Chúa Nhật XIX thường niên – năm A
Lời Chúa: 1 V 19,9a.11-13a; Rm 9,1-5; Mt 14,22-33
***************
1. Đừng sợ! (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Sóng đời (Trầm Thiên Thu)
3. Giá trị của một ly sữa (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Chúa ở đâu khi chúng ta đau khổ (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, GP. Xuân Lộc)
5. Trên biển đời (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Hãy vững tin vào Chúa (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Một câu chuyện kể rằng, trên một chuyến tàu biển chở khách vượt đại dương, bỗng nhiên bão táp nổi lên dữ dội, biển gầm sóng vỗ. Mọi người đều lo sợ vì cảm thấy cái chết cận kề. Họ hoảng loạn, hoang mang lo chuẩn bị cho mình phao cứu hộ. Lúc đó, họ thấy một em bé vẫn bình thản với mấy thứ đồ chơi trẻ em của mình. Một hành khách hỏi: “Cháu có sợ tàu chìm không?”. “Không!” – em bé trả lời. “Tại sao cháu không sợ?” – “Vì biết bố cháu là người lái tàu rất tài ba, nên chắc chắn tàu sẽ đến bến an toàn!”.
Sau một loạt những tai nạn hàng không liên tiếp xảy ra trong thời gian vừa qua, nhiều người sợ không dám đi máy bay nữa. Nỗi sợ hãi không chỉ trong lãnh vực giao thông, mà có thể nói, nó bao trùm cuộc sống. Cái chết rình rập nơi cửa ngõ, thậm chí trên chính bàn ăn hàng ngày. Người ta sợ hãi trước hiện tượng thực phẩm nhiễm hóa chất độc hại, môi trường ô nhiễm, tai nạn giao thông. Trong cuộc sống chao đảo và đầy dối trá này, con người có nguy cơ mất định hướng và mất hy vọng.
Thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ. Việc Chúa đi trên mặt nước thì chẳng có gì phải bàn, vì Chúa là Thiên Chúa quyền năng. Điều gây sự chú ý là ở chỗ chính Phêrô cũng đi trên mặt nước được. Tuy vậy, ông chỉ đi được trên mặt nước khi ông làm theo lệnh Chúa và khi ông xác tín vào Chúa. Liền sau đó, khi ông lo sợ sóng gió bão táp thì ông bị chìm xuống nước. Bài học rút ra ở đây là khi chúng ta cậy tin vào Chúa thì có thể làm được mọi sự. Nói cách khác, nhờ quyền năng và ân sủng của Chúa thì mọi sự trở nên dễ dàng, còn nếu cậy dựa vào khả năng cá nhân của mình, hoặc nghi ngờ quyền năng của Chúa thì một việc tuy đơn giản cũng không thể thực hiện được. Lời quở trách của Chúa đối với ông Phêrô đã chứng minh điều đó.
Đối diện với biết bao nỗi sợ trong cuộc đời, nếu chúng ta tin rằng Chúa là Đấng điều khiển mọi sự, như em bé biết chắc cha mình là một người lái tàu tài ba, thì chúng ta chẳng còn gì mà sợ hãi.
“Thầy đây, đừng sợ!”. Lời trấn an của Chúa làm cho các ông an lòng. Ngày hôm nay, giữa đại dương mênh mông của cuộc đời, Chúa Giêsu cũng đang nói với chúng ta những điều ấy. Lời Chúa đem lại cho chúng ta sự bình an của tâm hồn, đồng thời vững bước đi trong cuộc sống. Chúa đang đi trên mặt “biển đời” để đến với chúng ta. Một khi có Chúa, chúng ta không còn sợ hãi và lo lắng. Một khi có Chúa, chúng ta cũng không làm điều gì gây sợ hãi và lo lắng cho anh chị em chúng ta. Tin vào Chúa không chỉ giúp chúng ta tìm thấy sự bình an, mà chúng ta được hướng dẫn bởi Đức tin để sống với một lương tâm công bằng, ngay thẳng, tôn trọng phẩm giá và ích lợi của những người xung quanh. Như thế, người nông dân tin Chúa sẽ làm ăn lương thiện trong lãnh vực nông nghiệp, người công nhân tin Chúa sẽ ngay thẳng trong các sản phẩm mình làm ra, người lãnh đạo ở bất cứ cấp nào, nếu tin Chúa sẽ không lợi dụng quyền chức mà làm lợi cho riêng mình.
Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Khi nhìn thấy Chúa đi trên mặt biển vào lúc đêm tối, các môn đệ quá khiếp đảm tưởng Người là ma. Vâng, trong đời sống Đức tin, vì kém hiểu biết, có những lúc chúng ta xây dựng hình ảnh Thiên Chúa giống như một bóng ma trong cuộc đời. Bóng ma làm người ta khiếp sợ trong chốc lát, nhưng khi nỗi sợ ấy qua rồi, thì đâu lại hoàn đấy. Những ai tin Chúa như là những bóng ma, thì nơi họ không có Đức tin đích thực. Đức Giêsu đến trần gian để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương chăm sóc chúng ta. Sợ hãi, bi quan, khiếp đảm đối với Chúa chỉ làm biến dạng hình ảnh đích thực về Ngài. Trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phanxincô đã cảnh báo một lối trình bày Thiên Chúa nghiêm khắc, với nỗi sợ hãi ám ảnh, làm cho con người thay vì mến Chúa lại khiếp đảm và run sợ khi đến với Ngài.
Có nhiều người nhân danh Thiên Chúa mà dùng vũ lực để khủng bố anh chị em mình. Tác giả sách Các Vua (Bài đọc I), chứng minh với chúng ta, Thiên Chúa hiện diện trong sự bình an. Khi con người sống hài hòa với mọi loài thọ tạo và hài hòa với nhau thì Thiên Chúa hiện diện giữa họ để chúc lành. Con người luôn kiếm tìm Thiên Chúa và họ tưởng Ngài hiện diện trong những biến động của thiên nhiên hay giữa những ồn ào của phố chợ. Tuy vậy, giữa những ồn ào bon chen của chợ đời, người ta không thể gặp Thiên Chúa.
Trình thuật của Mátthêu cho thấy lòng tin của ông Phêrô các môn đệ đã được phục hồi sau khi Chúa nắm lấy tay Phêrô để kéo ông lên. Các ông bái lạy Người và thốt lên: “Quả thật Người là Con Thiên Chúa”. Các ông đã mạnh mẽ tuyên xưng Đức tin và đẩy lui nỗi sợ hãi.
Giữa cuộc đời bấp bênh và đầy nguy cơ này, chúng ta hãy đến với Chúa, xin Người kéo chúng ta lên khỏi nỗi sợ hãi trước những hiểm nguy đang rình rập chúng ta. Có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ vui tươi và an bình.
.
Khi nói đến sóng, người ta nghĩ ngay tới biển. Sóng có lúc rất hiền hòa, rất thơ mộng khi sóng “mơn man vỗ mạn thuyền”, do đó mà người ta áp dụng nghĩa này cho vấn đề trừu tượng và gọi là “lãng mạn”. Sóng cồn dù dữ dội nhưng là sóng nổi, không đáng sợ bằng sóng ngầm, không thể nhìn thấy. Sóng còn khủng khiếp hơn nếu đó là sóng bạc đầu hoặc sóng thần, điển hình là sóng thần tại Nhật Bản ngày 11-3-2011 đã cuốn mất khoảng 16.000 người và quét sạch mọi thứ vào lòng biển khơi.
Trong ca khúc “Sóng Về Đâu” (*), cố NS Trịnh Công Sơn nói: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?… Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã giữa tim người… Biển sóng biển sóng đừng âm u đừng nuôi trong ấy trái tim thù”. Ca từ của ông đầy triết lý sống. Biển vừa hiền vừa dữ. Biển sâu thẳm và bao la yêu thương, lòng biển không bao giờ lặng, luôn động, dù có lúc nhìn biển rất tĩnh. Biển như đời người vậy!
Sóng còn gọi là ba đào (dậy sóng – ba: sóng, đào: nổi dậy). Có loại sóng dữ dội và dai dẳng hơn các loại sóng, đó là sóng đời. Chúng ta đang miệt mài hành trình lữ hành trần gian, lênh đênh trên biển đời, luôn gặp những loại sóng đời – đủ dạng và đủ cỡ. Không vững tay chèo là thuyền đời chìm ngay. Vì thế, lúc nào chúng ta cũng phải phát tín hiệu báo khẩn: S.O.S., lạy Thiên Chúa!
Thiên Chúa hiện diện mọi nơi và thể hiện trong mọi sự, kể cả những thứ chúng ta cho là không tốt, nhưng Thiên Chúa không làm điều không tốt. Chính đau khổ và những thứ không tốt xảy ra cho chúng ta, không phải Ngài không biết, nhưng Ngài cho phép nó xảy ra theo tự nhiên để dạy chúng ta bài học giá trị. Có thể đó là hậu quả do sai lầm của chúng ta hoặc của người khác, nhưng cũng có thể đó là để làm vinh danh Chúa – như trường hợp người mù bẩm sinh (Ga 9:1-3). Tội lỗi cũng có tính liên đới.
Khi ông Êlia vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Đức Chúa hỏi ông: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:9). Rồi Ngài nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua”.
Gió to, bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông nhận biết Đức Chúa đang ở trong làn gió nhẹ đó. Quả thật, lúc đó có tiếng hỏi ông như trước: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:13). Ông thưa:“Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con” (1 V 19:14).
Không dễ để lắng nghe tiếng Chúa hoặc nhận biết ý Chúa, ví thế mà chúng ta phải không ngừng cố gắng lắng nghe để nhận biết ý Ngài, rồi tiếp tục cố gắng chấp nhận và thực hiện, người có lòng nhiệt thành đối với Chúa thì sẽ để ý Chúa nên trọn chứ không mong ý mình nên trọn. Về lĩnh vực này, chúng ta lại thường có xu hướng trái ngược, vì chúng ta luôn thích “xin được như ý”.
Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:9-10).
Ở đâu có Chúa thì mọi sự đều tốt đẹp: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85:11-14). Điều này cũng có nghĩa là, nếu ở đâu vắng Chúa thì mọi sự sẽ hoang vu và nguy hiểm.
Phải mau đón Chúa vào lòng, càng sớm càng tốt, trước khi công lý được áp dụng, trước khi hết thời gian thương xót. Thiên Chúa vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về như người cha nhân hậu mong ngóng đứa con hoang đàng trở về (Lc 15:11-32). Ai khôn ngoan thì biết tỉnh thức đợi chờ Ngài như mười trinh nữ khôn ngoan chờ đón chàng rể (Mt 25:1-13), vì “thời gian không chờ đợi ai – time waits for no man”. Lý do? Bởi vì “Chúa đã gần đến” (Pl 4:5), “ngày Chúa quang lâm đã gần tới” (Gc 5:8), và “thời giờ đã gần đến” (Kh 1:3; Kh 22:10). Đó là không ngừng rèn luyện Đức Tin, để khi gặp thử thách sẽ không bị chao đảo, không như hạt giống rơi vào đất sỏi đá hoặc bụi gai.
Tỉnh thức chờ Chúa như vậy thì không ai có thể ngồi yên, luôn như biển động, luôn nổi sóng, khi sóng nhỏ, lúc sóng to. Thánh Phaolô cũng đã luôn đứng ngồi không yên. Ông thề có Đức Kitô chứng giám, rồi nói sự thật chứ không nói dối, nhờ Thánh Thần hướng dẫn: “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9:2). Sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, tôi cũng cam lòng. Họ là người Ít-ra-en, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9:3-5). Có Chúa thì hạnh phúc và vinh dự như thế đấy!
Nhưng nói rồi quên, hứa rồi thôi. Phàm nhân khốn nạn lắm thôi. Không chỉ nghe người khác nói mà chứng kiến tận mắt, thế mà chúng ta vẫn chưa dám tin thật. Ôi thôi, con người ơi!
Vào một buổi chiều nọ, có lẽ trời quang mây tạnh, đẹp lắm, thú vị lắm. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Ngài giải tán dân chúng, vì chắc chắn dân chúng lưu luyến Ngài, khoái Ngài lắm, không thể về được, dù trời đã gần tối. Mãi mới giải tán được. Khi giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Ngài vẫn ở đó một mình. Chúa Giêsu luôn thích sống tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa Cha qua lời cầu nguyện. Ngài luôn căn dặn mọi người phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22:40-46), cầu nguyện còn là sức sống và là sức mạnh của linh hồn. Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động.
Khi Chúa Giêsu ở một mình và cầu nguyện, chiếc thuyền chở các môn đệ đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Vào khoảng canh tư – tức là quá nửa đêm về sáng, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14:27). Nghe vậy, ông Phêrô bán tín bán nghi nên liền thưa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14:28). Đức Giêsu ôn tồn bảo ông: “Cứ đến!”. Ông Phêrô hí hửng bước ngay xuống khỏi thuyền, đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Vô tư. Rất ngon lành. Thế nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ, hồn xiêu phách lạc, chín vía lên mây ráo trọi, và khi bắt đầu chìm, ông la toáng lên: “Sư Phụ ơi, xin cứu đệ tử với!” (Mt 14:30).
Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có hơn gì Phêrô nhà ta đâu. Biển đời chỉ mới gợn sóng lăn tăn thôi, vậy mà thuyền đời của chúng ta đã tròng trành tưởng chừng chìm đến nơi. Lòng tin tích góp bao năm, giờ bỗng “bốc hơi” muốn cạn kiệt; cây đức tin vun tưới bao năm, giờ bỗng héo úa mau chóng. Lạy Chúa tôi! Đức tin chỉ “sống” khi dòng đời êm ả, khi tiệc tùng linh đình, khi ung dung rung đùi, khi được người ta tâng bốc lên tận mây xanh,… Còn khi gặp phải gió xoáy hoặc gió lốc, con-thuyền-đức-tin quay tít như chong chóng, chẳng còn biết đâu là phương hướng!
Thấy đệ tử Phêrô ngoi ngóp trong dòng nước, có thể bụng nhiều nước rồi, Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”(Mt 14:31). Lời trách nhẹ nhàng mà đau điếng. Đó cũng là lời trách mà Thầy Giêsu đang nói với mỗi chúng ta hôm nay, ngay bây giờ.
Khi thầy trò đã lên thuyền thì gió yên, biển lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Ngài và nói: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33). Đó là bài học đức tin vô giá mà Chúa Giêsu dạy chúng ta ngay trong những lúc chúng ta gặp cơn sóng gió của cuộc đời. Ước gì chúng ta khả dĩ nhận biết mình yếu kém về đức tin, nhờ đó mà có thể cố gắng chăm sóc cây đức tin ngày càng lớn mạnh.
Cuộc đời không như thảm lụa hoặc như chiếu trải hoa hồng. Thiên nhiên còn lúc nắng, lúc mưa, lúc hạn hán, lúc mưa dầm, thậm chí là áp thấp hoặc bão tố. Cụ Nguyễn Công Trứ đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Giữa sóng gió cuộc đời, dù nhỏ hay lớn, ước gì chúng ta vẫn luôn khả dĩ xác tín với Đức Giêsu Kitô: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33).
Liên quan đức tin, Thánh Tiến sĩ Teresa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”. Câu này đáng để chúng ta phải “giật mình” mà cố gắng tự chấn chỉnh và vun xới đức tin lắm. Và đừng quên: “S.O.S., Chúa ơi!”.
Lạy Thiên Chúa, xin cứu và giúp chúng con biết tín thác vào Ngài trong mọi hoàn cảnh như Tổ Phụ Ápraham, như Thánh Gióp, như Đức Maria, và như Đức Giuse, nhất là khi biển đời chúng con đầy những đợt sóng vỗ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(*) Theo lời kể của NS Trịnh Công Sơn, ca khúc này được lấy cảm hứng từ câu chú Bát Nhã: “Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha”. Nghiã là: “Qua rồi, qua rồi, qua bờ rồi, qua bờ hết rồi, giác ngộ rồi, vậy đó”.
.
Hình ảnh Chúa Giê-su đi trên mặt nước cho chúng ta thấy tình thương của Chúa dành cho các môn đệ thật cao sâu. Dù đêm tối. Dù giông bão. Điều đó không cản bước để Ngài tiến đến với các môn đệ. Ngài đã đến thật đúng lúc, thật kịp thời. Ngài đến để phá tan giông bão. Ngài đến trả lại sự bình yên cho biển cả và cho cả các tông đồ đang hú hồn bạc vía!
Cuộc sống là bước đi trên biển đời. Có sóng gió. Có giông tố. Có những khó khăn khiến biết bao người chao đảo. Họ đang cần chúng ta làm điều gì đó để cứu giúp họ. Hằng ngày có biết bao bàn tay đang xòe ra cầu cứu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám thoát ra khỏi sự bình yên của mình để đến với anh em và giúp họ vượt qua khó khăn hay không?
Có thể chúng ta nghĩ mình sẽ chẳng làm được những chuyện phi thường như Chúa Giê-su, điều này cũng chẳng sai, nhưng chúng ta lại có thể làm những chuyện bình thường với trái tim phi thường hết mình vì tha nhân. Những chuyện bình thường thật dễ làm nhưng lại đòi hỏi phải có tình yêu mới có thể tìm được hạnh phúc trong từng điều nhỏ nhặt bình thường.
Người ta kể rằng: Trưa hôm đó, có một cậu bé nghèo bán hàng rong ở các khu nhà để kiếm tiền đi học. Bụng đói cồn cào mà lục túi chỉ còn mấy đồng tiền ít ỏi, cậu liều xin một bữa ăn tại một căn nhà gần đó. Nhưng cậu giật mình xấu hổ khi thấy một cô bé ra mở cửa. Và thay vì xin gì đó để ăn, cậu đành xin một ly nước uống. Cô bé trông cậu có vẻ đang đói nên bưng ra một ly sữa lớn.
Cậu bé uống xong, hỏi “Tôi nợ bạn bao nhiêu?”.
“Bạn không nợ tôi bao nhiêu cả. Mẹ dạy rằng chúng tôi không bao giờ nhận tiền khi làm một điều tốt.”
Cậu bé cám ơn và đi khỏi. Lúc này, Howard Kelly thấy tự tin hơn nhiều, mạnh mẽ hơn nhiều.
Nhiều năm sau, cô gái đó bị căn bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ trong vùng bó tay và chuyển cô lên bệnh viện trung tâm thành phố để các chuyên gia chữa trị. Tiến sĩ Howard Kelly được mời khám. Khi nghe tên địa chỉ của bệnh nhân, một tia sáng loé lên trong mắt ông. Ông đứng bật dậy và đi đến phòng bệnh nhân và nhận ra cô bé ngày nào ngay lập tức. Ông đã gắng sức cứu được cô gái này. Sau thời gian dài, căn bệnh của cô gái cũng qua khỏi. Trước khi tờ hoá đơn thanh toán viện phí được chuyển đến cô gái, ông đã viết gì đó lên bên cạnh.
Cô gái lo sợ không dám mở ra, bởi vì cô chắc chắn rằng cho đến hết đời thì cô cũng khó mà thanh toán hết số tiền này.
Cuối cùng cô can đảm nhìn, và chú ý đến dòng chữ bên cạnh tờ hoá đơn….
“Đã thanh toán đủ bằng một ly sữa.”
Ký tên
Tiến sĩ Howard Kelly.
Nước mắt vui mừng cứ thế dâng trào và lời từ trái tim cô gái thốt lên trong nước mắt: “Cảm ơn ông!.”
Đây là câu chuyện có thật. Dr. Howard Kelly là một nhà vât lý lỗi lạc, đã sáng lập ra Khoa Ung thư tại trường Đại học John Hopkins năm 1895.
Cuộc sống luôn mời gọi chúng ta hãy làm điều gì đó có ích cho tha nhân. Bởi chung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời bất hạnh lầm than. Cuộc sống luôn đưa đến cho chúng ta biết bao bàn tay đang cần chúng ta dìu họ đi qua những khó khăn, hay giúp họ đứng dạy bước tiếp sau những lần vấp ngã. Việc làm này tưởng chừng như chỉ là một việc tốt nhỏ bé rồi sẽ trôi qua, nhưng thực ra nó sẽ được đền bù khi chúng ta gặp khó khăn. Đó là trường hợp của cô gái đã tặng người bạn nghèo một ly sữa để làm động lực cho câu ta tiến thân và thành danh mai sau.
Vâng, chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống. Vì cuộc sống chung quanh chúng ta có quá nhiều những hoàn cảnh đang cần chúng ta thi ân giúp sức.
Chúng ta có thể không có khả năng hô phong hoán vũ nhưng chúng ta có thể xoa dịu những đau thương cho anh em bằng sự chia sẻ, bằng cảm thông liên đới.
Chúng ta có thể không có khả năng ngăn gió chống bão nhưng chúng ta có thể giúp anh em làm lại cuộc đời sau những thất bại làm ăn . .
Vâng, chúng ta không cần phải làm những chuyện cao siêu, chỉ cần cho một ai đó ly nước với một tấm lòng chân thành là được. Cuộc sống của chúng ta chỉ cần có tấm lòng như dẫn người già qua đường, nhịn chút quà sáng để cho các em học sinh khó khăn, biết an ủi động viên người đang đau bệnh hay thất bại , tủi hờn. . . Đó là những việc chúng ta đang làm cho cuộc sống này tốt đẹp hơn.
Cuộc đời ai mà không cần sự nâng đỡ, bao bọc của người khác. Thật không ngoa khi nói rằng chúng ta đều lớn lên trong tình thương giúp đỡ của người khác cụ thể là cha mẹ, là thầy cô, bạn bè . . . Thế nên, hãy sống có ích cho tha nhân. Hãy làm điều gì đó tốt đẹp cho tha nhân. Hãy đến với tha nhân để xoa dịu nỗi đau cho họ, để dìu họ đi qua những khổ đau, để giúp họ đứng dậy làm lại cuộc đời.
Xin Chúa cho chúng ta có đôi chân nhẹ nhàng, thanh thoát để đến với tha nhân trong tinh thần phục vụ mà không mong đền đáp. Amen
.
CHÚA Ở ĐÂU KHI CHÚNG TA ĐAU KHỔ
Mới mấy tuần trước đây, trong một tai nạn, một người mẹ mất một lúc ba đứa con, vì bị đuối nước. Trong đám tang ấy, người mẹ vật vã gào lên : Ông Trời ơi ! Ông ở đâu ? Sao ông để như thế này ? Tôi có tội tình gì mà sao ông đối xử với tôi như thế ?
Trong lúc người ta đau khổ tột cùng, dù là người có đạo hay không có đạo, họ vẫn như muốn trách móc Thiên Chúa, trách Ông Trời, và muốn Thiên Chúa trả lời ngay cho những đau khổ của họ, hoặc là muốn Chúa phải ra tay giải thoát ngay. Trong lúc đau khổ đó, người ta thấy dường như Chúa vẫn im lặng trước những nỗi đau của họ. Phải chăng Chúa làm ngơ trước đau khổ của con người ?
Các bài đọc của chúa nhật thứ 19 hôm nay trả lời cho chúng ta rằng : Thiên Chúa không im lặng, Thiên Chúa vẫn đang nói, đang ở kề bên, đưa tay ra để nâng đỡ, an ủi chúng ta ; quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện an ủi của Ngài, có tin vào quyền năng của Ngài, có đưa tay ra để Ngài kéo ta lên hay không ?
Bài đọc một kể lại tâm trạng của Elia, sau khi đương đầu với các sư sãi của hoàng hậu Giêzabel, đã bị hoàng hậu trả thù. Ông phải trốn lên rừng, chịu đói chịu khát. Trong lúc khốn khổ vì bị lùng bắt như thế, ông cũng cảm thấy như Thiên Chúa không còn ở với ông, Thiên Chúa bỏ rơi ông, ông nghĩ rằng : Ông đã chiến đấu cho Thiên Chúa, đã hết mình bênh vực giới răn, lề luật của Thiên Chúa, tại sao Chúa lại cư xử với ông như thế ? Trong lúc ông băn khoăn oán trách Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã hứa cho ông được gặp Ngài. Isai đã chờ đợi một vị Thiên Chúa oai hùng như sấm sét, giông bão. Vì thế, ông ra cửa hang để mong gặp Chúa, nhưng Chúa đã không ở trong sấm sét. Rồi ông lại chờ đợi gặp một Thiên Chúa có sức mạnh làm rung chuyển trời đất, núi lửa, song ông cũng không gặp được Ngài. Mãi đến buổi chiều khi làn gió hiu hiu thổi nhẹ, ông nghe được tiếng Chúa và lấy áo choàng che mặt rồi ra ngoài cửa hang và ông đã gặp được Chúa. Điều đó cho thấy rằng, Thiên Chúa vẫn hiện diện bên ông mơn man như cơn gió nhẹ ban chiều. Chúa vẫn ở bên ông dưới những hình thức rất đỗi bình thường, song ông đã không nhận ra Ngài. Chỉ khi ông bình tâm, ông mới có thể cảm nhận được sự hiện diện nhẹ nhàng của Ngài trong cuộc đời ông.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng chia sẻ cùng một kinh nghiệm như tiên tri Isai, khi ông đã miệt mài rao giảng về Chúa Giêsu, song đổi lại, ông đã phải chịu bao nhiêu đau khổ vì những anh em đồng đạo, vì những kẻ đã thụ ơn ông gây ra. Ông đã tâm sự : Có Thiên Chúa chứng giám : Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi khôn nguôi, vì anh em đồng bào đã gây ra cho tôi. Song Phaolô đã nhận ra rằng : Thiên Chúa là Đấng hiểu lòng ông và Ngài chứng giám cho sự nhiệt thành của ông và Ngài chính là nguồn an ủi cho ông.
Thánh Mátthew đã kể lại câu chuyện của Phêrô và các tông đồ đương đầu với sóng gió một mình. Câu chuyện này xảy ra sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người đàn ông ăn no và còn dư. Trong lúc các tông đồ như đang say mê trong thành công, trong sự nể phục của dân chúng, thì Chúa Giêsu đã làm các ông mất hứng khi Ngài bắt các ông phải xuống thuyền để qua bên kia bờ hồ. Lúc đó, có lẽ các tông đồ cũng đang ảo tưởng vì nghĩ rằng các ông đã góp phần vào sự thành công này, nhưng giờ đây, các ông phải xuống thuyền mà không có Chúa đi cùng.
Chính lúc các ông đang còn như tiếc nuối sự thành công thì đêm tối đã bao phủ lấy thuyền của các ông, và sóng gió bắt đẩu nổi lên. Tin Mừng cho thấy, con thuyền mà các tông đồ đang chèo chống chính là hình ảnh của Giáo Hội. Bóng đêm là những thế lực của thế gian và ma quỷ. Sóng gió là những thử thách đang muốn nhấn chìm cả con thuyền Giáo Hội. Qua chi tiết này, Kinh Thánh còn cho thấy rằng, một khi không có Chúa Giêsu trong tâm hồn, trong Giáo Hội, thì chắc chắn bóng tối của sự dữ sẽ xâm chiếm tâm hồn và xâm chiếm cả Giáo Hội.
Trong lúc các tông đồ đang phải đương đầu với sóng gió như thế thì Chúa Giêsu xuất hiện. Tuy nhiên ngay đến các tông đồ là những người đã bao năm sống với Chúa Giêsu, chứng kiến bao phép lạ Chúa làm, vậy mà vào lúc gặp sóng gió này, họ cũng không nhận ra sự hiện diện của Chúa. Khi thấy Ngài đi trên mặt nước mà đến với mình, các ông hoảng sợ và nghĩ đó là ma. Trong lúc thấy học trò của mình hoảng loạn như thế, Chúa Giêsu đã trấn an các ông : Thày đây, đừng sợ. Khi sự sợ hãi đi đến tuyệt vọng, thì dường như lời trấn an của Chúa Giêsu lúc đó đã không được các tông đồ đón nhận cách tin tưởng.
Chính vì chưa hoàn toàn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu, nên Simon Phêrô mới lên tiếng : Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Ngài. Một lời cầu xin trong hồ nghi ! Với lời xin này, Phêrô như muốn đặt cho Chúa một điều kiện, mà là một điều kiện vượt khỏi lẽ thông thường, hay nói đúng hơn, Phêrô đang muốn thử thách sự hiện diện của Chúa.
Đòi đi trên mặt nước, là đòi hỏi một phép lạ, đòi được nên như Chúa, tức là có thể giẫm đạp trên các sự dữ và thế lực của ma quỷ. Trước một đòi hỏi như thế, Chúa Giêsu vẫn chiều lòng Phêrô và cho ông bước trên mặt nước mà đến cùng Ngài. Tuy nhiên, Phêrô vẫn không đủ đức tin để hưởng đặc ân này, ông hồ nghi và đã để mình bị chìm trong sợ hãi. Nhưng rất may, trong lúc ông như bị chìm ngập trong sóng to gió lớn của thử thách như thế, ông vẫn còn tin vào sự hiện diện và lời mời gọi của Chúa Giêsu, vì thế ông đã kêu lên : Thày ơi! Xin cứu con với ! Thế là Chúa đã đưa tay ra kéo ông lên thuyền và sóng yên biển lặng. Điều đó cho thấy, dù trong hoàn cảnh dường như tăm tối không lối thoát, nếu chúng ta tin tưởng và kêu lên như Phêrô : Chúa ơi, xin cứu con, thì Chúa sẽ đưa tay ra để đỡ chúng ta chỗi dậy.
Trong cuộc sống, đã nhiều lần chúng ta phải đương đầu với đau khổ, và cũng nhiều lần, những đau khổ ấy làm cho đức tin của chúng ta bị chao đảo. Có những đau khổ và thử thách liên tục vùi dập khiến chúng ta có cảm tưởng như Thiên Chúa không con hiện diện. Đã nhiều lần chúng ta trách Thiên Chúa : Tại sao tôi vẫn đi nhà thờ, vẫn đi lễ, tại sao tôi vẫn sống tốt, tôi có gian dối tội lỗi gì đâu mà Chúa lại để cho sự khốn khó xảy ra với gia đình tôi thế này ? Có những lúc dường như ngã lòng, chúng ta còn đặt vấn đề Thiên Chúa ở đâu ? Thiên Chúa có nhìn thấy tôi đau khổ không mà sao Ngài không ra tay cứu giúp ?
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài không bao giờ đứng ngoài sự đau khổ của chúng ta, và càng không bao giờ muốn chúng ta phải chịu đau khổ, thử thách. Tuy nhiên, đau khổ, sự dữ vẫn xảy ra là do ma quỷ, do con người đã lạm dụng tự do Chúa ban để rồi quay lại gây đau khổ cho anh em. Những lúc đau khổ như thế, Thiên Chúa vẫn đang ở bên ta, nhẹ nhàng như cơn gió chiều để an ủi, đỡ nâng. Ngài hiện diện bên ta qua sự yêu thương của cha mẹ, qua sự nâng đỡ của người thân và của bạn bè. Nhất là, Ngài đã cùng chung vai để chia sẻ gánh nặng của cuộc sống với chúng ta, đã dám chấp nhận cái chết để cho chúng ta được sống và ban ơn trợ lực để chúng ta có thể đương đầu với sóng gió thử thách của cuộc đời.
Đừng bao giờ để cho đời chúng ta thiếu vắng Chúa, vì một khi thiếu vắng Chúa thì sự dữ và ma quỷ sẽ xâm nhập và tấn công chúng ta. Những khi gặp thử thách đau khổ, đừng bao giờ chúng ta óan trách Chúa, vì qua những thử thách ấy, chúng ta sẽ nhận ra được sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa và nhận ra bàn tay tình yêu của Ngài. Trong mọi thử thách của cuộc sống, đừng ngại kêu lên như Phêrô : Thày ơi, cứu con với. Chúa sẽ đưa tay ra để kéo chúng ta lên và trả lại cho chúng ta sự bình an trong tâm hồn.
Thày đây, đừng sợ ! Đó chính là lời khích lệ an ủi cho chúng ta. Đừng bao giờ tuyệt vọng khi đối diện với đau khổ, cũng đừng tuyệt vọng về chính mình, vì cuối đường hầm tăm tối, luôn có một tia sáng hy vọng. Giữa những tăm tối của cuộc đời, Thiên Chúa vẫn hiện diện. Những lúc chán nản, mệt mỏi, muốn buông xuôi, hãy tin tưởng để nói với Chúa Giêsu rằng : Thày ơi, xin cứu con. Chúa sẽ trả lời cho mỗi chúng ta : Thày đây, đừng sợ !
Xin cho mỗi chúng ta dù trong mọi hoàn cảnh sóng gió của cuộc sống, xin cho chúng ta biết tin tưởng đưa tay ra để cho Chúa nâng chúng ta chỗi dậy, vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Amen
.
Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do thái rời bỏ Ai cập đến Biển Đỏ thì quân Ai cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển.
Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê.
Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).
Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.
Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.
Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền.
Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an : “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống nên kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ : “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi ?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng : “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”.
Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.
Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên.
Trên biển đời, có biết bao bão tố phong ba bủa vây, tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài, chúng ta sẽ sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời. Hãy vững tin và tín thác nơi Chúa Giêsu.
1. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an
Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ.
Nhiều người Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần ma quỷ, nhiều khi còn mê tín dị đoan nữa. Hãy tin tưởng rằng: quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta. Nếu biết lắng nghe, trong giông bão cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra tiếng Chúa “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Chúa hứa thì sự hiện diện của Chúa sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết (Pl 4,13).
Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bão của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách.
Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.
2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu
Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải : sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người. Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng ; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người : Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy. Một tỉ lệ thuận ngàn năm bất biến: tín thác vào Chúa, bình an tâm hồn.
Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, luôn có được bình an nội tâm. Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin
giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen (Mana).
.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, trình thuật việc Đức Giêsu giảng dạy dân chúng, chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Sau đó là việc Đức Giêsu biến hình để củng cố lòng tin nơi các môn đệ và mặc khải cho các ông biết về hành trình theo Chúa thì phải trải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang. Hôm nay, thánh Mátthêu cho biết Đức Giêsu truyền cho các ông sang bờ bên kia trước, còn Ngài ở lại giải tán dân chúng và sang sau. Đến rạng sáng thì Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến cùng các môn đệ.
Tại sao Đức Giêsu ở lại và các môn đệ phải đi trước? Sao không để các ông cùng giải tán và thu dọn…rồi thầy trò cùng xuống thuyền…? Và sao Đức Giêsu không đến, hiện diện ở trên thuyền ngay mà lại phải đi trên mặt nước…?
1. Ý nghĩa bài Tin Mừng
Thưa, vì quá thương xót dân chúng, nên Đức Giêsu đã tìm mọi cách để giúp dân được thỏa mãn cơn đói thể xác và chữa lành sự đau đớn thể lý cho những ai đang mang trên mình bệnh tật, đui hủi, què quặt…, đồng thời ban cho họ lương thực thần thiêng chính là những lời giáo huấn.
Vì thấy Đức Giêsu là một người: “văn võ song toàn”, từ trước đến giờ chưa có trong lịch sử, họ không hiểu được vai trò của Đức Giêsu trong chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa Cha muốn. Vì thế, dân chúng có ý định tôn Ngài lên làm vua.
Việc họ muốn đây không có gì khác ngoài động lực thực dụng. Họ thấy Đức Giêsu đem lại cho họ cuộc sống ấm no, làm được những chuyện phi thường, và hy vọng giúp họ thống lãnh các miền phụ cận. Đây chính là động lực duy nhất của dân khi muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua.
Họ nghĩ rằng điều họ muốn sẽ được Đức Giêsu chấp thuận. Tuy nhiên, dân chúng đâu có biết rằng lối suy nghĩ của họ đã bị sai lầm, vì sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu không phải vậy. Sứ mạng của Ngài đến để cứu và chuộc những gì đã mất bằng chính cái chết chứ không phải quyền lực theo kiểu binh đao, cho nên, mọi hành vi, lời nói của Ngài phải hiểu trong vai trò là người Tôi Trung của Giavê.
Cảm và thấy được trước những điều mà dân chúng muốn nơi mình, nên Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ sang bờ bên kia trước. Phần vì muốn các ông nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc, phần vì muốn các ông không bị cuốn theo lối suy nghĩ của dân chúng mà sai đường trật lối trong chương trình cứu độ mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước.
Khi được lệnh, các ông vâng lời và trèo thuyền để sang bờ bên kia. Tuy nhiên, hành trình của các ông lần này không được suôn sẻ lắm.
Khi thuyền đã ra giữa biển thì bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Các ông đang phải vật lộn với hiểm nguy. Gần sáng, Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ. Nhưng khi vừa thấy Ngài, các ông tưởng là ma nên kêu la: “Ma kìa!”.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trấn an các ông: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!”.
Thật ra thì các môn đệ cũng là những người trần mắt thịt như chúng ta thôi. Các ngài cũng đâu thoát ra được cảnh yếu đuối mặc dù đã từng được Thầy của mình dạy dỗ, căn dặn và củng cố đức tin. Vì thế, không lạ gì khi khó khăn xảy đến, họ đâu còn nhớ gì đến quyền năng của Thầy, nên đâu có thể tin được là Thầy đang đi trước dẫn đường cho mình! Điều này chúng ta thấy rất rõ khi được Đức Giêsu trấn an, Phêrô đã thử Đức Giêsu bằng cách xin với Ngài: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Nhưng khi vừa được đến với Đức Giêsu để đi trên mặt biển, thì đức tin của ông đã bị thử thách, và ông đã không còn tin vào quyền năng của Thầy mình tuyệt đối nữa, vì vậy ông đã bị nhấn chìm dưới nước.
Lý do tại vì ông và ngay cả các môn đệ khác không có đủ nhạy bén để nhận ra và tin vào Chúa, bởi vì lòng các ông còn nặng trĩu những “tham, sân, si” không kém gì dân chúng.
Đó là ý nghĩa nội dung bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Nhưng điều mà chúng ta cùng nhau suy nghĩ, khám phá ra sứ điệp của Lời Chúa và đem ra thực hành mới là quan trọng.
2. Hiểu và sống Sứ Điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta 5 điều:
Thứ nhất, cuộc sống trên trần gian của chúng ta chỉ là tạm bợ, vì thế, trước tiên hãy tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Chúa sẽ lo cho sau. Sẵn sàng khước từ hết tất cả những gì đi ngược lại với ơn cứu độ và khẳng khái từ bỏ những điều bất chính, quyền hành, nếu những điều đó không có ích lợi cho phần rỗi của chúng ta và niềm hy vọng của tha nhân. Cần can đảm vứt bỏ những rào cản làm chậm trễ hành trình thi hành sứ vụ của chúng ta trong cuộc sống đức tin. Noi gương Đức Giêsu, khi dân chúng tìm cách tôn mình lên làm vua, Ngài đã từ bỏ vì đó không phải là con đường cứu độ mà Chúa Cha muốn.
Thứ hai, khi thấy những nguy hiểm đến phần rỗi của anh chị em, chúng ta phải khôn khéo để giúp cho anh chị em mình thoát ra khỏi những cạm bẫy đang rình chờ. Biện pháp này đã được Đức Giêsu sử dụng khi nhìn thấy viễn cảnh không tốt cho các môn đệ khi các ông phải chứng kiến cảnh dân chúng tôn mình lên làm vua.
Tiếp theo, phải tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì Chúa đã nói: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!”. Tin Chúa lúc vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như khi thất bại. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, chỉ có điều chúng ta không nhận ra hay cố tình lãng quên Ngài mà thôi.
Bên cạnh đó, hãy noi gương Đức Giêsu trong việc phục vụ. Càng làm lớn, càng phải phục vụ. Hình ảnh Đức Giêsu ở lại giải tán đám đông cho thấy, Ngài sẵn sàng phục vụ mọi người, trong khi công việc này lẽ ra phải là của các môn đệ.
Cuối cùng, Đức Giêsu nêu gương trong việc kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm. Nếu chỉ có hoạt động thì sẽ có nguy cơ xảy ra tình trạng “ngôn hành bất tất” và hiệu quả của công việc không cao, mặt khác rất dễ rơi vào tình trạng kiêu ngạo tự phụ và khoe khoang. Khi cầu nguyện, ta biết tìm ra thánh ý Chúa và chỉ thực hành điều Chúa muốn mà thôi. Khi cầu nguyện, ta biết mình yếu đuối và cần đến ơn Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm tốn, quên mình để phục vụ anh chị em. Amen.