Các bài suy niệm Chúa Nhật 19 Thường Niên Năm B

1317

Lời Chúa:  1V. 19, 4-8;  Ep. 4, 30-5,2;  Ga. 6, 41-51

———

Mục lục

1. Nguồn trợ lực siêu nhiên (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hãy tin tôi  (Lm. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Bánh bởi trời.  (Lm. Thái Nguyên)

4. Hãy trở về với lòng thương xót Chúa  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

5. -Bánh Hằng Sống  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Lương thực thường tồn (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

7. Từ Manna đến Chúa Giêsu (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Bánh Hằng Sống thời Covid (Quỳnh Thoại, CĐM)

9. Tiếp sức  (Trầm Thiên Thu)

10. Thánh Thể nhiệm tích vô cùng cao quí  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

11. Ai Bánh Hằng Sống đây! (Lm. Nguyễn Xuân Trường)

12. Chối bỏ Đức Giêsu là chối bỏ sự sống đời đời (Lm.Phaolô Phạm Trọng Hương)

13. Lương thực đi đường (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

14. Bánh tình thương  (Lm. Trần Ngà)

 

Mục lục (2018)

1. Thần lương ban sức mạnh  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Bánh bởi trời  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Phúc đức trong tầm tay (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Hãy đến với Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

5. Ta là Bánh ban sự sống (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

6. Bánh Hằng Sống  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Bánh Hằng Sống. (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

8. Có ai thấy Chúa Cha đâu (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Thần lương độ đường (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Suy niệm Chúa Nhật 19 Thường niên_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

11. Suy niệm Chúa Nhật 19 Thường niên_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

12. Bánh Hằng Sống từ trời xuống  (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

13. Sự sống vĩnh cửu  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

14. Bánh Hằng Sống-  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

15. Người cõi trên  (Trầm Thiên Thu)

16. Hãy mở tâm hồn  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

17. Để có thể tin phải giữ tâm hồn rộng mở (Lm. Trần Bình Trọng)

18. Tôi là bánh từ trời xuống  (Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

19. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 19 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

20. Thánh Thể, nguồn mạch sự sống đời đời  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

21. Thánh Thể: Man-na mới trên đường về quê trời (Lm. Đan Vinh)

 

NGUỒN TRỢ LỰC SIÊU NHIÊN

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Lời Chúa trong sách Các Vua kể với chúng ta việc ông Êlia chạy trốn vua Akáp. Là người thực thi sứ mạng Chúa trao, ngôn sứ Êlia đã nhiệt thành can đảm, dám đương đầu với 450 tiên tri của thần Baal. Kết quả là 450 tiên tri này đã bị giết chết. Sự thua cuộc bẽ bàng đã khiến cho hoàng hậu Zerabel nối giận và thề giết cho được Êlia. Nghe tin dữ đó, Êlia đã chạy trốn. Trong tâm trạng buồn chán, ông xin Chúa cho mình được chết đi. Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai dấn thân phụng sự Ngài. Chính vào lúc Êlia đang buồn chán thì Chúa can thiệp. Ngài đã sai sứ thần đem đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ bánh và nước này mà vị ngôn sứ của chúng ta có đủ sức trong 40 ngày trên đường tiến về núi Horeb. Bánh và nước đã ông sức mạnh để tìm về núi Hôreb, là núi của Thiên Chúa, để tìm ở đó nguồn sức mạnh.

Nếu ngôn sứ Êlia được Chúa nuôi dưỡng trên đường lên núi Horeb ngày xưa, thì hôm nay Chúa cũng đang nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình trần thế. Cuộc sống của con người, theo nhãn quan Kitô giáo, cũng là một hành trình vượt sa mạc để lên núi của Thiên Chúa. Cuộc hành trình và lên núi này đòi hỏi chúng ta phải có đủ sức mạnh thể lý và tinh thần, vì đây là hành trình đầy gian nan và cám dỗ. Lương thực mà Chúa ban cho chúng ta chính là Thánh Thể và Lời Chúa. Nhờ nguồn trợ lực siêu nhiên này mà chúng ta có thể tiến bước trong bình an và hạnh phúc.

Tin Mừng trong Phụng vụ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh trường sinh. Chúa Giêsu nhấn mạnh tới khía cạnh thần linh của bánh mà Người sẽ ban. Người Do Thái chỉ nhận ra nơi Chúa Giêsu là con ông Giuse thợ mộc, nên họ khó nhận ra bánh mà Đức Giêsu nói tới. Đây là bánh từ trời, cũng như Đức Giêsu từ trời xuống, vì thế, bánh này là lương thực thiêng liêng Chúa ban. Nếu ngày xưa, Thiên Chúa nuôi dân trong hành trình sa mạc bằng Manna, thì nay, Chúa Giêsu là Manna từ trời xuống. Cũng như bánh cần thiết cho sự sống thân xác, bánh thiêng liêng là chính Chúa Giêsu cần thiết cho sự sống thần linh nơi chúng ta. “Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như những người Do Thái, khi nghe Chúa Giêsu nói về thịt của Người. Nếu màu nhiệm nhập thể dẫn tới việc “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (Ga 1,14), thì nay, “xác thịt đã trở thành Bánh” (Ga 6,51). Khi nghe Chúa Giêsu nói, Người sẽ lấy thịt mình cho họ ăn, người Do Thái coi đây là sự mạo phạm. Liên hệ với cuộc khổ nạn và được soi sáng bởi mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, người Kitô hữu nhận ra nơi Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Giêsu, Đấng Cứu nhân độ thế. Đây là lương thực thiêng liêng, là lương thực giúp chúng ta được tăng trưởng mỗi ngày trong hành trình lên núi của Thiên Chúa về quê trời.

Cơn đói bánh là nỗi lo của con người mọi thời đại. Những xung đột và chiến tranh xảy ra cũng nhằm để giải quyết cơn đói này. Đâu là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nhắn gửi nhân loại, khi hiến trao thân mình Người cho chúng ta? Đó là sứ điệp của sự sẻ chia, dấn thân phục vụ. Thánh Thể là bài học yêu thương. Như Đức Giêsu đã trao ban chính bản thân mình, người tín hữu được mời gọi bắt chước Chúa, dấn thân phục vụ, để trở nên những cánh tay nối dài của Người giữa trần gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự và trao phó cho con người quản lý. Nếu biết phân phối công bằng, thì của cải trên thế giới đủ để nuôi sống tất cả mọi người. Nghèo đói, bất công là con người ích kỷ, chỉ biết chiếm hữu cho mình mà quên tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Sự phân phối bất công của cải vẫn tồn tại, tạo nên tình trạng tội lỗi mang tính xã hội, tình trạng ấy kêu thấu trời xanh và làm cho quá nhiều anh chị em chúng ta không có khả năng đạt được một cuộc sống đầy đủ hơn.”Nghĩa cử quảng đại chia sẻ sẽ đem cho chúng ta hạnh phúc, vì “Chỉ khi nào biết xả thân cho người khác, chúng ta mới thành công trong đời sống và mới cảm nghiệm được nỗi vui mừng của Thiên Chúa”(Michel Quoist).

Được nuôi dưỡng nhờ Thánh Thể, cuộc đời người Kitô hữu phải được canh tân. Thánh Phaolô nói với giáo dân Êphêsô: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô”. Vị Tông đồ dân ngoại cũng khuyên các tín hữu hãy chia sẻ quảng đại theo gương Đức Giêsu: “Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.” (Bài đọc II).

Trong những ngày này, qua các phương tiện thông tin, chúng ta được biết có hàng ngàn hàng vạn người dân nghèo vội vã rời bỏ các đô thị có dịch để trở về quê, tránh đại dịch Covid-19. Nhiều cảnh đời rất đáng thương, vạ vật bên đường. Không chỉ những người trên đường về quê, có nhiều nơi đang phải cách ly, phong toả và giãn cách. Họ đang cần lắm những “sứ thần” mang đến cho họ sự giúp đỡ. Nếu không có khả năng giúp đỡ vật chất, chúng ta đều có thể cầu nguyện cho họ, xin Chúa cho những người nghèo khó và đau khổ được ơn nâng đỡ nhờ nguồn trợ lực siêu nhiên. Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng, Chúa có thể làm những điều kỳ diệu để nâng đỡ chúng ta. Ngài chính là nghuồn trợ lực siêu nhiên đối với những ai tin tưởng trông cậy nơi Ngài, như tác giả Thánh vịnh chia sẻ với chúng ta: “Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ”.

Về mục lục

HÃY TIN TÔI

Lm. Jos DĐH.

Sợ người có chức quyền, thích làm bạn với kẻ sang giầu, nể phục bậc hiền tài, kính trọng người đức độ, uy tín, không phải là điều khó hiểu nơi cuộc sống đầy phức tạp này. Người xưa có những kinh nghiệm hết sức cao quý: cho dù con đi trật đường sai hướng lâu như thế nào, con luôn có lựa chọn quay đầu trở lại. Khôn ngoan tài giỏi, tỉ lệ thành công bao giờ cũng cao, người khiêm tốn, chân tình, chắc chắn sẽ có nhiều bạn hiền, nhưng tất cả đều phải chịu trách nhiệm về sự tự do của mình. Hãy chịu khó, chứ đừng khó chịu. Dù biết và hiểu quy luật: sinh – lão – bệnh – tử, nhưng ai cũng được mời gọi sống sao cho có tình có nghĩa, để không phải hổ thẹn với tổ tiên thiên địa. Hãy vui vẻ với điều kiện, khả năng ta đang có, nhưng chớ đòi người khác phải dành ưu ái cho mình.

Đám đông dân chúng xưa kia có bước khởi đầu đến với Đức Giêsu rất mông lung, rồi bước kế tiếp họ được nghe, được xem thấy phép lạ chữa bệnh, trừ quỷ, được no cơm bánh, được vừa đủ tình yêu thương, mở ra một tương lai hạnh phúc thật lớn cho họ. Đừng nghi ngờ lòng tốt của cha mẹ, hãy tin Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, dù mắt xác phàm và tâm trí của ta còn nhiều giới hạn. Biết tìm kiếm sự sống đời đời, biết thao thức có được “Bánh trường sinh”, quả thực, bạn đã là người khôn ngoan rồi. Tài giỏi hơn một chút ở đời này, họ sẽ áp dụng tiêu chí: ai thương, ta tìm tới, ai ghét, ta lánh thân. Hạnh phúc hơn nữa, là ai nghe, hiểu, tin, và biết thực hành lời Đức Giêsu phán dạy: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”, thì quả là tuyệt vời.

“Hãy tin tôi”, cơm bánh vật chất chỉ nuôi được thân xác, Bánh Giêsu, mới đúng thật là thứ bánh mang lại sự sống đời đời. Mỗi người trước hết, tự mình phải trả lời có thứ bánh trường sinh bất tử không ? Khi đủ khôn để gật đầu thưa có, hẳn ta đừng “lăn tăn” đòi hỏi một kiểm chứng, hãy tin lời sách tiên tri quả quyết: “mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo”. Người “si tình” thường được diễn tả hết sức dại khờ: hãy yêu tôi, nếu không tôi sẽ chết. Kẻ độc ác lại điên khùng nói: hãy yêu ta, nếu không ta sẽ giết ngươi ! Đức Giêsu không ủy mị, không bạo lực, Ngài mở ra cho mỗi người sự tự do chọn lựa: “thật, Ta bảo thật các ngươi: ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống”.

Hãy tin tôi, có phải là ưu tư của bạn không ? Vâng, tin và sống niềm tin “Bánh Giêsu”, chính là thao thức của người khôn ngoan biết tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm sự sống đời đời, dù họ không có cơ hội để truyền kinh nghiệm cho ta. Nhà vật lý “đại tài” Ac-xi-met, có một câu khá thuyết phục: hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên. Bậc thánh hiền không cần phải “đại tài”, nhưng phải “đại đức”, người tin Đức Giêsu không cần “đòn bảy mưu trí”, nhưng cần “điểm tựa Giêsu”, qua đó, ta sẽ thắng được tính kiêu căng và nết xấu của mình, hầu đạt tới niềm vui bất tử trong tình yêu Giêsu. Hãy tin Đức Giêsu là bánh trường sinh, tin giáo hội được Đức Giêsu thiết lập trên nền tảng yêu thương và hiệp nhất, tin sự hiện diện của Đấng Kitô nơi người anh chị em mà ta gặp gỡ.

Sách có câu: đừng lấy dạ tiểu nhân để đo lòng người quân tử ! Cũng vậy, người ta không thể lấy tiền của và tình yêu thương, đổ đồng như nhau, bằng nhau. Không ai có thể lấy cơm bánh để nuôi linh hồn, hoặc lấy bánh tình thương để nuôi thân xác. Không ai lại lấy danh lợi thú ở đời, mà so sánh với giáo huấn của Đức Giêsu. Tin Đức Giêsu là bánh hằng sống, không phải ta sẽ có một cuộc sống dễ dãi, nhưng tin yêu Đức Giêsu là sống tình liên đới, hiệp thông trọn vẹn trong tình yêu, hầu được dẫn dắt tới niềm vui hạnh phúc đời đời. Cơm áo gạo tiền nuôi xác, không ai thắc mắc làm gì, bánh Giêsu nuôi hồn, đem lại sự sống đời đời, không hề dễ đối với những ai cậy dựa vào năng lực tính toán của mình. Người Do-thái tìm đến Đức Giêsu hay nhân loại tìm đến Đức Giêsu, đều tùy thuộc vào tình yêu, niềm tin và hành động riêng nơi mỗi người.

Hãy tin tôi, nếu bạn không thể là mặt trời, xin cũng đừng có ý tưởng là đám mây. Đức Giêsu chiếu soi vào từng tâm hồn mỗi người một ơn ban: của ăn nuôi xác và của ăn mang lại sự sống trường tồn, đều phát xuất bởi tình yêu Thiên Chúa. Gặp Đức Giêsu bằng mắt xác thịt, bằng mắt đức tin, nghe Đức Giêsu giáo huấn trực tiếp hay gián tiếp, đều là ơn ban, là cơ hội để giúp con người đạt tới đức ái vẹn toàn. Biết Đức Giêsu là con bác thợ mộc thì không sai, tin con bác thợ mộc là Thiên Chúa cứu độ, là Bánh trường sinh, nhất định phải trải qua giai đoạn biến đổi tâm tính, thay đổi lập trường sống tín thác vào Đấng đang hiện diện. Trường sinh bất tử hay trẻ mãi không già, là mơ ước đúng, đẹp, nhưng nếu chỉ dừng lại ở khao khát vu vơ, sao được gọi là khôn ngoan, là tin yêu ? Phân biệt bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể là Bánh Giêsu, là của ăn nuôi hồn, còn mở lòng ra bày tỏ niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, tùy tự do của từng người chúng ta. Amen.

Về mục lục

BÁNH BỞI TRỜI.

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Chúng ta sẽ cảm nhận bài Tin Mừng sâu hơn khi quay lại với bối cảnh thời Cựu Ước, lúc Ítraen vừa đặt chân vào đất Canaan. Ở đó đã có sẵn một tôn giáo thờ thần Baan, là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của sự phú túc. Đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống nông nghiệp lúc bấy giờ. Thế là Irael bắt đầu tiêm nhiễm thứ đạo ngoại lai ấy, và ngày càng gia tăng cho tới thời vua Akhát.

Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đức tin, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật: Giavê hay Baan? Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa, và phép lạ đã xảy ra. Điều đó cho thấy Thiên Chúa của Ítraen mới là Chúa tể các năng lực thiên nhiên, và là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17- 40). Thế nhưng sau đó, Êlia phải chạy bán mạng trước sự trả thù của Ideven. Trên đường trốn tránh, Êlia đói lã, chán nản, thất vọng, nên xin cho mình chết đi. Sứ thần Chúa đã mang đến cho ông bánh và nước. “Nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrép, ông được gặp Đức Chúa, lấy lại được niềm tin và sức mạnh tinh thần để tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.

Các Giáo phụ nhận ra những chiếc bánh mà sứ thần đem đến cho Êlia là hình ảnh tiên báo về phép Thánh Thể, để nuôi dưỡng tín hữu trên đường về quê trời. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như chiến sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của sự nỗ lực từ bỏ nếp sống trần tục, đi vào trong thinh lặng nội tâm để tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng ban lương thực trường sinh.

Lương thực trường sinh đó chính là Đức Giêsu, Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, và Ngài đã nói rõ cho người Do Thái biết: “Tôi là bánh từ trời xuống… là bánh trường sinh”. Người ta khó mà lãnh hội được ngay mạc khải sâu nhiệm ấy? Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Con cái Ítraen cũng đã từng xầm xì để bày tỏ sự ngờ vực đối với Môsê: họ không tin vào sứ mạng của ông là do Thiên Chúa trao ban. Vẫn đi theo chiều hướng của tổ tiên, người Do Thái một lần nữa xầm xì, nói lên sự hoài nghi của họ về con người của Đức Giêsu. Đối với họ, Đấng Mêsia phải xuất hiện thình lình mà không ai biết Người từ đâu đến. Dựa trên những lý lẽ như vậy, người Do Thái thấy mình hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ các khẳng định của Đức Giêsu.

Ngài liền cho họ biết: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy”. Quả thật, nếu người Do Thái dám để cho lòng họ mở ra với những dấu chỉ của Thiên Chúa, họ sẽ được lôi kéo đến với Đức Giêsu. Ngôn sứ Isaia đã từng nói: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Việc dạy dỗ này về phía bên ngoài cho thấy chính Đức Giêsu đang ở giữa họ, và phía bên trong là Thiên Chúa đang hành động trong trái tim họ, nhưng rồi họ vẫn khép lòng mình lại. Sau đó, Đức Giêsu chuyển sang một đề tài mới: vấn đề không chỉ là tin vào Ngài để được sống đời đời nữa, mà là ăn thịt và uống máu Ngài. Chúa Giêsu không chỉ nói về Bí tích Thánh Thể, nhưng còn muốn nêu bật giá trị cái chết của Ngài trên thập giá, là chính Ngài hiến dâng mạng sống mình để cho thế gian được sống.

Trường sinh bất tử là ước mơ của con người qua muôn thế hệ, nhưng con người không thể sống mãi với thân xác từ bụi cát này. Nó phải trở về cát bụi, nhưng cát bụi sẽ trở thành con người mới trong sự sống muôn đời, do quyền năng của lòng Chúa thương xót. Sự sống đời đời không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng sự sống linh hồn để ta đủ sức đi về cõi trường sinh.

Cầu nguyện

Lạy Cha là Thiên Chúa!
Dù trước mắt sự thật đã rành rành,
nhưng rồi thiện ác vẫn phân tranh,
người lành vẫn luôn bị xử tệ,
kẻ dữ xem ra luôn thắng thế.

Ai bảo vệ sự thật đều điêu đứng,
ngôn sứ Êlia cũng buồn sầu thất vọng,
chỉ khi được ăn bánh của thiên thần,
mới tiếp cuộc hành trình đầy phấn chấn.

Chúng con cũng băng qua sa mạc đời,
phải đối đầu với thử thách không ngơi,
nhất là trước lòng dạ của người đời,
khiến chúng con phải nhiều phen chới với.

Dù tuổi trẻ hăng say và mạnh mẽ,
nhưng rồi cũng lắm kẻ phải buông xuôi,
khi không được chia sẻ nỗi ngậm ngùi,
một mình phải thui thủi trong sầu não.

May mắn cho đời con có Chúa đây,
Đấng không chỉ ở trên chín tầng mây,
Đấng không chỉ ở Lời Ngài phán dậy,
mà còn chính Đức Giêsu Con Cha nữa,
là Tấm Bánh Cha ban xuống cho nhân thế,
bánh trường sinh là Thánh Thể nhiệm mầu.

Ít khi con cảm nhận sự thâm sâu,
sức mạnh linh thiêng của Mình Máu Chúa,
là sự sống không tàn úa của đời con,
bao lần con đón nhận như thói quen,
khiến tâm trí đời con vẫn khô cằn,
thiếu sức mạnh vượt qua những khó khăn.

Xin cho con lòng cảm mến vô vàn,
ân huệ cao vời mà Cha đã thương ban,
để con hân hoan vững bước đường đi tới,
về nơi vinh phúc chốn quê Trời. Amen.

Về mục lục

HÃY TRỞ VỀ VỚI LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Saigon đang dịch bệnh bùng phát, sự dữ lan tràn, nhưng ta lại nghe kể nhiều về những nghĩa cử cao đẹp, về tình cảm tốt, thái độ tử tế, và tấm lòng rộng rãi của người này người kia đối với người, với nơi bị phong tỏa , chúng ta gọi đó là lòng tốt của sự thương cảm giữa người với người dành cho nhau.

Ở lúc khó khăn này người ta mới thấy cần đến tình người để bao bọc, để chia sẻ, để nương tựa nhau là cần thiết. Khi Covid chưa đến thì con người xa cách nhau, và luôn cảm thấy đồng tiền và quyền lực sẽ bảo vệ mình, và sẽ cho mình một cuộc sống bình an, hạnh phúc.

 Rồi bỗng nhiên một buổi sáng ngôi nhà bị phong toả, con hẻm bị giăng dây, và có khi cả khu phố bị rào chắn, tự dưng mình lại trở thành như những tù nhân thiếu thốn mọi sự, hoang mang đủ điều . . . Lúc này, con người mới thấy cần lắm tình người dành cho nhau, giầu nghèo lúc này đều như nhau. Có tiền cũng không mua được tiện nghi cho mình. Có quyền lực cũng không cho mình sự bình an. Con người thực sự cần đến bình an.

Nhưng có thật là khi con người quây quần bên sẽ mang lại bình an cho nhau không?

Thưa không, vì những sự quan tâm chia sẻ cho nhau chỉ làm giảm bớt lo lắng và phần nào yên tâm về thể lý, hoặc tâm lý. Nó không mang lại bình an thực sự. Sự bình an thực sự chỉ có ở nơi Đấng có thể chiến thắng sự dữ mới giúp cho con người an toàn khi nương nhờ nơi Ngài.

Đó chính là lòng xót thương của Thiên Chúa. Con người lúc này cần Thiên Chúa xót thương và giải cứu. Cần Thiên Chúa cúi xuống để che chở. Cần Thiên Chúa cúi xuống để băng bó vết thương cho con người. Đây là điều mà Chúa Giê-su đã mặc khải cho thánh nữ  Maria Faustina về sự bình an cho thế gian chỉ có khi nào con người quay trở về nương ẩn nơi Lòng Chúa Thương Xót  . Trong NK LTX số 699 viết:

“Các linh hồn đừng sợ đến gần Cha, ngay cả khi tội lỗi nó đỏ tươi như máu. Lòng thương xót Cha rộng rãi vô biên đến nỗi trí khôn của con người hoặc của thiên thần cũng không có thể đo lường được. Nhân loại sẽ không được bình an cho đến khi chúng quay về Suối Nguồn Tình Thương của Cha”.

Nhìn vào cuộc Cuộc đời dương thế của Chúa Giê-su đã chứng minh Ngài đến để mang bình an cho nhân thế. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.

Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.

Phải chăng Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng, tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?

Ứơc gì nhân loại hôm nay tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa và quay trở về nương ẩn nơi Lòng Thương Xót Chúa để được cứu chữa. Ước gì khi chúng ta nhận ra Lòng Chúa Thương Xót  dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại của mình. Amen

Về mục lục

-BÁNH HẰNG SỐNG

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục nói với ta về diễn từ “Bánh hằng sống”. Người chính là bánh hằng sống dưỡng nuôi nhân loại. Người chia sẻ với ta cơn đói thể xác khi hóa bánh nuôi dân chúng, Người cũng dẫn ta hướng đến một thứ lương thực dưỡng nuôi linh hồn ta, đó chính là Mình và Máu Thánh Người. Để khi được rước chính Thánh Thể Chúa, ta sẽ được no thỏa, được tham dự vào sự sống thần linh, được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6, 57).

Người Dothái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6, 41-42). Họ lại tập trung cái nhìn của mình về nguồn gốc, xuất thân của Thầy Giêsu. Họ nghĩ rằng mình biết rõ về ông Giêsu này, và họ hoài nghi về lời Chúa Giêsu mạc khải cho họ. Trong dịp về thăm quê, Chúa Giêsu cũng đã đứng lên đọc sách Thánh, giảng lời cho dân chúng nhưng những người đồng hương đã không tin Người, vì họ biết quá rõ về xuất thân của Người. Cũng giống như những người Do thái này, ta tự khép mình trong những suy nghĩ hạn hẹp, những thành kiến và cả những ảo tưởng về những người thân của ta hay về những người ta quen biết. Ta luôn nghĩ mình hiểu hết về họ, ta đi guốc trong bụng họ nhưng kỳ thực ta không hiểu họ. Ta dễ xét đoán và khó đón nhận người khác.

Đến với Chúa, đã bao lần ta cũng mang trong mình cách hành xử ấy. Ta chưa mở lòng mình ra trước Lời của Người. Có những bài Tin Mừng chỉ nghe mấy câu đầu, ta đã biết đằng sau đó là gì và ta dừng lại, không nghe nữa, hay tai ta vẫn nghe nhưng không nghe thực sự, vì ta đang chia trí lo ra. Lòng ta không cưu mang lời Chúa. Lắng nghe Chúa là điều rất quan trọng. Mỗi khi ta chia trí lo ra, Chúa Giêsu cũng đang nói với ta: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!”. Ta đang ‘xầm xì” với những bận tâm của ta về công việc, về một người nào đó. Ta cũng nghĩ “mình biết cả rồi” và Lời Chúa trở nên thật nghèo nàn trong tâm hồn ta. Hãy lắng nghe tường tận từng điều Chúa đang nói với ta, ngay trong tâm hồn ta. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 44). Muốn đến với Chúa phải có ơn Chúa. Ơn Chúa vẫn tuôn đổ xuống trên ta, điều cần thiết là ta hãy mở lòng ra trước ân sủng của Người. Chúa Cha vẫn không ngừng lôi kéo ta trong từng phút giây: “Đây là Con ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người” (x. Mc 9, 7). Kinh nghiệm yêu thương trong gia đình cho ta thấy: ta có thể yêu thương người khác dù ta không hiểu hết về họ. Bố mẹ yêu thương con, hy sinh cả cuộc đời cho con. Dù có lúc, những đứa con than trách rằng bố mẹ không hiểu mình, nhưng dù không hiểu hết về con nhưng tình yêu họ dành cho con thì không hề suy giảm. Yêu thương là điều kiện để giúp ta đến với người khác. Càng yêu họ bao nhiêu, ta sẽ dần hiểu hơn về họ, và ta đón nhận họ như họ là. Hãy yêu mến Thiên Chúa bằng cả con người mình, ngay trong chính những yếu đuối và giới hạn của mình. Chính khi yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn của mình, Thiên Chúa là Cha nhân lành sẽ đích thân dạy dỗ ta.

Lạy Chúa Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống, và cũng là lời hằng sống dưỡng nuôi con! Cảm tạ Chúa đã dưỡng nuôi con bằng Thánh Thể của Người và bằng chính Lời Chúa. Xin Chúa không ngừng thanh luyện tâm hồn con, những ước muốn trong con, để con không bao giờ ước muốn điều mất lòng Chúa. Cảm tạ Chúa đã luôn ban Chúa Thánh Thần cho con, để Người mở ra trong trái tim con một con đường tình yêu, con đường dẫn con đến với Chúa là nguồn sống của linh hồn con. Bất chấp sự giới hạn và bất toàn của con, tình yêu Chúa vẫn không ngừng mở ra cho con những con đường mới, nâng con lên, dẫn con đến với Chúa giữa những bất ổn của thế giới hôm nay. Amen.

Về mục lục

LƯƠNG THỰC THƯỜNG TỒN

Thiên San

Thánh Gioan thuật lại cho chúng ta nghe câu chuyện những người Do Thái xầm xì phản đối khi Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Trước sự phản kháng dữ dội của người Do Thái, Đức Giêsu không những không lùi bước mà còn quả quyết hơn về lời tuyên bố của mình. Người mặc khải rõ hơn về chính mình, mặc khải tình yêu của Người dành cho nhân loại: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).

“Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavit, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Đó là lời loan báo của sư thần Chúa trong đêm Hài nhi Giêsu chào đời. Sau những năm tháng lưu lạc nơi đất khách quê người, gia đình Thánh gia trở về quê hương. Biến cố Giáng sinh của Hài nhi Giêsu dường như chẳng còn ai nhắc đến. Những mục đồng được phúc chiêm ngắm Hài nhi Giêsu năm nào có còn chăng? Cuộc sống ẩn dật nơi ngôi làng Nadaret đã nuôi dưỡng Hài Nhi ấy lớn lên như bao đứa trẻ khác. Bản tính Thiên Chúa dần dần ẩn khuất nơi bản tính con người của Thầy Giêsu. Thật dễ hiểu khi người Do thái thắc mắc: Ông này chẳng phải là ông Giêsu đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: ‘Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42).

Giả như chúng ta ở vào thời của Đức Giêsu, khi nghe những lời tuyên bố của Ngài, chắc gì chúng ta đã tin. Thật khó hiểu, khó tin khi một người đang sống với chúng ta tuyên bố rằng chính họ là bánh từ trời, là bánh trường sinh và kêu mời chúng ta đến với họ để ăn “thịt” của họ. Điều đó thật kinh khủng. Kể cả ngày hôm nay, khi nghe những câu chuyện “ăn thịt người”, chúng ta cũng không khỏi ớn lạnh trong mình. Nhưng, quả thực, điều đó có thật. Lời tuyên bố và mời gọi của Đức Giê su vẫn vang lên, thôi thúc chúng ta lắng nghe, đón nhận chân lý mạc khải của Ngài. “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Như xưa Đức Chúa đã dùng bánh nuôi dưỡng ngôn sứ Êlia, giúp ông có đủ sức đi tiếp bốn mươi ngày đêm, nay qua Đức Giêsu, Thiên Chúa tiếp tục nuôi dưỡng mỗi người chúng ta qua bí tích Thánh Thể, là chính Mình và Máu Thánh của Ngài.

Phải chăng, vì biết rằng, nếu để chúng ta ăn thịt của Ngài theo kiểu ăn thịt của các loài động vật, điều đó thật khó khăn cho chúng ta vì không phải ai cũng có điều kiện để ăn thịt nên Ngài đã sáng kiến biến bánh và rượu, là sản phẩm ruộng vườn trở nên chính Mình và Máu Thánh Ngài. Điều này cũng tựa như việc biến dòng máu nơi người mẹ thành dòng sữa trắng tinh tuyền nuôi đứa con thơ. Dù trong hình thức nào, chúng ta vẫn luôn xác tín rằng, qua bí tích Thánh Thể, chúng ta thật sự được đón rước, được ăn chính Thịt và Máu của Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Điều đó cũng xảy ra ngay cả lúc ta đón rước Người một cách thiêng liêng khi tham dự thánh lễ trực tuyến hay bất cứ thời khắc nào trong ngày. Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, chỉ cần chúng ta thật sự khao khát kết hiệp với Ngài, khao khát đón rước Ngài.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được phúc đón rước Ngài vào lòng, được nuôi dưỡng bằng chính Mình và Máu Thánh của Ngài. Xin cho chúng con, dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn biết kết hiệp với Chúa, khao khát Chúa như khao khát được hít thở. Bởi chính Chúa là nguồn sống, là lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh. Xin đừng để chúng con đón rước Chúa cách hờ hững, theo thói quen hay trong tình trạng tội lỗi nặng nề. Chúng con xác tín rằng, chính Chúa Cha là Đấng đã lôi kéo chúng con đến với Ngài, cùng giúp chúng con sống bác ái, yêu thương nhau trong mọi hoàn cảnh. Amen.

Về mục lục

TỪ MANNA ĐẾN CHÚA GIÊSU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khởi đi từ phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, phụng vụ Lời Chúa các tuần tiếp theo giúp chúng ta đọc lại hầu như toàn bộ chương 6 Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là cơ hội để khám phá ra Tấm Bánh đích thực bởi Trời có tên là Giêsu, Bánh do Thiên Chúa Cha tặng ban để thế nhân ăn mà sống muôn đời.

Tin Mừng thánh Gioan hôm nay ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người Do Thái về bánh hằng sống, khơi lại manna thời Cựu Ước và nguồn gốc của Chúa Giêsu. Với lời tuyên bố: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống” (Ga 6,41). Chúa Giêsu đã gặp phải điều cấm kỵ trong dân Do Thái. Nhất là câu “Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Người dẫn chứng: “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ kêu trách: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống” (Ga 6, 42).

Manna là gì?

Căn cứ vào tiếng Do Thái thì Manna bắt nguồn từ “Man” có nghĩa là “Quà tặng”, nên Manna là quà Thiên Chúa ban tặng cho dân. Trên hành trình về Đất Hứa, qua sa mạc Sin, giữa Êlim và Sinai, dân Israel nổi loạn kêu trách Môsê đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào đây phải chết đói (x. Xh 16,3). Chính họ cảm thấy hối tiếc vì đã bỏ đất Ai Cập, dù làm thân nô lệ nhưng còn có thức ăn. Sau khi xảy ra chuyện phàn nàn này, Môsê đã xin Thiên Chúa ban cho Manna từ trời xuống làm của ăn dòng dã 40 năm trường (x. Xh 16, 1- 36). Thiên Chúa đã nhận lời và ban bánh xuống như mưa sa cho dân mỗi sáng thu nhặt bánh ăn thỏa thích trong ngày.

Đến lượt Êlia, người Tisbê, ở Galaad, sứ ngôn của Thiên Chúa, trong thời kỳ hạn hán không có mưa, có sương, Thiên Chúa đã dùng quạ ở thung lũng Cơrít và bà góa thành Xarépta nuôi ông (x. 1V 17, 1-15). Và trong cuộc hành trình đến núi Horeb của Thiên Chúa, ngài đã dùng chính Thiên Thần mang bánh đến cho ông ăn, nhờ “sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa” (1V 19, 8).

Manna hình ảnh báo trước về Chúa Giêsu

Lời ông Môsê trong sách Đệ Nhị Luật cho thấy, manna là thứ mà Thiên Chúa ban cho dân trong sa mạc ăn cho đỡ cái đói đời sống tạm bợ này. Vì: “Con người sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,3).

Môsê đã tiên báo cho dân Do Thái biết về lương thực Thiên Chúa sẽ ban cho dân Chúa sau này là chính Chúa Giêsu Kitô : “Thiên Chúa sẽ ban cho các người của ăn mà các ngươi và cha ông các người chưa từng biết tới” (x. Đnl 8, 2-3.14b-16).

Chúa Giêsu mạc khải chính mình là Bánh bởi Trời

Cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân chúng trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói và vẫn chết. Hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu cho mình: “Ta là hằng sống bởi trời mà xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời” (Ga 6,41). Thật không dễ để những người Do Thái thời Chúa Giêsu đón nhận Người là Bánh Hằng Sống, thứ bánh họ cần thiết phải kiếm tìm, và ăn không phải nhằm thỏa mãn thể lý trong một thời gian, nhưng còn để sống vĩnh viễn.

Những lời trên khiến cho những cùng quê với Chúa Giêsu sửng sốt. Chẳng những khước từ, họ còn coi đó là gương mù gương xấu. Họ lẩm bẩm với nhau, bới lông tìm vết: ” Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống” (Ga 6,42). Cuộc sống của Chúa Giêsu rất đỗi bình thường giữa người làng xóm, thường đến nỗi khiến người ta vấp phạm vì lời Người. Thấy họ lẩm bẩm, Chúa Giêsu nói: “Các người chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy“, và Người thêm: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 44.47).

Người Cha mà Chúa Giêsu nói với họ không ai nhìn thấy bao giờ là người cha nào? Bánh từ Trời xuống là bánh gì mà người ta ăn vào sẽ sống đời đời? Trong khi đó, manna của ăn trong sa mạc, cha ông họ đã ăn và đã chết thì Chúa phủ nhận, nay tuyên bố: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51). Thịt của Chúa có thể là thức ăn cho con người được không?

Chúa Giêsu muốn giúp họ hiểu ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa bánh ra nhiều để họ đón nhận lời loan báo của Chúa là Bánh từ Trời xuống (x. Ga 6,41) sẽ làm thỏa mãn một cách vĩnh viễn. Dân Do thái đã sống kinh nghiệm ăn manna trong hành trình vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người như Bánh từ Trời xuống, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi: “Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51 ). Chúa Giêsu tỏ mình là Con Một Thiên Chúa, từ Chúa Cha mà đến để trao ban cho con người thứ lương thực ban sự sống đời đời. Chúa khẳng định Người là Bánh bởi Trời và khích lệ dân chúng tin vào Người.

Chúng ta ngày hôm nay tự hỏi: Tôi có tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa không? Tôi có khao khát Bánh bởi Trời là chính Người không? Thật ra, ăn Bánh Hằng Sống có nghĩa là tin nơi Chúa và ai tin thì ăn.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ hướng dẫn chúng ta tới gặp Chúa Giêsu, để trong tình hiệp thông tràn đầy với Chúa Giêsu Con Mẹ, Bánh Hằng Sống từ Trời xuống; chúng con được kết hợp với Người ngay từ bây giờ và mãi mãi. Amen.

Về mục lục

BÁNH HẰNG SỐNG THỜI COVID

Quỳnh Thoại

Đã bao lâu rồi, chúng ta không được đến nhà thờ, kể từ khi đại dịch COVID bùng phát lần thứ 4 tại Việt Nam?

Đã bao lâu rồi, chúng ta hít thở khí trời qua chiếc khẩu trang, và giấu mình trong những lớp quần áo bảo hộ khi có dịp đến nơi công cộng?

Đã bao lâu rồi chúng ta sống trong lo lắng, sợ hãi khi nhắc đến F0, F1, F2?

Và hơn bao giờ hết, trong những ngày cuối tháng bảy vừa qua, đã có rất nhiều những cảnh tượng đau thương diễn ra trước mắt chúng ta, dù là trước màn ảnh nhỏ, hay ngay cạnh nhà mình: người người bị đem đi cách ly, dù đó là người già hay trẻ nhỏ, những cảnh chết chóc diễn ra trong buồn bã… Rồi trên những con đường Sài Gòn xô bồ, nhộn nhịp bao đời, giờ im ắng tiếng còi xe. Từng đoàn người tứ xứ vào Sài Gòn lập nghiệp, giờ cũng vội vã trở về quê, mang theo bên mình những rủi ro, vì đường xa, mà lương thực lại ít. Chiếc xe máy chở cả gia đình và những chắc chiu dành dụm bao ngày…Đã bao lâu rồi, chỉ cần được thở thôi mà khó khăn đến vậy?

Tấm Bánh Hằng Ngày- Tình Yêu Thời COVID

Trong những cảnh hỗn độn, đầy hoang mang và chông chênh đó, chúng ta lại thấy tình người thật ấm áp. Những siêu thị mini và những quán ăn không đồng mọc lên, những cửa hàng rau củ không người bán, chỉ có vỏn vẹn tấm bảng ghi dòng chữ: “Ai cần đến lấy!” Rồi trong những ngày Sài Gòn “bệnh nặng”, không làm gì được, thì chúng ta lại bắt gặp những chuyến xe chở thực phẩm từ miền Trung và miền Tây tấp nập vào chia sẻ yêu thương. Những chuyến xe nhân ái ấy đã nuôi sống anh chị em mình từng ngày trong lúc khốn khó. Rồi có người không ngại chạy xe máy vào các con hẻm nhỏ, trao tận tay những ổ bánh mì cho người vô gia cư. Đơn giản vậy thôi, những “tấm bánh hằng ngày” thời COVID.

Tấm Bánh Hằng Sống- Tình Yêu Muôn Đời

Hình ảnh “bánh hằng ngày” này làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh Bánh Hằng Sống mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Cả hai đều cùng một mục đích hướng tới, đó là nuôi sống con người. Tuy nhiên, Bánh Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban tặng không làm từ bột mì, hay từ hoa màu ruộng đất, nhưng là từ chính Mình và Máu Thánh của Ngài. Đối với những tấm lòng quảng đại, thì cho đi những gì mình có không khó. Những trận bão lụt, thiên tai, hay đại dịch vừa qua cho chúng ta xác tín điều đó, và niềm tin vào tình người vẫn luôn đong đầy. Họ có sợ, có lo đó, nhưng tình yêu thương đã giúp họ vượt qua những cảm xúc sợ hãi để dấn thân vì người khác.

Chúa Giêsu, Chúa chúng ta còn hơn vậy nữa. Ngài không chỉ cho những gì Ngài có trong tay, trong tâm trí. Ngài không chỉ muốn dấn thân, mà còn muốn hiến thân cho con người. Bí Tích Thánh Thể là minh chứng cho điều Ngài muốn. “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.” (Ga 6,52). Hằng ngày, nơi nhà tạm nhỏ bé, và trong thánh lễ, chúng ta được nhắc nhở: Có một tình yêu đã hiến thân cho nhận loại, như tấm bánh được bẻ ra và trao ban cho hết mọi người, hầu tất cả được nuôi dưỡng và sống đời đời. Còn cách diễn đạt nào trong tình yêu mà quyết liệt hơn, độc đáo hơn, và tuyệt đối như cách mà Chúa Giêsu đã làm cho con người chúng ta?

Con người Hôm Nay và Lương Thực Hằng Ngày

Tình Chúa là thế. Yêu thương là thế. Gắn bó từng giây phút bên con người là thế. Nhưng đến tận bây giờ, con người vẫn không ngừng hỏi: Thiên Chúa ở đâu trong đại dịch COVID 19? Đọc bài đọc một Chúa Nhật hôm nay, (1V.19, 4-8), chúng ta thấy cuộc đời của tiên tri Ê-li-a như là hình ảnh sống động nhất để chỉ về những gì đang xảy ra nơi anh chị em chúng ta trong những ngày dịch bệnh hoành hành: tuy không nói là bị trục xuất khỏi nơi làm việc, nhưng họ đang phải cuốn gói lên đường trở về quê nhà, một sự trở về vội vã, mạo hiểm. Ăn bờ, ngủ bụi, vất vả nhất là những ai có con nhỏ…

Tạ ơn Chúa là giữa những lúc như vậy, họ không đơn độc. Như Ê-li-a được thiên thần Chúa hiện ra và ban lương thực cho ông. Ông đã được ăn, được uống, và trở nên mạnh mẽ, rồi tiếp tục cuộc hành trình 40 đêm ngày để đến núi Horeb. Ngay lúc này đây, tại quê hương Việt Nam chúng ta, cũng có những thiên thần dễ thương với trái tim và đôi bàn tay hướng về người nghèo, người lâm cảnh túng thiếu. Họ chia sẻ những tấm bánh, chai nước trên đường đi. Những trái tim và những đôi bàn tay đó chính là hiện thân của Chúa, để đồng hành cùng những ai vất vả dặm trường. Đó là đức ái Ki-Tô hữu mà Thánh Phao-lô trong bài đọc hai đã mời gọi mỗi người chúng ta, hãy bắt chước và sống thực hành điều đó với anh chị em mình. (Ep. 4: 30-5: 2).

Hãy là Tấm Bánh Yêu Thương         

Để mở lối cho việc sống thực hành bác ái theo gương Chúa Giêsu, Thánh Tê-rê-sa Avila có nói thế này: “Hôm nay Đức Ki-tô nhìn người khác bằng mắt chúng ta, yêu người khác bằng trái tim chúng ta, đến với người khác bằng đôi chân chúng ta và phục vụ người khác bằng đôi tay của chúng ta”. Vậy để trả lời cho câu hỏi: Thiên Chúa ở đâu trong cơn đại dịch này? Chúng ta hãy cùng nhau phản ảnh dung mạo và tình yêu của Đức Ki-tô bằng chính đời sống mình:

    • Trong cầu nguyện xin được ơn can đảm
    • Trong phục vụ xin được ơn khiêm nhường
    • Trong hy sinh xin thêm lòng yêu mến
    • Trong chia sẻ xin tìm thấy niềm vui.

Xin Chúa Giêsu Thánh Thể luôn là nguồn khởi đầu mọi hành động của chúng con, để trong mọi điều chúng con nghĩ, mọi lời chúng con nói, và mọi việc chúng con làm, đều nhằm mục đích cho mọi người nhận ra sự hiện diện của Chúa. Qua tấm bánh cuộc đời chúng con được bẻ ra và trao tặng cho nhau, xin dung mạo Chúa được phản ảnh bây giờ và trong sự tiếp nối mỗi ngày. Amen.

Về mục lục

TIẾP SỨC

Trầm Thiên Thu

Cái gì cũng có giới hạn, rồi cũng hư hỏng, không thể tồn tại mãi. Có những thứ mau hư, có những thứ lâu hư. Thực phẩm tươi sống phải được bảo quản mới có thể không mau hư hỏng. Những thứ mau hư hỏng lại tiếp sức đạt tới những gì lâu dài, bất diệt.

Tục ngữ nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no.” Câu này càng thấy đúng trong thời gian dịch bệnh thế này. Người nghèo bao giờ cũng khổ – khổ đủ thứ, đủ kiểu, đủ mức, cả thể lý lẫn tinh thần. Đáng quan ngại là đói thể lý có thể dẫn tới đói tinh thần, lo sợ lắm: “Thân phận bồ câu, xin đừng trao cho thú dữ, đừng mãi mãi quên đi mạng sống dân nghèo khổ của Ngài.” (Tv 74:19)

Vì nghèo khổ mà phải tha phương cầu thực, rồi vì dịch bệnh mà phải về quê. Thật xót xa khi thấy những người đi bộ về quê cả trăm cây số, có những người đi xe đạp hoặc xe máy về quê cả ngàn cây số. Không thể tưởng tượng nổi có hàng trăm, hàng ngàn người tháo chạy, cực khổ lắm nhưng không còn cách nào khác. Dọc đường có những người tiếp sức bằng thứ này, thứ nọ, kể cả tiền mặt. Thật ấm áp tình người!

Vì kiệt sức mà phải tiếp sức. Cái đói khát cấp bách lắm. Trình thuật 1 V 19:4-8 cho biết: Một mình ông Êlia đi một ngày đường trong sa mạc, rồi ông đến ngồi dưới gốc một cây Kim Tước. [1] Mệt mỏi vì đường xa và vì đói khát, có lẽ nản lòng nên ông cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Nói rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi, an tâm chờ… chết.

Bất ngờ, một thiên sứ đến đánh thức ông và bảo ông dậy mà ăn. Ông nhìn thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống chờ chết. Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” Ông lại dậy, ăn bánh và uống nước. Nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày đêm tới Khô-rếp – tức là núi Sinai, núi của Thiên Chúa. Chỉ ăn uống như thế mà ông Êlia đủ sức đi ròng rã bốn mươi đêm ngày.

Điều đó không chỉ lạ lùng mà là kinh ngạc. Bánh thiên thần có khác. Bốn mươi là con số quen thuộc nhưng khá đặc biệt, được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh. [2] Bốn mươi cũng là khoảng thời gian kỳ lạ – dù là ngày, tháng, hoặc năm. Với con người, bốn mươi năm là độ tuổi trung niên, cần phải thực sự trưởng thành toàn diện tâm sinh lý.

Bánh thiên thần hoặc thần lương chỉ có thể là bánh do Thiên Chúa ban tặng. Ngài biến bánh thường hóa thành thần lương. Thần Lương nhắc nhớ tới Bánh Thiêng là Thánh Thể – Mình Máu Chúa Giêsu Kitô. Có Thần Lương nuôi dưỡng phần xác thì cũng có Thần Lương nuôi dưỡng phần hồn. Đã có những vị thánh chỉ sống nhờ Thánh Thể suốt vài chục năm.

Thánh Vịnh gia rất biết ơn vì được nuôi dưỡng cả xác hồn: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.” (Tv 34:2) Không chỉ vậy, Thánh Vịnh gia còn phải lên tiếng xác nhận và chia sẻ chân thành: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.” (Tv 34:3-4) Thánh Vịnh 34 là một Thánh Vịnh “đẹp” về cả ngôn từ và ý nghĩa.

Thật vậy, Thánh Vịnh này khiến người ta cảm thấy ấm lòng. Chứng cớ được viện dẫn và lý giải rạch ròi: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người.” (Tv 34:5-8) Ước gì mỗi chúng ta cũng khả dĩ cảm nghiệm ân tình của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, và luôn biết nhắn nhủ lẫn nhau: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9)

Không thể không hành động khi cảm nhận được điều tốt lành. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác.” (Ep 4:30-31) Cái “tôi” là cái tồi tệ, nó luôn muốn vùng lên bất cứ lúc nào, vì cứ tưởng mình là “số dzách” (số một, đệ nhất, number one) Có biết yêu mình thì mới biết yêu người khác, nhưng yêu mình quá hóa tự ái, tự ái dẫn tới ích kỷ, ích kỷ dẫn tới bất chính, đúng như cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính.”

Ngày xưa, Saolô hung hăng, hiếu chiến, háo thắng, tự cho mình “ngon lành” nên tìm mọi cách chống lại danh Đức Giêsu. Ông đã từng giận dữ mà rảo khắp các hội đường, cưỡng bức người ta phải nói lộng ngôn, sang cả nước ngoài mà bắt bớ những người tin theo Đức Kitô, (x. Cv 26:11) nhưng chính ông đã khốn khổ vì “châu chấu mà muốn đá voi” và dám “giơ chân đạp vào mũi nhọn.” (Cv 26:14) Tội to lắm, nặng lắm, nhưng Thiên Chúa đã “triệt buộc” ông. Và rồi một Saolô ngang ngược đã biến thành một Phaolô nhiệt thành rao giảng về Đức Kitô.

Với kinh nghiệm “xương máu” như vậy, Thánh Phaolô chia sẻ: “Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.” (Ep 4:26) Không làm điều xấu vẫn là tiêu cực, cũng chưa xong bổn phận, mà còn phải tích cực làm điều tốt, nghĩa là “phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, NHƯ Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong Đức Kitô.” (Ep 4:32)

Bác ái cần lắm, vì hạnh phúc là biết yêu và được yêu. Thánh Phaolô kết luận: “Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.” (Ep 5:1-2) Bác ái là đức ái, một trong ba nhân đức đối thần, cần thiết cho cả đời này và đời sau. Đó là một loại lương thực nuôi dưỡng tinh thần mà ai cũng cần sử dụng để khả dĩ duy trì sự sống tâm linh.

Bánh vật chất đời thường mau hư, cần cho sự sống thân xác, gợi nhớ tới bánh tinh thần bất hoại, cần cho sự sống thiêng liêng, và còn cần hơn nữa là Bánh Thánh – loại Bánh Trường Sinh chỉ có được từ Đức Giêsu Kitô. Đó chính là Mình Máu Ngài, Thần Lương tiếp sức cho chúng ta suốt cuộc lữ hành trần gian.

Thánh Gioan cho chúng ta biết “đặc sản” duy nhất là Bánh Trường Sinh này qua trình thuật Ga 6:41-52.

Sau khi nghe Chúa Giêsu nói chính Ngài là Bánh Trường Sinh, người Do Thái cảm thấy “chói tai” và xầm xì phản đối, bởi vì Ngài đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Chắc chắn rằng, từ cổ chí kim, cả hiện tại và tương lai, hoặc bất cứ dân tộc nào, không ai dám nói như vậy, và cũng chẳng ai dám tự xưng là Thiên Chúa. Quả thất, rất “khó lọt lỗ tai” vì chúng ta chỉ là phàm nhân, không thể hiểu nổi những gì cao hơn vầng trán bé nhỏ của mình. Nhưng điều Chúa Giêsu nói hoàn toàn là sự thật.

Lúc đó, người Do Thái đặt vấn đề với nhau: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” Ngày nay chúng ta không còn tranh luận về “sự lạ” Thánh Thể vì chúng ta đã thừa kế di sản đức tin tông truyền, nếu chúng ta sống thời đó và lần đầu nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn chúng ta không chỉ nổi da gà, nổi gai óc, mà còn nổi nóng như ngọn lửa bùng cháy. Tuy nhiên, dù đã hơn hai ngàn năm qua, những người vô thần hoặc theo tôn giáo khác, kể cả một số hệ phái thuộc Kitô giáo, người ta vẫn không chấp nhận Bí tích Thánh Thể, cho rằng người Công giáo chỉ ảo tưởng. Sự thật mãi là sự thật, dù người ta không tin sự thật là sự thật thì sự thật cũng không thể biến thành điều gì khác.

Biết rõ người Do Thái đang lùng bùng lỗ tai và máu đang bốc lên tới chỏm đầu, Chúa Giêsu nói: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” Hết cú sốc này tới cú sốc khác, chắc là họ muốn điên lên được. Thế nhưng Chúa Giêsu không thể chuyển hướng khác, và Ngài dẫn chứng: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.” Như vịt nghe sấm, không hiểu gì, cứ nghe ông Giêsu nói kiểu này thì họ điên mất thôi!

Ai điên thì điên. Mặc kệ. Sự thật không thể khác. Chúa Giêsu “sang số” và “tăng ga” tiến tới: “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Nghe những lời này, người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ tức giận lắm, nhất là mấy “ông lớn” – mặt to, tai to, miệng to, quyền to, chức to – thế nhưng họ vẫn không thể làm gì được Ngài.

Có lẽ hôm đó xảy ra ẩu đả vì ai cũng cho mình là đúng. Một số người rút lui mặc dù đã đi theo Ngài một thời gian. Không hiểu thì không tin, không tin thì không thích, không thích thì không thể theo. Lẽ thường là như thế.

Đối với người Do Thái, cả chính quyền và các vị lãnh đạo tôn giáo, Chúa Giêsu là “cái gai nhọn” cần phải nhổ, càng sớm càng tốt. Vì thế, họ luôn tìm mọi cách bắt bẻ, gài bẫy, để có cớ bắt giết Ngài, nhưng giờ của Ngài chưa đến thì không ai có thể làm gì được.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin gia tăng các đức đối thần và đối nhân, xin ban Thần Khí Ngài để chúng con có thể hiểu đúng những điều siêu nhiên, xin ban cho chúng con lương thực cần thiết cho xác hồn để chúng con đủ sức vượt qua mọi chướng vật trong cuộc lữ hành và được đến Cõi Trường Sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

—–

 [1] Cây Kim Tước thuộc họ đậu, hoa màu vàng ươm, nở vào mùa Xuân, còn gọi là “Cây Hoa Chuỗi Vàng” – Golden Chain Flowers. Tất cả các bộ phận của cây kim tước đều độc, có thể gây tử vong. Tuy nhiên, cây cũng được dùng để làm giảm nhịp tim và kích thích lợi tiểu.

[2] Số 40 được đề cập trong một số câu Kinh Thánh:

a). Sau 40 ngày lụt Đại Hồng Thủy, (St 7:17) có nhân loại mới, tượng trưng bằng gia đình ông Nôê.

b). Khi 40 tuổi, ông Môsê đã đến thăm dân đang sống kiếp nô lệ ở Ai Cập; (Cv 7:23) sau 40 năm ở tại Mađian, ông được Thiên Chúa kêu gọi đi giải phóng dân Israel, (Cv 7:30) ông đã hướng đạo dân Israel đi trong sa mạc suốt 40 năm.

c). Sau hai lần ở trên núi Sinai 40 ngày đêm cầu nguyện, (Xh 24:18; Xh 34:28) ông Môsê nhận được Luật Giao Ước để tổ chức đời sống cho Dân Chúa.

d). Sau 40 năm đi trong sa mạc, (Ds 14:22; Đnl 1:3) đoàn dân vào Đất Hứa, thoát kiếp nô lệ, được sống tự do.

e). Sau 40 ngày đêm đi trong sa mạc, (1 V 19:8) ngôn sứ Êlia đến núi Khôrép (Sinai) để gặp Thiên Chúa và được Người củng cố trong sứ mạng.

f). Sau 40 ngày ăn chay hãm mình đền tội, dân thành Ninivê được Thiên Chúa tha thứ. (Gn 3:10)

g). Sau 40 ngày ăn chay trong sa mạc, (Mt 4:2) Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ.

h). Sau khi sống lại 40 ngày, Đức Giêsu dạy dỗ các tông đồ, chuẩn bị cho các ông đón nhận Chúa Thánh Thần, Hội Thánh được thiết lập, và các ông can đảm ra đi truyền giáo. (Cv 1:3)

Về mục lục

THÁNH THỂ NHIỆM TÍCH VÔ CÙNG CAO QUÍ

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh và là nguồn mạch của đời sống Kitô hữu. Vì tầm quan trọng của bí tích này, phụng vụ Lời Chúa tuần này tiếp tục mời gọi chúng ta suy niệm về diễn từ “Bánh hằng sống” trong chương VI của Tin Mừng Gioan. Dưới ánh sáng của trích đoạn này, hôm nay, chúng ta tìm hiểu về ba điều quan trọng nhất nơi bí tích Thánh Thể bằng việc trả lời ba câu hỏi này:

1) Làm sao bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa?
2) Chúa Giêsu hiện diện thực sự nơi Thánh Thể không?
3) Chúng ta phải chuẩn bị thế nào là để rước lễ?

1- Bánh rượu trở thành Mình – Máu Chúa

Trước hết, chúng ta phải nói rằng bí tích Thánh Thể là sự mới mẻ nhất do Chúa Giêsu mang lại, nhưng đồng thời cũng là mạc khải khó tin nhất đối với con người mọi thời. Quả thế, khi Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Người Do Thái đã sốc khi nghe những lời này. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52).
Đối với chúng ta hôm nay, khi dự thánh lễ, câu hỏi đầu tiên mà chúng ta thường được đặt ra là làm sao bánh và rượu trở thành Mình và Máu thánh Chúa?
Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong Giáo Lý Công Giáo, theo đó, khi linh mục truyền phép, chính Chúa Thánh Thần là Đấng ngự xuống trên các lễ vật, nhờ quyền năng thần linh mình, Người biến đổi bánh thành Mình Chúa Kitô và rượu thành Máu Chúa Kitô.
Theo ngôn ngữ thần học, đây là sự biến thể (transubstantiatio), nghĩa là một sự biến đổi từ bên trong, bản thể của bánh rượu không còn là bánh rượu nữa, nhưng trở thành bản thể của Chúa Kitô, thành Thịt và Máu Người. Thánh Cyrillô thành Giêrusalem (313-387) giải thích về sự biến thể này như sau: “Bánh này không còn là bánh, dù bằng chứng của vị giác thế nào đi nữa, nhưng là thân mình Chúa Kitô. Rượu này không còn là rượu dù giác quan có nói thế nào đi nữa, nhưng chính đây là máu Chúa Kitô” (Giáo Lý Nhiệm Huấn IV, 9)
Bởi vậy, khi chủ tế đọc lời khẩn cầu (epiclesis) chính là lúc Chúa Thánh Thần thực hiện sự biến đổi kỳ lạ này: “Chúng con nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hoá những của lễ này, để trở nên cho chúng con, Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.” Sau đó, chủ tế mới đọc: “Này là Mình Thầy… Này là chén Máu Thầy… sẽ đổ ra cho các con…” (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
Như thế, qua linh mục, Chúa Thánh Thần dùng quyền năng thần linh của Người biến đổi bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô.

2- Sự hiện diện đích thực

Câu hỏi thứ hai mà chúng ta thường thắc mắc là Chúa Giêsu có hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể không? Đây cũng là “hòn đá vấp chân cho nhiều người.” Đối với những người Tin Lành và Anh Giáo, họ chỉ tin và cử thành thánh lễ như là sự tưởng nhớ; bánh và rượu chỉ là biểu tượng về sự hiện diện thiêng liêng của Chúa; họ không tin rằng Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Thánh Thể.
Đối người Công Giáo, di sản quý báu nhất mà Giáo Hội có được chính là niềm tin vào bí tích Thánh Thể. Theo đó, chúng ta xác tín và tuyên xưng rằng: “Trong bí tích Thánh Thể cực trọng, sự hiện diện “Mình và Máu, cùng với linh hồn và thần tính, của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và vì vậy, Đức Kitô được ẩn chứa cách đúng đắn, chân thật và bản thể” (Giáo Lý, số 1374).
Thế nên, Chúa Giêsu thực sự hiện diện dưới hình bánh rượu, dầu giác quan con người không thấy. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng hiện tại hóa hy tế thập giá xưa của Chúa Giêsu trong mỗi thánh lễ được cử hành. Nên mỗi thánh lễ là một phép lạ đang diễn ra trước mắt chúng ta. Thánh Thể quả là “mầu nhiệm Đức Tin”; Thánh Thể là nhiệm tích vô cùng cao quý!”
Bởi thế, để đến với Thánh Thể, chúng ta cần có đức tin. Nhờ cặp mắt đức tin, chúng ta tin nhận rằng Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Thánh Thể, Người ban Thịt và Máu Mình làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Về điều này, trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều phép lạ Thánh Thể xảy ra để cũng cố niềm tin cho chúng ta. Ở Lanciano, nước Italia, vào thế kỷ thứ VIII, có một linh mục, thuộc Dòng thánh Basiliô, rất giỏi về khoa học, nhưng lại yếu đức tin, ngài thường nghi ngờ sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thánh lễ. Một ngày nọ ngài đi hành hương ở Rôma. Trên đường về, ngài dâng lễ tại một nhà Dòng, sau khi truyền phép, một phép lạ xảy ra ngay tại bàn thờ, bánh trở thành thịt và rượu trở thành máu thật Chúa Giêsu. Ngày nay, người ta còn lưu giữ dấu tích cục máu đông tại Lanciano, được các nhà khoa học kiểm chứng thuộc nhóm AB như là bảo chứng của niềm tin vào Thánh Thể.

3- Chuẩn bị xứng đáng để rước lễ

Chúa Giêsu không chỉ mời gọi chúng ta đến nhà thờ để tham dự thánh lễ nhưng Người còn mời gọi chúng ta chuẩn bị xứng đáng để rước lễ.
Liên quan đến vấn đề này, trong văn kiện Bữa Tiệc Thánh, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói đến ba hạng người lên rước lễ:
1) Hạng người thứ nhất lên rước lễ chỉ vì phong trào, họ sợ người ta nghĩ mình không đạo đức hay thấy người khác lên, mình cũng lên, nhưng họ không có lòng yêu mến Thánh Thể. Họ rước lễ cách bất xứng.
2) Hạng người thứ hai là những người đang mắc tội trọng, nhưng đã đánh mất cảm thức về tội, không xưng tội, nhưng vẫn lên rước Mình
Thánh Chúa. Họ rước lễ cách bất xứng và thêm tội phạm thánh. Giáo Hội dạy phải xưng tội trọng trước khi lên rước lễ.
3) Hạng người thứ ba lên rước lễ với tâm hồn sạch tội và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể. Họ đón nhận được muôn vàn phúc lành đến từ Thánh Thể.
Chúng ta thuộc hạng người nào trong ba hạng người trên? Tôi không có quyền xét đoán và xếp loại ai, nhưng tôi để cho mỗi người xét mình và tự trả lời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ, rước Mình Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời, xin giúp chúng con luôn ý thức rằng bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và mỗi người chúng con. Amen!

Về mục lục

AI BÁNH HẰNG SỐNG ĐÂY!

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Trong đời, ai cũng muốn sống khỏe, sống lâu, sống mãi. Muốn sống vậy, người ta để ý đến ăn: không chỉ là ăn no, ăn ngon, mà là ăn có lợi cho sức khỏe. Như để đáp lại điều đó, Phúc Âm các Chúa Nhật dịp này vang lên như tiếng rao lặp đi lặp lại: Ai bánh hằng sống đây!

1. Đói khát bánh. Bài đọc 1 kể chuyện trong hành trình sứ mạng của mình, ngôn sứ Êlia đói khát buồn chán đến độ muốn xin được chết. Cũng thế, trong dịch Covid-19, nhiều người đói khát buồn chán. Hành trình theo Chúa của người môn đệ cũng không tránh khỏi những lúc chán nản xuống tinh thần.

2. Cho nhau bánh. May thay, sứ thần của Chúa đã đem bánh và nước đến mời Êlia ăn. Nhờ đó ngôn sứ có đủ sức đi suốt 40 ngày đêm tới núi của Thiên Chúa. Lúc này, Chúa cũng muốn mỗi người là những “sứ thần” đem lương thực bổ dưỡng, nâng đỡ tiếp sức cho nhau tiến bước hành trình.

3. Trở thành bánh. Bài đọc 2 thánh Phaolô mời gọi chúng ta trở thành bánh thơm hương yêu thương qua việc sống tình bác ái như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta đến độ tự nộp mình làm hy lễ ngào ngạt hương thơm dâng lên Thiên Chúa. Cụ thể, bánh ấy không có mùi cháy khét của chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay những hành vi gian ác. Trái lại, bánh ấy thơm hương yêu thương của đối xử tốt đẹp và tha thứ cho nhau.

4. Bánh hằng sống. Để có thể thỏa mãn những đói khát sâu xa nhất của con người, để có thể quảng đại cho nhau bánh ăn, để có thể dấn thân hy sinh trở thành bánh, thì chúng ta rất cần một thần lương là bánh hằng sống từ trời nuôi dưỡng, là chính Chúa Giêsu.
Trong lịch sử, nhiều khi con người giết nhau vì tranh giành bánh, còn Chúa Giêsu lại tự hiến mình thành bánh nuôi nhân loại sống muôn đời. Chúa mời gọi chúng ta ăn bánh hằng sống để có thể sống yêu thương trao ban như Ngài. Amen.

Về mục lục

CHỐI BỎ ĐỨC GIÊSU LÀ CHỐI BỎ SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Ngày xưa, Ngọc Hoàng sai tiên ông xuống trần quan sát dân chúng. Tiên ông giả làm người ăn mày quần áo rách rưới và đi lang than. Vào buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông gõ cửa nhà chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão rách rưới, nó nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Ông lão đến gõ cửa nhà con cáo. Nó chửi mắng thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa nhà của thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa. Thỏ vội mời vào và đưa ông đến bên đống lửa, hong quần áo cho ông. Ông rên rỉ:“Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ nói: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài, rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết, nhưng cụ yên trí, cháu sẽ tìm thức ăn đãi cự”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên thì thỏ nhảy vào đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, mùi thơm tỏa lan cả căn nhà. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời báo cáo với Ngọc Hoàng Ngọc Hoàng liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên cung trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc gọi mặt trăng là Ngọc Thố. Đây là câu chuyện không có thật, nhưng đáng để chúng ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì bỏ lỡ cơ hội và không thể trở thành thần tiên. Cơ hội không bao giờ trở lại với chúng ta nữa. Phải chăng dân Do thái nói riêng và mỗi chúng ta nói chung cũng đang rơi vào tình trạng này?

Tại sao chúng ta chối bỏ Đức Giê-su?

Thái độ khinh thường, thành kiến, là thái độ khó chấp nhận Thiên Chúa và đón nhận tha nhân. Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể đã hiện thân nơi một con người đơn sơ mộc mạc, chất phác bằng nghề thợ mộc thành Nazareth nhưng dân Do thái đã không nhận ra Ngài lại còn có thái độ khinh miệt và loại trừ Ngài. Thái độ đó được diễn tả trong bài Tin mừng hôm nay: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: ‘Tôi từ trời xuống?” (Ga 6, 41-42). Họ đã hiểu theo tinh thần thế gian, xác thịt, thì không thể nhận ra được Thiên Chúa hiện diện nơi trần gian, vì tư tưởng Thiên Chúa khác với tư tưởng con người, khác với tư tưởng thế gian. Vì tính chai lì và cứng đầu cứng cổ nơi con người nên sinh ra cố chấp và khó lòng đến với người khác phương chi là với Thiên Chúa.

Mặt khác, cũng vì lòng tham và sự ích kỷ của con người, nên không muốn tìm đến chân lý cũng như sự thật. Con người hầu như mong tìm kiếm cái dễ dại, chóng qua, thực tiễn, cụ thể,… nên sự bình an, niềm hạnh phúc và ngay cả sự sống đời đời làm sao có thể sở hữu được. Họ tìm kiếm cái ăn mau qua hơn là cái ăn trường sinh. Họ khó chịu và thấy chướng tai gai mắt khi Chúa Giê-su nói về bánh trường sinh, nói về việc trao Mình Máu của Ngài cho họ. Họ chối từ sự lôi kéo của Thiên Chúa nên họ không thể gặp gỡ và đón nhận Đức Giê-su. Vì ai đến được với Đức Giêsu đều bởi sự lôi kéo của Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su cũng đã khẳng quyết như vậy: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.”(c.46).

Vì sự từ chối đó nên người Do thái nghe mà không nghe, nhìn mà không thấy, lại còn tìm cách hãm hại và gài bẫy Đức Giê-su, thậm chí tìm cách bắt bớ và giết chết Ngài. Quả thật, sự sống và ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ đến với những ai có lòng khát khao và khiêm tốn đón nhận. Ngược lại, ơn cứu độ và sự sống đời đời của Thiên Chúa sẽ bị cản ngăn, không muốn nói là không bao giờ đến được với những ai kiêu căng và chối từ. Như vậy, con người từ chối Đức Giêsu Kitô là từ chối Bánh Hằng Sống từ Trời, mà từ chối Bánh Hằng Sống từ Trời tức là từ chối sự sống đời đời. Thật vậy, để có ơn cứu độ và sự sống đời đời của Thiên Chúa, con người phải đón nhận ‘Bánh hằng sống’ từ Trời, là Đức Giêsu Kitô.

Đón nhận Đức Giê-su là đón nhận sự sống đời đời.

Chúng ta tin rằng ngoài Danh Đức Giêsu Kitô không có danh nào có thể đem lại ơn cứu độ cho con người. (x.Cv 4,12). Thật vậy, đón nhận Bánh Trường Sinh là đón nhận chính Thiên Chúa, là đón nhận sự sống đời đời. Thiên Chúa không bao giờ để con người cô độc, cô đơn và thiếu thốn. Nơi bài đọc I, ngôn sứ Êlia đã được Chúa nuôi dưỡng khi ông tưởng chừng như là đã chết. Do đó, Thiên Chúa sẽ luôn luôn dõi theo và chăm sóc những ai Ngài tuyển chọn. Dù con người có bỏ Thiên Chúa đi chăng nữa, thì Ngài vẫn luôn trung thành và yêu thương con người. Thánh Vịnh 26, 10 cũng đã minh định: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có CHÚA đón nhận con.”

Quả thật, vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách thể để ở lại và đồng cảm với thân phận yếu đuối cũng như đau khổ của con người. Ngài đã hiện thân làm người giống chúng ta mọi đàng ngoài trừ tội lỗi ngang qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa yêu con người và muốn con người hưởng nếm ơn cứu độ và được sống đời đời. Thế nhưng mấy ai nhận ra được sự hiện diện, sự hóa thân cũng như yêu thương đó của một vị Thiên Chúa hết sức đơn sơ và giản dị nơi Con Người Giê-su. Chỉ những ai biết lắng nghe và khiêm tốn đón nhận sự lôi kéo của Thiên Chúa thì mới dễ dàng đón gặp được Đức Giêsu Kitô. Trong đời sống thường ngày, có bao nhiêu cơ hội, bao nhiêu dịp thuận tiện mà chúng ta đã bỏ lỡ và lãng quên vì thái độ xem thường và khinh nhờn. Bao nhiêu dấu chỉ, bao nhiêu phép lạ vẫn diễn ra ngay trong cuộc sống đời thường mà chúng ta đã không hay biết, chẳng hạn hơi thở mà chúng ta đang sử dụng, sức khỏe mà chúng ta đang có, thời gian mà chúng ta đang sở hữu, nhất là sự sống mà chúng ta đang hưởng dùng,..tất cả đều là ân ban của Thiên Chúa.

Ngoài ra, Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi sự. Ngài thấu suốt tâm can con người. Nhưng Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Vì sự tự do mà con người đã loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Vì sự tự do, con người đã tự cho mình có thể giải quyết được tất cả mà không cần sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Chính vì thế, trong mọi biến cố, nhất là trong bối cảnh hiện tại nhân loại đang đối diện với ‘cơn sóng dữ dội’ bởi đại dịch Covid, con người dường như hoàn toàn thất bại. Con người đã tìm đủ mọi cách và mọi phương thế để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Nhưng xem ra con người đã không thể làm được gì nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Thật vậy, trong gần hai năm qua, cả nhân loại đang phải chiến đấu với đại dịch Covid: Số người nhiễm bệnh và tử vong rất là cao. Đứng trước biến cố nghiêm trọng này, con người dường như tuyệt vọng và hết đường giải thoát. Ngay lúc này, đối với con người, tiền bạc, tài năng, khôn ngoan, kiêu hãnh, giàu có, thông minh, từ cao tự đại,… đã không thể giúp cho họ thoát khỏi cơn đại dịch nguy hiểm này. Sự chết chóc đã bao phủ họ. Sự sợ hãi và hoang mang đang vây quanh họ. Sự khát khao và tìm kiếm sự sống trong lúc này hết sức quan trọng và cấp thiết đối với họ. Dưới nhãn quan Đức tin, chúng ta biết rằng chúng ta chẳng làm được gì nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính vì thế, đứng trước mọi thử thách và gian nan, con người được mời gọi hãy tìm kiếm Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn tất cả mọi sự Ngài sẽ ban cho.(x.Mt 6,33). Vì thế, con người cần cầu nguyện liên lỉ và năng chạy đến với Thiên Chúa ngang qua việc lắng nghe Lời Chúa và đặc biệt là dọn mình sốt sắng để rước lấy Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Quả thật, Đức Giêsu đã phán: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51). Thật vậy, sự sống đời đời chỉ có được nơi Đức Giêsu Kitô. Hay nói cách khác, nơi Đức Giêsu Kitô, tất cả mọi sự trong cuộc đời của con người sẽ được giải thoát. Đó là niềm tin của chúng ta.

Trao ban Đức Giê-su cho tha nhân như thế nào?

Chúng ta được đón nhận nhưng không thì cũng phải cho nhưng không.(x.Mt 10,8). Đức Giê-su trở thành tấm bánh bẻ ra cho mỗi chúng ta để chúng ta được bình an, được hạnh phúc và được đón nhận sự sống đời đời. Đến lượt chính mình, chúng ta cũng được mời gọi trở nên tấm bánh đời mình cho anh chị em đồng loại bằng cuộc sống đượm tình bác ái yêu thương. Một lời nói nhỏ nhẹ đầy tình mến là đã trở nên tấm bánh cho đời. Một cử chỉ quảng đại, phục vụ hy sinh và dấn thân không mệt mỏi, nhất là trong bối cảnh Đại dịch Covid-19 này là chúng ta đang trở nên hiện thân của Chúa Giê-su nơi tha nhân. Như vậy, chúng ta sẽ là tấm bánh hữu ích và ‘dễ ăn’ cho anh chị em khi chúng ta dám chấp nhận từ bỏ chính mình, từ bỏ lối sống ích kỷ, lòng tham lam, sự kiêu căng,… Sẽ là ‘tấm bánh thơm ngon và thi vị’ cho muôn người trên đường đời nếu chúng ta biết liên đới hơn là loại trừ, biết bao dung – thứ tha hơn là hận thù – ghen ghét, biết đối thoại – gặp gỡ hơn là khép mình – bảo thủ. Nơi bài đọc II, chính Thánh Phaolô Tông đồ đã căn dặn chúng ta như thế này: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô. Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.”(Ep 4, 31-32.5, 1-2). Phải chăng sống được như thế là chúng ta đang trở nên tấm bánh tuyệt vời cho anh chị em đồng loại, nhất là cho những ai đang đói khát, nghèo khổ và bệnh hoạn tật nguyền trong môi trường sống của chúng ta?

Về mục lục

LƯƠNG THỰC ĐI ĐƯỜNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Những ngày qua, từng đoàn người hối hả rời những thành phố tâm dịch covid để về quê, cuộc hồi hương vào “Mùa hè đỏ dịch”. Nhìn những bức ảnh “tháo chạy về quê”, thật xót cho thân phận người dân nghèo lao động. Ly hương ra thành phố với hy vọng đổi đời, nay thành phố đại dịch, họ không tiền bạc, tứ cố vô thân, phải tháo chạy. Quê hương, hai chữ sao vừa ấm áp lại vừa đắng cay. Sài Gòn “miền đất hứa”, bao dung và cưu mang biết bao thế hệ, biết bao cuộc đời. Sài Gòn ôm cả tình người mênh mông, nơi gặp gỡ những dòng người từ mọi miền đất nước…! Nhưng những ngày qua, bao tang thương, bao mất mát đã làm cho Sài Gòn như tê liệt quỵ ngã, và không ai nghĩ rằng Sài Gòn sẽ có một cuộc tháo chạy như những ngày này!
May mắn thay, trên đường hồi hương, họ được đồng bào tiếp tế lương thực trên mọi nẻo đường “hành trình vạn dặm” như cơm, bánh mì, trái cây, nước, xăng, tiền bạc đến vá bơm sửa xe… Dân thương dân, dân đùm bọc lấy dân qua cơn khốn khó. Khi nhiều người an lành trốn dịch trong nhà, hãy nhớ ngoài kia còn biết bao mảnh đời bất hạnh, còn biết bao số phận không may, còn biết bao người đang thiếu ăn và khổ đau vì đại dịch. Và thật đẹp, nghĩa đồng bào, ứa nước mắt vì tình cảm đồng bào giúp nhau, tự trái tim, tự tình yêu, dọc suốt chặng đường hàng trăm, hàng ngàn cây số, ở đâu cũng có những tổ chức, cá nhân hảo tâm hỗ trợ người về. Như “mana” từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Do thái, nay “lương thực đi đường” từ những người hảo tâm đã tiếp thêm sức lực và yêu thương cho bà con trên đường trở về quê nhà.

Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cuộc hành trình của ngôn sứ Êlia trong sa mạc tiến đến núi Khôrép. Êlia chạy trốn trước sự trả thù bách hại của hoàng hậu Ideven, người đỡ đầu tà giáo trong nước. Trên đường đi, Êlia đói lã và chán nản thất vọng. Sứ thần Chúa mang đến cho ông bánh nước và thúc dục: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. “Ông dậy ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrep, ông được gặp Đức Giavê. Ông lấy lại được niềm tin và tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.

  1. Bánh nuôi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrep

Sau khi vua Salomon băng hà, đất nước Israel chia đôi: vương quốc Israel, phương Bắc, vương quốc Giuđa phương nam (1V 12). Tại Israel, vua Omri (885-874 tcn) đã lập một dòng vua mới và đặt kinh đô tại Samari. Con của Omri là vua Akháp (875 – 853 tcn) xây cất thành lũy và cung điện. Israel dưới thời Akháp khá thịnh vượng. Công việc thương mại tạo nên những tương quan thuận lợi với các nước lân bang, nhưng đồng thời cũng gây nên một tiêm nhiễm văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Điển hình của việc suy đồi tôn giáo là cuộc hôn nhân của vua Akháp với Ideven, con gái vua Xiđôn (1V 16,29-34). Ideven du nhập đạo ngoại vào Israel, xây dựng đền thờ thần Baan tại Samari, tổ chức cộng đồng các Ngôn sứ thần Baan. Đạo Giavê bị bách hại. Chính trong hoàn cảnh đó, sách các Vua nói đến hoạt động của hai Ngôn sứ Êlia và Êlisê (1V17 ;  2V 13).

Ngay từ khi Israel đặt chân lên Canaan, tôn giáo Canaan và việc thờ thần Baan đã là mối ưu tư và nguy hiểm cho niềm tin vào Giavê. Mối nguy hiểm cũng như sự tiêm nhiễm đạo ngoại lai ấy ngày càng gia tăng qua sự phát triển kinh tế, tương quan thương mại với các dân tộc lân bang và đạt tới cao điểm vào thời Akháp. Đây không phải là việc từ bỏ đức tin truyền thống của cha ông vào Thiên Chúa Giavê, nhưng đúng hơn là sự pha trộn đạo Giavê với tôn giáo Canaan. Baan là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của phú túc. Đối với dân, đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống chủ yếu là nông nghiệp thời bấy giờ. Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đạo Giavê, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Ông quả là người hùng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật của Israel. Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật tại Israel: Giavê hay Baan. Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa. Giavê trả lời bằng một phép lạ chứng tỏ Ngài là Chúa các năng lực thiên nhiên. Người chính là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17 – 40).

Êlia chưa kịp vui hưởng thành quả thì đã phải tất tưởi ra đi, hướng thẳng về sa mạc để tránh sự trả thù của hoàng hậu Ideven. Êlia đi mãi cho đến khi mỏi gối chùn chân. Gặp được một bóng cây ở giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, chán nản ê chề. Sống làm gì nữa, ông nghĩ vậy? Và ông xin Chúa cất lấy linh hồn ông, để ông chết đi cho rồi. Êlia thất vọng, chán nản, mệt nhọc, Ông muốn đầu hàng trước tử thần. Nhưng một thần sứ đến lay Êlia dậy: “Ăn đi để còn lên đường“. Và nhờ thức ăn bồi dưỡng này, Êlia đã đi trọn 40 đêm ngày và tới Núi Thánh của Thiên Chúa.

Tác giả Kinh Thánh dùng con số 40 để ám chỉ cuộc hành trình của Dân Chúa nơi sa mạc từ khi ra khỏi Aicập tới ngày vào Hứa địa là 40 năm. Nó đã trở thành biểu tượng của thời gian con người hành trình ở trần gian này. Và đối với chúng ta, nó nói lên thời gian sống ơn gọi làm con cái Chúa ở trần gian, từ ngày rửa tội tới khi về thiên đàng. Các Giáo phụ nhìn 40 ngày hành trình của Êlia như gợi lại cuộc hành trình của Israel trong hoang địa tiến về đất hứa,40 ngày chay tịnh của Môisê (Xh 34,28), tiên trưng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trươc khi thi hành sứ vụ công khai. Các Giáo phụ cũng nhìn thấy nơi những chiếc bánh mà sứ thần trao cho Êlia là hình ảnh tiên báo phép Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu trên đường dương thế tiến về quê trời. Lương thực nuôi dưỡng Êlia trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình trần gian. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như võ sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của mọi nỗ lực từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa. Ðó là con đường đầy thử thách, nhưng chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.

  1. Bánh Hằng Sống nuôi tín hữu lữ hành về quê trời.

Chúa Giêsu Kitô là Bánh Hằng Sống, Bánh bởi Trời, Bánh ban sự sống cho cả nhân loại. Nhưng làm sao mà con người có thể lãnh hội được ngay mạc khải quan trọng ấy. Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Chúa Giêsu: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người vậy mà Ngài bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúa Giêsu đòi hỏi họ hãy tin vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa Cha. Gặp gỡ Ngài là gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thập giá. Sự sống vĩnh cửu hàm chứa trong mầu nhiệm Thánh Thể.

Cho tới Bữa Tiệc Ly và Hy Tế Thập Giá, khi Chúa Kitô tự nguyện nộp mình, như hạt lúa bị nghiền nát để trở nên tấm bánh cứu độ cho tất cả nhân loại, người ta mới hiểu và tin vào lời mạc khải về Bánh Hằng Sống.

Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép; nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá.

Thánh Thể, Tấm Bánh Chúa Kitô bẻ ra cho sự sống thế giới; Thánh Thể Mình Máu Chúa Kitô trao ban cho cả nhân loại; Thánh Thể tình yêu đã trở nên thực phẩm vun bồi sự sống cho hôm nay trên đường dương thế và cho mai sau trong hạnh phúc Nước Trời.

Trong cuộc hành trình tiến tới sự sống viên mãn với Thiên Chúa là Cha, chính Chúa Giêsu là lương thực bổ dưỡng cho con người.

  1. Bánh Hằng Sống chính là bí tích Thánh Thể

Câu nói “Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử Nạn Thập Giá và Phục Sinh.

Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu Thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục Sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.

Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều gói trọn trong Bí tích Thánh thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang. Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha nên mới ban Bí tích Thánh thể làm lương thực thần thiêng cho chúng ta được kết hợp với Người. Bí tích Thánh thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể. Từ Thập giá-Phục sinh đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh Thể. Hiểu như thế để khi dâng thánh lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, chúng ta hãy tham dự tích cực linh động với tất cả trí lòng tin yêu.

Chúng ta đang lữ hành tiến về vĩnh cửu nên cũng có “lương thực đi đường”, không phải là manna từ trời rơi xuống và nước chảy ra từ tảng đá, hay chiếc bánh lùi và bình nước của thiên thần, nhưng là thần lương cao quý: Mình Máu Chúa Kitô trong Thánh Thể.

Để được ăn bánh Chúa ban, mỗi người phải chấp nhận sự thay đổi hoàn toàn: từ con người cũ thành con người mới; từ suy nghĩ, hành động cũ trở thành con người mới với suy nghĩ và hành động mới theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 đã gợi ý cụ thể: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần, đừng bao giờ chua cay, gắt gỏng, hờn giận, la lối, chửi rủa, gian ác, nhưng phải đối xử tốt với nhau và có lòng thương xót, biết tha thứ cho nhau. Hãy theo gương Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình vì chúng ta”.

“Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa đựng “mầu nhiệm Đức Tin,” và ban sức mạnh đức tin cho con.” (Đường Hy Vọng, số 373).

Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày có “lương thực đi đường” là được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.

Về mục lục

BÁNH TÌNH THƯƠNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Một thế giới đói khát tình thương

Chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu tình huynh đệ, đói tình thương, khao khát hòa bình. Nguyên nhân chính đưa đến thảm trạng nầy là con người có những nhận định sai lầm về người khác.

Có một số nhận định sai lầm về người khác đưa đến hậu quả tai hại như sau:

Thứ nhất: Tha nhân là người xa lạ.

Nhiều người cho rằng tha nhân là người xa lạ, chẳng liên quan gì đến mình. Hậu quả là họ theo chủ nghĩa “mác-kê-nô” (mặc kệ nó), sống chết mặc bây, mạnh ai nấy sống, không hề quan tâm giúp đỡ nhau.

Thứ hai: Tha nhân là nguồn lợi béo bở cần khai thác triệt để.

Trong chế độ nô lệ, người chủ khai thác sức lao động của nô lệ, bắt họ làm việc quần quật ngày đêm như trâu cày, ngựa kéo… để hầu hạ, phục dịch mình.

Trong thời buôn bán nô lệ ngày xưa, có nhiều người khốn khổ bị buôn đi bán lại như súc vật và cho đến hôm nay, nạn buôn người, buôn bán nội tạng con người…vẫn còn đang tiếp diễn.

Ngoài ra, trên phạm vi toàn cầu, một số nước lớn tìm cách thống trị những nước yếu hơn, chiếm đoạt lãnh thổ, vơ vét tài nguyên phong phú của họ về cho mình.

Thứ ba: Tha nhân là kẻ thù cần tiêu diệt.

Dựa theo quan điểm nầy, một số quốc gia theo đuổi chiến tranh, chạy đua vũ trang, đua nhau chế tạo những thứ vũ khí có sức hủy diệt hàng loạt, chế tạo nhiều tên lửa liên lục địa mang đầu đạn nguyên tử có sức công phá dữ dội, có sức hủy diệt kinh hoàng…

Đau lòng thay, đây là một chọn lựa mà nhiều quốc gia trên thế giới xem là khôn ngoan và được đa số người dân đồng thuận.

Chính những nhận định, những chủ trương sai lầm và tai hại như thế là nguyên nhân gây ra vô vàn đau thương cho nhân loại, là động cơ xô đẩy nhân loại đến bên bờ hủy diệt.

Như thế, đe dọa lớn nhất, nguy cơ lớn nhất đối với nhân loại hôm nay không phải là thiếu đói cơm bánh vật chất, nhưng là thiếu tình huynh đệ, đói khát tình thương.

Chính vì thế, khát vọng mãnh liệt nhất của nhân loại qua bao thời là được sống trong hòa bình, trong hiệp thông huynh đệ, trong tình yêu thương.

Tiếc thay, không ai trong loài người có thể đáp lại khát vọng sâu xa mãnh liệt nầy.

Mong đợi “Bánh bởi trời”

Khi con người không thể tự cứu mình, khi bánh từ lòng đất không thể cứu loài người khỏi cơn đói khát tình thương… thì Thiên Chúa đã ban cho nhân loại “Bánh bởi trời” để giải thoát họ khỏi cơn đói nầy. Bánh đó là Chúa Giê-su, như lời Chúa phán: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).

Chính Chúa Giê-su là “Bánh” Chúa Cha ban xuống để cứu con người khỏi cảnh đói khát tình thương, khỏi cảnh nồi da xáo thịt, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, khỏi hận thù chiến tranh, đồng thời mang lại cho con người cuộc sống hạnh phúc đời nầy và đời sau.

Chúa Giê-su là “Bánh bởi trời” cứu loài người khỏi “đói” tình huynh đệ bằng cách vén mở cho họ biết rằng mỗi người trên dương thế thật sự là con yêu quý của Thiên Chúa Cha, do đó, mọi người đều là anh chị em con cùng một Cha trên trời, vì thế, phải yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà.

Chúa Giê-su là “Bánh bởi trời” cứu loài người khỏi đói khát tình thương khi bày tỏ cho họ biết mỗi người là một chi thể của Ngài, mỗi người là hiện thân của Ngài, vì thế, những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa, yêu người là yêu Chúa nên sẽ được ban thưởng đời sau; ghét người là ghét Chúa nên phải mang án phạt đời đời… Khi nhận ra sự thật nầy, người ta sẽ không còn oán ghét hay làm hại nhau, trái lại sẽ tận tình yêu thương phục vụ lẫn nhau. Bấy giờ, thế giới nầy sẽ là trời mới đất mới nơi hòa bình và công lý ngự trị; trái đất nầy sẽ trở thành một đại gia đình huynh đệ ấm áp tình người.

Và đặc biệt hơn hết, Chúa Giê-su là “Bánh bởi trời” khi Ngài trao ban Thân mình Ngài cho nhân loại, để những ai đón nhận “Bánh nầy” sẽ được kết hợp nên một với Ngài và được sống muôn đời với Chúa.

Lạy Chúa Giê-su,

Thế giới chỉ thực sự được hòa bình, nhân loại chỉ thực sự được hạnh phúc, khi muôn dân muôn nước đón nhận và được nuôi dưỡng bằng “Lời hằng sống” là thứ “Bánh bởi trời” do Chúa tặng ban.

Xin ban Chúa Thánh Thần cho nhân loại để Ngài soi sáng tâm hồn mọi người biết quý trọng và đón nhận bánh vô cùng cao quý nầy. Amen.

Về mục lục

 

THẦN LƯƠNG BAN SỨC MẠNH

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
.

Thân xác con người cần phải được bồi bổ để đủ sức tồn tại và lớn lên mỗi ngày. Cũng vậy, đời sống linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng lương thực thiêng liêng. Người tín hữu tin vào sức mạnh được Chúa ban qua bí tích Thánh Thể, là Thần Lương trợ lực để sống an bình, nhất là để vượt thắng mọi khó khăn thử thách. Nhờ Thần Lương này, người tín hữu còn được nếm trước vinh quang đời sau, tức là hạnh phúc Chúa dành cho các thiên thần và các thánh trên thiên đàng.

Bài đọc I kể lại việc ngôn sứ Elia trên đường chạy trốn trước sự rượt đuổi của vua Akháp. Ông mệt mỏi vì đường xa, lại thêm sự sợ hãi vì bị săn đuổi, nên ông đã buồn rầu và xin Chúa cho chết. Chúa đã sai thiên sứ mang cho ông bánh và nước. Nhờ thần lương này, ông đã đủ sức đi đến núi của Thiên Chúa, và nơi đây, ông được gặp gỡ Ngài. Hành trình của Elia cũng giống như hành trình của chúng ta. Mỗi ngày, chúng ta phải đối diện với biết bao thử thách gian nan. Có những lúc tưởng chừng chúng ta bị đè bẹp trước sức nặng của cuộc đời. Như Elia trong lúc kiệt sức, chúng ta hãy đón nhận lương thực thiêng liêng Chúa ban để lấy lại nghị lực, tiếp tục bước đi trong hành trình cuộc đời. Lương thực ấy là Thánh Thể, là Thần Lương giúp ta bền sức đi đến đích.

Tin Mừng trong Phụng vụ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh trường sinh. Chúa Giêsu nhấn mạnh tới khía cạnh thần linh của bánh mà Người đang nói tới. Cũng như người Do Thái chỉ nhận ra nơi Chúa Giêsu là con ông Giuse thợ mộc, nên họ khó nhận ra bánh mà Đức Giêsu hứa ban. Đây là bánh từ trời, cũng như Đức Giêsu từ trời xuống, vì thế, bánh này là lương thực thiêng liêng Chúa ban. Nếu ngày xưa, Thiên Chúa nuôi dân trong hành trình sa mạc bằng Manna, thì nay, chính Chúa Giêsu là Manna từ trời xuống. Cũng như bánh cần thiết cho sự sống thân xác, bánh thiêng liêng là Chúa Giêsu cần thiết cho sự sống thần linh nơi chúng ta. “Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như những người Do Thái, khi nghe Chúa Giêsu nói về thịt của Người. Nếu màu nhiệm nhập thể dẫn tới việc “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (Ga 1,14”, thì nay, “xác thịt đã trở thành Bánh” (Ga 6,51). Khi nghe Chúa Giêsu nói, Người sẽ lấy thịt mình cho họ ăn, người Do Thái coi đây là sự mạo phạm. Liên hệ với cuộc khổ nạn và được soi sáng bởi mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, người Kitô hữu nhận ra nơi Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Giêsu, Đấng Cứu nhân độ thế, là Thần Lương giúp chúng ta được tăng trưởng mỗi ngày.

Giữa cuộc đời đầy xáo trộn bất an, người tín hữu rất cần có nguồn trợ lực siêu nhiên, để có thể  đứng vững trước phong ba bão tố dồn dập bủa vây. Rất nhiều chứng từ cho thấy nhờ sức mạnh của Thánh Thể, mà người tin Chúa tìm được sức mạnh và hy vọng. Khi chúng ta ăn uống và hưởng dùng lương thực phần xác, thì những thứ thực phẩm được nghiền nát, được tiêu hóa và trở thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể. Như thế lương thực trở thành máu thịt của ta. Tuy vậy, đối với bí tích Thánh Thể thì ngược lại: Khi ta rước lễ, Thánh Thể biến đổi tâm hồn ta để làm cho ta nên giống Chúa Giêsu, tức là làm cho ta trở nên “Thánh Thể” ngay trong đời sống hằng ngày. Thánh Augustinô viết: “Ta là thức ăn của người mạnh, hãy lớn lên và ăn Ta. Nhưng con không biến đổi Ta trong con như biến đổi một thức ăn, mà đúng ra là con sẽ được biến đổi thành Ta”. Qua cách giải thích của Thánh Augustinô, chúng ta tin rằng con người được thần linh hóa, được nên giống Chúa nhờ việc năng lãnh nhận Bí tích này. Thánh Tôma Aquinô cũng khẳng định: “Hiệu quả đích thực của Bí tích Thánh Thể là chuyển đổi con người thành Thiên Chúa”. Nhờ năng kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, cuộc sống của chúng ta sẽ được canh tân đổi mới và có thể sống như Thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em hãy đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta” (Bài đọc II). Như Đức Giêsu đã trao ban chính bản thân mình, người tín hữu được mời gọi bắt chước Chúa, dấn thân phục vụ, sống vì tha nhân, để trở nên những cánh tay nối dài của Người giữa trần gian.

“Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Với lý trí tự nhiên và theo suy luận của con người, đây là điều không tưởng và khó chấp nhận. Chẳng có ai có thể làm cho thịt mình thành bánh tặng người khác. Chỉ có Thiên Chúa quyền năng mới có thể làm được điều kỳ diệu ấy. Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là Thiên Chúa quyền năng, nên đối với Người, mọi sự đều có thể. Thánh Thể là “Mầu nhiệm đức tin”, nghĩa là chỉ có đức tin mới giúp ta chấp nhận và tôn thờ Đấng Cao Cả đang ngự trong Hình Bánh và Hình Rượu. Người đang hiện diện giữa chúng ta. Hãy đến đón nhận để rồi chúng ta được Thần Lương ban sức mạnh trong cuộc lữ hành trần thế. Với nghị lực siêu nhiên được trao ban qua Bí tích Thánh Thể, như ngôn sứ Elia, chúng ta sẽ đến “núi của Thiên Chúa” để gặp gỡ và chiêm ngắm vinh quang của Ngài.

BÁNH BỞI TRỜI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.

Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu cònban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.

Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời. Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.

Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.

Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.

Về mục lục

.

PHÚC ĐỨC TRONG TẦM TAY

Lm. Jos. DĐH.

Cảnh tìm kiếm lợi nhuận, thủ thế thủ thân, bồi bổ sức lực, hoặc tìm thoả mãn nhu cầu riêng tư, rồi từ kẻ bình thường trở nên“đại gia”, từ nghèo vươn lên thành những người có của ăn của để, khách quan mà nói, họ đã thành công. Quy luật tự nhiên cho thấy: thuyền to sóng lớn, người tài giỏi, có chức vị, xã hội vẫn nhìn nhận họ là quan trọng, cần được bảo vệ ; khi lắm tiền nhiều của, người ta dễ nghĩ đến việc “kín cổng cao tường”, hoặc thuê vệ sĩ trợ giúp. Cha ông chúng ta truyền lại một quy luật bất thành văn: của biếu là của lo, của cho là của nợ, hiểu đơn giản là người nhận sự trợ giúp không thể không ưu tư, người hưởng của biếu xén được coi như nợ đồng lần. Rõ ràng, tiền nhân khuyên con cháu làm việc bác ái, nhưng lại không hề có ý cổ võ việc ngồi chơi xơi nước, đợi của biếu của cho bao giờ.

Tâm lý chung, ai chẳng muốn mình có phần có phúc, được thừa hưởng gia tài vật chất, tinh thần, của tổ tiên dòng tộc, dù trong thâm tâm họ dư biết “muốn và được” đang ở trong tầm tay của mỗi người. Số đông dân chúng năm xưa họ đại diện cho dân tộc, cho nhân loại, đến với Đức Giêsu tìm kiếm hạnh phúc, họ được nghe, được đối thoại, còn sở hữu phần phúc đức, họ phải quyết định lựa chọn, vượt qua thành kiến để nhận ra“Con Bác thợ mộc” chính là Thiên Chúa. Tư tưởng có hay không thứ bánh trường sinh, có thật Mình và Máu Đức Giêsu đủ chia sẻ và nuôi sống con cái nhân loại không, nhiều người Do-thái, nhiều người trong chúng ta vẫn còn bị ám ảnh bởi sự nghi ngờ đó !

Kinh nghiệm của tiền nhân: tài ra ngoài mới lớn, lính ra trận mới nên công. Nếu thông thái tài giỏi, vàng bạc dư thừa, nhưng lại nhốt chúng trong tủ, như thế sao gọi là giỏi, là giầu, là khôn ngoan ? Nếu người ta lấy đất đá nuôi sống được thân xác, sẽ chẳng còn ai nghĩ đến chuyện đi làm. Nếu dùng tiền vàng, hoặc cơm bánh, nuôi sống được linh hồn, chắc không ai tới nhà thờ, cũng không còn cảnh người tìm gặp Đức Giêsu làm chi nữa ! Trong đối thoại cầu nguyện, Chúa Giêsu chỉ cho đám đông hôm xưa và còn đang chỉ cho chúng ta: Bánh trường sinh chính là Tôi đây, tuy nhiên nhiều người đã phản ứng dữ dội. Đúng, làm sao người ta có thể hiểu, Đức Giêsu chính là của ăn nuôi linh hồn, là Bánh trường sinh, khi họ lẫn lộn thứ bánh vật chất và Bánh Giêsu hoàn toàn giống nhau.

Triết lý ở đời cho rằng: muốn ăn ngon, phải có tiền, muốn sức khoẻ tốt, phải sống điều độ, muốn thừa hưởng phúc đức của tổ tiên dòng tộc, nhất định họ phải là người đã từng sống hiếu sống thảo, và còn đang hiệp thông sống lời răn dạy của tiền nhân. Gặp được niềm vui hạnh phúc đời đời, ai chẳng mơ ước có được bí quyết đó, đám đông Do-thái và chúng ta hôm nay, đủ dư hiểu biết Đấng ban phát Bánh trường sinh, Đấng là Đường, là Sự thật, chính là Đức Giêsu. Lý do từ chối, vì người ta không muốn hiểu, cố tình không tin Đức Giêsu là Bánh ban sự sống, vì họ lấy tai mắt thể xác để cân đo đong đếm, lấy tài trí khôn ngoan của mình để hiểu Mầu nhiệm Thiên Chúa. Thời nào cũng vậy, biết tìm kiếm sự sống trường sinh đã là hợp lý, là một ơn ban rồi, nhưng nhận ra Bánh hằng sống, người ta phải gặp phải tin Đức Giêsu, để Ngài biến đổi tâm tính, thay đổi quan niệm về tình yêu thương.

Bộ phim Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đã được chúng ta xem nhiều lần, Vị Đường Tăng không hề tuyên bố “ta là của ăn bất tử”, thế mà lộ trình của Cao Tăng đi tới đâu cũng bị “yêu quái” rình rập ăn thịt, vì chúng nghĩ là ăn nhậu Đường Tăng sẽ được trường sinh. Phúc đức ở đời này và phúc đức ở sau, luôn ở trong tầm tay mỗi người, đó là sự tự do chọn lựa, là cơ hội sống và tin vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến. Người sẵn lòng cho đi, sẽ khiến phúc đức ngày càng đến nhiều, người biết chia sẻ vật chất, tinh thần với người khác, càng ngày họ càng có nhiều bạn, có được hiểu biết và sống tốt đẹp như thế, nhất định họ phải có tình yêu thương của Đức Giêsu.

Phúc đức ở quá khứ, hiện tại, tương lai là có thật, cuộc sống thành đạt còn mãi ở phía trước, nghiên cứu phát minh về của ăn thức uống, trẻ mãi không già sẽ còn ở tận cuối chân trời, khi mà con người vẫn ảo tưởng về tài sức riêng của mình. Tại ngôi thánh đường này, chúng ta có tin hay không tin Đức Giêsu là Bánh trường sinh, có đến gặp Đức Giêsu vì mục đích khác, Ngài vẫn thực sự là của ăn thức uống như đã quả quyết: “ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”. Trường sinh bất tử bao giờ cũng là mầu nhiệm, đối với người xưa và cả chúng ta hôm nay, quà tặng của Thiên Chúa trước sau vẫn là một, không bao giờ có sự sống đời đời, nếu người ta không đến gặp Đức Giêsu. Phúc đức ở đời này và phúc phức ở đời sau, chỉ Đức Giêsu mới có lời giải thích rõ ràng cụ thể, tin Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, người ta mới hiểu, Đức Giêsu là Bánh trường sinh được ban cho nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

HÃY ĐẾN VỚI CHÚA GIÊSU, BÁNH HẰNG SỐNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khởi đi từ phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, phụng vụ Lời Chúa các tuần tiếp theo giúp chúng ta đọc lại hầu như toàn bộ chương 6 Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là cơ hội để khám phá con người Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, sức mạnh của Lời Chúa, ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa nhật một khía cạnh khác nhau. Từ Bánh Bởi Trời là Chúa Giêsu đến Bánh Ban Sự Sống, Tấm Bánh Thánh Thể và Bánh Lời Chúa.

Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn cho chúng ta bầu không khí tại quê nhà của Chúa Giêsu và thái độ của những người đồng hương đến nghe Chúa giảng. Sau khi đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, kèm theo lời giải thích cho dân chúng về ý nghĩa của “dấu chỉ” ấy xong, Chúa Giêsu tuyên bố : « Ta là hằng sống bởi trời mà xuống » (Ga 6,51). Câu này khiến cho những cùng quê với Chúa Giêsu sửng sốt. Họ đâu có đón nhận Lời này. Họ coi đó là gương mù gương xấu. Họ lẩm bẩm với nhau, bới lông tìm vết : ” Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống” (Ga 6,42). Cuộc sống của Chúa Giêsu rất đỗi bình thường giữa người làng xóm, thường đến nỗi khiến người ta vấp phạm vì lời Người. Thấy họ lẩm bẩm, Chúa Giêsu nói : “Các người chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy“, và Người thêm: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 44.47).

Người Cha mà Chúa Giêsu nói với họ không ai nhìn thấy bao giờ là người cha nào ? Bánh từ trời xuống là bánh gì mà người ta ăn vào sẽ sống đời đời ? Trong khi đó, manna của ăn trong sa mạc, cha ông họ đã ăn và đã chết thì Chúa phủ nhận, nay tuyên bố : “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51). Thịt của Chúa có thể là thức ăn cho con người được không? Sự chống đối mà Chúa Giêsu đã gieo vào giữa những người Do Thái cũng có thể áp dụng cho chúng ta ngày hôm nay nếu chúng ta không trả lời được câu hỏi căn bản “Chúa Giêsu là ai?” trong đời sống kitô giáo của mình.

Trước chúng ta, nhiều người nam cũng như nữ đã tự đặt ra cho mình câu hỏi này, và cá nhân họ đã có câu trả lời, họ đã đến với Chúa, đi theo Chúa và tận hưởng một cuộc sống vô tận tràn đầy tình yêu như Chúa hứa : “Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (x. Ga 6, 44). Juan Casiano đã nói với các môn đệ mình rằng, “Hãy đến gần Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ đến gần anh em vì ‘không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng đã sai Ta không lôi kéo kẻ ấy’ “. Lời mời gọi của Chúa trong Tin Mừng vẫn thúc bách chúng ta hôm nay, “Hãy đến với Ta, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng”  (Mt 11,28).

Những lời này không chỉ dành cho một số người, không, Chúa nói những lời ấy là dành cho tất cả mọi người, những ai đang mệt mỏi với gánh nặng, những ai cảm thấy mình bị loại ra khỏi lời mời gọi của Chúa. Chúa thấu hiểu cuộc sống này nặng tới mức độ nào và Chúa còn thấy bao điều mệt mỏi trong tâm hồn chúng ta như : thất vọng, vết thương trong quá khứ, lầm lỗi trong hiện tại, những bất định và lo âu về tương lai. Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy đến! “.

Đón nhận Lời Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu mỗi ngày và đi vào trong sự hiệp thông thân tình với Chúa, ăn thịt Chúa, vì như Orgene nói : “Của ăn đích thực là mình Chúa Kitô, Đấng là Ngôi Lời, nhập thể làm người giữa chúng ta”. Hãy đến với Chúa Giêsu, vì chính Người là Đấng được Chúa Cha đã sai vào thế gian làm Lương thực trường tồn, và vì điều này mà Chúa Giêsu đã hiến tế mạng sống mình, hiến trao thịt và máu Người làm của ăn cho chúng ta.

Vì thế, trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, những người đang lữ hành trên bước đường dương thế để nuôi dưỡng đức tin, niềm hy vọng và lòng bác ái nơi mình, như xưa Người đã đồng hành với các môn đệ trên đường Emmaus. Hơn nữa, Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ an ủi chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta đạt tới chân lý và bình an. Mỗi khi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng trong đức tin, đức cậy và đức mến; an ủi chúng ta giữa những thử thách của cuộc đời.

Được Chúa Giêsu Thánh Thể nuôi dưỡng, cũng có nghĩa chúng ta phải từ bỏ chính mình, để đặt niềm tin nơi Chúa và để cho Chúa hướng dẫn. Bằng cách ấy, tình yêu nhưng không mà chúng ta nhận nơi Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể với tác động của Chúa Thánh Thần, sẽ nuôi dưỡng lòng mến Chúa và tình yêu thương mà chúng ta dành cho từng anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trên mọi bước đường đời. Được nuôi dưỡng bởi Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta ngày càng trở nên thân thiết hơn và cụ thể hơn với Thân Thể nhiệm màu của Chúa Kitô là chính Hội Thánh.

Lạy Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ luôn hiệp thông mật thiết với Đấng là Bánh Hằng Sống, xin giúp chúng con tái khám phá vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể, là bí tích nuôi dưỡng đời sống đức tin, để chúng con biết sống mật thiết với Chúa và với anh chị em đồng loại. Amen.

Về mục lục

.

TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Mỗi ngày Việt nam đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành. Những cái chết của phi nhân bất nghĩa, của tình người băng giá, của đạo đức suy đồi, của tham lam bất chính. Đây phải là lúc chúng ta nhìn lại nhân sinh quan cuộc sống, tại sao giữa nền văn minh nhân loại lại đổ vỡ tình người, lại tan nát tất cả những luân thường đạo lý mà bốn ngàn năm văn hiến của cha ông đã gầy dựng? Chúng ta thử nhìn lại thống kê của trang điện tử www.tin247.com/ mỗi ngày Việt Nam có:

Phá thai hơn 500.000 ca phá thai một năm, trung bình mỗi ngày có hơn 1.300 thai nhi bị giết hại.

Mỗi tháng có gần 1.100 người chết vì tai nạn giao thông, trung bình mỗi ngày hơn 35 người chết vì tai nạn giao thông.

Trung bình mỗi ngày lại có thêm 50 – 100 người nhiễm AIDS.

Mỗi một ngày tứ Bắc chí Nam có hàng ngàn cô gái đem thân xác đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn.

Mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn.

Đạo lý làm người nay ở đâu? Con người có còn là “nhân chi sơ tính bản thiện” hay đã bị thoái hóa mất tính người? Con người biết thiện và ác, có khả năng tự chủ bản thân hơn loài vật, sao lại dễ dàng làm điều xấu, điều hại người hơn là làm điều tốt, điều cứu sống anh em?

Là người kytô hữu, ai trong chúng ta cũng tự hào vì mình là hình ảnh Thiên Chúa. Ai trong chúng ta cũng tự hào mình vượt lên trên muôn loài muôn vật vì “nhân linh ư vạn vật”. Ai trong chúng ta cũng hiểu rằng con người có tương giao với Thiên Chúa, với thần linh. Con người đến từ Thiên Chúa. Con người thuộc về Thiên Chúa, vì con người bởi Thiên Chúa mà ra. Nhưng liệu rằng, khi nhìn vào cuộc sống của chúng ta người ta có nhận ra chúng ta là con cái Thiên Chúa hay người ta sẽ ngán ngẩm bảo rằng: cuộc sống của anh, suy nghĩ độc ác, ích kỷ, những ước muốn tầm thường, những lời nói giết người không dao của anh làm tan nát tâm hồn bao người, …tất cả chúng tôi nào có lạ gì, sao anh bảo anh đến từ Thiên Chúa tình thương và nhân lành? “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con yêu thương nhau”. Liệu rằng dấu hiệu ấy có được tỏ hiện qua lời nói việc làm của chúng ta hay không?

Cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu là chứng minh Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Ngài luôn bao dung tha thứ. Ngài đã từng tha thứ cho cả kẻ gây nên nhục hình cho Ngài. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.

Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.

Phải chăng Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng, tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?

Phải chăng Ngài cũng đang mời gọi chúng ta, không chỉ nhận ra mình mang nguồn gốc từ trời, mà phải sống và hành động như con cái của Chúa. Sống hoàn thiện mình mỗi ngày như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Mỗi ngày chúng ta phải thanh tẩy mình khỏi mọi điều gian ác, khỏi những ước muốn tầm thường và mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu như Đức Kitô để dung nhan Thiên Chúa được tỏ hiện trong đời sống hằng ngày của chúng ta.

Ước gì trong mỗi lời nói hành động đầy yêu thương bác ái của chúng ta mà các anh chị em chung quanh sẽ ngợi ca Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời. Ứơc gì khi chúng ta nhận ra tình thương của Chúa dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại của mình.

Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho muôn người nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống cao thượng, sống đúng với phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

.

BÁNH HẰNG SỐNG

Bông Hồng Nhỏ

A! Mẹ về ! Mẹ về !

Ba đứa trẻ chạy ùa ra cổng khi thấy mẹ đi chợ về. Chúng ríu rít như chim non trong tổ  chờ chim mẹ bón mồi:

  • Mẹ ơi ! Mẹ có mệt không?
  • Mẹ ơi ! con đói quá ! Mẹ có mua quà bánh cho con không?
  • Các con ở nhà chơi ngoan không? Vào nhà rồi mẹ lấy bánh cho.
  • Hoan hô hoan hô ! Cám ơn mẹ nhiều !

Hôm nay, Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng: “ Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41). Nghe điều này, họ liền xầm xì phản đối. Họ không chấp nhận rằng Đức Giêsu là Đấng từ trời xuống, bởi họ biết rõ Đức Giêsu là con ông thợ mộc Giuse. Họ biết rõ gốc gác của Đức Giêsu. Thế mà Chúa Giêsu lại nói Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến và còn mạc khải rằng: “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51a). Không ai có thể hiểu được điều này nếu không có ơn Thiên Chúa ban.

Thuở bé, ta hồn nhiên đón nhận chiếc bánh mẹ mua cho mỗi lần đi chợ về. Ta không hề biết rằng đó là món quà mà mẹ chắt chiu dành dụm tiền để mua cho ta. Lớn lên rồi, khi nhìn giọt mồ hôi mẹ rơi, thấy nụ cười của mẹ, ta thấy thương yêu mẹ thật nhiều. Nhớ về chiếc bánh ngày xưa, ta đã thổn thức bởi tình mẹ thương ta thật bao la. Từ ngày được Rước lễ, ta cũng đón nhận món quà của Thiên Chúa ban tặng, cũng là một tấm bánh trắng tinh nhưng gói gọn tình yêu Thiên Chúa. Đó không phải là tấm bánh đơn thuần, nhưng là Thánh Thể, là chính Máu Thịt Chúa Giêsu, là chính Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn ta.

Người Do Thái không đón nhận Chúa Giêsu vì họ không tin Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến. Còn ta, ta đã đón nhận Chúa Giêsu bằng một đức tin tinh tuyền, thánh thiện. Đức tin là một hồng ân nhưng không mà Chúa Giêsu ban tặng. Nhờ có đức tin, ta tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể, ta ao ước đón rước Chúa ngự vào trong tâm hồn. Mỗi lần rước Chúa, ta cung kính đón rước Chúa vào lòng, thờ lạy Chúa, tạ ơn Chúa và tâm sự với Chúa. Chúa Giêsu đã tự nguyện trở nên một hy lễ của tình yêu qua Thánh Thể. Hy lễ Thánh Thể là chính Máu Thịt của Chúa Giêsu nuôi dưỡng tâm hồn người tín hữu và cho họ được sống dồi dào hơn.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể ! Xin Chúa đến ngự vào trong tâm hồn con và cho con cảm nếm vị ngọt được Chúa yêu thương. Xin cho con khát khao được Chúa ngự vào tâm hồn, rước Chúa với niềm xác tín, hân hoan và cùng với Chúa, con dâng hiến hy lễ của đời con hiệp với hy lễ  Thánh Thể của Chúa, để cuộc đời con cũng trở thành tấm bánh thơm ngon chia sẻ cho anh chị em.

Về mục lục

.

BÁNH HẰNG SỐNG.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng 

Bánh trời hằng sống nhiệm mầu,

Ban cho nhân loại, nhu cầu thần lương.

Nuôi hồn chữa xác tựa nương,

Thông ban sự sống, miên trường khát khao.

Đây là Thịt Máu Chúa trao,

Bởi trời mà xuống, biết bao ân tình.

Mấy người Do-thái bực mình,

Có cha có mẹ, bình sinh sống đời.

Mẹ cha sống với mọi người,

Xì xầm to nhỏ, bởi trời là sao?

Quyền năng phép tắc trên cao,

Nghe lời giáo hóa, truyền rao tín điều.

Ta là sự sống cao siêu,

Ai tin sẽ được, thiên triều phúc vinh.

Thịt Ta lương thực thần linh,

Hiến thân nuôi dưỡng, chúng sinh trong đời. 

Chúa Giêsu đã phán rằng: Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống. Bánh hằng sống mà Chúa Giêsu ban cho nhân loại chính là Thịt và Máu Thánh Chúa. Trong bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu hiện diện thật trong tấm bánh nhỏ và chén rượu nho. Làm sao gọi là bánh hằng sống? Tấm bánh mà chúng ta rước lễ mỗi ngày có một sức sống vô biên biến đổi và dưỡng nuôi cả hồn lẫn xác.

Theo cái nhìn trần tục hoặc phân tích khoa học dinh dưỡng, tấm bánh hằng sống không có giá trị bao nhiêu. Nó không đủ để nuôi sống được con người. Thế nhưng tại sao chúng ta cung kính và chăm chú tham dự thánh lễ và rước lễ. Người lớn cũng như trẻ em cùng chia nhau một tấm bánh nhỏ bé và một chén rượu nho. Đây là mầu nhiệm đức tin. Với tấm bánh nhỏ đã được truyền phép trong thánh lễ đã trở nên thần lương đem sức sống thiêng liêng. Tấm bánh nhỏ chứa đựng trọn vẹn Chúa Giêsu cả thần tính và nhân tính.

Ý nghĩa của Bí Tích Thánh Thể chính là lễ Tạ Ơn. Chúa Kitô đã hiến thân chịu chết trên thánh giá để cứu độ và chuộc tội cho chúng ta. Chúa đã chết vì tình yêu. Một tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện. Thánh Thể là thân thể của Chúa được trao ban cách nhưng không. Chúa dùng chính Thịt Máu mình trong bí tích Thánh Thể để dưỡng nuôi chúng ta cũng như người mẹ dùng chính sữa của mình mà nuôi con.

Truyện kể rằng một người mẹ dẫn con qua đường. Vừa sang tới lề đường bên kia, gặp một người ăn mày đang ngửa tay xin bố thí. Để tập đức thương người, bà đưa cho đứa con một tờ giấy bạc để cho người ăn xin. Đứa con cầm tiền nhưng rụt rè không đưa. Bà mẹ đứng chờ mãi không thấy con đưa tiền vào đôi tay của người ăn xin. Bà khom xuống dí ngón tay vào tay của con cho tiền rơi xuống. Đi một quãng, bà hỏi con: Sao con không cho ông ta. Con sợ à. Đứa con trả lời: không, con không sợ. Con chờ ông ta đưa tay ra lấy. Mẹ bảo: Thường khi ông ăn mày sẽ không cầm lấy mà ông chỉ ngửa tay, mình cho bao nhiêu cứ bỏ vào lòng bàn tay ông. Người ăn xin ngửa hai bàn tay ra xin bố thí. Ai cho nhiều hay ít gì cứ tự  nhiên bỏ vào. Ngửa tay chờ đợi và nói lời cám ơn.

Chúng ta đến với Chúa đưa hai bàn tay ngửa xin ơn lành. Tin tưởng vào lòng nhân hậu và đại lượng của Chúa. Chúa sẽ ban ơn phúc lành cho chúng ta. Chúng ta nhận lấy và cám tạ ơn Chúa. Hãy đến với Chúa bất cứ khi nào chúng ta muốn, nhất là khi chúng ta mệt mỏi, chán nản và thất vọng. Đừng vì thất vọng mà chúng ta xa Chúa. Chỉ có nơi Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn sinh lực. Chỉ có Chúa mới giải trừ được mọi nỗi khát mong của tâm hồn. Chúa chính là thần lương và là bánh tự trời xuống.

Về mục lục

.

CÓ AI THẤY CHÚA CHA ĐÂU

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Câu chuyện bánh ăn vẫn chưa tới hồi kết nhưng lại ngày càng trở nên gay cấn hơn. Các người Do Thái bắt đầu cảm thấy bực bội khó chịu; họ xầm xì – phản đối (xem Xh 15:24; 16:12; 17:3), nhưng lần này không còn xoay quanh vấn đề bánh đó là thức ăn gì, hay người nào cho ăn, mà tập trung vào vấn nạn, người cho ăn bánh đó từ đâu mà đến; “tại sao bây giờ ông ta lại nói: “tôi từ trời xuống?’ Qua cuộc tranh luận về ăn bánh này, Đức Giê-su đã đưa nhóm thính giả Do Thái, vốn có rất ít thiện cảm với Người, đi tới một kết luận hết sức bất ngờ: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.

Câu khảng định gây ngạc nhiên trên cho các thính giả Do Thái khi cho biết một điều chưa từng được nghe ai nói tới bao giờ, đó là bất cứ ai thấy được Chúa Cha thì người đó sẽ có sự sống đời đời. Điều này trước hết hoàn toàn trái ngược với quan niệm phổ thông của người Do Thái đương thời; họ cho rằng, Đức Chúa, Chúa các đạo binh là đấng quyền uy cao cả vô song tới nỗi không ai có thể nhìn thẳng mặt Ngài được, nếu không muốn chết (xem Xh 19:21). Ngay cả các thiên thần, trong quan điểm của họ, cũng phải hãi sợ lấy cánh che mặt mỗi lần ra trước Thánh Nhan (xem Is 6:1-3). Đến cả Mô-sê từ đỉnh núi Si-nai đi xuống, sau khi đã nhận lãnh các bia đá giới luật, mặt ông còn phản chiếu vinh quang Đức Chúa chói lọi tới độ dân chúng không dám nhìn trực diện, buộc ông phải lấy mảnh vải thưa che mặt mình lại (xem Xh 34:29-34). Thế đấy, làm sao một Đức Chúa đáng khiếp sợ như thế lại có thể trở thành nguồn cứu rỗi, và nhân vật đã nhìn thấy Đức Chúa, rồi từ Ngài mà đến, lại có thể ban sự sống chứ không phải là cái chết cho con người? Chính vì suy nghĩ như thế mà sau này, khi Phi-líp-phê đại diện cho các tông đồ và những kẻ tin khao khát được nhìn thấy Cha và lên tiếng: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!” (Ga 14:8) thì đó đã là cả một lời tuyên xưng đức tin rất can trường và hiếm có. Nếu đối với các người môn đệ – những kẻ tin đã là như thế, thì đối với những ai không tin, đương nhiên việc ao ước được nhìn thấy Đức Chúa uy hùng để rồi phải chết là điều không thể. Do đó câu khảng định tiếp theo của Đức Giê-su lại càng chói tai, càng khó chấp nhận hơn đối với nhóm cử tọa đa nghi: “Tôi là bánh trường sinh, bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.

Khi đồng hóa việc ‘nhìn thấy Cha’ – là điều không ai dám làm, với việc ăn bánh và tin vào Người Con, Đức Giê-su đã làm một mời gọi vô cùng táo bạo, vượt quá hết mọi giới hạn chấp nhận của người đương thời. Nó đòi dân chúng nói chung, đặc biệt đám thính giả Do Thái nói riêng, phải có khả năng chuyển dịch từ quan niệm về một Thiên Chúa quyền uy cao cả, xa cách và đáng khiếp sợ, để chấp nhận diện mạo đối nghịch về một Thiên Chúa gần gũi, thấp hèn và từ nhân. Điều này cũng giống như đòi các tín đồ Do Thái nhiệt thành phải bỏ hẳn lối hiểu biết về (hay niềm tin vào) Đức Chúa oai hùng của Mô-sê và các tổ phụ, để đặt trọn niềm tin vào một Thiên Chúa Nhập Thể biểu hiện nơi con người ông Giê-su quá tầm thường này, “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông chúng ta đều biết cả” (câu 42). Đơn giản họ không bao giờ có thể chấp nhận nổi điều này!

Đối với Ki-tô hữu chúng ta ngày nay, chính vì Mầu Nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể đã dần trở thành một ‘công thức’ quen thuộc, cho nên việc chấp nhận lời mời gọi ‘ăn bánh trường sinh’ cũng không còn là điều gì quá chói tai. Tuy nhiên cũng như mãi mãi Thiên Chúa Nhập Thể vẫn là một mầu nhiệm khó nuốt trôi, thì việc ‘ăn bánh hằng sống’ với tất cả niềm tin sâu sắc cũng chẳng dễ dàng gì. Bao lâu ta còn đặt nặng việc tôn thờ một Thiên Chúa quyền uy cao cả, bấy lâu ta còn chưa thể khai thác được tất cả sự phong phú của Mầu Nhiệm Nhập Thể; bao lâu ta chưa thể thuyết phục được mình, rằng yếu tính quan trọng nhất của Thiên Chúa chính là sự từ bi nhân ái và hay xót thương, bao lâu ta còn chưa chịu chấp nhận “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9) khi ngước nhìn lên Thập Giá, bấy lâu ta vẫn chưa thể bị thuyết phục rằng: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thế đó, Thánh Thể luôn là biểu hiện của một niềm tin sâu sắc nhất (mầu nhiệm đức tin) chính là ở điểm này!

Niềm tin của tôi vào Thánh Thể hệ tại ở điều gì?

Lạy Chúa, bao lâu con còn chu chu chắm chắm tôn thờ sự hiện diện uy nghi cao cả của Chúa sau mỗi lần rước lễ, bấy lâu con chưa thể chân nhận Chúa chính là ‘bánh bởi trời’ nuôi sống con. Con phải tôn thờ Chúa, nhưng là tôn thờ một Thiên Chúa thật gần gũi, khiêm hạ và tự hiến, sẵn sàng hiến thân mình làm của ăn nuôi con. Xin cho con biết chuyển dịch cách hữu hiệu niềm tin của con từ việc quá quan tâm tới sự toàn năng cao cả của Chúa qua việc nhấn mạnh trên lòng nhân từ xót thương của Người, đặc biệt trong những lần con được diễm phúc tiến lên rước Chúa. A-men.

Về mục lục

.

THẦN LƯƠNG ĐỘ ĐƯỜNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong cuộc sống đời thường, ai trong chúng ta cũng có lúc thành công, cũng có khi thất bại. Thành công mang lại cho chúng ta niềm phấn khích, nhưng thất bại dễ nhấn chìm chúng ta trong tuyệt vọng và chán chường. Hình ảnh của ngôn sứ Êlia được sách Các Vua phác vẽ trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay lột tả các trạng luống nhân sinh của đời sống con người. Ông đã chiến thắng ngoạn mục trên núi Car-mê-lô trước 450 tiên tri của thần Baal. Lời cầu khấn của ông đã được Chúa chấp nhận và cho lửa từ trời xuống đốt cháy lễ vật. Trong khi đó, môt đội quân đông đảo các tiên tri của Baal dài cổ kêu gào cả ngày mà không một thần linh nào đoái hoài tới. Sự thành công đó đã chứng minh Đấng mà ông tôn thờ là Thiên Chúa thật. Nhưng liền sau đó, gian nan ập đến. Hoàng hậu Idêven săn lùng và  tìm cách giết ông, bởi vì bà ta bảo vệ cho tôn giáo thờ Baal. Thế là vị ngôn sứ phải lẩn trốn để lánh nạn. Ông lên đường ra đi trong tất tưởi và cay đắng. Ông hoàn toàn tuyệt vọng và muốn chết quách cho xong. Giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, đi sâu vào giấc ngủ và xin Chúa cất lấy linh hồn ông. Trong cơn thất vọng ê chề, vị ngôn sứ đã được Chúa sai thiên thần đến đem bánh và nước để ông tiếp tục cuộc hành  trình tới núi Khô-rep .

Hình ảnh của Êlia là biểu trưng thân phận lữ hành của tất cả mọi người chúng ta. Biết bao lần chúng ta cũng bị bầm dập và tan nát giữa những bi thương của cuộc sống, tưởng chừng như bế tắc và sụp đổ hoàn toàn. Nhưng Thiên Chúa đã trao tặng một thứ lương thực kỳ diệu như đã ban cho Êlia năm xưa để giúp chúng ta độ thân trên con đường lữ thứ. Đó chính là Bánh ban sự sống, Bánh trường sinh, là thần lương cao quý nhất trong kiếp sống lữ hành trần thế hôm nay.

Một lần nữa trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng  ta về lương thực kỳ diệu này. Ngài khẳng định: “ Tôi là Bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không phải chết …. Và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,50-51)

Bánh thần thiêng

Cha thánh Gioan Maria Vianney đã miêu tả trong một bài giảng. Thuở ban đầu khi tạo thành vũ trụ, Thiên Chúa định liệu cho mọi sinh linh có đủ lương thực để tồn tại. Mọi thứ rau cỏ, thịt cá … được dọn ra ê hề như một mâm cỗ đầy ắp và mỗi  loài có thể tự chọn những lương thực thích hợp để bảo tồn sự sống cho mình. Cuối cùng đến lượt con người, Thiên Chúa khựng lại và tự hỏi “ Ta sẽ ban cho họ lương thực gì đây ? Bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Ta, không chỉ có thân xác mà còn có cả linh hồn”. Thân xác thì đã có của ăn vật chất còn linh hồn thì sao? Cuối cùng, để tương xứng với vẻ đẹp của linh hồn con người vốn là họa ảnh của chính Thiên Chúa, Ngài đã quyết định trao hiến thịt và máu Người Con yêu quý để nuôi sống chúng ta, cho dù Ngài biết con người đầy tội lỗi và bất xứng.

Thiên Chúa đã phân thây xẻ thịt người con duy nhất để biểu tỏ tình yêu điên rồ của Ngài. Chính Đức Giêsu  khải thị điều này trong câu chuyện nói với  Nicôđêmô: “ Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một yêu dấu” (Ga 3,16). Tình yêu này quả rất điên rồ mà chúng ta không thể lý giải được. Đức Giêsu đã nói: “ Không có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm chỉ nói bằng sáo ngữ trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã hiện thực lời tuyên bố ấy qua chính cái chết trên thập giá. Thập giá Đức Kitô là câu định nghĩa tròn đầy nhất và sâu tận nhất về tình yêu mà Thiên Chúa muốn diễn bày. Đức Giêsu chính là tấm bánh được ban tặng, tấm bánh được nướng chín trong cuộc khổ nạn, tấm bánh đã được bẻ nát và được phân hủy để thông truyền sự sống cho chúng ta. “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51) .

Hình tượng Thịt và Máu

Cách đây hơn 80 năm, có một đoàn di dân từ Âu châu đến Úc châu. Trong đám người du cư lang thang lếch thếch đó, người ta bỗng nghe tiếng khóc xé lòng của một đứa bé bên vệ đường. Lại gần, mọi người thấy một em bé còn đỏ hỏn đang giãy dụa nằm khóc thét bên cạnh mẹ nó. Người phụ nữ xấu số đã chết vì mệt nhọc và đói khát. Khuôn mặt hốc hác và tím tái của chị trông bất động và thật lạnh lẽo. Bầu vú của người đàn bà hầu như đã cạn kiệt. Nhưng kỳ diệu thay, đứa bé vẫn còn sống. Nó vẫn mân mê mút đầu ngón tay của mẹ nó, và những giọt máu hiếm hoi của người mẹ đã cứu sống đứa trẻ. Chính người mẹ với tình mẫu tử bất tận đã truyền những giọt máu cuối cùng của mình cho đứa con để nó được cứu sống. Bà đã chết, nhưng tình yêu cao cả khiến bà vẫn sống. Bà vẫn sống và sống mãi trong tâm hồn đứa bé thơ. Năm mươi năm sau, đứa bé đó lớn lên trở thành chủ tịch quốc hội nước Úc. Chính ông ta đã kể lại câu chuyện cảm động này, làm sống lại hình ảnh người mẹ đã hy sinh tính mạng để cho con bà được sống.

Ngày hôm nay Giáo hội cũng kể lại cho chúng ta nghe một câu chuyện tương tự giống như vậy. Câu chuyện hôm nay được kể còn hay hơn và thâm thúy hơn rất nhiều. Chính xác hơn, chính Đức Giêsu đang kể cho chúng ta câu chuyên này. “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”. Qua bài Tin mừng, Chúa Giêsu dẫn mời chúng ta dần dần đi sâu vào câu chuyện tình rất linh thánh mà chính Ngài thủ vai chính.

Câu chuyện Đức Giêsu kể hôm nay không phải là một câu chuyện hoang đường hay mang tính thần thoại. Nhân vật chính trong câu chuyện là chính Ngài, đấng là Thiên Chúa –Người, đã đến trần gian để viết nên một câu chuyện tình hay đẹp nhất và sâu xa nhất. Cảm nghiệm điều này, thánh giáo phụ Irênê đã viết: “ Vì yêu thương, Thiên Chúa đã trở nên con người để khi chúng ta đi vào quỹ đạo tình yêu cùng với Ngài, con người chúng ta được trở nên Thiên Chúa.”

Canh bạc điên rồ

Một viên phi công từng chở công nhân Trung quốc sang Miến điện làm việc hồi thế chiến thứ 2 đã kể lại một giai thoại. Hồi đó những chuyến bay như thế thường rất dài và hành khách tỏ ra khá mệt mỏi. Các công nhân trên máy bay có nhiều thời gian rảnh rỗi và không biết làm gì nên rủ nhau đánh bạc. Đi vào vận đỏ đen, có kẻ thắng người thua. Người được tiền, kẻ trắng túi. Khi không còn tiền bạc mà  máu đen đỏ vẫn còn, họ vẫn ham mê và đánh bạc bằng chính mạng sống của mình. Ai thua phải nhảy ra khỏi máy bay mà không có dù. Họ đã liều lĩnh và nhiều người đã lao vào canh bạc một cách hết sức điên rồ .

Nhưng có lẽ điên rồ hơn cả là canh bạc mà chính Thiên Chúa đang liều mạng dấn bước vào. Ngài dùng chính mạng sống Con Một yêu dấu để đánh bạc với chúng ta. Ngài phân thây xẻ thịt chính Đức Giêsu một cách điên rồ để cá cược với mọi người. Qủa là một sự liều lĩnh và táo bạo. Trong canh bạc này, Thiên Chúa thắng hay thua là do chúng ta quyết định. Bàn tiệc đã dọn sẵn và chúng ta là những thực khách được mời. Chúng ta có đến hay không đến, Thiên chúa vẫn để cho chúng ta tự do lựa chọn.

Kết luận

Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai tin thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47). Tin là chấp nhận lao vào canh bạc của tình yêu và để cho Thiên Chúa thắng. Thánh Augustinô cũng nói: “ Tin là chúng ta ký sẵn một bản hợp đồng với Thiên Chúa trên một tờ giấy trắng. Chúa muốn viết gì trên trang giấy đó tùy ý Ngài.” Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, Giáo hội công bố: “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin để chúng ta luôn biết trải lòng mình ra lãnh nhận hồng ân ban tặng. Hồng ân được hiển thị rất cụ thể qua bữa tiệc linh thánh nhất mà chúng ta được mời tới tham dự. “Ai ăn thịt tôi sẽ được trường sinh” và “Ai tin sẽ được sự sống đời đời”. Đó là hai vế của một định đề duy nhất, diễn bày tình yêu sâu tận của Thiên Chúa. Đứng trước lời gọi mời này, thái độ của bạn, thái độ của tôi, thái độ của chúng ta phải như thế nào ?

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Chủ đề phụng vụ lời Chúa hôm nay là bánh hằng sống. Bánh nuôi phần xác và bánh thiêng nuôi phần hồn đều cần thiết cho cuộc sống người Kitô hữu. Không ai sống ở đời mà không phải ăn, cần có bánh ăn để sống. Phần hồn cũng vậy, cần được nuôi dưỡng bằng của ăn thiêng mới đạt được sự sống đời đời.

Bài đọc I sách Các Vua thuật lại cuộc hành trình lên núi Horeb gặp Thiên Chúa của tiên tri Elia. Sau khi chiến thắng các sư sãi thần Baal trên núi Carmel, Elia đã tiêu diệt khoảng 300 sư sãi Baal, ông đã bị vua Achab và hoàng hậu Giêzabel truy lùng tìm cách giết ông trả thù. Nên ông phải trốn vào rừng vắng. Ông chán nản thất vọng, cầu xin cho được chết… Thiên sứ đem đến cho ông bánh và nước để ông dùng. Nhờ bánh Thiên Thần và nước, ông đã lấy lại được sức, lấy lại được nghị lực, ông đi bộ suốt 40 ngày đêm tới núi Horeb, là núi của Thiên Chúa để gặp Thiên Chúa. Nếu không có bánh các Thiên Thần, Elia đã quỵ ngã và bỏ cuộc giữa đường.

Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu hướng chúng ta về bánh hằng sống và kêu gọi mọi người lãnh nhận bánh đó để được sống đời đời. Bánh thiêng đó chính là Ngài: “Ta là bánh ban sự sống… Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6, 52).

Trong sa mạc Sinai suốt cuộc hành trình về đất hứa. Dân Do Thái nghi ngờ đối với Môsê. Họ kêu trách, than vãn, từ chối không tin vào sứ mạng thần linh của Môsê, không tin rằng ông có khả năng bảo đảm cho họ bánh ăn và nước uống như cha ông của họ, người Do Thái hôm nay kêu trách Chúa Giêsu vì Người tự xưng là “Bánh Hằng Sống từ trời mà xuống”,họ không tin nhận nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu. Họ chỉ biết dừng lại ở nguồn gốc tầm thường của Chúa Giêsu: con bác thợ mộc Giuse. Vì thế họ không tin những lời rao giảng của Đức Giêsu, không công nhận Đức Giêsu là bánh trường sinh, họ khó chịu về những lời khẳng định của Chúa, nên Ngài nhấn mạnh: “Ai tin thì được sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh… và bánh Tôi sẽ ban tặng. Chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”(Ga 6, 51-52).

Chúa Giêsu hướng chúng ta tới bánh trường sinh là chính Ngài trong bí tích Thánh Thể.

Ở trên đời, ai cũng muốn sống mãi, muốn không phải chết, ước muốn trương sinh bất tử là khát vọng của con người ở mọi thời đại. Vua Tần Thủy Hoàng đã truyền xây dựng Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm; một kỳ quan của thế giới cổ đại. Tần Thủy Hoàng, vị hoàng đế đầy quyền lực, giàu sang, nhưng ông rất sợ chết và muốn sống mãi để hưởng vinh quang trần gian.

Một hôm các nhà chiêm tinh kể cho vua nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư trên đảo đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Vua liền sai quan quân đem vàng bạc châu báu đến đây để đổi lấy bí quyết trường sinh của họ, thuốc trường sinh bất tử. Nhưng không tìm được thuốc trường sinh, khi mọi người nhận ra rằng trường sinh bất tử là hảo huyền, nên đã trốn đi không quay trở lại với nhà vua. Họ sợ phải chết dưới lưỡi gươm của bạo vương Tần Thủy Hoàng vì không thể đưa thuốc cải lão hoàn sinh về cho vua muốn trường sinh; được trường sinh bất tử như vua Tần Thủy Hoàng chỉ là một ước mơ không bao giờ hiện thực, dù con người đã làm mọi cách để tìm kiếm.

Chỉ có Đức Giêsu, Ngài là Thiên Chúa mới có thể làm cho con người trường sinh bất tử bằng việc tiếp nhận Ngài trong bí tích Thánh Thể “Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.

Muốn được sống muôn đời, người Kitô hữu phải tin vào Đức Giêsu và đón nhận Ngài vì Ngài là của ăn nuôi sống nhân loại.

Thánh Phaolô mời gọi người Kitô hữu sống đức tin bằng việc thức thi đức ái trong cuộc đời: “Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep 4, 30; 5,2).

Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm của tình thương. Tin nhận Chúa Giêsu thánh Thể phải được bộc lộ bằng những việc bác ái phục vụ anh em trong đời thường. Nói một cách khác, sống mầu nhiệm Thánh Thể là trở nên tấm bánh cho anh em, như Đức Giêsu Kitô đã trở nên lươnhg thần nuôi sống nhân loại.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm Giuse Đinh tất Quý

 “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6,51).

Kính thưa anh chị em.

Tin Mừng chúng ta vừa nghe được trích từ bài giảng Bánh hằng sống. Đây là một trong những bài giang khó cắt nghĩa nhất của Chúa Giêsu. Xin Chúa mở lòng mở trí cho chúng ta để chúng ta hiểu được một phần nào Lời của Người.

Bây giờ chúng ta đi thẳng vào chủ đề.

  1. Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: “Tôi là bánh từ trời xuống”.

Ngày xưa Thiên Chúa đã ban cho Dân Do thái “bánh bởi trời”. Bánh ấy có tên là Manna. Theo Chúa Giêsu thì Manna chỉ là của ăn tạm bợ, mau hư nát. “Tổ tiên các ông đã ăn Manna trong sa mạc, nhưng đã chết”.  Manna chỉ là hình bóng cho một thứ lương thực khác mà Thiên Chúa sẽ ban cho loài người. Chúa Giêsu gọi lương thực đó là “Bánh trường sinh”. Bánh trường sinh là một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Bánh đó trổi vượt và kỳ diệu hơn Manna xưa rất nhiều. “Tôi là bánh trường sinh… là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

Tất cả những lời đó được nói ra với một sự quả quyết sắt đá xem chừng như không có gì làm thay đổi được. Nó đòi hỏi người nghe phải xác định một thái độ. Xem chừng như Chúa Giêsu không còn chờ đợi thêm nữa. Đã đến lúc trắng phải ra trắng đen phải ra đen.

Và quả đúng như thế. Người Do thái đã bắt đầu không còn cảm tình với Chúa nữa. Họ xầm xì về những gì Chúa nói. Mối quan hệ tốt đẹp giữa Chúa với họ trước đây bây giờ không còn. Nó đã bắt đầu trở nên mỗi ngày một xấu đi để rồi từ sự ngộ nhận này đến sự ngộ nhận khác người ta đã bắt đầu đi tới thái độ không chịu hiểu và sau đó là chống đối. Sự thay đổi và chống đối càng ngày càng trở nên quyết liệt.

Mặc kệ cho những lời xầm xí phản đối, Chúa Giêsu đã không nhường bước. Không những không nhẹ giọng, Ngài còn lên tiếng mạnh mẽ và quả quyết rằng Ngài từ Thiên Chúa mà đến, – rằng chỉ mình Ngài là người  đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Ngài có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ thuộc vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Ngài. Tin chính là khởi đầu đi từ dấu chỉ để học cho biết cách nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến… Và đó hẳn không phải là chuyện con người có thể một mình mà  làm được. Nhưng chỉ có  những ai được Chúa Cha lôi kéo mời đến được với Đức Kitô mà  thôi: “Chẳng ai đến được với Tôi, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, lôi kéo người ấy…”.

Sau đó dựa vào những lời hứa và hình ảnh đã được tiên báo trong Cựu ước, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi chính bản thân Ngài.

Isaia xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: “Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ” (Is 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Đức Giêsu khẳng định chính bây giờ là lúc lời hứa ấy được ứng nghiệm. Ngài còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy của tôi là lời dạy của Chúa Cha; Người mà các ông chỉ muốn coi là “Con ông Giuse” lại chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo từ trước.

Manna, lương thực lạ lùng thật, nhưng chỉ là tạm bợ, không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là “Bánh hằng sống”, Bánh đem lại phúc trường sinh: “Tổ tiên các ông đã ăn Manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”.

Ở câu 51: “Bánh tôi sẽ tặng ban, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, với những lời này Đức Giêsu đã muốn loan báo trước về cái chết của Ngài như một ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyện chuyển tiếp qua phần hai của “diễn từ về Bánh hằng sống” chúng ta sẽ đọc vào Chúa Nhật tới.

  1. Kính thưa anh chị em. Đó là nội dung những gì tôi muốn chia sẻ với anh chị em hôm nay. Rất căng nhưng cũng rất sòng phẳng để từ đó chúng ta phải có một thái độ rõ ràng đối với Chúa. Chúa không thích thái độ nửa chừng mà “Nóng thì ra nóng, lạnh thì ra lạnh, hâm hâm nguội nguội ta sẽ mửa ngươi ra”

Ferdowsi (925–1020), thi sĩ người Ba tư sống vào thế kỷ 11 có kể một câu chuyện: Một quốc vương nọ phải đi qua sa mạc để đến một ốc đảo. Cùng đi với ông là một đoàn tùy tùng rất đông. Họ mang theo vô số bạc vàng của cải. Dọc đường, một con lạc đà bỗng ngã quị. Và từ trên lưng nó, một dòng thác vàng bạc châu báu chảy xuống cát. Tức khắc người ta thấy ngay được sự tham muốn đến tột độ bừng lên trong những con mắt của những người đi theo hộ giá nhà vua.

Bằng một cử chỉ rất vương giả, quốc vương nói với những người tùy tùng:

– Các khanh hãy tự do nhặt lấy những thứ đó. Trẫm tặng cho các khanh tất cả. Các khanh cũng được tự do đi tiếp với trẫm hoặc lựa chọn con đường khác mà quay về.

Nói xong, ông tiếp tục lên đường không một chút do dự. Ông nghĩ, tất cả sẽ dừng lại để nhặt cho đến viên kim cương cuối cùng.

Đang đi bỗng ông nghe thấy có tiếng chân theo sau mình. Quay lại, và ông nhận ra đó người hầu cận được tiếng là trung thành nhất. Ông hỏi:

– Sao nhà ngươi không ở lại nhặt vàng bạc trẫm đã ban tặng? Ngươi không biết rằng với số vốn ấy ngươi sẽ trở nên giàu sang ư?

Người hầu cận trung thành trả lời:

– Tâu bệ hạ, ngài là vua. Đối với hạ thần, bệ hạ là kho tàng quí giá nhất. Bệ hạ là tất cả của thần.

Chúng ta hãy lặp lại một lời tương tự như thế đối với Chúa đi các bạn. “Lạy Chúa, đối với con, Chúa là kho tàng quí giá nhất vì Chúa là Thiên Chúa. Vâng Chúa là tất cả của con”

Lạy Chúa Giêsu,

có những ngày con cảm thấy

đời sống thật nặng nề ;

có những lúc con muốn buông trôi,

để mặc cho dòng đời đưa đẩy ;

có những khoảng thời gian dài,

con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.

 Xin cho con ánh sáng của Chúa

để con biết lối mà đi.

 Xin cho con tấm bánh của Chúa

để con có sức mà dấn bước.

 Xin cho con Lời của Chúa

để con vững một niềm tin.

 Xin cho con sự sống của Chúa

để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,

niềm vui và sáng tạo.

 Lạy Chúa Giêsu,

con thấy mình cần Chúa

trong mỗi giây phút của cuộc đời.

Ước gì ai gặp con

cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

          Đời là một cuộc hành trình đi về quê trời. Con đường về trời vừa xa lại vừa khó khăn. Lương thực cho cuộc hành trình phải được đầy đủ. Nhưng lương thực chúng ta phải có là gì ? Lấy đâu ra thứ lương thực đó ?  Hôm nay, Đức Giêsu đã chỉ bảo cho chúng ta thứ lương thực mà Ngài sẽ ban cho. Đó là bánh hằng sống từ trời xuống.

          Đức Giêsu đã hé mở cho dân Do thái biết : Ngài sẽ ban cho họ thứ bánh đó :”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”. Lời tuyên bố này gây sốc cho người nghe, làm cho người ta sững sờ và khó chịu, nhất là khi Ngài nói thêm:”Và bánh ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”(Ga 6,51). Họ không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy khi bản thân Đức Giêsu chỉ là một người Nazareth, gia cảnh rất tầm thường.

          Còn đối với chúng ta, nếu không có đức tin soi dẫn, chúng ta không thể nào chấp nhận được mầu nhiệm Thánh Thể, vì Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin. Ngày nay chúng ta đã được Chúa soi sáng, chúng ta tin nhận Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống va øBánh ấy là thịt máu Ngài. Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta trên đường về quê trời và ban cho chúng ta sự sống đời đời.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          + Bài đọc 1 : 1V 19,4-8.

          Tiên tri Êlia đứng lên chống đối viêc thờ kính ngẫu  thần do bà Jézabel, vợ ngoại giáo của vua Achab, đưa vào đất Israel. Sau lần tiên tri Êlia  giết chết 400 sư sãi Baal, ông bị hoàng hậu Jézabel truy nã gắt gao, ông phải trốn chạy vào hoang địa. Bị đói khát và thất vọng, ông chỉ còn chờ chết. Nhưng Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Được bánh và nước bồi dưỡng, ông lấy lại sức và tiếp tục lên đường, đi một mạch suốt 40 ngày tới núi Horeb diện kiến Thiên Chúa.

          + Bài đọc 2 : Ep 4,30-32 – 5,2.

          Khi viết thư này, phải chăng đang có một sự căng thẳng trầm trọng đã nảy sinh trong cộng đoàn tín hữu ở Êphêsô, đến độ người ta đã la lối và thoá mạ nhau ? Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người hãy nhớ mình là Kitô hữu, nhờ phép rửa tội đã trở nên con Thiên Chúa, là môn đệ và là anh em với Đức Kitô.

          Vì thế, địa vị ấy đòi hỏi chúng ta phải biết thương yêu, biết tha thứ cho nhau bằng cách phải giũ bỏ  khỏi đời sống tất cả những gì làm thương tổn đức bác ái như giận hờn, thù oán, ích kỷ. Thánh Phaolô xác định rằng việc tha thứ cho nhau ấy là kết quả hợp lý của việc được Thiên Chúa thứ tha “Như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô”(Ep 5,2).

          + Bài Tin mừng : Ga 6,41-51.

          Đức Giêsu đã tuyên bố:”Ta là bánh từ trời xuống”. Đứng trước những thính giả hoài nghi và còn thù nghịch nữa, Đức Giêsu cứ khẳng định như thế. Ngài còn cho biết thêm : ai muốn được sống vĩnh hằng, cần phải lãnh nhận bánh ấy.

          Người Do thái không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy bởi vì làm sao người ta có thể hiểu được mầu nhiệm Nhập thể. Người ta chỉ có thể lý luận theo lẽ tự nhiên rằng : làm sao ông này có thể  là bánh hằng sống từ trời xuống được ? Bởi vì ông ta chỉ là người Nazareth như họ, ông ta chỉ là người thợ mộc, con ông Giuse và bà Maria, anh chị em ông đang ở với mình, thân thế sự nghiệp chả có gì đáng lưu ý, gia cảnh của ông ta thật là tăm tối. Vậy tại sao ông ta dám tuyện bố như thế ?

          Đức Giêsu muốn trả lời cho họ rằng muốn tin mầu nhiệm này, hiển nhiên là phải có đức tin. Đức tin chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho. Đức tin giúp những người lãnh nhận nó được kết hợp với Chúa và sống bởi Chúa và nhờ Chúa.  Như vậy, chúng ta hưởng nhờ đức tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy tỏ ra ngoan ngoãn với những giáo huấn của Ngài, trung thành yêu mến Ngài, nhiệt tâm với Thánh Thể Ngài. Do đó, Ngài sẽ là bánh hằng sống từ trời xuống, là nguồn mạch sự sống vĩnh hằng cho chúng ta.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

           Muốn được trường sinh bất tử

          Đây là bài giảng dài, Đức Giêsu nói về Bánh Hằng Sống. Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin mừng tuần trước được rút ra trong bài giảng về Bánh hằng sống trong thánh Gioan.  Bài giảng này có thể chia thành 3 phần :

  1. Chúa nhật tuần trước đã nói đến sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và của ăn bất hủ mà Con người đem đến trong thế gian.
  2. Chúa nhật này nói đến việc Đức Giêsu ban mình làm bánh hằng sống và kêu gọi mọi người ăn bánh đó.
  3. Chúa nhật tuần sau sẽ nói đến việc Đức Giêsu ban bánh đó trong phép Thánh Thẻ.

I.  TA LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG.

          Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa dần đến mầu nhiệm “Bánh ban sự sống”. Nhưng dân chúng không mở tai ra để nghe, để hiểu. Họ chỉ khư khư xoay quanh  những đòi hỏi vật chất. Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ta là bánh từ trời xuống”, người ta kêu ca phản đối:”Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Ta từ trời xuống” ? Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 4 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố :”Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra không thấy gì khác nữa.

          Họ phản ứng trước lời tự xưng của Đức Giêsu, nêu lên sự kiện Ngài là con bác thợ mộc, họ biết Ngài sinh sống tại Nazareth. Làm sao họ hiểu một người thợ mộc tầm thường nghèo nàn lại có thể trở thành sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Đức Giêsu vì trắc nghiệm Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.

Truyện : Bé cái lầm

          Lawrencee là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không lực hoàng gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn thường mặc quân phục thợ máy đến thăm vợ chồng Hardy.  Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà thị trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm đó là ai, bà tỏ ra khó chịu quay sang hỏi bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền “từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa bao giờ ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrencee nói với bà bằng tiếng Pháp thật hoàn hảo rằng “Xin lỗi bà, tôi có thể làm thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết nói tiếng Pháp”.

          Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã lầm lẫn tai hại  chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là lầm lẫn của người Do thái đối với Đức Giêsu. Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách tiên tri đã chép. Thiên Chúa lôi kéo. Thiên Chúa dạy dỗ. Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo các tình tư dục của họ.

II.  TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG.

          Sau khi đã trẽ câu chuyện vì sự lẩm bẩm của người Do thái, Đức Giêsu lạiï trở lại vấn đề Ngài là Bánh.  Trên kia Ngài quả quyết Ngài là bánh từ trời xuống. Đây Ngài quả quyết thêm một điều nữa :”Ngài là bánh ban sự sống”, khác với manna.  So sánh manna được ban cho dân Do thái làm lương thực đi đường  trong sa mạc với Bánh Hằng Sống được Đức Giêsu ban cho  các tín hữu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta thấy manna là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Do thái trong thời xuất hành, là thứ đồ ăn  mau bị hư nát (x.Xh 16,19-21). Dù dân Do thái đã ăn manna, nhưng họ vẫn bị giết chết do tội họ đã phạm (x.Tv 78, 29-31) và vẫn không sống đời đời (x.Ga 6,58). Còn Đức Giêsu mới là Bánh Hằng Sống đích thực, để ăn thịt và uống máu Ngài thì sẽ không phải chết (x.Ga 6,50) nhưng được sống đời đời(Ga 6,51.54), được ở trong Ngài (Ga 6,56), được sống nhờ Chúa Cha (x.Ga 6,57), được sống và được sống dồi dào(x.Ga 10,10).

          Đức Giêsu lại nói tiếp:”Bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”. Với câu này, Đức Giêsu đã đưa vào một ý tưởng mới. Bánh này Đức Giêsu hứa sẽ ban, nhưng chưa ban. Đã rõ, đây Đức Giêsu muốn nói về Thánh Thể Ngài sẽ thành lập sau này. Từ lương thực nuôi sống thể xác, được Ngài biến thành Bánh Hằng sống (x.Ga 6,48), thành thân mình sẽ bị khổ nạn và phục sinh của Ngài (x.Ga 6,51), thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin, giúp các tín hữu đủ sức tiến về Đất Hứa là quê trời đời sau và sẽ được sống muôn đời.

Truyện : Phép lạ ở Lanciano.

          Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano (Ý) có một linh mục Basiliô, đã dâng Thánh lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến  bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa ,thì Chúa đã làm một phép lạ cả thể còn được lưu niệm đến ngày nay như một tang chứng vĩ đại về phép Thánh Thể,  được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi vị Linh mục ấy truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Theo một cuộc phân tích, thịt là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu một người với công thức AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng là công thức AB). Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713. Cuộc khảo sát khoa học chứng minh, được thực hiện năm1971. Thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương lớn của thế giới (Đọc Eucharistic Miracles của Carroll Cruz).

III.  BÁNH BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI.

          Người đời ai cũng muốn sống lâu, sống trường sinh bất tử, cho nên mỗi độ xuân về người ta nhộn nhịp chúc tuổi nhau như thi sĩ Trần tế Xương đã diễn tả :

                                      Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

                                      Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.

          Người ta ai cũng sợ chết. Tham sinh úy tử là lẽ tất nhiên. Người ta nhận xét rằng  không bao giờ người đời cảm thấy mình sống lâu cả. Dầu đã tóc bạc da mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy.  Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã diễn tả tâm trạng ấy như sau :

                                      Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây

                                      Thoát chốc mà già đã tới ngay.

          Đến ngay Đức Hồng y Mercier, trước khi kết thúc cuộc đời 74 tuổi, đã buồn rầu khóc lên khi thấy thần chết đến gõ cửa :”Ôi đau đớn thay, Phải mang theo vào lòng đất bao nhiêu dự định”.

          Càng sống lâu, người ta càng muốn sống, càng thích sống, thèm sống, khát sống… Cụ già tám chín mươi tuổi thấy còn ham sống , như trang thanh niên mười chín đôi mươi vậy. Người ta có sống lâu đến ngàn năm như ông Mathusalem đi nữa, chắc tâm trạng cũng không thay đổi được.

          Vì vậy, người ta mới tìm ra đủ cách, đủ mọi phương pháp để được cải lão hoàn đồng, được sống lâu, nhất là được trường sinh bất tử.

Truyện : Thuốc bất tử hay thuốc tử ?

          Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên canh cửa hỏi rằng :

          – Vị thuốc này có ăn được không ?

          Người ấy đáp :

          – Ăn được.

          Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.

          Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.

          Viên quan kêu rằng :

          – Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng :”Ăn được” nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi người dâng thuốc – Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử, chớ sao gọi là bất tử được ? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.

          Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết nữa.

                   (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 170)

          Người ta hoàn toàn bất lực trước cái chết. Bao nhiêu phương pháp làm cho con người trường sinh bất tử đều thất bại. Người ta chỉ còn có cách quay về với Chúa thôi. Một trong những câu nói quan trọng nhất của Đức Giêsu về đời sống vĩnh cửu là những gì Ngài nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Ta là Bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta sẽ ban cho ấy là Thịt Ta, Ta ban Thịt Ta để thế gian được sống”. Đức Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn có cuộc sống trong tương lai không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu.

IV.  THÁI ĐỘ CỦA TA.

  1. Tin hay không tin.

          Khi Đức Giêsu nói:”Ta là Bánh từ trời xuống”, dân Do thái xầm xì phản đối là phải, vì Ngài mạc khải về mình cho họ, Ngài mời họ tin vào Ngài và ăn bánh trường sinh là Ngài, để không bị đói khát nữa mà được sống đời đời. Làm sao họ tin Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, là Đấng ở nơi Thiên Chúa, là Đấng sống mật thiết với Thiên Chúa, là chính Ngôi Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống ư ?

          Ngày nay tâm thức của con người cũng chẳng khác với người Do thái xưa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là chuyện mới mẻ : việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Ngài đã giảng giải và dạy giáo lý ! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người không tin không phải là một kẻ bất bình thường.  Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin : đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp hèn ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Giêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “Bánh bởi trời”( Noel Quesson) ?

  1. Muốn được đến với Chúa.

          Đức Giêsu phán tiếp:”Các ông đừng có xầm xì với nhau, chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Ta, không lôi  kéo kẻ ấy”.  Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “Ân sủng”, hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói cần phải có sự soi sáng ở bên trong của Thiên Chúa là Đức tin, để thấu hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Giêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu biết của bộ óc con người hay của máy móc khoa học : Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.

Truyện : Hồng y Newman.

          Hồng y Newman trước kia đã từng giữ chức vụ cao trong Anh giáo và bổng lộc hằng năm là một số tiền khá lớn. Dù thuộc tầng lớp qúi tộc và hàng chức sắc cao cấp như vậy, nhưng ngài vẫn luôn có sự áy náy lương tâm về một số vấn đề liên quan đến đức tin tôn giáo khó lòng lý giải được. Thế rồi một ngày kia, sau khi đã dành nhiều thời giờ suy nghĩ tìm hiểu và so sánh giữa Anh giáo và đạo Công giáo, cuối cùng ngài quyết định từ bỏ mọi chức vụ và các đặc quyền đặc lợi để xin cải giáo theo Công giáo.  Biết được ý định của Newman, nhiều người thân là bà con và bạn bè đã đến thăm và đề nghị ngài suy nghĩ lại. Có người còn nêu cụ thể vấn đề bổng lộc như sau:”Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo  thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hàng năm không còn được  hưởng nữa”. Nhưng Newman đã thẳng thắn trả lời họ rằng:”Tiếc thì tôi cũng có tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng qúi, nhưng có đáng là gì nếu đem so sánh với những cái tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội thánh Công giáo và tông truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua việc lãnh các bí tích, nhất là được ăn bữa tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là bánh đem lại phúc trường sinh”.

          Sở dĩ Newman có được suy nghĩ sáng suốt  và quyết tâm cao như vậy, là do Ngài được Chúa Thánh Thần soi dẫn và đã thuận theo sự hướng dẫn ấy. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta chẳng những  sẽ không hiểu nổi các chân lý nói trên, mà sẽ còn tỏ ra khó chấp nhận những lời giảng dạy về mầu nhiệm Thánh Thể, như đám đông dân Do thái tại thành Capharnaum mà Tin mừng hôm nay đã thuật lại.

  1. Thánh Thể, nguồn sinh lực dồi dào.

          Để có thể tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, người ta phải mở rộng tâm hồn trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên. Văn sĩ Charles Péguy đã nói:”Bí tích Thánh Thể, Bánh Hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thấy bao giờ ! Vậy để thấy rõ hơn, có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái “vô hình”.

          Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời với bao gian nan trở ngại. Chúng ta cũng cần được Chúa nuôi dưỡng để đủ sức đi trọn cuộc hành trình về quê trời đời sau. Vậy chúng ta cần phải ăn thứ lương thực nào ? Chúa Cha đã ban cho ta bánh bởi trời là Đức Giêsu (x.Ga 6, 32-33). Đó là Bánh Thánh Thể, được ban để đem lại sự sống đời đời như Ngài đã nói:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống (x.Ga 6, 48.51).

           Bánh ban Sự Sống còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói khi đương đầu với ma qủi cám dỗ:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Ngài chính là Ngôi Lời hay lời nói của Thiên Chúa đã nhập thể làm người (Ga1,14) và chỉ mình Ngài mới có những lời mang lại sự sống đời đời (x.Ga 6,68).

          Tóm lại, Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc trường cửu đời sau. Vậy chúng ta hãy qúy mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao qúy ấy.

Về mục lục

.

SỰ SỐNG VĨNH CỬU

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về cuộc sống vĩnh cửu và phương thế để có cuộc sống ấy.  Ga 6,41-51

Người Do Thái, đặc biệt người làng Nazarét đã được sống gần gũi Chúa Giêsu.Họ đã được chứng kiến các phép lạ Ngài làm,những lời chân thật của Ngài, gương sáng Ngài nêu, họ cứ tưởng với

đôi mắt, với lỗ tai phàm nhân họ đã biết rõ thân thế của Chúa Giêsu. Họ không có đức tin, do đó họ không nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu và không tin lời Người nói. Họ tin vào Thiên Chúa và lời Kinh Thánh. Tuy nhiên, Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai đang sống giữa họ thì họ không tin chỉ vì họ thiển cận, nông cạn nhìn với con mắt bình thường, nên không không thể nào tin nhận Chúa là Con Thiên Chúa. Họ chỉ biết Chúa   Giêsu là người thợ mộc, Cha của Người là bác Giuse thợ mộc và con của bà Maria nội trợ, anh em họ hàng của Người đang sống giữa họ, làm những nghề tầm thường trong xã hội vv… Tuy nhiên khi nói về cuộc sống vĩnh cửu thì ai ai cũng muốn có được cuộc sống ấy…

Chúa Giêsu đã hướng con người về kho tàng không hư nát, về cuộc sống trường sinh. Chúa nói :” Ai đến với ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát “. Chúa đã đưa con người từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác của cuộc sống .Ngài không chê trách con người tìm kiếm của cải, lương thực để nuôi sống, tiền tài dự trữ cho lúc ốm đau vv…Ngài muốn con người đừng quá bám víu lấy những của cải ở trần gian mà quên đi sự sống vĩnh cửu, quên đi kho báu là Nước Thiên Chúa. Con người ai cũng muốn được trường sinh bất tử, nên khi Ngài nói về Nước Hằng Sống thì người phụ nữ bên bờ thành giếng Giacóp đã xin cho bằng được Ngài ban cho thứ nước đó và chị loan báo cho nhiều người trong làng đi gặp Chúa để xin thứ nước đó. Cuộc sống vĩnh cửu hôm nay, Chúa đã mạc khải :” Ta là Bánh ban Sự Sống…Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời “ ( Ga 6, 47 ). Sự sống đời đời rất nhiều người đang tìm, đang muốn có. Nên, họ tuôn đến nghe Chúa Giêsu giảng dạy.Bánh Trường Sinh Chúa xác nhận là chính Đức Giêsu, nguồn mạch trường sinh. Đức Kitô đang hiện diện với nhân loại, với chúng ta qua Bi Tích Thánh Thể.Ngài hiện diện mọi ngày trong nhà chầu. Ngài hứa :” Nơi đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ “ ( Mt 18, 20 ). Chúa hiện diện với nhân loại qua Lời của Người.  Người hiện diện nơi các Vị lãnh đạo qua Bí Tích Truyền chức thánh :” Ai nghe các con là nghe Ta “ ( Lc 10, 16 ). Người hiện diện trong Giáo Hội và ở cùng Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế. Chúa hiện diện với chúng ta như Ngài nói trong bài Tin Mừng hôm nay :” Ta là Bánh Hằng Sống, ai ăn Bánh này sẽ  được sống đời đời :” Và khi chúng ta hiểu rõ những lời này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta :” Phúc cho các ngươi khi các ngươi thấy được các điều các ngươi đang thấy ! Ta nói cho các ngươi biết nhiều tiên tri và vua chúa  từng ao ước thấy điều các ngươi đang thấy, nghe được điều các ngươi đang nghe, mà không thể được “ ( Lc 10, 23-24 ).

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì muôn hồng ân Chúa đã ban cho chúng con. Chúa đã nuôi dưỡng chúng con không chỉ bằng cơm bánh, mà Chúa còn dùng chính Mình Máu Thảnh là chính Thân Xác của Chúa để nuôi chúng con. Chúa đã ban cho chúng con sự sống đời đời vì chính Chúa đã quả quyết :” Ta là Bánh Trường Sinh…Ta là Bánh ban Sự Sống “. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng, tín thác vào Chúa vì Chúa chính là ơn cứu độ cho chúng con.Xin giúp chúng con luôn nhận ra sự hiện diện của trong Kinh Thánh vì đọc Lời Chúa là nghe Chúa đang nói với chúng con. Xin cho chúng con luôn mến yêu và tôn kính Bí Tích Thánh Thể vì chính Chúa đang nuôi sống và ban cho chúng con sự sống vĩnh cửu. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Sự Sống vĩnh cửu là gì ?

2.Chúa đã quả quyết Chúa là ai ?

3.Chúa hiện diện ở những nơi nào ?

4.Tại sao người Do Thái không nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia ?

Về mục lục

.

BÁNH HẰNG SỐNG-

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái bằng mana xuyên suốt hành trình 40 năm trên đường về Đất Hứa. Thiên Chúa bồi bổ cho ngôn sứ Êlia bánh và nước trong cuộc đăng sơn Khôrep. Thiên Chúa ban Bánh Hằng Sống cho nhân loại đang lữ hành tiến về quê trời.

  1. Mana nuôi dân Chúa trong sa mạc

Trước bánh Thiên Chúa ban, con cái Israel liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?”. Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Bánh Thiên Chúa ban, họ chỉ biết gọi là mana, một tên gọi dưới dạng câu hỏi. Vẫn còn đó khía cạnh mầu nhiệm cần được vén tỏ.

Theo “Từ điển Công Giáo”: Mana có gốc tiếng Hipri là (man hu – cái gì đây; x. Xh 16,15), là một loại thức ăn Thiên Chúa đã ban cho dân Israel trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa. Mana rơi xuống quanh trại vào mỗi buổi sáng “giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong” (Xh 16,31).

Điều quan trọng đối với Thánh Kinh không phải là bản chất thể lý, nhưng là giá trị tượng trưng của nó. Câu hỏi của con cái Israel “Man hu?” (Cái gì đây?) đã nói lên tích cách huyền nhiệm của nó. Mana tiêu biểu cho một ân huệ kỳ diệu của Thiên Chúa trong việc chăm sóc Dân Ngài.

Trong Tân ước Chúa Giêsu dùng Mana để chỉ “Bánh Bởi Trời”, “Bánh Trường Sinh” là chính Người, ban cho các tín hữu trong Bí Tích Thánh Thể” (Ga 6,32-35). (x.Từ điển Công giáo, trang 226).

  1. Bánh nuôi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrep

Sau khi vua Salomon băng hà, đất nước Israel chia đôi: vương quốc Israel, phương Bắc, vương quốc Giuđa phương nam (1V 12). Tại Israel, vua Omri (885-874 tcn) đã lập một dòng vua mới và đặt kinh đô tại Samari. Con của Omri là vua Akháp (875 – 853 tcn) xây cất thành lũy và cung điện. Israel dưới thời Akháp khá thịnh vượng. Công việc thương mại tạo nên những tương quan thuận lợi với các nước lân bang, nhưng đồng thời cũng gây nên một tiêm nhiễm văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Điển hình của việc suy đồi tôn giáo là cuộc hôn nhân của vua Akháp với Ideven, con gái vua Xiđôn (1V 16,29-34). Ideven du nhập đạo ngoại vào Israel, xây dựng đền thờ thần Baan tại Samari, tổ chức cộng đồng các Ngôn sứ thần Baan. Đạo Giavê bị bách hại. Chính trong hoàn cảnh đó, sách các Vua nói đến hoạt động của hai Ngôn sứ Êlia và Êlisê (1V17 ; 2V 13).

Ngay từ khi Israel đặt chân lên Canaan, tôn giáo Canaan và việc thờ thần Baan đã là mối ưu tư và nguy hiểm cho niềm tin vào Giavê. Mối nguy hiểm cũng như sự tiêm nhiễm đạo ngoại lai ấy ngày càng gia tăng qua sự phát triển kinh tế, tương quan thương mại với các dân tộc lân bang và đạt tới cao điểm vào thời Akháp. Đây không phải là việc từ bỏ đức tin truyền thống của cha ông vào Thiên Chúa Giavê, nhưng đúng hơn là sự pha trộn đạo Giavê với tôn giáo Canaan. Baan là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của phú túc. Đối với dân, đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống chủ yếu là nông nghiệp thời bấy giờ. Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đạo Giavê, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Ông quả là người hùng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật của Israel.

Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật tại Israel: Giavê hay Baan. Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa. Giavê trả lời bằng một phép lạ chứng tỏ Ngài là Chúa các năng lực thiên nhiên. Người chính là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17 – 40).

Bài đọc 1 thuật lại cuộc hành trình của ngôn sứ Êlia trong sa mạc tiến đến núi Khôrép. Êlia chạy trốn trước sự trả thù bách hại của Ideven. Trên đường đi, Êlia đói lã và chán nản thất vọng. Sứ thần Chúa mang đến cho ông bánh và nước. “Ông dậy ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrep, ông được gặp Đức Giavê. Ông lấy lại được niềm tin và tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.

Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ngôn sứ Môsê và ngôn sứ Êlia. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khôrep, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Tabor.

Các Giáo phụ nhìn 40 ngày hành trình của Êlia như gợi lại cuộc hành trình của Israel trong hoang địa tiến về đất hứa,40 ngày chay tịnh của Môisê (Xh 34,28), tiên trưng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trươc khi thi hành sứ vụ công khai. Các Giáo phụ cũng nhìn thấy nơi những chiếc bánh mà sứ thần trao cho Êlia là hình ảnh tiên báo phép Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu trên đường dương thế tiến về quê trời. Lương thực nuôi dưỡng Êlia trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình trần gian. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như võ sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của mọi nổ lực từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa. Đó là con đường đầy thử thách, nhưng chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.

  1. Bánh Hằng Sống nuôi tín hữu lữ hành về quê trời.

Chúa Giêsu Kitô là Bánh Hằng Sống, Bánh bởi Trời, Bánh ban sự sống cho cả nhân loại. Nhưng làm sao mà con người có thể lãnh hội được ngay mạc khải quan trọng ấy. Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Chúa Giêsu: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người vậy mà Ngài bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúa Giêsu đòi hỏi họ hãy tin vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa Cha. Gặp gỡ Ngài là gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thập giá. Sự sống vĩnh cửu hàm chứa trong mầu nhiệm Thánh Thể.

Cho tới Bữa Tiệc Ly và Hy Tế Thập Giá, khi Chúa Kitô tự nguyện nộp mình, như hạt lúa bị nghiền nát để trở nên tấm bánh cứu độ cho tất cả nhân loại, người ta mới hiểu và tin vào lời mạc khải về Bánh Hằng Sống.

Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép; nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá.

Thánh Thể, Tấm Bánh Chúa Kitô bẻ ra cho sự sống thế giới; Thánh Thể Mình Máu Chúa Kitô trao ban cho cả nhân loại; Thánh Thể tình yêu đã trở nên thực phẩm vun bồi sự sống cho hôm nay trên đường dương thế và cho mai sau trong hạnh phúc Nước Trời.

Trong cuộc hành trình tiến tới sự sống viên mãn với Thiên Chúa là Cha, chính Chúa Giêsu là lương thực bổ dưỡng con người.

Trong bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu hãy sống hoàn thiện theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Kitô. “Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt”. Những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, phải sống đức tin bằng đức ái.

Ai rước Mình Máu Chúa Kitô sẽ có sự sống Chúa Kitô. Chúa Kitô sống trong họ và họ được hiệp thông sống trong Người.

Ai nhận Mình Máu Chúa Kitô sẽ cùng tham dự một sự sống, nên trở thành anh em với nhau, sống đức ái và trở nên chứng nhân của Chúa Kitô.

Tạ ơn Chúa đã ban Bánh Hằng Sống, quà tặng tình yêu thần linh cho chúng con. Mỗi lần rước Bánh Thánh Thể với lòng sốt mến kính cẩn chúng con được cảm nến hương vị thiên đàng. Chúng con tạ ơn Chúa đã luôn nuôi dưỡng và dẫn đưa chúng con vào sự sống đời đời. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI CÕI TRÊN

Trầm Thiên Thu

Có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13). Đó là Ngài nói về Ngài, thế thì đích thực Ngài là “người cõi trên”, thuộc thượng giới, thế nhưng Ngài lại tự nguyện sống và làm việc ở hạ giới – trần gian. Chuyện khó tin mà có thật. Và cũng vì “khó tin” nên “không tin”, cụ thể là người Do Thái, tới nay mà họ vẫn không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta – Đấng Emmanuel.

Chúa Giêsu mặc xác phàm nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, đặc biệt là có hai bản tính – thần tính và nhân tính. Về nhân tính, Ngài trở nên giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, nghĩa là Ngài cũng có nhu cầu ăn uống, và Ngài cũng cảm thấy đói (Mt 4:2; Mt 21:18).

Ăn uống cần thiết để duy trì sự sống, nhưng ăn không phải là bỏ vô miệng rồi nhai và nuốt, mà còn cần biết thực phẩm đó có hóa chất hoặc độc tố hay không, đặc biệt là phải bảo đảm đủ dưỡng chất. Điều đó liên quan vấn đề dinh dưỡng. Dinh dưỡng là gì? Dinh dưỡng là khoa nghiên cứu mối liên quan giữa thực phẩm và cơ thể, đó là quá trình cơ thể sử dụng thức ăn để duy trì sự sống, sinh trưởng và phát triển bình thường của các mô và cơ quan, và để sinh năng lượng, cũng như các phản ứng của cơ thể đối với việc ăn uống, sự thay đổi khẩu phần và các yếu tố khác có liên quan bệnh lý.

Chất dinh dưỡng rất cần thiết trong việc phát triển cơ thể hợp lý và khỏe mạnh. Chất dinh dưỡng là chất bổ dưỡng, là vitamin, nếu thiếu nó thì cơ thể suy yếu và sinh bệnh tật, nhưng nếu nó nhiều quá cũng bất lợi cho sức khỏe, do đó mà phải có mức cân bằng hợp lý với cơ thể. Nói đến dinh dưỡng có “dính líu” tới ẩm thực, tức là ăn uống.

Sau một ngày đường trong sa mạc, ông Ê-li-a đến ngồi dưới một gốc cây kim tước (ulex europaeus – loài cây bụi thường xanh, lưu niên và có gai, mọc thành bụi rậm rạp. Cây này mọc phổ biến ở những khu vực đất đã được khai khẩn, trên thảm cỏ, ở bìa rừng, ven biển và những vùng đất hoang. Loại cây này phát triển tốt và khó tiêu diệt khi chúng đã thích nghi và phát triển). Ông xin cho được chết và nói: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1 V 19:4). Câu này cho thấy ông khiêm nhường và tự cảm thấy hổ thẹn vì cũng chẳng hơn gì ai. Rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng có một thiên sứ đụng vào người ông và gọi ông dậy ăn (1 V 19:5).

Giật mình thức giấc, ông ngơ ngác đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Quá đã! Buồn ngủ gặp chiếu… hoa (chứ chẳng phải “chiếu manh” đâu). Đang đói, ông liền ăn bánh và uống nước, nhưng rồi lại nằm xuống – không phải để ngủ mà… chờ chết. Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa” (1 V 19:7). Ông lại dậy, lại ăn bánh và uống nước. Đúng là thần lương, ăn vô thấy khỏe re. Cũng nhờ loại lương thực đặc biệt nhiều dưỡng chất đó mà ông đủ sức đi ròng rã suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm để tới Khô-rếp, núi của Thiên Chúa.

Hằng ngày chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Lương do Chúa ban – loại thực phẩm đặc biệt “Made in Heavens” (làm tại Nước Trời), không chỉ cho cơ thể mà quan trọng hơn là cho linh hồn. Đó là những hồng ân, Lời Chúa, và đặc biệt là Thánh Thể. Vì thế, như tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, chúng ta phải chân thành quyết tâm như Thánh Vịnh gia: “Tôi sẽ KHÔNG NGỪNG chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người CHẲNG NGỚT trên môi” (Tv 34:2), đồng thời làm nhân chứng cho Thiên Chúa: “Linh hồn tôi HÃNH DIỆN vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã TÌM KIẾM Chúa, và Người đáp lại, GIẢI THOÁT cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” (Tv 34:3-5). Thật vậy, bất cứ “ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34:6), và với kinh nghiệm dày dạn, Thánh Vịnh gia minh định: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, CHƯA THẤY người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ” (Tv 37:25).

Chắc hẳn không ai lại không đã từng hơn một lần được nhận ơn lành của Chúa – thậm chí là nhận quá nhiều, vì thế chúng ta lại càng phải minh chứng: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:70). Và cũng chắc chắn rằng “sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người” (Tv 34:8). Cứ thật lòng suy nghĩ xem điều đó có đúng hay không. Nếu thực sự đúng, mỗi chúng ta đều có trách nhiệm phải chia sẻ với người khác: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9). Không ai có thể phủ nhận. Và điều đó có liên quan vấn đề mà tiểu thuyết gia René François Bazin (người Pháp, 1853-1932) đề cập: “Con người, dù là người không tin, cũng có một nhu cầu được thánh thiện, ngay khi họ nhận ra sự thánh thiện, họ liền chạy theo”. Thật lạ!

Cuộc sống luôn có tính liên đới. Do đó, ai càng lãnh nhận nhiều thì càng “mắc nợ” Chúa, và tất nhiên càng phải làm chứng về Ngài. Việc chúng ta ca tụng Chúa không thêm gì cho Chúa nhưng sinh ích lợi cho chính chúng ta (Kinh nguyện Thánh Thể). Thánh Phaolô khuyến cáo: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4:30). Không chỉ bổn phận đối với Chúa, Thánh Phaolô còn nói về bổn phận yêu thương đối với đồng loại: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4:31-32). Thế nhưng, trong đời sống thường nhật, chúng ta chưa thể hiện đúng mức, thậm chí có khi còn “trái ngược” với đức yêu thương, ngay cả lúc chúng ta mệnh danh là người hoạt động trong các hội đoàn. Chưa thương xót người thân cận thì làm sao có thể yêu kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27) và tha thứ “bảy mươi lần bảy” (x. Mt 18:22) như Chúa Giêsu đã truyền dạy? Thánh Gioan gọi là “nói dối” (1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20).

Đề cập nhiệm vụ yêu thương, Thánh Phaolô giải thích: “Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, Người đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep 5:2). Rất dễ hiểu!

Vô cùng kỳ diệu vì vượt quá trí hiểu phàm nhân khi Chúa Giêsu đã có cách độc nhất vô nhị là “lấy Thịt Máu Ngài làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta”. Không thể nào chúng ta khả dĩ hiểu hết sự mầu nhiệm này. Vì thế, người Do-thái đã xầm xì phản đối khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6:41). Nghe “sốc” quá, muốn lộn gan và muốn điên lên được! Rồi họ đặt vấn đề: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6:42). Ui da, nghe mà nổi da gà và khó tin quá đi, bởi vì “anh chàng” Giêsu này ở cùng xóm lao động với họ, hằng ngày ra vào chạm mặt nhau, thế mà bây giờ bỗng dưng “nói rước” lên về mình thái quá. Ai mà chịu nổi chứ? Nhà Chú Giuse và Cô Maria nghèo rớt mồng tơi, ai còn lạ gì trong xóm nhỏ ở cái làng Nadarét bằng cái bàn tay ấy? Quen mặt, biết tên hết trơn!

Thế nhưng Chàng Giêsu vẫn thản nhiên và nói thẳng: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!” (Ga 6:43). Ôi, lạ thế nhỉ? Họ nói thầm với nhau mà Chúa Giêsu cũng biết. Lạ lùng thật! Rồi Ngài nói tiếp: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy, và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:44). Hết bất ngờ này tới bất ngờ khác, chắc lúc đó họ ngẩn người trông ngố còn hơn “chú Tàu nghe kèn”. Miệng chữ A, mắt chữ O, họ chưa hết kinh ngạc thì lại nghe Ngài nói: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với Tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời” (Ga 6:45-47). Lạ lùng lắm, lạ tới mức chịu không nổi nữa!

Sự thật vẫn là sự thật, mặc dù người ta không tin. Chúa Giêsu lặp lại và giải thích: “Tôi là BÁNH TRƯỜNG SINH. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là BÁNH TỪ TRỜI xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là BÁNH HẰNG SỐNG từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:49-51). Lại càng khó lọt tai hơn. Ai lại ăn thịt sống và uống máu sống chứ? Nhưng đó hoàn toàn là sự thật. Và điều đó chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ làm được. Chúng ta cũng phải đấm ngực và bắt chước viên đại đội trưởng mà thốt lên: “Đúng người này là Con Thiên Chúa” (Mt 27:54). Và rồi từ đó tới nay, đã có nhiều phép lạ Thánh Thể để củng cố đức tin cho chúng ta.

Có câu chuyện lý luận về Thánh Thể như thế này…

Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Một hôm, một vị thầy lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:

– Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?

Vị linh mục trả lời:

– Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Vậy thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được?

Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:

– Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?

Vị linh mục trả lời:

– Thầy hãy nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.

Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm:

– Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?

Vị linh mục đáp:

– Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.

Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:

– Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào? Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.

Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô mà Giáo Hội cử hành bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh lễ?

Hãy nghe Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta qua Thánh nữ Faustina:

– “Ta rất đau lòng khi các linh hồn lãnh nhận bí tích yêu thương này như một thói quen, hầu như họ không nhận thức được của ăn này, cho nên họ không có niềm tin hay tình yêu đối với Ta trong trái tim họ. Ta bước vô những tâm hồn đó với tất cả sự miễn cưỡng, thà rằng họ đừng rước lễ thì hơn” (Nhật Ký, số 1258).

– “Niềm vui thích lớn lao của Ta là được kết hợp với các linh hồn… Khi họ rước lễ, Ta đến ngự trong tâm hồn họ. Bàn tay Ta đầy những ân sủng mà Ta muốn ban cho họ, nhưng họ không để ý đến Ta. Họ để Ta thui thủi một mình và bận bịu với những ý nghĩ riêng tư của họ. Ôi, buồn biết mấy vì những linh hồn không nhận biết tình yêu của Ta! Họ đối xử với Ta như một vật chết” (Nhật Ký, số 1385).

– “Thật đau đớn cho Ta, rất ít linh hồn biết kết hợp với Ta trong lúc đón rước Ta. Ta chờ đợi họ, nhưng họ rất lãnh đạm thờ ơ với Ta. Ta muốn ban rất nhiều ơn cho họ nhưng họ không muốn nhận lãnh” (Nhật Ký, số 1447).

Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã sai Con Một Ngài đến trần gian để cứu độ chúng con, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng với hồng ân được lãnh nhận và luôn biết quyết tâm noi gương Đức Giêsu Kitô trong mọi hoàn cảnh, xin giúp chúng con chuẩn bị chu đáo để xứng đáng lãnh nhận Bánh Thánh Giêsu và được phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

HÃY MỞ TÂM HỒN

Anna Cỏ May

Trong Tin Mừng Chúa Nhật XVIII Thường Niên, dân chúng đã nói với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.”. Chúa Giê-su trả lời: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ.”(Ga 6, 34-35). Nghe những lời Chúa Giê-su nói xong, một số người Do thái trong đám đông liền quay lại xầm xì với nhau. Họ xầm xì về những gì?

Họ đã nói với nhau: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.”? Họ xầm xì với nhau về những chuyện mà họ thấy, họ biết. Họ chỉ nhìn ở phía bên ngoài của cuộc sống. Đối với họ, người từ trời xuống phải là một người cao trọng nào đó, chứ không phải là một người thấp hèn, khổ cực được. Họ chỉ nói to nhỏ cho nhau nghe thôi. Vậy mà, Chúa Giê-su đã nghe được điều họ nói, liền đáp rằng: “Các ông đừng có xầm xì với nhau!”(Ga 6,43). Người bắt đầu nói với họ về sự lôi kéo của Chúa Cha nơi những ai đến với Ngài. Và từ nơi Ngài, mọi người sẽ được hưởng sự sống vĩnh cửu bởi Bánh Hằng Sống. Tổ tiên họ ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết, còn bánh Ngài trao là bánh đem sự sống muôn đời (x. Ga 6, 44-51). Nhưng rồi người Do thái có chịu tin không? Thái độ xầm xì với nhau về Chúa Giê-su của họ, đã tỏ lộ một sự khó tin, khó chấp nhận.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có xầm xì khi đến với Chúa không? Khi đến tham dự Thánh lễ, chúng ta mang tâm tình, thái độ nào? Một thái độ sốt sắng hay hờ hững hoặc ở trước mắt Chúa nhưng ta vẫn làm việc ta. Đó là một kiểu xầm xì tinh vi mà có khi chúng ta không hay biết. Ngày hôm nay, Giáo hội đang gặp khó khăn trước vấn đề Đức tin nơi các mọi Ki-tô hữu. Những lời xầm xì của thế gian đang len lỏi vào tâm hồn của mỗi người, khiến cho mọi người càng khó tin Chúa Giê-su là bánh Trường Sinh và ngay cả chính bản thân chúng ta cũng không ý thức đủ. Vậy chúng ta phải làm sao? Nhớ lại lời Chúa Giê-su nói: “Ai tin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” Mỗi chúng ta cùng tha thiết xin Chúa Giê-su thêm tình yêu, sự khao khát, ơn biến đổi nơi chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ có cơ hội tham dự vào sự sống trường sinh là Nước Trời.

Lạy Chúa, chúng con đang lần bước trên đường đời, đi tìm sự sống giữa những u tối. Xin ánh sáng chân lý Chúa soi dẫn lý trí chúng con. Để nhờ đó, chúng con ý thức hơn khi đến với Ngài và tin Ngài là bánh Trường Sinh. Amen.

Về mục lục

.

ĐỂ CÓ THỂ TIN PHẢI GIỮ TÂM HỒN RỘNG MỞ

Lm Trần Bình Trọng

Phúc âm tuần trước ghi lại đám đông dân chúng đi theo Ðức Giêsu sang bên kia bờ hồ Galilê. Họ nhắc lại chuyện tổ tiên họ đã ăn man-na trong sa mạc do Môsê ban phát (Ga 6:31).

Ðức Giêsu bảo họ bánh mà Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian (c. 33), họ liền xin cho được bánh đó (c. 34).

Dân chúng trong Phúc âm hôm nay đã phải nghe biết về phép lạ Ðức Giêsu làm khi biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana và phép lạ Người chữa con của viên sĩ quan cận vệ nhà vua cũng ở Cana miền Galilê, vì họ cũng là người Galilê. Và chính họ đã ăn bánh do phép lạ Ðức Giêsu làm ở bờ hồ Galilê khi họ đói. Thấy dấu lạ, họ bảo nhau ông này phải là vị ngôn sứ Thiên Chúa sai đến. Họ nói như vậy vì họ phải biết có những ngôn sứ trong Cựu ước cũng đã làm được phép lạ.

Tuy nhiên khi Ðức Giêsu phán tại Ca-phác-na-um, chính Người là bánh bởi trời xuống (Ga 6:41) thì họ lại tẩy chay Người. Họ cho rằng họ biết tất cả về gia cảnh, thân thế và sự nghiệp của Chúa. Theo họ thì Ðức Giêsu chỉ là con ông thợ mộc Giuse và bà Maria nội trợ, sống ẩn dật giữa họ hơn ba mươi năm nơi phố nhỏ tầm thường tại Nadarét. Như vậy thì làm sao Người có thể nói Người bởi trời mà xuống được (Ga 6:42)? Làm sao Người có thể mời gọi họ đặt niềm tin nơi Người? Làm sao Người có thể ban cho họ bánh hằng sống? Do đó mà người Việt nam mới truyền tụng những kiểu nói như: quen quá hoá nhàm để chỉ cho thấy không có gì mới lạ hay gần chùa gọi bụt bằng anh để chỉ thái độ coi thường người trên.

Ðể có thể chấp nhận lời giảng dạy của Đức Giêsu về bánh hằng sống trong Phúc âm hôm nay, khác với bánh man-na mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc, Ðức Giêsu muốn họ đặt niềm tin nơi Người là Ðấng từ trời xuống trước đã, nghĩa là họ phải tin Người là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên đối với họ, việc tin Người là con Thiên Chúa lại đặt ra một vấn đề gai góc cho họ. Từ trước đến nay người Galilê nói riêng và người Do thái nói chung chỉ thờ một Thiên Chúa. Tôn giáo của họ là tôn giáo độc thần. Vì thế khi Ðức Giêsu khẳng định Người từ trời xuống, và là con Thiên Chúa thì lại đưa vào đầu óc họ ý tưởng đa thần, nghĩa là có hơn hai thần, hơn hai chúa. Như vậy làm sao họ có thể chấp nhận hai chúa được?

Tuy nhiên Ðức Giêsu vẫn giữ lập trường giảng dạy mà nói rằng Người là bánh hằng sống từ trời xuống (Ga 6:41); ai được Chúa Cha lôi kéo đến cùng Người thì Người sẽ cho sống lại ngày sau hết (c. 44); ai tin vào Người thì có sự sống đời đời (c. 47). Nói như vậy là Ðức Giêsu coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Ðối với người không tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì đó là lời nói phạm thượng đến Thiên Chúa. Mà nếu Ðức Giêsu phạm tội phạm thượng thì làm sao Người có thể làm phép lạ được? Những người không tin, như những người trong Phúc âm hôm nay có thể trả lời: hoặc họ không hiểu, hay phép lạ là do sản phẩm của môn đệ của ông Giêsu bầy ra.

Không phải chỉ có những người Galilê mới từ chối việc tin tưởng vào Ðức Kitô là Con Thiên Chúa và là bánh hằng sống. Bài trích sách các Vua hôm nay mô tả nỗi chán nản của ngôn sứ Êlia, được sai đến vương quốc miền bắc là It-ra-en rao giảng tôn giáo thật, chống lại những quyền lực mà bà hoàng hậu I-de-ven ngoại đạo đã đưa vào đất nước. Nản chí vì dân cứng lòng tin và hoàng hậu I-de-ven còn tìm cách sát hại, Êlia trốn lên núi Khô-rếp, không còn muốn ăn uống. Thiên thần Chúa hiện ra đem bánh bảo ông ăn để lấy sức đi tiếp (1 V 19:4-8).

Vậy để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên. Nói cách khác người ta cần loại bỏ những thành kiến và định kiến về đạo và người giảng đạo. Có bao giờ ta chủ trương giữ đạo tại tâm, cho rằng không cần đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ, mà chỉ cần giữ đạo trong lòng là đủ không? Có bao giờ ta cho rằng việc đọc kinh, dự lễ là việc của đàn bà con nít chăng? Có bao giờ ta chỉ muốn giữ đạo theo sở thích, cá tính riêng của mình, hứng thì giữ đạo, không thì bỏ cuộc? Có bao giờ ta cho rằng đạo phải phù hợp với ước muốn cá nhân, đạo phải thế nọ thế kia chăng?

Hôm nay mỗi người cần xin Chúa giúp cho mình biết loại bỏ những thành kiến về đạo và người giảng đạo và ban cho được mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và Mình thánh Chúa, là bánh hằng sống, bánh làm no thoả những khát vọng thiêng liêng của tâm hồn, bánh đem lại sự sống vĩnh cửu.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn mở rộng tâm hồn trước quyền lực siêu nhiên:

Lậy Chúa Giêsu! Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa!

Xin làm mới lại đức tin của con

vào sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh thể.

Xin loại bỏ tâm trạng ‘quen quá hóa nhàm’ nơi con.

Và xin tha thứ những lần con đóng cửa lòng lại

trước lời mời gọi của Chúa

vào việc tin và ăn bánh hằng sống. Amen.

Về mục lục

.

TÔI LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG

Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Chúa nhật trước, Đức Giêsu kêu gọi dân chúng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực trường sinh”.

Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thứ lương thực đó là bánh từ trời xuống “Tôi là bánh từ trời xuống”.

Rất nhiều dân tộc trên thế giới chủ trương tổ tiên của họ là người từ trời xuống. Đoạn văn về Sáng Thế trong kinh Digha Nykaya của Phật giáo viết như sau: Có ít dân trời hết nghiệp tốt, phải bỏ trời xuống mặt đất. Họ vẫn sáng láng thanh tịnh. Nhưng xảy ra có mấy người tò mò lấy ngón tay động vào vỏ đất rồi đưa lên lưỡi nếm thấy mùi mật ong. Lòng tham thúc đẩy họ bắt đầu ăn vỏ đất. Những người khác thấy vậy cũng ăn vào, nên thân xác trở nên dầy đặc và nặng nề.

Platon, ông tổ triết học Tây phương, cũng cho con người từ trên lý giới sa đọa xuống hạ giới này.

Con người luôn mơ ước được về trời vì họ tưởng tổ tiên họ đã từ trời xuống. Nhưng khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”, người ta lại kêu ca phản đối: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 04 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: “Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Cũng như bác sĩ giải phẫu bệnh nhân, chỉ thấy ruột, tim, gan, phổi mà không thấy tâm tình, ý chí, trí khôn, lương tri, trí thức và nhất là linh hồn đâu cả.

Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, nghĩa là chỉ thấy cái nhìn thí nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra, không thấy gì khác nữa, nên cho là không có.

Người Do thái cũng biết Đức Giêsu theo lối nhìn xác thịt. Họ chỉ thấy Người là con ông Giuse và bà Maria, sống ở thôn ấp nhỏ bé. Nếu họ thấy hơn chút nữa, thì họ cũng chỉ ngạc nhiên thấy Người làm cho kẻ què được đi, kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ chết sống lại và chính họ là kẻ đói được ăn no nê. Có thế thôi. Họ không thể thấy gì thiêng liêng, cao siêu qua những việc lạ lùng đó. Cùng lắm, họ coi Người là một tiên tri như Êlia được thiên thần đưa bánh cho ăn, hay là kẻ chết sống lại mới làm được những sự lạ ấy.

Họ không thể thấy Người từ trời xuống, thấy Người được Chúa Cha sai đến, thấy Người là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, thấy các thiên thần hát mừng Người lúc sinh ra trong hang lừa, thấy được tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan tẩy giả.

Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Chúa Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách các Ngôn sứ đã chép. Thiên Chúa lôi kéo, Thiên Chúa dạy dỗ, Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo cái bụng, cái mắt, cái tai, cái dục. Chừng nào họ diệt được tham, sân, si thì lòng mới trong sạch, mắt mới sáng lên, tai mới thính ra, lúc đó, họ mới sống đức tin, mới thấy được bánh từ trời xuống, họ mới rước được bánh trường sinh và được sống đời đời.

Mỗi Thánh lễ đều nói với chúng ta: “Tôi là bánh từ trời xuống” “Này là Mình Thầy, này là chén Máu Thầy”. Thánh lễ chẳng có gì hấp dẫn những con mắt no nê phim ảnh, những cái bụng say sưa ăn nhậu. Thánh lễ chẳng có gì làm hồi hộp rung động những con tim mê đắm xác thịt, những lòng trí miệt mài tiền của, danh vọng.

Thánh lễ chỉ cảm hóa những con người chân thành, những tấm lòng khao khát lương thực trường sinh. Thánh lễ chỉ hấp dẫn những ý chí quyết tin theo lời Thiên Chúa, những tình yêu sốt sắng hy sinh lấy thịt mình cho người khác ăn.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con đôi mắt sáng để nhìn thấy bánh từ trời xuống. Xin cho con đôi tai tinh tường để lắng nghe lời hằng sống. Xin cho con một ý chí mạnh mẽ để ra sức làm việc của Thiên Chúa và một trái tim nhạy cảm trước tình thương lấy thịt mình nuôi sống chúng con đời đời.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 19 TN_B

Inhaxio Hồ Thông

Diễn từ về Bánh Hằng Sống tiếp tục ngự trị Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX này.

1V 19: 4-8

Bài Đọc I thuật lại một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a. Bị trục xuất khỏi vương quốc phương Bắc, đơn độc và chán nãn trong sa mạc, ngôn sứ Ê-li-a được thần lương bồi dưỡng lấy lại sức lực và thẳng tiến đến núi thánh của Đức Chúa.

Ep 4: 30-5: 2

Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đưa ra cho các Ki-tô hữu mẫu gương hoàn thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thần Khí, bắt chước Thiên Chúa, thực hành đức ái như Đức Giê-su đến mức tận hiến bản thân mình.

Ga 6: 41-51

Tin Mừng giới thiệu tiếp diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giê-su công bố chính Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, nguồn sống đời đời cho nhân loại.

BÀI ĐỌC I (1V 19: 4-8)

Đây là một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc, vào thời vua A-kháp trị vì (874-853 B.C.).

  1. Bối cảnh lịch sử:

Vua A-kháp chẳng những kết hôn với công chúa I-de-ven, ái nữ của vua Xi-đôn, lại còn phụng thờ thần Ba-an. Vua lập một bàn thờ để kính thần Ba-an trong đền thờ mà vua đã xây dựng tại thành đô Sa-ma-ri. Hoàng hậu I-de-ven không những nhiệt thành truyền bá việc thờ kính thần Ba-an trong vương quốc phương Bắc, nhưng còn cho các ngôn sứ của thần Ba-an ở trong dinh thự của bà ở Sa-ma-ri.

Ngôn sứ Ê-li-a kịch liệt chống đối việc thờ thần ngoại giáo nầy. Ông đã đạt được một chiến thắng vang dội của Thiên Chúa Ít-ra-en trên thần Ba-an ở trên núi Các-men. Trong một cuộc thách đố, vị ngôn sứ của Thiên Chúa Ít-ra-en đã chiến thắng các ngôn sứ của thần Ba-an: hy lễ và lời cầu nguyện mà các ngôn sứ của thần Ba-an dâng lên cho thần để xin thần cho mưa xuống vào thời kỳ hạn hán chẳng đem lại kết quả gì; trái lại, chỉ hy lễ và lời cầu nguyện mà ngôn sứ của Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, dâng lên cho Ngài thì được nhậm lời ngay lập tức. Do đó, dân chúng nỗi giận giết chết các ngôn sứ của thần Ba-an.

Hoàng hậu I-de-ven nổi cơn thịnh nộ; bà ra lệnh cho ngôn sứ Ê-li-a phải rời khỏi vương quốc ngay, nếu không ông sẽ bị giết chết như vậy.

  1. Cuộc hành trình đến núi thánh.

Ngôn sứ Ê-li-a ra đi hướng về sa mạc phương Bắc, với ý định đến núi Kho-rếp (cũng còn được gọi là núi Xi-nai). Ông muốn đi lại lộ trình mà trước đây ông Mô-sê đã đi để tôi luyện niềm tin của mình ở nơi mà Đức Chúa đã tỏ mình ra.

Sau một ngày đường trong sa mạc, vị ngôn sứ kiệt sức và chán nãn muốn bỏ cuộc, vì vậy ông xin Chúa cho ông được chết đi: “Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Lời khẩn nguyện của ông ám chỉ đến những người Do thái phải chết trong sa mạc mà không được nhìn thấy Đất Hứa vì họ đã nghi ngờ.

Vị ngôn sứ vốn nổi tiếng là người nhiệt thành bất khuất của Đức Chúa đã phải chán nãn ngã lòng đến như vậy. Thình lình một thiên sứ xuất hiện gọi vị ngôn sứ: “Dậy mà ăn”. Ông đưa mắt nhìn, một chiếc bánh nướng và một hũ nước đặt sẳn bên cạnh ông. Đồ ăn thức uống thật sự rất quý trong sa mạc hoang vu và nóng cháy nầy.

Nhưng phải can thiệp đến lần thứ hai vị thiên sứ mới có thể lay chuyển tâm trí của vị ngôn sứ. Cuối cùng, nhờ thần lương tiếp sức, vị ngôn sứ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ông đi một mạch suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Kho-rếp, núi của Thiên Chúa. “Bốn mươi” là con số biểu tượng, đặc biệt gắn liền với kỷ niệm bốn mươi năm dân Do thái hành trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa; cũng là bốn mươi ngày ông Mô-sê ăn chay cầu nguyện trước khi lãnh nhận hai tấm bia Lề Luật. Vị ngôn sứ đã đạt đến đích cuộc hành hương, nhưng sứ mạng của ông chưa hoàn tất. Ông sẽ phải trở về Sa-ma-ri và tiếp tục sứ vụ ngôn sứ của mình.

Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khô-rếp, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Biến Hình.

BÀI ĐỌC II (Ep 4: 30-32-5: 2).

Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, phần luân lý và khuyên bảo. Nét đặc trưng của đoạn trích hôm nay chính là lời kêu gọi các tín hữu sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Ki tô.

  1. Sống theo Thần Khí:

Người tín hữu đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần vào ngày lãnh nhận phép Rửa Tội, họ được bảo đảm ơn cứu độ, ơn cứu độ chỉ đạt viên mãn “vào ngày giải thoát” (hoặc sau khi qua đời hay vào ngày Đức Ki-tô quang lâm, thánh nhân không xác định). Trong khi chờ đợi, điều quan trọng là sống làm sao đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.

Thánh Phao-lô không ngại gợi lên cách ăn nếp ở của con người làm phiền lòng Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thất vọng trước những bất tín của dân Ngài, điều nầy thường được diễn tả bằng cơn thịnh nộ hơn sự phiền lòng. Tuy nhiên, sự phiền lòng nầy cũng được gợi lên nhiều lần. Quả thật, ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày, đã minh nhiên kể ra điều nầy bằng những từ ngữ báo trước những từ ngữ của thánh Phao-lô. Trong lời khẩn nguyện thống thiết, vị ngôn sứ nhắc lại những ân huệ mà con cái Ít-ra-en đã nhận được trong suốt lịch sử của mình. Từ đó, vị ngôn sứ kêu gào: “Nhưng chính họ đã nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của Người” (Is 63: 10). Truyền thống Do thái không quên lời nói táo bạo nầy. Sách Khôn Ngoan nói về Chúa Thánh Thần: “Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tỡm những chuyện bất công” (Kn 1: 5).

  1. Bắt chước Thiên Chúa:

Phải nói rằng thánh Phao-lô rất hiếm khi khuyên bảo các tín hữu bắt chước Thiên Chúa, bởi vì thánh nhân đặt ưu tiên cho việc bắt chước Đức Ki-tô. Chúng ta nên lưu ý rằng lời kêu mời bắt chước Chúa Cha nầy được dẫn trước bởi việc tha thứ: “Biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, trong Đức Ki-tô”, điều này rõ ràng ám chỉ đến kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).

  1. Thực hành đức ái như Đức Ki-tô:

Lời kêu gọi sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa được hoàn tất ở nơi lời khuyên khẩn thiết “sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô”. Từ “tha thứ” đã dẫn vào lời khuyên bắt chước Chúa Cha như thế nào, từ “yêu thương” dẫn vào lời khuyên bắt chước Đức Ki-tô cũng như vậy: “Như những người con yêu dấu, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, và sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô, Đấng đã yêu thương chúng ta…”. Chúng ta lưu ý rằng động từ “yêu thương” đồng xuất hiện với tỉnh từ “yêu dấu” và danh từ “bác ái” trong cùng một câu.

Tình yêu của Chúa Con đối với nhân loại đã được bày tỏ một cách cao vời qua việc “tự hiến mình làm của lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô lập lại diễn ngữ mà Cựu Ước dùng cho hy tế toàn thiêu, theo đó tế vật được hoàn toàn hỏa tế trên bàn thờ. Đức Ki tô là tế vật hoàn hảo, tận hiến chính bản thân mình.

TIN MỪNG (Ga 6: 41-51)

Chúng ta tiếp tục đọc diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống. Hướng nhắm của bản văn vẫn là Thánh Thể, nhưng đề tài trung tâm là đức tin: Đức Giê-su đòi hỏi những người lắng nghe Ngài hãy tin vào Ngài, vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài ban sự sống vì Ngài từ Chúa Cha mà đến.

Thế nhưng, thánh ký nhấn mạnh ngay “tin” không phải là một chuyện dễ dàng: “Người Do thái xầm xì phản đối”. Chung chung danh xưng “người Do thái” mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư; danh xưng này chỉ rõ những người Do thái cứng lòng tin trong khi danh xưng “người  Ít-ra-en” được dành riêng cho những ai tin vào Đức Giê-su (Ga 1: 47). Việc thay đổi danh xưng ở đây rất có ý nghĩa. Theo cách nầy, tác giả loan báo cho chúng ta rằng cuộc tranh luận sắp diễn ra và cuộc tranh luận này được đinh vị theo cùng một hướng đi như những cuộc tranh luận đã được tường thuật trước đây (nhất là cuộc tranh luận của chương 5).

  1. Vấn đề đức tin:

“Ông nầy chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Đức Giê-su: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người, bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúng ta gặp thấy những suy nghĩ tương tự và biết bao những suy nghĩ khác nữa đến từ những người mà thánh Gioan nhắm đến một cách mãnh liệt trong thư thứ nhất của mình. Về phương diện lịch sử, nhiều thế hệ sau nầy nẩy sinh những nghi ngờ như thế.

Đức Giê-su trả lời: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy đến với tôi”. Đức tin là một ân ban đến từ Chúa Cha, nhưng cũng đòi hỏi con người phải mở rộng cõi lòng mà đón nhận. Đức Giê-su ngầm quở trách thính giả của Ngài không có được một thái độ như thế; có những dấu chỉ mà họ phải biết đọc, những thành kiến mà họ phải cởi bỏ, và tiên vàn phải lắng nghe Chúa Cha. Đức Giê-su sẽ khai triển khía cạnh đức tin nầy, nhưng trước hết Ngài muốn tăng cường độ nhạy bén của những người lắng nghe Ngài và thậm chí khơi lên ở nơi họ sự tò mò, để chuẩn bị tâm trí họ đón nhận những lời mặc khải mà Ngài sắp ban cho: “Ai đến với tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.

Dường như những thính giả của Ngài là những người Biệt Phái, những người chấp nhận thân xác sống lại; trái với những người Xa-đốc, những người không chấp nhận thân xác sống lại. Đức Giê-su tự đặt mình trên lập trường của những người tin vào thân xác sống lại nầy mà tranh luận. Vì thế, Ngài khẳng định rằng chính Ngài nắm giữ trong tay quyền cho các vong nhân được sống lại. Cựu Ước đã thiết lập rồi mối liên hệ giữa bữa tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân và sự phục sinh, nhất là Is 25: 6-8: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người…” Tại các ngôn sứ, lời loan báo bàn tiệc cánh chung được nhiều lần nối kết với bàn tiệc thiên sai. Đây là điều Đức Giê-su xem ra ám chỉ ở đây.

  1. “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”:

Đức Giê-su trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị về Giê-ru-sa-lem vào thời thiên sai: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Qua đó, Đức Giê-su muốn thính giả của Ngài hiểu rằng thời điểm nầy đã đến, lời hứa đã được ứng nghiệm; chính Ngài, Đấng được Chúa Cha sai đến, đem đến cho con người sự hiểu biết về Thiên Chúa. “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến”, như vậy Ngài khẳng định nguồn gốc và giáo huấn siêu việt của Ngài, tức Lời Hằng Sống. Vì ai đón nhận và gắn bó với giáo huấn của Ngài, “có sự sống đời đời”. Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki tô” (Ga 17: 3).

Đức Giê-su chủ ý trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, vì sấm ngôn nầy tiếp tục mời gọi dự phần vào bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân. Ở bàn tiệc thiên sai, Thiên Chúa phục vụ con người không chỉ với Lời Thiên Chúa, lời ban sự sống đời đời, nhưng còn với thần lương làm no thỏa mọi ước nguyện.

  1. Từ Lời Hằng Sống đến Bánh Hằng Sống:

Những người lắng nghe Ngài là những người Do thái chắc chắn biết Kinh Thánh. Bánh man-na được tiên báo vào thời thiên sai không phải là bánh hằng sống mà Đức Giê-su hứa ban, bánh từ trời xuống đem lại sự sống muôn đời sao? Đức Giê-su lay động tâm trí của họ. Trong ánh sáng của các bản văn, tâm trí họ phải mở ra mà hiểu cho được.

Lúc đó, Đức Giê-su khẳng định thêm một lần nữa: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lần nầy, không rào trước đón sau, Ngài tuyên bố không úp mở: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế.

Về mục lục

.

THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh và là nguồn mạch của đời sống Kitô hữu. Vì tầm quan trọng của bí tích này, phụng vụ Lời Chúa tuần này tiếp tục mời gọi chúng ta suy niệm về diễn từ “Bánh hằng sống” trong chương VI của Tin Mừng Gioan. Trong đó, Chúa Giêsu mạc khải về ý nghĩa của Thánh Thể khi nói: “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,47-51).

1- Thánh Thể và sự sống đời đời

Trong những lời này, Chúa Giêsu nói nhiều về hiệu quả mà Thánh Thể mang lại cho chúng ta đó là sự sống đời đời, hay đúng hơn đó là sự sống của Đấng Phục Sinh được ban nơi bí tích Thánh Thể. Nên chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa của lời mạc khải này.
Khi giải thích đoạn Tin Mừng này, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI chú giải: thuật ngữ “sự sống đời đời” không mang ý nghĩa như một số người nghĩ, đó là cuộc sống sau cái chết, nó không liên hệ gì đến cuộc sống hiện tại, trong khi cuộc sống hiện tại là chóng qua và không phải là sự sống đời đời. Theo Đức Giáo Hoàng, sự sống đời đời chính là sự sống đích thực, đang được sống trong thời gian hiện tại và sẽ không chấm dứt với cái chết thể lý. Sự sống đó được Đấng Phục Sinh khai mở khi Người sống lại, là sự sống hoàn toàn mới, sự sống trọn vẹn và không bị hủy hoại, đó là một cuộc sống không còn nằm dưới lề luật của cái chết và thay đổi. Sự sống này được thánh Gioan phân biệt bằng hạn từ zôê (sự sống phục sinh), khác với bios (sự sống sinh học, tự nhiên). Sự sống này chỉ do Chúa Kitô mang lại cho chúng ta qua cái chết và sự phục sinh của Người. Giờ đây, Người lập bí tích Thánh Thể và tiếp tục hiến mình cho chúng ta. Người trở thành bánh ban sự sống đời đời cho chúng ta. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu ban chính sự sống đó cho những ai đón nhận Mình và Máu Thánh Người. Qua bí tích Thánh Thể, chúng ta được tham dự chính sự sống thần linh đó của Đấng Phục Sinh nhờ việc rước lễ.
Về điều này, người ta tìm thấy nơi tác phẩm của Platon quan niệm về sự bất tử như thế này: con người có thể bất tử nhờ được liên kết với điều bất tử. Càng đón nhận chân lý vào bản thân mình, con người càng được nâng đỡ và được đảm bảo một cuộc sống tràn đầy sau khi chết. Tư tưởng này chuẩn bị cho chúng ta hiểu lời của Đức Giêsu: “Ai ăn thịt tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” Khi đón nhận Chúa Giêsu nơi bí tích Thánh Thể, chúng ta được tham dự và hội nhập vào sự sống thần linh của Đấng Phục Sinh. Chúng ta tìm được sự sống mà không cái chết nào có thể lấy đi được, nhờ sự gắn bó với Đấng là sự sống, nhờ sự ở lại trong Người và Người ở trong chúng ta.
Thánh Ignatio thành Antiochia nói rằng: “Chúng ta chia sẻ Bánh, thần dược của sự bất tử, thuốc giải độc chúng ta uống, không phải để chết nhưng để sống muôn đời trong Chúa Kitô”. Như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ nơi bàn Tiệc Ly: “Thầy sống, anh em cũng sẽ được sống” (Ga 14,19). Như vậy, Bí tích Thánh Thể, lương thực thần linh mang sự sống đời đời, là sự tiền dự vinh quang Nước Trời ngay tại thế này khi chúng ta rước lễ.

2- Tham dự tích cực

Nếu Thánh Thể là trung tâm điểm và là nguồn mạch của đời sống kitô hữu, thì ngày Chúa Nhật là phải ngày cao điểm của chúng ta. Không phải là người Kitô hữu nến không đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Vì thế, Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy năng tham dự Thánh Lễ và đón nhận Chúa Kitô nơi bí tích Thánh Thể, là nguồn sức mạnh, quà tặng vô giá Thiên Chúa và là sự sống đời đời cho chúng ta trên cuộc hành trình trần thế này.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý rằng, hồng ân Thánh Thể không đến từ một chiều trên xuống. Thiên Chúa muốn và mời gọi chúng ta tham dự và cộng tác phần mình. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, là vòng tròn mở rộng, Chúa luôn dành chỗ cho mỗi người chúng ta vào ngồi để cùng cử hành. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, con người có thể cộng tác phần mình vào của lễ được dâng lên, mà bánh và rượu là tượng trưng của hoa màu ruộng đất và lao công con người, chúng ta dâng lên Thiên Chúa để trở thành của ăn, của uống thần linh cho chúng ta.
Vì thế, sau một ngày sống, hay sau một tuần làm việc, chúng ta hãy mang đến nhà thờ tham dự thánh lễ và hãy đặt trên bàn thờ cùng với bánh và rượu mà linh mục dâng lên, cùng với ngài, chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những cố gắng, khó nhọc, niềm vui và cả nỗi buồn của mình và của gia đình mình; chúng ta tham dự thánh lễ với ý thức đó và cầu xin Thiên Chúa thánh hóa tất cả những công khó và hy sinh này trở thành nguồn ơn cứu độ chính mình và cho anh chị em chúng ta.

3- Giá trị của rước lễ

Để kết thúc, xin kể câu chuyện liên quan đến giá trị của việc rước lễ. Trước khi trở lại với Công Giáo, Đức Hồng Y Newman là người theo Anh Giáo. Ngài là một chức sắc cao cấp, được trợ cấp hàng năm một ngân khoản rất lớn. Thế mà sau một thời gian lâu dài suy nghĩ, cuối cùng ngài đã quyết định xin trở lại Công Giáo. Ngày nọ, một bạn thân của Newman khuyên: “Bạn phải suy nghĩ cẩn thận, nếu cải giáo, bạn sẽ mất hết số lương bổng hàng năm.” Newman hiên ngang trả lời: “Ngân khoản trợ cấp và bổng lộc là gì, so với một lần tôi được rước lễ?”
Câu trả lời này cho thấy rằng ngài đã đánh đổi tất cả để trở lại Công Giáo và để được rước lễ trong thánh lễ. Bởi vì, người Anh Giáo chỉ cử hành thánh lễ nhưng không tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh rượu. Còn đối với đức tin người Công Giáo, Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh rượu khi truyền phép, nhờ quyền năng biến đổi của Chúa Thánh Thần. Vì thế, Thánh Thể là hồng ân lớn lao nhất mà Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta, nơi đó, chúng ta có chính Chúa đang hiện diện và ban sự sống đời đời cho chúng ta. Nếu ai yêu mến thánh lễ và siêng năng rước lễ, thì chắc chắn rằng người đó sẽ lãnh được thần thưởng thiên đàng ngay khi chết. Bởi họ đã được tham dự sự sống đời đời khi còn sống.

Xin cho chúng ta luôn biết yêu mến Thánh Thể và khao khát đến tham dự thánh lễ mỗi ngày, mỗi tuần, để đón nhận chính Chúa Kitô là nguồn sức mạnh, bình an và sự sống đời đời, để nhờ Thánh Thể, chúng ta có đủ nghị lực để tiếp tục hành trình dương thế và thi hành tốt sứ vụ mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng ta. Amen!

Về mục lục

.

THÁNH THỂ: MAN-NA MỚI TRÊN ĐƯỜNG VỀ QUÊ TRỜI

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 6,41-51.

(41) Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”. (42) Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (43) Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! (44) Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy. Và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.  (45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. (46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. (47) Thậ̣t, tôi bảo thật các ông: Ai tin thì được sự sống đời đời. (48) Tôi là Bánh Trường Sinh. (49) Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. (50) Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. (51) Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.

  1. Ý CHÍNH:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã khẳng định Người từ trời mà đến. Điều này làm cho dân chúng xầm xì phản đối vì họ nghĩ rằng họ đã biết rõ về gia thế của Người. Nhưng dù vậy, Đức Giê-su vẫn quả quyết: Người từ nơi Chúa Cha mà đến, và sẽ ban Thịt Máu mình làm lương thực đi dường, để ai lãnh nhận bí tích này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người, được sống nhờ Người và sẽ về Nước Trời với Người sau này.

  1. CHÚ THÍCH:

C 41-42: + Người Do Thái xầm xì phản đối bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”: Người Do Thái đây ám chỉ dân chúng đi theo Đức Giê-su từ hoang địa về thành Ca-phác-na-um. Họ xầm xì bàn tán khi nghe Người tuyên bố Người là Bánh từ trời mà đến. + Ông này chẳng phải là Giê-su, con của ông Giu-se đó sao?….: Dân Do thái nghĩ rằng họ đã biết rõ về thân thế và cha mẹ của Người.

C 43-44: + Các ông đừng có xầm xì với nhau: Đức Giê-su biết đám đông đang bàn tán để phản đối lời Người vừa nói, vì họ chỉ nghĩ về phạm vi nhân tính của Người. + Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha không lôi kéo…: Người cho họ biết đức tin là một hồng ân do Thiên Chúa ban cho. + Và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết: Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ được Người cho sống lại vào ngày tận thế và sẽ được sống mãi mãi.

C 45-46: + “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”: Câu này lược tóm lời tuyên sấm của I-sai-a: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ” (x. Is 54,13), và lời sấm của Giê-rê-mi-a: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: Hãy học cho biết Đức Chúa. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta” (Gr 31,33-34). +Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi: Tuy mọi người đều được Thiên Chúa kêu gọi và dạy bảo, nhưng chỉ ai nghe và đón nhận lởi giáo huấn của Chúa Cha thì mới có thể tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. + Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha: “Thiên Chúa là Thần Khí”, là Đấng thiêng liêng vô cùng (x. Ga 4,24). “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Thời Xuất hành, dù được thường xuyên đàm đạo với Đức Chúa, nhưng ông Mô-sê cũng chỉ thấy được phía sau lưng của Đức Chúa chứ không được nhìn thấy tôn nhan Ngài (x. Xh 33,23). Nhưng Đức Giê-su, Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến, đã xem thấy Chúa Cha và có thể mặc khải về Ngài cho chúng ta.

C 47-51: + “Ai tin thì được sự sống đời đời”: Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người ban sự sống đời đời, như lời thánh Phao-lô: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã (là A-đam), mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất (là Đức Giê-su), đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18). + “Tôi là Bánh Trường Sinh”: Đức Giê-su tự ví mình là “Bánh Trường Sinh” hay “Bánh Hằng Sống”, ám chỉ bí tích Thánh thể mà Người sẽ thiết lập sau này. “Hằng sống” là một đặc tính của Thiên Chúa (x. Mt 16,16), và của Chúa Ki-tô Phục Sinh (x. Rm 6,9). + Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết: Man-na là lương thực Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất Hành, là thứ đồ ăn dễ bị hư nát (x. Xh 16,19-21). Dù dân Ít-ra-en đã ăn man-na, nhưng họ vẫn phải chết do tội lỗi đã phạm (x. Tv 78,29-31) và không được sống đời đời (x. Ga 6,58). + Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết: Đức Giê-su mới là Bánh từ trời thực sự, và ai ăn Bánh này sẽ “không phải chết” (x. Ga 6,50), nhưng “được sống muôn đời” (x Ga 6,51.54), “được ở trong Người” (x Ga 6,56), “được sống nhờ Chúa Cha” (x. Ga 6,57), “được sống và được sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”: Nói câu này, Đức Giê-su đã liên kết 5 chiếc bánh trong phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,9) và bánh không men trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua, với Thịt Mình của Người trong Bí tích Thánh thể (x. Mt 26,26). Từ của ăn nuôi sống thể xác, được Đức Giê-su biến thành Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời (x. Ga 6,48), thành Thân Mình chịu khổ nạn và được Phục sinh của Người (x. Ga 6,51), và thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin (x. Ga 6,51.63), giúp các tín hữu tiến về Nước Trời để được sống muôn đời (x. Ga 6,58).

HỎI: 1) Dân Do thái xầm xì phản đối Đức Giê-su về câu nói nào của Người ? Tại sao ? 2) Đức Giê-su dạy đức tin có được là do đâu ? 3) Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ nhận được gì? 4) Câu “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” tóm lược lời tuyên sấm của hai vị ngôn sứ nào và 2 lời đó thế nào ? 5)Thiên Chúa thiêng liêng được mệnh danh là gì ? Ai mới nhìn thấy Thiên Chúa và mặc khải Ngài cho chúng ta ? 6) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ được hưởng ơn gì ? Thánh Phao-lô đã so sánh giữa A-đam cũ với Đức Giê-su thế nào ? 7) Khi ví mình là Bánh Trường Sinh, Đức Giê-su muốn ám chỉ về bí tích nào Người sẽ thiết lập sau này ? 8) Man-na là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en khi nào và có đem lại sự sống đời đời không ? 9) Đức Giê-su là Bánh Hằng Sống từ đâu mà đến và ai ăn Bánh này sẽ được ơn ích gì ? 10) Đức Giê-su hứa sẽ thiết lập bí tích Thánh Thể thế nào và để làm gì ?

 

II.SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời”(Ga 6,51).

2.CÂU CHUYỆN:

1) GIẤC MỘNG TRƯỜNG SINH BẤT TỬ CỦA TẦN THỦY HOÀNG:

Tần Thủy Hoàng là hoàng đế Trung Hoa, sống khoảng 200 năm trước Công Nguyên. Ông chính là người đã xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm, là một kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể quan sát được từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên đã tìm đủ cách để có thể cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia đã kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết sống trường sinh bất lão, nên ai cũng sống lâu. Tần thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy ngọc ngà châu báu lên đường, hy vọng có thể đổi những đồ quý giá lấy bí quyết trường sinh mang về. Nhưng dân chúng tại đây đã nhất quyết không chịu đổi bí quyết trường sinh của họ lấy bất cứ thứ gì.

Không lấy được thuốc trường sinh, nên khi già yếu, Tần thủy Hoàng đã ra lệnh cấp tốc xây một nhà mồ cho mình như một cung điện nguy nga tráng lệ, rồi ông cho trang trí nhà mồ bằng các đồ trân châu quý giá, lát tường nhà bằng vàng bạc và truyền sẽ chôn sống hàng trăm cung nữ với ông sau khi ông chết, hy vọng kiếp sau sẽ được sống thanh thoát như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham hưởng thụ ấy đã chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết.

Bí quyết để sống vĩnh hằng ấy, Đức Giê-su đã mặc khải trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga.6,47). Ngày nay thánh lễ chính là bàn tiệc cho chúng ta Lời Chúa và Thánh Thể ban sự sống đời đời. Vậy chúng ta cần làm gì ngay từ hôm nay ?

2) GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA THUỐC TRƯỜNG SINH:

Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một viên thuốc bất tử. Người ấy bưng thuốc vào triều, Viên quan canh cửa liền hỏi:

– Đây là cái gì ?

– Là viên thuốc trường sinh bất tử tôi đem đến dâng tiến cho đức vua.

– Thế viên thuốc này có ăn được không ?

Người ấy đáp :

– Ăn được.

Lập tức, viên quan liền cầm lấy viên thuốc mà ăn. Câu chuyện đến tai nhà vua. Vua liền truyền bắt viên quan đến định xử tội khi quân và sẽ bị chém đầu. Viên quan nghe án liền kêu oan như sau:

– Thần đã hỏi người dâng thuốc và được ông ta nói đó là viên thuốc trường sinh bất tử, nghĩa là ai ăn sẽ không bị chết nữa. Thần có hỏi người ấy “ăn được không”, và người ấy đáp: ”Ăn được”, nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi tại người dâng thuốc. Hơn nữa, người dâng thuốc lại nói đó là viên thuốc “trường sinh bất tử”, nghĩa là ai ăn vào sẽ không bị chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy đó là “thuốc tử”, chớ sao gọi là “thuốc bất tử” được ? Nếu bệ hạ giết thần, là bệ hạ đã kết án oan cho người vô tội, và chứng tỏ bệ hạ là người dễ bị kẻ khác mê hoặc lừa gạt.

Vua nghe viên quan đó nói có lý, nên đã tha không giết nữa. (Nguồn: Cổ học tinh hoa)

Trong Tin mừng hôm nay Đức Giê-su nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua đó, Đức Giê-su đã mặc khải : ngoài cuộc sống đời này, còn có một cuộc sống vĩnh hằng đời sau nữa, dành cho những ai tin vào Đức Giê-su, thể hiện qua việc lắng nghe Lời Người và năng ăn Bánh Thánh Thể của Người ban cho.

3) QUYẾT TÂM CẢI GIÁO NHỜ TIN LỜI CHÚA VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ:       

Hồng y NIU-MÂN (Newman) trước kia đã từng giữ chức vụ Tổng Giám Mục Anh Giáo với bổng lộc hằng năm khá lớn. Dù thuộc tầng lớp quí tộc và là chức sắc cao cấp của Anh Giáo như vậy, nhưng ngài luôn bị lương tâm dày vò về các mầu nhiệm đức tin trong Tin Mừng không sao lý giải được. Rồi đến một ngày, sau khi đã suy nghĩ kỹ về sự khác biệt đức tin giữa Anh Giáo và Công Giáo, cuối cùng ngài đã đi tới quyết định từ bỏ các chức vụ cao cấp và các đặc quyền đặc lợi đang thụ hưởng của Anh giáo, để cải giáo theo đạo Công Giáo. Biết được ý định của Niu-mân, bạn bè thân thích đã đến can ngăn để yêu cầu ngài nghĩ lại. Họ nói: “Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hằng năm cũng không được hưởng nữa !” Nhưng Niu-mân đã thẳng thắn trả lời: “Tiếc thì tôi cũng tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng quí, nhưng có đáng là gì so với những điều tôi nhận được khi trở nên thành viên của Hội Thánh Công Giáo và Tông Truyền. Tôi sẽ lãnh nhận được ơn Thánh Thần và được chịu các phép bí tích, nhất là được ăn tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là Bánh đem lại phúc trường sinh”.

Sở dĩ Niu-mân có được suy nghĩ và quyết định sáng suốt như vậy, là do ngài đã nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần ban, thì người ta sẽ khó lòng hiểu được Lời Chúa Giê-su và sẽ không tin vào bí tích Thánh Thể, như đám đông dân Do Thái và phần đông các môn đệ đã không tin. Họ đã chán nản bỏ đi không muốn đi theo Đức Giê-su, vì họ không thể chấp nhận được mầu nhiệm của bí tích Thánh Thể này. Chỉ có Nhóm Mười Hai là vẫn trung thành đi theo Thầy, vì dù họ không hiểu Lời Thầy bằng lý trí, nhưng vẫn sẵn sàng tin vào Thầy, như ông Phê-rô đã đại diện anh em thưa: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).

4) CON LỪA QUÌ LẠY THÁNH THỂ CHÚA:  

Thánh AN-TÔN PA-DO-VA (1195-1231) tên thật là Fernando, là tu sĩ dòng Phan-xi-cô khó nghèo. Ngài sinh tại Bồ-đào-nha nhưng sau này lại sống tại nước Ý. Ngài có tài hùng biện với một lòng đạo đức sâu xa, nên luôn được mời đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Linh Mục Antôn có biệt tài chống lại lý luân của các lạc giáo, nhất là nhóm An-bi-gien-sê tại vùng Tây Nam nước Pháp. Ngài rất có lòng sùng kính bí tích Thánh Thể. Một ngày nọ, An-tôn có mặt tại Tu-lu để bác bỏ lạc thuyết của nhóm An-bi-gien-sê về bí tích Thánh Thể. Cuộc tranh cãi rất sôi nổi. Với lý luận sắc bén, An-tôn đã làm cho nhóm lạc giáo cứng miệng. Tuy thua về lý thuyết nhưng họ vẫn không đầu hàng. Ông trưởng lạc giáo nói: “Bây giờ chúng ta hãy dẹp bỏ mớ lý luận kia để đi vào thực tế. Nếu ông có thể chứng minh có Chúa Giê-su hiện diện thực sự trong Bánh Thánh Thể, trước sự chứng kiến của mọi người, thì tôi sẽ xin từ bỏ lạc giáo để trở về với Đức Tin Công Giáo. Đầy tin tưởng vào quyền năng của Chúa Thánh Thể, linh mục An-tôn trả lời: “Tôi chấp thuận đề nghị của anh”.

Ông trưởng lạc giáo An-bi-gien-sê nói tiếp: “Ở nhà tôi có một con lừa cái. Tôi sẽ nhốt nó vào chuồng và bắt nó nhịn đói 3 ngày. Đến ngày thứ ba, tôi sẽ dẫn nó đến đây trước mặt mọi người, và dọn ra cho nó một thùng lúa mạch thơm ngon. Còn ông, ông cũng đưa ra trước mặt con vật ”cái” mà ông gọi là Mình Thánh Chúa. Nếu con lừa đang đói mà không ăn thóc lúa, nhưng lại quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin vào  giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo.

Đúng ngày hẹn, toàn dân thành Tu-lu đứng chen chúc nhau tại quảng trường chính, nơi sắp diễn ra cuộc thách thức, đang lúc linh mục An-tôn sốt sắng dâng lễ trong một nhà nguyện gần đó.

Đến giờ hẹn, ông trưởng phe lạc giáo liền dắt con lừa cái nhà ông đến quảng trường và không quên mang theo thùng thức ăn thích hợp với nó. Nhóm lạc giáo hiện diện rất đông cùng nét mặt hân hoan như cầm chắc phần thắng trong tay. Bấy giờ Linh mục An-tôn từ trong thánh đường gần đó bước ra, tay giơ cao Bánh Thánh Thể mới được truyền phép trong thánh lễ. Bấy giờ linh mục An-tôn lớn tiếng nói với con lừa rằng: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, là Đấng đã dựng nên ngươi. Tuy ta bất xứng, nhưng ta đang giữ Người trên tay, ta truyền cho ngươi, hỡi con vật đáng thương, hãy mau đến quỳ gối thờ lạy Người. Cùng lúc ấy, người ta cũng đưa thùng lúa kiều mạch đến trước mặt con vật. Lạ lùng thay, con lừa đã không đoái hoài đến thức ăn hợp khẩu vị, mà đã vâng lời linh mục An-tôn, nó chạy đến gập hai chân trước quì xuống cúi đầu thờ lạy Mình Thánh Chúa Giê-su.

Trước cảnh tượng ấy, các tín hữu Công Giáo vui mừng vỗ tay reo hò để tạ ơn Chúa, đang khi nhóm lạc giáo kia ngơ ngác không biết phải ứng phó thế nào. Cuối cùng ông trưởng nhóm lạc giáo đã chịu thua. Ông đã giữ lời hứa là từ bỏ lạc giáo và khiêm tốn quay về tin theo giáo huấn chân thật của Hội Thánh Công giáo.

  1. THẢO LUẬN: 1) Bạn sẽ tham dự thánh lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời do Chúa hứa ban ? 2) Sau thánh lễ, bạn cần làm gì để giới thiệu Chúa cho tha nhân, nhất là cho những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi… để họ cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ và được tham phần vào sự sống đời đời ?
  2. SUY NIỆM:

Trong cuộc hành trình về Nước Thiên Chúa, mỗi người cần được ăn lương thực để đủ sức như sau:

1) Man-na: lương thực bổ sức cho dân Ít-ra-en trên đường về miền đất hứa:

Dân Ít-ra-en dưới sự lãnh đạo của Mô-sê đã từ Ai Cập tiến về miền đất Ca-na-an do Đức Chúa đã hứa ban cho Ap-ra-ham và con cháu ông (x. St 12,5-7).

Trong suốt thời gian lưu lạc trong sa mạc, dân Ít-ra-en tuy không còn bánh ăn nước uống vật chất như khi ở Ai Cập, nhưng họ lại được Đức Chúa ban man-na từ trời rơi xuống (x Xh 16,15) và uống nước từ tảng đá chảy ra (x Xh 17). Nhờ đó họ đã đủ sức vượt qua sa mạc trong thời gian 40 năm để sau cùng về tới được miền Đất Chúa hứa ban cho A-bra-ham và con cháu là xứ Ca-na-an.

2) Bánh và nước: bổ sức cho ngôn sứ Ê-li-a về tới núi của Chúa :

Sau khi tiêu diệt 450 sãi bụt Ba-an trên núi Các-men (x. 1 V 18,20-40), ngôn sứ Ê-li-a đã bị hoàng hậu I-de-ven sai quân truy bắt, nên ông phải chạy đến Núi Khô-rép để được Đức Chúa bảo vệ.

Trong cuộc trốn chạy, có lúc ông bị đói khát mệt mỏi và tuyệt vọng, chỉ muốn chết đi cho xong. Nhưng khi đang thiếp ngủ dưới một gốc cây, ông đã được thiên sứ đến đánh thức và mang cho ông bánh ăn nước uống. Nhờ được ăn bánh uống nước của Chúa mà Ê-li-a đã hồi phục sức khỏe và tiếp tục cuộc hành trình tiến về Núi Thánh của Đức Chúa (x. 1 V 19,1-8).

3) Man-na Mới: bổ sức cho các tín hữu trên đường về Nước Trời:

Manna xưa là hình ảnh tiền trưng của Bí Tích Thánh Thể do Đức Giê-su thiết lập. Người đã tự hiến làm lương thực thiêng liêng ban sự sống đời đời cho thế gian khi nói rằng: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Bánh tôi sẽ ban chính là Thịt tôi để cho thế gian được sống” (Ga 6,48.51).

Lương thực nói trên còn là Lời Thiên Chúa như Đức Giê-su đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,3; Mt 4,4). Chính Lời của Thiên Chúa đã nhập thể làm người và ở cùng chúng ta là Đức Giê-su (x Ga 1,14). Người trở thành con đường duy nhất nối liền giữa đất với trời như Người đã nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Từ đây ai muốn lên trời phải ăn được hai của ăn Chúa ban là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa.

4) Bánh Thánh Thể hôm nay – mầm sống lại của cuộc sống mai sau:

Ngày nay Hội Thánh cử hành bí tích Thánh Thể để tưởng niệm sự chết và phục sinh của Chúa Giê-su và mời gọi mọi người chúng ta năng lãnh nhận, để có mầm sống lại trong mình như lời Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.

Mỗi tín hữu hôm nay phải năng tham dự thánh lễ và rước lễ, để được hưởng nếm sự ngọt ngào của Chúa Giê-su, hầu có thể vượt qua các thử thách gian nan gặp phải trong cuộc sống. Hãy để Chúa Giê-su Thánh Thể biến đổi chúng ta nên giống Người. Mỗi lần rước lễ chúng ta sẽ cảm nếm được hương vị hạnh phúc thiên đàng, được nghỉ ngơi trong Chúa như lời Chúa hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11,28-30). Ai ăn Bánh Thánh Thể sẽ tiếp nhận được mầm của sự sống lại ở đời sau.

  1. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi lần dự lễ là chúng con được Chúa kêu gọi ăn Lời Chúa và Thánh Thể do Chúa tặng ban. Khi lên rước lễ là chúng con được đón nhận cả nhân tính và thần tính của Chúa. Xin giúp chúng con siêng năng dự lễ mỗi ngày để được Lời Chúa giáo huấn và được Mình Chúa dưỡng nuôi. Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay đón nhận mọi người sống trong cùng một nhà, ở chung cùng một khu xóm, cùng học tập trong một mái trường, làm việc trong một cơ quan hay nhà máy… Xin cho chúng con biết đón nhận những người đối xử tốt với chúng con mà cả những kẻ không ưa thích nói xấu chúng con. Xin giúp chúng con mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần để được ơn biến đổi nên con thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa, và nên anh chị em của mọi người trong gia đình Hội Thánh.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.