CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 55, 1-3; Rm. 8, 35.37-39; Mt. 14, 13-21
*******
- Quyền năng của TC và lòng quảng đại của con người (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Tấm bánh liên đới (Tgm. Ngô Quang Kiệt)
3. Điều không thể (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Cho dư đầy một cách nhưng không (Jorathe Nắng Tím)
5. Đừng để ai nghèo trước mặt chúng ta (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
6. Năm chiếc bánh và hai con cá (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
7. Chạnh lòng thương (Lm. Vũ Đình Tường)
8. Sức mạnh tình yêu (Maria Phạm Anh, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
9. Cho người đói ăn (Lm. Trần Bình Trọng)
10. Chúa yêu không bờ không bến (Lm. Giuse Nguyễn Minh Hùng)
11. Chia bánh cho nhau (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
12. Ai nấy đều được ăn no nê (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
13. Hãy có lòng thương xót (Ngọc Biển, SSP)
14. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 18 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
15. Cho phúc hơn nhận (Lm. Đan Vinh)
16. Một miếng và một gói (Trầm Thiên Thu)
17. Ấm áp tình người (Lm. Jos. DĐH, GP. Xuân Lộc)
18. Đói nghèo trong tâm hồn và lương thực cứu đời (Lm. Giuse Đỗ Đức)
19. Hãy bắt đầu từ việc nhỏ (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
20. Nhu cầu cấp bách (Trầm Thiên Thu)
21. Đào tạo lòng tin (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
.
VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CON NGƯỜI
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong thời gian mọi người phải cách ly vì đại dịch viêm phổi Vũ Hán vừa qua, chúng ta được chứng kiến lòng quảng đại của người dân Việt. Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” được thể hiện rõ, qua những nghĩa cử chia sẻ đầy tình người. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, những ATM phát gạo, những bữa cơm miễn phí, những chiếc khẩu trang chống dịch… tất cả làm nên vẻ đẹp truyền thống của lòng nhân ái nơi người Việt Nam chúng ta.
Lời Chúa trong Chúa nhật XVIII thường niên này nói về lòng quảng đại và hào phóng của Thiên Chúa đối với con người. Ngài cũng đang qua các tín hữu để thể hiện quyền năng và lòng quảng đại cứu giúp những người thiếu thốn. Thánh Máthêu nói với chúng ta về tâm trạng của Chúa Giêsu: Người chạnh lòng thương khi thấy đám đông theo Người vào sa mạc, vào lúc cuối ngày, họ đang đói và cần có lương thực. Xin lưu ý: khi Chúa Giêsu ăn chay trong sa mạc, ma quỷ đã cám dỗ Chúa về nhu cầu ăn uống. Nó nói với Chúa: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy biến những tảng đá này thành bánh mà ăn”. Nhưng Chúa không làm theo lời dụ dỗ của ma quỷ. Người tuyên bố: “Người ta sống không chỉ bằng cơm bánh, mà còn bằng lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Nếu trong sa mạc, lúc chay tịnh, Chúa Giêsu không hoá đá thành bánh theo cám dỗ của ma quỷ, thì bây giờ, cũng trong sa mạc, trước đám đông dân chúng đang đói khát, Chúa lại chạnh lòng thương, và Người làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Người Do Thái am hiểu lịch sử đều dễ dàng nhận ra Chúa Giêsu như một Môisen mới. Trong hành trình sa mạc về Đất Hứa, qua trung gian ông Môisen, Chúa đã ban mana và chim cút để nuôi dưỡng dân lữ hành, nhờ vậy mà suốt thời gian 40 năm, họ không trồng cấy, không chăn nuôi, mà vẫn có lương thực để đi về Đất Hứa. Như thế, chúng ta có thể nói: nếu Chúa làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều là vì thương dân chúng. Người cũng muốn qua phép lạ này chứng minh quyền năng thiên linh của Người, như chính Chúa nói với người Do Thái trong Tin Mừng Thánh Gioan: “Chính Cha tôi cho người Do Thái ăn Manna trong sa mạc là bánh bởi trời”.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng. Người có thể phán một lời là có bánh ăn cho mọi người. Nhưng Người không làm thế mà lại chọn cách hoá bánh ra nhiều khởi đi từ đồ ăn dự trữ có người mang theo. Các tác giả Tin Mừng đều kể lại phép lạ nhân bánh khởi đi từ những chiếc bánh và những con cá từ những người có mặt. Cụ thể, trong trình thuật của Thánh Mátthêu hôm nay, trước câu hỏi của Chúa, các môn đệ đã trả lời: “Ở đây chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Dựa theo câu trả lời này, thì có lẽ đó là bánh và cá các môn đệ đã chuẩn bị cho Thày và trò. Số bánh này quá ít ỏi so với nhu cầu của đám đông. Vì chỉ có chút ít như thế, các ông đã tìm một phương pháp đơn giản để thoái thác trách nhiệm, như lời các ông thưa với Chúa: “Xin Thầy cho họ về, vì nơi đây hoang vắng và cũng đã muộn”. Vâng, đó là cách giải quyết dễ dàng hơn cả mà các môn đệ cũng như chúng ta thường lựa chọn. Cách giải quyết này vừa nhanh gọn vừa không gây bận rộn cho các môn đệ. Đức Giêsu không chấp nhận giải quyết kiểu đó. Người nghĩ đến những người già cả, những người đến từ xa. Họ đang rất đói và có thể gục ngã trên đường trở về. Lòng thương xót của Chúa muốn mang lại sức sống và niềm vui cho con người. Đức Giêsu muốn khẳng định cho mọi người thấy những ai kiên tâm theo Người sẽ không phải thất vọng. Họ sẽ không về tay không.
Khởi đi từ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã nhân lên nhiều đến nỗi năm ngàn người ăn no mà vẫn còn dư đến mười hai thúng. Một khi quyền năng của Thiên Chúa gặp gỡ lòng quảng đại của con người, phép lạ sẽ xảy ra, những điều kỳ diệu sẽ xuất hiện ngoài sức tưởng tượng của con người. Thánh Mátthêu còn nhấn mạnh thêm con số năm ngàn chỉ tính đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ. Kết quả kỳ diệu đó đến từ tình thương của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Từ năm cái bánh và hai con cá, những gì được chia sẻ không mất đi, trái lại được nhân lên gấp bội. Có người sánh ví đức ái như ngọn lửa tài tình, càng được chia sẻ thì càng được bùng lên, lan rộng khắp nơi mà không hề bị tiêu hao mất mát.
Ngày hôm nay, đây đó có những người giàu có tới mức dư thừa, đồng thời cũng còn những người bất hạnh, thiếu thốn kể cả những gì tối thiểu cho cuộc sống hằng ngày. Làm ra cơm bánh và tăng trưởng kinh tế là một thách đố lớn đối với con người của mọi thời đại. Người ta đã trách Chúa sao không phân phối tài sản đồng đều giữa các nước bắc bán cầu và nam bán cầu, giữa những người giàu “nứt đố đổ vách” và những nghèo “rớt mồng tơi”. Nhưng thực ra, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ cho mọi người và cho mỗi người. Ngài cũng luôn mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài bằng việc giang rộng cánh tay để xoá đi chênh lệch, xóa đi bất hạnh nghèo đói. Vì mọi người đều là anh chị em với nhau và cùng được hưởng những tài nguyên mà Thiên Chúa ban tặng. Những người giàu có chỉ là người quản lý của cải Chúa ban để phân phát cho những anh chị em mình. Họ không thể dựa trên lý lẽ “là của mình” để tùy tiện phung phí hoặc dửng dưng trước sự nghèo đói của những người xung quanh. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố một cách dứt khoát: “Của cải để lãng phí là của cải ăn cắp của người nghèo”. Gần đây, có những nhóm thiện nguyện, gom góp những đồ đạc đã sử dụng để tặng cho những người có nhu cầu. Họ trưng dẫn một câu thơ rất có ý nghĩa: “Mọi thứ đều là của chung, khác nhau ở chỗ ai dùng mà thôi”. Đúng thế, những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hàng ngày đều là của Chúa ban. Một số người may mắn được Chúa trao làm người sở hữu. Người quảng đại biết chia sẻ với tha nhân; người ích kỷ chỉ ôm lấy cho riêng mình. Ca dao Việt Nam đã nói: “Xởi lởi trời cho, so đo trời lấy”. Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Đong đấu nào thì sẽ nhận đấu ấy”. Sống rộng rãi với tha nhân, Chúa sẽ bù đắp cho chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chính trong lúc này, chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể. Nơi đây Đức Giêsu tiếp tục hóa bánh ra nhiều để nuôi dưỡng chúng ta. Nơi đây chúng ta lãnh nhận lương thực thiêng liêng, lương thực nuôi sống chúng ta và là bảo chứng cho chúng ta được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho toàn thế giới, đồng thời là lời mời gọi mọi người hãy yêu thương và chia sẻ cho nhau, như Người đã yêu thương và hiến chính mình cho chúng ta. Lời ngôn sứ Isaia năm xưa (trong Bài đọc I) nay đang được thực hiện: “Đến cả đi hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây. Dù không tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào… Hãy lắng tai nghe Ta thì các ngươi sẽ được sống…”., Thật là kỳ diệu, Thiên Chúa như người mẹ, luôn luôn quan tâm chăm sóc chúng ta. Bí tích Thánh Thể là nguồn suối vô tận của tình thương. Hãy đến kín múc nơi Bí tích này những ân sủng thiêng liêng, giúp ta bước đi, kể cả những lúc đi trong sa mạc hoang vắng và những lúc cô đơn trong dòng chảy cuộc đời. Nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể luôn tự tin và trung thành gắn bó với Chúa, như Thánh Phaolô diễn tả (Bài đọc II): Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, kể cả gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Nhờ Đấng yêu mến chúng ta mà chúng ta sẽ toàn thắng. Trong những ngày này, qua các thông tin xã hội, chúng ta đau lòng thấy bên Trung Quốc, chính quyền một số địa phương không ngừng đập phá các nhà thờ, tượng ảnh và thánh giá, thiêu huỷ sách Đạo và các ấn phẩm Công giáo. Không chỉ có các cộng đoàn Kitô hữu là nạn nhân của chế độ, mà cả các tôn giáo khác cũng chịu chung số phận: chùa chiền bị phá, kinh Phật bị đốt cháy. Biết bao anh chị em Kitô hữu của chúng ta trong quốc gia này đang bị bách hại. Chúng ta cầu nguyện cho họ, để giữa gian truân khốn khó, những Kitô hữu này vẫn nhận thấy tình thương của Chúa, gắn bó với Người để Người ban sức mạnh và lòng trung thành. Xin cho những kẻ báng bổ thân linh tỉnh ngộ và ngừng ngay những hành động điên rồ của họ, để thoát khỏi những hậu quả khủng khiếp cho quốc gia và dân tộc.
Đối với chúng ta, thông điệp Giáo Hội muốn gửi đến cho chúng ta Chúa nhật này là lòng liên đới với anh chị em. Xung quanh chúng ta, vẫn còn đó biết bao người cần được giúp đỡ tinh thần và vật chất. Sống trong cuộc đời, ai cũng phải có trách nhiệm đối với anh chị em mình. Một tác giả đã viết: “Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho” (Helder Camara). Nếu không có tiền bạc, ít nhất chúng ta có thể chia sẻ cho anh chị em nụ cười, sự quan tâm, lời khích lệ và sự cảm thông. Tất cả những điều này, được thực hiện đúng lúc, đúng nơi và với tâm tình trân trọng quý mến, sẽ có giá trị tuyệt vời.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Đó cũng chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.
Liên đới là biết cảm thương.
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.
Liên đới là nhận lấy trách nhiệm.
Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.
Liên đới là đóng góp phần của mình.
Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.
Liên đới là chia sẻ.
Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tục ngữ Việt nam có câu: Nhiều no ít đủ. Bạn nghĩ gì về nét văn hoá Việt nam trong câu này. Có gần với bài Tin Mừng hôm nay không?
2) Càng cho đi càng phong phú. Bạn cảm nghiệm điều này bao giờ chưa?
3) Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Những người nghèo chất vấn cách tiêu dùng của ta. Bạn có nghĩ thế không?
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Làm sao có thể lấy năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người ăn? Một bài toán không thể. Nhưng Chúa bảo: “Hãy cứ cho họ ăn!” (Mt 14, 13 – 21).
Chúng ta bắt đầu từ đâu? Câu chuyện là cừu hay là sói, cho chúng ta thấy cách thành công của người kiên quyết đi tới vượt qua trở ngại.
Giả sử, bạn bắt đầu hay bạn thành công ở một lãnh vực, người khác tán thưởng, vỗ tay, hoan hô. Nhưng cũng sau đó một số trong những người này, bày chuyện khinh thường thành công của bạn. Họ nói tại sao không thế này, thế kia để hay hơn, hoặc chê bai chỗ này, chỗ nọ chưa đạt. Là cừu hay là sói. Cừu thường theo bầy, sói thường đơn độc, bạn có can đảm đơn độc bước tới?. Hãy xem cách thức của Chúa Giêsu thực hiện: Ngài đón nhận năm chiếc bánh và hai con cá để bắt đầu.
Người ta nói: Bạn sẽ không bao giờ thành công, thành công chỉ là một thành tích nhất thời và hiếm khi. Bạn sẽ nghĩ thế nào, tiếp tục hay đang nghe theo những khó khăn người khác nói để bỏ cuộc? Dư luận tiêu cực chung quanh thường nhiều hơn tích cực, bạn cứ nghe những điều tiêu cực về bạn, bạn sẽ bỏ cuộc. Họ đưa những giới hạn mà không thể vượt qua: “làm sao có thể cho năm ngàn người ăn với năm chiếc bánh”, thành công không bao giờ dễ dàng. Hãy bỏ những giới hạn đó phía sau. Trong dịp này Chúa Giêsu cũng cương quyết thực hiện điều Chúa tiên liệu: “Ngài cầm năm chiếc bánh và hai con cá dâng lời chúc tụng” (Mt 14, 19).
Hãy bắt đầu từ những gì nhỏ nhất, ít nhất có trong tay, trong khả năng của bạn. Bạn hãy nhớ rằng, những gì có trên tay sẵn có luôn là một hồng ân để bắt đầu khởi sự. Chúa đã giao phó cho bạn những khả năng và nhất là khả năng yêu thương, nếu bắt đầu khả năng ấy không chỉ tìm vinh quang cho bạn mà nhằm phục vụ lợi ích của anh chị em, những người đang chờ đợi bạn cần có những công việc làm, cần có những bữa cơm hằng ngày… Bạn hãy bắt đầu ước mơ của bạn, từ “hạt cải nhỏ bé lớn lên sẽ thành cây lớn, chim trời đến đậu, nương nhờ” (Mt 13, 31 32).
Không có thành công nào mà không có khó khăn, con sói không bao giờ quan tâm đến ý kiến bầy cừu, đứng bên ngoài quan sát. Hãy bắt đầu làm việc với hết sức mình cùng với một số ít người đang cùng bạn đồng hành. Tiến lên! Với tâm hồn khao khát, với một lý tưởng cao vời, tình yêu cuộc sống, đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cho những người nghèo khó đang chờ mong bạn. Bạn hãy bắt chước Chúa Giêsu: “Anh em hãy cho họ ngồi xuống, và cầm bánh phân phát cho mọi người”.
Phép lạ, ở đây chúng ta có thể nhấn mạnh đến điều kỳ diệu khi bạn vượt qua nỗi sợ hãi, cách xa bầy cừu nhút nhát. Mạnh dạn tiến lên với những gì bạn đang có, dù là ít ỏi.
Không bao giờ than vãn với số vốn ít của mình về nhiều mặt. Chúa mời gọi bạn hãy tạ ơn với những gì mình đang có trong tay. Cùng với những người thiện tâm, vững vàng tiến lên, với tình yêu, khát khao mang hạnh phúc đến cho nhiều người. Phép lạ sẽ xảy ra.
Điều không thể sẽ nên có thể!
CHO DƯ ĐẦY MỘT CÁCH NHƯNG KHÔNG
Jorathe Nắng Tím
Ước gì chúng ta nhận ra ơn Chúa, vì Chúa thật là Đấng nhân ái, nhân hậu: “nhân ái với mọi người, và nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 144,9), để “muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê” (Tv 144,15-16).
Ngôn sứ Isai đã mô tả Thiên Chúa ban ơn một cách dồi dào và nhưng không, khi ơn Chúa không khoanh vùng, cấm vận, phân biệt, kỳ thị, khước từ, chối bỏ một ai, nhưng được ban hào sảng, quảng đại và nhưng không, vô điều kiện cho mọi người, nhất là những người nghèo khó không có tiền để mua, không có gì để trả: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1).
Như thế, không chỉ những của ăn cho “chắc dạ no lòng”, mà cả những thức ăn, thức uống được xếp vào mặt hàng cao qúy, sang trọng như sữa và rượu cũng được Thiên Chúa ban dư tràn. Tất cả đều được ban nhưng không và chan chứa, dư đầy để dân Ngài được no nê, vui thoả: “Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị”(Is 55,2).
Tin Mừng Matthêu làm chứng điều này, khi “Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14,14).Và đám đông ấy khao khát lắng nghe Ngài giảng dậy đã không chịu tan hàng dù trời đã về chiều, đến nỗi các “môn đệ lại gần và thưa với Người : “Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15).
Trước lời đề nghị của các môn đệ, Đức Giêsu đã:
- Không trốn chạy vấn đề:
Vấn đề trước mắt là đám đông đói, và giải pháp dễ dàng, gọn đẹp nhất được các môn đệ đưa ra là giải tán để ai nấy tự lo cho mình, vì qủa thực lấy đâu ra bánh mà cho đám đông hàng nhiều ngàn người ăn giữa một “nơi hoang vắng riêng biệt”. Và Đức Giêsu đã làm các môn đệ giật mình khi nói với các ông: “Họ không cần đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16), mà không theo ý các ông giải tán đám đông là giải pháp nhanh chóng, dễ dàng và rảnh tay hơn cả.
- Muốn các môn đệ Ngài là những trợ tá của Ơn Chúa:
Không trốn chạy vấn đề, không tránh né khó khăn, không xóa bỏ trách nhiệm bác ái trước nhu cầu chính đáng của ngưới khác, Đức Giêsu đã công khai yêu cầu các môn đệ nhập cuộc, dấn thân vào việc lo cho đám đông ăn, khi nói với các ông như một lệnh truyền: “Chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Ngài giúp các ông nhận ra vai trò cộng tác vào ơn Chúa, vai trò trợ tá phân phát ơn Chúa của mình khi bảo các ông đem lại cho Ngài những gì các ông có. Và tất cả những gì các ông kiếm được trước nhu cầu lương thực của nhiều ngàn người chỉ “vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá” (Mt 14,17).
Thật ít oi những gì các môn đệ mang lại cho Ngài, khi được yêu cầu lo cho đám đông ăn, nhưng với những “ít oi, nhỏ bé” đó, Đức Giêsu đã làm phép lạ “hoá bánh ra nhiều” nuôi cả đám đông “có tới năm ngàn đàn ông không kể đàn bà và trẻ con” (Mt 14,21).
Qủa thực, từ hoàn cảnh thiếu thốn, đói khát của đám đông và tâm trạng lo âu của các môn đệ, Đức Giêsu đã biến thành bầu khí vui tươi, hạnh phúc khi tất cả được no đủ, và các môn đệ được sung sướng hả hê vì không ngờ Thầy đã làm phép lạ cả thể để mọi người được ăn no và phấn khởi tin Thầy là Đấng Thiên Sai.
Với chúng ta, cuộc sống cũng có những lúc thiếu thốn, cơ cùng cả vật chất lẫn tinh thần và ngoài Chúa ra, chúng ta chẳng còn biết trông vậy vào ai khác.
Xin Chúa dậy chúng ta tin vào lòng nhân ái, nhân hậu của Chúa, Đấng ban ơn dư đầy và nhưng không cho những ai “tìm Người khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên” (Is 55,6), vì khi đã nhận ra ơn Chúa từng giây phút bao phủ cuộc đời, chúng ta sẽ như thánh Phaolô xác tín và tuyên xưng: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39).
ĐỪNG ĐỂ AI NGHÈO TRƯỚC MẶT CHÚNG TA
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Mỗi lần đi làm từ thiện ở đâu đó thì tôi lại thường răn mình với câu của cha ông: “Làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”. Tôi phải nhìn lại xem những người ở bên cạnh đã được tôi quan tâm chia sẻ hay chưa? Người nghèo đang chung sống với tôi đã được hưởng lộc gì từ tôi? Hay tôi chỉ quan tâm đánh bóng tên tuổi của mình mà bỏ rơi người bên cạnh mình?
Tôi vẫn nhớ lời một cô bé trong xứ đã nói với tôi:
“Cha ơi! Nếu cha cần giúp ai đó, cha có thể liên lạc với cô của con. Cô của con tốt lắm, hay chia sẻ cho người nghèo lắm. Nhưng… cô chỉ chia sẻ cho người ngoài thôi. Con là cháu ruột, nhà con nghèo nhưng cô không giúp… Lần kia, cô nhờ con chở cô vào một trung tâm nuôi người già neo đơn và trẻ mồ côi để giúp họ. Cô cầm một xấp tiền trong tay và đi phát cho hết mọi người. Con đứng kế bên cô, con thèm được cô cho một tờ thôi nhưng không được. Cô đâu có biết là đứa cháu gái của cô phải mượn xe để chở cô đi làm việc từ thiện. Giá như mà cô cho cháu của cô 1 tờ để đổ xăng cũng đỡ…”
Xem ra lời Chúa Giê-su từng nhắc nhở cũng chẳng thừa: “Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu” (Ga 12, 8).
“Người nghèo luôn bên cạnh các ngươi”. Người nghèo đó không hẳn chỉ ở trong trung tâm này hay nhà mồ côi kia. Người nghèo đó luôn ở bên cạnh. Họ có thể là người cha người mẹ già nay đã tàn hơi và kém trí nhớ. Người nghèo đó có thể là chính người anh, người chị, người em, người con, người cháu đang sống trong mái nhà của chúng ta. Những người nghèo đó thật gần với chúng ta, họ gần hơn những người nghèo mà chúng ta hay đi thiện nguyện để đăng đàn đánh bóng tên tuổi mình.
Bài phúc âm hôm nay kể rằng: khi thấy một đám đông rất đông đã đi theo Chúa và luôn ở bên cạnh Chúa suốt cả ngày. Chúa chạnh lòng thương. Chúa bàn với các tông đồ để tìm ra phương án lo cho họ. Thế nhưng, các môn đệ đã “bàn” rất hợp lý với Đức Giêsu rằng “lực bất tòng tâm”, tốt nhất là giải tán dân chúng để họ đi mua thức ăn! Phủi tay là thượng sách. Nhưng Chúa Giêsu đã bảo các ông: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính chúng con hãy cho họ ăn đi.”. Các ông bàng hoàng sửng sốt vì biết đào đâu ra thức ăn cho bằng ấy ngàn người?
Bất đắc dĩ, các ông mới dùng phương án gom góp của mọi người để chia sẻ cho nhau. Các ông cũng chỉ gom được năm cái bánh và hai con cá!”. Ấy thế mà một khi đã đưa cho Chúa rồi thì “ai nấy đều ăn no nê” .
Đôi khi chúng ta cũng thường bỏ quên người nghèo ở bên cạnh chúng ta. Đôi khi chúng ta vẫn dửng dưng với người bên cạnh đến nỗi họ đang sống trong cô đơn, tủi hổ vì chúng ta.
Họ là những cha mẹ già già yếu thèm một chút tình người của đứa con mà cả đời lo cho nó nhưng lại bị nó bỏ rơi trong cô đơn xó nhà.
Họ là những người vợ thèm một chút quan tâm của người chồng để bù đắp lại cuộc đời vợ lam lũ chịu cực chịu khổ vì chồng.
Họ là những người hàng xóm láng giềng tốt bụng luôn sẵn lòng giúp chúng ta nhưng ngược lại chúng ta lại quên quan tâm tới họ.
Nhiều người chúng ta luôn ao ước có thể góp sức làm thay đổi thế giới. Chúng ta ao ước có thể làm những chuyện phi thường, những chuyện siêu phàm để mang lại hạnh phúc cho loàingười. Thế nhưng, điều ấy sẽ không bao giờ xảy ra vì chúng ta chỉ là người phàm nên chăng chỉ có thể làm những chuyện bình dị mà thôi! Điều mà chúng ta có thể làm thay đổi cả thế giới này là bằng chính những hành động nhỏ nhặt nhất của mình, những công việc của bổn phận, những công việc của tự nguyện hy sinh vì lợi ích tập thể đều là những công việc góp phần thay đổi thế giới. Vâng chúng ta chỉ cần làm một việc nào đó với tất cả sự yêu thương và tình cảm chân thành là chúng ta đang làm vơi đi những khổ đau, những gánh nặng cho tha nhân.
Khi chung tay giúp đỡ người khác chỉ với một hành động nhỏ thôi chúng ta cũng làm nên những điều to lớn đối với người nhận được sự giúp đỡ và cả những người xung quanh.
Không cần làm những chuyện phi thường mà chỉ cần làm những việc nhỏ nhưng biểu lộ một tình yêu chân thành vẫn có thể làm vơi đi biết bao phiền muộn, đau khổ cho tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta luôn là những con người biết đóng góp phần nhỏ bé của mình để làm vơi những đau khổ, đói nghèo cho những người chung quanh. Xin cho chúng ta biết quan tâm đến người bên cạnh của mình và đừng bao giờ để ai bị nghèo đòi hay bỏ quên trước mặt chúng ta. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Anh chị em có tin là chỉ “năm chiếc bánh và hai con cá” mà nuôi năm ngàn người ăn không? Năm chiếc bánh và hai con cá so với năm ngàn người, không kể đàn bà trẻ con, (nếu tính cả chắc phải lên đến mười lăm ngàn người, ) một con số người ăn thật quá lớn so với sự ít ỏi thực phẩm như thế. Các Tông Đồ cũng đã lo lắng và lúng túng mà nói với Chúa: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14, 15).
1. Phép lạ là gì?
Để hiểu đúng ý nghĩa của đoạn Tin Mừng này, chúng ta phải định nghĩa lại phép lạ là gì?
Theo nghĩa rộng, phép lạ là những gì được xảy ra từ cái không thể trở thành cái có thể. Ví dụ như người Do Thái vận dụng khoa học kỹ thuật đã trồng cam ngọt trên sa mạc vùng Giêricô. Hay Las Vegas là một sa mạc lại trở thành một thành phố xinh đẹp và hấp dẫn… Người ta có thể coi đó là những phép lạ.
Theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là những gì xảy ra cách lạ thường và khác với quy luật tự nhiên. Ví dụ: trong vật lý học, một vật có trọng lượng thì bị sức hút của trái đất. Đó là quy luật tự nhiên. Nhưng một em bé nhảy lầu giữa chừng em ngừng lại và cứ lơ lửng vậy. Đây là điều ngoài quy luật tự nhiên.
Còn có một cách hiểu cao hơn theo thánh Gioan, thì phép lạ là những dấu chỉ để diễn tả những sự kỳ diệu của đức tin mà Thiên Chúa thực hiện qua những dấu chỉ đó.
Theo những nghĩa trên thì sự kiện chỉ năm chiếc bánh và hai con cá hóa nhiều nuôi năm ngàn người mà còn dư mười hai thúng, là một phép lạ, điều không thể trở thành điều có thể, điều xảy ra cách lạ thường và ngoài quy luật tự nhiên.
2. Ý nghĩa phép lạ hóa bánh nhiều
Ngày nay, có hai quan điểm giải thích phép lạ này: quan điểm thứ nhất thuộc một số học giả Thánh Kinh không tin đây là một phép lạ và nghĩ rằng Chúa Giêsu không làm cho bánh hóa ra nhiều, mà Người chỉ là một nhà hùng biện có tài thuyết phục mọi người bỏ bánh mà họ mang theo trong mình ra để chia sẻ với nhau thôi, theo kiểu “góp gạo thổi nồi cơm chung” nên ai cũng có thức ăn dư dả. Cách hiểu này chắc chắn không được Giáo Hội công nhận. Nhưng nó nói lên được ý nghĩa của sự kiện là dạy người ta biết chia sẻ với nhau, và khi ta biết chia sẻ với người khác thì mọi sự trở nên dư dả và phong phú.
Cách hiểu thứ hai đó là đa số các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình ảnh, là dấu chỉ của bữa tiệc Thánh Thể và ơn cứu độ mà Đức Kitô sẽ ban cho nhân loại qua cái chết và phục sinh của Người. Học giả Kinh Thánh David Garland giải thích:
“Việc cung cấp lương thực cho năm ngàn người ăn mà còn thừa mười hai thúng cho thấy rằng sự cung cấp dồi dào cho toàn thể Ítraen. Như thế, bí tích Thánh Thể sẽ ban lương thực dồi dào cho toàn thể nhân loại.” (David Garland, Meditations on the Sunday Gospels, Year A, ed. John Rotelle, New York: New City Press, 1995, p. 111.)
Đây là cách hiểu truyền thống mà Giáo Hội chấp nhận. Quả thế, “bữa tiệc bánh hóa nhiều” là hình ảnh về bữa tiệc mà Đức Kitô sẽ thực hiện nơi Thánh Thể trong đó nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần bánh và rượu, tượng trưng cho lao công và đóng góp của con người, trở thành thực sự Mình và Máu Đức Giêsu, mà thần học gọi là “transubstantiation – biến thể”. Đức Giêsu trở thành Bánh Sự Sống bẻ ra cho mọi người qua mọi thế kỷ để tất cả được no thỏa và được sống dồi dào (x. Ga 10, 10). Nếu hiểu như thế, mỗi thánh lễ là một bữa tiệc, một phép lạ mà Thiên Chúa thực hiện cho chúng ta.
3. Bài học áp dụng
Một chi tiết rất đáng lưu ý trong tường thuật này là: “Chính anh em hãy cho họ ăn” và các môn đệ thưa: “Ở đây chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá” (x. Mt 14, 16-17). Điều này muốn nói rằng Đức Giêsu không muốn làm gì một mình. Thiên Chúa muốn sự cộng tác của con người, hay nói như cha Nguyễn Tầm Thường:
“Chúa thích làm phép lạ dang dở. Phép lạ dang dở để tôi được tham dự, cái dang dở của Chúa là chỗ trống để cho tôi bước vào.” (Lm. Nguyễn Tầm Thường, Viết trong tâm hồn, 7. )
Nhiều lúc, trước những vấn đề lớn, dẫu khả năng của chúng ta rất nhỏ nhoi, ít ỏi, nhưng Chúa lại cần đến chúng, Chúa cần đến chút tâm tình “chạnh lòng thương” và sự đóng góp vật chất của chúng ta, để Người thực hiện những điều kỳ diệu trong cuộc đời. Nếu không có tấm lòng trắc ẩn của nữ tu Calcutta, thì làm sao có những ngôi nhà tình thương cho những kẻ vô gia cư khắp nơi trên thế giới. Nếu không có chút tình thương của cô Tim, thì làm sao có ngôi làng tình thương cho biết bao nhiều người tàn tật ở Việt Nam v.v… (Cô Tim là một người ở Châu Âu, đến Việt Nam du lịch, chứng kiến nhiều cảnh đáng thương, cô đã quyết định ở lại và giúp đỡ những người tàn tật và vô gia cư ở Sài Gòn.)
Mỗi lần chúng ta dự tiệc Thánh Thể, Chúa cũng mời gọi chúng ta biết chia sẻ và góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình vào xây dựng cuộc đời này đẹp hơn, nhân bản hơn và hạnh phúc hơn. Và như thế, “phép lạ hóa bánh ra nhiều” lại tiếp tục diễn ra trong cuộc sống của chúng ta. Amen!
Lm Vũđình Tường
Chúng ta cần lương thực hàng ngày, nhưng nói đến bảo quản thức ăn dư thừa dùng sau mỗi bữa ăn là điều không phải ai cũng quan tâm. Thức ăn dư dùng sau bữa ăn mang tặng thùng rác là cách đơn giản nhất, khỏi phải mất công đóng hộp, bọc kín bỏ tủ lạnh. Có người muốn bữa cơm nào cũng phải có thức ăn hảo hạng, thật nhiều, mới nấu cho bữa đó. Xào xáo lại thức ăn cũ là họ không bằng lòng. Đại đa số có thức ăn là vui rồi, không đòi hỏi thêm gì nữa. Hàng triệu trẻ em trên thế giới chỉ mơ sao có được bữa ăn no trước khi ngủ mà giấc mơ đó khi có, khi không, bởi cha mẹ em bươm chải nguyên ngày, thế mà vẫn không kiếm đủ tiền mua thực phẩm cho con trong ngày. Đức Kitô gặp hoàn cảnh đó trong cuộc sống của Ngài. Dưới ách đô hộ của Lamã, những kẻ thống trị và cộng tác viên của họ sống sung túc, yến tiệc linh đình. Bên cạnh đó là những người nghèo khổ, bần cùng. Họ vất vả làm việc nguyên ngày, dưới điều kiện ngặt nghèo, mà thực phẩm lại thiếu. Tối đến họ không có chỗ nghỉ ngơi an toàn. Đói ăn, thiếu dinh dưỡng, lao nhọc vất vả, điều kiện sống tồi tệ là nguyên nhân dẫn đến đủ các loại bệnh tật. Nhiều người chết rất trẻ. Phúc âmthường nhắc đến việc Đức Kitô chữa trị cho những người đau yếu, bệnh tật vì Ngài chạnh lòng thương, họ như những chiên con không chủ. Gặp Đức Kitô họ coi Ngài như chủ chiên và kéo đến nghe lời Ngài giảng dậy. Ngài ban cho họ thực phẩm tinh thần, chữa bệnh và bảo vệ họ. Không phải tất cả những người đến nghe vì đói khát thực phẩm tinh thần cả đâu, như chính Đức Kitô nhắc họ:
‘Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông’ Gn 6, 27-28
Đức Kitô dậy đám đông về tình yêu, và lòng thương xót Chúa. Đó là sứ mạng rao giảng của Ngài. Ngoài việc ban cho họ lương thực trường sinh, Đức Kitô còn chữa bệnh cho họ, nguyên nhân bệnh tật, nghèo đói như đã trình bày ở trên. Đây là lần đầu tiên, các tông đồ học từ Đức Kitô tỏ lòng thương xót đám đông, khi các ông xin Đức Kitô giải tán đám đông để họ đi tìm mua thực phẩm vì nơi đồng cỏ trống vắng này không có hàng quán. Các tông đồ cũng để í quan sát, biết rõ đám đông không mang theo thực phẩm, ngoại trừ em bé có dăm cái bánh và vài con cá. Không mang theo thực phẩm có lẽ nhà cũng không có gì để mang. Nếu giải tán, đám đông cũng không có tiền mua thực phẩm. Rõ ràng đám đông nghèo đói về vật chất nhưng rất giầu Lời Chúa, bởi họ đã lắng nghe Đức Kitô nguyên ngày. Rất có thể họ cũng quen thuộc với lời sấm của Isaiah và thường dùng những lời này để an ủi nhau khi gặp khốn khó.
‘Đức Chúa sẽ đãi tiệc muôn dân, thịt béo, rượu ngon…. Người xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người’ Is 24, 6-8.
Tông đồ Đức Kitô có lẽ lo lắng tìm đâu đủ thức ăn cho đám đông. Cuối ngày, không tìm được biện pháp tốt hơn, các ông thưa cùng Đức Kitô giải tán họ. Đức Kitô biết việc Người làm, nhưng Ngài nói với các ông. Các anh hãy cho họ ăn. Yêu cầu này quá khả năng của các ông. Văn trong bài đọc xác định chính Thiên Chúa là Đấng lo cho đám đông cả linh hồn lẫn thể xác. Con người có trách nhiệm phụ giúp, làm những công việc như xin Đức Kitô ban ơn, chuẩn bị cho đám đông ngồi thành nhóm nhỏ, phân phát thực phẩm và cuối cùng chính Đức Kitô nhắc các ông đừng phung phí thực phẩm còn dư. Các ông đã thu thực phẩm rải rác trên đám cỏ, và thu được nhiều thúng. Đừng phung phí thực phẩm là bài học chúng ta cần ghi nhớ. Thế giới luôn có người đói khổ, mong ăn no, mặc ấm mà không có; trong khi đó lại có người dùng thực phẩm bừa bãi, dùng chọi nhau chơi vui, hay ăn đua xem ai ăn được nhiều.
Chúng ta học từ Đức Kitô, luôn nhớ dâng lời cảm tạ Chúa ban cho của ăn trước mỗi bữa, ăn và luôn biết dùng thực phẩm Chúa ban với tâm tình cảm mến, biết ơn.
Maria. Phạm Anh
Khi nhìn thấy hình ảnh của những người nghèo, những người gặp tai nạn, những người bệnh tật, hay những hoàn cảnh mất mát do thiên tai gây nên, chúng ta cảm thấy đau xót và không thể làm ngơ được. Đó là hành động của tình yêu thương phát xuất từ tiếng nói của con tim. Và điều ấy, chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta, Ngài đã động lòng thương khi nhìn thấy đám đông dân chúng đi theo mình (x. Mt 14, 14). Ngài thương dân chúng trong cảnh đói khát, không chỉ thiếu thốn về đời sống vật chất, nhưng là đói khát về tình thương, khát khao về Chân- Thiện- Mỹ. Phát xuất từ tình thương, Ngài đã chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng. Ngài cũng đang khơi lên trong tâm hồn chúng ta lòng trắc ẩn là sức mạnh tình yêu khi Ngài nói với chúng ta: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16).
Giống như các môn đệ khi xưa, chúng ta thấy hoang mang, làm sao chỉ với năm cái bánh và hai con cá đủ cho hơn năm ngàn người ăn? Tương tự, chúng ta có hàng ngàn lý do cản trở chúng ta thể hiện tình yêu thương. Chẳng hạn: con cũng muốn giúp đỡ người khác, hay giúp đỡ những công việc chung trong giáo xứ, nhưng nhà con nghèo, con bận nhiều việc nên không có thời gian; hay con không có khả năng, không tài giỏi,… Khi nhìn vào chính con người, chúng ta cảm thấy giới hạn và dường như chẳng có gì cả. Thật vậy, chúng ta chẳng có gì ngoài tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô dành cho chúng ta.
Nhưng làm sao chúng ta có thể quảng đại trao ban khi chúng ta chưa cảm nhận được tình yêu ấy? Chúng ta được nhắc nhở: không có lấy gì mà cho! Hằng ngày, chính Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta hãy đến để kín múc tình yêu và ân sủng của Ngài: “Đến cả đi hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào ( Is 55, 1). Chúng ta hãy chạy đến với Chúa để được Ngài lấp đầy bằng tình yêu của Ngài. Đồng thời, chúng ta hãy sống chậm lại để hít thở và cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta từ những điều nhỏ nhất. Chúng ta được tràn đầy sức sống khi mỗi sáng thức dậy, được hân hoan khi hoàn thành một công việc, được an vui hưởng sự chăm sóc từ những người thân yêu, được khoan khoái khi sống trong bầu khí an lành,… đó là một hồng ân. Hay từng ngày nắng, mưa cũng đều là công trình yêu thương của Chúa dành cho chúng ta, chúng ta chẳng thể làm được những việc ấy. Không chỉ có thế, chúng ta còn được nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng qua Lời Chúa, qua bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Thật vậy, chúng ta đang được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc một cách đặc biệt.
Khi chúng ta nhận ra tình yêu của Chúa và tất cả mọi sự của chúng ta là của Chúa, chúng ta hãy vui vẻ, quảng đại trao ban. Sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa đang ở trong chúng ta. Nó thúc giục chúng ta đi đến với tha nhân: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16). Chúng ta đừng dừng lại ở việc nêu lên hoàn cảnh, vấn đề của người khác như các môn đệ: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” ( Mt 14, 15), nhưng chính chúng ta phải hành động. Theo kinh nghiệm của Đức cha Lambert: “phải thực hành mọi việc thay cho Chúa Giêsu, Người muốn đích thân làm những việc ấy nhưng không thể được, nên dùng một số người do Người tuyển chọn và ban đầy tinh thần của Người là tinh thần trung gian, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và hy sinh của Người cho đến tận thế” (Nhóm Nghiên cứu linh đạo Mến Thánh Giá, Tuyển tập bút tích của Đức cha Pierre Lambert de la Motte, Btt 9). Mỗi khi chúng ta thực hiện một hành động yêu thương là chính Đức Giêsu đang hành động trong chúng ta, nên chúng ta đừng sợ hãi hay nản chí. Có thể, khi giúp đỡ chúng ta sẽ “bị lừa”, hay chúng ta đã giúp đỡ, đã tha thứ nhiều rồi, nhưng tha nhân vẫn không chịu thay đổi. Chúng ta hãy nhìn đến kinh nghiệm của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu: con không thể yêu nổi, nhưng chính Chúa Giêsu đang ở trong con yêu (Kim Thiếu, Một Tâm Hồn). Chúng ta trao ban tình yêu là khi làm tốt nhất trong những trách nhiệm mà chúng ta được Thiên Chúa trao cho. Làm tốt trong vai trò là người cha, người mẹ, người con trong gia đình, là người giáo dân tốt trong giáo xứ, hay làm hết khả năng trong công việc. Khi chúng ta càng trao ban, tình yêu của chúng ta lại càng được triển nở và đong đầy.
Lạy Chúa Giêsu, con đã cảm nhận được tình yêu thương vô bờ Ngài dành cho con, tình yêu ấy không gì có thể ngăn cản và không khi nào vơi cạn. Lạy Chúa, con đã được sống trong tình yêu của Chúa thì xin cho con biết can đảm, quảng đại chia sẻ tình yêu ấy cho những anh chị em khác qua kinh nghiệm thiêng thiêng, những kiến thức, những lời cầu nguyện, những lời nói nâng đỡ, và cả những hành động âm thâm trong cuộc sống thường ngày. Hầu, chúng con luôn được phủ lấp trong tình yêu của Chúa. Amen
Lm Trần Bình Trọng
Lời Chúa trong Thánh kinh hôm nay cho thấy hình ảnh của việc Thiên Chúa quan phòng. Không những Chúa hướng dẫn loài người theo đường lối của Chúa, mà còn săn sóc đến nhu cầu vật chất của họ.
Trong suốt bốn mươi năm trường theo Chúa, dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, vượt qua biển Ðỏ ráo chân. Họ làm cuộc hành trình theo Môsê băng qua sa mạc, đi về đất hứa, dừng lại ở mỗi chặng đường: cắm trại, nghỉ ngơi, chăn nuôi, trồng cấy để tích trữ lương thực, rồi lại tiếp tục đi. Trong suốt thời gian lưu lạc, dân Chúa đã trải qua nhiều thăng trầm. Họ đã nhiều lần bất trung phản nghịch cùng Chúa, bằng cách bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai. Họ còn đúc bò vàng để thờ. Tuy nhiên Chúa vẩn săn sóc họ, còn mưa manna từ trời xuống nuôi dưỡng họ. Sách ngôn sứ Isaia hôm nay chứng tỏ lòng ưu ái của Chúa đối với dân Người khi ghi lại: Ðến cả đi, hỡi những ai đang khát, nước đã sẵn đây! Dẫu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào (Is 55:1). Việc quan phòng của Chúa đối với người Do thái trong Cựu ước chỉ là để sửa soạn cho chương trình quan phòng của Chúa cho toàn thể nhân loại, chứ không riêng gì cho dân tộc nọ, dân tộc kia mà thôi.
Ðám đông dân chúng trong Phúc âm hôm nay đi theo Chúa mà không mang theo thức ăn. Ðến chiều, các môn đệ đề nghị với Chúa giải tán dân để họ vào các làng mạc kiếm thức ăn. Chúa bảo các ông: Hãy cho họ ăn (Mt 14:16). Chúa muốn các ông cộng tác với Người trong việc nuôi dưỡng dân chúng. Tuy nhiên các ông chỉ có năm cái bánh và hai con cá. Chúa cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, bẻ ra và trao cho các môn môn đệ, để các ông phân phát cho dân chúng. Số người ăn có tới năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con, được ăn no nê mà người ta còn thu lại được mười hai giỏ đầy bánh vụn.
Ðiều cần lưu ý ở đây là trước khi bẻ bánh cho dân chúng ăn, Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng tạ ơn. Ðó là truyền thống Do thái cổ xưa. Người Do thái ngồi vào bàn ăn thường đọc kinh làm phép của ăn. Và đây cũng là truyền thống của người công giáo. Truyền thống công giáo nhắc nhở ta tạ ơn Thiên Chúa trước khi ăn. Truyền thống công giáo còn nhắc nhở ta cảm tạ Chúa về mọi sự Chúa đã ban. Khi người tín hữu thời Giáo hội sơ khai dâng lễ, họ mang trong đầu óc ý niệm tạ ơn vì thánh lễ theo nguyên tự Hy lạp có nghĩa là tạ ơn. Mọi sự ta có đều do Chúa ban do lòng rộng lượng và săn sóc của Chúa. Không những Chúa ban cho ta sự sống mà còn ban phương tiện để duy trì sự sống. Là người con thảo, ta cần được nhắc nhở để cảm tạ Chúa về mọi ân huệ Chúa ban.
Phép lạ hoá bánh hôm nay có tầm mức quan trọng vì được cả bốn phúc âm ghi lại đầy đủ với vài chi tiết khác nhau (Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6: 1-14). Nhiều học giả Thánh kinh cho rằng việc Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều là để tiên báo phép Thánh thể. Thật vậy khi làm phép lạ hoá bánh, Chúa dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ (Mt 14:19; Mc 6:41; Lc 9:16; Ga 6:11) như khi lập phép Thánh thể (Mt 26:26; Mc 14:22; Lc 22:19; 1Cr 11:23-24). Ngay trước phép lạ hoá bánh, thánh Gioan còn nhắc đến lễ Vượt Qua. Chính trong bối cảnh của lễ Vuợt Qua mà Chúa lập Bí tích Thánh thể. Và ngay sau phép lạ hoá bánh, thánh Gioan dành cả chương sáu còn lại để ghi lại lời cắt nghĩa cuả Chúa về Bánh hằng sống.
Mỗi người cần nhận thức tầm quan trọng của việc ăn uống để duy trì sự sống. Khi mà kiến bò bụng, người ta sẽ cảm thấy khó cầm trí để phụng sự Chúa. Ðúng như cha ông ta thường nói: có thực, mới vực được đạo. Ðọc Phúc âm ta thấy Chúa làm phép lạ là do người ta xin. Lần này Chúa tự làm phép lạ hoá bánh nuôi dân mà không có người xin. Như vậy ta thấy việc quan phòng của Chúa được thể hiện qua lòng thương xót của Chúa, qua việc quan tâm đến nhu cầu vật chất của loài người. Việc quan phòng của Chúa còn được thể hiện trong thế gian qua việc quan tâm của người đối với người, bằng việc quan tâm của các tông đồ khi thấy dân chúng đói lả, bằng những hành động giúp đỡ của người này đối với người khác. Hằng triệu người Việt Nam đã trải qua hai cuộc di cư vĩ đại: một lần từ Bắc vào Nam năm 1954, lần khác từ quê hương ra ngoại quốc năm 1975, hầu như với hai bàn tay trắng. Thế mà qua sự quan phòng của Chúa, họ không phải chết đói, lại còn được những cơ quan chính phủ và tư nhân giúp đỡ để tái tạo nhà cửa và sự nghiệp.
Qua Phúc âm hôm nay Chúa còn dạy ta tránh việc phung phí đồ ăn. Sau khi nuôi dân chúng bằng phép lạ hoá bánh, Chúa bảo các tông đồ thu vụn bánh còn dư lại kẻo phí phạm. Không phải khi có dư thừa đồ ăn thức uống mà ta phung phí thức ăn uống, trong khi có cả hằng triệu người phải đói, không đủ cơm ăn trên thế giới.
Lời cầu nguyện xin cho đủ lương thực hằng ngày:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa cho lương thực hằng ngày.
Xin tha thứ những lần con cho rằng tự mình cung ứng thực phẩm,
những lần con tỏ ra vô ơn bội nghĩa cùng Chúa.
Xin thứ tha những lần con phí phạm đồ ăn thức uống,
những lần con tỏ ra ích kỉ không chia sẻ với người nghèo đói.
Xin cho con được nhân thức rằng mọi sự con có là do Chúa ban,
để con biết sống trong tâm tình biết ơn, bằng việc chia sẻ.
Cũng xin cho những quốc gia giầu có, ý thức về trách nhiệm liên đới
trong việc giúp đỡ những quốc gia đói nghèo. Amen.
Lm Nguyễn Minh Hùng
Thi sĩ Tagore từng viết: “Tình Ngài yêu con không bờ, không bến nhưng con có thấy bóng Ngài đâu”. Dù không thấy, nhưng bằng lòng yêu mến của mình, Tagore dám khẳng định: Tình Ngài yêu con không bờ, không bến.
Yêu như thế nào mà Tagore lại bảo là “không bờ, không bến”?
Quay về với nội dung Tin Mừng, bạn và tôi có thể cảm nghiệm như Tagore: Tình Ngài yêu con:
Một lần, Chúa Giêsu tìm vào hoang địa vắng vẻ. Nhưng dân chúng nghe biết nên đi theo Người. Họ theo thật đông, có đến trên năm ngàn người! Đến chiều, dẫu đã đói, họ vẫn cứ theo.
Vì thương họ, Chúa đã làm phép lạ để nuôi họ. Tin Mừng kể, Chúa cầm bánh và cá mà các môn đệ mang đến, rồi đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân.
Một phép lạ phi thường: Chỉ một hành động bẻ ra đã trở nên lương thực nuôi một đám người không thể tưởng tượng: trên năm ngàn người mà vẫn dư!
Nhưng phép lạ ấy không thuộc về quá khứ. Ngày hôm nay, để nuôi linh hồn, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của ta, Chúa đã bẻ chính cuộc đời của Người, bẻ chính thân xác Người.
Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu hạ mình làm người ngang hàng với ta, không là một sự bẻ ra hay sao?
Bị thù nghịch, bị giết chết, chết ô nhục như một tên tử tội, chết tức tưởi trên cây gỗ giá, không là bẻ ra đó sao?
Trong bí tích Thánh Thể, Chúa là tấm bánh nuôi hồn ta, cũng chính là sự tự bẻ ra.
Mãi mãi Chúa Giêsu là Thiên Chúa tự bẻ chính mình, bẻ chính cuộc đời, bẻ chính sự sống của Người cho ta, vì ta, yêu ta.
Trong mỗi thánh lễ, linh mục chủ tế sẽ bẻ tấm bánh mà mọi tín hữu đều tin đó là Mình Thánh Chúa. Chủ tế nâng cao Mình Thánh và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian”. Dấu chỉ bẻ Mình Thánh từ tay linh mục là dấu chỉ Chúa Giêsu tự bẻ chính mình trong bí tích Thánh Thể.
Thánh Thể là lời nói chung quyết, mạnh mẽ của tình yêu, là sự bẻ ra tuyệt đỉnh mà chỉ có một mình Chúa chúng ta mới làm thế. Người bẻ ra vì yêu ta không bờ, yêu không bến.
Tôn vinh Mình Thánh trên tay, chủ tế còn mời gọi: “Phúc cho ai được dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.
Bạn có yêu mến Chúa Giêsu không? Nếu yêu mến, ta hãy cung kính rước Người vào linh hồn mình. Nếu lỡ biết mình bất xứng, lo xưng tội, quyết tâm với Chúa chừa tội để giữ mãi tâm hồn thanh sạch và có thể thường xuyên rước Chúa.
Khi đến nhà thờ, chúng ta cùng vào trong nhà thờ dự lễ sốt sắng, dự lễ trọn vẹn từ đầu đến cuối, cũng là dấu chứng tỏ lòng mến của ta đối với Thánh Thể.
Hay lễ xong, ngồi lại năm phút, ba phút để cảm tạ Chúa, hay cầu nguyện cho nhau, cho gia đình, cho bản thân, đó cũng là dấu chứng tỏ lòng mến đối với Thánh Thể.
Chúa bẻ cuộc đời Người cho ta và vì ta, đó là sự tự xóa mình, cho không từng người, vì sao ta không nhận? Người xóa mình để làm bằng chứng tình yêu, vì sao ta từ chối tình yêu đó?
Nhân đọc bài Tin Mừng về việc Chúa bẻ bánh và cá làm phép lạ nuôi dân, chúng ta suy nghĩ về Thánh Thể để thêm yêu mến Người. Ước gì từ hôm nay, mỗi lần đến nhà thờ, ta bước vào trong nhà thờ dự lễ trang nghiêm, sốt sắng.
Và ước gì trong từng thánh lễ, ta luôn luôn cảm nghiệm rằng: tình Chúa thương ta không bờ, không bến như Tagore đã từng cảm nghiệm.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nguyên nhân nghèo đói
Nhân ngày sinh nhật của mình, một tỷ phú giàu lòng quảng đại chiêu đãi tất cả dân làng một bữa tiệc thịnh soạn cho cả ngàn người ăn. Khi giờ tiệc chưa bắt đầu, khách mời chưa kịp đến… thì có chừng 100 người đàn ông lực lưỡng đường đột xông vào, trút hết thức ăn trên bàn vào những chiếc bị lớn rồi hùng hục vác đi.
Thế là khi đến giờ nhập tiệc, 900 khách mời còn lại chẳng còn gì để ăn, chỉ biết nhấm nháp chút ít thức ăn rơi rớt trên bàn nên ai nấy phải ra về bụng đói.
Câu chuyện trên đây cho thấy rằng: Sở dĩ có nhiều người, dù vẫn làm lụng hằng ngày, mà vẫn phải đói là vì có những người tích lũy cho mình quá nhiều mà không chia sớt cho những người túng thiếu.
Thiên Chúa là người Cha quảng đại, tạo ra đầy đủ lương thực, thực phẩm cho mọi người trên trái đất hưởng dùng. Tiếc thay, có những người cậy sức, cậy thế, cậy quyền… thu tóm quá nhiều tài nguyên, của cải cho mình… bỏ mặc nhiều người yếu sức, yếu thế… phải lâm cảnh túng thiếu lầm than.
Chia sớt cơm bánh cho nhau
Sáng hôm ấy, đông đảo dân chúng lũ lượt theo Chúa Giê-su để nghe Ngài giảng và đưa nhiều bệnh nhân đến xin Ngài chữa lành.
Chiều xuống, trước khi giải tán dân chúng, Chúa Giê-su không đành để họ về bụng đói, nên truyền cho các môn đệ : “Các con hãy cho họ ăn.”
Các môn đệ phân vân: Làm sao có thể lo liệu cho số người đông đảo thế này có bánh ăn, trong khi mình chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá? Thôi thì cứ trao tất cả cho Chúa Giê-su.
Sau khi nhận được chút ít thức ăn từ tay môn đệ, “Chúa Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho môn đệ” rồi truyền cho các ông phát ra cho dân chúng.
Chắc hẳn lúc bấy giờ các môn đệ rất đỗi ngạc nhiên. Với số đông không đếm xuể thế nầy mà chỉ có chừng nầy bánh và cá thì ai nhịn, ai ăn? Tuy nhiên, theo lệnh Chúa Giê-su, các ông vẫn chia ra cho mấy người lân cận. Những người nầy đang đói, muốn giữ lại tất cả cho mình, nhưng vâng lệnh Chúa truyền, họ chỉ ăn một phần vừa phải, rồi chuyền số bánh ít ỏi còn lại qua tay người khác… Đang khi người ta chia bánh cho nhau thì phép lạ xảy ra: Bánh được chia hoài mà không hết! Cá được chuyền mãi vẫn không vơi! Thế là mọi người được no nê, lại còn thu được mười hai giỏ đầy còn dư không ăn hết!
Giả sử người thứ nhất nhận được chiếc bánh nhỏ, nghĩ rằng: Với chừng nầy bánh thì có thấm vào đâu, thôi ta cứ giữ lại hết cho mình… thì dòng chảy yêu thương sẽ khựng lại, phép lạ bánh sẽ không diễn ra.
Qua sự kiện hóa bánh ra nhiều, Chúa Giê-su dạy chúng ta hiểu rằng: Nếu mọi người đều quảng đại chia sớt cơm bánh cho nhau, thì chẳng có ai trên đời phải đói khát.
Câu chuyện mẹ Tê-rê-xa kể lại sau đây giúp chúng ta tin tưởng hơn vào bài học này. Mẹ nói:
Vào một buổi tối nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và cho biết rằng: “Có một gia đình gồm 8 đứa con đã phải nhịn đói suốt mấy ngày qua.” Thế là tôi vội mang theo chút lương thực đi đến nhà đó.
Đến nơi, tôi thấy những đứa bé xanh xao, gầy gò, mặt mũi bơ phờ… đang ngồi trước cửa.
Tôi đưa túi gạo cho người mẹ. Chị ta liền ngồi xuống, chia số gạo đó ra làm hai phần bằng nhau rồi vội mang một phần đi ra ngoài. Khi chị trở về, tôi hỏi: “Con đi đâu vậy?” Chị trả lời cách thản nhiên: “Con trao bớt gạo cho những người hàng xóm, họ cũng là những người nghèo đói như con!”
Nghĩa cử cao đẹp này khiến mẹ Tê-rê-xa xúc động. Mẹ nói: “Nếu ai cũng làm như người đàn bà trên đây, biết chia sẻ cho người khác phần ăn, dù rất ít ỏi của mình, thì phép lạ bánh hoá nhiều lại diễn ra và không ai trên thế giới nầy phải lâm vào cảnh đói kém.”
Trái lại, nếu ai cũng lo thủ thân, nghĩ rằng còn phải để của cải cho tương lai, cho con, cho cháu… thì khi đó, dòng chảy của tình yêu dừng lại, vòng quay của lương thực bị chặn đứng và cảnh thiếu đói sẽ xảy ra.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con thấu hiểu bài học Chúa dạy hôm nay và sẵn sàng tiếp tay với Chúa làm cho phép lạ hoá bánh ra nhiều được tiếp tục diễn ra trong cuộc sống hôm nay, bằng cách sẵn sàng chia phần bánh ít ỏi của mình cho người khác. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Một thế giới huynh đệ đại đồng là lý tưởng con người hằng mơ ước. Phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá (Mt 14, 17) cho năm ngàn người cùng ngồi trên một thảm cỏ ăn no hôm nay vẫn còn thời sự.
Những con số cụ thể như : năm chiếc bánh, hai con cá, năm ngàn người với mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14, 13-21) thật ấn tượng. Làm sao chúng ta không thể nghĩ đến những con số khác: có tới trăm ngàn người thiệt mạng trong các cuộc giao chiến, hàng trăm triệu euros cho việc chuyển giao một cầu thủ bóng đá, hàng tỷ người đói hiện nay trên thế giới. Những con số không biết nói nhưng đã trở thành lời. Một bên là tiếng hoan hô ngưỡng mộ trước phép lạ; bên kia là sự khiếp sợ.
Con số: ” năm chiếc bánh và hai con cá với năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ ” (Mt 14, 21), cho thấy sự mất cân bằng quá lớn giữa thực phẩm với nhu cầu của con người. Chúng ta cũng đang phải đối diện với thảm họa chết người như dịch Covid. Thế giới vẫn đang bất lực. Hỏi: chúng ta có thể làm gì?
Đoạn Tin Mừng này gửi đến thế giới chúng ta đang sống cách thời sự. Làm sao không thể nghĩ tới nạn đói đang hoành hành một phần lớn nhân loại? Bao triệu người nhiễm dịch, và mấy tram ngàn người chết vì dịch. Ngay tại một số nước giầu, nhiều người vẫn không có cái tối thiểu để mà sống. Nhiều người cảm thấy nhu cầu rất lớn của nhân loại. Họ đặt câu hỏi: Thiên Chúa đang ở đâu ? Tại sao ngày nay Thiên Chúa không còn làm như vậy? Tại sao Người không hoá bánh ra nhiều cho triệu triệu người đang đói trên mặt đất này? Tại sao Thiên Chúa không cứu giúp con người.
Một chi tiết trong bài Tin Mừng có thể giúp chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những vấn nạn trên. Chúa Giêsu không búng ngón tay để rồi bánh và cá xuất hiện cách ma thuật theo ý muốn. Nhưng Người hỏi các môn đệ có gì và truyền : “các con hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16); Người kêu gọi các ông chia sẻ : “năm cái bánh và hai con cá ” (Mt 14, 17) mà các ông đang có trong tay.
Ngày nay Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Người xin chúng ta chia sẻ những tài nguyên trái đất. Điều được biết rõ, ít nhất về thức ăn, là trái đất chúng ta có khả năng nâng đỡ hơn một tỷ người nữa đang ở trên mặt đất này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, ” hãy cho họ ăn “. Chỉ cần ít mà có một chút tình yêu, tí chút vật chất để khắc phục nạn đói, thân xác và tâm hồn. Chút ít ấy, chúng ta đặt vào tay Chúa. Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta nhìn lại phép lạ hóa bánh ra nhiều theo một cách khác. Trước hết, Người khiêm tốn bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy” (Mt 14, 18), và chấp nhận dùng bánh của các ông. Sẽ chẳng có gì, nếu các ông không đồng ý cho bánh. Thiên Chúa cần những cử chỉ chia sẻ của chúng ta để thực hiện những điều cao cả. Do đó, năm cái bánh và hai con cá đã được Chúa Giêsu dùng để nuôi ngần ấy ngàn người, tất cả đều no nê. Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng Chúa Cha. Người biết rằng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể.
Một câu hỏi khác được đặt ra: Chúa Giêsu đã nuôi sống đám đông trong một ngày. Nhưng ngày hôm sau, họ tiếp tục bị đói. Họ tìm thấy mình ở trong một tình trạng khác của khổ đau. Vậy tại sao Chúa Giêsu không thay đổi tình trạng này?
Mục đích của Chúa Giêsu không phải là để thay đổi tình thế, cho bằng thay đổi lòng người. Khi con người thấm nhuần sứ điệp tình yêu Chúa, họ không còn như trước nữa. Điều quan trọng là con người cho đi những điều tốt nhất là hành vi yêu thương và chia sẻ làm cho cuộc sống có giá trị.
Bánh cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng ta không bị giới hạn vào thứ bánh vật chất, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi xa hơn. Người muốn nói, Thiên Chúa hiện diện trong tất cả mọi thực tại và sự kiện trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta đang sống trong tình yêu của Chúa. Trước đây, Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cử chỉ này là một dấu hiệu của sự gia tăng tình yêu Chúa vẫn tiếp tục thể hiện nơi nhân thế. Vì con người, ngoài nhu cầu vật chất, con người còn đói khát và cần một cái gì hơn nữa. Bánh Giêsu, Bánh bởi Trời mang lại sự sống đời đời, biến con người thành các chứng nhân của tình yêu Thiên chúa đối với từng anh chị em một. Người trao cho chúng ta, để chúng ta phân phát cho những ai đói khát tình yêu. Như thế, tình yêu tùy thuộc vào chúng ta và phép lạ của tình yêu giữa con người với nhau sẽ không bao giờ dừng lại.
Làm sao con người có thể trách cứ Thiên Chúa không cung cấp thức ăn cho mọi người đang khi mỗi năm người ta tiêu hủy hàng triệu tấn thức ăn mà thông tin đại chúng nói là quá nhiều hầu phòng chống sự giảm giá thức ăn? Có giải pháp nào chăng ? Sự phân phối càng tốt thì tình liên đới càng lớn và sự chia sẻ càng nhiều.
Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Những người giàu nhất thế giới có khối lượng tài sản đáng kinh ngạc – tương đương với GDP của một số quốc gia nhỏ đối với một số người. Nhà sáng lập Amazon Jeff Bezos, hay Bill Gates người sáng lập Microsoft chẳng hạn.
Theo Forbes báo cáo, thì có hơn 2.200 tỷ phú trên thế giới, và con số đó chỉ được dự kiến sẽ tăng lên. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế. Sở dĩ như vậy chỉ tại chúng ta giữ chặt lấy bánh và cá và không muốn chia sẻ với mọi người đó thôi. Thay vì tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang, thì con người chế tạo ra bột mỳ, lương thực, thuốc men để giúp cho đồng loại đỡ khổ thì tốt biết bao.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết sống yêu thương và chia sẻ với anh em đồng loại, hầu xây dựng một xã hội công bằng, huynh đệ đầy ắp tình yêu thương. Amen.
Ngọc Biển
Nếu lên mạng rồi vào google.com và đánh tít: “Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới” chỉ trong 18 giây, chúng ta đã có ngay kết quả lên tới 1.210.000 chuyên mục liên quan đến vị tổng thống này. Ông là ai? Thưa ông là Mujica, Tổng thống Uruguay.
“Dinh thự” của Tổng thống Uruguay là ngôi nhà cũ nát nằm ở ngoại ô thủ đô Montevideo, Uruguay. Ông đã sống ở đó gần hết cuộc đời với người bạn thân thiết là 1 chú chó 3 chân. Tài sản giá trị nhất của vị tổng thống này là chiếc ô tô cũ kỹ có giá chưa đến 2 ngàn đô la Mỹ. Ông là vị Tổng thống không thích sống trong nhung lụa.
Tuy nhiên, Mujica được nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ không hẳn vì ông sống giản dị và nghèo, nhưng vì đã dành 90% tiền lương của mình, cho công tác từ thiện.
Chúng ta không cần biết ông có theo đạo Công Giáo hay không! Nhưng chúng ta biết chắc rằng: “Ông là người biết ‘thương xót’ người nghèo”.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã “thương xót” dân chúng. Ngài đã chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Qua đó, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ và cả chúng ta hãy tiếp bước trên con đường “thương xót” của Ngài, để làm toát lên vẻ đẹp của Thiên Chúa là Tình Yêu nơi hành động của chúng ta.
- Đức Giêsu là Đấng “thương xót”
Trong suốt hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn yêu thương, quan tâm đến con người, nhất là những người ốm đau, bệnh tật, những người thấp cổ bé họng và đói khát.
Khởi đi từ việc rời bỏ vinh quang Thiên Quốc để nhập thế và sinh ra trong cảnh nghèo, lớn lên trong sự thiếu thốn, hẳn Đức Giêsu hiểu rõ hơn ai hết nỗi bần cùng của con người. Vì thế, đã nhiều lần, Tin Mừng cho thấy: khi dân chúng đến với Ngài, mang theo những bệnh tật trên thân xác, Ngài đã “thương xót” và chữa lành họ.
Không chỉ chữa lành bệnh tật thể lý, Ngài còn đi xa hơn để chữa trị tâm hồn cho những ai đang hoang mang, bất hạnh và thất vọng.
Vẫn tình thương đó, hôm nay, khi thấy dân theo mình nghe giảng, và khi trời đã xế bóng, Đức Giêsu không nỡ để dân chúng bụng đói ra về, nên Ngài đã ra tay để làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng.
Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu đã làm, đã nói và hành động, Ngài không muốn cho các môn đệ ngoài cuộc, bởi vì mai đây chính các ông là những người sẽ thay Ngài để thi hành lòng “thương xót” của Thiên Chúa cho dân. Vì thế, khi được hỏi: “Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Như thế, qua câu nói của Đức Giêsu, không phải vì vô lý, cũng chẳng phải Ngài thách thức các ông, nhưng:
Trước hết, Đức Giêsu muốn các ông hãy ra khỏi sự ích kỷ của bản thân, sự an phận của vật chất để biết chia sẻ với những ai bất hạnh, nghèo đói, vì: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Gaudium et Spes, số 1).
Thứ đến, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông về sứ mạng của chính mình, Đấng đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10).
Cuối cùng, Đức Giêsu cũng dạy cho các ông bài học về sự tin tưởng, cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Còn chúng ta, những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người cũng được mời gọi để thi hành công việc mà chính Ngài đã làm và muốn các môn đệ thi hành khi xưa. Vậy chúng ta phải làm gì?
- Thực trạng xã hội
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy vươn xa tầm nhìn để thấy được trong xã hội loài người gồm hơn 7 tỷ người, trong đó có hàng triệu triệu trẻ em mồ côi, bệnh tật, bị bóc lột sức lao động và buộc làm nô lệ cho tình dục…
Số người chết vì đói, vì thiếu thuốc chữa bệnh cũng lên cả triệu người trên năm. Hàng triệu người vô gia cư, thất nghiệp, mù chữ… Rồi những người mắc phải những căn bệnh thế kỷ, nạn buôn bán phụ nữ để làm gái bán dâm, buôn bán ma túy và tham nhũng cũng tăng lên từng ngày.
Tình trạng loạn luân, phi đạo đức nhan nhản trong xã hội hiện nay. Những chuyện như: cha giết con, con giết cha; vợ giết chồng và ngược lại. Nhiều nạn nhân chết oan uổng chỉ vì một cái nhìn bị cho là “nhìn đểu”, hay chỉ là một câu nói vô tình nào đó…
Như vậy, ngày nay, người ta “bội thực” đủ thứ… nhưng lại “đói khát” đời sống đạo đức và tâm linh hơn bao giờ hết.
Sự thật thà dường như vắng bóng trong học đường, và ngoài xã hội. Niềm tin tưởng lẫn nhau có lẽ quá xa vời đối với thương trường. Sự tương thân tương ái cũng không còn mấy ý nghĩa, mà thực ra chỉ là lợi dụng. Đạo đức gia đình, nghề nghiệp là thứ gì đó xa xỉ phẩm đối với giới trẻ, các ông chủ và ngay cả những người được coi là mang danh đạo đức… Tình trạng thờ ơ, vô cảm và ngăn cấm tôn giáo là điểm “hot”; “nhạy cảm” tại nhiều nơi!
Tất cả những hiện tượng đó, Đức Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phóng tầm nhìn để có một tấm lòng biết “thương xót”. Đồng thời, hãy ra khỏi sự yên thân để cùng nhau lên đường nhằm góp chút men, chút muối và trở thành ánh sáng để ướp đời và soi sáng thế gian.
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Thực ra, chúng ta không thể nào làm thay đổi nổi màu đen trên thế giới!!! Thế nhưng, ngay thời điểm hiện tại và nơi chúng ta sinh sống, không thiếu gì những con người tương tự.
Họ là những người đang đi lạc hướng trong niềm tin, lệch lạc trong lối sống, cách nhìn và suy nghĩ; những người sống trong tội; ham tiền, mê bạc và hám dục… sống dửng dưng, vô cảm với anh chị em đồng loại. Vì thế, không thiếu những Lazarô nghèo ngay bên cạnh người Phú hộ giàu có…
Những hình ảnh trên có thể là chính chúng ta. Nếu quả là vậy, thì chúng ta hãy hối cải và trở về với Chúa. Còn nếu hình ảnh đó là hình ảnh mà người anh chị em chúng ta đang vô tình hay cố ý vấp phải, thì không phải ai, mà là chính chúng ta hãy làm một cái gì đó bé nhỏ như:
– Một cái nhìn thân thiện, cảm thông;
– Một ly nước cho người đỡ khát, một chén cơm cho khách qua đường;
– Một hành động khước từ sự bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái;
– Một thái đội khẳng khái với sự bất công, tham nhũng;
– Một lời cầu nguyện, hy sinh để xin Chúa “thương xót” và làm động lòng những người dư giả, để họ giúp cho những người đói khát, bần cùng, để kẻ giàu không no và người nghèo không đói.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được “con mắt của Chúa” để chúng con có cái “nhìn giống Chúa”. Xin cho chúng con “con tim của Chúa” để chúng con cũng biết “chạnh lòng thương” như Chúa. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 18 TN_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Trong Kinh Thánh, cái đói và cái khát cảm thấy trong thân xác được dùng để sánh ví với cái đói và cái khát của con người đối với những thiện hảo tinh thần. Đặc biệt ơn cứu độ được hình tượng về một bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi những người được Ngài tuyển chọn.
Is 55: 1-3
Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị, trong đó vị ngôn sứ loan báo cho những người lưu đày cuộc giải thoát của họ gần kề dưới ẩn dụ của một bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị. Điều này muốn nói rằng Thiên Chúa tha thứ cho họ, làm mới lại Giao Ước của Ngài và ban cho họ muôn vàn ân phúc.
Rm 8: 35, 37-39
Bài Đọc II được trích từ thư của thánh Phao-lô gửi các tín hữu Rô-ma, trong đó thánh nhân hùng hồn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa, được mặc khải ở nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 14: 13-21
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu thuật lại phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khi nuôi đám đông dân chúng ăn no nê, Đức Giê-su cho một dấu chỉ tiên trưng về lương thực đích thật mà Ngài sẽ thiết đãi nhân loại: bánh Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 1-3)
Lời mời gọi hãy đến mà ăn uống cho thỏa thích được gửi đến những người lưu đày tại Ba-by-lon. Trong những năm tháng dài, những người bất hạnh này phải chịu những túng thiếu đủ mọi thứ. Ở giữa họ, một vị ngôn sứ đứng lên, vào giữa những năm 550 và 540 trước Công Nguyên, không ngừng khích lệ họ hãy hy vọng: ông hứa với họ một sự giải phóng gần kề. Chẳng bao lâu Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn vàn ân phúc của Ngài trên họ.
Vị ngôn sứ này được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị. Sứ điệp của ông, gồm các chương 40-55 của sách I-sai-a, đã được đề tựa là “Sách An Ủi”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay là đoạn mở đầu của phần kết.
- “Đến cả đi, hỡi những người đang khát”
Vị ngôn sứ để cho chính Đức Chúa nói, theo thói quen của văn phong ngôn sứ, mà tác giả của chúng ta trung thành một cách đặc biệt; ông xóa mình sau sứ điệp ông truyền đạt đến mức người ta không biết chút gì về ông, thậm chí ngay cả tên ông.
Vị ngôn sứ gán cho Đức Chúa ngôn từ của một người bán nước rong rảo qua các đường phố và các công trường rao bán mặt hàng của mình; nhưng với một sự khác biệt vì những mặt hàng Thiên Chúa đề nghị thì hoàn toàn cho không. Những lời đề nghị của Thiên Chúa được trình bày theo một sơ đồ rất quen thuộc với Cựu Ước: lời hứa ban “của ăn thức uống vật chất”, xưa kia là vườn địa đàng, bánh man-na trong hoang địa, Đất Hứa chảy sữa và mật ong, bên kia của ăn thức uống này ẩn hiện những “của ăn thức uống tinh thần”, chủ yếu là lương thực tuyệt vời, tức là Lời Chúa. Sau cùng, lời mời gọi tham dự bàn tiệc nghĩa là lời hứa “Giao Ước”.
- Của ăn thức uống vật chất
“Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào”. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ hàm chứa hai khía cạnh: vừa thực vừa biểu tượng. Xin đừng giảm thiểu tối đa khía cạnh thực: những người lưu đày sắp được tự do và có thể lại được nếm rượu ngon của những vườn nho xứ Pa-lết-tin, lại được uống sữa đàn gia súc của họ và lại được thưởng thức thịt béo của những bữa ăn hy tế mà đã bao năm qua họ đã bị tước đi. Rượu luôn luôn là biểu tượng niềm vui và sữa là dấu chỉ của sự thịnh vượng phú túc.
- Của ăn thức uống tinh thần
Nhưng sâu xa hơn, là ý nghĩa tinh thần. Những của ăn thức uống Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài thường được diễn tả, trong Cựu Ước, bởi những hình ảnh bữa ăn, bánh, rượu, món ăn hảo hạng. Ơn cứu độ thời Mê-si-a như niềm vui tương lai của những người công chính vào thời tận thế, được diễn tả bởi những ẩn dụ như thế. Còn về nước, rỉ ra, phụn vọt lên, chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh như biểu tượng của sự sống thần linh. Đức Giê-su sẽ lấy lại lời của vị ngôn sứ này, vào tuần lễ Lều: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” (Ga 7: 37). Cũng vậy, Chúa Ki-tô quang vinh của sách Khải Huyền công bố: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22: 17).
Một bản văn của sách Châm Ngôn đưa ra một sự đối chiếu với bản văn hôm nay: Đức Khôn Ngoan kêu to ngoài đường phố, cất tiếng nơi công trường, kêu gọi chỗ ồn ào náo nhiệt, tuyên bố nơi cổng thành, mời gọi tất cả những ai muốn nếm những thiên ân của mình hãy đến tham dự bàn tiệc của mình: “Hãy đến mà ăn bánh của Ta và uống rượu do Ta pha chế!” (Cn 9: 5). Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi rõ ràng hoàn thoàn thuộc về tinh thần. Ở đây cũng vậy: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào các thứ chẳng làm cho ấm dạ no lòng”: chỉ lương thực đích thật duy nhất đó là Lời Chúa: “Hãy lắng tai, và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. Lời kêu gọi này nhắc nhớ lời kêu gọi của Đức Giê-su: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6: 27).
- Bữa ăn Giao Ước
Lời Chúa này nói gì với những người lưu đày. Nó loan báo cho họ biết Thiên Chúa sắp hoàn lại sự tự do cho họ, và còn nữa, nó là lời hứa về một giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Mọi giao ước đều được đóng ấn trong một bữa ăn. Thức ăn thật hay thức ăn biểu tượng mà Thiên Chúa thiết đãi những người lưu đày là những dấu chỉ của Giao Ước Mới muôn năm bền vững, theo cùng hàng với những lời hứa được ban cho vua Đa-vít.
Vài thập niên trước đó rồi, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã hiểu ở nơi những biến cố nghiêm trọng: thành thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị tiêu hủy, dấu chỉ tiên báo về những mối liên hệ mới giữa dân Ít-ra-en và Thiên Chúa của dân. Giao Ước Mới sẽ được ghi khắc, không còn trên bia đá, nhưng trong tận đáy lòng. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lập lại tư tưởng này. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đến phiên mình công bố giao ước mới này. Khi nhắc lại mẫu gương của vua Đa-vít, vị ngôn sứ gợi lại những tư tưởng rất thân thiết với những người lưu đày: những lời hứa xưa về thành thành Giê-ru-sa-lem và nhà Đa-vít muôn năm bền vững. Như vậy, Thiên Chúa đã không quên!
- Khía cạnh ngôn sứ
Khía cạnh ngôn sứ của sứ điệp thì hiển nhiên: một lời mời gọi dự phần trước bàn tiệc thời Mê-si-a, tức là ơn cứu độ. Đức Giê-su sẽ là hiện thân Thiên Chúa trong mọi ngã đường và trên các công trường. Trước tiên, cũng chính Ngài đề nghị những lương thực vật chất, cung cấp rượu hảo hạng cho tiệc cưới làng quê, ban bánh và cá để nuôi dưỡng đám đông đói khát, chữa lành bệnh tật cho các bệnh nhân, … ngõ hầu muốn nói rằng Ngài là Đấng cứu độ và ban sự sống, và Ngài mời gọi dự phần vào bữa ăn làm no thỏa mọi đói và khát: bữa ăn Thánh Thể.
Bản văn của vị ngôn sứ chuẩn bị cho chúng ta nắm bắt Tin Mừng hôm nay một cách sâu xa.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 35, 37-39)
Những lời thổ lộ đầy cảm xúc này hoàn tất bài ca hy vọng và khải hoàn, qua đó thánh Phao-lô đóng lại chương 8 thư gửi tín hữu Rô-ma, thực tế, phần đạo lý của thư này.
Sau khi đã chứng tỏ làm thế nào mọi người, Do thái cũng như dân ngoại, bị giam hãm trong tội, và làm thế nhờ Đức Ki-tô họ được tách ra khỏi tội lỗi, thánh nhân đã phô bày, trong chương 8 này, sự mới mẻ của người Ki-tô hữu: một đời sống theo Thần Khí và trong niềm hy vọng được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa làm chứng về một tình yêu bao la mà con người là đối tượng. Lúc đó, Thánh Phao-lô để mặc cho tình cảm nồng nàn của mình tuôn tràn ra dưới ngòi bút thành một bài thánh thi bộc phát, tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Những dòng sau cùng này chất chứa biết bao sự hùng hồn và cảm xúc.
- Người Ki-tô hữu đối mặt với sự thử thách
Thánh Phao-lô chọn hình thức nghi vấn. Trở ngại nào có thể khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là những đau đớn cùng cực nhất? Những thử thách được liệt kê ở nơi con số “bảy”, con cố chỉ sự hoàn hảo. Chắc chắn đây không là ngẫu nhiên. Chắc chắn thánh Phao-lô nghĩ đến tất cả những khốn khổ mà thánh nhân đã kinh qua. Thánh nhân đã nêu lên những nỗi gian truân này nhiều lần (1Cr 4: 9-13; 2Tm 11); thánh nhân thêm vào ở đây, như do sự linh cảm, “gươm giáo”, đó sẽ là dụng cụ trong cuộc tử đạo của ngài. Nhưng đại từ “chúng ta” mà thánh Phao-lô sử dụng chứng thực rằng thánh nhân cũng nghĩ đến mọi người Ki-tô hữu đang gặp phải những khó khăn và những phiền nhiễu.
Thánh Phao-lô khẳng định một cách mạnh mẽ rằng trong mọi gian nan thử thách, những Ki-tô hữu là những người toàn thắng trong cuộc chiến của họ, nhờ Đấng đã yêu mến họ. Họ càng yếu hèn, thì họ càng cảm thấy sự hiệu nghiệm nội tại và tình thân của Thiên Chúa: thánh Phao-lô biết được điều này từ kinh nghiệm của mình.
- Người Ki-tô hữu đối mặt với thế gian thù ghét
Để hoàn thiện những ví dụ của mình, thánh Phao-lô loại ra khỏi những người Ki-tô hữu nỗi sợ hãi mà họ có thể có về những quyền lực bí nhiệm ám ảnh vũ trụ và có thể dự phần vào sự điều hành vũ trụ, cũng như mọi cảnh huống cuộc đời con người: sự sống và sự chết, hiện tại và tương lai.
Những mê tín dị đoan cổ xưa đầy dẫy trong vũ trụ về những quyền năng ít nhiều tác hại, chúng dễ dàng giải thích cái ác. Sự gia tăng của những mê tín này trở nên thuận lợi nhờ khoa chiêm tinh phát triển, từ đó, những tín ngưỡng dễ dàng tràn lan hơn nữa vì niềm tin trong các tôn giáo truyền thống sa sút.
“Thiên thần hay ma vương quỷ lực” chắc chắn ám chỉ đến những thiên linh, những sức mạnh quỷ thần, có thể những quyền lực của các thiên thần sa ngã (x. Ep 1: 21; 3: 18; Cl 1: 16; 2: 10-15).
“Bất kỳ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” có lẽ gợi lên từ vựng chiêm tinh và những “định mệnh” đè nặng trên vận mệnh của con người.
Còn đối với những kiểu nói “sự sống hay sự chết”, “hiện tại hay tương lai”, đây là những cặp đối ngẫu. Thánh Phao-lô sử dụng chúng ở nơi khác trong một mạch văn lạc quan hơn, như khi thánh nhân viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Dù cả thế gian này, sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3: 22).
Ở đây, thánh Phao-lô nhắm đến khía cạnh bi quan: cái chết với những xao xuyến của mình, cuộc sống với những bận lòng của mình, hiện tại với những lo âu của mình, tương lai với những bấp bênh của mình.
Thánh Phao-lô không muốn nói rằng thánh nhân xem những niềm tin này và những sợ hãi này là của mình. Với một sự thanh thản bình yên, thánh nhân khẳng định rằng không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã bày tỏ một cách rạng rỡ tình yêu của Ngài đối với con người khi ban cho họ Con của Ngài. Đó là nền tảng xác tín của người Ki-tô hữu và là lý do những toàn thắng của họ trên những quyền lực bên ngoài, dù đó là gì đi nữa. Người Ki-tô hữu “trong Đức Giê-su Ki-tô” sống bằng tình yêu này.
TIN MỪNG (Mt 14: 13-21)
Phép lạ “hóa bánh ra nhiều” là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Quả thật, dường như trong số những phép lạ, đây là phép lạ đặc trưng nhất, chứa đựng mặc khải nhất mà Đức Giê-su thực hiện. Bốn bài tường thuật bổ túc cho nhau và soi sáng cho nhau; mọi chi tiết đều hướng đến sự súc tích và sự chính xác của chúng.
Đức Giê-su tìm cách lánh vào nơi hoang vắng một mình với các môn đệ Ngài. Để được yên tĩnh, Ngài xuống thuyền qua bên kia biển hồ Ghê-nê-sa-rét để lánh xa đám đông. Nhưng đám đông đã nhận biết nên theo đường bộ dọc theo biển hồ và họ đến nơi trước khi thuyền cập bến.
- Một ngày hồng ân
Đức Giê-su không còn sống cho chính mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho con người. Dù đám đông cản trở dự định của Ngài, Ngài ân cần tiếp đón họ; Ngài động lòng thương những nỗi khổ của họ và “chữa lành các bệnh nhân của họ”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca nói: “Ngài dạy dỗ họ suốt ngày” (Mc 6: 34; Lc 9: 11). Khi chiều xuống, Ngài hoàn tất ngày thiên ân này bởi một cử chỉ báo trước cuộc tự hiến của Ngài.
Đức Giê-su đã không lưu lại trên bờ hồ, nhưng dẫn đám đông vào nơi hoang vắng. Hoàn cảnh, thời điểm mà biến cố được định vị, những chi tiết được các tác giả Tin Mừng trình bày, nêu bật sự đồng nhất của những dấu chỉ.
- Sự đồng nhất của những dấu chỉ
Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến hai lần nơi này thì hoang vắng. Như vậy, thánh sử hướng tư tưởng về thời Xuất Hành, khi người Do thái trong hoang địa Xi-nai lâm vào cảnh đói và nhận được từ trời bánh man-na kỳ diệu. Đức Giê-su là Mô-sê mới, trong hoang địa Ga-li-lê này Ngài sắp ban bánh kỳ diệu cho dân ăn no nê.
Thánh Mát-thêu nói: “Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ”. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ” (Ga 6: 10). Thánh Mác-cô cũng nói: “Người truyền cho các ông bảo họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6: 39). Chỉ vào mùa xuân cỏ non mới thật sự phủ xanh miền Pa-lết tin. Điều này muốn nói rằng Đức Giê-su chính là vị mục tử nhân lành, được các ngôn sứ loan báo, Ngài dẫn đàn chiên của mình đến đồng cỏ xanh tươi. Rõ ràng thánh Mác-cô gợi lên điều đó: “Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6: 34). Đối diện với sự chểnh mảng của các thủ lãnh Ít-ra-en, Đức Giê-su hành xử như “người chăn chiên thời Mê-si-a”, Ngài tận tình chăm lo dân Ngài.
Thời điểm biến cố xảy ra được thánh Gioan xác định rõ hơn nữa: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua” (Ga 6: 4). Sự kiện này trước tiên giải thích tầm quan trọng của đám đông. Chính ở thành Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ Ghê-nê-sa-rét mà những đoàn người hành hương đến từ miền Ga-li-lê quy tụ lại: chính từ đó mà người ta khởi hành thành từng nhóm tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ rằng thời điểm sắp đến lễ Vượt Qua đem lại một cung giọng đặc biệt cho cử chỉ của Đức Giê-su? Đây là một cử chỉ ngôn sứ, loan báo Lễ Vượt Qua mới.
- Dấu chỉ Thánh Thể
Phép lạ hóa bánh ra nhiều rõ ràng soi sáng cho việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các tác giả Tin Mừng cũng hiểu như vậy. Thánh Mát-thêu viết: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Những ngôn từ rất đối xứng với những ngôn từ của Bữa Tiệc Ly.
Việc chia sẻ bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê tiên trưng việc phân phát bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức việc chia sẻ sự hiện diện hóa nhiều của Thân Thể vinh quang của Đức Giê-su, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế.
Bánh được ban ở trên đồi Ga-li-lê thì dư dật như rượu được ban ở tiệc cưới Ca-na. Người ta thu lại những mẫu bánh còn thừa được mười hai thúng đầy: con số 12 ám chỉ đến mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ, họ đại diện dân Thiên Chúa mới. Hơn nữa, những mẫu bánh còn thừa muốn nói lên rằng có đủ chỗ cho những khách mời khác vào dự bàn tiệc của Thiên Chúa.
Những chiếc thúng được dùng để đựng những mẫu bánh thừa chắc hẳn là những chiếc giỏ mây mà người Do thái thường mang theo bên mình khi di chuyển. Vào buỗi chiều bắt đầu ngày sa-bát, họ đặt vào trong một ít rơm để ủ thức ăn, vì họ không được nhen lửa vào ngày sa-bát. Người Rô-ma gọi người Do thái là “người mang giỏ”.
- Dấu chỉ thời Mê-si-a
Cử chỉ của Đức Giê-su không chỉ có một tầm mức Thánh Thể, nó còn gợi lên một ý nghĩa trực tiếp: ý nghĩa về bữa tiệc thời Mê-si-a.
Các sấm ngôn ((Is 55: 1-3; 49: 10), các Thánh Vịnh (132: 15; 78: 24-27), các sách minh triết đã loan báo điều đó: triều đại Mê-si-a sẽ được đánh dấu bởi những dấu chỉ của sự dồi dào và no thỏa, những hình ảnh tham dự trước bàn tiệc cánh chung, bàn tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi cho những người được tuyển chọn trong Nước Trời. Chúng ta đã đọc một trong những bản văn này ở Bài Đọc I: sự dồi dào của ăn thức uống được đề nghị một cách nhưng không cho những người lưu đày, có nghĩa đó là giờ giải thoát của họ, giờ tha thứ và ân cần săn sóc của Thiên Chúa.
Đó cũng là ý nghĩa của bữa ăn mà Chúa Giê-su đề nghị cho đám đông: thời điểm cứu độ đã điểm; giờ của Đấng Mê-si-a là giờ Thiên Chúa hiện diện và tác động giữa loài người, giờ Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài. Đó là giờ Đức Giê-su bày tỏ lòng từ ái của Đức Giê-su đối với đám đông dân chúng. Họ đã đi bộ một quảng đường dài để hội ngộ với Ngài, đã lắng nghe Ngài suốt ngày, và chiều xuống, họ không có gì ăn. Nếu họ đã theo Ngài như thế, đó không phải là họ đang tìm kiếm những nhu cầu cốt yếu mà họ cảm thấy một cách lờ mờ sao?
Đức Giê-su làm dịu cơn đói phần xác của họ để giúp cho họ hiểu rằng Ngài có thể cho họ no thỏa cơn đói phần hồn nữa.
- Bánh Lời Chúa
Dấu chỉ khác của thời Mê-si-a không được bày tỏ minh nhiên, nhưng chúng ta không thể không nghĩ đến: “bánh là biểu tượng cốt yếu của Lời Chúa”. Mối liên hệ thường hằng trong Kinh Thánh giữa bánh, thức ăn ban sự sống cho thân xác con người, và Lời Chúa, lương thực thần thiêng cung cấp sự sống đích thật. Qua việc ban bánh một cách dư dật, Đức Giê-su tỏ mình ra Ngài là Ngôi Lời, lời Thiên Chúa ở giữa loài người như trong Am 8: 11:
“Đây sắp đến những ngày
– sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng –
Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này,
không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống,
mà đói khát được nghe lời Đức Chúa”,
hay trong Đnl 8: 3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”.
- Dấu chỉ về Giáo Hội
Dấu chỉ mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhất là dấu chỉ về Giáo Hội.
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất Đức Giê-su cho các môn đệ được dự phần vào. Các môn đệ là những người đề nghị với Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Nhưng Đức Giê-su đáp: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy liệu cho họ ăn”. Các môn đệ cố tránh né; họ không có gì cả. Về phương diện con người, không có giải pháp nào có thể. Bài học thật khủng khiếp. Không phải Giáo Hội thường phải chạm trán với những vấn đề mà bên ngoài không thể giải quyết được, nếu như không có đức tin? Chính niềm tin tưởng phó thác vào Ngài mà Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài. Tiếp đó, chính ở nơi họ mà Ngài trao phó việc ân cần phân phát bánh và cá cho dân chúng: họ là những thừa tác viên của những thiên ân. Chính nhờ họ mà ân ban Thánh Thể và Lời Chúa sẽ được tiếp diễn mãi. Còn đám đông dân chúng, hỗn hợp và đông đảo, quy tụ chung quanh Đức Giê-su và được tham dự vào cùng một bánh, họ loan báo những cộng đồng nhân loại hình thành nên Giáo Hội. Như người ta thường nói: “Thánh Thể làm nên Giáo Hội”.
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu không nêu lên những phản ứng của những người được thụ hưởng sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thêm nữa, đa số trong họ đã không biết nguồn gốc bánh và cá mà người ta phân phát cho họ. Chỉ một mình thánh Gioan nói về lòng nhiệt thành của đám đông “họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua” (Ga 6: 15).
Dù sao, phần tiếp theo của những biến cố cho thấy rằng những dấu chỉ được đề nghị, dù quá minh nhiên, đã không được hiểu; chúng xem ra như một trong những thử thách sau cùng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê trong việc khai lòng mở trí cho con người hiểu sứ điệp của Ngài.
Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 14,13-21
(13) Nghe tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. (14) Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ. (15) Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi. Vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. (16) Đức Giê-su bảo: “họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn”. (17) Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !” (18) người bảo: “Đem lại đây cho Thầy !”. (19) Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông. (20) Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. (21) Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
- Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU HÓA BÁNH RA NHIỀU LẦN THỨ NHẤT
Như ông Mô-sê trong thời Xuất Hành, Đức Giê-su đã đưa dân chúng tin Người vào hoang địa. Tại đây Người đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi “năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con trẻ” giống như Mô-sê xưa đã xin Đức Chúa ban man-na từ trời rơi xuống để nuôi dân Ít-ra-en. Phép lạ này tiên báo về bí tích Thánh Thể mà Đức Giê-su sẽ thiết lập trong bữa Tiệc Ly sau này.
- CHÚ THÍCH:
– C 13-14: + Lánh khỏi nơi đó: Khi Gio-an Tẩy Giả bị vua Hê-rô-đê bỏ tù thì Đức Giê-su đã lánh sang miền Ga-li-lê (x. Mt 4,12). Giờ đây, khi nghe tin Gio-an bị vua Hê-rô-đê chém đầu thì Đức Giê-su lánh vào nơi hoang vắng, vì chưa đến “giờ của Người” (x.Ga 8,59;11,53-54). Cái chết của Gio-an là điềm báo về cái chết của Người sắp xảy đến. + Đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt: Theo Mác-cô và Lu-ca, lý do chính của cuộc rút lui này là để thầy trò có những giờ phút ở riêng bên nhau, tránh sự quấy rầy của dân chúng (x. Mc 6,31). Hướng đi của thuyền các ngài là hoang địa gần thành Bét-sai-đa (x. Lc 9,10), nằm về phía Đông Bắc và cách biển hồ Ga-li-lê khoảng một cây số. Đây là thời gian gần đến lễ Vượt qua của dân Do Thái (x. Ga 6,4). + Đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người: Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa cũng đi theo Mô-sê vào trong sa mạc Xi-nai. + Chạnh lòng thương: Khi chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân, Đức Giê-su chứng tỏ Người chính là Mục tử lý tưởng mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm (x. Ed 34,11-16).
– C 15-18: + xin Thầy giải tán đám đông: Các môn đệ đã biết nghĩ đến nhu cầu của đám đông đang cần được ăn uống, nhưng các ông lại bất lực trước nhu cầu lớn lao kia, nên đề nghị Đức Giê-su giải tán dân chúng để ai nấy tự lo lương thực cho mình. + Chính anh em hãy cho họ ăn: Đức Giê-su biết rõ các môn đệ bất lực, nhưng Người vẫn ra lệnh cho các ông phải lo cho họ được ăn. Qua câu này, Người muốn Giáo Hội sau này không những phải rao giảng Tin Mừng, mà còn phải làm hết khả năng để đáp ứng nhu cầu về thể xác cho dân chúng nữa. + chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !: Số lượng quá nhỏ bé so với nhu cầu cần dùng. Riêng Tin Mừng Gio-an còn cho biết năm chiếc bánh đó làm bằng lúa mạch, tức là loại bánh của người nghèo. + Đem lại đây cho Thầy !: Với mấy chiếc bánh như vậy, các môn đệ không thể làm được gì. Nhưng Đức Giê-su chỉ cần các ông có thiện chí đóng góp hết khả năng của mình là Người sẽ thực hiện một phép lạ lớn lao.
– C 19: + Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ: Cỏ chỉ mọc vào mùa xuân, nghĩa là khoảng tháng ba dương lịch trước lễ Vượt Qua (x. Ga 6,4.10; Mc 6,39). Việc cho dân chúng ngồi trên cỏ là để tránh mất trật tự thường xảy ra mỗi khi phân phát đồ ăn. + Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá: Trong các gia đình Do thái, vào trước bữa ăn, người cha thường đọc kinh cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành Người đã thương ban. Ở đây khi làm cử chỉ này, Đức Giê-su cho thấy Người là gia chủ của đại gia đình nhân loại. + Ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ: Các cử chỉ và hành động ở đây tương tự như Người sẽ làm trong bữa tiệc ly để thiết lập bí tích Thánh Thể vào tối Thứ Năm trước cuộc khổ nạn sau này (x. Mt 26, 26).
– C 20-21: + Ăn no và còn dư: là hai yếu tố nói lên sự dồi dào của bữa tiệc Thiên Sai mà I-sai-a đã tuyên sấm trước đó: “ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thì béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,6). + Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại đựơc mười hai giỏ đầy: Mười hai Tông đồ thu được mười hai giỏ. Con số 12 ở đây tượng trưng cho 12 chi tộc dân Ít-ra-en. Qua đó cho thấy sự nghiệp của Đức Giê-su lan rộng đến toàn dân chứ không dừng lại ở số người được ăn bánh hôm ấy. + Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con: Vì con đường theo Đức Giê-su quá xa nên có lẽ chỉ đàn ông mới quyết tâm đi tới nơi. Có thể đàn bà con nít cũng có mặt, nhưng không được tác giả Tin mừng nhắc đến do quan niệm “trọng nam khinh nữ” của dân Do thái thời bấy giờ.
- CÂU HỎI:
1)Tại sao Đức Giê-su phải lánh vào nơi hoang địa ? Nơi đó nằm ở đâu ? 2) Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh nào trong thời kỳ Xuất Hành ? Thái độ chạnh lòng thương và chữa lành bệnh tật của Đức Giê-su cho thấy Người là ai ? 3) Tại sao các môn đệ lại đề nghị Đức Giê-su giải tán đám đông ? Khi đòi chính các ông phải lo cho dân chúng ăn, Đức Giê-su muốn dạy bài học gì cho các mục tử của Hội Thánh ? 4) Đức Giê-su đã làm gì trước khi nhân bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ? Phép lạ này tiên báo về bí tích nào sẽ được Người thiết lập sau này ? 5) Hai đặc tính của bữa tiệc là ăn no và còn dư cho thấy lời tuyên sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm ? Ý nghĩa của con số 12 giỏ đầy bánh thừa nói lên điều gì ? 6) Phải chăng đàn bà và trẻ con không được ăn bánh hóa nhiều trong phép lạ này của Đức Giê-su ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
- LỜI CHÚA: “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14,14).- Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
- CÂU CHUYỆN:
1) TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC THỂ HIỆN BẰNG SỰ SẺ CHIA?
Ăn thêm cái nữa đi con!
– Ngán quá, con không ăn đâu!
– Ráng ăn thêm một cái, má thương. Ngoan đi cưng!
– Con nói là không ăn mà. Vứt đi ! Vứt nó đi !
Thằng bé lắc đầu quầy quậy, gạt mạnh tay. Chiếc bánh kem văng qua cửa xe rơi xuống đường, sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy đi.
Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng chơ, chạy nhanh đến nhặt. Mắt hai đứa sáng lên dán chặt vào chiếc bánh kem thơm ngon. Thấy bánh bị lấm láp, đứa em gái nuốt nước miếng và bảo thằng anh:
– Anh Hai thổi sạch rồi hai anh em mình cùng ăn nhé.
Thằng anh phùng má thổi. Nhưng bụi đất đã dính vào kem chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó đã làm chiếc bánh rơi tòm xuống mương đầy nước dơ bên cạnh.
– Ai biểu anh Hai thổi chi cho mạnh – Con bé nói rồi thút thít khóc.
– Ừa.Tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi.
2) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu trong bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, đến lượt em gái bị chứng xuất huyết nội và được cha mẹ mang đi cấp cứu trong cùng một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần phải được cấp thời tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn loại máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu anh lại cùng một loại với cô em. Khi được hỏi có muốn truyền máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé tỏ ra chần chừ và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã can đảm trả lời bác sĩ: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu từ cậu bé sang cho cô em. Đến khi cậu bé tỉnh dậy, mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! Con vẫn còn sống đấy ư? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em gái con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?”
3) TÌM THẤY NIỀM VUI KHI CẢM THÔNG GIÚP ĐỠ THA NHÂN:
Một cậu bé thuộc dòng dõi quí tộc đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ ruộng, bên cạnh đó một người tá điền đang cày ruộng cho cha cậu. Ông tá điền cởi đôi ủng để lại trên bờ ruộng trước khi làm việc. Cậu bé tinh nghịch muốn giấu đôi ủng ấy để trêu chọc người nông dân. Nhưng người giám hộ đã khuyên cậu rằng:
– Con chớ làm cho người tá điền nghèo khổ này buồn phiền, nhưng hãy làm cho ông ta được vui thì tốt hơn. Ta khuyên con hãy bỏ tiền vào hai chiếc giày ủng. Chúng ta sẽ núp ở gần đây để xem thái độ của ông ta thế nào khi nhận được tiền.
Cậu bé đã làm như lời dạy của thầy mình. Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã mon men đến gần đôi ủng và bỏ vào mỗi chiếc ủng một đồng bạc.
Một lát sau, người nông dân trở lại lấy đôi ủng để về nhà. Sau khi khám phá ra có tiền trong đó, ông đã vội quì xuống và ngước mắt lên trời cảm tạ Chúa đã thương ban ơn giúp cho gia đình ông qua cơn túng cực. Ông cũng xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân vô danh đã làm điều này.
Đứng trước nhưng gì dã xảy ra và nghe lời người nông dân cầu nguyện, cậu bé đã rất cảm động muốn khóc. Đây là lần đầu tiên cậu cảm thấy lòng mình vui vẻ hạnh phúc.
- CẢM THƯƠNG CHÚ CHÓ CON BỊ TẬT NGUYỀN:
Một cậu bé xuất hiện trước cửa hàng bán chó và hỏi người chủ cửa hàng:
– Giá mỗi con chó là bao nhiêu vậy bác ?
Người chủ cửa hàng trả lời:
– Khoảng từ 30 tới 50 đô la một con!
Cậu bé rụt rè nói:
– Cháu có thể xem chúng được không ạ ?
Người chủ cửa hàng mỉm cười rồi huýt sáo ra hiệu. Từ trong chiếc cũi, năm chú chó con bé xíu như năm cuộn len chạy ra, duy có một chú bị tụt lại sau khá xa. Ngay lập tức, cậu bé chú ý tới chú chó chậm chạp đi hơi khập khiễng đó. Cậu liền hỏi:
– Con chó này bị sao vậy hả bác ?
Ông chủ giải thích rằng nó bị tật ở khớp hông và nó sẽ bị khập khiễng suốt đời.
Nghe thế cậu bé tỏ ra xúc động:
– Đó chính là con chó mà cháu muốn mua!
Chủ cửa hàng nói:
– Nếu cháu thực sự thích con chó đó, ta sẽ tặng cho cháu. Nhưng ta biết là cháu sẽ thực sự không muốn mua nó đâu.
Gương mặt cậu bé thoáng buồn, cậu nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng và nói:
– Cháu không muốn bác tặng không nó cho cháu đâu. Con chó đó cũng có giá trị như những con chó khác mà. Cháu sẽ trả bác đúng giá. Thực ra, ngay bây giờ cháu chỉ có thể trả 2 đô la 37 xu thôi. Sau đó, mỗi tháng cháu sẽ trả góp 50 xu được không ạ ?
– Bác bảo thật nhé, cháu không nên mua con chó đó, người chủ cửa hàng khuyên. Nó không bao giờ có thể chạy nhảy và chơi đùa với cháu như những con khác được đâu.
Ông vừa dứt lời, cậu bé liền cúi xuống vén ống quần lên, để lộ ra cái chân trái bị tật nguyền, cong vẹo được nâng đỡ bằng một thanh kim loại. Cậu ngước nhìn ông chủ cửa hàng và nói:
– Chính cháu cũng chẳng chạy nhảy được mà, và chú chó con này sẽ cần một ai đó thấu hiểu và sẵn sàng chơi đùa với nó. (theo Dan Clark)
Yêu thương là thế đó. Chúng ta không những phải yêu thương con người mà còn phải yêu thương cả các con vật do Chúa dựng nên nữa. Như thế mới gọi là yêu như Chúa.
5) BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA:
Vào cuối Thế Chiến Thứ Hai, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong một làng quê ở miền cực Nam nước Ý vừa được giải phóng khỏi phát xít Đức, toán quân Đồng Minh đã cố gắng phục hồi lại bức tượng Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng thạch cao, đã bị bể tan trong cuộc chiến trước đó. Bức tượng này cao khoảng 2 mét, được dựng trên đài phía trước nhà thờ của làng. Sau nhiều ngày tìm kiếm, toán lính kia đã tìm các mảnh bị vỡ và gắn lại thành bức tượng Thánh Tâm như trước, duy chỉ còn thiếu đôi tay của bức tượng. Có lẽ hai cánh tay bức tượng đã bị bể tan do bom đạn. Sau khi đã làm hết cách, cuối cùng tóan lính đành chịu bỏ dở công việc. Bấy giờ một người trong bọn bật ra sáng kiến hay. Anh ta đi lấy hai khúc gỗ gắn giả thay cho hai cánh tay của bức tượng Chúa, rồi viết vào đó hàng chữ: “BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”. Hàng chữ này không những đã đánh động tâm hồn của dân chúng trong làng, mà còn thu hút nhiều du khách từ các nơi đến chiêm ngưỡng bức tượng Thánh Tâm với đôi tay của loài người.
- SUY NIỆM:
1) DIỄN TIẾN PHÉP LẠ: Tin Mừng thuật lại như sau:
– Đem lại đây cho Thầy !: Dù đây chỉ là phần đóng góp nhỏ nhoi của các môn đệ, nhưng Người vẫn sử dụng. Người chỉ cần các ông nhiệt tình và quảng đại trao cho Người những gì các ông đang có là đủ.
– Người cầm lấy năm chiếc bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông: Con đường đi của những tấm bánh là từ tay các môn đệ đến tay Đức Giê-su, dâng lên cho Chúa Cha, rồi trở lại tay các môn đệ, và cuối cùng đến tay từng người trong đám đông.
– Bẻ ra, trao đi, chia sẻ và hóa nhiều: Phép lạ các tấm bánh được nhân ra nhiều khi nó đang ở trong tay ai ? Tin Mừng không nói rõ Đức Giê-su đã làm phép lạ từ năm cái bánh trở thành một đống bánh và cá thật lớn, rồi các môn đệ chỉ việc lấy ra phân phát cho dân chúng nhưng thánh sử Mát-thêu viết như sau: “Người bẻ bánh ra trao cho các ông”, và sau đó chắc các ông cũng phải bẻ ra và chia cho đám đông. Và có lẽ mỗi người trong đám đông cũng phải bẻ tấm bánh của mình để chia sẻ cho người bên cạnh. Chẳng mấy chốc ai nấy đều có bánh ăn. Như thế những tấm bánh từ tay Đức Giê-su đã được bẻ ra, trao đi và chỉ nhân ra nhiều khi nó được chia sẻ từ người này sang người khác. Đó là điều then chốt mà phép lạ này muốn nói lên.
2) ANH EM HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (Lc 22,19):
– Phép lạ Bánh hóa nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc ly trước cuộc Khổ nạn: Bữa tiệc này trùng với bữa tiệc Vượt Qua của dân Do thai. Đức Giê-su đã sử dụng Bánh Không Men dùng trong bữa tiệc Vượt Qua theo truyền thống, để biến thành Bánh Ban Sự Sống tức là Thân Mình của Người, sắp chịu hiến tế vì nhân loại. Người cũng dùng chén rượu nho để biến thành Máu Huyết Người sắp đổ ra để đền tội thay cho nhân loại. Cuối cùng Người truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. Lc 22,19-20).
– Điều kiện để tham dự Bữa Tiệc của Chúa là quảng đại tha thứ và yêu thương hiệp nhất (x. Mt 5,23-24; 6,14-15): Thánh Phao-lô đã quở trách các tín hữu Cô-rin-tô họp nhau mà không làm theo cách thức như bữa tối của Chúa. Vì mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói, người lại no say (x. 1 Cr 11,17-21). Thánh nhân cảnh cáo họ về tội chia rẽ và thái độ lỗi đức bác ái như sau: “Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?”(1 Cr 11, 20-22). Vì thế bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11, 27).
3) PHÉP LẠ BẺ BÁNH TRONG ĐỜI THƯỜNG: Phép lạ nhân Bánh ra nhiều không dừng lại ở việc Bẻ Bánh tại nhà thờ, mà còn phải đựơc tiếp tục kéo dài trong cuộc sống: bẻ ra, trao đi và hóa nhiều.
– Đừng sợ tấm bánh bị bẻ ra và cho đi sẽ bị hao hụt và không còn đủ cho mình: Nếu các môn đệ xưa cũng nghĩ như vậy và không chịu trao cho Đức Giê-su năm chiếc bánh và hai con cá thì số bánh cá đó vẫn chỉ có bằng đó. Nhưng nhờ biết quảng đại trao cho Đức Giê-su, để Người bẻ ra trao lại cho các ông để các ông phân phát cho dân chúng mà bánh đã hóa ra nhiều.
– Ngày nay cũng có nhiều người đang cần các thứ bánh vật chất và tinh thần: bánh công lý, bánh yêu thương, bánh cảm thông tha thứ và phục vụ. Đừng ngại khi bạn phải hy sinh nhiều. Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn có thì chắc thế giới này sẽ không còn người đói, nhưng tất cả sẽ được no nê bánh ăn vật chất và còn được no đầy cả bánh tinh thần là sự bình an, vui tươi, hạnh phúc và niềm hy vọng.
- THẢO LUẬN:
1) Ngoài việc cho kẻ đói bánh ăn vật chất, bạn có thể cho họ những thứ bánh tinh thần hay không? 2) Trong những ngày sắp tới bạn quyết tâm sẽ trao bánh tinh thần nào cho người sống bên cạnh bạn: Một nụ cười, một lời khen thành thật, một sự giúp đỡ tận tình và còn gì nữa…?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng con noi gương Chúa “Luôn chạnh lòng xót thương” những kẻ đói nghèo đang sống bên cạnh chúng con. Xin cho chúng con cảm nghiệm được sự đói khát đang giày vò bao người, để sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Nhưng Lạy Chúa. Khả năng chúng con giới hạn và không thấm vào đâu so với nhu cầu của tha nhân. Xin cho chúng con biết noi gương quảng đại của các môn đệ Chúa xưa bằng việc dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con.
– LẠY CHÚA. Con xin mượn lời cầu nguyện của một thi sĩ để dâng lên Chúa như sau: “Con chỉ là một tia lửa, xin biến con thành ngọn lửa hồng. Con chỉ là một sợi dây, xin biến con thành một cây đàn. Con chỉ là một quả đồi, xin biến con thành một rặng núi. Con chỉ là một giọt nước, xin biến con thành một đại dương. Con chỉ là một cọng lông, xin biến con thành đôi cánh lớn. Con chỉ là một gã ăn xin, xin biến con thành một Vương hầu”. Khi nhìn lại bản thân, con cảm thấy thân xác con quá yếu đuối, suy nghĩ con thật nông cạn, trái tim con lại nhỏ bé, địa vị con quá thấp hèn, tài sản con chỉ là đôi bàn tay trắng ! Nhưng con tin rằng, nếu con biết quảng đại hiến dâng cho Chúa, thì Chúa sẽ biến hóa nó nên sức mạnh giúp con làm được những việc lớn lao.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Trầm Thiên Thu
Người Việt có câu: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no.” Điều đó cho thấy sự ăn uống không chỉ cần thiết và còn cấp bách, không thể trì hoãn. Thật vậy, với bản năng sinh tồn, người ta phải làm và dám làm mọi thứ: “Đói ăn vụng, túng làm liều.” Tại Việt Nam đã có những trường hợp đáng thương khi người ta phải lấy trộm hoặc giật lấy những thứ đơn giản như mấy ổ bánh mì, thế nhưng pháp luật lại kết án họ nhiều năm tù, còn những kẻ cướp công khai bạc tỷ thì lại lãnh án nhẹ hoặc tù treo. Thật là bất minh và bất công!
Ai đã từng phải khổ, phải cắn răng chịu cơn đói thì thấy rằng, lúc đó toàn thân phải gồng mình để chịu đựng, vừa toát mồ hôi vừa run lên. Cái “miếng” lúc này đáng giá hơn cái “gói” lắm. Xã hội văn minh, nhưng khắp nơi vẫn thấy nhiều người thiếu những thứ thiết yếu nhất!
Có chuyện kể – xảy ra thật tại Indonesia – về một “Phiên Tòa Lương Tâm” như sau…
Tại phòng xử án, thẩm phán trầm ngâm suy nghĩ trước lời cáo buộc của các công tố viên đối với một bà cụ phạm tội ăn cắp khoai mì (sắn) và phải bồi thường 1 triệu Rupiah. Lời bào chữa của bà cụ: Gia đình rất nghèo khổ, đứa con trai bị bệnh, đứa cháu suy dinh dưỡng vì đói khát. Nhưng ông chủ quản lý vườn khoai mì nói rằng bà ta phải bị xử nghiêm minh như những người khác.
Vị thẩm phán thở dài: “Xin lỗi, thưa bà…” Ông ngưng giây lát, vừa nhìn bà cụ đói khổ vừa nói: “Nhưng pháp luật là pháp luật, tôi là người đại diện pháp luật nên phải xử nghiêm minh. Tôi tuyên phạt bà phải bồi thường một triệu Rupiah cho chủ vườn. Nếu không có tiền bồi thường, bà phải ngồi tù hai năm rưỡi.”
Bà cụ run run, rướm nước mắt, vì bà đi tù rồi thì con cháu ở nhà ai chăm lo? Vị thẩm phán nói tiếp: “Nhưng tôi cũng là người đại diện của công lý. Tôi tuyên phạt tất cả những công dân nào có mặt trong phiên toà này 50.000 Rupiah vì sống trong một thành phố văn minh, giàu có này mà lại để cho một bà cụ ăn cắp mà lo cho đứa cháu đói khát và đứa con bệnh tật.” Nói xong, ông lấy mũ của mình đưa cho cô thư ký: “Cô hãy đưa mũ này truyền đi khắp phòng và tiền thu được hãy đưa cho bị cáo.”
Cuối cùng, bà cụ đã nhận được 3,5 triệu Rupiah tiền quyên góp, trong đó có cả 50.000 Rupiah từ các công tố viên buộc tội bà, một số nhà hảo tâm còn trả giúp một triệu Rupiah tiền bồi thường. Bà cụ run lên vì vui sướng. Thẩm phán gõ búa kết thúc phiên toà. Tất cả mọi người đều mãn nguyện và mỉm cười hạnh phúc.
Có lẽ đó là phiên tòa xử nghiêm minh nhất và gây xúc động, bởi vì tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với cuộc sống xung quanh mình. Cái nghèo của người khác cũng mang tính liên đới, có phần lỗi của mỗi chúng ta. Trong phiên tòa kia, vị thẩm phán đã không chỉ dùng LUẬT PHÁP mà còn dùng cả TRÁI TIM để phân xử.
Như chúng ta đã biết, ăn uống là “đệ nhất khoái” trong tứ khoái của con người, và là bài học đầu tiên người ta phải học trong cuộc đời: “Học ăn, học nói, học gói, học mở.” Thật là lạ lùng bởi vì trong kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối,” việc ăn uống cũng được coi là “mối thương” hàng đầu: “Thứ nhất: cho kẻ đói ăn, thứ hai: cho kẻ khát uống.” Rõ ràng việc ăn uống là việc không thể trì hoãn. Khi không còn thiếu thốn, người ta lại lo sao có thể “ăn no, mặc ấm,” rồi miệt mài cố gắng để có thể “ăn ngon, mặc đẹp.” Cả đời cứ phải “vượt qua” như thế.
Sống là đấu tranh, vì bản năng sinh tồn. Người ta có no cái bụng, không phải lo về những điều cơ bản nhất, rồi mới có thể lo những thứ khác – liên quan cả xác lẫn hồn. Quả thật, người ta rất thực tế: “Có thực mới vực được đạo.” Trong lúc đói, Thằng Bờm không cần bất cứ thứ gì khác, dù đó là những thứ sang trọng hoặc quý giá, mà chỉ cần “nắm xôi.” Thế thôi. Người Anh diễn tả đơn giản: “That’s all.” Vâng, chỉ có nắm xôi mới có thể giải quyết nhu cầu cấp bách của cái bụng lúc đó. Và đó là tất cả.
Vì miếng ăn – để sinh tồn, chiến tranh vẫn không ngừng xảy ra bằng nhiều cách. Biết được nhược điểm của con người như vậy, có những người ác tâm đã lợi dụng người nghèo đói để bắt họ làm theo mưu thâm kế độc của mình bằng cách cho họ ăn uống. Miếng ăn là quan trọng, nó có thể làm cho người ta vinh dự hoặc nhục nhã.
Vật chất hay tiền bạc cũng chỉ vì miếng ăn, có thể nói rằng quyền lợi cơ bản là… “miếng ăn.” Bất ngờ thấy ai cho mình cái gì thì cũng rất có thể họ muốn nhờ vả mình chuyện gì đó, chứ đâu dễ gì họ cho mình “ăn không.” Miếng ăn có điều kiện chứ không vô điều kiện hoặc miễn phí. Theo lẽ thường, nếu có cho ai cái gì thì người ta chỉ cho những thứ thừa, nghĩa là chỉ ở mức “bố thí” chứ chưa là “công bằng” chứ đừng nói chi “bác ái.” Quả thật, “chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa.” (Mc 10:18; Lc 18:19) Kinh nghiệm sống đã và đang cho chúng ta biết rõ như vậy, càng rõ hơn trong xã hội coi trọng vật chất ngày nay – một dạng chủ nghĩa duy vật tinh vi.
Tất cả mọi người, không trừ ai, đều được Thiên Chúa nhân lành mời gọi: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.” (Is 55:1) Cứ đến “mua” mà không phải trả tiền. Một dạng “mua bán” rất kỳ lạ, đó là “mua” bằng giá trị của niềm tin chân thành và tình mến thiết tha.
Ngày nay, với sự lây nhiễm virus sĩ diện hão, người ta “đánh giá” nhau bằng mức độ vật chất. Vì muốn chứng tỏ mình mà người ta có thể bỏ ra bạc triệu hoặc bạc tỷ để mua những thứ người ta “thích” (ra vẻ), dù ăn được hay không. Có những món ăn rất đắt, thuộc loại đắt nhất hành tinh. Ví dụ: Nấm trắng Alba của Ý có giá 160.406 USD/1,5 kg (khoảng 3,4 tỷ VNĐ), trứng cá muối Almas ở vùng biển Caspian có giá 25.000 USD/hộp (khoảng 530 triệu VNĐ), hoặc dưa lưới Yabari có giá 22.872 USD/quả (khoảng 486 triệu VNĐ), v.v… Các món đó chúng ta có mơ cũng không thể thấy. Cỡ “đại gia” hạng bình thường ở Việt Nam cũng sẵn sàng uống những chai rượu có giá vài triệu đồng, đám “cậu ấm, cô chiêu” ăn chơi mỗi đêm tốn vài ngàn USD. Người ta biện hộ rằng làm như vậy để “chơi” cho biết, “chơi” cho thiên hạ “lé mắt” vậy thôi. Dù gì thì cũng quá lãng phí quá. Chắc chắn chỉ có buôn ma túy hoặc cướp giật thì mới dám “chơi chảnh” như vậy!
Từ xa xưa, Thiên Chúa đã đặt vấn đề: “Sao lại PHÍ tiền bạc vào của không nuôi sống, TỐN công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?” (Is 55:2a) Lương thực chỉ nuôi sống phần xác chứ không thể nuôi sống linh hồn, thế mà người ta vẫn dám bỏ ra số tiền lớn để chỉ được thưởng thức cho khoái khẩu, cho ra vẻ ta đây. Điều đó cho thấy ăn uống là điều thú vị lắm, không khéo hóa mê ăn uống thì lại là tội. Người ta chỉ lo đói thể lý mà không sợ đói tinh thần, đặc biệt là đói linh hồn. Lạ thật, lạ vì người ta tự mâu thuẫn. Vậy là không khôn rồi!
Là Đấng giàu lòng thương xót và vốn dĩ nhân hậu, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi: “Hãy chăm chú nghe Ta thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị.” (Is 55:2b) Lời mời gọi đó không chỉ là lời mời gọi bình thường, mà còn mang tính mệnh lệnh và thực sự có lợi cho người được mời: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít.” (Is 55:3) Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.” (Tv 23:1)
Với ít nhiều kinh nghiệm sống, ai cũng có thể cảm nhận được Thiên Chúa quan phòng như thế nào. Thật vậy, Ngài rất hào phóng, luôn ban cho những điều tốt lành cả thể lý và tinh thần mà lại hoàn toàn miễn phí. Chúng ta lãnh nhận liên tiếp và nhận rất nhiều mà vẫn vô ơn, thế nhưng Ngài vẫn làm ngơ, bỏ qua, không hề chấp lách. Bởi vì bản chất của Ngài là tốt lành, yêu thương, thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.” (Tv 145:8-9) Thật lạ, Ngài không chỉ nhân hậu với chúng ta, mà Ngài còn nhân hậu với mọi thụ tạo của Ngài, từ gã khổng lồ tới con vi trùng.
Chúng ta có thể nhận thấy qua kinh nghiệm cuộc sống. Có những lúc chúng ta chưa xin đã được – loại này nhiều lắm, hoặc xin và được rồi, nhưng chúng ta lại “phủi tay,” kiểu “qua cầu rút ván,” giống như chuyện “mười người phong hủi được sạch cả nhưng chỉ có một người Samari trở lại tạ ơn Chúa.” (Lc 17:11-18) Mặc dù vậy, Ngài vẫn không bỏ đói ai. Như vậy liệu có quá tệ chăng? Ước gì mỗi chúng ta biết kịp nhận thức như Thánh Vịnh gia: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài ĐÚNG BỮA CHO ĂN. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật MUÔN VÀN THOẢ THUÊ.” (Tv 145:15-16) Thiên Chúa toàn năng, không gì là không thể, đặc biệt là Ngài vô cùng đại lượng và nhân hậu, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa GẦN GŨI tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.” (Tv 145:17-18)
Trong đời thường, cái nghèo luôn đi đôi với cái khổ và cái khó – nghèo khổ hoặc nghèo khó, nhưng cái khổ chưa chắc là tại cái nghèo, vì có những người giàu mà vẫn khổ và khó. Cái nghèo và cái khổ có thể là MỐI PHÚC đối với người này, nhưng lại có thể là MỐI HỌA đối với kẻ khác. Có những người “đói ăn vụng, túng làm liều,” nhưng cũng có những kẻ “nhàn rỗi sinh nông nổi,” và vì nông nổi nên mới ra nông nỗi. Khổ, khổ thật! Thế nhưng người ta vẫn có đủ cách để tự biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Quả thật, phải thực sự tin mến Chúa thì mới không bị chao nghiêng trước nghịch cảnh. Để nhận biết mình ở mức độ nào trong hành trình tâm linh, chắc hẳn mỗi chúng ta phải tự trả lời thật lòng với câu hỏi của Thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:35) Và chỉ có mình mới có thể xác định chứ không ai làm thay được.
Đúng là không dễ trả lời chút nào. Nhưng đừng vội hoang mang, đây là bí quyết của Thánh Phaolô có thể giúp chúng ta: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, KHÔNG CÓ GÌ tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:37-39) Đó là cách lo liệu cho cái đói của linh hồn. Ai sống kiên tâm được như vậy thì thật là đại phúc: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.” (Mt 5:6)
Chúa Giêsu không muốn ai bị đói – dù thể lý hoặc tinh thần, chỉ muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. (Ga 10:10) Trình thuật Mt 14:13-21 (Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14) kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất. Đó là “lòng trắc ẩn” của Chúa Giêsu dành cho đám đông – những người say mê lắng nghe lời giáo huấn của Ngài. Họ no nê cả thể lý và tâm linh.
Thời gian đó, khi biết tin ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê ra lệnh chém đầu vì vua lỡ “hứa dại” với con gái của mụ Hêrôđia, Chúa Giêsu lánh khỏi nơi đó và đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành nườm nượp kéo nhau đi theo Ngài. Khi ra khỏi thuyền, Ngài trông thấy họ thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ. Tình yêu thương không thể trì hoãn.
Chiều buông, nắng nhạt. Hoàng hôn vàng võ dần dần hóa thành đêm đen, cái bụng mọi người bắt đầu đánh lô-tô. Đã đến lúc cần ăn tối. Có lẽ các môn đệ cũng thấy “bụng reo” rồi, thế nên họ lại gần thưa với Sư Phụ: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Nhưng Ngài thản nhiên bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Ôi chao, thế thì “căng” thật! Có lẽ lúc này nhìn các ông “tội nghiệp” lắm. Họ nhìn nhau, vừa gãi đầu vừa nói: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” Mèn ơi, đó là đồ ăn thằng nhỏ mang đi phòng thân, mà có nhiêu đó thì thấm gì với đám đông như kiến như cỏ thế kia? Chúa Giêsu biết việc gì cần làm ngay.
Chúa Giêsu ôn tồn: “Đem lại đây cho Thầy!” Rồi Ngài truyền cho dân chúng “ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh.” Sau đó, Ngài cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, và trao cho môn đệ rồi Ngài bảo họ phân phát cho đám đông. Cứu đói là một cách thể hiện lòng thương xót cụ thể.
Sau đó thế nào? Thánh sử Mátthêu cho biết chi tiết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.” Môt bài toán kỳ lạ: 5 + 2 không là 7 mà là rất nhiều, vô số, tới mức dư thừa.
Chúa Giêsu thực hiện phép lạ này để nuôi sống phần xác cho dân chúng, còn phép lạ vĩ đại nhất và quan trọng nhất được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống phần hồn chúng ta là Phép lạ Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể vừa là thần lương vừa là thần dược. Phép lạ vĩ đại này hằng ngày vẫn xảy ra khắp nơi trên thế giới, thế nhưng người ta lại thích đua nhau đi tìm các “sự lạ” khác ở nơi này hoặc chỗ nọ. Thật là mâu thuẫn, vậy mà vẫn nói rằng “tôi tin.” Đức Tin như vậy có cần “xét lại” chăng?
Hãy nghe Thánh Thomas More (1478-1535, luật sư, triết gia và chính khách người Anh) chia sẻ kinh nghiệm về Thánh Thể: “Nếu tôi xao lãng, việc hiệp lễ sẽ giúp tôi tịnh tâm trở lại. Nếu hằng ngày có những dịp xảy đến xúi giục tôi xúc phạm đến Thiên Chúa, tôi sẽ tự trang bị cho cuộc chiến mỗi ngày bằng việc lãnh nhận Thánh Thể. Nếu tôi đặc biệt cần đến ánh sáng và sự khôn ngoan để thực thi các phận sự nặng nề của tôi, tôi sẽ đến bên Đấng Cứu Độ, mong tìm được lời khuyên và ánh sáng của Người.”
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Ngài luôn quan phòng và tiền định những điều tốt lành nhất để chúng con được sống dồi dào trong sự sống của Ngài. Xin giúp chúng con luôn biết chia sẻ chính tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con cho mọi người, bất kể đó là ai. Xin giúp chúng con biết thể hiện lòng thương xót đúng Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Thiếu ăn thiếu mặc, không tiền, không địa vị, luôn bị xếp vào tình trạng nghèo, khó khăn…., nhưng đói nghèo, túng thiếu mà bị liệt vào số phận những “người bất hạnh”, chắc chắn là không đúng rồi. Vào dịp cuối tháng 7 hàng năm, các phương tiện truyền thông báo chí, luôn đưa tin các thủ khoa, á khoa đậu đại học là con nhà nghèo, mồ côi cha, mồ côi mẹ…. Như thế, đâu phải cứ túng thiếu nghèo khổ là không “có cửa” thành danh, là khó đạt tới hạnh phúc ? Chẳng ai muốn mình bị thất bại trong cuộc đời, cũng không ai muốn mình sẽ nghèo mãi, “ăn vay cả đời”. Nói gì thì nói, kinh nghiệm luôn cho ta thấy : người hạnh phúc không phải chỉ là người giầu có địa vị; người thành công không nhất thiết phải là người tài trí thông minh.
No cơm ấm áo là mơ ước chính đáng của người nghèo, bận tâm của người khôn ngoan là làm gì để được no thỏa cả tinh thần lẫn thể chất. Đói cơm bánh hay đói tình thương, đều cần được giúp đỡ sẻ chia. Đối tượng được Thiên Chúa yêu thương cứu độ là tất cả mọi người, chứ không phải chỉ một số người tội lỗi hay đã thánh thiện. Chúa Giêsu hé mở cho các môn đệ là Chúa dư khả năng để đáp ứng được nhu cầu cơm bánh cho đám đông, nhưng không vì thế mà chút tình người nơi các ông bị khép lại.
Rất nhiều người hôm nay có bằng cấp nhiều, tiền của dư thừa, nhưng họ vẫn than thở sao tôi cô đơn, dường như cuộc sống của tôi còn thiếu 2 chữ “bình an” ! Biết bao người đã thuộc lòng tư tưởng hay của vĩ nhân : muốn thành công trên đường đời, phải làm chủ lấy thời cuộc; muốn làm chủ lấy thời cuộc phải làm chủ lấy những người xung quanh; và muốn làm chủ những người xung quanh ta phải làm chủ lấy chính mình. Xem ra chìa khóa thành công ở ngay trong “ý chí của mình”, hạnh phúc thật khởi đi từ tâm hồn của mình, vậy mà người ta cứ lòng vòng kiếm tìm thật vất vả đáng thương !
Thiên Chúa cho dân người ăn mà không phải trả tiền : là ý tưởng mà Isaia đã nhận ra, đã quả quyết từ xưa, được diễn tả nơi bài đọc 1. Ngôn sứ mời gọi tất cả mọi người: có tiền cũng như không có tiền, đều đáng được bồi bổ tinh thần thể xác, được no say hạnh phúc. Thực tế hơn, con người cần sự khôn ngoan, biết phân biệt thứ lương thực nào ích lợi cho tâm hồn và thể xác, thức ăn nào nuôi sống và ăn vào sẽ không phải chết. Bài đọc 2, Thánh Phaolô chắc chắn bằng cảm nghiệm nơi bản thân, được Thiên Chúa yêu thương, cho nên dẫu ngài phải chịu nhiều lo lắng, buồn phiền, bắt bớ, đói khát, trần truồng, tiêu diệt, ngài vẫn thốt lên : “Không gì có thể ngăn cản được lòng tôi đừng tin vào Thiên Chúa.”
Người Việt Nam chúng ta có câu : “của cho không bằng cách cho”, cho như thế nào để người nhận không bị tự ái, cho như thế nào, để vợ con hiểu và vui mừng vì việc làm của chồng, của bố thật đáng tự hào ? Trong khi các môn đệ không có tiền, không có điều kiện để đi vào các làng mạc mà mua bánh cho Thầy, cho mình ? Giải pháp hữu hiệu nhất tưởng là cho đám đông tan hàng, ai về nhà đó, cơm bánh của ai tự người ấy lo, ít là không gây phiền hà cho Thầy.
Theo suy nghĩ của các môn đệ, của đám đông dân chúng, Chúa Giêsu tài giỏi, nhiều quyền năng, nghĩ như vậy thì không sai ! Góp ý của các môn đệ nên giải tán đám đông có để lại ấn tượng gì không ? Chúa Giêsu lại cần mỗi người đều phải thể hiện niềm tin của mình vào Thiên Chúa, mọi người đều phải diễn tả được tình yêu thương và niềm hy vọng cho anh chị em của mình.
Ngày hôm nay, hàng giáo sĩ, tu sĩ không thể dùng năm chiếc bánh và hai con cá để đáp ứng cho hơn năm ngàn người ăn no nê; tuy nhiên bằng sự hiểu hiết, bằng sự tận tình yêu thương phục vụ, biết bao tấm lòng đang được ấm lên trong sự thông hiệp với tình yêu Giêsu ! Ngày hôm nay, tiền của vật chất vẫn là qui ước để giao dịch mua sắm; ấy vậy, chỉ có có tình yêu mới cảm hóa được lòng người, chỉ khi tình yêu được no thỏa, tâm hồn người ta mới hết lạnh lẽo, trong mọi tương quan sẽ không còn cảm thấy cô đơn nữa.
Quan niệm tôn giáo thời Chúa Giêsu, người chủ gia đình, người chủ tọa trong các buổi hội họp, phải là người có trách nhiệm diễn tả tình tình yêu thương của Thiên Chúa cho mọi người. Chủ trương của Chúa Giêsu, ai đến với Chúa sẽ có niềm vui, được no thỏa hạnh phúc, không lẽ nào đám đông dân chúng đến nghe giáo huấn của Chúa tâm hồn rỗng, bụng đói mà phải về không như thế ? Đi tìm kiếm Chúa, đến gặp Chúa Giêsu, mọi người sẽ thấy rõ hơn như thế nào là : vui lòng khách đến vừa lòng khách đi. Nào các bạn hãy mạnh dạn đến với Chúa, thưa chuyện với Chúa, chắc chắn mỗi người còn được thu hút cách đặc biệt hơn nữa, vì Chúa là nguồn yêu thương. Amen.
ĐÓI NGHÈO TRONG TÂM HỒN VÀ LƯƠNG THỰC CỨU ĐÓI
Theo thống kê của ngân hàng thế giới, trong khi con số những người giàu nhất thế giới có tăng đôi chút, thì ngược lại, con số những người nghèo lại tăng gấp nhiều lần mỗi năm. Thống kê cũng cho biết, mỗi ngày trên thế giới có hàng chục ngàn người chết đói, và hàng năm, con số người chết lên đến hàng triệu. Theo tiêu chí của ngân hàng thế giới, người nghèo là người có thu nhập bình quân một ngày dưới 1$ (20.000đ). Theo tiêu chí này, thì Việt Nam là một trong những quốc gia đói nghèo. Tuy nhiên gần đây, Việt nam cũng có hơn 100 người được xếp vào hạng giàu trên thế giới, có những người ăn sáng bằng một tô phở ở Hà Nội với giá 700 ngàn ; bên cạnh đó, nhiều người không kiếm nổi 10 ngàn một ngày. Có những người một bữa nhậu đãi nhau hết cả chục triệu, và bên cạnh đó có những người khác bữa đói, bữa nhịn.
Vấn đề nghèo đói lương thực luôn là vấn đề trầm trọng nơi nhiều quốc gia, nhiều gia đình. Bên cạnh đó, còn một tình trạng đói nghèo khác, đó là đói nghèo trong tâm hồn : đói tình yêu, nghèo hạnh phúc, thiếu niềm vui, thiếu bình an ; dư thừa của cải nhưng tâm hồn trống rỗng, nghèo đói… Tình trạng đói nghèo này có khi còn trầm trọng và gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người nhiều hơn là thiếu đói cơm áo.
Thiếu đói cơm áo, người ta có thể chờ đợi sự trợ giúp của các nhà hảo tâm hoặc của các quốc gia giàu có, nhưng việc thiếu đói trong tâm hồn, thì chỉ có Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn cho chúng ta, mà mỗi người phải tìm đến với sự trợ giúp này. Thiên Chúa là Đấng đầy tràn hạnh phúc và bình an. Ngài nhìn thấy sự đói khát trong tâm hồn và thể xác của con người. Ngài sẵn sáng đáp ứng mọi sự đói khát và thiếu thốn của con người, chỉ với một điều kiện duy nhất là hãy đến mà lãnh nhận.
Qua miệng tiên tri Isai, Thiên Chúa mời gọi : Hãy đến, hỡi tất cả những người đang khát, hãy đến…dầu không có tiền, cứ đến mà dùng, đến mua rượu mua sữa không phải trả đồng nào… Hãy chăm chú nghe lời ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với ta, các ngươi sẽ được sống. Như vậy, lương thực Thiên Chúa ban trước hết không chỉ ăn bằng miệng, nhưng còn là “ăn bằng tai”. Những ai nghe và thực hành Lời Chúa truyền dạy thì sẽ được no thỏa ân phúc, tìm được bình an, và Lời Chúa sẽ thỏa mãn sự khao khát, thiếu đói trong tâm hồn con người.
Nếu như tiên tri Isai nói đến một thứ lương thực “ăn bằng tai”, thì khi Chúa Giêsu đến, Ngài vừa mời gọi những người đi theo Ngài nghe và tuân giữ lời Ngài, vừa còn đáp ứng cái đói thể xác bằng bánh và cá. Hơn nữa, Ngài còn làm no thỏa cái đói trong tâm hồn bằng một thứ lương thực đặc biệt, đó là máu và thịt Ngài. Tin Mừng hôm nay kể lại : Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài mấy ngày trong hoang địa để nghe lời Ngài, Ngài chạnh lòng thương.
Chạnh lòng thương có nghĩa là để cho trái tim mình rung nhịp trước đau khổ của người khác. Đám đông không chỉ bơ vơ, đói khát thể xác mà còn bị sự dày vò bởi bệnh tật và đau khổ, nghĩa là theo quan niệm lúc bấy giờ, họ đang bị trói buộc bởi ma quỷ, tội lỗi. Thấy thế, Chúa đã ra tay chữa lành bệnh tật thể xác và đau khổ tâm hồn của họ.
Buổi chiều hôm đó, thấy một đám đông đang có nguy cơ đói lả, các tông đồ cảm thấy bất lực trước một nhu cầu quá lớn là lo cho cả ngàn người ăn. Vì thế, các ông đã muốn chọn một giải pháp dễ dãi, thoái thác trách nhiệm nên các ông nói với Chúa : Thưa Thầy, đã muộn rồi, ở đây lại thanh vắng, chúng ta nên giải tán đám đông, để họ tự đi mua thức ăn. Chúa Giêsu đã không đồng ý với giải pháp đó. Ngài ra lệnh cho các tông đồ : Chính anh em hãy cho họ ăn. Các tông đồ, với sự giới hạn của mình, dường như bó tay trước nhu cầu quá lớn như thế. Các ông đã thưa với Chúa về giới hạn nhỏ bé của mình : Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, tức là chỉ đủ cho một phần ăn.
Đối với Chúa Giêsu, ít hay nhiều không quan trọng, nhưng quan trọng là các tông đồ có dám nhường phần ăn của mình cho người khác hay không, phần còn lại Chúa sẽ làm. Thế là chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá do sự quảng đại chia sẻ của con người, Chúa Giêsu đã cầm lấy…, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ trao cho đám đông. Chi tiết này cho thấy, một lần nữa, Chúa Giêsu lại muốn có sự cộng tác quảng đại của các tông đồ. Chúa trao cho các ông để các ông tiếp tục trao cho người khác. Như thế lương thục, của ăn cứ liên tục được trao tặng qua các môn đệ, phục vụ đến mọi người, và sẽ mãi là như thế.
Từ năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ là đóng góp của con người, cùng với sự cộng tác của các môn đệ, Chúa Giêsu đã nuôi năm ngàn người ăn no mà vẫn còn dư thừa đến mười hai giỏ đầy bánh vụn. Phép lạ này được thực hiện để báo trước một phép lạ lớn lao hơn, đó là phép lạ Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện. Ngài đã biến máu thịt mình nên của ăn nuôi dưỡng nhân loại. Với phép lạ Thánh Thể tại nhà tiệc ly và vẫn còn kéo dài đến ngày nay, Đức Giêsu cũng vẫn đang cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói : Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, mà uống, vì này là mình và máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em, hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Với việc biến mình trở nên lương thực làm của ăn, của uống cho con người, Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn mọi đói khát thể xác và tâm hồn cho con người mọi thời và mọi nơi. Chỉ nhưng ai đến lãnh nhận lương thực này, ăn mình và uống máu Ngài, thì sẽ không bao giờ còn bị các cơn đói khát, thèm muốn của thế gian đe dọa nữa. Nói như thánh Phaolô trong bài đọc hai : Khi gắn bó với Đức kitô qua việc nghe Lời Ngài và ăn lương thực của Ngài ban tặng, thì không một đau khổ, nghèo đói nào có thể làm lung lạc tinh thần của chúng ta : Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô, dù là gian truân khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Tức là tất cả những nghèo đói, thèm khát, đau khổ của thế gian sẽ không làm gì được chúng ta, một khi chúng ta ở trong tình yêu với Chúa Giêsu.
Thưa quý OBACE, trong chúng ta, có những người đang nghèo túng của ăn, cơm áo. Bên cạnh đó, có rất nhiều người giàu của cải nhưng lại đang nghèo đói tinh thần. Có nhiều gia đình thèm muốn có một bữa ăn xum họp cả nhà mà không được ; có nhiều gia đình mong một ngày yên ổn không cãi vã, không to tiếng mà cũng không tìm ra ; có những người quá mệt mỏi với công việc, mong được một ngày nghỉ ngơi, thoát khỏi những lo toan cũng không thể… và nhiều người khác, tuy ngoài miệng vẫn cười, mà lòng đầy nước mắt và sự bất an. Nhiều bạn trẻ đang khao khát tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc và tìm cho mình một hướng đi, một mục đích sống… Tất cả những khát khao đó là những hình thức của đói khát tinh thần ngày nay. Chắc chắn rằng, con người, xã hội và của cải không thể làm nguôi cơn đói ấy. Chỉ có một Đấng có thể thỏa mãn cho chúng ta đó là Thiên Chúa. Chỉ có một thứ lương thực có thể xoa dịu mọi khát khao của con người đó là Lời của Chúa và Tin Mừng của Ngài. Chỉ có một thứ lương thực cứu đói và gia tăng sức mạnh đó là Mình và Máu Chúa Giêsu được trao ban trong thánh lễ mỗi ngày.
Vì thế, mỗi người, mỗi gia đình hãy tìm đến để lãnh nhận lương thực kỳ diệu này mỗi ngày. Hãy ăn bằng tai những lời dạy bảo của Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thấm nhập và chi phối cuộc sống và hướng dẫn hành động của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ không còn khát khao điều gì nữa, vì Lời Chúa chính là lương thực cho chúng ta. Hãy siêng năng đến với Bí Tích Thánh Thể qua thánh lễ mỗi ngày. Hãy lãnh nhận và ăn mỗi ngày thứ lương thực thần linh này, Chúa sẽ bổ sức cho cuộc đời chúng ta, sẽ dập tắt mọi khát khao thấp hèn của con người và hướng chúng ta đến sự khao khát thánh thiện, khao khát hạnh phúc đời đời.
Một khi được đón nhận lương thực từ tay Chúa, chúng ta còn có bổn phận tiếp tục chia sẻ cho những người bên cạnh. Hãy quảng đại như các mộn đệ xưa, dâng cho chúa cả phần ăn mà chúng ta phải sử dụng để Chúa dùng sự quảng đại nhỏ bé của chúng ta, mà nuôi dưỡng nhiều anh em khác nữa. Hãy dâng cho Chúa không chỉ những của ăn hay những thứ dư thừa, mà hãy dám dâng cho Chúa cả những cái chúng ta đang cần. Chúa đang chờ đợi sự công tác của chúng ta để xoa dịu nỗi đau khổ, đói khát của anh em. Không chỉ dâng tặng cho Chúa những của cải vật chất, mà còn dâng cho chúa những sự hy sinh, lời cầu nguyện và những việc lành, việc tốt âm thầm. Chúa rất vui lòng đón nhận những của hy sinh đó để đem lại ân phúc cho người thân, cho gia đình chúng ta và cho nhiều anh chị em khác nữa. Xin cho chúng ta luôn biết noi gương Mẹ Maria, mở rộng tâm hồn để Chúa lấp đầy mọi thiếu thốn, nghèo đói của thân phận con người và biến chúng ta trở nên những con người no thỏa ân phúc của Chúa. Amen.
.
Có đứa trẻ nói với cha rằng: “cha ơi, con muốn sau này con sẽ thay đổi cả thế giới”. Người cha ôn tồn bảo con: “con phải học thật giỏi hôm nay thì mới hy vọng ngày mai giúp đời”.
Hóa ra muốn thay đổi thế giới không phải là chờ lớn lên mới làm mà phải bắt đầu từ ngày hôm nay. Sự trau dồi kiến thức, sự học hành là điều tối thiểu để có khả năng giúp đời mai sau.
Có một cậu bé vào tập việc trong một tiệm sửa xe đạp, có người khách đem đến một chiếc xe đạp hư, cậu bé không những sửa lại cho thật tốt, mà còn lau chùi chiếc xe cho sạch đẹp. Những người đang học việc khác cười nhạo cậu bé đã dại dột, đã chẳng được thêm chút tiền công nào lại còn tốn sức. Hai ngày sau, người khách trở lại, thấy chiếc xe đạp vừa tốt vừa đẹp như mới mua, cậu bé liền được người khách nhận đưa về hãng của ông ta để làm việc với mức lương cao.
Hóa ra để thành đạt trong đời thật đơn giản, chỉ cần tận tụy với công việc trước mắt, đôi khi chịu thiệt thòi một chút sẽ giúp ta thành công.
Có một thanh niên đến xin làm môn đệ của một vị hiền triết liền được vui vẻ chấp nhận. Lúc ấy có một người phong hủi lầm lũi bước ra. Nhà hiền triết liền nói với đồ đệ: “Con hãy đến giúp người phong hủi này tắm rửa cho sạch sẽ đi.” Người đồ đệ trố mắt ngạc nhiên: “Con là môn đệ của ngài, sao lại có thể đi phục vụ một con người bẩn thỉu như thế chứ ?” Nhà hiền triết bảo: “Con không đi phục vụ kẻ khác, thì kẻ khác làm sao biết được con là… môn đệ của Ta ?
Hóa ra học hành tập luyện để nên giống thầy mình thật đơn giản, chỉ cần đem lòng thành thật ra mà phục vụ hết mình là được rồi.
Các môn đệ của Chúa khi thấy biển người bao la đã thấm đói và khát vì suốt một ngày phơi nắng nơi vùng đồng quê hẻo lánh. Rồi trời lại sắp tối. Các ông đã “bàn” rất hợp lý với Đức Giêsu rằng “lực bất tòng tâm”, tốt nhất là giải tán dân chúng để họ đi mua thức ăn! Nhưng Chúa Giêsu đã bảo họ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính chúng con hãy cho họ ăn đi.”. Các ông bàng hoàng sửng sốt vì biết đào đâu ra thức ăn cho bằng ấy ngàn người? Các ông đã thưa với Chúa: “Ở đây chúng con chỉ vỏn vẹn có năm cái bánh và hai con cá!”. Ấy thế mà khi đã đưa cho Chúa rồi thì “ai nấy đều ăn no nê” .
Hóa ra phép lạ không bỗng dưng mà có. Phép lạ chỉ xảy ra qua sự nỗ lực của con người, và Thiên Chúa hoàn tất những nỗ lực ấy theo thánh ý của Ngài.
Nhiều người chúng ta luôn ao ước có thể góp sức làm thay đổi thế giới. Chúng ta ao ước có thể làm những chuyện phi thường, những chuyện siêu phàm để mang lại hạnh phúc cho con người. Thế nhưng, điều ấy sẽ không bao giờ xảy ra vì chúng ta chỉ là người phàm nên chăng chỉ có thể làm những chuyện bình dị mà thôi! Điều mà chúng ta có thể làm thay đổi cả thế giới này là bằng chính những hành động nhỏ nhặt nhất của mình, những công việc của bổn phận, những công việc của tự nguyện hy sinh vì lợi ích tập thể đều là những công việc góp phần thay đổi thế giới. Vâng chúng ta chỉ cần làm một việc nào đó với tất cả sự yêu thương và tình cảm chân thành là chúng ta đang làm vơi đi những khổ đau, những gánh nặng cho tha nhân.
Khi chung tay giúp đỡ người khác chỉ với một hành động nhỏ thôi chúng ta cũng làm nên những điều to lớn đối với người nhận được sự giúp đỡ và cả những người xung quanh.
Giáo xứ chúng ta mỗi tháng ban Caritas đều đến thăm hỏi hơn 100 gia đình già, neo đơn, nghèo và chia sẻ cho họ một chút gạo trong chương trình chén gạo tình thương. Một chút gạo chẳng là bao nhưng mang nặng cả một tình yêu đùm bọc của giáo xứ dành cho người nghèo. Chén gạo của từng người tuy nhỏ nhưng được gom vào tay Chúa đã đem lại rất nhiều niềm vui cho người nghèo.
Thế nên, hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ nhặt nhất để thay đổi cuộc sống của chính mình và những người xung quanh. Nhiều người với những hành động nhỏ nhặt của mình đã làm thay đổi cả thế giới. Mẹ Tê-rê-sa thành calcutta là một ví dụ. Và hôm nay Đức Giáo Hoàng Phanxico vẫn đang là tấm gương phản chiếu tình yêu của Chúa qua những nghĩa cử bình dị mà ngài vẫn dành cho người nghèo, người bệnh tật . . .
Không cần làm những chuyện phi thường mà chỉ cần làm những việc nhỏ nhưng biểu lộ một tình yêu chân thành vẫn có thể làm vơi đi biết bao phiền muộn, đau khổ cho tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta luôn là những con người biết đóng góp phần nhỏ bé của mình để làm vơi những đau khổ, đói nghèo cho những người chung quanh. Amen
.
Ăn uống là “đệ nhất khoái” trong tứ khoái của con người, ăn cũng là điều phải học đầu tiên trong đời của mỗi con người: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Thật lạ, ngay cả trong kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối”, việc ăn uống cũng được coi là “mối thương” hàng đầu: “Thứ nhất: cho kẻ đói ăn, thứ hai: cho kẻ khát uống”. Điều đó cho thấy rằng việc ăn uống là nhu cầu cấp bách theo bản năng sinh tồn của con người. Trước tiên, người ta lo sao cho “ăn no, mặc ấm”, sau đó người ta cố gắng sao cho “ăn ngon, mặc đẹp”.
Có no cái bụng, không phải lo về những điều cơ bản nhất, rồi người ta mới lo những thứ khác. Quả thật, người ta vẫn thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Khi đói, Thằng Bờm không cần bất cứ thứ gì khác, dù đó là những thứ sang trọng hoặc quý giá, mà chỉ cần “nắm xôi”. Thế thôi. Người Anh diễn tả đơn giản:“That’s ALL”. Vâng, chỉ có nắm xôi mới có thể giải quyết nhu cầu cấp bách của cái bụng lúc đó.
Vì biết được nhược điểm của con người như vậy, có những người ác tâm đã lợi dụng người nghèo đói để bắt họ làm theo ý đồ xấu của mình bằng cách cho họ ăn uống. Miếng ăn là quan trọng, nhưng miếng ăn cũng có thể là VINH hoặc NHỤC.
Ở đời, chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Quyền lợi cơ bản là “miếng ăn”. Bất ngờ thấy ai cho mình cái gì thì cũng rất có thể họ muốn nhờ vả mình cái gì đó, chứ đâu dễ gì họ cho mình “ăn không”. Miếng ăn có điều kiện chứ không vô điều kiện hoặc miễn phí. Theo lẽ thường, nếu có cho ai cái gì thì người ta chỉ cho những gì thừa, nghĩa là chỉ ở mức “bố thí” chứ chưa được là “công bằng”, đừng nói chi “bác ái”. Quả thật, “chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18; Lc 18:19). Kinh nghiệm sống đã và đang cho chúng ta biết rõ như vậy.
Thiên Chúa nhân lành mời gọi tất cả mọi người, không trừ ai: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55:1). Cứ đến “mua” mà không phải trả tiền. Một dạng “mua bán” rất kỳ lạ, đó là “mua” bằng giá trị của niềm-tin-chân-thành.
Trong cuộc sống đời thường, người ta có thể bỏ ra bạc triệu hoặc bạc tỷ để mua những thứ người ta ưa thích, dù ăn được hay không. Có những món ăn rất đắt, thuộc loại đắt nhất hành tinh. Ví dụ: Nấm trắng Alba của Ý có giá 160.406 USD/1,5 kg (khoảng 3,4 tỷ VNĐ), trứng cá muối Almas ở vùng biển Caspian có giá 25.000 USD/hộp (khoảng 530 triệu VNĐ), hoặc dưa lưới Yabari có giá 22.872 USD/quả (khoảng 486 triệu VNĐ). Những món này chúng ta có mơ cũng chẳng thấy được. Cỡ “đại gia” hạng bình thường ở Việt Nam cũng sẵn sàng uống những chai rượu có giá vài triệu đồng. Người ta biện hộ rằng làm như vậy để “chơi” cho biết, “chơi” cho thiên hạ “lé mắt”. Dù gì thì cũng thật là lãng phí quá!
Vì thế, Thiên Chúa đặt vấn đề: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?” (Is 55:2a). Lương thực chỉnuôi sống phần xác chứ không thể nuôi sống linh hồn, thế mà người ta vẫn dám bỏ ra số tiền lớn để chỉ được thưởng thức cho khoái khẩu. Điều đó cho thấy ăn là điều thú vị lắm. Người ta chỉ lo đói thể lý mà không sợ đói tinh thần, đặc biệt là đói linh hồn. Đúng là tự mâu thuẫn và… dại dột quá!
Với lòng nhân hậu, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi: “Hãy chăm chú nghe Ta thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị” (Is 55:2b). Lời mời gọi đó không chỉ là lời mời gọi bình thường, mà còn mang tính mệnh lệnh và thực sự có lợi cho người được mời: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít” (Is 55:3).
Thiên Chúa rất hào phóng, luôn ban cho những điều tốt lành cho cả xác và hồn mà lại hoàn toàn miễn phí. Chúng ta lãnh không ngừng nhận và nhận nhiều mà vẫn vô ơn bội nghĩa, thế nhưng Ngài vẫn làm ngơ, không chấp. Tại sao? Bản chất Ngài là tốt lành, là yêu thương, là thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145:8-9). Thật lạ, Ngài không chỉ nhân hậu với “động vật cấp cao” là con người, là chúng ta, mà Ngài còn “nhân hậu với muôn loài” mà Ngài đã dựng nên.
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rõ. Có những lúc chúng ta chưa xin, hoặc xin được rồi mà lại “phủi tay”, kiểu “qua cầu rút ván”, như chuyện “mười người phong hủi được sạch, nhưng chỉ có một người Samari trở lại cảm ơn Chúa” (Lc 17:11-18), ấy thế mà Ngài vẫn không bỏ đói chúng ta bữa nào. Chúng ta có thấy mình quá tệ? Ước gì mỗi chúng ta biết kịp nhận thức như tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Tv 145:15-16). Thiên Chúa toàn năng, không gì là không thể, Ngài vô cùng đại lượng và nhân hậu, nhưng cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:17-18).
Cái NGHÈO luôn đi đôi với cái KHỔ, nhưng cái khổ chưa chắc là tại cái nghèo, vì có những người giàu mà vẫn khổ. Cái nghèo và cái khổ có thể là MỐI PHÚC đối với người này, nhưng lại có thể là MỐI HỌA đối với kẻ khác. Có những người “đói ăn vụng, túng làm liều”, nhưng cũng có những kẻ “nhàn rỗi sinh nông nổi”. Người ta có đủ cách để tự biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Phải thực sự tin mến Chúa thì mới không bị chao nghiêng trước nghịch cảnh. Để nhận biết mình ở mức độ nào trong hành trình tâm linh, chúng ta hãy tự trả lời thật lòng với câu hỏi của Thánh Phaolô:“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:35).
Chắc chắn không dễ trả lời. Và đây, Thánh Phaolô hiến kế cho chúng ta: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:37-39). Đó là biết lo cho cái đói của linh hồn. Ai sống kiên tâm được như vậy thì thật là đại phúc!
Chúa Giêsu lo chúng ta bị đói cả thể lý lẫn tinh thần. Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Mt 14:13-21) kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất (cũng được tường thuật ở Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; và Ga 6:1-14) mà Chúa Giêsu đã làm vì “chạnh lòng thương” dân chúng.
Nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hê-rô-đê ra lệnh chém đầu vì vua lỡ hứa dại với con gái của bà Hê-rô-đi-a, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó và đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành vẫn nườm nượp đi bộ mà theo Ngài. Ra khỏi thuyền, Ngài trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Hoàng hôn buông nhạt nắng, chiều gần chạm vào đêm, cái bụng ai cũng đang đánh lô-tô, nghĩa là đến giờ ăn tối rồi. Có lẽ các môn đệ cũng thấy “bụng reo” rồi, nên lại gần thưa với Sư Phụ Giêsu: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14:15). Nhưng Ngài bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14:16). Ui da, “căng” thật đấy! Có lẽ lúc này nhìn các ông “tội nghiệp” lắm. Họ nhìn nhau, vừa gãi đầu vừa nói: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” (Mt 14:17). Mèn ơi, đó là đồ ăn thằng nhỏ mang đi phòng thân, mà có nhiêu đó thì nhằm nhò gì với đám đông như kiến thế kia chứ?
Nhưng Sư Phụ Giêsu thản nhiên bảo họ: “Đem lại đây cho Thầy!” (Mt 14:18). Rồi Ngài truyền cho dân chúng “ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6:39). Sau đó, Ngài cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và Ngài bảo các môn đệ phân phát cho dân chúng cùng ăn.
Thánh sử Mát-thêu cho biết chi tiết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” (Mt 14:20-21).
Phép lạ này được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống thể xác dân chúng. Phép lạ vĩ đại nhất và quan trọng nhất được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống linh hồn chúng ta là Phép lạ Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể vừa là thấn lương vừa là linh dược. Phép lạ vĩ đại này hằng ngày vẫn xảy ra khắp nơi trên thế giới, thế nhưng người ta lại thích đua nhau đi tìm các “sự lạ” khác ở nơi này hoặc nơi nọ. Thật là mâu thuẫn quá, thế mà vẫn nói rằng “tôi tin”. Đức Tin như vậy có lẽ rất cần “xét lại” lắm đấy!
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Chúa luôn ban cho lương thực nuôi xác dưỡng hồn để chúng con được sống dồi dào. Xin giúp chúng con sống Đức Tin cụ thể là biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con, biết TẠ ƠN Ngài, rồi BẺ RA và TRAO CHO tha nhân, nhất là đối với những người nghèo khổ và hèn mọn, vì nhu cầu của họ rất cấp bách. Như vậy thì chúng con mới sống Luật Chúa, biết chạnh lòng thương, biết sống yêu thương và thể hiện lòng thương xót theo Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
.
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng.
Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.
Chúa làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ.
Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: “Hãy đổ nước đầy các chum!” (Ga 2, 7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon “ra khơi mà thả lưới đánh cá” (Lc 5, 4 -7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy: “Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6, 38). Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích đào tạo lòng tin của các môn đệ.
Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Ngài đối với dân chúng “vì họ như cừu chiên không người chăn giữ”. Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Ngài là vị Mục tử mà ngôn sứ Êdêkien đã nói đến (x. Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Ngài là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẻ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại.
– Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14, 20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng” (Mc 14, 22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (x. Lc 24, 30) và của Giáo hội (x. Cv 2, 42).
– Được bánh ăn, dân chúng muốn “bắt lấy Ngài tôn lên làm vua” (Ga 6, 15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống, chính là “Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
– Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
Các anh có mấy chiếc bánh? (Mc 6, 38), đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi, vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
Bánh Lời Chúa:
“Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ” (Dt1, 1).
Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo hội hôm nay “Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9, 2). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ “Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6, 2) và chính Thánh Phaolô kêu lên “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Thế là con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá, con người yếu đuối công bố Lời quyền năng, con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao!
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng “do nhân” (ex opere operantis), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử hành phụng vụ. Đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo hội bời Thừa tác viên chính thức.
Lời Bí Tích mang hiệu năng “do sự” (ex opere operato), qua các bí tích, Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm, nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần” (1 Cor 12, 3) và “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công” (Tv 127, 1).
Các Con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa, chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời, cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa, vừa là một hồng ân, vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.
Bánh Thánh Thể:
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người.
Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh, chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui, ta uống chén rươụ mừng, nhưng khi buồn, ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu, là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Đến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng, là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn.
Linh mục đọc Lời Truyền Phép là lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ, để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó, tham dự thánh lễ cách đầy đủ, tích cực, trọn vẹn với tất cả con người, là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaiviê Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. (Đường Hy Vọng #349).
Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ (GLCG 1068).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” (PV 2) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!
.