp bức người nghèo. Sách Các Vua quyển I còn ghi nhận câu chuyện tàn độc mà hoàng hậu Izabel và vua Akhab đã thực hiện để chiếm đoạt vườn nho của Nabot (1V 21).
Sự tàn độc ấy đã bị tiên tri Êlia nghiêm khắc lên án: “Đức Chúa phán thế này: Ngươi đã giết hại còn chiếm đoạt nữa ư?… Tại chính nơi chó đã liếm máu nabot, thì cho cũng sẽ liếm máu ngươi… Đức Chúa cũng tuyên phạt Izabel: Chó ăn thịt Izabel trong cánh đồng Gitrơe” (1V 21, 17-23).
Đúng như lời tiên tri Êlia, cái chết thê thảm của Akhab và Izabel được thuật lại sau đó trong 1V 22, 34-38 và 2V 9, 30-37.
Cả ông Môsê và tiên tri Êlia: đều có những giờ phút tiếp xúc với Thiên Chúa trên đỉnh núi. Ông Môsê đã sáng ngời khuôn mặt sau khi đã gặp gỡ Chúa. Tiêng tri Êlia gặp Chúa trên núi Khorep trong tiếng gió hiu hiu nhè nhẹ.
Cái chết của hai con người cao cả này cũng đặc biệt kỳ lạ. Dù chết đơn độc trên núi Nêbô, nhưng ông Môsê lại được “Đức Chúa chôn người trong thung lũng tại xứ Môáp…” (Đnl 34, 5-6). Còn tiên tri Êlia, được rước đi bằng xe lửa và ngựa lửa trước sự kinh ngạc của tiên tri Êlisa , người học trò thân tín của ông (2V 2, 11).
Cả hai được coi là đỉnh cao của lịch sử và của niềm tin tôn giáo Cựu Ước, là những nhân vật lớn trong dân Israel.
2. Tương quan Cựu Ước với Chúa Kitô và chúng ta.
Cả ông Môsê và tiên tri Êlia đều có mặt bên Chúa Kitô trong cuộc hiển dung của Người. Cả hai con người đại diện một cách thâu tóm toàn bộ Cựu Ước, đang có mặt bên Chúa Kitô ngay trước hành trình khổ nạn và cứu độ của Người.
Bên Chúa Kitô, họ làm cho muôn thế hệ từ tạo thiên lập đến tận cùng của thế giới chú ý vào Người. Bên Người, họ đã làm cho dòng lịch sử từ muôn đời cho đến muôn đời phải nhìn nhận Chúa Kitô là đỉnh điểm của lịch sử.
Sự xuất hiện của hai nhân vật đỉnh điểm trong Cựu Ước, cho ta thấy, Chúa Kitô là chính Đấng phải đến mà họ đã tiên báo. Sự xuất hiện của họ trong giờ này là hiệu lệnh buộc chúng ta đừng hướng về họ như là thành phần cốt cáng của Cựu Ước, mà hãy quay nhìn về Chúa Kitô, trung tâm và là sự hiện diện mới của Thiên Chúa tình yêu và cứu độ.
Vì thế, họ đã xuất sắc trong giai trò chuyển giao lịch sử sang Chúa Kitô. Bởi nếu họ là đỉnh cao của Cựu Ước, thì Chúa Kitô mới chính là nhân vật của cả dòng lịch sử.
Như vậy, trong Tân Ước, không cần phải là hai nhân vật như Cựu Ước, mà chỉ một mình Chúa Kitô, Môsê mới và Êlia mới của thời đại mới, Thời Đại Cứu Độ.
Lịch Sử hay Giao Ước Cứu Độ, từ nay chỉ cần một mình Chúa Kitô là đủ. Người vừa là Giao Ước mới, vừa là Lề Luật mới.
Nhưng không chỉ là sự xác nhận của hai nhân cách lớn lao bước ra từ Cựu Ước, lời Thiên Chúa phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9, 35b) như minh chứng, như xác nhận vai trò tối quan trọng của Chúa Kitô.
Lời Thiên Chúa giới thiệu Chúa Kitô, mới chính là mấu chốt để toàn thể nhân loại giờ đây không chỉ quay nhìn về Chúa Kitô như một con người thay thế, mà là bước theo Chúa Kitô tiến về vinh quang và ánh sáng mà cuộc “Hiển Dung” vĩnh cửu đang chờ đợi ở cuối hành trình dương thế của mỗi người.
Chúng ta tiếp nhận vinh quang hiển dung của Chúa Kitô và “vâng nghe lời Người”. Vì sự giới thiệu và chuyển giao của toàn bộ lịch sử Cựu Ước, nhất là vị thế vô song của lời giới thiệu mà Thiên Chúa dành cho Chúa Kitô, đã làm cho lời của Chúa Kitô là Lời đặc biệt quan trọng đối với mỗi người chúng ta.
Từ đây, lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho ta. Lời ấy chính là Lời Giao Ước vĩnh cửu, đưa ta vào huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa, để ta sống trong Chúa, sống bằng chính sự sống của Chúa.
Bởi lời Chúa Kitô có tầm mức quan trọng và cần thiết cho ta đến thế, cho nên Thiên Chúa không ngừng mời gọi: “Hãy vâng nghe lời Người!”.
Như vậy, với phán quyết long trọng và công khai ấy, Thiên Chúa cho chúng ta biết, từ nay trở đi, vâng nghe Lời Chúa Kitô là hội nhập vào vinh quang hiển dung của Chúa Kitô, là tiếp nhận vinh quang ấy để sống Giao Ước mới, để chu toàn trách nhiệm của Lề Luật mới.
Vậy, sống Lời Chúa Kitô là điều kiện tối cần thiết, không thể bỏ qua của cả cuộc đời người Kitô hữu. Bởi chỉ bằng cách sống lời Chúa Kitô, chúng ta mới chứng tỏ mình tiếp nhận vinh quang hiển dung của Người, để cùng được chia sẻ vinh quang hiển dung ấy trong ngày Người ban ơn phục sinh cho ta.
Lạy Chúa, xin biến đổi chúng con, để chúng con trở nên con người mới, con người của Giao Ước mới và Lề Luật mới trong và nhờ Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe và sống Lời Chúa, để chúng con được mãi mãi sống trong Chúa và đạt tới ơn cứu độ muôn đời.
.
Huệ Minh
Tinh thần của Mùa Chay là đi vào sa mạc của lòng mình để ở với Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện. Đối diện với Chúa, ta thấy rõ mình hơn và hiểu biết Chúa hơn.
Sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất về cuộc tử nạn và phục sinh, Người đưa ba tông đồ thân tín Phêrô, gioan và Giacôbê lên núi. Người biến hình trước mặt các tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông. Biến cố Chúa biến hình trên núi chuẩn bị cho các tông đồ đi vào mầu nhiệm vượt qua: Tử nạn và Phục sinh, để cho các tông đồ xác tín rằng theo Chúa Giêsu không chỉ có Thập Giá, mà còn có cả vinh quang nữa. Đó là ý nghĩa chính của cuộc biến hình này.
Ngang qua tương quan gần gũi với Chúa, chúng ta được Ngài biến đổi để trở nên rạng ngời hơn. Lời Chúa hôm nay thuật lại cho chúng ta rằng: “Hôm ấy, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.” (Lc 9, 28-29)
Trang Tin mừng hôm nay là lời tuyên bố từ trong áng mây: “Đây là Con Ta, Người đã được tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Chính Thiên Chúa Cha giới thiệu Con của Người và xác nhận tư cách Thiên Sai của Chúa Giêsu, vị Thiên sai tôi tớ phải chết thay cho muôn người được cứu sống. Người kêu mời tất cả chúng ta hãy vâng nghe lời Con Thiên Chúa.
Gặp gỡ Thiên Chúa thực sự luôn đi kèm một thay đổi tích cực nào đó cho cả tâm hồn lẫn thể xác. Khuôn mặt phản ánh nội tâm. Nếu muốn thay đổi dung mạo của mình, cách hữu hiệu nhất là thay đổi tâm hồn.
Trong Mùa Chay, chúng ta có cơ hội tốt để đến gặp gỡ Thiên Chúa ngang qua nhiều hoạt động thiêng liêng với anh chị em trong đoàn thể của mình.
Cạnh đó, chúng ta cũng cần đi lên núi ở riêng với Chúa cách thân mật, để gặp gỡ Ngài diện đối diện. Đi lên núi là điều không dễ bởi nơi đó chỉ có một mình ta. Cuộc sống tấp nập khiến ta dường như không đủ tĩnh lặng để có thể một mình đi gặp Chúa. Nhiều khi chúng ta ngại phải đối diện với bản thân mình, ngại phải duyệt xét những vấp ngã của chính mình. Khi đó, ta thường hay thoái thác và miễn trừ cho mình những chuyến đi vào sa mạc của cõi lòng.
Khi nhìn thấy dung mạo sáng láng của Thầy, các tông đồ dường như muốn ở lại mãi trong vinh quang ấy và muốn “dựng lều” để ở lại nơi ấy. Các ông muốn ở lại trong vinh quang sáng ngời nhưng lại không hiểu hết về cuộc xuất hành Thầy mình sắp hoàn tất tại Giêrusalem. Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn chiêm ngắm dung mạo rạng ngời của Thầy Giêsu khi Ngài bày tỏ vinh quang, nhưng các ông lại trốn chạy không dám nhìn gương mặt đầy thương tích của Thầy trên núi Sọ.
Đi lên núi chiêm ngắm dung mạo rạng ngời của Chúa trong Chúa nhật hôm nay là lúc ta được bổ sức và biến đổi hầu có thể theo Chúa trong cả gian khó lẫn vinh quang. Biến cố biến hình và biến cố đồi Can-vê, cả hai đều xảy ra trên núi. Hai biến cố này mang dáng vẻ bên ngoài khác nhau nhưng diễn tả cũng một thực tại là Đức Giêsu vinh quang.
Quả vậy, theo thánh sử Gioan, thì chính lúc ở trên thập giá là lúc Đức Giêsu diễn tả vinh quang Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Ngài cách tuyệt vời nhất. Qua mầu nhiệm thập giá, Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa vĩ đại và yêu thương đến thế nào! Một Thiên Chúa bị đánh đòn bầm dập và chịu treo trên cây gỗ cho đến chết. Một Thiên Chúa đã trở nên trò cười cho khách qua đường. Một Thiên Chúa không tìm cách trả thù, nhưng lại sẵn sàng lấp đầy yêu thương và tha thứ cho những bạo lực của con người. Chính vì thế mà chúng ta thấy Thiên Chúa cao cả và yêu thương ngay trong biến cố thập giá.
“Biến hình” cần thiết đối với các tín hữu trước hết là thay đổi cách sống. Mùa Chay là mùa sám hối canh tân, là thời điểm thuận lợi để lãnh nhận ơn Chúa. Rà soát lại hạnh kiểm của mình, mỗi tín hữu cần có những quyết tâm đổi mới cuộc đời dựa trên Lời Chúa. Qua cầu nguyện và chay tịnh, xin Chúa tăng sức và biến đổi tâm hồn mỗi người chúng ta hầu dung mạo chúng ta cũng được bừng sáng trong ân sủng và bình an.
.
Dã Quỳ
Trong cuộc sống thường ngày, chắc hẳn chúng ta đã gặp những người mà dường như họ được sở hữu một nụ cười rất tươi. Nhìn vào khuôn mặt họ, ta thấy như chiếu lên ánh sáng từ bên trong tâm hồn. Khi tiếp xúc với người khác, họ mang đến một niềm tin tưởng và bình an. Đó là những biểu hiện tự nhiên hay có thể được phát xuất từ niềm vui và sự an bình nội tâm của họ. Thế nhưng, với mỗi người Kitô hữu, chúng ta cần nhìn lại chính mình. Khi mang danh Chúa Kitô, ta đã phản ánh được khuôn mặt của Đấng là nguồn Niềm Vui, Ánh Sáng, Bình An và Tình Yêu trên chính khuôn mặt của ta hay chưa? Và đó cũng là phản chiếu đức tin của ta vào Chúa Kitô.
Mỗi người chúng ta nhiều lúc trong cuộc sống dường như quá đau khổ, quá căng thẳng và cảm thấy như không thể thoát ra khỏi đó được hoặc không thể nắm giữ được tình thế! Chúng ta như đi trong một đường hầm tăm tối, không ổn định vì những biến cố như sụp đổ hôn nhân, mất công việc, tai nạn hay một căn bệnh nan y… Hành trình của ta như đi vào ngõ cụt. Bước đi của ta bị nặng nề vì buồn khổ, giận dữ…!Thế nhưng, ta có thể xác tín rằng không có một cuộc sống nào bị xáo trộn và tan nát nếu như cuộc sống ấy được đụng chạm thực sự vào Chúa Kitô và được biến đổi nhờ Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay, các môn đệ của Chúa Giêsu được chuẩn bị để sống một kinh nghiệm như thế. Chúa Giêsu sắp đi lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ chịu đau khổ và bị giết chết. Đây sẽ là một thử thách lớn cho những ai ở xung quanh Người. Một chút khởi đầu cho biến cố này: Phêrô, Giacôbê và Gioan đi cùng và ở trên núi với Thầy. Và ở đó, họ được nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Người tỏa chiếu vẻ rực rỡ nơi thân xác hữu hình mà Người đã mặc lấy như con người. Khuôn mặt Người sáng như mặt trời và y phục trắng như tuyết. Người đã mạc khải cho môn đệ sự vinh quang và cao cả của Tước Vị mà vì sự tự hạ của Người đã ẩn giấu. Ân huệ này sẽ làm cho môn đệ vững vàng hơn trên đường Thánh Giá của Người trong những ngày sắp tới.
Hôm nay, chúng ta hãy dành thời gian để sống cách cá nhân thân tình với Chúa. Chúa Giêsu, Đấng sắp trải qua đau khổ thử thách vào ngày thứ Sáu Thánh, được mang y phục vinh quang Phục Sinh và là Đấng sẽ thay đổi hình dạng thế giới. Chúa cho chúng ta thấy chính mình trong tương lai. Chúng ta, những chi thể của Chúa cũng được hy vọng chia sẻ những vinh dự mà Người đã tỏ hiện vinh quang cho các môn đệ như lời Thánh Phaolô khẳng định “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.”( Rm 8,18)
Giữa những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người hiện hữu trong những tia sáng nhỏ, cũng như trong những lúc tối tăm hơn của cuộc sống. Những biến hình nho nhỏ này nói với chúng ta rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù những thử thách có thể làm cho chúng ta đau đớn, nhưng với Chúa và trong Chúa, ta sẽ sống và sống sung mãn trong vinh quang với Người “Anh em đã chết và sự sống mới của anh em hiện đang được tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống mới của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3,3-4)
Vậy hãy đặt ta vào trong ánh sáng của Chúa Giêsu, bởi vì từ nay chúng ta có một sự đổi mới, một hơi thở thứ hai trong cuộc sống gia đình, nghề nghiệp và cộng đoàn của ta. Để rồi ta có thể hăng hái thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!”( Lc 9,33) Dẫu Thập giá vẫn có đó, nhưng Ánh sáng Tình yêu và Xót thương của Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. Ước gì niềm hy vọng này mang lại trong chúng ta ngay lập tức sự can đảm, khởi đầu một sự thay đổi trong đời sống, dám bước ra khỏi những mảng tối cuộc đời và vững bước trong đức tin.
Lắng nghe Lời Con Yêu Dấu, mở lòng đón nhận và dấn thân thực hành trong cuộc sống sẽ làm cho bước đi của ta vững vàng, khuôn mặt ta rạng rỡ. Lời Chúa là ánh sáng và chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng của Chúa giữa trần gian. Xin cho lòng nhân hậu, tình yêu thương, bác ái và nhiệt tâm của chúng ta là những phản chiếu ánh sáng của Chúa cho mọi người ta gặp gỡ, nhất là những người đau khổ, tội lỗi và bị bỏ rơi để nhờ đó họ được nâng đỡ, được ơn biến đổi mà trở về với Chúa trong Mùa Chay Thánh này. Giáo Hội và mỗi Kitô hữu mang sứ mệnh là khuôn mặt của Lòng Thương Xót Chúa. Nguyện xin Chúa thổi vào từng lời nói và những hành động để những gì chúng ta biểu lộ đều mang lại sự sống sung mãn của ơn Tha Thứ, của Hy Vọng, của Niềm Vui và Đức Tin.
+ Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang bước đi theo Chúa. Xin sự hiện diện của tình yêu, ánh sáng và bình an của Chúa giữ gìn chúng con trong những lúc vui cũng như những khi thử thách giúp chúng luôn hy vọng và tiến bước trong niềm tin. Amen.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, các bạn, Đức Tin là một ân sủng nhưng không bởi Thiên Chúa, nói cách khác, Đức Tin là sự mạc khải từ Thiên Chúa và sự đáp trả từ phía con người. Vì thế, Đức Tin cần hai điều kiện duy nhất nói trên, nếu thiếu một trong hai, thì không thể được gọi là Đức Tin. Vì, “Tin “ là đón nhận, nhưng , nếu không được “Thông tin”, “ Truyền tin”, “ Ban Tin”, thì làm sao đón nhận được.
Vâng, thưa quý vị, Đức Tin là một phạm trù siêu nhiên, mặc nhiên đến từ sự siêu nhiên, vô hình, đó là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng Cực Thánh vô biên. Từ đó, sự siêu nhiên, vô biên gặp gỡ, biểu lộ cho sự tự nhiên hữu hình nhận biết những điều bí nhiệm, đó không phải là ân sủng nhưng không ( vô điều kiện ) sao?
Nhưng, từ con người hữu thể, hữu hạn, tức có sự giới hạn từ sự hữu hạn, như vậy, mới hữu lý. Sự giới hạn mới sinh đủ thứ, sự bất toàn, bất lực, bất định, dễ thay đổi, tội lỗi , rồi dẫn đến sự chết.
Khởi đi từ bài dọc I ( St 15, 5- 12. 17- 18) hôm nay, chúng ta thấy Ápraham, được gọi là tổ phụ của lòng tin, được gọi là người công chính. Rõ ràng Ápraham là người được đón nhận ơn mặc khải từ Thiên Chúa và ông đã đáp trả một cách trung tín. Như vậy, ngày xưa Thiên Chúa đã mặc khải cách trực tiếp cho Ápraham , dù là vô biên, nhưng có tiếng phán. Rồi sau đó, nhiều lần, nhiều cách, phán dạy cha ông chúng ta qua các tổ phụ và ngôn sứ. Nhưng, đến thời sau hết nầy, chúng ta được đón nhận đức tin qua Đức Kitô, Đấng đã mặc lấy nhân tính để biểu lộ sự mặc khải hữu hình bởi từ Thiên Chúa. Và rồi, chúng ta được đón nhận mặc khải qua Giáo Hội và các thánh giáo phụ.
Theo đó, Tin Mừng hôm nay ( Lc 9, 28b -36), thánh Luca cho chúng ta một trình thuật về việc Chúa Giêsu hiển dung. Hiển Dung có nghĩa là biểu lộ dung nhan của Đấng Cứu Thế về phần Thần Tính của Người. Là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Người đã tự nguyện mặc lấy Nhân Tính phàm nhân, để cứu chuộc phàm nhân. Tin Mừng ( Lc 9, 28b – 36) nêu bật bốn ý chính :
- Một là : làm trọn vẹn ơn mặc khải nơi Đấng cứu thế, chính là lúc Người Biến Đổi ( c 29) . Người biểu lộ hoàn toàn Thần Tính của Người.
- Hai là : nối kết từ Cựu Ước đến Tân Ứơc , củng cố công trình cứu độ, mà Chúa Giêsu ( sắp thi hành ( c 30)
- Ba là : củng cố niềm tin cho các môn đệ của Chúa Giêsu ( c 32 – 33)
- Bốn là: có tiếng Đức Chúa Cha phán ra từ Trời, giới thiệu Đấng Cứu Thế, chuẩn nhận Người, đồng thời biểu lộ hình thức mặc khải chính thức từ Thiên Chúa. ( c 35 -36)
Qua trình thuật của Tin Mừng ( Lc 9, 28b – 36), chúng ta thấy, sự hiển dung của Chúa Giêsu, cũng như Lễ Hiển Linh đều là bày tỏ thần tính của Đấng cứu thế. Khi muốn biểu lộ ơn mặc khải cho dân ngoại, Người đã biểu lộ thần tính cho các đạo sĩ, dù còn là Hài Nhi, nhưng quyền phép tối cao thật tuyệt diệu. Đến độ lướt thắng uy quyền trần thế của Herode.Nhưng, phần biến đổi Dung Nhan là một sự củng cố niềm tin cho các môn đệ, đồng thời, tiên báo mầu nhiệm phục sinh. Vì , biểu lộ Thần Tính của Chúa Giêsu là biểu lộ sự sống vĩnh hằng, nguồn sống nơi Thiên Chúa là Đấng không hề chết. Tin vào quyền uy của Đức Kitô, là tin vào sự phục sinh của Người. Nơi mà thần chết không khống chế được
Đức Giêsu – Kitô đã làm tất cả vì chúng ta, sau khi Người chiến thắng satan, Người bước vào vinh quang thiên quốc với Thần Tính của Người. Người mở ra một hành trình cứu chuộc thật kỳ thú. Trước lúc, bước vào cuộc tử nạn đau thương, Người đã mở ra một kỷ nguyên vô biên viên mãn, mà những ai được kêu gọi thông phần đều được đón nhận trọn vẹn.
Lễ Hiển Dung còn cho chúng ta một sự trùng hợp như Lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa tại sông Gio-dan, cũng có tiếng Chúa Cha chuẩn nhận: “Đây là Con Ta yêu dấu, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”.( c 35)
Lễ Hiển Dung còn cho chúng ta một bài học của sự cầu nguyện, nếu chúng ta muốn kết hợp mật thiết với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, thì không còn cách nào khác hơn là cầu nguyện thâm sâu với Chúa, thì chúng ta sẽ được biến đổi. Vì Người đã biến đổi qua lễ hiển dung và nhất là sự Phục Sinh vinh hiển.
Và như thánh Phao lô trong bài đọc II ( Pl 3, 17- 4,1) hôm nay đã nói: “… những ai sống đối nghịch với Thập giá Đức Kitô thì họ sẽ hư vong…” ( c 19). Vì, Người có quyền năng biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta trở nên giống thân xác sáng láng như Người.
Thánh Vịnh 26 hôm nay cho chúng biết việc Chúa Giêsu hiển dung là để củng cố đức tin cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm vác thập giá mình theo Đức Kitô, thì chúng ta sẽ được biến đổi như Người. Vì thân xác yếu hèn của chúng ta sẽ trở nên thân xác sáng láng như Người.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ Thần Tính Chúa cho chúng con là để củng cố niềm tin cho chúng con. Xin thương ban cho chúng con có đủ can đảm vác thập giá mình mỗi ngày theo Chúa đến cùng để chúng con cũng được biến đổi giống như Chúa vào ngày sau vinh hiển./. Amen.
.