Lời Chúa Năm B Các bài suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm B

Các bài suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm B

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B

Lời Chúa: St 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10

——- 

Mục lục

1. Cùng Thầy lên núi cao (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Nhờ Covid con người biết trở về  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

3. Hiền dung  (Lm. Thái Nguyên)

4. Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi (Jorathe Nắng Tím)

5. Cùng với Chúa Giêsu (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Được biến hình  (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Con người phải lòng Thiên Chúa  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

8. Hào quang Thiên Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)

9. Hãy nghe Lời Người (Lm. Xuân Hy Vọng)

10. Lên núi.  (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

11. Một thoáng Thiên Đàng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Lâng lâng lạ lùng (Trầm Thiên Thu)

 

Mục lục (2018)

1. Lên núi  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Biến hình  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Sống hai mặt  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Biến hình trên núi Taborê (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Cùng Chúa biến hình (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Chứng kiến  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Xin ơn biến đổi  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Từ cõi chết sống lại (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

9. Hiển thị chân dung Thiên Chúa  (JM. Lam Thy, ĐVD)

10. Thưa Thầy! chúng con ở đây thật là hay (Fx. Đỗ Công Minh)

11. Ba ngọn núi  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Tính phản diện trong phận người  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

13. Thập giá là vinh quang! (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

14. Suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

15. Thử thách trong cuộc sống từ Tabor đến Golgotha (Lm. Đinh Lập Liễm)

16. Đây là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người  (Lm. Nguyễn Thái)

17. Đường lối của Thiên Chúa và tư tưởng của con người (Tu sĩ Jos.Vinc.Ngọc Biển, SSP)

18. Vô điều kiện  (Trầm Thiên Thu)

19. Sống xứng đáng là con Chúa  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

20. Chúa Giêsu, quà tặng vô giá Thiên Chúa ban cho ta (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

21. Tiên báo mầu nhiệm phục sinh  (P.Trần Đình Phan Tiến)

22. Hãy vâng nghe Lời Người  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

23. Từ Tabor đến Golgotha (Thiên Phúc)

24. Suy niệm và chú giải lời Chúa Chúa nhật 2 Mùa Chay_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

25. Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? (Lm. Trần Bình Trọng)

26. Ngộ ra  (Lm. Vũ Đình Tường)

27. Đẹp xác hồn (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

28. Vâng nghe Lời Chúa để được biến đổi nhờ Thần Khí  (Lm. Đan Vinh)

29. Đùng quên mảng tốt nơi mỗi người  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

30. Biến đổi đời mình (Lm. Gioakim Nguyễn Quang Minh)

31. Chữ tình?  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

32. Suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay_B.  (Lm. Anthony Trung Thành)

33. Suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay. Năm B (Lm. Antôn)

 

CÙNG THẦY LÊN NÚI CAO

Lm. Jos DĐH.

Với đôi mắt tinh tường, người ta biết nhìn nhận sự việc, phân tích được vấn đề đẹp và đúng. Khuynh hướng tự nhiên nơi mỗi người, ai ai cũng hướng về cái đẹp, cái tốt, và ước muốn gia đình, người thân, được bình an hạnh phúc. Sống trong thời đại công nghệ hôm nay, người ta chỉ cần bỏ ra một chút tiền, có thể làm mới, làm đẹp diện mạo, rất đơn giản. Nhờ sự thông thái, người ta có thể quan sát, điều khiển công việc từ xa, có thể tư vấn, chọn lựa, vì thế mà thành quả lao động của họ có thể đạt tới tầm mức cao nhất. Sau một thời gian theo Thầy thọ giáo, những ngư phủ ấy được nghe, được nhìn, được chứng kiến điều hay lẽ phải. Rồi hôm nay, đại diện cho số các học trò, các ông theo Thầy Giêsu lên núi cao, một vinh dự như ở đời vẫn nói vui vui mang nhiều ý nghĩa: đi một ngày đàng, học một sàng khôn.

Bằng cả khối óc và con tim, mắt thể xác và tâm hồn, ba người học trò thỏa thích trước vẻ đẹp trên núi cao, các ông còn được thôi thúc bởi thứ ánh sáng của niềm tin: “áo Thầy Giêsu chói lọi, trắng như tuyết, cùng với sự đàm đạo giữa Thầy và hai chứng nhân cựu ước”. Niềm tin sẽ sáng mãi nơi tình Thầy Giêsu, là tình thông hiệp cầu nguyện, niềm tin sẽ trở nên vĩ đại và kỳ diệu, khi ta nghe, hiểu, rồi một ngày nào sẽ được biến đổi nên trong sáng như Thầy. Kitô giáo không chủ trương theo Chúa Giêsu để hưởng vinh quang phú quý ở đời này. Người môn đệ được diễm phúc theo Thầy lên núi cao, cũng không phải để nhìn để xem Thầy trở nên sáng chói, xinh đẹp cho vui mắt. Theo Thầy lên núi cao cầu nguyện, xác tín hơn vào tình yêu của Chúa Cha, biết nghe và hiểu giáo huấn của “Con Chí Ái”, hầu khao khát được biến hình đổi dạng, trở nên môn đệ thật của Đức Kitô.

Người xưa có câu: cơm cha áo mẹ chữ thầy, gắng công mà học có ngày thành danh. Đúng, tình yêu thương nơi cha mẹ, nơi giáo hội, lúc nào cũng mở ra cho ta một cơ hội, một dịp thuận tiện, nhằm giúp ta gặp Chúa, hiểu và sống thánh ý Chúa cách tốt nhất. Được biết Thầy Giêsu là một ân huệ nhưng không, được mời gọi trở nên môn đệ Đức Kitô chính là một sứ mạng đặc biệt cao cả. Ơn ban tự nhiên nơi mỗi tâm hồn là nhận biết: phẩm giá con người là những viên ngọc quý, viên đá sẽ còn lấp lánh đẹp đẽ hơn, nếu được lồng vào bài học khiêm tốn. Người kitô hữu được mời gọi tin theo Đức Giêsu, đâu phải để nhận ơn ban làm môn đệ Chúa ở đời này, hạnh phúc hơn, là mỗi người được cùng Thầy Giêsu đi trọn vẹn đường thập giá đời mình.

Ngày hôm nay, người tín hữu vẫn cho rằng, được sống ơn gọi làm linh mục tu sĩ là vinh dự nhất, thực ra thì ơn gọi nên thánh, nên giống Đức Kitô, mới là trọng tâm của đời người theo Chúa làm môn đệ. Nếu hiểu cùng Thầy lên núi cao để tận hưởng vinh quang trần thế, theo Thầy Giêsu làm linh mục tu sĩ để được vinh quang ở đời này, hẳn Thầy Giêsu sẽ thất vọng lắm ! Ba môn đệ đại diện cùng Thầy lên núi cao, chắc không phải các ông đi theo Thầy cho vui, nhưng đó là sứ mạng riêng, khi mà các ông đã cùng Thầy hiệp thông cầu nguyện, các ông được nhìn được xem thấy, và nghe rõ ràng lời nhắc nhớ: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.

Cùng Thầy lên núi cao, cùng Thầy đi sâu vào đời sống cầu nguyện, cùng Thầy sống thánh ý Chúa Cha, uống cạn chén đắng cuộc đời, có ai cho là dễ không, nếu thiếu sức mạnh của tình yêu và tác động của ơn Thánh Thần. Cùng Thầy Giêsu đi khắp đó đây để được tung hô, được ghi dấu là con Chúa, là con Hội thánh, đó mới là khởi đầu của việc nhận biết Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống. Hãy vâng nghe lời Người, hãy tin và bày tỏ niềm tin bằng việc làm của tình yêu, hẳn ta sẽ thấy sự biến hình đổi dạng để được nên giống Thầy, là hạnh phúc hơn cả. Cùng Thầy lên núi cao hay cùng Thầy đi suốt cuộc đời, đều là diễm phúc. Có cùng Thầy cầu nguyện, cùng Thầy sống thánh ý Chúa mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời, còn gì hạnh phúc hơn ?

Được sức mạnh và tình yêu của Chúa trong các tương quan gia đình, xã hội, hay được Chúa Giêsu trợ giúp, để biết bỏ mình vác thập giá theo Chúa cách trọn vẹn, tự do và cơ hội này người tín hữu nào cũng có. Ở đời có vui có buồn, có đau khổ nước mắt, cũng có hy vọng và bình an niềm vui ở phía trước. Được lên núi cao như ba môn đệ, được mời gọi sống ơn gọi linh mục tu sĩ, hay chỉ là một tín hữu giới hạn về năng lực hiểu biết, tất cả đều là đối tượng lòng Chúa thương xót, mọi người đều được nhắc nhớ để ý thức sống thập giá đời mình. Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, là Thầy, là bạn đồng hành, mỗi người đều có cơ hội để sống niềm tin và thao thức có Ngài trong suốt cuộc đời mình. Xin đừng ai vô ơn với bậc làm cha mẹ, đừng ai chỉ sống hình thức với chức danh là môn đệ Đức Kitô, bởi vì chính tình yêu của các Đấng bậc mà ta hiện hữu trên đời, và ta đang là ai trong xã hội này. Amen.

Về mục lục

NHỜ COVID CON NGƯỜI BIẾT TRỞ VỀ

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Đại dịch đã nhắc nhở con người phải sống chậm lại vì sức khỏe và an toàn không chỉ mỗi cho bản thân, gia đình mà còn cho cả cộng đồng. Sống chậm lại là dịp để con người ngừng tham vọng và tranh giành lẫn nhau. Sống chậm lại sẽ mang lại cho con người cuộc sống thanh thản bình yên vì bớt bon chen và đấu đá lẫn nhau. Sống chậm lại sẽ giúp con người trở về với bản tính lương thiện và biết sống đùm bọc nâng đỡ lẫn nhau.

Sống chậm lại để con người ngừng khai thác tài nguyên thiên nhiên nhờ vậy mà thiên nhiên sẽhồi phục, và làm cho bầu khí quyển tốt hơn cho con người. Hướng đến xa hơn là khi thiên nhiên đã tái tạo lại môi trường tốt, tự nó sẽ chữa lành bệnh tật cho con người. Dịch bệnh và thiên tai đến với nhân loại phần lớn là do môi trường bị hủy diệt hoặc đã trở nên quá ô uế, dơ bẩn . . .

Thiên Chúa tạo dựng mọi sự ban đầu đều tốt đẹp, nhưng vì lòng tham của con người qua mọi thời đại đã phá hủy thiên nhiên dẫn đến môi trường không còn đáng sống. Nơi thì bị tàn phá nên dẫn đến thiên tai lũ lụt. Nơi thì ô uế nên dẫn đến dịch bệnh tràn lan.

Ngày nay người ta đang cố gắng tái tạo lại những dòng sông, dòng suối đang bị ô uế bởi nước thải và rác bẩn để mang lại dòng sông xanh và sạch cho sự sống hồi sinh.

Ngày nay người ta cũng đang cố gắng trồng rừng, giữ rừng để lá phổi của trái đất mang lại không khí  mát mẻ trong lành cho người.

Và dường sau bao nhiêu năm thay nhau phá hủy môi trường thiên nhiên của buổi đầu tạo dựng, ngày nay con người mới thấy cần phải kiến tạo thiên nhiên trở về với tình trạng ban đầu thì môi trường thiên nhiên mới  bảo vệ và nuôi dưỡng con người.

Điều quan trọng hơn mà Mùa chay mời gọi con người là hãy trở về với hình ảnh ban đầu của tạo dựng là giống hình ảnh Thiên Chúa. Con người là họa ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thánh, ngàn lần chí thánh thì con người cũng được tạo dựng với trái tim biết yêu thương, biết sống có ích cho đời, và biết xây dựng cuộc sống cho nhau bình an hạnh phúc.

Chúa Giê-su hôm nay khi hiển thị dung nhan thật của Ngài là Thiên Chúa như muốn nhắc nhở con người cũng hãy gìn giữ vẻ đẹp thần linh thánh thiện trong con người chúng ta. Khi được chiêm ngắm dung nhan của một vì Thiên Chúa ngàn lần chí thánh, Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết mình nói gì, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan thánh thiện của Thầy.

Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen

Về mục lục

HIỂN DUNG

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Phụng vụ Lời Chúa tuần thứ nhất Mùa Chay dẫn chúng ta vào sa mạc, để chứng kiến Đức Giêsu chịu cám dỗ. Ở đó, ta thấy Chúa thể hiện nhân tính của Ngài: một con người yếu đuối, mỏng giòn, đói khát, chịu cám dỗ. Chúa Nhật tuần hai này, chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng Đức Giêsu hiển dung trên núi cao. Ở đó, ta thấy Chúa thể hiện thiên tính của Ngài: sáng láng, rực rỡ, vinh hiển, thánh thiện. Đức Giêsu vẫn là một, không hề phân chia trong bản tính, và luôn hiệp nhất trong Ngôi vị, Ngài thật sự là Thiên Chúa và cũng thật sự là con người, nên sự hiện diện của Ngài vô cùng sinh động và phong phú cho nhân loại.

Trong cuộc hiển dung này, có ba môn đệ thân tín được Chúa Giêsu đưa lên núi Tabo. Ngài muốn củng cố niềm tin cho họ, trước khi họ chứng kiến Ngài bị giới lãnh đạo tôn giáo khai trừ, bị mọi người ruồng rẫy, và bị Chúa Cha như bỏ rơi trong cuộc khổ hình trên núi Sọ.

Trong khi Chúa Giêsu hiển dung còn có sự xuất hiện của Môsê: người đón nhận lề luật từ Thiên Chúa; và Elia: người đứng hàng đầu trong số các ngôn sứ của Thiên Chúa. Đàm đạo với hai vị này, Chúa Giêsu muốn cho thấy nơi bản thân Ngài đã hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia. Với ý nghĩa đó, Ngài là Môsê mới vừa là Elia mới, mở ra một trang sử mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Trước thị kiến đầy kinh ngạc này, Phêrô nói lên cảm xúc đầy hạnh phúc mà ông và các bạn đang tận hưởng, bằng cách xin Thầy cho dựng ba lều để ở lại luôn trên núi. Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông kinh hoàng. Tiếp theo là một đám mây bao phủ, nói lên sự xuất hiện của Thiên Chúa với việc trao ban một sứ điệp quan trọng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Lời này lặp lại lời của biến cố phép rửa của Chúa Giêsu, với một chút thay đổi, nhằm khích lệ các môn đệ hãy đặt trọn vẹn niềm tin vào Thầy mình. Tuy nhiên trọng điểm của trình thuật này xem ra hệ tại nơi các từ ngữ sau: “Hãy vâng nghe Lời Người”. Chắc chắn lời này nhắm tới điều mà Chúa Giêsu mới nói với họ trước đó về sự thương khó và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu nhận lãnh vinh quang bên kia cái chết, thì liệu họ có giữ được niềm hy vọng và tiếp tục bước theo thầy mình trên con đường thập giá không?

Cũng như Phêrô, Giacôbê và Gioan, mỗi người chúng ta được Chúa dẫn riêng ra một chỗ để được Ngài biểu lộ chính mình cho ta. Nhưng nhiều khi ta muốn tránh né Chúa, chỉ muốn lao đầu vào công việc để thể hiện chính mình. Nhất là giới trẻ với tính khí sôi động, chỉ muốn chạy theo cuộc sống để tìm lợi lộc, danh giá; tìm đến những thú vui bên ngoài, và không ngần ngại ngồi lê với bạn bè, với ly trà chén rượu suốt đêm thâu, nhưng ngồi lại với Chúa một chút thì đã thấy quá lâu. Quen với lối sống ồn ào và bon chen ở đời, nên ta không còn khả năng để sống cái thinh lặng nội tâm, hầu nhận ra sự hiện diện của Chúa đang chờ đợi mình. Ngài vẫn luôn có điều gì đó sâu xa hơn để trao ban, để củng cố đức tin và gia tăng đức mến. Chỉ khi có giờ cận kề bên Chúa, ta mới vững vàng hơn trước những lôi kéo của thế tục, vững tâm hơn trước những nghi nan, vững lòng hơn trước những đêm tối cuộc đời, vững mạnh hơn trước những đau thương thử thách.

Chúa Giêsu vẫn đưa ta vào từng biến cố quan trọng, nhưng rồi cũng giống như Phêrô, ta chẳng hiểu gì. Tuy nhiên, với tình yêu sâu thẳm, Ngài vẫn tiếp tục khai mở tâm hồn ta. Nếu ta biết “lắng nghe Lời Ngài” từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình, biết chấp nhận đi vào con đường hẹp của Ngài, ta sẽ được biến đổi từ “cái tôi bên ngoài” thành “cái tôi sâu thẳm” của mình, là chính mình trong chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ với sự biến đổi hôm nay trong Chúa, mới hứa hẹn cho ta cuộc biến đổi mai ngày trong vinh quang Nước Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đã chuẩn bị cho các tông đồ,
trước biến cố đau thương và tử nạn,
bằng cách hiển dung trong sáng láng.

Con tin rằng trong cuộc sống hôm nay,
trước gian nan và thử thách hằng ngày,
chẳng mấy khi con nhìn ra hay nhận thấy,
Chúa chuẩn bị cho con để vượt qua,
bằng hành động yêu thương đầy mới lạ.

Nhưng đòi con phải can đảm đi ra,
ra khỏi mình, ra khỏi những tiện nghi,
ra khỏi những ù lì và ươn lười thất vọng,
để thấy điều mà Chúa vẫn ước mong,
đem lại cho con niềm vui và sức sống.

Xem ra đời con vẫn còn những tối tăm,
vẫn còn phải lần mò trong rối rắm,
nên không tránh được những sai lầm,
chỉ khi con biết lặng trầm bên Chúa,
biết lắng nghe Lời Chúa tận thâm tâm,
thì cuộc sống con mới âm thầm tỏa sáng.

Chỉ có Chúa mới chiếu sáng đời con,
khi con biết chấp nhận đi vào đường hẹp,
chính là cách sống đẹp ý Chúa Cha,
cũng là con đường mà Chúa đã đi qua,
để con tiếp bước trở thành người môn đệ,
đem lại những ân huệ Chúa cho đời.

Xin Chúa mỗi ngày là điểm hẹn cho con,
để con được gặp gỡ và hớn hở vui mừng,
là chính sức mạnh làm con nên nhân chứng,
loan báo tình thương và ân phúc Tin Mừng,
cho thế giới và lòng người đổi mới,
để Nước Trời lan tỏa khắp mọi nơi. Amen.

Về mục lục

CHỈ CÒN ĐỨC GIÊSU VỚI CÁC ÔNG MÀ THÔI

Jorathe Nắng Tím 

Sáu ngày sau lần thứ nhất loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của mình, “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình… tới một ngọn núi cao. Rồi người biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2). Ba tông đồ này cũng sẽ là ba nhân chứng của giờ phút hãi hùng, kinh khiếp trong vườn Cây Dầu, trước khi bị bắt, ở đó  Đức Giêsu  đã xao xuyến, lo sợ đến nỗi phải thốt lên : “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,33).

Trong cuộc biến hình này, ba tông đồ đã nhận ra vinh quang Thiên Chúa của Thầy mình, và tương quan mật thiết cha – con giữa Thầy và Chúa Cha qua tiếng phán từ trời : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Cũng lời này đã được Chúa Cha  phán  hôm nào, bên bờ sông Giođan, khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa của Gioan (x. Mc 1,11).

Choáng ngợp bởi quang cảnh rực rỡ, hoành tráng khi “thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (Mc 9,4), cả ba tông đồ đếu ngất ngây và đồng thanh thưa với Đức Giêsu : “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!”, và mau mắn đề nghị : “Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho ông Êlia, một cho ông Môsê” (Mc 9,5.6).

Ở đây sướng quá là phải rồi, vì sẽ không phải nghe những lời chửi rủa, khích bác của đám Biệt Phái, Kinh Sư độc mồm ác miệng ; sẽ không bị những người giữ đạo cực đoan, qúa khích lên án, xua đuổi ; không phải ăn uống thất thường, vất vưởng đó đây, không nhà không cửa, nhất là không phải nghe những lời tiên báo cuộc thương khó sắp tới và Thầy sẽ “bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, giết chết…” (Mc 8,31).

Nhưng ước mơ ở mãi trên núi Biến Hình với Đức Giêsu, ông Êlia và Môsê  của ba ông sẽ không bao giờ được thực hiện, khi “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9,8). Và đây chính là chi tiết quan trọng trong trình thuật Biến Hình mà người viết xin được chia sẻ với qúy Bạn :

“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như  Đức Giêsu là Cứu Chúa duy nhất của chúng ta, vì Đức Giêsu là Tất Cả, như thánh Phaolô khẳng định, khi Thiên Chúa đã chẳng tha chính Con Một của Ngài, “nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32). Như thế, có Đức Giêsu là có Tất Cả, với Đức Giêsu, chúng ta chẳng còn lo lắng, sợ hãi gì, như lời thánh vịnh : “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi… Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 22,1-3.6).

“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như một mình Đức Giêsu  là Tình Yêu thương xót cứu sống mọi người, giống  như Ixaác đã được cứu sống khỏi lưỡi gươm từ tay Ápraham, cha mình, khi sứ thần Chúa kịp thời hiện đến can thiệp : “Ápraham! Ápraham!… Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó!” (St 22,11. 12).

“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng bảo vệ, che chở chúng ta, và một khi “có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8,31).

“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng thánh hóa, làm cho chúng ta nên công chính, khi tha tội chết, và cho chúng ta sống lại với Ngài, vì ai sẽ có thể buộc tội, nếu Đức Giêsu không buộc tội nhưng  chuộc tội chúng ta? Ai sẽ kết án, nếu Đức Giêsu không kết án, nhưng trắng án cho chúng ta? Thế lực nào có thể bắt chúng ta phải chết, nếu Đức Giêsu đã chết thay cho chúng ta và đã sống lại ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng ta? (x. Rm 8,33-35).

Thực vậy, cũng như ba tông đồ sau khi được chứng kiến vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài biến hình sáng láng trên núi hôm nào đã cùng Đức Giêsu xuống núi, trở về đời sống thường ngày để tiếp tục đối diện với bao khó khăn, thách đố, nhất là cùng Ngài bước vào đường Thánh Giá đau thương, nhục nhằn, chúng ta cũng được mời gọi đi với Đức Giêsu trên đường đời nhiều chông gai, trắc trở ; được kêu gọi lên thuyền với Đức Giêsu ra khơi nhiều sóng gió nguy hiểm, và  cũng như các tông đồ, “trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).

Mùa Chay là thời gian thuận tiện Chúa dùng để biến đổi mỗi người, là cơ hội chúng ta theo Đức Giêsu “đi riêng ra một chỗ” (Mc 9,2), chỉ mình ta với Ngài, để được chiêm ngưỡng tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài, cũng là tình yêu Ngài dành cho mỗi người chúng ta, đồng thời để được tình yêu ấy biến đổi, thanh luyện đến độ không một ai, một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Giêsu, “cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương qủy lưc, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8,38-39), bởi hành trình trở về của Mùa Chay là trở về với Đức Giêsu, trở về gặp gỡ Đức Giêsu, trở về sống với Đức Giêsu, trở về kết hiệp nên một với Đức Giêsu, như ba tông đồ sau khi đã thấy mọi vinh quang trên núi, “đã không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”; như hai môn đệ trên đường Emmau  sầu thảm đã chẳng có ai làm bạn đường, nhưng “chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (x. Lc 24,13-35) ; như các môn đệ đóng kín các cửa vì sợ người Do Thái, sau khi Đức Giêsu chết và chôn trong mồ đã “chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi, khi Ngài hiện đến ban cho các ông Bình An phục sinh của Ngài” (x. Ga 20, 19-23).

Như các vị, chúng ta cũng phải cố gắng đạt đến tình trạng “chỉ còn Đức Giêsu với ta mà thôi”, vì trong cuộc đời sẽ có những lúc chúng ta chẳng còn ai, chẳng còn gì, nhưng tất cả đều bỏ ta đi, tất cả đều hững hờ, lãnh đạm, tất cả đều chối từ, xua đuổi, tất cả đều thay mặt đổi lòng, kể cả những người ta dồn hết hy vọng, cho hết tình yêu. Trong những hoàn cảnh bi đát, thê lương ấy, ước gì chúng ta đừng quên “chỉ còn Đức Giêsu với ta mà thôi”, như người tử tội bị đóng đinh bên phải Đức Giêsu ở giây phút cuối cùng của cuộc đời, khi không còn ai đoái hoài , không một ân tình thương cảm, ủi an đã chợt nhớ ra : “ngay bên cạnh mình còn có Đấng Cứu Độ giầu lòng xót thương, giữa cuộc đời cô độc, tội lỗi, bị nguyền rủa, kết án, “còn có Đức Giêsu” ở với và chia sẻ gánh nặng tội lỗi, cũng như thân phận bị lên án, loại trừ của mình .

Ước gì trong Mùa Chay, chúng ta gặp được Đức Giêsu, Đấng không bao giờ xa ta, bỏ ta, cả khi ta không còn ai, và ta bỏ Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu ta vô cùng và đến cùng, vì Ngài là Thiên Chúa Cứu Độ rất nhân hậu, bao dung, thương xót.

Về mục lục

CÙNG VỚI CHÚA GIÊSU

Bông hồng nhỏ

Có hai ngọn núi đã ghi dấu ấn rất đặc biệt trong cuộc đời của Thầy Giêsu: núi Tabor và Canvê. Núi Tabor, nơi Thầy Giêsu bày tỏ vinh quang cho ba môn đệ thân tín trong cuộc Biến Hình. Trước khuôn mặt chói người của Thầy trong cuộc Hiển Dung, ba môn đệ sợ hãi kinh hoàng, nhưng lòng chan chứa niềm hạnh phúc. Trên đỉnh Canvê, Thầy Giêsu bày tỏ vinh quang trong khuôn mặt của Người Tôi Trung chịu đang khổ. Trên đỉnh đồi Canvê, ba môn đệ thân tín giờ chỉ còn lại một mình Gioan trung kiên theo Thầy trong suốt cuộc Thương Khó. Phêrô chối Thầy nay đang tìm nơi khóc lóc, Giacôbê cũng sợ hãi mà bỏ chạy ngay trong vườn Cây Dầu. Cuộc đời của ta cũng sẽ là những tháng ngày cùng với Chúa Giêsu bước vào vinh quang trong cuộc Biến Hình và trong cuộc Khổ Nạn của Người.

Trên núi Tabor hôm nay, Thầy Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan theo mình. Trước sự chứng kiến của ba môn đệ, Thầy Giêsu bày tỏ vinh quang của Người: “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (Mc 9,3-4). Trong vinh quang chói lòa rực rỡ ấy, cả ba ông đều kinh hoàng. Thầy Giêsu mà các ông vẫn yêu mến quả thực là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông Phêrô xin Thầy dựng lều để ở luôn tại đó. Nhưng có một đám mây bao phủ các ông và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (x. Mc 9, 5-7). Một lần nữa, Chúa Cha đã xác thực rằng Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Người. Mỗi ngày, ta cũng được Chúa Giêsu mời gọi hãy cũng Chúa biến hình. Đó là khi ta để Chúa biến đổi trái tim, tâm trí, miệng lưỡi, đôi tai, đôi tay, đôi chân và trọn vẹn con người ta. Để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, ta hãy dành thời gian để ở riêng với Người. Chỉ khi được Chúa dẫn riêng ra một nơi, ta mới được cùng Người sống thân mật. Trong thinh lặng của tâm hồn, ta sẽ lắng nghe được lời mời gọi của Chúa, sẽ chiêm ngắm thật sâu khuôn mặt của Đấng mình yêu mến, nhìn ngắm từng hành động đầy yêu thương của Người. Khi đã được thôi thúc hành động như Chúa mời gọi, ta hãy tiếp tục để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, Người sẽ cho ta biết mình phải làm gì. Nếu không đọc và suy gẫm Lời Chúa, làm sao ta nhớ được Lời Người dạy dỗ. Cuộc sống vốn dĩ rất ồn ào và giữa lúc giằng co của những chọn lựa, làm sao ta có thể nghe được sự thúc đẩy của Lời Chúa? Bằng việc đọc và suy gẫm một câu Lời Chúa mỗi ngày, để Lời khắc sâu vào trong tâm khảm của mình, ta sẽ từng bước cảm nhận được sự sống thần linh đang trào lên trong tâm hồn.

 Ánh sáng chói lòa của Chúa Giêsu trên núi Tabor là một sự cuốn hút mãnh liệt và mang lại cho các môn đệ niềm hạnh phúc tuyệt vời. Chiều buồn trên đồi Canvê loang máu lại buồn thê lương. Trước khuôn mặt bầm dập và cả thân hình loang máu của Thầy, người môn đệ chỉ thấy trái tim thắt lại và đau đớn vì bị đâm nát. Các anh em khác đã bỏ trốn vì sợ hãi, hoảng loạn. Còn đâu vinh quang rực rỡ của Thầy! Ở trong nỗi đau tận cùng, ta cũng sẽ thất vọng và đau khổ. Ta có thấy mình đang đứng dưới chân thập giá không? Hãy ngước nhìn lên Đấng bị đâm thâu, Người đang chia sẻ với ta cùng một nỗi đau. Người dạy ta tâm tình của một người con biết phó thác mọi sự cho Thiên Chúa Cha. Người mời gọi ta hãy thông phần đau khổ với Người. Trước khi những đau khổ ấy ập đến với ta, đè nặng lên đôi vai và trái tim ta, nó đã đè nặng lên đôi vai của Người, nó đã đâm nát trái tim Người, đã đâm thủng đôi tay và đôi chân của Người. Những lằn roi đẫm máu đã làm cho Người đớn đau và kiệt sức. Người vẫn đang chịu cùng một nỗi đau với ta và với cả nhân loại này. Người mang lấy nhân loại trong trái tim của Người, Người ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Đừng thất vọng, đừng đánh mất niềm hy vọng nhưng hãy đặt hy vọng vào Chúa, Người là sự phục sinh và là sự sống. Người mở ra cho ta một con đường dẫn vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con cảm nhận niềm hạnh phúc được làm con Chúa. Mỗi ngày, xin Chúa đến với con, cho con được cùng Chúa bước vào cuộc Biến Hình để con cũng can đảm cùng Chúa bước vào cuộc Khổ Nạn. Xin cho con luôn khắc ghi Lời Chúa trong tâm khảm để Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. Amen.

Về mục lục

ĐƯỢC BIẾN HÌNH

Thiên San

Đức Giêsu dẫn riêng Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người dẫn họ lên một ngọn núi cao. Ở đó, Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Có ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Một đám mây bao phủ các ông, từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7).

Việc Đức Giêsu dẫn riêng ba môn đệ thân tín đi riêng ra một nơi, lên một ngọn núi cao cho ta thấy điều gì? Tại sao Ngài không dẫn cả nhóm Mười hai? Thực ra, Đức Giêsu hoàn toàn tự do trong việc tuyển chọn. Cũng như trong biến cố phục sinh, Ngài đã không hiện ra với tất cả mọi người nhưng chỉ với một số người. Tại biến cố biến hình, Đức Giêsu gọi ba môn đệ đi theo mình để tỏ cho các ông thấy vinh quang, dung nhan biến hình của Ngài. Ngài muốn cho các ông xem thấy vinh quang của mình, đồng thời củng cố đức tin cho các ông, giúp các ông thoát khỏi nguy cơ bối rối trước gương mặt “xấu xí” của Người trên thập giá (x. Tông huấn ĐSTH số 15).

Trước dung nhan biến hình của Thầy Giêsu, các môn đệ hoàn toàn kinh hoàng (Mc 9, 6). Như các môn đệ, chúng ta có sẵn sàng đi theo lời mời gọi của Thầy Giêsu? Lên một “ngọn núi” và ở đó với Thầy để Thầy tỏ mình ra cho ta? Dường như cuộc sống mưu sinh khiến ta sẵn sàng từ chối Chúa và không thể dành thời gian để đến với Ngài, chẳng hạn như không muốn đi lễ, không muốn đọc kinh vì sợ mất giờ. Mùa Chay là cơ hội thuận lợi để ta trở về với Chúa, đến và ở lại cách riêng với Ngài. Ở lại với Ngài là điều rất cần cho ta. Đó cũng là kinh nghiệm của sự tin tưởng để trở về với Thiên Chúa, để có thể thổ lộ con người của ta cách chân thành, cùng nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình. Ta hãy tha thiết xin Chúa Giêsu trong biến cố biến hình giúp ta thực hiện một cuộc hoán cải, một cuộc “biến hình” từ say rượu thành say Chúa, từ gái điếm thành thánh nhân (x. Suy niệm kinh Mân côi thứ bốn Mùa Sáng)…

Cũng trong biến cố này, một mạc khải lớn lao được ban cho nhân loại: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7). Đức Giêsu chính là Con yêu dấu của Chúa Cha. Lời mời gọi từ Thiên Chúa thật cụ thể và rõ ràng. Không gì khác hơn trong sự hoán cải của ta ngoài việc tin yêu Con Một Thiên Chúa, quay trở về với Người. Ý muốn của Chúa Cha chính là chúng ta tin nhận Đức Giêsu Kitô chính là Đấng Chúa Cha sai đến. Tin có nghĩa là sống điều Đức Giêsu mời gọi. Chính trong tương quan cá vị với Ngài, chúng ta sẽ được “biến hình”, được trở nên con cái đích thực của Ngài. Đó cũng là động lực thúc đẩy ta sống cho những đòi hỏi của Chúa, để diễn tả tương quan tình yêu của ta với Ngài, với xác tín ta được Ngài yêu cách rất riêng.

Cuộc sống ồn ào, nhiều cạm bẫy khiến ta không còn là chính mình. Ở lại với Chúa Giêsu giúp ta có được một cuộc “biến hình”, để khi biết sám hối, trở về với Ngài, ta sẽ được mặc lấy con người mới. Con người mới ấy sẵn sàng đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa, sẵn sàng “lên núi cao” và cũng sẵn sàng “xuống núi” với Chúa. Nhờ đó, ta được thông dự cả thập giá cũng như vinh quang cùng với Người.

Về mục lục

CON NGƯỜI PHẢI LÒNG THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Đứng trước Thiên Chúa, con người tự thấy mình hèn kém. Nó sợ hãi khi nghĩ đến sự công thẳng của Thiên Chúa giáng xuống những con người tội lỗi. Nhưng nhìn về tình yêu bao la của Chúa, con người lại e dè, xấu hổ. Nó tự thấy mình bất xứng với tình yêu mà Chúa Cả Trời Đất dành tặng cho nó. Thiên Chúa thì mải mê tìm kiếm và tỏ tình với con người. Rồi cũng đến lúc con người ngã vào lòng Thiên Chúa. Lịch sử cuộc tình ấy tiếp tục được trình bày trong Chúa nhật thứ II này.

Người đầu tiên thuận lòng theo Chúa

Sau khi đơn phương ký kết với ông Noe, Thiên Chúa không ngừng bày tỏ tình thương của Ngài với con người. Nhưng sau biến cố Đại Hồng thủy bi thương, dường như con người chẳng sợ hãi Thiên Chúa; Con người tiếp tục làm ngơ trước tình thương của Ngài. Câu chuyện tháp Bael như lặp lại cái tội kiêu ngạo của con người, tội đòi được bằng Trời. Tuổi thọ của các tổ phụ được mô tả dần dần bị giảm xuống cho thấy hậu quả của tội lỗi con người tiếp tục đè nặng trên đôi vai của nó.

Abraham, một người cụ thể phải lòng Chúa đã đột ngột bước vào lịch sử cuộc tình giữa Trời và người. Một con người chính thức gục ngã trước tình thương của Chúa. Ông đã không thể cưỡng lại được tình cảm yêu mến và sự chăm lo của Chúa dành cho Ông. Abraham đã thất thần phải lòng Thiên Chúa. Ông bước đi theo Ngài bất chấp mọi sự. Ra đi nhưng Ông không biết mình sẽ đi đâu. Chỉ đơn giản là Ông đi theo tiếng gọi của Ngài.

Bài đọc thứ nhất (St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18) trích lại phần cao trào thử thách mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Chấp nhận đi theo Chúa rồi, nhưng những gì trải ra trước mắt Ông chỉ toàn là những trái ngang và mù mịt. Lời Chúa hứa ban cho Ông Bà một dòng dõi đông đúc luôn được Chúa nhắc lại. Nhưng điều quan trọng là tuổi Ông Bà đã già mà vẫn chưa có con thì nói gì đến dòng dõi. Thế rồi niềm hy vọng được khơi lên mạnh mẽ khi đứa con trai duy nhất của Ông Bà đến tuổi khôn. Nhưng chính lúc ấy thì Thiên Chúa kêu Ông hãy hiến tế con mình. Trái ngang và mịt mù làm vậy, nhưng Abraham vẫn nhanh nhẹn bước đi và thi hành theo Lời Chúa. Ông đã phải lòng Chúa thật rồi.

Tại sao Chúa lại cứ thử thách con người như thế? Người ta có thể than trách về Ngài cứ như là Chúa chỉ nói lời chứ không thực hiện. Nhưng lịch sử cho thấy Thiên Chúa đã dần thực hiện lời hứa của Ngài với tổ phụ Abraham về một dòng dõi đông đúc, một miền đất phì nhiêu và một lời chúc phúc. Ngược lại, lịch sử của con người lại phơi bày những yếu đuối, đổ vỡ, phản bội và bất trung với Chúa. Những thử thách trong tình yêu nhằm thanh tẩy con người ấy càng làm cho câu chuyện tình của Chúa và con người ngày càng trở nên mãnh liệt và đầy thi vị.

Cảm nếm cảnh xum vầy chan hòa hạnh phúc

Trong bài đọc thứ hai (Rm 8, 31b-34) trích từ thư Thánh Phaolo Tông đồ gửi tín hữu Roma, thánh nhân đã thốt lên: “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Tình yêu mà Chúa dành cho con người quả thực không có biên giới. Thiên Chúa đã không để cho Tổ phụ Abraham dâng hiến đứa con một của mình cho Ngài. Nhưng đến lượt Ngài, thì Ngài đã trao ban chính Con Một của mình cho con người. Thiên Chúa không bao giờ để cho con người bị tận diệt; và để cứu con người khỏi cảnh hư vong, Thiên Chúa đã trao ban tất cả cho con người.

Nếu có giây phút nào đó khiến con người nghi ngờ tình yêu của Chúa, thì Ngài sẵn sàng cho con người hưởng kiến vinh quang ngày chiến thắng, ngày đoàn tụ trong hân hoan. Khung cảnh thần hiện của Chúa Giêsu trên núi Tabor được thuật lại trong bài Tin mừng Chúa nhật này (Mc 9, 1-9). Chúa Giêsu biến hình trở nên sáng láng cùng sự xuất hiện của Môsê và Êlia. Tất cả làm cho không gian trở nên lạ thường. Các môn đệ chứng kiến cảnh này đã bị choáng ngợp trước vẻ huy hoàng. Phêrô lên tiếng nhưng “Phêrô không rõ mình nói gì”. Các ông như không còn ý thức về thân phận mình nữa mà chỉ còn lại là sự thâm nhập của Chúa vào trong con người các ông.

Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”. Được cảm nếm giây phút rạng ngời trong Chúa, các ông chẳng còn thiết tha gì ở thế gian này. Ông đã thốt lên một lời trong tâm trạng hoảng sợ. Đứng trước cảnh tượng mà người ta chỉ còn có thể ngây người, há miệng, trố mắt nhìn thì làm sao mà còn nghĩ được gì. Phêrô nói mà còn chẳng biết mình nói gì. Nhưng nó lại cho ta thấy khát vọng sâu xa của con người là được ở lại trong Chúa. Lời thốt lên ấy của Phêrô là tiếng vọng từ tận sâu thẳm của tâm hồn con người. Chứng kiến một tình yêu cao cả đến thế nơi Chúa thì con người cũng dần phải lòng hết thôi.

Ngẫm

Phải lòng Thiên Chúa là hạnh phúc cho con người. Tình yêu Chúa có sức thanh tẩy con người tội lỗi, tái tạo và biến đổi con người đổ vỡ trở nên thánh thiện tinh tuyền. Chỉ một lần bạn được cảm nếm sự dịu ngọt của Chúa, bạn sẽ thấy tâm hồn trở nên tươi mới. Và cũng chỉ một lần bạn được ngã vào vòng tay yêu thương của Chúa sẽ muôn đời bạn không thể quên Ngài. Những ngày tháng, hay chỉ là những phút giây bạn phải lòng Thiên Chúa, bạn bị Chúa chiếm hữu tâm hồn, thì bạn sẽ đủ nghị lực và niềm tin để vượt qua tất cả mọi chông gai thử thách trên đường đời.

Nếu không màng chi đến thời khắc lịch sử, thì Mùa Chay đến rồi lại đi. Chẳng còn gì đọng lại trong tôi, trong bạn. Mùa Chay là cơ hội, là dịp mà con người tự tạo ra cho nhau để mà cùng nhau cảm nếm Tình yêu Chúa. Trong tĩnh lặng hay trong hoảng loạn, trong không gian thiêng thánh hay giữa chốn phồn hoa, lời tỏ tình của Chúa vẫn không ngừng vang lên.

Hãy dừng lại một chút để cảm nếm bạn ạ. Hãy nuốt đi những miếng nhai nhồm nhoàm để hớp lấy giọt sương sa thanh khiết mát rượi; hãy bỏ xuống chiếc kính màu chắn nắng để diện kiến vinh quang rạng ngời của Tạo Hóa; hãy rút cái phone ra khỏi tai để bạn có thể nghe thấy âm thanh thực của cuộc sống, những âm thanh từ trời cao hay tiếng róc rách của con suối dưới chân đồi; hãy mở rộng tâm hồn để được cảm nhận tất cả những cung bậc của tình Trời và người đang rung lên từ những tế bào sống trong ta.

Về mục lục

HÀO QUANG THIÊN CHÚA

Lm Vũđình Tường

Hào Quang Thiên Chúa trên đỉnh núi ngày Chúa Biến Hình vượt khỏi trí tưởng của các tông đồ. Sự hiện diện sáng chói của hai tổ phụ Môisen and Elijah chứng tỏ sau cuộc sống trần gian còn một cuộc sống khác tươi sáng hơn, chói lọi hơn, hào quang hơn. Cuộc sống đó dành riêng cho những kẻ tín trung với Thiên Chúa. Hai tổ phụ là những nhân chứng đức tin, vị trước biểu tượng của lề luật và vị sau đại diện các tiên tri. Cả tổ phụ Môisen lẫn Elijah sống trước các tông đồ ngàn năm và các tông đồ không hề gặp trở ngại trong việc nhận ra các ngài. Nhận ra các tổ phụ ngay tức khắc. Chúng ta vẫn thắc mắc làm sao nhận ra tiền nhân khi chúng ta gặp lại các ngài nơi Thiên Quốc. Tông đồ Đức Kitô có câu trả lời xác đáng, bởi chính các ngài đã có kinh nghiệm đó.

Tựa như mặt trăng nhận ánh sáng từ mặt trời. Chúa tỏ vinh quang Chúa qua các tạo vật Chúa dựng nên. Nhân loại không gặp trở ngại gì trong việc thưởng thức loại vinh quang thứ hai Chúa ban tạo vật. Thực ra, tạo vật được tạo dựng cho nhân loại hưởng dùng. Nhân loại bàng hoàng cảnh rực rỡ ban mai, hừng đông hay chiều tà. Con người ngạc nhiên cảnh hùng vĩ của núi rừng, thả hồn nơi bầu trời xanh mát, hay thất thần ngắm nhìn vực thẳm, kinh ngạc vẻ bao la của đại dương, thất thần nhìn sóng thần cuồn cuộn đổ. Cánh hoa sau nhà, trước ngõ, rực rỡ, sáng nở, tối tàn cũng mang lại nguồn vui, nguồn cảm hứng và là quà tặng cao quí trong hầu hết mọi trường hợp. Còn có loại vinh quang thứ ba do con người tạo nên. Loại vinh quang này khi nó mang tiếng cười cho người này, nó lại làm lệ rơi người khác; người này dư thừa của ăn, thức uống, kẻ khác đói đêm, khát ngày. Vinh quang đó là tiền tài, danh vọng, chức tước, bổng lộc.

Vinh quang Thiên Chúa sáng hơn mặt trời, trong hơn tuyết, không gì có thể làm lu mờ vinh quang Chúa. Vinh quang đó chính là tình yêu Chúa. Tham vọng con người không thể đụng chạm đến. Vinh quang nơi tạo vật, con người có thể dùng quyền lực tranh giành, làm vẩn đục vinh quang nơi tạo vật. Chúa dựng nên cho mọi người dùng chung, nhưng tham vọng khiến con người dùng quyền thế, ngăn người này, cấm người kia, dành riêng cho phe nhóm hưởng dùng. Loại vinh quang thứ ba do con người tạo ra là loại vinh quang tồi tệ nhất. Vinh quang trần thế là đầu mối mọi đau khổ, đầu mối mọi tội phạm, gây nên bởi tính kiêu ngạo và lòng tham con nguời. Vinh quang trần thế bị Satan lợi dụng, chúng là mồi nhử gây thù, tạo hận, nuôi ghen, dưỡng ghét. Satan tự nhận đó là của chúng, do chúng làm chủ. Có lần Satan nói với Đức Kitô, ‘Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa, lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy í’. Lc 4, 6. Lời nói vừa đại nghịch, vừa đại lừa dối. Ai trao cho chúng hay chính chúng phịa ra câu nói tụ phụ kia. Tù nhân nghe kẻ có quyền trong tay tuyên bố, ‘tao để cho mày sống thì mày được sống, tao bắt mày chết thì mày phải chết, tao cho ăn thì được ăn, cho uống thì được uống’. Cách nói lạm quyền, giọng điệu, ngôn ngữ của Satan.

Trên đỉnh núi ánh sáng vinh quang Chúa chói loà khiến các tông đồ không thể nhìn thẳng vào, mà phải cúi gằm mặt xuống đất tránh bị loá mắt. Nhân loại không được tạo dựng để trực tiếp đối diện Thiên Chúa. Môn đệ trung tín Đức Kitô hy vọng trực diện vinh quang Chúa trong lần Đức Kitô quang lâm lần thứ hai. Môn đệ Đức Kitô nghe tiếng Chúa và tiếng các tổ phụ. Phêrô đại diện anh em xin cùng Đức Kitô lập ba lều trên núi thánh. Điều xin, Đức Kitô chưa đáp trả thì có tiếng Chúa Cha phán bảo các ông,
‘Đây là Con Ta hằng yêu mến, các ngươi hãy nghe lời Ngài’. c.8.
Nghe lời Đức Kitô, các ông xuống núi và trên đường đi Ngài dặn thêm,
‘Không được kể lại cho ai những điều tai nghe, mắt thấy cho đến sau khi Con Người từ cõi chết sống lại’. c. 9.

Môn đệ Đức Kitô thích lưu lại trên núi bởi các ông chưa hiểu nhìn thấy vinh quang Chúa có kèm theo sứ vụ. Trường hợp Môisen, sứ vụ của ông là dẫn dân Chúa vào miền Đất Hứa. Sứ vụ Đức Kitô là cứu dân Chúa thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi, ma qủi và dẫn đưa dân Chúa vào cuộc sống trường sinh.

Trong cuộc sống đôi khi chúng ta chọn vinh quang Chúa, khi khác lại lầm lẫn, yếu đuối chọn vinh quang trần thế. Thiên Chúa yêu thương không bỏ mặc con người, dù người đó đang sống trong tình trạng tội lỗi, Thiên Chúa vẫn thương, tha thứ, cứu giúp, kiên nhẫn đợi chờ con người nhận điều sai trái, thống hối, ăn năn, trở về cùng Chúa. Nhìn thấy vinh quang Chúa nhắc nhở chúng ta, Thiên Chúa luôn ở cùng nhân loại. Ngài tiếp tục hướng dẫn, bảo vệ và chia sẻ đau khổ, khó khăn của con người. Bước theo Đức Kitô trong tin yêu, hy vọng. Đức Kitô hứa sai Thánh Thần xuống hướng dẫn, cùng đồng hành với ta trong mọi tình huống của cuộc sống. Điều này lần nữa cho biết nhân loại không bao giờ cô đơn trên đường lữ hành, nhưng luôn có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành.

Mùa chay là mùa làm cho vinh quang Chúa sáng toả cho mọi người. Qua ăn chay, hãm mình, cầu nguyện, và việc bác ái, hy vọng vinh quang Chúa sáng toả nơi muôn dân.

Về mục lục

HÃY NGHE LỜI NGƯỜI

                                                                   Lm. Xuân Hy Vọng

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo hội vẫn tiếp tục sứ mạng trở nên chứng tá cho lòng nhân từ, xót thương và đầy yêu thương của Chúa qua mỗi ngày, đặc biệt Mẹ Giáo hội cùng với chúng ta nhận bụi tro trên đầu, ý thức thân phận yếu hèn, dễ sa ngã của bản thân. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi bước vào thời kỳ ân sủng của Mùa Chay, hướng chúng ta trở về với Chúa, lắng nghe Lời Người và tái khám phá vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ, tôn kính.

Trước hết, Thiên Chúa – Đấng mãi giữ lời: Ab-ra-ham tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, mặc dù chưa biết đích đến là đâu. Ông vâng nghe và thực hiện ngay những gì Người phán truyền, thậm chí chịu hy sinh sát tế đứa con được ân ban. Nhờ vào niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, mà Ab-ra-ham đã chẳng từ chối điều gì, và ông sẵn sàng làm theo thánh ý Chúa. “Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22, 16-18). Xuyên suốt dòng lịch sử dân tộc Is-ra-el, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì Người phán hứa. Thiên Chúa hằng trung thành, tín trung, giữ trọn lời của Người, không những dành cho dân Is-ra-el, mà còn trao ban dồi dào cho chúng ta qua Con Một yêu dấu của Người.

Thứ đến, Thiên Chúa – Đấng hằng bên đỡ: Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?…Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta” (x. Rm 8, 31. 34). Thiên Chúa không chỉ giữ lời phán hứa, mà còn luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ chúng ta, dẫu ta chẳng xứng đáng với Người. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là: chúng ta cho rằng Thiên Chúa đương nhiên phải chăm nom, coi sóc ta; trong khi đó chúng ta vẫn mãi mê với tư lợi, với dự định cá nhân, mà chẳng đoái hoài đến lời kêu mời, thúc giục của Người mỗi ngày, hầu hân hoan thực thi Lời Người, và sống chính trực, yêu thương, tha thứ như Người giáo huấn chúng ta qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức Thánh, qua mọi biến cố cuộc đời.

Sau cùng, Thiên Chúa – Đấng luôn hiển dung: Trước khi lên Giê-rê-sa-lem chịu tử nạn, Đức Giê-su đã biến hình, tỏ cho ít nhất ba môn đệ thân tín biết vinh quang của Người. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận thấp hèn con người, mà vâng phục thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá, nhưng từ cõi chết, Người phục sinh. Mầu nhiệm khổ nạn-chịu chết-phục sinh (thường được gọi là biến cố cuộc đời Đức Ki-tô – Christ-event) được tái diễn hằng ngày trong đời sống đức tin của chúng ta, nhất là: trong Thánh lễ, khi tham dự các Bí tích, khi sống Lời Chúa, khi chúng ta sống bác ái, tha thứ. Nhờ đó, Chúa hiển dung nơi cung lòng chúng ta, trong cộng đoàn, hội nhóm chúng ta, trong gia đình và mọi mối tương quan của chúng ta, giúp chúng ta biến đổi cung cách sống, lối sống, tất cả các phương diện con người chúng ta. Tuy nhiên, để cảm nghiệm trọn vẹn nó, tiên vàn, chúng ta phải ghi nhớ lời của Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (x. Mc 9, 7). Chúng ta phải tháp nhập vào Đức Giê-su, phải nương náu, sống với Người, ở lại trong Người, ngõ hầu mọi lời nói, hành vi, tư tưởng,…của Đức Giê-su tỏ lộ rõ rệt nơi chúng ta.

          Lạy Thiên Chúa – Đấng trung tín

          Xin cho con luôn nhủ mình tín trung

          Giữ trọn lời Chúa đến cùng

          Sống trong hoan lạc thuỷ chung tinh tuyền.

          Lạy Thiên Chúa – Đấng mãi liên

          Hằng bên đỡ dù triền miên ngày tháng

          Che chở con, tình chứa chan

          Luôn chính trực, đời bình an thiết tha.

          Lạy Thiên Chúa – Đấng ngợi ca

          Mặc lấy xác phàm, bao la tin yêu

          Chịu khổ hình Thập tự treo

          Phục sinh vinh thắng, sống theo Cha hiền.

          “Đây là Con Ta tinh tuyền,

Vâng nghe Người dạy, hằng luôn thi hành”. Amen!

Về mục lục

LÊN NÚI.

Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay năm B, Thánh Máccô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu đưa ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng với Người lên ngọn núi Tabor. Đây là ba môn đệ thân tín của Chúa. Người yêu họ cách đặc biệt. Điều đó cho thấy, Chúa Giêsu khi xuống trần gian, Người cũng rất người. Người yêu mọi người nhưng vẫn có những tình cảm đặc biệt cho một số người. Người biến hình trước mặt ba môn đệ. Áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không một thợ giặt trên trần gian nào có thể giặt trắng đến thế. Đó là một khoảnh khắc kỳ diệu trong đời. Ba môn đệ đã ngơ ngẩn, ngẩn ngơ khi chứng kiến khoảng khắc đó. Phêrô đã thốt lên “chúng con ở đây thật là hay”. Ông nói mà không biết mình nói gì vì tất cả các ông đều hoảng sợ. Quả thực, không hay sao được khi được ở bên Chúa, được xem thấy Chúa. Nếu có một điều để ước, tôi cũng ước được ở đó cùng với ba môn đệ để chứng kiến khoảnh khắc Chúa biến hình. Chỉ một lần và chỉ một lần thôi, được thấy Chúa là mãn nguyện lắm rồi.

Nếu như Chúa Nhật I, Chúa mời tôi vào sa mạc, thì Chúa Nhật II hôm nay, Chúa mời tôi lên núi với Người. Sa mạc và núi cao đều là những nơi Chúa hẹn gặp con người. Giữa thiên nhiên tươi đẹp, Chúa ngỏ lời với con người. Để gặp được Chúa, tôi cũng phải ra khỏi bản thân để lên núi với Người.

Có một lần, tôi cùng với một nhóm Linh mục đi lên núi Yên Tử. Đây là ngọn núi cao 1068m so với mực nước biển, có ngôi Chùa Đồng nổi tiếng, nằm ở ranh giới của hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Dù đã có hệ thống cáp treo nhưng du khách vẫn phải tự leo lên một quãng đường khá dài. Trong nhóm của chúng tôi, một số cha lớn tuổi xin đầu hàng ngay từ đầu. Một số khác leo được giữa chừng thì bỏ cuộc vì bụng to quá. Chỉ có một nhóm nhỏ lên được tới đỉnh núi. Người lên đỉnh núi đầu tiên là một vị linh mục nhỏ nhất. Có lẽ ngài chỉ khoảng hơn 40 kg.

Quan sát vị linh mục chinh phục đỉnh núi đầu tiên, tôi rút ra được một bài học cho riêng mình. Để leo lên một ngọn núi cao, tôi cần phải có những hành trang cần thiết.

Thứ nhất đó là một niềm tin kiên vững không bỏ cuộc. Leo núi đòi tôi phải tốn nhiều sức lực. Có những đoạn đường nhiều chông gai không dễ đi. Tôi dễ dàng bỏ giữa chừng. Tôi cũng có thể thấy một cái gì đó trên đường lôi cuốn khiến tôi xao lãng. Tôi cần phải mạo hiểm, phải ra khỏi bản thân để có một cú nhảy của niềm tin, như niềm tin của cụ Abraham trong bài đọc 1 (St 22, 1-18 ). Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế chính con một yêu dấu của mình là Isaac cho Ngài. Đây là điều vượt quá luân thường đạo lý. Không có một nền luân lý nào cho phép cha giết con. Đó là một tội ác không thể dung thứ. Vì thế mà hành động của Abraham chỉ có thể hiểu được trong viễn cảnh ông tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông tin Thiên Chúa có thể trả lại sự sống cho Isaac và ông vẫn sẽ là tổ phụ của một dân đông đảo. Trong tác phẩm “Kinh hãi và run sợ” (Crainte et Tremblement), Soren Kierkegaard đã viết những dòng vô cùng tuyệt vời để diễn tả niềm tin của Abraham “Tôi nghiêng mình bảy lần trước quý danh Ngài và tôi nghiêng mình bảy mươi lần trước hành động đó của Ngài”. Abraham đã trở thành cha của những người có niềm tin là thế.

Thứ hai, để lên núi, tôi cần buông bỏ. Tôi cần bỏ lại những hành trang cồng kềnh khiến con người tôi ra nặng nề. Bụng càng to càng khó leo núi. Biết bao thứ trong cuộc đời bủa vây tôi. Tham luyến, sân hận, si mê đó là những thứ như muốn kéo ghì tôi xuống. Tôi cần can đảm chặt đứt những thứ đó để có thể nhẹ nhàng thanh thoát. Càng nhẹ nhàng, tôi càng dễ dàng bay cao. Có những thói quen đã ăn sâu vào con người tôi. Muốn bỏ đi quả là điều không hề dễ dàng.

Lạy Chúa, xin biến đổi con mỗi ngày. Xin cho con một niềm tin kiên vững vào Chúa. Xin cho con biết thành tâm sám hối mỗi ngày để loại bỏ đi những Virus độc hại vẫn thường xâm chiếm linh hồn con. Xin cho con biết chạy đến với Chúa mỗi ngày bởi vì: “Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề. Ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi” (Tv 16,11).

Về mục lục

MỘT THOÁNG THIÊN ĐÀNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn. Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26). Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho họ cảm nếm một chút Thiên Đàng trước Thiên Đàng.

[Một thoáng Thiên Đàng đã làm cho ông Phêrô ngây ngất và muốn ở lại đó luôn: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”. Ông Môsê đại diện cho luật, ông Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông đến chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đấng mà hai ông đã loan báo và chờ đợi. Ông Môsê đã xin cho được thấy dung nhan Thiên Chúa mà không được (x.Xh 33,19-22). Ông Êlia là “ông Ba Lửa”, ba lần khiến lửa từ trời xuống, một lần để đốt của lễ trên núi Cat Minh (1V 18, 36-38), hai lần để đốt lính của vua (2V 1,9-12); ông không xin được thấy dung nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa tỏ cho ông thấy Người không ở trong gió bão, không ở trong cơn động đất, không ở trong lửa. “Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông” (1V 19,11-13). Hôm nay cả hai ông được chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đức Kitô.

Ông Phêrô ngây ngất không biết phải nói gì, “vì các ông kinh hoàng”. Đây không phải lần đầu các ông kinh hoàng. Nhưng hôm nay nỗi kinh hoàng lên tới cực độ khi đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Đó là câu trả lời cho sự phản kháng của ông Phêrô. Hãy vâng nghe lời Người, kể cả lời về thập giá mà loài người không thể chấp nhận. Chỉ có Con Yêu Dấu của Thiên Chúa mới chấp nhận và cho ta sức mạnh để vác mà đi đàng sau Người, để có thể vào trong vinh quang với Người. Tại sao Thiên Đàng lại ở cuối con đường thập giá? Tại sao lại cần đến Con Yêu Dấu của Thiên Chúa để dẫn ta đi trên con đường ấy mà vào trong vinh quang?

Một thoáng Thiên Đàng trôi qua như gió thoảng, như mây bay: “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”. Trên đường xuống núi, Đức Giêsu lại truyền cho các ông giữ bí mật: “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”]. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô; Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 269).

Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(x.sđd, trang 273).

Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta. Nếu chúng ta“có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!

Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.

Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.

Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).

Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).

Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.

Về mục lục

LÂNG LÂNG LẠ LÙNG

Trầm Thiên Thu

Một số vị thánh được Thiên Chúa ban đặc ân khác thường mà chúng ta gọi là thần bí – được Thiên Chúa mặc khải những điều bí ẩn. Đời thường cũng có dạng khác lạ, được gọi là xuất thần.

Ở dạng bình thường, hằng ngày chúng ta gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa qua Thánh Lễ, Kinh Thánh, cầu nguyện, suy niệm,… Thánh Isaak Syria nói: “Nếu không xa lánh thế gian, chẳng ai có thể gặp được Thiên Chúa. Khi nói xa lánh, tôi không có ý nói về việc thay đổi chỗ ở thể lý, nhưng là xa lánh các sự trần tục. Nhân đức siêu thoát hệ tại ở chỗ không để tâm trí vướng bận về trần thế.”

Tín nhân cần biết sống khoảng sa mạc ngay giữa xã hội ồn ào náo nhiệt của đời thường, không chỉ trong những lúc đặc biệt như tĩnh tâm hoặc tham dự Phụng Vụ, mà có thể “tách” mình ra khỏi mọi thụ tạo bất cứ lúc nào. Đó là cách kết hiệp với Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:39)

Thuận tiện nhất là Mùa Chay Thánh, mùa “xé lòng” để “tách” khỏi sự xấu xa, cơ hội sửa đổi bằng cách sám hối và đền tội để hoàn thiện, tức là cố gắng nên thánh. Đó là điều rất cần thiết và cấp bách, bởi vì “không thánh thiện thì không được thấy Chúa.” (Dt 12:14) Ngài là Đấng Thánh nên Ngài chỉ trò chuyện với những ai thành tâm cố gắng hoàn thiện.

Nhân vô thập toàn. Ai cũng sai lầm. Ai cũng giả dối. (Rm 3:4) Ai cũng là tội nhân. (Rm 5:12) Ai cũng vốn dĩ xấu xa. (Mt 7:11; Lc 11:13) Đại nhân Khổng Tử phân tích chí lý: “Có sai lầm mà không sửa, đó mới thật là sai lầm.” Sai lầm thì phải chịu sửa, có tội thì phải bị phạt. Đó là điều tất nhiên. Nhưng không sai lầm và vô tội mà vẫn phải chịu đau khổ, thế mới… lạ. Trường hợp điển hình nhất là Thánh Gióp. Ông là người tốt lành, nhân hiền, công chính, nhưng ông đã phải chịu đau khổ tới tột cùng. Thiên Chúa không “chơi ép” ông mà Ngài làm vậy để nêu gương cho chúng ta, muốn chúng ta tôn vinh Ngài cách đặc biệt – theo cách “khác người.” Vả lại, chịu đau khổ là một mối phúc. (Mt 5:11)

Phàm nhân chúng ta không biết hết nên mới thử thách hoặc thử lòng nhau, còn Thiên Chúa thì không, vì Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20) Dùng từ ngữ thử thách đối với Ngài chỉ là cách nói của loài người mà thôi.

Ngày xưa, sau khi xảy ra nhiều chuyện, Thiên Chúa còn thử lòng ông Abraham. Ngài gọi ông và ông thưa: “Dạ, con đây!” (St 22:1) Ngài bảo ông đem đứa con yêu dấu duy nhất là Ixaác đến xứ Môrigia để dâng làm lễ toàn thiêu ở trên một ngọn núi mà chính Ngài sẽ chỉ cho. Chắc chắn Ngài chẳng thử thách hoặc thử lòng ai, Ngài chỉ muốn chúng ta “lập công” cho chính mình bằng cách chịu đau khổ – tuyệt đối vâng theo Thánh Ý. Thật vậy, Thánh Faustina cho biết: “Đau khổ là đại hồng ân; qua đau khổ, linh hồn trở nên giống Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên tinh tuyền; càng chịu đau khổ, tình yêu càng tinh khiết.” (Nhật Ký, số 57)

Sau khi tới nơi đã được chỉ định, ông Abraham dựng bàn thờ, xếp củi, rồi trói con trai Ixaác và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Ông cầm lấy dao để sát tế con mình. Nó là đứa con trai yêu quý nhưng ông vẫn vâng lời Chúa mà sẵn sàng sát tế con, không thắc mắc, không so đo, không chần chừ. Nếu là chúng ta, chắc là chúng ta không dám. Có thể chúng ta sẽ lý luận: Thiên Chúa là Đấng tốt lành mà lại bảo mình làm điều ác. Ngài là Sự Sống (Ga 14:6) mà lại bảo mình giết người? Thế thì Ngài mâu thuẫn, mình không thể làm theo mệnh lệnh này. Thế nhưng ông Abraham vẫn thi hành mệnh lệnh “ngược đời” như vậy. Vô cùng lạ lùng. Tuyệt đối tin tưởng. Đức Tin lớn quá!

Nhưng ngay khi ông sắp hạ sát con mình, sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông và ông thưa ngay: “Dạ, con đây!” (St 22:11) Ngài nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” (St 22:12) Ông Abraham ngước mắt lên nhìn thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây, ông liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.

Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và trao cho ông lời hứa: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.” (St 22:16-18) Thiên Chúa coi trọng đức vâng lời hơn của lễ. (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9) Tổ phụ Abraham đã vâng lời vô điều kiện, do đó ông được Thiên Chúa hứa ban những điều tốt lành, được công chính hóa và là cha của các dân tộc.

Đau khổ tạo nên hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc tỷ lệ thuận với nhau. Đau khổ càng nhiều thì hạnh phúc càng lớn. Thánh Vịnh gia nói: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: ‘Ôi nhục nhã ê chề!’” (Tv 116:10) Cay đắng lắm, thế mà vẫn tin, thật đáng khâm phục! Cái gì cũng có lý do, có cái giá nhất định: “Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi. Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa.” (Tv 116:15-17) Đau khổ và hạnh phúc đều vô giá.

Đức vâng lời và tình yêu thương có hệ lụy với nhau. Vâng lời vì yêu thương, yêu thương thì sẵn sàng vâng lời. Rất lô-gích! Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người, tại khuôn viên đền Chúa, giữa lòng ngươi, hỡi Giêrusalem! Alleluia.” (Tv 116:18-19) Vâng lời là chấp nhận thực hiện điều gì đó với sự vui vẻ và trong niềm tin tưởng. Nếu không yêu thương thì người ta không muốn vâng lời. Một hệ lụy tất yếu.

Có gì đó mâu thuẫn trong cuộc sống, chúng ta vẫn nghĩ là mình tin Chúa nhưng đôi khi lại ngại vâng lời. Thật vậy, chúng ta chưa dám thi thành theo Ý Chúa, nhất là khi Ý Chúa không thuận với ý mình. Chưa dám thực hiện, đó là chưa thực sự tin tưởng hoặc tín thác. Không hề đơn giản chút nào, thế nên luôn phải nỗ lực.

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31b) Ông lý luận: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8:32-34) Theo nhân tính, chính Chúa Giêsu cũng cảm thấy cô độc và thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34; x. Tv 22:2) Thế mà Chúa Cha vẫn lặng im. Ôi, lạy Chúa!

Phàm nhân không thể hiểu hết ý muốn của Thiên Chúa, nhưng Ngài đã xác định rạch ròi: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55:8-9) Thật vậy, khi ngăn cản Thầy Giêsu đi chịu chết, đệ tử Phêrô đã bị Thầy mắng nặng lời: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8:3) Người Việt gọi kiểu khôn đó là “trứng khôn hơn vịt” hoặc “cầm đèn chạy trước ô-tô.” Chúng ta cũng thường mắc “tật” này, không chỉ với tha nhân, mà với cả Chúa. Thật đáng quan ngại!

Sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc thương khó và phục sinh, (Mt 16:21-23; Mc 8:31-33; Lc 9:22) rồi đưa ra điều kiện làm môn đệ, (Mt 16:24-28; Mc 8:34-38; Lc 9:23-27) Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực.” (Mc 9:1)

Sáu ngày sau, Ngài đem ba “đệ tử ruột” (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đi theo mình, đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao, rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Họ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Sư Phụ. Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Mc 9:5) Hạnh phúc đang dâng trào.

Qua trình thuật Mc 9:2-10, Thánh Máccô cho biết: “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.” Chắc hẳn là kinh hoàng thôi, phần thì chưa thấy bao giờ, phần thì quá kỳ diệu. Lạ thì lạ nhưng sướng cũng sướng. Quá “đã” luôn! Thật vậy, ông Phêrô sướng đến nỗi quên mình và hai anh bạn, chỉ xin làm lều cho Sư Phụ và hai VIP kia mà thôi. Đúng vậy, một khi người ta thực sự thấy “phép lạ” (chính hiệu chứ không là “sự lạ”) thì người ta sẽ quên hết mọi sự và thay đổi cách sống ngay, nhất định không lần lữa.

Trong lúc cả ba đệ tử đang ngon trớn thì bất ngờ có một đám mây bao phủ các ông. Từ đám mây phát ra tiếng nói: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Ôi chao, lại lạ nữa! Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Tiếc ghê đi! Và rồi khi từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.

Được nhiều sẽ bị đòi lại nhiều, được ít thì bị đòi ít. Thiên Chúa chí công. Đừng tưởng được nhiều mà kiêu ngạo, nhưng cũng đừng thấy mình được ít mà buồn hoặc so đo với người được nhiều! Ba môn đệ được “ưu tiên” thấy Chúa Giêsu biến hình vì Ngài muốn củng cố đức tin cho họ, và tất nhiên được ưu tiên thì cũng phải “trả giá” cân xứng thôi. Thánh Gioan Tẩy Giả xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27)

Thiên Chúa đại lượng và nhân từ, dành trọn tình thương cho chúng ta, mặc dù chúng ta chỉ là tội nhân và hoàn toàn bất xứng với Ngài, chúng ta không có quyền đòi hỏi. Thế nhưng Ngài đã bắt Con Yêu Dấu Giêsu chịu đau khổ tới cùng thay cho chúng ta. Vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã “cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình để chúng ta khỏi sờn lòng nản chí” (Dt 12:3) khi phải chịu đau khổ. Chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu nói: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai.” Thực sự đau khổ có giá trị lắm, và là cái giá để mua hạnh phúc. Chính đau khổ tạo nên những thiên tài, những kiệt tác thuộc nhiều lĩnh vực.

Chắc chắn cuộc chiến nào cũng cam go, càng cam go hơn khi đó là cuộc chiến tâm linh. Thánh Phaolô so sánh: “Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu.” (Dt 12:3-4) Cuộc đời luôn có sự đấu tranh, và ai cũng phải chiến đấu không ngừng với mọi thứ, nhất là phải chiến đấu với chính mình. Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta và rất yêu thương chúng ta, do đó Ngài cũng muốn chúng ta sống “khác người” bằng cách tất cả phải NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài.

Mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể, Kitô hữu được “chạm” vào Chúa Giêsu và được trò chuyện với Ngài. Chúng ta như được lên Tabor với Chúa Giêsu, đó là điều diễm phúc vô cùng đối với tội nhân chúng ta. Các phép lạ Thánh Thể củng cố niềm tin của chúng ta: Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Bánh Thánh.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, để tôn vinh Ngài và sinh ích cho chúng con trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là trong lúc khó khăn vì dịch bệnh như hiện nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

 

LÊN NÚI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
 .
Nếu Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ muốn đưa chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Người. Vào sa mạc để sống tinh thần khổ chế của chay tịnh; lên núi cao để được biến đổi, canh tân.
 
Trong truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được coi như nơi thuận tiện để con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Ba tháng sau khi ra khỏi Ai Cập, các vị kỳ lão đại diện cho Dân Do Thái được ông Môisen dẫn lên đỉnh núi Sinai để gặp Chúa. Tại đây Chúa ban cho họ Luật Giao ước (x. Xh chương 19). Ngôn sứ Elia trong cuộc chạy trốn vua Akháp đã đi bốn mươi ngày đêm để đến núi Horeb. Ở đó, ông được gặp Chúa và tìm được sức mạnh để có thể đối diện với những khó khăn trong sứ mạng (x. 1V chương 19). Trong Tân ước, núi cao cũng là những địa điểm gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính trên núi cao mà Người giảng tám mối phúc thật, được coi như Luật Mới của Tin Mừng. Cũng trên đỉnh núi, người biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ và cuối cùng, sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa đã gặp gỡ các môn đệ trên núi, và sai các ông đi khắp thế gian để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Người đã thực hiện khi còn tại thế.
 
Có hai cuộc lên núi được đề cập trong Lời Chúa hôm nay, đó là Bài đọc I và Bài Tin Mừng.
 
Ông Abraham sinh được một mụn con vào lúc đã một trăm tuổi và ông đặt tên là Isaac. Tên gọi này có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho tôi cười”, như chính bà Sara vợ ông đã giải thích (x. St 21,1-7). Chẳng cần phải nói, chúng ta cũng biết hai ông bà yêu quý cậu quý tử nối dõi tông đường này thế nào. Tuy vậy, Chúa muốn thử thách lòng trung thành của Abraham, và Ngài truyền cho ông sát tế con mình làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi. Dưới ngòi bút của tác giả, Abraham được diễn tả như một người kiên định và hoàn toàn phó thác vào Chúa. Đối với ông, thánh ý Chúa là điều tối quan trọng, những điều khác chỉ là vô nghĩa, kể cả đứa con độc nhất của mình. Nếu Abraham đã trung thành với Chúa, thì Chúa không bỏ rơi ông. Chúa có cách can thiệp của Ngài. Chính Chúa sẽ tìm ra một giải pháp, một lối thoát cho hoàn cảnh này. “Chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ!” – lời nói của Abraham với con mình đã khẳng định sự xác tín của ông. Và, quả thật là Chúa sẽ liệu, như chúng ta thấy ở phần kết của câu chuyện. Ngọn núi từ đó được mang tên “Núi Đức Chúa sẽ liệu”.
 
Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao nhiêu bon chen tính toán trần tục, chúng ta thường bị cám dỗ và có nguy cơ trở nên tầm thường, ti tiện. Mùa Chay là mùa “lên núi” để tập sống tinh thần của Abraham, tín thác cậy trông vào Chúa. Những ai đã từng leo núi đều biết rõ điều này: để có thể leo lên đỉnh núi, phải tước bỏ bớt những đồ dùng và hành trang. Trong cuộc leo núi, có nhiều người bỏ dở ngang đường vì không đủ can đảm trút bỏ những vướng víu ngăn cản tiến lên. Mùa Chay giúp ta nhìn lại chặng đường mình đã đi, nhiều khi không phải là lên cao nhưng trái lại, đang là những tụt dốc, làm chúng ta càng ngày càng trở nên xa Chúa và xa rời anh chị em mình.
 
“Lên núi” để tìm cho mình một hướng đi kiên định. Cũng nhờ “lên núi”, mà chúng ta được biến đổi quan niệm và thái độ sống. Ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi. Các ông ngỡ ngàng trước cảnh tượng mà các ông nhìn thấy. Nơi đây, các ông chứng kiến một cuộc “thần hiện” huy hoàng: Chúa Giêsu không còn dáng vẻ của một người thường như mọi ngày, nhưng Người đã tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, vinh quang sáng ngời, quyền năng mạnh mẽ. Bóng mây bao phủ và tiếng nói từ trời là cách diễn tả Thiên Chúa Cha. Ngài giới thiệu cho mọi người biết sứ mạng Thiên Sai của Con Một Ngài. Hai nhân vật nổi bật của Cựu ước, ông Môisen tượng trưng cho Lề Luật, ông Elia tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ, đều hiện ra cùng lúc để làm chứng về Chúa Giêsu. Đối với độc giả Do Thái, khi đọc những dòng trình thuật này, chắc chắn họ không thể thắc mắc gì về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Người là Đấng được Lề Luật và các Ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để cứu độ con người. Ba môn đệ là những người được biến đổi trước hết. Quan niệm về Đấng Thiên sai nơi các ông không còn mang những nét trần tục, nhưng hoàn toàn thần thiêng. Nhờ sự biến đổi này, các ông xác tín vào Thày mình, Đấng họ đã từ bỏ mọi sự mà tin theo.
 
Mùa Chay là mùa “lên núi”. Mặc dù chúng ta vẫn bận rộn với bổn phận hằng ngày, nhưng mỗi người đều có thể « lên núi » bằng việc suy niệm Lời Chúa, nhất là bằng những cố gắng dứt bỏ những ràng buộc làm cản bước chúng ta đến với Người. Sám hối ăn năn, giao hòa với Chúa và với anh em, từ bỏ lối mòn của quá khứ để dám lên đường khởi đầu một hành trình mới, đó chính là một cuộc « lên núi » thiết thực đối với chúng ta.« Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc hành trình êm ả, Người chỉ hứa giúp ta đến đích an toàn » (John Gower – Thi sĩ người Anh, thế kỷ 14).

Về mục lục

.

BIẾN HÌNH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất: lên núi.

Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.

Giai đoạn thứ hai: biến hình.

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.

Giai đoạn ba: xuống núi.

Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.

Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.

Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.

Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.

Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
  2. Cầu nguyện có thể làm con người ‘biến hình’. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
  3. Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
  4. Mùa Chay này bạn có thực sự muốn ‘biến hình’ không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?

Về mục lục

.

SỐNG HAI MẶT

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người ta nói: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”, nghĩa là : Biết mặt thôi chứ không dễ gì biết được lòng nhau. Sống bên nhau gọi tên nhau thì dễ mà đi vào lòng nhau lại càng khó biết bao! Không biết có phải vì cuộc sống “thật thà thì thua thiệt” khiến con người luôn tìm cách che đậy sự thật hay chỉ là thói đời thích sống hai mặt theo kiểu “đi với Chùa mặc áo cà sa – đi với ma mặc áo giấy”?

Dẫu sao thì biết mặt nhưng rất khó biết lòng như ai đó đã nói:

“ Biết mặt khó biết được lòng

Đôi khi quanh quẩn một vòng bon chen”.

Đôi khi xoáy giữa sang hèn

Lòng người thay trắng đổi đen bất ngờ

Cũng như “đồng tiền có hai mặt” thì hình như con người cũng thích sống theo kiểu hai mặt. Họ nói một đàng làm một nẻo. Họ bên ngoài thân thiện nhưng đầy toan tính thủ đoạn hại người. Điều đáng tiếc là nhiều người Công Giáo chúng ta cũng sống như vậy! Một mặt họ mang danh ky-tô giáo, họ đi lễ, họ đọc kinh, họ tham gia đoàn hội, nhưng ở giữa dòng đời thì họ lại bộc lộ một khuôn mặt trâng tráo, gian ngoa, luôn lường gạt và gây chia rẽ hận thù. . . Họ mang danh Công giáo nhưng không bộc lộ đặc tính người Công giáo là yêu thương, họ sẵn sàng vu khống đổ vạ cáo gian anh em. Họ là con Chúa nhưng lại sống như thể con cái của ma quỷ chuyên phỉnh lừa, dối gian, điêu ngoa . . .

Đây là lối sống mà Chúa đã từng nặng lời là bọn Pha-ri-sêu giả hình. Bên ngoài thì đọc kinh nhưng chẳng tích đức đời sau. Điều mà Chúa muốn nơi con cái của Chúa phải biểu lộ dung nhan là con cái sự sáng khi sống công bình, bác ái và yêu thương. Hãy làm cho phẩm giá làm con Chúa được thể hiện trên khuôn mặt hiền từ và bao dung. Hãy tỏ lộ dung nhan giống hình ảnh Chúa nơi cuộc sống không lệ thuộc đam mê tội lỗi, nhưng luôn sống trong tự do đích thực.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại  hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen

Về mục lục

.

BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABORÊ

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ thân tín là Phêrô,Giacôbê và Gioan lên núi Taborê, tại đó, Chúa đã biến hình trước mặt họ. Cuôc biến hình này được Chúa xếp đặt trước việc Ngài loan báo cuộc khổ nạn. Chúa muốn cho các môn đệ thấy trước vinh quang của Chúa, để họ sẵn sàng chấp nhận việc Ngài loan báo việc thống khổ của Ngài. Vinh quang bao giờ cũng phải trải qua đau khổ. Chúa dạy các môn đệ và nhân loại đừng sống mãi trong sự đắc thắng, đừng vênh vang với những gì mình có được. Vinh quang trên núi Taborê phản chiếu vinh quang các môn đệ sẽ có được, nếu họ biết vác khổ giá của mình mỗi ngày mà theo Chúa.

Trước vinh quang tuyệt vời trên núi, ba môn đệ đã say mê cảnh tượng này, các Ngài đã thưa với Chúa Giêsu :” Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia “ ( Mc 9, 5 ). Thực tế, trước hào quang rực rỡ hôm nay, Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn ở luôn trên núi. Ba môn đệ đã quên đi các bạn của họ đang ở dưới núi, công việc họ phải làm là truyền giáo, đồng thời bổn phận của họ là phải tới với dân chúng để rao giảng Lời Chúa. Đúng, trước vẻ đẹp của Núi Thánh, ba môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu không muốn xuống núi nữa.Họ muốn xa rời dân chúng để sống an nhàn, thanh thản.

Các môn đệ lúc đó chưa hiểu được rằng :” Chúa Giêsu chỉ lên núi chốc lát, và rồi lại xuống núi để chuẩn bị vác thập giá lên đồi Golgotha. Theo Thầy chí thánh không phải để được hưởng thụ, vinh thân phì da, nhưng đi theo Thầy là vác Thập Giá và hy sinh vì Thầy.

Vinh quang của Chúa phải trải qua khổ đau. Chúa chỉ khoác áo trắng như tuyết trong chốc lát vì tin tưởng sự Phục Sinh. Cái đẹp hào nhoáng bề ngoài sẽ qua đi, nhưng đức tin và hạnh phúc lâu bền mới là điều cần thiết.

Vâng, Phêrô nói nhưng không biết mình đang nói gì vì ông đang ngây ngất trong cảnh huy hoàng của việc biến hình! Phêrô đang hạnh phúc nhưng từ trời có tiếng nói :” Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người “. Chúa muốn cho Phêrô hiểu rõ việc Chúa sẽ phải chịu sau này để cứu độ nhân loại và muốn cho Phêrô,và các môn đệ cùng mọi người được uốn nắn, giáo dục, được cảnh tỉnh, hoán cải, trở về với Chúa.

Chúa Giêsu là con dấu ái của Thiên Chúa Cha, do đó, vâng lời, nghe lời Đức Giêsu là vâng lời Chúa Cha. Nghe lời Chúa không có nghĩa là nghe bằng đôi tai, nhưng là noi gương bắt chước Ngài trong hành trình đức tin. Nghe lời, vâng lời Người là mặc lấy chính người vì Người là đường, là sự thật, là sự sống. Tin vào Người sẽ có sự sống đời đời.

Các môn đệ xưa đã được chứng kiến cuộc biến hình của Chúa trên núi Taborê, chúng ta cũng được mời gọi lắng nghe và biến đổi để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con được sống vững mạnh, vượt thắng con ngưởi yếu hèn của chúng con và giúp chúng con vững bước trên cuộc hành trình đức tin của chúng con vì tin vào cuộc chiến thắng thần chết của Chúa Phục Sinh. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Chúa Giêsu đã biến hình ở đâu ? Biến hình ở đây để làm gì ?
  2. Tại sao Phêrô lại ngây ngất trước cảnh huy hoàng của cuộc biến hình ?
  3. Chúa muốn các môn thế nào sau cuộc biến hình của Người ?
  4. Chúng ta được mời gọi làm gì khi theo Chúa ?

Về mục lục

.

CÙNG CHÚA BIẾN HÌNH

Bông hồng nhỏ 

Hôm nay, ngọn núi Tabor dường như cao hơn, đẹp hơn và trở thành ngọn núi vinh dự  nhất khi được chứng kiến vinh quang của  Đức Giêsu. Trên núi, Thầy Giêsu đã biến  đổi hình dạng trước mắt các môn đệ thân tín nhất. Ta hãy cùng Thầy bước vào khung cảnh tuyệt vời ấy. 

Có lẽ, ta không lạ lẫm gì khi Thầy lại chọn một ngọn núi cao để gặp gỡ Chúa Cha và đàm đạo với các ngôn sứ của Cựu Ước. Cũng như ba môn đệ thân tín, ta hết sức kinh hoàng trước cảnh tượng tuyệt vời ấy. Thầy biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy ( x. Mc 9, 3). Được sống trong khung cảnh ấy, ta có thốt lên một ý tưởng táo bạo như môn đệ Phêrô: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”? ( Mc 9, 5). Phải chăng, khi được sống trong hạnh phúc ngập tràn như thế, ta luôn ao ước và mong mỏi được sống mãi trong hạnh phúc. Thế nhưng, Thầy Giêsu không muốn điều ấy. Thầy cho các ông được chiêm ngưỡng vinh quang của Thầy để củng cố lòng tin cho các ông trước khi loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Bởi trước đó, chính môn đệ Phêrô đã kéo Thầy ra mà trách khi nghe Thầy loan báo lần thứ nhất cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Thầy luôn làm đẹp lòng Chúa Cha khi sống vâng phục Người đến cùng khi tự nguyện bước vào cuộc khổ nạn. Thầy biết rõ tâm tư của các môn đệ và sự yếu đuối nơi các ông. Rồi Thầy dẫn các ông xuống núi để cùng các ông tiếp tục cuộc hành trình: hành trình lắng nghe và thi hành thánh ý Thiên Chúa.   

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi lần được rước Chúa vào lòng, con lại được đụng chạm đến Chúa và được gặp gỡ vinh quang Thiên Chúa. Mỗi ngày, xin cho con được cùng Chúa biến hình để bước vào vinh quang Thiên Chúa và gặp gỡ Chúa nơi từng người bên cạnh. Amen.

Về mục lục

.

CHỨNG KIẾN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa cùng môn đệ lên cao,
Biến hình sáng láng, bước vào đám mây.
Áo Người chói lọi trời tây,
Tông đồ hiện diện, ngất ngây tâm hồn.
Môi-sen xuất hiện kính tôn,
Ê-li-a đến, thiền môn dự phần.
Ở đây tốt lắm ẩn thân,
Ba lều xin dựng, cõi trần linh thiêng.
Đám mây bao phủ tư riêng,
Các ông hoảng sợ, thần thiêng đón chào.
Tòa mây lên tiếng xen vào,
Con Ta Yêu Dấu, từ cao vọng về.
Hãy nghe Lời Chúa mọi bề,
Loan tin cứu độ, trọn thề trung kiên.
Khổ đau cõi chết trước tiên,
Ngày sau sống lại, nơi miền trường sinh.

Mầu nhiệm Nhập Thể ẩn dấu nơi con người của Chúa Giêsu. Chúa mang thân xác như mọi người, nhưng người đó chính là Con Thiên Chúa. Chúa thường biểu lộ bản tính của Ngài qua các dấu lạ Ngài đã thực hiện. Với một quyền năng vô biên, Chúa đã chữa lành tất cả các loại bệnh hoạn tật nguyền, truyền khiến thiên nhiên vâng phục và còn cho kẻ chết sống lại.

Biến hình trước mắt các tông đồ, đó chính là bản tính thật của Ngài. Chúa biến hình trong sáng chói. Quyền năng bao trùm vạn vật. Ngắm nhìn Chúa thay đổi diện mạo, các tông đồ đều hoảng sợ. Thầy mà các ông vẫn chung đụng, hàng ngày đối thoại, gặp gỡ, ăn uống và dạy bảo, giờ đây là Chúa uy linh của trời đất. Ngài chính là Con Yêu Dấu của Chúa Cha.

Từng bước, Chúa đã mặc khải cho chúng ta chương trình cứu độ. Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã thực hiện, nhưng nhiều người vẫn không nhận ra quyền năng của Chúa. Họ nghi kỵ, ghen tương và tìm đủ mọi cách để loại trừ Chúa ra khỏi đời sống và xã hội của họ. Họ đã gán cho Chúa biết bao danh xưng nào là mất trí, phạm thượng, phản quốc và nào là dùng quyền tướng qủy Bêelzebut để trừ qủy. Họ không muốn chấp nhận một Thiên Chúa làm người cách khiêm hạ và nghèo khó.

Con đường Chúa đi là con đường của thập giá và khiêm nhượng khổ đau. Chúa đi từ thấp lên cao. Chúa từ trời cao hạ thân làm người trong nghèo khó. Chúa muốn đồng hành cùng với những người cùng khổ, yếu đuối và bị khinh rể nhất. Chúa muốn xuống thấp để rồi nâng mọi người lên làm con Chúa. Chúa đi ngược dòng từ đáy nguồn để cùng kéo mọi người lên thượng nguồn chính là tình yêu nơi Chúa Cha.

Hãy nghe lời Ngài. Được nghe lời của Chúa là một hạnh phúc tuyệt vời. Có biết bao người chưa hề được nghe lời Chúa dạy. Chưa biết quyền phép lạ lùng của Chúa. Nhiều người không biết, không nghe, không chứng kiến viêc Chúa làm. Họ không nhận biết để tôn thờ Chúa cho phải đạo. Còn chúng ta rất hạnh phúc khi được lắng nghe lời Chúa dạy. Lời Chúa là lời hằng sống, có sức thánh hóa và đổi mới con người.

Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta chứng kiến các biến cố xảy ra trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn con đường của khổ đau thập giá. Con đường của tình yêu hy sinh mạng sống. Chúa đã hiến thân chịu chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Chúa sẽ sống lại vinh hiển. Qua thập giá tới vinh quang. Đây chính là con đường Chúa đã đi qua.

Về mục lục

.

XIN ƠN BIẾN ĐỔI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Chúa Giêsu biến hình, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.

Thánh sử Marcô nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cao cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện… bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia…. Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình :

1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?

2. Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?

3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi ?

Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?

Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44 ; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.

Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?

Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô” (x. Mc 8, 29). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20, 22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.

Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?

Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác cho là Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mc 8,28).

Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.

Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.

Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng :

Vinh quang Ba Ngôi

Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Mc 9, 7). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ .

Lắng nghe lời Đức Giêsu

Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, lời Chúa Cha còn vang lên mời gọi chúng ta “vâng nghe lời Người” (Mc 9, 8).

Xin ơn biến đổi

Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.

Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi : biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.

Về mục lục

.

TỪ CÕI CHẾT SỐNG LẠI

Lm. Trịnh Ngọc Danh

Chết là hết.Đức Giêsu sau khi báo trước cho các môn đệ biết: “ Con người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại”. Khi nghe Thầy loan báo như thế, có lẽ các môn đệ đang sống trong tâm trạng thất vọng, chán nản, vì có sống lại như Lazarô rồi Thầy cũng lại chết; vì thế, ông Phêrô đã cản ngăn Thầy đừng đi, nhưng đã bị Thầy mắng: “Xa tan! Lui lại đằng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”Nhưng thế nào là sống từ cõi chết sống lại?

Hiểu được sự non yếu về đức tin nơi các môn đệ, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi. Và trên núi, Ngài đã biến hình hiển dung. Qua biến cố hiển dung, chúng ta thấy có ba nội dung quan trọng:Đức Giêsu biến đổi hình dạng: Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Ngài, và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “ Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (  xem Mc 9: 2-10)

Trước tiên, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ của Ngài biết rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp phải chịu không phải là con đường tuyệt vọng, nhưng là con đường dẫn đến vinh quang; từ đó, Ngài hướng các môn đệ về một niềm hy vọng tương lai vinh hiển để củng cố niềm tin của các ông.

Hai nhân vật đã chết từ lâu, nhưng vẫn còn là những biểu tượng cho chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: Ông Môisê tượng trưng cho Lề Luật. Ông Êlia tượng trưng cho vai trò của ngôn sứ. Hai nhân vật này là những chứng nhân cho sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu. Đức Giêsu là Đấng được Lề Luật và các ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để thực hiện chương trình cứu độ con người của Thiên Chúa.

Sau khi nhận phép rửa của ông Gioan, có tiếng từ trời phán: “ Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” Lời tuyên bố ấy nhằm cho nhân loại biết Đức Giêsu là con của Bà Maria theo xác thịt, nhưng là Con yêu dấu của Cha trên trời. Lần này, trên núi Tabo, sau khi biến hình, lại có một tiếng từ trời phán ra : “ Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Đây không phải chỉ là một lời giới thiệuvề Con yêu dấu của Ngài cho nhân loại sau khi chết và phục sinh về trời mà Chúa Cha còn thêm một mệnh lệnh cho hậu thế: “ Hãy vâng nghe lời Ngài.” Vâng nghe lời của người Con chí ái của Ngài cũng là  nghe lời Giáo Hội hôm nay.

Choáng ngợp trước cảnh vinh quang và huy hoàng củaThầy biến dạng, với cái nhìn phàm tục, ông Phêrô đã thưa với Thầy: “ Chúng con ở đây, thật là hay, chúng con xin dựng ba lều.” Ông Phêrô chỉ nhìn thấy hiện tại mà chưa nhìn thấy tương lai! Lên núi chỉ mới là cái nhìn về vinh quang của tương lai. Nhưng để đạt đến được sự biến hình ấy, con người phải xuống núi, sống với cuộc sống thực tại của mình mà vẫn luôn hướng về viễn cảnh vinh quang ấy. Không con đường nào có thể dẫn đến vinh quang ấy ngoài con đường mà Đức Giêsu đã đi qua.

Từ trên núi xuống, Đức Giêsu đã truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại.Các ông vẫn chưa hiểu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con đường dẫn đến sự biến dạng vinh quang ấy không còn con đường nào khác ngoài con đường Thầy chí thánh đã đi qua:Con đường đau khổ phía trước mà Đức Giêsu sẽ đi qua là một thử thách con người để đi đến sự sống vinh quang đời đời.

Chúa nhật I Mùa Chay, Phụng vụ mời gọi chúng ta cùng Đức Giêsu đi vào sa mạc để ăn chay, sám hối và cầu nguyện, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Ngài để nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu phục sinh để vững tin vào Ngài.

Ngày xưa, các môn đệ chưa hiểu thế nào là “ từ cõi chết sống lại”; nhưng người tín hữu hôm nay đã hiểu từ cõi chết sống lại là gì, nhưng chúng ta đã và sẽ chuẩn bị thế nào cho ngày sống lại của mình?

Về mục lục

.

HIỂN THỊ CHÂN DUNG THIÊN CHÚA

JM. Lam Thy

Trong sách Thánh Kinh Tân Ước, bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay năm B (Mc 9, 2-10) có tiêu đề “Đức Giê-su biến đổi hình dạng”. Cùng chủ đề, Thánh sử Mat-thêu (Mt 17, 1-8) và Thánh sử Lu-ca (Lc 9, 28-36) đều ghi là “Đức Giê-su hiển dung”. Tuy nhiên, khi trình thuật, cả 3 Thánh sử đều viết là “Đức Giê-su biến đổi hình dạng” (Thánh Mac-cô viết: “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.”; Thánh Mat-thêu viết: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.”; Thánh Lu-ca viết: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.” Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình ?

Hiển dung là bày tỏ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Đặt một giả thiết có người cắc cớ hỏi: “Đức Ki-tô đã sống 33 năm nơi trần thế, với một hình dạng bình thường là con bác thợ mộc Giu-se và bà Maria, cho đến khi tử nạn trên thập giá vẫn không thay đổi. Đó chẳng phải là chân dung của Người sao? Còn trên núi Ta-bo, Người chỉ biến đổi hình dạng trong chốc lát thì sao gọi là hiển dung được?” Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Người biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa.

Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giê-su Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giê-su “biến hình” là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa, còn nói “hiển dung” là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Người bộc lộ bản chất đích thực (hiển hiện chân dung) của Thiên Chúa ẩn kín bên trong. Như vậy cả 2 cách nói đều đúng, nhưng vì đây cũng là một dịp Thiên Chúa mạc khải  công trình cứu độ loài người, nên nói ”Đức Giê-su hiển dung” chính xác hơn.

Sự kiện mạc khải này đã có tác dụng cụ thể khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giê-su đi trên mặt biển” (Mc 6, 45-52). Lần trước, thánh nhân còn bán tín bán nghi cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã thực sự tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a được. Khi Đức Giê-su Ki-tô từ hình dạng con người trần thế biến sang chân dung Thiên Chúa, thì tấm màn che phủ bí mật được mở ra (mạc khải – revelatio) qua Lời phán dạy của chính Thiên Chúa Ngôi Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mt 9, 7). Hiển nhiên Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; điều đó đã giúp củng cố đức tin, đồng thời cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và nói chung là các Ki-tô hữu.

Nghe nói đến biến đổi hình dạng tự nhiên lại nghĩ tới vấn đề con người chỉ thích thay hình đổi dạng ở cái thế kỷ XXI này. Có đủ kiểu, đủ cách: Nào là giải phẫu thẩm mỹ, cấy da, ghép thịt, cắt mắt, kẻ môi, nhuộm tóc, rồi thì tô son trét phấn, tắm sữa đắp kem…, ấy là chưa kể thời trang nọ, mô đen kia, thậm chí còn thay đổi cả giới tính nữa… Nhiều, nhiều lắm những cách thức biến đổi hình dạng bên ngoài, nhưng dù  có thay đổi cả giới tính, thì trước sau “Mèo vẫn hoàn mèo”, con người vẫn là… loài người, không hơn không kém. Chỉ có Đức Giê-su Ki-tô mới có thể từ bản chất loài người, biến hình và hiển dung thành bản thể Thiên Chúa. Tuy rằng con người không thể nào biến đổi chân dung thành Thiên Chúa được, nhưng vẫn có thể biến đổi chân tướng nên giống với Thiên Chúa, bởi chính khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã làm theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 27). Nói cách khác, con người vẫn rất có thể và rất nên biến đổi cõi lòng, biến đổi tâm hồn của mình, để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Thiên Chúa.

Có một minh hoạ rất thật, rất cụ thể, rất sống động cho sự biến đổi này, đó chính là thánh Phao-lô với biến cố Damas (Cv 22, 6-11). Trải qua biến cố Damas, hình dạng thánh nhân vẫn không có gì thay đổi, nhưng chân tướng của ngài, bản chất của ngài đã biến đổi hoàn toàn. Thánh nhân đã cảm nhận được bản thân trở nên giống, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, đến nỗi phải thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Như vậy, vấn đề đặt ra không phải là thay hình đổi dạng bên ngoài, mà chính là làm sao biến đổi được cõi lòng bên trong, canh tân được đời sống tâm linh. Bởi vì và trên hết, Mùa Chay phải là mùa các tín hữu “hãy xé lòng, chớ đừng xé áo” (Ge 2, 13). Đừng xé áo để mặc áo mới cho hợp thời trang, cho đúng mốt thời đại, mà cần phải xé lòng ra để rũ bỏ hết những tì ố, những xấu xa, tội lỗi, đồng thời đón nhận “luồng ánh sáng chói lọi” là chính Đức Giê-su Ki-tô đến để thanh tẩy tâm hồn, canh cải con người cũ, hầu trở nên con người mới, “đồng hình đồng dạng với Người” (Rm 8, 29).

Thông qua các lời tiên tri của các ngôn sứ, các lời rao truyền về sấm ngôn của Đức Chúa, Dân Chúa thời Cựu Ước mới chỉ được biết Con Một Thiên Chúa sẽ giáng trần cứu độ nhân loại, chưa được trực diện chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giê-su, chưa được như ba môn đệ thân tín của Đức Ki-tô được trực tiếp nghe Lời Đức Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 36). Vậy mà Cựu Ước đã có lời nhắn nhủ: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em.” (Ge 2, 13). Đến như các Ki-tô hữu ngày nay thì không những được nghe lời tiên tri, tiên báo về Đấng Cứu độ Giê-su Ki-tô, mà còn được chính các môn đệ thân tín của Người tường thuật lại biến cố hiển dung của Con Thiên Chúa và nghe Lời phán dạy của Chúa Cha.

Rõ ràng là Dân Chúa ngày hôm nay được biết nhiều hơn Dân Chúa thời Cựu Ước; nhưng thử hỏi đã mấy ai dám mạnh dạn xé lòng hơn là xé áo? Kể ra thì con số những người dám “xé lòng” đã là con số khá nhiều, đó là các vị Tông đồ tiên khởi, và biết bao nhiêu vị hiển thánh – nhất là các thánh Tử vì Đạo – hiện đang được diễm phúc vui hưởng thành quả của hành động “xé lòng” trên Thiên quốc. Tuy nhiên, con số người chỉ thích “xé áo” vẫn là những con số nhiều hơn, áp đảo cả con số những kẻ biết “xé lòng”. Người ta chỉ thích xé áo để khoác vào người bộ áo sặc sỡ thế trần. “Cái áo không làm nên thầy tu” nhưng muốn có cái mác thầy tu để loè (hay “lừa”?) đời thì lại rất cần cái áo đó, để trục lợi về vật chất (khất thực, quyên góp tiền của), hãnh tiến về tinh thần (tín đồ o bế, xã hội trọng vọng).

Mùa Chay 2018 đã tới, xin hãy mạnh dạn bước vào Mùa-Chay-cuộc-đời trong hoang địa trần thế với quyết tâm như một lời đoan hứa: Tôi nhất định không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, không tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Tất cả những thói hư tật xấu, tôi quyết tâm từ bỏ, như một lần nữa tôi tuyên xưng đức tin.

Ôi! Lạy Chúa! Con xin vâng nghe Lời Ngài, như lời Mẹ con hằng nhắc nhở: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 6). Cũng chính vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119). Con quyết không cầu xin cho con biến đổi hình dạng bên ngoài, mà con dốc lòng cúi xin Chúa thương ban cho con một trái tim mới, một thần trí mới, để con có đủ nghị lực và quyết tâm biến đổi tâm hồn con thành con người mới như lòng Chúa mong đợi. Ôi! Lạy Chúa! “Xin ban cho con một trái tim mới, để con yêu Chúa đến trọn đời. Xin ban cho con một thần trí mới, để con thi hành thánh ý Cha. TK: Xin rảy nước trong ngần để con sạch mọi vết nhơ. Xin đổi thay trái tim bao năm cằn khô sỏi đá. Xin đặt Thần Khí Chúa vào lòng chúng con. Xin ban tặng chúng con trái tim vẹn tuyền.” (“Trái tim mới” – TCCĐ). Amen.

Về mục lục

.

THƯA THẦY! CHÚNG CON Ở ĐÂY THẬT LÀ HAY

Fx Đỗ Công Minh

       Bài Tin Mừng Chúa nhật Thứ II Mùa Chay Thánh Maccô thuật lại một chuyến đi của thầy trò trên đường rao giảng. Đã không ít lần Đức Giêsu dẫn các Tông đồ đi qua hết làng mạc này đến kinh thành khác. Có lúc bên bãi biển, bờ hồ, lúc lại vào hoang mạc, lúc giữa biển khơi. Lần này Người cùng các ông lên núi. Được đi với Thầy, học cùng Thầy, chiêm ngưỡng Thầy khi được nghe mọi người tung hô, thật là hãnh diện. Được Thầy chọn đi cùng lên núi, không phải cả nhóm 12 mà vỏn vẹn ba học trò thân tín lại càng là một niềm hạnh phúc với Phêrô, Gioan và GiacôBê.

       Lên núi thư giãn? lên núi để nghe lời Thầy tâm sự, giãi bày? lên núi để được Thầy dặn dò riêng điều gì chăng ? Mừng lắm, vui lắm!Tâm trạng của ba vị Tông đồ cũng chính là tâm trạng của từng người chúng con, khi được sống trong bầu khí thân mật Thầy trò, huynh đệ với nhau . Và còn hơn thế nữa, các ông được chứng kiến vinh quang của Thầy mình: chứng kiến Đức Giêsu đàm đạo với hai vị Tiên tri MôiSen và Êlia, những bậc ngôn sứ tiên tổ lỗi lạc trong dân Israen, những Đấng cao trọng của dân Chúa.Thì ra Thầy mình quả thật là Đấng phải đến như Kinh Thánh đã truyền. Lòng trí các ông mở ra. Các ông kinh sợ nhưng cũng hạnh phúc vì được kề bên các Ngài, đến nỗi quên đi rằng mình đang trên khỏanh đất núi Tabor, khiến Phêrô phải thốt lên:”Lạy Thầy! chúng con  ở đây thật là hay . . .”. Các ông càng trở nên xác tín hơn khi từ trong đám mây bao quanh các Ngài có tiếng phán :”Đây là con ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người “. Thầy Giêsu chí thánh, nay thật là con Thiên Chúa Cha. Điều mà các ông theo Chúa dù đã lâu, đã từng chứng kiến việc Chúa làm, từng nghe lời Thầy giảng dạy nhưng vẫn nửa tin, nửa ngờ.

      Chúa tỏ mình ra cho các ông nhận biết vinh quang của Người, để củng cố niềm tin cho các tông đồ, hầu giúp các ông sẽ không thất vọng hay ngã lòng, khi gặp các biến cố xảy ra trong cuộc đời theo Chúa. Không ngỡ ngàng khi nghe Chúa loan báo cuộc khổ nạn của Người.

     Ngày hôm nay, đọc trên báo chí, theo dõi các phương tiện truyền thông , biết bao tin tức về tội ác, về tệ nạn trong xã hội, về thiên tai, dịch bệnh . Mới đây nhất, tin về những cơn cháy rừng, về bão tuyết, lụt lội. . . xảy ra ở nhiều nơi khiến chúng con chao đảo, lo lắng. Trong Giáo hội, tin tức về những vụ nhà thờ bị đốt, bị hủy hoại; tín hữu bị hành hung. Rồi những vụ lạm dụng, những bê bối xảy ra nơi này nơi khác của giáo sĩ, tu sĩ khiến cho niềm tin chúng con gặp nhiều thử thách, ngờ vực. Chúa ở đâu ? Vinh quang của Người ở đâu ?

      Lạy Chúa,

      Nếu chỉ nhìn vào những hiện tượng ấy mà ngã lòng thì con thật đáng trách. Con đã không nhận ra được mình luôn có Chúa ở cùng. Người đã tỏ hiện vinh quang cho ba môn đệ cũng chính là tỏ hiện cho con, sao

     Xin cho con luôn nhìn lên Thập giá, vì “ Vinh quang của ta là Thánh giá Đức Kitô, Nơi Người ơn cứu độ của ta, sức sống của ta,  Phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được ơn cứu độ. Nhờ Chúa ta được giải thóat  “.

     Xin Chúa củng cố Đức tin cho con !

Về mục lục

.

BA NGỌN NÚI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Núi là biểu tượng cho sự uy nghi, hùng vĩ, cao cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi.

Trong tác phẩm “Đức Giêsu thành Nazareth”, suy niệm về biến cố Hiển Dung, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết những lời thật ý nghĩa về các ngọn núi: “Chúa Giêsu đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan riêng với mình và dẫn họ lên một ngọn núi cao (Mc 9,2). Chúng ta lại gặp ba vị này trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33), lúc đó cơn âu lo cuối cùng của Đức Giêsu như hình ảnh nghịch lại với Hiển Dung, dù vậy cả hai vẫn thuộc vào nhau. Ở đây không nên bỏ qua đoạn Xh 24, ông Môisen lên núi cùng với Aaron, Nadab và Abihu, có lẽ cùng với 70 vị trưởng lão của Israel.

Ở đây, như lời bài giảng trên núi và trong những đêm cầu nguyện của Đức Giêsu, chúng ta lại gặp núi như vị trí gần gũi cách đặc biệt với Thiên Chúa. Chúng ta nhìn tổng hợp một lần những ngọn núi khác nhau trong đời sống Đức Giêsu: núi cám dỗ; núi lúc Người ngồi rao giảng; núi cầu nguyện; núi Hiển Dung; núi âu lo; núi thập tự và cuối cùng là núi Thăng Thiên, trên đó – nghịch lại với lời mời đón nhận vương quyền thế giới do quyền lực của ma quĩ – Chúa tuyên bố: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Nhưng trong hậu cảnh, người ta cũng thấy xuất hiện các ngọn núi Sinai; Horep; Morija- các ngọn núi mạc khải của Cựu Ước, kết hợp làm một với núi khổ nạn và núi mạc khải; tất cả chúng đều hướng đến núi Đền Thờ, nơi đó mạc khải trở thành phụng vụ

Nếu chúng ta đi tìm một lời giải thích, sẽ gặp ở hậu cảnh biểu trưng chung về núi: núi là vị trí nâng cao, không những phải trèo lên bên ngoài, nhưng ngay cả bên trong; núi như giải thoát gánh nặng thường nhật, như hít thở không khí trong lành của sáng tạo; núi cho chúng ta một cái nhìn thật xa và vẻ đẹp của vũ trụ; núi cho tôi một cảm giác nâng cao trong tâm hồn và cho tôi cảm nghiệm về Đấng Sáng Tạo. Ngoài lịch sử, còn có cảm nghiệm về một Thiên Chúa, Đấng đang nói và kinh nghiệm về cuộc khổ nạn mà đỉnh cao đạt được trong cuộc hy tế Isaac, trong hy tế Con chiên, tiền ảnh của Con Chiên cuối cùng bị sát tế trên núi Golgotha. Trên núi, ông Môisen và ông Êlia được đón nhận mạc khải của Thiên Chúa; các ngài đàm đạo với Đấng là mạc khải của Thiên Chúa nơi bản thân Người”. (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 266-267).

Các bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật hôm nay nói đến ba ngọn núi. Núi Moria đức tin, Tabor vinh quang và Golgotha tình yêu.

  1. Moria, núi niềm tin

Bài đọc 1 kể về ngọn núi Moria. Trên núi cao, Tổ phụ Abraham sẵn sàng hiến tế con trai duy nhất cho Thiên Chúa.

Tổ phụ Abraham có quê hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (St 12,1-5). Chờ đợi mãi, dài đến 25 năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Abraham bước vào tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn trong ngày con trẻ chào đời (St 21,1-7). Bồng ẳm con trẻ, ông thấy tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười trẻ thơ. Isaac là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già.

Thế rồi vào một ngày kia, Chúa phán với ông: “Abraham, Abraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi “. Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng. Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm ông đau nhói ruột gan.

Nhưng với niềm tin mãnh liệt, Abraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông. Chúa phán: “Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta “.

Đức tin và lòng vâng phục của tổ phụ Abraham trở nên gương mẫu cho muôn thế hệ.

Tác giả thư Do Thái viết: “Bởi tin, Abraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên đường và đặc biệt ông đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin thật vững chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Abraham đã nên “bạn thân của Thiên Chúa” (Gc 2,23). Chúa gọi ông là “Tôi Tớ của Ta” và nói “Ta ở với ngươi” (St 26,24). Vì Chúa “Chúc lành cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển” (Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.

  1. Tabor, núi vinh quang

Chuẩn bị bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết : Người sẽ lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết. Các môn đệ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện cho các anh em phản đối kiệt liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi cao. Chúa biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin tưởng, thêm mạnh mẽ can đảm.

Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.

Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29).

Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: “Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng”. (sđd trang 268).

Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!” (Mc 9,7). Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). (sđd trang 172).

Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn”. (sđd trang 268).

Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.

  1. Golgotha, núi tình yêu

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia”.

Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.”. (sđd trang 269).

Hai đỉnh núi: núi Tabor và núi Golgotha cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ có con đường thập giá tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.

Thánh Phêrô cùng các Tông đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường thánh giá tình yêu.

  1. Muốn tới vinh quang phải đi qua thập giá tình yêu và niềm tin.

Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(sđd trang 273).

Muốn đạt tới vinh quang núi Tabor, cần phải vượt qua được hai ngọn núi Moria đức tin và Golgotha tình yêu một cách trọn vẹn. Lúc ấy, thật là hạnh phúc được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa.

Về mục lục

.

TÍNH PHẢN DIỆN TRONG PHẬN NGƯỜI

Lm. GB. Trần Văn Hào

Biến cố Chúa hiển dung trên núi Thabor được cả 3 thánh ký Tin mừng nhất lãm trình thuật lại. Sau khi Đức Giêsu loan báo về cái chết và sự thống khổ mà Ngài sẽ phải trải qua, một bầu khí u ám bao trùm trên các học trò của Ngài. Vì vậy 6 ngày sau, Đức Giêsu dẫn 3 môn sinh thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông, để các ông được tận mắt mục kích vinh quang sáng chói nơi Ngài. Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn ngỏ trao cho các môn đệ, là hãy can đảm đối diện mầu nhiệm Thập giá, vì con đường Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang (Per Crucem ad Lucem). Tương tự như thế, thánh Phaolô cũng đã khẳng định : “Những ai cùng chết với Người, sẽ được cùng Người sống lại trong vinh quang” (2Tm 2, 11).

Vinh quang bị che dấu

Cha Phanxicô Amberat đã so sánh: “ Giống như một đám mây bị xé ra cho thấy ánh mặt trời rực rỡ, việc Chúa biến hình cũng xé toang đám mây trong kiếp người hèn hạ của Đức Giêsu để 3 môn đệ được chiêm ngắm vinh quang bị che dấu nơi Ngài.”

Có nhiều ảo thuật gia tài ba như Coperfield đã khéo léo sử dụng kỹ xảo để đánh lừa thị giác con người. Ông biểu diễn những màn ảo thuật như chặt đôi thân xác, đi xuyên qua tường hoặc làm biến mất ngọn tháp Eiffel rất ngoạn mục. Thế nhưng, đó chỉ là xảo thuật nhờ vào những kỹ thuật hiện đại. Trong các câu chuyện cổ tích, người ta vẫn hay tạo ra những nhân vật có phép thần thông biến hóa như Tôn Ngộ Không chẳng hạn. Song, cuộc biến hình của Đức Giêsu không phải là một màn ảo thuật. Đây cũng không phải là một câu chuyện hoang đường mang tính giả tưởng. Đức Giêsu là một ‘Thiên Chúa – Người’, một Thiên Chúa đầy quyền năng nhưng lại ẩn dấu thiên tính cao sang trong dáng dấp của một người phàm thấp kém. Ngài là Thiên Chúa hằng sống, Đấng không bao giờ phải chết, nhưng lại mang thân phận con người vốn hay chết. Đó là một nghịch lý vĩ đại, không phải nhằm đánh đố đầu óc suy lý của con người, nhưng đây chính là lời mời gọi đức tin để chúng ta mạnh dạn tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường tiến về núi sọ. Mùa chay là thời gian tôi luyện, giúp chúng ta tiến sâu vào cuộc hành trình này.

Tính phản diện trong phận người

Biến cố biến hình mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc, nêu bật tính phản diện ấy. Trên núi cao, ba môn đệ sung sướng mở to đôi mắt để ngắm nhìn vinh quang chói sáng nơi Đức Giêsu. Nhưng khi đối diện trước viễn ảnh Thập giá nơi vườn cây dầu, cả ba vị lại yếu đuối khép chặt đôi mắt trong giấc ngủ sâu, đến độ không thể cùng thức với Thầy mình dù chỉ một tiếng đồng hồ. Một Phêrô đã cao hứng xin dựng 3 lều, lại là một anh học trò nhát đảm đã 3 lần bai bải chối Chúa. Trong biến cố đầu tiên, cả 3 môn đệ vui mừng phấn khởi, nhưng trong biến cố sau, cả 3 đệ tử nghĩa thiết đều đã nhát đảm thoái lui. Tính phản diện này cũng được thánh Phaolô lột tả khi Ngài viết : “Có những điều tôi muốn làm nhưng tôi lại không làm, ngược lại có những điều tôi ghét, nhưng tôi lại cứ làm” (Rm 7,15).

Trong cuộc hành trình nội tâm mà Giáo hội gợi nhắc chúng ta suốt mùa chay, chúng ta phải nhận ra tính phản diện ấy nơi mỗi người để can đảm đi vào cuộc chiến đấu thiêng liêng. Con người ai cũng có những yếu đuối và sa ngã, nhưng không sao, Chúa Giêsu luôn ở với ta và Ngài sẽ nói với chúng ta như đã từng ngỏ lời với Phaolô: “Ơn Thầy thì luôn đủ cho anh” (2 Cor 12, 9).

Biến đổi nội tâm

Một câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ kể lại rằng, có một gia đình khỉ sống trong một khu rừng rậm. Trời buốt gía, lũ khỉ run rẩy vì lạnh. Chúng gom một ít củi khô để đốt hầu sưởi cho bớt rét. Một con đom đóm bay sà tới. Con khỉ đầu đàn tóm lấy và đặt vào giữa đám củi khô, vì nó tưởng là ánh lửa. Cả gia đình khỉ đều túm lại và phùng mang trợn má thổi thật mạnh. Nhưng, con đom đóm mãi vẫn chỉ là con đom đóm, chứ không phải là ngọn lửa. Một con chim bay ngang qua nói với lũ khỉ: “Này các bác ơi, đó chỉ là con đom đóm chứ có phải là ngọn lửa đâu”. Bầy khỉ không nghe, bắt lấy con chim và đập chết. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình nhà khỉ nằm chết cóng bên đống củi khô cùng với xác của một con đom đóm.

Trong cuộc sống đời thường của chúng ta, có rất nhiều con đom đóm xuất hiện mà chúng ta cứ ngỡ tưởng là ngọn lửa thật. Đó là những con đom đóm của tiền bạc, của danh vọng, của những lạc thú trần gian. Nếu cứ bám mãi vào những con đom đóm ấy, chúng ta sẽ chết một cách nghiệt ngã giống như đám khỉ trong câu chuyện nêu trên. Muốn thoát ra khỏi ánh sáng lập lòe của những con đom đóm giả hiệu này, chúng ta phải lột xác, phải biến hình với Chúa Giêsu, tức là phải đi vào cuộc biến đổi nội tâm một cách triệt để.

Kết luận

Một nhà tu đức nọ đã viết trong nhật ký của mình những tâm tình sau đây. ‘Lúc còn nhỏ với bao tham vọng, tôi vẫn cầu xin Chúa giúp tôi biến đổi cả thế giới này. Lớn lên khi thấy chưa làm được gì, tôi chỉ cầu xin Chúa giúp tôi biến đổi những con người mà tôi vẫn gặp thường ngày. Bây giờ khi cuộc đời đã xế chiều, tôi thấy mình rất mong manh chẳng làm chi nên chuyện, tôi chỉ cầu xin Chúa giúp biến đổi chính con người của tôi mỗi ngày’.

Michael Angelo, một điêu khắc gia tài ba, đã thổ lộ: “Đứng trước một phiến đá thô, để có được một bức tượng hoàn hảo, chúng ta cần phải biết đục đẽo và loại bỏ đi những gì thừa thãi, chứ không cần đắp thêm vôi vữa”. Cũng vậy muốn biến con người chúng ta trở nên một bức tượng sống, họa lại hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta cũng cần phải biết đục bỏ những gì dư thừa trong cuộc sống. Đó là phương cách để chúng ta đi vào sự biến đổi cách sâu xa.

Chúa biến hình trên núi cao, cũng mời gọi chúng ta ở dưới đất thấp, hãy can đảm lột xác, biến đổi nội tâm cách triệt để. Sự biến đổi ấy là điều kiện cần thiết để chúng ta tiếp nối dấu chân của Đức Giêsu, và cùng bước đi với Ngài trên con đường Thập giá.

Về mục lục

.

THẬP GIÁ LÀ VINH QUANG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải cứu độ. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và Ê-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời là đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Ki-tô của Tin Mừng cho các môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Các môn đệ này sẽ là các nhân chứng được coi là ‘trụ cột’ của Giáo Hội (theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát), những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xem chú thích Mc 9:1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu quả thật là như thế thì hiển dung đâu chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần suy sụp của các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương Đức Giê-su sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc hẳn phải lớn lao hơn nhiều…, và vì thế đáng để ta dành đôi chút thời giờ tìm hiểu thêm.

Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người mọi thời đại và mọi tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật Cựu Ước được mô tả như đã có diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ; Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem sách Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh núi Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-dê-ven (xem 1 Vua chương 19). Tuy nhiên thứ vinh quang Đức Chúa mà hai ông được chứng kiến thực tế đã rất khác nhau; một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19:18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở cửa hang… (1 V 19:12-13). Nếu thế vinh quang mà Đức Giê-su muốn hiển thị trong lần biến dạng trên núi Ta-bo có chi khác với những lần đó không? Trước hết đó hẳn phải là một thứ vinh quang đích thực, vì được hiển thị do chính Người Con duy nhất từ Thiên Chúa mà đến. Vinh quang đó không những phải vượt xa mọi thứ hào quang đôi mắt phàm tục có thể nhìn thấy, mà còn phải vượt xa những gì cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã được chứng kiến trong những lần thị kiến Đức Chúa thời Cựu Ước.

Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9:31), điều đó chứng tỏ cuộc xuất hành sắp tới mới biểu hiện vinh quang thật, khác với những gì các ông đã biết hoặc đang được chứng kiến lúc này. Thứ hào quang mà hai ông hiện đang được chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang phải là cuộc xuất hành các ông đang được nghe đề cập tới. Đức Giê-su cũng hàm cùng một ý đó khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng vậy, cuộc tử nạn hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì vinh quang chói lọi của Người không thể là điều gì khác hơn biểu hiện của tình yêu đầy từ nhân và xót thương thông qua hành động cứu chuộc. Sau này khi gần tới giờ ra đi chịu chết và khi cầu nguyện với Chúa Cha, chính Đức Giê-su đã không ngần ngại gọi giờ phút ‘tang thương’ đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ phút Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17:1.8).

Chính Mô-sê và Ê-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được chứng kiến thứ vinh quang đó, vinh quang của Thập Giá. Và Đức Giê-su thật sự mong muốn và khích lệ các môn đệ, đặc biệt ba môn đệ thâm tín nhất, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại làm ba lều bên thứ vinh quang ‘giả tạo’ của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định nhất của mọi niền tin, từ Cựu Ước bước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ quan niệm về một Đức Chúa quyền phép qua hình ảnh một Thiên Chúa là Cha của Đức Ki-tô Giê-su đầy xót thương nhân hậu? Đối với các môn đệ là những người Do Thái chính hiệu, sự chuyển tiếp này không thể không gây ngỡ ngàng và đặt ra nhiều vấn nạn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì’, và Đức Giê-su còn phải cất công giải thích nhiều lần hơn nữa. Điều này cũng sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, tiếp tục là vấn đề then chốt độc đáo của niềm tin Ki-tô hữu (so với các tôn giáo khác, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo) khi phải vẽ lên trong tâm linh các tín hữu hình ảnh về một Thiên Chúa… lòng lành, xót thương và cứu độ, những nét không tuân theo bất cứ thứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào, nhưng chỉ dựa trên mạc khải duy nhất của Đức Ki-tô thập giá. Cách duy nhất họ có thể làm là để mình hoàn toàn bị khuất phục bởi mạc khải vinh quang thập giá, điều làm cho họ, trước mặt khôn ngoan của người đời, bị liệt vào hạng ngu đần và hèn nhất; do đó “Hãy vâng nghe lời Người!”

Mùa chay chính là thời gian để mỗi chúng ta vâng nghe và đón nhận thứ vinh quang cứu độ này của Thiên Chúa, vì thế đó là thời gian của thanh lọc và củng cố niềm tin Ki-tô.

Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phê-rô dựng lều, nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. A-men.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi đã được Tin mừng Nhất Lãm Matthew, Marco và Luca ghi lại chi tiết. Biến cố biến hình mạc khải cho các tông đồ để biết Đức Giêsu là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế “Đây là Con ta yêu dấu” và đồng thời củng cố niềm tin của các ông, chuẩn bị để các ông đón nhận việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết để cứu độ muôn người: “Trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”.

Theo Thánh kinh thì Chúa biến hình ở trên ngọn núi miền Galilê và theo truyền thống thì đó là núi Tabor: “Người lên núi cao”. Núi cao là biểu tượng nơi Thiên Chúa ngự. Lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa, Như Môsê trên núi Sinai, Tiên tri Êlia trên núi Horeb, 3 tông đồ thân tín được đưa lên núi cao là để được tiếp xúc với vinh quang của Chúa Giêsu, tiếp xúc với thần linh của Người. Người biến hình trước mặt các ông để biểu lộ Thiên tính của mình để các ông nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Đức Giêsu “Áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết”.

Sự hiện diện của Êlia và Môsê nói lên sứ mạng của Đức Giêsu. Môsê tượng trưng cho lề luật. Êlia tượng trưng cho tiên tri. Đức Giêsu chính là Môsê mới, Êlia mới nghĩa là Người là thủ lãnh, là ngôn sứ của Thiên Chúa đến để giải phóng nhân loại và cứu chộc nhận loại. Như thế sự có mặt của hai ông trong biến cố Chúa biến hình nói lên rằng thời đại cánh chung đã tới, đó là thời đại cứu chuộc, thời đại của Đấng Thiên sai đưa lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.

Quang cảnh vinh quang của việc Chúa biến hình trên núi đã làm cho các tông đồ sung sướng và vô cùng hạnh phúc. Thánh Phêrô đã thốt lên cảm nghiệm của mình: “Ở đây thì tốt lắm”. Đối với Phêrô, lúc này là lúc hạnh phúc vô cùng không thể nào có. Vì thế ông muốn kéo dài hạnh phúc này, muốn ở lại trên núi luôn bằng cách xin Thầy làm 3 lều. Phêrô muốn kéo dài ước mơ hạnh phúc mãi mãi. “Lều” biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 26, 7).

Thời Chúa Giêsu, lều là tượng trưng nơi Thiên quốc, vì thế, Phêrô có cảm tưởng rằng là thời cuối cùng, là thời Thiên quốc đã đến, nên ông muốn ở lại đây mãi mãi để hưởng hạnh phúc.

Tại sao Phụng vụ mùa Chay lại đọc bài Tin mừng Chúa biến hình? Hình như có sự mâu thuẫn? Người tín hữu đang sống bầu khí đau thương của cuộc tử nạn. Nhưng thực sự không có gì mâu thuẫn cả, ta thấy cuộc khổ nạn đau thương và vinh quang phục sinh chỉ là hai mặt không thể tách rời của một thực trạng “Qua thập giá đến vih quang”. Làm như vậy Phụng vị đã đặt đúng ý nghĩa mà các tác giả Nhất Lãm mong muốn. Khổ nhục và vinh quang Thiên quốc là hai dữ kiện xuất hiện trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu.

Tóm lại, theo Papias, việc biến hình trên núi là trụ chốt, trung tâm của Tin mừng Marco, Marco đặt yếu tố này quan trọng vì nó là tiền ảnh của biến cố phục sinh và báo trước những gì xảy ra ngày quang lâm. Marco đã đặt trọng tâm vào giữa sách Tin mừng biến cố Chúa biến hình, vì ngay từ đầu Marco muốn nhấn mạnh cho cộng đoàn Giáo hội biết ý nghĩa hiện thực của cuộc đời: cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.

Qua lời Chúa hôm nay nhắc nhở và đề nghị những thực hành cho người Kitô hữu:

– Khi biến hình, Chúa Giêsu đã được Chúa Cha xác nhận: “Này là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Muốn trở nên con yêu dấu của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải biến hình bằng cách cởi bỏ con người cũ, mắc lấy tinh thần mới của Chúa, thay đổi cuộc sống cũ với những tiêu cực… để sống cuộc sống mới, thánh thiện, đạo đức hơn.

– Các tông đồ gặp Chúa vinh quang trên núi Tabor, các ngài cảm thấy hạnh phúc và muốn ở luôn trên núi. Nhưng rồi Chúa bảo phải xuống núi; lên núi cao để gặp gỡ Chúa; rồi phải xuống núi để chấp nhận đau khổ của bổn phận hằng ngày và làm chứng nhân cho Chúa. Đời người đan kết bằng những vui buồn và sướng khổ, hạnh phúc và bất hạnh, sự sống và sự chết, thành công và thất bại, vinh quang và ô nhục… Nói cách khác đời là con đường thập giá đưa tới vinh quang muôn đời.

– “Các con hãy nghe lời Người”. Sống đạo là nghe lời Chúa và đem ra thực hành, đưa lời Chúa vào cuộc sống sẽ đem lại niềm vui, an bình, hạnh phúc cho mình và cho mọi người.

“Lời Ngài là sức sống của con.

Lời Ngài là ánh sáng đời con,

Lời Ngài làm chứa chan hy vọng,

Là đường để con hằng tiến bước.

Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui,

Trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi.

Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời.

Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai”.

Phúc cho bạn, người đã biết nghe lời Chúa và sống lời Chúa trong cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

.

THỬ THÁCH TRONG CUỘC SỐNG TỪ TABOR ĐẾN GOLGOTHA

Lm. Đinh Lập Liễm

Thánh Marcô cho biết: Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu quí là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy.” Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây: ”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Mk 9:2-7). Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.

Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên.” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.

Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem (Lc 18:31), và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài (Mk 9:7).

Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe (II Pet 1:16-18).

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa. Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy; bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).

Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải cởi bỏ tội lỗi để nên tốt lành thánh thiện hơn: ”Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em”” (Ep 4,23). Thánh Tông Đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết: ”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).

Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình (Gen 22:1-19). Việc này cho chúng ta thấy đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.

Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng. Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi: ”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy?”

Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói: “Có cứng mới đứng đầu gió” (Tục ngữ)

Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng: “Có gió lung, mới biết tùng bá cứng. Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao” (Tục ngữ).

Thánh Giacôbê Tông Đồ nói về vấn đề này: ”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài” (Gc 1,12).

Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn? Hãy noi gương Chúa Kitô! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở: ”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha” (lC 22:42). Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài: ”Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha.”

Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có giá trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa: ”Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen” (Mc 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?

Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và xán lạn như đức tin của các Tông Đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vườn Cây Dầu (Mark Link).

Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đó chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi” (Anthony Padovano).

Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như Thánh Phaolô đã nói: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).

Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa: ”Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.” Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới (I Cor 10:13).

Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis. Phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quì trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.

Người ta kể rằng tượng cẩm thạch trên thánh giá này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, tác giả lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn. Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.

Lúc này, người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào (Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159).

Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông (Hr 11:17-19).

Khi bị thử thách, nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.

Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một (Hr 13:8); Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu.

Về mục lục

.

ĐÂY LÀ CON TA YÊU DẤU, HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI

Lm. Nguyễn Thái

Khách du lịch viếng quần đảo Aram Islands của Ái-Nhĩ-Lan đều kinh ngạc và sửng sốt vì có quá nhiều cầu vồng bắt hình vòng cung khắp bầu trời xung quanh những hòn đảo. Ngay khi một cầu vồng này vừa mờ nhạt thì cái khác đã lén lút xuất hiện trên biển khơi ở một phương hướng khác. Có những cái chỉ có một nửa hình vòng cung, những cái khác thì đầy đủ. Có cái mang màu xanh nhạt hòa hợp với màu nước biển. Có những cái xuất hiện với vẻ rực rỡ làm sáng chói cả một vùng trời. Khi có những điều kiện thuận lợi, có rất nhiều cầu vồng cùng xuất hiện một lúc, rực rỡ vô cùng. Không thể nào đếm nổi có bao nhiêu cầu vồng đã xuất hiện trong một ngày. Trong sự kinh ngạc trước vẻ đẹp của những cảnh tượng trước mắt, một người khách du lịch đã hỏi người phụ nữ cư ngụ tại Aram Island nghĩ gì về sự xuất hiện thường xuyên của những cầu vồng như vậy. Người phụ nữ chỉ nhún vai trả lời, “Ôi, chúng tôi không để ý đến chúng.” Đối với người dân cư ngụ tại đây, những cầu vồng đó đã trở nên quá tầm thường rồi!

Mùa Chay là thời gian kêu gọi chúng ta ý thức về tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện trong thế giới chúng ta đang sống. Sự hiện diện rực rỡ của Ngài giữa những khổ đau trần thế. Vẻ đẹp của nhân phẩm con người và giá trị của đời sống tinh thần. Sự rạng rỡ của “sự sống lại từ trong cõi chết.” Giáo hội kêu gọi chúng ta hãy là những du khách chiêm ngắm vẻ đẹp của những cầu vồng này trong cuộc sống với thái độ kinh ngạc và thán phục, đừng có thái độ ỷ lại là Kitô hữu, giống như người dân bản xứ, mà cố ý phớt lờ, không thèm để ý.

Trong Cựu Ước, đỉnh núi cao thường được dùng để diễn tả những cuộc gặp gỡ của Thiên Chúa với con người và mạc khải những điều siêu nhiên. Mô-sê đã đón nhận Mười Điều Răn trên núi Sinai (Ex 19:3-20). Êlia cũng đã trèo lên đỉnh núi Các-men để đón nhận sức mạnh chiến thắng sự dữ (I king 18:20-40). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mác-cô 9:1-9, Chúa Giêsu cũng dẫn ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi cao. Ngài biến hình trước mặt họ. Họ cũng kinh ngạc và thán phục trước vẻ đẹp “từ cõi chết sống lại” của Chúa Giêsu, nhưng trong chiều hướng khác với điều Chúa Giêsu muốn dạy họ. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, trước khi Chúa Giêsu biến hình trước mặt họ, Ngài đã loan báo cho họ biết rằng Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng Đấng Thiên Sai có nghĩa là phải chịu đau khổ, bị giết chết, và sống lại ngày thứ ba (Mc 9:31). Còn các môn đệ thì cứ nghĩ rằng Đấng Thiên Sai có nghĩa là Đấng sẽ làm vua bá chủ thiên hạ, cai trị muôn dân muôn nước, ngay bây giờ nơi trần thế này, theo như ước nguyện của dân chúng và của họ (Act 1:6; Lc 24:21).

Theo William Barclay, trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện diện của Thiên Chúa cũng thường được liên kết với đám mây nữa (GLCG # 555). Trong đám mây Mô-sê đã gặp gỡ Thiên Chúa, Êlia đón nhận sức mạnh của Thiên Chúa. Và người Do Thái cũng mơ ước khi Đấng Thiên Sai đến, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa sẽ trở lại với Đền Thờ (Xh 16:10; Xh 19:9; Xh 33:9; 1V 8:10; 2Mcb 2:8). Sự ngự xuống của đám mây là một cách nói rằng Đấng Thiên Sai đã đến, và bất cứ người Do Thái nào cũng hiểu như vậy: “Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: ‘Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.’”

Với một chút tưởng tượng chúng ta hãy tạm ví Chúa Giêsu như một cha sở họ đạo với ba ông trùm Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bốn thầy trò đưa nhau lên núi để cầu nguyện. Ông trùm Phêrô vốn là người chài lưới đánh cá nhà quê, tính tình bộc trực, chất phác. “Có sao nói vậy, không giấu giếm”. Chuyện gì cũng phải lẹ làng, cấp tốc, làm ngay, ăn liền. Vừa thấy cảnh Chúa Giêsu biến hình sáng láng đẹp đẽ, ông trùm Phêrô xin ngay: “Lạy Thầy, nếu được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môi-sen, và một cho Êlia.”

Ông trùm muốn ở lại đây luôn để hưởng ngay cái vinh quang rực rỡ này. Xuống núi làm gì? Khổ lắm! Lên Giêrusalem làm gì? Bị bắt bớ, bị đóng đinh, chịu đau khổ và chết nhục nhã! Tâm thức của ông trùm Phêrô phản ảnh cái tâm trạng của con người ở mọi thời đại. Khoái lạc thì muốn hưởng thụ ngay. Đau khổ thì tìm cách trốn tránh. Muốn hưởng khoái lạc vinh quang ngay trên đỉnh núi, mà e ngại con đường khổ giá dưới chân (GLCG # 555).

Ở Bangkok có một ngôi chùa rất nổi tiếng, tên là Chùa Tượng Phật bằng vàng. Ngôi chùa nhỏ bé với chiều rộng và ngang khoảng 8 mét. Nhưng khi vào bên trong, người ta sẽ rất ngạc nhiên vì một tượng Phật bằng vàng ròng cao khoảng 2m50, cân nặng 2 tấn rưỡi và trị giá khoảng 196 triệu đô la. Ở bên cạnh tượng, có ghi lịch sử của tượng Phật vĩ đại này: Vào năm 1957, thành phố Bangkok được sửa đổi, mở rộng thành phố, nhiều nhà bị giải tỏa để làm siêu xa lộ. Tu viện của các thầy sư cũng bị giải tỏa và tượng Phật vĩ đại bằng đất sét cũng phải bị dời đi chỗ khác. Vào một buổi chiều, khi chiếc cần cẩu cố gắng nâng bức tượng khổng lồ lên, thì bức tượng đã bị nứt ra vì nặng quá. Đồng thời trời cũng bắt đầu đổ mưa, nên các thầy quyết định lấy vải phủ lên bức tượng tránh mưa. Khi trời tối hẳn, mưa ngừng rơi, vị sư trưởng cầm đèn pin ra kiểm soát xem có hư hại gì không. Thầy rọi đèn vào để quan sát. Khi ánh đèn chiếu vào chỗ nứt, thì một luồng sáng phản chiếu. Tò mò vì ánh sáng lạ, thầy đến gần hơn để xem và phát hiện ra có một lớp kim loại ở dưới lớp đất sét. Thầy đi tìm cái đục và cái búa, rồi bắt đầu đục đẽo. Lớp đất sét càng bị rớt dần xuống, thì tia sáng càng sáng dần và lớn hơn. Sau nhiều giờ đục đẽo, cuối cùng, một tượng Phật bằng vàng ròng sáng chói đã xuất hiện trước mặt thầy sư.

Các nhà lịch sử đã tin rằng vài trăm năm trước đây, quân đội Miến Điện xâm lăng Thái Lan. Các nhà sư biết rằng xứ sở của họ sẽ bị tấn công và xâm chiếm, nên đã dùng một lớp đất sét dầy phủ lên bức tượng để che giấu và bảo vệ tài sản của họ tránh khỏi sự cướp bóc của quân đội Miến Điện. Không may, các nhà sư đã bị giết chết hết, cho nên bí mật về bức tượng cũng bị quên lãng cho đến năm 1957 mới tình cờ được khám phá.

Mỗi người chúng ta là một con người được Thiên Chúa dựng nên có linh hồn và thể xác. Thân xác bề ngoài mang thân phận yếu hèn, tội lỗi, và hư nát (1 Cr 15: 42-49). Còn linh hồn thiêng liêng bất tử, được Chúa mời gọi chia sẻ sự sống đời đời. Nhưng qua cái chết của thân xác, con người sẽ sống lại sáng láng và vinh quang giống như Chúa Giêsu đã biến hình. Hình ảnh tượng bằng vàng bị bao phủ bởi lớp đất sét bên ngoài giúp ta ý thức về con người đích thực của mình. Con người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1: 27).

Bởi tội lỗi bao trùm, con người đã bị che lấp hình ảnh đẹp đẽ của Thiên Chúa nơi bản thân, rồi dần dần lại ngủ quên trong tình trạng xấu xa bẩn thỉu ấy (Ep 4:17-20; 1Tx 5:6). Giống như những con trâu đen đủi trầm mình nơi vũng bùn sình êm ái, con người cũng muốn tự dìm mình trong hoàn cảnh ngủ yên của tội lỗi. Tuy dơ bẩn nhưng nó lại tạo ra cảm giác mát mẻ nhất thời, vì thế những con trâu thường không muốn đứng dậy bước ra khỏi vũng sình lầy lội. Con người cũng vậy! (Ga 15:22).

Muốn có một sự biến đổi từ bẩn thỉu sang sạch sẽ, từ đất sét sang vàng, từ tội lỗi yếu đuối sang thánh thiện vinh quang, phải có thời gian khám phá, tu luyện và đục đẽo (Rm 8:18). Phải tốn nhiều công sức. Phải có hy sinh, thử thách để nhân phẩm và giá trị thiêng liêng được tỏ lộ sáng ngời (Ep 5:8). “Chúng ta phải qua nhiều nỗi gian truân mới vào được Nước Thiên Chúa” (Cv 14:22; GLCG # 556).

Mùa Chay là mùa Giáo Hội kêu gọi chúng ta phải trở về với hình ảnh vinh quang và thánh thiện đích thực của mình như Chúa đã tạo dựng con người lúc ban đầu (Cl 3:10). Mùa Chay là mùa lắng nghe tiếng Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy hoàn hảo như Cha trên trời của các con là Đấng hoàn hảo” (Mt 5:48).

Về mục lục

.

ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA

VÀ TƯ TƯỞNG CỦA CON NGƯỜI

Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, thánh sử Máccô trình thuật câu chuyện Đức Giêsu biến hình. Việc Đức Giêsu biến hình được diễn ra sau khi vị Tông đồ trưởng tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Tuy nhiên, ngay sau khi ông tuyên tín như vậy, Đức Giêsu đã tiên báo cho các ông biết trước về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu. Thấy vậy, Phêrô đã can ngăn kịch liệt khi nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thầy mình, ông nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22). 

Nhưng Đức Giêsu đã quở mắng cách nặng nề khi nói ông là “Xatan”. Ngài cũng nói thêm: Tư tưởng của Phêrô là tư tưởng của loài người, không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.

Chính vì lý do trên, mà hôm nay, Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín với mình lên núi Tabor và biến hình trước mắt các ông, để qua đó, dần dần Ngài mặc khải và dẫn các ông vào đường lối cũng như tư tưởng của Thiên Chúa. 

  1. Lý do Đức Giêsu hiển dung

Các môn đệ là những người được Đức Giêsu đích thân tuyển chọn làm trợ tá cho Ngài, để rồi mai đây chính Ngài sẽ trao phó Giáo Hội cho các ông, ngõ hầu các ông sẽ tiếp bước đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa!

Tuy nhiên, không thể trao phó một công trình vĩ đại, quan trọng, mang tính trường tồn cho những người lơ mơ…, trao phó như thế thì chẳng khác gì “trao trứng cho ác”.

Thiếu hiểu biết và nhiều khi hiểu sai đường lối của Đức Giêsu nơi các môn đệ thật là rõ nét, vì đã có những lúc các ông phỏng chiếu một Đức Giêsu oai phong, quyền lực, chẳng khác gì các vị tướng lãnh chốn trần ai. 

Thế nên, nơi các ông, nhiều lần họ đã đôi co với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời; có những người lại còn dẫn cả mẹ mình đến để năn nỉ kỳ nèo cho được ngồi bên tả và bên hữu trong Nước mà Đức Giêsu sẽ thiết lập; rồi cụ thể như Phêrô, chỉ cách đó có 6 ngày, ông đã đại diện cho anh em để tuyên xưng hùng hồn niềm tin của mình vào Thầy Giêsu, nhưng sau đó, khi nghe thấy Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu, ngay lập tức, ông đã không chần trừ, mà đã khẳng khái lên tiếng can ngăn! Như vậy, các môn đệ là những người kề vai sát cánh bên Đức Giêsu, nhưng tư tưởng của các ông vẫn lè phè dưới đất, chưa vươn lên để hiểu được tâm tư của Thầy mình.

Chính vì những lý do này, nên các ông không thể chấp nhận một Vị Tôn Sư mà mình chọn làm người dẫn dắt, lại là một người thất bại qua cái chết đau thương và nhục nhã trên cây thập tự giá như một tử tội được!

Để giúp các môn đệ, nhất là ba môn đệ thân tín mà sau này chính các ông sẽ là các chứng nhân trong những chuyện đặc biệt, nên Đức Giêsu đã đưa các ông lên núi Tabor để biến hình trước mắt các ông, nhằm củng cố đức tin, ban hành sứ điệp và đưa các ông đi vào đường lối cứu chuộc của Thiên Chúa.

  1. Qua đau khổ mới đến vinh quang

Câu chuyện biến hình được khởi đi từ việc Đức Giêsu dẫn ba môn đệ của mình lên núi, và đang khi Ngài cầu nguyện “rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy  (x. Mc 9, 3).

Bên cạnh Ngài còn có Môsê là người đại diện cho lề luật Cựu Ước, và Elia là ngôn sứ vĩ đại nhất. Cả hai cùng hiện ra và đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này cho thấy: toàn bộ lề luật và lời các ngôn sứ đều quy hướng về Đức Giêsu và về cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài như là trung tâm của công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Đức Giêsu! 

Khi thấy diện mạo Đức Giêsu biến đổi và khung cảnh thánh thiêng, huy hoàng tuyệt đẹp như vậy, tâm hồn các ông ngây ngất và lòng các ông hân hoan quá đỗi.

Chắc chắn trong cuộc đời của các ông chưa một lần nào được hạnh phúc như vậy! Vì thế, Phêrô đã thay lời cho Gioan và Giacôbê để thưa lên với Đức Giêsu, ông nói: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9, 5).

Qua lời đề nghị này của Phêrô, lại một lần nữa, nơi ông toát lên tính hưởng thụ, thực dụng…! Ông muốn được ở lại trong vinh quang với Đức Giêsu mãi mãi và không chịu đối diện với thực tế mà ông và các bạn của ông sẽ còn phải tiếp tục…!!!

Thấy được điều đó, Đức Giêsu đã không để cho các ông rơi vào tình trạng bi đát của tư tưởng: “Thích sướng, ngại khổ”. Nên Ngài đã không những khước từ đề nghị của ông, mà còn mặc khải cho ông hiểu được quy luật tất yếu của Tin Mừng, đó là: “Phải qua đau khổ mới tới vinh quang.”

Sau khi cho các ông lạc vào thiên cung, cho các ông nếm trước vinh quang Thiên Quốc, Đức Giêsu đã mời gọi các ông phải xuống núi.

Xuống núi với anh em, với đồng loại, và với những công việc thường ngày.

Xuống núi để tiếp tục cuộc hành trình theo Thầy của mình. Xuống núi trong tâm tình cảm nghiệm rõ nét con đường mà Thầy đã, đang và sẽ đi, để mai đây chính mình sẽ tiếp bước.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Trong đời sống thực tế của nhiều người nơi cộng đoàn, đã có nhiều lần chúng ta cũng mang trong mình tư tưởng của các Tông đồ khi xưa, đó là: tham sân si; tranh gành địa vị; trọng hình thức mà quên đời sống nội tâm. Nhiều khi gây chia rẽ, lên mặt dạy đời, hay luôn chọn cho mình những công việc nhàn hạ, còn việc nặng nhọc để lại cho người khác. Rồi cũng không thiếu những người theo Chúa, tin Chúa, nhưng theo và tin kiểu công dân hạng hai, tức là lúc thuận tiện thì theo và tin…, nhưng khi gian nan thử thách đến là bỏ giữa chừng và sẵn sàng đi cầu ông nọ, khấn bà kia thay Chúa.

Đôi khi chúng ta cũng có tư tưởng thực dụng như: tìm mọi cách để níu kéo Thiên Chúa về với mình. Thiên Chúa là Đấng ta được hưởng độc quyền, còn người khác, chúng ta luôn muốn Chúa phải thẳng tay để đánh phạt họ…. 

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có tư tưởng của Thiên Chúa thay cho tư tưởng của loài người. Đó là: luôn đặt ý Chúa lên trên hết. Phải biết yêu thương nhau chân thành. Xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất và bình an. Sẵn sàng kề vai sát cánh bên nhau cả những công việc nhẹ nhàng lẫn công việc nặng nề. 

Biết đón nhận những đau khổ, thử thách trong đời sống đạo với tâm tình: Mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28). Và: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Sẵn sàng lột xác để biến đổi, để từ con người ích kỷ, thành bao dung; từ chỗ thực dụng thành vô vị lợi; từ chỗ chỉ biết nghĩ đến mình, thì giờ đây biết nghĩ đến người khác; từ chỗ muốn được hạnh phúc và sung sướng mà không chấp nhận đau khổ, thành một người mang trong mình tư tưởng của Thiên Chúa và đi vào đường lối của Đức Giêsu đã đi, đó là: “Qua đau khổ mới đến vinh quang”.  

Muốn thực thi được những điều trên, quan trọng nhất, chúng ta phải biết lắng nghe lời Đức Giêsu, thi hành điều Ngài dạy và đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã đi khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn đã có nhiều lần chúng con như các môn đệ khi xưa, đó là: chỉ thích sung sướng, hạnh phúc mà không biết đón nhận khổ đau. Xin Chúa khai trí mở lòng chúng con, để chúng con hiểu được đường lối cũng như tư tưởng của Chúa, từ đó, biết đi theo Chúa trên chính con đường mà Ngài đã đi để được sống đời đời. Amen. 

Về mục lục

.

VÔ ĐIỀU KIỆN

Trầm Thiên Thu

Trong đời sống hàng ngày, vâng lời là điều không dễ thực hiện, nói thẳng ra là rất khó. Tại sao vậy? Bởi vì “cái tôi” luôn to lớn khiến người ta tự ái, cảm thấy vâng lời người khác là yếu thế, bị lép vế.

Khó vâng lời không có nghĩa là không thể vâng lời, khó mà làm được mới đáng khen, thế nên vâng lời là một nhân đức quan trọng, nhất là đối với các Kitô hữu. Đức vâng lời liên quan đức khiêm nhu. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26:42).

Dẹp được “cái tôi” là vượt qua chính mình để sẵn sàng vâng lời – vô điều kiện chứ không có điều kiện, thì dễ nên thánh. Ngày xưa, ông Samuel đã đặt vấn đề với vua Sa-un: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15:22; x. Tv 50:8-9). Đức vâng lời rất quan trọng! Thật vậy, vâng lời là một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy dòng) lời khấn của các tu sĩ: Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Trong đời sống gia đình và xã hội, con cái phải biết vâng lời cha mẹ, người nhỏ phải biết vâng lời người lớn, nhân viên phải biết vâng lời giám đốc,… Nếu không vâng lời thì mọi thứ mất trật tự.

Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên – chỉ ba người thôi cũng có người có thể làm thầy, tức là người đó có thể hướng dẫn người khác, và chắc hẳn hai người kia phải nghe theo lời hay lẽ phải của họ. Tất nhiên vâng lời phải theo nghĩa tích cực, không thể vâng lời khi người trên dạy làm sai do độc đoán, áp chế.

ĐỪNG ĐẮN ĐO !

Đức vâng lời của tổ phụ Ápraham thật là tuyệt vời, không so đo, không nghi ngờ, không thắc mắc. Trình thuật St 22:1-2, 9-13, 15-18 cho biết về đức tin tuyệt đối của ông.

Sau một thời gian, hết chuyện nọ tới chuyện kia, Thiên Chúa tiếp tục thử lòng ông Ápraham. Nghe Đức Chúa gọi đúng tên và ông liền thưa: “Dạ, con đây!”. Ngài truyền lệnh: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”.

Ông Ápraham chỉ có một đứa con cầu con khẩn, một con trai rất yêu dấu, mà theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất quan trọng vì là con thừa tự và có quyền trưởng nam, thế mà Thiên Chúa lại bảo dâng chính đứa con đó làm lễ toàn thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông Ápraham vẫn không hề đắn đo, không hề thắc mắc, không hề nghi ngờ, không hề tiếc nuối, mà ông lại sẵn sàng tuân phục lệnh truyền của Thiên Chúa một cách mau mắn, dứt khoát, không chút ngần ngại hoặc chần chừ.

Quyết định và làm ngay. Ông chuẩn bị mọi thứ và dẫn con trai theo. Khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên đống củi trên bàn thờ. Rồi ông Ápraham lấy dao để sát tế con mình. Gay cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi đích danh ông, và ông cũng lại liền thưa: “Dạ, con đây!”. Ông nghe tiếng Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ôi, một niềm tin trong ngần như pha lê và hoàn toàn tuyệt đối. Nhờ niềm tin như vậy mà ông được kể là người công chính.

Thật là trên cả tuyệt vời! Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì ngươi đã vâng lời Ta”. Thiên Chúa hứa bất cứ điều gì thì đều ứng nghiệm và nên trọn.

Cũng dễ hiểu rằng người ta càng tin tưởng thì càng dễ dàng dứt khoát và mau mắn vâng lời. Thánh vịnh gia đã bộc bạch: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà còn tin được sao? Thật khó quá! Đúng vậy, thường thì chúng ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp ý mình”, còn nếu “trái ý mình” thì chắc hẳn chúng ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy là “phi lý”, thậm chí có người còn có thể trách Chúa.

Tuy nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả đều là Hồng ân Thiên Chúa, bởi vì như Thánh Vịnh gia xác định: “Thân này là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm hãnh diện và hạnh phúc của mỗi chúng ta – những “hạt bụi” nhỏ bé nhưng vẫn đáng giá vì được Thiên Chúa tạo nên.

Quả thật, hạt bụi phàm nhân trở nên hạt ngọc của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm! Trong trình thuật Rm 8:31-34, Thánh Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”.

Và chính những câu hỏi đó cũng chính là những câu trả lời rạch ròi và chính xác về thân phận của chúng ta. Đúng là không phải nói gì thêm nữa! Vô tri bất mộ – không biết chẳng yêu, nhưng một khi biết rồi thì không thể không yêu mến, không cậy tin, và không ngần ngại xác định: “Giờ đây con biết đợi trông gì, lạy Chúa, hy vọng của con đặt ở nơi Ngài” (Tv 39:8).

CON CỦA CHÚA

Trình thuật Mc 9:2-10 (tương đương Mt 17:1-8; Lc 9:28-36) kể lại cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Hôm đó, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài mặc trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Các ông còn thấy có ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Các ông được thấy “hiện tượng lạ” không chỉ là người “may mắn” mà còn là người có trọng trách nặng nề hơn, đó là sự công bằng. Thật vậy, bất cứ tặng phẩm nào cũng gắn liền với trách nhiệm nào đó, như tục ngữ Việt Nam nói: “Cây càng cao, gió càng lay”. Biết vậy để khiêm nhường chứ không để ỷ lại mà kiêu sa.

Được tận mắt chứng kiến sự lạ lùng đó, ông Phêrô rất phấn khởi, đến nỗi ông phải thưa ngay với Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Chắc chắn không ai có thể trì hoãn sự sung sướng, nhất lạ khi hưng phấn cao độ. Vừa kinh hoàng vừa hạnh phúc tột đỉnh bởi vì được “nếm thử” vinh quang Thiên Đàng, ông Phêrô không còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh và quên luôn cả chính mình, chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu, cho ông Môsê và ông Êlia mà thôi.

Sự lạ nối tiếp, sự ngạc nhiên cũng nối tiếp. Bất chợt có đám mây bao phủ các ông, và có tiếng nói vọng ra: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng ta phải vâng lời Đức Kitô – Đấng vừa là “Con Cưng” của Chúa Cha vừa là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng vẫn thực hiện đức vâng lời tuyệt đối. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa rất quý trọng đức vâng lời, và chính Ngài cũng “đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Không hề đơn giản, và cũng không thể cứ tà tà hoặc cứ khơi khơi mà “thuộc lòng” bài học vâng phục để có thể thành nhân!

Niềm vui sướng trào dâng, niềm hạnh phúc đang lâng lâng khó tả, tuyệt vời biết bao! Nhưng bất chợt các ông nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Hẳn là các ông còn dư âm niềm hạnh phúc ấy và chắc là tiếc những giây phút kia lắm. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nên giữ bí mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con người thật yếu đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ lòng tin!

Hạnh phúc không thể dừng lại ở đó – trên đỉnh Tabor, mà hạnh phúc còn phải trải qua nhiều đau khổ cho tới đỉnh Can-vê – nơi tang thương và chết chóc: chết cho chính mình, chết cho tha nhân và chết vì Chúa. Tình yêu nào không tiết ra chất hy sinh thì không là tình yêu đích thực, và cũng không thể có hạnh phúc thật. Chắc chắn như vậy!

Trình thuật Lv 19:11-18 nói về luật luân lý, cũng có thể coi như Luật Chay, bởi vì giữ chay là sống đúng các nguyên tắc về luân lý. Luật đó được ấn định qua 13 mệnh lệnh phủ định với chữ KHÔNG và 2 mệnh lệnh xác định với chữ PHẢI. Kinh Thánh ghi rõ:

“Các ngươi KHÔNG được trộm cắp, không được nói dối, KHÔNG được lừa gạt đồng bào mình. Các ngươi KHÔNG được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là các ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của các ngươi. Ta là Đức Chúa. Ngươi KHÔNG được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi KHÔNG được giữ lại qua đêm cho đến sáng. Ngươi KHÔNG được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi, Ta là Đức Chúa. Các ngươi KHÔNG được làm điều bất công khi xét xử: KHÔNG được thiên vị người yếu thế, cũng KHÔNG được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi KHÔNG được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là Đức Chúa. Ngươi KHÔNG được để lòng ghét người anh em, nhưng PHẢI mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi KHÔNG được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi PHẢI yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa”.

Thực thi Luật Chay nhưng phải đúng cách, không thể theo kiểu đại khái hoặc cho qua lần, chiếu lệ. Thiên Chúa cảnh báo qua ngôn sứ Isaia: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách (Is 58:3b-4).

Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho chúng ta vô điều kiện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Như vậy, chúng ta cũng PHẢI ăn chay, đền tội, và tha thứ cho tha nhân vô điều kiện: “Anh em đã ĐƯỢC CHO KHÔNG thì cũng PHẢI CHO KHÔNG như vậy” (Mt 10:8). Đó là cách chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tuyệt vời khiến Ngài vui lòng chúc lành cho chúng ta – hôm nay và mãi mãi.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết sống khiêm nhường và vâng lời, đồng thời xin ban cho con thêm đức Tin, đức Cậy và đức Mến, để con có thể làm đẹp lòng Ngài và làm vui lòng tha nhân. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu Dấu của Cha, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CHÚA

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Trong dịp tết vừa qua chúng tôi đến thăm các gia đình, gặp gỡ truyện trò với các bậc cha mẹ, một trong câu chuyện đầu tiên các bậc cha mẹ nói đến, đó là chuyện con cái. Có những cha mẹ rất vui và hạnh phúc, khoe với các cha: “Nhà con năm nay các cháu về đông đủ, đầy nhà, ăn uống, vui lắm! Bây giờ giải tản về các nhà để đi chúc tết rồi”. Có người buồn bã kể: “Con có đứa con trai, năm nay cả hai vợ chồng nó không đứa nào về, cũng không cho con nó về”. Có gia đình kể: “Ông bà con còn ở quê, năm nay mừng thượng thọ. Con mua vé máy bay cho cả nhà về ăn tết với ông bà và mừng thượng thọ ông bà luôn. Chẳng biết các cụ còn sống được bao lâu nữa! Có tốn kém một chút nhưng làm cho các cụ vui với con cháu là được”. Ngày tết là ngày của gia đình, ngày của tình thân, ngày con cái bày tỏ lòng thảo hiếu với mẹ cha. Có những cha mẹ biết rằng con không về, nhưng vẫn chờ vẫn mong. Cha mẹ chờ mong không phải vì đồng quà, tấm bánh, mà chỉ vì muốn gặp lại con cháu trong những ngày quan trọng linh thiêng này. Có những người con biết nghĩ đến cha mẹ, hy sinh gác lại công việc, chấp nhận tốn kém để về với ông bà cha mẹ.

Thiên Chúa là người cha nhân hậu, hết lòng yêu thương con cái. Ngài cũng chờ đợi chúng ta trở về với Ngài. Ngài muốn chúng ta sống sao cho trọn đạo làm con đối với Ngài. Lời Chúa Chúa nhật II mùa chay hôm nay nói cho chúng ta về một Thiên Chúa là cha yêu thương và cũng giới thiệu cho chúng ta gương mẫu những người con hiếu thảo.

Bài đọc hai hôm nay là những lời tán tụng thật xúc động về tình thương của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cho ta thấy hình ảnh Thiên Chúa là cha, Ngài như lá chắn che chở cho con cái, luôn bênh vực con của mình: Có Thiên Chúa bênh vực chúng ta, nào ai chống lại được chúng ta? Hơn thế nữa, Thiên Chúa không hề tiếc chúng ta điều gì: Đến như chính con ruột của Ngài, Ngài còn chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp Người Con ấy vì chúng ta. Như vậy chắc chắn Thiên Chúa sẽ không tiếc gì với chúng ta nữa. Tác giả cũng cho thấy, Thiên Chúa còn rộng lượng để tha thứ cho chúng ta tất cả, cho dù chúng ta có phản nghịch chống lại Chúa. Chúa Giêsu cũng không kết án chúng ta, vì chính Ngài đã chết và sống lại là để cứu chuộc chúng ta và Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu bầu cho chúng ta. 

Vì Thiên Chúa hết mực yêu thương như vậy, Ngài không được lợi gì khi yêu thương chúng ta, Ngài chỉ mong muốn một điều duy nhất là chúng ta cũng yêu mến Ngài và sống xứng đáng là những người con của Chúa.

Bài đọc một cho chúng ta hình ảnh thảo hiếu của tổ phụ Apbraham. Ông sống với Chúa chân thành như con cái đối với cha mẹ và thân thiết với Thiên Chúa như bạn hữu. Ông hết lòng tin tưởng vào tình thương và lời hứa của Thiên Chúa không hề từ chối Chúa một điều nào. Cuộc sống của ông đang yên ổn, giàu có tại thành Ur, Thiên Chúa đã gọi ông và muốn ông rời bỏ quê cha đất tổ, để đi đến một vùng đất mới, cùng với lời hứa: Ta sẽ ban cho ngươi một vùng đất, sẽ cho ngươi con cháu đông như sao trên trời và ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi. Tất cả lời hứa còn ở phía trước và cũng không biết đến bao giờ Chúa sẽ thực hiện, nhưng Apbraham vẫn tin và bước đi theo lời gọi của Chúa. 

Câu chuyện hôm nay cho thấy, Thiên Chúa đã tự mình ký kết giao ước với Apbraham để củng cố thêm lòng tin của ông. Tự ký kết giao ước với Apbraham, có nghĩa là Thiên Chúa tự trói muộc mình vào với ông. Kể từ khi đáp lại lời Chúa để ra đi, Apbraham đã trở thành người bạn thân với Chúa. Có những lúc ông bị thử thách nặng nề, như khi ông đã già mà vẫn chưa có con. Khi ông có được một người con, Thiên Chúa lại muốn ông sát tế con cho Chúa. Apbraham đã không từ chối, không hồ nghi cũng không hề tiếc với Chúa điều gì. Ông sẵn sàng làm tất cả những gì Chúa muốn, vì ông tin Chúa luôn có phương án tốt nhất cho ông.

Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy sự thảo hiếu của Người Con Một của Thiên Chúa đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không từ chối Chúa Cha điều gì, Ngài luôn hết lòng yêu mến và vâng phục Chúa Cha kể cả chấp nhận cái chết. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Chúa tỏ vinh quang cho các môn đệ trên núi cao trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Các môn đệ thân tín đã được Chúa cho xem thấy giây phút vinh quang rự rỡ: Mặt Người sáng như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết, có ông Mose và Elia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cho các tông đồ xem thấy trước vinh quang Thiên Chúa nơi Ngài để cũng cố đức tin cho các ông, trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn thập giá. Hai vị ngôn sứ là Mose và Elia xuất hiện như đại diện cho truyền thống Lề luật và Ngôn sứ, tức là đại diện cho toàn bộ Cựu Ước để làm chứng về Chúa Giêsu trước mặt các môn đệ.

Có lẽ mục tiêu chính của cuộc biến hình này, là dịp để Thiên Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ và cũng là dịp Thiên Chúa bày tò “sự hài lòng” của Ngài đối với Chúa Giêsu. Trong lúc các tông đồ đang kinh hoàng, sợ hãi, thì có tiếng Chúa Cha từ trời phán: Đây là Con Ta yêu dấu! Hãy vâng nghe lời Người. Đây là lần thứ hai, Thiên Chúa Cha đã công khai giới thiệu Con của Ngài cho nhân loại và nói lên sự hài lòng về Người Con của mình. 
Thiên Chúa Cha hài lòng về Người Con là Chúa Giêsu và gọi Chúa Giêsu là Con rất yêu dấu, vì Chúa Giêsu luôn sống hiếu thảo với Cha và luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu thể hiện sự hiếu thảo bằng việc hoàn toàn vâng lời, vâng lời cho đến nỗi chịu chết, chết trên cây thập giá. Chúa Giêsu sống hiếu thảo bằng cách thường xuyên “thăm hỏi, truyện trò” với Cha qua cầu nguyện. Người nhận ra ý Chúa Cha và sẵn sàng thi hành trong suốt cuộc đời. Thiên Chúa Cha hài lòng và hoàn toàn trao phó chương trình cứu độ, phục hồi nhân loại cho Chúa Giêsu, đồng thời căn dăn các tông đồ: Hãy vâng nghe Lời Người.

Thiên Chúa Cha muốn các tông đồ và mỗi chúng ta vâng nghe lời Chúa Giêsu, tức là nghe trong sự vâng phục, tin tưởng và phó thác cho Chúa Giêsu, như Chúa Giêsu vâng nghe và tin tưởng phó thác cho Chúa Cha. Trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Ngài nói về việc Con Người từ cõi chết sống lại. Đây là điều rất khó chấp nhận đối với các tông đồ. Vì các tông đồ theo Chúa, cho đến lúc này, vẫn tìm kiếm địa vị danh vọng theo kiểu trần gian. Các ông chưa dễ dàng chấp nhận Thầy Giêsu sẽ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết một cách đau đớn nhục nhã. Các tông đồ càng khó chấp nhận việc các ông cũng sẽ phải vâng nghe để bước vào cùng một con đường với Thầy Giêsu

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một Thiên Chúa là Cha gần gũi, yêu thương con người và mời gọi chúng ta sống tình thảo hiếu với Thiên Chúa như con cái với cha mẹ. Mùa chay chính là dịp để chúng ta làm mới lại tương quan của chúng ta với Chúa, và rà sóat lại bổn phận của ta đối với Ngài. Có thể chúng ta đã mải mê với công việc và cuộc sống, bị lối kéo bởi những thú vui và lo tìm kiếm của cải vật chất, đến độ bỏ quên bổn phân đối với Chúa. Mặc dù chúng ta lười biếng, cố tình xa tránh Thiên Chúa, để mình lấm lem trong tội, nhưng Thiên Chúa vẫn không thể quên và không thể bỏ chúng ta. Thiên Chúa vẫn luôn nhớ đến và ban ơn trợ giúp cho ta mỗi ngày và vẫn chờ đợi chúng ta quay về với ngài. Mùa chay là cơ hội tốt nhất để trở về với lòng Chúa xót thương, bằng việc lãnh nhận Bí tich Giải tội và Thánh Thể Chúa.

Giống như con cái thu xếp công việc để về với ông bà cha mẹ ngày tết thế nào, chúng ta cũng được mời gọi để sắp xếp, đều chỉnh lại nếp sống của cá nhân và gia đình để mọi thành viên để trở về gặp gỡ Thiên Chúa qua các giờ lễ mỗi ngày. Cần sắp xếp để gia đình có giờ kinh cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa; sắp xếp để gia đình có những bữa cơm tối xum họp với nhau trong tình thân và hãy sắp xếp để cha mẹ con cái có nhiều giờ hơn ở bên nhau, đi chơi, nói chuyện, vui đùa với nhau. 

Xin Chúa giúp mỗi người biết để tâm lắng nghe và sẵn sàng vâng theo lời Chúa truyền dạy, dù lúc vui cũng như lúc buồn, để nhờ biết vâng nghe và thực hành, chúng ta trở nên những người con hiếu thảo của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU, QUÀ TẶNG VÔ GIÁ THIÊN CHÚA BAN CHO TA

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  

(Sáng Thế 22:1-2, 9a, 10-13, 15-18;  Rm 8:31b-34;  Mc 9:2-10)

Quà tặng là dấu chỉ tình yêu.  Giá trị quà tặng không phải vì đắt tiền và hiếm quý, nhưng là ở mối chân tình người tặng muốn biểu lộ với người nhận.  Với ý nghĩa căn bản này, ta hiểu được giá trị của việc Thiên Chúa truyền cho ông Áp-ra-ham giết con mình là I-xa-ác làm lễ toàn thiêu dâng cho Người, hiểu giá trị của sự kiện “đến chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”, và hiểu giá trị tuyệt đối của Chúa Giê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã giới thiệu với chúng ta ở trên núi:  “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.

Câu chuyện ông Áp-ra-ham đem con lên núi Mô-ri-da để sát tế, chúng ta đã nghe nhiều lần và thán phục lòng quảng đại hy sinh của Áp-ra-ham.  Nhưng có lẽ chúng ta không mấy nghĩ đến tâm trạng của Áp-ra-ham như thế nào trước quyết định vâng lời Chúa.  Bao nhiêu là khúc mắc!  Tại sao Chúa ban cho đứa con thừa kế duy nhất, rồi Người lại bảo đem nó lên núi giết đi để làm hy lễ dâng Chúa?  Chúa hứa cho ômg một dòng dõi đông hơn sao trời cát biển qua đứa con này, rồi bây giờ phải giết nó thì lời hứa làm sao được thể hiện?  Thiên Chúa có thực sự nhân lành và quảng đại không?  Chắc chắn ông Áp-ra-ham hiểu được giá trị nào của hy lễ Chúa muốn ông dâng cho Người!  Với ông, I-xa-ác là tất cả ước nguyện của đời ông.  Của cải, nhà cửa và cả đến họ hàng thân thuộc, ông cũng có thể bỏ lại ở thành Ur để đi theo tiếng gọi của Chúa, chỉ là vì ước mơ có con cháu nối dòng.  Vậy mà giờ đây, phải chăng Chúa “đưa tay cắt ngang đường chỉ tấm thảm dệt đời ông” hay sao?  Càng yêu quý thì càng đau đớn khi phải mất đi.  Sở dĩ ông chấp nhận hy sinh con mình là bởi ông muốn biểu lộ với Thiên Chúa tấm lòng và đức tin của ông.  Cũng may, câu chuyện kết thúc tốt đẹp:  I-xa-ác được cứu sống và Chúa hiểu lòng Áp-ra-ham! 

Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô đã nghĩ đến tình yêu của Thiên Chúa còn lớn lao hơn tình yêu của Áp-ra-ham muôn ngàn.  Tình yêu Chúa Cha dành cho Con Một Người không thể đo lường được.  Vậy mà Người sẵn lòng hy sinh Con mình chỉ là để cứu độ chúng ta, những tạo vật bất xứng.  Chúng ta càng không xứng đáng thì tình yêu của Người càng cao vời.  Vì thế thánh Phao-lô vui mừng gọi tình yêu ấy là “ân sủng” cứu độ.  Quả thực, lời tựa Tin Mừng Gio-an khẳng định Chúa Giê-su là Ân Sủng, là sự “sung mãn”, để rồi “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Gio-an 1:16).  Cho nên thánh Phao-lô kết luận:  “Một khi đã ban người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?”  Mà ban tất cả là gì nếu không phải là người Con mà Thiên Chúa trân quý nhất và sau cùng là hạnh phúc đời đời dành cho chúng ta?  Như I-xa-ác là hiến lễ quý nhất ông Áp-ra-ham dâng lên Thiên Chúa để biểu lộ đức tin của ông, thì Chúa Giê-su là cả kho tàng Chúa Cha ban cho chúng ta để nói lên mức độ tình yêu Thiên Chúa (Gio-an 3:16).

Thánh Phao-lô đã suy niệm biến cố Chúa Giê-su biến đổi hình dạng trên núi, cùng tiếng Chúa Cha phán với ba môn đệ:  “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.  Nếu chúng ta thực sự biết Chúa Giê-su là Đấng nào và Người là quà tặng vô giá Chúa Cha ban cho chúng ta, thì chúng ta sẽ hiểu được lời kêu gọi “hãy vâng nghe lời Người” quan trọng đến mức nào!

Sống sứ điệp Lời Chúa

Một quà tặng vô giá mà chúng ta lại không quý trọng, thì quả thực chúng ta không thể bào chữa cho mình được, nếu ngày phán xét Chúa Cha hỏi chúng ta đã sử dụng món quà ấy như thế nào.  Vậy chúng ta hưởng quà tặng Giê-su mà Chúa Cha ban cho chúng ta làm sao đây?  Nơi Chúa Giê-su có tất cả những gì chúng ta cần.  Người là hình ảnh để chúng ta hiểu được Thiên Chúa là Đấng nào.  Người là mức đo lường tình yêu Thiên Chúa yêu thương chúng ta.  Người là “điều răn sống” Chúa Cha ban cho chúng ta.  Người là lối sống cho chúng ta, để chúng ta suy nghĩ, hành xử, yêu thương theo mẫu gương của Người.  Cho nên “vâng nghe lời Người” là cách chúng ta lãnh nhận Ân Sủng của các ân sủng và để Chúa Thánh Thần uốn nắn chúng ta theo khuôn mẫu Chúa Ki-tô.  Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô là suy nghĩ theo lối suy nghĩ của Chúa, là phản ứng theo cách Chúa phản ứng, là hy sinh phục vụ như Chúa phục vụ.  Mùa Chay là để chúng ta nhờ Chúa Giê-su mà được biến đổi vậy!

Về mục lục

.

TIÊN BÁO MẦU NHIỆM PHỤC SINH

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Phục Sinh hoặc sống lại từ cõi chết là một “lĩnh vực siêu nhiên “ thuộc về Thần Linh Duy Nhất  và Vĩnh Cửu là Thiên Chúa. Theo đó, cụm từ nầy không thuộc về “ ngôn ngữ” của loài người. Nên chi, cum từ khó hiểu nhất trong Đoan Tin Mừng hôm nay (Mc 9, 2 -10) là cụm từ “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì ?

Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Nhật thứ II MC ( Mc 9, 2 -10) thánh Marco trình thuật cho chúng ta một biến cố biểu lộ sự vinh quang rực rỡ, hay nói cách khác Chúa Giêsu tiên báo về Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.

Tin Mừng hôm nay có thể chia ra bốn ý chính :

  • Một là : Ngọn núi cao
  • Hai là : Người biến hình trước mặt các tông đồ
  • Ba là :  Có các ngôn sứ Cựu Ứơc  hiện diện cùng Người.
  • Bốn là : Lời tuyên bố của Chúa Cha về Chúa Giêsu.

Vâng , bốn ý chính trên nói lên việc Tiên Báo Mầu Nhiệm Sống lại từ cõi chết của Đức Giêsu.

Lên núi nói lên việc kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, Thiên Chúa ngự nơi cao thẳm, việc lên nui theo nghĩa đen cho chúng ta thấy điều đó, vị trí địa lý nghĩa đen cho chúng ta một  nơi siêu thoát, một nơi dễ cầu nguyện, một nơi bình an, xa lánh thế gian  ồn ào. Nghĩa thiêng liêng cho thấy để đến với Thiên Chúa , con người cần phải thoát tục, từ bỏ tất cả , tìm đến địa chỉ trên cao, đó là “ Núi Chúa”.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay, chúng ta thấy ( St 22, 1- 2. 9a ; 10 –13 . 15 -18) cho thấy Thiên Chúa đã thử thách tổ phụ Ápraham, và ông đã trung tín với Thiên Chúa, phần thưởng của ông là “ Tổ phụ của lòng tin”, vì nhờ ông mà Thiên Chúa chúc phúc cho những ai tin vào Ngài.

Qua đó, chúng ta thấy , Thiên Chúa chính là nguồn hằng hữu, vì không gì quý giá hơn “ Nguồn Hằng Hữu”, vì thể chế nào rồi cũng qua đi, sự giàu sang nào cũng kết thúc, quyền lực nào cũng tiêu vong, đau khổ nào mà tồn tại.

Lên núi cao cho thấy chỉ có Thiên Chúa là Đấng cao cả , vững bền duy nhất, tìm đến với Thiên Chúa là chúng ta “ lên núi cao” để kết hợp với Ngài là Đấng muôn thuở.

Lên núi cao , Chúa Giêsu biểu lộ Thần Tính siêu nhiên của Người và củng cố đức tin cho các môn đệ, một đức tin cần củng cố, xây dựng là một đức tin có cơ sở, nền tảng.

Chúa Giêsu yêu thương nhân loại cách cụ thể, không chung chung, chi tiết chứ không “ my dân”, biểu lộ vinh quang Thần Tính cho các môn đệ, là biểu lộ sự chân tính từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu Biến Hình trên Núi Tabore cũng giống như Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Gio-Đanh, nhưng là Lễ Trọng. Điều nầy biểu hiện Mầu Nhiệm Vinh Quang Sống lại từ cõi chết của Người.

Điều thứ ba, có các ngôn sứ lớn của Cựu Ứớc làm chứng về Người, cho thấy Chúa Giêsu không tự nhiên xuất hiện, Bốn Thầy trò Tân Ứơc cùng với Hai ngôn sứ lớn của Cựu Ứơc là Môisen và Êlia, chúng ta thấy sự hiện diện lớn lao , sự làm chứng vĩ đại chưa từng có, đến độ môn đệ Phê-rô không biết  mình nói gì.

Điều thứ tư, là điều quan trọng nhất, cũng như khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan, có tiếng phán từ Chúa Cha “ Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe Lời Người “. Như vậy, từ Cựu Ứơc đến Tân Ứơc chúng ta thấy, có ai được Chúa Cha phán trực tiếp như vậy, trừ các ngôn sứ lớn như tổ phụ Ápraham, Môisen, Êlia, Isaia, Samuel. Vì thế, Lời phán của Chúa Cha trong Mầu Nhiệm Biến Hình của Chúa Giêsu là một biến cố vĩ đại trong Tân Ứơc hầu tiên báo Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.

Vâng, bốn ý nghĩa chính trên nói lên điều quan trọng của cụm từ “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì?

Mầu nhiệm Cứu Độ là Mầu Nhiệp Nhập Thể và Nhập Thế, không phải chỉ là hình hời hợt ngoại hình, mà là một sự biến đổi từ tâm can, một hành trình làm Người của một Ngôi Vị Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến độ chết vì nhân loại, hầu mang vinh quang phục sinh từ Thiên Chúa đến cho nhân loại .

Bài đọc II hôm nay, thánh Phaolo cho chúng at biết ( Rm 8 , 31 b – 34) …” Thiên Chúa bênh vực chúng ta, thì còn ai dám chống lại chúng ta. Vì, đến chính Con Một Ngài cũng không tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (c 31 -32)

Thánh Vịnh 115 hôm nay cho chúng ta biết “… Trước nhan Thiên Chúa tôi sẽ đi trong miền đất của nhân sinh…”

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ Thần Tính trên núi Thánh, hầu biểu lộ vinh quang Nước Trời qua Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, xin củng cố niềm tin cho chúng con như hình ảnh xưa trên núi Thánh. Người là Thiên Chúa hằng Sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen

Về mục lục

.

HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Lễ Tro, đầu Mùa Chay, tiên tri Gioel nhân danh Giavê Thiên Chúa đã mời gọi ta: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Còn Đức Giêsu thì mời gọi ta thực hành ba việc: “Ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái,” một cách âm thầm kín đáo, không phô trương “tay trái không cho tay phải biết”.

Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đi vào hoang địa và sống ở đó 40 ngày, để mời gọi ta sống tinh thần mùa chay với sứ điệp: “Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Hôm nay, trong biến cố Đức Giêsu biến hình trên núi, qua tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, từ trong đám mây sáng chói, Đức Chúa Cha mời gọi ta: “Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu.”

Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu vì Người là Con chí ái của Chúa Cha, đẹp lòng Cha mọi đàng.

Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu vì Người là Ngôi Lời nhập thể, là mạc khải trọn vẹn và đầy đủ nhất của Đức Chúa Cha.

Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu vì Người là hiện thân của tình yêu thương xót và là hình ảnh của Đức Chúa Cha vô hình trên trần gian. Ai thấy Người là thấy Đức Chúa Cha.

Hãy vâng nghe lời Đức Giêsu vì Người là vị Ngôn Sứ vĩ đại của Đức Chúa Cha, Môsê và các ngôn sứ chỉ nói về Người.

Thế nhưng, ta phải vâng nghe lời Đức Giêsu như thế nào? Ta vâng nghe lời Đức Giêsu như Người đã từng vâng nghe lời Đức Chúa Cha.

Đức Giêsu vâng nghe lời Đức Chúa Cha như thế nào? Thánh Phaolô nói rằng: “Đức Giêsu vâng lời Đức Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Đức Chúa Cha đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ…” (x. Pl 2,6-11).

Quả thật, Đức Giêsu có vâng phục Đức Chúa Cha trọn đời, có trải qua đau khổ mới bước vào vinh quang.

Tổ phụ Abraham có sẵn sàng hiến dâng người con một là Isaac cho Giavê Thiên Chúa mới được chúc phúc và trở thành cha một dân tộc đông đảo như cát biển sao trời.

Tông đồ Phêrô và các bạn đồng nghiệp có “vâng lời Thày mà thả lưới” mới bắt được mẻ cá lạ lùng.

Nếu ta vâng phục Đức Giêsu trọn đời, ta cũng sẽ được thông phần vinh quang với Người. Vinh quang mà thánh Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thày, chúng con được ở đây thì tốt lắm!”

Nhưng vâng lời Chúa là gì? Là chết đi cho tội lỗi, cho ý riêng, để sống theo ý Chúa.

Chết đi cho tội lỗi như dân thành Ninivê mặc áo nhặm, ăn năn sám hối bỏ tro lên đầu.

Chết đi cho ý riêng như Đức Giêsu trước biến cố tử nạn: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cất chén này đi khỏi con, nhưng đừng theo ý con một vâng theo ý Cha.”

Thế nhưng đâu là ý Chúa để ta vâng phục? Ý Chúa được chứa đựng trong Thánh Kinh, Thánh Truyền và Giáo Huấn của Hội Thánh.

Thánh Kinh là lời Chúa nói, được ghi chép dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.

Thánh Truyền là lời Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần uỷ thác cho các Tông Đồ, được những kẻ kế vị các ngài lưu lại toàn vẹn trong Giáo Hội.

Giáo Huấn của Giáo Hội là những giải thích, cắt nghĩa, trình bày kho tàng mạc khải lời Chúa cách trung thực hay là những truyền dạy về chân lý đức tin và phong hoá mà ta phải tin nhận và thực hành trong đời sống.

Ngoài ra, ta cũng còn có thể tìm thấy ý Chúa qua những dấu chỉ thăng trầm của thời đại, qua những biến cố vui buồn của đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.

Muốn nhận ra được ý Chúa giữa dòng đời ngược xuôi, ta cần phải biết thinh lặng và cầu nguyện.

Mùa Chay là thời gian rất thích hợp cho những ai yêu mến sự thinh lặng và cầu nguyện, ăn chay và làm việc lành phúc đức.

Nếu Mùa Chay năm nay, ta cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái theo tinh thần của Đức Giêsu đã dạy trong ngày lễ Tro và theo Sứ điệp Mùa Chay của Đức Giáo Hoàng cũng như theo Thư chung Mùa Chay của Bề Trên giáo phận, Bề Trên cộng đoàn là ta đang thực hành lời Đức Chúa Cha giới thiệu và mời gọi: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.

Ta vâng nghe lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội như thế! Chắc chắn Mùa Chay sẽ làm biến đổi cuộc đời ta, gia đình ta, xứ đạo ta, và quê hương ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết vâng nghe lời Chúa và Giáo Hội trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Amen.

Về mục lục

.

TỪ TABOR ĐẾN GOLGOTHA

Thiên Phúc

Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau: Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”.

Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.

Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:

– Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!

Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:

– Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?

 Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.

Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.

Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.

Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.

Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.

Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.

Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.

Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.

Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.

Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện:“Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM VÀ CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Tước hiệu “Con Một” cho phép nhấn mạnh một chủ đề duy nhất xuyên suốt ba bài đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B này.

St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18

Bài Đọc I kể cho chúng ta chuyện tích về cuộc hiến tế I-sa-ác, “con một” mà tổ phụ Áp-ra-ham yêu mến.

Rm 8: 31b-34

Bài Đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn đến mức “ngay chính Con Một của mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã để cho phải chết vì hết thảy chúng ta”.

Mc 9: 2-10

Tin Mừng Mác-cô kể cho chúng ta cuộc Biến Hình, trong đó Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ấy vậy, cuộc Biến Hình xảy ra chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, nghĩa là “Con Một” chịu chết vì hết thảy chúng ta để chúng ta được sống.

BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)

Trong khuôn khổ hạn định của Phụng Vụ, chuyện tích nổi tiếng này không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích này nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn vì cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng yêu thương lại có thể đòi hỏi ở nơi một con người ngay chính một sự thử thách tận mức đến như vậy. Cho dù ngay từ đầu chuyện, người kể chuyện nói trước “đây chỉ là một cuộc thử thách”, nghĩa là không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang.

  1. Lịch sử hình thành chuyện tích hiện nay

Tuy nhiên, giá trị ngôn sứ của bản văn thì rõ ràng. Mặt khác, lịch sử hình thành câu chuyện soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của câu chuyện và xua tan đi những xao xuyến của chúng ta. Các nhà chú giải mời gọi chúng ta phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau ở nơi chuyện tích này:

– Chuyện tích nguyên tác đã bị thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của người Do thái và tôn giáo của người Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.

– Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau này, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong truyện dài nhiều tập của vị tổ phụ để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện nguyên thủy: câu chuyện sau này là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-sa-ác, ẩn hiện “dân Chúa chọn”, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Phương Bắc). Chính trong bối cảnh bi thảm đó mà sứ điệp vang lên: phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Đức Chúa, Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn dân của lời hứa, dân mà Ngài gọi “con đầu lòng của Ngài” phải bị họa diệt vong (Xh 4: 22-23).

  1. Tôn giáo của dân Ca-na-an

Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me: ông là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như việc dân Ca-na-an thực hành việc hiến tế gia súc cũng như con cái cho các thần linh mà dân Su-me lại không hề biết đến.

Các văn sĩ xưa làm chứng về phong tục tập quán này. Như Diodore, văn sĩ Hy lạp thuộc thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên kể lại rằng dân Ca-tha dâng hiến cho thần Kronos hai trăm con trẻ “thuộc những gia đình danh giá nhất” khi gặp tai họa (Bibl. Hist. 20: 14) và Philon de Byblos, được Eusède trích dẫn, viết: “Đây là một phong tục tập quán cổ xưa của dân Phê-nê-xi là dâng hiến những đứa con thân yêu nhất của mình một cách rất huyền bí khi quốc gia gặp cơn  nguy biến”.

Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt như thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, và vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong trường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắt giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, “liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu” (2V 3: 27). Vua A-khát cai trị miền Giu-đa, mất niềm tin vào Đức Chúa, trước hoàn cảnh tuyệt vọng vì bị quân thù công hãm Giê-ru-sa-lem, “làm lễ thiêu con trai mình” (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: “Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa” (1V 16: 34).

Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?

  1. Tôn giáo của dân Ít-ra-en

Tuy nhiên, dù việc hiến tế các con trai đầu lòng của mình mang phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành vi như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: “Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa… Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại” (Xh 13: 11-13).

Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ lâu, chuyện tích hiến tế I-sa-ác xác minh quyết định của luật Mô-sê. Trong câu chuyện này, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người có tấm lòng quảng đại và một con người có niềm tin kiên vững.

Một con người có tấm lòng quảng đại

Ông Áp-ra-ham thường hằng bày tỏ tấm lòng quảng đại. Ông Áp-ra-ham để ông Lót, cháu của mình, chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: “Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy” (St 14: 23). Ông Áp-ra-ham cũng hành xử với Thiên Chúa cùng một cách như vậy. Khi chấp nhận hiến tế đứa con một của mình, ông Áp-ra-ham dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của mình.

Một con người có niềm tin kiên vững

Việc hiến tế I-sa-ác được định vị ở cuối một loạt những thử thách trong đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó mà tin được. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông và vợ mình càng ngày càng già yếu đi mà không có một người con nối dõi tông đường. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt; ấy vậy, ông chỉ là một khách kiều cư, lang thang phiêu bạt rày đây mai đó. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn đứa con trai duy nhất của mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền này nhưng ông vẫn tin là Thiên Chúa có một giải pháp, vì Ngài không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham đưa ra một khuôn mẫu đức tin, một đức tin dựa trên “lời Thiên Chúa” chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được cả ba tôn giáo: Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, gọi là “Cha của những kẻ tin”.

Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại. Trong khi đó, ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn vàn thế hệ.

Đáp lại niềm tin và sự vâng phục anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: “Ta lấy chính danh Ta mà thề”. Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn thân của Thiên Chúa, chứng nhân về lời thề của Thiên Chúa, vì lời thề thì chắc chắn hơn một lời hứa.

  1. Thần học về sự thử thách

Tác giả sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc này bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).

Để soi sáng cho những biến cố mà ông đã sống, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-sa-ác một dấu chỉ cho thấy cách thức Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bên ngoài xem ra thất bại. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng này nền tảng của việc mình được tuyển chọn và họ cũng phải thấy ở nơi việc Đức Chúa can thiệp để cứu I-sa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những người con của Lời Hứa.

Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-sa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.

  1. Khía cạnh ngôn sứ

Hình ảnh người cha hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình, và hình ảnh người con mang trên vai mình bó củi sẽ được dùng để hiến tế chính mình, thật sự gợi lên một tấm thảm kịch khác, trong đó chính Thiên Chúa trao phó Người Con Một của mình để cứu độ nhân loại.

Thánh Gioan sẽ ám chỉ đến hy tế của I-sa-ác khi áp dụng tước hiệu “Con Một” vào Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16). Ẩn hiện phía sau chuyện tích này, chúng ta đọc thấy cái vẻ thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31b-34)

Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma vào mùa đông những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa trước những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng này). Cũng chính ở nơi đây mà ngài viết thư gởi cho các Ki tô hữu Rô-ma mà ngài dự định sẽ viếng thăm họ. Như vậy, bức thư này chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.

  1. Bối cảnh

Bài Đọc II được trích từ chương 8 thư gởi các tín hữu Rô-ma, chương dâng trào cảm xúc bao la đến độ chúng ta như cảm thấy tâm tình tôn giáo nồng nàn của vị Tông Đồ. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, được gọi là con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang bất diệt, được công chính hóa nhờ đức tin, Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu lớn lao đến như thế, nên chúng ta không có gì phải sợ ngoài một niềm hy vọng chan chứa niềm vui.

  1. Người Ki-tô hữu chẳng có gì phải sợ cả

Chương 8 này được kết thúc bởi một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa bằng một cung giọng đắc thắng. Bài Đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi này. Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: “Đến như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã để cho phải chết vì hết thảy chúng ta”. Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta và những ân huệ mà Ngài ban tặng cho chúng ta!

Thánh Phao-lô hình dung một tòa án ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến. Ai dám buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa vừa buộc tội họ vừa tuyên bố họ công chính? Hay chẳng lẽ Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha lại buộc tội chúng ta? Ấy vậy, Đức Ki-tô là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.

TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)

Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.

Biến cố này được xác định vào thời điểm rất có ý nghĩa: “Sáu ngày sau”. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài:“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8: 29). Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo này liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh này biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.

Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố này có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su? và biến cố này có ý nghĩa như thế nào đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan?

  1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su

Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su nhập thể đang hướng về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, thì Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc này đây Ngài được nhận lại trong chóc lát.

“Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Trên núi cao rực rỡ ánh vinh quang gợi lên núi Xi-nai, việc ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng này đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật rõ nét nhất tước vị Mê-si-a: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng này, họ là “dấu chỉ”. Quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Mê-si-a. Ông Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi ông Ê-li-a được truyền tụng là sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.

“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Chúa Cha công bố cùng những lời vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11). Lời tuyên bố này một lần nữa khẳng định tử hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời này đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, lời tuyên bố vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Mình, trong khi lời tuyên bố vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: “Hãy vâng nghe lời Người”, bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.

  1. Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ

Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình này: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến việc Chúa Giê-su cho con gái ông Gia-ia được sống lại (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ này Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng qua biến cố Biến Hình này Ngài an ủi họ trước.

Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố này đã củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời ánh vinh quang thần linh. Vị thủ lãnh của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau này sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật danh tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.

Như vậy, đây là nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành từ đầu cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Trong Tựa Ngôn ẩn chứa biến cố Biến Hình. Còn thánh Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chịu chết vì niềm tin của mình.

Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Trong tận cõi lòng mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.

Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá”. Đức Giê-su đột nhiên xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi một sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.

“Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông”. Trong Cựu Ước, “đám mây” tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, vào trong sự bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” như Đức Giê-su đòi hỏi họ.

Vào lúc này đây, các Tông Đồ không hiểu được “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Sau này, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc phục sinh của con gái của ông Gia-ia và biến cố Biến Hình của Ngài.

Sau này, các ông sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình này. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, sẽ diễn tả rõ ràng điều này: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3: 21).

Về mục lục

.

TỪ CÕI CHẾT SỐNG LẠI NGHĨA LÀ GÌ?

Lm Trần Bình Trọng

Khi tiên báo về cuộc khổ hình và thập giá mà Người sắp phải chịu bởi các kì mục, thượng tế và kinh sư, Ðức Giêsu nhận thức được rằng các tông đồ khó khỏi cảm thấy buồn nản và lo sợ. Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thầy mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Ðức Giêsu đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá.

Vì thế ông Phêrô đại diện cho nhóm Mười Hai mời riêng Thầy ra một bên mà can ngăn Người (Mc 8:32). Rồi khi biến cố thập giá xẩy ra vào ngày Thứ Sáu Chịu nạn, thì kinh nghiệm đau thương lại càng đè nặng tâm trí các tông đồ, nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người được chứng kiến cảnh Thầy mình sầu khổ trong vườn cây dầu.

Ðể giúp các tông đồ đối phó với viễn tượng khổ nạn và thập giá, Ðức Giêsu đưa ba tông đồ thân tín lên đỉnh núi, biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Ðức Giêsu biến hình có mục đích để củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong viễn tượng của cuộc khổ hình và thập giá. Giáo hội coi việc tổ phụ Ápraham sẵn sàng hiến tế con mình làm lễ vật hi sinh là hình bóng của lễ vật hi sinh của Ðức Giêsu làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ðể thử thách đức tin của Áp-ra-ham, Thiên Chúa muốn ông dâng con mình làm lễ vật toàn thiêu. Ixaác là người con thừa tự mà Chúa đã hứa cho ông bà, khi bà xã ông là Sara sinh con lúc bà đã cằn cỗi (St 18:12), còn ông được xấp xỉ một trăm tuổi xuân (St 21:5). Nhờ đức tin, Ápraham sẵn sàng chấp nhận hi sinh hiến tế con mình mặc dù đã nhận được lời hứa là nhờ I-xa-ác mà ông sẽ có được một dòng dõi (St 21:12). Kết cục, đã có sứ thần Thiên Chúa bảo ông dừng tay, và còn hứa cho dòng dõi ông trỏ nên đông đúc như sao trời và cát biển (St 22:17).

Từ trên núi đi xuống, Ðức Giêsu ra lệnh cho bộ ba tông đồ không được thuật lại cho ai nghe những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Quả nhiên sau đó các tông đồ quan sát mà ngạc nhiên những cảnh chống đối và lăng nhục xẩy ra choThầy mình: bị bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thập giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bị bắt giữ và nhục mạ trong vườn mà Thẩy mình phải chịu, khiến các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thầy mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì chính các ông sẽ bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được tin là Thầy mình đã sống lại, họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư.

Chỉ sau khi chứng kiến Chúa phục sinh, họ mới hiểu được ý nghĩa của lời Chúa: Cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại. Từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Các ông được chia sẻ niềm vui phục sinh của Thầy chí thánh, nhưng đồng thời lại phải trải qua những bách hại, chịu tù đầy và chịu khổ hình trên thập giá. Ðúng như lời Chúa phán: Ðầy tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thầy, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy ý niệm thần học tín lí: sống lại từ cõi chết cũng đã được áp dụng cho các tông đồ. Các vị anh hùng tử đạo – trong đó có 118 liệt sĩ bỏ mình tại Việt Nam – cũng đã phải hiểu đuợc ý niệm từ cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử, chứ không phải cứ khơi khơi mà dám xông ra pháp trường đâu.

Còn đối với người tín hữu, từ cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống người tín hũu, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta được sống lại từ cõi chết. Tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hằng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại không quyết liệt như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo, mà chỉ là những thua thiệt mất mát ở đời này. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu.., ta sẽ được thăng tiến về đời sống thiêng liêng.

Khi đó ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: thế nào là sống lại từ cõi chết. Như vậy thì ta cầu xin để khi nằm xuống vĩnh viễn rồi, ta lại được sống lại về phần linh hồn.

Lời cầu nguyện xin ơn sống lại từ cõi chết:

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã đến

chịu nạn chịu chết cho tội lỗi loài người,

gồm tội riêng con.

Xin cho con biết sẵn sàng chết đi cho tội lỗi

và các thứ tính mê nết xấu

để con được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa

và được chiêm ngưỡng vinh quang của nước Chúa

trong đời sống mai hậu. Amen.

Về mục lục

.

NGỘ RA

Lm Vũdình Tường

Ngộ ra là nhận thức bất ngờ biết được của sự vật đã từng coi qua, nhìnlại, xem đi, xem lại rất cẩn trọng hay của đoạn văn từng nghiền ngẫm nhiều lần, rồi bất thần nhận biết điều hay, í tốt, hiện ra trong tâm trí làm cho tâm hồn hứng khởi, tâm trí vui, rạo rực điều vừa cảm nhận được. Ngộ ra là nguồn hứng khởi cho tâm trí, giúp tâm trí giầu mạnh, mở ra một chân trời mới, cánh cửa mới cho tâm hồn.

Đối với Kitô hữu ngộ ra điều mới mẻ về đức tin là một bước tiến nhảy vọt trong linh đạo, dẫn đến yêu mến Chúa nhiều hơn và phục vụ tha nhân tích cực và hăng say hơn. Ngộ ra thoả mãn điều con tim khao khát, mong đợi. Ngộ ra gây hứng khởi cho tâm hồn, làm cho tinh thần sảng khoái, sức mạnh nội tâm nhảy vọt. Ngộ ra điều mới mẻ về tình yêu Chúa, điều này không chỉ có lợi cho đức tin mà còn làm cho ta nhận ra giá trị thực và rõ hơn mục đích của cuộc lữ hành trần thế. Ngộ ra còn xác tín điều quan trọng khác là Thiên Chúa hiện thực và hiện diện trong cuộc lữ hành của ta. Ngộ ra còn thay đổi nhận thức về Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa yêu thương, giầu bác ái, chậm phê bình và hay tha thứ là hình ảnh Thiên Chúa ta tôn thờ. Ngộ ra còn giúp nhận biết đau khổ trần thế, bệnh tật, già nua không phải do Chúa dựng nên nhưng đó là một phần của tiến trình sống. Cây cối, thú vật và mọi sinh vật khác đều trải qua chương trình lột xác để trưởng thành hơn. Riêng con người thì đó là tiến hoá để trở nên tốt hơn trước khi tiến vào cuộc sống vĩnh cửu.

Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo Đức Kitô đã lâu. Các ngài chưa bao giờ nhận biết vinh quang thực của Đức Kitô mãi cho đến khi được chính mắt nhìn thấy trên núi thánh. Chính kinh nghiệm trên tỏ cho các ông biết rõ hơn về Đức Kitô, Đấng các ông đang tin theo. Con mắt đức tin mở ra, tâm trí các ông rộng mở, tinh thần cao vút và con tim nhảy mừng vì được diện kiến vinh quang Thiên Chúa. Trong giây phút mừng vui tột cùng các ông không biết nói gì. Phúc âm thuật lại lưỡi các ông hầu như co cứng, không phát lên lời.

Các ông không biết phải nói gì vì các ông kinh hoàng Mk 9,6

Đứng trước cảnh huy hoàng, rực rỡ của Thiên Chúa, ngôn ngữ loài người bế tắc, ngôn ngữ trần gian chỉ đủ để diễn tả niềm vui trần thế mà không thể diễn ta nổi niềm vui đến từ trời cao. Nhớ lại ngày Chúa Giáng Sinh các thiên thần cũng không diễn tả niềm vui bừng lên như ánh sáng ban mai bằng lời nói nhưng cất tiếng hát vang vọng không trung để diễn tả niềm vui. Các tông đồ dù cảm thấy vui mừng nhưng không biết làm cách nào diễn tả nguồn vui trào dâng trong tâm hồn. Các ông không hát nhưng cúi gục mặt thầm thán phục và kinh hãi trước hào quang vượt quá sức nhìn của mắt thường. Tai các ông còn nghe được tiếng đối đáp của các tổ phụ và rồi Đức Kitô đã khuyến khích các ông. Khi tỉnh lại các ông nhận ra Đức Kitô còn các vị khác đã biến khỏi mắt các ông. Kinh nghiệm trên núi thánh bồi bổ đức tin các ông tin tưởng bước theo Đức Kitô. Đức tin trở nên vững vàng hơn, dấn thân tích cực hơn và hy sinh trọn vẹn hơn. Kinh nghiệm trên núi thánh ban cho các ông con mắt mới, quả tim mới, tâm hồn mới và cuộc sống mới. Cuộc sống đơn sơ nhưng đầy bình an, hy vọng. Điều các ông nghe được trên núi thánh

Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài Mk 9,7

Đây chính là điều Chúa Cha mời gọi Kitô hữu trung thành đi theo Đức Kitô, theo Con yêu dấu Thiên Chúa để nhận tình yêu Chúa Cha dành cho. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ dấu kín những gì đã chứng kiến. Các ông ấp ủ điều đó trong lòng. Miệng không nói ra nhưng tâm hồn khắc ghi những gì đã chứng kiến và trong cuộc sống rao giảng Tin Mừng tâm trí các ông luôn quay lại khúc phim núi thánh. Dù đã nhìn thấy, nghe được nhưng các ông vẫn chưa hiểu rõ í nghĩa câu

Sống lại từ cõi chết có nghĩa gì Mk 9,11

Mãi cho đến khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết hai tông đồ trên đường Emaus đã chẳng xác nhận điều đó là gì khi các ông miệng nói ra:

Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? Luca 24,32

Về mục lục

.

ĐẸP XÁC HỒN

Lm. Jos. DĐH.

Cuộc tình đẹp có phải là cuộc tình được xây dựng bằng nước mắt, khổ đau, bằng trái tim rộng mở, bằng đôi tai biết lắng nghe, bằng cả đời sống nghiêm túc, với môi miệng luôn mỉm cười không mỏi mệt ? “Tình” như thế có phải là tình trong mơ, “đẹp” như thế có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng quá phong phú trước một xã hội phức tạp hôm nay không ? Tình yêu đôi lứa, tình yêu giữa cha mẹ và con cháu, hay tình yêu quê hương đất nước, cuộc tình nào cũng cần đẹp, tương quan nào cũng cần tính bền vững, dù là nét đẹp vật chất hay tinh thần, dù là sự chặt chẽ trong lời nói, việc làm.

Cha ông chúng ta có câu: đứng núi này, trông núi kia, hoặc bỏ mồi, bắt bóng, có thể chúng ta từng sai lầm vì mắt không tinh thông, tâm trí không đủ sáng suốt, do đó mà bỏ lỡ dịp may, hay để vụt mất cơ hội tạo nên nét đẹp cho cuộc sống mình. Hành trình theo Đức Giêsu lên núi cao, các môn đệ hôm đó được chứng kiến chuyện tình đẹp nơi Thầy Giêsu kết hiệp cầu nguyện với Chúa Cha, dung mạo Thầy xinh đẹp lộng lẫy khác thường khi “đàm đạo” với hai chứng nhân cựu ước. Tai các ông được nghe rõ về lời tuyên phán từ trời: “đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Đẹp về hình thức, đẹp về nội dung, hai nét đẹp căn bản hằng thu hút tâm tính chúng ta. Đức Giêsu hôm nay, Ngài lưu ý các học trò về một sứ vụ đẹp và quan trọng: “đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”.

Cùng Thầy Giêsu xuống núi, trở về với nhịp sống thường ngày, các môn đệ còn “lâng lâng” cảm xúc về nét đẹp được thấy được nghe, tuy các ông chưa thể hiểu hết về lời căn dặn của Thầy, nhưng khao khát được trở nên xinh đẹp nơi các ông, thật là cần thiết. Ngày hôm nay, chúng ta có khao khát việc lên núi và xuống núi với Thầy Giêsu không ? Có thích được mắt thấy tai nghe lời tuyên phán: này là Con Ta yêu dấu không ? Biến cố biến hình vẫn lập đi lập lại hàng ngày, nếu chúng ta mạnh dạn theo Đức Giêsu lên núi để được biến đổi, được thêm sức mạnh và thêm ơn khôn ngoan, và khi trở về cuộc sống thực tế, chúng ta sẽ biết chu toàn bổn phận và ơn gọi của mình.

Cũng như các học trò Đức Giêsu, nhìn được vẻ đẹp bên ngoài, nghe đọc được tiếng phán từ trời, từ thánh kinh, còn để hiểu và thấm nhuần nét đẹp siêu nhiên, chúng ta chỉ cảm nhận lờ mờ thôi. Mang sẵn thao thức được chứng kiến dung mạo xinh đẹp của Đức Kitô, chúng ta còn mơ ước cả người thân của mình cũng được biến đổi, được trở nên đẹp xinh cả thân xác linh hồn như Đấng chúng ta tin thờ. “Hãy vâng nghe lời Người”, vừa tha thiết như một mệnh lệnh, vừa nói lên tính cao đẹp tự do, nơi mỗi người muốn sống tinh thần môn đệ theo Đức Kitô. Ba môn đệ thân tín không thể diễn tả hết niềm vui được đồng hành với Thầy lên núi, các ông cũng không khỏi bàng hoàng theo Thầy xuống núi với một chuỗi dài tâm tư khó hiểu: “từ trong cõi chết nghĩa là gì” ?

Không lên núi cao, sao biết cái lo nghiêng ngả, không xuống vực sâu, sao biết cái lo đắm đuối, không ra bể lớn sao biết cái lo sóng gió. (Mạnh Tử). Cuộc đời người kitô hữu, nếu hàng ngày không theo Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, không vượt ra khỏi tâm tính ích kỷ nơi bản thân, tự chúng ta làm mất đi cơ hội thấy và không thể hiểu vẻ đẹp phong phú của tình yêu Thiên Chúa nơi anh chị em mình. Tai mắt tâm hồn chúng ta chỉ thấy và cảm nhận được vẻ đẹp sâu thẳm của tình yêu, một khi chúng ta vượt ra khỏi tiếng ồn ào của tiền tài danh vọng. Các môn đệ cùng hiệp thông với Thầy Giêsu ở trên núi cao, các ông chưa hiểu hết cuộc đàm đạo của Thầy, ngôn ngữ từ đám mây cũng không phải là dễ hiểu, tuy nhiên tâm hồn các ông rất vui, như thế quả là các ông đã và đang được biến đổi tâm hồn rồi.

Ngày hôm nay, mơ ước được biến đổi khuôn mặt xinh đẹp, dễ thương, mơ ước xoá đi được tính nóng giận, được khôn ngoan trong cách cư xử, rõ ràng là khao khát đúng. Khi bày tỏ tình yêu cứu độ, Thiên Chúa không cần của lễ chiên bò của con người, “đúng và chuẩn” hơn, Thiên Chúa mạc khải tình yêu nơi Đức Giêsu làm người, làm Đấng cứu độ. Thiên Chúa ghi nhận vẻ đẹp hoàn hảo, vẻ đẹp toàn diện nơi mỗi người chúng ta là cần thiết để được cứu độ. Ngài tha thiết muốn chúng ta hãy vâng nghe Đức Kitô, Con của Ngài, để giúp ta hiểu để ta sống.

Thiên Chúa cần chúng ta hãy bày tỏ niềm vui và sự khôn ngoan biết liên kết với Đức Kitô để chúng ta được tẩy trắng tâm hồn, tẩy sạch tội lỗi, hầu được hạnh phúc đời đời. Muốn thành công trên đời, ai cũng phải biết làm chủ lấy cuộc sống của mình, muốn có khả năng giao tiếp đúng, đẹp, ai cũng phải trau dồi kiến thức, phải có tình yêu thương của Đấng là Thầy là Chúa của chúng ta. Ngắm nhìn người đẹp, tiếp xúc và làm việc với người tài giỏi đức độ, bao giờ cũng hạnh phúc, Chúa Giêsu hẳn Ngài sẽ tha thiết mong chúng ta nhìn thấy, nghe được, hiểu được giáo huấn của hành trình lên núi và xuống núi hàng ngày. Thay đổi tâm hồn sạch đẹp, làm mới tương với Chúa với tha nhân, bao giờ cũng khó, và phức tạp, Chúa Cha đã soi dọi cho các môn đệ, hẳn Chúa rất muốn chúng ta hãy khôn ngoan cậy trông vào tình yêu của Đức Kitô, hầu tâm hồn chúng ta luôn được xinh đẹp và tươi mới, đáng hưởng gia nghiệp đời đời Chúa hứa ban. Amen.

Về mục lục

.

VÂNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC BIẾN ĐỔI NHỜ THẦN KHÍ

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 9,2-10

(2) Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. (3) Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. (4) Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. (5) Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Thưa thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một cái”. (6) Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. (7) Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. (8) Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi. (9) Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Người đã từ cõi chết sống lại. (10) Các ông tuân lệnh đó, những vẫn bàn hỏi nhau xem câu “Từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì?

  1. Ý CHÍNH:

Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua. Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người sau này.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 2-4: + Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trốn lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về Thiên tính của Người. + Người biến đổi hình dạng: Đức Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi Gio-su-ê lãnh đạo dân Ít-ra-en tiến chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết mộ phần của Mô-sê ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và ban ơn Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca cho biết: “Và nói về cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giê-su) – mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc 9,29).

– C 5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng phải ở trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông được chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ Xuất Hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) + Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người dạy (x. Mt 16,14 ; Cv 3,22-23).

– C 9-10: + Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là chính Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai của Người đúng theo Ý muốn của Thiên Chúa. Nếu sớm nói ra sự thật này thì sẽ làm cho dân Do thái bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và sẽ gây ra bạo loạn, làm cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về thiêng liêng tinh thần của Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người “từ cõi chết sống lại”. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, cho đến sau khi Người chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy. + Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Cũng như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế mà phải qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc biến hình (x Mc 8,31).

  1. CÂU HỎI: 1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an? 2) Núi cao ở đây là núi gì? 3) Đức Giê-su hiển dung nhằm mặc khải Người là ai? 4) Nội dung cuộc đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a ra sao và nhằm mục đích gì? 5) Tại sao ông Phê-rô lại xin Thầy Giê-su cho phép dựng 3 lều trại? 6) Đám mây muốn diễn tả gì? 7) Qua lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải điều gì về Đức Giê-su với 3 môn đệ thân tín của Người? 8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su lại cấm ba môn đệ không nói ra điều các ông vừa được chứng kiến? 9) Tại sao sau cuộc biến hình các môn đệ lại thắc mắc về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” của Đức Giê-su?

II.SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA:“Đức Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) VÂNG LỜI QUÝ GIÁ HƠN BÁU VẬT:

Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:

– Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

– Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.

Vua ra lệnh cho quan Tể tướng:

– Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi !

Quan Tể Tướng liền nói:

– Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được ạ !

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc quý.

Kế đó vua lại đưa viên ngọc quý ấy cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi :

– Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu ?

– Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.

– Khanh hãy đập bể nó ra !

– Đập vỡ viên ngọc này ư ? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul :

– Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không ?

– Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.

– Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.

Lập tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Ab-dul. Họ hỏi ông rằng:

– Sao nhà ngươi lại dám làm như thế ?

Ab-dul bình tĩnh đáp lại:

Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào.

Trước thái độ thần phục tuyệt đối của Ab-dul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan kia.

Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Chúa Cha khi luôn vâng nghe lời Cha, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).

2) GIÁ TRỊ BIẾN ĐỔI CỦA ĐAU KHỔ:

Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt : bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.

Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.

Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba  thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.

Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giê-su trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng , xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút  do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.

3) THIÊN THẦN BIẾN THÀNH ÁC QUỈ:

Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua đường, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.

Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”

Bấy giờ gã ăn mày chìa tay ra xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá lớn. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:

“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản cha mẹ để lại để lao mình vào các đam mê trác táng… Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn xấu đi trộm cướp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian nan tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác yếu đuối hơn tôi. Bây giờ sau khi mãn hạn tù, tôi đang ở trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là đi ăn xin như ông thấy đó”.

Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những người thắc mắc về sự xuất hiện của hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách 20 năm sống phóng đãng mà thôi!”.

  1. THẢO LUẬN:1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng như thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ? 2) Bạn sẽ thực tập nhân đức nào bằng những việc làm cụ thể để loại trừ một thói hư quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?
  2. SUY NIỆM:

1) BIẾN ĐỔI LÀ QUY LUẬT CỦA CUỘC SỐNG:

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi : có những chiếc lá tháng trước đến nay không còn, nhưng lại có nhiều chiếc lá mới mọc ra. Và nhiều chiếc lá hiện nay đến tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà chỉ là một cây giả.

Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy : bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.

Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Hê-ra-clite đã nói “Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Tuy vẫn là con sông ấy nhưng nước sông hôm nay không phải là nước sông của ngày hôm qua.

Và nhìn vào bản thân : các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn có thay đổi, cái này chết nhường chỗ cho cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào cũ của 7 năm trước nữa. Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết.  Đối với cuộc sống thân xác thế nào thì cuộc sống thiêng liêng cũng giống như thế. Mùa Chay chính là thời gian giúp chúng ta biến đổi nên người mới tốt hơn. Nhờ được ơn biến đổi trong Mùa Chay này, chúng ta hy vọng sẽ được sống lại thật về phần linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.

2) CUỘC BIẾN HÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

– Đức Giê-su biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang Thiên Chúa của Người: Từ khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giê-su đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây khi nhìn thấy. Bấy giờ đang là lễ Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh thấy Thầy Giê-su trò chuyện với hai nhân vật nổi tiếng là Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và Ê-li-a, đại diện cho Ngôn Sứ, đã xin Thầy cho dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Bấy giờ có tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây xác nhận Đức Giê-su là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người” (x. Mc 9,7).

– Vâng lời Đức Giê-su chính là vâng lời Chúa Cha như Người đã nói: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Ðấng đã sai Thầy” (Lc 10,16). Trong tiệc cưới Ca-na, đức Ma-ri-a cũng dạy gia nhân: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Cụ thể vâng lời Đức Giê-su nghĩa là chấp nhận bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa, chấp nhận con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” như Đức Giê-su đã tiên báo khi đi lên Giê-ru-sa-lem mà tông đồ Phê-rô đã can trách, nên đã bị Người mắng như sau: “Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).

Hiểu được giá trị biến đổi của đau khổ thập giá, thánh nữ Bec-na-dét đã cầu nguyện với Chúa Giê-su như sau: ”Con không xin Chúa cất khỏi con sự đau khổ, nhưng chỉ xin Chúa đừng bỏ con khi con chịu đau khổ”.

3) CẦN BIẾN HÌNH NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU:

– Họa lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta chấp nhận dìm mình trong dòng nước và trồi lên mặt nước giống như Đức Giê-su đã qua cuộc tử nạn, đến ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã chấp nhận đi con đường chết và sống lại này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải chấp nhận đi con đường của Đức Giê-su, nghĩa là sẵn sàng bị thua thiệt, bị mất việc làm, mất địa vị xã hội vì lòng tin yêu Chúa…

– Thánh Phao-lô đã dạy các tín hữu: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời.” (Gl 6,7-8). ”Vì thế anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).

4) VÂNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC BIẾN HÌNH NHỜ THẦN KHÍ:

– Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta hãy xét mình mỗi buổi tối và quyết tâm loại trừ các thói hư như: lười tham dự lễ, bỏ đọc kinh tối gia đình, loại trừ thói tham lam ích kỷ và vô trách nhiệm, tránh nói hành những kẻ vắng mặt, biết nín nhịn kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái cụ thể kèm theo những lời nguyện tắt… chúng ta hy vọng sẽ được Thần Khí Chúa biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường giống Chúa Giê-su như Người đã dạy: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).

– Noi gương Đức Ma-ri-a sau khi đón nhận Thai Nhi Giê-su, đã đem Người đi thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng trong dạ mẹ. Noi gương An-rê sau khi gặp Đức Giê-su đã gặp Si-mon và dẫn em đến giới thiệu với Đức Giê-su để trở thành tông đồ đi chài lưới các linh hồn. Người tín hữu chúng ta sau khi được ơn biến đổi cũng phải chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa, giới thiệu Chúa cho những người thân như cha mẹ, anh chị em, bạn bè chưa biết Chúa để họ cũng tin yêu Chúa và được hưởng ơn cứu độ với chúng ta.

  1. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi khi con bị những tiếng ồn ào vây hãm, xin cho con biết tìm những phút giây thinh lặng được gần bên Chúa.

Khi tâm trí con bị căng thẳng phải lo trăm công ngàn việc, xin cho con biết quý chuộng những giờ phút được hiện diện trước nhan thánh Chúa.

Khi lòng trí con bị giao động và không biết phải làm gì, xin cho con biết tìm đến ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.

Khi thân xác con bị lôi cuốn bởi các đam mê dục vọng, xin cho con biết vượt lên cao nhờ biết sử dụng đôi cánh thiên thần là cầu nguyện và chay tịnh.

Lạy Chúa. Ước gì tinh thần ăn chay cầu nguyện thấm nhuần vào cuộc đời con. Trong Mùa Chay này xin giúp con biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường giống như Chúa khi xưa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

ĐỪNG QUÊN MẢNG TỐT NƠI MỖI NGƯỜI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn! (Mc 8,31).

Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?

Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói sao! Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ như thế nào đây?

Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Ngài đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).

Củng cố tâm hồn ba môn đệ

Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Ngài đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su” (Mc 9, 2-4).

Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”

“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài” (Mc 9,5-7).

Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Ngài trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gio-an vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.

Hai mảng sáng- tối của đời người

Đời người thường có hai mảng sáng – tối đan xen nhau: có lúc thịnh thì cũng có lúc suy, có khi thành công cũng có khi thất bại, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.

Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mảng sáng, mảng tối. Mảng sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao; mảng tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm… Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mảng đen tối, u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính yếu đuối của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới, đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mảng sáng của Ngài trên núi cao, không thấy cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng và sẽ đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh? Lấy ai loan báo Tin mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mảng sáng của Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của mình, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi suy sụp khi chứng kiến cuộc khổ nạn đau thương sắp đến của Ngài.

Đừng quên mảng tốt

Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền xinh đẹp của nó, người ta sẽ thất vọng về nó.

Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh dự của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.

Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì người ta sẽ xem thường nó.

Đối với người chung quanh cũng thế. Cuộc đời mỗi người đều có mảng sáng và mảng tối. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mảng đen tối của một con người, mà quên đi mảng sáng tươi tốt đẹp trong đời họ; nếu chỉ nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ thất vọng về người đó.

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ chứng kiến cuộc hiển dung vinh hiển của Chúa trên núi cao, các môn đệ cảm thấy vững tâm hơn khi đối diện với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa;

Nhờ nhìn ngắm vẻ đẹp của những đoá hoa hồng, người ta mới dễ dàng chấp nhận những gai nhọn đáng phàn nàn của nó;

Xin cho chúng con, trong tương quan với tha nhân, cũng biết nhìn vào mảng sáng, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những điều đen tối xấu xa nơi họ.

Nhờ đó, chúng con sẽ thấy những người chung quanh dễ thương hơn; tương quan của chúng con với mọi người sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng con với nhau sẽ hạnh phúc hơn.

Về mục lục

.

BIẾN ĐỔI ĐỜI MÌNH

 Lm. Gioakim Nguyễn Quang Minh

Mùa chay là thời kỳ sám hối, cầu nguyện: Hội Thánh mời gọi mọi người quay về với Chúa, thanh tẩy tâm hồn, từ bỏ các tật xấu, hy sinh hãm mình và làm việc bác ái.

Hôm nay Chúa Nhật thứ hai mùa chay, trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy, qua việc Biến Hình của Chúa để cho các môn đệ say xưa chiêm ngắm vinh quang của Người.

Tôi nhớ lại một chuyến thăm mục vụ các gia đình, trong đó có một gia đình, người chồng sau một thời gian đi tù về. khi bước vào gia đình, thấy người chồng đang đùa chơi với 3 đứa con, người vợ thì đang lo dọn dẹp phía sau, khi thấy chúng tôi vào, chị chạy ra đón và mời chúng tôi vào nhà. Khi nói chuyện chị vui vẻ kể chuyện về người chồng mình, lúc nầy anh biết lo làm ăn, sau khi đi làm về anh ở nhà lo chăm sóc con cái, coi bài vở …. Chị ta rất vui mừng và hạnh phúc trong cuộc đời chị vì người chồng chị biến đổi một cách lạ thường, ngày trước nguội lạnh việc đạo đức bao nhiêu bây giờ sốt sắng bấy nhiêu, ngày trước ăn chơi bao nhiêu, bây giờ lo lắng cho gia đình bấy nhiêu…

Quang cảnh gia đình của chị hoàn toàn biến đổi cuộc sống ý nghĩa về hôn nhân gia đình, giúp cho chị cảm nghiệm trân quí giá trị về gia đình, sự liên hệ và lời cam kết cuộc sống của mình với chồng, và ý thức cuộc sống gia đình hơn, đưa gia đình chị đi sâu vào ý nghĩa tình yêu vợ chồng, và niềm vui sướng tuyệt đỉnh của chức vụ, bổn phận làm vợ và làm mẹ, mà chị chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong cuộc đời. Cảm nghiệm tột đỉnh này đã biến đổi hoàn toàn đời sống gia đình trẻ.

Những cảm nghiệm tột đỉnh này xảy ra trong đời sống bình thường và cũng có thể đến với chúng ta trong đời sống tinh thần. Thí dụ như sau một cuộc tĩnh tâm, hoặc sau một biến cố cuộc mình, ai đó cũng cảm nghiệm được ơn Chúa ban cho cách đặc biệt, biến đổi cuộc sống hay thái độ, trở nên tốt lành, đạo đức hơn, đức tin trở nên sống động và mạnh mẽ hơn, cam kết vào những việc hy sinh phục vụ, có cuộc sống bác ái và quảng đại hơn, và trở thành một chứng nhân can đảm cho Chúa. Đó là một cơ hội, một kinh nghiệm hồng ân giúp chúng ta có một cái nhìn vượt qua sự việc đang xảy ra ở hiện tại, để nhận ra những giá trị cao quí hơn, tốt lành hơn và thiêng liêng hơn.

Việc Chúa biến hình trên núi Tabor cũng là giây phút tuyệt đỉnh mà ba tông đồ của Chúa Giêsu, là Phêrô, Giacôbê và Gioan, cảm nhận được Chúa biến hình trong bài Tin mừng hôm nay. Trong một giây phút hồng ân, ba tông đồ thân cận của Chúa đã được nhìn vào một thế giới vượt qua thế giới hiện tại. Trong một giây phút, họ nhìn nhận ra được sự vinh quang sáng chói bên trong con người của Chúa Giêsu chiếu tỏa ra bên ngoài. Và cũng trong môt giây phút, ba tông đồ nhìn thấy Chúa Giêsu, Thầy của mình, trong một hình thái hoàn toàn khác biệt. Họ nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa chiếu tỏa trên và bao phủ lấy con người của Chúa Giêsu, và có tiếng từ trên đám mây quả quyết với họ: “Đây là Con ta yêu dấu. Các ngươi hãy nghe lời Người.”

Phụng vụ Giáo Hội hôm nay cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa Biến Hình vào Chúa Nhật thứ hai mùa Chay và có ý nghĩa gì? Chúng ta tìm được câu trả lời trong trình thuật trước câu chuyện này, về việc Chúa báo cho các môn đệ biết Người sẽ phải lên Giêrusalem và phải chịu đau khổ bởi các kỳ lão và sẽ chịu chết. Khi thánh Phêrô nghe Chúa nói điều đó thì ông đã phiền trách, can gián Chúa “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những gì thuộc về loài người”. Các tông đồ cần một niềm hy vọng, cần một sự thúc đẩy tinh thần sau khi Chúa mạc khải cho các ông biết về con đường mà Người sẽ phải đi. Các tông đồ cần một sự can đảm mạnh mẽ và ghi nhớ hình ảnh vinh quang, để đối diện với sự việc sắp xảy ra cho Thầy mình và cho chính mình.

Chúng ta cũng cần một sự can đảm, mạnh mẽ để thông phần với cuộc khổ nạn và thương khó của Chúa trong suốt mùa chay, nhất là trong Tuần Thánh. Qua sự biến hình, Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận biết và tin Người là Con Thiên Chúa và sẽ phục sinh vinh quang từ cõi chết. Chúng ta cần ơn và sức mạnh của Lời Chúa, để hy sinh thời giờ cầu nguyện, ăn chay hãm mình, cũng như từ bỏ những thói hư, tật xấu và cuộc sống lầm lạc, để thành tâm cải thiện đời sống, và ăn năn sám hối để có đời sống thánh thiện và tốt lành hơn. Chúng ta cần được nghe câu chuyện Chúa Biến Hình để chúng ta có sức mạnh đối diện với những khó khăn, thử thách và cám dỗ trong đời sống hiện tại. Và hơn hết, trong thế giới ngày hôm nay bị tổn thương, làm khủng hoảng đời sống đức tin, khủng hoảng trong gia đình, chúng ta cần được nghe câu chuyện Chúa Biến Hình để chúng ta nhận ra được ý nghĩa và ân sủng của Chúa, qua sự hy sinh thời giờ, khó nhọc, không màng thiệt thòi và chịu đựng thời tiết xấu, khắc nghiệt này, để hy sinh phục vụ xây dựng giáo xứ, cũng như có tấm lòng bác ái và quảng đại để làm sáng danh Chúa. Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa và Đấng Cứu Thế, vì yêu thương và muốn củng cố lòng tin của chúng ta, để chúng ta can đảm đón nhận và có sức mạnh sống thánh ý Chúa, cho nên Chúa cho chúng ta thấy sự vinh quang của Người.

Nói tóm lại, nếu chúng ta muốn đi đến vinh quang của Chúa, chúng ta phải trải qua những khó khăn và thử thách, phải qua những sự hy sinh và bác ái, qua sự trung thành, và tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa như Abraham trong bài đọc 1 hôm nay. Thiên Chúa muốn thử đức tin của ông bằng cách ra lệnh cho ông phải giết Isaac, người con một duy nhất chính Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già. Với một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, ông đã giơ dao sẵn sàng giết con theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn Abraham, đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa muốn thử ông, nên khi thấy ông đã chứng tỏ niềm tin, Thiên Chúa không cần ông phải đòi thêm điều gì nữa.

Nếu chúng ta đặt trọn niềm tin vào Chúa, chúng ta sẽ đi qua một cuộc biến đổi trong hồng ân của Chúa, giống như gia đình trẻ trong câu truyện trên, chúng ta sẽ nhận ra được ý nghĩa và giá trị sâu sa của đời sống Kitô hữu, cảm nhận được sự an bình hạnh phúc trong tình yêu của Chúa, để đến vinh quang Chúa. Trong những khó khăn, thử thách, đau khổ và thập giá vì đức tin, vì Lời Chúa, và vì Chúa, chúng ta nhìn lên cây Thánh Giá Chúa Giêsu và nhớ lại câu chuyện biến hình của Chúa hôm nay, để nhận ra sức mạnh và lòng yêu thương và sự quan phòng của Thiên Chúa, và nhất là tìm được ánh sáng hy vọng, hạnh phúc và vinh quang của Chúa trong cuộc đời của chúng ta.

Về mục lục

.

CHỮ TÌNH?

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi nhưng trên hết là vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công Giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay năm B này.

Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22, 2). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.

Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển”. Tình yêu thật diệu kỳ, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (x.Rm 8,32).

Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng hiển nhiên.

Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới”.

Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.

Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”(Mc 9,5). Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.

“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,24). “Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, một cách nào đó họ đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ thì người ta sẽ biết canh tân và hướng thiện.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_B.

Lm. Anthony Trung Thành

Biến cố Biến hình của Đức Giêsu trên núi cao được Tin mừng Nhất lãm tường thuật lại và được đọc trong Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A,B,C. Chúa Nhật II Mùa Chay, năm B, Giáo hội cho chúng ta đọc Tin mừng theo thánh Marcô. Với những gì Thánh Marcô ghi lại, chúng ta có thể rút ra một số điểm suy niệm sau đây:

Thứ nhất, biến cố biến hình giúp cũng cố niềm tin nơi các Tông đồ: Thật vậy, biến cố biến hình xảy ra sau 6 ngày Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Trong 6 ngày đó, các Tông đồ sống trong cảnh sầu buồn vì các ông nghĩ rằng Đức Giêsu chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn đồng nghĩa với việc thất bại và như thế thì bao nhiêu ước mơ, hoài bảo của họ sẽ tan thành mây khói, chắc chắn các ông không khỏi thất vọng về Thầy. Sầu buồn, thất vọng vì trong tâm trí các ông còn mang tư tưởng trần tục, hy vọng theo Thầy để được làm ông nọ bà kia khi Thầy công thành danh toại. Cũng vì mang tư tưởng lệch lạc như thế nên trước đó Phêrô đã can ngăn Thầy bước vào cuộc khổ nạn và bị Đức Giêsu quở trách một cách nặng nề. Về phần Đức Giêsu, cho dù bị các môn đệ phản đối, Đức Giêsu vẫn giữ lập trường của mình, vì đó là sứ mạng của Ngài được Chúa Cha trao phó. Vì thế, để thuyết phục các ông, hôm nay Ngài đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Qua biến cố này, Ngài muốn nói với các tông đồ rằng: phải qua đau khổ mới tới vinh quang, qua khổ nạn mới bước vào phục sinh vinh hiển.

Thứ hai, biến cố biến hình mời gọi các tông đồ và chúng ta “phải vâng nghe Lời Người”: Trong cuộc sống hằng ngày, vâng lời là một đức tính nhân bản. Chúng ta được dạy phải vâng lời người trên như ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô…Trong đời sống đức tin, chúng ta được dạy phải vâng lời Thiên Chúa và những người thay mặt Ngài. Chúng ta cũng được mời gọi vâng lời Đức Giêsu. Bởi vì, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ trần gian. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Cha đã dạy chúng ta phải vâng nghe lời Đức Giêsu rằng: “Này là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người.” (Mc 14,9). Lời của Đức Giêsu được thể trong toàn bộ cuốn Tin mừng. Vì thế, thực hành theo Tin mừng là chúng ta vâng nghe lời Đức Giêsu. Và đó cũng là cách chúng ta thể hiện lòng yên mến Đức Giêsu. Vì, chính Đức Giêsu đã dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…”(x. Ga 14,21). Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua Giáo huấn chính thức của Hội Thánh, qua Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục. Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua những lời dạy bảo chính thức của các vị Bề trên, qua ông bà, cha mẹ, anh chị… Vậy chúng ta hãy biết vâng nghe Lời Người. Bài đọc I cho chúng ta tấm gương vâng lời của tổ phụ Abraham. Khi Thiên Chúa đòi ông sát tế Isaac, đứa con duy nhất của mình, để dâng kính Ngài. Mặc dầu, đây là một đòi hỏi phi lý theo cái nhìn của con người và rất mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa với ông, nhưng Abraham không hề thắc mắc hay phản đối, trái lại ông hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Điều đó, cho chúng ta thấy ông luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng lời Người. Kết quả cho thấy: Isaac được cứu sống và ông Abraham được gọi là kẻ công chính. Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ cũng đã sống chết vì Lời của Đức Giêsu. Ước mong rằng, mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần vâng phục như tổ phụ Abraham và như các Tông đồ xưa.

Thứ ba, biến cố biến hình đem lại niềm vui cho các Tông đồ: Sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu, ba môn đệ cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì, biến cố biến hình diễn tả trong chốc lát hạnh phúc Thiên đàng. Vì thế, các môn đệ muốn được ở mãi với Ngài trên núi để tận hưởng hạnh phúc đó. Thánh Phêrô nói với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.”(Mc 9,5). Nhưng Đức Giêsu mời gọi các ông phải xuống núi, nghĩa là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó, phải trải qua đau khổ mới có thể được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trên Thiên đàng. Ước mong của các tông đồ cũng là ước mong của mỗi người chúng ta hôm nay. Vì thế, trong đời sống đức tin, mỗi người chúng ta phải cố gắng để được ở với Chúa. Được ở với Chúa khi chúng ta sống trong ơn nghĩa với Ngài. Được ở với Chúa khi chúng ta cầu nguyện sốt sắng. Được ở với Chúa khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Được ở với Chúa khi chúng ta đọc và suy gẫm Lời Chúa. Nếu chúng ta cảm nghiệm được niềm vui trong những lúc như thế tức là chúng ta đang nếm trước hạnh phúc Thiên đàng, giống như ba môn đệ cảm nghiệm hạnh phúc trên núi Tabor. Nhưng để được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu trên Thiên đàng chúng ta cũng cần phải xuống núi, tức là phải chu toàn bổn phận của mình, phải trải qua đau khổ thì mới tới vinh quang.

Thứ tư, biến cố biến hình nhắc nhở mọi người chúng ta phải biến hình mỗi ngày: Lâu nay, các môn đệ chỉ thấy Đức Giêsu với con người bình thường như những người khác. Nhưng qua cuộc biến hình, các Tông đồ đã thấy dung nhan Thiên Chúa của Đức Giêsu. Ngài không chỉ là con người bình thường nhưng Ngài chính là Thiên Chúa. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta không còn là người “bình thường” nữa mà chúng ta được gọi là kitô hữu, trở nên con cái Thiên Chúa. Kitô hữu tức là có Chúa trong mình. Chúng ta có Chúa trong mình, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nên phải sống như Chúa đã sống. Để qua cuộc sống của chúng ta, mọi người sẽ nhìn thấy Chúa. Chúng ta phải nói được như Thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nếu lúc nào đó bản chất kitô hữu trong chúng ta bị biến dạng, hãy mạnh dạn biến đổi mình bằng sự sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa để tiếp tục trở thành người kitô hữu đích thực.

Lạy Chúa Giêsu, xin cũng cố đức tin cho chúng con như xưa Chúa đã cũng cố đức tin cho các tông đồ để chúng con biết chấp nhận đau khổ trong cuộc sống, nhất là luôn biến đổi bản thân nên giống Đức Giêsu mỗi ngày. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY. NĂM B

Lm. Antôn

Lời Chúa trong Chúa nhật thứ 2 mùa chay hôm nay rất phong phú và có nhiều ý nghĩa, nhưng tôi xin chia sẻ với ông bà anh chị em 2 điểm thôi.  Điểm thứ nhất là cho chúng ta biết bản tính và chân dung thật của Chúa Giê-su, và điểm thứ hai là con đường sứ mệnh của Người, qua đau khổ thì mới tới vinh quang.

Có một câu chuyện về người họa sĩ nổi tiếng.  Một buổi sáng khi mặt trời vừa lố dạng, ông đi bộ để tìm nguồn cảm hứng sáng tác. Khi đến một khúc quẹo, ông chợt nhìn thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Ông muốn vẽ lại khuôn mặt của em và nói với cậu bé rằng: “Này em, tôi muốn vẽ chân dung của em có được không ?” Cậu bé gật đầu đồng ý. Sau khi hoàn thành, họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng.” Ông treo nó ở phòng khách và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại được bình tĩnh. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng họa sĩ nhất định không bán.
Hai mươi năm sau, một hôm tình cờ họa sĩ nhìn thấy một người ăn xin ngồi bên vệ đường áo quần bẩn thỉu và có bộ mặt lì lợm nhưng đau buồn!  Họa sĩ xin người ăn xin làm người mẫu để ông vẽ một bức tranh và hứa sẽ cho ông một số tiền.  Người ăn xin lập tức đồng ý.  Khi bức tranh đã vẽ xong, người họa sĩ mời người ăn xin về nhà mình.  Khi vào phòng khách, người ăn xin nhìn bức tranh  “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, ông liền dừng lại im lặng nhìn vào bức tranh một lúc lâu, và hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Người ăn xin chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn nhỏ mà tôi nhớ là đã do chính tay ông vẽ. Hôm nay khuôn mặt của tôi đã biến dạng!”  

Sau đó, người ăn xin kể lại cuộc đời bất hạnh của mình.  Lúc còn nhỏ, vì cha mẹ quá chiều chuộc và bận bịu làm ăn không chú ý đến cho nên ham chơi bỏ học.  Lớn lên rơi vào tình trạng nghiện ngập, trộn cắp phạm pháp và sau đó vào tù.  Cha mẹ li dị, gia đình tan nát.  Bây giờ trong tình trạng bơ vơ ăn xin lại mang thêm bệnh lao phổi thời kỳ thứ ba.

Người họa sĩ rất xúc động khi nghe tâm sự của một người đã trót phung phí cả tuổi thanh xuân của mình, chỉ biết khuyên bảo hãy cố gắng ăn ở lương thiện và tặng cho người ăn xin một số tiền.  Ít lâu sau, người họa sĩ được tin người ăn xin đã chết cô đơn hẩm hiu tại một góc phố.  

Họa sĩ đã đặt tên bức tranh vẽ người ăn xin là “Hối tiếc đau buồn” và treo bên cạnh bức tranh “Tuổi thơ trong trắng.”  Ông thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là của một người.  

Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết chân dung thật của Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa vinh quang, và kêu gọi chúng ta hãy nghe lời Người dạy bảo.  Đó là chủ đích đời sống Kitô hữu của chúng ta.  Chúng ta phải xác tín vào Chúa Giê-su là nguồn ơn cứu chuộc và là sự sống lại của chúng ta.  Lời Chúa dạy đem lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc đời này và đời sau.  Vì thế, trong mùa chay thánh này, chúng ta phải chân thành lắng nghe và sống lời Chúa dạy như tổ phụ Abraham trong bài đọc 1 đã hết lòng xác tín, phó thác và vâng phục Thiên Chúa.  Bài đọc 2 kêu gọi chúng ta hãy tin vào tình thương vô bờ bến của Chúa, như lời thánh Phaolô khẳng định một cách chắc chắn rằng: “Một khi Thiên Chúa đã ban Con Một của Người cho chúng ta, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không ban tất cả cho chúng ta?”

Bài Tin mừng kể cho chúng ta câu truyện Chúa Giê-su hiển dung trước sự chứng kiến của 3 môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan.  Trong khi Chúa hiển dung, có hai nhân vật nổi tiếng của thời Cựu ước là Mô-sê và Ê-li-a, để làm chứng cho các môn đệ biết: Chúa Giê-su chính là Đấng Mô-sê đã đề cập đến trong sách Luật và các ngôn sứ đã dọn đường cho Người.  Trong lúc Chúa hiển dung, có tiếng Chúa Cha phán và xác nhận Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, và truyền cho các môn đệ hãy nghe lời Người, như lời phán tại sông Gio-đan khi Chúa chịu phép rửa.   Chúa hiển dung nghĩa là thế nào?  Có nghĩa là Chúa thay đổi hình dạng, tỏ lộ chân dung đích thực của Người cho các môn đệ biết Người là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.  Vì vậy mục đích của sự hiển dung là củng cố niềm tin của các môn đệ, và khích lệ các ông vững tâm đón nhận biến cố khổ nạn và phục sinh vinh quang của Người.   Và đây cũng là điểm thứ hai, qua đau khổ thì mới tới vinh quang.  Chúng ta thấy khi Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết về cuộc khổ nạn của Người thì các môn đệ không chấp nhận, vì thế qua sự kiện hiển dung này, Chúa cho các ông biết sau cuộc khổ nạn đau thương Người sẽ vinh quang như thế nào.  Nói tóm lại là muốn đến vinh quang thì phải trải qua một cuộc biến đổi trong thử thách đau khổ.

Đây cũng là bài học quan trọng và cần thiết trong cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta.  Chúa đã chọn con đường thập giá để đi đến vinh quang, Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta đi theo con đường Người đã đi như Chúa từng nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.”  Trong cuộc sống Ki-tô hữu, chúng ta sẽ phải đối diện và trải qua thập giá, những khó khăn, khổ cực và thiệt thòi khi cố gắng sống lời Chúa dạy và sống đức tin.  Hay khi chúng ta phải hy sinh, bác ái, quảng đại trong việc phục vụ xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa.

Giáo hội cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa biến hình trong vinh quang, để củng cố niềm tin của chúng ta vào Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa một cách vững vàng và sâu sắc hơn, và để cho chúng ta biết những việc lành phúc đức, những sự hy sinh phục vụ, cũng như lòng quảng đại và bác ái chúng ta làm sẽ là những của lễ làm sáng danh Chúa, và cũng sẽ nhận được vinh quanh của Chúa Giê-su nơi Quê Hương đích thực.  Xin Chúa củng cố đức tin để chúng ta đón nhận và vui mừng sống thánh ý Chúa trở thành những Ki-tô hữu đích thực.

Về mục lục

.

Exit mobile version