CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

1444

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN – C

Lời Chúa: Kn. 18, 6-9; Dt. 11,1-2.8-19; Lc. 12, 32-48

——- 

Mục lục

1. Sức mạnh của đức tin (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Người quản lý trung tín và khôn ngoan  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Sẵn sàng  (Lm. Vũ Đình Tường)

4. Hạnh phúc hay đau khổ tùy ta sống  (Lm. Tạ Duy Tuyền)

5. Phải sẵn sàng  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

6. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

7. Yêu mến chủ  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Kho tàng không mối mọt (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

9. Chờ đợi  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

11. Trung tín và tỉnh thức (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Tỉnh thức là một biểu hiện của tình yêu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

13. Tin là sống  (Lm Bùi Quang Tuấn)

14. Các con hãy sẵn sàng (Lm. Nguyễn Tiến Huân)

15. Chủ về  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

16. Chúa đang đi tìm ta, Người sẽ đến (Lm. Đỗ Bá Công)

17. Hãy tỉnh thức  (Lm. John Nguyễn Tươi)

18. Tỉnh thức  (Lm. Giacobe Phạm Văn Phượng, OP)

19. Tỉnh thức để đón Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)

20. Sẵn sàng đợi chủ về (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

21. Muốn được cứu độ: “Hãy tỉnh thức”  (Giuse Vinhsơn Ngọc Biển, SSP)

22. Hạnh phúc là biết chia sẻ (JM. Lam Thy, ĐVD)

23. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng  (Fx. Đỗ Công Minh)

24. Tỉnh thức và sẵn sàng (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

25. Suy niệm Chúa Nhật 19 Thường niên_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

26. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

27. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 19 TN_C  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

28. Chờ đợi.  (Trầm Thiên Thu)

29. Tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến  (Lm. Đan Vinh)

30. Cho nhiều – đòi nhiều (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

31. Tỉnh thức trước những thách đố mới  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

32. Tỉnh thức và sẵn sàng.  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

33. Chúa Nhật 19 Thường niên_C (Lm. Antôn)

 

 

SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Mỗi chúng ta, khi nghiêm túc nhìn lại quá khứ, sẽ cảm nhận những điều kỳ diệu xảy đến trong đời mình. Người vô tín có thể coi đó là một chuỗi những ngẫu nhiên. Trái lại, những ai tin vào Chúa lại nhận ra cánh tay dẫn dắt của Ngài. Khi nhận ra những điều lạ lùng Chúa đã làm cho mình, người tín hữu được mời gọi ca tụng quyền năng của Chúa và dâng lời cảm tạ tình thương của Ngài. Họ cũng nhận ra sức mạnh của Đức tin. Bởi lẽ tin vào Chúa mang lại cho con người những ân huệ lớn lao mà con người không ngờ tới.

Tác giả sách Khôn ngoan đã suy tư về những điều đã xảy ra trong lịch sử dân Do Thái. Với lăng kính đức tin, ông nhận ra biến cố dân Do Thái ra khỏi Ai Cập và vượt qua Biển Đỏ là nhờ sức mạnh siêu nhiên và hồng ân lớn lao Chúa đã thực hiện vì yêu thương Dân Ngài. Trong khi Chúa trừng phạt người Ai Cập và nhấn chìm họ dưới biển sâu, thì Ngài lại thương dân Do Thái, cho họ được bình an vô sự. Trước biến cố kỳ diệu này, những người được chứng kiến vừa sững sờ ngạc nhiên trước quyền năng Thiên Chúa, vừa mạnh mẽ tín thác vào tình thương của Ngài. Họ đã cùng với ông Môisen hát vang bài ca tụng Thiên Chúa. Bài ca ấy còn được nhắc mãi tới ngày nay.

Như thế, trên đời này, chẳng có gì là ngẫu nhiên cả, nhưng hết thảy đều nằm trong kế hoạch yêu thương của Chúa. Lịch sử chứng minh: những ai tin vào Chúa, dù trải qua nhiều nguy hiểm gian nan hay chông gai khốn khó, Thiên Chúa vẫn ra tay cứu vớt và gìn giữ họ an toàn. Tác giả thư Do Thái đã liệt kê các Tổ phụ và những nhân vật quan trọng trong Cựu ước. Hầu hết người Do Thái đều biết đến tên tuổi của những nhân vật này, vì họ có liên quan đến những sự kiện lớn lao trong lịch sử. Khi trưng dẫn những nhân vật này, tác giả muốn minh chứng cho chúng ta về sức mạnh kỳ diệu của Đức tin. Quả vậy, Đức tin làm cho cái không có thành có, nhưng trường hợp ông Abraham và bà Sara sinh con vào lúc tuổi già. Đức tin biến khổ đau thành hạnh phúc và làm cho thất bại hóa nên thành công. Đoạn thư được đọc trong Phụng vụ hôm nay chỉ là một phần trong danh sách những nhân vật được nhắc tới trong suốt chương 11 của thư gửi người Do Thái. Họ là những người trải qua thử thách, nhưng vẫn kiên trung cậy dựa vào Chúa, và nhờ đó họ được Ngài xót thương.

Giữa biển đời đầy gian nan sóng gió, chúng ta không biết bến bờ ở nơi đâu. Giữa xã hội nhiều khuynh hướng trái chiều, chúng ta không biết phải cậy dựa vào chốn nào. Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay khẳng định với chúng ta: cứ yêu mến Chúa. Ngài là Cha và là ông Chủ của đời ta. Ngài thấu hiểu nỗi lòng của mỗi người và ra tay cứu giúp. Hình ảnh người đầy tớ chuyên cần tỉnh thức và trung tín với bổn phận được trao, là mẫu mực cho các tín hữu. Đó cũng là một mẫu mực về đời sống Đức tin và lòng trung thành. Sống trên đời, chúng ta cũng giống như những người quản lý. Chúa trao cho chúng ta thời giờ, con cái, sức khỏe, kiến thức, nghề nghiệp và biết bao điều kiện tốt lành. Nhờ những vốn liếng Chúa trao, mà chúng ta có thể sống xứng với phẩm giá con người và thành đạt vươn lên trong cuộc sống. Chúng ta đã và đang sử dụng những gì Chúa ban thế nào? Đến giờ phán xét, chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa về những gì chúng ta đã nhận từ nơi Ngài.

Tiếp nối tư tưởng Chúa nhật trước, Chúa Giêsu dạy chúng ta cần có thái độ đúng mức đối với của cải vật chất. Cùng với những lo toan bận rộn để có đời sống vật chất ổn định, chúng ta cần tích trữ cho mình của cải thiêng liêng, là của cải không hao mòn, không bị mối mọt và cũng chẳng lo bị người khác lấy mất.

“Dù mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình”. Lời kinh cầu nguyện này cho thấy người tỉnh thức vẫn yêu mến Chúa kể cả khi mình đang ngủ, đang làm việc và đang vui chơi. Bởi lẽ tâm hồn họ luôn hướng về Chúa và thao thức làm những gì đẹp lòng Ngài.

“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” Câu kết của bài Tin Mừng cũng là một nguyên tắc và một phương châm sống cho chúng ta. Lời này cũng giúp chúng ta tự vấn lương tâm, để biết mình đang ở đâu và trong tình trạng nào trước mặt Chúa và đối với anh chị em. Hạnh phúc hay đau khổ, được thưởng hay bị phạt… đó là kết quả đến từ thái độ sống và từ những hành vi của chúng ta.

Về mục lục

.

NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong một thời gian ngắn các nước Á Châu đã phải chứng kiến sự ra đi của nhiều lãnh tụ. Trước hết là việc chạy trốn của ông Fujimori. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Peru đến nhiệm kỳ thứ 2. Nhưng vì tham nhũng, ông đã phải trốn chạy về Nhật. Tiếp đến là ông Estrada, tổng thống nước Philippin. Ông đã thắng cử với số phiếu áp đảo. Nhưng cuối cùng phải từ chức cũng vì tội tham nhũng. Gần đây là ông Wahid, tổng thống Inđônêsia. Ông đã sang Mỹ tị nạn cũng vì tham nhũng. Tất cả chỉ vì họ đã làm sai nhiệm vụ. Họ chỉ là quản lý chứ không làm chủ đất nước. Dân mới làm chủ. Nhưng họ đã không làm tốt nhiệm vụ quản lý. Nên họ đã bị sa thải.

Chúng ta cũng là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngông ngữ Trịnh Công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.

Con chim ở trọ cành tre,

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…

Môi xinh ở trọ người xinh,

Duyên dáng ở trọ đôi chân Thuý Kiều…

Tôi nay ở trọ trần gian

Mai sau về chốn xa xăm với Người.

Một ngày kia Chúa sẽ đòi ta tính sổ. Lúc đó ta phải nộp cho Chúa cả vốn lẫn lãi.

Là ngời quản lý, ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.

Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.

Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.

Là quản lý trung tín, ta không được phải bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Đừng dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Đừng dùng tài năng phục vụ lợi nhuận riêng mình. Đừng dùng trí thông minh gieo rắc nọc độc tư tưởng. Đừng biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.

Là quản lý không ngoan, ta phải biết nhìn xa. Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông mình chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Chúa Giêsu đã dạy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Để sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời”. Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá”. Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Để gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú.

Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời ở trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Đợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Đợi chờ là phải tích cực làm việc. Thắt lưng vào, thắp đèn lên để làm việc cho minh chính như giữa ban ngày. Để phục vụ không bao giờ ngừng. Dù Chúa có đến lúc nào, Chúa cũng thấy ta đang mặc quần áo công nhân phục vụ. Dù có bất ngờ như kẻ trộm, Chúa cũng thấy quản lý đang phục vụ anh em, phân phát lúa thóc cho họ.

Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có lần nào nghĩ rằng thân xác cùng với những gì bạn có thực sự không phải là của bạn không?

2- Trong quá khứ bạn đã là người quản lý trung tín và khôn ngoan của Chúa chưa?

3- Phải làm thế nào để trở thành người quản lý trung tín và khôn ngoan?

4- Làm sao để biến những gì ta đang có thành vĩnh cửu?

Về mục lục

.

SẴN SÀNG

Lm Vũđình Tường

Đã xong chưa, sẵn sàng chưa? là câu hỏi chúng ta thường hỏi thăm dò xem người kia đã chuẩn bị xong chưa. Sẵn sàng không phải chỉ tốt cho người khác mà còn tốt cho chính mình bởi tránh được những lo lắng, hấp tấp, vội vàng vào phút chót. Sẵn sàng giúp cho con tim thanh thản bởi việc chuẩn bị cho sự việc đã tạm ổn. Không có câu trả lời nước đôi cho việc sẵn sàng. Bạn hoặc đã sẵn sàng hoặc chưa xong, còn đang chuẩn bị. Chuẩn bị sẵn sàng bởi bạn biết sự việc dường như chắc chắn sẽ xảy ra. Học sinh chuẩn bị sẵn sàng đi học tiết kiệm được thời giờ của cha mẹ đưa đón, và cũng mang lại niềm vui cho cha mẹ. Người chuẩn bị sẵn sàng thường đạt thành quả tốt nhất trong các cuộc thi đua hay trong thi cử. Trên phương diện quốc gia, nhân viên cứu thương, cứu hoả, hay chống khủng bố sẵn sàng làm việc khi sự cố xảy ra giúp nhiều nạn nhân khỏi chết oan, vì họ phản ứng kịp thời. Về phương diện tâm linh, sẵn sàng đóng vai trò quan trọng trong đời sống đức tin Kitô giáo. Sẵn sàng là dấu chỉ của một đức tin trưởng thành, vững tin vào Thiên Chúa quan phòng. Kitô hữu trưởng thành trong đức tin luôn sẵn sàng đáp trả tiếng Chúa mời gọi, dù họ cảm thấy Chúa ở gần hay xa vời, họ luôn vững tin và đón nhận í Chúa với tất cả tấm lòng chân thành. Sẵn sàng trong đức tin diễn tả tình yêu chân thành của ta với Chúa. Không phải do ta sẵn sàng mà Thiên Chúa thưởng công, mà chính là tình yêu ta diễn tả qua tấm lòng sẵn sàng là điều Thiên Chúa vui lòng đón nhận và thưởng công.

Phúc Âm hôm nay cho biết sẵn sàng không những làm cho ông chủ hài lòng, mà ông chủ còn đảo lộn trật tự trong phục vụ. Thay vì đầy tớ phục vụ chủ; đổi lại chủ sẵn sàng phục vụ đầy tớ:

Chủ sẽ thắt lưng đưa vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ Lc 12,38.

Tinh thần của câu nói trên muốn nhắc đến bữa ‘Tiệc Hằng Sống’ trong nước trời. ‘Tiệc Hằng Sống’ nước trời dành cho những ai sẵn sàng, đáp trả tiếng Chúa mời gọi, bởi họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, đặt trọn niềm tin vào điều Đức Kitô hứa, là Ngài sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang, và họ luôn sống trong tinh thần tỉnh thức, sẵn sàng đón nhận ngày Chúa đến. ‘Khi nào ngày đó xảy đến?’ là điều tuyệt đối bí ẩn, không ai có thể biết. Mọi cố gắng suy đoán, diễn giải đều là những phỏng đoán vu vơ, không có căn bản trên Lời Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất xác định, phán quyết ngày và giờ, khi nào sự việc đó sẽ xảy đến.

‘Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến Lc 12,40.

Điều chúng ta tin tưởng là Chúa sẽ đến lần thứ hai, đón những ai sẵn sàng, luôn tin yêu, phó thác vào Chúa. Phần thưởng dành cho không phải vì sẵn sàng, mà chính là phát xuất từ lòng yêu mến. Chính lòng yêu mến này tồn tại trong nước Chúa. Phần thưởng dành cho người có lòng yêu mến Thiên Chúa, sẵn sàng chỉ là dấu chỉ của lòng yêu mến thể hiện qua cuộc sống.

Chúng ta thường nghĩ con người phục vụ Thiên Chúa. Điều này không sai. Phúc âm hôm nay cho biết Thiên Chúa phục vụ con người nhiều hơn gấp bội. Nhờ Thiên Chúa mà ta có sự sống, được mạnh khoẻ, có trí khôn, lanh lẹ, hoạt bát, thành công, tất cả đều do Thiên Chúa trao ban. Khi hoàn tất hành trình dương thế, Thiên Chúa ban cho ta sự sống trường sinh. Ta phục vụ Thiên Chúa có giới hạn, Thiên Chúa nâng đỡ phục vụ ta vô hạn.

Mỗi người trong chúng ta đều có mục đích trong cuộc sống. Thế giới Thiên Chúa tạo dựng cũng có mục đích của Ngài. Chúng không di chuyển lạc lõng trong thiên nhiên, không di chuyển bất định, tuỳ hứng, mà theo luật trật tự, tự nhiên Thiên Chúa tạo dựng. Đức Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang đón nhận tâm hồn chân thành, yêu mến và đó cũng là ngày vũ trụ hoàn thành sứ mạng của nó.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC HAY ĐAU KHỔ TÙY TA SỐNG

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Cuộc đời thật công bằng. Mình làm mình hưởng. Hạnh phúc hay khổ đau cũng tuỳ vào việc mình làm hôm qua và hôm nay mình nhận lại. Tuynhiên, khi nhìn vào dòng đời ta thấy sao có vẻ quá bất công!Tại sao những kẻ gian xảo, bất lương, chối bỏ Chúa lại là những kẻ thịnh vượng hơn cả, còn người hiền thì cứ liên tiếp gặp đủ tai này vạ kia? Tại sao những kẻ lừa dối xảo ngôn thì được ca tụng như vĩ nhân, còn kẻ ăn nói chân thành lại bị kết án xem thường?

 Nhưng thực ra cuộc đời không bất công  đâu, ai gieo gì sẽ gặt nấy. Hoạ- may cũng do chính mình làm nên.

Có chuyện kể rằng:

Vợ chồng An có một cửa hàng bán thực phẩm. Một hôm, An đi chơi về hỏi vợ:

– Này em, khúc giò thiu đâu rồi ?

– Nhà đối diện mua rồi.

– Thế cân xúc xích bị chuột gặm ?

– Nhà ấy cũng mua rồi.

– Còn hộp bơ cũ năm ngoài đã quá hạn ?

– Nhà ấy cũng vét nốt !

An lấy hai tay ôm đầu :

– Thôi rồi ! Anh vừa được nhà ấy mời ăn cơm !

Thực ra cuộc đời rất công bằng. Mỗi người đều có niềm vui và nỗi buồn khác nhau. Có điểm mạnh và điểm yếu khác nhau. Có người nhiều tiền nhưng lại thiếu sức khoẻ.Có người sự nghiệp, thành tích không cao nhưng sức khoẻ lại tốt. Hạnh phúc hay đau khổ cũng tuỳ vào cách nhìn của mỗi người. Một người  nghèo sẽ tìm được niềm vui chỉ với vài trăm ngàn, nhưng khi có nhiều rồi, anh ta sẽ phải tiêu gấp nhiều lần mới thấy hạnh phúc thật sự.Thực ra nếu chúng ta có cả thế giới này thì chúng ta cũng vẫn chỉ ăn ngày 3 bữa, ngủ trên một chiếc giường mà thôi.

 Hôm nay Chúa Giê-su bảo cuộc đời con người có hạnh phúc đời này và đời sau hay không cũng tuỳ chúng ta có làm hết trách nhiệm của mình không? Chúa nhắc chúng ta phải làm việc hết trách nhiệm như một quản gia trung tín.Dẫu phải hy sinh từ bỏ vẫn sẵn sàng như Abraham mau mắn vâng nghe lời Chúa dậy, sẵn sàng từ bỏ quê hương, từ bỏ mọi sự, đi theo con đường Chúa chỉ, không phải tìm trú ẩn an toàn ở dưới đất, mà tìm quê hương trên trời. Phải luôn ở tư thế làm việc như tôi tớ, như osin, dù có phải thắp đèn thức khuya suốt đêm chờ chủ về, suốt đời chờ Chúa đến, chúng ta vẫn phải trung thành chu toàn mọi việc của Chúa trao phó. Nếu sơ sót, lơ là, chểnh mảng, biếng nhác, bất cứ lúc nào, chủ về, Chúa đến, thì khốn cho đầy tớ đó. Thật phúc cho đầy tớ đang tỉnh thức lúc chủ về, lúc Chúa đến!

Nếu những ai trung tín trong trách nhiệm như vậy thì chắc chắn họ sẽ có một cuộc sống dư giả, thịnh vượng và hạnh phúc. Nhất là còn được Chúa Cha ân thưởng như lời Chúa Giê-su nói: “Cha của anh em đã vui lòng ban Nước Trời cho anh em”.

Cuộc đời ai cũng mong hạnh phúc thì hãy sống có trách nhiệm khi chu toàn bổn phận của mình với Chúa và tha nhân. Với Chúa luôn dành thời giờ tôn thờ Chúa qua việc đọc kinh dâng lễ, với tha nhân chính là biết sống phục vụ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm và đầy yêu thương. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau.  Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ bị người thân xa lánh và họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc trường sinh mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen

Về mục lục

.

PHẢI SẴN SÀNG

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Phải sẵn sàng như là cần chết đi những gì cũ kỹ để sống sự sống mới. Sự sống bản chất là như thế! Chết để sống. Sẵn sàng là thái độ luôn chấp nhận quy trình tự nhiên đó, không thể tránh né. Chúa Giêsu mời gọi sẵn sàng để bước vào sự sống đời đời.

Ngày mới.

Cái cũ qua đi để có cái mới xuất hiện. Cuộc sống theo luật tự nhiên, hết tối sang ngày, hoa tàn và hoa nở. Trong ngày con người của ta, hàng triệu tế bào đang chết đi để hàng triệu tế bào khác phát sinh, cuộc sống đang chết đi từng ngày và để sống sự sống mới từng ngày.

Chuẩn bị và sẵn sàng của Chúa mời gọi là tập luyện trước tiên về đời sống thiêng liêng. Cái mới từ tâm linh, chuyển dần sang cái mới về tinh thần và chiếm sang thể chất là cho niềm vui sống tràn đầy mỗi ngày. Nếu mỗi ngày chỉ là những chuỗi ngày: “một ngày như mọi ngày” thì cuộc sống đang chết dần đi trong ưu phiền.

Sầu muộn, gian nan, khốn khó, gánh nặng nề, đôi khi cần nhìn lại chính cái ta đang sống.

Phải chăng vì lười biếng, chỉ bám lấy cái cũ, cái già nua, như bám lấy sự chết trong cái chết từng ngày không trổ sinh hoa trái. Lời Chúa dạy: “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, nếu vậy rượu mới làm nứt bầu ra; rượu chảy mất và bầu cũng phải hư đi. Song rượu mới phải đổ vào bầu mới. Lại cũng không ai uống rượu cũ lại đòi rượu mới; vì người nói rằng: Rượu cũ ngon hơn” (Lc 5:37-39).

Sống trong niềm vui

Thánh Phao lô mời gọi sống trong niềm vui vì niềm vui ấy chính là sống trong tình yêu của Chúa: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4, 4). Thiếu tình yêu là biểu lộ một thứ chai đá, không sẵn sàng thay đổi, không đón nhận môt Tin Mừng mới, Chúa Giêsu nhiều lần tiếc nuối cho họ: “Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi lại, một thể như gà mẹ thâu họp gà con dưới cánh…, mà các ngươi đã không muốn!” (Mt 23, 37).

Phải sẵn sàng, cũng có nghĩa lúc nào dùng mọi năng lực để tiến tới. Con người hữu hạn nhưng khát vọng không cùng. Khát vọng ấy thúc đẩy con người đi tìm kiếm chân lý, tình yêu phổ quát, sự thiện tối cao, bằng mọi khả năng của mình, từ lý thuyết đến thực hành trong đời sống. Những con người khát khao ấy dường như họ đều được cảm hứng từ Lời Chúa để sống tích cực để vươn tới.

Sẵn sàng trong tình yêu.

Tình yêu Thiên Chúa xoá tan mọi sợ hãi, đợi chờ Thiên Chúa không làm lo sợ mà chờ đợi trong niềm vui. Khi con người thấm đẫm trong tình yêu Thiên Chúa, con người có một kinh nghiệm sống sâu xa: Tình yêu Thiên Chúa vừa là sự vận động vừa là nghỉ ngơi. Thánh Augustine đã thổ lộ về niềm vui ấy: “Chúa tạo dựng nên con, đặt trong con lòng khao khát Chúa, cho đến khi con được nghỉ yên trong Chúa”.

Phải sẵn sàng! Vừa là mệnh lệnh vừa là lời mời gọi sống tích cực trong niềm vui của Chúa, cái cũ hãy để qua đi để sống cái mới trong Chúa. Tội lỗi hãy quyết tâm dứt bỏ để sống trong sự thiện, vì trong sự thiện con người mới thực sự tự do trong tình yêu của Chúa là niềm vui.

Về mục lục

.

HÃY TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chờ đợi luôn đi đôi với tỉnh thức.Bởi vì nếu đợi chờ mà không chóng vánh, sẵn sàng và tỉnh thức thì quả thực chẳng có ý nghĩa gì. Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay tự ví mình như ông chủ đi ăn cưới mãi tới khuya. Ông Chủ về chẳng biết giờ nào, nên người đầy tớ phải tỉnh thức để chờ đợi. Ông Chủ sẽ hạnh phúc vì tiếng gõ cửa đầu tiên thì người đầy tớ đã ra mở cửa, tay cầm đèn cháy sáng. Người đầy tớ thật nhạy cảm với tiếng gõ cửa vì anh còn tỉnh, còn chờ đợi Chủ với tinh thần nhanh nhẹn.Tay cầm đèn cháy sáng chứng tỏ anh đã khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan, mang đèn mà lại dự trữ cả dầu…Quá vui mừng, Ông Chủ đã làm một cử chỉ thật bất ngờ : Ông đã tự hạ mình mời tất cả các đầy tớ ngồi vào bàn ăn và tự mình phục vụ họ như một đầy tớ khiêm hạ.

Vâng, Thiên Chúa qua vai Ông Chủ đã không về bất ngờ khi đầy tớ ngủ say bởi vì Ngài không muốn bắt qủa tang đầy tớ khi họ quên lời dặn dò của Ông Chủ. Tuy nhiên, Ngài chỉ đến, chỉ về khi đầy tớ đang chờ đợi mình. Đây là thái độ sẵn sàng chờ đợi mà Ông Chủ luôn trông mong nơi những đầy tớ trung tín. Thật vậy,Thiên Chúa chỉ bất ngờ đến với những kẻ cố tình, không sẵn sàng đón Ngài. Nếu lúc nào, con người cũng hiểu Thiên Chúa luôn có mặt, Thiên Chúa luôn hiện diện, can thiệp vào mọi trạng huống của con người. Ngài luôn can thiệp, nâng đỡ, ủi an con người, do đó, con người sẽ nhận ra những cái bất ngờ thật thú vị! Người đã đồng hóa với những kẻ nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, những kẻ vô gia cư, những kẻ ốm đau tật nguyền. Giúp đỡ những người này là chúng ta làm cho chính Chúa. Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ với cung cách của một tôi tớ khiêm nhường. Người chờ đợi con người tỉnh thức đợi chờ Người. Như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn mà lại đem theo dầu. Chúa đến cách bất ngờ khi cảnh tỉnh chúng ta về cái chết. Chúa đến đột xuất, năm cô trinh nữ dại khờ trong dụ ngôn mười cô trinh nữ cho thấy :” Năm cô trinh nữ dại khờ mang đền mà lại không đem theo dầu “. Điều này nói lên sự chểnh mang không sống đức tin, không thực hiện lời Chúa của các cô khờ dại này.

Vâng, chúng ta đừng tưởng chúng ta còn khỏe, còn sống lâu, nên không cần chuẩn bị, tỉnh tỉnh, chờ đợi. Chúng ta phải biết dùng ân huệ của Chúa làm lợi cho Ông Chủ, cho chính mình và cho người khác. Dụ ngôn những nén bạc đã nói lên điều đó. Chúa trao cho mỗi người chúng ta những nén bạc, Chúa đòi chúng ta phải làm lợi ra chứ không được làm biếng, ích kỷ đem chôn dấu! Chúa sẽ căn cứ việc chúng ta làm ở đời này mà thưởng hay phạt chúng ta.

Jean-René Fracheboud viết :”…Món quà mà Thiên Chúa hứa ban cho chúng ta là Vương Quốc của Người, nhưng chúng ta cần phải tỉnh thức để đón nhận trọn vẹn món quà này, kho tàng này.Bất trắc luôn rình rập bên cạnh, bởi vì chúng ta quá bận rộn và chỉ chú tâm đến những của cải phù vân để rồi quên đi kho tàng không bao giờ hư mất ở nhà Cha trên trời, vì chúng ta hành động quá nhiều mà không để Chúa hành động trong đời ta, bởi vì chúng ta sống tách biệt với Thiên Chúa và quên đi thế giới nội tâm trong tâm hồn”.

Lạy Chúa Gie6su, xin cho chúng con mỗi người luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chủ về. Xin cho chúng con luôn biết khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang dầu mà lại đem theo dầu. Xin cho chúng con luôn một mực trung tín với Chúa là Đấng trung tín.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa dạy chúng ta bài học gì qua dụ ngôn hôm nay ?

2.Tại sao Chúa nói phải “ Tỉnh Thức và Sẵn Sàng “ ?

3.Tại sao Chúa nói phải “ Trung Tín và Khôn Ngoan “ ?

4.Sống tình yêu nghĩa là sao ?

5.Dụ ngôn mười cô trinh nữ nói lên điều gì ?

Về mục lục

.

YÊU MẾN CHỦ

Bông hồng nhỏ

Cha mẹ đã sinh thành và dưỡng dục con cái của mình bằng cả trái tim và trọn cuộc đời mình. Hạnh phúc của cha mẹ là được nhìn thấy con cái lớn lên và trưởng thành mỗi ngày. Hạnh phúc thay người con nào biết làm vui lòng cha mẹ. Thiên Chúa là Cha nhân lành, Người hằng mong con cái mình được hạnh phúc. Bởi đó, Chúa Giêsu đã khẳng định điều này với các môn đệ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12, 32).

Thiên Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi con cái mình tiến đến gần Người trong sự chọn lựa chân thực và rõ ràng hơn: Chọn Chúa trên hết mọi sự. Đòi hỏi quyết liệt này là điều thiết yếu mà mỗi người trong tư cách là người con hoang đàng cần phải trở về để được Thiên Chúa là gia nghiệp. Chọn lựa này phát xuất từ việc luôn luôn biết hoán cải, làm lại cuộc chọn lựa của mình. Chúa Giêsu đã dạy phải bán của cải của mình mà bố thí. Của cải là điều cần cho cuộc sống, để sinh tồn và phát triển, nhưng nếu ta chỉ lo thu tích cho mình thật nhiều của cải mà quên đi người thân cận thì của cải sẽ trở thành cái mồ hủy diệt.

Chúa Giêsu đã khẳng định: “Kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12, 34). Kho tàng ta đang có đó là gì? Phải chăng, lòng trí của ta đang mải bận tâm lo lắng cho công việc, danh vọng, tiền tài; hay ta đang lưu tâm tìm kiếm Thiên Chúa? Nếu ta đang lo lắng cho công việc, lo kiếm nhiều tiền, tìm kiếm danh vọng thì ta đang sở hữu một kho tàng mau hư nát. Một khi, ta chỉ tìm kiếm Thiên Chúa, chọn Chúa trong tất cả đời sống của ta là ta đang làm vui lòng Thiên Chúa. Ta chọn lối sống luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống, nhất là vâng phục trước những thử thách đòi ta phải bỏ mình. Chọn Chúa và vâng phục Thiên Chúa không phải là điều dễ dàng bởi khi chọn sống theo thánh ý Chúa, ta sẽ phải chiến đấu rất nhiều: Chiến đấu với cái tôi ích kỷ, với hư danh, “với bản tính tự nhiên và lý trí người đời”. Nếu như người ta ra công làm việc, vất vả ngược xuôi để tìm kiếm những gì mau hư nát và những gì họ tìm kiếm chỉ là phù vân; thì ta hết lòng chiến đấu để sống cho Chúa là để đạt được Nước Trời, là kho tàng không bao giờ hư nát.

Đứng trước một cuộc chiến đầy cam go, nếu ta không có tâm thế sẵn sàng thì chắc rằng, ta sẽ trở thành người thua cuộc. Cuộc chiến đấu để được vào Nước Trời đòi hỏi ta phải luôn “sẵn sàng chờ chủ trở về”. Từng giây phút sống của ta phải là những giây phút của một tâm hồn yêu mến. Chính lòng yêu mến “Chủ” sẽ hối thúc ta kiên nhẫn chờ đợi, để khi “chủ vừa về là ta sẵn sàng mở cửa ngay”. Với lòng yêu mến tha thiết, cô Matta đã luôn ra đón Chúa Giêsu khi người ghé thăm. Cô cũng là người đón Chúa Phục Sinh đầu tiên do bởi lòng yêu mến. Thiên Chúa luôn đón nhận một tâm hồn yêu mến. Nếu ta không có lòng yêu mến “Chủ” của mình thì ta sẽ chiều theo ý riêng mà làm mất lòng “Chủ”.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết con là con chiên nhỏ bé, yếu đuối. Chúa đã trấn an con và hối thúc con luôn biết chọn Chúa trong từng giây phút sống. Xin Chúa giữ mãi ngọn lửa yêu mến mà Chúa đã thắp lên trong lòng con, xin đặt Lời của Chúa nơi môi miệng con và khắc sâu và tâm khảm con những thao thức và bận tâm của Chúa; để mỗi ngày con biết trở nên người chiến sĩ của Chúa Kitô, chọn Chúa là tất cả của con. Amen.

Về mục lục

.

KHO TÀNG KHÔNG MỐI MỌT

Anna Cỏ may

Chúng ta thích hay yêu mến ai thì lòng chúng ta hướng về người ấy. Khi bận tâm lo lắng về công việc, chúng ta bị lôi cuốn vào điều đó. Những gì chúng ta yêu thích, chúng ta sẽ để ý và quan tâm tới nó. Tiền của là thứ mà mọi người quan tâm nhất, nên đó là kho tàng của người yêu thích nó. Còn kho tàng của ta là gì và kho tang mà Chúa Giêsu nói tới là gì?

“Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời” (Lc 12, 33). Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy bán tài sản của mình mà sắm lấy cho mình một kho tàng trên trời. Như vậy, Chúa Giêsu nói đến hai kho tàng: một kho tàng dưới đất, nơi mối mọt ăn được và mau hư nát; một kho tàng trên trời không bao giờ bị mất. Kho tàng dưới đất chính là tiền của, thời gian và các đam mê xấu. Kho tàng trên trời là Nước Thiên Chúa và các ân sủng Người ban. Vậy, lòng chúng ta đã yêu mến hay đang bận tâm điều gì? Chúng ta đang sở hữu kho tàng nào?

Cuộc sống hiện đại lôi cuốn chúng ta vào cuộc đua luôn tăng tốc, cuộc đua tìm kiếm vật chất và hưởng thụ. Những chương trình quảng cáo và các bảng hiệu đầy màu sắc khiến chúng ta không làm chủ chính mình. Bên cạnh đó, mỗi người chúng ta luôn muốn mình có một địa vị trong cuộc sống, dành chỗ quan trọng trong mắt mọi người. Bởi vậy, tiền của trở thành thứ không thể thiếu trong cuộc sống, muốn có tiền chúng ta phải có công việc. Mặt khác, tiền là phương tiện sinh tồn cho chúng ta. Nhưng, Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta hãy bán của cải mà bố thí. Trong khi đó, chúng ta đã tốn bao nhiêu nước mắt, mồ hôi và công sức mới có được số tài sản ấy. Tại sao Chúa Giêsu lại kêu gọi điều này?

Thật sự, chúng ta dễ đặt câu hỏi “tại sao?” trước những hoàn cảnh ngoài ý muốn. Chúng ta khó nhìn ra những điều tốt sau những biến cố ấy. Chúa Giêsu giúp chúng ta nhìn ra kho tàng quý báu hơn mà chúng ta phải tìm và phải có: đó là Nước Trời. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng dùng là do Chúa ban cho để phục vụ Thiên Chúa và anh chị em. Chúng ta đã vun vén tất cả làm của mình và chỉ biết đến mình mà không biết chia sẻ cho người khác. Tất cả những của cải đó lại là thứ mau hư nát. Thiên Chúa đã dọn sẵn cho chúng ta một kho tàng trên trời, một kho tàng không bao giờ hư nát. Tại sao chúng ta còn từ chối món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng?

Tin Mừng Matthêu có thuật lại câu chuyện một người thanh niên đến gần Chúa Giêsu và hỏi xem mình còn thiếu điều gì để được sự sống đời đời (x.Lc 19, 20-22). Anh tuân giữ các điều răn nhưng chỉ có một điều mà anh không làm được là “bán tài sản” đem cho người nghèo. Có lẽ, chúng ta cũng đang có tâm trạng như người thanh niên này. Sau khi nghe Chúa mời gọi, anh đã buồn rầu bỏ đi. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không có cơ hội thực hiện Lời Chúa Giêsu dạy. Chúa Giêsu vẫn cho chúng ta cơ hội, Ngài hằng chờ đợi chúng ta đến với Ngài. Ngài đã nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12, 32).

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ lòng chúng con ra sao. Xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa, niềm tin và lòng can đảm mà dám bước thêm một bước để đến với tha nhân. Để nhờ đó, chúng con cùng anh chị em chung hưởng kho tàng trên trời, một kho tàng không bao giờ hư nát. Amen.

Về mục lục

.

CHỜ ĐỢI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Kho tàng ẩn dấu trên trời,
Rộng tay bố thí, cho người khó khăn.
Dù cho trộm cướp tìm săn,
Sẽ không lai vãng, thù hằn bon chen.
Tiền tài hư nát sang hèn,
Thực hành bác ái, muối men giữa đời.
Kho tàng chất chứa trên trời,
Không còn mối mọt, sinh lời vẻ vang.
Thắt lưng tỉnh thức gọn gàng,
Canh ba canh bốn, sẵn sàng đón đưa
Chủ về gõ cửa xin thưa,
Đèn chong thắp sáng, ngăn ngừa bóng đêm.
Kẻ thù lén lút nhẹ êm,
Đêm đen đào ngạch, bên thềm không hay.
Các con thức tỉnh đêm ngày,
Con Người sẽ đến, không hay không ngờ.
Như người lính gác mong chờ,
Rạng đông ló dạng, phất cờ hân hoan.
Chuyên tâm cầu nguyện lo toan,
Ngày giờ Chúa đến, khôn ngoan đón chào.

Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Hãy sẵn sàng vì chúng ta không biết giờ nào chủ sẽ về. Tỉnh thức và sẵn sàng không phải ngồi canh chừng trong tâm trạng bất an, nhưng chu toàn công việc hằng ngày. Sẵn sàng không có nghĩa là phải hoàn tất mọi việc. Một tu sĩ đang quét dọn trong tu viện. Chợt một người đến hỏi: Nếu một giờ nữa anh phải chết, anh sẽ làm gì ? Vị tu sĩ trả lời: Tôi tiếp tục quét cho xong.

Hình ảnh người chủ đi dự tiệc cưới trở về và kẻ trộm đào ngạch khoét vách chỉ sự đến bất ngờ. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta lấn cấn trong việc mưu sinh. Chúng ta dễ bị ru ngủ bởi lắng lo ở đời, bởi phù hoa thế tục và của cải vật chất. Con người vì lòng tham, có một muốn hai và cứ thế lăn xả không ngừng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức luôn, vì chúng ta không biết sự gì sẽ xảy ra ngày mai. Có biết bao nhiêu sự cố xảy ra hằng ngày như tai nạn máy bay, tai nạn giao thông xe cộ và chết chóc bất thường.

Truyện kể: Tại Tô Châu, nhà sư Viên Thủ Trung tu hành đắc đạo. Trong phòng ông có làm một chiếc quan tài dài năm tấc và có nắp đóng mở. Khách đến thăm hỏi: Ngài chế cái này để làm gì ? Nhà sư đáp: Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Người đời ai cũng qúi vinh hoa, công danh và làm lụng vất vả. Suốt đời chẳng nghĩ đến cái chết. Chỉ lo thu tích của cải và thụ hưởng thú vui. Họ sống như thể không bao giờ chết. Khi nhìn ngắm quan tài, chúng ta sẽ tìm ra được các giải đáp trong cuộc đời.

Trên đường xa lộ có những bảng ghi: An toàn là bạn, tai nạn là thù. Ai cũng muốn được an toàn. Trên xe thắt giây an toàn và trên máy bay, các chiêu đãi viên luôn luôn nhắc nhở thắt giây an toàn vì không biết sự gì sẽ xảy ra. Càng sống trong xã hội văn minh, càng có nhiều thứ bảo hiểm an toàn. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng những bảo hiểm sẽ giúp chúng ta an toàn về sức khỏe, nhân thọ và sinh mạng. Có bảo hiểm thì tốt nhưng không thể thay thế cho sự tỉnh thức và sẵn sàng.

Hãy sẵn sàng vì chúng ta không biết ngày giờ. Sẵn sàng trả lời cho Chúa những công viêc chúng ta sinh lợi trong cuộc sống đời này. Chúa nói rằng: Vì người ta đã ban cho ai nhiều thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều. Khả năng, thời giờ và của cải Chúa ban là để sinh lợi, không chỉ riêng cho chúng ta mà sinh ích chung cho con người và xã hội.

Về mục lục

.

SỐNG TRONG SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Chúa nhật trước, Lời Chúa đã mời gọi con người hãy biết chọn lựa của cải không bao giờ hư nát, đừng lựa chọn cái hư vô để đánh đổi cái vĩnh cửu. Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay tiếp tục mời gọi chúng ta hãy lựa chọn Nước Trời, hãy sống những giá trị của Nước Trời ngay trong chính cuộc sống này. Và thái độ đó phải luôn luôn sẵn sàng, luôn luôn ý thức cách rõ ràng đâu là giá trị đích thực, đâu là cái tôi phải làm để được sống trong Nước Trời. Thái độ đó phụ thuộc vào sự ý thức của chúng ta về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời này.

Bài đọc 1 trích trong sách Khôn Ngoan (Kn 18, 6-9) mời gọi dân chúng đừng đánh mất niềm hy vọng. Cuộc sống hiện tại dù thế nào thì chắc chắn Thiên Chúa vẫn hiện diện và rồi có ngày họ sẽ được cứu thoát.

Vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, lúc tác giả viết lên những dòng này trong sách Khôn Ngoan, thành phố A-lê-xan-ri-a là chiếc nôi rực rỡ nhất của nền văn minh Hy-lạp. Nơi đây những người Do thái cư ngụ rất đông từ thời bị lưu đầy. Tác giả nhận thấy nền văn hóa Hy lạp đã và đang ảnh hưởng trên đồng bào của ông và họ có nguy cơ lãng quên Thiên Chúa. Sự kỳ thị về tôn giáo lúc đó khiến người Do Thái có nguy cơ đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa.

Chính vì thế, tác giả nhắc lại cho họ rằng Đức Khôn Ngoan phát xuất từ Thiên Chúa trổi vượt tất cả mọi khôn ngoan phàm nhân; rằng họ hãy vững tin vào Thiên Chúa, hãy trung thành với Thiên Chúa mà tổ tiên họ tôn thờ, vì Ngài sẽ không để cho dân phải thất vọng.

Bài đọc 2 trích trong thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 11, 1-2, 8-19) gợi lại những mẫu gương sáng ngời trong lịch sử về đời sống đức tin. Các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop, những con người luôn vững tin vào Chúa, phó thác cuộc đời trong tay Thiên Chúa, luôn ý thức thật rõ sự hiện diện, sự tồn tại của Thiên Chúa trong cuộc đời. Trong những lúc chịu thử thách, các ngài vẫn một lòng trung thành với Thiên Chúa. Chính niềm tin bất diệt đó đã đưa các ngài tới miền Đất Hứa.

Bài Phúc Âm theo thánh Luca (Lc 12, 32-48) vang lên hàng loạt lời mời gọi hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, và hãy luôn trung thành với Thiên Chúa.

“Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con” (12,32). Trong lúc bị thử thách bởi muôn vàn khó khăn, nhiều người sẽ ngã lòng mà bỏ cuộc, chấp nhận sự trao đổi: bỏ Chúa để được yên thân. Những người kiên trung với niềm tin còn lại không nhiều. Chúa Giê-su trìu mến gọi họ “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ”. Con số ít ỏi còn lại ấy thường được Kinh Thánh nhắc đến với danh xưng “số sót”. Khi Đức Giê-su nói điều này với các môn đệ, chúng ta có thể hình dung những người đang lắng nghe là một nhóm nhỏ gồm các môn đệ. Nhưng có một sự đối lập rất lớn trong câu nói của Ngài: một nhóm nhỏ nhưng sẽ được hưởng phần thưởng lớn nhất đó là Nước Trời, một “kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát” (12,33).

Nhưng liền sau đó là những điều kiện mà nhóm nhỏ ấy phải tuân giữ, ấy là sự tỉnh thức và luôn sẵn sàng. Chỉ cần họ lơ là ít phút là có thể họ không nhận lãnh được kho tàng quý giá ấy.

Các dụ ngôn Chúa Giê-su kể nói về thái độ của người đầy tớ khi ông chủ vắng nhà. Người ta dễ dàng phục tùng ông chủ khi có sự hiện diện rõ ràng của ông chủ bên cạnh họ. Nhưng khi ông chủ đi vắng, hay khi người ta nghĩ rằng ông chủ đã đi vắng thì sự phục tùng dễ bị lung lay. Thái độ cần phải có của người đầy tớ là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, vì ông chủ vẫn còn đó, và ông chủ có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Có chăng là người ta tưởng rằng ông chủ không còn hay thậm chí là chẳng có ông chủ nào cả.

Những khó khăn, những thử thách vẫn đang đầy rẫy xung quanh chúng ta. Cuộc sống này luôn bao hàm những cạm bẫy khiến chúng ta có thể gục ngã bất cứ lúc nào. Nhân loại đã la lên “Thiên Chúa chết rồi”. Và khi người ta không còn tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, khi người ta không thấy sự hiện diện của Thiên Chúa bên cạnh mình nữa, nhất là khi người ta cho rằng chẳng có chúa nào cả thì cuộc sống của họ biến đổi. Khi ấy những giá trị trường cửu, những thứ mà không ai lấy cắp được là sự công bằng, lòng yêu thương, sự tha thứ, tinh thần phục vụ sẽ bị đánh đổi để lấy những thứ mau hư nát là tiền bạc, của cải. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau, làm hại nhau để có được tiền của.

Thái độ đó ngược hẳn với lời mời gọi của Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay: “hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời” (12,33).

Ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống không đưa ta đến thái độ sợ hãi vị quan tòa xét xử ở bên cạnh mình. Trái lại, hình ảnh ông chủ trong bài Tin Mừng gợi lên hình ảnh Thiên Chúa tuyệt đẹp trong cuộc sống thường ngày. Khi ông chủ trở về “chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng” (12,37). Ông chủ không tìm cách bắt phạt gia nhân. Nhưng ông chủ đã đặt chính mình vào vị trí của người đầy tớ để phục vụ cho các gia nhân trong nhà.

Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta. Người ở bên ta để chăm sóc cho ta, để an ủi, để vỗ về, để nâng đỡ ta khi ta yếu đuối. Thiên Chúa đang bên cạnh ta, Đấng Giàu Lòng Thương Xót đang ở bên ta. Nào ta hãy mở lòng đón nhận sự hiện diện đầy yêu thương trìu mến của Ngài.

Lạy Chúa, con tin thật Chúa đang ngự trong con. Xin Chúa thức tỉnh con mỗi khi con say giấc trong giá trị trần gian. Xin đánh động con mỗi sớm mai thức dậy, để con luôn ý thức rằng: Chúa đang ở cùng con.

Về mục lục

.

TRUNG TÍN VÀ TỈNH THỨC

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày nay, “Mạnh Thường Quân” là một cụm từ khái niệm hóa, hiểu như một danh từ chung để chỉ một mẫu người hào phóng và nhân ái.

Mạnh Thường Quân tên thật là Điền Văn, người nước Tề thời Chiến Quốc. Ông là một người giàu sang, có lòng nghĩa hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, văn cũng như võ, trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn tân khách. Tiếng tốt đồn vang khắp các nước chư hầu thời bấy giờ.

Một hôm Mạnh Thường Quân nhìn vào sổ nợ, biết dân đất Tiết, một nước nhỏ bị Tề diệt, vua Tề tặng Mạnh Thường Quân làm phong ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) còn nợ mình nhiều, thuộc loại “nợ xấu khó đòi” nhưng nhất thiết chỉ dãn mà không cho xóa. Ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Huyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đó nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.

Phùng Huyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Huyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua khó khăn, được ơn nghĩa với dân chúng.

  1. Trung tín

Trong bài Phúc Âm hôm nay nói đến dụ ngôn người quản lý “trung tín” và “khôn ngoan”, khác với người quản lý “bất lương” trong dụ ngôn sau này (16,1-10).

Người quản lý được giao hai trách nhiệm: coi sóc gia nhân và tài sản.

Trung tín từ việc nhỏ trước khi đến việc lớn, trung tín với của cải riêng trước khi đến của cải người khác. Người quản lý ở đây được giao cho chăm sóc gia nhân của chủ, và ông sẽ được cắt đặt coi sóc tài sản khi chủ thấy người này đã trung tín với việc trước.

Khôn ngoan, người quản lý sẽ được tuyên bố là “có phúc” và được cắt đặt coi sóc gia sản của chủ nếu chủ về và gặp thấy đang làm như vậy.

Người quản lý bất trung với hai khía cạnh tiêu biểu là đánh đập tớ trai tớ gái thay vì coi sóc họ cách chu đáo, và ăn uống say sưa hay vì phân phát phần thực phẩm cho gia nhân. Người quản lý này bị chủ cho nghỉ việc vì đã không làm đúng chức năng quản lý mà chủ đã giao cho anh.

Khi khen người quản lý khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.

Chúng ta chỉ là những người quản lý của Thiên Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng thôi. Mọi sự chúng ta có đều do nhận lãnh. Chúng ta nhận lãnh từ nơi vòng tay yêu thương của cha mẹ rồi công lao dưỡng dục mỗi ngày “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm”. Lớn lên, tiếp tục nhận được từ nơi nhà trường và xã hội một vốn tri thức của nhân loại đã được tích góp từ hàng ngàn năm qua bao thế hệ. Và còn nhận được một gia sản đức tin từ bao thế hệ cha anh trong Giáo Hội để lại cho chúng ta. Tất cả những điều đó, cho thấy tất cả những gì chúng ta có đều do người khác trao ban.

Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan. Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng.

  1. Tỉnh thức

Chúa Giêsu lưu ý về của cải đích thực các môn đệ cần thu tích. Đó là của cải “chẳng bao giờ cũ rách” và “chẳng thể hao hụt”. Của cải trên trời, kho tàng trên trời hoàn toàn khác với của cải nơi trần gian. Của cải trần thế càng nhiều, lòng người càng nặng trĩu. Nặng trĩu lo âu. Kho tàng trên trời càng nhiều, lòng người càng thanh thoát. Bởi kho tàng trên trời là chính Chúa. Càng đến gần Chúa, được Chúa ở cùng, con người càng thoát khỏi những trói buộc của trần gian, trở nên nhẹ bổng, tự do. Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian. Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tằn tiện, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Càng nuôi lòng khao khát, lòng dạ hướng về kho tàng của Chúa nên tâm hồn phong phú bởi chính của cải tràn trề chất đầy kho tàng. Đó là của cải tình yêu như Chúa đã nói: “Kho tàng anh em em ở đâu, lòng anh em cũng ở đó”.

Để luôn hướng lòng về Chúa là kho tàng đích thực, con người phải tỉnh thức luôn. Chúa Giêsu kể dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về. Người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về không thể biết đích xác giờ phút của chủ. Thời giờ hoàn toàn tùy thuộc chủ. Tôi tớ không can dự việc riêng của chủ. Phận tôi tớ là làm theo ý chủ. Người chủ muốn tôi tớ trung thành. Lòng trung thành thể hiện qua sự trung tín trong mọi việc được chủ trao phó. Trung thành chờ đợi giờ phút chủ trở về nên luôn tỉnh thức và sẵn sàng.

Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.

Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của mình. Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.

Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.

Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.

Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.

Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cửu.

Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.

Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.

Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen

Về mục lục

.

TỈNH THỨC LÀ MỘT BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Mặc dù biết rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, còn lâu mới mãn hạn cải tạo, nhưng tâm hồn chị Hồng luôn hướng về chồng, mong đợi chồng và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ như thể chồng sẽ trở về nay mai. Mỗi buổi sáng, chị dậy sớm quét dọn con đường từ cổng vào đến thềm nhà với ý nghĩ biết đâu hôm nay chồng chị sẽ đặt những bước chân yêu thương lên con đường mới quét. Rồi chị tiếp tục quét dọn nhà cửa tươm tất sạch sẽ, lau chùi bộ bàn ghế phòng khách, cắm thêm những cánh hoa hồng còn đọng sương mai vào bình, thứ hoa mà chồng chị ưa thích, như thể chồng sắp về đến nơi. Vào mỗi bữa ăn, chị lại đặt thêm một chén và đôi đũa như thể có chồng cùng ngồi ăn bên cạnh. Chị làm tất cả những việc đó trong niềm mong đợi, trong tâm tình yêu thương.

Trong khi đó, người láng giềng của Hồng có tên là Phượng, cũng có chồng đi cải tạo. Phượng nghĩ rằng chồng mình còn lâu mới về, nên rủ rê bạn hữu đến nhà đánh bài, loại hình giải trí mà chồng của Phượng vốn rất ghét. Ban đầu thì bạn gái, dần dần thì các ông lợi dụng đến nhà Phượng đánh bài để buông lời chọc ghẹo tán tỉnh và cuối cùng Phượng đã lang chạ với nhiều người đàn ông khác.

Đôi khi lương tâm Phượng cũng lên tiếng nhắc nhở chị hãy tu tỉnh lại, nhưng chị nghĩ rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, thường phải cải tạo đến mươi năm mới về, thôi thì vui chơi cho thoả thích đã, đợi đến thời gian chồng sắp mãn hạn mới tu tỉnh lại thì cũng chẳng sao. Chị luôn tự nhủ lòng: chồng còn lâu mới về… vội gì… cứ hưởng đời đi, hưởng tuổi xuân đi, hãy vui chơi cho thoả thích… bao giờ chồng gần về sẽ tính.

Tương tự như câu chuyện trong Phúc Âm “người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay” (câu 36), chị Hồng là người vợ trung thành luôn sẵn sàng chờ đợi người chồng thân yêu của mình trở về. Những người Đó là trường hợp được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc.

Trong khi đó, chị Phượng được ví như người đầy tớ xấu, cứ nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa…”

Và số phận của người đó sẽ là: “chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín”. (câu 46)

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lại mình!

Cuộc sống của chúng ta hôm nay đang họa lại nếp sống của Hồng hay của Phượng? Trong tương quan với Chúa, chúng ta mang tâm trạng, thái độ của ai trong hai phụ nữ trên đây?

Nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ thích chọn nếp sống của Phượng. Họ nghĩ rằng còn lâu mình mới chết; còn lâu Chúa mới tới gõ cửa nhà mình. Thế thì hãy lợi dụng quảng thời gian ‘vắng Chúa’ để chơi bời cho thoả thích. Chờ khi tuổi đã về chiều, sức tàn lực kiệt… rồi mới tu tỉnh lại đón Chúa sau. Chứ hôm nay thì… cứ sống như không có Chúa!

Nếu thế thì hãy tự hỏi lòng mình: Phượng có xứng đáng với tình yêu của chồng không? Có xứng đáng chung sống với chồng trong ngày đoàn tụ không?

Và tôi, người học theo sách của Phượng, tôi có xứng đáng ‘vác mặt’ ra chào đón Chúa trong ngày Ngài đến gõ cửa nhà mình không? Tôi có xứng đáng được Ngài đón rước vào Ngôi Nhà hoan lạc mà Ngài đã dành sẵn cho tôi trên quê trời không?

Hôm nay, Chúa Giê-su lại kêu gọi chúng ta hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức, nhưng tỉnh thức không chỉ có nghĩa là coi chừng giờ chết đến, không chỉ có nghĩa là dọn mình cho sẵn sàng để khi chết khỏi sa hoả ngục, hay đợi chờ ngày Chúa quang lâm mà ai cũng nghĩ là còn xa tít mù khơi… nhưng đúng hơn, đó là sẵn sàng mở cửa lòng ngay hôm nay để đón Chúa, đón mọi anh chị em là hiện thân của Chúa đang đến với mình hằng ngày, trong tư thế sẵn sàng và tâm trạng đầy ắp yêu thương như Hồng.

Tỉnh thức như thế là một biểu hiện của tấm lòng dạt dào yêu thương. Có tỉnh thức như thế mai sau mới đáng được đón nhận vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.

Về mục lục

.

TIN LÀ SỐNG

Lm. Bùi Quang Tuấn

“Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay” (Lc 12,35).

Bản thống kê mới nhất của Liên Hiệp Quốc cho hay cứ trung bình mỗi ngày trên thế giới có khoảng 270 ngàn người chết: chết vì bệnh tật, bom đạn, hoạn nạn, thiên tai… Có lắm người chết vì bị hạ sát, nhưng cũng không thiếu người chết vì tự sát. Có nhiều kẻ chết do người khác gây ra như vụ nổ bom toà đại sứ Mỹ ở Nairobi, Kenya, vụ tàn sát tập thể tại Nam Tư, song cũng không thiếu kẻ chết vì tai hoạ thiên nhiên như lũ lụt tại Trung quốc, sóng thần tại New Guinea, đất động tại Ấn độ.

Mỗi ngày có 270 ngàn người chết. Như thế mỗi giờ có trên 10 ngàn người, và mỗi phút có gần 200 người phải rời khỏi thế gian. Nhưng thử hỏi: “Rời thế gian để đi đâu?” Đi vào cõi nửa thực nửa hư như người Do thái hằng quan niệm? Đi vào cõi thinh không hư vô, hoặc đi đầu thai ở một kiếp khác? Hay chết là hết?

Nếu nói chết rồi sẽ đi đầu thai kiếp khác thì e rằng người ta chẳng cần phải quan tâm lo lắng về đời sống ăn ngay ở lành làm gì. Vì có kẻ cho rằng: “Tại sao không ăn chơi hưởng thụ cho thoải mái để bù lấp những ngày cơ cực. Nếu không may sau này có bị đầu thai làm kiếp trâu bò lừa ngựa, thì cũng không thành vấn đề, bởi vì hiện nay cũng từng phải vất vả quần quật, ‘cày bừa’ tối ngày nên có kinh nghiệm rồi.” Có người còn tâm sự: Ở Việt nam còn được sinh ra trong tuổi con rồng, con gà hay con rắn…, chứ qua bên Mỹ, dường như ai cũng cầm tinh giống nhau: tinh con trâu. Vì ai cũng phải đi cày tối ngày. Thế nên nếu có đầu thai làm kiếp trâu bò, tưởng cũng không đáng ngại ngùng.

Thành ra nếu chết rồi đi đầu thai kiếp khác thì không công bằng và đáp ứng xứng hợp với nhân phẩm cao cả của con người chút nào. Với lại thú vật thì đâu có tri thức để phân biệt đúng sai, lành dữ, và như thế làm sao chúng có dịp chọn lựa hay từ khước, lập công hay phạm tội? Làm sao có cơ may để đi đến một kiếp tốt hơn hay xấu hơn?

Còn nếu nói chết là hết thì càng bất công và xúc phạm đến phẩm giá con người cách khủng khiếp. Chính chủ nghĩa vô thần, những triết thuyết cộng sản và chủ nghĩa hưởng thụ đã đưa con người đến với khái niệm chết là hết đầy bất nhân kia.

Nếu chết là tận tuyệt thì tội tình chi người ta phải hy sinh hãm mình, ăn ngay ở lành, quảng đại tha thứ, hay từ tâm nhân ái? Nếu chết là hết thì dại gì người ta phải dấn thân tu hành, đi lễ giữ luật cho vất vả?

Nếu chết là hết thì đúng là con người đang sống trước một ngõ cụt vô cùng bất công. Bởi vì rồi đây người lành kẻ ác cũng như nhau, người dấn thân phục vụ yêu thương nhân loại cũng chẳng hơn gì kẻ gây tang thương khốn khổ cho bao người.

Nếu chết là hết thì tôi phải tỉnh thức làm chi, ngày Chúa đến hay không nào có quan hệ gì.

Nhưng không. Ngàn lần không! Chết không phải là hết. Niềm tin Kitô giáo xác quyết chết là bước vào một cuộc sống mới và đời đời. Trong cuộc sống đó tôi sẽ khổ đau ngàn thu hay hạnh phúc đời đời tùy thuộc vào cung cách sống niềm tin hiện nay của tôi. Như thế tôi cần phải tự vấn: niềm tin của mình đang ngủ vùi, chìm đắm, hay tỉnh thức hoạt động? Nó đang sống hay đã chết tiệt rồi?

Cách đây không lâu, trên chương trình truyền hình Public Eye có trình chiếu một vụ xử án rất cảm động. Số là cách đây 19 năm, một tài xế xe truck say rượu đã gây ra tai nạn và làm cho em bé tên Josehp V. mới được một tuổi phải mang thương tật suốt đời.

Suốt 19 năm qua, bé Joe, nay là một thanh niên 20 tuổi, đã phải sống trong cay đắng tủi hờn. Đi đâu cũng bị kinh tởm ruồng rẫy. Gia đình cũng đã phải chia sẻ nỗi đau khổ không kém.

Mới đây, người tài xế, sau thời gian dài lẩn trốn, đã bị bắt lại và đem ra xét xử. Tại toà, trước khi vị chánh án buộc tội, các nạn nhân và những người liên hệ được phép tiến lên phát biểu cảm tưởng, trong đó có anh Joe. Nhiều tâm tư—căm thù, uất hận, thương cảm—đã được phát biểu, nhưng có ba tâm tư đã làm cho tôi khó quên.

Người bố của anh Joe tiến lên trước toà và nói: “Trong suốt 19 năm qua, tôi không biết nên cầu cho con tôi sống hay xin cho nó chết. Cầu cho sống thì quả là đau khổ cho nó quá, bởi vì sau khi tại nạn xảy ra hai cánh tay con tôi bị cắt cụt, chỉ có khúc xương và cục thịt lủng lẳng ở hai đầu cánh tay. Gương mặt bị phỏng nặng và biến dạng. Môi cũng như mí mắt không còn nữa. Da thì chảy ra nên không còn hình thù của một gương mặt con người, đến nỗi các đứa bé khác khi nhìn vào thì tưởng là nó đeo mặt nạ. Bước đến đâu con tôi cũng bị kinh tởm hất hủi. Cho nên tôi không biết có nên cầu cho nó sống không. Còn cầu cho chết thì tôi không thể, vì tôi là người tin Chúa, nên tôi không thể cầu cho ai chết được hết”.

Đến phiên người mẹ của Joe bước lên trước máy vi âm. Bà nói: “Trong suốt 19 năm qua tôi đã phải đau cái nỗi đau của con tôi. Ví dụ lúc được 5 tuổi Joe hỏi tôi: ‘Mẹ ơi khi nào thì các ngón tay của con mọc ra hả mẹ?’ Hay lúc được 8 tuổi, bé đã thắc mắc: ‘Mẹ ơi, sao da của con không được trơn như của mẹ hay của mấy em vậy?’” Người mẹ vừa thổn thức vừa nói tiếp: “Tôi không biết phải trả lời thế nào chỉ biết ôm lấy con tôi mà khóc, mà thương nó thôi.”

Cuối cùng anh Joe cũng tiến lên để nói những lời có tính cách quyết định cho bản án. Anh hướng về phía người tài xế và nhẹ nhàng nói: “Thưa ông, nếu không có đức tin thì có lẽ tôi đã kết thúc đời mình từ lâu rồi. Đời tôi sẽ bị kết thúc bởi sự chối từ kinh tởm của người khác, hoặc khi tôi chợt nhìn vào trong gương và thấy được nét mặt kinh khủng của mình. Nhưng tôi không muốn hủy diệt đời mình trong sự thù hận ghen ghét. Tôi không thù ông, không giận ông và cũng không kết án ông. Tôi chỉ xin nói với ông một điều cuối cùng này: bất cứ chuyện gì có xảy đến thì cũng hãy biết rằng ơn phúc của Thượng đế vẫn hằng tràn đầy trên chúng ta, vì Ngài yêu thương chúng ta.”

Tôi tự hỏi: Do đâu mà một chàng thanh niên đầy bất hạnh lại có thể nói lên được những lời đầy khích lệ, yêu thương và tha thứ như vậy? Nhờ đâu mà cha mẹ anh Joe có thể can đảm cảm thông và gánh vác nổi đau khổ của đời mình và đời con như vậy? Tựa vào đâu mà họ có được sức mạnh để yêu thương và duy trì sự sống chứ không tận diệt hay khước từ như vậy?

Câu trả lời duy nhất chính là nhờ vào đức tin—một đức tin tỉnh thức và sống động, một đức tin được tôi luyện qua năm tháng và những bước thăng trầm trong cuộc đời. Những câu nói của ba con người trên kia đã xác quyết điều đó.

Thế giới, gia đình và lương tâm của nhiều người đang ngủ vùi trong hận thù, chôn sâu trong chiến tranh, sa đoạ trong các đam mê hưởng thụ trần tục. Chính vì sự hưởng thụ thiếu ý thức và vô trách nhiệm của người tài xế kia đã gây nên bao khổ đau cho người khác, nhưng chính nhờ niềm tin vào chân lý yêu thương mà người ta đã tồn tại để xoa dịu bao nhiêu u sầu và đem lại hạnh phúc cho nhiều tâm hồn.

Hạnh phúc và sự sống phát xuất từ niềm tin tỉnh thức như vậy chắc chắn không bị chấm dứt với cái chết, không bị đi vào hư không trống rỗng, cũng chẳng phải đầu thai kiếp này hay kiếp khác, nhưng sẽ tồn tại đến muôn đời trong tình yêu cua Thiên Chúa.

Về mục lục

.

CÁC CON HÃY SẴN SÀNG

Lm. Nguyễn Tiến Huân

“Các con hãy sẵn sàng vì vào chính giờ các con không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 40). Đó là lời Chúa Giêsu khuyên dạy và cảnh tỉnh chúng ta trong bài phúc âm hôm nay. Thiên Chúa như một ông chủ đã sắm sẵn cho chúng ta, những tôi tớ Người, một gia sản rất lớn mua bằng giá Máu Cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô: “Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32). Chúng ta sẽ hưởng gia tài đó hay sẽ bị mất: điều đó sẽ được định đoạt dứt khoát vào giờ chúng ta chết. Sự định đoạt này lại hoàn toàn lệ thuộc vào cuộc sống lành thánh hay bê tha của chúng ta hãy lo làm việc lành phúc đức: hãy lo sắm cho mình những kho tàng trên trời”, “hãy lo thắt lưng” hãy biết hy sinh chịu khó tuân giữ luật Chúa, “hãy cầm đèn sáng”, hãy giơ cao ngọn nến Đức Tin ấy chiếu sáng và chỉ lối cho mọi hành động của cuộc sống. Sau hết, điều quan trọng nhất là hãy cứ sống như vậy trong tư thế sẵn sàng “chờ ngày Chúa đến” vì: “phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức… chủ sẽ đặt người ấy trông coi tất cả gia sản mình” (Lc 12, 36-44). Cái hồi hộp, cái nguy cơ là chúng ta không biết “Chúa đến lúc nào?” Canh hai hay canh ba? vào giờ chúng ta không ngờ”. Vậy luôn luôn phải sẵn sàng như sách Gương Phúc dạy: “Trong mọi hành động, mọi ý nghĩ bạn hãy xử sự như thể bạn sẽ chết hôm nay. Hôm nay bạn chưa sẵn sàng thì đến mai bạn sẵn sàng thế nào được? Mà ngày mai có gì là chắc. Bạn có chắc được bạn sẽ sống đến ngày mai không? Sáng thức dậy, bạn nên nghĩ, bạn sẽ không sống đến sáng mai. Vậy hãy sẵn sàng luôn, hãy sống thế nào để giờ chết khỏi đến lúc bạn chưa sẵn sàng. Hạnh phúc người luôn để giờ chết trước mặt và ngày dọn mình sẵn sàng luôn” (Gp 23)

Những chân lý ai trong chúng ta cũng đã biết và nó còn được chứng minh cụ thể bằng những cái chết bất ưng của nhiều người quanh chúng ta trên báo chí, trên tin tức TV hàng ngày. Bây giờ thì đến lượt chúng ta hãy nghĩ tới chính mình kẻo có thể là đã quá trễ.

Lạy Chúa, tuần này con quyết dành ít giây phút tối sớm để xét mình sẵn sàng như Chúa dạy chưa? và nếu chưa thì con phải làm gì để sẵn sàng?

Về mục lục

.

CHỦ VỀ

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu

Suy niệm :

Ðức Giêsu tự ví mình như một ông chủ.
Ông chủ vắng nhà vì đi ăn cưới tới khuya.
Chắc chắn ông sẽ về, nhưng chẳng rõ vào giỡ nào.
Vì thế người đầy tớ giữ cửa phải chờ đợi.
Phúc cho đầy tớ nào còn tỉnh thức khi chủ về.
Chẳng những hạnh phúc cho anh ta, mà cho cả ông chủ.
Ông vui sướng khi thấy đầy tớ còn chờ mình,
nhạy cảm với tiếng gõ cửa đầu tiên,
mau mắn ra mở cửa, trong tay cầm đèn sáng.
Sau đó ông chủ đã làm một hành vi quá đỗi bất ngờ.
Từ địa vị ông chủ, ông đã hạ mình làm người tôi tớ.
Ông thắt lưng, mời các đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ.
Ông chủ không cố ý về vào lúc đầy tớ đang ngủ.
Ðức Giêsu cũng không đến bất ngờ để bắt quả tang ai.
Ngài mời gọi con người kiên trì chờ đợi.
Chờ đợi là một thách đố của tình yêu.
Người biết chờ cũng là người biết yêu.
Thật ra, Chúa không đến bất ngờ.
Chúa chỉ đến bất ngờ với ai không sẵn sàng tỉnh thức.
Chúa chỉ bất ngờ khi chúng ta nghĩ rằng
Ngài không thể đến vào lúc này, trong hoàn cảnh này.
Nếu chúng ta tin Chúa vẫn đến trong mọi tình huống
thì ta sẽ gặp được những bất ngờ thú vị.
Dù Ðức Giêsu ví mình đến bất ngờ như kẻ trộm,
nhưng Ngài không phải là Ðấng thích gieo tai ương.
Trái lại, Ngài thích đem đến những niềm vui bất ngờ.
Bất ngờ hơn cả là ta thấy Chúa phục vụ mình,
sống như người hầu bàn, cúi xuống rửa chân cho môn đệ.
Chúa là ông chủ thích phục vụ hơn là được cung phụng.
Thiên Ðàng là nơi Thiên Chúa tiếp tục phục vụ nhân gian,
Ngài thết tiệc cho nhiều người từ đông sang tây tham dự.
Ðức Giêsu tự ví mình như một ông chủ vắng nhà.
Ông chủ này không độc đoán, nắm hết mọi quyền hành.
Ông tin vào con người và giao trách nhiệm cho họ.
Người quản gia được cử làm đại diện cho ông
để cắt đặt công việc và phân phát lương thực cho đầy tớ.
Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Ðức Kitô.
Quyền bính là phương tiện để phục vụ Dân Chúa,
nhưng nó có thể bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân.
Ðánh đập tôi trai tớ gái, chè chén say sưa
vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về:
đó vẫn là những nguy cơ rình rập các vị lãnh đạo.
“Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho mọi người?”
Một tông đồ như Phêrô cũng có thể bị phạt.
Tông đồ là người đã biết ý chủ
nên sẽ bị đòn nhiều hơn nếu không làm theo ý đó.
Vừa hiền lành bao dung, vừa đòi hỏi nghiêm túc.
Vừa đòi đầy tớ phải phục vụ, vừa phục vụ như đầy tớ.
Có bao nét tương phản nơi khuôn mặt ông chủ Giêsu!
Chúng ta có phải là đầy tớ trung tín và khôn ngoan không?

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu, 
xin ban cho chúng con những linh mục 
có trái tim thuộc trọn về Chúa, 
nên cũng thuộc trọn về con người. 
Xin cho chúng con những linh mục 
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng, 
một trái tim đủ lớn 
để chứa được mọi người và từng người, 
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi. 
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, 
có tình bạn thân thiết với Chúa 
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con. 
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, 
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho. 
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa. 
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục 
có trái tim của Chúa, 
say mê Thiên Chúa và say mê con người, 
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên 
và dẫn đưa chúng con 
đến với Chúa là Nguồn Sống thật. 

Về mục lục

.

CHÚA ĐANG ĐI TÌM TA, NGƯỜI SẼ ĐẾN

Lm. Đỗ Bá Công

Người ta kể rằng, khi thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lúc còn thơ ấu, thánh nữ đọc bài thương khó của Chúa Giêsu, và được nghe nói rằng vì yêu thương nhân loại, Ngài đã trải qua cuộc khổ nạn ấy. Têrêxa đâm đầu chạy, cứ chạy mà không biết mình chạy đi đâu. Chạy được một quảng đường xa, thì gặp một cậu bé trai cùng tuổi chận lại. Cậu ấy hỏi Têrêxa:

– Cô đi tìm ai? Và cô là ai?

– Tôi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Và Têrêxa hỏi ngay lại rằng:

– Còn cậu, cậu là ai mà lại hỏi tên tôi?

– Ta là Giêsu Hài Đồng của Têrêxa.

Thì ra, khi Têrêxa đi tìm Chúa, chính Chúa lại đến tìm Têrêxa.

Cuộc đời của người tín hữu chúng ta là cuộc đời lên đường đến với Chúa. Thật vậy, ít nữa là trên nguyên tắc, thế nên:

1- Người tín hữu cần phải tìm kiếm Thiên Chúa.

2- Và phải ý thức rằng Chúa đang tìm kiếm chúng ta để gặp gỡ.

Chúng ta cần phải đi tìm kiếm Thiên Chúa: Cũng như Abraham trong bài đọc II và thánh nữ Têrêxa trong câu chuyện kể trên, họ đã lên đường “ra đi mà không biết mình đi đâu”, nhưng cả hai đều biết “vì ai mà mình đã ra đi”. Như thế, tương tự Abraham và Têrêxa, chúng ta biết, chúng ta đang đi tìm Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài vừa là một con người vừa là một vị Thiên Chúa, đến thế gian để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Không có Ngài thì không có ơn cứu rỗi.

Charles de Foucauld đã đi tìm Chúa trong sa mạc Sahara và qua những cuộc thám hiểm rừng núi ở Phi châu, một cuộc tìm kiếm khắc khoải và bồn chồn, nhưng những quanh cảnh bao la hùng vĩ ấy lại nói cho ngài có Thiên Chúa, và ngài quyết đi tìm, và ngài đã tìm được Chúa trong cảnh bao la hùng vĩ ấy. Và sự kiện ấy bắt đầu ngài phải dấn thân. Ngài đã thốt lên câu nói lịch sử đáng ghi nhớ: “Thà tôi không biết Thiên Chúa thì thôi, nhưng một khi tôi đã biết và tôi đã tin, tôi đã yêu, thì tôi không thể không sống cho Ngài.”

Bài Tin Mừng cho chúng ta hay: Người biết ý chủ mình mà không chịu làm theo ý chủ, thì khi gặp chủ, những người ấy phải bị trận đòn khủng khiếp. Còn những người không biết ý chủ mà làm những điều xằng bậy, khi chủ về sẽ lãnh những trận đòn ít thôi (x Lc 12: 47-48).

Đến đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm: chúng ta biết Chúa, chúng ta đã tìm Chúa và đã gặp Chúa. Gặp Ngài ta mới ngồi trước mặt Ngài đây. Nhưng thử hỏi chúng ta đã dấn thân chưa, như một Charles de Foucauld, một Têrêxa vừa mới nêu trên?

Thiên Chúa đang tìm kiếm chúng ta để gặp gỡ: Đúng vậy, Thiên Chúa đang đi tìm ta. Chúng ta đừng tưởng Chúa ngồi một nơi nào đó rồi chờ đón chúng ta đến với Ngài. Không. Chính Ngài đã đi tìm chúng ta. Câu chuyện của thánh nữ Têrêxa trong phần mở đầu làm chứng điều ấy: “Chính Thiên Chúa đã kêu gọi Abraham, chính Thiên Chúa thúc giục Môisen, rồi chính Thiên Chúa đến với chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô. Lời của Ngài, tức là chính Ngài, vẫn đang trên đường đến với tâm hồn chúng ta”. Đành rằng lắm khi chúng ta đã dựng lên biết bao rào chắn ngăn cách, chẳng hạn những bận rộn, những nỗi lo âu, những chuyện lo lắng vu vơ, những thú vui luôn thay đổi, tiền tài danh vọng… Nhưng Thiên Chúa vẫn tìm kiếm tâm hồn chúng ta. Ngài đến tìm chúng ta qua làn gió nhẹ, qua tiếng chuông chiều thánh thót, qua giọt sương mai, và có khi qua những tiếng gió bão bùng, như tiếng quở trách của chủ nhà về lúc đêm khuya trên các tôi tớ đắc tội. “Mỗi hoàn cảnh, mỗi cuộc gặp gỡ là mỗi dịp Chúa đến với chúng ta. Ngài đến với chúng ta mang theo những băn khoăn gieo vào lòng chúng ta, cùng với những đòi hỏi đặt ra cho chúng ta”. Vậy, chúng ta đi tìm Chúa qua những công trình vĩ đại Ngài làm chung quanh chúng ta, qua những biến cố tay Ngài tạo ra để cảnh tỉnh, đánh thức chúng ta.

Để kết thúc, chúng ta hãy nêu lên chính hình ảnh chúng ta trên con đường đi về nhà Chúa: đôi mắt chúng ta hãy nhìn thẳng trước mặt, đôi chân ta phải bước thoăn thoắt, và đôi tay ta, một bên ngả ra để đón nhận từng hồng ân phải đón nhận, và tay kia biết nắm lại để khước từ từng cám dỗ phải từ khước và vừa đi vừa tin vững chắc rằng từ phía bên kia Thiên Chúa đang đến đón ta.

Về mục lục

.

HÃY TỈNH THỨC

Lm. John Nguyễn Tươi

“Nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.” (Kh 3, 3)

Tỉnh thức là điểm nổi bật trong đoạn Tin Mừng này. Chúa Giêsu nói với các môn đệ hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì Nước Trời:” Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là có phúc cho họ.” Tỉnh Thức có nghĩa là nhận biết chính mình, không mê muội, ảo tưởng về bản thân và các giá trị cuộc đời. Người tỉnh thức là người không có ảo tưởng giữa thực tại và mộng tưởng mơ hồ, nhưng là người nhận biết bản thân mình và sống thực với mọi hoàn cảnh. Người sống tỉnh thức là người sống có lý tưởng và hành động trong sự khôn ngoan. Sách Khôn Ngoan có viết:

“Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức khôn ngoan.

Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức khôn ngoan,

vì vàng trên cả thế giới, so với Đức khôn ngoan cũng chỉ là cát bụi,

và bạc so với Đức khôn ngoan cũng kể như bùn đất…”

Thật vậy, người sống tỉnh thức là người sống khôn ngoan dưới ánh sáng Lời Chúa. Họ sẵn sàng tách mình ra khỏi những quan niệm trần tục và của cải thế gian. Họ là người có phúc vì họ đã sống tỉnh thức. Khi ta nhận thức được điều này, thì lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ càng có ý cho mỗi người chúng ta hôm nay, Ngài nói: “Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con. Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.”

Cũng như người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu, và hỏi: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Chúa Giêsu bảo anh ta: “Anh hãy đi bán hết của cải tài sản đem cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đi theo Ta”. Ngài đưa ra một quy luật quá khó khăn đối với anh ta. Nghe thấy thế, anh ta buồn rầu và bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.

Nếu ngày hôm nay Chúa bảo chúng ta làm như anh nhà giàu này, thì chúng ta cũng bỏ đi ngay. Bằng chứng là có nhiều người ngày nay, họ bỏ Chúa, xa lìa Giáo Hội để chạy theo của cải thế gian hơn là đi tìm chân lý và tích lũy kho tàng trên trời. Sự thực, chúng ta cũng không hơn gì anh nhà giàu trong Tin Mừng. Anh ta là kiểu mẫu cho nhân loại thời nay. Lòng người thì hẹp và ngắn hơn tình thương và ân phúc Chúa ban tặng cho chúng ta mỗi ngày.

Với hình thức giữ đạo thì rất tốt, nhưng chúng ta vẫn còn thiếu tinh thần sống đạo và chia sẻ cho nhau theo giá trị Tin Mừng, đó cũng là lý do tại sao Chúa Giê-su nói: “Những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”. Người nghèo thì chết đói kẻ giàu thì phình da. Khi nghe Chúa Giêsu nói điều này, thì không chỉ các môn đệ sững sờ, ngạc nhiên mà ngay cả chúng ta và các nhà tỷ phú hôm nay, họ sẽ nghĩ gì?. Điều này có vẻ trái ngược với ước muốn và tham vọng của con người trong thời đại này. Khi người ta đang từng ngày từng giờ để chạy theo và tìm kiếm cho thật nhiều tiền của để được vinh thăng cuộc đời.

Ngay cả thánh Phêrô cũng phải lên tiếng rằng: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy!”. Phêrô phản ứng vì sợ mình không được cứu độ, không được sự sống đời đời. Thế thì, con người ngày nay có còn khát khao muốn được Thiên Chúa cứu độ, như thánh Phêrô nói: “Chúng con bỏ hết mọi sự để đi theo Thầy”. Có lẽ, chúng ta cần có những giây phút thinh lặng để hỏi lại chính mình. Chúng ta đã bỏ gì và đang mang gì để đi theo Chúa.? Sau khi lìa khỏi đời này, mỗi người chúng ta mang được gì ra khỏi thế gian này!. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa nhiều thứ, đi nhiều nơi, nhưng chỉ có một con đường mà tất cả chúng ta đều phải đi chung, đó là con đường sự chết, đi vào nấm mộ. Ngày hôm nay, người ta có tiền tỷ trong tay, nhưng ngày mai trong tay chẳng nắm được gì, chẳng mang theo được gì khi ta nhắm mắt xuôi tay và lìa đời. Chỉ còn lại một chút tình, một chút nghĩa, một chút cử chỉ bác ái và yêu thương đọng lại trong những người thân yêu, và những người yêu thương chúng ta. Tất cả là của Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa rất nhiều thứ, nhưng khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta không có quyền để chọn lựa cho số phận của mình. Chính Thiên Chúa quyết định số phận cho chúng ta.

Có thể, Lời Chúa hôm nay đối nghịch với ý tưởng và suy nghĩ của con người, nhưng đây chính là chân lý mà Chúa đã mạc khải cho nhân loại, đó là quy luật sống cho những ai tin vào Ngài và tin vào sự sống vĩnh cữu. Nơi đó của cải sẽ không bị mục nát hay bị hư mất. “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút không ngờ thì Con Người sẽ đến.” Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý thêm về ý nghĩa của sự giàu và nghèo khó theo Tin Mừng. Chúa Giêsu không nói các con cứ sống nghèo túng, đau khổ khi chết thì ta sẽ được cứu độ và lên thiên đàng. Nhưng, Chúa Giêsu nói: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ.” Cái nghèo ở đây chính là sống tinh thần nghèo khó. Tinh thần nghèo khó nơi Mẹ Maria là khiêm nhường, bác ái, đơn sơ và sống khó nghèo. Cái nghèo nơi mẹ Teresa Calcutta là hy sinh, phục vụ cho những mãnh đời bất hạnh, họ cần được tình thương, quan tâm và chăm sóc của chúng ta khi họ lìa đời. Đó là sống giá trị tinh thần nghèo khó theo Phúc Âm. Sự quan tâm yêu thương, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ tha nhân là giới răn: “Kính Chúa yêu người”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỉnh thức để chon lựa đúng giá trị cuộc sống hiện tại, và xin cho chúng con biết khôn ngoan sáng suốt để nhận thức chân lý của Chúa. Nhờ đó, chúng con có thể dùng của cải thế gian này để mua lấy Nước Trời mai sau. Amen.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Cô Ác-ni-ét-ca, 24 tuổi, người mẫu nổi tiếng của Hà Lan, một lần kia đã đăng ký giữ chỗ trong chuyến bay TWA 800, nhưng vào phút chót, một trở ngại khiến cô phải đình lại chuyến đi, lúc ấy cô rất buồn vì phải lỡ dở công việc, nhưng sau đó chắc hẳn cô đã không ngừng cảm tạ ơn thoát chết, vì máy bay đó đã nổ tung sau khi rời sân bay và rơi xuống biển, toàn bộ phi hành đoàn và hành khách không một ai sống sót. Nhưng thoát cái chết đó cô lại rơi vào một cái chết không kém tang thương. Không đầy một tháng sau, đang lúc trình diễn giữa những tiếng reo hò ca ngợi của đám đông ngưỡng mộ, thình lình cô bị đâm túi bụi và đã tắt thở sau đó trước sự kinh ngạc của mọi người, họ là những người mến mộ cô nhưng đã bất lực không thể cứu sống được cô.

Cái chết bất ngờ của cô người mẫu nổi tiếng Ác-ni-ét-ca là một bằng chứng cho chúng ta thấy: dù tin hay không tin, sự sống của cô đang có một bàn tay siêu việt điều khiển, cô không thể giữ nổi sự sống của mình. Cô đâu có ngờ cái may thoát nạn vừa được hưởng cũng chính là tiếng chuông cảnh báo giờ ra đi của đời cô, cô đâu có ngờ buổi trình diễn hôm đó là lần trình diễn cuối cùng của mình. Đúng vậy, không ai có thể nắm chắc sự sống của mình, kể cả vua chúa quyền uy cho đến thứ dân hèn mọn. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn năng mới có quyền quyết định sự sống con người và Ngài muốn gọi ai khi nào là tùy ý Ngài, vì thế tiếng gọi ấy thường là bất ngờ.

Quả thực, Kinh Thánh và giáo lý cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, bởi vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.

Sự chết xảy đến cho mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày chết, còn hầu hết đều không biết trước. Chúng ta không biết trước ngày giờ mình chết, chẳng ai có thể phỏng định được tuổi nào mình sẽ từ biệt cõi đời, và cũng chẳng ai biết mình sẽ chết thế nào: chết từ từ hay chết bất thình lình, chết vì bệnh tật hay tai nạn, chết ở đâu: trên cạn hay dưới nước, ở nhà hay ngoài đường, chết trong tình trạng ơn nghĩa hay tội lỗi, mê man hay tỉnh táo, có kịp chịu các phép sau cùng hay không. Tóm lại, Chúa có thể đến gọi chúng ta khi chúng ta đang làm việc, đang khi chúng ta ngon giấc hay trong lúc chúng ta đang vui chơi giải trí… chúng ta hoàn toàn không hay biết gì về ngày giờ Chúa đến và Chúa gọi chúng ta ở chỗ nào.

Chính tính cách bất ngờ đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn sẵn sàng và do đó luôn cố gắng sống tốt lành. Cũng vậy, tính cách bất ngờ ấy cũng là điều tốt cho chúng ta, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác, chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng, hoặc tệ hại hơn, tự ru ngủ mình để rồi tiếp tục ngồi lì trong con đường tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng. Chính vì tính cách bất ngờ ấy mà nhiều lần Chúa bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay, Chúa bảo chúng ta: bao lâu sống ở đời này, tư thế của chúng ta lúc nào cũng phải sẵn sàng giống như người đầy tớ trung tín chờ đợi chủ về. Chủ có thể về bất cứ lúc nào, điều làm cho chủ hài lòng là khi trở về thấy người đầy tớ hoàn toàn sẵn sàng, khi ông gõ cửa là mở ngay. Rồi Chúa còn đưa ra một thí dụ nữa để nhấn mạnh thêm về sự khẩn trương phải sẵn sàng, cũng như chủ nhà không biết khi nào kẻ trộm đến viếng nhà mình, nên ông luôn canh chừng để khỏi mất mát. Thì việc Chúa đến cũng bất ngờ như vậy, nên chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng để bất cứ lúc nào Chúa đến gọi chúng ta ra khỏi đời này, dù có bất ngờ và đột ngột, chúng ta vẫn không lo sợ. Trái lại, chỉ những ai không tỉnh thức và không sẵn sàng mới đáng lo sợ mà thôi. Nói khác đi, sự chết bất ngờ như vậy có thể là hoàn toàn tự nhiên, bình thường, không phải là số mệnh, không phải Chúa định, cũng không phải Chúa có ý chơi xấu chúng ta, chỉ nhằm nhè lúc chúng ta lơ là thì Ngài đến. Thật ra tính cách bất ngờ đó có lợi cho chúng ta: đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh, đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc nước trời.

Vậy tỉnh thức là thế nào? Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong tỉnh thức, tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm việc như thường và trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa, nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình. Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tranh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hằng ngày, vẫn liên đới với mọi người, nhưng sống và làm việc một cách tốt đẹp. Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong Tin Mừng hôm nay.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC ĐỂ ĐÓN CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh

1/ Tại sao phải tỉnh thức:

Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải tỉnh thức vì chúng ta thường xuyên bị mê đắm bởi những quyến rũ củatrần thế. Thích những gì thuộc về trần thế. thích tìm kiếm những gì là của trần thế và lấy làm rất thoả mãn với những cái của trần thế.

Khi con người bị say đắm vào những cái hão huyền trên trần gian, thì cùng lúc cuộc sống con người đang bị cuốn hút, đang mắc vào những cạm bẫy có thể làm tổn thương và giết chết cuộc sống. Cho dẫu trước mắt đó là một tấm màn đầy dẫy những thực tại hấp dẫn làm vui mắt con người như:tiền, quyền, danh, lợi, thú… Khi đang sống trong tình trạng như thế, chắc chắn cuộc sống của con người sẽ bị hôn mê và tê liệt. Đến nỗi cuộc sống ấy sẽ làm cho họ không đủ sức để mở đôi mắt hướng về những gì là Chân – Thiện – Mỹ, và cũng không còn khả năng vực dậy để tìm kiếm những vẻ đẹp đem lại ý nghĩa cuối cùng cho kiếp người.

Hôm nay Lời Chúa dạy chúng ta Phải Tỉnh Thức, đó là Chúa đang thức tỉnh chúng ta Chúa thức tỉnh chúng ta vì Chúa không muốn chúng ta phải chìm đắm vào những giấc mơ hão huyền. Cũng đừng bao giờ thoả mãn với những thứ trên trần gian nay còn mai mất, hay tan biến cách đột ngột theo thời gian, nhất là theo những biến cố. Như vậy, một biệt thự hay một ngôi nhà đẹp với đầy đủ những tiện nghi sang trọng, một tài khoản khổng lồ, một chiếc xe không “đụng hàng” dành cho những đại gia “đỏ”, một địa vị tại trần thế…, đã đủ để chúng ta hài lòng và thoả mãn chưa? Đối với những người sống đức tin thì không! Vì cái cần nhất và thoả mãn nhất cho cuộc sống không phải là tiền tài, danh vọng, địa vị hay hưởng thụ, nhưng là chính Chúa, là Ơn Cứu Độ, là Hạnh Phúc toàn vẹn. Đây chính là Sự Thật cuối cùng của con người. Sự Thật này chúng ta không phủ nhận, nhưng luôn luôn phải trang bị cho mình một tư thế để ôm ấp sự thật tuyệt vời, để chiếm hữu hạnh phúc tuyệt đối. Tư thế mà chúng ta chuẩn bị đã được Chúa nhắc trong Tin Mừng, đó là:

2/ Tỉnh thức để đón Chúa:

Chúa Giêsu dạy chúng ta tỉnh thức không gì khác hơn là đón Chúa đến. Chúa Giêsu chính là Hồng An của Chúa Cha ban cho nhân loại, Ngài là Ơn Cứu Độ duy nhất. Đấng từ Trời xuống, nên chúng ta phải đón nhận. Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh thức để mở lòng đón nhận món quà quý giá nhất của Chúa Cha. Hãy xem việc tìm Ơn Cứu Độ là việc hàng đầu, việc cần thiết, việc ưu tiên tuyệt đối, việc rất quan trọng trong cuộc sống chúng ta. Thử hỏi: ai trong chúng ta đã nghĩ đến việc mở lòng đón nhận Chúa là nguồn Ơn Cứu Độ, là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong sinh hoạt hàng ngày? Khó lắm! Gọi là khó vì chúng ta quá bon chen tìm kiếm những thứ vật chất trên trần gian, quá bận tâm tìm mọi cách để củng cố địa vị tại trần thế, quá bận rộn với một cuộc sống phải tiện nghi, phải hưởng thụ, phải vui chơi giải trí. Từ đó khó lòng để chúng ta xem Chúa là đôí tượng hàng đầu duy nhất, phải bỏ công sức tìm kiếm Ngài.

Vì Chúa là Đấng vô hình nên chúng ta ít cảm nghiệm thật sự những vẻ đẹp tuyệt đối từ nơi Chúa, những giá trị chân thực vĩnh cửu từ nơi Ngài. Còn những sung túc trên trần gian là cái hữu hình, nên sướng khổ hay thành công thất bại là chúng ta thấy ngay tức khắc. Như vậy, một sự đảo lộn đã nảy sinh trong cuộc sống con người cách nghiêm trọng. Những giá trị tuyệt đối Vĩnh Hằng, cung cấp đầy đủ cho thực chất của một con người, thì con người lại coi là thứ yếu phụ thuộc. Còn những cái đánh lừa con người, đưa đẩy con người vào sai lầm của cuộc sống, thì lại là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để con người tìm mọi cách chiếm hữu.

Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như tỉnh thức để có cơ hội làm giàu, cơ hội được thăng quan tiến chức, có dịp tìm những thú vui nơi trần thế, thì có lẽ ngươi ta sẽ hăm hở chen chúc nhau để mở mắt mong chờ. Nhưng kêu gọi tỉnh thức để chờ Chúa đến thì là quá mơ hồ đối với những cách sống theo chiều hướng duy vật hưởng thụ. Nhưng nếu chúng ta là người có đức tin, đặc biệt là người biết sống Đức Tin, thì Lời Chúa gọi hãy tỉnh thức, đó còn là lời động viên an ủi để chúng ta can đảm mở lòng đón nhận Chúa là giá trị tuyệt đối, khi trước mắt chúng ta phải đối diện bởi những cái hấp dẫn hào nhoáng của sự sung túc trên trần thế.

Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như trí khôn chúng ta khám phá nơi Chúa là tất cả:Hạnh Phúc tất cả, Chân Lý tất cả, Vẻ Đẹp tất cả, Sự Thật tất cả…, thì chúng ta rất dễ dàng quay lưng với những cái gian dối để đón chờ Chúa đến trong tâm hồn.

Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như con tim chúng ta dành trọn cho Chúa, xem Chúa là tất cả của đời ta, hết lòng yêu mến Ngài trong từng phút giây, thì chúng ta sẽ dễ dàng nói không với những thứ hạnh phúc tạm bợ của thế gian, luôn rình rập để lôi kéo đời ta.

Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Đó là Chúa muốn chúng ta dành trọn thời gian, dành trọn cuộc đời để yêu mến Ngài không giới hạn, khao khát Ngài không điểm dừng. Vì Chúa muốn nói với chúng ta: Chúa là tất cả.

Vì Chúa là tất cả nên ngoài Chúa ra chúng ta đừng tìm thứ hạnh phúc nào khác.

Vì Chúa là tất cả nên hằng ngày chúng ta cố gắng sống những tâm tình của Thánh Augustinô sau đây, như để nói lên thái độ tỉnh thức đón chờ Chúa và tâm tình khao khát được Chúa đến trong cuộc đời:

“Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn khát khao cho đến khi được về an nghi bên Chúa”. Amen.

Về mục lục

.

SẴN SÀNG ĐỢI CHỦ VỀ

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. Trong dụ ngôn người đày tớ tỉnh thức, nếu để sang một bên c.37b người ta sẽ có một câu chuyện thuần nhất. Quá nửa đêm chủ trở về nhà. Nhưng ở đây, không phải chỉ mình ông gác cổng thức nhưng mọi đầy tớ đều đợi chủ mình. Họ đứng trong sân, giữa cửa lớn bên ngoài nhà. Họ phải vén áo lên để mở cửa cho nhanh khi chũ gõ và còn cầm đèn để dọi lối đi cho chủ. Chắc chắn chủ không đòi hỏi, nhưng những điều ấy nói lên sự kính trọng và lòng tận tụy yêu mến. Và chủ nhận biết lòng trung thành và sẽ tưởng thưởng.

Nhưng một chi tiết của dụ ngôn đã làm người ta chú ý và quay về lối chú giải ẩn dụ (interprétation). Để đón chủ về có cần đem tất cả gia nhân ra đón không? Chủ nhân phải chăng là một nhân vật quan trọng? Dù là một nhân vật lớn, chỉ cần một vài tha nhân phục vụ không đủ sao? Người ta sẽ nghĩ gì về ông chủ đòi một toán đầy tớ phải có mặt ở đó, áo quần chỉnh tề, khi ông về chỉ để mở cửa cho ông? (dụ ngôn tương tự với Mc 13,33-37 nhưng chỉ có một người gác cổng thôi).

Chỉ có một giải pháp cho vấn nạn ấy: dụ ngôn đi quá thực tại. Bức tranh mà dụ ngôn đưa ra không phải là một trang sử, đó chỉ là một ẩn dụ một cảnh trong thế giới bên kia. Mọi tôi tớ đều phải có mặt lúc chủ về, vì mọi Kitô hữu, mọi người, đều được triệu tập một cách công khai khi Con Người quang lâm.

Nhưng câu 37b còn đi xa hơn: “Quả thật, tôi nói cho các ông, chủ sẽ thắt lưng, đặt họ ngồi bàn tiệc và đi lại hầu hạ họ”. Câu này không phải là một diễn từ bằng ngụ ngôn, không dựa trên một sự kiện có thực, nhưng trên sự kiện có thể xảy ra. Đàng khác Chúa Giêsu mô tả ông chủ, dù là người công bình, đã cư xử thế nào với tôi tớ mình trong cuộc sống thường ngày: “Ai trong các anh, có tên đày tớ cày ruộng về mà nói với nó rằng: mau lại đây ngồi xuống dùng bữa đi?” (Lc 17,7-8). Ở đây ông chủ làm trái lại: mời các gia nhân ngồi bàn và chính ông phục dịch họ. Hình ảnh thật là mâu thuẫn, nó phát sinh từ một văn mạch riêng và không ăn khớp gì với dụ ngôn cả. Nó là một câu trong phần tuyển tập các lời Chúa Giêsu nói để mạc khải mầu nhiệm đời Ngài, mầu nhiệm sẽ được biểu lộ trong cái chết của Ngài.

Lc đã đặt câu sau đây trong khung cảnh bữa tiệc ly để soi sáng ý nghĩa bữa tiệc ly: “Ai là người lớn nhất: người ngồi bàn hay kẻ hầu hạ? Phải chăng là người ngồi bàn? Nhưng tôi, tôi ở giữa các anh như là người hầu hạ” (Lc 22,27). Trong những câu Chúa Giêsu nói mà Lc đã ghi lại, câu Chúa Giêsu nói hầu hạ các tông đồ, đi trước câu Ngài đi hứa cho các môn đệ được ăn uống nơi bàn tiệc Ngài, khi Nước Thiên Chúa đến và vương quốc thiên sai được thành lập (22,30; 22,18). Đó là cách trình bày bữa tiệc cánh chung (Mt 8,11) được cụ thể hóa trong bàn tiệc mà Chúa vinh hiển sẽ cùng ăn với các gia nhân Ngài.

Từ những yếu tố đó, hình thức và ý nghĩa lời nói trong dụ ngôn sẽ dễ hiểu hơn. Ông chủ trở về nhà, cho các gia nhân ngồi bàn và sẽ phục vụ họ. Dĩ nhiên, diễn tiến câu chuyện lại trục trặc vì câu ấy. Chủ nhà đã ăn tiệc; lại tổ chức một bữa tiệc khác vào nửa đêm, như vậy thật là thiếu mạch lạc. Nhưng những điều đó không trở ngại gì, vì câu chuyện đã trong hiểu theo lối ẩn dụ; và hướng đến các giá trị thiêng liêng.

2. Các nhà chú giải hơi lúng túng, khi cắt nghĩa chi tiết dụ ngôn người ăn trộm (c.39-40). Một vài tác giả (Jéremias, Dodd, BJ) có một vài vụ trộm cắp xảy ra mới đây mà cả làng còn nói đến, và Chúa Giêsu dùng biến cố hấp dẫn ấy để dạy cử tọa về tai họa ghê gớm (quang lâm) sắp đến. Lối chú giải ấy dựa trên một động từ ở thì conditionnelle irréelle. Ý nghĩa dụ ngôn bấy giờ sẽ là: nếu chủ nhà biết…, ông đã không để trộm vào nhà. Điều kiện không thực ấy (cette condition irréelle) giả thiết rằng, chủ nhà thực sự không biết nhà mình sẽ bị trộm và như thế ông không phòng gì cả. Nhưng cách chú giải ấy liền vấp phải câu kết sau: “Các anh cũng vậy, các anh hãy sẵn sàng…” Người ta không hiểu tại sao câu hết này áp dụng cho dụ ngôn vì câu này giả thiết chủ nhà đã không tỉnh thức.

Một lối chú giải khác cho rằng dụ ngôn cũng như lời tuyên bố một luật chung nào đó, bao trùm cả hiện tại lẫn tương lai. Nếu chủ nhà biết…ông sẽ tỉnh thức. Nhưng kiểu chú giải kia vẫn làm cho dụ ngôn không thể tránh khỏi khó khăn mà câu kết nêu lên. Cả các môn đệ, họ cũng không biết khi nào Con Người đến. Nhưng trái với chủ nhà là không tỉnh thức, vì ông biết giờ nào kẻ trộm có thể đến, còn các môn đệ lại phải tỉnh thức. Đây là điểm gợi ý để giải đáp các khó khăn trên: không những chủ nhà không biết giờ nào kẻ trộm có thể đến, nhưng ông cũng không biết kẻ trộm có đến không? Chính vì điều đó mà lập trường các môn đệ khác nhau. Nếu họ không biết thời gian đích xác Con Người đến, thì ít nhất là ngay bây giờ họ xác tín là Ngài sẽ đến. Vì các môn đệ biết, nên phải tỉnh thức (hình như đó là ý nghĩa của “cả cho các anh nữa” cũng như ông chủ nhà sẽ thức, nếu ông biết, thì các anh, các anh phải tỉnh thức, vì các anh đã biết). Nhưng phải thú nhận rằng lối chú giải này gây phiền phức cho bản văn lắm, bản văn nhấn mạnh lúc kẻ trộm đến (hay là quang lâm) hơn là sự bất ngờ. Vì chưa có một lối chú giải nào hay hơn, nên tạm thời tôi chấp nhận lối chú giải này.

Nhưng có một điều chắc chắn là khi nghe dụ ngôn, đừng ẩn dụ hóa câu chuyện. Tên trộm là lối ẩn dụ không mấy xứng hợp với Thiên Chúa. Vì thế dụ ngôn không ví Thiên Chúa như là người ăn trộm, nhưng so sánh sự xuất hiện ấy đều bất ngờ, đó là điểm tương tự duy nhất giữa hai người.

Dụ ngôn thứ 3 là dụ ngôn về người quản lý trung thành và người quản lý bất trung (c.42-48), dĩ nhiên trong thực tế, người đày tớ ấy không thể vừa trung thành, nhận phần thưởng làm quản lý tất cả tài sản của chủ, rồi liền sau đó được coi như một đày tớ bất trung và chịu hình phạt. Vậy có hai bức tranh khác nhau, nhưng liên hệ với nhau rất đậm đà nên nhà dụ ngôn chỉ nói đến một tên đầy tớ thôi.

Trong trường hợp thứ nhất, những hình ảnh không đi ra ngoài bình diện tự nhiên. Người đầy tớ trung toàn bổn phận mình đối với đồng bạn và nhận nơi chủ một chức vụ cao cả hơn ở trần gian này.

Trường hợp thứ hai, nhà dụ ngôn đem chúng ta đi quá bình diện tự nhiên. Tên đầy tớ thất thường bị truất phế và bị xếp hàng “bất trung” “không tin”.

Chúng ta đang đứng trước một dụ ngôn giải ca (casuistique) trình bày một nhân vật tưởng tượng, có thể đặt trong trường hợp này hoặc trường hợp kia và có thể gánh lấy họa phúc này hay họa phúc kia.

Dụ ngôn dạy ta một bài học rõ ràng; do vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra (c.41), dĩ nhiên mọi dụ ngôn đều có tính cách ẩn dụ (allégorique), và áp dụng cách chính xác cho các vị thủ lãnh cộng đoàn Kitô hữu. Môn đệ coi sóc các linh hồn và Thiên Chúa thình lình đến mà thấy ông kiện toàn bổn phận của mình, thì sẽ được trọng thưởng. Kẻ nào có nhiệm vụ chăm sóc các linh hồn, mà lợi dụng quyền thế và trác táng, quên mất sự phán xét của Thiên Chúa có thể đến cách bất chợt, sẽ bị bắt quả tang và đày xuống hỏa ngục.

KẾT LUẬN

Thái độ căn bản của người Kitô hữu khi đợi Thiên Chúa đến vào giờ cuối cùng (thời cuối cùng có thể đến thình lình vào bất cứ giờ nào trong ngày hay đêm) là phải tỉnh thức và trung thành. Người mà Thiên Chúa thấy trong thái độ ấy sẽ được trọng thưởng, bằng không sẽ bị phạt. Số phận đời đời của ta đã định sẵn do quyết định của ta rồi: chúng ta là những người đày tớ biết tỉnh thức hay là những tên quản lý trung thành?

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Con tim của con người thường gắn liền với những cái họ liều lĩnh. Ai sống cho Thiên Chúa thì gắn liền với Thiên Chúa; ai từ chối nhiều sự vì Nước Thiên Chúa thì sẽ được nước ấy. Kẻ nào có kho tàng và của cải trên trời, thì con tim và mọi ước muốn đều hướng về trời. Kẻ nào tạo dựng kho tàng trên trời bằng cách bố thí, Nước Thiên Chúa sẽ ở trong cuộc đời của họ.
  2. Nghi thức cột áo của người Do thái trong lễ vượt qua (Xac 12,11), phù hợp với quan niệm Thánh kinh nói về sự cứu rỗi mà Thiên Chúa đã thực hiện: Thiên Chúa khởi xướng công cuộc cứu độ, nhưng luôn đòi con người tiếp tục, vì sự cứu độ là làm con người trở nên khác và sống điều Thiên Chúa dạy. Chúa Giêsu cũng lưu tâm đến trực giác căn bản này: Ngài bảo ban đêm cũng phải bận y phục như ban ngày, nghĩa là tươm tất, sẵn sàng hoạt động, đèn thắp sáng để thấy rõ. Bóng tối bao trùm các người khác và họ ngủ mê. Còn chúng ta là môn đệ Ngài, phải luôn tỉnh thức. Ánh sáng đã được thắp lên, chúng ta phải giữ nó để sống trong những giờ đen tối nhất của cuộc đời chúng ta.
  3. Thi hành xong sứ mệnh, Chúa Giêsu ra đi, để chúng ta sống tự do. Ngài từ chối đánh thức ta dậy, Ngài để chúng ta lãnh lấy trách nhiệm. Ngài gây niềm tin cho ta. Chúng ta không được ngã lòng, không được ngã lòng, không được đánh lừa chính mình. Vì Ngài sẽ đến, nên chúng ta phải luôn sẵn sàng mở cửa khi Ngài gõ.
  4. Dĩ nhiên việc Đức Kitô trở lại phù hợp với việc phán xét cuối cùng của chúng ta và của toàn thể nhân loại, nhưng cũng phù hợp với mỗi một giây phút của cuộc sống chúng ta, cuộc sống ấy sẽ cho thấy chúng ta trung thành hay bất tín, trưởng thành hay còn ấu trĩ đối với Thiên Chúa cũng như đối với chính mình. Thánh Phaolô mô tả ở thì hiện tại: “người ta gieo gì thì gặt nấy” (Gal 6,7), và Chúa Giêsu còn khẳng định ở chỗ khác: “Mọi cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu” (Mt 7,17-18). Khi Đức Kitô trở lại là để mỗi người chúng ta cụ thể hóa chân lý đó. Hãy hiểu rằng chúng ta không bao giờ biết giờ Ngài trở lại: chính chúng ta không được quyền xét xử chúng ta, việc tốt cũng như việc xấu (1Cor 4,3-5) và chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền phán xét. Chúng ta chỉ có thể làm việc này là trung thành vô điều kiện trong việc tỉnh thức, chu toàn những trách nhiệm của người đày tớ.
  5. Nếu Đức Kitô cho chúng ta dấn thân trong việc phục vụ Ngài, không phải là biến chúng ta trở nên những tên nô lệ. Trái lại khi đảo lộn các mưu đồ và giai cấp của chúng ta, Ngài đã trở nên người đầu tiên phục vụ chúng ta. “Tôi ở giữa các anh như là người phục dịch”(Lc 22,27). Sau khi mạc khải sự cao cả hay hạnh phúc của việc phục vụ, người ta không ngạc nhiên vào giờ Ngài trở lại, vì Ngài thật là Chúa và Chủ (Gio 13,14), Ngài thắt lưng và phục dịch chúng ta như đã làm trước khi thụ nạn (Gio 13,4-5). Đã phục vụ, đã được phục vụ và yêu nhau theo gương Ngài, chúng ta đạt tới phẩm giá và hạnh phúc của Ngài. Khoảng cách trước đây giữa chủ và đày tớ giờ đây đã xóa tan, vì chính Ngài đã quyết như thế: “Các anh là bạn hữu, nếu các anh đã làm những gì tôi đòi hỏi các anh. Tôi không gọi các anh là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ mình làm; tôi gọi các anh là bạn hữu, vì tất cả những gì tôi đã học biết nơi Cha tôi, tôi đã dạy lại cho các anh” (Gio 15,14-15). Thật là hạnh phúc cho chúng ta khi việc chúng ta phục vụ đưa đến tình bạn, và tình bạn đưa đến vâng lời, và vâng lời là mối thông giao trực tiếp với Thiên Chúa.

Về mục lục

.

MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ: “HÃY TỈNH THỨC”

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

Trên các trang mạng truyền thông, chúng ta thấy: đêm ngày 14 tháng 7 năm 2016 vừa qua, nhân lễ quốc khánh của đất nước Pháp, tại thành phố Nice đã xảy ra một cuộc khủng bố bất ngờ nhắm vào người dân vô tội. Tên khủng bố đã lái xe cách điên cuồng khi đâm vào những người đang lưu thông trên đường. Không dừng lại ở đó, hắn còn dùng súng và bắn vào đám đông, khiến cho 84 người chết và nhiều người khác bị thương, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em.

Xa hơn một chút, trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã cướp đi sinh mạng của hơn 16.000 người. Không ai biết trước nên chẳng chuẩn bị gì. Khi sóng thần ập tới, nó quét sạch mọi sự. Sau trận động đất đó, chỉ còn lại một đống đổ nát và hoang tàn.

Như vậy, sự sống, sự chết của mỗi người không ai biết trước. Cái chết nó đến với bất cứ ai, vào bất cứ lứa tuổi nào. Vì thế, nhà thơ Nguyễn Khuyến khi nghĩ về thân phận mỏng manh của kiếp người, ông đã thốt lên: “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy cho các môn đệ của mình bài học: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng” để được cứu độ.

  1. Tỉnh thức, sẵn sàng là thái độ cần của người môn đệ

Nếu Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu khiển trách nhà phú hộ giàu có là “đồ ngốc”, vì ông ta đã cảm thấy an tâm và cậy dựa vào tiền bạc thái quá mà quên đi phần hồn của mình. Bởi lẽ, ông cũng không biết sử dụng tiền bạc bất chính để mua lấy Nước Trời. Sang Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu đi xa hơn để dạy cho các môn đệ bài học “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón đợi Chúa đến trong ngày Quang Lâm.

Hãy “thắt lưng cho gọn”, là hình ảnh của những người trong tư thế sẵn sàng. Thật vậy, khi xưa, người Do Thái thường hay may áo với những tua dài, khi đi nhanh hoặc chạy, họ phải vận tua áo vào thắt lưng để cho gọn gàng, như thế, khi di chuyển mới không bị vướng. Đức Giêsu bảo các môn đệ “thắt lưng cho gọn”, là Ngài muốn dạy các ông phải trong tư thế sẵn sàng, để khi cần hành động thì được thanh thoát, nhẹ nhàng, không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc.

Hãy “thắp đèn cho sẵn”, là hình ảnh của những người trong tư thế chuẩn bị. Họ phải chuẩn bị đèn, dầu, để khi cần phải thắp sáng lúc đêm khuya là có ngay, tránh tình trạng đến nơi rồi mới đi tìm, e rằng quá trễ như 5 cô trinh nữ khờ dại.

Qua lời dạy trên, Đức Giêsu muốn nhắc cho chúng ta một sự thật, đó là: ngày Chúa đến không ai biết. Ngài đến như kẻ trộm lúc đêm khua. Ngày đó chính là ngày chết của mỗi người. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi: “hãy tỉnh thức”“hãy sẵn sàng” như người đầy tớ chuyên cần: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.

  1. Thái độ tỉnh thức của mỗi người chúng ta

Có một câu chuyện giả tưởng kể về một cuộc họp kín của hội đồng Satan, rất nhiều kế sách được đưa ra… nhưng đều bị bãi bỏ hết, chỉ có một ý kiến được tất cả hội đồng nhất trí, đó là sáng kiến của một quỷ già. Quỷ này đưa ra một chiêu thức cám dỗ con người như sau:

“Còn lâu mới chết. Cuộc sống còn dài. Vì thế, không vội gì phải gấp rút. Cứ ăn chơi thỏa thích cho bõ một đời. Đợi khi gần chết rồi ăn năn trở lại!”.

Thật thế, không ít người đã vấp phải cạm bẫy này. Họ vẫn cứ ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, trai gái… vẫn sống bất chính, tham ô, bóc lột, thờ ơ trước nỗi khổ của anh em… Họ viện vào lý do là mình còn trẻ, khỏe nên chưa thể chết được, vì thế, để đến khi về già mới hay, đâu có muộn! Thế nhưng trong thực tế đời thường, có biết bao người chết khi tuổi mới đang độ thanh xuân… Có những người chết vì thiên tai, tai nạn, bệnh tật, hay chỉ một cơn gió độc ập đến đã đủ để cướp đi sinh mạng …  Chính vì thế, phải “sẵn sàng” trong tư thế “tỉnh thức”.

Tuy nhiên, tỉnh thức ở đây không có nghĩa là không ngủ, cũng không phải là cứ ngồi ì ra đó và chờ đợi, đôi khi cũng không hẳn là đọc nhiều kinh, xem nhiều sách, hoặc chỉ giữ đạo vì luật… Nhưng tỉnh thức ở đây chính là hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái, yêu thương; là sám hối, canh tân; là sống đạo và đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng cách trung thành.  Mặt khác, khi tỉnh thức là chúng ta phải chuẩn bị để can đảm đối diện với cái chết. Nói như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Hay như câu ngạn ngữ sau: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.

Đối diện với nó để đón đợi nó. Cái chết đối với người có tinh thần chuẩn bị được ví như một cuộc hẹn của tình yêu. Khi chuẩn bị sẵn sàng như thế, ta thấy cái chết đến với mình bất cứ lúc nào, ở đâu…ta đều thấy an vui, thanh thoát vì đã chuẩn bị.

Như vậy, cái chết đối với người tỉnh thức thì chẳng khác gì một “cõi đi về” .

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho chúng con, để chúng con can đảm vượt qua những cám dỗ và chuẩn bị cho tốt ngày Chúa đến với mỗi người chúng con khi Chúa Quang Lâm. Xin cũng ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, một tinh thần sẵn sàng, để ngày Chúa đến với mỗi người chúng con như một ngày hội của tin yêu và phó thác. Amen.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC LÀ BIẾT CHIA SẺ

JM. Lam Thy

Sự chia sẻ – hay đơn giản là những suy nghĩ tích cực – khi giúp đỡ một ai đó thực sự đáng quý vô cùng. Cho thì quý hơn là nhận; thật vậy, khi chia sẻ cho người khác, bản thân người chia sẻ mới là người nhận lại nhiều điều tuyệt vời nhất. Nhân loại không thể tồn tại mà không hỗ trợ lẫn nhau; loài người sẽ diệt vong nếu con người không còn biết giúp đỡ lẫn nhau. Do đó, tất cả những người cần trợ giúp có quyền đi tìm sự giúp đỡ từ người khác; và không ai có khả năng giúp đỡ lại có thể từ chối mà không thấy lương tâm cắn rứt, trăn trở. Quả thực “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35). Đây không chỉ đơn giản là một lời khuyên đạo đức, hay một lệnh truyền đến từ bên ngoài. Khuynh hướng trao ban đã nằm sâu trong tâm thức con người: mọi người đều ước muốn tương giao với kẻ khác. Ấy cũng bởi vì “Hạnh phúc là biết chia sẻ”.

Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN XIX/TN-C – Lc 12, 32-48) Đức Giê-su dạy: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá.” (Lc 12, 33). Biết rõ tâm địa con người luôn luôn tiềm ẩn cái kho tài sản vật chất mình tạo dựng được, coi như một kho báu và lòng luôn hướng về nó để mong xây những kho lẫm kiên cố mà tàng trữ; vì thế nên Đức Ki-tô mới dạy hãy bán hết tài sản ấy đi mà làm việc thiện, một cách đầu tư mua sắm lấy một kho tàng vĩnh cửu trên trời. Khi nào cái kho lẫm tài sản trần thế đã bán đi hết thì lòng dạ con người mới thật sự không còn vương vấn tới nó nữa, mà hướng về cái kho tàng tâm linh mình đang đầu tư. Chỉ đến lúc thấu hiểu được cái kho báu vô tận là cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thì tất cả lòng dạ sẽ tập trung vào kho báu đó. Và chỉ có như thế, thì mới đem hết tâm lực ra mà chiếm hữu cho kỳ được “Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12, 34).

Cần phải ý thức được kho tàng không bao giờ hư nát ấy tất nhiên không phải là những thứ đang trông thấy nhãn tiền, những thứ “sớm nở tối tàn” (phù dung), những thứ sống nhờ, sống gửi (phù sinh, phù thế), kể cả cuộc sống cũng chỉ là “bức tranh vân cẩu”. Vâng, “tất cả chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát” (Gv 2, 11). Nói khác hơn, cuộc sống trần gian dù có vàng bạc châu báu đầy kho thì cũng chỉ là tạm bợ, chóng qua, và cho đến lúc “trở về với cát bụi” thì những thứ đó cũng trở thành vô nghĩa (“Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, Chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì” – ca dao VN). Vì thế, mới có quan niệm coi cuộc đời trần thế là cõi phù sinh, cõi tạm và con người sống trên trần thế chỉ là những khách lữ hành, khách qua đường mà thôi. Sống chỉ là sống tạm, sống gửi, chết rồi mới thực sự trở về sự sống thật (“sống gửi thác về”).

Thời Cựu Ước, các tổ phụ đã tự coi mình là lữ khách, là ngoại kiều nơi trần thế, để luôn ở trong tư thế tỉnh thức và sẵn sàng hướng về, tiến về quê hương đích thực (“Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời.” – Dt 11, 13-16). Mà muốn đạt được cái mong ước tìm thấy quê hương đích thực thì cần phải tỉnh thức và sẵn sàng, luôn “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” như người đầy tớ chờ ông chủ đi ăn cưới về (Lc 12, 35).

Như vậy, sẵn sàng làm theo ý chủ thì phải như ông A-ben, ông Kha-nốc, ông Nô-ê đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, biết dâng lên Thiên Chúa những hy lễ cao qúy; đặc biệt nhất là tổ phụ Áp-ra-ham đã dám hiến tế chính con một của mình là I-xa-ác (Dt 11, 3-17). Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Tỉnh thức không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay chờ chủ về, mà là phải sẵn sàng tích cực làm việc. Thắt lưng vào, thắp đèn lên để làm việc, để phục vụ không bao giờ ngưng nghỉ. Và khi trở về, thấy đầy tớ đã hiểu ý chủ mà làm việc hết mình, thì Ông Chủ sẽ thắt lưng, đưa đầy tớ vào bàn ăn và đến bên phục vụ từng người (Lc 12, 37). Ông chủ mà lại phục vụ đầy tớ ư? Chuyện thật khó tin nhưng đã thật sự xảy ra khi Con Người phục vụ và hiến dâng cả mạng sống làm giá chuộc muôn người.

Tóm lại, biết được ý chủ thì phải làm theo ý chủ, mà ý chủ ở đây là muốn các đầy tớ đều sẽ trở nên những quản gia trung tín và khôn ngoan, biết quản lý tài sản, biết sử dụng tiền của, ý thức sâu sắc sự “cho đi tức là nhận về” (“bán tài sản đi mà bố thí”). Người quản gia phải là người một lòng một dạ tin tưởng vào Ông Chủ. Vâng, có tin mới hy vọng. Một cách rất trần tục: Có tin khi trúng số độc đắc sẽ có được cuộc sống dư dả về vật chất, thì mới bỏ tiền mua vé số để hy vọng mình sẽ trúng độc đắc. Dám bỏ tiền ra mua một cái hy vọng ảo, thế thì tại sao lại không bỏ hết tâm lực ra để hy vọng đạt được phần thưởng đích thực nơi Thiên Quốc? Chỉ lo tích trữ kho tàng vật chất, tại sao không biết tích trữ kho tàng tinh thần mà đầu tư vào ngân hàng Nước Trời?

Vâng, “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt 6, 19-20), muốn được vậy thì “anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ!” (Mt 25, 27). Nói thì đơn giản, nhưng chỉ đến khi “bán tài sản” đã tich trữ được nơi trần thế để “gởi số bạc đó vào ngân hàng” bằng cách bố thí, mới thấy là khó khăn. Phải chăng đó chính là những thử thách nhằm tinh luyện đức tin của những người dám bán của cải phù vân mà gừi vào ngân hàng “không lo mối mọt, cũng chẳng có trộm cắp”? Thật thế, “đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1Pr 1, 7).

Ôi! Lạy Chúa! Con luôn miệng lặp đi lặp lại lời nhắc nhở “của cải chỉ là phù vân”, nhưng khốn nỗi trong lòng con vẫn không tin, bởi những của cải ấy sờ sờ trước mắt, có thể cầm nắm, tích trữ được, trong khi những của cải Nước Trời thì lại không nhìn thấy và đòi hỏi phải có một đức tin vững vàng mới có thể chiếm hữu được. Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng cho con biết được đâu là “kho tàng không thể hao hụt” để con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng dốc hết sức mình ra chiếm hữu cho kỳ được. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ANH EM CŨNG VẬY, HÃY SẴN SÀNG

  Fx Đỗ Công Minh

       “Hỡi đòan chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em “. Những lời ấy của Đức Kitô hẳn đã làm cho con cảm thấy được tràn trề niềm hy vọng. Đòan chiên bé nhỏ ngày xưa của Đức Kitô, những người theo Chúa, trong đó có nhóm mười hai. Đúng vậy, những người theo Chúa ngày xưa cũng như chúng con đây hôm nay tại Việt Nam, so với số đông những người chưa tin, quả thật là bé nhỏ. Chính vì sự bé nhỏ ấy mà Thiên Chúa hứa ban cho được hạnh phúc với Trời. Thế nhưng điều kiện để đón nhận Nước ấy quả không phải là nhỏ. Chúa Giêsu mong muốn con cái Người phải biết tích lũy của cải trên nước trời. “Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá “. Người cũng mong muốn những người theo Chúa :”Hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay “.

       Theo truyền thống của người Do Thái, đám cưới cử hành vào ban đêm. Chú rể đón dâu và mở tiệc ăn mừng vào một giờ giấc không báo trước, chính vì thế những người dự tiệc cưới cũng không biết giờ nào sẽ ăn tiệc xong để trở lại nhà mình. Phần chúng con là những người đang chờ mong được vào Nước Chúa, con cũng không thể nào biết được giờ nào, Chúa đến đón con. Chính vì thế, Lời Chúa nhắc con phải luôn sẵn sàng, luôn tỉnh thức là một phương thế giúp con vào Nước Người.

    Chúa mong muốn chúng con không những sẵn sàng đón Chúa, mà còn phải sống tỉnh thức giữa cuộc đời trần gian này. Tỉnh thức, đó là không sa vào những đam mê lợi lộc, của cải trần thế, mà quên đi hạnh phúc nước Trời. Tỉnh thức là không chỉ biết sống cho riêng mình mà quên đi những người sống bên mình. Tỉnh thức là biết nhận ra của cải có được nơi trần gian này không phải là thứ có thể đem lại hạnh phúc vĩnh cửu, mà chỉ có những của cải gửi vào kho lẫm nước Trời, nơi đó không hề mất mới là đảm bảo cho cuộc sống đời đời.

     Lạy Chúa,

     Những điều ấy con đã được nghe biết  từ giáo huấn của Hội Thánh, qua các lớp học Giáo lý, Thánh kinh và trực tiếp qua Lời Chúa để lại, qua các bản văn Tin Mừng. Nhưng sẵn sàng thế nào? tỉnh thức ra sao? là điều con cần được Chúa giúp con. Con làm sao sẵn sàng được nếu bên mình vẫn trĩu nặng đam mê vật chất, mơ tưởng quyền lực, danh vọng, giàu sang phú quý để tận hưởng phủ phê cuộc sống trần thế cho bản thân. Tỉnh thức thế nào nếu suốt cuộc đời con chỉ ngủ vùi bên lạc thú, ích kỷ; chỉ biết vun vào cho con mà thờ ơ với  biết bao người đang cần đến con. Vô cảm với những hòan cảnh éo le, khốn khổ trong đời sống  anh chị em con.

    Xin Chúa giúp con luôn biết sẵn sàng, biết tỉnh thức bằng cách thực hành Lời Chúa dạy, đó là biết dọn sẵn cho mình kho tàng trên trời, bằng những việc lành phúc đức mỗi ngày trong cuộc đời con. Biết làm giàu trước mặt Chúa, đó là kết hiệp mật thiết với Chúa qua Bí tích Thánh Thể, biết đón nhận Lời Chúa là Lời hằng sống, Lời Chúa là ánh sáng chiếu soi trong cuộc đời, Lời Chúa là ánh sáng dẫn con đi vào đời, con hân hoan bước đi bình an. Khi ấy, của cải con ở trên trời, thì lòng con cũng luôn hướng về Trời, nơi đó chính là NƯỚC của Cha, Người đã hứa ban cho con . AMEN.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Lm. Gioan M. Nguyn Thiên Khi

Thưa anh chị em,

Các bài đọc lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta một chân lý ” Sinh ký tử quy, sống gửi thác về”. Cuộc sống của con người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, về một chân trời xa lạ, đây là cuộc hành trình không bao giờ trở lại. Một cuộc hành trình đơn độc, chẳng ai đi cùng. Cuộc hành trình có một không hai của mỗi người chúng ta. Chính vì thế nên  Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta là phải luôn sẵn sàng cho cuộc hành trình này.

 Sẵn sàng như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ. Sẵn sàng như chủ nhà canh chừng trộm cướp, không để kẻ trộm vào nhà mình. Sẵn sàng như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.

Ba dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay tuy riêng rẽ, nhưng qui tóm lại cùng một chủ đề là: “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”.

Thế thì, thế nào là tỉnh thức và sẵn sàng?

Thứ nhất, tỉnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ của ba thù. Đó là: ma quỉ – xác thịt – thế gian. Kẻ thù đáng sợ nhất là ma quỉ.

Đức Giêsu nói: Ma quỷ là cha của sự dối trá. Nó đánh lừa rất tinh vi, làm chúng ta ươn lười, biếng nhác trong việc đạo đức, và nghĩ rằng mình còn trẻ, còn khỏe còn lâu mới chết, cho nên cứ từ từ lo gì việc đạo đức, nhưng trong thực tế, cái chết không phân biệt tuổi tác giàu nghèo.

Tỉnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ thứ 2, đó là xác thịt, xác thịt nó gắn liền với con người như người bạn đồng hành. Người ta nói nhu cầu xác thịt còn lớn hơn nhu cầu ăn uống. Chính vì thú vui xác thịt mà ngày nay người ta ngoại tình tràn lan, bất chấp luân thường đạo lý,  hậu quả là biết bao thai nhi đã bị sát hại không thương tiếc.

Tỉnh thức đừng để rơi vào cơn cám dỗ thứ 3, đó là thế gian. Thế gian ngày nay đầy dẫy những quyến rũ, cám dỗ lôi kéo con người hướng chiều về điều xấu. Những phương tiện truyền thông đa dạng, những thú vui hưởng thụ rất ư hấp dẫn lôi kéo làm chúng ta xa Chúa, làm chúng ta quên đi phần rỗi linh hồn của mình.

Thứ hai, Chúa bảo hãy thắt dây lưng cho gọn. Thắt dây lưng là cách ăn mặc của người Do Thái thời xưa. Y phục của họ là chiếc áo chùng vừa dài vừa rộng. Để khỏi vướng víu khi đi lại hay khi làm việc, họ thường xắn lên và thắt gọn lại bằng sợi dây nịt ngang hông.

 Ý Chúa muốn nói là phải loại bỏ tất cả những gì không phù hợp với thánh ý Chúa, như các đam mê xấu, tiền bạc, danh vọng… những thứ đó dễ làm chúng ta quên đi thiên đàng là nơi Chúa đã dành sẵn cho chúng ta mai sau.

Thứ ba, Chúa bảo hãy cầm đèn cháy sáng trong tay. Ngọn đèn tượng trưng cho đức tin. Đức tin cần phải thắp sáng lên từ con tim yêu mến Chúa nồng nàn. Đức tin cần phải thắp sáng lên ngọn lửa yêu thương. Và đức tin cần phải thắp sáng lên niềm tin Giêsu. Vì đời hạnh phúc khi sống là trao ban, đem tình Chúa chiếu sáng thế gian, để cho thiên hạ trông thấy mà ngợi khen Cha trên trời.

Anh chị em thân mến,

Có ngày sinh rồi cũng có ngày tử, đó là quy luật tất yếu của kiếp nhân sinh, thế nhưng, chúng ta không biết chết lúc nào và chết ở đâu. Vì giờ đó hết sức bất ngờ đúng như lời Chúa nói: “Vào lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến”(Lc 12, 40).

Dẫu biết rằng như thế, nhưng phần đông chúng ta ung dung tự tại nghĩ rằng: đời còn dài, tương lai còn rộng, mình còn trẻ, còn khoẻ còn lâu mới chết. Cứ ăn chơi hưởng thụ tối đa, đợi khi về già hay đau bệnh thì tính sau.

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy tục hóa, với biết bao mời mọc cám dỗ. Những hấp dẫn trần gian thì sờ sờ trước mắt, còn hạnh phúc thiên đàng sao quá xa vời. Thiên Chúa thì vô hình, mắt phàm trần không thể thấy, mà phần thưởng Chúa hứa lại ở đời sau. Còn những thứ trên trần gian thì mắt thấy, tai nghe, đầy hấp dẫn và lôi cuốn. Cho nên, phải khôn ngoan lắm mới chọn Chúa làm gia nghiệp. Phải can đảm lắm mới khao khát tìm kiếm những sự trên trời.

Mỗi khi cử hành Thánh lễ là chúng ta tuyên xưng việc Chúa chịu chết, sống lại và lên trời, đồng thời trông đợi Ngài lại đến lần thứ hai. Xin cho niềm khát khao quê hương Nước trời sẽ là động lực duy nhất, thúc đẩy chúng ta luôn tỉnh thức sẵn sàng, hi vọng khi nhắm mắt lìa đời chúng ta sẽ nghe những lời âu yếm mời gọi của Chúa: ” Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh tất Quý

Anh chị em thân mến!

Sống ở trên đời, mỗi người chúng ta chỉ là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội hoạ, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngôn ngữ Trịnh công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.

Con chim ở trọ cành tre,

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…

Môi xinh ở trọ người xinh,

Duyên dáng ở trọ đôi chân Thúy Kiều…

Tôi nay ở trọ trần gian

Mai sau về chốn xa xăm với Người.

Một Thiền sư nổi tiếng nọ đến trước cửa lâu đài của ông vua giầu có. Không người lính gác nào dám chặn ông lại. Ông chậm rãi bước vào và tiến thẳng đến ngai vàng chỗ nhà vua đang ngự.

 Vua nhận ra vị khách quí ngay lập tức và nhà vua hỏi:

–  Ngài cần gì chăng?

– Tôi cần một chỗ ngủ trong quán trọ này – vị Thiền sư trả lời:

– Nhưng đây đâu phải là quán trọ – nhà vua nói. Đây là lâu đài của ta.

– Vậy tôi có thể xin ngài cho tôi biết ai là chủ của tòa lâu đài này trước Ngài không?

– Cha ta. Ông ấy đã chết rồi.

– Và ai là chủ trước cha ngài?

– Ông nội ta. Ông ấy cũng đã chết.

– Như vậy là nơi đây đã có những người đã sống trong một thời gian ngắn và sau đó đã ra đi. Có phải Ngài đã nói với tôi là nó KHÔNG phải là một quán trọ không?

Sau đó vị Thiền sư thong thả giải thích cho nhà vua…. nói rồi ông điềm tĩnh ra đi.

Như vậy thực chất cuộc đời cuả mỗi người chúng ta trên trần gian là gì? Thưa chỉ là một người quản lý.

Là người quản lý ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.

* Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.

Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.

Là quản lý trung tín, ta không được phản bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Không được dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Không được dùng tài năng để phục vụ lợi nhuận riêng mình. Không được dùng trí thông minh để gieo rắc nọc độc tư tưởng. Không được biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng phải dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.

* Là quản lý khôn ngoan, ta phải biết nhìn xa.

Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra – đóng vào được.

Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng :

– Ngài chế ra cái này dùng để làm gì ?

Nhà sư trả lời :

– Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.

Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống. Họ lo thu tích cho có nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết. (TP)

Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông minh chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Ðức Giê-su đã dậy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Ðể sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời”. Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá”. Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Ðể gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú.

* Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời ở trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Ðợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Ðợi chờ là phải tích cực làm việc.

La Fontaine kể chuyện ngụ ngôn sau :

Một cụ già cuốc đất trồng cây. Chợt ba chàng thanh niên đi qua, các cậu nói :

– Cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn trồng cây…Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa.

Ông cụ trả lời :

– Chắc gì lão chết trước, chắc gì các cậu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rầy có phân biệt già trẻ đâu. Trẻ với già có khác chi nhau về phương diện đó.

Thời gian sau, ba cậu vì công việc, đi lính, kinh doanh…đều chết cả, hoặc vì ngộ nạn, hoặc vì chết trận…

Cụ già được tin buồn, khóc thương ba trẻ.

Câu cửa miệng người đời vẫn nói: tre già, măng mọc, nhưng cũng nhiều khi tre già khóc măng non.

Lá vàng đeo đẳng trên cây

Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời ?

Trời hay, Trời biết hết chứ. Nhưng có điều cho xảy ra như vậy để con người không ai biết giờ mình chết. Có như thế con người mới lo tỉnh thức.

Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi “Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì ?” Vị tu sĩ trả lời “Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong”.

Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

HÃY TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG.

Lm Giuse Đinh lp Lim

A. DẪN NHẬP. 

          “Tỉnh thức” là hệ luận cần rút ra khi được Lời Chúa tuần trước dạy rằng mọi sự ở trần gian này đều là phù vân, tạm bợ, chỉ là những phương tiện để con người kiến tạo cho mình cuộc sống đời đời.  Ai cũng phải công nhận, cuộc sống của con người thật bấp bênh. Nhiều thi sĩ Việt nam đã diễn tả tư tưởng ấy trong thơ văn, như “Ôâi nhân sinh là thế ấy ! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Nguyễn Khuyến).  Cho nên Lời Chúa hôm nay thúc bách chúng ta đừng coi thường chân lý nền tảng này : “Hãy tỉnh thức ! Hãy sẵn sàng”.

          Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca đã thu góp lại một số dụ ngôn của Đức Giêsu nói về việc phải “Tỉnh thức”. Đức Giêsu lòan báo cho các môn đệ biết : Ngài sẽ trở lại trong ngày Quang lâm. Hãy chờ đợi ngày đó. Đồng thời Ngài cũng sẽ đến với từng người khi gọi họ ra đi khỏi đời này, và ngày đó còn được giữ bí mật, nhưng chắc chắn phải đến. Ngày con người phải ra đi khỏi đời này là một bất ngờ như việc kẻ trộm đến lúc chủ nhà đang ngủ say. Ai cũng phải chịu nhận sự bất ngờ ấy, vì như người ta thường nói :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.

          Đáp lại lời Chúa gọi trong Tin mừng hôm nay, mỗi người chúng ta phải có thái độ nào ? Chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày sau hết của đời mình vào một thời gian nào không ai biết, nhưng có một điều quan trọng là chúng ta phảiû “thắt lưng và cầm đèn cháy sáng trong tay” khi Chúa đến. Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây phải có tính cách tích cực, nghĩa là  không phải cứ ngồi đấy mà chờ hay không ngủ, hoặc ăn không ngồi rồi, nhưng tỉnh thức ở đây là tư thế của một người đang làm việc với ý thức rằng mình đang đợi Chúa đến. Phúc cho chúng ta, nếu Chúa đến trong lúc chúng ta đang làm việc thì Chúa sẽ thưởng công bội hậu như ông chủ đặt đứa đầy tớ trung thành vào bàn ăn và hầu hạ nó.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 

          +  Bài đọc 1 : Kn 18, 6-9.

          Sách Khôn ngoan được viết vào thế kỷ I trước công nguyên. Có lẽ tác giả viết sách này trong lúc dân Do thái ở bên Ai cập đang cử hành lễ Vượt Qua trong cảnh lưu đầy. Theo yêu cầu của những người Do thái di tản (diaspora), tác giả nhắc lại cho họ một biến cố vĩ đại, đó là việc Thiên Chúa giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai cập và chọn họ làm dân riêng. Đây là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người Do thái.

          Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.

          +  Bài đọc 2 : Dt 11,1-2. 8-9.

          Đức tin chính là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng”, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Đức tin của tổ phụ Abraham là gương mẫu cho chúng ta. Tin là đi trong đêm tối nhưng đầy tin cậy và kiên nhẫn trong chờ đợi.

          Do lòng tin vào lời Chúa hứa mà tổ phụ Abraham đã rời bỏ quê hương xứ sở, ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu. Đã có Chúa dẫn dắt. Và cũng do lòng tin, Abraham đã dám tế lễ con mình cho Chúa trong tuổi già của mình mà không nghĩ gì đến lời hứa của Chúa sẽ thực hiện ra sao .

          +  Bài Tin mừng : Lc 12,32-48.

          Thánh Luca tập hợp ở đây một loạt những yếu tố có gốc gác khác nhau, nhưng chủ đề cũng chỉ là tỉnh thức và sẵn sàng. Ta chú ý đến hai dụ ngôn chính :

a) Dụ ngôn người đầy tớ: Công việc của người đầy tớ là phải sẵn sàng chờ ông chủ đi ăn cưới về, đó là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn” vì không biết giờ nào chủ mới về. Tư thế đó đòi người đầy tớ khi vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ báo hiệu ông chủ về thì phải mau mắn phục vụ ngay. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.

b) Dụ ngôn người quản lý: Thánh Luca muốn dùng từ “Người quản lý” để chỉ những người lãnh đạo. Những người được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đòan phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi Chúa đến, những người đang phục vụ tốt sẽ được trọng thưởng; trái lại, những người lãnh đạo lơ là và biếng nhác trong việc phục vụ sẽ bị trừng phạt. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính của dụ ngôn này là trung thành trong nhiệm vụ được giao phó.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. ĐIỀU CHÚA MUỐN DẠY HÔM NAY.

  1. Phải biết sống siêu thóat.

          Đức Giêsu gọi nhóm Mười Hai là “đoàn chiên bé nhỏ” bởi vì các ông chỉ là số ít, lại không có địa vị trong xã hội và sống khó nghèo, như đàn chiên giữa sói rừng, đang khi những kẻ chống đối vừa đông lại vừa mạnh. Đức Giêsu có ý động viện họ can đảm trước những khó khăn đang chờ trước mặt, nên Chúa mới gọi họ bằng một từ ngữ thân thương “Đoàn chiên bé nhỏ”.

          Nhân dịp này, Đức Giêsu còn nhắc đến ý tưởng của Chúa nhật tuần trước : Muốn làm môn đệ phải sống siêu thoát, biết chia sẻ cho người khác. Chúa động viên các ông khi đang tích trữ làm giầu vật chất, phải biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa nữa. Hãy sắm cho mình một kho tàng trên trời được tích trữ bằng những việc lành, bằng cách bố thí những gì mình có.

Truyện : Cái lợi của tiền bạc.

          Một người có ba người bạn. Lúc bình an thì hai người bạn đầu rất là thân thiết, còn người bạn thứ ba  thì giao tình sơ sài lạnh nhạt. Chẳng may, ông ta bị bắt và bị đem ra tòa xử tội. Ôâng liền xin ba người bạn đi theo để biện hộ cho mình. Nhưng người thứ nhất từ chối viện cớ bận việc không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến tòa án, nhưng không dám vào trong. Chỉ có người bạn thứ ba, mặc dầu không được ông ta quí lắm, lại tỏ ra trung tín và can đảm, vào tận tòa án, hăng hái biện hộ cho ông ta đến nỗi không những trắng án mà còn được ân thưởng nữa.

          Câu chuyện giúp chúng ta nhận ra rằng : người bạn thứ nhất của con người là tiền vì lúc còn sống ai cũng o bế nó, nhưng khi ta chết, nó liền bỏ rơi ta ngay và nếu nó có thương hại ta thì cũng chỉ buộc lòng  bố thí cho ta một chiếc quan tài và dăm ba cây nến, bó hoa là cùng. Còn người bạn thứ hai của con người chính là người thân trong gia đình vì khi chết đi  dù họ có thương ta bao nhiêu đi nữa thì cũng khóc lóc đôi ba lần, rồi đưa ta ra nghĩa địa chôn cất xong xuôi và lặng lẽ ra về. Riêng người bạn thứ ba của con người là các việc lành phúc đức, bố thí, vì tuy rằng lúc còn sống ta hay lơ là, khinh thường nó, đôi khi ta mắng xử tệ với nó, nhưng khi ta chết nó cương quyết theo ta đến tận tòa phán xét để bênh vực, và cuối cùng hộ tống ta vào nước thiên đàng .

          Theo như câu chuyện trên H. Cousin bình luận :”Cho người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ), chính là làm giầu trước mặt Chúa, là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời đời. Tuy nhiên, đó không phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biến cố Nước Chúa đến phải động viên các Kitô hữu và giúp họ dấn thân với tất cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất”. 

  1. Phải biết tỉnh thức.

          Để diễn tả sự gắn bó với Nước Trời, Đức Giêsu đã lần lượt dùng những dụ ngôn diễn tả bằng sự tỉnh thức dọn mình chết lành. Về hai dụ ngôn này, Mathhêu chỉ kể lại dụ ngôn “Ông chủ tỉnh thức” (Mt 24,43-44), Marcô chỉ lấy dụ ngôn “Đầy tớ tỉnh thức (Mc 13,33-35), còn ở đây Luca kể cả hai. Kiểu nói “Hãy thắt lưng, Hãy cầm đèn trong tay” được dùng để diễn tả tư thế đang làm việc, đang tỉnh thức. Ở đây diễn tả hành vi sẵn sàng, trong tư thế dọn mình để chờ đợi Chúa đến trong giờ chết.

          Dụ ngôn kẻ trộm cũng diễn tả yếu tố bất ngờ,  kẻ trộm chỉ có thể hành động được khi chủ nhà ngủ say, không đề phòng. Giờ chết đến cũng bất ngờ như kẻ trộm, cho nên hãy đề phòng, hãy tỉnh thức.

          Vậy tỉnh thức là gì ? 

          Tỉnh thức và sẵn sàng có thể hóan đổi cho nhau : Tỉnh thức là đang ở trong tư thế sẵn sàng và sẵn sàng cũng là lúc đang tỉnh thức, đó là lúc con người đang chuẩn bị trong mọi lúc. Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại.

          Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại ngủ mê trong những đòi hỏi của Tin mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối đời mình.

          Hay nói cách khác, tỉnh thức của chúng ta  là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực  mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin mừng hôm nay.

  1. Phải biết trung thành.

          Trong huấn dụ về sự tỉnh thức, Chúa đã dạy chúng ta trong Tin mừng :”Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, hãy làm như người đợi ông chủ đi ăn cưới về, để khi chủ gõ cửa thì mở ngay cho chủ”. Nhiệm vụ của người đầy tớ  phải đứng chờ ông chủ về là nhiệm vụ chính yếu, người đầy tớ phải hết sức cẩn thận, không được lơ là trong một giây phút. Do đó, Chúa cũng dạy chúng ta phải trung thành trong những việc đã được trao phó, việc lớn hay việc nhỏ không quan trọng, việc quan trọng là làm tròn trách nhiệm trong ý thức, làm nhiệt tình và thực lòng chứ không vì miễn cưỡng. Việc ông chủ có hiện diện ở đấy hay không cũng không quan trọng mà cái quan trọng là lúc nào cũng làm việc một cách đầy đủ như ông chủ đang có mặt.

Truyện : Vườn hoa xinh đẹp.

          Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ mầu sắc. Nằm giữa vườn là một vườn hoa tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp mầu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.

          Du khách hỏi :

          – Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi ?

          – Khoảng 40 năm rồi.

          – Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà ?

          – Ông ta không có ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi.

          – Ông có thư từ gì với cụ không ?

          – Không, ông ta bận lắm.

          – Ông ta không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ ?

          – Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta  để chi phí mọi sự cho khu vườn này.

          – Thế tội gì ông phải săn sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu ?

        – Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp  do chính tay mình làm nên.

II. ĐÁP LẠI LỜI CHÚA DẠY. 

  1. Hãy dọn mình chết lành.

          Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu : Hãy chuẩn bị lòng mình cho một người đang đến. Thiên Chúa đang đến. Đức Giêsu đã loan báo Ngài sẽ trở lại trong ngày sau hết, trong ngày Quang lâm : Maranatha : Xin Chúa hãy đến. Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được coi như cuộc gặp gỡ “mặt đối mặt” với Đấng Chí Ái.

          Sự sống con người thật bấp bênh, có thể kết thúc bất cứ lúc nào. Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chỉ dẫn cho hành khách  phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta cũng chưa dám chắc là sẽ an toàn 100%, do đó, phải chuẩn bị đối phó với việc bất ngờ.

          Chẳng ai biết Chúa hẹn mình đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có ảo tưởng hết sức nguy hiểm này  là mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn “ngày mai” để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng “ngày mai” ấy không bao giờ đến. Người ta có ai ngờ rằng với hai quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki bên Nhật hồi tháng 8 năm 1945 đã tiêu diệt một lúc 147.000 nhân mạng trong giây lát ?

Truyện : Thiệt hại trong thế chiến II.

          Theo đài phát thanh Tòa thánh ngày 1.9.1951 dựa vào bản thống kê của Liên hiệp quốc trong đệ nhị thế chiến, số người chết như sau :

          – 32 triệu người chết trong các mặt trận.

          – 25 triệu người chết trong các trại giam.

          – 15 đến 25 triệu thanh thiếu niên, người già trẻ nít chết vì bom đạn.

          – 25 triệu người mất hết tài sản.

          – 45 triệu người phải di tản hoặc lánh nạn hoặc đi đầy.

          Tất cả những người chết đó có tưởng mình sẽ chết không ? Nếu tài sản chúng ta mất quá dễ dàng như vậy thì hãy tìm bám vào  những cái bền vững hơn.

          Không ai muốn chết, ai cũng muốn sống mãi, nhưng thực tế không cho phép. Kẻ trước người sau mỗi người sẽ phải ra đi khỏi cõi đời này như kinh nghiệm của Văn Thiên Trường ngày xưa đã nói :”Nhân sinh tự cổ thùy vô tửlưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”: con người từ xưa đến nay ai mà không chết, phải cố mà giữ lấy tấm lòng thanh.

          Ngày xưa, có một người pha trò trong cung đình. Trong nhiều năm liền đã giúp việc mua vui cho nhà vua và triều đình. Nhưng rồi ông đã phạm phải  một hành động thiếu suy xét và bị kết tội chết. Trước khi bản án được thi hành, nhà vua gọi ông ta đến và nói :”Vì nhiều lần ngươi đã đem lại cho trẫm những giờ phút vui vẻ trong bao năm qua, nên trẫm sẽ ban cho ngươi được chọn cách mà ngươi phải chết”.

          Người pha trò suy nghĩ một lúc rồi đáp :”Thưa Hoàng thượng, ngài thật là chí lý, kẻ tôi tớ này xin chọn cách chết bởi tuổi già”

          Nhà vua thấy rất vui vì lời đáp ấy đến nỗi ngài đã chiếu cố đến lời cầu xin của ông ta.

          Phần lớn chúng ta đều muốn chọn lựa như thế. Nhưng chúng ta không biết  liệu chúng ta có được hay không.

  1. Phải tỉnh thức thế nào ? 

          Thái độ cơ bản của người Kitô hữu là tỉnh thức. Người Kitô hữu phải tỉnh thức vì biết rằng mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đọan hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.

          Tỉnh thức là tình trạng đang luôn luôn  làm nhiệm vụ. Thi sĩ Tagore nói :”Tôi nằm ngủ và mơ thấy đời sống là một niềm vui. Tôi thức dậy và tôi thấy đời là bổn phận. Tôi hành động và tôi thấy bổn phận là niềm vui”. 

          Khi ông Dag Hammarskjold bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của chức vụ Tổng thư ký Liên hiệp quốc, ông đã đọc một bài diễn văn cảm tạ. Trong bài diễn văn ấy, ông trích dẫn câu thơ của một thi sĩ Thụy điển:”Phải chăng sẽ đến ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn phiền sẽ nhỏ”. Và ông nói thêm câu trả lời của riêng ông :”Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với một bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy niềm vui sẽ lớn và chúng ta có thể coi  sự buồn phiền là chuyện nhỏ”.

          Chúng ta không biết và không đoán được giờ chết của chúng ta vì giờ chết được giấu kín. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng không phải là chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta có cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai họa mới nhận ra  bản chất bấp bênh của đời sống con người.

          Tỉnh thức là biết sống mọi giây phút hiện tại cho đầy đủ, đừng để phí đi một giây phút nào qua đi trong vô ích vì thời giờ là cái vốn mà Chúa ban cho chúng ta  để làm sinh sôi nảy nở ra các việc lành phúc đức. Một tác giả nào đó đã cho chúng ta những lời khuyên chân thành và thực tế về giá trị của những giây phút hiện tại trong cuộc sống trần gian như sau :

 Để nhận ra giá trị của một năm : Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm.

Để nhận ra giá trị của một tháng : Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.

Để nhận ra giá trị của một tuần : Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo.

Để nhận ra giá trị của một ngày :  Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con.

Để nhận ra giá trị của một giờ :  Hãy hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau.

Để nhận ra giá trị của một phút : Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe lửa, hay xe búyt.

Để nhận giá trị của một giây : Hãy hỏi người vừa thóat khỏi tai nạn.

Để nhận ra giá trị của một sao : Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.

Và sau cùng để nhận ra giá trị của một đời người : Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn (Nguyễn văn Thái).

  1. Đã chuẩn bị sẵn sàng chưa ?

          Đại tướng Marc Arthur sau đệ nhị thế chiếân, với tư cách của một tướng lãnh già dặn kinh nghiệm trong binh pháp, có nói :”Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể tóm gọn trong hai chữ :”Quá muộn”. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.

Có lẽ vị tướng này đã từng nghiền ngẫm câu nói của một danh tướng thời La mã xưa để làm cẩm nang cho việc điều hành chiến tranh :”Si vis pacem, para belluu” : Nếu muốn được bình yên, phải chuẩn bị chiến tranh.

Và thời xưa người Trung quốc cũng đã từng có tư tưởng như vậy :Bình thời luyện vũ, lọan thế độc thư” : Thời bình thì phải lo luyện võ, thời lọan thì phải lo đọc sách.  Nói như vậy là người ta khuyến cáo họ, lúc bình yên thì đừng ngồi không đấy mà hưởng thụ, mà phải luyện võ, phải chuẩn bị chiến tranh, để khi chiến tranh xẩy đến thì đã sẵn sàng, đã chuẩn bị  để đối đầu với mọi tình huống bất trắc có thể xẩy ra.

          Đối với giờ chết cũng vậy, đang lúc sống thì phải nghĩ đến lúc chết để đề phòng. Nếu ai đã từng chuẩn bị cho giờ chết thì họ sẽ bình tĩnh trong giờ chết, họ bình tĩnh chờ đợi cho giờ ấy xẩy đến vì họ coi mình như nắm chắc được phần rỗi, vì người ta đã khẳng định rằng :”Sống sao chết vậy”.

          Nhưng chúng ta hay có ảo tưởng rằng giờ chết còn xa, chưa cần phải chuẩn bị gấp, họ chưa hiểu được câu ngạn ngữ dân gian :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì thế họ cứ từ từ, chờ đến tuổi già mớùi chuẩn bị. Nhưng ai biết được chữ “ngờ”, ai ngờ được kẻ trộm đến lúc mình không tỉnh thức.

          Một nhà văn hào kể một câu truyện giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến của các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này : Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã !

          Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng ở chỗ là chúng ta đang sống thế nào ? Đang tỉnh thức hay ngủ mê ? Có biết chu tòan nhiệm vụ được trao phó không ?

Truyện : Cứ tiếp tục họp

          Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến.  Nhưng ông chủ tịch nói :”Không biết hôm nay có phải là tận thế không : nếu không thì không cần hoãn họp.  Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu tòan nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).

          Ai cũng muốn chết trong sự bình an. Chớ gì những giây phút cuối cùng chuẩn bị đi vào đời sau, ta cảm thấy Chúa ở gần như người mẹ ấp ủ con. Lúc đó ta thưa với Chúa rằng :”In manus tuas , Domine, commendo spritum meum” : Lạy Chúa, con xin phó dâng hồn con trong tay Chúa. Chớ gì tâm hồn ta được bình an, thảnh thơi như đứa con nằm trong tay mẹ hiền để say trong giấc ngủ ngon lành.

          Một bà mẹ kể : tối đó, khi tôi đang dọn giường cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ :”Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé”! Nghĩ đến bao việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình. Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện :”Lạy Chúa, xin giúp con sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể âu yếm nói với Cha trên trời :”Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé” !

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 19 TN_C

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX Thường Niên năm C mời gọi mỗi người chúng ta trung tín với niềm tin, trung tín với niềm hy vọng, trung tín với sự phục vụ.

Kn 18: 6-9

Tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên đêm giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, đó là đêm dân Do thái, trung tín với tôn giáo tổ tiên mình, cử hành lễ Vượt Qua. Nhờ lòng tin, họ được vào Đất Hứa.

Dt 11: 1-2, 8-19

Thư gửi cho các tín hữu Do thái nhắc lại những mẫu gương đức tin của các thánh nhân thời Cựu Ước: họ đã xác tín rằng những lời hứa Thiên Chúa ban có liên quan đến những thực tại tinh thần và đã cảm thấy mình là những lữ khách trên đường về Thiên Quốc.

Lc 12: 32-48

Tin Mừng Lu-ca cho người tín hữu bí quyết gia nhập Nước Trời: trung tín phụng sự Thiên Chúa cho đến cùng. Những tôi trung sẽ được dự phần vào Bàn Tiệc cánh chung, ở đó Thiên Chúa sẽ đích thân phục vụ họ.

BÀI ĐỌC I (Kn 18: 6-9)

Sách Khôn Ngoan là sách muộn thời nhất trong số những sách Cựu Ước. Sách được soạn thảo ở thành phố A-lê-xan-ri-a, Ai-cập, vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.

  1. Bối cảnh

Vào lúc đó, thành phố A-lê-xan-ri-a là chiếc nôi rực rỡ nhất của nền văn minh Hy-lạp. Thành phố này cũng là thành phố quan trọng bậc nhất của kiều bào Do thái Hải Ngoại vì số lượng người Do thái đông đúc cư ngụ ở đây. Tác giả sách Khôn Ngoan ngỏ lời với đồng bào của ông bằng Hy-ngữ, họ không còn biết tiếng Híp-ri. Ông bận lòng về sức quyến rũ mà nền văn hóa Hy-lạp ảnh hưởng trên đồng bào của ông. Ông muốn cho họ thấy rằng Đức Khôn Ngoan phát xuất từ Thiên Chúa trổi vượt tất cả mọi khôn ngoan phàm nhân.

Tội bội giáo còn có chiều hướng gia tăng vì chính sách tôn giáo của chính quyền. Đây là sự kiện hiếm hoi trong lịch sử Ai-cập vào thời nhà Pơ-tô-lê-mai cai trị. Pơ-tô-lê-mai VII (146-117 tCn) và nhất là Pơ-tô-lê-mai VIII (117-81 tCn) đã từ bỏ chính sách tự do tôn giáo trước đây mà quay ra quấy nhiễu và bách hại người Do thái. Vì thế, tác giả kêu gọi người Do thái hãy trung tín với tôn giáo tổ tiên của mình. Đó là ý nghĩa bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này.

  1. Đêm Vượt Qua, đêm giải phóng

Tác giả đã công kích đa thần giáo và thờ ngẫu tượng của dân Ai-cập, vào thời kỳ dân Do thái ở giữa họ. Cuối cùng đêm giải phóng vĩ đại đã đến. Sau khi đã vội vã cử hành lễ Vượt Qua tại tư gia, dân Do thái đã có thể trốn thoát khỏi đất nô lệ này, trong khi Thiên Chúa giáng phạt trên những kẻ áp bức họ. Cuộc xuất hành khỏi Ai-cập, dưới dấu chỉ của lễ Vượt Qua, đã luôn luôn được xem như biến cố tái sinh dân Ít-ra-en, biến cố sinh thành dân Chúa chọn. Vào giờ phút đó, họ ý thức về căn tính tôn giáo đặc thù của mình. Tác giả thắp sáng niềm tin của các bậc tiền nhân, họ đã tin vào những lời hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và đã thấy chúng được ứng nghiệm ở nơi việc họ được giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai-cập.

Niềm vui cứu độ và sự tác động của ân sủng quy hướng về Thiên Chúa, Đấng tôn vinh dân Ngài và giáng phạt kẻ thù của họ; nhưng nhất là, tác giả nhấn mạnh đức trung tín của những người công chính này đối với tôn giáo tổ tiên:

“Con lành cháu thánh của những người lương thiện,

âm thầm dâng lễ tế trong nhà” (Kn 18: 9a).

Câu này ám chỉ đến sự kiện theo đó lễ Vượt Qua là một ngày lễ được âm thầm cử hành tại tư gia, nhưng cũng ám chỉ đến việc Pha-ra-ô cứ lần lữa từ chối để dân Ít-ra-en ra đi cử hành “lễ của họ” trong sa mạc. Vì thế, những người Ít-ra-en trung tín này đã âm thầm cử hành lễ Vượt Qua trong nhà để Pha-ra-ô không hay biết.

Thật kỳ lạ, ngay tự bây giờ, tác giả đặt quyết định phân chia đất Ca-na-an giữa các bộ tộc vào thời chinh phục:

“Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa,

là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia” (Kn 18: 9b)

Đồng thời, ngay tự bây giờ, tác giả cũng mô tả diễn tiến việc cử hành lễ Vượt Qua vào thời sau này:

“Và ngay tự bấy giờ,

họ đã xướng lên những bài ca của cha ông truyền lại” (Kn 18: 9c).

Quả thật, chỉ sau này mà việc cử hành lễ Vượt Qua sẽ được kết thúc với việc hát“Hallel”, nghĩa là xướng lên các bài thánh vịnh ngợi khen.

  1. Sứ điệp

Tác giả sách Khôn Ngoan mời gọi đồng bào của ông “ôn cố tri tân”, nhớ lại những việc đã qua mà hiểu biết những việc hiện tại. Chính họ cũng đang sống ở đất Ai-cập ngoại giáo, ở đó việc thờ ngẫu tượng diễn ra hằng ngày. Chính họ cũng đang sống ở đất Ai-cập, ở đó chính quyền cũng quấy nhiễu và áp bức họ. Thật ra, không cốt rời bỏ đất nước này, nhưng noi gương các bậc tiền nhân của mình về lòng mộ đạo và trung tín của các ngài đối với tôn giáo tổ tiên. Họ cũng phải là “con lành cháu thánh của những người lương thiện”. Họ đừng quên đêm giải phóng vĩ đại đem lại ý nghĩa như thế nào trong Lịch Sử Thánh của họ, đêm đã làm cho Ít-ra-en thành một dân biệt phân, dân được Thiên Chúa cam kết rằng Ngài ân cần chăm sóc họ một cách đặc biệt.

BÀI ĐỌC II (Dt 11: 1-2, 8-9)

Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, phụng vụ đề nghị cho chúng ta những đoạn trích Thư gửi tín hữu Do thái. Trong suốt năm phụng vụ trước, năm B, chúng ta đã đọc những đoạn trích dài của thư này. Trong năm phụng vụ này, năm C, khởi đi từ Chúa Nhật XIX chúng ta đọc phần cuối, phần liên quan đến đức tin.

  1. Bối cảnh

Xin nhắc lại rằng Thư gửi tín hữu Do thái đã được một tác giả vô danh, chắc chắn là một môn đệ của thánh Phao-lô, soạn thảo vào năm 65. Có nhiều tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của thánh Phao-lô, nhưng chủ đề trọng tâm: hy tế của Đức Ki-tô, không là tư tưởng của thánh Phao-lô. Người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ phải hứng chịu những cuộc quấy nhiễu và bách hại. Đoạn văn trước đoạn văn của chúng ta ám chỉ đến điều này: “Xin anh em nhớ lại, những ngày đầu: lúc vừa được chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn vừa bền vững” (Dt 10: 32-34). Bị trục xuất, bị tước đoạt của cải, họ nao núng; thậm chí vài người, vì nỗi luyến nhớ những phụng tự xưa, toan tính bỏ cuộc, vì thế tác giả đã khuyên bảo:“Chúng ta đừng bỏ các buổi hội họp, như vài người quen làm” (Dt 10: 25) và “Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống” (Dt 10: 39).

  1. Bản chất của đức tin

Đối với các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo này, quen thuộc với Kinh Thánh, tác giả gửi đến họ những lời khuyên nhủ của mình bằng ngôn từ Kinh Thánh. Ông phác họa bức tranh về những chứng nhân đức tin mà Cựu Ước xem như những vị anh hùng. Trước hết, ông định nghĩa bản chất của đức tin một cách ngắn gọn nhưng súc tích: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng của những điều ta không trông thấy”.

Câu này, được các nhà thần học lấy lại nhiều lần, đã trở thành một trong những định nghĩa kinh điển về đức tin. Đức tin hoàn toàn hướng về tương lai, nghĩa là, về những thực tại không trông thấy được. Câu này được cấu trúc theo thể loại “đối xứng đồng nghĩa”, nghĩa là hai vế đối xứng với nhau và diễn tả hai khía cạnh của cùng một thực tại. Như vậy, “những điều ta hy vọng” được xác định ở về thứ hai:“những điều ta không trông thấy”. Cũng một cách như vậy, sự “bảo đảm” được xác định bởi “bằng chứng” mà niềm tin vào những điều không trông thấy ban cho.

  1. Gương của các tiền nhân

Quả thật, tác giả không nhằm định nghĩa đức tin cho bằng giải thích thái độ của các tiền nhân. Nguyên lý hướng dẫn cuộc sống của họ là niềm tin vào những lời hứa mà họ đã biết nhận ra những thực tại tinh thần. Ông Áp-ra-ham, người mà Thiên Chúa đã hứa ban cho ông đất làm gia nghiệp vẫn là một kiều cư, vì ông biết rằng lời hứa này là niềm hy vọng về một quê hương không trông thấy được. Thiên Chúa hứa với vị tổ phụ hiếm muộn này ban cho ông một hậu duệ đông đúc không kể xiết là để cho ông hiểu rằng bên kia đứa con của mình, lời hứa nhắm đến một hậu duệ thuộc trật tự tinh thần, vân vân.

Tác giả dẫn chứng nhiều mẫu gương. Như vậy, tác giả muốn giúp những ai đang chao đảo trong đức tin hiểu rằng trong đêm thử thách của họ, đức tin là ánh sáng nuôi dưỡng niềm hy vọng, và với tư cách những người lữ khách trên cõi trần này, sự kiên tâm bền chí của họ sẽ dẫn đưa họ đến Thiên Quốc.

TIN MỪNG (Lc 12: 32-48)

Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhiều lần bày tỏ khuynh hướng và mối quan tâm của mình đối với Giáo Hội, thái độ này thúc đẩy thánh nhân sau này viết sách Công Vụ. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh ký tập hợp những lời nói khác nhau của Đức Giê-su với bốn dụ ngôn: “Các đầy tớ tỉnh thức” (12: 35-38),“Tên trộm ban đêm” (12: 39-40), “Viên quản gia trung tín hay bất trung” (12: 41-46) và “Đầy tớ bị phạt nhẹ hay nặng tùy mức độ hiểu biết ý chủ” (12: 47-48). Giáo huấn này Đức Giê-su ngỏ lời đặc biệt đến các môn đệ, “đoàn chiên bé nhỏ” này, họ được hứa ban Nước Trời và sẽ là nhân tố của Giáo Hội Ngài (12: 32-34). Giữa những lời này, chúng ta đọc thấy một trong những lời khác thường nhất của Chúa Giê-su mà các thánh ký khác đã không bao giờ trích dẫn: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến tận bên mà phục vụ”. Hạt trân châu này ở trung tâm bản văn và chiếu sáng bản văn một cách rực rỡ.

Thánh Lu-ca luân phiên nhắm đến Giáo Hội tại thế và Giáo Hội của những người được tuyển chọn.

  1. Lời hứa ban Nước Trời

“Hỡi đàn chiên nhỏ bé, đừng sợ”. Đây là những lời thân thương trìu mến, vì quả thật các môn đệ còn quá nhỏ bé về tầm cỡ, về số lượng, về quyền thế, về học thức… Đây cũng là những lời Kinh Thánh, vì lẽ hình ảnh mục tử trong Kinh Thánh thường có cung giọng Mê-si-a, như Mk 2: 12-13: “Ta sẽ quy tụ cả nhà Gia-cóp, sẽ tập hợp số còn sót của nhà Ít-ra-en, sẽ góp chúng lại như đàn chiên trong chuồng, như đàn vật giữa đồng cỏ, khiến chúng không còn sợ ai nữa. Người mở đường đưa chúng tiến lên, chúng chọc một lỗ hỗng, đi qua cổng và ra ngoài. Đức Chúa, Vua của chúng đi qua trước, chính Người sẽ dẫn đầu”, hay Ed 34: 31: “Phần các ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ của Ta. Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi”.

Đàn chiên nhỏ bé này đón nhận lời hứa ban sự sống đời đời: “Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Những điều kiện gia nhập Nước Trời được xác định liền ngay: đức nghèo khó và tư thế tỉnh thức.

  1. Đức khó nghèo

Đàn chiên nhỏ bé phải nêu gương về đức nghèo khó: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời”. Bản văn theo sau giống với bản văn Mát-thêu (6: 19-21), tuy nhiên thánh Mát-thêu lại đưa bản văn này vào “bài giảng trên núi”. Tại thánh Lu-ca, lời nhắc nhở về đức nghèo khó này đến như lời kết của dụ ngôn người phú hộ dại khờ và những lời khuyên tín thác vào ơn Quan Phòng (Lc 12: 16-32).

  1. Tư thế tỉnh thức

“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn….”. Để tiện làm việc, người Do thái thường thắt lưng áo choàng lên cho đỡ vướng víu. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt những lời khuyên này vào trong cái khung diễn từ của Đức Giê-su về thời cánh chung (Mt 24: 42), trong khi thánh Lu-ca đặt chúng vào trước diễn từ này, nhưng cùng theo cùng một hướng nhắm: lịch sử và cuộc sống của Giáo Hội diễn ra giữa thời gian ông chủ ra đi và trở lại.

  1. Phúc cho những đầy tớ trung tín

“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ”. Với đàn chiên nhỏ bé, họ sẽ lan truyền sứ điệp của Ngài cho đến chấp nhận hy sinh mạng sống mình, Đức Giê-su đề cập đến lòng tín trung: lòng tín trung của họ sẽ được thưởng thật bất ngờ nhất, ngoài sức tưởng tượng của mọi người: “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến từng người mà phục vụ”. Còn hình ảnh nào bạo dạn hơn khi trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ chư thánh. Dụ ngôn này thuộc riêng của thánh Lu-ca.

Chắc chắn, Chúa Giê-su đã tự nhận mình là người phục vụ. Vào buổi ăn cuối cùng với các môn đệ, trong khi các môn đệ còn bàn cãi sôi nổi với nhau xem ai là người lớn nhất, Đức Giê-su từ tốn nói với họ: “Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 27). Những cử chỉ và lời nói này của Chúa Giê-su, trong suốt cuộc sống tại thế của Ngài, là một cuộc đời phục vụ một cách khiêm tốn và tình bạn mà Ngài muốn đưa ra làm gương: “Con Người đến không để được phục vụ, nhưng phục vụ”. Nhưng việc trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ bàn tiệc thiên quốc thật khó mà tưởng tượng được, tuy nhiên phù hợp với mặc khải Tin Mừng về việc Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ môn đệ Ngài với trọn tấm lòng yêu thương của Ngài.

  1. Giáo Hội phục vụ

Thánh Phê-rô không hiểu rõ ý nghĩa của dụ ngôn; thánh nhân đoán rằng dụ ngôn này nhắm đến các môn đệ. Vì thế, thánh nhân nêu vấn đề: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”.

Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng câu trả lời của Ngài rõ ràng là một cách thức tấn phong dành cho chính thánh nhân: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?… Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình”.

Chính Giáo Hội, qua thánh Phê-rô, được ủy quyền quản lý gia sản của Thầy và được ủy nhiệm nuôi dưỡng tất cả các gia nhân và cung cấp lương cho họ. Đây là một ân ban nhưng cũng mối nguy hiểm, vì dựa vào công việc này mà Thiên Chúa sẽ xét xử họ. Trách nhiệm thì đa dạng, nhưng có một mẫu số chung: mỗi người sẽ chịu hình phạt hay nhận phần thưởng tùy theo cách hành xử của mình và tùy theo mức độ hiểu biết ý Chủ: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.

Về mục lục

.

CHỜ ĐỢI.

Trầm Thiên Thu

Chờ đợi là điều không thoải mái chút nào. Khoảng “chờ đợi” (hoặc đợi chờ, mong chờ, trông đợi, ngóng chờ,…) cũng có nhiều phiền phức chứ không hề đơn giản – bởi vì sống trong “khoảng” ấy cũng giống như ở giữa “chợ đời” vậy. Nhiêu khê lắm!

Nhà phát minh “siêu đẳng” Thomas Edison (1847-1931, Mỹ) nói: “Tất cả mọi thứ sẽ đến với người biết hối hả trong khi chờ đợi. Tôi chưa thất bại, mà chỉ là tôi đã tìm ra mười ngàn cách không hoạt động. Thiên tài là 1% cảm hứng và 99% mồ hôi”. Văn sĩ Alexandre Dumas (1802-1870, Pháp) nói: “Tất cả sự khôn ngoan của con người được tóm gọn trong hai điều: chờ đợi và hy vọng”. Có hy vọng là có mọi thứ.

Còn chờ đợi là còn hy vọng, mà hy vọng chính là Đức Cậy – một trong ba nhân đức đối thần. Chắc hẳn rằng ai cũng đã và đang có những khoảng chờ đợi – dù chung hay riêng, lâu hay mau, chờ đợi ai đó hoặc điều gì đó. Đó là miền sa mạc của tâm hồn. Khoảng chờ đợi nào cũng đều có nỗi trăn trở đặc thù, dù “khoảng” đó rộng hay hẹp, và có tính liên kết: có TIN TƯỞNG mới CHỜ ĐỢI, mà đã chờ đợi thì phải SẴN SÀNG. Chính Chúa Giêsu cũng đã có nỗi chờ đợi cháy bỏng nên Ngài phải thốt lên: “Tôi khát” (Ga 19:28). Ngài khát tình mến của các linh hồn, của mỗi chúng ta.

Thật vậy, trong một lần tham dự Thánh lễ, Thánh Faustina đã thị kiến Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập Giá, và nghe thấy tiếng kêu than phát ra từ Thánh Tâm Chúa: “Ta khát. Ta khao khát cứu độ các linh hồn. Hỡi ái nữ của Ta, hãy giúp Ta cứu các linh hồn. Hãy kết hiệp những nỗi đau khổ của con với Cuộc Khổ Nạn của Ta và dâng mọi đau khổ lên Chúa Cha để cứu các tội nhân” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1032). Thế nhưng nhân loại vẫn hờ hững và lạnh nhạt với Ngài lắm. Có lần Chúa Giêsu đã đặt vấn đề: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8).

Chúng ta càng cứng lòng thì khoảng chờ đợi của Chúa Giêsu càng lớn. Thật đáng quan ngại về lời của Thánh Phêrô: “Nếu người công chính còn khó được cứu độ, thì người vô đạo, kẻ tội lỗi sẽ ở đâu?” (1 Pr 4:18). Khó lắm, do đó mà phải cố gắng không ngừng, không thể cứ “tỉnh bơ” hoặc “chờ sung rụng”, tới đâu hay tới đó. Phải thực sự SỐNG ĐẠO chứ không chỉ GIỮ ĐẠO. Sống đạo thì phải phải tích cực chứ không thể “mơ màng” rồi “yêu sách” với Chúa đủ thứ. Cái khó đó không phải Thiên Chúa “hạn chế” ơn cứu độ, mà vì chúng ta chưa thực sự chấp nhận Thiên Chúa là cứu cánh tối hậu. Chắc hẳn cũng cần tái xác tín để biết mình đang làm gì và đi hướng nào.

Là tín nhân, ai cũng miệt mài chờ ngày đợi đêm – chờ đợi được yêu Chúa hết lòng, được cứu độ, và được tận hưởng vĩnh phúc trường sinh trên Thiên Quốc – nơi Chúa Giêsu hằng chờ đợi những người thực sự yêu mến Ngài. Sách Khôn Ngoan cho biết: “Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các ngài thêm can đảm. Dân Chúa đã trông đợi đêm ấy như đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù” (Kn 18:6-7). Thánh Vịnh gia so sánh nỗi khao khát Chúa bằng hình ảnh người lính canh mong đợi hừng đông (Tv 130:6).

Cái gì cũng có cái giá nhất định, sung có rụng vô miệng thì cũng vẫn phải nhai và nuốt. Sách Khôn Ngoan cho biết thêm: “Chúa dùng hình phạt giáng xuống đối phương để làm cho chúng con được rạng rỡ và kêu gọi chúng con đến với Ngài. Con lành, cháu thánh của những người lương thiện âm thầm dâng lễ tế trong nhà. Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Và ngay từ bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca do cha ông truyền lại” (Kn 18:8-9). Không thể mong chờ đợi bằng động thái thụ động, mà phải tích cực hành động cụ thể để chứng tỏ tha thiết chờ đợi và thánh hóa nỗi niềm đó, nhờ vậy và với đức tin vào Đức Giêsu Kitô, ai đã hết lòng chờ đợi sẽ được công chính hóa (x. Gl 2:16).

Thật hạnh phúc khi được nên công chính. Thánh Vịnh gia kêu gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen” (Tv 33:1). Tại sao? Bởi vì người công chính là người thuộc về Chúa: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33:12).

Những người hết lòng kính sợ Chúa và trông cậy vào lòng Chúa yêu thương thì luôn được Ngài để mắt trông nom, được cứu khỏi tay thần chết và được nuôi sống trong buổi cơ hàn (Tv 33:18-19). Chắc chắn chúng ta phải chứng tỏ được sự thật minh nhiên này: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:20). Thiên Chúa rất vui có những người như vậy, và họ thực sự là người diễm phúc lắm.

Đức tin quan trọng vì là một mối phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Và Thánh Phaolô xác định: “Đức tin là BẢO ĐẢM cho những điều ta hy vọng, là BẰNG CHỨNG cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11:1-2). Vì TIN mà CẬY (trông) – tức là hy vọng, và cũng vì TIN mà YÊU (mến). Đó là bộ ba quan yếu cho đời sống tâm linh, gọi là ba nhân đức đối thần (nhân đức thần học). Mối liên kết rất lô-gích và chặt chẽ, giống như “chiếc kiềng ba chân” vững vàng (theo cách nói của người Việt).

Về mối liên quan giữa đức tin và sự công chính, Thánh Phaolô dẫn chứng: “Nhờ đức tin, ông Ápraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Isaac và ông Giacóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Nhờ đức tin, cả bà Sara vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 11:8-11). Đó là những người có Đức Tin chân chính, thuần túy và tuyệt đối. Tin tưởng chứ không ảo tưởng. Thật vậy, TIN được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG được Chúa yêu thì lại là kiêu ngạo. Ranh giới rất mong manh, vì vậy mà phải luôn thận trọng. Đúng là “cẩn tắc vô ưu”, tiền nhân dạy chí lý.

Và rồi Thánh Phaolô còn giải thích thêm: “Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài” (Dt 11:12-16). Cách nói có vẻ “dài hơi” một chút, nhưng cần phải vậy để chúng ta có thể hiểu rõ, không còn mơ hồ trên hành trình Đức Tin trong cuộc trần ai này.

Chưa hết, Thánh Phaolô tiếp tục dẫn chứng: “Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Ápraham đã hiến tế Isaac; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do Isaac mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Quả thật, ông Ápraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng” (Dt 11:17-19). Vì tin vô điều kiện, tin đến mức sẵn sàng hy sinh chính đứa con yêu của mình, ông Ápraham trở thành tổ phụ của những người tin – tín nhân hoặc tín hữu. Đó là niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, tuyệt đối tín thác nơi Lòng Thương Xót của Ngài.

Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng chí nhân và chí thiện, là Thiên Chúa duy nhất, Ngài chỉ muốn chúng ta được hưởng những điều tốt lành của Ngài. Nhưng để được vậy thì chúng ta phải hết lòng tín thác và yêu mến Ngài, cũng là để được Ngài hết mực yêu thương, như chính Chúa Giêsu đã từng động viên và nhắn nhủ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32). Chúa Cha đã yêu thương trao ban, nhưng có được thừa hưởng hay không còn tùy thuộc vào cách sống của chúng ta.

Với nỗi niềm mong mỏi, Chúa Giêsu đã căn dặn: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12:33-34 ≈ Mt 6:19-21). Đó là lời khuyên cho mọi người, không dành riêng cho bất cứ ai. Tài sản có thể theo nghĩa đen – như Thánh Phanxicô Assisi đã áp dụng sát nghĩa, và cũng có thể theo nghĩa bóng – khó nhất là “cái tôi”, loại tài sản “quý” này ai cũng có. Tương tự, một lần khác Chúa Giêsu cũng đã so sánh: “Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó” (Mt 24:28; Lc 17:37). Rất thực tế, chẳng có gì khó hiểu.

Dùng cách nói cụ thể, Chúa Giêsu xác định: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Lc 12:35-40). Ngài không có ý chơi trò ú tim, hù dọa hoặc “gài bẫy” chúng ta, mà Ngài muốn như vậy để công trạng của chúng ta được tăng lên. Khi chờ đợi thì đâu ai biết điều gì đó có xảy đến hay không, hoặc người đó có đến hay không. Nếu có hẹn trước thì miễn bàn, chẳng có gì thú vị. Vả lại, thời điểm đó chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mt 24:36; Mc 13:32).

Nghe Chúa Giêsu nói vậy, ông Phêrô thắc mắc: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?” (Lc 12:41). Xem chừng Phêrô nhà ta chân chất thật thà quá cỡ thợ mộc, cứ như trẻ em hồn nhiên ngây ngô vậy. Chúa Giêsu nói: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: ‘Chủ ta còn lâu mới về’, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín” (Lc 12:43-46). Có thể chúng ta không đến nỗi “chè chén say sưa”, “chén thù chén tạc” hoặc “chén chú chén anh”, nhưng cách sống của chúng ta đã “tố giác” như vậy: Còn trẻ, còn khỏe, còn thở,… chưa chết đâu mà lo. Nhưng người Việt có câu cảnh báo: “Nước đến chân mới nhảy”. Thế thì thua thật!

Đúng vậy, thế thì tiêu! Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà KHÔNG chuẩn bị sẵn sàng, hoặc KHÔNG làm theo ý chủ thì sẽ BỊ đòn nhiều. Còn kẻ KHÔNG biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt thì sẽ BỊ đòn ít” (Lc 12:47-48a). Cái sự “không biết” ở đây không phải là “giả nai” rồi tìm cách biện hộ, mà là chủ ý, cứng lòng, cố chấp.

Cuối cùng, Chúa Giêsu nói một câu khiến chúng ta phải giật mình: “Ai đã ĐƯỢC CHO nhiều thì sẽ BỊ ĐÒI nhiều, và ai ĐƯỢC GIAO PHÓ nhiều thì sẽ BỊ ĐÒI HỎI nhiều hơn” (Lc 12:48b). Đó là luật công bằng, bởi vì Thiên Chúa rất mực công minh chính trực (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7), không thiên vị bất kỳ ai (Đnl 10:17-18; Hc 35:12; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9).

Lạy Thánh Phụ chí thánh chí lành, xin ban ơn giúp chúng con luôn tích cực sống đức tin trong thời gian chờ đợi Đức Giêsu Kitô tái lâm, dù lâu hay mau, đồng thời cũng biết kiên trì và kiên cường trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA ĐẾN

Lm Đan Vinh

I.HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 12,32-48

(32) “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em. (33) Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. (34) Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó”. (35) Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. (36) Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. (37) Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ”. (38) “Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. (39) Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. (40) Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. (41) Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người ?”. (42) Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc. (43) Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. (44) Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. (45) Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa. (46) Chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín. (47) Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. (48) Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.

  1. Ý CHÍNH: Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy các môn đệ phải sẵn sàng đón Người lại đến, bằng thái độ luôn tỉnh thức và sẵn sàng:

– Tỉnh thức như người đầy tớ trung tín, thức canh để sẵn sàng mở cửa đón chủ về nhà vào bất cứ giờ nào lúc đêm khuya (c 35-38).

– Tỉnh thức như người chủ nhà biết giờ kẻ trộm đến, sẽ sẵn sàng canh phòng không để nó đào ngạch khoét vách nhà mình (c 39-40).

– Tỉnh thức như người quản lý trung tín và khôn ngoan, luôn sẵn sàng chu toàn bổn phận cấp phát lương thực cho gia nhân theo lệnh của ông chủ (c 42-48).

  1. CHÚ THÍCH:

– C 32-34: + Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ: Các môn đệ được gọi là đoàn chiên bé nhỏ vì số lượng ít, không địa vị quyền hành và sống khó nghèo, đang khi kẻ thù của các ông thì vừa đông vừa mạnh lại vừa giàu có. Nhưng Đức Giê-su đã trấn an các ông: đừng vì thế mà khiếp nhược sợ hãi, vì “Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33), vì có Thầy luôn ở bên và vì Thiên Chúa sẽ ban phần thưởng thiêng liêng là Nước Trời đời đời cho các ông sau này. + Hãy bán của cải mình đi mà bố thí: Đức Giê-su khuyên các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát và từ bỏ, thể hiện qua hành động sẵn sàng bán đi những của cải mình có mà phục vụ tha nhân. + Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách: Cần phải tích trữ của cải thiêng liêng không bị hư nát, không sợ bị kẻ trộm lấy mất… Những của cải thiêng liêng ấy có được nhờ làm các việc từ thiện và bố thí cho những kẻ nghèo. + Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó: Nếu xác định kho tàng của mình là của cải thiêng liêng, thì các môn đệ sẽ liệu sao để có được nhiều thứ của cải ấy.

C 35-37: + Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn: Đây là thái độ Mô-sê yêu cầu dân Do thái phải có khi ăn bữa tiệc chiên Vượt qua trước giờ xuất hành ra khỏi nước Ai cập (x. Xh 12,11). Đây cũng là thái độ của các tín hữu hôm nay chờ đợi giờ Đức Giê-su lại đến vào ngày thế mạt (x. Lc 12,37; 17,8). + Hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về: Ông chủ đi ăn cưới là hình ảnh tiên báo Đức Giê-su sắp lên trời trước khi Người sẽ trở lại lần thứ hai vào ngày tận thế. + Để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay: Chúa sẽ đến bất ngờ trong giờ chết của mỗi người, cũng như trong ngày tận thế chung của nhân lọai. Mọi người đều phải sẵn sàng mở cửa đón rước Người. + Thật là phúc cho họ !: Ở đây Đức Giê-su đã thêm một mối phúc nữa là: “Phúc cho những ai tỉnh thức sẵn sàng”. + Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn…: Việc này khó xảy ra trong thực tế, nhưng được dùng để diễn tả một thực tại thiêng liêng: Chúa sẽ ưu ái phục vụ lại các đầy tớ trung tín. Họ sẽ được no thỏa ân tình của Chúa như lời sách Khải huyền: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa tối với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa tối với Ta” (Kh 3,20).

C 38-40: + Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về: Người Do thái thường chia thời gian ban đêm làm bốn canh là: Chập tối, nửa đêm, gà gáy và tảng sáng (x. Mc 13,35). Canh hai hay canh ba tức là khoảng từ 9 giờ tối đến 3 giờ sáng là lúc người ta buồn ngủ nhất. Ở đây nhấn mạnh đến thái độ phải có của các môn đệ là luôn tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ giờ nào. + Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến…: Đây là dụ ngôn về ông chủ nhà cũng phải luôn tỉnh thức. Dụ ngôn nhấn mạnh đến khía cạnh bất ngờ của giờ chết mỗi người. Muốn khỏi bị bất ngờ thì người ta phải luôn tỉnh thức canh phòng. + Khoét vách nhà mình: Các vách tường nhà của người Do thái thường được xây bằng gạch sơ sài, nên dễ bị kẻ trộm khóet vách đột nhập vào nhà.

C 41-44: + Phê-rô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người ? : Câu hỏi của Phê-rô là câu chuyển tiếp giữa lời khuyên chung cho tất cả các môn đệ (các câu 35-40) và lời khuyên riêng dành cho các Tông đồ là những người được ủy thác nhiệm vụ lãnh đạo cộng đoàn Ki-tô hữu (các câu 42-48). + Ai là người quản gia trung tín khôn ngoan mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở: Hai đức tính mà người lãnh đạo cộng đoàn phải có là khôn ngoan và trung tín. Nếu người quản lý cấp phát phần thóc gạo cho gia nhân đúng giờ, thì mới chứng tỏ mình là người trung tín. Anh ta sẽ được ông chủ tín nhiệm trao nhiệm vụ coi sóc tất cả gia sản của ông.

C 45-48: + Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về”…: Đức Giê-su nêu lên sự trở về chậm trễ và bất ngờ của ông chủ là chính Người, như là một cách để thử thách lòng trung thành của các Tông đồ và những người lãnh đạo cộng đoàn. + Đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa: Đây là tội thiếu tinh thần trách nhiệm, sa đà vào thói ăn chơi mà bỏ bê nhiệm vụ của người đầy tớ. + Chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra: Đức Giê-su sẽ đến bất ngờ và sẽ cô lập, ra vạ tuyệt thông cho những kẻ bất trung ấy. + Đầy tớ nào biết ý chủ…: Sự phán xét tùy thuộc vào mức độ ý thức và sự hiểu biết ý chủ của các đầy tớ. + Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều…: Thiên Chúa sẽ đòi mỗi người phải trả lẽ về những ơn đã nhận được và về các trách nhiệm đã được Chúa trao phó.

  1. CÂU HỎI: 1) Tại sao các môn đệ của Đức Giê-su không nên sợ hãi giờ chết ? 2) Đức Giê-su khuyên các môn đệ phải có thái độ thế nào để đón chờ Người sẽ tái lâm ? 3) Các người lãnh đạo cộng đòan cần có thái độ nào để đón chờ Chúa đến ? 4) Tại sao các môn đệ lại bị phán xét nặng hơn thường dân ?

II.SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay” (Lc 12,36).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHIẾC QUAN TÀI NHẮC NHỚ SỰ CHẾT :

Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu. Nhà sư thường đặt trên bàn làm việc của mình một chiếc quan tài nhỏ làm bằng gỗ quí, có một cái nắp có thể mở ra đóng vào được. Khách đến chơi trông thấy chiếc quan tài thường hỏi nhà sư rằng: “Ngài chế tạo ra cái này để làm gì vậy ?” Nhà sư trả lời : “Người ta sống tất nhiên sẽ có lúc phải chết. Mà chết rồi là sẽ được đặt vào nằm trong cái hòm này. Tôi thực lấy làm lạ : người đời ai cũng chỉ biết đi tìm phú quí, công danh, tài sắc… mà chẳng hề nghĩ đến cái chết. Phần tôi, mỗi khi có điều gì không vừa ý, tôi liền ngồi vào bàn và nhìn ngắm chiếc quan tài một hồi lâu. Sau đó tôi cảm thấy tâm hồn mình được bình an.

Thật ít có ai lại có thói quen suy nghĩ về cái chết của mình, và cũng ít người nào coi cái chết như một người bạn luôn đi bên cạnh để giúp mình vượt qua những nỗi chán chường cuộc sống như nhà sư trong câu chuyện trên. Phần nhiều, người ta thường bôn ba khắp nơi để kiếm tiền, và thu tích cho mình có nhiều tiền bạc, rồi khi có nhiều tiền lại tìm cách thụ hưởng các thú vui do tiền bạc mang lại, như thể họ sẽ không bao giờ phải chết. Lời Chúa dạy hôm nay đòi chúng ta có thái độ chờ sự chết đến bất ngờ giống như một người đầy tớ thức canh chờ mở cổng đón chủ đi ăn cưới về nhà lúc nửa đêm.

2) DÂNG NGÀY BUỔI SÁNG VÀ NĂNG DÂNG LỜI NGUYỆN TẮT:

Một nhóm bạn đang chơi đá bóng ngoài sân trường. Trong lúc nghỉ ngơi sau hiệp thi đấu, thầy quản giáo hỏi các em rằng: “Giả như Chúa cho các em biết các em chỉ còn sống được 15 phút nữa là sẽ phải chết. Vậy các em sẽ làm gì trong thời gian còn lại này? Em thì trả lời sẽ về từ giã cha mẹ và những người thân. Em khác cho biết sẽ đi gặp cha linh hướng và xin xưng tội. Em khác nữa thì nói mình sẽ vào nhà nguyện chầu Thánh Thể thật sốt sắng. Còn một cậu bé vốn có lòng đạo đức nhất la Lu-y Gông-gia-ga thì lại thưa: “Thưa Thầy, còn em cứ tiếp tục chơi ạ !” Khi được hỏi lý do tại sao lại cứ chơi khi biết mình sắp chết, thì cậu bé đã trả lời : “Vì mỗi sáng khi vừa thức dậy em đều dâng ngày mới cho Chúa. Và trong ngày em năng nói với Chúa những lời nguyện tắt :”Con làm việc này để biểu lộ lòng con yêu mến Chúa”. Em nghĩ Chúa cũng chỉ cần như vậy thôi”.

3) DÙNG TIỀN BẠC ĐỂ MUA BẠN HỮU NGAY KHI CÒN SỐNG :

Lời Chúa Giê-su hôm nay dạy chúng ta : “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó” (Lc 12,33).

Một bà lão ăn mày kia tên là MA-RY. Bất kể mùa đông giá rét, hằng ngày bà lão đều vất vả đi bộ rảo qua các đường phố xóm ngõ để ăn xin, trên người chỉ mặc một manh áo cũ đã bị sờn rách. Bà kể lể hoàn cảnh túng cực của mình, kèm theo vẻ ngoài tiều tụy nghèo khổ, nên đã được nhiều người thương tình bố thí. Tối đến bà lại trở về túp lều gỗ, ăn uống những món ăn thừa thãi do người ta bố thí. Vì sống quá kham khổ nên cuối cùng bà đã bị bệnh và bị chết đột quị trong túp lều bẩn thỉu của mình mà không ai hay biết. Mấy ngày sau, khi xác chết của bà đã bốc mùi, nhà chức trách thuộc sở vệ sinh Thành Phố được tin đã tìm đến nơi. Họ thấy bà lão đã chết đang nằm trên giường, nhưng ngón tay của bà như vẫn đang chỉ vào một góc nhà. Họ đã cho đào bới góc nhà ấy và cuối cùng đã tìm thấy một hộp sắt trong hộp có chứa tới 127.000 đô la, một món tiền khổng lồ, nhưng số tiền lớn lao đó lại không giúp ích gì được cho chủ nhân của nó.

4) PHẢI KHÔN NGOAN CHUẨN BỊ CHO GIỜ CHẾT SẼ ĐẾN :

Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện về một anh hề trong cung điện nhà vua, được vua trao cho phủ việt là biểu tượng của vương quyền, để giúp vui cho nhà vua.

Một hôm nhà vua truyền gọi anh hề lại gần và nói:

– Ngươi hãy giữ lấy cây phủ việt nầy cho đến khi nào tìm được một người khác ngây ngô khờ dại hơn ngươi thì hãy trao cây phủ việt này lại cho hắn ta.

Từ đó, mỗi khi triều đình có tiệc thết đãi bá quan văn võ, anh hề đều được vời đến giúp vui. Với cây phủ việt trên tay và với dáng điệu ngông nghênh, anh hề đã rất thành công trong việc chọc cười để mua vui cho nhà vua và quan khách. Rồi đến một ngày kia, nhà vua bị lâm bệnh rất nặng. Biết mình không thể qua khỏi, vua liền cho gọi anh hề lại gần và buồn rầu nói như tâm sự với anh:

– Này anh hề. Ta sắp sửa phải từ giã mọi người để đi du lịch đến một nơi rất xa.

– Thế Đức vua sắp đến nơi nào vậy ? anh hề hỏi.

– Ta cũng chẳng biết nữa.

– Thế Đức vua đi có lâu không ?

– Ta sẽ ra đi mãi mãi và không bao giờ trở lại nơi đây nữa.

– Thế Đức vua đã chuẩn bị xong hành trang mang theo chưa ?

– Chưa hề.

Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu nhà vua như sau :

– Vậy xin mời Đức Vua hãy cầm lấy cây phủ việt nầy. Thảo dân xin trao nó lại cho Đức Vua. Bởi vì mãi đến hôm nay thảo dân mới tìm được một người khờ dại hơn thảo dân.

5) LUÔN TỈNH THỨC NHƯ MỘT NGƯỜI QUẢN GIA TRUNG TÍN:

Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận vườn hoa đã được chủ vườn chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo óc thẩm mỹ hiếm có. Một hôm một du khách đi qua nơi đây, thoáng nhìn khu vườn ông đã thấy say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra cổng và chủ khách chào hỏi làm quen với nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, phối hợp màu sắc… câu chuyện dần dần đưa họ đến chỗ thân tình.

Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông ấy có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông ta có hay trao đổi thư từ với cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi đều nhận được ngân phiếu từ ông ta gửi qua bưu điện để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến để thưởng ngoạn công trình của cụ đâu?” – “Tôi lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản chăm sóc khu vườn này, thì mình phải tận tụy chứ. Bất cứ khi nào ông chủ về ông sẽ phải hài lòng với việc làm của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, thì chính tôi trước tiên cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do tay mình làm nên”.

Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, không vì cặp mắt của chủ mà vì tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình, nên đã hết lòng chu toàn mọi việc. Thái độ của ông chính là thái độ mà Chúa muốn mỗi người chúng ta hôm nay phải có khi phụng sự Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su đã dạy chúng ta: “Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa liền mở ngay cho chủ. Nếu canh hai hoặc canh ba chủ trở về mà thấy như vậy thì phúc cho đầy tớ ấy”.

  1. SUY NIỆM:

1) Tỉnh thức và sẵn sàng luôn: Tin mừng hôm nay nhắc nhở mọi người muốn được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su thì cần “Tỉnh thức và sẵn sàng” như sau:

-Như người đầy tớ trung tín (c 35-38): Tỉnh thức không phải là không ngủ, nhưng là ngủ trong tình trạng tỉnh thức, giống như người đầy tớ trung tín đợi chủ đi ăn cưới về vào bất cứ giờ nào trong đêm, để khi chủ vừa về tới gõ cửa là mở ngay.

-Như người chủ nhà có trách nhiệm (c 39-40): Một người chủ nhà có tinh thần trách nhiệm sẽ luôn canh thức để tránh khỏi bị kẻ trộm đến đào ngạch khoét vách nhà mình. Một người làm việc với tinh thần trách nhiệm cao sẽ được hưởng hoa trái là hạnh phúc và bình an tâm hồn. Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã khuyên các tu sĩ dưới quyền rằng: “Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện. Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là đức ái. Hoa trái của đức ái là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an “.

-Như người quản gia trung tín và khôn ngoan (c 42-48): Sự trung tín khôn ngoan được biểu lộ qua việc người quản gia luôn chu toàn công việc bổn phận là cứ đúng giờ cấp phát lương thực cho gia nhân. Nhưng nếu anh ta “nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa”, thì anh ta sẽ “phải chung số phận với những tên thất tín”. Vào thời Hội Thánh sơ khai, các tín hữu thành Tê-sa-lô-ni-ca vì nghĩ lầm rằng ngày tận thế đã gần kề, nên có lối sống buông thả, lười biếng không chịu làm việc gì cả. Do đó, thánh Phao-lô đã phải viết thư để chấn chỉnh lối sống ấy như sau: ”Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói: Trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy: hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân” (2 Ts 3,10-12).

2) Cụ thể phải tỉnh thức và sẵn sàng thế nào ? :

– “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”:

Mỗi tín hữu chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chu toàn các bổn phận đạo đức hằng ngày như dâng lễ, cầu nguyện sớm tối để đón nhận ơn Chúa. Tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách tay luôn cầm cây đèn đức Tin, chứa đầy dầu ân sủng đức Cậy, để luôn cháy sáng đức Mến giữa đời thường.

– Sống tốt giây phút hiện tại : Hãy luôn ý thức để sống thật tốt giây phút hiện tại bằng việc chu toàn bổn phận hằng ngày. Tránh chỉ lo tích trữ của cải cho mình, đừng quá bám víu vào những của cải trần gian như Lời Chúa dạy: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em. Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,32-34).

– Chu toàn việc bổn phận : Đối với những ai được Chúa trao quyền quản lý một gia đình, một hội đoàn, một cộng đoàn dòng tu hay giáo xứ… Hãy nhớ rằng: Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Quyền bính là phương tiện để phục vụ tha nhân. Người ta có thể lạm dụng quyền bính để phục vụ bản thân và làm khổ kẻ khác, như tên quản lý trong bài Tin mừng đã “Đánh đập tôi trai tớ gái”, “chè chén say sưa” vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về. Người đó sẽ bị phạt nặng vì đã biết ý Chúa mà còn cố tình bỏ bê bổn phận của mình. Làm tốt việc bổn phận không phải chỉ là làm cho xong, mà còn phải làm với tinh thần trách nhiệm và với lòng mến Chúa yêu người. Thi hào Tagore đã nói như sau : “Tôi ngủ mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc và thấy bổn phận chính là niềm vui”.

– Sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ giờ nào : Sẵn sàng để biết sử dụng của cải đúng theo ý Chúa: Cụ thể là chia cơm sẻ áo cho những người nghèo đói, góp phần nuôi dưỡng các trẻ mồ côi, người già neo đơn và động viên an ủi nhưng người đau khổ bất hạnh… Hiện nay nhiều người tuy rất “tỉnh thức” khi chuyên cần đọc kinh lần hạt, nhưng lại đang “mê ngủ” trước những đòi hỏi phải chia sẻ bác ái của Tin Mừng. Nếu các tín hữu luôn tỉnh thức trong việc quan tâm giúp đỡ người bên cạnh thì hai phần ba nhân loại sẽ không còn nghèo đói nữa. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta hãy tập quảng đại cho đi những gì mình có. Hãy “làm những công việc bình thường bằng một cách thức phi thường” như thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã nêu gương. Nhờ đó chúng ta sẽ chiếu ánh sáng tin yêu, giúp nhiều người nhận biết Thiên Chúa như lời Chúa dạy : “Cũng vậy ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em trên trời”  (Mt 5,16).

– Chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng : Những ai không có tiền vẫn có thể chu toàn sứ vụ tông đồ bằng việc phục vụ tha nhân. Mẹ Tê-rê-sa CAN-QUÝT-TA và các nữ tu Thừa Sai Bác Ái đã không cho người nghèo hay người bệnh tiền bạc vật chất, nhưng đã cho sự ân cần phục vụ trong yêu thương. Đây cũng là một phương cách loan báo Tin Mưng hữu hiệu trong xã hội hôm nay. Hiện nay có nhiều tín hữu vẫn đang mê ngủ khi chỉ lo hưởng thụ các tiện nghi vật chất và đam mê thấp hèn… mà không dành ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời, là chia sẻ phục vụ tha nhân. Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu như sau: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ !  Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào !  Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi !” (Ep 5,14).

– Sống Đức Tin bằng việc phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng : Noi gương đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham. Dù không biết ngày mai sẽ ra sao, nhưng hôm nay chúng ta cứ mạnh dạn tiến bước theo Lời Chúa dạy, vì tin rằng : có Chúa đang đồng hành với chúng ta, và cuối cùng chắc chắn chúng ta sẽ về tới Đất Hứa là Thiên Đàng nơi đầy tràn hạnh phúc và bình an.

TÓM LẠI : Là quản lý trung tín, ta không được phản bội Chúa khi dùng những ơn Chúa ban để chống lại Ngài. Cũng đừng dùng sức mạnh để đàn áp bóc lột người khác. Đừng dùng tài năng để tìm lợi riêng cho bản thân mình. Đừng biến thân xác tốt đẹp trở thành món hàng để mua bán… Nhưng hãy dùng tất cả những điều Chúa ban để “làm vinh danh cho Thiên Chúa và để cứu rỗi các linh hồn”. Hãy biết cho đi vì : Càng cho đi, ta lại càng trở nên giàu có; Càng phân phát, ta lại càng được dư dật; Càng quảng đại chia sẻ, ta lại càng xứng đáng được Chúa ban hạnh phúc đời sau.

  1. THẢO LUẬN : 1) Bạn đã thấy một người nào bị chết cách bất đắc kỳ tử chưa ? 2) Bạn có cần chuẩn bị cho giờ chết của mình không và ngay hôm nay bạn sẽ làm gì để sẵn sàng đón cái chết đến bất ngờ ?
  2. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con biết tỉnh thức để đừng bao giờ ngủ quên trong những đam mê lạc thú giả tạo. Xin cho lòng trí con hiểu rằng: đồng tiền chỉ là phương tiện giúp con nên hoàn thiện hơn, giúp con có điều kiện thực thi bác ái là chia sẻ cơm áo cho người nghèo. Xin cho con xác tín rằng: Khi giờ chết đến, con sẽ không thể mang theo được tiền của đã ky cóp bấy lâu. Chính những đồng tiền cho đi, đồng tiền quảng đại chia sẻ cho kẻ khác, mới chính là kho tàng quý giá không bao giờ bị hư nát ở đời sau. Xin giúp con sống giữa thế gian nhưng luôn biết hướng lòng về những sự trên trời.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHO NHIỀU – ĐÒI NHIỀU

Lm. Jos.DĐH.

Có qua có lại mới toại lòng nhau ; hòn đất ném đi, hòn chì ném lại, chắc chắn đó phải là những trải nghiệm rất chân thành mà tiền nhân muốn nhắn gởi cho hậu thế chúng ta. Trăm cái lý và một tí cái tình, ít nhiều đã đặt các tương quan trước những quy luật hết sức tinh vi: của biếu là của lo, của cho là của nợ. Bậc cha mẹ để lại sản nghiệp cho con cháu, nhất định phải phát xuất từ tình yêu, trò tiếp nhận kiến thức và nắm bắt được những chia sẻ của thầy cô, sẽ thật là ý nghĩa, khi tâm tư học trò thấm nhuần đạo làm người: công cha nghĩa mẹ ơn thầy, ngày sau khôn lớn, ơn dầy biển sâu. Học đi với hành, biết để sống, bao giờ cũng là động lực thôi thúc tình người, tình yêu quê hương đất nước, đừng ai ơ hờ trước sứ mạng vô cùng cao quý ở đời này.

Một bác sĩ đạt danh hiệu tài giỏi thật, không thể vô tình với câu thành ngữ thiết thực: lương y như từ mẫu ; các giáo chức được học trò kính nể, ghi tâm suốt đời, họ không thể không sống gương sáng đức độ: tiên học lễ, hậu học văn. Gia đình xã hội, bao giờ cũng bị chi phối bởi tính công bằng, giầu tiền lắm của phải có nghĩa vụ đóng thuế, san sẻ cho người nghèo ; người hùng tài, phải có trách nhiệm góp công sức xây dựng quê hương đất nước. Đức Giêsu hôm nay đã tham gia ý kiến với các học trò với chúng ta: “anh em hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí, hãy sắm cho mình những túi không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt trên trời”. Trong đời sống siêu nhiên, có rất nhiều đấng bậc được ơn học rộng hiểu sâu, có những vị được ơn khôn ngoan lưu loát, lại có những vị được ơn thu phục biết bao kẻ lầm lạc trở về đường ngay nẻo chính. Nói chung, nén bạc Chúa trao, ai cũng phải sinh lợi cho cân xứng. Được cho nhiều, được nhận nhiều, tất nhiên phải sống đúng, sống đủ với tình yêu thương và trách nhiệm được giao phó.

Sống ơn gọi làm con Chúa, người ta không cần phải là “con sếp”, hay con cháu “đại gia”, song hạnh phúc hơn cả, chính là người biết sống niềm tin vào Đấng là Thầy, là Chúa, đang hiện diện đồng hành với từng thành viên của Ngài. Người tín thác vào tình yêu của Đức Giêsu, họ sẽ không phải xao xuyến bởi tiền của danh vọng, vì sống ở đời này: tình tiền, đâu phải chỉ là cho không biếu không ? Hạnh phúc không đơn giản là đến hay đi, những hiểu biết không chỉ dừng lại là đúng hay sai, vào ngày sau hết, Con Thiên Chúa sẽ hỏi: anh chị em đã tỉnh thức và sẵn sàng như thế nào với ơn Ta ban ? Sống, chết, là sự thật, hoa kia sớm nở chiều tàn, đó là quy luật, ông chủ giao phó cho nhiều phúc lộc, ông chủ cũng có quyền hỏi thành quả ra sao, có sử dụng hợp lý không ? Cũng chính vì yêu thương, Đức Giêsu đã cảnh giác chúng ta: “anh em hãy thắt lưng cho gọn, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, khi chủ gọi thì mở cửa ngay”.

Mỗi người đều được tự do để gẫm suy: có phải đấng bậc sinh thành đã vất vả hy sinh cả đời vì tình yêu thương con cháu không ? các ngài có đòi hỏi con cháu phải đáp đền công ơn sinh thành bằng vật chất tiền của gì chăng ? Là môn đệ, là con Chúa, chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa ơn gì, chúng ta đang mơ ước được giầu sang phú quý hay được dồi dào tình yêu thương ? Thực ra ông bà cha mẹ lúc nào cũng thao thức con cháu mình sẽ là người tốt, mang lại hạnh phúc cho gia đình xã hội ; Chúa Giêsu lưu ý đến tư cách: khi chủ trở về mà thấy đầy tớ ấy sống đạo và giữ đạo cách nghiệm túc, thì thật hạnh phúc cho anh ta biết mấy. Xưa nay gì cũng vậy, mọi người đều dễ dàng nói: đời người như bóng câu qua cửa sổ, cuộc đời này chỉ là cõi tạm, ai rồi cũng phải tuân theo quy luật chết và sống. Tuy nhiên, tại sao người ta không vượt qua được những ham hố ở đời, cho dù ông bà cha mẹ lúc nào cũng yêu thương, muốn truyền lại kinh nghiệm cho con cháu.

Cho nhiều, đòi nhiều, được yêu nhiều, phải biết đáp đền nhiều, trên phương diện lý lẽ, chúng ta hẳn đã từng nghĩ tới, nhưng ở đời, ai cũng cần sự khôn ngoan phối hợp hài hòa giữa lý và tình, giữa hiểu và biết phải được thực thi cách tốt nhất, đẹp nhất. Trong tư cách là Thầy dạy, Đức Giêsu tha thiết các học trò và tất cả những ai là môn đệ, là thần dân của Ngài đều “phải tỉnh”, không được mê đắm trong bất công, lạc thú. Trong sứ mạng là Đấng cứu độ trần gian, Chúa muốn chúng ta “phải thức”, vì người chiến sĩ theo Đức Kitô không thể sống trong ảo tưởng, không thể ngủ vùi trong lầm lạc tội lỗi. Thiên Chúa cho thời gian, cho sức khỏe, cho sự hiểu biết, cho địa vị chức quyền, là để mỗi người biết tận dụng, biết phục vụ theo tinh thần yêu mến mà chúng ta được nhận lãnh. Nếu người theo Đức Kitô không tỉnh, không thức, nghĩa là đang ở tình trạng mê đắm, dại khờ, đang sống theo ý riêng của mình “chủ ta còn lâu mới về, và đánh đập tôi trai tớ gái, và chè chén say sưa”. Chỉ những ai khiêm tốn, người ấy mới đủ sáng suốt thực thi đức công bình yêu thương, chỉ những đủ ơn Chúa, mới gọi là khôn ngoan, là người quản lý trung thành với nén bạc Chúa trao. Amen.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ MỚI

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Một trong những chủ đề chính của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là Đức tin. Tôi muốn chúng ta tập trung suy nghĩ đề tài này.

Khi được Rửa tội, chúng ta mang một danh hiệu mới rất đẹp đó là “người Kitô hữu,” người tin vào Chúa Kitô, người theo và có Chúa Kitô. Chính vì thế khi bắt đầu nghi thức, linh mục đại diện Giáo Hội hỏi chúng ta: “Chúng con xin gì,” cha mẹ chúng ta thưa: “Xin ơn đức tin.”

Vậy thì tin có nghĩa là gì? Sách Giáo Lý Công Giáo có một định nghĩa rất vắn gọn: “Tin là lời con người đáp trả lại Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải và hiến mình cho con người, khi ban ánh sáng chứa chan cho con người đang đi tìm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình” (s. 26).

Quả thế, tin không phải là tin vào một cái gì, vào một học thuyết, một ý thức hệ, một số lề luật, một số tín điều…, nhưng tin chính là gặp gỡ, là gắn bó với một Con Người, bước theo một Con Người, hiến mình cho một Con Người và để Con Người đó hướng dẫn ta, chỉ cho ta biết đâu là hạnh phúc đích thực, đâu là ý nghĩa tối hậu của cuộc đời. Con Người đó có tên là Đức Giêsu Nadarét. Như thế, tin là gặp gỡ, gắn bó với Đức Kitô và cùng với Người bước đi trong cuộc đời này.

1- Những trở ngại của đức tin

Nhưng sống niềm tin vào Đức Kitô trong bối cảnh của ngày hôm nay, chúng ta đang bị thử thách, đang gặp trở ngại.
Trong cuốn The New World of Faith, Đức Hồng Y Every Dulles, một nhà thần học gia nổi tiếng của nước Mỹ, nói tới ba trở ngại lớn:

1) chủ nghĩa duy lịch sử;
2) chủ nghĩa đa nguyên;
3) và tâm thức thị trường tự do.

Trước hết, chủ nghĩa duy lịch sử khiến cho con người không còn chấp nhận có chân lý nào là tuyệt đối, vì mọi sự đều thay đổi, kể cả những xác tín đã cắm rễ thật sâu, nay cũng bị đảo lộn, lật nhào. Chẳng hạn như vấn đề hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly, vấn đề hôn nhân đồng giới, ly dị và phá thai…

Kế đến, các phương tiện truyền thông cho phép người ta tiếp cận vô vàn những tư tưởng khác nhau, từ đó họ nghĩ rằng đức tin Kitô giáo cũng chỉ là một trong rất nhiều lựa chọn, do đó không mang tính tuyệt đối. Chẳng hạn ngày xưa, cha ông chúng ta luôn xác tín rằng muốn được cứu độ, phải cho con cái vào trong Giáo Hội, được rửa tội, nhưng ngày nay, nhiều gia đình cha mẹ để cho con cái muốn theo đạo nào cũng được, bởi vì đạo nào cũng tốt, cũng như nhau.

Cuối cùng, thế giới hôm nay là thế giới của thị trường tự do. Về mặt tư tưởng cũng thế, tôn giáo và các hệ tư tưởng cũng bị biến thành món hàng trên thị trường cạnh tranh mua bán, và người ta cứ việc mua hay bán thứ tôn giáo nào hợp với sở thích của mình.

Sống trong một thế giới như thế, tất cả chúng ta cũng đang bị cuốn hút vào cơn lốc và dòng chảy đó của cuộc sống. Đức tin của chúng ta như con thuyền bé nhỏ bấp bênh, bị đong đưa, trôi dạt bởi những làn sóng đó. Và thực tế đã có nhiều người đánh mất đức tin, con thuyền đã chìm vì không có định hướng.

2- Một đức tin cá vị và tỉnh thức

Trước những thách đố mới đó, vậy đâu là sức mạnh để giúp chúng ta giữ vững đức tin? Đọc Tin Mừng hôm nay, tôi tìm thấy câu trả lời cho vấn nạn đó. Nghĩa là mỗi người chúng ta phải có một đức tin mang tính cá vị và tỉnh thức.

Trước hết, đức tin của chúng ta phải mang tính cá vị: có nghĩa là đức tin đó phải là một xác tín, là một chọn lựa riêng của mỗi người chúng ta. Như Ápbraham, được Chúa gọi ông lên đường, dù không biết mình sẽ đi về đâu, nhưng ông vẫn xác tín và tin vào lời hứa của Thiên Chúa. Cuộc sống ngày hôm nay có bao nhiêu lối rẽ, bao bóng mát cuộc đời, bao cám dỗ mời mọc hấp dẫn, nhưng tôi xin chọn “Chúa là gia nghiệp của riêng mình” (Tv 32, 12b). Và tôi xác tín rằng chỉ có Chúa mới mang lại ý nghĩa cuộc sống, ơn cứu độ, Nước Trời, sự sống đời đời cho tôi như Chúa đã hứa (bài đọc II và bài Tin Mừng). Với xác tín cá vị đó, dù môi trường, hoàn cảnh có thay đổi, dù thấy những mời mọc khác, nhưng tôi vẫn trung kiên theo Chúa cho đến cùng. Đức tin như thế là cuộc gặp gỡ mang tính cá vị với Đức Giêsu, và chỉ có đức tin đó mới giúp chúng ta vững vàng trước những thách đố mới của cuộc sống hôm nay.

Thứ đến, sống đức tin hôm nay, chúng ta cần phải tỉnh thức: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn sáng trong tay… Các con hãy sẵn sàng vì giờ các con không ngờ thì Con Người sẽ đến.” Tỉnh thức có nghĩa là không có ngủ. Và nếu mắt có ngủ nhưng lòng vẫn thức. Theo một nghĩa tinh thần, tỉnh thức có nghĩa là nhạy bén nhận ra các giá trị và lời mời gọi của Tin Mừng, và nhận ra những nguy cơ và nguy hiểm của đức tin, nhận ra những điều nghịch với Tin Mừng.

Nhưng vì bản tính của Ađam trong chúng ta, nhiều lúc chúng ta thích ngủ hơn là thức. Hơn thế nữa, ngày hôm nay có những cám dỗ và lối sống rất ư ngọt ngào, êm ái như nệm mút vậy, chúng ta tự nhủ: “Thức làm gì cho mệt. Dại gì mà thức, mình hưởng tí rồi đi xưng tội có sao đâu!” Vâng, chúng ta vẫn cứ lý luận theo kiểu của những đầy tớ bất tín trong Tin Mừng… Bởi thế, Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để biết mình, nhận ra mình đang ở đâu, nhận ra những nguy cơ và nguy hiểm của cuộc sống mà chúng ta đang đối diện. Nhờ sống tỉnh thức, chúng ta nhận ra những nguy cơ đang làm tổn hại tới đức tin và đời sống của mình.

Lạy Chúa, con thuyền đức tin của Chúng con đang bị sóng gió cuộc đời vùi dập, xin Chúa ban cho chúng con có một đức tin sống động, mang tính cá vị và biết tỉnh thức, để dù có phải trải qua những thử thách, chúng con vẫn trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin cho ngọn đèn đức tin của chúng con luôn cháy sáng, luôn chờ đợi sự trở về của Chúa để cùng với Chúa vui hưởng hạnh phúc Nước Trời. Amen!

Về mục lục

.

TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”(Lc 12,32). Sự gì Thiên Chúa đã trao ban thì Người không bao giờ lấy lại. Nước Trời là vương quốc tình yêu, nơi tràn đầy hạnh phúc, hạnh phúc vĩnh cửu. Thiên Chúa đã trao ban Nước Trời. Có thể nói đây là điều kiện cần, là nguyên nhân tác thành hạnh phúc vĩnh cửu của con người. Thế nhưng còn cần sự đáp trả của phía con người, xét như là loài có ý thức và tự do. Và có thể gọi đây là điều kiện đủ để con người, từng người đạt đến hạnh phúc đích thực.

Chìa khóa của sự đáp trả phía con người đó là niềm tin. Khởi đầu nghi thức ban Bí tích Thánh Tẩy cho người trưởng thành, người xin lãnh nhận bí tích đã xin ơn đức tin và khẳng định rằng đức tin đem lại cho họ sự sống đời đời. Vậy thử hỏi tin là gì? Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái dùng hình ảnh tổ phụ Abraham để giảng giải hành vi đức tin đó là đón nhận và thực thi lời Thiên Chúa phán dạy, cho dù nhiều khi với lý trí tự nhiên khó có thể hiểu cặn kẻ nội dung những lời được truyền. Chính nhờ đức tin mà Abraham đã vâng theo lệnh Thiên Chúa, dẫu cho lệnh ấy làm ông phải quặn thắt ruột gan, chẳng hạn như lệnh truyền hiến tế chính người con trai duy nhất (x.Dt 11,8-19). Tin là chấp nhận những gì Chúa phán dạy đều là chân thật vì Thiên Chúa không hề lừa gạt ai (x.Dz 3008).

Bài trích Tin Mừng thánh Luca Chúa Nhật XIX, Giáo Hội cho chúng ta nghe những lời dạy của chính Con Thiên Chúa làm người, Giêsu Kitô. Để có được kho tàng ở trên trời là hạnh phúc vĩnh cửu, Chúa Kitô truyền dạy chúng ta hãy sống tỉnh thức và sẵn sàng.

Sống tỉnh thức: Thái độ tỉnh thức là không mê đắm, không bị trói buộc trong những sự tạm thời, chóng qua ở đời này. Dù cho những thiện hảo đời này có tốt, có đẹp bao nhiêu đi nữa thì chúng chỉ là nhất thời và qua đi. Chúa Kitô đã dùng hình ảnh bị mối mọt, bị ten sét, bị trộm cướp để minh hoạ sự thật này. Các bậc hiền giả xưa nay cũng chân nhận rằng sắc đẹp không qua khỏi làn da, của tiền không theo chúng ta vào nấm huyệt lạnh, công danh quyền chức chỉ là một thời.

Người sống tỉnh thức là người biết tự do với cả mạng sống mình ở đời này. Thân xác thì hơn áo mặc, mạng sống thì hơn của ăn và hạnh phúc vĩnh cửu thì hơn cả mạng sống đời này. Họ là những người không nao núng trước quyền lực chỉ có thể làm hại sự sống đời này của họ nhưng không thể làm hại đến sự sống đời đời.

Sống sẵn sàng: Suy xét đến cùng thì thái độ sống tỉnh thức chỉ dừng lại ở mặt tiêu cực. Kitô hữu sống tự do với các thực tại đời này không phải để cho bản thân thoát khỏi những hệ lụy tiêu cực của những sự chóng qua mà anh em Phật tử gọi là vòng khổ ải, nhưng là để sống yêu thương cho đến cùng. Đây là nội hàm của tinh thần sẵn sàng mà Chúa Kitô dạy.

Khi thánh Phêrô hỏi về dụ ngôn người đầy tớ tỉnh thức sẵn sàng đợi chủ đi ăn cưới về thì Chúa Giêsu đã giảng giải tinh thần sẵn sàng qua hình ảnh người quản gia trung tín, khôn ngoan phân phát thóc gạo đúng giờ cho kẻ ăn người ở. Sự sẵn sàng ở đây không hướng đến những người vai vế ở trên, nhưng là đối với những người ở phận dưới (x.Lc.12,41-48; Mt 25,45-50).

Những người ở phận dưới trước hết là những người mà chúng ta đang có trách nhiệm cách trực tiếp như đàn chiên Giáo Hội trao phó, con cái, học trò… Họ cũng là những người thấp cổ, bé phận trong xã hội, những người xấu số, kém may mắn trước mặt ngưòi đời, nói chung là tất cả những tâm hồn bé mọn mà Tin Mừng đề cập. Thánh sử Matthêu đã tường thuật cho chúng ta dụ ngôn Chúa Giêsu kể về ngày cánh chung nhắc nhớ chúng ta luôn sẵn sàng chu toàn bổn phận yêu thương với những tâm hồn ấy.

Mỗi khi dâng Thánh Lễ, Kitô hữu chúng ta đều đấm ngực ăn năn về nhiều tội đã phạm trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Vẫn có đó nhiều con cái Chúa chưa hình dung rõ ràng về những tội thiếu sót. Theo ngôn ngữ tiếng Việt thì người ta dễ lầm tưởng đó là những tội quên sót. Xin khẳng định rằng những tội mà chúng ta dễ quên hay dễ bỏ sót khi xét mình thì hình như không đáng gọi là tội. Nếu thực sự là tội theo đúng nghĩa thì một Kitô hữu trưởng thành, ngay chính không dễ gì quên hay bỏ sót. Tội thiếu sót là tội chúng ta đã bỏ qua những việc tốt, những việc phải làm trong khả năng và hoàn cảnh của chúng ta theo nghĩa vụ sống yêu thương. Bản dịch Anh ngữ thì hình như khá rõ về điều này: “I confess to almighty God, and to you, my brothers and sisters, that I have greatly sinned, in my thoughts and in my words, in what I have done and in what I have failed to do…”

Vì người ta lại bỏ qua những việc phải làm? Cũng có thể vì sự vô tâm. Tuy nhiên cần phải nói rằng số người sống vô tâm, bạc tình có lẽ không nhiều. Nhưng số người mắc phải tội “quên sót’ thì không ít. Vì dính bén chút của tiền hay danh vọng, vì quá quyến luyến sự sống đời này nên người ta đã bỏ qua những việc cần làm, những việc phải làm theo khả năng và hoàn cảnh của mình, nhất là theo đòi hỏi tình yêu Tin Mừng. Một thực tế khó bề chối cãi, đó là người ta dễ dàng sẵn sàng với người phận trên, với kẻ nhiều tiền hay quyền cao chức trọng, nhưng lại thờ ơ với những người thấp cổ bé phận. Xin chớ quên lời của Chúa Kitô: Hạnh phúc Nước Trời hệ tại ở chính những nghĩa cử chúng ta đã làm cho các anh em bé mọn chứ không phải cho những người phận cao.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN_C

 

Về mục lục

.