CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Xh. 16, 2-4.12-15; Ep. 4, 17.20-24; Ga. 6, 24-35
—–
1. Bánh Trường Sinh (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Bạn tìm ai (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Đại dịch và cơn đói hiện sinh (Gioan Phạm Duy Anh, SJ)
4. Bánh Trường Sinh- (Lm. Thái Nguyên)
5. Đến với Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)
6. Điều chính yếu (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)
7. Hãy tin và làm theo ý Chúa để sống muôn đời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Môsê, Người lãnh đạo là tôi tớ của dân (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Tôi tìm kiếm cái gì vậy? (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
10. Tìm kiếm lương thực tồn tại đến muôn đời (Lm. Trần Bình Trọng)
12. Đức Kitô, Bánh Hằng Sống (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
13. Lương thực đời đời (Trầm Thiên Thu)
14. Ăn cho no bụng hay cho thỏa lòng (Lm. Nguyễn Xuân Trường)
1. Bánh bởi trời (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Tìm kiếm giá trị tuyệt đối (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Hãy tìm kiếm Nước trời (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Đằng sau vật chất hữu hình (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
5. Chính là Cha tôi cho các ông ăn (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
6. Tấm bánh được bẻ ra (Văn Hào, SDB)
7. Bánh bởi trời- (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Cái gì đây? (Trầm Thiên Thu)
9. Chúa Nhật 18 Thường niên_B (Lm. Antôn)
10. Tôi đang tìm kiếm gì trong cuộc đời? (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
11. Hãy ra công làm việc (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
12. Chia sẻ Đức Giêsu là Bánh Trường Sinh cho tha nhân (Lm. Đan Vinh)
13. Bánh trường sinh (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
14. Thực thi ý Chúa để sống muôn đời (Lm. Antôn Nguyễn văn Độ)
15. Nơi Chúa Giêsu (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
16. Đối xử công bằng với linh hồn ta (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
17. Manna từ trời (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
18. Hãy tìm lương thực trường sinh (Lm. Đinh Lập Liễm)
19. Cuộc sống muôn đời (Lm. Nguyễn Thái)
20. Chia sẻ (Lm. Inhaxio M. Hải Dương, CRM)
21. Suy niệm Chúa Nhật 18 Thường niên_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
22. Suy niệm Chúa Nhật 18 Thường niên_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
23. Đặc sản (Trầm Thiên Thu)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Báo cáo về Tình trạng An ninh Lương thực và Dinh dưỡng trên thế giới được thực hiện tháng 7-2020, ước tính có khoảng 690 triệu người rơi vào tình trạng thiếu ăn trong năm 2019 – tăng thêm 10 triệu người so với năm 2018 và thêm gần 60 triệu người trong vòng 5 năm. Với đại dịch Covid-19, tình hình thiếu đói lương thực còn nghiêm trọng hơn, nhất là ở những quốc gia châu Phi và châu Á. Lương thực là một trong những nỗi lo căn bản của con người. Nó cũng là nguyên nhân gây xung đột ở nhiều cấp độ: thế giới, quốc gia, vùng miền và cá nhân.
Cùng với nạn đói lương thực, con người cũng đang trải qua những nạn đói khác. Đó là đói khát Chân lý và Tình thương. Con người hiện hữu trên trần gian luôn mong muốn tìm về cội nguồn của mình. Con người cũng luôn mong muốn được yêu thương. Những nhu cầu về bánh ăn, mặc dù rất cần thiết để tồn tại, không làm cho con người thoả mãn trọn vẹn. Cùng với nhu cầu về cơm bánh, con người còn có như cầu tìm về Chân Lý. Đức Giêsu đến trần gian để khẳng định với chúng ta: điều mà nhân loại đang tìm kiếm, đó là Chúa Cha, là Thượng Đế, là Ông Trời, là Tạo Hoá. Chính bản thân Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người dẫn chúng ta đến gặp Chúa Cha, là Cha chung của gia đình nhân loại và là nguồn mạch của mọi sự thiện hảo. Được gặp gỡ Chúa, con người sẽ thoả mãn những ước vọng thâm sâu của mình.
Tác giả sách Xuất hành kể lại một sự kiện trong hành trình sa mạc của người Do Thái để về Đất Hứa. Trước những nhu cầu cấp thiết của họ, Thiên Chúa đã làm mưa manna và cho chim cút bay đến, làm lương thực và thực phẩm cho dân. Nhờ quyền năng của Thiên Chúa và tình yêu thương của Ngài, trong bốn mươi năm hành trình sa mạc, dân Do Thái không cày cấy, không canh tác và trồng tỉa mà vẫn có đủ lương thực và thực phẩm để nuôi sống phần xác. Qua đó, Chúa thể hiện lòng trung tín với dân mà Ngài đã dẫn đưa họ ra khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Nếu Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng và tình thương của Ngài trong lịch sử qua hành động cung cấp manna và chim cút, thì nay, Ngài lại tiếp tục thực hiện những điều lạ lùng qua Chúa Giêsu Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái, có liên quan đến đề tài Bánh. Sau khi Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, những người Do Thái chỉ nhìn phép lạ ấy với cái nhìn trần tục, họ mong nhận được bánh mỗi ngày để khỏi phải lao động. Chúa Giêsu muốn nói với họ về Bánh Trường Sinh mà Người ban tặng cho thế gian. Bánh ấy không đơn thuần là vật chất, mà là chính Thịt và Máu Người. Bánh này là lương thực thiêng liêng để nuôi sống con người, biến đổi làm cho họ được trở nên thần linh. Nhờ ăn bánh này mà con người được chia sẻ sự sống của Đấng Tối cao. Khi nhắc lại sự kiện manna trong Cựu Ước, Chúa Giêsu nối kết quá khứ với hiện tại, như hành động có tính liên tục của Thiên Chúa, mặc dù ở bình diện và cấp độ khác. Thiên Chúa, Đấng đã nuôi dưỡng tổ tiên người Do Thái trong sa mạc bằng manna, giờ đây tiếp nối hành động yêu thương ấy qua chính Con Một của Ngài. Thiên Chúa, Đấng ban manna thời ông Môisen và Thiên Chúa Cha của Đức Giêsu là một. Cuộc tranh luận với người Do Thái trong Tin Mừng Thánh Gioan (chương 6) cũng là mạc khải từng bước giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể. “Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Đây vừa là lời khích lệ, vừa là lời hứa cho những ai thành tâm đón nhận lương thực thiêng liêng trong đức tin chân thành và tâm tình yêu mến.
Con người hôm nay không chỉ đói lương thực, nhưng còn đói khát kiến thức, văn hóa, và nhất là đói khát tình thương. Điều nghịch lý là trong khi của cải càng ngày càng phong phú, kỹ nghệ máy móc càng ngày càng tinh vi, thì tình người càng ngày càng nghèo đi. Sự nghèo về tình người dẫn đến nghèo về cơm bánh, vì khi người ta sống ích kỷ thì không có sự chia sẻ giúp đỡ nhau. Giáo Hội luôn kêu mời và cổ võ những hoạt động thiết thực nhằm giải phóng con người khỏi đói nghèo, dốt nát và hận thù. Sống màu nhiệm Thánh Thể cách đích thực là cảm thông chia sẻ với người nghèo đói, để họ được sống theo đúng phẩm giá con người và phẩm giá của con Thiên Chúa. Qua Giáo Hội và qua mỗi Kitô hữu, Thiên Chúa vẫn đang đến cứu giúp những người nghèo khó bất hạnh, để nâng đỡ họ và giúp họ vững bước trong đường đời.
Như dân Do Thái xưa trong hành trình sa mạc, chúng ta đang sống trong cuộc lữ hành trần gian. Cuộc sống đan xen những vui buồn, và đầy những gian nan trắc trở. Giữa những buồn vui trắc trở ấy, chúng ta cần được Chúa dưỡng nuôi thêm sức. Bánh trường sinh mà Chúa Giêsu đã hứa, chính là bản thân Người, tự hiến để nên của ăn của uống thiêng liêng cho chúng ta. Thánh Phaolô khuyên chúng ta, một khi lãnh nhận của ăn thiêng liêng là Mình và Máu Chúa, cuộc đời của chúng ta phải được biến đổi: “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. Con người mới mà Thánh Phaolô nói tới, chính là con người được thần linh hóa nhờ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, nhờ vậy, chúng ta nên một với Người và hình ảnh của Người tỏa sáng nơi cuộc đời chúng ta.
Mỗi khi dâng thánh lễ và rước Thánh Thể, chúng ta được đón nhận Mình và Máu Chúa Giêsu. Thịt Máu Chúa trở nên máu thịt của chúng ta để nuôi dưỡng và biến đổi chúng ta nên giống như Người. Đó là tác động kỳ diệu của Thánh Thể nơi cuộc đời người tín hữu. Đây là Bí tích của Đức tin. Chỉ có Đức tin mới giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện nhiệm màu. Vâng, Đức Giêsu hiện diện trong Thánh Thể để ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, như lời Người đã hứa.
Như trên đã nói, số người nghèo đói trên thế giới hiện nay có nguy cơ tăng thêm. Tuy vậy, một trong những nguyên nhân dẫn tới sự nghèo đói là do phân phối tài sản không đồng đều. Nếu con người bớt ích kỷ, nếu người giàu biết chia sẻ cho người nghèo, nếu những quốc gia phát triển văn minh biết quan tâm đến các dân tộc còn lạc hậu và nghèo nàn, thì nạn đói sẽ bị xoá sạch và thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Nói đến chuyện thế giới thì xa xôi, mỗi chúng ta, hôm nay và ở địa vị cụ thể mình đang sống, hãy làm một điều gì có thể để nâng đỡ những người nghèo khó xung quanh, đang có nhu cầu cấp thiết trong đời sống. Trong thời gian dịch Covid-19, chúng ta được chứng kiến tấm lòng quảng đại của người dân Việt: những bữa cơm miễn phí, những dịch vụ “không đồng” là những chia sẻ tuyệt vời, bất kể nhân danh tôn giáo nào, cũng là những hành động nhân văn đầy tình người. Đối với người tín hữu, những nghĩa cử bác ái với tha nhân là những chứng từ sống động cho thấy chúng ta là con cái của Cha trên trời. Chúng ta hãy cầu nguyện với Thánh Augustinô:
Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là Tình Yêu tràn đầy và là sự ý thức chắc chắn của con. Với Lời của Chúa, Chúa đã gặp gỡ trái tim con và con trở thành người yêu của Chúa. Nhưng cũng như bầu trời, trái đất và tất cả những gì chất đầy nơi chúng, tất cả đều nói với con rằng, con cần phải yêu mến Chúa.
Lm. Jos DĐH.
Tìm em như thể tìm chim, đồng kia bãi nọ biết đâu mà tìm. (ca dao). Người xưa thật khéo khi có ý nhắc hậu thế, nếu để mất phương hướng, việc kiếm tìm hạnh phúc của ta sẽ bế tắc, vô vọng. Sống không mục tiêu, có khác gì đời tôi cô đơn, “hẩm hiu”, ví như hành trình cuộc đời thiếu bạn hiền, chân sải bước, nhưng không còn biết đâu là điểm dừng ! Trong khi đó: tìm nơi có đức gởi thân, tìm nơi có nhân gởi của, ngay từ tấm bé, ai ai cũng được biết đến như một nghệ thuật sống kiếp nhân sinh. Hãy tận dụng tốt nhất những gì mình có: khỏe dùng sức, yếu dùng mưu. Giáo lý nhà phật thì nói: người khờ tích của, người khôn tích đức, người giác ngộ là người biết tu luyện để thoát khổ. Thực ra, thành công là thứ khiến ta mãn nguyện, tuy nhiên, thất bại mới chính là lúc giúp ta trưởng thành. Do đó, khôn hay khờ, bạn đã tìm kiếm, đã cố gắng, hoặc là mãn nguyện, hoặc là trưởng thành, cả hai điều đều tốt.
Tìm kiếm quân sư bàn hỏi, tìm kiếm thầy thọ giáo, đó là điều mà kẻ khôn ngoan từng áp dụng. Người ta tìm kiếm thầy học nghề vì trách nhiệm miếng cơm manh áo, người ta tìm kiếm nhau để trục lợi, có khi tìm đến bên nhau để chung chia nỗi khắc khoải với gia đình xã hội. Cứ bình thường, nơi đâu được no đủ, nơi đó gọi là đáng sống, ai giúp tôi có của ăn vật chất, tinh thần dồi dào, đó là ân nhân, là thần tượng của tôi. Đám đông dân chúng năm xưa tìm kiếm thầy trò Đức Giêsu, họ rất vui vì đã gặp, đã thấy, thế rồi họ đã quên điều quan trọng gì chăng, họ hỏi một câu xem ra quả là ‘lạc điệu’: “thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ” ? Suy nghĩ tích cực một chút, nếu ở ngoài cuộc chúng ta sẽ cho rằng: méo mó, có còn hơn không. Biết tìm đến Đức Giêsu đã là tốt rồi, dù chưa nói hay, chưa thể hiện được niềm tin, ít nhất bạn cũng được nghe Đức Giêsu là Vị Thầy đức độ.
Sau khi gặp lại đám đông, dù có nghe những lời vu vơ, Đức Giêsu vẫn nhẫn nại giúp họ đi xa và sâu hơn: “các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi”. Có phải Đức Giêsu muốn nói lên một thông điệp: đã diễm phúc gặp, thấy, tin, thì hãy sống niềm tin. Nếu bạn đúng, bạn không cần phải nổi cáu, nếu bạn sai, bạn lấy tư cách gì mà nổi giận ? Quả thực, Đức Giêsu dư biết sự giới hạn, quá rõ bản tính kiêu căng của đám đông, biết cả sự bất toàn của chúng ta hôm nay, nhưng sứ mạng Ngài thực thi là rao truyền Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa giầu lòng xót thương. Tình yêu thật, không phải là tìm thấy người hoàn hảo, mà là học cách để thấy điều tuyệt vời nơi đám đông chưa hoàn hảo.
Bạn tìm ai ? Có bao giờ bạn tự tin quả quyết rằng: tôi đã gặp Đấng Kitô, bây giờ tôi đang thao thức được sống hết tình, hết mình, trước ơn gọi yêu thương mà Ngài trao phó ? Kinh nghiệm nơi cuộc sống luôn nói với ta nhiều điều: bạn không cần phải hiểu biết tất cả mọi thứ, nhưng từng giây phút trong đời, nhất định bạn phải biết đặt câu hỏi đúng, chuẩn. Đức Giêsu không những gây được thiện cảm với đám đông, Ngài còn đủ bản lĩnh giúp đám đông tiếp tục tiến xa hơn, biết đặt câu hỏi chính xác hơn: “thưa Ngài, chúng tôi phải làm gì là tin vào Thiên Chúa” ? Vâng, nói mạnh mẽ một chút thì mưu cao chẳng bằng chí dày. Dù con người ngạo ngược, chuyên bắt bẻ các thánh hiền, hoặc cứng lòng ngoan cố đến đâu, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của tình thương. Con tim có những lý lẽ, mà lý trí không giải thích được. (Pascal).
“Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. Đó là kết quả việc tìm kiếm, là câu trả lời bạn tìm ai. Nếu đám đông dân chúng năm xưa tìm kiếm Đức Giêsu chỉ muốn được no bụng, thích được xem dấu lạ, hệ quả sẽ là: rượu nhạt uống mãi cũng say, người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm. Cao lương mỹ vị ăn hoài cũng dở, bài giáo huấn chất lượng, nghe mãi cũng nhàm, ngày này tháng nọ chỉ được nhìn xem biểu diễn một màn ảo thuật, hẳn người ta cũng ngao ngán như phim một tập. Đáp án chuẩn, hành động đẹp thay cho lời muốn nói, chính là hãy khiêm tốn học hỏi và mau đem “cái biết” ra thực hành. Hãy đón nhận và chia sẻ: “vì bánh của Thiên Chúa phải là bánh từ trời ban xuống, bánh ban sự sống cho thế gian”.
Bạn tìm ai ? Câu trả lời bạn tin Đức Giêsu là Thiên Chúa, chỉ trọn vẹn khi mà bạn biết sống thánh ý Chúa, biết thực thi giới luật yêu thương của Chúa. Bạn đã gặp Đức Giêsu, bạn đã tuyên xưng Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống, đáp án mực thước nhất, đầy đủ nhất, phải là thưa Thầy, xin ban thêm đức tin cho con, xin cho tâm hồn con có mãi sức mạnh tình yêu Chúa hiện diện. Cơ hội để sống có ý nghĩa, dịp thuận tiện để trả lời, bạn đang tìm sự sống ở đời này, hay tìm sự sống trong Đấng Kitô là nghiêm túc. Bạn đã gặp Đức Giêsu, cứ tạm gọi đó là duyên, là ơn ban, nhưng giữ mãi được niềm vui, được tình yêu, có nghĩa là bạn được sống mãi giây phút ban đầu, vì trường học thì có “bút xóa”, trường đời thì không. Xin cho mỗi người chúng ta giữ mãi được lập trường theo Đức Kitô: “ai đến với Ta không hề đói, ai tin vào Ta, sẽ không khát bao giờ”. Amen.
Gioan Phạm Duy Anh
Trong thời điểm hiện nay, ở một số quốc gia trên thế giới người ta rơi vào cuộc khủng hoảng thừa, thừa vật chất, tiền của và vaccine, tuy nhiên ngược lại ở một số quốc gia họ lại rơi vào cuộc khủng hoảng thiếu, họ thiếu lương thực, thiếu vaccine, thiếu tương quan và thiếu tình thương. Nhất là ở những nghèo họ chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch, họ khao khát có được tấm bánh để khỏa lấp cơn đói. Thế nhưng trên thực tế, không chỉ những người nghèo mới đói nhưng cả những người giàu cũng đói. Họ đói tình thương, sự quan tâm và nhất là họ khao khát sự sống đời đời. Đâu là nơi giúp con người khỏa lấp cơn khát hiện sinh này. Chúa Giêsu là tấm bánh ban sự sống đời đời cho con người.
- Cơn đói và sự thèm khát
Cơn đói là một nhu cầu tự nhiên của cơ thể cần cung cấp lương thực và những nhu cầu thiếu yếu. Hẳn rằng bạn và tôi đều có kinh nghiệm này. Tuy nhiên người ta không chỉ đói về vật chất nhưng người ta còn đói khát về tương quan, niềm tin, niềm hy vọng, và tình yêu. Họ khao khát được yêu thương chăm sóc, được thừa nhận và dự phóng đời mình vào vô tận. Và nhất là khao khát sự sống đời đời. Khát vọng sâu xa của con người không thể chỉ được khỏa lấp bởi những đáp ứng vật chất nhưng chỉ bằng lương thực liêng liêng, lương thực không hề hư nát.
Nếu đọc lại những trang đầu của Sách Sáng Thế bạn thấy rằng, Adam và Eva cũng cảm nhận được điều này. Họ đói tự do, đói sự công chính và họ khao khát sự sống đời đời. Nhưng có một điều khao khát đó bị đặt sai chỗ, khao khát của họ đặt nơi con rắn cho lên họ tiếp tục đói khổ. Họ bị trắng tay. Ở đây cơn đói cũng là con đường để rồi cơn cám dỗ len lỏi vào. Eva trông trái thì đẹp, ăn thì ngon và nghĩ rằng việc ăn trái cấm sẽ làm cho mình khôn ra, bà đã ăn, bà đưa cho cả chồng và ông cũng ăn.[1]
Không chỉ hai ông bà nguyên tổ nhưng dân Israel cũng thế. Họ được Thiên Chúa giải thoát dẫn đi trong sa mạc để đến vùng đất hứa nhưng họ lại thèm khát nồi thịt trong cảnh nô lệ bên Ai Cập.[2] Họ thà chấp nhận làm nô lệ để được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa thuê còn hơn chấp nhận qua sa mạc để được tự do. Cám dỗ của những cơn đói tâm linh vẫn là thách đố cho bạn trên hành trình đi tìm tự do. Một mặt bạn khao khát tự do đích thực, nhưng mặt khác bạn thích ở lại trong những khung cảnh chật hẹp của tự do cá nhân và sử dụng chúng theo những gì bạn muốn.
Trong sa mạc, sau khi ăn chay bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu cảm thấy đói nhưng Ngài đã chiến thắng cơn đói và sự cám dỗ bằng lương thực Lời Chúa và việc vâng phục ý Cha. Cám dỗ len lỏi từ cơn đói và thúc đẩy con người tìm cách thỏa mãn cơn đói từ đó dẫn đến con người phạm tội. Có nhiều thứ tội xuất phát từ cơn đói và việc con người đặt sai chỗ khát vọng của mình. Thay vì đặt khao khát của mình vào Đấng là nguồn cội của sự sống và sự tốt lành, họ lại đặt khao khát của mình trên con rắn và để rồi cuộc đời vẫn mãi long đong.
Giống như Eva, bạn và tôi, động lực ban đầu của việc lựa chọn là tốt lành, hay nhìn có vẻ tốt lành như ngon, đẹp, đáng quý và trở nên khôn ngoan. Ngay cả những người làm điều dữ cũng nghĩ rằng tôi làm điều này vì sự tốt lành hoặc điều này có thể giúp tôi giải tỏa cơn khát hiên sinh và siêu hình. Việc đặt tự do sai chỗ dẫn đến những hậu quả thảm khốc. Đánh mất chính mình, với tạo thành và tương quan với Chúa.Vậy bạn cần làm gì? Thưa phải sống sự công chính.
- Bánh và sự công chính
Sự công theo thánh Phaolô là sự công chính bởi đức tin (vào Đức Kitô.) Sự công chính có liên quan chặt chẽ tới Bánh và Đức Tin. Bạn tin nên bạn đón nhận Bánh. Việc đón nhận Bánh mời gọi bạn sống công chính. Nói cách khác bạn được mời gọi ăn bánh công chính. Bánh công chính ở đây chính là tin vào Lời và tin vào Chúa Giêsu, được trở nên một và biến đổi trong Ngài. Hệ quả tất yếu là cần phải thay đổi lối sống và trở thành con người mới. Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn Êphêxô cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới. “Hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt”[3] Như thế việc đón nhận Đức Kitô trong lòng tin mời gọi người Kitô hữu trở nên con người mới.
Có ba dấu chỉ cho thấy bạn trở nên con người mới đó là: mới trong lòng trí, được tác thành theo ý Chúa và trở nên thánh thiện xứng với sự thật. “Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật.”[4] Đây là ba dấu chỉ mà thánh Phaolô mời gọi những tín hữu Êphêxô hãy thực hành. Điều này cũng là điều mà bạn có thể học nơi Thánh Phaolô, trở nên con người mới, đón nhận bánh công chính để có được sự sống đời đời.
- Bánh ban sự sống
Mặc dù khác nhau về chủng tộc, màu da, trình độ văn hóa, mỗi người có thể cảm nhận những cơn đói khác nhau. Tuy nhiên có một mẫu số chung mà mỗi người có thể chia sẻ đó là việc khao khát sự sống đời đời. Vậy bạn sẽ tìm được thứ bánh này ở đâu?
Chúa Giêsu trả lời rất rõ: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ.”[5] Chúa Giêsu khẳng định rất mạnh mẽ và dứt khoát “Chính Ta.” Ngài không dựa vào thẩm quyền của ai khác để trao ban sự sống nhưng là vào chính Ngài bởi vì Ngài là Chúa, là nguồn của sự sống. Ngài có thể thỏa mãn tất cả những cơn đói khát thiêng liêng của con người. Đôi khi sau khi bạn ăn no, bạn vẫn cảm thấy đói có lẽ bởi vì bạn chưa ăn thứ bánh mà Chúa Giêsu mời gọi. Thế giới cung cấp cho bạn nhiều lựa chọn và nhiều thứ bánh. Đáp ứng cho bạn những như cầu và giải khát nhất thời nhưng không giúp cho bạn giải được cơn khát về sự sống vĩnh cửu.
Ở những thời điểm khác nhau có lẽ bạn và tôi có những khao khát và ước muốn khác nhau. Khi còn trẻ bạn có nhu cầu được bảo vệ và chăm sóc, lúc trưởng thành bạn mơ ước một công việc ổn định và một gia đình hạnh phúc, lúc về già bạn khao khát được thảnh thơi bên đàn con đông đúc. Những khao khát này là rất chính đáng và rất hợp lý, điều mà nhiều người đều mơ ước. Tuy nhiên có một thực tế rằng những điều này không còn mãi với bạn. Đại dịch phơi bầy sự mong manh và sự hào nhoáng của những giá trị mà bạn tin tưởng. Những điều bạn tưởng chừng vững bền lại không còn mãi với bạn. Nó đánh vào sự yếu đuối và tính dễ tổn thưởng của mỗi người, sự kiêu hãnh, giàu có và sự phong phú hào nhoáng. Người giàu cũng bệnh, người nghèo cũng bệnh, tổng thống cũng bệnh, dân thường cũng bệnh. Đại dịch chỉ ra cơn đói hiện sinh thực sự của bạn và tôi, bạn cần tình yêu, cần sự sự liên đới, bạn khao khát ý nghĩa cuộc sống, bạn khao khát gặp gỡ Đấng là nguồn cội và có thể giải tỏa mọi cơn khát tâm linh. Đứng trước đại dịch bạn cảm thấy lo lắng, sao xuyến, sợ hãi, lo âu, có khi bạn tự hỏi Thiên Chúa ở đâu, Ngài có còn yêu thương bạn nữa không. Bạn thực sự khát một câu trả lời về sự hiện diện của Chúa và về sự quan phòng của Ngài. Hơn nữa bạn cũng nên biết rằng Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của sự dữ nhưng chính ma quỷ mới là nguyên nhân của sự dữ.
Hiển nhiên, bạn có quyền tra vấn về đức tin của mình tuy nhiên bạn đừng mất niềm hy vọng, bởi vì niềm hy vọng dẫn bạn tiến về phía trước và vượt qua tăm tối. Vả lại ngay cả khi bạn có thể trả lời tất cả những câu hỏi mà bạn thắc mắc thì những đau khổ vẫn bủa vây bạn. Sự thỏa mãn những đòi hỏi của lý trí không khỏa lấp những đòi hỏi của khoảng trống hiện sinh và siêu hình, khao khát vô tận. Và chỉ có sự vô tận mới khỏa lấy được cơn khát vô tận của bạn mà thôi. Chúa Giêsu chỉ cho bạn nơi mà bạn có thể được bồi dưỡng và nghỉ ngơi. “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ.”[6]
Không chỉ bạn và tôi là những người khao khát sự sống đời đời và hạnh phúc vĩnh cửu nhưng Thiên Chúa Ngài cũng đang khao khát bạn và tôi hãy đến và để được hưởng sự sống nơi Ngài. Bản chất của tình yêu là khao khát sự thân mật và chia sẻ sự sống. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài cũng đang khao khát bạn và tôi đến với Ngài để được kín múc sự sống không hề vơi cạn. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết đặt niềm tin tưởng và sự phó thác nơi Chúa vì chỉ có Chúa mới làm no thỏa những cơn khát của mỗi người chúng con.
——-
[1] St 3: 1
[2] Xh 16; 3
[3] Ep 5,1-2
[4] Ep 5; 22-24
[5] Ga 6; 35
[6] Ibidem
Lm. Thái Nguyên
Suy Niệm
Manna vẫn được xem là bánh của Thiên Chúa (Tv78,24; Xh l6,15). Trong Do Thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ khi Đấng Mêsia đến, Ngài sẽ lại ban Manna. Việc ban Manna được coi là ông việc tối quan trọng đối với vai trò của Môsê, nên đối với dân chúng, nếu Đức Giêsu là Đấng Mêsia thì phải làm hơn thế nữa.
Miếng ăn là nỗi lo của mọi người trong mọi thời đại, nhất là đối với dân nghèo. Dân chúng vùng Galilê sau khi được Chúa cho một bữa ăn no nê, lại tiếp tục đổ xô đi tìm Ngài. Ðức Giêsu không trách họ về chuyện đó, nhưng Ngài cũng không ngại nói thẳng: “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Con người ta vẫn thế, dễ để cho miếng ăn vật chất quyết định tính cách của mình. Đối với những người quyền thế cũng vậy: “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”. Không là gì mà“Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi”. Ngay trong tôn giáo cũng thế: có thực mới vực được đạo. Còn chúng ta thì sao?
Có thể chúng ta cũng bị yếu tố vật chất tác động mạnh mẽ: khi sung túc thì sốt sắng; khi túng thiếu thì nguội lạnh, thậm chí có người buông bỏ đời sống đức tin khi làm ăn thất bát, cầu xin mãi mà cũng chẳng thấy hơn gì. Cũng như dân Do Thái xưa, muốn quay về Ai Cập để tìm lại miếng ăn xưa, dù phải tiếp tục đem thân làm nô lệ. Đức Giêsu muốn nâng cao phẩm cách của con người nên đã đưa ra lời cảnh giác: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Rất tiếc, người dân Galilê cũng lại nhớ đến chiếc bánh hôm qua trong sa mạc. Họ dừng lại ở phép lạ hóa bánh bên ngoài, không muốn tìm kiếm hay mơ ước những gì lớn lao hơn, chỉ xin cho được có bánh ăn mãi. Con người ngày nay trong điều kiện kinh tế tiến bộ vượt bực, nhưng có lẽ tâm trạng cũng không khác gì dân Do Thái xưa, chỉ muốn sống với những gì trước mắt. Người nghèo thì bị cuốn hút vào công việc làm ăn, để giải quyết vấn đề cơm áo gạo tiền hằng ngày. Người giàu thì chạy theo tiện nghi và thời trang. Đứng trước cuộc sống hiện đại, ta thấy nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, tìm kiếm sự thỏa mãn ngày càng nhiều. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ trở nên nô lệ cho vật chất, không nhận ra phẩm giá cao cả của đời mình.
Cơm bánh không thể thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Con người còn đói rất nhiều thứ: đói được tôn trọng, được chấp nhận; đói niềm tin, đói hy vọng, đói tình yêu, an bình và lẽ sống. Cho dù đã thỏa mãn mọi thứ trong cuộc đời này từ vật chất cho tới tinh thần, thì người ta vẫn cảm thấy thiếu hụt điều gì đó rất sâu xa, mà thiếu nó thì mọi cái khác đều trở thành dư thừa. Chẳng lạ gì mà các bạn trẻ thành công và ngay cả những người đã thành đạt vẫn rơi vào thất vọng, cô đơn, chán chường, có khi tuyệt vọng, vì không tìm thấy ý nghĩa cho đời mình. Ý nghĩa đó hay khát vọng sâu xa nhất của con người là chính Thiên Chúa, là sự sống đời đời chứ không phải sự sống đời này. Thiên Chúa mới là cùng đích, là chóp đỉnh của mọi khát vọng, là suối nguồn hạnh phúc của đời sống con người. Đó cũng là kinh nghiệm của thánh Augustinô, luôn khắc khoải cho tới khi nào gặp được chính Chúa.
Mọi khát vọng của con người cũng chỉ là biểu hiện sự khao khát Tuyệt Đối mà Thiên Chúa đã đặt trong lòng. Đức Giêsu khơi dậy sự khát vọng đó nơi tâm hồn con người. Ngài không cho dân chúng thứ manna ngày xưa, nhưng cho họ thứ bánh đích thực bởi trời, bánh ban sự sống đời đời như Lời Ngài công bố: “Chính tôi là bánh trường sinh, Ai đến với tôi sẽ không đói, ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ”. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Hãy để cho Lời Ngài và Mình Ngài nuôi dưỡng ta, thần hóa ta, để ta đạt tới chính Thiên Chúa, Đấng duy nhất lấp đầy khao khát vô biên của con người.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Kinh nghiệm sống cho con thấy,
càng hưởng thụ con người càng khao khát,
thỏa thích rồi nhưng lại cứ khát khao,
mọi thứ trần gian cho dù có đầy tràn,
cũng chẳng thể làm lòng con thỏa mãn.
Có bao người dư thừa thế lực và tiền bạc,
nhưng chẳng thể tìm thấy được bình an,
cuối cùng rồi cũng đến lúc chán chê,
có khi còn phải gánh lấy những ê chề,
còn có cơ may khi ai đó biết quay về,
để tìm cho đời mình một ý nghĩa.
Ý nghĩa của đời con là chính Chúa,
Đấng dựng nên con cho chính Ngài,
bởi vì mọi thứ khác sẽ tàn phai,
càng bám níu lại càng thêm hư hại,
chẳng lạ gì con khắc khoải khôn nguôi,
cho tới khi được yên hàn trong Chúa.
Nhìn vào tận thâm tâm con mới thấy,
trái tim người có khoảng trống mênh mông,
mà chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy,
nhưng thực tế tuổi trẻ chúng con vẫn u mê,
vẫn chạy theo vinh hoa và lợi lộc trần thế.
Xin cho chúng con sớm nhận ra,
Chúa chính là bánh trường sinh,
bánh đem lại sự sống mãi muôn đời,
mà chúng con được diễm phúc cao vời,
được nhận lấy trong từng thánh lễ,
xin cho lòng chúng con luôn say mến,
tìm mọi cách để được đến với Ngài. Amen.
Bông hồng nhỏ
Con người luôn khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Càng kiếm tìm, người ta càng đói khát. Vật chất là cái chóng qua, bởi thế, nó cũng chỉ làm cho người ta no thỏa tạm thời. Người nghèo lo lắng cho miếng cơm manh áo, hạnh phúc của họ là có đủ cơm ăn áo mặc. Khi đã đủ ăn đủ mặc, người ta lại nỗ lực làm việc mong được ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn. Khi đã phát tài, họ lại bị cuốn vào cuộc chạy đua hưởng thụ. Nhưng liệu người ta có hạnh phúc thật sự không? Có bao người nghèo phải khóc vì quá khổ nhưng cũng có không ít người giàu phải khóc vì không hạnh phúc.
Thời Chúa Giêsu, có rất nhiều người nghèo khổ, bệnh tật. Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, cho họ được ăn no nê. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một vĩ nhân hay một vị thần đến để giải quyết vấn đề nghèo đói hay bệnh tật của nhân loại. Người đã khẳng định rằng: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 37-40).
Sau khi được ăn bánh no nê từ phép lạ hóa bánh của Thầy Giêsu, đám đông dân chúng muốn tôn Người lên làm vua. Biết thế, Đức Giêsu liền trốn lên núi một mình. Khi không thấy Người và các môn đệ ở đó, họ liền đi tìm Người. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Lý do mà đám đông vất vả đi tìm Chúa chỉ vì điều họ đã nhận được: ăn bánh no nê. Còn ta, ta có đi tìm Chúa không? Động lực nào đang thôi thúc ta tìm kiếm Chúa? Theo Chúa, ta được mời gọi hãy tìm kiếm Chúa chỉ vì yêu mến Chúa chứ không phải vì những gì ta nhận được. Tình yêu đích thực phải xuất phát từ con tim chứ không vì cái lợi trước mắt. Tình yêu vô vị lợi phải vượt lên trên cảm xúc, vượt lên trên những tình cảm quyến luyến hay niềm vui, sự an ủi mà ta nhận được. Những ân huệ mà ta đã và đang lãnh nhận là ơn nhưng không của Thiên Chúa chứ không phải do ta ra công tìm kiếm được.
Nhìn vào tấm gương của các thánh, ta được mời gọi hãy yêu mến Chúa cách chân thành, vô vị lợi. Các thánh là những người rất trưởng thành trong tình yêu. Các ngài yêu Chúa chỉ vì Chúa. Do đó, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù sướng vui hay đau khổ, các ngài vẫn một lòng yêu Chúa. Còn ta, khi hạnh phúc, ta có nhớ đến Chúa mà dâng lợi tạ ơn, ca ngợi, chúc tụng và cảm tạ Người không? Khi gặp đau khổ, tại sao ta than trách và không đón nhận thánh giá đời mình? Trải qua muôn vàn đau khổ và thử thách, ông Gióp vẫn một lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự. Ta hãy suy gẫm lời ông nói: “Chúng ta đón nhận điều lành bởi Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2,10). Chúa Giêsu biết rõ lòng dạ con người. Người không trách mắng đám đông nhưng hết lòng khuyên nhủ họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6, 27).
Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6, 29). Mỗi lần đọc kinh Tin Kính là ta đang tuyên xưng đức tin. Nhưng nếu chỉ tuyên xưng đức tin mà không sống đức tin thì chưa gọi là tin. Đức tin nơi ta phải được diễn tả qua hành động, bằng chính đời sống của ta. Tin vào Chúa Giêsu là sống như Người đã sống: tất cả được diễn tả bằng trái tim yêu thương. Đó là mến Chúa và yêu Người. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6, 35). Chỉ bằng cách đến với Chúa Giêsu Thánh Thể – nguồn mạch tình yêu và sức sống của ta, lắng nghe Lời Người dạy dỗ, ta mới biết yêu như thế nào. Người sẽ dạy dỗ và hướng dẫn cho ta trong mọi hành trình, chỉ vẽ cho ta trong mọi việc ta làm. Trong tình hình dịch bệnh hiện nay, đâu là cách ta diễn tả đức tin vào Chúa Giêsu?
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương và hướng dẫn con. Cảm tạ Chúa đã luôn bày tỏ cho con tình yêu bao la của Chúa. Xin củng cố đức tin trong con và thêm sức cho con, giúp con biết sống đức tin bằng cả đời sống của mình. Amen.
Thiên San
Tin Mừng nhiều lần thuật lại cho chúng ta về việc dân chúng lũ lượt đi tìm Đức Giêsu. Có những lần, khi nhìn thấy đám đông dân chúng chạy đến với mình, Đức Giêsu không khỏi chạnh lòng thương. Người lưu tâm đến tất cả những ai đến với mình. Lần khác, khi các môn đện đến báo tin rằng dân chúng đang tìm Thầy và muốn Thầy ở lại với họ nhưng Người đã không ở lại. Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện tương tự: dân chúng lũ lượt đi tìm Thầy Giêsu. Nhưng lần này, Người có vẻ quá thẳng khi trả lời với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26).
Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Vì yêu thương nhân loại, Người đã tự nguyện xuống thế làm người, hi sinh mạng sống trên thánh giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Tình yêu của Người luôn rộng mở, sẵn sàng trao ban và cứu chuộc. Dân chúng đến với Người đông đảo. Nhiều người trong số họ thật sự tin vào quyền năng của Người, một số khác vì tò mò, vì “được ăn bánh no nê”… Đức Giêsu thấu suốt mọi sự. Người thừa biết những kẻ đến với Người vì điều gì. Đức Giêsu không chỉ chạnh lòng, chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, hóa bánh ra nhiều nuôi đám đông ăn no mà còn chỉ cho họ thấy điều gì là cần thiết cho đời sống, và nhất là Người chỉ cho dân chúng thấy rõ cách để thực hiện điều Chúa Cha muốn: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,29).
Khi đến với Chúa, chúng ta cũng có những mong đợi. Người sẵn lòng lắng nghe mọi mong đợi của ta. Người biết điều gì tốt và cần thiết cho chúng ta. Khi thấy đám đông đến với mình chỉ vỉ “cái bụng”, Người không ngần ngại nói cho họ biết điều đó. Người hướng họ đến điều cần thiết nhất, những gì cần thiết cho đời sống mai này: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6, 27). Nhưng dân chúng lại thách thức Người: “Vậy chính ông, ông làm được được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây?” (Ga 6, 30).
Trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống, khi cầu xin Chúa một điều gì đó, có thể chúng ta cũng đã từng có thái độ thách thức Thiên Chúa. Thiết nghĩ, chúng ta cần lắng nghe lời khuyên nhủ chân tình của thánh Phaolô tông đồ: “Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và mặc lấy con người mới, là con người được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4, 23-24). Hành trình chúng ta đang bước đi chẳng khác hành trình dân Do Thái xưa trong sa mạc. Chúng ta cũng đã không ít lần kêu trách Thiên Chúa qua các trung gian của Ngài như cách dân chúng đã trách cứ ông Môsê. Thiên Chúa lắng nghe tất cả. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ bày cho chúng ta biết điều quan trọng nhất: “tin vào Đấng Người sai đến”. Đức Giêsu chính là Đấng ấy. Thần Khí sẽ giúp chúng ta biết cách cải biến con người của mình theo đúng ý Thiên Chúa. Việc của chúng ta là hoán cải và hoán cải mỗi ngày cùng tin tưởng vào Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Vì có thương thì Người mới sửa dạy.
Thời Cựu Ước Thiên Chúa đáp lại lời kêu cách của dân chúng bằng cách ban bánh và thịt cho họ. Thiên Chúa thời Tân Ước qua Đức Giêsu đã thực hiện một bước tiến ngoạn mục khi trao ban chính Mình cho nhân loại. Người trao ban chính Mình làm của ăn nuôi dưỡng chúng ta qua bí tích Thánh Thể. “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). Của ăn nuôi thân xác thật sự quan trọng nhưng của ăn mang lại sự sống đời đời là điều quan trọng nhất, chính yếu hơn cả. Chúng ta hãy đến với Người để được nuôi dưỡng và được vui hưởng sự sống đời đời.
HÃY TIN VÀ LÀM THEO Ý CHÚA ĐỂ SỐNG MUÔN ĐỜI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta đang chứng kiến cảnh con người trên thế giới giành giật sự sống trước cái chết do đại dịch Covid gây ra.
Cộng đoàn con cái Israel trước cái đói thể lý. Đói không có gì ăn thì sẽ chết. Họ sợ chết, nên họ kêu trách Môsê và Aaron: “Thà chúng tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói?” (Xh 16, 2-4)
Dân chúng thời Chúa Giêsu, vì cái bụng, hay cụ thể hơn họ sợ chết đói nên đi tìm bánh để ăn chứ không tìm Đấng Cứu Thế. Lời Chúa Giêsu minh chứng: “Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26).
Từ cái bụng rỗng không có gì, tức đói thể xác, Thiên Chúa đã cho “cho bánh từ trời rơi xuống như mưa”, nhưng cũng để thử coi dân có tuân giữ lề luật của Chúa hay không (x. Xh 16, 4). Từ của ăn phần xác, Chúa Giêsu khơi dậy sự khao khát của ăn đích thực cho sự sống đời đời nơi lòng họ. Tìm kiếm bánh để ăn là cần thiết, nhưng vun trồng mối quan hệ với Chúa Giêsu, củng cố niềm tin vào Người, Ðấng là bánh sự sống, đã đến để giải cơn đói chân lý, cơn đói công bình, tình yêu còn quan trọng và cần hơn thế nữa. Để có được thì ngay hôm nay phải ra công làm việc, việc đó chính là: “Tin vào Chúa Giêsu là Đấng mà Chúa Cha sai đến” (Ga 6,29).
Con người đã, đang và sẽ làm mọi cách để có được sự sống đời đời bằng nỗ lực của chính mình. Nhưng dù y học có tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, hứa hẹn tăng tuổi thọ cho con người, thì những nỗ lực đó không giúp con người sống mãi được. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta sự sống đời đời, vì Chúa là “Sự Sống”. Chúa hứa sẽ “tiêu diệt sự chết đến muôn đời” và ban sự sống vĩnh cửu cho những ai trung thành với Chúa. (x. Is 25, 8; 1 Ga 2,25). Tất cả những ai vâng lời Thiên Chúa đều có cơ hội sống đời đời (x. Cv 10,34, 35). Câu hỏi: Làm sao để được sống đời đời là vấn nạn con người ở mọi nơi mọi thời đặt ra. Thánh Gioan cho ta câu trả lời: “Kẻ làm theo ý Thiên Chúa thì lưu tồn vạn đại” (x. 1Ga 2,17).
Đọc Tin Mừng Ga 6, 24-35, chúng ta thấy của ăn để sống đời tạm này cần phải kiếm tìm thế nào, thì của ăn cho sự sống đời đời càng phải ra công tìm kiếm hơn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng : “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu” (Ga 6,26-27). Chính Chúa Giêsu là bánh sự sống thật (x. Ga 6, 35), Người đến xoa dịu không chỉ cơn đói thể xác nhưng cả cơn đói linh hồn khi ban lương thực thiêng liêng có thể thỏa mãn cơn đói sâu thẳm nhất trong con người. Vì vậy Người mời gọi đám đông dân chúng hãy tìm thứ lương thực tồn tại cho sự sống vĩnh cửu (x. Ga 6, 27). Ðó là lương thực mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta mỗi ngày: Lời của Người, Mình Người, Máu Người.
Sự khao khát nổi lên trong họ, khiến họ thưa rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. (Ga 6, 28-29).
Quả thật, “Tin” vào Chúa Giêsu và làm theo ý Chúa là chìa khóa để có được sự sống đời đời. Niềm tin vào Chúa Giêsu giúp chúng ta thực hiện những việc làm của Thiên Chúa. Nếu chúng ta để cho mình tham dự vào mối tương quan tình yêu và tin tưởng với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được Chúa thông truyền cho sự sống thật.
Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu đã nói rõ: “Sự sống đời đời tức là: chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3). Sách Công vụ Tông đồ khẳng định: “Không có ơn cứu độ nơi một người nào khác nữa. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban xuống cho nhân loại để phải nhờ vào đó mà chúng ta trông được cứu thoát” (Cv 4,12).
Nhưng liệu có phải chỉ cần tin Chúa Giêsu là chúng ta sẽ được cứu không?
Chúng ta phải tin Chúa Giêsu để được cứu, nhưng tin thôi thì chưa đủ (x. Cv 16,30, 31). Vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,26). Nên tin phải đi đôi với thực hành và vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa (x. Lc 6,46; 1 Ga 2.17). Trước khi giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đã ban truyền những lề luật để dân tuân giữ. Có tin mới tuân giữ, còn khi hồ nghi thì họ vi phạm thánh chỉ của Chúa. Có lúc Thiên Chúa “thử coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không”. Chúa Giêsu từng nói: “Không phải người nào nói “Lạy Chúa” thì sẽ được cứu nhưng chỉ ai “làm theo ý muốn của Thiên Chúa” (x. Mt 7,21). Trung thành trong niềm tin thật cần thiết, vì: “Ai bền chí chịu đựng cho đến cuối cùng thì sẽ được cứu” (Mt 24,13). Chúa Giêsu cứu những người trung thành bằng cách hiến mạng sống mình làm giá chuộc (x. Mt 20,28). Vì Người là “Đấng Cứu Độ thế gian” (1 Ga 4,14).
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con vững tin vào Chúa và làm theo ý Chúa như Mẹ. Amen.
MÔSÊ, NGƯỜI LÃNH ĐẠO LÀ TÔI TỚ CỦA DÂN
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong bối cảnh gian truân tư bề của những ngày ôn dịch, hôm 23-7, Ông Lâm Minh Thành, chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang nói những câu được nhiều người khen tặng và bình luận: “Đi chợ mua đồ ăn, thức uống, đi chợ nào, mua cái gì là quyền của dân. Một bó rau, một mớ hành cũng phải để cho dân chở đi bán”; “Việc đi chợ nào, mua cái gì, mua bao nhiêu là quyền của người dân. Họ phải ăn, uống mới sống được. Đâu phải chợ nào cũng giống chợ nào. Có chợ ở phường này, xã này bán thứ này, chỗ khác bán thứ khác, cho nên không được cứng nhắc khi áp dụng, mà phải linh động, phải hiểu nhu cầu thực tế của người dân. Ở vùng sâu, vùng xa, người ta đất ít, trồng ít được 1 bó rau, mớ hành cũng phải để cho dân chở đi bán, để ở nhà 2, 3 ngày rau cải hư hỏng hết. Người có nông sản bán được thì người mua mới có để mà mua. Mình chống dịch chặt chẽ, nhưng không được ngăn sông cấm chợ”…
Ông Thành được khen là: con người công vụ gần Dân, hiểu Dân và làm việc vì Dân…Từ khi “gà chưa biết gáy” đến…bi giờ, mới nghe được một vị lãnh đạo có lời nói đứng về phía Dân…Trong lúc này, lãnh đạo nào mà sống gần Dân, hiểu Dân, cống hiến vì Dân, thì họ là Thánh trong lòng Dân…
Bài trích sách Xuất hành ngày Chúa nhật hôm nay nói về Môsê một nhà lãnh đạo vì Dân, yêu thương Dân.
Tôi đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ.
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa. Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
- Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
a). Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
b) Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
- Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Ga 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
Môsê là một tấm gương lãnh đạo vì dân, mẫu gương người lãnh đạo là tôi tớ của dân. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ lúc còn rất nhỏ. Sau này, ông xác tín, lãnh trách nhiệm dẫn dắt Dân Chúa ra khỏi Ai Cập, vào miền Ðất Hứa. Cuộc đời của ông là gương mẫu cho những nhà lãnh đạo chân chính, thiện chí, phục vụ vì Dân vì Nước. Ông tu thân và thường xuyên gặp gỡ, đàm đạo với Thiên Chúa. Ông trình bày với Ngài về tình trạng của dân và xin ơn tha thứ. Rồi ông đón nhận Thánh Ý Ngài, cụ thể là Mười Giới răn, ghi khắc vào bia đá, truyền đạt lại cho dân. Dân chỉ tin người lãnh đạo, khi người lãnh đạo gặp Thiên Chúa và truyền đạt cho họ ý của Ngài.
- Chúa Giêsu, người lãnh đạo đem lại cho dân sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”. Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời, sứ vụ và cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời.
Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ con đường trở nên lớn lao thật sự. Đó là con đường phục vụ. Con đường phục vụ thay thế cho tham vọng thống trị. Giúp đỡ tha nhân thay cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể. Người lớn nhất, người đứng đầu là người phục vụ hết mình. Chức tước, chức vụ, chức vị, chức quyền chỉ là phương tiện để phục vụ. Ai sống tinh thần phục vụ đó là người lớn nhất. Ai không biết phục vụ thì là người nhỏ nhất. Giá trị của một con người không do địa vị chức tước mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó. Chúa Giêsu mở ra một nền văn minh mới. Người lớn nhất không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng khả năng để phục vụ. Người lớn nhất không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng trái tim để yêu thương.
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
Câu chuyện người ta kể về Hoàng đế Charles Quint của Đế quốc Đức ngày xưa. Đây là một giai thoại rất đẹp về hoàng đế:
Sau nhiều năm tận tụy hy sinh phục vụ Hoàng đế, một vị trung thần của ông ngã bệnh và đang chiến đấu với tử thần. Để tỏ lòng biết ơn và cảm mến đối với con người đã suốt đời trung thành với mình, Hoàng đế Charles Quint đã đích thân đến ngay bên giường bệnh của ông. Cầm tay vị trung thần, Hoàng đế nói:
– Khanh đã hết phục vụ trẫm, nay trẫm xin được dịp đền đáp, khanh hãy cho trẫm biết khanh mong ước điều gì, trẫm sẽ thỏa mãn yêu cầu của khanh.
Trong hơi thở đứt đoạn, vị trung thần liền tâu:
– Thần ước ao nhận được từ tay bệ hạ một ân huệ.
Đôi mắt Hoàng đế như sáng lên, ông hỏi nhanh:
– Khanh cứ nói, ân huệ gì trẫm cũng ban cho khanh.
Kẻ hấp hối nói một cách chua xót:
– Xin bệ hạ hãy ban cho hạ thần một ngày sống nữa, chỉ một ngày thôi.
Nghe xong lời của vị trung thần, Hoàng đế Charles chỉ biết lắc đầu chán nản:
– Trẫm đã được xem là quân vương quyền thế nhất trên thế gian này, nhưng điều khanh xin hoàn toàn ở ngoài tầm tay của trẫm, chỉ Thiên Chúa mới có thể ban và bảo đảm hồng ân sự sống mà thôi.
Trong tiếng thở dài, vị trung thần mới thốt lên như một lời nhắn nhủ cho chính hoàng đế:
– Thật là vô ích cho tôi, vì tôi đã điên rồ đến độ không biết dành nhiều thời gian hơn để phục vụ Chúa, mà lại hoang phí thời giờ trong việc phục vụ các vua chúa trần gian”.
1. Phải chăng tôi đang mải mê tìm kiếm lương thực mau hư nát?
Câu chuyện trên như một lời khuyến cáo về lối sống chỉ biết tìm kiếm, phục vụ, chọn lựa những thứ mau qua mà quên mất tìm kiếm Thiên Chúa, là chủ của sự sống. Thật vậy, dường như ai sống trên đời cũng lâm vào cảnh đi tìm cái vật chất, cái của cải, cái lương thực để thoả mãn cho nhu cầu xác thịt. Họ tìm mọi cách để có của, để có tiền, để có cái ăn, cái mặc, cái nhu yếu phẩm để khoả lấp cho những khát vọng được coi là xứng hợp cho thân xác của mình. Họ đã không thể chấp nhận khi đối diện với cơn đói, cơn khát về thể lý. Họ vội vàng tìm kiếm hoặc than thân trách phận vì phải rơi vào tình cảnh hẩm hiu này. Không chỉ ngày nay, mà ngay cả hơn chúng ta cả mấy ngàn năm, dân Israen cũng đã than trách Chúa cũng như ông Mô-sê khi họ đối diện với cơn đói và cơn khát nơi sa mạc. Nơi bài đọc I cho chúng ta hiểu rõ về điều đó: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây.”(Xh 16,3). Nhiều người cho rằng con cái Israel có lý do để than phiền, vì nếu phải “chết đói” trong sa mạc thì ở lại Ai-cập để được “chết no” còn sướng hơn. Nhưng sự thực là con cái Israel đã không phải chết đói, vì nếu Thiên Chúa đã có kế hoạch đưa dân ra khỏi Ai-cập để vào Đất Hứa, làm sao Ngài có thể để dân chết đói dọc đường được. Nơi bài đọc Tin mừng, dân Do thái cũng đã mong mỏi để tìm kiếm Đức Giê-su vì nhờ Ngài mà họ được no nê. Họ tìm kiếm Đức Giê-su chỉ vì miếng ăn thực tại và họ còn mong muốn tôn phong Ngài lên làm người cai trị để họ được hưởng nhờ theo nghĩa vật chất. Đức Giê-su đã biết rõ mọi sự: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.” (Ga 6, 26). Về điều này, phải chăng như thánh Phaolô đã từng khiển trách không nhẹ nhàng chút nào trong thư gửi cộng đoàn Phi-lip-phê rằng “chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này.” (Pl3, 19). Vì thế, nơi bài đọc II, thánh nhân cũng đã căn dặn: “vậy đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ.” (Ep 4, 17).
Như vậy, đọc lại lịch sử dân Israen và dân Do thái để đọc lại lịch sử cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng đã từng sống theo lối sống xác thịt và tìm mọi cách để lấp đầy nhu cầu của nó bằng mọi giá, đôi khi không sợ tội, không ngại để giá trị của nhân phẩm bị chà đạp, lối sống văn hoá – tôn giáo nhường bước cho lối sống hưởng thụ và sự chết. Tuy nhiên, chúng ta không thể sống mà không có lương thực. Vì thân xác muốn tồn tại thì phải có cái ăn để nuôi sống. Vì ‘không có thực làm sao vực được đạo’, một thân xác yếu ớt và đói khổ làm sao chúng ta có thể đọc kinh, cầu nguyện? Vì thế, không thể mà không tìm kiếm, không lo cho thân xác của mình được. Vì như câu tục ngữ cũng nhắc nhở “có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”. Phải ra công làm việc chứ! Tuy nhiên, con người không chỉ có phần xác, nhưng còn có phần linh hồn. Như Công đồng Vatican II trình bày: “Con người là một chủ vị duy nhất gồm có thể xác và linh hồn” (Gaudium et spes, số 14; GLHTCG số 364). Do đó, chúng ta lo cho thân xác là quan trọng, nhưng cái quan trọng hơn hết và giá trị cao cả là phải lo cho phần linh hồn. Chính Đức Giê-su đã cho chúng ta biết rõ phải làm gì để lo cho phần linh hồn của chúng ta?
2. Tìm kiếm lương thực đời đời nơi Đức Giê-su.
Trước sự khao khát và mong mỏi đi tìm kiếm cái ăn của dân Do thái, Đức Giê-su đã dạy cho họ nói riêng và cho mỗi chúng ta nói chung cái chân lý này: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” (Ga 6, 27) Như vậy, Đức Giê-su muốn nói rằng không phải lo tìm kiếm của cải vật chất, tìm kiếm cái ăn mau hư nát, nhưng điều cốt yếu và ưu tiên hàng đầu là tìm kiếm lương thực thường tồn, là sự sống đời đời, là Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Nhưng tìm ở đâu? Xin thưa là tìm ở chính nơi Đức Giê-su, nơi Ngôi Lời Nhập Thể, nơi vị Thiên Chúa hữu hình ở cùng nhân loại. Nơi Đức Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa, con người sẽ tìm được sự sống cho mình. Vì chính Đức Giê-su Ki-tô sẽ ban Bánh Hằng Sống, là Mình và Máu của Ngài cho con người để có sống đời đời. Ngài đã tuyên bố điều này: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6,35). Quả thật, thân xác cần thức ăn thế nào, thì linh hồn chúng ta lại càng cần đến Mình Máu Thánh Đức Giê-su Ki-tô như thế. Bí tích Thánh Thể là của nuôi linh hồn con người, là nguồn ân phúc dẫn đưa con người đạt được hạnh phúc Nước Trời. Như vậy, từ nay tất cả cơn đói: đói tình yêu, đói yêu thương, đói chân lý, đói hy vọng, đói lời động viên, đói những liên đới, đói niềm tin, đói sự sống đời đời, đói Thiên Chúa,… chỉ thật sự được khoả lấp khi con người biết chạy đến với Đức Giê-su Ki-tô. Từ đây, con người sẽ có được lương thực trường tồn, là sự sống vĩnh cửu khi biết bám rễ sâu vào Đức Giê-su ngang qua việc đón nhận Mình Máu Ngài. Thật vậy, đúng như lời Kinh Thánh đã khẳng định: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. (Mt 4,4 ). Chính vì thế, của cải vật chất và thức ăn tự nhiên không thể là thứ đem lại sự sống cho con người, nhưng chính Mình Máu Đức Giê-su là nguồn sống đích thực nuôi dưỡng con người không chỉ nơi lữ hành trần gian mà là hành trang dẫn về Thiên đàng, nơi hưởng vui vẻ đời đời cùng Thiên Chúa Ba Ngôi và toàn thể các thánh.
Do đó, mỗi chúng ta được mời gọi: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 33). Đây mới là điều quan trọng và thiết yếu cho sự sống linh hồn chúng ta. Nhất là trong bối cảnh cả nhân loại đang phải đối diện với đại dịch Covid nguy hiểm này, hơn bao giờ hết, con người cần chạy đến với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa và ngụp lặn trong tình yêu của Ngài để nhờ Ngài, qua Ngài và trong Ngài chúng ta được bình an và được giải thoát. Cũng trong bối cảnh này, mỗi người được mời gọi hãy đặt niềm tin tưởng và phó thác cho sự quan phòng của Chúa ở mọi nơi và mọi lúc. Hơn nữa, để đón nhận được ân sủng và niềm vui từ Chúa, Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 3, 22-23).
Tóm lại, trong cuộc sống của con người, không chỉ có cơ thể mới biết đói, biết khát, nhưng nơi con tim, nơi đời sống tâm linh cũng đang rên xiết. Cơm bánh có thể làm thoả mãn cơn đói thể xác, nhưng không thể làm cho con tim, cho đời sống linh hồn được khoả lấp. Chỉ nơi Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô, con tim, nhất là linh hồn con người mới được nghỉ ngơi yên hàn. Chỉ nơi Mình Máu Thánh của Đức Giê-su, con người mới thật sự chiếm trọn sự sống đời đời. Tuy nhiên, để có được sự sống đời đời làm gia nghiệp, con người cần biết tìm kiếm liên lỉ và gặp gỡ luôn luôn Thiên Chúa, Đấng là Em-ma-nu-el, là Đấng ở cùng nhân loại. Vì theo Cha Mark link, S.J: “trái tim của chúng ta có một khoảng trống mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy”. Tuy vậy, nhưng hiện tại tôi đang tìm kiếm cái gì? Tôi đang thực sự thuộc về ai? Tiền của, vật chất tiện nghi, danh vọng, quyền lực, chức tước hay Thiên Chúa, sự sống đời đời?
TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC TỒN TẠI ĐẾN MUÔN ĐỜI
Lm Trần Bình Trọng
Ðể sửa soạn chọn một dân tộc làm dân riêng, Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, vượt qua Biển đỏ ráo chân, đi vào sa mạc chịu cảnh thiếu thốn cực khổ về vật chất để thanh tẩy và luyện lọc họ. Bài trích sách Xuất hành hôm nay cho thấy dân chúng trách móc ông Môsê và A-ha-ron vì đã đưa họ vào sa mạc thanh vắng, thiếu đồ ăn thức uống, để họ phải nhịn đói khát.
Sở dĩ có sự phàn nàn là vì họ đã quên mất tình yêu và đường lối quan phòng của Chúa. Tình yêu và quyền năng Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ của người Ai cập. Dầu sao đi nữa, khi nghe tiếng kêu trách của dân chúng, Chúa liền phán bảo Môsê: Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các người ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó. Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo Luật của ta hay không (Xh 16:4). Tuy nhiên khi Chúa cho ma-na rơi xuống mỗi ngày, dân chúng lại phàn nàn vì họ phải đi lượm lấy mà ăn, và vì ngày nào cũng phải ăn cùng thứ bánh, mà bánh lại không có mùi vị. Phải chăng họ được voi đòi tiên?
Phúc âm hôm nay cũng ghi lại việc dân chúng đi tìm Chúa, để hi vọng được ăn bánh no nê, vì ngày hôm trước họ đã được Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Nhân cơ hội này, Chúa dạy họ một bài học: Các ngươi đi tìm ta, không phải vì các ngươi đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no thoả. Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn, đem lại phúc trường sinh (Ga 6:26-27). Khi Ðức Giêsu bảo họ việc Thiên Chúa Cha muốn họ tin vào Ðấng mà Người đã sai đến. Tuy nhiên đám đông vẫn cứ muốn xin Người một dấu lạ để tin vào Người. Họ tìm Chúa để được ăn bánh nuôi thân xác nên họ không nhận ra Chúa là Ðấng có quyền năng làm phép lạ.
Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được gia nhập đại gia đình của Chúa là Giáo hội. Tuy nhiên không phải vì thế mà ta dừng chân lại, không cần đi tìm Chúa nữa. Ta vẫn phải tiếp tục đi tìm Chúa: tìm những gì thuộc về nước Chúa, tìm sự công chính của nước Chúa, tìm chân thiện mỹ trong tư tưởng, lời nói và hành động, tìm những gì thuộc lãnh vực thiêng liêng và siêu nhiên. Ta cần tìm ra những dấu vết của sự hiện diện của Chúa trong vũ trụ, nơi những kỳ công của Ðấng tạo dựng. Ta cần tìm lắng nghe tiếng Chúa qua liếng lương tâm ngay thẳng. Ta cần tìm ra những gì đem lại hạnh phúc toàn diện về thể xác, tinh thần và thiêng liêng, cũng như hạnh phúc lâu dài ở đời này và đời sau cho cuộc sống.
Tìm Chúa phải là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Mỗi ngày ta phải đi tìm Chúa với hi vọng được biết Chúa hơn: biết được nhiều về Thánh kinh, biết được giáo lý của Chúa, biết được ý Chúa, biết đường lối của Chúa, và hiểu được chương trình quan phòng của Chúa cho đời sống cá nhân của mình, để mình tạ ơn và ca tụng Chúa, hay ít ra biết chấp nhận, nếu chưa ca tụng và tạ ơn Chúa được. Mỗi ngày ta phải khám phá ra sự hiện diện của Chúa để được sống gần gũi thân mật với Chúa. Ðể có thể đi tìm Chúa, ta phải cảm thấy đói khát về đời sống thiêng liêng: đói khát sự thật, sự công chính, thiện hảo.
Ðể có thể cảm thấy đói khát, người ta phải loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tinh mê nết xấu thì tâm hồn mới có chỗ trống mà cảm thấy đói được. Nếu tâm hồn chứa đầy những chướng ngại vật: những tư tưởng ám muội, những hận thù ghen ghét, tham lam, những ước muốn ngang trái, những việc làm tội lỗi thì tâm hồn bị ứ đọng, không thể cảm thấy đói khát về đời sống thiêng liêng được. Ðể có thể cảm thấy đói khát thiêng liêng, ta phải từ bỏ con người cũ, nếp sống tội lỗi cũ để mặc lấy con người mới cùng với nếp sống mới trong ơn nghĩa với Chúa.
Hôm nay mỗi người cần tự xét xem mình đang đói khát những gì? Có phải ta đang đói khát tiền tài, danh vọng, thú vui.. hay đói khát Chúa và những sự công chính và bình an của nước Chúa ?
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tìm kiếm lương thực thiêng liêng:
Lạy Thiên Chúa toàn năng!
Chúa là Đấng ban phát lương thực cho loài người.
Xin loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn con
để con có thể cảm thấy nhu cầu cần Chúa.
Xin dạy con biết tìm kiếm lương thực vững bền
và xin làm thoả mãn những đói khát thiêng liêng của con. Amen.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Nếu Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa đề cập đến phép lạ hóa bánh ra nhiều, do Chúa Giêsu thực hiện, như là hình bóng báo trước về bí tích Thánh Thể, thì Chúa Nhật này, Lời Chúa trực tiếp nói về bí tích Thánh Thể là Bánh ban sự sống đời đời cho chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa chủ đề này xuyên qua các bài đọc được chọn trong thánh lễ này.
1- Từ Manna tới Thánh Thể
Trong bài đọc I, sách Xuất Hành kể lại biến cố Thiên Chúa giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ ở Ai Cập để tiến về Đất Hứa. Trong hành trình 40 năm qua sa mạc, họ phải đối diện với nhiều khó khăn và thử thách, họ không có thức ăn và nước uống, cuộc sống bất ổn, thiếu thốn mọi đàng với một thời tiết khắc nghiệt ở sa mạc. Bởi thế, họ kêu trách ông Môsê và ông Aaron rằng: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” Họ muốn bỏ cuộc và quay trở lại Ai Cập để được ăn uống no nê dù phải làm kiếp nô lệ. Nhưng khi nhìn thấy cảnh lầm than khốn khổ của dân Do Thái, Thiên Chúa đã can thiệt và ban cho họ Manna và chim cút như là bánh từ trời rơi xuống, để làm lương thực nuôi sống họ và giúp họ tiếp tục lên đường tiến về Đất Hứa (x. Xh 16,16-22).
Thật vậy, manna ở đây là dấu chứng về sự quan phòng và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với Dân Người. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn đồng hành, gần gũi và chở che con cái loài người trong mọi nơi mọi lúc, đặc biệt trong những lúc gian nan túng quẫn nhất, Người vẫn ở bên mỗi người để chăm sóc và nâng đỡ chúng ta.
Đồng thời, Thiên Chúa mời gọi dân Do Thái xưa và cả chúng ta hôm nay cần phải có tầm nhìn xa hơn, phải biết theo đuổi và vươn tới những lý tưởng cao cả hơn mà Người mời gọi, dù phải đối diện với những khó khăn thử thách. Vì con người sống không chỉ lo tìm kiếm của cải vật chất, nhưng còn phải biết tìm kiếm những của cải tinh thần để sống đúng với nhân phẩm của mình. Con người không chỉ đói khát của cải vật chất, nhưng còn đói khát về sự thật, công lý, tư do, nhân quyền, tình yêu và hòa bình. Con người sống không chỉ vì cơm bánh, nhưng còn nhờ đến Lời Chúa và Thánh Thể. Chỉ nơi Chúa Kitô, con người được thảo mãn cơn đói và cơn khát này.
2- Đức Kitô, Manna mới
Dưới ánh sáng của Tân Ước, Manna là hình bóng tiên báo về Chúa Kitô, Đấng đã hiến mình làm bánh trường sinh cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Thật vậy, Chúa Giêsu trở thành bánh đích thực từ trời xuống để nuôi dưỡng chúng ta. Bởi vì, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai xuống trần gian, Người đã chết và phục sinh để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Người tiếp tục hiến mình cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể để trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại, Chúa Giêsu trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại, Người là “manna mới,” là của ăn nuôi sống dân Chúa trên hành trình dương thế tiến về nhà Cha trên trời. Bởi thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Trong lời này, theo nhà thần học nổi tiếng người Đức, Kark Rahner, chúng ta tìm thấy sự mới mẻ của mạc khải Tân Ước: ở đây Thiên Chúa không phải ban cho chúng ta một cái gì, một ơn gì, nhưng là ban chính mình Người, qua Con Một Người. Chúa Giêsu vừa là quà tặng vừa là Người tặng quà. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu ban thịt và máu mình làm của ăn nuôi sống linh hồn loài người. Điều độc đáo và cao cả của Kitô giáo chúng ta khác với các tôn giáo khác, đó là không phải Thiên Chúa đòi buộc loài người phải nộp mạng mình để được Thiên Chúa cứu độ, nhưng chính Thiên Chúa hiến mình để cứu độ loài người.
3- Hiệu quả và thông điệp từ Thánh Thể
Khi tham dự bí tích Thánh Thể, chúng ta dự phần vào sự sống thần linh và kết hợp với Chúa Kitô Phục Sinh. Chúa Giêsu là bánh hằng sống, bánh tác động nơi chúng ta. Khi chúng ta ăn bánh thông thường, chúng ta tiêu hóa và đồng hóa bánh thành máu thịt của chúng ta, còn khi chúng ta ăn bánh là Mình Chúa Kitô, thì chính bánh này đồng hóa và biến đổi chúng ta nên giống Người. Chúa Kitô biến đổi chúng ta và ban cho chúng ta sự sống của Người, cũng như kết hợp chúng ta nên một với sự sống Thiên Chúa như Chúa nói: “Kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống” (Ga 6,57).
Như thế, nhờ bí tích Thánh Thể, chúng ta được gần gũi, gắn bó và trở nên một với Thiên Chúa và với nhau trong Đức Kitô. Thánh Thể ban cho chúng ta chính sự sống Thiên Chúa, sự tự do và phẩm giá làm con cái Thiên Chúa. Tất cả chúng ta được mời gọi yêu mến bí tích Thánh Thể và năng đến tham dự thánh lễ. Vì Thánh Thể là trung tâm điểm, là sức mạnh và nguồn mạch cho đời sống Kitô hữu chúng ta.
Và để xứng đáng tham dự Thánh Thể, thánh Phaolô ở bài đọc II mời gọi chúng ta: “Anh em thân mến, tôi nói với anh em điều nầy và chứng thực trong Chúa là anh em chớ ăn ở như Dân Ngoại ăn ở, chiều theo sự giả trá của tâm tư mình,” nhưng “anh em hãy trừ khử lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ” và “hãy mặc lấy con người mới… trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật” (Ep 4,17.20-24).
Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, xin kể một câu chuyện cổ tích của người Đức về chàng Bờm Hanz: “Sau bao năm tháng làm việc mệt nhọc, chủ trả công cho Bờm một thỏi vàng nặng. Và Bờm khệ nệ vác vàng về nhà, trên một quảng đường thật dài. Thỏi vàng quá nặng, lại thêm trời nắng gắt. Khát. Mỏi. Mệt. Thế là vì nhu cầu trước mắt, để được thoải mái, Bờm đã tuần tự đổi vàng để lấy ngựa, bò, ngỗng và cuối cùng là một phiến đá mài. Phiến đá rốt cuộc cũng bị Bờm quẳng luôn xuống nước, để được – như Bờm lý luận – tự do khỏi bị thứ gì ràng buộc cả trên đường về. Cơn mơ của Bờm kéo dài bao lâu và hậu quả đen tối nào đã xảy ra khi Bờm hết mê, câu chuyện không kể tiếp, dành để cho trí tưởng tượng của người đọc.”
Như thế, bài học mà Lời Chúa hôm nay cũng như câu chuyện này muốn nhắn gửi là đừng vì “những lợi lộc thấp hèn trước mắt,” hay vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lý tưởng cao đẹp và ý nghĩa cuộc sống, nhưng hãy luôn biết theo đuổi những giá trị cao đẹp và tìm kiếm những lương thực thiêng liêng là Lời Chúa và Thánh Thể để được sống và sống dồi dào như chính Chúa đã dạy chúng ta. Amen.
Trầm Thiên Thu
Lương thực là sản phẩm được thu hoạch từ các loại cây chủ yếu dùng làm thực phẩm. Do đó, thực phẩm là tất cả những thứ con người (hoặc động vật) có thể ăn hoặc uống để hấp thụ dinh dưỡng – gọi chung là ẩm thực. Bốn loại cây lương thực chính của Việt Nam – đất nước nông nghiệp – là lúa, bắp, sắn, và khoai lang. Bánh mì không là thực phẩm chính của dân Việt nhưng là thực phẩm chính của người Tây phương, vả lại nó được làm từ lúa mì, lúa mạch, lúa miến,…
Nhưng trớ trêu thay, có quan chức ở Việt Nam lại cho rằng bánh mì và bắp không phải là lương thực hay thực phẩm. Ai cũng biết chữ “thực” nghĩa là ăn, lương thực và thực phẩm là những thứ ăn được, có thể nuôi sống con người, nhất là trong lúc dịch bệnh thế này. Nếu đồ ăn đó không là lương thực hay thực phẩm thì là cái gì?
Ngày xưa có “đặc sản” Manna hoặc Mana, nhìn trắng như sương muối, rơi xuống từ trời vào ban đêm, trong như pha lê hoặc giọt sương. Nhưng nó sẽ cứng dần và dính, biến thành màu trắng, vàng, hoặc hơi nâu, giàu chất carbohydrates (chất cần thiết để cơ thể hoạt động), và sẽ tan biến khi nắng lên.
Từ ngữ manna được sách Xuất Hành đề cập 5 lần, (Xh 16:26-35) và được Kinh Koran đề cập 3 lần. Một số học giả cho rằng manna do tiếng Ai Cập là mennu, nghĩa là “đồ ăn.” Theo Kinh Thánh, manna là “man hu,” nghĩa là “cái gì đây?” – tương tự Anh ngữ là “what is it?” hoặc Pháp ngữ là “qu’est-ce que c’est?” Nhưng cũng có người cho rằng chữ “man hu” có thể có từ nguyên là tiếng Aram chứ không phải là tiếng Do Thái. Đó là chuyên môn, chúng ta chỉ cần hiểu manna là đặc sản duy nhất Chúa cho dân ăn suốt 40 năm khi tiến về Đất Hứa. Thế thôi!
Chúng ta được biết qua trình thuật Xh 16:2-4, 12-15 thế này: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Israel kêu trách ông Môsê và ông Aharon: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây.” Khổ gì thì khổ, chứ khổ vì đói khát thì khổ lắm. Với bản năng sinh tồn, người ta có thể dám làm bất cứ điều gì, thậm chí còn liều bán rẻ danh dự hoặc lương tâm. Bất chấp! Vì miếng ăn mà xảy ra tranh chấp, chiến tranh, ngay cả tình thân cũng có thể cắt đứt. Có miếng ăn vinh, có miếng ăn nhục!
Thi sĩ ngụ ngôn La Fontain (1621-1695, Pháp) thẳng thắn: “Cái bụng đói không thể lắng nghe.” Khi bụng đói cồn cào, thằng Bờm không cần thứ gì quý giá mà không thể ăn ngay, chỉ cần nắm xôi ăn ngay được. Thực tế vậy thôi! Danh y Anthony xác định: “Thực phẩm là cội rễ của vạn vật. Chính thực phẩm và chỉ có thực phẩm mới là thuốc chữa bách bệnh.” Ăn không chỉ để no bụng mà còn để duy trì sức khỏe. Chế độ ăn uống tốt khả dĩ ngăn ngừa bệnh tật. Sức khỏe tinh thần cũng ảnh hưởng lẫn nhau – hồn an, xác mạnh.
Thực sự Thiên Chúa thực tế hơn người ta tưởng. Ngài thấu hiểu nỗi khổ của dân nên phán với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không.” Ngài cũng cho biết: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.” Ngài trừng trị nhưng Ngài “xót xa” lắm. Chúng ta có thể cảm nhận qua tình cha mẹ đối với con cái: Con đau một, cha mẹ xót mười.
Thiên Chúa hứa gì thì làm ngay. Chiều hôm đó, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi, trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Israel thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? – Cái gì đây.” Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn.” Sự thật chứ không là chiêm bao. Đỡ khổ, khỏi lo đói khát nữa, vì đã có thịt chim cút và bánh hiên thần để no thỏa. Thật tuyệt vời!
Không phải là Thiên Chúa không biết nên mới “dò sóng” và thử thách chúng ta. Ngài thấu suốt mọi sự, biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới. Ngài muốn dùng sự thử thách để tôi luyện chúng ta. Đại dịch cúm Tàu đang hoành hành, nhưng nó giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa và thân phận mỏng manh của chúng ta. Khi nhận ra phép lạ của Thiên Chúa thì người ta không thể lặng im: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm.” (Tv 78:3-4)
Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Thiên Chúa. Ngài tuyên phán một lời thì liền có cả trời đất và muôn loài trong đó, nói chi chuyện rẽ nước cho dân Israel băng qua và vùi lấp quân Ai Cập trong biển nước. (Xh 14:15-31) Manna và chim cút cũng chỉ là “hạt bụi trong hạt cát” mà thôi: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến manna tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực.” (Tv 78:23-25) Manna được gọi là “bánh thiên thần,” nhắc chúng ta nhớ tới Thánh Thể – bánh thiên thần đặc biệt mà chúng ta được tận hưởng mà dân xưa không được biết đến. Chúng ta hạnh phúc hơn họ mà lại không biết tạ ơn Thiên Chúa sao?
Lời khuyên Thánh Phaolô dành cho dân Êphêsô ngày xưa nhưng vẫn đầy tính thời sự đối với chúng ta ngày nay: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ.” (Ep 4:17) Quả thật, chúng ta vẫn chưa bỏ được thói ảo tưởng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – cả đời và đạo: Nói hay, muốn nhiều, mà làm chẳng bao nhiêu. Đòi lấy, chứ không muốn cho.
Sự thật thì hay mất lòng và thường phũ phàng lắm. Thánh Phaolô cảnh báo: “Còn anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4:20-24) Con người chúng ta mê muội, ù lì, viện nhiều cớ nên vẫn giậm chân tại chỗ – đôi khi còn thụt lùi mới đáng sợ.
Thật vậy, đã bao Mùa Vọng, Mùa Chay, tĩnh tâm, xưng tội, quyết tâm,… cứ theo nhau qua đi, con người cũ vẫn chẳng đổi mới được bao nhiêu. Rất chí lý với cách ví von của tiền nhân: “Chó đen giữ mực. Cốt khỉ hoàn cốt khỉ.” Chắc hẳn đã nhiều lần chúng ta tự nhủ: “Tại sao vậy?” Lý do thực tế và đơn giản lắm, bởi vì “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình.” (Đại đế Napoléon) Đặc biệt là đối lập: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7:19) Thật khốn nạn cho chính tôi!
Dân Israel rất ngạc nhiên khi thấy manna. Chưa hề thấy bao giờ. Và họ hỏi nhau: “Cái gì vậy?” Tương tự, khi thấy người lạ, người ta thường hỏi: “Ai đây?” Còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy trong cuộc sống đời thường. Thắc mắc không chỉ vì tò mò mà để tìm hiểu. Thắc mắc đúng đắn sẽ dẫn tới sự khôn ngoan. Thắc mắc vì ham lạ sẽ bất lợi, thậm chí là tác hại.
Ngày xưa, dân chúng không thấy Chúa Giêsu và các môn đệ, họ đi tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25) Ngài trả lời nhưng có ý trách họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.” (Ga 6:26) Rất “sốc” nhưng không oan chút nào. Và Ngài khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” (Ga 6:27)
Ngày nay, chúng ta cũng chẳng khác. Những lúc cầu nguyện, chúng ta thường chỉ muốn XIN là chính, nhất là muốn “xin như ý mình,” muốn XIN thì phải ĐƯỢC, gọi là xin-cho, nhưng khi được rồi lại quên tạ ơn Ngài. Rất phũ phàng!
Sau khi dân chúng nghe Chúa Giêsu nói vậy thì hỏi ngay: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28) Thật lòng mà hỏi như vậy thì tốt, vì muốn vâng ý Chúa chứ không theo ý mình. Chúa Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6:29) Thế nhưng họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.” (Ga 6:30-31) Thì ra họ không thành tâm, chỉ muốn “bắt bẻ” Chúa Giêsu mà thôi. Dốt mà chảnh, ngu mà kiêu. Chúng ta cũng vậy thôi.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên và thẳng thắn: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” (Ga 6:32-33) Có lẽ lúc này họ mới “sáng mắt” nên vội xin Ngài cho họ được ăn mãi thứ bánh ấy. Biết xin như vậy là tốt, biết phục thiện. Chúa Giêsu nói: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35) Nghe vậy thì họ lại xì xầm với nhau, cho rằng Chúa Giêsu nói những lời “khó lọt lỗ tai.” Bướng bỉnh tột đỉnh!
Sự thật đích thực thì mãi mãi là sự thật, trường tồn và bất biến. Chúng ta may mắn hơn dân xưa vì được thừa hưởng di sản vô giá: Đức tin Công giáo, đức tin tông truyền, đức tin duy nhất, đặc biệt nhất là Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Thomas More (luật sư, triết gia, chính khách, 1478-1535, Anh quốc) chia sẻ: “Nếu tôi xao lãng, việc hiệp lễ sẽ giúp tôi tịnh tâm trở lại. Nếu hằng ngày có những dịp xảy đến xúi giục tôi xúc phạm đến Thiên Chúa, tôi sẽ tự trang bị cho cuộc chiến mỗi ngày bằng việc lãnh nhận Thánh Thể. Nếu tôi đặc biệt cần đến ánh sáng và sự khôn ngoan để thực thi các phận sự nặng nề của tôi, tôi sẽ đến bên Đấng Cứu Độ, mong tìm được lời khuyên và ánh sáng của Người.”
Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin ban những ơn cần thiết để chúng con đủ sức biến đổi theo ý Ngài, cụ thể là trải nghiệm hoàn cảnh khó khăn vì đại dịch thế này. Xin cho chúng con được no thỏa Thánh Ân và Thánh Thể, và cho chúng con được hưởng sự sống đời đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
ĂN CHO NO BỤNG HAY CHO THỎA LÒNG
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Trong phòng chống dịch bệnh Covid-19, người ta nói nhiều về hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Người ta tìm mọi cách để có đủ lương thực thực phẩm, chứ thiếu ăn thì nguy to. Lời Chúa tuần này cho thấy Chúa không chỉ lo cung cấp cơm bánh nuôi sống thân xác, mà Chúa còn lo cung cấp bánh ban sự sống đời đời.
1. Ăn cho no bụng. Dân chúng kéo nhau đi tìm Chúa. Cứ tưởng vì họ quý mến Chúa, nào ngờ Chúa thẳng thắn bóc mẽ họ: Các ông đi tìm tôi là vì các ông đã được ăn bánh no nê. Hóa ra là thế, theo Chúa để được no cái bụng, theo Chúa để tìm kiếm lợi lộc, để thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Ăn rất cần thiết cho đời sống, nhưng nếu chỉ chăm chú vào miếng ăn mà thôi thì con người lại tự hạ thấp phẩm giá của mình. Ngoài nhu cầu vật chất cơ bản thì con người còn có những nhu cầu tinh thần cao quí khác. Thế nên Chúa Giêsu mời gọi: Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh.
2. Ăn cho thỏa lòng. Chúa muốn người ta theo Ngài không chỉ để no bụng mà còn để thỏa lòng, để thỏa mãn những khát vọng cao cả nhất của lòng người: “Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” Chúng ta đón nhận cơm bánh hàng ngày không thuần túy chỉ là miếng ăn cho no bụng, mà nó còn là “dấu lạ” diễn tả ân sủng và tình thương Chúa dành cho nhân loại. Ăn quả nhớ người trồng cây – Ăn phải nhớ đến người cho ăn để sống vui vẻ và biết ơn. Cơm bánh phải dẫn chúng ta đến Đấng ban ơn mà tin vào Ngài.
Ăn cơm bánh là ăn bằng miệng để no cái bụng đem sự sống cho thân xác. Ăn bánh trường sinh Giêsu là ăn bằng đức tin để no lòng thỏa dạ và lan tỏa yêu thương, nhờ đó đem sự sống đời đời cho trọn vẹn xác hồn của chúng ta. Amen.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh Hằng Sống được ghi lại trong bối cảnh Lễ Vượt Qua. Đây là thời điểm người Do Thái ăn bánh không men để tưởng nhớ biến cố Chúa giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập. Chúa Giêsu đã khởi đi từ phép lạ Manna để chứng minh Người là Bánh đích thực mà Chúa Cha ban cho nhân loại. Khi nói đến Manna, bất cứ người Do Thái nào cũng liên tưởng đến những phép lạ Thiên Chúa đã làm để nuôi dưỡng tổ tiên của họ. Qua việc ban Manna và chim cút cho dân lữ hành trong sa mạc, Thiên Chúa vừa chứng tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy tình yêu thương Ngài dành cho dân riêng. Những ai theo Chúa sẽ không bị bỏ rơi, nhưng được Ngài chăm sóc phần hồn phần xác. Ngài nuôi dưỡng họ bằng Manna trong suốt hành trình về Đất Hứa. Được ban mỗi ngày, Manna là nguồn sức mạnh vừa thiêng liêng vừa phàm trần, giúp họ nhận ra sự đồng hành của Chúa.
Trong cuộc tranh luận được thánh Gioan ghi lại, Chúa Giêsu đã chứng minh Người là Bánh bởi trời. Người là Manna mới Chúa Cha ban tặng cho nhân loại, giống như Manna của thời lữ hành. Tấm bánh có tên gọi Giêsu được ban không chỉ riêng cho dân tộc Do Thái, mà là cho cả thế giới. Ngày hôm nay, tấm bánh ấy là Thánh Thể, được hiến dâng mỗi ngày trên bàn thờ để trở nên lương thực thiêng liêng nuôi sống các tín hữu.
Cùng với sự kiện Manna, Cựu ước cũng ghi lại sự cứng lòng của dân Do Thái. Trước sự thiếu thốn vật chất, họ đã nhanh chóng quên tình thương của Chúa thể hiện qua cuộc giải phóng ngoạn mục. Họ phàn nàn kêu trách ông Môi-sen và quy mọi trách nhiệm cho ông. Những nhu cầu vật chất đã khiến họ ước mong trở lại thời nô lệ bên Ai Cập. Chi tiết muốn quay lại Ai Cập được nhắc tới như một sự mỉa mai, bởi vì truớc đó, họ tìm mọi cách để thoát cảnh áp bức và công việc nô dịch tại đất nước này. Cám dỗ của dân Do Thái ngày xưa cũng chính là cám dỗ triền miên của con người mọi nơi mọi thời. Vì vật chất, họ sẵn sàng chối bỏ Thiên Chúa và lãng quên bao điều tốt lành Chúa đã làm trong cuộc đời. Con người cũng thường đổ lỗi cho Thiên Chúa vì những bất tiện hoặc tai ương, trong khi có nhiều tai ương do chính họ là thủ phạm.
Khi dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, Chúa che chở và hướng dẫn họ bằng cột mây, cột lửa và nuôi dưỡng họ bằng Manna, nay Chúa Giêsu là Bánh bởi trời, để nên nguồn sống cho chúng ta. Thánh Thể là Bánh trường sinh. Ai ai ăn bánh này sẽ được biến đổi mỗi ngày để được thần linh hóa và được sống vĩnh cửu. Được nuôi dưỡng bởi bánh từ trời, người tín hữu mặc dù đang sống giữa trần gian đã phần nào nếm hưởng hạnh phúc thiên đàng. Vì hạnh phúc thiên đàng là gì nếu không phải được kết hợp với Chúa, được chiêm ngưỡng và ca tụng tình thương bao la của Ngài?
Những ai lãnh nhận Bánh Thánh Thể mà còn sống trong tội lỗi, sẽ đi ngược lại với ý nghĩa của Bí tích này, vì Thánh Thể là Bí tích của sự canh tân. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em. Hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật”. Nhờ năng rước lễ, người Kitô hữu được biến đổi cuộc đời. Mình Thánh Chúa sẽ tác động và làm cho chúng ta trở nên những tạo vật mới, nên giống Chúa Kitô.
Chúng ta hãy đến tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Người hiện diện trong thinh lặng để lắng nghe những nỗi lòng của chúng ta. Cũng chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới có thể đón nhận lời giáo huấn của Người.
Thánh Thể là lời mời gọi sống hiệp nhất giữa các tín hữu. Cũng như tấm bánh được làm nên bởi muôn hạt miến và chén rượu được chế từ ngàn trái nho, những ai được nuôi dưỡng bởi lương thực thiêng liêng này sẽ được liên kết nên một để cùng nhau làm nên một thân thể huyền nhiệm có Chúa Giêsu là Đầu.
Người tín hữu còn được mời gọi sống màu nhiệm Thánh Thể qua những nghĩa cử sẻ chia mỗi ngày. Noi gương Chúa Giêsu hy sinh hiến mình làm của ăn của uống cho con người, chúng ta hãy dấn thân phục vụ, quan tâm đến lợi ích của những người xung quanh, hầu giúp họ tìm được hạnh phúc trong cuộc sống.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc? Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.
Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh. Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó?
2) Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không?
3) Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Một gia đình đang lái xe trên đường thì con cóc nhảy ngang qua. Ông chồng thắng xe kip thời, bước xuống, mang con cóc đặt qua vệ đường.
Con cóc bỗng nói:
– Cám ơn ông đã cứu mạng. Tôi sẽ cho gia đình ông một điều ước!
Người đàn ông nói:
– Vậy hãy làm cho con chó của tôi thắng cuộc đua hôm nay?
Ông ta gọi con chó ra, và khi thấy nó chỉ có ba chân, con cóc nói:
– Khó quá… Hay ông xin điều khác đi!
Lúc đó bà vợ trong xe bước ra và nói:
– Vậy hãy làm cho tôi thắng cuộc thi hoa hậu năm nay được không?
Cóc nhìn bà vợ rồi quay lại nói với ông chồng:
– Ông… cho tôi xem lại con chó. Xem ra con chó thắng dễ hơn là bà nhà thắng cuộc thi hoa hậu!
Xem ra cuộc đời là một cuộc đua. Đua tìm danh vọng. Đua tìm tiền tài. Đua tìm lạc thú. Con người ra công tìm kiếm thường là danh lợi thú trần gian. Nhu cầu của con người cần có là vật chất, là tiền tài. Họ mải mê tìm kiếm và tôn thờ của cải. Họ hy sinh mạng sống để được nó. Ngay cả khi đến với Chúa, con người xem ra cũng chỉ cầu xin cho có tiền, có địa vị . . . Xem ra chẳng mấy ai thấy được nhu cầu thiết yếu đời người là tìm kiếm của ăn không hư nát là đời sau.
Thực vậy, nhu cầu của con người ngày nay không phải là tâm linh mà là vật chất. Con ngươi gắn bó với thực tại trần gian này hơn là thực tại Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc, nhu cầu vật chất chẳng bao giờ cho đủ. Lòng tham của con người chẳng khi nào dừng. Con người không bao giờ cảm thấy mình đủ với của cải vật chất. Lòng tham khiến con người cứ như con kiến miệt mài tích lũy mà chẳng cần biết có cần dùng tới hay không?
Thật phí phạm nếu chỉ tích lũy mà chẳng có nhu cầu sử dụng! Thật dại dột khi tích lũy một cái mà chẳng có giá trị bền vững! Thật là “dã tràng xe cát biển Đông” nếu tích lũy của phù dù mong manh chóng tàn!
Là người Ky-tô hữu Chúa mời gọi chúng ta hãy gia công tìm kiếm của ăn không hư nát. Đừng uổng phí thời gian tích lũy của phù vân. Hãy sống cho giá trí Tin Mừng. Hãy tìm kiếm giá trị vĩnh cửu. Đó là sứ điệp mà Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta.
Có lẽ nhiều người sẽ bảo không tích lũy của cải trần gian lấy gì mà sống? Điều Chúa muốn nói không phải là đừng làm giầu của cải vật chất mà là dù mình làm bất cứ việc gì hãy đặt giá trị Tin Mừng lên trên. Người giầu vẫn vào Nước Trời khi họ làm giầu theo ánh sáng Tin mừng. Người giầu đôi khi còn dễ vào Nước Trời khi họ biết sử dụng của cải trần gian để xây dựng ngôi nhà Nước trời bằng việc lành phúc đức cho những anh em nghèo khó. Đây cũng là cách chúng ta tích lũy kho tàng trên trời. Đây chính là phương thế chúng ta đang sống gia công làm việc để có lương thực không hư nát.
Quả thực, tiền bạc sẽ qua đi, nhưng công đức của chúng ta sẽ theo ta vào đời sau. Của cải này sẽ trả lại cho thế gian nhưng việc lành phúc đức của chúng ta sẽ giúp chúng ta có sự sống trường sinh.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống quảng đại và hiến thân hầu xây dựng cho mình một ngôi nhà thiên quốc. Xin Chúa giúp chúng ta đừng quá đặt nặng vật chất mà cản lối tiến chúng ta về quê trời. Amen
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Qua những biểu tượng hay dấu chỉ hữu hình, con người có thể nhận ra Thực Tại Siêu Vượt. Qua tấm bánh, con người có thể nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương, săn sóc và dưỡng dục mỗi người và mọi dân tộc.
I. Cơ cấu vật chất- tinh thần
Con người có thân xác, nên phải ăn phải mặc; nhu cầu vật chất là điều chính đáng và cần được thỏa mãn. Tuy nhiên, con người khác con vật, con người không chỉ có nhu cầu vật chất: ăn ngon ngủ kỹ chưa đủ làm con người hạnh phúc. Con người còn có nhu cầu tinh thần. Con người cần được chấp nhận, cần được yêu được thương, cần được phát triển tài năng của mỗi người đến mức độ tuyệt hảo.
Vật chất- tinh thần là cơ cấu của con người. Qua những gì hữu hình vật chất, con người nhận ra tinh thần hiện diện. Con người là tinh thần qua thân xác, thân xác là biểu tượng của con người xét như hữu thể vật chất- tinh thần. Thế nên, kính trọng con người đòi phải kính trọng thân xác con người. Tình yêu đối với con người cũng được diễn tả một cách cụ thể qua thân xác và những gì cụ thể hữu hình. Tình yêu của cha mẹ đối với con cái được diễn tả qua sự hy sinh, vất vả làm việc để nuôi con, kiên nhẫn giáo dục con cái, mong con mình thành người trưởng thành và hạnh phúc.
Bài đọc sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái đói khát trong hoang địa nên đã kêu trách Môsê và Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Manna nuôi sống họ. Họ đòi thịt, Thiên Chúa đã ban chim cút cho họ ăn. Tình yêu Thiên Chúa đối với dân Do Thái được diễn tả qua việc đưa họ ra khỏi Ai cập, qua việc che nắng và soi sáng họ bằng cột mây cột lửa, qua việc cho họ ăn uống. Thiên Chúa diễn tả tình yêu cho con người qua những gì cụ thể hữu hình, và Thiên Chúa cũng mong ước con người nhận ra tình yêu của Ngài, để con người có thể sống tín thác, an bình và hạnh phúc.
II. Siêu vượt- vượt lên những gì vật chất hữu hình
Dân Do Thái trong hoang địa càm ràm Thiên Chúa và Môsê: “Tại sao chúng tôi đã không chết trong tay Đức Chúa tại Aicập khi được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa lòng”. Dân Do Thái đã dừng lại nơi những gì là miếng ăn vật chất, nên đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài can thiệp giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đã ban bánh cho dân, vì cơm bánh là nhu cầu chính đáng của con người; nhưng qua đó Thiên Chúa cũng mời gọi dân Do Thái nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc họ, can thiệp, nuôi dưỡng và dạy dỗ họ ngang qua mọi biến cố.
Không phải chỉ dân Do Thái ngày xưa như vậy, ngày nay nhiều người cũng chỉ dừng lại những gì vật chất, họ đi tìm thỏa mãn hoan lạc nơi miếng ăn và xác thịt, họ chưa nhận ra được giá trị thực của đời người, chưa nhận ra được niềm vui sâu xa trong việc phục vụ và giúp đỡ tha nhân. Đức Giêsu nói với những người đi tìm Ngài chỉ vì bánh ăn: “các ngươi tìm Ta không vì đã thấy dấu lạ nhưng vì các ngươi có bánh ăn. Đừng lao công chỉ để có lương thực chóng qua, nhưng vì lương thực cho cuộc sống vĩnh cửu”. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy giúp nhau nhận ra giá trị đích thực, làm sao để con người có thể sống hạnh phúc ngay trong hoàn cảnh hiện tại.
Con người được mời gọi vượt trên gặp gỡ Thiên Chúa qua những trung gian vật chất. Qua lương thực hằng ngày con người cũng có thể nhận ra tình yêu và sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với mỗi người. Qua tình yêu của người con đối với cha mẹ, hoặc của cha mẹ đối với con cái, mỗi người có thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa cho mình. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, vì con người được tạo dựng giống Thiên Chúa. Cái nhìn siêu vượt, là cái nhìn giúp con người nhận ra Đấng Tuyệt Đối và có tương quan thân thiết với Ngài.
III. Thiên Chúa là Cha của tất cả
Khi một người được sinh ra, người đó là con của người cha người mẹ sinh ra mình. Mỗi người không tình cờ mà hiện hữu trên đời, chính Thiên Chúa đã yêu thương và sinh ra người đó qua cha mẹ của mình. Mỗi người đều có Thiên Chúa là cha là mẹ mình. Mỗi người làm cha làm mẹ đều cố gắng thương yêu tất cả những con mình sinh ra; cũng tương tự như vậy, mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Lịch sử dân tộc Do Thái là một mẫu cho tất cả các dân tộc trên hoàn vũ nhận ra rằng, Thiên Chúa yêu thương dân tộc mình như Ngài đã yêu thương dân tộc Do Thái. Cho tới ngày nay, cho dù dân tộc Do Thái có bị phân tán trên khắp thế giới, cho dù đất nước Do Thái có nhỏ bé và luôn sống trong chiến tranh, thì người ta vẫn tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương dân tộc Do Thái, một dân được tuyển chọn làm dân tư tế, dân trung gian để nói về Thiên Chúa cho mọi người và mọi dân tộc khác.
Do Thái giáo là tôn giáo đặc biệt, vì Thiên Chúa mặc khải qua lịch sử dân tộc Do Thái, và lịch sử dân tộc Do Thái là lịch sử thánh. Kitô giáo là một tôn giáo đặc biệt vì đã được Đức Giêsu Kitô sáng lập, vì đã nhận ra Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Qua Đức Giêsu Kitô, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương mỗi người như yêu thương Đức Giêsu (Ga.17, 23; 15, 8-9). Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo có thể là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp con người sống trong tôn giáo đó gặp gỡ Thiên Chúa theo cách thế riêng của họ; tuy nhiên Kitô giáo là một hồng ân rất đặc biệt cho Kitô hữu và cho tất cả mọi người, ngay cả cho những người sống trong các tôn giáo khác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Đâu là dấu chỉ hay biểu tượng mà qua đó bạn dễ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương bạn nhất? Nếu có, xin bạn chia sẻ.
- Theo bạn, đâu là dấu chỉ hay biểu tượng đặc biệt có ý nghĩa đối với con người ngày nay, giúp con người vươn lên gặp gỡ Thiên Chúa?
CHÍNH LÀ CHA TÔI CHO CÁC ÔNG ĂN
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Sau phép lạ Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều, dân chúng bủa đi kiếm tìm Người; họ thật khẩn khoản, “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Tuy nhiên điều này không làm cho Người hài lòng, vì Người biết quá rõ, họ kiếm tìm Người chỉ để được ăn bánh; “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng… vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Sau phép lạ, Đức Giê-su đã phải ‘lánh mặt, đi lên núi một mình’ vì biết rằng: cho dầu họ có muốn tôn Người lên làm vua đi nữa, thì chẳng qua cũng chỉ vì muốn được tiếp tục ăn bánh, chứ chẳng phải vì muốn chấp nhận Người, lắng nghe lời Người, và còn xa lạ hơn nữa, nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ.
“Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc như có lời chép: người đã cho họ ăn bánh bởi trời… ” còn ông “ông sẽ làm gì đây?” Vấn đề được người Do Thái đặt ra đã rõ: ông cho chúng tôi ăn thứ bánh gì? Đúng là phần lớn diễn từ sau đó (đúng hơn, một cuộc tranh luận) sẽ xoay quanh vấn đề thứ bánh gì, thứ ‘bánh hay hư nát’ hay ‘bánh trường sinh’ đơn giản là vì, đó là mối quan tâm – thắc mắc hàng đầu họ đặt ra cho Người. Tuy nhiên hầu như ngay lập tức và xuyên suốt trong cuộc trao đổi tiếp theo, Đức Giê-su luôn gợi cho họ nhớ về ‘người ban bánh và kẻ cho họ ăn’; “Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời”. Ngay cả sau đó, khi tự giới thiệu mình là ‘bánh trường sinh’, thì Người cũng không quên nhắc nhở rằng, Người đồng thời cũng là đấng ban tặng, vì được Chúa Cha sai đến.
Nếu chỉ nhìn vào bánh như một thứ thức ăn, người ta sẽ dễ dàng có những đánh giá khác nhau. Man-na không được sách Xuất Hành (chương 16) xác định rõ là thức ăn gì (nếu có chút đề cập thì cũng rất chung chung (xem Xh 16:31)). Sách chỉ nhấn mạnh trên sự kiện, nó được Gia-vê ban cho dân làm của ăn hàng ngày suốt hành trình gian khổ trong sa mạc. Man-na trước hết là dấu chỉ Gia-vê ân cần chăm sóc dân riêng trong thời gian xuất hành giải thoát; “Vào buổi chiều các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng các ngươi sẽ được ăn bánh thỏa thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi’ (câu 12). Ngược lại, trong sách Dân Số (chương 11), khi dân ta lên tiếng ta thán Mô-sê, thì Man-na bị chê là không ra gì hết, ‘… bây giờ chỉ thấy toàn Man-na thôi… nó như hạt ngô, trông như nhựa hương… xay ra nấu bánh thì mùi vị nó chẳng khác gì mùi vị bánh chiên dầu…’ (câu 7 và 8). Thế đấy, người Do Thái thời Đức Giê-su chưa tới nỗi chê bánh và cá mà Người đã hóa ra nhiều cho họ được ăn no nê, dầu có thể thức ăn bình dân đó chẳng ngon lành gì cho lắm (nếu là ngày nay, nhất là trong một xã hội sung túc hưởng thụ, có lẽ chúng ta sẽ lên tiếng ta thán vì bánh đó nhàm chán nhạt nhẽo quá chăng). Tuy nhiên phát biểu của họ cho thấy, họ đã hoàn toàn quên mất việc nhận biết ai đã cho họ ăn, và tại sao lại cho. Họ lầm tưởng vào thời cha ông họ, Mô-sê đã cho Man-na là để… tiếp tục lãnh đạo dân, thì nay ông Giê-su cũng làm vì một lý do tương tự; ‘Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây?’ (Ds 11:4) Đức Giê-su đã muốn gợi cho họ nhớ lại mục tiêu chính mà sách Xuất Hành nhắm tới khi tường thuật về Man-na: ‘chính Cha tôi đã cho…’ Tiếp theo đó, khi khảng định chính mình là bánh bởi trời, bánh trường sinh, thì đồng thời Đức Giê-su cũng xác định luôn, Người cũng chính là Đấng ban bánh cho họ, “bánh tôi sẽ ban tặng…” (câu 51), và Người kêu gọi họ không những chỉ đón nhận bánh, mà còn hãy đến với ‘người cho’, đồng thời với Đấng đàng sau ‘người cho’ đó nữa; “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và sẽ không bị loại ra ngoài… Ý của Cha là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời…” (câu 37 và 40). Mục đích tối hậu của việc ăn bánh trường sinh chính là: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
Ăn bánh trường sinh là tin và tiếp nhận trọn vẹn Thiên Chúa tình yêu trao hiến mình cho con người; là hành vi chạm sâu sát nhất tới sự chăm sóc tuyệt diệu của Thiên Chúa đối với con người yếu hèn tội lỗi. Tương tự như khi xưa, dân Do Thái thu gom Man-na để “biết rằng Ta là Đức Chúa”, thì nay Kit-tô hữu rước Mình Máu Thánh Chúa để tuyên xưng: Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo, là tình yêu nhân từ và thương xót, là tình yêu cứu chuộc và trao ban. Mô-sê đã lưu trữ một đấu Man-na trong bình và đặt nó trong cung thánh ‘để giữ lại cho con cháu anh em…’ (Xh 16:53). Cũng thế nếu Bánh Thánh ngày nay có được giữ lại trong nhà tạm, mục đích chính cũng là để gợi nhớ về tình yêu nhân ái này, hơn là chỉ để được thờ lạy kính tôn.
Lạy Bánh Trường Sinh nhiệm mầu, xin cho con hiểu: nếu bánh và người cho bánh chỉ là một, thế có nghĩa là người đó đã trao ban hết, trao ban trọn vẹn chính mình. Bây giờ thì con đã rõ hơn: Thánh Thể và Thập Giá chỉ là một, vì đều là tình yêu tự trao ban đến cạn kiệt. Xin cho con rước lễ sốt sáng như con đường độc đạo đưa con vào chính tình yêu trao ban đó, để rước lễ trở nên cho con nguồn dâng hiến và phục vụ, trọn vẹn và mãi mãi. A-men.
Văn Hào
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giê-su, vị mục tử nhân lành giàu lòng yêu thương con người đã nhân bánh và cá lên gấp ngàn lần để cho 5000 người ăn no nê. Phép lạ đã xảy ra. Nhưng chắc chắn Đức Giê-su không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một chuyên viên đi làm công tác từ thiện xã hội, hoặc xóa đói giảm nghèo. Phép lạ Đức Giê-su thực hiện là một dấu chỉ khải thị một chân lý sâu xa hơn. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Đức Giê-su không đóng vai một nhà từ thiện giầu hảo tâm, giúp con người vượt qua cái đói vật chất. Ngài chính là Đấng Cứu Độ, là Bánh Trường Sinh, Đấng đến trần gian để cho chúng ta được sống. Đó chính là nội dung bài diễn từ về bánh mà Thánh Gioan trình bày cho chúng ta trong chương 6, bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay.
- Tấm bánh thần thiêng
Năm 1868, một cô gái người Bỉ yếu ớt được in năm dấu thánh. Cô ta tên là Louis Lateau. Từ đó trở đi, cô không còn có thể ăn uống được nữa. Trong bảy năm trời, cô ta sống nhờ lương thực duy nhất là rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với chị Têrêsa Newman và cô Matta Robin, người Sáng lập Tu hội Bác Ái. Những điều kỳ diệu đó phần nào chứng minh cho lời Chúa nói hôm nay: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát nhưng để có lương thực mang lại sự sống trường sinh, là lương thực mà Con Người sẽ ban cho các ngươi.” (Ga 6, 27). Thế, lương thực Chúa nói đây là lương thực gì?
Chúa Giê-su đã công bố: “Tôi là Bánh Trường Sinh”. Để có tấm bánh, dù là bánh bột mì hay bột gạo, trước hết phải có hạt. Hạt được gieo trồng trong ruộng, rồi phải có người tưới nước, làm cỏ, bón phân. Hạt lúa cần ánh nắng để được chín vàng. Kế đến phải có người gặt, đem về xay thành bột. Bột được nhào, nặn thành bánh và bánh phải được nung chín trong lò. Đức Giê-su, tấm bánh được Thiên Chúa ban tặng, cũng trải qua những công đoạn tương tự như thế. Ngài đã được cấy vào mảnh ruộng trần gian, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài cũng đã được lớn lên trong ánh nắng mặt trời vùng quê Nazareth, đã vươn lên giữa đám cỏ lùng trong thửa ruộng dương gian. Ngài đã trưởng thành, đã chín vàng dưới ánh nắng kỳ diệu của Thần Khí. Sau cùng, Ngài đã được gặt hái, bị nghiền nát phơi thây trên Thập Giá, và được nung chín trong cuộc khổ nạn. Ngài đã trở nên một Tấm Bánh, được bẻ ra và hiến trao cho nhân loại. Tấm bánh Giê-su được hiến tặng cho ta chính là tấm bánh được nướng chín trong mầu nhiệm Thập Giá, nơi kết tụ đỉnh cao của Tình yêu mà Thiên Chúa đã tỏ bày.
Văn hào Fortry đã viết: “Dầu bầu trời có tối đen đến mấy đi nữa, thì Thánh Giá vẫn là dấu hiệu cao cả nhất và tuyệt vời nhất của tình yêu”. Cha Thánh Gioan Maria Vianney cũng diễn tả một xác tín tương tự: “Chúng ta phải đeo bám vào Thập Giá Chúa như một kẻ hà tiện bám víu vào tiền bạc, vì Thánh Giá là chóp đỉnh của tình yêu, là lương thực trường sinh, là nguồn mạch cứu độ”.
Chúa Giê-su đã nói: “Ai tin vào tôi sẽ được sống đời đời”. Tin vào Đức Giê-su, Đấng bị phân thây trên Thập Giá, chính là tiếp nhận Ngài, mở lòng ra để “ăn” Ngài, vì Ngài chính là tấm bánh cứu độ được bẻ ra và được phân phát nhưng không cho tất cả mọi người.
Muốn trở nên lương thực nuôi sống con người, tấm bánh phải được nghiền nát và bị phân hủy để đi vào thịt máu, đem lại cho chúng ta sự sống. Đây là định luật về Bánh, đã được chính Đức Giê-su biểu tỏ qua cái chết của Ngài trên Thập Giá. Định luật đó cũng được Chúa Giê-su chuyển giao để chúng ta sống và thực hành: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày theo tôi”.
- Sống định luật về bánh
Văn hào Leon Tolstoi viết một tiểu thuyết ngắn với tựa đề: “Con người chúng ra sống bằng gì?” Tác giả nêu ra câu hỏi và trả lời ngay sau đó “Con người chúng ta sống bằng tình yêu”. Tần Thủy Hoàng ngày xưa đã cho nhiều người tài giỏi đi khắp nơi lùng sục những thang thuốc quý, hay những lương thực cao lương mỹ vị để được sống mãi. Nhưng ông ta đã chết, cũng như tất cả mọi người khác. Dùng đồ ăn thức uống hằng ngày cũng chỉ có thể vỗ béo và tẩm bổ thân xác hầu kéo dài thêm thời gian sống, nhưng cuối cùng ai ai cũng phải chết. Trái lại, sống bằng tình yêu, con người sẽ không bao giờ chết. Thánh Gioan trong thơ thứ nhất, đã định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, nên những ai đi vào quỹ đạo tình yêu với Thiên Chúa và sống sung mãn huyền nhiệm yêu thương, người đó không bao giờ chết. Điều đó, chính Đức Giê-su đã khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh đem lại sự sống cho trần gian (Ga 6, 33-35). Ai ăn bánh này sẽ không còn đói.. Ai tin tôi sẽ được sống đời đời”. Định luật về bánh phản chiếu qua mầu nhiệm Thập Giá luôn hàm ngậm một nghịch lý. Hạt lúa được gieo vào lòng đất phải thối đi mới có thể nảy mầm và đơm bông kết trái. Tấm bánh phải được nhai nát, được tiêu hủy trong dạ dày mới có thể chuyển hóa thành máu và thịt. Cũng vậy, chúng ta phải đi qua cái chết mới đến được sự sống, phải đi qua Thập Giá mới có thể đón nhận vinh quang. Per Crucem ad Lucem. Per angusta ad augusta.
Con đường theo Đức Ki-tô, tấm bánh được bẻ ra, không phải là con đường thẳng tắp và phẳng lặng. Lối bước Thập Giá không phải là nẻo đường được đan kết bằng những bông hoa và nụ cười. Đó chính là con đường gập ghềnh đầy sỏi đá gai chông, là con đường đưa dẫn đến núi sọ và huyệt đá, hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy để cùng chịu đóng đanh và cùng chết với Chúa Giê-su. (Mt 16, 24-25). Muốn trở thành môn đệ Ngài, chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh được nghiền nát, được bẻ ra để phân chia cho mọi người.
- Ví dụ cụ thể
Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Rôma đến Mỹ mang theo một số Giám Mục tham dự công đồng Vaticanô II trở về, có một tiếp viên hàng không khá xinh đẹp. Cô ta ân cần phục vụ hành khách, nhưng hôm đó cô tỏ vẻ hơi khó chịu vì có một cặp mắt cứ nhìn cô đăm đăm mỗi khi cô xuất hiện. Cô khá bực mình và cũng hơi bối rối, vì đó lại là cặp mắt của một vị Giám Mục đáng kính và khá nổi tiếng lúc bấy giờ: Đức Cha Fulton Sheen. Khi phi cơ đáp xuống, Đức Cha là người sau cùng rời máy bay. Ngài tiến lại gần cô tiếp viên và nói: “Thưa cô, cô rất xinh đẹp. Cô hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời như thế”. Vị Giám Mục nói rất đứng đắn và trang nhã, nhưng cũng đầy trìu mến. Chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa tại văn phòng của Đức Cha ở New York. Người đến gặp Đức Cha không ai khác, mà chính là cô tiếp viên hôm nọ. Cô vào đề ngay: “Thưa Cha, con phải làm gì để cám ơn Chúa đã ban tặng cho con sắc đẹp?” Thay vì trả lời, Đức Cha hỏi lại cô: “Cô có bao giờ nghe nói về trại phong Di Linh ở Việt Nam chưa?” Cô trả lời rằng cô có biết qua báo chí. Đức Cha nói tiếp “Những người cùi ở đó cũng xinh đẹp lắm. Chúa Giê-su đang hiện thân nơi họ. Nếu cô muốn cám ơn Chúa, cô hãy sang Việt Nam và phục vụ họ như Chúa Giê-su đã yêu thương và phục vụ chúng ta”. Cô tiếp viên xinh đẹp đó đã bay sang Việt Nam và sau đó trở thành nữ tu. Châm ngôn sống của cô là “Tôi cũng phải trở nên như một tấm bánh được bẻ ra để trao ban tình thương của Chúa Giê-su cho những người cùng khổ.”
Kết luận: Xin được tóm kết với bài thơ ngắn của thi sĩ Thagor: “Tôi đã nài xin Chúa cất khỏi tôi sự kiêu hãnh. Chúa trả lời rằng không. Chính tôi là người phải phấn đấu để vượt thắng. Tôi đã nài xin Chúa cho đứa con tật nguyền của tôi được lành lặn. Chúa nói không. Tinh thần mới cần lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ. Tôi đã nài xin Chúa cho tôi được hạnh phúc. Ngài cũng nói không. Ơn Ta thì luôn đủ cho con, hạnh phúc con phải tìm lấy. Và cuối cùng tôi xin Chúa ban cho tôi một quả tim để biết yêu thương. Chúa nói rằng đây là lời cầu nguyện Ta vẫn hằng mong chờ. Ta sẽ ban cho con một trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương để con trở nên như một tấm bánh được bẻ ra, được nhai nát và góp phần đem lại sự sống cho mọi người”.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tôi có dịp hành hương sang Aicập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Ai cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai cập! Thà làm nô lệ Ai cập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Ai cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Ai cập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa. Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
- Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
a) Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
b) Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
- Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
- Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống ” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô : “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể, Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.
Trầm Thiên Thu
Khi chưa biết về vật gì, người ta sẽ thắc mắc: “Cái gì đây?”. Rồi tìm hiểu, nghiên cứu, nhờ đó mà có thể biết đó là cái gì và để làm gì. Khi dân Ít-ra-en đi qua sa mạc để đến Đất Hứa, người ta cũng đã từng thắc mắc khi thấy “vật lạ” từ trời rơi xuống như mưa: “Cái gì đây?”.
Manna hoặc Mana là loại thực phẩm đặc biệt, ăn được, nhìn trắng như sương muối, rơi xuống từ trời vào ban đêm, trong như pha lê hoặc giọt sương, rồi cứng dần và dính, biến thành màu trắng, vàng, hoặc hơi nâu, giàu chất carbohydrates (chất cần thiết để cơ thể hoạt động), nhưng manna sẽ tan biến khi nắng lên. Từ ngữ manna được đề cập 5 lần trong sách Xuất Hành (Xh 16:26-35), được đề cập 3 lần trong Kinh Koran.
Một số học giả cho rằng manna do tiếng Ai Cập là mennu, nghĩa là “đồ ăn”. Theo Kinh Thánh, manna là “man hu”, có nghĩa là “cái gì đây?” – tương tự Anh ngữ là “what is it?”, hoặc Pháp ngữ là “qu’est-ce que c’est?”. Nhưng người ta cho rằng từ “man hu” có thể có từ nguyên là tiếng A-ram chứ không phải là tiếng Do Thái.
Trình thuật Xh 16:2-4. 12-15 cho biết: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ nói: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!”. Khổ gì thì khổ, chứ khổ vì đói khát thì khổ lắm. Vì miếng ăn người ta có thể dám làm bất cứ điều gì, thậm chí không ngần ngại bán rẻ danh dự hoặc lương tâm. Bất chấp hết! Vì miếng ăn mà xảy ra tranh chấp, chiến tranh, ngay cả tình thân cũng có thể mất chỉ vì miếng ăn. Khốn nạn thật!
Nhà ngụ ngôn La Fontain (1621-1695, Pháp) nói: “Cái bụng đói không thể lắng nghe”. Và rồi, cũng chỉ vì cái bụng đói cồn cào, thằng Bờm chứ không cần thứ gì quý giá mà không thể ăn ngay, chỉ cần nắm xôi ăn ngay, thực tế là thế đó! Danh y Anthony: “Thực phẩm là cội rễ của vạn vật. Chính thực phẩm và chỉ có thực phẩm mới là thuốc chữa bách bệnh”. Ăn không chỉ để no bụng mà còn để duy trì sức khỏe. Chế độ ăn uống tốt khả dĩ ngăn ngừa bệnh tật.
Thiên Chúa cũng rất thực tế, Ngài thấu hiểu nỗi khổ của dân nên Ngài phán với ông Mô-sê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không”. Và Ngài cho ông Mô-sê biết: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.
Thật vậy, vào buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi, trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? – Cái gì đây?”. Ông Mô-sê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Thật hay mơ? Nếu thật như thế thì đỡ khổ, khỏi lo đói khát nữa, vì đã có thịt chim cút và bánh để ăn. OK lắm!
Thiên Chúa thử thách chúng ta không phải vì Ngài không biết nên phải “dò sóng”, mà Ngài biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới. Ngài thử thách để tôi luyện niềm Tin Cậy Mến của chúng ta mà thôi. Một khi nhận ra phép lạ của Thiên Chúa thì người ta không thể lặng im: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4).
Với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, một lời tuyên phán là có cả trời đất và muôn loài trong đó, nói chi chuyện rẽ nước cho dân Ít-ra-en băng qua và vùi lấp quân Ai Cập trong biển nước (Xh 14:15-31). Manna và chim cút chỉ là “chuyện nhỏ của chuyện nhỏ” mà thôi: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Manna được gọi là “bánh thiên thần”, nhắc chúng ta nhớ tới Bí tích Thánh Thể – bánh thiên thần đặc biệt mà chúng ta được tận hưởng, còn dân Ít-ra-en xưa không hề biết đến. Chúng ta hạnh phúc hơn họ mà không biết tạ ơn Chúa đấy!
Thánh Phaolô nói: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Lời khuyên dành cho dân Êphêsô ngày xưa nhưng vẫn “nóng hổi” với chúng ta ngày nay, vì chúng ta vẫn chưa loại bỏ được sự ảo tưởng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – cả đời và đạo. Nói hay, muốn nhiều, làm chẳng bao nhiêu!
Chẳng oan ức gì đâu, như Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Còn anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:20-24). Quả thật, phàm nhân chúng ta vẫn mê muội, ù lì, viện nhiều cớ nên vẫn giậm chân tại chỗ – đôi khi còn thụt lùi mới đáng sợ. Bao Mùa Vọng, bao Mùa Chay, bao kỳ tĩnh tâm, bao lần xưng tội, bao lần quyết tâm,… Tất cả cứ theo nhau qua đi, con người cũ vẫn chẳng đổi mới được bao nhiêu! Đúng như tiền nhân ví von: “Chó đen giữ mực. Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ”. Chắc hẳn đã nhiều lần chúng ta tự nhủ : “Tại sao vậy?”. Lý do thực tế và đơn giản lắm, vì “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình” (Đại đế Napoléon), và “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Khốn nạn thân tôi!
Thấy manna, dân Ít-ra-en lấy làm lạ, vì chưa hề thấy bao giờ, thế nên họ hỏi nhau: “Cái gì thế nhỉ?”. Tương tự, khi thấy người lạ, chúng ta thường hỏi: “Ai đây?”. Và còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy trong cuộc sống đời thường này. Thắc mắc không chỉ vì tò mò mà để tìm hiểu. Biết thắc mắc đúng sẽ dẫn tới sự khôn ngoan.
Một hôm, khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ cũng không có ở đó, thế là họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi gặp thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài trả lời nhưng có ý trách họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:26-27). Khi cầu nguyện, chúng ta cũng thường chỉ muốn xin là chính, nhất là muốn “xin như ý mình”, mà lại quên chúc tụng và tạ ơn! Chúng ta có đáng trách không nhỉ? Chắc chắn ngại trả lời ghê đi!
Nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ liền hỏi Ngài: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Thật lòng mà hỏi như vậy thì tốt lành biết bao, vì muốn vâng ý Chúa chứ không theo ý mình. Và Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Thế nhưng họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Thì ra họ chẳng thành tâm chi cả, mà họ chỉ muốn “bắt bẻ” Chúa Giêsu mà thôi. Đúng là họ dốt mà chảnh. Và chúng ta cũng thế!
Đức Giêsu vẫn thản nhiên và nói thẳng: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33). Có lẽ lúc này họ đã “sáng mắt” nên họ liền xin Ngài cho họ được ăn mãi thứ bánh ấy. Biết xin như vậy là tốt. Và Chúa Giêsu xác định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Và họ lại xì xầm với nhau, cho rằng Chúa Giêsu nói những lời “khó lọt lỗ tai”.
Tuy nhiên, đó là sự thật, thật hơn cả sự thật. Ngày nay, chúng ta may mắn hơn họ vì đã được hưởng di sản quý báu vô cùng: Đức tin Công giáo, đức tin tông truyền. Và chúng ta không phải thắc mắc như dân Ít-ra-en xưa: “Cái gì thế nhỉ?”. Vâng, chúng ta thực sự vô cùng may mắn!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thắc mắc đúng và tìm hiểu cho thấu đáo, nhờ đó mà có thể duy trì ba nhân đức đối thần trong mọi hoàn cảnh. Vâng, lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin cho con, để nhờ vững tin mà con có thể trông cậy nơi Ngài, và yêu mến Ngài qua tha nhân. Xin cho con được no thỏa ân tình Thiên Chúa và Thánh Thể Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Linh, đến muôn đời. Amen.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Con người chúng ta có 3 phần: thể xác, tinh thần và tâm linh hay linh hồn, và cần những nhu cầu căn bản cần thiết. Nhu cầu căn bản thứ nhất cho thể xác là thức ăn và nước uống. Nhu cầu thứ nhì cho tinh thần là tình yêu, sự thương mến và tình cảm qua các mối liên hệ gia đình, bạn bè, thân thuộc hay đoàn thể. Nhu cầu căn bản cần thiết thứ ba cho tâm linh, cho linh hồn là thức ăn tinh thần, Lời Chúa và Thánh Thể.
Chúng ta biết của ăn, thực phẩm và vật chất cho thân xác luôn là một miếng mồi rất dễ cám dỗ của ma quỉ. Muốn có thức ăn và vật chất, phải cần tiền, vì vậy, ma quỉ dùng mọi cạm bẫy, phương cách để dụ dỗ con người có nhiều tiền, nhưng nhiều khi bất an trong đời sống, gia đình mất hạnh phúc và hòa thuận, gây chia rẽ, ganh ghét và tranh chấp trong cộng đoàn, và làm cho nhiều người mất đức tin. Vì thức ăn, thế giới nhân loại chém giết nhau, và gây nên những tranh chấp, hận thù và khổ đau. Ma quỉ cũng đã từng dùng thức ăn để cám dỗ Chúa Giê-su, khi Ngài cầu nguyện, ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, và Chúa đã trả lời “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.”
Các bài Kinh thánh hôm nay muốn dạy chúng ta, những Ki-tô hữu, biết phân biệt rõ ràng hai thứ thức ăn cho cuộc sống mau hư nát và thức ăn cho sự sống vĩnh cửu, cũng như giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa về những nhu cầu thiết yếu này trong đời sống, và nhất là ai là người cung cấp những nhu cầu đó cho chúng ta.
Bài đọc 1 trích sách Xuất hành tường thuật cho chúng ta biết tình cảnh thiếu thốn thức ăn cho thân xác của dân Chúa trong sa mạc, trên con đường về Đất hứa, và lòng nhân từ của Thiên Chúa đã ban man na để nuôi sống họ. Chúa muốn họ tin vào Chúa, tin vào lòng yêu thương và sự quan phòng của Ngài trong hành trình, cho nên Chúa cho họ có thể ăn uống thỏa thuê, nhưng không được tích trữ, chỉ lấy lương thực đủ cho ngày đó, nếu tham lam tích trữ, manna sẽ hư hại hôm sau.
Trong bài đọc 2 và trong các bài khác, Thánh Phaolô phân biệt và cho chúng ta thấy chủ đích và hai đường lối sống của dân ngoại và của những tín hữu, tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Thứ nhất là dân ngoại, họ sống theo lối sống phù phiếm, và chỉ biết dùng hết mọi khía cạnh cuộc sống để kiếm tiền, để có của ăn và hưởng thụ cho thân xác sẽ ra hư nát. Ngược lại, các Ki-tô hữu, ngoài thân xác, còn có tinh thần và linh hồn, cho nên phải sống theo Thánh Thần hướng dẫn, và sống theo những lời chỉ dạy của Đức Kitô, để có tình yêu thương hợp nhất, liên kết trong “Thân Thể Chúa Ki-tô”, và được ăn lương thực tinh thần, được nuôi sống bằng sự chân thật, bằng chân lý của Chúa, để sống công chính, thánh thiện. Vì yêu thương, thánh Phao-lô đã khuyên nhủ mọi tín hữu hãy từ bỏ nếp sống cũ, và trở về với đời sống chân chính theo hình ảnh của Chúa Giê-su.
Trong bài Tin mừng tuần trước, Chúa Giêsu đã hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng theo người, và sau đó họ muốn tôn Người lên làm vua, nhưng Chúa đã tìm cách trốn lánh đi. Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta ngạc nhiên nghe đám đông thách thức Chúa thực hiện một dấu lạ gì để họ có thể tin vào Người. Trước đây, họ tin và muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng bây giờ, họ tỏ ra một thái độ thật khác lạ với Chúa. Thật khó tưởng tượng và hiểu được đám đông dân chúng. Chúng ta nhận thấy họ tìm kiếm Chúa theo ý muốn của họ, chứ không phải theo ý Chúa. Họ theo và tìm đến Chúa vì vật chất, vì thức ăn cho thể xác, và qua cái nhìn của trần thế, vì vậy Chúa đã phải thốt lên “Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê.” Hay nói một cách khác, họ muốn tìm đến với Chúa để có những bữa ăn miễn phí. Họ muốn tôn Chúa làm vua để giải phóng họ khỏi cảnh xâm lăng, nô lệ của ngoại bang. Nhưng Chúa cố gắng nâng sự suy nghĩ của họ lên cao hơn, để họ có thể nhìn thấy ý nghĩa, giá trị của đời sống tâm linh, vì vậy, Chúa cho họ biết phép lạ nuôi sống họ bằng bánh và cá là chính dấu chỉ Chúa muốn nuôi sống đời sống tâm linh của họ bằng bánh hằng sống, là chính Người, bởi Thiên Chúa từ trời ban xuống cho sự sống vĩnh cửu đời sau của họ. Nhưng Chúa cho chúng ta biết họ đã không nhìn thấy ý nghĩa dấu chỉ Người đã làm, ngoài bữa ăn miễn phí.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta cũng không nên quá nặng nề và khó khăn với họ, vì thật ra và nếu chúng ta thành thật, nhiều khi chúng ta đến với Chúa là để có những bữa ăn miễn phí, hay tìm những phép lạ cho cuộc sống hiện tại. Nhiều khi, chúng ta tìm đến Chúa không phải để vững tin vào Chúa hơn, để yêu mến Chúa hơn, để nghe và sống Lời Chúa dạy, và để có một sự liên hệ mật thiết với Chúa.
Hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta một bài học quan trọng, Chúa nói “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống.” Chúng ta biết để có thức ăn nuôi thân xác, quần áo mặc, nhà cửa để có chỗ trú thân hay xe cộ là phương tiện di chuyển chúng ta phải làm việc. Thế nhưng, có phải Chúa muốn chúng ta không cần phải làm việc, chỉ ngồi xem TV hay cầu nguyện là có mọi sự miễn phí không? Thưa: Đó không phải ý hay điều Chúa muốn nói. Chúng ta thấy Chúa cũng phải di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác và phải làm việc như dạy dỗ, làm phép lạ, như chúng ta. Ở đây, Chúa muốn dạy chúng ta nhìn xa hơn cuộc sống ở đời này, đến cuộc sống vĩnh cửu đời sau, và tìm kiếm những nhu cầu cần thiết cho linh hồn, là chính Chúa.
Tất cả mọi người chúng ta cần đến những nhu cầu cần thiết cho phần xác, tinh thần và linh hồn. Và chúng ta nhận biết Thiên Chúa yêu thương, nhân từ và rất quảng đại với chúng ta, cho nên, Ngài ban cho chúng ta đời này nhiều ơn lành hồn xác đầy đủ. Là những Ki-tô hữu, chúng ta tin ngoài cuộc sống đời này, còn có sự sống vĩnh cửu đời sau. Chúa kêu gọi chúng ta đừng quên chú ý và chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, tin vào Chúa và sự quan phòng của Người. Xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan, để chúng ta biết phân biệt thức ăn mau hư nát, và thức ăn vĩnh cửu. Chúng ta hãy thật lòng tìm đến Chúa, để Chúa ban cho chúng ta Lời Chúa, là ánh sáng dẫn dắt chúng ta trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế, và ban cho chúng ta Bánh Bởi Trời, là chính Chúa và là Thánh Thể, để chúng ta có sự bình an và sức mạnh, cũng như có can đảm sống Lời Chúa dạy.
TÔI ĐANG TÌM KIẾM GÌ TRONG CUỘC ĐỜI?
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Một trong những khao khát sâu thẳm của con người là được trường sinh bất tử, kéo dài tuổi thọ. Con người dường như luôn bị dằn vặt, trăn trở khi phải đối diện với sự tàn tạ, suy thoái của thân xác. Vì thế, họ tìm kiếm linh dược để kéo dài sự sống của mình. Khao khát này được thể hiện qua việc chăm lo cho khẩu phần ăn mỗi ngày được đầy đủ và nâng cao chất lượng, tìm kiếm các đồ ăn bổ dưỡng để tẩm bổ cho cơ thể mình. Tuy nhiên, những thứ mà người ta cho là bổ, là tăng lực, thì có khi lại là thứ đem bệnh tật đến cho con người và khiến họ mau chết hơn. Người ta thường quên rằng, thân xác con người không thể cưỡng lại quy luật của vật chất. Điều quan trọng không phải là sống thọ hay không thọ, mà là sống như thế nào, sống với mục đích gì, điều đó nó mới làm nên giá trị, chất lượng cuộc sống và làm nên sự bất tử cho con người.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập bằng cánh tay hùng mạnh. Ngài dẫn họ 40 năm rong ruổi trong sa mạc, che chở họ bởi bao phép lạ lẫy lừng. Dầu vậy, họ vẫn không tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Họ tỏ ra vô ơn bội bạc, trách móc Thiên Chúa và Môsê : Tại sao ông lại đưa chúng tôi và sa mạc để chúng tôi phải chết đói, chết thèm thế này ? Họ tiếc nuối quá khứ, thèm khát miếng thịt, miếng bánh đến độ muốn quay trở về kiếp sống nô lệ. Thiên Chúa biết rõ sự vô ơn và thay lòng đổi dạ của họ, song Ngài vẫn đáp ứng những điều họ thèm khát. Thiên Chúa hứa sẽ cho họ bánh và thịt không chỉ ăn một hai ngày mà ăn trường kỳ, ăn dư thừa. Để thực hiện lời hứa này, Thiên Chúa đã cho mưa manna xuống, dân chúng mỗi sáng chỉ việc nhặt về xay thành bột, nướng thành bánh để ăn. Ngài cũng cho họ ăn thịt dư thừa như thế trong suốt 40 năm.
Hình ảnh manna từ trời rơi xuống là hình ảnh phép lạ báo trước và phép lạ hóa bánh ra nhiều cũng là một hình ảnh báo trước một phép lạ mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện sau này. Tin Mừng thuật lại : Sau khi được ăn bánh no nê bởi phép lạ, thì dân chúng đã kéo nhau đi tìm Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Chúa Giêsu biết họ đi tìm Ngài là để có của ăn. Nhưng Chúa Giêsu không muốn dùng của ăn vật chất để thu hút và lôi kéo đám đông. Sứ mạng của Ngài không phải là thực hiện những vấn đề liên quan đến nghèo đói của xã hội, mà Chúa Giêsu dùng phép lạ hóa bánh để đưa dân chúng đến một thực tại cao hơn, xa hơn. Việc giải quyết một bữa ăn cho hơn năm ngàn người chỉ là dịp để Chúa hướng họ đến một thứ lương thực khác, lương thực sẽ giải quyết cái đói của con người trên bình diện tâm hồn hơn là bình diện vật chất.
Theo Chúa không phải để thỏa mãn cho cái bụng, cũng không để tìm kiếm sự giàu sang vật chất. Vì thế, Chúa Giêsu cảnh tỉnh đám đông rằng : Phải ra công làm việc để tìm kiếm lương thực trường tồn, lương thực đem lại phúc trường sinh, đó chính là mục đích quan trọng nhất của cuộc đời con người. Lương thực ở trần gian rồi sẽ vơi cạn, chỉ có thể nuôi sống thể xác, còn lương thực mà Đức Kitô ban tặng là lương thực nuôi sống cả linh hồn và là bảo đảm cho hạnh phúc Nước Trời. Đó là thứ lương thực mà mọi người phải ưu tiên tìm kiếm. Lương thực ấy là chính Thánh Thể, là Mình Máu Chúa Kitô. Những ai tìm kiếm, đón nhận Ngài, hay nói đúng hơn ai ăn Ngài thì sẽ được Ngài thông truyền sự sống trường sinh và được thỏa mãn mọi cơn đói khát trong tâm hồn và thể xác.
Chúng tôi phải làm gì để có được thứ bánh ấy ? Đó là câu hỏi của những người Do Thái khi nghe nói về thứ lương thực đem đến trường sinh bất tử. Chúa Giêsu đã trả lời cách rõ ràng và dứt khoát : Hãy tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Tin và đón nhận Đức Giêsu là điều kiện tiên quyết để có thể lãnh nhận được sự trường sinh bất tử. Tin vào Đức Giêsu không chỉ là thuộc lòng một số điểm giáo lý, cũng không phải là một cái tên Kitô hữu bên ngoài, cũng không chỉ là thực hành một số việc đạo đức, mà là phải chấp nhận để cho Ngài chi phối đời sống, sống dưới sự hướng dẫn của Ngài, dám bước vào con đường Ngài chỉ dạy, dám làm bạn với Ngài, làm môn đệ của Ngài.Nói như thánh Phaolô : Tin vào Đức Giêsu là phải chấp nhận sống một con người mới, một suy nghĩ mới, một cuộc đời mới. Đừng ăn ở như người dân ngoại, họ tìm kiếm những của phù phiếm đời này, mà hãy để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và mang lấy một con người mới, con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Thưa cộng đoàn, mỗi người hãy dừng lại để đặt cho mình câu hỏi : Tôi đang tìm kiếm điều gì ? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau. Nhiều người đang lao đi tìm kiếm mà không biết mình tìm gì, không biết mình sống để làm gì. Nhiều người dư thừa của cải vất chất, nhưng vẫn cảm thấy thiếu thốn. Sự bận rộn, thiếu thốn ấy là dấu chỉ cho thấy một sự thiếu thốn sâu thẳm, đó là thiếu bình an, hạnh phúc, nhất là thiếu Chúa trong cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay cảnh báo các bậc làm cha mẹ đang vất vả tìm kiếm lương thực cơm bánh cho gia đình. Hãy tìm kiếm lương thực đem đến hạnh phúc và sự sống đời đời cho mình và gia đình. Đừng lấy lý do bận rộn để từ chối việc lãnh nhận Bánh Thánh Thể là lương thực bảo đảm cho hạnh phúc đích thực. Đừng để gia đình mình dư thừa cơm bánh vật chất, tiền của, nhưng lại thiếu thốn tình yêu, hạnh phúc, và nhất là thiếu vắng sự hiện diện của Chúa trong gia đình.
Mỗi người cần nhìn lại cuộc sống của mình và của gia đình để can đảm điều chỉnh, cùng nhau mang lấy con người mới, nếp sống mới của Đức Kitô. Hãy cởi bỏ những gian tham, lừa dối, tham lam để biết ưu tiên tìm kiếm Đức Giêsu và lương thực của Ngài. Hãy để cho Ngài chi phối và biến đổi từ trong suy nghĩ, chọn lựa và cách sống của mình. Hãy dọn những bữa ăn Lời Chúa mỗi ngày cho gia đình trong các giờ kinh, giờ cầu nguyện, nhất là hãy cùng nhau đến lãnh nhận Bánh Thánh Thể mỗi ngày. Chúa sẽ đem đến cho gia đình hạnh phúc và sự sống của Chúa.
Lối sống thực dụng, hưởng thụ, tiêu thụ ngày nay đang ảnh hưởng trên các bạn trẻ. Họ cho rằng : Có thực mới vực được đạo. Lý luận này vừa mang tính thực dụng vừa cho thấy sự chọn lựa của giới trẻ ngày nay. Nhiều bạn đang ưu tiên tìm kiếm cho mình nhiều thứ như : việc học hành, thành công, tiền bạc, đẳng cấp, bạn bè hơn là quan tâm đến đời sống đạo và hạnh phúc đời đời. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy biết xếp lại thứ tự ưu tiên của cuộc đời, dám đặt Chúa vào vị trí ưu tiên số một. Hãy để cho Ngài đáp ứng sự khao khát tìm kiếm của mình. Các bạn đừng ngại đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, đừng ngại lãnh nhận Thánh Thể của Ngài cách thường xuyên, vì Ngài không bao giờ làm phiền chúng ta. Trái lại, Ngài sẽ đem đến cho chúng ta hạnh phúc và giúp chúng ta thành công trong những ước nguyện và khao khát chính đáng của chúng ta.
Xin Chúa giúp cho mỗi người luôn biết ưu tiên tìm kiếm lương thực là Lời Chúa và Thánh Thể của Ngài, là lương thực mang lại sự sống và hạnh phúc đời đời cho chúng ta. Amen.
Lm. Jos. DĐH
Trẻ trồng na, già trồng chuối, câu tục ngữ ấy nói lên một thực tế : tuổi trẻ hay tuổi già đều có cơ hội làm việc, và làm việc còn có tính hệ thống khoa học nữa. Người Việt vốn cần cù chăm chỉ, được đúc kết, được cụ thể hóa qua câu ca dao : có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần cho ta; tằm có lứa, ruộng có mùa, chăm làm trời sẽ đền bù có khi. Những người thành đạt hôm nay, có thể họ đã chịu tác động từ hai yếu tố gia đình và xã hội, tuy nhiên, giá trị của công danh sự nghiệp không thể không nói tới sự tận lực chăm chỉ làm việc của mỗi cá nhân.
Cùng đích mà người đời hướng tới đâu phải là có việc làm ổn định, không phải là đồng lương nhiều hay ít, đúng hơn phải là làm gì để đạt tới hạnh phúc thật. Việc đám đông dân chúng tìm Đức Giêsu xưa kia không hề dễ dàng, khi gặp ở bên kia biển hồ, đám đông ấy lại chẳng xác định được là họ tìm gặp ông Giêsu để làm gì, họ ngớ ngẩn hỏi : “thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ” ? Các chuyên gia tâm lý khi phân tích tình trạng một người cất bước đi mà không biết mình đi đâu, hẳn sẽ kết luận, đó là người mắc “tâm bệnh”.
“Hãy ra công làm việc”, một sứ điệp còn vang vọng mãi : không phải chỉ đơn thuần là con người ra công làm việc để có tiền có quyền; nhưng còn là thỏa mãn sự đói khát sâu thẳm trong tâm hồn. Cơn đói khát tâm linh luôn làm cho ta dại khờ trước thế gian, chính vì tác động yêu thương của Chúa Giêsu, đám đông dân chúng xưa đã biết hỏi : “chúng tôi phải làm gì để thực hiện việc Thiên Chúa muốn” ? “Hãy ra công làm việc” cũng là “tín hiệu” nhắc nhớ dù trẻ khỏe hay cao niên già lão, chúng ta vẫn là người có ích cho gia đình xã hội, một khi biết làm việc theo thánh ý Chúa.
Xưa nay gì cũng vậy, con người dễ lầm tưởng tôi no thỏa trong hạnh phúc ở đời này là do công khó của tôi, đúng là nhầm lẫn nên nếu gặp Đức Giêsu, người ta cũng chỉ muốn được xem dấu lạ mà thôi. Nếu suy xét, chúng ta sẽ thấy cơn khát tiền, khát tình, khát công danh địa vị, vẫn làm con người đau khổ, bị tổn thương, vì quên mất tình Chúa đang ở giữa chúng ta, vì tính bất toàn mà ta bị sập bẫy bởi những quyến rũ thế gian.
Người xưa có câu : thất bại là mẹ thành công, gặp Chúa Giêsu rồi mà tâm hồn chưa phấn khởi vui mừng, hãy kiễn nhẫn tìm gặp nữa. Ăn uống no say, thành công rực rỡ, mà tâm hồn vẫn trống rỗng, hãy rút kinh nghiệm : tôi đang ra công tốn sức làm việc vì của ăn nào ? tôi đang túng thiếu, đói khát của ăn vật chất hay tinh thần ? Hàng ngày biết bao điều khó hiểu làm tâm trí ta mệt mỏi, đừng ngại đến gặp Chúa Giêsu, Ngài chính là Thầy dạy, đủ tình yêu thương thỏa lấp những trống vắng, như Ngài đã nói : “việc Thiên Chúa muốn các ông làm là hãy tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Người Do-thái xưa kia lầm tưởng Man-na mà tổ tiên họ ăn chỉ xảy ra trong quá khứ, không còn liên hệ gì tới của ăn trong tương lai nữa. Đám đông đã sai lầm khi nghĩ Đức Giêsu sẽ tiếp tục hóa bánh cho họ được ăn no, hoặc Đức Giêsu sẽ làm một số dấu lạ, để mọi người xem cho vui mắt. Trước đoàn người thiếu định hướng ấy, Đức Giêsu đã cảnh báo họ : “các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến muôn đời…..”. Làm công việc của Thiên Chúa là nhận biết Đức Giêsu là Đấng được ban cho nhân loại, Đức Giêsu chính là Bánh ban sự sống, dấu lạ về Bánh nuôi linh hồn không phải để xem cho vui mắt.
Con người hôm nay có nhiều nét giống đám đông ngày xưa, ngại đủ thứ, nhưng lại thích lung tung. Người nghèo dễ bị hút vào công việc : làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ, với hy vọng thoát cảnh đói khổ vật chất. Người giàu tiền lắm của lại bị “hút hồn” với bao tiện nghi hiện đại, phải chạy đua với những công nghệ mới, để không bị mang tiếng là “hai lúa”. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau, mục đích sống bị chi phối, cơn đói khát tâm linh sẽ bủa vây giăng mắc. Do đó, hãy ra công làm việc, và hãy làm việc của Thiên Chúa, lúc nào cũng là điệp khúc cần thiết cho mọi đối tượng.
Ngày hôm nay, người ta biết chủ trương làm giầu cả vật chất lẫn tinh thần, biết sử dụng kỹ năng để có vẻ đẹp nội dung lẫn hình thức; nhưng làm việc của Thiên Chúa, sống yêu thương như Chúa muốn, tin Đức Giêsu là Bánh trường sinh, vẫn là khó khăn ! Người xưa lý luận rằng : đói thì đầu gối phải bò, nếu suy xét, bằng khả năng của mình, chúng ta sẽ vừa bò, vừa chạy cũng chưa chắc đã đủ no, đủ hạnh phúc ! Chăm làm việc để có thành quả tốt, biết lời nói chân thành, sẽ có sức thuyết phục hơn vẫn là ý tưởng số một. Và sẽ là chân lý vẹn toàn khi đến gặp Chúa Giêsu, cậy nhờ Ngài, mọi người sẽ tiến tới cùng đích của hạnh phúc, vì đã biết ra công làm việc của Thiên Chúa, vì sự sống đời đời là có thật như lời Chúa phán truyền. Amen.
CHIA SẺ ĐỨC GIÊSU LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH CHO THA NHÂN
Lm. Đan Vinh – HHTM
I- HỌC LỜI CHÚA
1/ TIN MỪNG : Ga 6,24-35
(24) Vậy khi dân chúng thấy đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy? (26) Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. (27) Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (28) Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (29) Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (30) Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi Trời” (32) Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực. (33) Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (34) Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy. (35) Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
2/ Ý CHÍNH : TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI MÀ ĐẾN
Đức Giêsu cảnh cáo dân chúng đi tìm Người vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư nát. Ngay cả Manna thời kỳ xuất Hành cũng không phải là bánh bởi trời thực sự và không cứu được cho người ta khỏi phải chết. Họ cần phải tìm kiếm thứ Bánh bởi trời đích thực tức là Con Người, Đấng từ trời mà đến và ban sự sống vĩnh hằng cho trần gian. Bánh Hằng Sống đó chính là Mình Máu Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập.
3/ CHÚ THÍCH
– C 24-25 : + Caphácnaum : Là một thành phố thuộc xứ Galilê, nằm trên bờ biển hồ Tibêria. Đức Giêsu lấy thành Caphácnaum làm trung tâm hoạt động suốt thời gian đi giảng đạo công khai. Tại đây, Người đã nhiều lần rao giảng trong các hội đường (x. Mc 1,21), làm nhiều phép lạ như : Xua trừ ma quỷ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh cảm sốt cho nhạc mẫu Phêrô và nhiều bệnh nhân khác (x. Mc 1,29-31.32-34), chữa lành một phụ nữ bệnh loạn huyết 12 năm và làm cho con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x. Mc 5,21-43), giảng về Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,24-66)… Về sau thành này cũng là một trong các thành của dân Do Thái bị Đức Giêsu quở trách, vì họ đã được chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà vẫn tỏ thái độ cứng lòng không tin vào Người (x. Mt 11,23-24). + Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ : Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều trong hoang địa, vì biết dân chúng muốn tôn mình làm vua, nên Đức Giêsu đã lánh lên núi một mình (x. Ga 6,15). Sau đó Người đi trên mặt nước đến với thuyền của các môn đệ và sang bờ bên kia Biển Hồ là thành Caphácnaum.
– C 26-27) : + Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê : Đức Giêsu cảnh báo dân chúng về động lực đi tìm Người là do vụ lợi : để được ăn bánh no nê mà không phải vất vả làm việc. + Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh : Đức Giêsu chấp nhận nhu cầu về lương thực là bánh ăn vật chất nuôi sống thân xác, nên Người đã làm phép lạ cho họ được ăn no. Nhưng Người còn muốn dạy rằng : Trên cuộc sống thể xác còn có linh hồn tồn tại mãi mãi. Chính Người sẽ ban cho họ thứ lương thực nuôi sống linh hồn là Bí Tích Thánh Thể mà Người sắp thiết lập. + Con Người : Là một nhân vật thần thiêng mà Ngôn sứ Đa-ni-en trong một thị kiến đã xem thấy đang đứng bên Thiên Chúa (x. Đn 7,13-14). Khi tự xưng mình là Con Người từ trời mà đến, Đức Giêsu muốn cho người ta thấy Người là Sứ giả đích thực của Chúa Cha, được Thánh Thần thánh hiến trở thành Đấng Thiên Sai và sẽ giúp Người chu toàn sứ vụ ấy (x. Lc 4,18 ; Is 61,1-2). + Là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận : Dấu ấn là một vật dùng để xác định nguồn gốc thay cho chữ ký. Ngoài việc dấu ấn được in trên giấy tờ, bao bì hay các vật khác để làm bằng chứng bảo đảm sự chân thực, người ta còn dùng dấu ấn để niêm phong mồ mả (x. Mt 27,66). Ngoài ra, dấu ấn hay ấn tín cũng được dùng theo nghĩa bóng như lời Thánh Phaolô : “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,22). Câu này cho thấy Chúa Cha đã đóng dấu ấn trên Đức Giêsu làm bảo chứng để xác nhận Người chính là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
– C 28-29 : + Chúng tôi phải làm gì ? : Đây là câu hỏi bày tỏ thiện chí muốn đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa sau khi nghe giảng Tin Mừng, như đám đông đã hỏi ông Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan (x. Lc 3,10.12.14), hay dân chúng hỏi ông Phêrô sau khi nghe ông giảng vào lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem (x.Cv 2,37). + Tin vào Đấng Người đã sai đến : Đấng Thiên Chúa sai đến ở đây là Đức Giêsu.
– C 30-31 : + Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? : Dù mới chứng kiến phép lạ nhân bánh ra nhiều vào chiều hôm trước, nhưng dân chúng vẫn chưa thỏa mãn. Họ đòi một phép lạ đặc biệt phát xuất từ trời để minh chứng sứ mạng Thiên Sai của Người, giống như Môsê xưa đã làm phép lạ cho manna từ trời mưa xuống để nuôi dân Ítraen suốt 40 năm trong sa mạc, nên manna được gọi là bánh bởi trời. + Manna : Phát xuất do từ “Mannu ?”, nghĩa là “Cái gì vậy ?”, vì dân Ítraen không biết đó là cái gì (x. Xh 16,15). Môsê bảo dân rằng: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn !”. Như vậy, Manna chính là lương thực lạ lùng mà Đức Chúa đã ban cho dân Ítraen, khi họ đi qua sa mạc về Miền Đất Hứa (x. Xh 16,11-18). Manna có hình dạng giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong (x. Xh 16,31). Trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh (x. Ds 11,7-8). Manna là hình bóng của Lời Chúa, là của ăn được Đức Chúa ban để dân Ítraen biết rằng : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn sống nhờ mọi Lời do miệng Đức Chúa phán ra” (x. Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Khi dân Ítraen vào tới Đất hứa là xứ Canaan và bắt đầu trồng và thu hoạch được các loại thổ sản tại đó, thì Manna không còn rơi xuống nữa (x. Gs 5,12). Cũng vậy, trong thời gian lưu lạc trần gian, các tín hữu cũng được ăn lương thực thiêng liêng là Mình Thánh Chúa để đủ sức về tới Đất Hứa Thiên Đàng, được tham dự Bữa Tiệc Cánh Chung trong Nước Trời với Đức Giêsu (x. Lc 22,30), và ngồi đồng bàn với các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp của dân Do Thái (x. Mt 8,11).
– C 32-33 : + Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi : Đức Giêsu đã giúp dân chúng hiểu rõ : Manna được ban thời kỳ Xuất Hành không phải do Môsê, nhưng do Đức Chúa đã ban cho dân Ítraen. Ngoài ra manna cũng không thực sự là Bánh của Thiên Chúa, mà chỉ là thứ luơng thực vật chất mau hư nát và có khả năng nuôi sống thể xác mà thôi (x. Xh 16,19-21), vì dù có ăn manna, dân Do thái cũng vẫn phải chết (x. Xh 32,33-35). + Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian : Để được gọi là Bánh của Thiên Chúa thì cần hai đặc tính là xuất phát từ trời, và ban sự sống muôn đời. Bánh ấy chính là Đức Giêsu. Người vừa là Ngôi Lời vốn ở trên trời, được Chúa Cha sai xuống làm Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,14), và Người sắp ban Mình Máu Người làm lương thực đem lại sự sống muôn đời cho người lãnh nhận (x. Ga 6,51).
– C 34-35: + Chính tôi là Bánh Trường Sinh: Kiểu nói “Tôi là” thường được Đức Giêsu dùng và Gioan đã ghi lại một số Lời Chúa có hai tiếng “Tôi là” như sau: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,34); “Tôi là Ánh Sáng Thế Gian” (x. Ga 8,12; 9,5); “Tôi là Cửa cho chiên ra vào” (x. Ga 10,7); “Tôi là Mục Tử nhân lành” (x. Ga 10,11) ; “Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống” (x. Ga 11,25); “Tôi là Con Đường, là Sự Thật và Là Sự Sống” (x. Ga 14,6); “Tôi là Cây Nho thật” (x. Ga 15,1). Trong câu nói trên, khi khẳng định: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muốn nói về bí tích Thánh Thể mà Người sắp lập. Qua bí tích đó Người sẽ hóa nên bánh thiêng nuôi dưỡng người dương thế và đem lại hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. + Ai đến với tôi, không hề phải đói ; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ: Người hứa sẽ ban cho những ai lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể được no thỏa; Cho những ai đặt trọn niềm tin nơi Người thỏa mãn khát vọng được sống vĩnh cửu.
4/ CÂU HỎI : 1) Bạn biết gì về thành Caphácnaum? 2) Khi nói lên động cơ đi tìm Chúa của dân chúng là tìm bánh ăn vật chất, Đức Giêsu muốn họ phải tìm kiếm điều gì khi đến với Người? 3) Tại sao Đức Giêsu tự xưng là Con Người? 4) Đức Giêsu trả lời cho dân chúng biết họ cần phải làm gì sau khi nghe Người giảng Tin Mừng? 5) Dân Do Thái đòi Đức Giêsu làm gì để chứng minh cho sứ mạng Thiên Sai của Người? 6) Thời Môsê danh từ Manna ám chỉ điều gì? Manna được ban cho ai ăn và nhằm mục đích gì? Trong Tân Ước Manna ám chỉ điều gì? 7) Bánh bởi Trời thực sự phải có những đặc tính nào? 7) Khi tự xưng “Tôi Là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muốn nói gì về Người? 8) Người hứa ban cho những ai chịu phép Thánh Thể được những ơn ích gì?
II- SỐNG LỜI CHÚA
1/ LỜI CHÚA : “Chính Tôi là bánh trường sinh. ai đến với Tôi, không hề phải đói. ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ !”
2/ CÂU CHUYỆN :
1- NHẬN ĐƯỢC ĐỨC TIN NHỜ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
HÉC-MAN KON (Hermann Cohn) là người Do Thái và là một tài năng xuất chúng về đàn dương cầm (Pianô). Anh là học trò xuất sắc của PhăngLít (Franz Liszt), một nhạc sĩ nổi tiếng tài hoa vào lúc đó. Kon cùng với mấy người bạn thân thành lập một ban nhạc trẻ và đi đó đây biểu diễn âm nhạc để kiếm sống. Sau khi đã có nhiều tiền và bị bạn bè cám dỗ, Kon đã tìm đến những nơi hàng quán để ăn chơi trụy lạc. Rồi một ngày kia, một người bạn thân của Kon là ca trưởng một ca đoàn nhà thờ, do thiếu người đánh đàn, đã mời Kon cộng tác đàn giúp ca đoàn hát thánh ca trong một buổi dâng hoa kính Đức Mẹ tại nhà thờ.
Buổi dâng hoa hôm ấy kết thúc bằng giờ chầu Mình Thánh Chúa. Mặc dù không phải là người công giáo, nhưng khi vị chủ sự ban phép lành Mình Thánh Chúa, thì tự nhiên Kon cảm thấy như có một sức mạnh vô hình bắt anh phải quì gối cúi đầu thờ lạy Chúa. Kon không lý giải được tại sao lại có hiện tượng trên. Sau đó, Kon tiếp tục đến nhà thờ và cảm thấy có một Đấng nào đó hiện diện ở trong anh, và thôi thúc anh đi tìm gặp Chúa. Sau đó anh xin học đạo nơi một linh mục trẻ và được người bạn ca trưởng tặng cho cuốn sách tựa đề là: “Các kinh nguyện trong Thánh lễ”. Kon đã say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần phần Kinh Nguyện Thánh Thể. Về sau anh đã chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa Giêsu như sau: “Trong thời thơ ấu, tôi thường hay khóc mỗi lần bị cha mẹ sửa phạt vì làm sai một lỗi nào đó. Nhưng chưa khi nào nước mắt tôi lại chảy ra nhiều như lúc bấy giờ. Khi ấy, đột nhiên tôi nhìn ra các tội lỗi của mình đã phạm bấy lâu nay, tôi thấy rõ những sự xấu xa hèn hạ của tôi và tôi nghĩ mình đáng bị phạt trong hỏa ngục. Nhưng sau khi đã khóc hết nước mắt, tôi đã cảm thấy tâm hồn mình được bình an. Tôi xác tín rằng : Chúa nhân lành đã thấu hiểu lòng tôi, đã tha thứ lỗi lầm cho tôi để tôi xứng đáng trở nên con cái của Người”.
Sau đó, Kon được lãnh phép rửa tội gia nhập vào Hội Thánh, rồi xin nhập vào dòng Các-me-lô. Trong nhà dòng, Thầy Kon đã được học các môn học về triết lý và thần học, thực tập các nhân đức, và bảy năm sau thày đã được thụ phong linh mục. Tân linh mục Kon đã được nhiều người công nhận là một linh mục có lòng đạo đức. Cha nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và cha thường chia sẻ kinh nghiệm gặp được Chúa cho người chưa biết Chúa. Nhiều người nhờ tiếp xúc với cha nên cũng gặp được Chúa. Chính nhờ sự hướng dẫn của cha mà cả thầy dậy đàn là nhạc sĩ Phăng-Lít và 10 bạn thân thời thơ ấu cũng đã tin vào Chúa Giêsu và đã được lãnh nhận phép rửa tội.
2- THĂM VIẾNG CHIA SẺ TÌNH NGƯỜI
Một hôm một lão hành khất gặp Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta trên đường phố và đã chìa tay ra xin bố thí. Bà lục lọi hết các túi áo mà không tìm ra một đồng tiền nào, bà đành vỗ vai ông lão vừa cười vừa nói lời xin lỗi vì không có gì để tặng ông. Bấy giờ lão hành khất đã nói: “Hôm nay bà đã cho tôi một món quà quí giá nhất mà từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhận được. Món quà đó là nụ cười cảm thông và sự an ủi đầy tình người của bà. Tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc, vì tôi đã được bà tôn trọng và được đối xử bình đẳng !”. Điều quan trọng là phải mang lại niềm vui tâm hồn cho những người chúng ta gặp gỡ tiếp xúc.
3/ THẢO LUẬN : Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để chia sẻ tình thương và niềm tin cho những người chưa nhận biết Chúa và đang chịu nhiều bất hạnh khổ đau ?
4/ SUY NIỆM
+ Hơn ai hết, Đức Giêsu đã am hiểu cơm bánh vật chất là một nhu cầu không thể thiếu để con người được sống, và Người đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều nuôi đám đông dân chúng ăn một bữa no nê. Người cũng dạy môn đệ cầu nguyện trong kinh Lạy Cha : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Tuy nhiên, “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, nhưng còn có những khát vọng mà chỉ mình Đức Giêsu mới có thể thỏa mãn họ, là lòng khao khát muốn gặp Đức Giêsu. Vì Người là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nhờ Người mà chúng ta sẽ được thỏa mãn các nhu cầu tinh thần như : Muốn hiểu biết về chân lý đức tin, muốn yêu và được yêu, muốn được tha nhân cảm thông chia sẻ… Nhờ được thỏa mãn các nhu cầu này mà con người mới đạt được niềm vui và sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
+ Lời Chúa và Mình thánh Chúa là hai của ăn thần linh mang lại cho các tín hữu sự sống muôn đời, như thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu : “Chỉ có Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68), hay như lời Chúa phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời… Đây là Bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54.58). Mỗi ngày chúng ta nên tham dự thánh lễ để đón nhận được hai thứ lương thực thiêng liêng của Đức Giêsu ban cho là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhờ đó chúng ta sẽ có sự sống muôn đời.
+ Cần biết chia sẻ Chúa là niềm vui ơn cứu độ cho tha nhân: Sau khi tham dự thánh lễ, chúng ta đã nhận được ơn Chúa ban qua hai của ăn là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Chúng ta cần mang Chúa đến viếng thăm những người lương dân, những anh chị em bệnh tật lâu ngày, những gia đình bất hạnh… để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho họ, như thai nhi Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng vì được ơn cứu độ của thai nhi cứu thế Giêsu do Đức Maria mang đến thăm viếng.
5/ LỜI CẦU
LẠY CHÚA GIÊSU. Của cải vật chất và cơm ăn áo mặc là những nhu cầu không thể thiếu của thân xác con người. Chúng thường cám dỗ lôi kéo con tìm kiếm chúng thay vì phải tìm kiếm Chúa mới thực là lẽ sống cuộc đời của con. Lạy Chúa, từ trong thâm tâm, con rất sợ bị nghèo đói bần hàn, và con luôn khao khát có một cuộc sống dư dật sung sướng. Con thường mải mê tìm kiếm những của cải vật chất đến nỗi chẳng còn thiết tha với việc cầu nguyện, dự lễ và tuân giữ các giới răn. Xin Chúa thương tha thứ tội lỗi và bù đắp những thiếu sót của con.
X- HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ- XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lạy Thầy, Thầy đến bao giờ?
Đám đông tìm Chúa, bơ vơ lạc loài.
Chúa rằng nhớ bánh đoái hoài,
Không vì dấu lạ, bề ngoài xác thân.
Khuyên răn tìm kiếm điều cần,
Của ăn tồn tại, lương thần Chúa ban.
Quí hơn của cải trần gian,
Man-na sẽ chết, bánh ban bởi trời.
Thần lương là bánh tuyệt vời,
Ai ăn sẽ sống, muôn đời phúc ân.
Chính Cha ban bánh thiên thần,
Từ trời ban xuống, nuôi dân sống đời.
Bánh ban sự sống ngàn đời,
Chính là thịt máu, nuôi người thế gian.
Chúa ban phúc lộc tràn lan,
Vững tin vào Chúa, thiên nhan rạng ngời.
Dân chúng thưởng thức thỏa thuê bánh và cá do Chúa tặng ban. Hôm nay họ lại đến với Chúa tìm của ăn nuôi xác. Chúa hiểu ý họ và Chúa đã dẫn họ đi tìm của ăn nuôi hồn. Chúa nhắc lại như xưa trong sa mạc, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng họ bằng Manna và chim cút. Nay Chúa muốn ban cho họ của ăn hằng sống. Chúa Giêsu nói: Chính Ta là bánh sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói.
Chúa Giêsu từ từ mặc khải cho dân khao khát thần lương nuôi hồn hơn là cứ mải mê đi tìm của ăn vật chất hay hư nát. Phép lạ hóa bánh ra nhiều là dấu chỉ của ăn thiêng liêng mà Chúa cũng sẽ ban dồi dào. Chúa sẽ ban cho họ bánh trường sinh, đó chính là Thịt và Máu của Chúa.
Khi Chúa nói về bánh ban sự sống là chính Thịt Máu Chúa, nhiều người chưa thể lãnh hội được ý nghĩa. Ngay cả một số môn đệ cũng không thể chấp nhận, một số muốn bỏ đi và phát biểu rằng lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúng ta không thể hiểu được, nếu không có tình yêu.
Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể như thần lương vĩnh cửu. Bánh được trao ban dưới hình bánh và rượu. Qua lời truyền phép bánh rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Chúa đã dùng công thức rất đơn giản để biến đổi bản thể của bánh rượu. Đây chính là mầu nhiệm đứuc tin. Đây là món qùa vô giá Chúa đã để lại cho Giáo Hội. Gia sản của Giáo Hội chính là Chúa Kitô hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Chúa ngự trong Thánh Thể. Chúng ta tin Chúa ẩn thân nơi tấm bánh nhỏ. Mỗi lần chúng ta rước Chúa vào lòng là mỗi lần chúng ta được dưỡng nuôi bằng bánh trường sinh. Những người không có niềm tin thì không thể hiểu được ý nghĩa của sự hiến tế và Bí Tích Thánh Thể. Đây chính là Bí Tích tình yêu. Thử hỏi có ai táo bạo đến nỗi lấy thịt máu mình nuôi dưỡng người khác.
Chúa Giêsu đã hiến tế mình trên thập giá làm của lễ và dùng cách thế tuyệt hảo nhất để ở lại với chúng ta qua Thánh Thể. Đây chính là nguồn yêu thương chan chứa của sự dâng hiến. Chúa hiến dâng chính mình làm của ăn đưa dẫn chúng ta tới nguồn sống bất diệt. Chúa mời gọi chúng ta tham dự bàn tiệc Mình Máu Thánh. Chúa sẽ ban dư tràn của ăn nuôi hồn.
.
THỰC THI Ý CHÚA ĐỂ SỐNG MUÔN ĐỜI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục mô tả một đám đông số đàn ông chừng năm ngàn chưa kể đàn bà và con trẻ đi theo Chúa, họ đã được nghe Chúa giảng dạy, chữa lành bệnh tật, chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhất là được ăn bánh và cá no nê. Một ngày kết thúc, Chúa giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Tất nhiên là họ không thấy Chúa nữa, các môn đệ Chúa cũng không, nên họ cũng xuống thuyền hướng về Capharnaum để tìm gặp Chúa. Thấy Chúa họ hết sức vui mừng và ôn tồn hỏi Chúa : “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” (Ga 6, 25). Câu hỏi này không làm Chúa vui, nên Chúa buôn lời phán với họ rằng: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Họ đã cất công tìm Chúa, ấy vậy khi gặp chẳng thấy Chúa an ủi vỗ về lại nhận được lời quở trách tìm Chúa vì cái bụng, thật là buồn. Chúa khuyên họ : “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 26). Chúa gợi lên nơi họ sự sống đời đời để dù ăn, dù uống hay làm bất cứ điều gì thì cũng phải nhắm tới mục tiêu tối hậu là sự sống đời đời, khiến họ khao khát thưa Chúa rằng : “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” (Ga 6, 28) Chúa Giêsu đáp : “Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga 6, 29).
Từ trên cung thánh nhìn xuống dưới, bên trong và bao quanh nhà thờ giờ đây cũng có một đám đông với đủ mọi tầng lớp, đàn ông, đàn bà và con trẻ, chắc số đàn ông chừng vài trăm. Nếu trong Tin Mừng, những người tìm kiếm Chúa với những thái độ khác nhau : có người tìm Chúa vì đã được ăn bánh no nê, có người thì mong gặp Chúa là Đấng làm những dấu lạ, một số người khác lăng xăng đi tìm Chúa bởi họ có kinh nghiệm về sự hiệp thông thân tình với Chúa họ thưa Chúa rằng : “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi” (Ga 6,34). Phần chúng ta, một câu hỏi được đặt ra cho chính chúng ta đang ngồi đây : Chúng ta đến đây để làm gì ? Chúng ta tin Chúa, tìm Chúa và theo Chúa vì điều gì ? Phải chăng là để được ăn bánh no nê ? Có người sẽ nói, chúng con đến tham dự Thánh lễ, đến tìm gặp Chúa chứ còn gì nữa. Phần lớn câu trả lời sẽ là như vậy. Chắc chắn Chúa Giêsu rất vui khi thấy chúng ta đang nỗ lực tìm kiếm Chúa và đi theo Chúa.
Đúng, chúng ta đến đây tham dự Thánh lễ, xin ơn khỏe mạnh phần hồn, an lành phần xác, nhưng sự sống đời đời phải là mục tiêu chúng ta nhắm tới. Lời Chúa Giêsu nói với đám đông xưa kia, cũng là lời Chúa dạy chúng ta ngày hôm nay: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 27).
Chúng ta vẫn làm việc không ngừng đấy thôi, nhưng lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Ra công làm việc để có nhiều của cải thăng tiến bản thân, phục vụ gia đình, góp phần xây dựng xã hội và Giáo hội là điều chính đáng. Nhưng không thể làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa Nhật dẫn đến bỏ lễ Chúa Nhật và lễ trọng buộc, bỏ đọc kinh tối sớm là điều tối cần thiết cho sự sống đời đời. Hãy thực thi đức công bằng trong làm ăn, thuận mua vừa bán, đừng mùa thừa bán thiếu, đánh đổi trắng đen thu lời bất chính, có kiếm được lương thực dồi dào thì cũng hư nát và chỉ dành cho sự sống tạm bợ đời này. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là lương thực nuôi dưỡng phần linh hồn chúng ta, giúp chúng ta đạt đến cuộc sống vĩnh cửu sau này. Thứ lương thực cao quí ấy được ban bởi Đấng Hằng Sống. Mặc dù được trao ban cách miễn phí, nhưng muốn có được Bánh Hằng Sống ấy, con người phải làm việc, mà công việc Thiên Chúa muốn con người phải làm là hãy đến và tin vào Đức Ki-tô, vì “Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ” (x. Ga 6.35).
Người Do thái hỏi Chúa : “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Xem ra không có liên quan gì đến “công việc của Thiên Chúa”, nhưng vẫn có liên quan vì Chúa Giêsu mời gọi họ « ra công làm việc … công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. Ra công làm việc nhưng hướng đến lương thực trường tồn đem lại sự sống đời đời, mà để có được sự sống ấy thì chúng ta phải nỗ lực tin vào Chúa Giêsu, tin đến độ lấy Chúa làm của ăn của chúng ta. Chính Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại : “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3,15 ) ; “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20, 15). Vì thế, tin không còn là công việc, nhưng là công trình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã tự hiến mình làm của ăn cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Tin là “ra công làm việc… vì của ăn vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 27).
Vậy, chúng ta hãy ra sức tìm những của ăn không hư nát là thánh ý Chúa, Lời Chúa, Mình Máu Thánh Chúa. Đừng để những lo lắng và cám dỗ thế gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá trị trường tồn này.
Lạy Chúa xin giúp chúng con hiểu rằng, đón nhận thánh ý Thiên Chúa là thứ lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh. Xin đừng để một ai trong chúng con lạc xa thứ lương thực cao quí này. Amen.
.
Anna Cỏ May
Vì sự sống, chúng ta luôn cố gắng suy nghĩ đi tìm cho mình một chức vị nào đó trong xã hội hay đi tìm một thứ gì đó để được sống lâu hơn. Chúng ta thường chúc ông bà “sống lâu trăm tuổi”, đó cũng là ước mong của tất cả mọi người.
Mong ước vẫn là mong ước. Điều gì đến vẫn cứ đến. Không ai không phải đi qua cái chết. Vì quê hương chúng ta không phải nơi trần gian mà chính ở quê trời. Vậy làm sao chúng ta được hưởng sự sống ở Nước Trời. Xưa kia, Chúa Giê-su đã nói với dân chúng khi họ theo Ngài rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn no nê.”(Ga 6,26). Về phương diện cuộc sống, có ăn mới sống được. Nên sau khi chứng kiến Chúa Giê-su làm phép lạ cho họ ăn no nê và còn dư, khiến họ không ngần ngại đi theo Ngài. Họ mới biết đến sự sống nơi thân xác mà thôi hay họ chưa biết hoặc không rõ về sự sống trường sinh trong tâm hồn. Bởi đó khi nghe những lời Chúa Giê-su nói, họ tò mò, muốn được có lương thực ấy nên đã hỏi Chúa Giê-su: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn.” . Chúa Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”(Ga 6, 28-29). Tin là điều kiện để làm mọi việc Thiên Chúa muốn. Có tin thì họ mới dốc hết sức lực, tình yêu vào việc họ làm. Họ phải tin những gì? Họ cần phải tin Người đang nói chuyện với họ là Đấng Thiên Chúa sai đến; chính Người là bánh Trường Sinh. Nhưng liệu họ có muốn ăn bánh trường sinh khi Chúa Giê-su nói: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh.”. Đó là một thử thách mà họ cần có lòng khao khát, tin tưởng vào Thiên Chúa và tin có sự sống trường sinh.
Có bộ phim mà các trẻ em rất thích xem, đó là phim “Tôn Ngộ Không”. Bộ phim nói về Đường Tăng đi lấy Kinh. Ông đã gặp rất nhiều khó khăn trên đường cùng muôn vàn yêu quái và yêu tinh. Họ tin là chỉ cần ăn thịt Đường Tăng sẽ được sống muôn đời. Nên họ không ngừng dùng mọi thử đoạn để bắt ông. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta vẫn đi tìm một cái gì đó để duy trì sự sống. Sự sống ấy chỉ nơi thân xác. Ít mấy ai đi tìm sự sống cho linh hồn, sự sống vĩnh cửu. Vì chúng ta yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào sự sống thân xác hơn như vui chơi, hưởng thụ,…
Nhưng rồi thân xác chúng ta cũng đi vào dĩ vãng, còn linh hồn đi đâu? Với Đức tin, linh hồn chúng ta sẽ vào Nước Trời. Vậy làm gì để sau khi chết linh hồn được vào sự sống Nước Trời? Chúa Giê-su đã trả lời dân chúng rằng: “Ta là Bánh Trường Sinh”. Đó cũng là câu trả lời cho chúng ta ngày hôm nay. Để cho chúng ta được hưởng sự sống ấy. Chúa Giê-su đã truyền cho các Tông Đồ và được Giáo Hội không ngừng thực hiện mỗi ngày trong Thánh Lễ. Mỗi chúng ta đang được mời gọi “hãy đến mà ăn”. Đó là lương thực sẽ nuôi nấng, gìn giữ linh hồn chúng ta mỗi ngày. Để khi Chúa đến, chúng ta được phúc về Nước Trời cùng với Ngài.
Lạy Chúa, chúng con đang sống trong một xã hội đầy vẻ đẹp và nhiều điều mới lạ. Chúng con đang bị cuốn hút vào đó, khiến chúng con không thấy giá trị khi tham dự Thánh Lễ, đặc biệt là khi rước Mình Máu Ngài. Xin Chúa hãy đánh thức và đưa chúng con về bên Chúa. Vì chỉ có Chúa mới giải thoát được chúng con. Amen.
.
ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG VỚI LINH HỒN TA
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Sau khi được Chúa Giê-su ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Ngài cho ăn tiếp. Chúa Giê-su không bằng lòng với toan tính đó nên Ngài nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo tìm kiếm lương thực phần xác mà lãng quên lương thực cho tâm hồn nên Chúa Giê-su răn bảo họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6, 27)
Khi nói như thế, Chúa Giê-su kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.
Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.
Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.
Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.
Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.
Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.
24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.
Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!
Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Thật phi lý khi người ta đầu tư toàn bộ vốn liếng mình có cho thân xác: dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc, chỉ “thu hoạch” được một nắm bụi tro!
Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.
Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời bất diệt thì đáng phải được chăm sóc chu đáo hơn.
Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng “Bánh từ trời xuống.”
Chính Chúa Giê-su là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35)
“Ăn” Chúa Giê-su (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giê-su nhưng là đến với Chúa Giê-su và tin vào Ngài: “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Bánh ban sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con thường xuyên “ăn” Bánh này, tức là tìm đến với Chúa, học với Chúa, sống như Chúa để đào tạo bản thân mình nên người có phẩm chất cao đẹp. Nhờ đó, mỗi người chúng con trở thành hình ảnh sống động của Chúa giữa trần gian và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Ðức Giêsu.
Ðức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ.
Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê.
Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự…
Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê.
Ðó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới.
Ðức Giêsu không trách họ về chuyện này.
Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn,
bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.
Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua.
Ðức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn
nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua.
Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ.
Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.
Con người hôm nay có nét giống đám đông ngày xưa.
Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn,
để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác.
Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi.
Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới.
Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau,
đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần,
mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Thật ra, cũng khó dập tắt nỗi khát khao về Tuyệt Ðối
mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.
Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ.
Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương.
Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống.
Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai,
nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc.
Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó…
Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa.
Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ
cơn đói khát vô cùng về những điều cao cả.
Ðức Giêsu khơi dậy những khát khao tốt đẹp đang ngủ quên.
Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống,
để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.
Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực,
bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
“Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn”
“Xin ông cho tôi thứ nước ấy” (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần.
Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.
Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu!
Nếu bạn khao khát Tuyệt Ðối
thì chỉ Tuyệt Ðối mới làm bạn no thỏa.
Tuyệt Ðối đã hiện diện nơi Ðức Giêsu.
Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn,
và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
những lúc con cảm thấy đói,
xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn.
Khi con khát,
xin gởi đến cho con một ai đó đang cần nước uống.
Khi con lạnh lẽo,
xin gởi đến cho con một ai đó đang cần được sưởi.
Khi con bị xúc phạm,
xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an.
Khi thập giá của con trở nên nặng nề,
xin ban cho con thập giá của một người khác
để cùng chia sẻ.
Khi con túng nghèo,
xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn.
Khi con không có thời giờ,
xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát.
Khi con nản chí,
xin gởi đến cho con một người cần khích lệ.
Khi con chỉ biết nghĩ đến mình,
xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.
Trích trong PRIER
.
HÃY TÌM LƯƠNG THỰC TRƯỜNG SINH
Lm. Đinh Lập Liễm
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu và các Tông Đồ bỏ đảo Ghênêsarét trở về Capharnaum, nhưng Đức Giêsu không đi cùng thuyền với các Tông Đồ vì Ngài còn lên núi cầu nguyện một mình (Ga 6,15). Dân chúng thấy rõ Đức Giêsu không đi trên thuyền đó, nên họ đổ xô đi tìm Ngài. Khi về tới Capharnaum gặp Chúa, họ hết sức ngạc nhiên vì gặp Ngài ở đó rồi: ”Lạy Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” (Jn 6:25).
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi ấy, mà nhân cơ hội này Ngài giảng cho họ một bài về Bánh hằng sống. Bài này cốt nâng cao tư tưởng thính giả lên bên trên những lo lắng vật chất. Phép lạ làm cho bánh hoá nhiều làm cho người ta nghĩ rằng: đã đến thời lập lại nước Israel (Act 1:6), đời sống sẽ phú túc. Bài này có ý cải chính ý tưởng đó. Điều Đức Giêsu muốn là đưa họ đi xa, đưa họ lên cao hơn những điều họ thấy trước mắt: Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài sai đến (Jn 6:29), tức tin vào Ngài là Đấng vừa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhưng như thế vẫn chưa hết, vì Đức Giêsu còn muốn làm cho người Do Thái nhận ra rằng Ngài không chỉ có thể làm cho bánh hoá nhiều để duy trì sự sống vật chất của con người, mà Ngài còn có thể ban chính sự sống cho con người, không chỉ là sự sống thể xác mà cơm bánh lương thực tạo nên, mà còn sự sống thần linh, sự sống vĩnh cửu mà chỉ một mình Thiên Chúa mới ban được cho con người: ”Chính Ta là Bánh trường sinh, ai đến với Ta, không hề phải đói. Ai tin vào Ta, chẳng hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Đức Giêsu là bánh trường sinh (Jn 6:35,48,51). Những ai ăn bánh trường sinh thì không còn phải đói khát bao giờ nữa vì được no thỏa tâm hồn. Nhưng sự sống trường sinh là gì? – Sự sống trường sinh là nhận biết Đức Giêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống của Thiên Chúa cho những ai muốn đón nhận (Jn 6:58). Sự sống trường sinh là sự sống của ”con người mới” tức con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được dạy dỗ theo tinh thần của Đức Kitô. Cụ thể đó là con người thực sự sống công chính và thánh thiện (bài đọc 2: Eph 4:17,20-24).
Đức Giêsu nói với họ: ”Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26). Đức Giêsu nói chuyện với những người nông dân vùng Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ là thế nào khi họ miệt mài làm việc để mùa thu hoạch có kết quả tốt. Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói, khát, bánh, nước…
Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: nếu một người giầu có đầy đủ: gia đình, nghề nghiệp, lợi tức, chức quyền, danh vọng… nhưng họ vẫn thấy còn thiếu cái gì nữa chăng? Nếu chúng ta trả lời rằng “CÓ” thì các bài đọc Kinh Thánh hôm nay là một sứ điệp quan trọng cho chúng ta. Chúng nhắc cho chúng ta một điều chúng ta thường hay bỏ quên, đó là: Trên thế giới này có hai loại đói: trước hết là đói khát thể lý mà chỉ đồ ăn thức uống mới có thể thỏa mãn được. Thứ đến là đói khát thiêng liêng mà không thực phẩm nào trên trần gian này có thể thỏa mãn được. Nói cách khác, dầu chúng ta có giầu có hoặc thành công đến đâu đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy nơi thâm sâu lòng mình một cơn đói khát khó có thể bầy tỏ được.
Đối với con người nếu chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu về thể xác thì càng cảm thấy thiếu thốn vì nhu cầu đẻ ra nhu cầu; nhu cầu này nối tiếp nhu cầu kia làm cho người ta luôn tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn.
Tần Thủy Hoàng của nước Tầu đã sống trước Chúa Giáng Sinh 200 năm. Ông tự phong là vô địch nhất thế gian này, về đức độ hơn cả Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung Hoa. Tần Thủy Hoàng còn muốn trường sinh trẻ mãi, nên đi tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai quần thần đi khắp nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông… Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 155).
Dân chúng hỏi Đức Giêsu rằng: ”Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của ThiênChúa.” Đức Giêsu đáp lại: ”Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Người sai đến” (Jn 6:28-29). Ở đây bắt đầu một mặc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu! Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chứng hàng triệu lần từ hai ngàn năm qua. “Anh em hãy tin.” Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin, đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Đức Giêsu vừa đưa ra một tuyên bố quan trọng. Ngài bảo rằng công việc đích thực của Thiên Chúa là tin Ngài. Người Do Thái nói: Hay lắm, quả thật đây là lời tuyên xưng mình là Đấng Messia, vậy ông hãy chứng minh đi (Jn 6:30).
Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng ngay đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem như bánh của Thiên Chúa (Tv 77,24; Xh 16,15). Trong Do Thái Giáo, có một niềm tin mạnh mẽ rằng: khi Đấng Messia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được cho là việc tối quan trọng trong cuộc sống của Maisen, mà Đấng Messia thì còn phải hơn thế nữa. Vị cứu tinh đầu tiên thế nào thì vị cuối cùng cũng phải như thế. Vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời rơi xuống thế nào, thì vị cứu tinh thứ hai cũng phải khiến được manna từ trời rơi xuống thể ấy.
Như vậy, dân Do Thái đang thách thức Đức Giêsu hãy khiến bánh từ trời xuống để hậu thuẫn cho lời tuyên bố của Ngài. Họ không chịu xem số bánh cho 5000 người vừa được ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Ban đầu nó vốn là bánh của trần gian. Theo họ, manna phải khác hẳn, và đó là trắc nghiệm cho Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ rằng, không phải Maisen đã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa (Jn 6:32). Thứ hai, Ngài bảo họ: manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể xác nhưng là sự sống (Jn 6:33). Đức Giêsu tuyên bố rằng sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài (Jn 6:35).
Đức Giêsu biết rõ tâm tư của họ, họ đến với Ngài chỉ vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước (Jn 6:26). Dĩ nhiên, việc ăn uống nuôi thể xác là một điều cần thiết, ai lại không phải ăn? Nhưng Đức Giêsu muốn nói với họ là ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: ”Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Jn 6:27).
Con người sống trên trần gian này có rất nhiều khát vọng cần được thỏa mãn. Khát vọng đầu tiên là được thoả mãn cơn đói khát thể xác. Cái ăn cái uống là những nhu cầu vật chất khẩn thiết làm cho thể xác được bảo toàn và tăng trưởng. Người Tây phương có một câu ngạn ngữ nói về nhu cầu đó: ”Manducare priusquam philosophare”: ăn đã rồi muốn nói gì thì nói. Người Việt nam chúng ta cũng có tư tưởng ấy được gói ghém trong câu tục ngữ: ”Dĩ thực vi tiên”: cái ăn phải đứng đầu.
Ngoài những nhu cầu vật chất, người ta còn có những khát vọng tinh thần cần được thỏa mãn: nhu cầu hiểu biết, cần được tôn trọng, cần được quan tâm, cần được thông cảm…. Tuy nhiên, con người còn có một khát vọng căn bản và sâu xa nhất, đó là khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sống đời đời (Jn 6:54-58). Nói cách khác, đó là khát khao Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khát khao này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Thánh Gioan nói: ”Thiên Chúa là tình yêu” (I Jn 4:8,16). Chính Chúa là hạnh phúc; ai được yêu mến là sống trong hạnh phúc. Nhiều người muốn được hạnh phúc mà không biết cách tìm; họ tìm hạnh phúc ở nơi tạo vật mà bỏ quên Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, cho nên họ đã thất bại (Jer 2:13). Thay vì tiến tới hạnh phúc, họ chỉ đạt tới những bất hạnh vì họ đã đi trệch đường.
Tại Pháp, có một thương gia rất giầu, phương châm sống của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: ”Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông.” Đức Giêsu nói: ”Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Jn 6:33). Đức Giêsu khẳng định mình là bánh từ trời xuống để ban sự sống cho thế gian: ”Ta là bánh hằng sống.” Linh hồn chúng ta phải có của ăn mới sống được, mà của ăn ấy chính là Đức Kitô: ”Chính Ta là bánh ban sự sống ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Jn 6:35).
Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn dù không, cơn đói của chúng ta chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói: ”Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng” (Is 55:2). Thánh Augustinô đã thú nhận rằng: ”Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa.” Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn đến nỗi không gì có thể lấp đầy được, ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Ngài.
Vậy sứ điệp trong các bài Kinh Thánh hôm nay gửi đến cho chúng ta như sau: Tận thâm tâm mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể thoả mãn. Khi người Do Thái nói với Chúa: ”Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy” (Jn 6:34). Đức Giêsu bảo họ: ”Chính Ta là Bánh trường sinh” (Jn 6:35). Bánh trường sinh mà Đức Giêsu ban cho chúng ta, chính là Lời Chúa và Thánh Thể:
Chúng ta thấy quan niệm cho rằng Lời Chúa, giới răn Chúa là thức ăn thiêng liêng bồi dưỡng cho con người, cao quí hơn thức ăn thông thường đã có trong Cựu Ước. Ví dụ tiên tri Amos đã nói: ”Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lời Chúa” (Am 8,11). Tiên tri Giêrêmia cũng khát Lời Chúa: ”Khi nghe Lời của Ngài, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi” (Gr 15,16).
Đức Giêsu nói ”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Jn 6:54). Chúa xác quyết: ”Chính ta là bánh ban sự sống! Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Jn 6:35).
.
Lm. Nguyễn Thái
Ngày 31/7/1997, trên trang nhất của hai tờ báo lớn ở Chicago, Chicago Tribune và Sun Times, đăng tin, hình ảnh, và cuộc đời của bà cụ Gladys Holm. Bà qua đời vào tháng 6/1996, thọ 86 tuổi, đã để lại một di chúc trao tặng 18 triệu đô la cho bệnh viện Nhi Đồng Children’s Memorial. Với cuộc sống giản dị, tấm lòng yêu thương các em nhi đồng, và quan trọng hơn hết là viễn tượng hướng về tương lai nhân loại của bà cụ là bài học quý giá cho hậu thế.
Bà sống rất bình dân trong một căn nhà nhỏ, chỉ có 2 phòng ngủ ở Evanston, một thị xã nhỏ phía bắc Chicago. Hàng xóm láng giềng không ai biết rằng họ đang sống với một bà cụ triệu phú. Bà thích ở nhà có hàng xóm láng giềng để cảm thấy gần gũi, ấm cúng như đang ở trong gia đình hơn là cư ngụ ở những biệt thự sang trọng, giàu có dọc theo bờ hồ Michigan với cuộc sống trưởng giả dành cho các triệu phú. Khi còn trẻ bà làm việc cho công ty cung cấp dụng cụ y khoa của Mỹ, “The American Hospital Supply Corp.” Tất cả số tiền bà kiếm được trong 42 năm làm việc đã được đầu tư vào thị trường chứng khoán (stock). Với sự phát triển mau chóng, công ty đã trở thành một trong những hãng sản xuất những sản phẩm về sức khoẻ và y dược lớn nhất thế giới.
Bà là người con duy nhất trong gia đình, lúc qua đời, tất cả thân nhân họ hàng không ai còn sống cả! Tuy cuộc sống có vẻ đơn độc bà không cảm thấy cô đơn chút nào, vì trái tim luôn chứa đầy tình thương mến dành cho các trẻ em ở bệnh viện Nhi Đồng Children’s Memorial. Khi về già, với chứng bệnh phong thấp, bà phải di chuyển bằng xe lăn, nhưng bà vẫn thường xuyên có mặt ở bệnh viện để thăm viếng, phát quà, và đồ chơi cho các em, ngay cả cho các em tới thăm viếng người bệnh, vì bà không muốn một em nào bị bỏ rơi. Trong nhà bà luôn luôn có sẵn khoảng từ 200 tới 300 con gấu Teddy để phát cho các em. Năm 1991, bà bác sĩ Constantine Mavroudis, trưởng khoa phẫu thuật về tim của bệnh viện Nhi Đồng, cùng với luật sư và bạn bè đã đến thăm bà tại tư thất, đã kể lại câu chuyện như sau:
Bà bác sĩ đã trao tặng bà cụ ít sách và phim ảnh tài liệu liên quan đến việc giải phẫu tim cho các em. Hôm đó, tại phòng khách, bà vừa rót nước mời khách, vừa hỏi bác sĩ: “Bà có cần gì không?” “Có, tôi đang cần 50 ngàn đô la, để tài trợ cho chương trình nghiên cứu giải phẫu tim cho các em,” bác sĩ trả lời. “Được! Bà sẽ có ngay! Nếu cần thêm nữa thì cho tôi biết!” Bà cụ hứa hẹn.
Bà đã đóng góp 18 triệu đô la vào để nghiên cứu về vai trò của gen, thay thế các bộ phận trong cơ thể con người, và săn sóc các trẻ em sơ sinh bị nhiễm bệnh AIDS. Bà Gladys Holm đã sử dụng tất cả những gì bà có, không những tiền bạc, mà còn chính tình yêu và sự sống của bà để bảo vệ và xây dựng nguồn mạch sự sống mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Bà đã dùng của cải trần gian để đi tìm gia tài không thể hư hoại trên trời (1Pr 1: 4-5).
Bài Phúc Âm hôm nay, Ga 6:24-35, nối tiếp câu chuyện Chúa Giêsu nuôi một đám đông 5000 người ngày hôm trước. Sau việc Chúa hóa bánh ra nhiều, dân chúng được ăn uống no nê và muốn phong Chúa Giêsu làm vua, nên Ngài phải tránh họ đi nơi khác. Họ bèn đi tìm kiếm Ngài. Chúa nhìn thấy động lực thúc đẩy quần chúng tìm kiếm Ngài vì “đã được ăn bánh no nê”, vì được thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tạm bợ ở đời, nên Ngài đã dạy họ: “Đừng làm việc vì lương thực mau hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6:27). Chúa Giêsu đã có một viễn tượng khác với cái nhìn thiển cận của con người.
Trong bộ Barclay’s Daily Study Series, William Barclay đã chú giải như sau: “Con người, như Chrysostom đã nói, bị đóng đinh vào những sự vật của đời sống này. Ở đây, những con mắt của người ta chưa bao giờ được cất nhắc ra khỏi các thành vách của thế giới này để tới những sự đời đời ở bên kia.” Xưa kia, Napoleon và một người bạn đang nói chuyện với nhau về cuộc đời. Bên ngoài trời tối thui, họ đi bộ đến bên cửa sổ và nhìn ra bên ngoài. Trông bầu trời ở rất xa, có những vì sao nhỏ li ti. Napoleon rất sáng mắt, trong khi người bạn lại cận thị. Napoleon chỉ tay lên bầu trời và hỏi: “Anh có nhìn thấy những ngôi sao này không?” Người bạn lắc đầu: “Không! Tôi không thấy chúng.” Napoleon nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi.” Con người bị cột vào quả đất đang sống với một nửa đời. Con người với một viễn tượng, trông vào chân trời và nhìn thấy những ngôi sao, mới thực sự là đang sống.
Chúa Giêsu đề cập đến sự đói khát đời sống tinh thần của con người mà chỉ một mình Ngài mới làm thỏa mãn được khát vọng này. Đôi khi đó là sự đói khát chân lý mà con người chỉ tìm thấy nơi Đức Giêsu Kitô: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Là sự sống vĩnh cửu mà Ngài đã hứa ban: “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và sống một cách dồi dào” (Ga 10:10). Có khi là chính tình yêu mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta: “Không ai có tình yêu thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).
Thomas Long kể về cuộc đời của một thầy Rabbi đã chết tại Anh Quốc. Khi còn bé, cậu và gia đình bị bắt giam trong trại tù của Nazi, Đức Quốc Xã, chờ ngày hành quyết. Trong trại những tù nhân chỉ được phân phát đủ lương thực để sống qua ngày – một ít hạt ngũ cốc, một chút bánh thiu, một ít mỡ lợn mỗi tuần. Mặc dù ở trong hoàn cảnh khó khăn, gia đình của cậu bé vẫn giữ luật của ngày Sabát. Họ vẫn tìm cách biến chế, làm nên một cây đèn cầy và một ít lương thực mỗi tuần. Rồi họ đọc lời kinh nguyện và công bố phúc lành của ngày Sabát. Tuy nhiên, vào một tuần nọ, họ không còn đèn cầy nữa. Bóng đêm đã đến, sắp bước sang ngày Sabát, cha của cậu bé đã lấy một ít mỡ heo quý giá và đổ xung quanh một sợi giây. Ánh sáng đã được đốt lên thay cho đèn cầy, và ông bắt đầu hướng dẫn gia đình cầu nguyện và xin ơn chúc lành của ngày Sabát. Thấy vậy, cậu bé nổi cơn giận dữ. Khi những lời cầu nguyện chấm dứt, cậu bèn chất vấn cha mình rằng: “Tại sao cha lại làm như vậy? Tại sao lại phí phạm mỡ heo để làm đèn cầy trong khi chúng ta chỉ còn một chút lương thực duy nhất?” Cha cậu từ tốn trả lời: “Hỡi con, không có lương thực chúng ta vẫn còn có thể sống sót được vài ngày. Nhưng không có hy vọng, chúng ta sẽ không thể nào sống được thêm một giờ.”
Sách Giáo Lý Công Giáo số 2835 đề cập đến những sự đói khát của con người như sau: Các Kitô hữu phải tận lực lo “loan báo Tin Mừng cho những người nghèo”. Có nạn đói trên mặt đất này, “không phải đói cơm bánh và khát nước, nhưng là đói khát nghe Lời Thiên Chúa” (Am 8:11). Bởi vậy ý nghĩa đặc biệt Kitô giáo của lời cầu xin ban lương thực hằng ngày liên quan đến Bánh của Sự Sống, đó là Lời Chúa ta đón nhận trong niềm tin, và Mình Thánh Chúa Kitô ta lãnh nhận trong Thánh Lễ.
Trong bài Phúc Âm, người Do Thái cũng hỏi Chúa Giêsu: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Chúa Giêsu đã trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). “Tin vào Đấng Người đã sai đến” có nghĩa là nhận ra rằng chúng ta thuộc về Ngài, và Ngài là cha của chúng ta. Đó là đáp trả lại tình yêu của Ngài bằng chính tình yêu sâu xa của chúng ta dành cho Ngài (GLCG # 26). Tin có nghĩa “là sự gắn bó bản thân của con người với Thiên Chúa” (GLCG #150).
Thiên Chúa là tình yêu. Do đó, trong đời sống chúng ta phải yêu thương, phục vụ và tha thứ cho tha nhân để đáp lại tình yêu và tha thứ của Thiên Chúa đối với ta. Thiên Chúa là sự thánh thiện. Do đó chúng ta phải trở nên thánh, công chính, đạo đức như lời Chúa Giêsu đã nói: “Hãy trở nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Thiên Chúa là sự khôn ngoan. Do đó, trong cuộc sống chúng ta phải luôn vâng theo thánh ý của Thiên Chúa và hoàn toàn phó thác trong sự khôn ngoan nhiệm mầu của Người đã quan phòng cho chúng ta.
Ngày xưa, có hai người ăn xin hằng ngày vẫn đến xin bánh tại cổng triều đình của vua. Mỗi ngày vua cho họ một ổ bánh mì. Người ăn xin thứ nhất lấy lòng vua bằng cách luôn cám ơn lòng quảng đại của vua. Còn người ăn xin thứ hai luôn cám ơn Thiên Chúa đã ban cho vua sự giàu có để làm việc bác ái. Những lời cám ơn của người thứ hai làm nhà vua đau lòng. Do đó, vua quyết định dạy cho ông ta một bài học. Vua ra lệnh nướng hai cái bánh y hệt như nhau, nhưng trong một cái bánh có giấu những hạt kim cương quý giá bên trong. Rồi vua bảo người làm bánh cho người ăn xin thứ nhất ổ bánh có giấu những viên kim cương đó.
Ngày hôm sau, người làm bánh ra cổng và trao cho hai người ăn xin hai ổ bánh. Ông hết sức chú tâm để tránh khỏi lầm lẫn vì sợ vua giận dữ nếu có sai lầm xẩy ra. Khi người ăn xin thứ nhất nhận ổ bánh nặng nề, ông ta kết luận ngay rằng ổ bánh này nướng chưa được chín, bên trong bột còn sống nên cầm rất nặng tay, và năn nỉ người ăn xin thứ hai đổi cho ông ta. Người ăn xin thứ hai rất tốt bụng, lúc nào cũng muốn giúp đỡ bạn nên đồng ý đổi. Thế rồi họ chia tay nhau ra về. Khi người ăn xin thứ hai khám phá thấy bên trong ổ bánh những hạt kim cương quý giá. Ông tạ ơn Thiên Chúa vì phúc lộc của Ngài đã ban cho, đồng thời cũng biết ơn Ngài vì từ nay trở đi ông không phải đi xin bánh ăn nữa.
Sáng hôm sau nhà vua rất đỗi ngạc nhiên khi thấy chỉ có người ăn xin thứ nhất xin bánh ở cổng triều đình. Vua truyền lệnh gọi người nướng bánh đến và hỏi: “Ngươi có làm gì lầm lẫn ở hai ổ bánh mà ta đã ra lệnh cho ngươi không?” “Tâu Hoàng Thượng,” người nướng bánh trả lời, “Hạ thần đã làm đúng như lệnh truyền của Hoàng Thượng.” Rồi nhà vua quay sang người ăn xin và hỏi: “Nhà ngươi đã làm gì với ổ bánh ta cho ngươi ngày hôm qua?” Người ăn xin thứ nhất trả lời: “Nó nặng quá, nên con nghĩ rằng bánh nướng chưa được chín. Do đó con đã đổi nó cho người bạn ăn xin của con để lấy cái bánh của anh ta!”
Sau đó nhà vua đã hiểu rằng tất cả của cải mình có thực sự đều đến từ Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho một người nghèo khó trở nên giàu có và một người đang giàu có hóa ra nghèo nàn. Dù là vua chăng nữa cũng không thể nào thay đổi được ý Trời!
Sự liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa chỉ qua Đức Giêsu Kitô. Ngài đã hứa giúp chúng ta: “Chính Ta là bánh hằng sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6:35). Ngài đã ban cho chúng ta sự sống Ngài dưới hình thức của bánh từ trời. Dĩ nhiên bánh từ trời này là Bí Tích Thánh Thể, là Mình và Máu Chúa Giêsu chúng ta đón nhận. Chính sự sống này sẽ mang lại cho chúng ta sự can đảm và sức mạnh, niềm tin cậy mến, và ân sủng để trung kiên cho đến hơi thở cuối cùng trên mặt đất và bắt đầu sự sống đời đời trên thiên quốc.
.
Lm. Inhaxiô M. Hải Dương
Hiện nay, Hoa Kỳ, cũng như nhiều nước trên thế giới đã chú ý tới những loại thực phẩm sạch, mà người ta gọi là Organic food. Đây là loại thực phẩm không dùng chất hóa học. Có những loại rau organic, trứng organic, thậm chí cả đường cũng organic. Thế rồi có những tiệm ăn chỉ phục vụ thực phẩm Organic.
Ngay tại Việt Nam, bên cạnh những thực phẩm chết người, nhập từ Trung Quốc, cũng thấy có những thực phẩm Organic như rau sạch. Nhà vườn quảng cáo loại rau sạch này được cấy ở trong những nhà kiếng, không có bụi bậm, không dùng phân hoá học, ăn không bị đau bụng. Nếu có đau thì người ta bảo là vì bạn ăn thịt thà, cá mú toàn là những thứ được nuôi bằng cám, trộn chất hoá học, hay bị ô nhiễm môi trường.
Ngày nay, thiên hạ cố đi tìm cho được những thực phẩm sạch để bảo toàn sức khoẻ.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc người Do Thái đi tìm Chúa, tìm thức ăn đặc biệt qua phép lạ Chúa Giêsu làm từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Sau bữa tiệc này, dân chúng vẫn còn sôi nổi, đi kiếm tìm người đã ban cho họ của ăn đó. Chúa Kitô nói với họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì thấy các dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”.Và có lẽ đúng như vậy, vì người ta hy vọng sẽ được ăn những bữa ăn tương tự.
Thực phẩm là nỗi lo âu của người nghèo vùng Galilê. Đó cũng là mối lo của hằng tỉ người trên thế giới hiện đang sống trong những tình cảnh khó khăn. Có những thống kê, ước tính hằng nhiều triệu người trên thế giới đi ngủ đêm mà bụng bị đói.
Đức Kitô không chê trách họ vì chuyện ăn uống này. Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn, bởi lẽ con người không chỉ có thân xác, mà còn có hồn thiêng. Ngài căn dặn họ hãy “tìm những thực phẩm không hư nát, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi.”
Khi nói với dân chúng tìm những của ăn không hư nát, Chúa Kitô muốn nói lên rằng đời sống con người không chỉ lẩn quẩn trong thế giới vật chất, như của ăn, của uống, như ngủ nghỉ, vui chơi. Vì nếu chỉ có thế thì con người không khác chi một con vật, chúng cũng có bản năng tìm kiếm những thứ đó. Đời sống con người phải được nâng lên đến với Chúa, Đấng luôn chia sẻ những gì là tốt đẹp cho con người. Tuần trước Ngài làm phép lạ cho bánh hoá nhiều cho dân chúng ăn no nê. Tuần này, Ngài ban cho họ bánh bởi trời là bánh đích thực, không như Man-na từ trời rơi xuống để dân chúng phải đi lượm hằng ngày.
Đón nhận của ăn từ môi miệng Chúa Kitô mệnh danh là: “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”, cũng đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ những gì chúng ta có cho tha nhân.
Chia sẻ đó là điều chúng ta luôn được kêu mời thực hành trong đời sống. Cậu bé trong bài Tin Mừng tuần trước cũng đã biết chia sẻ những gì mình có cho Chúa, để Chúa làm nên phép lạ. Sự chia sẻ đầu tiên đó, cuốn theo cả một dây chuyền chia sẻ. Các tông đồ đón nhận sự chia sẻ của em bé, lại mang lại cho Chúa. Rồi sự chia sẻ tiếp tục, khi Chúa Kitô, sau khi đọc lời tạ ơn, lại chia sẻ cho các môn đệ, và các môn đệ lại chia sẻ cho dân chúng. Nhưng làm sao các tông đồ, với 12 vị có thể chia sẻ cho mấy ngàn người, nếu không có sự tiếp tay của dân chúng, người này chuyền tới người khác, người khác chuyền tới người kia. Và kết cục, là nhờ sự chia sẻ, mọi người được ăn no nê.
Nhưng sự chia sẻ đó chưa hết. Chúa Kitô kêu mời các Tông Đồ thu lại những mảnh bánh vụn còn lại. Một lần nữa, mọi người lại chia sẻ phần dư thừa của mình cho các tông đồ, và kết quả là được 12 thúng bánh vụn còn lại.
Mỗi ngày Chúa Nhật, tham dự Thánh Lễ, Chúng ta được đón nhận Mình Máu Thánh Chúa vào trong tâm hồn. Chúng ta được đón nhận ơn phúc bình an của Chúa hứa mỗi khi tham dự Thánh Lễ. Lời linh mục đọc sau kinh Lạy Cha: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban sự bình an của Thầy cho các con” và lời chúc bình an vào lúc kết Lễ, phải là lời phấn khích chúng ta hãy chia sẻ sự bình an của mình cho tha nhân. Đây chính là lời mời gọi nối dài Thánh Lễ trong cuộc sống.
Thực tế, cuộc sống thường nhật của chúng ta, cũng như tha nhân có biết bao nhiêu là những khó khăn, thử thách, chúng ta hãy chia sẻ những gì mình có để nâng đỡ tha nhân, như hy sinh thời giờ, sức lực, tài năng, của cải vật chất để giúp đỡ tha nhân. Vì chính Mình Thánh Chúa Kitô cũng đã phải bẻ ra để phân phát cho mọi người tham dự. Sự chia sẻ này sẽ làm cho chúng ta được giầu có hơn, làm cho trái tim chúng ta được mở rộng, và làm cho cuộc sống chúng ta được giầu có thêm lên.
Xin Đức Mẹ, sau khi mang thai Chúa Kitô, đã mau mắn quảng đại chia sẻ Chúa Kitô cho tha nhân, cho gia đình Giacaria, cho các mục đồng, cho ba vua, và cho nhân loại khi đứng dưới chân thập giá, giúp chúng ta cũng biết chia sẻ đời sống mình cho tha nhân như vậy.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Chủ đề Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là bánh. Dân Do Thái 40 năm lưu lạc trong sa mạc đã được Thiên Chúa nuôi sống bằng bánh Manna. Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn quan tâm tới những nhu cầu của con người: ban bánh, ban thịt cho dân Do Thái (Bài đọc 1). Đức Chúa phán với Môsê: “Này, Ta sẽ làm bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn… vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt”.
Đức Giêsu đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều cho 5.000 người ăn trong hoang địa khi họ đói bụng. Từ bánh nuôi phần xác, Đức Giêsu hướng dân chúng về một của ăn thiêng, đó là bánh thiêng, bánh hằng sống nuôi hồn, tức là Thánh Thể của Ngài.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã phân biệt bánh Manna với bánh hằng sống:
– Manna do Thiên Chúa ban qua trung gian Môsê, không phải là bánh đích thực từ trời ban xuống.
– Bánh hằng sống là bánh của Thiên Chúa “Từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian”.
– Bánh hằng sống ban sự sống cho thế gian, sự sống đời đời không như Manna ăn rồi lại đói, rồi cũng phải chết. Còn bánh của Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho mọi người “Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.
– Chính Chúa Giêsu là bánh hằng sống. Ngài tự hiến trong Thánh Thể mới có khả năng thỏa mãn mọi khát vọng của những người tìm đến và tin vào Ngài. Đức Giêsu đã khẳng định:
“Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói. Ai tin vào Tôi , chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35).
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu và các tông đồ trở về Capharnaum. Dân chúng đi tìm Chúa Giêsu không phải vì tin vào Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, nhưng là vì được ăn bánh no nê và trong thâm tâm họ muốn Đức Giêsu làm vua để nhờ Người mà được hạnh phúc ở đời này. Họ không tin Người, nhưng vì bánh Người ban cho: vụ lợi! Chính Chúa Giêsu đã nói: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi thấy dấu lạ, nhưng vì các ngươi được ăn bánh no nê”. Người khuyên họ nên tìm kiếm của ăn tồn tại không hư nát mà Người sắn sàng ban cho họ và cho những ai tin vào Người. Đó là bánh ban sự sống, là chính Đức Giêsu.
Điều kiện để được bánh của Thiên Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô, là đến với Ngài. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể làm thỏa mãn khát vọng cho những ai tin vào Người: “Ai đến với Ta, sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”. Từ bánh nuôi thể xác, Đức Giêsu hướng chúng ta đến của ăn nuôi sống linh hồn là chính Đức Giêsu. Điều này sẽ được thực hiên khi Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong ngày thứ năm Tuần Thánh.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta nhận ra giá trị và ý nghĩa khác nhau về bánh, của ăn phần xác và của ăn phần hồn để chúng ta biết ra công làm việc, vì của ăn phần hồn hơn của ăn phần xác. Điều này đòi hỏi người tín hữu tin vào Chúa, yêu mến Chúa và đến với Ngài.
Người Do Thái xưa cũng như người thời đại hôm nay, họ mải mê với công việc trần gian, tìm kiếm của ăn vất chất, hưởng thụ mà quên đi những của ăn tinh thần, của ăn đem lại sự sống đời đời. Họ đến với Chúa vì được ăn no nê, vì vụ lợi. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta “ra công làm việc” để có sự sống đời đời, và làm công việc của Thiên Chúa: “Tin vào Đức Giêsu” nghĩa là đi theo, tin nhận và sống như Người. Cũng vậy, để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa… mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện”.
Trong xã hội hôm nay, nền đạo đức xuống cấp trầm trọng, đầy tội ác, trụy lạc, hưởng thụ, tục hóa. Con người hôm nay không quan tâm tới đời sống đạo đức, chỉ lo kiếm được nhiều tiền bằng bất cứ phương tiện nào. Người Kitô hữu phải nêu gương đời sống lương thiện, công chính, loại bỏ những gì là bất chính, tội lỗi hầu phục hồi nền đạo đức cho thế hệ hôm nay. Đó là sứ mạng của chúng ta.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN_B.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến
A. Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần:
a/ Phần I nói về việc dân đi tìm Chúa.
Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng tiếp tục đi tìm Chúa Giêsu. Ngày hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở phía bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn no nê.” Rồi Ngài dạy họ tìm một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
b/ Phần thứ 2
Chúa Giêsu bắt đầu giải thích cho dân về thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời” là gì.
– Đó là thứ của ăn đó vượt trội hơn Manna ngày xưa.
– Nghe thế dân chúng tưởng đó cũng là một thứ thức ăn vật chất – nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nên họ xin “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”.
B…Cuộc sống
- Vì còn mang thân xác, nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thỏa mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này ra còn một sự sống cao hơn, đó là sự sống thần linh. Lời Chúa Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta hôm nay: hàng ngày chúng ta thường tìm gì? Tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu thân xác hay thỏa mãn nhu cầu tâm linh.
Nếu chúng ta chỉ đi tìm những thứ hay hư nát thì hãy coi chừng. Một lúc nào đó chúng ta sẽ trắng tay!
Đây là kinh nghiệm của một người đã đạt được những thành công vang lừng trong cuộc sống. Tên anh là J. Demsey. Anh là một võ sĩ quyền anh có đẳng cấp thế giới. Chiều hôm đó anh vừa mới đoạt được chức vô địch. Nhưng rồi đêm đến anh không sao nhắm mắt được. Mãi đến 2 giờ sáng anh mới thiu thiu ngủ được một chút. Nhưng ngủ chưa được một tiếng đồng hồ, anh bỗng giật mình thức giấc vì nằm mơ thấy mình mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng” (…)
- “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”
Vâng có những thứ rất mau hư nát nhưng bên cạnh đó cũng có những thứ trường sinh.
Thánh Gioan Kim khẩu nói: “Loài người vốn bị đóng đinh vào những việc thuộc về đời sống”. Đây là những người chẳng bao giờ có được những ước vọng cao hơn bức tường thành của thế gian để phóng tầm mắt lên đến chân trời của cõi đời đời. Sự khác biệt giữa một người chỉ biết nhìn gần và một người biết nhìn xa thật lớn lao vô cùng. Một đêm nọ, Nã Phá Luân nói chuyện với một người quen. Bấy giờ trời đã về khuya, ngoài trời tối đen như mực. Hai người đến gần bên khung cửa sổ. Trên trời có những ngôi sao thật xa, trông nhỏ bằng đầu cái kim, đang nhấp nháy sáng. Mắt của Nã phá Luân còn rất tinh, còn mắt bạn ông đã mờ. Ông chỉ lên trời và hỏi:
– Anh có thấy các ngôi sao đó không?
Người bạn đáp:
– Tôi không thấy.
Nã Phá Luân nói:
– Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi và anh..
Người bị buộc chặt vào thế gian thì không thể thấy được những gì ở xa. Họ mới chỉ thấy được những cái thật gần mà cái gần nhất của họ như lời thánh Phaolô nói: Đó là cái bụng. Như vậy họ mới sống có phân nửa của cuộc đời. Chỉ có những ai có tầm mắt nhìn xa, nhìn thấy cả vùng trời xa xăm, thấy được các ngôi sao, họ mới là người thật sự sống.
Sau năm 60 SC, xã hội Lamã sống trong sự sa hoa chưa từng thấy. Bấy giờ người Lamã đãi tiệc bằng óc chim công và lưỡi họa mi. Người ta uống thuốc cho nôn mửa giữa hai bữa ăn, để lần sau ăn cho ngon miệng hơn. Những bữa ăn đáng giá hàng ngàn Anh kim là chuyện thường tình. Pliny kể lại, thời ấy một mệnh phụ may một chiếc áo cưới dát vàng và đính nhiều châu ngọc trị giá tương đương bốn mươi ngàn Anh kim. Họ tưởng ăn như thế, mặc như thế là cuộc sống sẽ hoàn toàn được thỏa mãn. Không! Ngàn lần không. Họ vẫn còn đói, vẫn còn khát. Sự đói khát không gì thoả mãn được. Họ tiếp tục tìm đến bất cứ điều gì khiến cuộc đời có một thêm những rung động mới, hương vị mới, nhưng chẳng có gì có thể làm cho họ được no thỏa.
Chúa Giêsu thấy quần chúng Do Thái chỉ chú ý đến sự thoả mãn về phần thể xác, nên Chúa đã cho họ ăn một bữa dư dật chẳng phải trả tiền, và họ còn muốn được ăn nữa. Tầm nhìn của những người Do thái mới chỉ dừng lại ở đó.
- Thế nhưng như mọi người đều thấy. Đâu phải chỉ có cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói khác. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ :
– Đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
– Đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
– Đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
– Đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
– Đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
– Đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
– Đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Và thứ đói này chỉ có Chúa mới có thể làm cho chúng ta được no thỏa.
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana – vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với viên sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói : “Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội”.
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao rồi. Cha Mark Link viết: “Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy”.
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
.
Trầm Thiên Thu
Mỗi vùng, mỗi miền, mỗi nơi, mỗi dân tộc,… đều có loại đặc sản độc đáo mang sắc thái đặc trưng, không lẫn với các sản phẩm khác, ngay cả đối với mỗi người cũng có những món khoái khẩu khác nhau. Nói về sự ăn kiêng một cách khôi hài mà thú vị, Julia Child nhận định: “Chỉ nên ăn kiêng khi bạn chờ thịt chín”. Rõ ràng là việc ăn uống quan trọng lắm – không chỉ đối với sức khỏe mà còn đối với khẩu vị. Có câu nói rất riêng của một nhân vật trong một bộ phim Bắc Việt thế này: “Không thể hoãn lại cái sự sung sướng được”. Đúng vậy!
Các món ăn được gọi chung là ẩm thực – tức là chuyện ăn uống (ẩm: uống, thực: ăn). Thật kỳ lạ, ăn uống cũng có “đạo lý ăn uống”, có nét văn hóa đặc thù – gọi là văn hóa ẩm thực, và còn có cả một triết lý trong văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa thức ăn và thức uống vào miệng, là việc cần thiết để duy trì sự sống, mà còn thể hiện tính cách một con người. Tiền nhân dạy: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Xem ra việc “ăn uống” quá đơn giản mà lại khá nhiêu khê, và cũng vì phức tạp nên mới phải học – học để biết cách hành xử hợp lý nhất.
Cách ăn uống tiết lộ tính cách con người. Có thể nhờ ăn uống mà người ta thêm hiểu nhau, nhưng cũng có thể do ăn uống mà sinh hiềm khích nhau – thậm chí có thể hành hung nhau và có thể xảy ra án mạng. Vì sự sinh tồn, nghĩa là vì miếng cơm và manh áo, mà người ta có thể sát hại lẫn nhau. Chung quy thì chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh giành sự sống lẫn nhau: Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Cái tôi to lớn nên sinh đủ thứ chuyện xấu xa.
Ẩm thực là vật chất nhưng cũng ảnh hưởng tinh thần và tâm linh. Chuyện ăn uống cũng có mức độ ảnh hưởng tương tự. Kinh Thánh nói về việc ăn uống: “Khi con ngồi ăn với kẻ có chức quyền, hãy để ý kỹ người đối diện. Nếu con vốn tham ăn, hãy đặt dao kề cổ. Đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị của hắn, vì đó là thứ đồ ăn phỉnh gạt” (Cn 23:2-3). Còn ca dao Việt Nam cảnh báo: Miếng ăn là miếng tồi tàn – Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu. Vinh hay nhục có khi chỉ từ miếng ăn bé nhỏ mà thôi!
BÁNH NUÔI XÁC – MANNA
Chúng ta là hậu sinh, không hề biết loại đặc sản mà dân Israel đã từng ăn ròng rã suốt 40 năm hành trình qua hoang địa để tiến về Đất Hứa. Loại đặc sản đó như thế nào? Kinh Thánh mô tả: “Manna như hạt ngò và trông nó như nhựa hương” (Ds 11:7).
Trong thời gian miệt mài di chuyển qua sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Israel kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ vất vả khổ sở, có lẽ vì sức người có hạn, thế nên họ đã trách móc các ông: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên NỒI THỊT và ĂN BÁNH thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải CHẾT ĐÓI cả lũ ở đây!” (Xh 16:3). Họ trách móc người khác và than thân trách phận chỉ vì thiếu thực phẩm, họ không thỏa mãn cái miệng, và cái bụng cứ reo hoài nên họ khó chịu. Chúa biết lắm, thế nên Ngài nói với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho BÁNH TỪ TRỜI mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không” (Xh 16:4). Có ăn là khỏe ngay, con người là thế!
Sau đó, Thiên Chúa còn nói thêm với ông: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 16:12). Thích gì được nấy, thịt bánh đều có. Thật vậy, cứ chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại, còn buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan thì trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi dân Israel thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?” (Xh 16:15a). Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh chị em làm của ăn!” (Xh 16:15b). [Xin “mở ngoặc”: Loại bánh-từ-trời đó là Manna (tiếng Hê-brơ: מָן), còn được viết là Mana, hoặc al-Mann wa al-Salwa (tiếng Ả-rập: المَنّ و السلوى), tiếng Hy-lạp và Latin là Man hoặc Manna].
Ôi, thật lạ lùng thay việc Thiên Chúa làm để thỏa mãn lòng dân, và còn biết bao điều kỳ diệu khác mà hằng ngày Ngài vẫn làm vì chúng ta, cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết tự hứa: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4). Thánh Vịnh gia nhắc lại: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến manna tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Thiên Chúa đại lượng và hào phóng, Ngài luôn chiều lòng chúng ta một cách hợp lý, cho dù đôi khi chúng ta rất ngỗ nghịch, bướng bỉnh, cao ngạo hoặc phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn im lặng và kiên trì chờ chúng ta “giác ngộ” mà chân nhận Ngài là Đức Chúa duy nhất – tức là xác định KHÔNG HỀ CÓ BẤT CỨ THẦN LINH NÀO KHÁC.
Chắc chắn như vậy. Nếu thế thì hãy nghe Thánh Phaolô khuyên nhủ: “ĐỪNG ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Một khi đã thay đổi lối sống, chúng ta “phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Tuy nhiên, không thể “giả vờ” hoặc “ra vẻ” mà phải thay đổi từ đáy lòng, phải thay đổi theo ý Đức Kitô, phải “chết” cho con-người-cũ và “chết” cho tội-lỗi-của-chính-mình, tức là phải chịu đau đớn vì phải “banh da, xẻ thịt” của mình để sống theo lý tưởng Kitô. Khó lắm, đâu phải chuyện đùa. Nhưng thành tâm cố gắng và nhờ ơn Chúa, mọi thứ đều có thể, và sẽ ổn thôi.
Xác và hồn không thể tách rời. Xác khỏe thì hồn mạnh. Một tâm hồn lành mạnh ở trong một thân xác khỏe mạnh. Tinh thần yếu đuối sẽ khiến thể lý uể oải, lâu dần hóa bệnh tật. Đó là điều tất yếu, vì chúng liên quan lẫn nhau.
BÁNH DƯỠNG HỒN – THÁNH THỂ
Thân xác cần có lương thực để sống, linh hồn cũng vậy. Khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ đều không có ở đó, họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Tính thẳng thắn và thật thà, Ngài nói toạc móng heo luôn: “Thật, Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm Tôi KHÔNG phải vì các ông đã thấy DẤU LẠ, nhưng vì các ông đã được ĂN BÁNH NO NÊ” (Ga 6:26). Nghe rất “sốc”, rất đau, vì họ bị “chạm” vào chính “ý đồ” của họ. Trong chúng ta cũng có những người như vậy – nghĩa là vì chính sự ích kỷ của mình.
Vâng, sự thật vẫn thường phũ phàng như thế. Và có lẽ chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Israel xưa. Liệu chúng ta đi hành hương có thực sự vì yêu mến Chúa, vì sùng kính Đức Mẹ hoặc các thánh, hay vì cái gì “khó nói” lắm? Người ta vẫn thường “rỉ tai” nhau: “Chỗ đó thiêng lắm, xin được nhiều ơn lắm”. Và rồi chúng ta cũng cố gắng đến để “được ơn” là chính. Nếu không được ơn thì sao? Liệu đức tin còn được vững vàng? Những người có “của ăn, của để” mới đủ “khả năng” đi hành hương các Thánh địa hoặc Linh địa, còn những người nghèo thì sao?
Nếu như vậy thì người nghèo chịu thiệt thòi quá. Họ được ít ơn hơn thì họ cũng khó vào Nước Trời hơn, nếu xét theo “nghĩa thực tế” đó! Đã từng có đoàn hành hương về Thánh địa Giêrusalem với chi phí tới 9 tỷ VNĐ, còn đến các linh địa trong nước cũng tốn kém lắm. Người nghèo có mơ cũng chẳng được, bởi vì họ lo kế sinh nhai hằng ngày còn “méo mặt” thì làm sao có dư tiền mà đi hành hương để “xin ơn” chứ? Nếu chỉ những ai đi hành hương mới được ơn thì Chúa không công bằng. Nhưng Ngài đâu có như vậy, chỉ tại chúng ta bắt Ngài như vậy thôi!
Liệu chúng ta đi làm việc thiện có vì yêu mến Chúa qua những anh chị em kém may mắn hơn mình? Liệu chúng ta thực sự làm việc tông đồ, tham gia các hội đoàn hoặc các nhóm đạo đức có thực sự hy sinh và chỉ vì muốn vinh danh Chúa hay không? Chắc chắn những câu hỏi đó “khó” trả lời lắm, và có lẽ chúng ta cũng đang có những tư tưởng phù phiếm! Có điều chắc chắn là Thiên Chúa không câu nệ hình thức như chúng ta tưởng hoặc cứ “suy bụng ta ra bụng… Chúa”. Thế thì “căng” thật!
Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Quý vị hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có LƯƠNG THỰC THƯỜNG TỒN đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:27). Có lẽ họ không hiểu hết ý Ngài nên liền hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Ngài trả lời ngay: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là TIN vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Không biết vì không hiểu hay cố ý không chịu hiểu mà họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Đức Giêsu đáp: “Thật, Tôi bảo thật quý vị, không phải ông Môsê đã cho quý vị ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha Tôi cho quý vị ăn BÁNH BỞI TRỜI, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, BÁNH ĐEM LẠI SỰ SỐNG cho thế gian” (Ga 6:32-33). Hai loại bánh đều từ trời, nhưng manna chỉ làm cho sống phần xác, Thánh Thể mới làm cho sống phần hồn.
Ôi chao, ý Ngài hoàn toàn khác hẳn, thảo nào…! Nếu chúng ta được trực tiếp đối thoại với Ngài lúc đó thì chắc chắn chúng ta cũng chỉ “như vịt nghe sấm” chứ hiểu gì nổi.
Thế nhưng đối với dân Israel lại khác, sau khi nghe Ngài nói đến “bánh đem lại sự sống” thì họ nói ngay: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy” (Ga 6:34). Đức Giêsu bảo họ: “Chính Tôi là BÁNH TRƯỜNG SINH. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Lại nghe thấy “sốc” quá! Bánh gì kỳ lạ vậy chứ? Thế nên chúng ta đừng vội chê trách “người xưa”. Quả thật, nếu là chúng ta thì có lẽ Chúa Giêsu “không có đường về”. Cũng may là chúng ta “sinh sau, đẻ muộn”, được học hỏi và được lãnh nhận đức tin nơi Chúa Giêsu từ ngàn xưa truyền lại. Quả thật, so với dân Israel xưa thì chúng ta may mắn và diễm phúc lắm!
Thật vậy, ngày xưa dân Israel chỉ được ăn bánh-từ-trời là manna, loại đặc sản chỉ có thể nuôi sống phần xác; còn chúng ta ngày nay cũng được ăn bánh-từ-trời, nhưng đó là Bánh Trường Sinh, là chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, loại đặc sản nuôi sống phần hồn, là của ăn đàng trên suốt hành trình về Thiên Quốc vĩnh hằng.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con xứng đáng lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể Đức Giêsu Kitô, để được sự sống đời đời theo giao ước. Xin ban lương thực hồn xác cho những người nghèo khổ, thiếu thốn, những người chịu thủy hoạn và hỏa hoạn khắp nơi trên thế giới. Xin giữ gìn họ trung kiên trong đức tin và giúp họ cố gắng chịu đựng để đáng phần phúc mai sau. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.