Lời Chúa: 2V 4,42-44; Ep 4,1-6; Ga 6,1-15
——-
1. Hãy cho họ ăn! (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Tình và lý (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Phép lạ của tình liên đới (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
4. Với năm chiếc bánh và hai con cá (Lm. Thái Nguyên)
5. Thế giới hôm nay đang rất cần tình liên đới (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Người thấy họ đói (Bông Hồng Nhỏ, Học viện Thủ Đức)
7. Chút lòng đơn sơ (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)
8. Điều không thể thành điều có thể (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
9. Phép lạ hóa bánh tiên báo Bí tích Thánh Thể (Lm. Trần Bình Trọng)
10. Tràn đầy yêu thương (Lm. Vũ Đình Tường)
11. Thực tế (Trầm Thiên Thu)
12. Thiên Chúa có thích thử thách con người không? (Giuse Trần Văn Ngữ, SJ)
13. Đức Giêsu là Đấng Hằng Sống từ trời (Lm. Nguyễn Ngọc Dũng, SDB)
14. Cơn đói và sự khỏa lấp (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
15. Vững như kiềng ba chân (Lm. Dương Trung Tín)
1. Hãy dọn cho họ ăn (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Đào tạo trái tim (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Năm chiếc bánh và hai con cá (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Đừng bỏ lỡ cơ hội (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Dâng Chúa tất cả (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Một chút thôi (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Thế giới đang rất cần tình yêu chia sẻ (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Hóa bánh (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
9. Năm chiếc bánh (Lm. Nguyễn Thái)
10. Các con hãy cho họ ăn (Lm. Đinh Lập Liễm)
11. Không làm một mình (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
12. Anh em hãy cho họ ăn (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
13. Được ăn no nê (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
14. Suy niệm Chúa Nhật 17 Thường niên_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
15. Suy niệm Chúa Nhật 17 Thường niên_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
16. Đệ nhất khoái (Trầm Thiên Thu)
17. Chia sẻ tấm bánh tình người (Lm. Đan Vinh)
18. Niềm vui (Lm. Peter Tran)
19. Con mơ ước (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
20. Cuộc đời có Đức Giêsu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
21. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 17 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
22. Không là Con Người, thì là Con Cóc (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
23. Thương thì cho bánh cho Lời (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
24. Tính toán! (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
25. Xây dựng phúc lợi cộng đồng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
26. Thánh Thể nguồn sống (Lm. Laurensô Phan Ngọc Bích)
27. Nhu cầu thiết yếu (JM. Lam Thy, ĐVD)
28. Thiên Chúa nuôi dưỡng dân Người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
29. Chúa Nhật 17 Thường niên_B. (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)
30. Chúa Nhật 17 Thường niên_B (Lm. Antôn)
31. Tình yêu hiệp thông (Lm. Giuse Nguyễn)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Nội dung của Bài đọc I trích sách Các Vua và Bài Tin Mừng Thánh Gioan của Phụng vụ Chúa nhật này cùng chung một đề tài, đó là “Bánh”. Cả hai trình thuật cùng có chung một cấu trúc văn chương. Trước hết là lệnh truyền: “Hãy cho họ ăn!”; tiếp theo là sự băn khoăn về số bánh thì quá ít mà số người có nhu cầu thì quá đông; và sau cùng là điều kỳ diệu đã xảy ra: đó là phép lạ nhân bánh ra nhiều. Sách Các Vua nói đến người làm phép lạ là ngôn sứ Elisê; Tin Mừng kể lại, người làm cho bánh hoá ra nhiều là Chúa Giêsu. Cả hai trình thuật đều nhấn mạnh đến quyền năng của Thiên Chúa. Tuy vậy, nếu trong Cựu ước, quyền năng của Thiên Chúa thể hiện qua lời cầu nguyện của một vị ngôn sứ, thì trong Tân ước, chính Thiên Chúa hiện diện nơi trần thế và thực hiện những điều huyền diệu. “Hãy cho họ ăn!”. Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các môn đệ. Kitô hữu là môn đệ của Chúa Giêsu, vậy nên lệnh truyền ấy vẫn đang mang tính thời sự trong cuộc sống của chúng ta.
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự mọi loài. Ngài ban cho trái đất có đủ tiềm năng để nuôi sống nhân loại. Nếu trên thế giới, còn có những người nghèo đói, là vì do sự phân phối của cải vật chất không đồng đều. Tại một số quốc gia phát triển, người dân quá lãng phí vật chất, trong khi ở những quốc gia nghèo, nhiều người thiếu ăn. Nguyên nhân nghèo đói cũng do một số quốc gia sử dụng quá nhiều tiền bạc đầu tư cho chiến tranh và vũ khí nguyên tử để phô trương sức mạnh và mở rộng ảnh hưởng trên chính trường. Vì vậy, để giải quyết gốc rễ của nạn nghèo đói, con người phải biết chia sẻ và có trách nhiệm với nhau và phải tôn trọng tài nguyên trong vũ trụ.
Cũng như ông Philiphê, chúng ta băn khoăn không biết phải làm thế nào để cung cấp bánh cho số đông những người theo Chúa. Bởi lẽ khả năng con người thì giới hạn, mà nhu cầu xung quanh ta thì quá nhiều. Lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá là số lượng quá ít so với nhu cầu của đám đông. Tuy vậy, khởi đi từ một chút nhỏ nhoi này, điều kỳ diệu đã xảy ra: năm ngàn người ăn no và vẫn còn dư mười hai thúng. Khi lòng quảng đại và sự vâng lời của con người kết hợp với quyền năng của Thiên Chúa, thì phép lạ sẽ xảy đến. Như thế, trong cuộc sống hiện tại, nếu chúng ta biết chia sẻ cho anh chị em cơ nhỡ bần hàn, Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu, làm cho cuộc sống này đẹp hơn và của cải vật chât sẽ tăng thêm. Một câu ngạn ngữ châu Phi nói đại ý như sau: lòng bác ái như ngọn lửa, càng chia sẻ, lửa không mất đi, nhưng càng nhân rộng. Quả vậy, khi chia sẻ, ta không mất đi, trái lại tình nghĩa và cả vật chất cũng sẽ được nhân lên và toả sáng. Khi cho đi vật chất, ta nhận lại tinh thần, đó là niềm vui và sự an bình.
Khởi đi từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch, ngôn sứ Elisê đã có thể phân phát cho hàng trăm người đang đói, mà vẫn còn dư.
Khởi đi từ năm cái bánh và hai con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã thết đãi số đông tới năm ngàn người mà còn dư mười hai thúng.
Các tác giả Phúc Âm đều kể lại phép lạ Chúa nhân bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Ngay từ những thế kỷ đầu, cộng đoàn Kitô hữu đã nhận ra hình ảnh tiên báo của Bí tích Thánh Thể. Quả vậy, nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã làm cho bánh hoá ra nhiều để nuôi dân chúng là những người trung thành bền bỉ theo Người, thì hôm nay, qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng các Kitô hữu trong đời sống thiêng liêng. Đây là nguồn sức mạnh giúp chúng ta vững bước trên đường đời. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiến cho chúng ta chính bản thân Người. Thánh Thể là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là mầu nhiệm của tình thương Thiên Chúa đối với nhân loại.
Thánh Thể kết nối mọi người Kitô hữu. Vì được nuôi dưỡng cùng một Bánh, người Kitô hữu cũng phải trở nên một trong tình thương và bác ái chia sẻ. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Chỉ có một Chúa, một Đức tin, một Phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”. Sự kết nối kỳ diệu ấy được thực hiện nhờ Bí tích Thánh Thể. Như thế, chia rẽ phân biệt và ganh tỵ là đi ngược lại với ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Thể. Chính Chúa Giêsu hôm nay đang liên kết chúng ta nên một. Người vẫn đang truyền lệnh cho chúng ta: “Hãy cho họ ăn!”. Khi quảng đại chia sẻ và bác ái là chúng ta thực hiện lệnh truyền của Người.
Những ngày này, cả nước hướng về Sài Gòn và các tỉnh thành phía Nam, để cảm thông, cầu nguyện và chia sẻ tinh thần cũng như vật chất. Không thể kể xiết những tấm lòng nhân nghĩa, bằng muôn hình thức khác nhau, đã được thể hiện để chứng minh tình liên đới với đồng bào trong vùng dịch. Qua những tấm lòng tuyệt vời ấy, chắc chắn Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu cho chúng ta.
“Lạy Chúa, xin hãy mở lòng con để biết cảm thông với anh chị em bất hạnh.
Xin hãy mở mắt con để biết nhìn nỗi khổ của tha nhân
Xin hãy mở tay con để biết sẻ chia không tính toán.
Và như thế, con đang cùng Chúa làm nên những phép lạ diệu kỳ. Amen
Lm. Jos DĐH.
Tình là tình nhiều khi không mà có, tài hèn, giầu nghèo, chết cũng như nhau. Cuộc đời có quá nhiều phức tạp, lập trường vững chắc của ta có thể lung lay ; thông thái, ngốc nghếch, vô duyên, tài hoa, rồi cũng thế, bạn có tốt mấy, vẫn có kẻ ghét, đó là điều không ai tránh nổi ! Tìm no thỏa cho bản thân gia đình, lý sự hơn người để công bằng được hiện hữu, có hay không người tài được sử dụng, kẻ hết tình, hết mình vì yêu thương, sẽ sống mãi trong thế giới này ? Đâu phải tự nhiên, tiền nhân chúng ta nói lên được kinh nghiệm: chim khôn hót tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Ứng xử có tình có lý, làm việc có khoa học, sống đúng, sống đẹp, chuẩn mực đó, hầu hết mọi người đều cho rằng nhờ khôn ngoan: biết nói, biết sống hiền hòa, biết xả thân, do đó xác suất thành công bao giờ cũng cao hơn.
Đám đông dân Do-thái năm xưa đau khổ, túng thiếu, bệnh tật, họ nghe, họ thán phục khả năng hùng biện, tài năng chữa bệnh, trừ quỷ, tất nhiên có cả thành phần tìm theo Đức Giêsu vì tò mò, chỉ muốn được xem phép lạ. Mỗi chúng ta hôm nay, đang tìm gặp Đức Giêsu trong cầu nguyện, trong các cử hành phụng vụ, hy vọng không phải do muốn thấy phép lạ, đúng hơn là tình yêu, là niềm tin. Dù có toan tính hơn thiệt, dù được tự do chọn lựa tìm gặp Chúa vì tình hay vì lý, Đức Giêsu vẫn hé mở cho ta biết thế nào là yêu là thương: “Philiphê, Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn” ? Cư xử với anh chị em có lý có tình, luôn phản ánh 3 điều quan trọng: thứ nhất là sống tử tế, thứ hai là hành động tử tế, thứ ba là đang thực thi điều tử tế.
Một trăm cái lý không bằng một tí cái tình, một ngàn nỗi ưu tư lo lắng không bằng một giây tỉnh táo, ba năm sống với người đần, không bằng một phút sống gần người khôn. “Philiphê thưa: hai trăm bạc bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”. Từ trái tim, tình yêu thương luôn phát sinh điều kỳ diệu: năm chiếc bánh và hai con cá, lại đủ cho hơn năm ngàn người được ăn no. Thiên hạ nói: nhất lý nhì lỳ, trong đám đông, một số hạnh phúc vì mắt được thấy tai được nghe, số khác có thể nghĩ, ai sao ta vậy, “cái tình” nơi Đức Giêsu đã vượt lên tất cả: “cứ bảo người ta ngồi xuống”. Đức Giêsu không hỏi phải có bao nhiêu tiền mới đủ cho đám đông được ăn no, Đức Giêsu không dò hỏi trong số đông nơi hoang địa lúc này, có bao nhiêu người tin Con Thiên Chúa đang hiện diện. Phép lạ xảy ra là do tình yêu thương, ơn cứu độ được ban phát cho muôn dân: không phân biệt đạo gốc đạo theo, tội phúc, dân đen hay kẻ giầu.
Kinh nghiệm của các đấng bậc cho ta biết: có hai sai lầm trong cuộc đời: một là sống cho người khác coi, hai là xem người khác mà sống. Thực ra, chỉ cần bản thân cảm thấy bình an hạnh phúc là đủ, đừng mải mê nhìn người khác suy diễn, kẻo đi sai con đường dưới chân mình. Được no thỏa về vật chất, được ấm áp tình người, hoặc dồi dào hạnh phúc, tất cả chúng ta sẽ có câu trả lời khi đến gặp Đức Giêsu, Đấng là Thầy, là Thiên Chúa giầu lòng xót thương. Tình là gì, tình là chi mà từ ngàn năm trước đến ngàn năm sau nhân loại vẫn khổ đau vì tình ? Tình là gì, lý có nghĩa gì không, tại sao được ăn no, được chữa lành bệnh, biết nói: “thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian”. Nhưng đa số lời đáp trả mang hình thức, môi miệng ; đúng là đá có thể mòn, huống chi lòng người.
Tình và lý, sẽ mãi mãi là gợi ý cho hậu thế phải suy gẫm: đói lòng thèm thịt thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đàng. Bao lâu chưa no đủ về đời sống tinh thần, còn nghèo đói về tình yêu thương, hẳn người ta sẽ tiếp tục phải tìm kiếm, đầu tư, hầu có mãi thứ tình yêu đặc biệt của Đức Giêsu. Vì chưng, tài giỏi, thành đạt, dễ gì nhớ đến truyền thống tôn sư trọng đạo: một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa ? Giầu có địa vị, đâu phải ai cũng còn biết chú tâm sống lời răn dạy của tiền nhân: công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Đám đông dân chúng hôm xưa và nhân loại hôm nay, sẽ còn khắc khoải nhiều, bao lâu người ta chưa tìm đến với Đức Giêsu, chưa đủ khiêm tốn để học hiểu thế nào là tình, là lý mà Con Thiên Chúa mời gọi lắng nghe, thực hiện.
Đám đông dân chúng theo Thầy-trò Đức Giêsu đã no lòng thỏa dạ, chỉ lý giải được bằng “cái tình, cái lý”, tất cả phát xuất từ sứ mạng Con Thiên Chúa đã và đang thực hiện: “yêu đến cùng”. Phép lạ tình yêu thương sẽ còn tiếp tục được Chúa Giêsu thực hiện qua các đại gia, qua việc dấn thân phục vụ của mỗi người trong tình liên đới với Đấng cứu độ. Con người sinh ra để được yêu thương, vật chất được tạo ra để sử dụng, Xin đừng ai lý sự, đừng ai nghĩ mãi về quá khứ nếu nó mang tới khổ đau, nước mắt. Đừng ai phác họa chương trình yêu thương to lớn của mình ở phía trước, có thể sẽ tự gây lo sợ cho mình: nói trước, bước không tới. Hãy sống chữ tình chữ hiếu ở hiện tại, hãy sống lý lẽ đơn giản như trẻ thơ: tin tưởng, cây trông, biết sẵn sàng thực thi điều Chúa muốn. Amen.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Miền Nam đang rơi vào tình cảnh giãn cách, và có nơi bị cách ly vì cúm Vũ Hán. Điều đáng buồn là những chợ nhỏ bị cấm tụ tập nên người dân dồn vào các siêu thị dẫn đến chen lấn, ùn tắt và giá các mặt hàng cũng cao hơn bình thường.
Nhiều người hoang mang về nguồn thực phẩm ở đâu cho người nghèo và ngay cả người giầu cũng ngại ra chỗ đông người như siêu thị mua hàng đầy rủi ro! Chính trong cái rủi lại có cái may. Chính những nơi bị phong tỏa lại là nơi thấy rõ tình người, tình liên đới và sẻ chia. Tôi hỏi thăm một số người ở Gia Kiệm là nơi bị phong tỏa hoàn toàn từ ngày 28/06 tới nay về nguồn lương thực, và ai đã giúp cho người dân đủ lương thực để ăn trong lúc này? Mọi người đều bảo chẳng có ai ngoài tình làng nghĩa xóm. Người trong xóm, người trong xứ tự giúp nhau chứ chưa nhận được một sự tài trợ nào từ nơi khác. Những chuyến xe hàng của anh em thiện nguyện chạy xuyên thời gian 24/24 để mang lương thực tới từng xóm ngõ. Những bàn đồ ăn bày ra trên các con hẻm với những dòng chữ : “ai thiếu cứ lấy, ai dư hãy mang đến” .. ..
Tôi có hỏi một cụ già neo đơn vẫn thường xuyên nhận lương thực với giá 0 đồng về cảm xúc của cụ như thế nào? Cụ nói: tôi cầm lương thực mà nước mắt cứ rưng rưng. Tôi khóc không phải nhận được quà mà bởi vì cảm nhận được tình cảm giữa con người với con người những lúc khó khăn như thế này. Người Gia Kiệm dân Bắc di cư khi mới vào lập nghiệp đã sống đùm bọc nay lại có cơ hội thể hiện tình thân, thân thiện và nghĩa tình’.
Đây là ân huệ hay là một phép lạ mà Thiên Chúa đang dành cho quê hương của tôi. Có lẽ đây là phép lạ của chia sẻ. Phép lạ của sự liên đới. Phép lạ của tình người “tối lửa tắt đèn có nhau”. Khi con người biết chia sẻ là lúc phép lạ sẽ diễn ra. Càng nhiều người chia sẻ thì phép lạ càng lớn lao.
Năm xưa khi thấy dân chúng đang đối diện với cái đói, thì Chúa Giê-su đã hỏi các môn đệ: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Dường như các môn đệ đều cảm thấy “lực bất tòng tâm”. Philipphê đã nhanh trí thoái thác trách nhiệm khi ông nói: “Thưa Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”. Môn đệ Anrê cũng ủng hộ lập trường của bạn ông: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !”
Khi người ta không cảm thấy liên đới, người ta sẽ tìm trăm ngàn lý do để né tránh, để an phận thủ thường, để bình an lương tâm. Các môn đệ muốn nại vào khó khăn để biện minh cho sự thờ ơ của mình. Nhưng Chúa đã tận dụng chính khó khăn đó để dạy các ông: chỉ cần cảm thấy có tình liên đới thì sẽ cùng chung tay để vượt qua kếp nạn.
Thực vậy, sau khi đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá từ lòng quảng đại của một em bé. Chúa Giêsu đã có thể nhân rộng ra thành hàng trăm, hàng ngàn tấm bánh. Phép lạ đã diễn ra khi 5 cái bánh và 2 con cái được trao ban. Và rồi các tông đồ cứ thế trao ban mãi, trao ban hoài mà vẫn không hết.
Có lẽ nhân loại hôm nay không chết đói cho bằng chết vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương, san sẻ của đồng loại. Con người cần cơm bánh để sống. Nhưng con người lại rất cần tình thương để tồn tại.
Lời Chúa hôm nay dường như đang chất vấn bạn và tôi về những thiếu sót của chúng ta trước sự khốn cùng của tha nhân. Chúng ta hãy hành động nhân danh Chúa để bánh và cá tiếp tục được nhân rộng đến cho mọi người, để tình yêu đem lại hạnh phúc cho con người hôm nay.
Cám ơn Chúa về tình làng nghĩa xóm đầy tình bác ái ky-tô giáo mà người giáo dân Gia Kiệm đang thể hiện. Chính tình liên đới đã làm cho phép lạ được diễn ra để ai cũng có rau xanh để ăn, ai cũng có đủ lương thực để vượt qua khó khăn của ngày hôm nay.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn giầu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Amen
VỚI NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Chúa Giêsu đã từng phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Nhưng qua việc hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn, Ngài cũng muốn công bố rằng: Người ta sống không nguyên bởi Lời Chúa, mà còn sống bởi bánh nữa. Điều này không ngược với điều trên nhưng bổ sung cho nhau, và rất đúng cho hoàn cảnh thực tế trước mắt. Con người không chỉ là tinh thần cũng không chỉ là thể chất, mà là cả hai. Chúa Giêsu quan tâm tới con người toàn diện, không duy tâm cũng không duy vật, mà “duy” nơi Thiên Chúa để con người được sống và sống dồi dào.
Sứ mạng của Chúa Giêsu chỉ nhằm cứu vớt nhân loại tội lỗi, nhưng điều đó có nghĩa gì khi con người phải đói khát, phải sống trong cùng khổ mà không được cứu giúp. Thật ra, trường hợp của dân chúng ở đây chẳng đến nỗi nào, cho họ ra về cũng chẳng sao, nhưng Chúa Giêsu lại nhạy cảm đối với niềm vui và nỗi khổ của con người. Tình thương sâu xa đòi Ngài phải hành động ở mức độ cao nhất. Thế nhưng để cho năm ngàn người một bữa ăn nơi hoang địa thì các môn đệ đành bó tay: “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Cũng may có em bé dâng tặng năm chiếc bánh và hai con cá, “nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!”. Nhưng khi con người bất lực, thì Thiên Chúa lại ra tay. Từ sự dâng trao nhỏ bé, Chúa Giêsu đã cho dân chúng một bữa ăn no nê.
Chúng ta thấy hết mọi hoạt động của Chúa Giêsu tập trung vào những con người cụ thể, chứ không nơi đền thờ hay hội đường. Cứ mở sách Phúc Âm ra, lúc nào ta cũng thấy Ngài ở ngoài đường, đang tiếp xúc, đang gặp gỡ, đang cứu giúp, đang phục vụ… Lo cho người ta về thể chất, chính là cách biểu lộ tình thương cụ thể nhất. Tiêu chuẩn ngày phán xét cũng chỉ là tình thương cụ thể: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cứu giúp kẻ đau yếu, bệnh tật, tù đày.
Chúa Giêsu thương người nghèo đến nỗi Ngài nói với người thanh niên: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời…” (Mc 10, 21). Đúng là ta còn phải lo cho những người thân của mình, còn những bổn phận và trách nhiệm khác nữa, nhưng nhớ rằng đó không phải là những khuôn đúc cứng ngắc, phiến diện, làm tê liệt đời sống tinh thần. Sống phẩm chất cao nhất của đời Kitô hữu là sống dưới tác động của Thánh Thần, Đấng luôn khai mở sự sống và tình yêu trong ta trước những nghịch cảnh của tha nhân.
Không thể nhắm mắt làm ngơ trước bao người đang lâm vào cảnh túng thiếu và đói rách xung quanh ta. Chúng ta không thể chỉ lo êm ấm cho gia đình mình hay chỉ lo trang hoàng nhà cửa mình, trong khi những người bên cạnh không có cơm ăn, thuốc uống, chết dần mòn trong cô đơn, bệnh tật và thất vọng. Làm như vậy ta cũng không hơn gì người phú hộ đối xử với người nghèo Ladarô.
Cũng vậy, chúng ta không thể yên tâm ngồi đó xây cất những công trình nguy nga tráng lệ cho Giáo hội, đang khi đa số dân chúng còn đang sống trong cảnh cơ cầu. Giáo hội không tự xưng mình là Giáo hội của người nghèo đó sao? Mà Giáo hội là ai đây nếu không phải là chúng ta? Dĩ nhiên, Giáo hội không làm công việc của xã hội, không giải quyết vấn đề dân sinh, vì thuộc quyền hạn của những người lãnh đạo đất nước, nhưng “không thể tách rời việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, nghèo hèn. (FABC s. 41§2)
Chúa đâu chỉ ở trong nhà thờ, nhưng còn nơi những người nghèo khó. Ta dễ quên điều đó, cũng như thầy Tư tế và Lêvi chỉ lo tới Đền thờ dâng lễ mà bất chấp sự sống của người anh em mình trên đường Giêricô. Của lễ trong Đền thờ có nghĩa lý gì khi lòng nhân đã mất đi.
Thiên Chúa “muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ.” (Hs 6,6; Mt 9,13). Chúng ta cần có lòng yêu mến con người như Chúa Giêsu, cần đặc biệt quan tâm đến những anh chị em nghèo nàn bé mọn, nhưng trước hết, cần một lòng quảng đại như em bé để chia sẻ những gì mình có.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Chúa là niềm vui ơn cứu độ,
đem lại hạnh phúc cho con người,
cho cuộc đời được đổi mới đẹp tươi.
Chúa không chỉ hy sinh sống nghèo khó,
mà còn sống cho những kẻ khó nghèo,
không chỉ lo rao giảng Nước Trời,
mà còn cứu chữa cho những ai bệnh tật,
không chỉ lo canh tân đời sống tinh thần,
mà còn đem ơn lành cho cả xác thân.
Chúa đã động lòng trắc ẩn,
thấy đám dân theo Ngài đang bụng đói,
với năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ,
Chúa đã biến ra cho họ bữa ăn no.
Phép lạ đã xảy ra nhờ lòng quảng đại,
với sự góp phần đem lại của con người,
mặc dù Chúa quyền phép làm nên tất cả,
nhưng kết quả tùy vào sự cộng tác của con.
Hôm nay còn biết bao người nghèo đói,
có chủ trương phải xóa đói giảm nghèo,
nhưng rồi chẳng mấy ai dám sống theo,
kẻ giàu có càng lo đầu cơ tích trữ,
mặc ai sống chết cứ cất giữ cho mình,
nạn tham nhũng càng gây thêm đói khát,
cũng vì ích kỷ và bạc ác của con người.
Xin cho chúng con cứ mở lòng quảng đại,
để Chúa lại làm nên việc lạ lùng,
nhất là cho những ai còn nghèo túng,
đón nhận được ân sủng Chúa ban. Amen.
THẾ GIỚI HÔM NAY ĐANG RẤT CẦN TÌNH LIÊN ĐỚI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sứ điệp lời Chúa
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói: “Xin dọn cho dân chúng ăn” (2V 4, 42). Đầy tớ của người trả lời: “Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao ?” (2V 4, 43). Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa: “Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người“.
Thời nào cũng có những người sống an phận thủ thường, thoái thác trách nhiệm, tránh khó đến mình, sống ích kỷ nhất là thiếu tình liên đới. Nhìn cảnh dân chúng đói, Êlisê ra lệnh: “Cứ dọn cho dân chúng ăn ” (2V 4, 44). Còn Chúa Giêsu thấy đám đông đói trước mặt mình liền bảo các môn đệ mình: “Cứ bảo người ta ngồi xuống” (Ga 6, 10). Khi đã ổn định chỗ người, cả dân thời Êlisê và dân chúng thời Chúa Giêsu “ăn mà vẫn còn dư” (2V 4, 44; Ga 6, 12).
Thế giới hôm nay giầu nhưng lại rất nghèo
Sống trong một thế giới khoa học phát triển tột bậc, con người đã đạt được những bước tiến vĩ đại với những công trình vượt quá sức tưởng tượng như thám hiểm sao Hỏa, tiếp cận sao Diêm Vương, rất tự hào dư dật của cải và lương thực. Reuters dẫn số liệu từ báo cáo của Oxfam ngày 20 tháng 01 năm 2020 cho hay, 2.153 người giàu nhất thế giới nắm giữ tài sản nhiều hơn so với tổng tài sản của 4,6 tỷ người nghèo toàn cầu cộng lại. Chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế và cũng chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như hiện nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế?
Trước tác động của dịch Covid-19, khoảng cách giàu – nghèo tại nhiều nơi trên thế giới ngày càng nới rộng, với sự bất bình đẳng về thu nhập, giáo dục, y tế… Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo, đại dịch để lại hậu quả cho thế hệ sau nếu các biện pháp không được đưa ra kịp thời nhằm thu hẹp khoảng cách giữa nước giàu và nước nghèo. Đúng là một thế giới giầu vật chất nhưng lại rất nghèo tình yêu và chia sẻ.
Đối diện với nhu cầu của biết bao người nghèo đói, bệnh tật, thiếu thốn những cái tối thiểu cần thiết để mà sống chung quanh ta và rộng lớn hơn là trên thế giới, chúng ta có thể nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là sự co cụm, thiếu tình liên đới, nhất là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Nhiều người cho rằng thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ hay lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người nên giảm dân số. Họ viện cớ, đại dịch ập đến bất ngờ, không kịp xây bệnh viện, thiếu thuốc men, y tế dự phòng, lương thực thực phẩm, họ chọn người để chữa. Nhưng thực tế, nhiều khách sạn cao tầng mọc lên, các nước chế tạo được vaccine chưa chịu chia sẻ công nghệ sản xuất cho các nước, thậm chí vaccine để quá hạn, thực phẩm rau củ quả bỏ đi, bán không ai mua… thiếu tình liên đới.
Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người. Hãy nhìn những người chung quanh bằng cái nhìn của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Hãy nhìn anh em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ, hãy an ủi họ, đừng có thờ ơ. Triệu chứng của sự thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối; thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm (x. Sứ Điệp Mùa Chay 2015). Chúa muốn loại bỏ sự vô trách nhiệm, phủi tay đối với đồng loại.
Sống tình liên đới trong cơn đại dịch
Sống tình liên đới và thực hành đức ái với tha nhân, tôn trọng và bảo vệ sự sống của mình cũng như của người khác lúc này cần thiết hơn bao giờ hết. Sống trong đại dịch, sự chết, sợ hãi, lắng lo bủa vây khắp nơi. Giữa biên giới tử biệt sinh ly, cần biết bao một bàn tay, một ánh mắt sẻ chia; một lời kinh, một lời giã từ đầm đìa trong nước mắt. Chúng ta được mời gọi sống có trách nhiệm và liên đới hơn với mọi người. Giữ vệ sinh cho mình và cho người khác, đeo khẩu trang, giữ khoảng cách 2 mét khi tiếp xúc với người khác, rửa tay nhiều lần. Nhưng rửa tay là để diệt khuẩn chứ không phải rửa tay để thoái thác trách nhiệm chung như Philatô đã làm, hay kỳ thị các bệnh nhân Covid-19 cũng như thân nhân của họ.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Chúa (x. St 1,26). Chúa là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8), nên con người tự bản chất là tình thương. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không gặp tình yêu, nếu không kinh nghiệm tình yêu và không nhận lấy kinh nghiệm đó làm của mình và dự phần vào đó cách mãnh liệt” (Thông điệp Đấng Cứu Chuộc số 10). Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.
Ý thức về điều này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả cổ vũ và kiến tạo nền văn minh liên đới và tình thương. Hãy thương yêu và tương trợ lẫn nhau, vì tình thương là căn tính, là bản chất của con người. Hãy loại bỏ sự đố kỵ, hận thù, chia rẽ và những nguyên nhân làm hại đến tình thương như: bất công, kỳ thị, độc đoán, tham quyền, ích kỷ, kiêu căng, giả dối và các tội ác. Hãy sống đúng với sự thật về căn tính của mình theo hình ảnh của Thiên Chúa là sự thật và tình thương. Hãy đặt vào tay Chúa những gì mình có. Thiên Chúa đủ khả năng để nhân lên từ những cải bé nhỏ của chúng ta.
Lạy Mẹ của lòng nhân ái, xin trợ giúp chúng con làm việc này. Amen
Bông hồng nhỏ
Chúa Giêsu luôn đi bước trước trong tình yêu. Ánh mắt của Người luôn dõi theo từng người một và hiểu rõ điều mỗi người đang cần, dù họ chưa lên tiếng cầu xin. Hôm nay, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho đám đông dân chúng và họ đã được ăn bánh no nê.
“Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Dothái đã gần tới” (Ga 6, 1- 4). Quả thế, trước một đám đông đi theo mình, Người biết họ đang khát lời hằng sống, đang cần được chữa lành bệnh tật cả thể xác và tinh thần, và Người cũng biết rõ họ đang đói lả.
Người thấy cơn đói đang giày vò và họ chẳng còn đủ sức để xuống núi, đến các làng mạc xung quanh mà mua lấy thức ăn. Tất cả đều đã chạy theo Người rất vội vàng, chẳng ai kịp mang theo đồ ăn thức uống. Tất cả mọi người đều đang đói. Nhưng trên núi thì tìm đâu ra bánh? Để đến được các làng mạc xung quanh mà mua thức ăn cũng không phải dễ. Người hỏi ông Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” (Ga 6, 5). Người mời gọi các môn đệ hãy tìm cách để kiếm thức ăn cho mọi người. Chắc chắn các môn đệ cũng đang đói và các ông thừa biết dân chúng cũng đói. Thấy được sự khó khăn khốn khổ của người khác là bước những bước đầu tiên để cưu mang họ trong lòng, sau đó sẽ là những hành động bác ái cụ thể.
Chúa muốn các ông không chỉ thấy rằng dân chúng đang đói nhưng còn muốn các ông thấy rằng mình có trách nhiệm lo cho dân được ăn uống, họ có trách nhiệm phục vụ mọi người. Các ông tìm cách xoay xở, tìm đáp án cho bài toán cực khó này. Ông Philipphê thưa với Người: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút” (Ga 6, 7). Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô thưa với Chúa: “Ở đây có một bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6,9). Người ta nghe được tiếng thở dài não ruột của ông, các môn đệ đều thất vọng. Các môn đệ đã đưa ra những cách giải quyết nhưng tất cả đều không khả quan. Có lẽ chỉ còn cách là giải tán họ để ai về nhà nấy, tự lo thức ăn cho mình. Trước tiếng thở dài của các môn đệ, Chúa Giêsu nói với giọng rất ân cần: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ mở lòng ra để thấu hiểu những khó khăn của đám đông dân chúng, Người khiến họ gắng sức tìm mọi cách để lo cho dân, Người cũng cho họ thấy được giới hạn của chính mình. Họ tưởng rằng đành phải bó tay trước khó khăn vì họ không có đủ khả năng lo cho dân. Chính lúc con người mở lòng ra với đồng loại, dù họ không thể làm gì hơn để thay đổi tình thế, không có cách nào vượt qua khó khăn thì chính lúc ấy Thiên Chúa bày tỏ quyền năng và tình thương vô biên của Người. Từ năm chiếc bánh và hai con cá ấy, Chúa Giêsu đã cho mọi người được ăn no nê, người ta thu lại những miếng thừa chất đầy mười hai thúng. Người ta tôn vinh Chúa và nói với nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6, 14-15). Người không để cho vinh dự trần gian níu kéo đôi chân của mình nhưng lòng chỉ hướng về Chúa Cha là Đấng mà Người yêu mến.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con thấy được tình thương Chúa vẫn bao bọc chúng con. Trong hoàn cảnh đại dịch hiện nay, nhân loại chúng con đang rơi vào sự bế tắc và đầy lo lắng. Giữa bầu khí căng thẳng và u ám đó, Chúa vẫn khơi lên lòng trắc ẩn nơi trái tim của mỗi người. Con thấy được những hình ảnh quên mình phục vụ của đội ngũ các y bác sĩ, các y tá, điều dưỡng hay các thiện nguyện viên. Những chuyến hàng từ Tây Nguyên, miền Trung, miền Tây hay từ tận ngoài Bắc được chuyển về vùng tâm dịch để cứu trợ cho cho dân. Con thấy những tấm lòng đang mở ra hướng đến người khác, chia sẻ và nâng đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Những phép lạ mà Chúa vẫn từng ngày thực hiện qua bàn tay của từng người trong chúng con. Nguyện xin tình yêu Chúa luôn thôi thúc trái tim của chúng con biết mở ra với người khác. Amen.
Thiên San
Trước mắt các môn đệ và Thầy Giêsu là đoàn người đông đảo đi theo các ngài. Trong số họ, có nhiều người đã từng được chứng kiến nhiều phép lạ Đức Giêsu đã làm như chữa lành người đau ốm, trừ quỷ… Không cần hỏi, chúng ta cũng biết họ đến với Chúa vì điều gì. Đức Giêsu ngước mắt lên và thấy họ. Người thấy và biết mình sắp làm gì. “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6, 5). Câu hỏi được đặt ra trong bối cảnh rất khẩn thiết.
Đó là câu hỏi Đức Giêsu dành riêng cho Philipphê hay cho tất cả các môn đệ? Có thể, lúc ấy, Philipphê là người đứng cạnh Thầy của mình nên Gioan kể rõ rằng “Người hỏi ông Philipphê”. Thực ra, câu hỏi đó dành cho tất cả các môn đệ đang có mặt lúc ấy. Philipphê trả lời cách rất thực tế: “Thưa có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6, 7). Anrê, anh ông Simon cũng thưa với Thầy: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6, 9). Nếu chúng ta có mặt lúc ấy, có thể chúng ta sẽ cười thầm rằng hai trăm quan tiền chẳng giải quyết được huống gì là năm chiếc bánh và hai con cá. Thiết nghĩ, chúng ta cần lắng nghe, chiêm ngắm và học cách trả lời đơn sơ của Anrê. Có thể Anrê là người rất thích chơi với trẻ nhỏ nên mới biết được có một em bé có năm cái bánh và hai con cá. Tiếp xúc nhiều với trẻ nhỏ, Anrê học được cách hành xử đơn sơ của trẻ nhỏ. Cuối cùng, những điều tưởng chừng quá nhỏ bé như năm chiếc bánh và hai cá lại là điều cần cho phép lạ hóa bánh ra nhiều của Đức Giêsu.
Hiện nay, đại dịch Covid đã tàn phá một cách khủng khiếp. Sài Gòn, một thành phố phồn hoa, tráng lệ, là “người chị hai” của cả nước nhưng đang bị kiệt quệ vì Covid. Trong thảm trạng đó, cuộc sống người dân gặp rất nhiều khó khăn. Các nhu cầu về lương thực thực phẩm bị hạn chế. Nếu có tiền, họ cũng không thể mua hay có thể tự xoay sở. Bỗng chốc, họ trở nên bất lực. Những ngày gần đây, người dân cả nước tập trung cứu trợ cho Sài Gòn về các nhu cầu lương thực, thực phẩm. Các chuyến xe chở đầy “bánh và cá” từ khắp nơi đổ về Sài Gòn. Có thể trong số họ, có những người cũng chỉ có được “năm chiếc bánh và hai con cá” nhưng với lòng quảng đại, đơn sơ và tình thương, họ đã góp phần cứu nguy cho Sài Gòn. Như đám đông ngày xưa được Đức Giêsu chăm lo, Sài Gòn hôm nay cũng đang được nhiều “Giêsu hữu” của khắp nơi chăm lo.
“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6, 5). Đức Giêsu đang hỏi mỗi người chúng ta trong hoàn cảnh hôm nay. Thiết nghĩ, mỗi người chúng ta trong tình liên đới, anh em cùng một Cha trên trời, chúng ta hãy cùng nhau dâng lên Thầy Giêsu những điều nhỏ bé như “năm chiếc bánh và hai con cá” để nhờ Người, chúng ta được no đầy và dìu nhau vượt qua khó khăn Chính Thầy Giêsu, Thiên Chúa tình thương sẽ cùng chúng ta giải quyết mọi khó khăn của hiện tại. Xin cho mỗi chúng ta, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn tin tưởng, phó thác vào tình yêu quan phòng của Ngài.
ĐIỀU KHÔNG THỂ THÀNH ĐIỀU CÓ THỂ
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong suốt cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều kỳ diệu khiến những ai chứng kiến không thể nào quên. Trong số đó, phép lạ hóa bánh ra nhiều là biến cố được cộng đoàn tín hữu sơ khai nhớ đến cách đặc biệt nhất. Đây là phép lạ do Chúa Giêsu thực hiện bên kia biển hồ Galiêa khi rất đông dân chúng đến với Người để nghe giảng, họ không có gì ăn, vì họ đang ở trong một nơi hoang vắng. Đây cũng là câu chuyện duy nhất được cả bốn Tin Mừng thuật lại.
1- Hơn cả một phép lạ
Bài Tin Mừng hôm nay là trình thuật của thánh Gioan (Ga 6,1-6). Nội dung trình thuật này chứa đựng nhiều ý nghĩa rất phong phú. Theo cách nhìn riêng, thánh Gioan không gọi đây là một “phép lạ” nhưng đúng hơn là một “dấu chỉ hay dấu lạ.” Bởi lẽ, phép lạ thường được hiểu là những gì được xảy ra một cách ngoại thường, vượt ra khỏi định luật tự nhiên, do một bàn tay nào đó tác động. Chẳng hạn, một người leo lên nhà cao tầng, rồi nhảy xuống, đến mức nào đó, anh dừng lại trong không gian. Người ta gọi đó là phép lạ! Nó đi ngược với luật tự nhiên là phải rơi xuống đất. Hay một ai đó bị bệnh ung thư, không thể nào chữa khỏi, nhưng nhờ cầu nguyện, người đó được ơn chữa lành và sống thêm được một thời gian. Đó là phép lạ.
Nhưng theo cách nhìn của thánh Gioan, những việc kỳ điệu do Chúa Giêsu thực hiện là những “dấu chỉ” của Thiên Chúa. Vì dấu chỉ hướng chúng ta tới khám phá những ý nghĩa và thực tại bên trong mà những sự kiện xảy ra bên ngoài mách bảo. Đó là lý do tại sao thánh Gioan mời gọi chúng ta không có dừng lại ở những sự kiện bên ngoài được kể, nhưng cần khám phá ý nghĩa bên trong, sâu hơn của nó từ viễn tượng đức tin.
Trong trình thuật này, Chúa Giêsu là trung tâm điểm của câu chuyện. Trước một hoàn cảnh người thì đông, thức ăn không có, chợ thì xa, các môn đệ lo lắng: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn? Không ai chạy đến xin Chúa Giêsu can thiệp. Nhưng chính Người đi bước trước, Người thấy dân chúng đang chịu đói khát, nên Người đề nghị các môn đệ phải chăm sóc họ. Điều rất thú vị ở đây khi biết rằng Chúa Giêsu không chỉ nuôi dưỡng dân chúng bằng Lời Chúa, nhưng Người còn quan tâm đến cả cái đói, cái khát mà họ đang trải qua.
Trước một đám đông khoảng năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con, các môn đệ thắc mắc: “Trong nơi hoang vắng, làm sao kiếm thức ăn mà nuôi chừng đó người được? Philiphê nói: Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút.” Các môn đệ không tìm ra giải pháp, bởi vì họ không có đủ tiền.
2- Chúa không làm gì một mình
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không muốn làm gì một mình. Người mời gọi con người cộng tác. Ông Anrê nói: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người.” Một em bé vô danh, không rõ lai lịch đã đóng góp phần mình cho một điều không thể trở thành điều có thể. Sự sẵn sàng của em bé là giải pháp để có thức ăn cho đám đông.
Đối với Chúa Giêsu như thế là đủ rồi. Người sẽ làm điều còn lại: Người cầm lấy bánh và cá của em bé, rồi tạ ơn Thiên Chúa và bắt đầu phân phát cho họ ăn, ai cũng được no nên. Sự đóng góp của em bé trở thành điều kiện để phép lạ được xảy ra.
Quả là một cảnh tượng thật ý nghĩa: Đám đông ngồi trên thảm cỏ xanh, chia sẻ một bữa ăn không rượu cũng không thịt, nhưng với những thức ăn đơn giản của dân sống gần biển hồ Galiêa: đó là bánh từ lúa mạch và cá muối; một bữa ăn đầy ấp tình huynh đệ mà Chúa Giêsu dọn ra cho mọi người, nhờ sự đóng góp quảng đại của em bé.
Đồng thời qua dấu chỉ bữa ăn này, thánh Gioan ám chỉ về bí tích Thánh Thể mà người Kitô hữu cử hành trong ngày của Chúa. Nơi đó, chính Chúa Giêsu đi bước trước chuẩn bị cho dân Chúa một bữa tiệc để nuôi dưỡng chúng ta nhờ Thần Khí, Bánh Hằng Sống đến từ Thiên Chúa. Thánh Thể chính là của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Thánh Thể làm nên Giáo Hội và quy tụ mọi người vào trong Giáo Hội. Nhờ đó, chúng ta được hiệp nhất với nhau trong Nhiệm Thể Chúa Kitô như thánh Phaolô nói trong bài đọc II: “Chỉ có một thân thể và một tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Đấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi người” (Ep 4,5-6).
3- Cần sự đóng góp của chúng ta
Sự quảng đại của em bé là lý tưởng mời gọi mọi tín hữu phải noi gương bắt chước. Bởi thế, ngay từ lúc ban đầu Giáo Hội, các tín hữu coi những gì mình có là của chung và mỗi người là anh chị em. Đây là mô hình lý tưởng của một xã hội mới do Chúa Giêsu thiết lập để xây dựng một nhân loại mới mà trong đó con người đối xử với nhau với tình tương thân tương ái, chia sẻ và đoàn kết.
Nhiều lúc, sự đóng góp của mỗi người là nhỏ bé, nhưng với ơn Chúa, lại trở nên điều kỳ diệu trong cuộc sống. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này qua nhưng sự kiện xảy ra xung quanh chúng ta: chẳng hạn từ những đợt bão lụt xảy ra ở Miền Trung Việt Nam, có nhiều người không còn nhà cửa, của cải. Nhưng nhờ tinh thần tương thân tương ái của mọi người, nhiều ngôi nhà được xây dựng lại, nhiều người có đủ cơm ăn áo mặc… đó là phép lạ của sự đoàn kết!
Liên quan đến điều kỳ diệu này, cha Anthony de Mello kể câu chuyện về nồi cháo kỳ diệu: “Một ngày nọ, có một vị thiền sư tới một ngôi làng quê nghèo khổ, ai cũng không có gì ăn. Ông liền lấy một cái nồi, rồi đưa ra giữa ngã ba đường, múc nước, nhặt một hòn đá bỏ vào nồi và bắt đầu nấu. Ông vừa nấu vừa thiền. Thỉnh thoảng ông cúi xuống nếm thử và nói: “Giá mà có thêm ít gạo nữa thì ngon biết mấy.” Thế là có người dân làng mang đến cho ông một bịch gạo, ông đổ vào và tiếp tục nấu. Một lúc, ông lại nói: “Giá mà có thêm ít thịt nữa thì ngon biết mấy.” Thế là có một cụ bà đưa đến mấy con gà. Ông làm thịt và cho vào nồi, tiếp tục nấu. Sau đó, ông lại nếm và nói: “Giá mà có thêm ít rau, ít củ hành, củ tỏi, và ít gia vị nữa… thì ngon biết mấy.” Những người xung quang mang đến cho ông tất cả những thứ đó, ông nấu. Sau khi cháo chín, ông mời mọi người trong làng đến ăn. Ai cũng được ăn cháo gà no nê. Đó là phép lạ của sự chia sẻ.
Nếu trong thế giới này còn sự đói khát, đó không phải do thiếu thực phẩm, nhưng là do thiếu tình tương thân tương ái. Của ăn luôn có đủ cho mỗi người; nhưng sự quảng đại chia sẻ thì đang thiếu. Nhiều người hôm nay phải chết vì đói, vì khát chỉ vì sự vô cảm và ích kỷ của chúng ta. Nên thông điệp mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé của mình để những gì xem ra như không thể trở thành có thể. Amen!
PHÉP LẠ HÓA BÁNH TIÊN BÁO BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Lm Trần Bình Trọng
Ðám đông dân chúng theo Ðức Giêsu vì họ thấy những phép lạ Người làm, chữa người đau yếu bệnh tật. Họ say mê nghe lời Người giảng dạy và xem việc Người làm đến độ quên rằng trời đã xế chiều và lại quên mang thức ăn.
Biết họ không có gì ăn, mà cho họ về nhà thì đường xá lại xa xôi cách trở. Vì thế Ðức Giêsu quyết định làm phép lạ hoá năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Ðọc Thánh kinh, ta thấy mỗi lần Chúa làm phép lạ đều do người ta xin. Lần này Ðức Giêsu làm phép lạ mà không có người xin, vì Người quan tâm đến nhu cầu thể xác của họ. Không thấy ai trong số năm ngàn người theo Chúa kêu đói và xin ăn. Các tông đồ cũng không đề nghị giải pháp nào cho họ ăn. Câu hỏi Ðức Giêsu hỏi Philiphê sao mua bánh ở đâu cho họ ăn có thể chỉ là câu hỏi giả vờ để thử các tông đồ mà thôi.
Bài trích sách các Vua quyển hai kể lại việc ngôn sứ Ê-li-sa dùng quyền năng Chúa ban để làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Câu chuyện Thánh kinh được kể lại như sau. Trong thời nạn đói, có người đem đến cho ngôn sứ Ê-li-sa hai mươi ổ bánh. Mặc dù không đủ cho một trăm người ăn, vị ngôn sứ vẫn phân phát cho dân chúng. Kết quả là khi họ đã ăn no nê, mà vẫn còn dư lại (2V 4:42-44).
Phúc âm hôm nay ghi lại Chúa Giêsu cầm bánh, tạ ơn trước khi phân phát cho dân chúng. Bằng việc tạ ơn trước khi phân phát, Chúa muốn dạy ta bài học về việc cảm tạ khi nhận lãnh. Biết cảm tạ bao hàm ý nghĩa tuỳ thuộc vào Chúa. Bài học thứ hai Chúa muốn dạy ta là không nên phung phí đồ ăn thức uống. Sau khi nuôi dân chúng bằng phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa bảo các tông đồ thu đồ ăn còn dư lại kẻo phí phạm và họ thu được mười hai thúng đầy bánh còn dư (Ga 6:13). Bài học thứ ba là Chúa muốn sửa soạn tâm trí các tông đồ để họ đón nhận Bí tích Thánh thể mà Chúa sẽ thiết lập sau này. Chúa làm phép lạ hoá bánh nuôi dân là do lòng thương xót của Người vì dân chúng không có gì ăn. Tuy nhiên mối quan tâm của Chúa còn đi xa hơn nữa, sâu xa hơn việc đáp ứng nhu cầu đói khát của ăn vật chất của dân chúng.
Thánh Gioan nhắc đến lễ Vượt qua gần đến sau phép lạ hoá bánh. Bữa ăn vào ngày lễ Vượt Qua là hình bóng của bữa Tiệc ly. Ngay trước lễ Vượt Qua mà Ðức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì khi Người lập Bí tích Thánh Thể vào dịp lễ Vượt Qua, phải khiến các tông đồ nhớ lại và liên tưởng đến phép lạ hoá bánh. Phép lạ hoá bánh theo Phúc âm thánh Gioan đã được Phúc âm nhất lãm thuật lại (Mt 14:13:21; Mc 6:33-44; Lc 9:10-17).
Thường thì thánh sử Gioan không thuật lại phép lạ đã được các thánh sử ghi chép rồi. Còn khi thuật lại cùng phép lạ, thánh sử Gioan thường đưa vào câu chuyện một ý nghĩa sâu xa đặc biệt. Và trong chu kì phụng vụ năm B mùa thường niên, lẽ thường thì Giáo hội dùng Phúc âm thánh Mác-cô. Thánh sử Mác-cô cũng ghi lại phép lạ hoá bánh. Tuy nhiên phép lạ hoá bánh theo Phúc âm thánh Gioan lại được dùng hôm nay vì được coi là câu chuyện nhập đề cho Bí tích Thánh thể vì hầu hết nội dung của phần còn lại trong chương sáu đều nói về bánh hằng sống là Bí tích Thánh thể cho bốn Chúa nhật kế tiếp. Nhắc đến bữa ăn Vượt Qua, thánh Gioan muốn sửa soạn đưa độc giả đến một thực tại mà Ðức Giêsu sẽ thực hiện sau này trong bữa Tiệc Li là việc thiết lập Bí tích Thánh thể. Và đó là ý tứ mà thánh sử Gioan muốn gửi gắm trong câu chuyện Phúc âm về phép lạ hoá bánh.
Những lời Chúa dùng để làm phép lạ hoá bánh: Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi ăn (Ga 6:11) cũng giống những lời Chúa dùng khi truyền phép Thánh thể trong bữa Tiệc ly: Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ (Lc 1:19). Thánh sử Gioan ghi lại việc Chúa nuôi dưỡng năm ngàn người ăn như là dấu chỉ về quyền năng mà Người sẽ dùng để nuôi dưỡng loài người bằng của ăn thiêng liêng là Mình Thánh Người. Như vậy phép lạ hoá bánh là dấu chỉ thích hợp để sửa soạn dân chúng nghe những lời Người giảng dạy về Bí tích Thánh thể mà Người sẽ thiết lập sau này: Bánh mà Ta sẽ ban, chính là Mình Ta cho thế gian được sống (Ga 6:51). Cũng như Chúa dùng quyền năng hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người, Chúa cũng dùng quyền năng biến bánh rượu thành Mình Máu thánh Người, để làm của ăn thiêng liêng cho loài người.
Vậy thì trong tâm tình tạ ơn, ta cùng dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, dùng lời đáp ca trong thánh lễ để nhắc nhở ta về đường lối quan phòng của Chúa: Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được no đủ (Tv 144:16). Người tín hữu thời giáo hội sơ khai khi dâng thánh lễ, họ mang trong tâm khảm tâm tình tạ ơn. Tạ ơn theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thánh lễ. Như vậy theo nguyên tự Hy lạp, thì dâng lễ có nghĩa là dâng lời tạ ơn.
Lời nguyện xin cho người đói khát được no thoả:
Lậy Thiên Chúa toàn năng, thiện hảo!
Con xin tạ ơn Chúa cho của ăn thức uống hằng ngày.
Xin Chúa cho mưa xuống trên những miền đất khô cằn
để người dân có thể trồng cấy đồ ăn thức uống.
Và xin cho những người đói khát được no thoả.
Xin tha thứ những lần con coi là ngẫu nhiên,
những của Chúa ban, lại còn tỏ ra vô ơn bội bạc.
Và xin cho con cảm nghiệm được sự đói khát
về của ăn thiêng liêng:
lời Chúa và Mình thánh Chúa. Amen.
Lm Vũđình Tường
Môn đệ Đức Kitô trở về sau hành trình truyền giáo, các ông rất vui, đồng thời cũng rất mệt và đói. Cảm nhận đau khổ của đói khát, các ông thông cảm với đám đông khi họ suốt ngày nghe Đức Kitô giảng. Các ông tự hỏi nhau làm thế nào kiếm thực phẩm cho mấy ngàn người ăn trước khi trời tối. Quan sát đám đông, các môn đệ thấy chú nhỏ có dăm cái bánh lúa mạch và hai con cá, bữa ăn vừa đủ cho riêng chú. Sau khi tính toán hơn thiệt, không biết làm cách nào hơn là xin Đức Kitô cho giải tán đám đông để họ vào làng mạc ăn tối. Nghe thế, Đức Kitô nói với các ông. Chính anh em sẽ cho họ ăn. Lòng xót thương đám đông giờ trở thành gánh nặng. Suy nghĩ hết mọi cách, không biết xoay sở ra sao. Đành chịu tìm đến Thầy. Ai ngờ, Thầy lại bảo đó là trách nhiệm của các anh. Có lẽ Đức Kitô nhắc các ông, trước đây các anh đã ăn ở nhà người ta, giờ phải tìm cách đáp lại chứ. Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại, còn lạ gì câu này nữa (Tục ngữ, ca dao dân tộc).
Chắc chắn các tông đồ không thể hoàn thành điều Đức Kitô truyền bảo. Thứ nhất các ông không đủ tài chánh mua thực phẩm, tiền chung của cả nhóm cũng không là bao. Thứ hai, ngay trường hợp có tiền thì nơi hoang vắng, làng nhỏ ven biển cũng không đủ thực phẩm để mua. Thế là câu: ‘có tiền mua tiên cũng được’ cho biết tiền đôi khi cũng vô dụng, nhất là vấn đề liên quan đến sự sống trường sinh, tiền coi như giấy nộm, không hơn, không kém. Ông Anrê mạnh dạn lên tiếng cùng Đức Kitô. Thưa Thầy, có chú nhỏ kia có năm bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bằng đó chỉ như ‘muối bỏ biển’ thấm vào đâu.
Bánh lúa mạch mang í nghĩa quan trọng trong phép lạ bánh ít hoá nhiều này. Một số học giả kinh Thánh giải thích bánh làm bằng lúa mạch là thực phẩm cùng cực lắm người ta mới dùng ăn chóng đói. Loại thực phẩm này thường dùng nuôi gia súc hơn là để cho người. Vì thế chú nhỏ kia thuộc vào tần lớp cùng đinh, nghèo mạt rệp. Thực phẩm gia đình dùng hàng ngày cho biết tình trạng kinh tế gia đình. Gia đình đó được liệt vào giai cấp nào trong xã hội: Có của ăn, của để; đủ ăn hay tay làm hàm nhai.
Bánh lúa mạch trong phép lạ này hàm chứa nhiều bài học quí giá, đáng lưu tâm. Cần ghi nhớ, học hỏi vì những bài học này cần thiết, hữu dụng cho cuộc sống tâm linh.
Thứ nhất, chú nhỏ thuộc gia đình nghèo. Không phải người giầu có mà thuộc giai cấp nghèo hèn; cũng không phải người trí thức mà thuộc giới thất học. Ở phép lạ này muốn nêu cao tính khiêm nhường, tấm lòng chân thành của người tự nguyện đến nghe Đức Kitô giảng dậy.
Thứ hai, dân nghèo hàng ngày dùng thực phẩm rẻ tiền nôi thân, miễn sao có của ăn sống là tốt. Của ăn nuôi thân xác rẻ tiền, tâm linh lại nhận được thần dược nuôi tâm linh, nuôi linh hồn. Linh hồn được nuôi bằng chính lời Đức Kitô rao giảng.
Thứ ba, bánh lúa mạch không phải thực phẩm hàng ngày của giới thượng lưu, kẻ có của ăn dư thừa, mà đến từ giai cấp thấp, hạ lưu. Tấm bánh này lại đến từ tay một chú nhỏ. Gia đình ăn bữa sáng thiếu bữa chiều, chú nhỏ lại cho đi ngay cả miếng ăn nuôi thân trong ngày.
Thứ tư, mọi sự chúng ta có đều do Chúa ban, vì thế khi cần dùng đến Chúa có toàn quyền, tự do lấy lại những gì Ngài đã trao ban. Phép lạ dậy chúng ta í thức điều đó. Hãy vui lòng dâng Chúa khi Ngài cần đến. Lấy đi tấm bánh nuôi thân khác chi lấy đi sự sống. Phép lạ dậy chúng ta nhận biết những gì chúng ta có không phải mình hoàn toàn làm chủ, kể cả cuộc sống thân xác. Chúng ta chỉ là người quản lí, người có trách nhiệm quản lí thay cho Thiên Chúa.
Thứ năm, mấy tấm bánh và cá chỉ đủ cho một người, trong tay Chúa chúng biến thành của ăn nuôi muôn người. Bài học này cho biết Chúa quyền phép khôn lường, cao hơn ước tính, chuẩn đoán của mọi người. Chúa là Đấng duy nhất thoả mãn nhu cầu cần thiết của con người. Đám đông ăn no, số thực phẩm dư thừa thu lại được mười hai thúng.
Phép lạ ít bánh hoá nhiều có nhiều điểm giống, tương tự khi Đức Kitô lập Phép Thánh Thể trong bữa Tiệc Li trước cuộc khổ nạn. Giống nhau trong việc bẻ bánh và phát bánh cho mọi người. Giống nhau trong việc Đức Kitô cầm bánh và dâng lời tạ ơn Chúa Cha, trước khi Ngài phân phát cho các môn đệ để các ngài phân phát cho dân chúng. Giống nhau ở điểm mọi người đều được coi trọng, ngang hàng, ngồi chung, bình đẳng trong bữa ăn Đức Kitô trao ban. Giống nhau trong việc không phí phạm bánh dư thừa, nhưng được thu góp cất giữ cẩn trọng. Giống nhau trong việc đám đông ăn bán thoả thuê nhưng không biết rõ bánh từ đâu tới. Trí khôn con người cũng không đủ khả năng hiểu bí tích, mầu nhiệm Mình và Máu cực thánh Đức Kitô. Bánh và rượu thường, sau khi truyền phép biến thành Mình và Máu Thánh Đức Kitô, làm sao trí khôn đủ sức hiểu. Giống nhau ở điểm môn đệ Đức Kitô làm công việc phân phát bánh, linh mục khi cử hành Thánh Thể cũng chỉ làm nhiệm vụ phục vụ, tự nguyện trở thành khí cụ trong tay Thiên Chúa. Giống nhau ở điểm môn đệ không làm phép lạ mà chính Đức Kitô làm phép lạ; linh mục cũng không làm phép lạ mà chính Thánh Thần Chúa làm việc biến đổi bánh, rượu thành Mình, Máu Thánh Đức Kitô.
Phép lạ bánh ít hoá nhiều biểu tỏ quyền phép nhiệm mầu của Đức Kitô. Ngài biểu tỏ phép nhiệm mầu không phải để ra tay uy quyền, nhưng để biểu tỏ lòng yêu mến, xót thương dân chúng, đám đông. Phép lạ cũng mặc khải cho chúng ta nhận biết những gì chúng ta cho đi vì tình yêu sẽ không mất. Những gì chúng ta cho đi vì lòng bác ái, dù rất nhỏ, ít giá trị, lại trở thành lớn lao, trở thành rất giá trị trong mắt Chúa.
Đức Kitô dậy ta cho đi, học từ Ngài cho đi. Đức Kitô cho đi cuộc sống Ngài để chúng ta có sự sống. Học cho đi chính là học nhận sự sống trường sinh, học sống chung trong nước trời.
Trầm Thiên Thu
Không đâu xa, Việt Nam cũng đã từng có nạn đói năm 1945, nhưng chúng ta chỉ nghe kể hoặc thấy qua hình ảnh. Hiện nay, trong cơn dịch Vũ Hán, chúng ta có thể nhận biết thực tế về sự cần thiết của lương thực như thế nào, nhất là những người đang ở “tâm dịch” Saigon. Hơn bao giờ hết, lúc này chúng ta mới cảm nhận lời cầu nguyện cấp bách mà Chúa Giêsu dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay LƯƠNG THỰC hằng ngày…” (Mt 6:9-13; Lc 11:2-4)
Đói cần ăn, khát cần uống, sống cần khí thở. Đó là nhu cầu tự nhiên thiết yếu của con người. Chúa Giêsu rất thực tế, và Ngài hành động cụ thể chứ không nói suông: Cho ăn uống no nê – phép lạ hóa bánh ra nhiều lần 1 (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14) và lần 2 (Mt 15:32-39; Mc 8:1-10).
Trên thế giới vẫn có những vùng cần cứu đói, chẳng hạn hiện nay có Madagascar, tình hình mỗi ngày càng trầm trọng thêm. Người Việt có câu: “Có thực mới vực được đạo.” Điều đó cho thấy chuyện ăn uống là điều không chỉ cần thiết mà còn cấp bách, vì đó là điều cơ bản nhất để con người khả dĩ duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp.
Vấn đề lương thực như một bí ẩn: “Kẻ ăn không hết, người lần không ra.” Trong thời gian dịch bệnh này, có người già neo đơn đã phải bới tìm đồ ăn thừa ở đống rác để duy trì sự sống. Thật đáng thương. Nhưng chuyện ăn uống cũng được coi là văn hóa, gọi là văn hóa ẩm thực. Cái gì cũng có hai mặt. Miếng ăn thực sự cần thiết và có thể là vinh hoặc nhục: “Người trí quý cái sức, kẻ dại quý cái ăn.” Ăn không lượng thì hại sức khỏe, ngủ không cân thì hại trí tuệ. Tục ngữ có câu: “Ăn được, ngủ được là tiên; không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo!” Ăn để có sức khỏe, có sức khỏe thì an tâm vui sống.
Có lẽ lúc này người ta có thể cảm nhận sâu sắc hơn về câu tục ngữ: “Sức khỏe là vàng.” Đó là thực tế rất cụ thể. Chúa Giêsu rất thực tế. Ngài chăm lo những gì cần thiết và cơ bản nhất liên quan sự sống. Đó là chuyện ăn uống – ẩm thực. Ngài luôn quan tâm người nghèo, tại nhà ông Simôn Cùi ở Bêtania, khi có một phụ nữ xức dầu chân Ngài bằng dầu thơm cam tùng hảo hạng, Chúa Giêsu đã xác định: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có.” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7) Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta phải kính trọng người nghèo, không được kỳ thị họ, vì đức tin phải có hành động cụ thể. (Thư Thánh Giacôbê, chương 2)
Có thực tế này: Người khổ chưa chắc là người nghèo, nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn khốn đốn, vì luôn bị người đời khinh miệt, bị xa lánh. Vả lại, đáng quan ngại là vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy.” (Sử gia Thomas Fuller, 1608-1661) Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất.” (Mahatma Gandhi, 1869-1948) Kinh Thánh vừa khuyên nhủ vừa ra lệnh: “Đừng tước đoạt miếng cơm manh áo của người nghèo, đừng để kẻ khốn cùng luống công chờ đợi. Kẻ khốn khổ nài xin, con đừng từ chối, gặp người nghèo, con đừng ngoảnh mặt đi.” (Hc 4:1-4)
Thực tế xã hội vẫn có nghịch lý: “Người giàu vừa ăn cướp vừa la làng, còn người nghèo bị thiệt thì lại phải năn nỉ.” (Hc 13:3) Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ.” (Tv 54:6) Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù.” (Tv 54:8-9)
Lương thực là vấn đề rất bình thường mà lại quan trọng. Thực tế đó cũng liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Chúa Giêsu rất ghét loại người giả nhân giả nghĩa, Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-29) và gọi họ là “đồ ngu si mù quáng.”
Từ xa xưa, hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365-290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là TỘI ÁC của THÁNH NHÂN.” Một cách nói rất đáng quan ngại!
Liên quan sự sống là vấn đề lương thực – sự sống, thực tế đó là chuyện “nồi cháo độc”với “phép lạ nhãn tiền” trong trình thuật 2 V 4:42-44. Khi ông Êlisa trở về Ghin-gan, nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng bắc nồi lớn lên bếp và nấu cháo cho anh em ngôn sứ. Một người trong nhóm ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại thì hái trái dưa đắng ấy đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!” Thế là họ không thể ăn được nữa. Nhưng ông Êlisa bảo cứ đem bột đến cho ông. Ông bỏ bột vào và bảo múc ra cho mọi người ăn. Lạ thay, trong nồi không còn chất độc nữa.
Phép lạ vẫn luôn xảy ra và với mức độ khác nhau, đặc biệt là “phép lạ hoá bánh ra nhiều.” Kinh Thánh cho biết rằng có một người từ Baan Salisa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa. Đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Êlisa bảo đem phát cho người ta ăn. Tiểu đồng nói chỉ có chừng nấy thì không thể đủ cho cả trăm người ăn được. Nhưng ông bảo cứ phát cho người ta ăn, vì Đức Chúa đã phán: “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.” Tiểu đồng vâng lời đem phát cho người ta. Họ đã ăn mà vẫn còn dư, đúng như lời Đức Chúa đã tuyên phán. Lại một phép lạ nhãn tiền nữa. Thật là kỳ diệu vô cùng!
Đối với Thiên Chúa, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu ông Áp-ra-ham (Mt 3:9) thì đối với Ngài, “không có gì là không thể làm được.” (Lc 1:37) Thánh Vịnh gia thực sự tin nhận nên đã dâng lời xưng tụng: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.” (Tv 145:10-11)
Thiên Chúa luôn tạo cơ hội làm việc để con người mưu sinh vì Ngài biết nhu cầu thực tế của phàm nhân để duy trì sự sống. Không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được gì, chắc chắn như vậy. Với kinh nghiệm sống, Thánh Vịnh gia chia sẻ bằng lời cầu nguyện chân thành: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.” (Tv 145:15-18) Thiên Chúa chẳng chấp lách gì đối với những cái đầu nhỏ mọn, thiển cận và nông cạn của thụ tạo chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta biết khiêm hạ và chân thành cầu xin thì mọi sự đều ổn định. Có làm vậy cũng chẳng thêm gì cho Ngài, mà chỉ có lợi cho chúng ta mà thôi.
Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.” (Ep 4:1-2) Những lời lẽ rất chân thành, nhưng NGHE, BIẾT, và LÀM là ba vấn đề khác nhau.
Có lẽ chưa an tâm nên thánh nhân động viên thêm: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.” (Ep 4:3-6) Những cái “một” rất kỳ diệu, nghĩa là đòi buộc chúng ta phải NÊN MỘT, vì thế mà không thể ba bè, năm nhóm hoặc bảy phe, không thể tiêu cực như chúng ta vẫn có “xu hướng” ngay cả trong các gia đình, các hội đoàn, các cộng đoàn, các giáo xứ,… Phe nhóm là đối lập với Thiên Chúa, bởi vì chúng ta cùng ĂN MỘT TẤM BÁNH – Thánh Thể.
Trình thuật Ga 6:1-15 (≈ Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17) đề cập phép lạ hoá bánh ra nhiều do Chúa Giêsu thực hiện. Trong phép lạ này có sự hiệp nhất: Đủ loại người đồng tâm nhất trí quy tụ bên Chúa để cùng NÊN MỘT và được nghe lời khôn ngoan của Ngài, thế nên Ngài thương họ lắm. Biết lắng nghe là có thiện chí, nghe để hiểu, hiểu để làm – hành động cụ thể chứng tỏ đức tin sống động.
Hôm đó, bên Biển Hồ Galilê – Biển Hồ Tibêria, có đông đảo dân chúng đi theo Chúa Giêsu, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho những kẻ đau ốm. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Thời gian đó sắp đến lễ Vượt Qua, đại lễ của người Do Thái. Ngước mắt lên, Ngài nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài không bất ngờ mà Ngài thấy thương họ. Ngài hỏi ông Philípphê về việc mua bánh cho họ ăn.
Ngài nói thế là để thử ông, chứ Ngài đã biết mình sắp làm gì. Nghe vậy, ông Philípphê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Chu choa! Phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh cho họ ăn. Tiền đâu mà mua? Hai trăm quan tiền là số tiền lớn, dù chưa bằng số tiền giá chiếc bình dầu thơm mà người phụ nữ tội lỗi xức chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania: Ba trăm quan tiền, (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8) nhưng lại gấp nhiều lần số tiền ông Giuđa đã bán Thầy trong đêm định mệnh năm xưa: Ba mươi đồng. (Mt 26:15)
Thật lạ, ông Phêrô nhanh tay lẹ mắt nên thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Đức Giêsu cười: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chả biết Thầy định làm gì, nhưng các ông không hề thắc mắc, vâng lời Thầy và bảo người ta ngồi xuống cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Tính cả phụ nữ và trẻ em có thể lên tới cả chục ngàn người. Thật kỳ diệu!
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa kẻo phí. Chúa Giêsu tiết kiệm, không lãng phí, điều này nhắc chúng ta phải biết quý miếng ăn, biết nghĩ đến những người đang đói khổ ở đâu đó, có thể họ đang ở ngay bên mình.
Vâng lời Thầy, các môn đệ thu được mười hai thúng đầy những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch. Phần dư còn nhiều hơn phần gốc. Ngoài sức tưởng tượng, thế nên mọi người rỉ tai nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” Nhưng Chúa Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, Ngài lánh mặt đi lên núi một mình. Lại một bài học đắt giá nữa: Đừng coi trọng danh vọng, đừng tự tôn, đừng thấy người ta khen mà tưởng mình “ngon” hơn hoặc tài giỏi hơn người khác. Tất cả sẽ qua đi, ngay cả những gì mình sở hữu cũng không thuộc về mình. Cuộc đời chỉ còn lại tình yêu tồn tại nhờ biết thương xót, ba nhân đức đối thần cũng chỉ còn Đức Mến – Đức Ái.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là dấu tiên báo về Bí tích Thánh Thể, và cũng cho chúng ta biết rằng nhu cầu ăn uống liên quan vấn đề sinh tồn – thể lý và tâm linh. Biết chăm lo cho mình thì cũng phải biết chăm lo cho người khác: Yêu người như yêu mình. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà quan tâm nhu cầu thiết yếu của người khác. Thể lý yếu đuối có thể ảnh hưởng tinh thần, trí tuệ và tâm linh. Thể xác cần ăn uống để sống khỏe mạnh thì linh hồn cũng cần nuôi dưỡng để sinh tồn. Có thực mới vực được đạo. Rất thực tế.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu có cách riêng rất thực tế: “Tôi không thể làm được việc lớn, nhưng tôi ước nguyện dùng mỗi công việc, dù là việc nhỏ, để làm sáng danh Chúa.” Rất độc đáo! Trong tình trạng “căng” của đại dịch hiện nay, có tiền cũng chẳng làm gì được. Thật xúc động khi có những Mạnh Thường Quân chia sẻ thực phẩm rất cụ thể – từ chai nước tới hộp cơm, từ mớ rau đến ký gạo, từ vài tấn tới vài chục tấn thực phẩm,… Nếu không có điều kiện chia sẻ lương thực thì chúng ta cầu nguyện cho những người đau khổ. Lời cầu nguyện lúc này vô cùng cần thiết, cụ thể và thực tế.
Lạy Thiên Chúa chí thánh, xin giúp chúng con can đảm chấp nhận và biến đổi theo Ý Ngài. Xin cho người giàu biết rộng lòng chia sẻ nhu cầu thực tế hằng ngày để người nghèo có thể sống xứng đáng kiếp người, nhờ đó họ có thể an tâm phụng sự Ngài và làm chứng về Ngài suốt đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
THIÊN CHÚA CÓ THÍCH THỬ THÁCH CON NGƯỜI KHÔNG?
Giuse Trần Văn Ngữ, SJ
Những ngày qua, bệnh dịch đang hoành hành mạnh mẽ ở Việt Nam. Nếu trước đây, chúng ta chỉ nghe nói và chứng kiến trên màn hình tivi về sự tàn phá của bệnh dịch, thì bây giờ, chúng ta đang trải qua những khốn khó nhất trong cơn đại dịch. Giữa vòng vây của đại dịch, chúng ta mới thực sự cảm nhận được thân phận con người yếu đuối mỏng manh và dễ vỡ. Không ít người đã rơi vào sự hoảng loạn và mất hết hy vọng về tương lai.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng! Điều quan trọng, chúng ta đối diện với những khó khăn ấy như thế nào. Bài Tin Mừng hôm nay,[1] cho ta thấy các môn đệ đang đứng trước một khó khăn lớn. Tất nhiên, tình cảnh này không bi đát bằng những điều mà người dân Việt Nam đang phải trải qua trong cơn đại dịch, nhưng ở đây, chúng ta thấy các môn đệ đang ở trong thế bế tắc và bất lực hoàn toàn.
Bấy giờ, Đức Giê-su hỏi Phi-líp-phê: „Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế là để thử[2] ông” (6a). Thánh Gio-an đã khéo léo cho ta biết rằng Đức Giê-su đang „hỏi thử” người môn đệ. Chúng ta nên để ý sự khác biệt giữa thử thách và cám dỗ. Khi thử thách, người thầy hy vọng rằng học sinh sẽ vượt qua bài kiểm tra; Còn khi cám dỗ, người cám dỗ luôn muốn rằng người kia sẽ rơi thất bại và rơi vào cạm bẫy của mình. Ở đây, Đức Giê-su không có chủ ý gài bẫy. Ngài chỉ hỏi thử để hy vọng tìm thấy nơi Phi-líp-phê một đức tin mạnh mẽ hơn. „Vì Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (6b). Đức Giê-su đã có một kế hoạch trong tâm trí. Ngài không có ý đòi buộc Phi-líp-phê phải giải quyết một vấn đề quá khó khăn, nhưng Ngài chỉ thăm dò xem, để biết chiều sâu đức tin của Phi-líp-phê thế nào.
Có lẽ, Phi-líp-phê không nhớ đến phép lạ Đức Giê-su đã thực hiện tại tiệc cưới Ca-na.[3] Phép lạ đánh dấu sự khởi đầu của Đức Giê-su, và khiến các môn đệ tin vào Ngài. Trước đó, Phi-líp-phê đã là môn đệ của Đức Giê-su.[4] Mặc dù chúng ta không được biết cụ thể rằng Phi-líp-phê có hiện diện trong tiệc cưới Ca-na hay là không, nhưng chắc chắn ông đã nghe nói về phép lạ đó. Tuy nhiên lúc này, Phi-líp-phê không mảy may nghĩ đến việc Đức Giê-su có thể thực hiện phép lạ để nuôi dân chúng.
Không chỉ riêng Phi-líp-phê cảm thấy tình cảnh quá khó khăn, mà một môn đệ khác cũng đã nhận ra tình hình thực tế không có gì khả quan. „Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.” Ông An-rê thông tin cho biết: có một nguồn lực khiêm tốn – một cậu bé với bữa trưa của mình. Ngay sau đó, ông tán thành chủ nghĩa bi quan của Phi-líp-phê: “nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”” Cả Phi-líp-phê và An-rê đều giúp chúng ta hiểu được thực trạng khó khăn thực sự mà các ông đang phải đối diện.
Phải chăng Đức Giê-su đang thực sự muốn thử thách Phi-líp-phê và các môn đệ? Hay nói một cách khác, Thiên Chúa có thích thử thách con người không?
Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự tốt lành. Còn sự dữ và những khó khăn trên thế giới như là một phần của cuộc sống. Và theo cái hiểu thông thường, Thiên Chúa không cần thử thách con người làm chi. Nhưng những thử thách và cám dỗ luôn hiện diện trong đời sống thường ngày, chúng là cơ hội để con người sống gần Thiên Chúa hơn.[5]
Bài Tin Mừng hôm nay, mời gọi chúng ta tiếp tục đặt niềm tin nơi Thiên Chúa. Trong những tình cảnh khó khăn, tưởng chừng như không thể đối với con người, thì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể. Tất nhiên, chúng ta không nên hiểu lầm là mình cứ ngồi chờ đợi, Thiên Chúa sẽ ra tay cứu. Ngược lại, chúng ta được mời gọi: cố gắng vận dụng tất cả những gì mình có, để đẩy lui bệnh dịch và tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa. Nói một cách khác, Thiên Chúa luôn dành chỗ cho sự cộng tác của con người vào công trình của Ngài. Để phép lạ có thể xảy ra, con người cần đóng góp phần nhỏ bé của mình.
Trở lại với câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay. Điều gì sẽ xảy ra nếu cậu bé không muốn chia sẻ bữa trưa của mình? Điều gì sẽ xảy ra nếu cậu bé nói: „Tôi cần những thức ăn này cho chính mình”; hoặc chối từ chia sẻ một cách trả lời khéo léo rằng: “Một chút của tôi sẽ không tạo ra sự khác biệt nào cả!” Ngược lại, ở đây cậu bé đã hoàn toàn quảng đại chia sẻ những gì mình có, và được Chúa ban phước lành. Đây là thông điệp chính trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
Nhìn lại lịch sử loài người, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa thường dùng một số ít người tài giỏi và khiêm tốn để thực hiện hầu hết các công việc nhân danh Ngài. Nếu ai trong chúng ta bị cám dỗ và muốn thoái lui, vì nghĩ rằng mình có quá ít để đóng góp, thì cần phải nhớ rằng Chúa đã thực hiện những điều kỳ diệu thế nào từ sự quảng đại đóng góp phần nhỏ bé của con người.
Niềm hy vọng của chúng ta trong cơn đại dịch này không phải là những hy vọng ảo tưởng vào những lời nói suông, nhưng là niềm hy vọng đặt trên những hành động cụ thể. Dù tình hình thực tế có bi đát đến đâu đi chăng nữa, thì chúng ta vẫn luôn cậy trông nơi Thiên Chúa và sống liên đới với người khác. Như lời Đức Thánh Cha Phan-xi-cô từng chia sẻ với chúng ta trong cơn đại dịch: Chúng ta nên sống trong đại dịch thế nào?[6] Và cần đối phó với đại dịch bằng tình yêu không biên giới.[7] Với tình yêu ấy, chúng ta thắp lên những ngọn nến hy vọng dìu bước nhau trong đêm tối, và hướng đến một tương lai tươi sáng hơn.
Xin cho chúng con biết sống yêu thương và quảng đại với anh chị em mình. Amen.
………..
[1] Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều (Ga 6,1-15).
[2] πειράζων (peirázôn) = có thể có nghĩa là kiểm tra, thử thách hoặc cám dỗ.
[3] Tiệc cưới Ca-na (Ga 2,1-11).
[4] Xem: Các môn đệ đầu tiên (Ga 1,43-48).
[5] Chúng ta hãy đọc thư thánh Giacôbê Tông đồ: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói : ‘Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ’, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai (Gc 1,13). Hoàn toàn ngược lại: Chúa Cha không phải là tác giả của điều xấu, không có người con nào yêu cầu cá mà Người cho rắn (x. Lc 11,11) như Chúa Giêsu đã dạy, và khi sự ác xuất hiện trong cuộc sống của con người, Chúa chiến đấu bên cạnh họ, để họ có thể để được giải thoát khỏi sự dữ. Đó là một Thiên Chúa luôn chiến đấu vì chúng ta, chứ không chống lại chúng ta. (xem bài giảng của Đức Thánh Cha Phan-x-cô: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-05/dtc-phanxico-tiep-kien-chung-kinh-lay-cha-cam-do-thu-thach.html )
[6] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-04/dtc-phanxico-song-trong-dai-dich-covid-19-the-nao.html
[7] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-09/dtc-phanxico-tiep-kien-chung-dai-dich.html
ĐỨC GIÊSU LÀ BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI
Lm. Nguyễn Ngọc Dũng
Ai trong chúng ta cũng đã một lần đối diện với những khó khăn mà dường như vượt ra khỏi sự kiểm soát cũng như khả năng của mình để giải quyết. Khi vượt qua những khó khăn đó, chúng ta ngạc nhiên khẳng định rằng chỉ với ơn Chúa mình mới có thể vượt qua được. Đây chính là điều chúng ta thấy phản chiếu trong các bài đọc lời Chúa hôm nay. Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả sách các Vua trình bày cho chúng ta nghe câu chuyện về lòng quảng đại của một người từ Baan Salisa dành cho Êlisa, “người của Thiên Chúa” trong nạn đói. Lòng quảng đại của người đó được gói gọn trong “hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị” (2V 4:42). Ông Êlisa không nghĩ đến mình mà nói với người tiểu đồng của mình mang phát cho mọi người ăn. Câu trả lời của người tiểu đồng phản ánh chính thực tại của đời sống chúng ta khi đối diện với khó khăn và câu trả lời này một lần nữa được tìm thấy âm hưởng trong bài Tin Mừng: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” (2V 4:43). Nhưng Êlisa chỉ cho tiểu đồng biết rằng, chính Đức Chúa là Đấng cho dân ăn chứ không phải ông: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.” Khi làm theo lời của Êlisa, tiểu đồng mới hiểu được đối với Thiên Chúa không gì là không thể: “Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán” (2V 4:44). Chi tiết này giúp chúng ta an lòng khi đối diện với những khó khăn trong cuộc sống. Khó khăn không nhằm mục đích đè bẹp chúng ta, nhưng có mục đích rèn luyện đức tin cũng như giúp chúng ta khám phá ra khả năng của mình siêu việt thế nào khi biết cộng tác với Chúa.
Một kinh nghiệm khác chúng ta cảm nghiệm trong đời sống là mỗi người chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi sống những bậc sống khác nhau: gia đình, độc thân, hay thánh hiến tu trì. Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Êphêsô [chúng ta] sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Để sống xứng đáng với ơn gọi của mình, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta phải “ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4:2-3). Trong những lời này, Thánh Phaolô chỉ ra những nhân đức chúng ta cần phải có khi sống với nhau, nhất là trong đời sống gia đình và trong cộng đoàn tu trì. Bên cạnh đó, Thánh Phaolô cũng chỉ ra rằng khi sống đúng với ơn gọi của mình, chúng ta nhận ra mình được nối kết với anh chị em khác trong cùng một thân thể, được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng, cùng tin vào một phép rửa, tin vào một Chúa là “Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người” (x. Ep 4:4-6). Nếu chúng ta được nối kết với những anh chị em khác trong cùng một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa, tại sao lại có sự chia rẽ giữa chúng ta? Đó là vì chúng ta không sống đúng với ơn gọi của mình và mặc lấy những nhân đức mà Thánh Phaolô đã kể ra ở trên. Hãy là những con người khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại và lấy tình yêu mà chịu đựng những khuyết điểm của nhau. Chỉ như thế chúng ta mới cảm nghiệm được sự bình an và hiệp nhất trong Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bài giảng của Chúa Giêsu về bánh hằng sống (Ga 6:1-71). Đây là một trong những chương dài trong Tin Mừng Thánh Gioan. Bài giảng này có sự tương đồng với những sự kiện được Thánh Máccô thuật lại trong 6:30-54 và 8:11-33. Những sự kiện đó bao gồm: (1) hoá bánh cho năm ngàn người ăn (Ga 6:1-15; Mc 6:30-44); (2) Chúa Giêsu đi trên biển (Ga 6:16-24; Mc 6:45-54); (3) đòi một dấu lạ (Ga 6:25-34; Mc 8:11-13); (4) bình luận về bánh hằng sống (Ga 6:35-59; Mc 8:14-21); (5) lời tuyên xưng của Phêrô (Ga 6:60-69; Mc 8:27-30); (6) [tiên báo về] cuộc thương khó (Ga 6:70-71; Mc 8:31-33). Những hình ảnh [biểu tượng] về Chúa Giêsu như Đấng cung cấp “nước hằng sống” trong chương 4 và bánh từ trời được phát triển cùng với nền Kitô học của Thánh Gioan như một vị vua – ngôn sứ theo Môsê. Đối với thánh sử, toàn bộ câu chuyện về bánh hằng sống trở thành một cuộc đối diện khác giữa đám đông không tin và Đấng đến từ trời với lời ban sự sống. Cấu trúc của bài Tin Mừng hôm nay như sau: (1) bối cảnh xa (Ga 6:1-4); (2) bối cảnh gần: Chúa Giêsu đối thoại với các môn đệ (Ga 6:5-10); (3) Chúa Giêsu thực hiện phép lạ (Ga 6:11-13); (4) phản ứng của dân chúng và hành động của Chúa Giêsu sau phép lạ (Ga 6:14-15). Chúng ta cùng nhau suy gẫm trên những điểm mà cấu trúc Tin Mừng đã gợi ý cho chúng ta.
Trước tiên, chúng ta cần lưu ý rằng Thánh Gioan đã nới rộng phần giới thiệu bằng việc thêm vào đó những chi tiết sau: (1) một cột móc không rõ ràng về thời gian [“sau những điều này”]; (2) một nơi chốn cụ thể [“bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria.”]; (3) động lực của đám đông tìm đến Chúa Giêsu [“Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm.”]; (4) thời điểm quy chiếu [“Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái.”]. Trong phần này, điều đáng để chúng ta suy gẫm là động lực của đám đông đến với Chúa Giêsu. Thánh Gioan trình bày rõ ràng cho chúng ta là đám đông đến với Chúa Giêsu vì họ thấy ‘những dấu lạ người làm cho những kẻ đau ốm,’ nói cách khác là họ nhìn thấy Chúa Giêsu chữa lành những kẻ đau ốm. Như chúng ta biết, một trong những hành động quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan là ‘thấy.’ Tuy nhiên, ‘thấy’ chỉ mới là bước đầu của tin. Đám đông đến với Chúa Giêsu chỉ vì ‘thấy’ Ngài thực hiện những dấu lạ chứ chưa biết và tin Ngài. Điều này được chỉ rõ trong phần kết của bài Tin Mừng, đó là họ chỉ nhận ra Ngài như một vị ‘ngôn sứ’ giống như Môsê, người đã cho dân Israel bánh ăn trong sa mạc. Chúng ta cũng đến với Chúa mỗi ngày [hoặc mỗi tuần], nhưng động lực của chúng ta là gì? Nhiều người trong chúng ta đã ‘thấy’ nhiều dấu lạ Chúa thực hiện mỗi ngày trong cuộc đời của mình [hay của người thân], nhưng chúng ta đã đóng cửa lòng mình lại, chúng ta không nhận ra Ngài và đặt trọn niềm tin yêu phó thác vào tay Ngài. Chúng ta chỉ đến với Chúa chỉ vì chúng ta cần những nhu cầu của mình được đáp ứng, chứ chúng ta không đến với Ngài vì tin yêu Ngài.
Bối cảnh gần của phép lạ là một cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, cụ thể là với Philipphê và Anrê. Chúng ta viết lại cuộc đối thoại này như sau:
Chúa Giêsu [“Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê]: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” [“Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi].
Ông Philípphê: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”
Anrê: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”
Chúa Giêsu: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” [Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn].
Trong phần phép lạ, chúng ta đọc thấy như sau: “Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: ‘Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.’ Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” (Ga 6:11-13). Điều đáng để chúng ta lưu ý là sự tương phản và tiếp nối giữa hành động của Chúa Giêsu và các môn đệ. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, chính Chúa Giêus là người phân phát cho dân chúng bánh và cá sau khi đã dâng lời tạ ơn. Các môn đệ chỉ là những người đi thu lại những gì Chúa Giêsu đã phân phát. Điều này khác với Tin Mừng Nhất lãm là Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ đi phân phát cho dân chúng và cũng chính các môn đệ đi thu lại những gì Chúa Giêsu đã bẻ ra và các ông phân phát. Chúng ta rút ra từ những chi tiết này điều để suy gẫm là: Chúa Giêsu luôn là Người trao ban chính mình và mọi sự cho chúng ta. Về phần chúng ta, chúng ta chỉ cộng tác với Ngài trong việc phân phát những gì Chúa Giêsu đã trao vào tay chúng ta cho anh chị em của mình. Sứ vụ của chúng ta là sự tiếp nối của sứ vụ Chúa Giêsu. Những gì chúng ta trao ban đều thuộc về Chúa Giêsu. Chỉ khi hiểu được điều này, sứ vụ của chúng ta mới sinh được nhiều hoa trái để mọi người được ăn no nê mà vẫn còn dư thừa.
Bài Tin Mừng kết thúc với phản ứng của đám đông sau khi nhìn thấy dấu lạ là: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: ‘Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!’” (Ga 6:14). Đứng trước sự hiểu lầm về chân tính của mình, Chúa Giêsu liền tránh mặt: “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6:15). Đứng trước dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện, dân chúng chỉ dừng lại ở những gì “thuộc về thân xác, thuộc về đất.” Vì vậy, họ không hiểu được thực tại trên trời mà qua dấu lạ Chúa Giêsu ám chỉ đến. Qua dấu lạ, họ chỉ dừng lại ở việc tuyên xưng Chúa Giêsu là một vị ngôn sứ như Môsê, người đã cho họ bánh ăn trong sa mạc. Họ không thể đạt đến việc tuyên nhận rằng, Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, là Con Thiên Chúa. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài của sự kiện để rồi không thể đọc và hiểu được điều Thiên Chúa nói với chúng ta. Hãy vượt qua những gì mà con mắt thể lý có thể nhìn, và nhìn với con mắt đức tin, chúng ta mới hiểu được những thực tại của Thiên Chúa.
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
1. Đói.
Theo từ điển Tiếng Việt, đói là có cảm giác cồn cào, khó chịu khi đang thấy cần ăn mà chưa được ăn hoặc chưa được ăn đủ. Đói là lâm vào tình trạng thiếu lương thực. Đói cũng có nghĩa là thiếu nhiều, do một đòi hỏi tự nhiên và đang rất cần. Tuy nhiên, tình trạng đói không chỉ dừng lại ở đói ăn, đói uống, đói vật chất, nhưng tồn tại cái đói trầm trọng và đáng quan ngại là đói tinh thần, đói sự thật, đói tình yêu, đói tình người, đói sự chung thủy trong đời sống vợ chồng, đói tình liên đới, đói sự hiệp nhất, đói sự tha thứ, đói sự dấn thân, đói sự quảng đại, đói sự bao dung, đói nụ cười, đói sự cảm thông, đói sự chia sẻ nhưng chất chứa sự chia rẽ, đói sự vị tha,… Trước những cơn đói dữ dằn này, con người dường như rất khó khăn để giải quyết, nhưng chỉ thực sự được khoả lấp nơi Đức Giê-su Ki-tô mà thôi.
2. Khoả lấp từ Chúa Giê-su.
Đứng trước cái đói của con người, chính Thiên Chúa đã thi thố quyền năng của Ngài ngang qua các ngôn sứ cũng như các trung gian để con người được khoá lấp cơn đói. Một Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo trời đất với biển khơi, Một Thiên Chúa đã giải thoát dân Is-ra-en thoát khỏi Ai cập, chẳng lẽ nào lại không làm cho dân đói được no nê hay sao?.
Quả thật, nơi bài đọc I, đứng trước cái đói của dân, ngôn sứ Ê-li-sa đã bảo tiểu đồng phát cho họ ăn mặc dù chỉ vỏn vẹn có hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Nhưng tin tưởng vào uy quyền của Đức Chúa, ngôn sứ Ê-li-sa đã mạnh dạn phân phát cho dân: họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán. (x.2 V 4, 42-44). Nơi bài Tin Mừng (Ga 6, 1-15) mà Thánh Gioan trình thuật, trước cái đói của dân chúng đông đúc, Đức Giê-su đã hoá bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá để cho hơn năm ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà và trẻ em đã ăn no nê mà còn dư mười hai thúng. Một phép lạ biểu lộ quyền năng của Đức Giê-su trước dân người. Một sự khoả lấp đầy lòng nhân ái và tình thương của vị Thiên Chúa hữu hình đối với con người ngang qua Đức Giê-su Ki-tô. Một hình ảnh báo trước về bí tích Thánh Thể mà sau này Đức Giê-su sẽ tặng ban cho con người chính Máu và Thịt của Ngài. Thật vậy, tuy chỉ có một tấm bánh, là Mình Thánh Chúa, nhưng muôn người ở khắp mọi nơi trong mọi thời đã luôn được đón nhận và không bao giờ chấm dứt. Sự dư tràn hồng ân dịu ngọt từ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô sẽ khoả lấp mọi khát vọng cho con người, nhất là khát vọng sự sống đời đời.
Quả thật, khi đói về thể xác, con người tìm đến của ăn để thoả mãn cơn đói. Khi đói về tinh thần, đói về linh hồn, đói về tâm linh, con người chúng ta chỉ thực được khoả lấp và no thoả khi chúng ta biết tìm gặp Đức Giê-si Ki-tô, là hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu ở cùng chúng ta. Có thể nói ngay rằng có nhiều sự khoả lấp để con người tìm cách giải quyết cho những khúc mắc cuộc đời, nhưng sự khỏa lấp đích thực và đỉnh cao là ở nơi Chúa, nơi Đức Giêsu. Nơi Ngài, con người được sống và sống dồi dào. Nơi Ngài, chúng ta sẽ được no thỏa. Nơi Ngài, muôn người sẽ được nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Nơi Ngài, con người sẽ được dẫn đến đồng cỏ xanh tươi và tắm ở dòng suối mát. Nơi Ngài, con người được vỗ về và chăm sóc cẩn thận và kỹ càng. Nơi Ngài, con người được kín múc nguồn sức mạnh từ Lời và từ Mình Máu Thánh Ngài. Nơi Ngài, con người không còn lo sợ và cô đơn. Nơi Ngài, con người sẽ được chan chứa niềm vui và sự bình an. Nơi Ngài, con người sẽ đón gặp sự gần gũi, thân thiện và thương yêu. Nơi Ngài, con người cảm nhận được lòng thương xót vô bờ vô bến của Một Vị Thiên Chúa Tình Yêu. Nơi Ngài, con người sẽ được sống đời đời. Tuy nhiên, được đón nhận ân lộc từ Chúa, được khoả lấp cơn đói – cơn khát từ Chúa, mỗi chúng ta cũng được mời gọi biết trao ban và khoả lấp cho anh chị em chung quanh.
3. Khoả lấp cho tha nhân, bổn phận của ki-tô hữu:
Thật vậy, chúng ta đang sống chung với mọi người trong hành trình dương thế, chúng ta được nhắc nhở thế này: chúng ta đã đón nhận nhưng không thì cũng phải cho nhưng không (x.Mt 10,8); “Ai vui vẻ dâng hiến thì được Chúa yêu thương” (2 Cr 9,7); “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35); “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” (1 Ga 3,17-18); cũng như câu ca dao “Anh em như thể tay chân – Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần.” hoặc “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước thì thương nhau cùng”. Trong bối cảnh cả và nhân loại, nhất là tại các tỉnh miền nam Việt Nam hiện nay đang phải quằn quại và mệt mỏi vì đại dịch Covid. Họ không những đói về mặt nhu yếu phẩm, nhưng cái quan trọng là tinh thần hoang mang, lo sợ và mất bình an vì sự ‘thăm viếng’ của ‘nàng Cô-vy’. Lúc này đây, hơn bao giờ hết, họ đang cần tình liên đới, sự nối kết và lòng cảm thông của mọi người. Lúc này đây, trong cơn đại dịch, chúng ta mới biết rằng tình người cần biết bao. Lúc này đây, tiền bạc và của cải giàu sang không phải là thứ quyết định cho những ai bị nhiễm bệnh Covid Vũ Hán. Lúc này đây, bệnh viện dã chiến cũng hết chỗ bởi số người nhiễm bệnh quá lớn. Cho nên, họ không những đau buồn vì bị nhiễm bệnh, nhưng còn đau buồn hơn là không được đi tới bệnh viện để được cách ly và được chữa trị. Lúc này đây, nhiều gia đình đã phải ‘phân ly cách biệt’ những người thân. Do đó, tất cả những ai đang phải đối diện với những gian nan và khổ đau này đều đang sống trong tình trạng ‘đói’. Họ cần sự tương trợ, họ cần sự giúp đỡ và tình liên đới của mỗi chúng ta. Trước nguy cơ này, Thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta nơi bài đọc II: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau.”(Ep 4, 2-3). Lúc này đây, sống sự nối kết và tình tương thân tương ái là lời mời gọi hết sức khẩn thiết đối với mỗi chúng ta. Là anh em với nhau trong mái nhà chung là nhân loại, chúng ta hãy sống yêu thương hơn là ích kỷ, sống bao dung hơn là loại trừ, sống quan tâm chăm sóc anh chị em hơn là vô tâm và dửng dưng. Là con cái của Chúa, chúng ta không thể không sống chiều kích yêu thương như Chúa. Chính khi thực thi bác ái yêu thương bằng hành động là chúng ta đang trở nên ‘khí cụ khoả lấp’ những ‘cơn đói, cơn khát’ của con người thời đại, nhất là những con người khổ đau, bệnh hoạn tật nguyền và nghèo đói.
Tóm lại, con người ngày nay đang phải đối diện với những cơn đói trong cuộc sống: đói cơm áo gạo tiền, đói tình thương và lòng bao dung. Cơn đói lớn nhất là cơn đói về mặt tinh thần hay về mặt linh hồn. Cơn đói này chỉ thực sự được khoả lấp khi con người biết tìm kiếm và tựa nương vào Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô. Chỉ nơi Lời Ngài và Mình Máu Thánh của Ngài, con người mới thực sự được no thoả viên mãn. Chỉ nơi Danh Ngài, con người mói thực sự được cứu độ và giải thoát. Tuy nhiên, mỗi chúng ta, là những ki-tô hữu, cũng đóng một vai trò hết sức cần thiết trong việc khoả lấp những khát vọng và những cơn đói của anh chị em đồng loại. Là những Chúa Giê-su khác, những người đang sống cùng, sống với anh chị em, chúng ta được đòi hỏi phải thực hành giới răn yêu thương liên lỉ để cùng dẫn dắt anh chị, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật và những người bất hạnh tìm đến sự bình an, niềm vui và hạnh phúc trong Chúa Ki-tô.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
Hẳn ông này là vị Ngôn Sứ, Đấng phải đến thế gian(Ga 6,14).
Vị Ngôn Sứ nàyđược Chúa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật như sau: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một Ngôn Sứ như ngươi để giúp chúng. Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng Người ấy và Người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho Người ấy”(x.Dnl 18,18).
Qua đó, chúng ta biết Ngôn Sứ là người nói Lời Chúa. Đức Giê-su là người đến loan báo Lời Chúa, nên Đức Giê-su thực sự là một vị Ngôn Sứ. Trong bài Phúc Âm, khi Đức Giê-su làm dấu lạ, lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, đã làm cho 5 ngàn người đàn ông chưa kể phụ nữ và con trẻ, ăn no nê và còn dư 12 thúng đầy. Trước khi làm dấu lạ này, Đức Giê-su đã nói Lời Chúa cho họ.
Như Chúa đã lấy bánh và cá làm cho người ta ăn no nê về phần xác thế nào, thì Chúa cũng sẽ lấy Lời Chúa làm cho chúng ta no nê về phần hồn như vậy. Và khi được no đầy Lời Chúa, chúng ta, những người tín hữu công giáo cũng được Chúa cho tham dự vào chức vụ Ngôn Sứ của Đức Giê-su nữa.
“Đức Ki-tô chu toàn chức vụ Ngôn Sứ không những nhờ hàng giáo phẩm, nhưng cũng nhờ các giáo dân nữa. Người đã đặt họ làm chứng nhân, bằng cách ban cho họ cảm thức đức tin và ơn dùng ngôn từ”(x. GLCG, số 904).
“Cảm thức đức tin” là gì?
“Mọi tín hữu đều tham dự vào ơn hiểu biết và việc lưu truyền mặc khải. Họ được Thánh Thần xức dầu, chính Người dạy dỗ và dẫn họ tới chân lý toàn diện”(x.GLCG, số 91).
Như vậy, “cảm thức đức tin” được hiểu nôm na là những gì mà người tín hữu cảm nghiệm, cảm nếm và nhận thức được nhờ đức tin về những gì Chúa mặc khải qua Lời Chúa. Từ đó, “Toàn thể tín hữu, không thể sai lầm trong đức tin. Họ biểu lộ đặc tính ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi “từ các Giám Mục cho đến người giáo dân rốt hết”, đều đồng ý về những chân lý liên quan đến đức tin và phong hóa”(x.GLCG, số 92).
“Thực vậy, nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần chân lý khơi dậy và duy trì và dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền, Dân Thiên Chúa một lòng gắn bó không sờn với đức tin đã được truyền lại một lần dứt khoát, đào sâu đức tin hơn nhờ giải thích đúng đắn và thực thi trọn vẹn đức tin ấy trong đời sống của mình”(x. GLCG, số 93).
Như chúng ta biết, “Kho tàng đức tin” được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, đã được các Tông Đồ giao phó cho toàn thể Hội Thánh(x. GLCG, số 84). Nhưng “Nhiệm vụ giải nghĩa cách chân chính Lời Thiên Chúa đã được viết ra hay lưu truyền, chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền sống động của Hội Thánh và Hội Thánh thi hành quyền đó nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, nghĩa là được ủy thác cho những Giám Mục sống hiệp thông với Giám Mục Rô-ma, là người kế nhiệm thánh Phê-rô”(x. GLCG, số 85).
Dù vậy, “Huấn Quyền không vượt trên Lời Chúa, nhưng phải phục vụ Lời Chúa, nên chỉ dạy những gì đã được truyền lại. Theo lệnh Chúa, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Huấn Quyền thành tâm lắng nghe, gìn giữ cách thánh thiện và thành tín trình bày Lời Chúa. Và từ kho tàng đức tin duy nhất ấy, rút ra mọi điều phải tin như là Mặc Khải của Thiên Chúa”(x. GLCG, số 86).
Như thế, người tín hữu công giáo chúng ta muốn có những cảm thức về đức tin; nói cách khác là gia tăng sự hiểu biết về đức tin; hiểu biết về Lời Chúa, chúng ta phải làm 3 việc sau đây:
- Suy niệm và học hỏi về Lời Chúa và Giáo Lý của Giáo Hội.
- Có đời sống nội tâm sâu sắc để có thể cảm nghiệm được những thực tại thiêng liêng.
- Tuân phục những lời giảng dạy của Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục. Vì các ngài là những người đã nhận được đặc sủng chắc chắn về chân lý.
“Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền, nhờ một sự an bài rất khôn ngoan của Thiên Chúa, liên kết và phối hiệp với nhau đến nỗi không một thực thể nào một trong ba có thể đứng vững một mình được. Dưới tác động của một Thánh Thần duy nhất, cả ba cùng góp phần hữu hiệu vào việc cứu độ các linh hồn, mỗi thứ theo phương cách riêng của mình”(x.GLCG, số 95).
Có thể nói Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền, theo tôi, được ví như 1 cái kiềng 3 chân. Ông bà ta nói: “Vững như kiềng 3 chân” mà. Cái kiềng đây là Đức Tin; 3 chân đây là Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của Hội Thánh. Nhờ Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền mà đức tin của chúng ta vững vàng, chính xác và hiệu quả.
Vậy, chúng ta những người tín hữu công giáo hãy không ngừng đón nhận, đào sâu và sống hồng ân mặc khải ngày càng trọn vẹn hơn, cũng như thực thi trọn vẹn đức tin đó trong đời sống hàng ngày của mình. Đức tin của chúng ta ngày càng vững vàng hơn; trưởng thành hơn; để
“Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thời nào cũng vậy, con người luôn có nhu cầu cần lương thực. Đó là nhu cầu căn bản của con người, như người ta thường nói : “Có thực mới vực được đạo”. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo thành con người và đặt họ trong vũ trụ. Ngài cũng dùng những sản phẩm từ thiên nhiên để nuôi sống con người. Nếu biết sử dụng đúng mức và công bằng, trái đất này không bao giờ thiếu lương thực nuôi sống con người. Tuy vậy, trong thực tế, mức sống của mọi người lại khác nhau. Hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Trên thế giới luôn có những người nghèo khổ đói ăn, trẻ em suy dinh dưỡng, người bệnh không có thuốc, trong khi đó lại có những người giàu ăn tiêu phung phí. Trong bối cảnh đó, Lời Chúa hôm nay kêu mời chúng ta: “Hãy dọn cho họ ăn”. Đây là lời mời gọi chia sẻ tinh thần và vật chất để xoa dịu nỗi đau của đồng loại và xây dựng một xã hội công bằng.
“Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”. Khi viết lại câu hỏi của Chúa Giêsu, Tác giả Gioan còn ghi chú thêm: Người có ý hỏi thử ông Philipphê, vì chính Người biết việc Người sắp làm. Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, vừa chứng minh quyền năng thiên sai của Người, vừa nói lên sự quan tâm chăm sóc của Chúa dành cho những ai nhiệt tâm theo Người vào tận sa mạc. Qua đó, Chúa khẳng định: những ai tin cậy phó thác nơi Chúa, Người sẽ không bỏ rơi họ. Đời sống cá nhân của mỗi tín hữu chúng ta ít nhiều đã chứng minh điều đó. Có những lúc ngặt nghèo túng quẫn, Chúa đã ra tay phù giúp chúng ta. Nhiều khi chúng ta không nhận ra sự can thiệp diệu kỳ của Chúa, mà lại coi đó như một điều ngẫu nhiên. Hôm nay cũng như trong suốt lịch sử, Thiên Chúa vẫn đồng hành với chúng ta và vẫn sẵn sàng ban cho chúng ta những ơn cần thiết trong cuộc đời.
“Hãy dọn cho họ ăn”, đó là lời mời gọi chia sẻ với tha nhân. Xã hội văn minh hôm nay đang tạo ra những “cỗ người máy”, sống vô cảm trước nỗi đau của người khác. Một số người làm ăn phát đạt giàu có lại khép lòng trước người nghèo và những hoạt động công ích. Sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn gửi gắm chúng ta qua việc hóa bánh ra nhiều, đó là sự chia sẻ với tha nhân. Những chuyên viên nghiên cứu khẳng định rằng, nếu của cải vật chất trên trần gian này được phân phối đồng đều, thì sẽ không còn người đói khát và nghèo khổ. Chúng ta vui mừng vì những năm gần đây, ngày càng có nhiều người quan tâm đến những hoạt động từ thiện, giúp đỡ người nghèo khó bất hạnh và nạn nhân thiên tai. Đó là những điểm sáng bừng lên giữa đêm đen, khẳng định rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn có những tấm lòng nhân ái. Bên cạnh đó, hằng năm đều có những người cán bộ lợi dụng chức quyền ăn chặn tiền hỗ trợ dành cho người nghèo, làm mất niềm tin và ảnh hưởng đến quyền lợi của người nghèo.
Có người đặt câu hỏi: “Tại sao Chúa không tiếp tục nhân bánh ra nhiều để nuôi con người như được thuật lại trong Tin Mừng?”. Chúng ta nhớ lại lời Chúa quở trách người Do Thái, vì họ tìm Chúa không phải vì lòng yêu mến hay vì thấy những dấu lạ, nhưng vì đã được ăn bánh no nê hôm trước (x. Ga 6, 26). Người không muốn biến đức tin của con người thuần túy vì mục đích trần tục. Thiên Chúa cũng không phải là một người giữ kho, ai cần thì đến xin phát chẩn. Hơn nữa, Chúa Giêsu có thể phán một lời để có số bánh nuôi dân chúng, nhưng Người lại làm bánh ra nhiều khởi đi từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá một bé trai mang theo. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta: những điều kỳ diệu khởi đi từ sự sẻ chia của con người, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
“Hãy dọn cho họ ăn”, giáo huấn về quyền năng của Thiên Chúa và lời mời gọi chia sẻ xuyên suốt bề dày lịch sử cứu độ. Ngôn sứ Elisê, với hai mươi chiếc bánh lúa mạch, đã nuôi hằng trăm người ăn no, nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Phép lạ kỳ diệu này đến từ lòng xác tín và cậy trông của Elisê. Ông tin chắc điều ông xin sẽ được Chúa nhận lời, và quả đúng như vậy (Bài đọc I).
Phép lạ nhân bánh được cả bốn Tin Mừng kể lại, như hình ảnh báo trước Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập trong bữa Tiệc ly. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người trong sa mạc, thì hôm nay, trên bàn thờ khắp thế giới, Chúa vẫn đang tiếp tục hiến mình làm của nuôi sống các tín hữu. Nhờ của ăn thiêng liêng là Bí tích Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng và tăng thêm sức mạnh. Bí tích Thánh Thể cũng cho chúng ta được hiệp thông với Chúa và hiệp thông với anh chị em mình. Tình hiệp thông giữa các tín hữu được so sánh với một thân thể con người, gồm nhiều bộ phận mà làm nên sự duy nhất, nhờ vậy mà mọi tín hữu có cùng một đức tin, một phép rửa, một niềm hy vọng, vì cùng là con Thiên Chúa, Đấng là Cha chung của chúng ta (Bài đọc II).
“Hãy dọn cho họ ăn”, lời mời gọi không dừng lại ở sự chia sẻ vật chất, nhưng nhắc đến mọi khía cạnh đa dạng của cuộc sống. Thánh Gioan Phaolô II đã mong ước mỗi cộng đoàn Kitô hữu trở nên những “Cộng đoàn Thánh Thể”, tức là cộng đoàn lấy Thánh Thể làm trung tâm cho mọi hoạt động, liên kết với nhau trong tình bác ái yêu thương để diễn tả hình ảnh sống động của Giáo Hội, là Thân Thể Đức Kitô và là phác thảo đời sau.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2) Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3) Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4) Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.Tất cả những lời nói, cử chỉ, thái độ và những phép lạ của Ngài nói lên quyền năng và lòng nhân từ thương xót của Ngài đối với nhân loại, đối với chúng ta. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá do sự cộng tác của con người, Chúa Giêsu đã làm phép lạ để nuôi năm ngàn người ăn no và nhiều người khác nữa khi họ đi theo Chúa, nghe Ngài giảng dạy…Chúa đãi họ một bữa ăn thật bất ngờ ngờ, giản dị. Bữa ăn ngoài trời, bữa ăn tập thể tràn đầy niềm vui, hạnh phúc.
Đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay viết :” Thấy đám đông Chúa chạnh lòng thương “. Chúa đến trần gian để đem lại hạnh phúc và ơn cứu độ cho nhân loại, cho con người. Chúa Giêsu không chỉ rao giảng Nước Trời, Ngài sống nghèo, sống cho người nghèo. Ngài nhạy cảm và đụng tới những nỗi đau của con người. Ngài chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ và đem lại cho con người ơn cứu độ cả hồn lẫn xác. Đi rao giảng, Ngài không làm công việc cứu thế một mình, Ngài đã mời gọi các môn đệ đi theo Ngài. Ngài chính là mẫu gương sáng ngời của các môn đệ khi dạy các môn đệ :” Rao giảng sự sám hối. Giới thiệu Nước Thiên Chúa. Xua trừ ma quỷ và chữa bệnh hoạn tật nguyền. Chúa Giêsu quan tâm tới con người phần hồn cũng như phần xác. Nên, thấy dân chúng từng đoàn người theo Chúa và các môn đệ để nghe Ngài giảng dạy. Chúa không muốn để họ đói, họ khát. Nên, Ngài đã đặt các môn đệ vào nỗi bận tâm của Ngài. Chúa cần sự đóng góp của con người. Chúa cần một Anrê giới thiệu một em bé. Ngài cần em bé trai dâng tặng Ngài bữa ăn trưa với năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài truyền lệnh cho các môn đệ sắp xếp, ổn định chỗ ngồi cho dân chúng. Và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều…Thật sự với một vài cái bánh và hai con cá, một số lương thực chẳng thấm vào đâu đối với số dân đông đảo như thế, nhưng nó lại là món quà thật cao quý của sự chia sẻ.
Thực tế, trên thế giới ngày nay, cái đói cái khát vẫn luôn là nỗi ám ảnh của con người. Biết bao người trên trái đất này đang gặp cảnh đói nghèo. Biết bao người trên thế giới không đủ cơm ăn áo mặc. Tài nguyên thiên nhiên của nhiều nước nằm trong tay của những người giầu thiểu số. Lương thực không được phân bổ đồng đều, có những người ăn không hết phải vứt lương thực đi, nhưng có những người không được ăn no, bữa có bữa không. Vậy cái đói, cái mặc vẫn còn quay quắt trên thân xác của nhiều con người. Có biết bao người có tấm lòng vàng, tấm lòng nhân từ, đã xót xa trước những cảnh tượng đau thương đó, và họ đã bắt tay vào công việc với niềm tin, với sự hy vọng sẽ phần nào làm vơi đi nỗi khổ đau của con người, của nhân loại dù chỉ với :” năm chiếc bánh và hai con cá “. Thiên Chúa sẽ biến đổi, sẽ làm cho con người được đầy no ân phúc.Ngài sẽ làm cho thế giới đẹp hơn, ấm áp hơn, con người hơn và bộ mặt trái đất trở nên sáng hơn, tươi hơn. Do đó, muôn thời thế giới luôn cần có những Kitô hữu,dám sống triệt để Tin Mừng, luôn sẵn sàng giơ tay ra để giúp đỡ những người nghèo, những người bơ vơ vất vưởng, những kẻ cô thân cô thế, thấp cổ bé họng trong xã hội vv…Thế giới này luôn cần có những Phanxicô khó nghèo, những Đa Minh, những Anphongsô, những Têrêsa Calcutta vv…để những người nghèo, những người đau khổ, những người bị thử thách nhận được sự nâng đỡ, ủi an…
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ như Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Chúa mời gọi chúng ta dâng cho Ngài thời giờ, khả năng, vật chất, của cái vv…để với sự cộng tác của chúng ta, Chúa sẽ làm những tặng vật chúng ta trao cho Ngài hóa ra nhiều như năm chiếc bánh và hai con cá, để sẻ chia cho nhiều người trên thế giới, trong xã hội cần được chia sẻ vv…Đứng trước những nỗi khổ đau và nghèo nàn, đói khát của nhiều người. Biết bao người nghĩ rằng mình chẳng có gì để sẻ chia, nhưng thực tế nếu con người biết cho đi thì những cái mình tưởng không ích lợi, không cần thiết sẽ làm cho nhiều người được bớt đói và như thế là đủ cho họ,
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn nhạy cảm, luôn biết quan tâm đến nỗi khó nhọc, đau khổ của người khác.Xin giúp chúng con có tấm lòng như Chúa để chúng con biết cho đi và sẻ chia cho người khác những gì chúng con tưởng răng không cần thiết, nhưng chính sự cho đi là niềm vui và là sự cần thiết cho những người đang cần chúng con chia sẻ.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Thấy đám đông dân chúng, Chúa Giêsu thế nào ?
2.Chúa Giêsu làm phép lạ nhưng Người nơi chúng ta điều gì ?
3.Năm chiếc banh và hai con cá giúp Chúa ra sao ?
4.Đứng trước cơn đói, cơn khát của tha nhân chúng ta phải làm gì ?
5.Cho đi có cần thiết không ? Tại sao ?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người ta nói rằng: cuộc đời ngắn lắm. Hãy trao cho nhau tình yêu khi có thể. Hãy sống trọn tình yêu thương với tha nhân. Đừng để thời gian trôi qua mới nuối tiếc vì mình đã không sống tròn hai chữ yêu thương.
Có người nghĩ rằng tôi còn nghèo, còn phải bòn nhặt từng đồng lấy đâu ra của cải để cho tha nhân. Có người thì bảo rằng : tôi quá bận rộn với việc mưu sinh lấy đâu ra thời giờ dành cho tha nhân. Con người thường loay hoay cho bản thân nên bỏ lỡ cơ hội giúp tha nhân.
Thực ra trong tình yêu thương đâu cần làm những chuyện vĩ đại. Một nụ cười nhân ái. Một cái bắt tay thân ái. Một ánh mắt nhìn cảm thông là chúng ta cũng đang cho nhau tình yêu. Nếu có tình yêu thì người ta luôn vun quén từng nghĩa cử, từng khoảnh khắc để bày tỏ tình yêu. Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau. Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.
Em bé trong tin mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp tha nhân. Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn. Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói. Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn. Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình. Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.
Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người. Đôi khi chúng ta cũng áy láy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ. Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua. Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.
Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta. Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời. Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh. Có thể là những cơ hội cứu sống người khác. Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân. Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào được Nước Trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân. Tha nhân là hiện thân của Chúa. Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa. Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình. Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.
Nhưng đáng tiếc vẫn còn đó biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi. Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau. Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta. Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương.
Chúa Giê-su Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh. Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Từ mọi thành phần. Từ mọi tầng lớp. Ngài đều thi ân giáng phúc. Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn”. Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm”. Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu. Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé. Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu. Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng. Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen
.
Bông hồng nhỏ
Người mẹ đi chợ mua năm chiếc bánh và hai con cá cộng thêm mớ rau ngót là đã có được một bữa ăn cho gia đình nhỏ của mình. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, hôm nay, Chúa Giê-su đã phân phát cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư được cả mười hai thúng đầy. Đó là một phép lạ xuất phát từ trái tim thương cảm của Chúa Giê-su.
Một anh bạn ngoại đạo đã mỉn cười khi đọc trình thuật “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều” trong Tin Mừng theo Thánh sử Gio-an. Anh xem câu chuyện vừa đọc giống như câu chuyện niêu cơm Thạch Sanh trong kho tàng cổ tích Việt Nam. Ta cũng từng đọc và nhớ mãi niêu cơm của chàng Thạch Sanh. Nhưng khác với anh bạn ngoại đạo kia, khi đọc trình thuật “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều”, lòng ta vang lên lời mời gọi “hãy cho họ ăn” mà chính Chúa Giê-su ngỏ lời; lòng ta dấy lên một niềm tin tưởng mãnh liệt vào tình thương bao la của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, đứng trước cái đói khát của người anh chị em, Chúa Giê-su cũng hỏi ta: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5b). Chính câu hỏi đó làm ta bối rối và không ít lần ta bỏ cuộc vì xét thấy mình chẳng làm gì được. Có nhiều thứ đói khát, không chỉ đói cơm bánh, khát nước nhưng còn những thứ đói khát khác: đói tình thương, khát sự quan tâm, đói và khát Đức tin, đói khát một lý tưởng sống… Chúa vẫn cứ ngỏ lời với ta và chờ đợi ta cộng tác. Chúa chỉ cần chúng ta cộng tác qua việc vất vả tìm kiếm chỉ “năm chiếc bánh và hai con cá” thôi, và dâng hết cho Chúa, và phần còn lại Chúa sẽ lo. Bởi khi ngỏ lời với ta, Thiên Chúa đã biết điều Người sắp làm (x.Ga 6,6). Khi ta dám trao vào tay Chúa tất cả những gì mình có, những gì mình có thể cộng tác bằng cả trái tim thì Thiên Chúa ban phát ân sủng chứa chan. Trở thành cánh tay hữu hình của Chúa, ta thấy mình thật hạnh phúc. Khi dân chúng đã no, nỗi lo của các Tông đồ không còn, lại còn được nghe người ta ca ngợi, có lẽ các Tông đồ cũng rất hạnh phúc. Vậy mà phản ứng của Thầy Giê-su thật khác người: “Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.” (Ga 6,15). Thầy Giê-su lại lánh mặt, có nghĩa là đây không phải là phản ứng bất ngờ đầu tiên của Thầy. Sau bao lần tỏ tình thương cho dân chúng, Thầy được tung hô, muốn tôn Thầy làm vua nhưng Thầy Giê-su đã từ chối. Lòng người đầy tham vọng và háo danh. Thầy Giê-su muốn dạy dỗ các môn đệ mình, giải thoát các ông khỏi thói háo danh, để chỉ cho các ông thấy rằng tình thương xót của Thiên Chúa thì vô điều kiện. Để thoát khỏi tình cảnh nô lệ nơi chính mình, ta cũng phải can đảm “rời khỏi đó” như Thầy Giê-su và đến cùng Chúa Cha để không bị ba thù vây hãm.
Lạy Chúa Giê-su! Để trở thành cánh tay hữu hình của Chúa, con được mời gọi cộng tác với Chúa trong khi dấn thân phục vụ. Chúa là Đấng xót thương, xin Chúa cho con biết chiêm ngắm và noi theo Chúa, đến với tha nhân bằng trái tim biết thương cảm. Xin cho con hiểu rằng: mọi khó khăn thử thánh trên đường phục vụ đều trở nên nhẹ nhàng khi con biết trao vào tay Chúa tất cả. Amen.
.
Anna Cỏ May
Ngày hôm nay, trong các tiệm bánh, người ta trưng bày rất nhiều loại bánh, mỗi loại bánh lại có nhiều hình dạng khác nhau và mùi vị khác nhau. Những chiếc bánh ấy là thành quả sáng tạo của con người và được làm từ bàn tay của những người thợ lành nghề. Những người muốn có bánh ăn mà không có thời gian để làm thì đến mua bánh và trả tiền cho người thợ. Cung và cầu luôn đi song hành cùng nhau. Cuộc sống của chúng ta cũng vậy, nhờ hợp tác với nhau, cuộc sống của chúng ta trở nên an hòa và và trật tự.
Chúa Giê-su, Đấng quyền năng tuyệt đối, Ngài có thể làm được mọi sự nhưng Ngài vẫn muốn sự cộng tác của con người. Khi làm phép lạ chữa bệnh tật cho mọi người, Ngài cần Đức tin nơi họ. Khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Ngài cần một chút bánh từ chính con người.
Chúa Giê-su biết rõ mình phải làm gì trước một đám đông trong lúc bóng xế chiều, và Ngài đã hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Phi-líp-phê trả lời: “Thưa, có mua tới hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Còn ông An-rê thì trả lời với Ngài những gì hiện đang có: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6,5-9). Với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho khoảng năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con. Tất cả đều được ăn no nê và còn dư mười hai thúng.
Nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giê-su có làm phép lạ được không? Có, nhưng Ngài muốn họ cộng tác với Ngài trong các phép lạ. Dõi theo Tin Mừng, dường như mỗi phép lạ của Ngài luôn có sự khao khát, lòng yêu mến, sự khiêm tốn, thái độ nài xin, hy vọng và nhất là sự tin tưởng và phó thác của người xin. Theo lẽ tự nhiên, điều gì hay cái gì đến, xuất phát từ lòng mong ước và lòng khát khao thì con người dễ thấy giá trị và niềm vui. Như cha mẹ mong con cái sống hạnh phúc và có tương lai và đã mẫn nguyện như thế nào khi chứng kiến điều họ mong ước nên hiện thực. Như các tu sĩ khao khát, mong ước được đi theo Chúa đến cùng, và đã hạnh phúc như thế nào khi nhắm mắt về với Chúa. Chính sự khao khát ấy thôi thúc chúng ta thực hiện kế hoạch để đạt tới. Vậy sao chúng ta không dâng cho Ngài sự ước mong ấy như cậu bé trao bánh và cá cho Ngài, để Ngài chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng và cầu xin Ngài. Bởi vì Ngài đã nói: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.”(Mt 9,13).
Lạy Chúa, ngày hôm nay dường như chúng ta thích những phép lạ từ Chúa hơn là phát huy những ân huệ Chúa ban để Chúa làm nên phép lạ. Xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra những ân huệ Chúa ban phát huy những gì đang có để phục vụ mọi người. Đồng thời, biết tin tưởng vào quyền năng của Chúa mỗi ngày một hơn. Amen.
.
THẾ GIỚI ĐANG RẤT CẦN TÌNH YÊU CHIA SẺ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, chúng ta có thể chiêm ngắm tình yêu nhân loại và tình yêu siêu nhiên được hình thành bên trong chúng ta như thế nào, để chúng ta có một trái tim vừa yêu mến Thiên Chúa vừa yêu thương tha nhân.
Thật vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng con người không phải để sống một mình, mà là để sống với, sống cùng, và sống cho người khác. Ngài không muốn chúng ta sống trong cô độc, khép kín, nhưng là mở lòng ra với Thiên Chúa, với anh chị em mình. Nghĩa là sống tình liên đới với nhau, trong tương quan hài hòa giữa ta với Chúa và vạn vật.
Bé trai trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1-15) hôm nay là một mẫu người điển hình cần phải có trong thời đại chúng ta. Em có “năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (Ga 6,9), đối với Anrê thì chẳng thấm vào đâu, nhưng là tất cả những gì em đang có, em có là do cha mẹ hoặc người khác cho em.
“Cứ bảo người ta ngồi xuống“, lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Người mắt lên thì nhìn thấy đám đông, một đám đông đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ và bảo ban. Năm chiếc bánh với hai con cá của một bé trai trước nhu cầu của một đám đông, chỉ tính nguyên số đàn ông thôi cũng chừng năm ngàn người rồi thật là ít ỏi. Chúa không chê cái số ít ấy, điều quan trọng là đóng góp phần mình. Tình yêu không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta góp phần của mình vào việc chung.
Chúa cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng để làm phép bánh và cá như chúng ta thấy, sự sẻ chia của em bé dù ít cũng trở thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy mà. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bao lâu con người còn nhìn đến nhau, bấy lâu bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên. Những tấm bánh yêu thương. Những đàn cá của sự chia sẻ nhân lên theo nhịp đập đồng cảm của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dồi dào.
Nhiều người cho rằng thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ hay lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người nên giảm dân số. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và như họa ảnh của mình (x. St 1,26). Ngài cũng là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8). Nên con người tự bản chất là tình thương. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không gặp tình yêu, nếu không kinh nghiệm tình yêu và không nhận lấy kinh nghiệm đó làm của mình và dự phần vào đó cách mãnh liệt” (Thông điệp Đấng Cứu Chuộc số 10). Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.
Ý thức về điều căn bản này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả cổ vũ và kiến tạo nền văn minh tình thương. Hãy thương yêu và tương trợ lẫn nhau, vì tình thương là căn tính, là bản chất của con người. Hãy loại bỏ sự đố kỵ, hận thù, chia rẽ và những nguyên nhân làm hại đến tình thương như : bất công, kỳ thị, độc đoán, tham quyền, ích kỷ, kiêu căng, giả dối và các tội ác. Hãy sống đúng với sự thật về căn tính của mình và giúp mọi người sống đúng với căn tính đó: con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa là sự thật và là tình thương.
Nếu chúng ta sẵn sàng đặt những gì mình có vào tay Thiên Chúa thì như thế đã là đủ bởi vì trong thế giới sẽ có thêm một chút tình thương, an bình, công lý, và trên hết là niềm vui. Ðiều cần thiết là niềm vui trong thế giới! Thiên Chúa đủ khả năng để nhân lên từ những bé nhỏ của chúng ta.
Lạy Mẹ của lòng nhân ái, xin trợ giúp chúng con làm việc này. Amen
.
Lm. Trần Việt Hùng
Vượt Qua đại lễ gần kề,
Đám đông theo Chúa, tụ về thành xưa.
Nhiều người bệnh tật đón đưa,
Chữa lành tất cả, ơn mưa dạt dào.
Chúa lên sườn núi trên cao,
Thấy đoàn dân chúng, lao đao tìm tòi.
Cảm thương đói khát thiệt thòi,
Muốn mua ít bánh, thử coi thế nào.
Môn đồ tính toán làm sao?
Hai trăm bạc bánh, có bao số người.
Biết rằng Chúa muốn gọi mời,
Tin yêu phó thác, Chúa Trời ban cho.
Có đây bánh cá đừng lo,
Chúa làm phép lạ, ăn no dư tràn.
Năm ngàn nhân khẩu Chúa ban,
Mười hai thúng vụn, tràn lan bánh thừa.
Xin Chúa mở rộng bàn tay ra thi ân cho chúng tôi được no nê. Chúa Giêsu đã nhìn biết được những nhu cầu cần thiếu của con người. Thực phẩm là nhu cầu thiết yếu để nuôi dưỡng sự sống. Với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa đã hóa ra nhiều để nuôi trên năm ngàn người ăn no nê. Chúa đã ban cho dư tràn.
Không phải ngày nào Chúa cũng hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa có quyền năng để ban phát của ăn như Chúa đã ban Manna cho dân Do Thái trong suốt hành trình lưu lạc trong sa mạc. Nơi đây Chúa chú trọng đến của ăn tinh thần. Chúa không đến trần gian để làm kinh tế và lo thực phẩm cho phần xác. Chúa đến ban ơn cứu độ. Tuy nhiên, Chúa cũng quan tâm đến sự đói khổ và những nhu cầu phần xác của con người. Chính Chúa hạ thân trong cảnh cơ nghèo. Chúa thấu hiểu sự đói khổ và nghèo túng của con người. Chúa đã trao cho con người có trí khôn thông minh để làm chủ trái đất. Con người có bổn phận tìm kiếm, khai thác và gìn giữ phát triển nguồn thiên nhiên để đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết cho loài người
Truyện kể vào một buổi chiều, thầy dòng chăm chú cầu nguyện. Thầy thấy một bà mẹ tật nguyền lê bước xin thức ăn cho đứa con bị suy dinh dưỡng. Nhìn cảnh khổ đau, thầy ngước nhìn lên Chúa thầm cầu nguyện và như có vẻ oán trách Chúa: Lạy Chúa toàn năng và đại lượng. Sao Chúa lại để cảnh khổ đau và đói khát trên trần gian này? Trong lúc đó, tâm hồn thầy nghe được tiếng lòng. Chúa phán: Ta đã làm. Ta đã dựng nên con.
Cảnh đời đói khát xảy ra khắp nơi. Đói cơm đói gạo. Đói nhu cầu vật chất. Đói lương thực thiêng liêng. Đói tình thương. Đói chân lý. Đói khát làm con người héo tàn. Người đời luôn hăng hái tìm kiếm và tích lũy cho thật nhiều của cải nuôi sống thân xác. Có nhiều người sống trên nhung lụa hoang phí của cải. Có những người làm lụng vất vả cả đời cũng không đủ ăn.
Chúa đứng về phía những người nghèo. Chúa cần sự giúp đỡ và sự chia xẻ của mỗi người. Chúa muốn sự giúp đỡ không phải cho Chúa mà cho thân thể mầu nhiệm của Ngài, đó chính là các anh chị em nghèo hèn của Chúa. Họ đang đói khát cơm bánh và đói khát tình yêu. Ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi chúng ta rằng: Chúng con đã giúp đỡ cho những người nghèo khổ và đói khát được những gì?. Việc công bằng chia xớt và việc bác ái sẽ chính là phần thưởng đời sau.
Chúa nhắn nhủ chúng ta rằng nhu cầu cuộc sống không chỉ là cơm bánh nhưng là nguồn tình yêu chia xẻ. Lương thực cần thiết làm no thỏa khát vọng của con người chính là tình yêu. Chỉ có tình yêu mới lấp đầy và mới giải khát cho những ước vọng sâu xa của con người. Thánh Augustinô nói rằng: Hãy yêu đi rồi làm.
.
Lm. Nguyễn Thái
Xưa kia, Mẹ Têrêsa Calcuta đã có một giấc mơ. Mẹ đã từng nói với những vị bề trên của mình rằng: “Con chỉ có 3 xu thôi, nhưng Thiên Chúa cho con một giấc mơ là xây dựng một viện mồ côi.” Bề trên đã nhẹ nhàng khiển trách rằng: “Con không thể nào xây dựng được một viện mồ côi với 3 xu. Chỉ với 3 đồng xu thôi con không thể làm được bất cứ việc gì cả!” Mẹ mỉm cười đáp: “Con biết, nhưng với Thiên Chúa và 3 đồng xu của con có thể làm được bất cứ việc gì.”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Ga 6:1-15, Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé trai. Đây là câu chuyện duy nhất đã được cả bốn Phúc Âm kể lại, hai lần trong các Phúc Âm của Mátthêu (14:13-21; 15:32-39) và Mác-cô (6:32-44; 8:1-10), một lần trong Luca (9:10-17) và Gioan. Vì thế, như William Barclay đã nhận xét, câu chuyện mang tích cách bí tích với một nội dung phong phú, có liên hệ đến đời sống đức tin của các tín hữu thời sơ khai.
Trước tiên, hóa bánh ra nhiều là sự chia sẻ trong tình liên đới. Thời Cựu Ước, trẻ con và phụ nữ là những thành phần không đáng kể. Em bé trai thì có gì đáng nói! Năm chiếc bánh và hai con cá của em cũng rất tầm thường và bé nhỏ. Theo William Barclay, bánh lúa mạch là loại bánh rẻ nhất và bị khinh chê, vì lúa mạch là lương thực của gia súc. Bánh lúa mạch là bánh của người nghèo. Còn cá thì không có gì hơn cá mòi, sardine, bắt ở biển Galilêa, được ngâm muối rất phổ thông. Vào thời này, cá tươi là loại quý giá, chỉ có ở những nơi gần biển Galilêa, vì không có phương tiện bảo trì và di chuyển đến những nơi xa.
Qua những phương tiện tầm thường và nhỏ bé này Chúa Giêsu đã làm nên một phép lạ vĩ đại. Ngài cần bất cứ cái gì chúng ta có thể mang lại cho Ngài, dù nhỏ bé đến đâu. Chúng ta đã sử dụng thế nào những món quà Thiên Chúa ban cho ta? Những món quà của chúng ta sẽ được nhân lên nếu chúng ta biết chia sẻ trong tình liên đới.
Bạn có biết rằng mỗi giờ đồng hồ, có khoảng 1,500 trẻ em trên thế giới đang chết vì đói hay vì những bệnh tật và những nguyên nhân có liên hệ đến sự đói khát không? Bạn có để ý đến sự kiện mùa Đông năm 2002, ở Afghanistan, có hằng triệu người dân phải ăn cỏ để giữ lấy mạng sống của mình không?
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khuyên: “Tình liên đới giúp ta nhìn ra ‘người khác’ – cá nhân, dân tộc, hay quốc gia – không phải như dụng cụ nào đó mà người ta khai thác khả năng lao động hay sức dẻo dai thể lý cho đỡ tốn tiền, để rồi vất bỏ đi như đồ vô dụng. Nhưng phải nhìn ‘người khác’ đó như kẻ ‘giống’ mình, một trợ lực (St 2:18-20), mà người ta phải làm cho được cùng tham dự vào bữa tiệc cuộc đời ngang hàng với ta; bữa tiệc mà mọi người đều được Chúa mời gọi tới dự. Do đó, cần phải khơi dậy ý thức tôn giáo nơi mọi người, mọi dân tộc” (TVNNTB, Lao Động, trang 190).
Thứ hai, việc hóa bánh ra nhiều nói lên thái độ duy vật của dân chúng. Trong cuốn “The Great Church Year” (Crossroad, New York: 1994), thần học gia Karl Rahner đã giải thích tâm lý phức tạp của quần chúng lũ lượt kéo đến với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay: “Họ đã đi theo Chúa Giêsu vào hoang địa vì họ ý thức rằng cuộc sống riêng tư của họ cũng là một hoang địa. Họ đói những lời Chúa Giêsu phán dạy. Họ muốn có thêm một sự gì đó hơn là cuộc sống hằng ngày đã đem lại cho họ. Nhưng trong khi họ đói khát Thiên Chúa, thì cái đói thể lý chộp lấy họ. Đang khi đói khát Thiên Chúa, thì họ cũng nhận thấy chính mình đang đói khát cuộc sống trần thế này. Rồi tình huống đã biến đổi lạ lùng. Chúa Giêsu, Đấng mà họ đang theo đuổi để lắng nghe những lời hằng sống, đã ban cho họ bánh và cá, lương thực trần gian. Sau khi đã ăn uống no nê, họ lại muốn tôn phong Ngài lên làm Vua: “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6, 15). Điều đã được ban cho họ như là lương thực để nâng đỡ họ đang lúc đi tìm kiếm Thiên Chúa đã trở nên một sự cám dỗ, thúc đẩy họ thèm muốn “bữa ăn miễn phí” và đánh mất đi cái ý nghĩa của nó. Hậu quả là, Chúa Giêsu đã chạy trốn thoát ra khỏi họ.” Karl Rahner kết luận: “Đây chính là một dụ ngôn về điều đang thường xuyên xảy ra trong đời sống của mỗi cá nhân, và đặc biệt trong thời buổi khoa học kỹ thuật ngày nay.”
Thiên Chúa đã ban cho con người lý trí khôn ngoan để phát triển nền khoa học kỹ thuật, tạo nên cơm bánh và các phương tiện sinh sống khác. Khoa học kỹ thuật phải giúp con người đi tìm kiếm Thiên Chúa và hướng về đời sống vĩnh cửu. Nhưng khi đã đạt đến trình độ văn minh tân tiến rồi, con người lại muốn tôn vinh khoa học kỹ thuật trở thành một thứ ngẫu tượng giống như Thiên Chúa!
Một thực tại khác nữa là, khi nghèo khổ, người ta nhiệt tình đi tìm kiếm và thờ phượng Thiên Chúa. Xin Chúa ban cho có cơm ăn áo mặc để “có thực mới vực được đạo”. Nhưng khi đã no đủ, giàu sang, văn minh tiến bộ, người ta lại muốn tôn vinh của cải trần gian đó lên làm thượng đế thay cho Thiên Chúa!
Đây chính là những cám dỗ của con người trong mọi thời đại. Chúa Giêsu đã có những quyết định dứt khoát như Công Đồng Vatican II diễn tả: “Vì không muốn là một Đấng Thiên Sai làm chính trị, dùng sức mạnh để cai trị, nên Người thích tự xưng là Con Người, đến ‘để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn dân’ (Mc 10:45). Người đã tỏ ra là một Tôi Tớ hoàn hảo của Thiên Chúa (Is 42:1-4)” (Dignitatis Humanae, đoạn 11).
Trên hết, hóa bánh ra nhiều nói lên tình yêu thương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu với tình yêu thương và quyền phép của Ngài chính là trung tâm của câu chuyện hóa bánh ra nhiều hôm nay. Phúc Âm kể về những hành động của Chúa Giêsu như sau: “Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” (Mc 6:11). Đây là những hành động Ngài đã làm được diễn tả trong bữa tiệc ly khi cử hành Bí Tích Thánh Thể (Mt 26:26). Dấu chỉ hóa bánh ra nhiều dạy cho chúng ta biết rằng Bí Tích Thánh Thể là lương thực thực sự cho những ai theo Chúa Giêsu. Một nguồn ban phát lương thực phong phú vô tận cho nhân loại.
Một trong những con bệnh đáng sợ của thời đại chúng ta đang sống là tính ích kỷ (Gl 6:2; Pl 2:21). Sự ích kỷ gây nên chiến tranh và hận thù (Gc 4:1-3). Khi Đức Dalai Lama, vị lãnh đạo tinh thần lưu vong của người Tây Tạng, được hỏi về giải đáp cho những vấn đề rắc rối của thời đại chúng ta, ngài đã trả lời thật ngắn gọn: Lòng Thương Xót!
Có người đến nói với triết gia Hy Lạp Epictetus rằng: “Tôi không phải là bậc thánh hiền, nhưng tôi thương con tôi và con tôi cũng thương tôi lắm.” Epictetus mỉn cười rồi chỉ hai con chó con đang đùa giỡn với nhau rất thân thiện và nói: “Nếu ông thích nhìn chúng vui vẻ nô đùa với nhau như vậy, thì chớ có ném cho chúng mẩu xương nào.” Nói xong, triết gia quay lại nói tiếp với người kia: “Ông có nhớ không, hai người con sanh đôi của Oedipe là Étéocle và Polinice, ngay từ bé đã yêu thương nhau thắm thiết, nhưng chỉ vì một mẩu xương vụn rơi giữa hai đứa – tức là cái ngai vàng – mà chúng đã trở nên thù nghịch đến nỗi giết hại nhau. Vậy nếu cha con ông thương nhau, tôi cầu mong đừng bao giờ có một mẩu xương vụn nào rớt giữa cha con ông. Nghĩa là đừng bao giờ có một miếng đất nhỏ nào mà cha con ông cùng ước muốn; đừng bao giờ có người nữ xinh đẹp nào mà cha con ông cùng say mê; đừng bao giờ có một chức vị nào mà cha con ông cùng nhắm tới. Tôi chỉ sợ tổn thương tình phụ tử của cha con ông. Khi nào cha con ông, vì tình nghĩa với nhau, loại bỏ được tính ích kỷ, hờ hững của cải vật chất bên ngoài, chừng đó ông bảo với tôi cha con ông thương nhau, bấy giờ tôi mới tin.”
Mỗi khi chúng ta đến nhà thờ cử hành Bí tích Thánh Thể, tuyệt đỉnh của Tình Yêu và Hy Sinh của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi đến để học biết loại bỏ tính ích kỷ (1 Cr 11:17), và để gia tăng tình liên đới. Dấu chỉ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá chính là phép lạ của sự chia sẻ và tình liên đới đối với những món quà của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Ơn Chúa ban cho chúng ta vô cùng phong phú, đặc biệt qua bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta được gọi đến không những để lãnh nhận ơn lành của Tình Yêu Thiên Chúa mà còn phải chia sẻ ra những gì chúng ta đang có cho anh chị em chúng ta nữa. Bởi “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35).
.
Lm. Đinh Lập Liễm
Trong khung cảnh giữa nơi hoang vắng, trước một đám đông dân chúng hầu như mệt lả sau một ngày đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng dạy và được chữa lành. Đức Giêsu bảo các Tông Đồ hãy cho họ ăn (Mk 6:37). Các ông đều có ý nghĩ rằng trong nơi hoang địa này lấy gì cho họ ăn; giả như có được 200 đồng mua bánh đi nữa thì cũng chẳng thấm vào đâu với số người đông đảo này. Nhưng Đức Giêsu đã ra tay, chỉ với 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, Ngài đã làm cho 5000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ, được ăn no nê, lại còn thu được 12 thúng đầy miếng bánh vụn (Mk 6:34-44).
Qua phép lạ này, dân chúng rất hồ hởi và muốn tôn phong Ngài làm vua (Jn 6:15) vì coi Ngài như một tiên tri có quyền năng, Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng Đức Giêsu thấy họ hiểu sai ý định của mình và có thể gây ra nguy hiểm cho việc truyền giáo nên Ngài lánh mặt họ, trốn lên núi một mình.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều cho người ta ăn no, không chỉ có mục đích làm cho người ta khỏi bị chết đói mà còn mang nhiều ý nghĩa cao quí hơn. Phép lạ hóa bánh ra nhiều không phải chỉ để nuôi năm ngàn người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống (Jn 6:33-35), mà quần chúng đông đảo vô số kể là Giáo Hội qua mọi thời đại. Đức Giêsu hiện diện trong Giáo Hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, các ”cộng tác viên của Đức Kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh Hằng Sống cho nhân loại (1Cr 4,1) (Hồng Phúc).
Tường thuật phép lạ làm cho bánh hoá nhiều đều muốn nói với chúng ta về lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Giêsu tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Ngài không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm ra đâu của ăn. Nếu chúng ta đem so sánh Đức Giêsu với tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay (II King 4:42-44), thì chúng ta thấy Đức Giêsu trổi vượt hơn nhiều về quyền năng, vì Ngài đã làm cho bánh ra nhiều, còn Êlisê chỉ ban phát bánh mà ngài đã nhận được mà thôi, còn việc làm cho bánh ra nhiều lại là việc của Thiên Chúa: Êlisê khi nhận được những tấm bánh người ta biếu ông, thì đã nói với tiểu đồng: ”Phát cho người ta ăn”, nghĩa là ông chia sẻ những tấm bánh của mình với những người đang đói. Còn Đức Giêsu đứng trước hàng ngàn người bụng đang đói, đã thực hiện phép lạ biến 5 chiếc bánh và 2 con cá thành một khối lượng thật nhiều bánh và cá để làm cho mọi người no nê. Rõ ràng trong phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giêsu vừa thể hiện lòng thương, vừa thể hiện quyền năng của một vị tiên tri của Thiên Chúa (Jn 6:14).
Theo sách Sáng Thế, trước khi dựng nên con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vạn vật từ hư vô, và Ngài đã trao vũ trụ này cho con người quản lý (Gen 1:28; 2:15). Thiên Chúa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người làm việc để làm ra của ăn. Con người được sống trong cảnh an nhàn thư thái trong vuờn địa đàng. Sau khi phạm tội, con người bị đuổi ra khỏi vuờn địa đàng (Gen 3:24), phải làm việc cực nhọc mới có của ăn (Gen 3:19), nhưng Thiên Chúa vẫn tạo mọi điều kiện để con người làm việc và có đầy đủ của ăn. Thánh vịnh cũng có câu: ”Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê” (Tv 144,16). Người Việt nam cũng trình bầy tư tưởng đó trong ca dao tục ngữ như “Trời sinh, trời dưỡng” hoặc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ.”
Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài lại muốn chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Ngài có thể biến đá thành cơm bánh (Mt 4:3), nhưng Ngài vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé (Jn 6:9). Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ pháp có câu: ”Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn.”
Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Issrael khi họ tiến về Đất Hứa (Ex 16:4-35). Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học bổ ích.
Trong lời giới thiệu cuốn sách “Năm chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đức Hồng Y Bernard Law (nguyên hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết: ”Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa. Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (trang 5).
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà nhủ lòng: ”Ta phải làm điều gì mới được.” Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về dạy dỗ chúng. Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc người hấp hối, 30 viện săn sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40 ngàn tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp bà. Người phụ nữ đó chính là Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày nay đã được phong hiển thánh ( Theo M. Link).
Có một sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Khi Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được.” Anrê thì nói: ”Để coi thử, tôi có thể làm được gì và phần còn lại tôi trao cho Đức Giêsu.” Chính Anrê đã đem cậu bé đến với Đức Giêsu (Jn 6:8-9), và bởi việc đem cậu bé ấy lại mà phép lạ đã xẩy ra. Đức Giêsu bắt các ông vào cuộc, dù khó khăn cũng phải vượt qua. Với sự cố gắng của Anrê mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 cái bánh và 2 con cá. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người và thu lượm được 12 thúng đầy bánh vụn (Jn 6:12-13). Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Năm 1634, Thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào. Một hôm, trong lúc họ đang hội họp như vậy, thì Thánh Vinh Sơn từ bên ngoài buớc vào phòng họp, trên tay mang theo một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng, mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói: ”Các bà muốn làm việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay mà làm ngay!” Dòng Bác Ái Vinh Sơn ra đời từ đó.
Đức Giêsu đã nói: ”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưngkhông” (Mt 10,8). Thánh Phaolô cũng xác nhận: Mọi sự chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban (Ps 116:20;I Cor 4:7). Ngày nay đói khát và dư thừa, thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái nguợc hiện nay trên thế giới. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh thừa. Đức Giêsu bảo các môn đệ đi thu lượm những miếng bánh thừa ấy (Jn 6:12). Ngài dạy cho mọi người biết tiết kiệm. Tiết kiệm là biết trân trọng những cái Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức rằng của cải trên thế giới là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng. Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giầu sang phú quí.
Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời, nhưng còn cần phải giải quyết các nạn đói khác nữa. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói những nhu cầu thiêng liêng. Ngày nay được ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp cũng chưa đủ, người ta còn cần nhu cầu tinh thần, nhu cầu văn hoá nữa. Người ta muốn nâng cao tinh thần hơn, nếu chỉ biết ăn ngon ngủ kỹ thì không hơn con vật bao nhiêu. Con người có lý trí cần phải có nhu cầu hiểu biết, nhu cầu giải trí, tinh thần phải được vươn cao hơn vật chất.
Con người có hai phần: linh hồn và thể xác. Linh hồn phải có những nhu cầu khác với thể xác, cao hơn thể xác, linh thiêng hơn. Nhu cầu tâm linh của con người ngày nay càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện.
Đối với đời sống thể xác, con người cần có của ăn vật chất để duy trì và phát triển sự sống. Đối với đời sống linh hồn, con người cũng cần phải có của ăn thiêng liêng để giúp linh hồn được sống và phát triển, đó là Lời Chúa và Thánh Thể: –Lời Chúa là nguồn sống mới nuôi linh hồn ta: ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4). –Thánh Thể là nguồn sống dồi dào và nhu cầu khẩn thiết cho linh hồn: ”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời… vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống” (Ga 6,54-55).
Hai nguồn sống này Chúa vẫn ban cho ta mọi ngày trong Thánh Lễ Misa. Thánh Lễđược chia ra hai phần: Phụng vụ lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Chúng ta được trực tiếp nghe Lời Chúa trong các bài Sách Thánh và được tăng cường bằng các lời giảng dạy của Linh mục chủ tế. Thật vậy, Lời Chúa đem lại sự sống cho con nguời: ”Lời Thầy nói là Thần khí và là sự sống” (Ga 6,63). Bánh rượu được trở nên mình và máu Chúa Kitô để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Chúa thiết tha mời gọi: ”Các con hãy nhận lấy mà ăn… Các con hãy nhận lấy mà uống” (Lc 22,17-20; 1Cr 11,25).
Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ xử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta (Eph 3:20) giống như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin Mừng hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được Thánh Igatiô Loyola yêu chuộng: “Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy ý xử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa” (M. Link).
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Tuy kể cùng một câu chuyện “năm chiếc bánh và hai con cá”, nhưng trình thuật của Tin Mừng Gioan có những chi tiết khác biệt với trình thuật Nhất Lãm. Chúng ta cùng tìm hiểu thêm ý nghĩa mà bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay muốn truyền đạt.
Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê. Đông đảo dân chúng đi theo, cả trên bộ lẫn dưới thuyền, “vì họ đã từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm”. Cho nên “Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ”.
Câu chuyện xảy ra vào thời gian: “Sắp đến lễ Vượt Qua là Đại Lễ của người Do thái”. Lễ Vượt Qua cho tới nay vẫn là ngày lễ lớn nhất của người Do thái, vì là lễ kỷ niệm ngày dân Ítraen trong Cựu Ước được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đưa họ ra khỏi Aicập, dẫn họ đi và nuôi dưỡng họ trong hoang địa cho tới khi họ vào được Đất Hứa. Sách Tin Mừng Gioan kể tới ba lần Lễ Vượt Qua, từ khi Đức Giêsu khởi đầu đi rao giảng (Ga 2,13-25) cho tới khi Chúa được tôn vinh tại Giêrusalem (Ga 13-20). Câu chuyện “bẻ bánh” ở chương thứ sáu xảy ra vào dịp lễ Vượt Qua lần thứ hai, tại một ngọn núi gần Biển Hồ (Ga 6,1-14).
Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào khung cảnh nhóm Mười Hai trở về sau khi được Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng. Đám đông kéo đến thật đông. Các tông đồ có sáng kiến xin Người giải tán đám đông để họ đi mua thức ăn, vì nơi họ đang tụ tập quanh Người là nơi hoang vắng. Người bảo các ông phải đích thân cho họ ăn. Các ông thú nhận mình bất lực. Các ông chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Người truyền cho đám đông ngả lưng xuống cỏ. Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho các ông và các ông dọn ra cho dân; cá cũng vậy. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều minh họa sứ mạng của các tông đồ là nuôi dân bằng Lời Chúa (rao giảng) và Bánh của Chúa trao.
Tin Mừng Gioan mở ra một viễn tượng khác. Đám đông tuôn đến với Đức Giêsu vì đã chứng kiến dấu lạ Người làm trên những kẻ đau ốm. Gioan dùng kiểu nói “dấu lạ” để cho thấy việc Người chữa lành các kẻ đau ốm bằng quyền năng lạ thường, là “dấu hiệu” tỏ bày ơn cứu độ, chứ không phải tất cả. Vì thế Đức Giêsu sẽ trách những người tìm đến với Người vì đã được ăn bánh no nê, chứ không phải vì đã đọc ra ý nghĩa của dấu hiệu chỉ về Người là Bánh ban Sự Sống đời đời. Họ như những đứa con nít, thấy ai cho bánh cho kẹo thì chạy theo. Nói chuyện gì ngoài bánh kẹo thì không nghe. Hết bánh hết kẹo thì bỏ đi.
Ở đây cũng nên đọc lại sách Xuất Hành từ chương 3 tới chương 17. Ngay từ đầu dân Ítraen đã không tin vào Thiên Chúa, cũng không tin vào Môsê. Khi tới bờ Biển Đỏ và bị quân đội của Pharaô đuổi sau lưng thì họ oán trách ông Môsê. Sau khi vượt qua biển và thấy xác quân Aicập dạt vào bờ thì “họ tin vào Đức Chúa và tin vào Môsê, tôi tớ của Người” (Xh 14,31). Nhưng chỉ mấy ngày sau, thiếu nước uống, thiếu bánh, thèm thịt thì họ lại oán trách ông Môsê (x. Xh 15,23-27 ; 16,1 – 17,7) ; thâm chí họ toan ném đá ông nữa (Xh 17,4). Diễn biến câu chuyện trong toàn chương thứ sáu của Tin Mừng Gioan có chút gì tương tự như câu chuyện trong sách Xuất Hành, nhưng theo trình tự ngược lại : được ăn thì họ tìm đến nhưng khi nghe Người nói “trái tai” thì họ bỏ đi, kể cả một số môn đệ. Nếu chú ý tới “âm thanh”, ta có cảm tưởng âm thanh của Xuất Hành được dùng làm “nhạc nền”cho trình thuật của Gioan.(x. Tìm hiểu Tin Mừng Gioan, Lm Giuse Nguyễn công Đoan, SJ).
Câu chuyện Tin mừng Gioan cũng gợi nhớ lại, khi dân Itraen vượt qua Biển Đỏ rồi đi vào hoang địa, được một tháng thì hết lương thực mang theo, họ kêu khóc và oán trách ông Môsê và ông Aharon. Thiên Chúa nghe tiếng kêu than liền cho mana từ trời rơi xuống nuôi họ (Xh 16,1-36). Ăn mana một thời gian họ lại thèm thịt và kêu trách. Lần này thì Đức Chúa nổi giận: “Ông Môsê nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của mình. Còn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm và thưa với Đức Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con?…Con ở giữa một dân có đến sáu trăm ngàn bộ binh, mà Đức Chúa lại bảo: Ta sẽ ban thịt cho chúng, và chúng sẽ ăn suốt cả tháng. Dù có giết chiên giết bò, liệu có đủ cho họ không? Dù có bắt hết cá dưới biển, liệu có đủ cho họ không?. Đức Chúa phán với ông Môsê: “Đức Chúa mà chịu bó tay sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay không”. (Ds 5,10-12.21-23). Sau đó Đức Chúa cho chim cút rơi xuống đầy quanh trại, họ ăn thả cửa như ông Môsê đã báo cho họ: “Anh em sẽ ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày mà thôi, nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi làm anh em phát ngấy” (Ds 11,31-35).
Bối cảnh của câu chuyện “hóa bánh ra nhiều” là hoang địa, dân chúng tự ý kéo đến. Các môn đệ xin Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua thức ăn. Chúa bảo chính các ông cho họ ăn, các ông thú nhận “chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Nguyên số đàn ông khoảng năm ngàn người. Đám đông lớn như thế mà chỉ có năm cái bánh và hai con cá, chúng ta như nghe ông Môsê than: “Dân có tới 600 ngàn bộ binh! Giết chiên giết bò, bắt hết cá biển lên có đủ cho họ không?. Thiên Chúa nói với ông Môsê: Đức Chúa mà chịu bó tay sao!”. Hôm nay, Đức Giêsu bảo: “đem lại đây cho Thầy”. Đọc lồng hai câu chuyện vào nhau, chúng ta nhận ra thánh sử gợi cho biết ý nghĩa của bữa ăn này. Môsê và Aharon thú nhận sự bất lực thì Đức Chúa tỏ vinh quang, cho mana, cho chim cút rơi xuống cho dân ăn. Đức Giêsu bảo các môn đệ cho dân chúng ăn, họ thú nhận bất lực thì Chúa ra tay. Mọi người ăn dư dả phủ phê no nê đầy ứ. Chúa cho họ ăn một bữa đã đời và để đời.
Hình ảnh Chúa truyền cho dân chúng ngồi xuống trên cỏ rồi cho họ ăn gợi nhớ Thánh vịnh 23: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”.
Chúa cầm bánh và cá, “ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ”, trong phong tục dân Itraen cho tới ngày nay, đó là cách mở đầu bữa ăn. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa cũng làm như vậy, nhưng kèm theo lời lập Bí Tích Thánh Thể cũng là bí tích của Giao Ước Mới. Vì thế, trong thánh lễ hàng ngày chúng ta cũng lập lại những lời này, và cụm từ : “Bẻ Bánh” đã sớm mang ý nghĩa đặc biệt chỉ về việc cử hành Bí Tích Thánh Thể (x.Cv 2,42). Chúa bảo các môn đệ cho dân chúng ăn, họ thú nhận là bất lực thì Chúa trao bánh cho họ để họ trao cho dân. Đó là nhiệm vụ mà các tông đồ sẽ thi hành ngay sau khi nhận được quyền năng Chúa Thánh Thần: phục vụ Lời và bàn ăn, cử hành lễ Bẻ Bánh. Bữa ăn đã thành hình vừa gợi lại dân của Cựu ước được Thiên Chúa nuôi trong hoang địa, vừa loan báo bữa ăn Lời Chúa và Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận ngày nay với tư cách là dân của Giao Ước Mới. (x. Tự đáy lòng, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).
Trong chuyến hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm thành Tabgha, nơi Chúa đã làm phép lạ biến 5 cái bánh và 2 con cá hóa nhiều nuôi hơn 5.000 người ăn no nê. Khi chiêm ngắm bàn thờ và cung thánh trong ngôi Nhà thờ ấy, tôi thấy trên nền Nhà thờ phía trước Bàn thờ có khắc hình một chiếc giỏ đựng 2 con cá và 4 cái bánh. Tại sao lại là 4 chứ không phải là 5 cái bánh như Phúc âm kể? Đây là một sự thiếu sót có chủ ý của nghệ nhân làm nên bức hình đó. Vì cái bánh thứ năm không nằm trong giỏ nhưng nằm trên bàn thờ, đó chính là Mình Thánh Chúa mỗi khi dâng thánh lễ trên bàn thờ này.
Trong “Phép lạ hóa bánh ra nhiều”, Chúa không làm một mình và làm từ bàn tay không. Không làm một mình mà như dò ý môn đệ, chẳng phải vì quyền năng giới hạn mà chỉ vì Người muốn có sự cộng tác nào đó cho phép lạ trở nên hiện thực. Không làm từ bàn tay không mà cần có năm cái bánh, Chúa trân trọng sự đóng góp của con người, dẫu sự đóng góp ấy rất nhỏ. Năm cái bánh cho năm ngàn người. Tỉ lệ một phần ngàn có nghĩa lý gì. Muối bỏ bể! Thế nhưng trong mắt nhìn của Thiên Chúa, đó lại là cả một thiện chí hùn hạp làm ăn sinh lời đến chóng mặt.
Đức Bênêđitô XVI đã nói: phép lạ này không được làm từ không có gì, nhưng từ những gì bạn có, dù nhỏ bé, mang đặt trong bàn tay của Chúa. Chúa không đòi hỏi chúng ta những gì chúng ta không có. Chúa cho chúng ta hiểu rằng, nếu mỗi người đặt vào tay Ngài những tấm bánh, những con cá bé nhỏ, Chúa sẽ làm cho phép lạ được tiếp diễn hôm nay, bởi Ngài có quyền năng làm cho những cử chỉ yêu thương khiêm tốn của chúng ta trở thành quà tặng lớn lao cho anh chị em chúng ta.
Chúa cần sự cộng tác của chúng ta, cho dù sự cộng tác ấy rất nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé nên lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại nhờ vào tình thương của Người. Như Chúa Giêsu đã yêu thương quan tâm chăm lo đến mọi nhu cầu từ vật chất đến tinh thần cho dân chúng thì Kitô hữu, các môn đệ của Người cũng phải biết yêu thương chăm lo cho tha nhân như vậy.
Trong thánh lễ Tạ ơn dịp Kết thúc Hồ sơ Chân Phước Đức Hồng y FX Nguyễn Văn Thuận tại nhà thờ Santa Maria della Scala, ngày 06/7/2013, Đức cha Giuse Võ Đức Minh chia sẻ.
Nếu như năm xưa trên bước đường rao giảng về Tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đón nhận năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ của một em bé (x. Ga 6,9) để làm phép lạ nuôi sống hàng ngàn người, thì nay mình có thể dâng cho Chúa những cái nho nhỏ của cuộc đời mình: “Chúa bảo gì, cứ làm theo”.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ nhất: sống giây phút hiện tại. Làm cho giây phút hiện tại chan hòa tình thương của Chúa.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ hai: phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ ba: cầu nguyện. Ngài cho biết có những lúc quá đau, quá mệt, không đọc được một kinh. Chính lúc đó, ngài thều thào: “Chúa Giêsu ơi, có con đây”; và ngài như nghe tiếng đáp trả: “Thuận ơi, có Chúa Giêsu đây”.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ tư: phép Thánh thể. Thật kỳ diệu khi ngài có sáng kiến cử hành Bí tích Thánh thể mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay. Bàn tay trở nên chén thánh, trở nên bàn thờ. Không gian ngài đang sống, chính là nhà thờ chánh tòa của ngài. Mình Thánh Chúa Kitô là “thuốc” của ngài.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ năm: yêu thương theo chúc thư của Chúa. Trải qua muôn vàn thống khổ, ngài chợt nhận ra mình tích lũy trong bản thân một kho tàng vô cùng phong phú và quý giá. Đó là tình yêu thương.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa con cá thứ nhất: yêu mến Mẹ Maria La Vang. Ngài bắt đầu cuộc khổ nạn vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Trong người chỉ có duy nhất tràng hạt Mân côi. Từ lúc còn nhỏ, thân mẫu ngài đã dạy phải luôn đem tràng hạt trong mình: Đức Mẹ La Vang sẽ giữ gìn cho mình được bình an. Chính truyền thống đạo đức trong gia đình, dòng tộc, đã truyền vào tim ngài lòng sùng kính đối với Đức Mẹ La Vang.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa con cá thứ hai: chọn Chúa. Như các Tông đồ năm xưa, ngài đã chọn Chúa, đi theo Chúa, gặp Chúa, sống bên Chúa; rồi tiếp tục ra đi đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết cộng tác với ơn Chúa, mỗi ngày xin cho con quảng đại đặt vào tay Chúa một món quà, một ước nguyện, để phép lạ xảy ra. Con xin là tấm bánh dâng lên Chúa, để Chúa biến đổi trở thành Thịt Máu Chúa. Con xin là tấm bánh dâng lên trong tay Chúa, để Chúa bẻ ra và phân phát cho anh em. Tấm thân con xin là tấm bánh dâng lên Chúa để được thuộc trọn về Chúa, để tuỳ ý Chúa sử dụng. Amen.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Hai mươi năm trước, báo chí thế giới đăng tải một bức hình chụp khá nổi tiếng, đã từng đoạt giải Pulitzer. Bức ảnh nói về thảm trạng nạn đói ở Somalia năm 1994. Trong bức ảnh, một chàng thanh niên gầy gò đang ôm xác đứa con trai duy nhất của mình đem đi chôn. Đứa bé gầy trơ xương vì nhiều tháng qua nó không có gì để ăn. Nó đã chết vì đói. Người thanh niên, bố của đứa bé, với khuôn mặt đau khổ hốc hác cũng đang đói. Phía sau là một con quạ đen đậu gần đó. Nó chờ khi người cha vùi xác đứa con trong cát, sẽ bới lên tìm cái gì để ăn vì nó cũng đói. Cả người và vật đều đói. Cái đói lộ rõ trên khuôn mặt trơ xương của ông bố. Cái đói hằn sâu trên thân thể còm cõi của đứa trẻ, và cái đói cũng lồ lộ nơi cặp mắt hau háu của con quạ. Cái đói luôn là một tai họa khủng khiếp đè nặng trên thân phận hiện sinh của con người.
- Cái đói trong phận người
Mọi người chúng ta ít nhiều đều kinh qua cái đói. Các cụ lớn tuổi đã từng có kinh nghiệm về cơn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Những tháng ngày sau biến cố năm 1975, nhiều gia đình đã từng phải ăn độn hoặc đi vay mượn ít gạo để cầm cự sống qua ngày. Những trải nghiệm về cái đói luôn là một ám ảnh sợ hãi nơi cuộc sống chúng ta.
Khi mang thân phận làm người, Đức Giê-su cũng từng nếm trải cơn đói. Sau 40 ngày chay tịnh trong hoang mạc, Chúa đói. Ma quỷ đến tấn công vào bao tử xẹp lép của Ngài. “ Nếu ông là con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh đi” (Mt 4,3). Vì thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su chạnh lòng cảm thương thực sự khi đối diện trước một đám đông khổng lồ đang vật vã trong cơn đói. Phép lạ đã xảy ra, và 5000 người đã được ăn no nê. Phép lạ không nhằm phô diễn một kỳ tích để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Nhưng trong cái nhìn thần học của thánh Gioan, phép lạ mang chở những dấu chỉ nhằm khải thị một thực tại sâu xa hơn. Thánh Gioan muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo của một Thiên Chúa làm người luôn diễn bày tình yêu mục tử của Ngài cho đoàn chiên. Phép lạ nhân bánh ra nhiều khởi dẫn chúng ta đi đến một chân trời rộng lớn hơn : Đó là chân trời ơn cứu độ được thể hiện qua cái chết của Đức Giê-su trên Thập giá. Mầu nhiệm Thập giá chính là cách diễn bày tình yêu của Thiên Chúa cách tròn đầy nhất.
- Sự cộng tác của con người.
Phép lạ Chúa Giê-su thực hiện trong tin mừng hôm nay cũng được phác vẽ trước qua phép lạ của tiên tri Elisêu mà chúng ta sẽ nghe trong bài đọc thứ nhất. Vị ngôn sứ nhận 20 chiếc bánh từ tay một người hảo tâm dâng tặng. Với 20 chiếc bánh, Êlisêu đã phân phát đủ cho cả trăm người. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua vị tiên tri. Cũng vậy, sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa cũng được diễn bày nơi Đức Giê-su, vị “ngôn sứ đặc thù” của Chúa Cha. Cả hai phép lạ đều hàm ngậm những sứ điệp quan trọng mời gọi chúng ta suy gẫm và thực hành.
Trước hết, đó là bài học về sự cộng tác của con người. Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, Đức Giê-su đã không làm phép lạ nuôi sống 5000 người ăn no, nếu đã không có lòng quảng đại của một đứa bé. Em nhỏ đã trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, là khẩu phần lương thực ít ỏi nó mang theo. Cũng thế, với 20 chiếc bánh do một người tốt bụng dâng tặng, Elisêu đã phân chia đủ cho cả trăm người. Thiên Chúa có thể thực hiện những điều kỳ diệu bắt đầu từ sự cộng tác nhỏ nhoi khiêm tốn của con người. Trong cuốn Confessio, Thánh Augustinô ghi lại lời cầu nguyện mà Ngài đã thưa với Chúa “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con, không cần có con. Nhưng để cứu rỗi con, Chúa lại cần có con cộng tác”. Con người chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để hoàn thiện công trình sáng tạo và cả công trình cứu chuộc mà Ngài đã khởi sự.
Trong một bài giảng, Cha Gioan Maria Vianney có kể một câu chuyện. Một buổi chiều nọ, Chúa Giê-su và Thánh Phêrô cùng rảo bước trên con đường làng. Hai Ngài gặp một người nông dân đang đánh chiếc xe bò cũ kĩ. Chiếc xe chở nặng và bị mắc lầy. Người nông dân này khá đạo đức. Ông ta bước xuống, sấp mình sát đất và xì sụp cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Ông cứ sụp lạy và cầu khẩn mãi, nhưng chẳng ai đến giúp ông ta. Còn chính ông cũng chẳng buồn đụng tay vào để lôi chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Thôi hãy đi và mặc kệ hắn”. Đi đến cuối làng, hai Ngài cũng gặp một tình huống tương tự. Gã đánh xe bò là một thanh niên trông nét mặt khá bặm trợn. Khi chiếc xe bị lầy, anh ta bước xuống, mồ hôi nhễ nhãi, miệng thì văng tục nhưng cố gắng hết sức để đẩy chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Nào hãy đến phụ anh ta một tay”. Cuối cùng, chàng thanh niên đã kéo được chiếc xe ra khỏi vũng bùn. Về đến nhà, Phêrô hỏi Chúa tại sao Chúa lại hành xử như thế. Chúa trả lời: “ Ta không giúp những ai lười biếng. Phải cố gắng, rồi ta sẽ giúp”. Phải tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ đến giúp đỡ chúng ta sau (Aide-toi, le ciel t’aidera).
Chúa cũng đã nói với Phaolô :“ Ơn Ta thì đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn đủ và dư tràn trên mọi người, nhưng nếu chúng ta lười biếng, không mở lòng ra để cộng tác, Chúa cũng chịu thua. Mặc dầu sức lực con người yếu đuối, khả năng chúng ta giới hạn, nhưng Chúa vẫn luôn cần chúng ta cố gắng vươn lên để cộng tác với Ngài. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, một khẩu phần quá ít ỏi và chẳng đáng gì, nhưng Đức Giê-su đã làm phép lạ nhân bánh và cá lên gấp cả ngàn lần. Đó là bài học rất thực tế cho mỗi người chúng ta về nỗ lực cũng như sự cộng tác của con người.
3. Chúng con hãy cho họ ăn.
Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho thấy, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì đói. Hàng chục triệu trẻ em sống vất vưởng đầu đường xó chợ, không được cắp sách đến trường. Chúng đói về thức ăn vật chất, nhưng cũng đói cả về tình thương. Nói theo thuật ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là những con người ở tận vùng ven, những con người đang bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng luôn nghe vang vọng bên tai lời thét gào não nùng của Chúa Giê-su trên Thánh Giá trước khi Ngài tắt thở : “Ta khát”. Đức Giê-su ngày nay vẫn còn đang đói, đang khát, giống như đám đông năm ngàn người sau những ngày lang thang đi theo Chúa. Chúa nói với các tông đồ : “ Anh em hãy cho họ ăn”. Lời cầu ngỏ đó vẫn đang được lặp lại và gởi trao đến mỗi người. Một vị Thánh nọ sau một ngày đi bách bộ qua nhiều dãy phố, thấy quá nhiều người đói nghèo, quần áo tả tơi, ngồi ăn xin bên vệ đường. Buổi tối về nhà, Ngài cầu nguyện và hỏi Chúa “ Tại sao trên thế giới này còn nhiều người đau khổ như thế? Chúa không làm gì hay sao?” Chúa trả lời “ Có chứ, Ta đã làm. Điều Ta đã làm là dựng nên con. Ta dựng nên con với đôi bàn tay để biết trao ban, với một trái tim rung cảm để biết yêu thương và dâng tặng.
Kết luận :
Phép lạ nhân bánh ra nhiều mà Chúa đã thực hiện 2000 năm trước là dấu chỉ tiên báo phép lạ vĩ đại Chúa đang thực hiện ngay ngày hôm nay nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự. 5000 người ngày xưa Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng họ vẫn còn đói, vẫn chưa no thỏa thực sự. Còn nơi bàn tiệc hôm nay, Chúa xác quyết rằng :“ Tôi là Bánh Hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không còn đói, ai uống chén này sẽ không còn khát”. Đó là bữa tiệc thịnh soạn nhất diễn bày tình yêu bất tận của Thiên Chúa. Một nhà tu đức đã diễn tả có vẻ hơi cường điệu nhưng rất chính xác: “ Thiên Chúa đã thực hiện một giấc mơ rất điên rồ là phân thây xẻ thịt chính con một yêu quý của Ngài để thiết đãi chúng ta”. Đó quả là một sự điên rồ và táo bạo. Chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được sự điên rồ ấy khi đi vào quỹ đạo tình yêu sâu xa của Thiên Chúa. Muốn nếm cảm tình yêu này, chúng ta phải có cảm thức đức tin. Trước khi làm phép lạ, Chúa nói với các môn đệ “ Anh em hãy bảo họ ngồi xuống”. Đám đông phải ngồi xuống để có thể lắng nghe và lãnh nhận. “Ngồi xuống” là một hình tượng diễn bày đức tin, tín thác vào tình yêu Thiên Chúa. Xin Chúa khơi dậy lòng tin yếu kém nơi chúng ta để chúng ta có thể lãnh nhận quà tặng tình yêu, và để chúng ta cũng biết chia sẻ tình yêu đó cho mọi người.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Hầu hết các nhà Thánh Kinh học đều cho rằng chương sáu của sách Tin Mừng thứ tư là diễn từ về đề tài ‘Bánh Trường Sinh’, mà phép lạ Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều chỉ là phần dẫn nhập, hay là dịp để Người đề cập tới đề tài quan trọng này. Đúng là Đức Giê-su đã tự giới thiệu mình là ‘Bánh bởi trời, bánh trường sinh, bánh làm no thỏa…’, thế nhưng – tôi vẫn thườnng tự hỏi – chủ đề đích thực của bài thuyết pháp quan trọng này của Ráp-bi Giê-su có phải là để chứng minh ‘bánh vật thể’ trở thành một ‘Ki-tô hữu thể’, hay chỉ đơn giản là một ‘lời mời ăn Bánh’, tức là chủ đề của bài diễn từ nhằm diễn tả mối quan tâm, tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho con người?
Phối hợp với tường thuật của Phúc Âm Mác-cô, cũng chương sáu, ta có thể thấy trình tự vấn đề được tác giả Gio-an đặt ra như sau: – Đức Giê-su tỏ rõ mối quan tâm chăm sóc các tông đồ nhọc mệt trở về sau cuộc hành trình truyền giáo; mối quan tâm của Người sau đó còn rộng mở cho đám dân chúng, khi Người ‘chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn’ (Mc 6:34). Phép lạ làm bánh hóa nhiều để cho dân chúng ăn no chẳng qua là dấu hiệu cụ thể của mối bận tâm từ ái đó; chính vì vậy mà khi nhận thấy đám đông dừng lại ở việc được ăn bánh thỏa thích, Đức Giê-su đã phải cất công giải thích, chỉ cho họ thấy được sự chăm sóc từ nhân của Thiên Chúa mới chính là điều họ cần tìm kiếm. Phần mình, khi tự đồng hóa với ‘bánh trường sinh’, điều duy nhất Người muốn nhấn mạnh đó là: sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa đối với loài người đã lên tới đỉnh điểm… “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Từ một biểu lộ chăm sóc được cụ thể hóa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để đám đông dân chúng được ăn no thỏa, Đức Giê-su rõ ràng muốn họ nhận ra rằng họ đang được Thiên Chúa từ ái yêu thương chăm sóc tới mức nào. Chính Đức Ki-tô, và toàn bộ sự hiện diện của Người nơi trần gian, là một thứ ‘Bánh bởi trời’, nhưng không phải là thứ ‘Thánh Thể’ để người ta phải khúm núm tôn thờ, cho bằng là của ăn nuôi sống để làm cho họ được no thỏa; và so sánh này chỉ đạt ý một khi qua đó nhân loại nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ hết tình.
Từ kinh nghiệm cụ thể được ăn bánh, các môn đệ và nhiều người Do Thái thành tâm lẽ ra phải khám phá ra chân lý vĩ đại: Thiên Chúa là Người Cha đầy yêu thương, hằng quan tâm tới con cái, và ra tay chăm sóc chúng (xem Mt 7:11; Lc 11:13). Nội dung này chính là cuộc hành trình đức tin mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần làm. Tiến trình này phải đưa chúng ta tới việc tin nhận Đức Ki-tô Giê-su – Bánh hằng sống như một biểu hiện tột đỉnh của tình yêu chăm sóc của Chúa Cha. Tiến trình này quả thực đầy thách đố đối với các tông đồ nói riêng và người Do Thái nói chung, đơn giản là vì khái niệm Thiên Chúa như là người Cha yêu thương chăm sóc còn rất lu mờ và khá xa lạ đối với cách suy nghĩ của Cựu Ước.
Thế còn đối với Ki-tô hữu chúng ta ngày nay thì sao? Cảm nghiệm thiêng liêng nền tảng này của Tân Ước có lẽ lại bị chúng ta đảo ngược trái chiều chăng?
Ít nhất về khái niệm, Ki-tô hữu đã quá quen thuộc với việc gọi Thiên Chúa là Cha. Cả ngàn lần họ kêu lên ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời!’ Thế nhưng khái niệm này đa phần vẫn còn nằm trên mặt lý thuyết trừu tượng như một công thức; cũng thế, ý tưởng ‘Đức Ki-tô – bánh trường sinh’ vẫn chỉ là một khái niệm thần học mang tính suy luận (speculative). Cái cảm nghiệm thực tế rằng, với việc trao ban ‘Bánh trường sinh’, Thiên Chúa đã thực sự đặt tôi trong sự no thỏa của tình yêu Người, rằng Người là cha nhân ái hằng chăm sóc tới từng chi tiết đời sống con người, chăm sóc tới độ gần như thừa bứa ‘thu những miếng thừa của năm chiếc bánh người ta ăn còn lại… cũng chất đầy được mười hai thúng’; đó chính là cảm giác đã từng được Phao-lô diễn đạt như sau: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng ban tất cả cho chúng ta” (Rm 8:32). Cảm giác này có lẽ còn quá xa lạ đối với phần đa Ki-tô hữu chúng ta ngày nay; thay vì chỉ ngưỡng mộ Thiên Chúa là Cha cách chung chung, tôi thiết nghĩ, mỗi Ki-tô hữu nên cụ thể có những giây phút nhìn sâu vào đời sống mình để nhận ra, đàng sau mọi thành công hay may nắm lớn nhỏ, kể cả đàng sau những thất bại ê chề hay đại họa, đều có cả một dàn xếp tinh vi và tế nhị của một ‘Ai Đó’ đầy từ tâm và nhân ái. Đó mới chính là chiều sâu đức tin của Ki-tô hữu chúng ta, một chiều sâu đích thị mang lại vui mừng và hy vọng, bình an và phó thác trong mọi tình huống cuộc đời. Trọn đời người Ki-tô hữu, nếu được đặt trên nền tảng vững chắc này, thì kể cả trong các thử thách gian truân của cuộc sống thường ngày, sẽ luôn phải là an bình và vui tươi (xem Rm 8:38-39).
Phải chăng đó mới đích thực là niềm tin sống động và trưởng thành mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần cất công vun đắp hàng ngày, nhất là trong thế giới và xã hội hiện đại?
Lạy Chúa! Lúc được ăn, con cần hiểu bàn tay nào đang cho con ăn, cõi lòng nào đang nuôi nấng con. Mỗi khi rước lễ, xin cho con không chỉ nghĩ tới thứ bánh nào con đang được ăn (dầu đó là bánh trường sinh Thánh Thể đi nữa), nhưng ngày càng nghiệm ra rõ hơn cõi lòng nhân ái của Cha trên trời đang âu yếm dưỡng nuôi con bằng chính Người Con Chí Thánh. Xin cho việc cử hành Thánh Thể sẽ gia tăng niềm tin tưởng phó thác nơi con mỗi ngày. A-men.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Đức Giêsu 2 lần làm phép lạ nhân bánh ra nhiều nuôi dân chúng đi theo Ngài. Tất cả các Tin mừng đều ghi lại biến cố phép lạ này tới 7 lần. Đây là phép lạ lớn và có tầm mức quan trọng. Đức Giêsu làm phép lạ cho có lương thực nuôi 5.000 người đàn ông, cộng thêm khoảng 5.000 người đàn bà và 2.000 trẻ em, tổng cộng 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Hơn nữa phép lạ hóa bánh ra nhiều là biểu tượng hướng chúng ta về bí tích Thánh Thể.
Theo Tin mừng Gioan, phép lạ hóa bánh có nhiều ý nghĩa đặc biệt:
– Phép lạ này diên ra trong thời gian lễ Vượt Qua, một đại lễ của người Do Thái, kỷ niệm cuộc giải phóng khỏi nô lệ Ai Cập đẻ vào đất hứa. Phép lạ nhân bánh ra nhiều là dấu chỉ cao điểm của sứ mạng cứu thế mà Đức Giêsu thực hiện. Dấu chỉ này loan báo lễ Vượt Qua đích thực tức là cuộc vượt qua của Chúa Giêsu để về cùng Chúa Cha (Ga 13, 1). Ở đây gợi lên cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu đặc biệt tự hiến thân mình làm của ăn thiêng, là bánh đích thực phát sinh sự sống đời đời cho nhân loại.
– Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến 5 chiếc bánh và 2 con cá là phần ăn của em trong ngày. Em đã cho tất cả những gì em có, nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của em mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Kế đến là lòng quảng đại của Chúa Giêsu. Ngài cho mọi người ăn no nê, ăn bao nhiêu tùy thích, còn dư lại 12 thúng đầy. Phép lạ này cũng là dấu chỉ tình yêu của Chúa Giêsu đối với mọi người. Dĩ nhiên phép lạ nào cũng xuất phát do tình thương và lòng quảng đại của Chúa Giêsu.
– Không phải dân chúng xin Chúa Giêsu bánh ăn, cũng không phải do các tông đồ can thiệp, mà chính là sáng kiến của Chúa Giêsu. Ngài thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm kiếm thức ăn cho họ: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn”. Câu hỏi này biểu lộ rằng việc lo cho dân chúng ăn là do chính Đức Giêsu, Ngài lo lắng cho họ có thức ăn.
– Trong phép lạ, Chúa Giêsu luôn cần đến sự cộng tác của con người: Đức tin của chúng ta. Phép lạ hóa bánh được thực hiện do sự cộng tác, góp phần 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp này quá khiêm tốn và tầm thường để nói lên quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế, sự đối thọi làm nổi bật sự tương phản giữa sự yếu đuối bất lực của con người và quyền năng của Thiên Chúa. Trong chương trình cứu độ, Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác của con người. Trong lãnh vực ơn thánh, các bí tích, muốn được ơn thánh của Chúa, con người phải hợp tác qua niềm tin, lòng mến, sự ước ao, lòng hy sinh. Thí dụ muốn lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta phải đi tham dự thánh lễ.
– Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình ảnh báo trước hy lễ Thánh Thể mà chính Chúa Giêsu sẽ thiết lập. Chúa bẻ bánh và trao cho các môn đệ, rồi các ông phân phát, nói lên chính cử chỉ Ngài sẽ làm trong bữ Tiệc Ly. Trong diễn biến của phép lạ, trung tâm là lời tạ ơn: “Đức Kitô cầm bánh, dâng lời tạ ơn…”. Lời tạ ơn mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha để kêu mời chúng ta tham dự vào hiến tế Thánh Thể, mầu nhiệm của tình thương.
Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót đến với dân chúng theo Chúa một cách tích cực: nuôi sống 5.000 người ăn no nê! Ngài kêu gọi người Kitô hữu thực thi lòng quảng đại yêu thương với mọi người, nhất là những người đói khổ, nghèo nàn, những người cần đến chúng ta trong xã hội hôm nay. Nói cách khác, như Đức Giêsu Kitô, chúng ta trở nên tấm bánh cho anh em mình.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_B.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Phép lạ bánh hóa nhiều hôm nay làm cho tất cả mọi người chứng kiến phải ngạc nhiên ngỡ ngàng. Ngạc nhiên ngỡ ngàng vì tầm mức của nó quá rộng lớn. Nó không phải chỉ dành cho một người – một nhóm người – mà là cho tất cả mọi người… mà những người trong bài Tin mừng hôm nay không phải là những người bệnh tật, đau khổ… nhưng là những người khỏe mạnh.
Phép lạ này được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đây là Phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Điều đó chứng tỏ Phép lạ này có một chỗ đứng thật cao và vai trò thật quan trọng trong Lời giáo huấn và đời sống của Giáo Hội thời khai nguyên. Tuy nhiên ta cũng nên lưu ý vài chi tiết:
1. Với Gioan chúng ta thấy Chúa Giêsu có một vai trò thật đặc biệt: Ngài hoàn toàn chủ động và hầu như độc diễn trong câu chuyện này.
Nơi ba Tin Mừng khác ta thấy các môn đệ được kêu mời hợp tác với Chúa.
– Nào là họ có sáng kiến đến xin Chúa Giêsu cho dân về để mua thức ăn (Mt 14,15)
– Nào là bảo dân ngồi xuống từng nhóm 100 người (Mc 6,39-40)
– Nào là cầm bánh đi phát cho người ta. (Lc 9,16)
– Còn nơi Gioan, chúng ta thấy Chúa hoàn toàn chủ động.
– Hơn nữa sau Phép lạ ta thấy Gioan còn có cả một bài suy tư rất dài. Chúng ta sẽ suy niệm vào những tuần sau.
Như vậy chúng ta thấy được ý của Gioan. Ông muốn cho người ta thấy một mình Chúa Giêsu làm tất cả. Các người khác chỉ đóng vai phụ và như thế Chúa Giêsu là Cứu Chúa.
2. Chi tiết thứ hai: Nơi Chúa làm Phép lạ. Đó là một cánh đồng vắng, nơi thiếu thốn đủ mọi phương tiện của cuộc sống kể cả những thứ cần thiết như thực phẩm chẳng hạn.
Tin mừng có nhắc tới việc Andrê phát hiện ra một em bé có năm cái bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng bằng ấy thì có thấm vào đâu với số người nguyên đàn ông thôi cũng lên đến 5000.
Chúa cũng đã thử tài của Philiphê là người quê ở vùng này xem ông có thể kiếm đâu ra đủ lương thực cho cả một đoàn người đông đảo như thế không. Philipphê đã nói lên tiếng nói xem ra có vẻ tuyệt vọng của mình: “Có đến 200 đồng quan = 200 ngày công = một số tiền rất lớn cũng không đủ cho mỗi người một chút.
Vậy mà Chúa vẫn bình thản ra lệnh: Cứ bảo người ta ngồi xuống. Chúa biết những gì Chúa sắp làm.
3. Chi tiết 3 là thời điểm Chúa chọn để làm Phép lạ: Trước lễ Vượt qua.
Lễ Vượt qua là kỷ niệm hào hùng nhất của cả dân tộc. Lễ vuợt qua làm sống lại niềm tự hào của cả một dân tộc được Thiên Chúa giải phóng.
– Ngày ấy con cháu Israel làm nô lệ cho người Ai Cập. Ách nô lệ tưởng chừng như kéo dài bất tận. Nhưng Thiên Chúa đã thương. Uy quyền của Người đã quật ngã cả một Ai cập hùng cường và đưa dân của Người vào đất hứa.
– Ngày ấy giữa một sa mạc khô cằn trên thì nắng, duới thì cát, chung quanh có nhiều kẻ thù. Vậy mà suốt 40 năm Chúa vẫn gìn giữ dân của Người.
– Ngày ấy khi dân đi qua sa mạc khô cằn không nước, không thực phẩm cũng như những thứ cần thiết cho cuộc sống. Nhiều lúc họ tưởng chừng như phải bỏ xác giữa trời làm mồi cho muông thú. Thế mà dưới sự lãnh đạo của Moise, Chúa đã cho nuớc vọt ra từ tảng đá, Manna và chim chóc cứ từ trời rơi xuống mỗi ngày làm lương thực cho dân.
4. Tất cả những hình ảnh như thế làm cho những người đi theo Chúa vào trong hoang địa hôm nay làm sao mà quên được. Họ vẫn còn nhớ, nhớ thật rõ.
Ngày ấy trong sa mạc – Hôm nay trong đồng vắng.
Ngày ấy dân bị đói, Chúa ban Manna – Hôm nay đã ba ngày họ không có gì ăn, Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều. Bàn tay uy quyền của Người còn kỳ diệu hơn cả Moise. Hay nói đúng hơn: Ngài là Moise mới. Ngài là Vua. Không còn điều gì phải nghi ngờ nữa.
Trước sự việc Chúa đã làm, Gioan còn nhớ thật rõ cảm nghĩ của dân lúc đó và ông đã viết thật đậm câu này: “Quả thật Ngài là Đấng phải đến trong thế gian” và ông cũng không quên ghi lại một chi tiết tuy nhỏ nhưng cũng rất quan trọng này: “Họ muốn tôn Ngài lên làm Vua”.
Nhưng Chúa trốn đi vì không muốn làm Vua theo kiểu họ mong chờ.
Vâng kính thưa anh chị em. Chúa Giêsu Chúa của chúng ta là Moise mới, là Vua. Ngài là Vua mới. Ngài là Vua đã thiết lập một dân tộc mới. Chúng ta là thần dân của Người.
BÀI HỌC.
Thử hỏi Chúa mong chờ gì nơi chúng ta?
Lời Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô 4,1 hôm nay trả lời cho chúng ta: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận”. Ngài kể ra một loạt những đức tính cần thiết.
Phần tôi: Hãy biết sống quảng đại. Quảng đại như chú bé đã dâng cho Chúa những tấm bánh và hai con cá hôm nay.
Cậu bé chẳng có gì nhiều để dâng lên Chúa, nhưng từ lễ vật đơn thành của cậu. Chúa Giêsu đã có chất liệu để thực hiện phép lạ. Nếu cậu cứ giữ lại bánh và cá cho riêng mình, thì lịch sử có lẽ đã mất đi một phép lạ lớn lao, chói lọi.
Nói tới đây tôi nhớ đến một câu chuyện.
Để dạy các thiếu niên lòng quảng đại. Thánh Don Boscô đã kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Ngài.
Dọc đường Ngài bảo hai ông mỗi người hãy mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc đã rồi mới nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường dài vác nặng. Gioan thở hổn hển, còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:
– Sao anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế?
Chúa Giêsu nghe hết tất cả nhưng Ngài giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Ngài muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì.
Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.
Lần khác, Chúa Giêsu cũng gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi phép lạ Chúa Giêsu sẽ làm để thưởng ông. Thế nhưng, Chúa Giêsu chỉ nói với họ:
– Nào chúng ta hãy ngồi lên những viên đá chúng ta vừa mang đi theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!
Phêrô thấy xấu hổ, ông trách Chúa:
– Thì ra Thầy đã chơi khăm con!
Nhưng Chúa Giêsu bảo ông:
– Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.
Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.
Nếu tính toán, em đã chẳng dâng cho Chúa những gì em có.
Nếu tính toán như Philiphê thì làm sao mà có được phép lạ?
Hãy bắt chước Chúa cho đi một cách quảng đại. Hơn 5000 người không phải là một con số nhỏ. Tất cả đã được ăn no nê. Vâng tất cả, không trừ một ai.
Xem ra Chúa Giêsu cần những gì chúng ta đem đến cho Ngài. Ngài không cần mỗi người chúng ta đem đến thật nhiều, nhưng cần những gì chúng ta đang có. Có thể là thế giới đã không nhận được phép lạ này đến phép lạ khác, chiến thắng này đến chiến thắng khác, chỉ vì chúng ta không chịu đem đến cho Chúa những gì mình có, không chịu đến với Chúa Giêsu bằng chính con người hiện tại của mình. Nếu chúng ta bằng lòng hiến dâng chính mình để phục vụ Chúa thì Ngài dùng chúng ta. Có thể chúng ta hối tiếc hổ thẹn vì mình không có gì nhiều để dâng, hối tiếc hổ thẹn như vậy là đúng, nhưng chúng ta không có lý do gì để từ chối dâng cho Ngài những gì mình có. Dù ít, bao giờ cũng thành nhiều trong tay Chúa Giêsu!
Hãy biết dâng hiến, chúng ta sẽ thấy những việc lạ lùng Chúa làm cho chúng ta. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Ăn uống là chuyện rất ư bình thường hàng ngày nhưng cũng rất cần thiết, thậm chí điều bình thường đó còn là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của con người. Chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng cơm, manh áo. Miếng ăn bình thường mà vô thường, bởi vì miếng ăn có thể là niềm vinh dự mà cũng có thể là nỗi ô nhục!
Cuộc sống là thực tế, không trừu tượng hoặc mơ hồ. Chúa Giêsu đã sống rất thực tế, do đó Đạo Yêu Thương của Ngài cũng thực tế, không thực tế thì chỉ là nói dối (1 Ga 4:20). Thánh Phaolô cũng dành cả chương 13 (13 câu) trong thư I gởi giáo đoàn Côrintô để đề cập đức ái. Thánh Phaolô không sử dụng từ “nói dối” mà ví những người không yêu thương thì “cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1 Cr 13:1). Ngày nay người ta gọi đó là dạng “chảnh”, “nổ”, chỉ khoác lác mà thôi.
Giáo Hội cũng rất thực tế: Trong kinh “Thương Người Có 14 Mối”, mối thứ nhất của phần “Thương Xác 7 Mối” là “cho kẻ đói ăn”. Giáo hội không thể nói suông, vì Giáo hội theo đúng cách thức của Đức Kitô. Tuy nhiên, có lẽ Kitô hữu (nói chung) và người Công giáo chúng ta (nói riêng) vẫn chỉ yêu người bằng lý thuyết, qua sách báo, qua những bài “thuyết pháp” hùng hồn, thậm chí là yêu người “online” mà thôi. Chúa Giêsu chưa một lần nói suông. Nếu can đảm mà nghiêm túc xét mình, liệu chúng ta đã theo Chúa đúng ý Ngài? Chắc hẳn chúng ta phải đấm ngực vô số lần! Thật vậy, danh nhân Mahātmā Gāndhī (1869-1948, được dân Ấn Độ coi là Quốc phụ) đã nói thẳng: “Tôi sẵn sàng trở thành Kitô hữu nếu tôi tìm được các Kitô hữu thực thi Bài Giảng Trên Núi” – tức là Bát Phúc, là Tám Mối Phúc Thật. Chắc chắn chúng ta phải “giật mình” mà xét lại cách sống của chính mình ngay thôi, kẻo tự chuốc khốn cho chính mình!
Nói là làm, làm ngay, làm thật. Thấy thương dân chúng theo mình suốt ngày, Chúa Giêsu đã thực tế bằng cách hóa bánh ra nhiều hai lần: Lần một với 5 chiếc bánh và 2 con cá mà đủ cho khoảng 5.000 người ăn, chưa kể phụ nữ và trẻ em, lại còn dư 12 giỏ đầy (Mt 14:17-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14); lần hai với 7 cái bánh và một ít cá nhỏ mà đủ cho khoảng 4.000 người ăn, cũng không kể phụ nữ và trẻ em (Mt 15:34-38; Mc 8:1-10). Quả thật, Chúa Giêsu vô cùng thực tế. Và Ngài cũng rất muốn chúng ta làm như vậy, nghĩa là PHẢI BIẾN LỜI NÓI THÀNH HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ. Người Công giáo cũng thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Thực tế thôi!
Như chúng ta đã biết, ăn uống là điều cần thiết nhất để duy trì sự sống. Ăn uống không chỉ là cái thú đầu tiên trong tứ khoái của con người, mà còn là bài học đầu tiên chúng ta phải học: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Còn nhiều thứ khác cũng phải học hỏi, đặc biệt là học hỏi về tinh thần, tâm linh: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an” (Br 3:14).
Kinh Thánh cho biết: Một người trong nhóm các ngôn sứ ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại, họ hái trái dưa đắng ấy, đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!” (2 V 4:40), nghĩa là nồi cháo đó có độc tố vì được nấu bằng những loại trái độc. Và họ không thể ăn được. Nhưng ông Ê-li-sa điềm nhiên nói: “Đem bột đến đây!”. Ông “vô tư” bỏ bột vào nồi rồi bảo: “Múc ra cho người ta ăn”. Lạ lùng thay, trong nồi liền hết chất độc. Ôi chao, không biết ông Ê-li-sa có nghiên cứu y dược hay không mà kết hợp thực phẩm khéo léo quá chừng!
Sau đó, có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Chúa, đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa không giữ riêng cho mình và những người trong nhóm, mà ông nói: “Phát cho người ta ăn” (2 V 4:42). Nhưng tiểu đồng hỏi ông: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” (2 V 4:43a). Ông cương quyết nói: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư” (2 V 4:43b). Và quả đúng như vậy, phép lạ đã xảy ra nhãn tiền. Sau khi tiểu đồng phát cho người ta ăn xong, vẫn còn dư như lời Thiên Chúa đã phán truyền. Mọi sự đều có thể xảy ra (x. Gv 9:1), bởi vì Thiên Chúa quyền linh, điều không thể trở thành có thể (x. Mt 19:26; Mc 10:27; Lc 18:27; Lc 1:37).
Vì vậy, “muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, và nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:10-11a). Trong “muôn loài” đó có mỗi chúng ta, nghĩa là chúng ta phải biết tạ ơn Chúa. Bất cứ ai tin tưởng và ngước mắt trông lên Chúa, Ngài đều chạnh lòng thương và “chính Ngài đúng bữa cho ăn” (Tv 145:11b). Sự quan phòng của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm, chúng ta không thể hiểu thấu. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, biết rõ chúng ta cần gì, và “khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Tv 145:16). Không chỉ vậy, Ngài còn “công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm, gần gũi tất cả những ai thành tâm cầu khẩn Ngài” (Tv 145:17-18).
Ôi, tình yêu Thiên Chúa quá bao la, lòng thương xót của Ngài quá hải hà, bởi vì Ngài luôn “chạnh lòng thương” những con người sầu khổ, thiếu thốn về vật chất hoặc tinh thần. Vâng, Thiên Chúa của chúng ta rất thực tế! Không chỉ vậy, Ngài còn ưu ái chấp nhận chúng ta là con cái, là thân hữu của Ngài (Ga 15:15b) mặc dù chúng ta chỉ là phàm nhân, là tội nhân, hoàn toàn bất xứng. Vì thế, chúng ta cần phải khiêm nhường mà nhận diện chính mình để không ảo tưởng.
Con người luôn cần được nhắc nhở và động viên. Mặc dù đang bị tù đày vì Chúa, Thánh Phaolô vẫn không ngần ngại bày tỏ: “Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em” (Ep 4:1). Theo Thánh Phaolô, cách “sống xứng đáng” đó là: Ăn ở thật KHIÊM TỐN, HIỀN TỪ và NHẪN NẠI; lấy tình bác ái mà CHỊU ĐỰNG lẫn nhau; thiết tha duy trì sự HIỆP NHẤT mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở THUẬN HOÀ gắn bó với nhau (Ep 4:2-3).
Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:4-6). Tất cả đều là MỘT trong Thiên Chúa thì không có lý do gì mà tách rời. Có ai lại tự cắt lìa một phần thân thể của mình chứ? Mà đã là MỘT thì phải yêu thương, quan tâm, nâng niu và chia sẻ mọi thứ với nhau. Vâng, đó là vấn đề rất thực tế, nhưng con người vẫn chia ba bè bảy nhóm, nên Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người “nên một” (Ga 17:21-23).
Rất chi tiết, Thánh sử Gioan kể: Hôm đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria, có đông đảo dân chúng đi theo Ngài, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho các bệnh nhân. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6:5). Thực ra Ngài nói thế là để thử ông thôi, chứ Ngài biết mình sắp sửa làm gì rồi.
Lúc đó, có lẽ ông Philípphê gãi đầu vì ngạc nhiên và nói: “Thầy ơi là Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6:7). Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Ngài: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6:9). Đức Giêsu mỉm cười và ôn tồn nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi” (Ga 6:10). Rồi mọi người ngồi xuống trên cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Có lẽ lúc đó các tông đồ lắc đầu ngán ngẩm vì đông quá, có sẵn đủ thực phẩm mà phục vụ họ cũng mệt đứ đừ chứ chẳng giỡn chơi. Chỉ tính 5.000 người thì mỗi ông phải phục vụ khoảng 500 thực khách. Ui da, “căng” dữ nghen!
Khi đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý chứ không “chia khẩu phần”. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6:12). Các môn đệ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Thật là trên cả tuyệt vời. Kỳ diệu!
Mọi người chứng kiến dấu lạ Đức Giêsu làm, họ nói với nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga 6:14). Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt và đi lên núi một mình. Ngài “thực tế” với người khác nhưng lại không “thực tế” với chính mình. Ngài không muốn được “tôn làm vua” mà lại “lánh mặt” và “đi lên núi”, đáng lưu ý là Ngài đi lên núi MỘT MÌNH mà thôi. Thầy Giêsu tỏ ra không thực tế mà lại rất thực tế. Hay quá chừng luôn!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn sống “thực tế” như Đại Sư Giêsu là biết “chạnh lòng thương” tha nhân, dù họ là ai, đồng thời cũng sẵn sàng cầm lấy chiếc-bánh-cuộc-đời của chính mình, chân thành dâng lời tạ ơn, rồi vui vẻ bẻ ra và chia sẻ với bất kỳ ai. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Ga 6,1-15.
(1) Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. (3) Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái. (5) Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-lip-phê : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Phi-lip-phê đáp : “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. (8) Một trong các môn đệ là ông An-rê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người : (9) “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?”. (10) Đức Giê-su nói : “Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta nằm ngả xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. (12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ : “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14) Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói : “Hẳn ông này là vị Ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian !” (15) Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
- Ý CHÍNH : Đức Giê-su chứng tỏ mình là Mô-sê Mới khi làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no, giống như trong thời kỳ Xụất hành, Mô-sê đã làm phép lạ nuôi dân Ít-ra-en trong sa mạc bằng Man-na từ trời rơi xuống. Phép lạ nhân bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua sau này.
- CHÚ THÍCH :
– C 1-4 : + Biển hồ Ga-li-lê : Gọi là Ga-li-lê vì Biển Hồ này nằm ở xứ Ga-li-lê, miền Bắc nước Pa-lét-ti-na. Cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1), vì vào năm 26 vua Hê-rô-đê An-ti-pa đã cho xây thành phố Ti-bê-ri-a ở gần Biển Hồ này, rồi người ta dùng tên thành đó để gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Ngoài ra, Biển Hồ còn có tên là Ghen-nê-xa-ret (x. Lc 5,1). + Sắp đến lễ Vượt Qua là dại lễ của người Do thái : Lễ Vượt Qua kỷ niệm việc dân Do thái được thóat khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập, và được trở về miền Hứa Địa là xứ Ca-na-an (x. Xh 3,17), nơi Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời (x. St 12,1).
-C 5-7 : + Người hỏi ông Phi-lip-phê : Sở dĩ Phi-lip-phê được Đức Giê-su hòi ý kiến vì ông là người dân địa phương này. + Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ? : Qua câu này, ta thấy Đức Giê-su cũng quan tâm cả đến nhu cầu thể xác của đám đông dân chúng và tìm cách đáp ứng nhu cầu chính đáng ấy. + Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi : Thời kỳ Xuất hành, Đức Chúa đã nhiều lần thử thách sự trung thành của dân Ít-ra-en, xem họ phản ứng ra sao khi gặp hoàn cảnh khó khăn. (x. Xh 16,4;17,1-7). Trong bài Tin Mừng hôm nay, hỏi Phi-lip-phê kiếm đâu ra bánh cho đám đông là Đức Giê-su muốn thử xem ông có tin vào quyền năng của Người có thể giải quyết sự khó khăn này không ? Còn Người thì đã dự tính sẽ phải làm gì rồi. + “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” : 200 đồng là một số tiền lớn, tương đương với 200 ngày công, vì lương công nhật của thợ lành nghề lúc bấy giờ là một đồng (x. Mt 20,2.9).
-C 8-9 : + An-rê anh ông Si-mon Phê-rô thưa với Người : An-rê là người đã dẫn em mình là Si-mon đến giới thiệu với Đức Giê-su (x. Ga 1,42). Lần này ông cũng đã phát hiện ra một em bé trai có mang thực phẩm theo và dẫn em đến giới thiệu với Đức Giê-su. + “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá : Bánh lúa mạch là loại bánh mì rẻ tiền, làm bằng lúa mạch, là thức ăn dành cho gia súc. Đây là bánh của những người thật nghèo. Cá của em nhỏ này là loại cá nhỏ ướp muối. Vì thời đó người ta chưa có phương tiện bảo quản cá tươi lâu được. Cá muối là món ăn bình dân của dân chài lưới ven Biển Hồ. + “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !” : Câu này cho thấy sự bất lực của các tông đồ trước nhu cầu lớn lao của dân chúng bị đói đang cần được ăn no.
-C 10-11 : + Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi : Nằm ngả xuống hay ngồi xuống cách thoải mái là tập tục nằm nghiêng khi ăn uống của vùng Cận Đông. Theo Mác-cô, việc người ta ngồi thành từng nhóm một trăm hay năm mươi (x Mc 6,40), không những tiện lợi cho việc phân phát bánh theo thể thức Mô-sê đã làm trong cuộc Xuất Hành (x. Xh 18,21.25), mà còn nói lên tinh thần hiệp thông khi tham dự bữa tiệc Thánh Thể sau này (x. 1 Cr 11,18-21). + Chỗ ấy có nhiều cỏ : Đất có nhiều cỏ cho thấy lúc này đang trong mùa xuân, là thời gian mừng lễ Vượt Qua của dân Do thái. Cây cỏ xanh tươi gợi lên hình ảnh Đức Giê-su là vị Mục tử nhân lành (x. Ga 10,11). Người dẫn đàn chiên Ít-ra-en Mới đi đến cánh đồng cỏ xanh tươi, để họ được ăn uống no nê và được sống dồi dào (x. Tv 23,1-3; Ga 10,10). + Vậy Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó : Trong Tin Mừng Nhất Lãm (gồm 3 Tin Mừng của Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca), Đức Giê-su trao bánh và cá cho môn đệ để họ đi chia cho dân chúng (x. Mt 14, 19; Mc 6,41; Lc 9,16). Còn trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su tự phân phát bánh đã được nhân ra nhiều cho dân chúng. Việc Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát là những cử chỉ Người sẽ làm trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua để thiết lập bí tích Thánh Thể (x Mt 26, 26). Như vậy, phép lạ nhân bánh ra nhiều này là hình bóng của bí tích Thánh Thể do Đức Giê-su sẽ thiết lập sau này.
-C 12-13 : + No nê : Theo Hy ngữ cổ, từ “no nê” chỉ việc cho súc vật ăn rơm. Khi dùng cho người thì có nghĩa là ăn no đến phát ngán ! + “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” : Tạo sao có nhiều miếng bánh thừa như vậy ? Theo phong tục Do thái, khi ăn tiệc người ta có thói quen để lại chút gì cho các người giúp việc ăn sau đó. Số bánh thừa gồm mười hai giỏ đầy do mười hai tông đồ đi thu lượm lại.
-C 14-15 : + Hẳn ông này là vị Ngôn sứ : Vị Ngôn sứ nói đây đã được Mô-sê đề cập đến như sau : “Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi rằng : “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một Ngôn sứ giống như ngươi, để giúp chúng. Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy “ (Đnl 18,17-18). + Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình : Dân Do thái đang bị quân Rô-ma cai trị và họ trông mong Đấng Thiên Sai mau đến làm Vua của họ và cầm quân để giải phóng họ khỏi ách đô hộ của người Rô-ma. Dân Do thái đã nhiều lần khởi nghĩa và đều bị quân Rô-ma đàn áp thẳng tay. Đức Giê-su ý thức sứ mạng của Người không phải để làm ông Vua trần tục như dân Do thái đang trông mong, nên Người đã lánh mặt lên núi một mình.
4.CÂU HỎI :
1) Vào thời Xuất Hành, trong suốt thời gian 40 năm dẫn dân Ít-ra-en đi trong sa mạc về Đất Hứa, Mô-sê đã xin Đức Chúa ban Man-na từ trời rơi xuống cho họ ăn, thì nay Đức Giê-su làm gì để nuôi Hội Thánh là dân Ít-ra-en Mới trên đường về Nước Trời?
2) Tại sao Biển Hồ còn được gọi là Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a ?
3) Lễ Vượt Qua là lễ của đạo Do thái hay đạo Công giáo ? Lễ này kỷ niệm biến cố nào xảy ra trong lịch sử dân Ít-ra-en ?
4) Tại sao Đức Giê-su hỏi Phi-lip-phê chỗ mua bánh cho dân chúng ? Đức Giê-su hỏi Phi-lip-phê nhằm mục đích gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA :
1. LỜI CHÚA : Người hỏi Phi-lip-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”(Ga 6,5).
2. CÂU CHUYỆN :
1) ĐỨC BÁC ÁI PHẢI THIẾT THỰC CỤ THỂ :
Năm 1634, Thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức bác ái theo Lời Chúa dạy. Các bà ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách họat động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà kết quả chẳng đi đến đâu. Một hôm, trong lúc họ đang bàn cãi, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài bước vào phòng họp, trên tay mang theo một vật được gói trong tấm khăn vải. Ngài đặt chiếc gói xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái mới sinh được khỏang ba ngày, bị bỏ lại bên cạnh đống rác mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói : “Các bà muốn làm việc bác ái thì đừng nói nhiều nữa mà hãy làm những việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay làm việc nuôi trẻ bị bỏ rơi này ngay đi !”. Dòng Bác Ái Vinh Sơn ra đời từ ngày đó.
2) QUẢNG ĐẠI CHIA SẺ TẤM BÁNH TÌNH NGƯỜI :
Có hai anh em nhà kia áo quần rách nát đang dùng cây sắt bới móc đống rác ở bãi rác trung chuyển cạnh một con đường nhỏ. Bỗng mắt hai đứa sáng lên khi thấy một miếng bánh kem từ trong chiếc xe hơi đậu gần đó vất xuống lề đường. Thằng anh vội chạy đến nhặt lên, nhưng chiếc bánh đã bị lấm đất không thể ăn được. Đứa em gái nuốt nước miếng nói với anh: “Anh phải thổi cho cát bẩn bay đi đã, rồi anh em mình mới có thể ăn được”. Thằng anh liền phùng má thổi mạnh vào chiếc bánh cho đất cát bay ra. Nhưng cát bẩn đã dính sâu vào bánh, thổi thế nào chúng cũng không chịu văng ra. Con em sốt ruột cũng ghé miệng thổi và lỡ tay đụng vào tay của anh khiến chiếc bánh bị rơi tòm xuống chiếc rãnh hôi hám ven đường. Thằng anh tiếc rẻ trách em gái: “Tại em đó. Em đã đụng vào tay anh làm cho chiếc bánh bị rơi xuống cống rồi. Bây giờ lấy gì ăn đây ?”. Nhưng rồi khi thấy vẻ mặt buồn bã của em, nó liền an ủi: “Ừ, lỗi tại anh! Nhưng may là kem vẫn còn dính vào tay anh nè. Cho em mút kem trong ba ngón, còn anh chỉ mút hai ngón còn lại thôi!”
Câu chuyện nói trên không biết thực hư ra sao, nhưng cũng cho thấy giữa đời thường vẫn có những người giàu có hoamg phí vất bỏ đồ ăn đi, đang khi nhiều kẻ nghèo lại phải bòn nhặt từng miếng bánh bị bỏ đi ấy. Là tín hữu của Đức Giê-su, chúng ta cần làm gì để giúp đỡ cụ thể những người nghèo đói bất hạnh trong xã hội hôm nay?
3) ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI LÀM VIỆC THIỆN :
vào một đêm đông gió tuyết se lạnh. Một ông lão đến gõ cửa nhà một người giàu có trong xóm. Ông nhà giàu ngồi trong nhà nhìn ra thấy lão ăn xin trong chiếc áo rách mỏng manh đang đứng rét run ngoài cổng. Dù biết lão ăn xin đang bị lạnh, nhưng ông ta nghĩ không nên để lão già ăn xin hôi hám kia vào nhà, nên sai gia nhân ra cổng cho vài đồng xu để lão ta đi.
Mấy ngày sau, một thi thể đã được người ta phát hiện nằm chết cóng dưới một đụm tuyết ở đầu làng. Nghe tin này, ông nhà giàu biết chắc đó là lão già ăn xin mấy hôm trước, nên cũng cảm thấy ân hận vì đã không tận tình giúp đỡ lão ta.
Bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện để người ta bị chết cũng chính là một tội ác nghiêm trọng: Tội thiếu sót bổn phận khi ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân đang cần được trợ giúp.
4) CỨ LÀM HẾT SỨC MÌNH ĐI RỒI CHÚA SẼ TRỢ GIÚP :
Ngày nọ, một phụ nữ trung niên đã đến thăm một khu nhà ổ chuột trong thành phố. Nhìn thấy tình trạng bi đát của những người nghèo không nhà cửa, không cơm ăn áo mặc… bà đã tự nhủ: “Ta phải làm gì giúp họ đây ?”. Thế rồi bà dồn tất cả sớ tiền trong túi được 4 đồng bạc Ấn đi thuê một căn nhà tồi tàn trong xóm gần đó. Hôm sau, bà đã đi đến các đường phố lân cận gặp gỡ các trẻ em lang thang bụi đời và đưa chúng về căn nhà mới thuê. Bà ngăn căn nhà thành hai phòng là phòng học và phòng ngủ. Căn phòng học không bàn ghế bảng viết. Bà đã viết lên trên nền nhà lau sạch dạy lũ trẻ học. Hằng ngày bà gặp gỡ nhiều người để xin ủng hộ gạo rau thịt cá để nấu ăn cho chúng. Đó là cách mà bà đã dùng để chiến đấu với sự nghèo đói và dốt nát chỉ với những gì trong tầm tay của mình.
Nhờ ơn Chúa giúp và sự nhiệt thành cộng tác của nhiều người mà đến hôm nay bà đã xây dựng được 80 trường học trang bị học cụ đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động theo phong cách hiện đại, 70 bệnh viện miễn phí chuyên chăm sóc chữa trị người cùi, 30 viện chăm sóc cho những bệnh nhân sắp chết bị người thân bỏ rơi, 30 viện chăm sóc các trẻ em bụi dời cùng 40.000 nhân viên thiện nguyện cộng tác trên khắp thế giới. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.
- THẢO LUẬN : Ngày nay vẫn còn nhiều người đang bị đói khát cơm áo thuốc men… và đói nghe Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Vậy chúng ta cần làm gì để giúp họ ?
- SUY NIỆM :
Giống như Mô-sê xưa đã được Đức Chúa ban cho Man-na để nuôi dân It-ra-en trong cuộc lữ hành vượt qua sa mạc 40 năm để về tới miền Đất Hứa, Tin Mừng hôm nay cũng trình bày Đức Giê-su như một Mô-sê Mới thời Tân Ước. Người cũng nhân bánh ra nhiều, bánh Man-na Mới tượng trưng bí tích Thánh Thể, để làm lương thực nuôi dưỡng đức tin của dân It-ra-en Mới là Hội Thánh, đang trên đường lữ hành vượt qua sa mạc trần gian về Đất Hứa Nước Trời đời sau. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng ta thực hành đức bác ái cụ thể như sau:
1) “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?” :
Nhìn thấy đám đông đi theo mình, Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ đang bị đói khát, bệnh tật và bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Họ khao khát đi tìm Chúa để mong được nghe giảng Tin Mừng Nước Trời và được chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giê-su đã ban cho họ một bữa ăn để đáp ứng cơn đói sau ba ngày theo Người nơi hoang địa. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?” Nói câu này, Người muốn các môn đệ chia sẻ mối bận tâm của Người và cộng tác với Người trong phép lạ mà Người sắp thực hiện.
2) “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”:
Trước nhu cầu lớn lao của đám đông, các môn đệ đã đề nghị với Thầy giải pháp dễ nhất qua câu nói: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Giải pháp này xem ra hợp lý và nhẹ nhàng nhất: Ai nấy tự mua thức ăn để phục vụ mình. Nhưng giải pháp này lại không được Đức Giê-su chấp nhận. Người muốn các ông phải có trách nhiệm lo cho đám đông: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.
Tin Mừng Gio-an cho thấy thiện chí góp phần của các môn đệ như sau: An-rê nói: “Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!”. Tuy nhiên Đức Giê-su đã quá rõ sự bất lực của các môn đệ. Người chỉ cần các ông góp phần tối thiểu mà thôi. Người ý thức việc Người sắp làm nên đã cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng… Lập tức những bế tắc của các môn đệ đã được hóa giải và đám đông dân chúng được ăn một bữa no nê.
3) Bài học từ phép lạ nhân bánh ra nhiều:
Đức Giê-su không biến bánh và cá thành một khối thức ăn to lớn, rồi để cho mỗi người tự đến lấy phần ăn cho mình. Người đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ bằng cách trao bánh và cá cho các môn đệ, rồi các ông này lại mang đến trao cho từng người trong đám đông. Rồi bánh và cá lại từ người này được bẻ ra trao cho người bên cạnh. Đó là bài học bác ái chia sẻ mà Chúa muốn dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, khi mọi người biết quan tâm đến nhau, quảng đại chia sẻ thì Chúa sẽ nhân ra nhiều để mọi người được ăn no.
4) “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”:
Con số 5000 người không kể đàn bà con trẻ là cả một rừng người. Đã có hằng ngàn chiếc bánh và cá hôm đó đã được chia sẻ để mọi người ăn no mà còn dư. Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ đi thu lại được mười hai thúng bánh và cá người ta ăn còn thừa đó.
Đức Giê-su quý trọng những mẫu bánh và cá vụn vì chúng là hiện thân tình thương cứu độ của Người. Ngày nay, cũng có những tấm bánh tiếp tục được bẻ ra trong thánh lễ dâng tại các nhà thờ, tuy tấm bánh nhỏ bé mỏng manh nhưng sau khi truyền phép đã biến thành Thân Mình của Chúa Giê-su, tái diễn bữa Tiệc Ly và lễ Hy sinh Thánh giá của Người khi xưa hầu ban ơn cứu độ cho muôn người.
Ngoài ra, qua việc dạy môn đệ đi thu lại những miếng bánh vụn, Đức Giê-su muốn dạy chúng ta bài học phải tránh lãng phí các ơn lành Chúa ban như : Sức khoẻ, tài năng, trí tuệ, thời giờ… Vì chúng đều là những hồng ân của Chúa và cần được bảo quản để chia sẻ cho nhiều người.
5. LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết quảng đại, biết mở rộng con tim để góp phần giải quyết những đói nghèo của nhân loại. Phần đóng góp nhỏ bé của chúng con hôm nay có thể chỉ là một nụ cười cảm thông với người đang đau khổ, một ly nước lã hay một chén cơm manh áo cho người đói khát nghèo khó, một lời động viên an ủi những người đang bị hiểu lầm và đối xử bất công; một sự khoan dung tha thứ cho những kẻ đang thù ghét làm hại chúng con…
Xin cho chúng con quyết tâm mỗi ngày làm ít là một việc thiện, mỗi ngày sẽ làm vui lòng một người… để chúng con trở thành những tông đồ giáo dân nhiệt thành làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Xin cho chúng con thành tâm cộng tác với Chúa trong việc cứu rỗi bản thân chúng con và nhiều người như lời thánh Au-gút-ti-nô nói : “Thiên Chúa dựng nên bạn không cần hỏi ý bạn, nhưng Ngài không thể cứu rỗi bạn, nếu bạn không cộng tác với Ngài”.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Peter Tran
Kính thưa anh chị em thân mến,
Hôm nay, bài đọc hai và bài Tin Mừng cho chúng ta thấy có hai niềm vui khác nhau. Trong bài Tin Mừng, dân chúng đã chứng kiến một phép lạ, và họ đã được ăn một bữa no nê và còn dư 12 thúng đầy, không mất tiền, hoàn toàn free. Họ đã vui mừng đến nỗi muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua để họ được tiếp tục ăn free.
Chúng ta thấy dân chúng có thái độ thật kỳ quặc với phép lạ bánh hoá nhiều Chúa thực hiện. Họ hoàn toàn hiểu sai chủ ý của Chúa Giêsu. Phải, dân chúng đã trần tục hóa phép lạ. Chạy theo lợi nhuận vật chất, họ chỉ nhìn thấy vật chất. Nói như thánh Phaolô họ tôn thờ cái bụng! Thánh Gioan nói rõ chi tiết này: “Sau biến cố, dân chúng muốn bắt Chúa đi mà tôn lên làm vua.” Dân chúng được ăn no nê và vui mừng muốn tôn Chúa làm vua để được ăn free hoài, có lẽ để tiếp tục phục vụ cho những lợi lộc vật chất, cho những tham vọng của họ. Thay vì cố gắng để được ăn của ăn không hư nát, để được sống đời đời, thì dân chúng lại giới hạn phép lạ trong chiều kích vật chất của cơm bánh để nuôi sống thể xác mà thôi. Phải chăng đó cũng là một trong những cám dỗ vẫn thường xảy ra cho mỗi người chúng ta dù thời đại nào. Cám dỗ dùng Thiên Chúa cho những chuyện tầm phào, vài ba chuyện lẻ tẻ! Bắt Chúa chỉ phục vụ cho vài ba nhu cầu thể xác thôi.
Nhưng khi Chúa Giêsu từ chối sự tôn phong ‘làm dzua’ của họ, chúng ta nghĩ niềm vui của họ sẽ tồn tại được bao lâu? Chắc chắn là không có dài. Phép lạ cũng không đem lại niềm vui bền vững được.
Còn trong bài đọc hai, thánh Phaolô đang là tù nhân khuyên các tín hữu Êphêsô “ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận” vì “chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Đấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người và ở trong mọi người.”
Lý do tại sao thánh Phaolô đang trong tù vẫn bình an khuyên tin nơi Chúa vì như trong Thánh Vịnh đáp ca, “Chúa công minh trong mọi đường lối, thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. Chúa gần gũi những kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm.”
Nếu Chúa là trung tâm của cuộc sống chúng ta, thì không ai có thể làm mất niềm vui của chúng ta được. Nếu lòng chúng ta mong ước những sự trên trời thì ba cái nhỏ như con thỏ ăn cỏ làm sao ảnh hưởng trên ta? Niềm vui ở đây phát xuất từ một niềm tin, một niềm hy vọng, vào sự hạnh phúc cao vượt hơn, sâu xa hơn, và chân thực hơn; làm cho chúng ta sẵn sàng hy sinh chấp nhận tất cả những khó khăn và đau khổ khác.
Nếu chúng ta chỉ chú tâm vào những rắc rối, những khó khăn, những lời nói chê bai, những bất công, những sự không vừa ý, hay những nhu cầu không được thoả mãn, những bệnh tật, sự mất ngủ, sự kém tài… thì chúng ta sẽ bị bế tắc trong đau khổ, bị thất vọng, và tức giận.
Ngược lại nếu chúng ta chú tâm vào Thiên Chúa, đặt Chúa làm trung tâm, thì chúng ta sẽ tìm được câu trả lời cho những khó khăn; chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa và hồng ân của Chúa bao bọc xung quanh những đau khổ của chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, thánh Phaolô bị tù đầy hay các thánh, nhất là các thánh tử đạo, đã sẵn sàng đón nhận đau khổ hiện tại, để có được hạnh phúc cao vời sẽ tới.
Một ngày nọ, có ông tiên hiện ra với một anh chàng u sầu, và hỏi:
– Sao trông con buồn bã thế, có việc gì không vui à?
– Con buồn lắm, Ông Tiên ơi! Con không hiểu tại sao con làm việc chăm chỉ, vất vả mà vẫn nghèo.
– Nghèo ư, con là một người giàu có đấy chứ. Giả sử ta chặt một bàn tay của con, ta trả con 30 đồng vàng, con đồng ý không?
– Không bao giờ. Chưa ai nói với con như vậy cả, con rất nghèo.
– Giả sử ta chặt một ngón tay cái của con, ta trả con 3 đồng vàng, con có đồng ý không?
– Không ạ.
– Vậy ta muốn lấy đi đôi mắt của con, ta trả con 300 đồng vàng, con thấy thế nào?
– Cũng không được.
– Vậy, ta trả con 3.000 đồng vàng để con trở thành một ông lão, già cả, lú lẫn được không?
– Đương nhiên là không.
– Con muốn giàu. Vậy ta sẽ đưa cho con 30.000 đồng tiền vàng để lấy đi mạng sống của con, con thấy thế nào?
– Con cảm ơn ông! Con đã hiểu, con cũng là một người giàu có.
Có khi vì mê mải sự đời, hay phải đối diện với những đau khổ, mà chúng ta quên rằng mình cũng là những người rất giàu có, vì khi chúng ta chịu phép Rửa Tội, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta sự sống Phục Sinh quí giá, sự sống đời đời, hay nói khác đi là ơn gọi sống thánh thiện mà chúng ta cố gắng theo đuổi hằng ngày. Cho dù có mấy trăm ngàn đồng tiền vàng, hay bao nhiêu của cải vật chất, hay những khó khăn đau khổ, cũng không thể đánh đổi được sự sống Phục Sinh, sự sống thánh thiện đó. Mong rằng một khi chúng ta đã nắm chắc được kho tàng quí giá là chính Chúa Giêsu, thì cho dù có gặp những thử thách, khó khăn, đau khổ, chúng ta cũng vẫn hân hoan như thánh Phaolô đang bị cầm tù vẫn bình thản mà còn vui mừng chia sẻ những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa cho Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin luôn nâng tâm hồn con lên để con nhìn nhận và tôn vinh Chúa hằng ngày. Xin Chúa giải thoát con khỏi làm nô lệ cho thể xác, vật chất vì Chúa vẫn còn làm nhiều phép lạ trong đời con. Xin cho con được luôn sẵn sàng lắng nghe. Xin Thánh Thể Chúa mà chúng con lãnh nhận hôm nay nên nguồn ánh sáng và sức mạnh và giúp con chu toàn trọn vẹn hơn sứ mạng Chúa đã trao phó cho con. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã nhìn nhận Chúa làm nơi Mẹ những điều trọng đại, xin mở mắt con để con thấy Chúa cũng làm muôn điều trọng đại nơi con và ca lên với Mẹ “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.”.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm,
chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn.
Ðức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời,
vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng.
Ngài quan tâm đến thân xác con người.
Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Ðức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa,
cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi,
cái lạnh của những đêm không chỗ trọ,
Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài,
Ðức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói.
Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ,
một bữa ăn tập thể ngoài trời,
trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân.
Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
“Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ðức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài.
Ngài cần sự cộng tác của họ.
Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó.
Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình.
Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng.
Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ,
từ tay một cậu bé con đến tay Ðức Giêsu,
đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói.
Ðừng vội nói đến cái đói tinh thần.
Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt.
Ðói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men,
đói chút nước sạch, rau sạch để dùng,
đói an toàn và bảo hộ khi lao động,
đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi…
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói,
và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin,
dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người
đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa.
Khi thân xác con người được sống xứng hợp,
tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người.
Ðừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ.
Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình.
Xã hội còn nhiều người nghèo đói
vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa,
vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm,
vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi
đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu.
Ước gì tôi biết yêu mến con người như Ðức Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước
mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những người thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
.
Lm. Jos. DĐH.
Ăn được ngủ được là tiên, đích thực là dấu hiệu của khoẻ mạnh, các bậc cha mẹ thường mơ ước như thế khi chăm con nuôi con. Thử thách lớn mà người ta thường ngao ngán phải đối diện: không ăn không ngủ được nữa và sự chết đang gần kề, ai đó đã xoay sửa lại nghe thật dí dỏm: chán cơm thèm đất thích nghe kèn. Cảm giác đói khát và thèm ăn, sẽ còn hứa hẹn nhiều điều ở phía trước, khác với nỗi niềm phải chấp nhận: không ăn không ngủ là tiền vứt đi, “đời tàn, tình sẽ trôi vào quên lãng”. Nếu không ai muốn mình sinh ra trong túng nghèo, bệnh tật, cô đơn, thì đúng là mọi người đều có sẵn tình yêu và phép mầu đang can thiệp dẫn người ta đến no thoả an vui.
Đám đông tin tưởng thầy trò Đức Giêsu, hoặc đám đông a-dua theo thầy trò Đức Giêsu hôm đó, đều là tín hiệu tốt, và những người chài lưới hoảng sợ vì đám đông, càng cho thấy rõ nơi nào có Đức Giêsu, nơi đó hoàn toàn được an tâm. Người giầu, cậy vào tiền của, người địa vị, dựa vào thế lực ở đời, người theo Đức Giêsu, phải cậy trông và tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài. Biểu hiện của các số môn đệ hôm đó là vừa mừng vì có số đông ủng hộ thầy trò, vừa lo sợ Thầy ra lệnh phải chi tiêu ăn uống cho đám người đó. Dân chúng đói khát theo Đức Giêsu muốn được no thoả, muốn lành sạch bệnh tật, muốn được nghe, được niềm vui chứng kiến phép lạ, dù “dụng ý” họ chưa tốt, tình yêu thương của Đấng cứu độ vẫn rộng rãi thi ân.
Người xưa có câu: thước đo cuộc đời không hệ tại dài hay ngắn, nhưng hơn nhau ở chỗ người ta sử dụng thước đo ấy thế nào. Các tông đồ tìm lại bình tĩnh khi nghe Thầy gợi ý: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn”. Đám đông dân chúng vui mừng khi được nghe các tông đồ nhắc bảo hãy yên tâm ngồi xuống. Ở trong ngôi thánh đường này, chúng ta có bình an không, có cảm thấy vui chưa, chúng ta đang sử dụng tự do của mình để tin tưởng, cây trông nơi Đức Giêsu như thế nào ? Đức Giêsu không chờ đợi đủ 12 học trò nói lạy Thầy, xin Thầy làm phép lạ, con tin Thầy là Thiên Chúa cứu độ, Ngài vẫn cho thấy quyền năng của Thiên Chúa là yêu thương. Đức Giêsu không hỏi các học trò, hết tất cả đám đông dân chúng họ có tin tuyệt đối vào thầy trò chúng ta chưa, phép mầu tình yêu thương của Ngài vẫn cho họ no nê xác hồn.
Đi sâu và đi xa hơn một chút vào bối cảnh của đám đông hôm xưa, thì giầu nghèo, đơn sơ hay mưu mô thủ đoạn, tất cả những ai đến với Đức Giêsu đều có niềm vui, đều được san sẻ yêu thương, đó là bước khởi đầu gặp Thầy, đến với Thầy Giêsu. Bước kế tiếp quan trọng hơn là sau khi được ăn uống, được nghe nhìn người ốm đau, kẻ mù loà được khỏi, được no thoả tình yêu thương, người ta có còn giữ và sống niềm tin vào Thầy Giêsu không ? Giáo lý Nhà Phật cho rằng: người khờ tích của, người khôn tích đức, người giác ngộ tu luyện để thoát khổ. Chúng ta là linh mục, tu sĩ, là chức sắc ban hành giáo, là gia trưởng, hiền mẫu, là giới trẻ thiếu nhi, tất cả đều sống ơn gọi theo Chúa. Chúa không quan tâm chúng ta khờ, khôn, hay giác ngộ, Ngài cần chúng ta biết đến giới luật yêu thương, tin và hãy tiếp tục sống niềm tin với sứ mạng riêng của mình.
Đám đông năm xưa đến với Đức Giêsu, họ được nghe, được thấy phép lạ, được no thoả mơ ước khỏi ốm đau bệnh tật, chẳng ai phải trả tiền, cũng không phải tự trang bị đồ ăn thức uống cho mình, họ vẫn được yêu thương, no đủ ơn ban xác hồn. Số đông hôm nay hiện diện bên Đức Giêsu, chúng ta cũng được nghe, được xoa dịu nỗi ưu tư lo lắng sự đời, nghĩa là được ban ơn nâng đỡ gánh nặng cuộc đời, nếu chúng ta tin, và ý thức quyền năng của Chúa sẽ làm được tất cả. Con người xưa hay nay cũng không tránh khỏi đau khổ, đói khát tình yêu thương, cho dù chúng ta đang là đối tượng nào, hẳn cũng cần được no thoả mơ ước, khi chúng ta biết gặp Chúa, đến với Chúa và sống niềm tin yêu ít là như đám đông năm xưa.
Mang thân phận người, ai cũng cần được ăn uống vì đó là nhu cầu để sống, Chúa Giêsu thực hiện phép lạ hoá bánh và cá nuôi đám đông, trong đó dù là tông đồ, là người đạo cũ hay đạo mới, Chúa đều cho no lòng thoả dạ. Phép lạ hoá bánh và cá được ban phát, không dành riêng cho một số người đạo đức hay tội lỗi, Chúa mơ ước thời đại nào cũng vẫn nhận ra phép lạ tình yêu thương, và ai cũng có cơ hội để làm môn đệ, để cộng tác làm cho phép lạ của Chúa đến được mọi người. Vật chất của cải, kiến thức, sức khoẻ, là nhu cầu thiết thực nhằm giúp người người nhận biết cuộc đời có Chúa là có tất cả. Tình yêu giữa cha mẹ con cháu phải được san sẻ, nhưng tình yêu nên một trong Đức Giêsu Kitô chỉ hiện thực khi mà chúng ta biết tin tưởng cuộc đời của mình là cuộc đời có Chúa. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một bàn tiệc của Chúa” ở đó, Đức Giê-su chia sẻ tận cùng với chúng ta, bánh mà Ngài ban tặng chính bản thân Ngài.
2V 4: 42-44
Phép lạ bánh hóa nhiều đã là ân ban của ngôn sứ Ê-li-sa trong thời kỳ đói kém ở miền Pa-lét-tin, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả phép lạ bánh hóa nhiều này thì khiêm tốn.
Ep 4: 1-6
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu theo cùng khuôn mẫu sự hiệp nhất của Một Chúa Ba Ngôi: chỉ có một Thân Thể, một Thánh Thần, một Chúa, một niềm tin và một phép rửa…
Ga 6: 1-15
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là ân ban của Đức Giê-su nuôi đông đảo dân chúng ăn no nê mà còn dư đến mười hai thúng đầy. Đây là dân mà trước đó Ngài đã nuôi họ bằng Lời Hằng Sống của Ngài. Ân ban bánh hóa nhiều này loan báo “ân ban Thánh Thể”.
BÀI ĐỌC I (2V 4: 42-44)
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ chân truyền của ngôn sứ Ê-li-a. Ông tiếp tục sự nghiệp của thầy mình vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc miền Bắc. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 B.C.).
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai sưu tập những triều đại của các vua (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), đồng thời dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ: về tôn giáo, các ngôn sứ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa và lên án mọi hình thức thờ ngẫu tượng; về luân lý, các ngài tố cáo bạo lực và bất công xã hội; về chính trị, các ngài là những nhà cải cách các triều đại thối nát.
Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều chuyện tích ý nhị nhất về các ngôn sứ. Trong hai tác phẩm này, ngôn sứ Ê-li-sa được phác họa chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với phàm nhân hơn, dù không kém thần thông biến hóa.
- Thời kỳ đói kém
“Hồi ấy, trong miền có nạn đói”. Sự cố này không phải là chuyện hi hữu. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pa-lét-tin: chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau này các anh em ông Giu-se cũng xuống đất nước của các Pha-ra-on này. Đôi khi hạn hán xảy ra nhiều năm liên tiếp. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ câu chuyện hôm nay được kể vào thời gian nạn đói kéo dài bảy năm này.
“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, sản phẩm đầu mùa…”. Đây là lễ phẩm đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu tặng các tư tế hoặc “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).
Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích này rõ ràng tập trung vào phép lạ, vì thế truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng: “có một người”; cũng không cho biết địa danh nơi biến cố xảy ra nhưng chỉ nói trống “trong miền”.
- Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ
Vị ngôn sứ không giữ riêng cho mình, nhưng liền chia sẻ ngay quà biếu này với những người túng thiếu và quà tặng này sẽ hóa nhiều. Qua tấm lòng chia sẻ quảng đại của vị ngôn sứ, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Chính đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.
Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch có nhiều điểm tương đồng với những bài tường thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ năm chiếc bánh lúa mạch.
-Ngôn sứ Ê-li-sa bảo: “Hãy cho người ta ăn”. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).
-Đầy tớ của vị ngôn sứ thưa: “Có bằng này, thì làm sao con có thể cho cả trăm người ăn được?”. Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu !” (Ga 6: 9).
-Vị ngôn sứ nói: “Cứ cho người ta ăn! Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các thánh ký viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.
-Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu vật chất của những người túng thiếu. Quả thật, Đức Giê-su cũng làm no thỏa nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Chúa Giê-su chất chứa biết bao ý nghĩa. Chính Ngài là “dấu chỉ”, dấu chỉ của chiếc bánh khác, “Bánh Trường Sinh”: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ !” (Ga 6: 35).
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư này khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Lời mở đầu thư rất tổng quát: “Kính gởi các thánh, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô”, khiến nhiều nhà chú giải nghĩ rằng bức thư này không chỉ viết riêng cho cộng đoàn Ê-phê-xô, nhưng nhằm luân lưu giữa các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý và khích lệ (ch. 4-6). Cả hai phần liên kết chặc chẽ với nhau bất khả phân. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
- “Tôi là người đang bị tù vì Chúa”
Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, ngay từ đầu của phần thứ hai, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm; như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.
- Ơn gọi làm người Ki tô hữu
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và truyền cho thánh nhân phải thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ. Từ đó, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki-tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyến khích họ hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền hòa và nhẫn nại; hãy lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Đoạn, thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau qua việc “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “sống yêu thương thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
- Lời tuyên xưng đức tin
Đoạn, trong lúc hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân.
Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời tuyên xưng phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Ngôn từ của lời tuyên xưng này rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê-a.
TIN MỪNG (Ga 6: 1-15)
Vào Chúa Nhật tuần trước, Tin Mừng Mác-cô tường thuật cho chúng ta phần đầu của câu chuyện phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, trong đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”. Vì thế, Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ, trước tiên bằng Lời Hằng Sống của Ngài, và tiếp đó bằng phép lạ “hóa bánh ra nhiều”. Cả hai đều báo trước “bàn tiệc Thánh Thể”.
Tuy nhiên, Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục câu chuyện bỏ dở của Tin Mừng Mác-cô. Thay vì đó, phụng vụ đề nghị cho chúng ta câu chuyện của Tin Mừng Gioan thuật lại cùng một biến cố với Tin Mừng Mác-cô: phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Gioan sử dụng câu chuyện hóa bánh ra nhiều này để mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật liên tiếp sau đó.
Như vậy, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và tác giả Tin Mừng Gioan đều khẳng định cùng một chân lý: Trong mỗi Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục làm như vậy qua suốt nhiều thế kỷ sau đó, chăm lo những nhu cầu của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng những thần lương của Ngài, tức là Lời Hằng Sống và Thánh Thể của Ngài, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế. Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Mk, 21).
- Nơi chốn
Phép lạ bánh hóa nhiều là một phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký thuật lại; thêm nữa, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thuật lại đến hai lần: một lần từ năm chiếc bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê tại đất Do thái, và một lần khác từ bảy chiếc bánh hóa nhiều nuôi bốn ngàn người ăn no nê tại đất dân ngoại. Quả thật, phép lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành, Ngài không chỉ chăm lo dân Do thái mà cả dân ngoại nữa. Sau này, Giáo Hội bao gồm cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân.
Thánh Gioan mở đầu bài tường thuật của mình thật bất ngờ: “Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê”. Trong bài tường thuật trước, Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, đoạn Ngài trở về miền Ga-li-lê, sau đó, Ngài băng qua biển hồ Ti-bê-ri-a, nhưng từ đâu mà Ngài đến đây? Chúng ta khó xác đinh nơi diễn ra phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Lu-ca nói về các làng mạc chung quanh thành Bết-xai-đa, thành phố được định vị ở đông bắc biển hồ, phía bên bờ sông Giô-đan đối với thành Ca-phác-na-um.
Đức Giê-su không lưu lại trên bờ hồ: “Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ”. Núi là nơi ưu tiên đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, núi của cuộc Biến Hình, núi của phép lạ hóa bánh ra nhiều, vân vân.
2.Thời điểm
“Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái”. Thời điểm này rất quý. Trước tiên, nó giải thích tại sao đám đông dân chúng đông đảo đến như thế. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển mà những người hành hương đến từ khắp nơi quy tụ lại và rồi từ đó khởi hành thành từng nhóm lên thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một cung điệu sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su. “Đại lễ của người Do thái” này làm cho cử chỉ của Ngài trở thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới, “lễ Vượt Qua của người Ki-tô giáo”, ở đó một phép lạ hóa bánh ra nhiều khác được thực hiện, bàn tiệc Thánh Thể.
- Không có bất kỳ giải pháp nào từ phía con người
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý với Đức Giê-su là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông này để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.
Đức Giê-su ngỏ lời với ông Phi-líp-phê. Nhờ Tin Mừng Gioan chúng ta biết ông Phi-líp-phê là một con người rất năng động và thực tiễn. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông Phi-líp-phê về Đức Giê-su, ông trả lời: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên mối tương quan thân mật của Ngài với Chúa Cha, ông thưa ngay: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện bánh hóa nhiều này, vấn nạn Đức Giê-su đặt ra cho ông: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” hàm chứa một thực trạng: nếu một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó phép lạ sẽ là thích đáng nhất. Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng chỉ có hai môn đệ can dự vào câu chuyện là ông Phi-líp-phê và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-xai-đa, nơi mà hai ông biết rõ nhất để giải quyết vấn đề.
Dù thế nào, Đức Giê-su nêu câu hỏi cho ông Phi-líp-phê chỉ để thử ông. Ngài muốn ông ý thức rằng nếu chỉ nhờ vào những phương tiện nhân loại, người ta đành bất lực không thể nào tìm thấy bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề, lúc đó người ta nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su.
Ông Phí-líp-phê tính toán một cách chính xác: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Tiền công của một ngày làm việc là một đồng bạc (chúng ta biết điều này nhờ dụ ngôn người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy thì hai trăm đồng bạc mua được bao nhiêu bánh lúa mạch. Ấy vậy, ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”. Vì thế, ông Phí-líp-phê nhận ra rằng về phương diện nhân loại không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.
- Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ
“Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Em bé biếu tặng khẩu phần ăn của em, cũng như ngôn sứ Ê-li-sa chia sẻ quà biếu của mình và quà tặng của ông sẽ hóa nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm phép lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một phép lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện các bí tích theo cùng một cách như vậy.
- Tấm lòng của vị Mục Tử Thiên Sai
Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pa-lét-tin. Phải chăng điều này hàm ý rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi? Thánh Mác-cô gợi ra điều này. Đối diện với các vị mục tử Ít-ra-en chỉ biết đến mình, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Thiên Sai tận tình chăm lo cho dân Ngài.
- Dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể
Không ai có thể phủ nhận rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy: “Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát…”. Lời nói và cử chỉ này tương tự như lời nói và cử chỉ của Chúa Giê-su ở Tiệc Ly khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê loan báo bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là hóa nhiều thân thể vinh quang của Đức Ki-tô, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, đồng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.
- Mười hai thúng đầy những mẫu bánh thừa
Như rượu được ban một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ đại diện dân Thiên Chúa mới. Không phải những phần dư này muốn nói rằng có đủ chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa sao?
Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa tiệc Thiên Sai. Các sấm ngôn (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), các Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Thiên Sai sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh báo trước bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng niềm hoan lạc thiên giới và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Thiên Sai và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).
- Phản ứng của dân chúng
Phấn khởi trước Đức Giê-su là vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng này”, đám đông đã không hiểu ra được dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế, vì thế, họ muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua”. Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Thiên Sai chính trị hẹp hòi và nông cạn này, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình”.
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất trong các thánh ký tường thuật phản ứng này của dân chúng. Còn các môn đệ, nhờ Mác-cô, chúng ta biết rằng lòng trí các ông vẫn còn ngu muội. Vì cũng chính đêm tiếp theo sau phép lạ hóa bánh ra nhiều là đêm Đức Giê-su đi trên mặt biển, thánh Mác-cô nói “các ông thấy bàng hoàng sửng sốt, vì các ông không hiểu ý nghĩa phép lạ hóa bánh ra nhiều” (Mc 6: 52).
.
KHÔNG LÀ CON NGƯỜI, THÌ LÀ CON CÓC
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ở trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,6).
Chỉ có một Thiên Chúa là Cha của mọi người, nên ai đã là người đều là con của Thiên Chúa, dù cho người đó tin hay không tin; có đạo hay không có đạo. Vì sự sống là của Thiên Chúa và Thiên Chúa sinh ra mọi người qua cha mẹ của họ. Thiên Chúa đó ở trên mọi người, vì Ngài là Đấng tạo thành vạn vật. Ngài hoạt động qua mọi người, tức là hoạt động qua Đức Giê-su Ki-tô, để cứu độ và Ngài là Đấng ở trong mọi người, tức là trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần.
Thiên Chúa là Cha của mọi người hay nhiều người, Ngài ở trên mọi người hay trên nhiều người và Ngài ở trong mọi người hay ở trong nhiều người? Về phía Thiên Chúa thì Ngài là Cha của mọi người, Đấng ở trên mọi người, qua mọi người và ở trong mọi người. Về phần con người thì Thiên Chúa là Cha của nhiều người; Đấng ngự trên nhiều người, qua nhiều người và ở trong nhiều người. Vì không phải mọi người đều tin Chúa nhưng có nhiều người tin vào Chúa thôi.
Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa, một Thần Khí, một niềm hy vọng. Cái MỘT là sự hiệp nhất, mà Thiên Chúa muốn kêu gọi con người sống. Thế nhưng con người chúng ta có sống được ơn gọi đó không? Câu trả lời là CÓ, mặc dù hơi khó. Ta hãy xem hình ảnh của sự hiệp nhất đó qua thân thể của ta.
Thân thể của ta chỉ có một, nhưng lại có nhiều bộ phận khác nhau. Nào là mắt mũi, tai miệng, chân tay, tim gan, phèo phổi,vv……Có cái nào giống cái nào đâu. Dù cho ta có hai tay đi chăng nữa thì tay trái cũng khác với tay phải; dù ta có hay chân đi nữa thì chân phải cũng đâu có giống chân trái; hai con mắt cũng vậy, mắt trái cũng đâu có y chang như mắt phải đâu. Lại nữa, bàn tay có năm ngón, thế mà có ngón nào giống ngón nào đâu, nó có 5 tên khác nhau đàng hoàng: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út và ngón út.
Thế nhưng tất cả các bộ phận gom lại, cấu thành một cơ thể hoàn chỉnh, đẹp đẽ, cân đối và tiện dụng; đi đứng, chạy nhảy; thông minh, sáng láng; khéo léo, tuyệt vời và trên cả tuyệt vời.
Mọi người chúng ta cũng vậy, chúng ta tuy nhiều nhưng cũng chỉ là những bộ phận trong một Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Ki-tô. Trong Thân Thể đó, Đức Ki-tô là Đầu và mỗi người là những bộ phận là tay hay là mắt gì đó,…Tất cả chúng ta cũng gom lại, để cấu thành một Giáo Hội hoàn chỉnh, xinh đẹp, cân đối và hữu ích. Chúng ta phải hiệp nhất cùng nhau, đương nhiên sẽ tùy theo khả năng của mỗi người để xây dựng Giáo Hội, xây dựng cộng đồng.
Hiệp nhất không nhất thiết là phải giống y chang nhau, đây là hiệp nhất trong sự khác biệt; hiệp nhất trong sự cùng nhau xây dựng, cùng nhau hướng về một mục đích. Người góp công, người góp của, mỗi người tùy theo khả năng của mình để xây dựng và phát triển.
Mỗi người dù là già hay trẻ; dù là trẻ em hay người lớn, là đàn ông hay đàn bà; là Tu Sĩ hay Linh Mục; là người khỏe hay người bệnh; tất cả được Chúa mời gọi hiệp nhất cùng nhau để xây dựng Giáo Hội như cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau tin, cùng nhau trông cậy, cùng nhau chúc tụng Chúa, cùng nhau thờ lạy Chúa; cùng nhau tôn vinh Chúa, cùng nhau cảm tạ Chúa, cùng nhau hướng về trời, cùng nhau nghe và thực hành Lời Chúa, cùng nhau dâng lễ,….với cách thế của chính mình.
Theo thánh Phao-lô, trong một thân thể: “Mắt không thể bảo tay: tao không cần chúng mày; đầu không thể bảo chân: tao không cần chúng mày”(x.1Cor 12,21). Trong Giáo Hội cũng vậy, tôi không thể nói tôi không cần người khác. Chẳng lẽ toàn thân chỉ là mắt hay sao? Nếu vậy thì là mắt chứ không là thân thể; rồi sẽ ăn bằng gì, đi bằng gì, làm bằng gì? Chẳng lẽ ăn bằng mắt, làm bằng mắt, đi bằng mắt à. Ăn bằng mắt sao mà no; làm bằng mắt sao mà được và đi bằng mắt làm sao mà tới.
Cũng vậy, nếu ai cũng giống y chang như ai thì là rô-bốt chứ không phải con người. Chẳng lẽ mình tôi làm, mình tôi ăn, mình tôi đi nhà thờ sao. Tất nhiên là không rồi. Suy gẫm như thế, ta mới thấy, mình ta chẳng làm được gì dù có giỏi dang đến mấy; dù mình có 3 đầu 6 tay cũng chẳng nên tích sự gì. Dù ta có là tướng tài tướng giỏi, đánh đâu thắng đó mà không có hậu cần, không có ai nấu ăn cho thì cũng chết dần chết khô thôi; tay chân nhấc không nổi, chẳng có đánh đấm được gì hết. Bởi thế mà thánh Phao-lô khuyên: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (x.Ep 4,2).
Phải khiêm tốn, vì bản thân ta chẳng hơn ai, chẳng giỏi hơn ai; ta cũng chỉ là con người yếu đuối và tội lỗi. Ta khiêm tốn để chấp nhận người khác theo khả năng của họ chứ không theo ý thích của ta. Rồi người ta cũng là người như ta, cũng yếu đuối, lỡ lầm; ta khiêm tốn để cảm thông, để tha thứ, để giúp đỡ.
Kế đến là phải hiền từ. Tức là ta không khinh bỉ người khác vì họ yếu kém hơn ta; cũng không cãi cọ, tranh dành, ghen tị với ngườigiỏi hơn ta.
Sau nữa là phải nhẫn nại. Nhẫn nại để chờ, để đợi, để hy vọng, vì đã dạy, đã nói, đã chỉ bao nhiêu lần, thế nhưng “vẫn chứng nào tật đó”, trước sau vẫn thế. Chờ đợi như người nông dân chờ đến mùa gặt; chờ cho đến khi nó hiểu, chờ cho đến khi nó biết, chờ cho đến khi nó làm được; chờ cho đến khi nó nên khôn ngoan, chờ cho đến khi nó nên tốt,…
Sau cùng là phảichịu đựng lẫn nhau. Chịu đựng những yếu đuối; chịu đựng những lỗi lầm; chịu đựng những tính khí; chịu đựng những ý nghĩ. Vì mỗi người mỗi tính; mỗi người có ý thích, mỗi người có ý nghĩ và ý hướng khác nhau. Thánh Phao-lô nói là phải lấytình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Vì không có tình bác ái, không có tình yêu thương này thì ta không thể chịu đựng ai được hết.
Cứ không vừa lòng là quát, là nạt; không vừa ý là la um xùm trời đất. Cứ thấy người khác quên là ta nổi điên nổi khùng lên, mà không nhận ra có lúc mình cũng đã quên; có nhớ chăng thì ta cũng nhăn răng cười hì hì, lấp liếm cho qua. Đó là cái thứ người gì thế ? Có phải là con người không ? Không phải là con người thì là con …gì ?Đó là con cóc. Con cóc nó ngồi trong hóc, nó đưa cái lưng ra ngoài đó là cóc con.(Lời một bài hát).
Vì như con cóc, cứ ngồi trong hóc và đưa lưng ra ngoài, cái đầu dúi vào trong nên đâu có nhận ra cái gì, đâu có nhận ra ai. “Như ếch ngồi đáy giếng”, không có sức chịu đựng người khác. Cũng như không biết người khác cũng đã chịu đựng sự “dở hơi” của mình. Trên hết, chính Chúa là Đấng đã hạ mình, hiền từ, nhẫn nại và chịu đựng mình đấy, nếu không, ta không còn có mặt trên trần gian này đâu. Bởi đó mà ta cũng phải hạ mình, hiền từ, nhẫn nại và chịu đựng người khác như vậy.
Vậy dù là ai, tất cả chúng ta hãy tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chúng ta; chúng ta hãy làm mọi việc qua Đức Giê-su Ki-tô và chúng ta cũng hãy hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần, để chúng ta sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đó là ơn chúng ta được làm CON yêu dấu của Cha trên trời và là anh chị em rất thân mến của nhau. Đó chính là ƠN GỌI của mỗi người chúng ta. Ơn gọi của ta là Con Người chứ không phải là “Con Cóc”.
.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“Ở đây có một em bé
có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá…”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 6,1-15:
1 Hôm ấy, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. 2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. 5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” 6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7 Ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” 8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người: 9 “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” 10 Đức Giê-su nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” 13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 6,1-15:
2.1 Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước tức Chúa Nhật 16 Thường Niên B chúng ta đã được chứng kiến sự kiện Đức Giê-su chạnh lòng thương khi Người đứng trước đám đông. Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này tức Chúa Nhật 17 Thường Niên B chúng ta được nghe bài tường thuật việc Đức Giê-su biến năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để cho mấy ngàn người ăn đỡ đói khi họ đi theo Người để nghe Người giảng dậy.
2.2 Trước nhu cầu chính đáng và cấp bách về lương thực của đám đông, Đức Giê-su đã ban Lời (giảng dậy) và dùng đến quyền năng của Thiên Chúa để giúp đám đông dân chúng khỏi đói lả dọc đường (bánh và cá). Tình yêu thương phải được thể hiện cách cụ thể, thiết thực và toàn diện (cả Lời cả Bánh) như cách làm của Đức Giê-su trong Phúc Âm. Không thể nói anh em hãy ra về bình an khi bụng họ đói, miệng họ khát, lòng họ đau buồn, lo lắng.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 6,1-15::
3.1 Chúng ta đọc và suy niệm bài Phúc Âm Ga 6,1-5 trong bối cảnh rất nhiều đồng bào của chúng ta đang bị khốn khổ vì những trận mưa lũ ở Thanh Hóa và các tỉnh Miền Tây Bắc Việt Nam. Nhiểu người, nhiều gia đình đang phải điêu dứng trắng tay, mất cửa mất nhà, mất hoa mầu vật nuôi. Nỗi khổ vật chất chồng chất trên nỗi khổ tinh thần…
3.2 Đồng bào ta đang rất cần những lời an ủi, khích lệ, chia sẻ, đồng cảm. Nay là lúc các giáo xứ, các hội đoàn, các giáo phận thể hiện Tình Yêu Thương đồng bào ruột thịt, bằng những chuyến hàng cứu trợ, những khoản tiền bác ái sẻ chia, những đợt viếng thăm chăm sóc các nạn nhân thiên tai.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 6,1-15:
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con xin Cha hãy nhìn đến những người đang bị khốn khổ vì mưa lũ. Họ mất cửa mất nhà, mất người thân, mất phương tiện sinh sống, mất niềm hy vọng, mất cả hiện tại và tương lai. Xin Cha hãy thương họ và dùng quyền năng của Cha mà nâng đỡ, ủi an đồng bào của chúng con.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con tình thương bao la của Cha để chúng con san sẽ tình thương ấy cho anh chị em đồng loại của chúng con. Chúng con cầu xin Cha nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, Con Cha, Chúa chúng con, Đấng đã chạnh lòng thương trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng và đã ban cho họ cả Bánh cả Lời. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tình cảnh nhân loại từ xưa đến nay nhìn chung thật hiếm có thời kỳ lâu dài được sống trong an bình hạnh phúc. Con người càng phát triển thì nhu cầu càng cao và càng thêm nhiều. Kiếm được một lúc nào đó nhân loại trên trái đất này thoả mãn được nguyên chỉ các nhu cầu sinh tồn căn bản như ăn uống mà thôi thì cũng là khó thấy. Ngay cả đến hôm nay khi mà nền khoa học công nghệ phát triển phải nói là rất cao thì vẫn còn đó hằng trăm triệu người ở Á châu, đặc biệt ở Châu lục đen đang phải chịu cảnh thiếu thốn lương thực. Có thể nói ngày nay, người ta chết vì đói thì ít những chết vì thiếu ăn hay thiếu dinh dưỡng thì dường như không thống kê được. Bên cạnh những thiên tai, thì nhân hoạ vẫn đang rình rập con người mọi lúc mọi nơi. Nào là lũ lụt, sóng thần, nào là động đất, hạn hán, nào là khủng bố, chiến tranh…Khói lữa súng đạn đang lan tràn đó đây là một minh chứng. Chuyện khích bác, doạ dẫm nhau bằng vũ khí hạt nhân hay trừng phạt kinh tế nhau cũng vẫn chưa ngừng. Tai ương, hoạn nạn như đang rình rập chúng ta từng ngày. Người nghèo khổ luôn có đó quanh ta. Cảnh khổ đau như là chuyện cơm bữa của các chương trình thời sự trên truyền hình.
Bài đọc thứ nhất trích sách các Vua tường thuật một nạn đói đang xảy ra tại xứ Ghingan. Đã là nạn đói thì số người khốn khổ là con số không nhỏ. Quý ông bà lớn tuổi dân Việt hẳn có kinh nghiệm nào đó về nạn đói năm 1945 (Ất Dậu) trên quên hương đất nước chúng ta. Dù sinh sau đẻ muộn nhưng qua các tài liệu ghi chép, kẻ hậu sinh cũng hình dung được phần nào cái cảnh người chết dọc đường như rạ, đến nỗi ngay cái chuyện đào hố để chôn cũng lắm vất vả. Rồi đến chuyện phải ăn thịt đồng loại để sống cũng khiến thế hệ hôm nay dù khó tưởng tượng nhưng vẫn là chuyện đã từng xảy ra.
Trước bao cảnh khổ ấy của đồng loại, chúng ta, Kitô hữu, những người theo đạo của tình yêu, của bác ái, ai ai cũng động lòng xót thương. Thế nhưng, chúng ta cũng rất có thể có thái độ như người hầu của tiên tri Êlisêu “Có được chỉ hai mươi chiếc bánh lúa mạch làm sao có thể phát cho cả trăm người ăn đây”, hay như Philipphê: “Có mua hai trăm bạc bánh (khoảng trên dưới bốn mươi triệu đồng Việt Nam) cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Ngài Philipphê tính toán quả không sai. Với năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ thì bốn muơi triệu tiền bánh cũng chẳng thấm vào đâu. Các Tin mừng nhất Lãm còn cho ta hay rằng có tông đồ lại hiến kế kiểu phủi tay: Thôi, ta giải tán để họ vào làng mà mua thức ăn (x.Mt 14,15; Mc 6,36; Lc 9,12). Một diệu kế rất mang tính kinh tế. Tuy nhiên, đằng sau nó vẫn là một tấm lòng đầy tính toán và dĩ nhiên nó bộc lộ sự hẹp hòi của con tim.
“Phát cho họ ăn đi”. Elisêu khẳng khái với người hầu cách không do dự. Còn Chúa Giêsu thì dứt khoát: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Đã yêu thì đừng tính toán. Đã yêu thì hãy làm ngay những gì trong tầm tay của mình. Tình yêu không hệ tại ở số lượng. Chúng ta vốn quen với câu chuyện bà goá nghèo trong Tin Mừng. Dù với hai xu nhỏ nhưng hơn cả trăm triệu đồng của những người giàu có, khi họ chỉ trao dâng cái phần thừa thải của mình, còn bà thì thực hiện nghĩa cử yêu thương bằng cả sự sống còn của mình (x. Lc 21,1-4; Mc 12,41-44).
Quả thật, rất nhiều lần trước cảnh tình khốn khổ của tha nhân, chúng ta viện cớ là làm không xuể, làm như muối bỏ biển, nên đã thoái thác nghĩa vụ yêu thương như lời Chúa chỉ dạy. Ma quỷ có thừa xảo kế tinh ranh. Chúng đâu có cám dỗ chúng ta không thương yêu tha nhân, nhưng lại gieo vào tâm trí chúng ta sự tính toán về kết quả. Ai lại không mong việc làm của mình có kết quả, nhất là những việc tốt, những nghĩa cử yêu thương? Khi cám dỗ ta về viễn cảnh không như ý, đó là dù ta có cố sức đến bao nhiêu cũng chẳng giải quyết được sự gì, thì ma quỷ đã thành công nhiều lần, khi khiến chúng ta chần chừ, ngần ngại dấn thân. Và từ sự ngần ngại, lần lữa chúng ta đã nhiều lần bỏ qua nhiều dịp để sống yêu thương.
Là Thiên Chúa, với quyền năng cao cả, Chúa Giêsu có thể làm từ không ra có. Ngài có thể cho bánh từ trời xuống nuôi dân, hoặc biến sỏi đá thành cơm bánh. Thế nhưng, Chúa lại muốn cần đến năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ của một em bé lúc bấy giờ để rồi giáng phúc thi ân cho cả gần mười ngàn người hôm ấy. Khi nhận lấy phần cá, bánh nhỏ bé ấy không phải Chúa cần bao nhiêu phần trăm phần góp của chúng ta cho bằng sự dấn thân của ta trong tình yêu. Khi nhận lấy năm chiếc bánh và hai con cá từ tay em bé, Chúa Giêsu minh định với chúng rằng đã yêu thì đừng quá tính toán.
“Ăn – cho, buôn – so”. Đã có tính toán, so đo thì thật khó sống yêu thương. Đợi cho đầy đủ các tiện nghi rồi mới phục vụ thì không còn là phục vụ. Đợi cho đầy đủ tiền, có cơ sở vật chất hay đủ phương tiện rồi mới sống quảng đại với đàn chiên thì chưa phải là mục tử. Đợi cho dư dã rồi mới làm việc bác ái yêu thương thì còn gì là yêu thương bác ái. Dù rằng cần biết sống khôn ngoan và thận trọng, nhưng đã yêu thì phải chấp nhận “liều”một cách nào đó. “Một con én không làm nên mùa xuân”. Đây là một lời nhận định thiết thực, cũng có thể là một lời khuyên khôn ngoan, nhưng rất có thể là một chước cám dỗ tinh tế của thần dữ. Xin đừng quên rằng sẽ chẳng bao giờ có mùa xuân nếu không có từng con chim én nhỏ.
Người nghèo luôn ở bên ta. Cảnh khốn khổ của đồng loại vẫn nhan nhãn trước mắt chúng ta. Nguyên nhân của sự nghèo đói, cảnh khốn cùng hiện nay chủ yếu là do bạo quyền, nạn bất công, sự gian dối. Lời mời gọi yêu thương, dấn thân chia sẻ đang cấp thiết ngõ với chúng ta: “Chúng tôi rất cần tình yêu của bạn, của ông bà, anh chị…”. Đã yêu, xin đừng quá tính toán. Hãy làm những gì có thể trong tầm tay, ngay hôm nay. Với cả con tim, với sự dấn thân hết mình thì một nghĩa cử yêu thương dù nhỏ bé, bình thường cũng có thể gặt hái kết quả phi thường và to lớn. Một chân lý ngàn đời: Đấng là Tình Yêu và cũng là Đấng mà không có sự gì là không thể, luôn đồng hành với người biết yêu thương cách không tính toán.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chủ nghĩa Makeno (có nghĩa là mặc-kệ-nó, một cách nói khôi hài chỉ thái độ vô cảm, thờ ơ trước những đau thương khốn khổ của người khác, không quan tâm đến lợi ích chung) là một thói xấu tai hại đang lan rộng trên quê hương đất nước chúng ta.
Vì tiêm nhiễm thói vô cảm và tham lam, người sản xuất thực phẩm độc hại chỉ cần biết thu lãi thật nhiều cho mình mà không thiết gì đến sức khoẻ người tiêu dùng.
Vì tiêm nhiễm thói vô cảm, tham lam… nhiều người sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng hoặc độc hại để hốt tiền, bất chấp sinh mạng và sự thiệt hại lớn lao của người khác.
Thói vô cảm cực kỳ tai hại vì nó hủy diệt tình nghĩa đồng bào, phá vỡ nền móng đạo đức, làm đất nước suy yếu, gây thiệt thòi, mất mát đau thương cho nhiều người… Thói xấu tai hại nầy hoàn toàn trái ngược với chủ trương sống yêu thương phục vụ của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giê-su. Vì thế, Ngài đã hạ mình xuống thế để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống để cứu rỗi muôn người.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giê-su luôn sống vì mọi người: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Lc 7, 22).
Qua Tin mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng đặc biệt quan tâm đến hạnh phúc người khác. Ngài không dừng lại ở việc rao giảng Tin mừng mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giê-su mời gọi chúng ta quan tâm giúp ích cho người khác
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là trách nhiệm chung của mọi người, thế nên Chúa Giê-su không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Ngài ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê tham gia: “Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! “
Thế là em bé nầy được đưa đến với Chúa Giê-su. Ngài đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giê-su mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Khi bụng đói cồn cào thì chẳng có gì cần hơn cơm bánh. Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giê-su.
Nhờ có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy.”
Thế rồi, điều tuyệt vời là đang khi mỗi người chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả 5.000 người ăn không hết còn dư lại cả 12 thúng đầy!
Xây dựng xã hội lành mạnh và phát triển là điều kiện tiên quyết để mỗi người được hạnh phúc
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại. Trái lại, khi toàn thân khỏe mạnh thì mỗi một tế bào trong cơ thể cũng được hưởng nhờ. Vì thế, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển, hòa bình… là điều kiện cần thiết để từng cá nhân trong xã hội được an bình hạnh phúc.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đến trần gian hiến trọn đời mình để mưu cầu lợi ích cho toàn thể nhân loại. Chúa không chỉ cứu rỗi linh hồn con người mà thôi, nhưng còn nỗ lực xây dựng một thế giới lành mạnh, hạnh phúc ngay trên mặt đất bằng cách cổ võ mọi người dấn thân phục vụ, yêu thương.
Xin dạy chúng con xa lánh thói vô cảm đang dần dần tàn phá xã hội; trái lại, biết noi gương Chúa Giê-su hiến thân đem lại phúc lợi cho anh chị em chung quanh mình.
.
Lm. Laurensô Phan Ngọc Bích
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người.
Người hỏi Philipphê : “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn? (Ga 6,5)
Với Chúa Nhật 17, chúng ta đang ở giữa cuộc hành trình của Mùa Thường Niên Năm Phụng Vụ. Đi qua nửa chặng đường, lẽ đương nhiên Hội Thánh muốn chúng ta ý thức rằng lương thực thần linh là Thánh Thể Chúa cần thiết chừng nào, để nuôi dưỡng chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin và đạt tới đích Quê Trời. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay muốn nói lên điều ấy. Bài trích sách Các Vua quyển thứ hai (2V 4,42-44) thuật lại câu chuyện tiên tri Êlisê, khi được người ta biếu 20 chiếc bánh lúa mạch và lúa mì đầu mùa, đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi cả trăm người ăn no nê mà vẫn còn dư. Giá trị của phép lạ rất lớn, vì thời bấy giờ, nạn đói đang hoành hành khắp xứ Israel. Câu chuyện đó là tiên trưng cho câu chuyện Tin Mừng Thánh Gioan (Ga 6,1-15) thuật lại hôm nay. Lúc ấy, dân chúng đổ xô đi theo Thầy Giêsu, vừa để nghe những lời giảng đầy uy quyền vượt xa các luật sĩ biệt phái vừa để xin ơn tha thứ hoặc chữa lành bệnh tật. Có lẽ lúc ấy trời đã về chiều, chạnh lòng thương dân chúng khốn khổ đói khát, Chúa đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá của một em bé. Lần này, chỉ kể đàn ông thôi cũng đã tới năm ngàn ! Bánh ấy là hình bóng của Mình Máu Thánh Chúa Kitô, điều mà chính Chúa Giêsu Kitô đã xác nhận sau đó : “Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời. Và Bánh Tôi sẽ ban tặng chính Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống” (c.51).
Nhưng như thế nào mà Thánh Thể Chúa Kitô làm cho chúng ta được sống, hiểu theo nghĩa mạnh nhất, sống viên mãn tròn đầy? Trước hết, vì khi đón nhận Thánh Thể, chính Chúa Kitô sống trong chúng ta : “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20). Ngược lại, nếu chúng ta không ăn Thịt và uống Máu Người, chúng ta sẽ không có sự sống nơi mình (c.53). Khi lập bí tích Mình Máu Thánh, Chúa Kitô muốn ở cùng chúng ta luôn mãi. Yêu nhau thì cần hiện diện bên nhau, vì thường dễ cứ xa mặt thì cách lòng. Trong niềm hân hoan, Hội Thánh kinh nghiệm dưới nhiều hình thức sự thực hiện liên lỉ lời hứa của Đấng Phu Quân: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Nhưng trong bí tích Thánh Thể, Hội Thánh vui hưởng sự hiện diện này với một cường độ mãnh liệt duy nhất. Kể từ ngày lễ Ngũ Tuần, khi Hội Thánh, Dân của Giao Ước mới, bắt đầu cuộc hành trình tiến về Quê Trời, bí tích thần thiêng này tiếp tục ấn dấu trên ngày sống bằng cách tuôn đổ trên họ niềm hy vọng tin tưởng (x. Thông điệp Thánh Thể EE, Đức Gioan Phaolô II, số 1). Thánh Thể vốn là sự hiện diện ban sự sống của Chúa Kitô.
Kế đến, Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện trong chúng ta là để trao ban một ân huệ vô giá, đó là chính bản thân Người. Thật vậy, Công Đồng Vaticanô II đã tuyên bố cách xác đáng rằng : Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội : đó là chính Đức Kitô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh và Bánh Hằng Sống của chúng ta. Người trao ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, Thịt đã trở nên sống động nhờ Thánh Thần và ban sự sống cho con người (x. Sắc lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục số 5, CĐ Vat II). “Trong Thánh Thể chúng ta có Đức Giêsu, chúng ta có hy tế cứu độ của Người, chúng ta có sự sống lại của Người, chúng ta có ân ban của Chúa Thánh Thần, chúng ta có sự tôn thờ vâng phục và tình yêu đối với Chúa Cha. Nếu xem thường Thánh Thể, làm sao chúng ta có thể khắc phục sự nghèo hèn bất toàn của mình?” ( EE 60).
Cuối cùng, khi trao ban Thánh Thể, Chúa Kitô muốn kết hiệp với mỗi người chúng ta. “Tự bản chất, Hy tế Tạ Ơn hướng đến sự kết hiệp nội tâm của người tín hữu với Chúa Kitô qua việc rước lễ : chúng ta lãnh nhận chính Đấng đã tự hiến vì chúng ta, chúng ta lãnh nhận Mình Người bị trao nộp vì chúng ta và Máu Người đổ ra cho muôn người được tha tội” (EE 16). Đó là sự kết hợp của cành nho với thân nho mà hiệu quả là cái gì có ở trong thân nho thì cũng sẽ có ở trong cành nho. Nhờ đó, cành nho sẽ sinh nhiều hoa trái : trong chúng ta sẽ tiếp diễn sự nhiệt thành của Chúa, sự khiêm tốn của Chúa, sự hiền hậu của Chúa, sự trong sạch của Chúa, quyền năng của Chúa… Tắt một lời, nhờ kết hiệp với Thánh Thể, chúng ta sẽ được thần hóa, sẽ dần dần trở thành một “thánh thể” thứ hai.
Trong đức tin tinh tuyền, chúng ta thấy Thánh Thể mang tất cả dáng vẻ huy hoàng của một thực tại sống động. Đó là chính Thiên Chúa đang sống giữa loài người. Đó là chính Thầy Chí Thánh muốn sưởi ấm và làm no thỏa tâm hồn chúng ta. Như vậy, một cách sâu xa, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy siêng năng tham dự Thánh lễ và nồng nhiệt đón rước Thánh Thể. Như lời Đáp ca, chúng ta hãy thưa với Chúa rằng : “Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê” (Tv 144,16).
“Đức Maria vừa cộng tác vào việc ban Đức Kitô Thánh Thể vừa giúp ta đón nhận Người. Trong việc Nhập Thể, Mẹ đã là gương mẫu hoàn hảo về việc đón nhận Ngôi Lời làm người ; Mẹ đã nhận lấy Đức Kitô với tất cả lòng tin mạnh mẽ và với tất cả tình yêu đầy phó thác của Mẹ. Mẹ đã biết dâng cho Con Thiên Chúa một nơi ở rất đẹp lòng Người, và đã cố gắng cư xử thật vừa lòng Người hết sức. Chưa bao giờ đã có một tình thân mật giữa hai linh hồn sâu xa như giữa Đức Kitô và Mẹ Người. Bởi đó Đức Trinh Nữ đã được đặc biệt chỉ định để giúp cho người rước lễ có được những điều kiện tốt để đón tiếp Chúa. Người ta có thể xin Mẹ một tấm lòng đón nhận nồng nàn hơn, quảng đại hơn, với một đức tin mạnh mẽ hơn và một tình yêu rộng rãi hơn. Nào Mẹ chẳng phải là Đấng có thể thông ban cho ta ơn mở rộng cõi lòng, và ơn sống thân mật với Đức Giêsu một cách vừa bình an vừa nồng nhiệt ? Là Mẹ và là Đấng giáo dục các Kitô hữu, Đức Maria đặc biệt có khả năng dạy cho họ biết đón tiếp Đức Kitô như thế nào : đấy là nghệ thuật riêng của Mẹ, nghệ thuật chu toàn trách nhiệm làm Mẹ đối với Con Mình ; Mẹ tập cho các tín hữu nghệ thuật ấy, và làm cho họ có đủ khả năng nhận lấy sự hiện diện Thánh Thể tràn ngập lòng họ; và được đồng hóa với sự sống Đức Kitô” (Thánh Thể Sinh Động, Jean Gallot SJ).
Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi đón nhận một món quà nào, chúng con đều có tâm trạng vui mừng sung sướng vì được yêu thương. Thánh Thể, vốn là sự hiện diện ban ơn cứu độ của Chúa trong cộng đoàn các tín hữu, là của ăn thiêng liêng, và là tài sản quý báu nhất mà cả Hội Thánh cũng như mỗi người chúng con được ban tặng trong cuộc hành trình theo dòng lịch sử (EE 9). Xin cho chúng con dạt dào hân hoan ngây ngất mỗi khi đón nhận Mình Máu Thánh Chúa vào lòng. Và trong niềm tri ân đó chúng con sống dồi dào cuộc đời nhân chứng cho tình yêu.
Lạy Mẹ Maria, việc công bố sự Chúa Kitô chịu chết cho đến khi Người lại đến đòi hỏi chúng con là những người thông phần vào Thánh Thể phải dấn thân biến đổi cuộc sống của mình và làm cho nó, một cách nào đó, hoàn toàn trở thành “thánh thể”. Xin Mẹ giúp chúng con sản sinh hoa quả của một cuộc sống đã được “biến hình”, và biết dấn thân để biến đổi thế giới cho phù hợp với Tin Mừng. Amen.
.
JM. Lam Thy
Lời Chúa hôm nay (CN XVII TN-B) cho thấy Thiên Chúa rất quan tâm đến nhu cầu sống của con người cả về thể xác và tinh thần. Người luôn “chạnh lòng thương” khi thấy đám đông đi theo Người để nghe lời giảng dạy, tới bữa ăn mà họ không lui gót đi tìm thức ăn mà vẫn bao quanh Người. Bài đọc 1 (2V 4, 42-44) trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều: Chỉ có 20 chiếc bánh lúa mạch mà cả trăm người ăn vẫn còn dư. Đến bài Tin Mừng (Ga 6, 1-15), Thánh sử Gio-an trình thuật chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Đức Giê-su đã làm phép lạ cho 5.000 người ăn mà vẫn còn dư tới 12 thúng đầy. Thử tìm hiểu xem sống trên đời, con người có những nhu cầu gì?
Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) cho biết: “Nhu cầu” là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau. Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con người nói riêng. Nhu cầu được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, xã hội.
Về căn bản, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs). Nhu cầu cơ bản liên quan đến các yếu tố thể lý của con người như mong muốn có đủ thức ăn, nước uống, được nghỉ ngơi… Những nhu cầu cơ bản này đều là các nhu cầu không thể thiếu hụt vì nếu con người không được đáp ứng đủ những nhu cầu này, họ sẽ không tồn tại được, nên họ sẽ đấu tranh để có được và tồn tại trong cuộc sống hàng ngày. Nhu cầu bậc cao là những nhu cầu bao gồm nhiều nhân tố tinh thần như sự đòi hỏi công bằng, an tâm, an toàn, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng, tín ngưỡng (tôn giáo)…
Nhà triết học, bác học Hy Lạp cổ đại Aristote (384-322 trước Công nguyên) đã cho rằng con người có hai loại nhu cầu chính: thể xác và linh hồn. Sự phân loại này mang tính ước lệ lớn, nhưng nó ảnh hưởng đến tận thời nay và người ta quen với việc phân nhu cầu thành “nhu cầu vật chất” và “nhu cầu tinh thần“. Ngoài ra, còn tồn tại nhiều kiểu phân loại khác dựa trên những đặc điểm hay tiêu chí nhất định. Nhu cầu về thể chất là vấn đề bảo dưỡng thân xác, nhưng nếu chỉ thuần tuý lo bảo dưỡng thể xác, con người nào có khác chi thực vật? Vì thế, vấn đề bảo dưỡng tinh thần, bảo dưỡng đời sống tâm linh cũng thật cần thiết. Cũng đã có những vấn nạn được nêu ra: “Những kẻ vô thần thì làm gì có đời sống tâm linh”. Nếu chỉ nghe tên thuyết “vô thần” thì dường như vấn nạn trên là đúng, nhưng nếu nhìn kỹ, đi sâu vào đời sống thực của họ, sẽ thấy họ cũng có một đời sống tâm linh, thậm chí còn phong phú hơn cả những người “hữu thần” nữa là khác.
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật phép lạ Đức Giê-su hoá bánh ra nhìều lần thứ nhất: Khi nhìn thấy đoàn người rất đông đến nghe Người giảng dạy, Đức Giê-su đã hỏi môn đệ: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Điều này chứng tỏ Đức Ki-tô rất quan tâm tới nhu cầu ăn uống để bảo dưỡng thân xác cho con người. Nhưng như thế thì có gì mâu thuẫn với Lời dạy: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4)? Cũng đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng khi dạy như vậy, Đức Ki-tô muốn các môn đệ và rộng ra là tất cả mọi Ki-tô hữu hãy lo sống bằng Lời Chúa, còn phần xác thì không cần quan tâm, hãy quên đi mạng sống trần thế để giữ lấy sự sống đời sau.
Lập luận này là căn cứ vào một Lời dạy của Đức Giê-su về vấn đề ăn mặc (“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” – Mt 6, 31-33 ). Nếu nhìn vấn đề theo lập luận này thì rõ ràng Đức Ki-tô đã mâu thuẫn khi lo cơm bánh cho đông đảo dân chúng đi theo Người. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ văn phong trong Lời dạy này, sẽ thấy thánh sử Mat-thêu đã dùng biện pháp ghi chép “không chỉ… mà còn…” để liên kết 2 vế thành một câu hoàn chỉnh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” Như vậy là người ta sống phải nhờ cả hai: cơm bánh nuôi dưỡng thân xác + Lời Chúa nuôi dưỡng tinh thần.
Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: “Có thực mới vực được Đạo” (có ăn thì mới có sức khoẻ để làm việc Đạo). Nếu chỉ lo lắng việc đạo nghĩa mà không bảo dưỡng thân xác (không ăn uống gì hết) thì liệu cái thân xác ấy có tồn tại để tiếp tục lo vịêc đạo nghĩa được không? Hỏi tức là trả lời rồi vậy! Rõ ràng Đức Giê-su cũng không chỉ lo phần rỗi đời sau cho con người, mà còn lo cả những gì cần thiết cho đời sống hiện tại của họ nữa. Người cũng ra lệnh cho các môn đệ ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn phải giải quyết những nhu cầu thể chất và cấp bách của họ (“Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” – Mt 10, 7-8).
Lo cho người ta về thể chất chính là cách biểu lộ tình thương đối với họ, đó là tạo điều kiện để lo cho họ một cách hữu hiệu về tâm linh. Để vấn đề thêm sáng tỏ, nên đối chiếu lập luận trên với Lời dạy về ngày cánh chung (đói cho ăn, khát cho uống, rách rưới cho mặc, đau yếu tới thăm viếng, ngồi tù tới hỏi han… – Mt 25, 31-46), hoặc Lời Đức Ki-tô nói với đám Pha-ri-sêu đang chê trách Người hay đi với bọn thu thuế và người tội lỗi (“Đức Giê-su nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” – Mt 9, 12-13). Rõ ràng Đức Giê-su Thiên Chúa luôn quan tâm đến nhu cầu sống của con người cả 2 mặt: thể xác và tinh thần.
Tông huấn Giáo hội tại châu Á “Ecclesia in Asia” (số 41) đã nhấn mạnh: “Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều.” (x. Xh 22, 21-22; Đnl 10, 18; 27, 19), là những người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa.” Thánh Gio-an Kim Khẩu viết: “Anh em có muốn tôn vinh thân thể Chúa Ki-tô? Chớ xa lánh Chúa khi ngài đang trần truồng. Chớ tôn kính Chúa khi ngài mặc trang phục lụa là trong đền thờ, mà xa lánh Chúa khi ngài đang rách rưới, đói lạnh bên ngoài. Đấng đã nói: “Nầy là thân thể ta” cũng chính là đấng đã bảo “Vì ta đã đói, các ngươi không cho ta ăn”, và “hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn này của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy.” Có ích gì khi đến trước bàn Tiệc Thánh đầy những chén thánh mạ vàng trong khi anh em chúng ta đang chết vì đói khát ngoài kia? Hãy đi ra mà chăm sóc những người đói khát, rồi vào mà dự lễ trước bàn thờ.” (nguồn: Wikipedia).
Ở đâu và ở thời nào cũng vậy, thế giới loài người muôn đời vẫn luôn cần đến những con người giầu lòng yêu thương, nhân đạo. Thế giới luôn cần những bàn tay nhân ái, luôn cần những con tim rộng mở để chia sẻ và yêu thương. Thế giới luôn cần những con người thiện nguyện dám hy sinh những tư lợi, dám quên mình cho hạnh phúc tha nhân. Xã hội loài người vẫn cần lắm những Phan-xi-cô khó khăn, những Gandhi, những Albert Schweitzer, những Tê-rê-sa Calcutta… Người Ki-tô hữu hãy làm sao sống được như lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô trong Tông sắc Lòng Thương Xót của Thiên Chúa “Misericordiae Vultus” (số 15):
“Chúng ta trông đợi những trải nghiệm của việc mở lòng mình ra với tất cả những ai đang sống bên rìa ngoài cùng của xã hội: Chính cái xã hội hiện đại này tạo ra những vùng ngoại vi như thế. Đang có biết bao nhiêu là những trạng huống hiểm nghèo, cũng như đang có biết bao nhiêu là những nỗi khổ đau trong thế giới chúng ta! Có biết bao nhiêu là những vết thương đang bị làm trầy xước nơi thân xác của rất nhiều con người mà họ không có được tiếng nói nữa, vì tiếng kêu của họ đã trở nên yếu ớt hay đã hoàn toàn bị ngưng bặt chỉ vì sự thờ ơ lãnh đạm của mọi người. Chúng ta hãy tái khám phá những hoạt động thể lý của lòng thương xót: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, và chôn xác kẻ chết. Và chúng ta đừng quên các hoạt động thiêng liêng của lòng thương xót: lấy lời lành mà khuyên người, mở dậy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cũng như cầu cho kẻ sống và kẻ chết.” Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống yêu thương chia sẻ, hầu góp phần nhỏ bé của chúng con vào công việc phục vụ những anh em khó nghèo, khiếm khuyết, tật bệnh sống gần kề chúng con. Ôi! “Lạy Chúa! Xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi! Thần Linh thánh ái, xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình.” (Kinh Hoà Bình – TCCĐ). Amen.
.
THIÊN CHÚA NUÔI DƯỠNG DÂN NGƯỜI
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày nay, ngành nông nghiệp trên thế giới đã phát triển vượt bậc, cung cấp lương thực cho gần 8 tỷ người trên thế giới. Tuy nhiên, số lương thực này không được phân bố đồng đều, nhiều quốc gia tại Châu Phi hoặc các nước chậm phát triển, tình trạng đói nghèo thiếu lương thực đang diễn ra thường xuyên. Trong cái nhìn đức tin, chúng ta nhận thấy, Thiên Chúa ban cho con người vũ trụ, cùng ban cho họ có khả năng nghiên cứu, tìm ra những phương pháp để làm cho vũ trụ này sinh sôi nảy nở, góp phần nuôi sống nhân loại. Có thể nói, Thiên Chúa đang trao cho con người quyền “làm phép lạ” của Ngài, để con người tiếp tục đem lại cơm bánh cho nhau. Thiên Chúa không chỉ nuôi nhân loại bằng cơm bánh thể xác, nhưng Ngài còn nuôi dưỡng đời sống tâm hồn của con người qua lương thực thiêng liêng là Lời của Chúa và Thánh Thể Ngài. Chúa nhật tuần trước Lời Chúa nói về việc Thiên Chúa quy tụ dân dưới sự hướng dẫn bảo vệ của Chúa. Hôm nay, các bài đọc Lời Chúa nhấn mạnh đến việc: Qua những con người có lòng chạnh thương, Thiên Chúa yêu thương chăm sóc và nuôi dưỡng dân Ngài bằng lương thực vật chất và thiêng liêng.
Lương thực của Chúa được ban cho những ai có lòng tin và lòng quảng đại, để qua những tấm lòng quảng đại và đôi tay mở rộng của họ, lương thực Chúa ban lại được chuyển đến với nhiều người khác nữa. Sách các vua kể lại câu chuyện thời tiên tri Eliseo: “Lúc bấy giờ trong miền đang đói kém. Có một người đem đến biếu vị tiên tri hai mươi chiếc bánh và một bịch cốm. Tiên tri Eliseo không dành riêng cho mình. Ông sai chú tiểu đồng đem phân chia cho dân chúng. Chú tiểu đồng nói, có vài cái bánh làm sao có để đủ chia cho hàng trăm người. Vị tiên tri bảo: ‘Cứ phân phát cho mọi người, vì Chúa Chúa sẽ cho họ ăn mà còn dư’. Quả thật đám đông dân chúng đang đói, được ăn một bữa no nê mà vẫn còn dư”. Nếu tiên tri Eliseo để dành phần bánh cho riêng mình, nó cũng chỉ là hai mươi cái bánh lúa mạch. Nhưng vị tiên tri đã nghĩ đến một đám đông dân chúng, ông dám chia tất cả những gì người khác tặng ông cho những người đang đói. Thiên Chúa đã dùng sự quảng đại, biết quan tâm đến người khác của ông, Ngài đã biến số lương thực ít ỏi: hai mươi chiếc bánh lúa mạch, thành một bữa ăn lớn nuôi sống nhiều người.
Thánh Gioan cho thấy, chính Chúa Giêsu là một vị Thiên Chúa chạnh thương. Vì có trái tim chạnh thương, Chúa Giêsu có thể dễ dàng nhận ra những nhu cầu của anh chị em chung quanh. Một đám người rất đông đi theo Chúa để được nghe lời Chúa giảng và chứng kiến những dấu lạ, được Chúa Giêsu nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, được chữa lành những đau khổ bệnh tật trong tâm hồn. Chúa Giêsu không dừng lại ở việc chăm lo đời sống tâm hồn cho dân chúng, Ngài còn quan tâm đến nhu cầu thực tế của họ đó là việc ăn uống. Trước mặt Chúa là một đám đông đang đói cả về tinh thần lẫn vật chất, mệt mỏi cả thể xác lẫn tâm hồn. Chúa Giêsu muốn truyền cho các tông đồ ngọn lửa từ trái tim chạnh thương của Ngài, Ngài muốn các ông cũng phải lưu tâm đến đời sống của dân chúng. Chúa nói với philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn?”
Tác giả Tin Mừng mở ngoặc cho biết: Chúa nói như thế là để thử các ông, xem lòng các ông như thế nào, phản ứng ra sao khi trước mắt là một đám đông đang thiếu đói. Trước câu gợi ý của Chúa Giêsu, các tông đồ dường như muốn làm ngơ, không muốn nhận trách nhiệm về mình. Các ông thưa: “Thưa Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền cũng chẳng đủ mỗi người một chút”. Trả lời như thế, các ông cho thấy sự bất lực của mình. Tuy nhiên, có lẽ hiểu được ý Chúa, các tông đồ đã nỗ lực với hết sức của mình. Các ông đã tìm ra một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá rồi đưa em bé đến cho Chúa. Với sự nỗ lực của các tông đồ cùng với sự quảng đại của em bé dâng tặng cho Chúa phần ăn của mình, Chúa Giêsu đã thực thi quyền năng của Ngài. Chúa Giêsu muốn các tông đồ chủ động cộng tác với Chúa, Ngài sai các ông sắp xếp cho đám đông ngồi xuống trên bãi cỏ theo từng nhóm. Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi trao cho các môn đệ để các ông phân phát bánh cho dân. Cá cũng được phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Qua việc này, Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu có thể làm phép lạ trực tiếp không cần đến sự trợ giúp của các tông đồ. Nhưng, Chúa muốn qua tay các tông đồ, để các ông là người phân phát bánh và là những người phục vụ đám đông. Hôm đó hơn năm ngàn người, không kể phụ nữ và trẻ em, được ăn uống no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá. Sau khi chứng kiến phép lạ, dân chúng nhận ra Chúa Giêsu là một vị Ngôn Sứ, Đấng phải đến thế gian. Có nghĩa là họ đã tin Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế. Họ muốn tôn Chúa làm vua, nhưng Chúa đã trốn lên núi một mình. Chúa Giêsu đã không muốn dân chúng tôn mình làm vua theo kiểu thế gian. Vì Ngài đến không phải để giải quyết những vấn đề chính trị hay xã hội, nhưng là để giải thoát tâm hồn con người, giúp họ thoát khỏi sự nô lệ trói buộc của ma quỷ và tội lỗi. Chúa còn muốn giúp mỗi người phá vỡ sự hẹp hòi nhỏ nhen trong trái tim để biết chạnh thương, biết nghĩ đến những nhu cầu của anh em. Chúa giúp chúng ta phá vỡ thành trì của sự ích kỷ trong mỗi người để chúng ta biết mở rộng vòng tay ra với anh chị em. Khi đó các vấn đề xã hội sẽ được giải quyết.
Xa hơn nữa, phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi đám dông dân chúng ăn no đến dư thừa, còn là hình ảnh báo trước việc Chúa Giêsu sẽ thiết đãi nhân loại một thứ bánh thần linh là máu thịt của Chúa. Qua bữa Tiệc Ly và cái chết thập giá, Chúa Giêsu đã bẻ chính mạng sống và con người của mình, mà phân chia cho toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu vẫn đang thực hiện phép lạ này mỗi ngày trong thánh lễ. Bí Tích Thánh Thể là máu thịt của Chúa vẫn đang được Giáo Hội dâng lên Chúa Cha với tâm tình tạ ơn mỗi ngày và bẻ ra để phân phát, nuôi dưỡng đời sống linh hồn các tín hữu. Tất cả mọi người được mời gọi đến lãnh nhận bánh thần linh là máu thịt của Chúa để được tăng cường sinh lực, đem lại sự sống đời đời cho linh hồn.
“Chúng ta kiếm gì cho họ ăn đi” – đó là điều Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện mỗi ngày. Chúa muốn chúng ta chứ không phải ai khác, là người chia sẻ với anh chị em chung quanh. Chúng ta không thể làm ngơ, không thể tránh né trước sự đói khổ cả tinh thần và thể xác của anh em. Chính chúng ta sẽ phải chạnh thương, cảm thông và tìm kiếm lương thực thiêng liêng và lương thực vật chất cho họ. Hàng tỷ người đang thiếu đói của ăn vật chất mỗi ngày, trái lại cũng có hàng tỷ người đang ăn uống tiêu dùng dư thừa hoang phí, nhưng không biết chia sẻ. Nhân loại ngày nay đang bị bơ vơ thiếu thốn của ăn thiêng liêng nuôi sống tâm hồn. Nhiều người dư thưa vật chất, nhưng tâm hồn thiếu đói, thiếu tình thương, thiếu sự thông cảm và sự quan tâm, sống trong buồn chán, thất vọng. Nhiều người đang bơ vơ lạc lối giữa biết bao trào lưu sống của xã hội như hưởng thụ, thực dụng, lợi dụng, tiêu dùng, khiến họ không biết đâu là đường đưa tới sự thật và sự sống đời đời. Các chủ thuyết duy vật, vô thần đang biến con người thành những kẻ giàu có vật chất, nhưng tâm hồn trống rỗng, vô cảm, vô lương tâm. Chủ thuyết này đang ảnh hưởng trên nhiều người chúng ta. Để tẩy trừ được ảnh hưởng này, mỗi người cần đến với Chúa đón nhận của ăn là Lời và Mình Máu Chúa, đón nhận tình yêu từ nơi Chúa để trái tim của mình mềm ra, từ đó chúng ta mới có thể chạnh thương với anh chị em chung quanh.
Mẹ Têrêsa Cancutta kể lại: “Có một gia đình nghèo, gồm một người mẹ bệnh tật không thể lao động và ba đứa con nhỏ, ngày nào các sơ cũng đem đồ ăn đến cho gia đình này. Tuy nhiên, có điều lạ, là cứ sau khi nhận phần ăn, thì đứa con gái lớn lại gói một nửa phần quà đem đi đâu đó. Các sơ hỏi người mẹ: ‘Sao phần ăn các sơ đem đến, bà và các con lại không ăn?’ Người mẹ trả lời: ‘bốn mẹ con chúng con ăn một nửa cũng đã đủ no rồi. Ở dãy phố bên kia cũng có một gia đình bốn người, họ cũng khó khăn thiếu đói như chúng con. Chúng con đem chia cho họ phần ăn của mình”.
Chúa muốn mỗi chúng ta có tấm lòng quảng đại như em bé, dâng tặng cho Chúa phần ăn của mình. Chúa sẽ biến mỗi phần ăn bé nhỏ đó thành phép lạ lớn lao nuôi sống cả thế giới này. Chúng ta cũng có thể dâng cho Chúa thời giờ, sức lực, khả năng ít ỏi của mình để phục vụ Chúa và anh em, Chúa sẽ làm cho việc bé nhỏ của chúng ta thành những việc lớn lao. Xin Chúa cho chúng ta có một trái tim chạnh thương, một tâm hồn rộng mở và một đôi tay quảng đại luôn biết chia sẻ với anh em, để qua chúng ta Thiên Chúa nuôi dưỡng nhân loại này cả thể xác và linh hồn. Amen.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thương của Thiên Chúa luôn được thể hiện qua việc thi ân giáng phúc và chăm sóc đoàn chiên, và dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi, về dòng suối mát để chúng được ăn uống no nê thỏa thích. Tác giả sách các Vua trong bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho thấy biến cố đã xảy ra trong thời kỳ có nạn đói kéo dài 7 năm, một sự kiện ngặt nghèo chung của xứ sở. Bảy năm mất mùa, bảy năm đói khổ. Những cố gắng của con người hầu như tuyệt vọng. Số phận của hằng trăm môn đệ ngôn sứ Êlisê cũng không hơn gì. Họ đang bị đói. Nhờ lòng quảng đại và tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, từ hai mươi chiếc bánh nhỏ mạch nha và lúa mì do một nông dân vô danh đến từ Baal-Salisa tiến dâng, ngôn sứ Êlisê giúp hàng trăm người ăn no và vẫn còn dư.
Thưa anh chị em, phép lạ được ngôn sứ Êlisê thực hiện trong thời Cựu ước tiên báo việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tân ước để nuôi sống nhiều ngàn người ăn no nê. Đây là dấu chỉ lòng thương xót và sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa đối với loài người. Giữa cảnh núi rừng với một số đông dân chúng theo Chúa Giêsu, Người chạnh lòng thương xót họ và đã khéo léo gợi lên trong lòng các môn đệ một vấn nạn lương tâm: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”. Người hỏi như vậy có ý thử các ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Dường như các môn đệ đã lặng thinh trước vấn nạn Thầy Giêsu đặt ra. Họ im lặng vì “lực bất tòng tâm”. Họ im lặng vì chưa cảm thấy trách nhiệm liên đới với người khổ đau. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”, nói chi đến năm chiếc bành lúa mạch và hai con cá. Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Tuy con người hoàn toàn bất lực, không giải quyết được vấn đề, nhưng Thiên Chúa lại muốn cần đến sự cộng tác của con người: một người vô danh mang đến cho Êlisê 20 chiến bánh đầu mùa; một bé trai có 5 chiếc bánh lúc mạch và 2 con cá. Em sẵn sàng cho hết những gì mình có dù ít ỏi. Những cái bé nhỏ và ít ỏi này đã được Thiên Chúa chúc phúc, sẽ trở nên sự phong phú khởi đầu của một phép lạ lớn lao cho mọi người không những no thỏa mà cò dư thừa. Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Từ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ ngoạn mục hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng và biểu lộ tình yêu thương của Người đối với loài người.
Có câu chuyện kể rằng: Trong một cuộc thi quốc tế dành cho các trẻ em khuyết tật, sau tiếng súng lệnh, chín em bắt đầu cuộc thi chạy 100m. Tất cả đều chạy vui vẻ, và rất cố gắng. Bỗng nhiên, một cậu bé bị vấp té. Em vội đứng lên và chạy tiếp, cố chạy cho kịp với các bạn. Nhưng rồi em lại bị té lần nữa, khoảng cách bây giờ lớn hơn. Em không chạy nữa mà … khóc! Nghe thấy tiếng khóc, tám em kia liền dừng lại, rồi quay trở lại, đến bên cậu bé. Một cô bé cúi xuống hôn cậu và nói: “Không sao đâu, tốt thôi!” Và lần này chín đứa trẻ cầm tay nhau chạy về đích.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Tình liên đới mà những người lành mạnh không thể làm được thì chín em tật nguyền đã làm được. Chúa đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé. Hôm nay Chúa cũng muốn chúng ta hợp tác với Người thực hiện những phép lạ Người đã làm bằng tình yêu thương, khiêm nhượng, hiền lành và tình bác ái đối với tha nhân. Tin tưởng vào Người có đủ năng lực thực hiện tất cả những gì cần thiết và tốt đẹp nhất cho từng người.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ quyền năng và tình thương bao la của Chúa dành cho nhân loại. Xin Chúa giúp chúng con biết ý thức và quảng đại cộng tác trong những công việc chung của Giáo hội và xã hội, nhằm làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích hạnh phúc cho con người. Amen.
.
Lm. Antôn
Có lẽ một số người hiện diện trong Thánh lễ hôm nay nhận ra bài Tin mừng tuần này trích trong sách Gioan không phải sách Mác-cô như những tuần vừa qua. Khi đến đoạn Tin mừng nói về phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, Tin mừng Mác-cô chỉ diễn tả ngắn ngọn, trong khi đó đoạn văn trong sách Gioan thì chi tiết và dẫn đến một đoạn văn tuyệt đẹp là Chúa Giê-su là Bánh Hằng Sống. Vì vậy trong những tuần kế tiếp, chúng ta sẽ tiếp tục đọc và nghe Tin mừng Gioan. Thật vậy, phép lạ hóa bánh cá ra nhiều là hình bóng của Bí tích Thánh Thể. Nhưng trước khi là hình bóng đó, tự phép lạ này cũng có những bài học biểu lộ tấm lòng yêu thương quảng đại của Chúa đối với loài người.
Hãy tưởng tượng chúng ta đang đứng trong đám đông dân chúng khi Chúa Giê-su và các tông đồ bắt đầu phát thức ăn ra. Chắc chắn chúng ta sẽ tự hỏi: Điều gì đang xảy ra? Thức ăn này từ đâu đến? Sự kiện này có gây ấn tượng cho chúng ta không? Ấn tượng có sâu xa để chúng ta ghi nhớ đã xảy ra không? Những người theo Chúa lúc đầu đã có ấn tượng sâu xa về sự kiện này và đã lập đi lập lại nhiều lần đến mức phép lại này xuất hiện trong cả 4 sách Tin mừng.
Bằng một cách nào đó, Chúa đã nuôi đám đông dân chúng ăn no và dư thừa còn lại. Đây là một phép lạ lớn: Chúa Giêsu đã biến 5 cái bánh và 2 con cá để nuôi đám đông người ăn no nê thừa thãi. Tin mừng cho chúng ta biết số đàn ông là 5,000, nếu cộng thêm độ 5,000 đàn bà và khoảng 2,000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số có thể lên tới khoảng 12,000 người. 12,000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn. Nhưng có một điều quan trọng là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người, và khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng. Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý muốn con người góp tay hợp tác vào. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều mời người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ khiêm nhường tin vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi: “Con có tin không?” và sau khi làm phép lạ, Chúa nói: “Đức tin của con đã cứu con.”
Chúng ta biết lúc nào Chúa cũng sẵn sàng ban những ơn lành cho chúng ta, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng nếu chúng ta không nhận được là vì chúng ta đã không góp phần của chúng ta vào với ơn Chúa, hoặc chúng ta không tin đủ, hay chưa xác tín vào ơn Chúa. Cụ thể như nếu chúng ta xin Chúa giúp ban ơn cho gia đình chúng ta được bình an, yêu thương hoà thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng, quyết tâm từ bỏ những tật xấu ảnh hưởng đến gia đình, con cái, hay phải thành tâm tha thứ, làm hoà lại với nhau. Hay nếu chúng ta xin Chúa giúp cho có sức khỏe tốt, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng từ bỏ những tật xấu, hay nhất quyết không hoang phí sức khỏe, không làm cho thân thể bị ảnh hưởng vì nghiện ngập và tham lam. Hay nếu chúng ta xin Chúa giúp chúng ta có lòng đạo đức, thánh thiện, bác ái hơn, thì cũng đừng cầu xin xuông, mà phải cố gắng tham dự Thánh lễ với tấm lòng sốt sắng và yêu mến Chúa.
Một vị linh mục đã giảng rằng: phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng yêu thương quảng đại. Trước hết là lòng hy sinh quảng đại của em bé đã hiến dâng năm chiếc bánh và hai con cá cho Chúa Giêsu. Chúng ta thấy số bánh và cá đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó cần thiết và nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều, dư thừa của mình, nhưng rất ít người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quảng đại. Kế đến là lòng yêu thương quảng đại của chính Chúa Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.
Giảng xong, vị linh mục rất hài lòng nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị linh mục vào phòng áo, một bà cụ già cũng theo vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ không. Vị linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa mai những người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước nói. Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ: “Chắc là người lấy cái túi đó cần đến nó hơn tôi.” Vị linh mục hỏi tiếp: “Thế trong túi có gì vậy?” Bà đáp: “Chỉ có hai chiếc bánh để ăn khi đường trong máu xuống thấp thôi.”
Chúng ta biết quảng đại phải là một nhân đức quan trọng và cần thiết của người Kitô hữu. Nhân đức này lại có nhiều dịp thể hiện, và chúng ta có thể hiện lòng quảng đại bằng nhiều cách như đóng góp, dâng cúng tiền bạc, cho đi của cải, thời giờ, tài năng, cho đi công sức hy sinh phục vụ, cho đi sự quan tâm, cho đi lòng thương mến. Và Chúa sẽ biến sự hy sinh quảng đại này thành niềm vui và hy vọng trong cuộc sống của người khác và nhất là cho chính mình. Một người đã nói: Ít khi chúng ta gặp một người nào quảng đại mà buồn. Cũng như ít khi chúng ta gặp người nào bủn xỉn, ích kỷ mà vui.
Thật vậy, Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài và có lòng hy sinh quảng đại để giúp đỡ những người trong tình trạng khó khăn, và để xây dựng Nước Chúa, xây dựng tình yêu thương hiệp nhất trong cộng đoàn giáo xứ. Thánh Phaolô trong bài đọc 2, lo lắng vì sự chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu trong cộng đoàn ở, cho nên Ngài đã khuyên bảo họ: “Hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an hoà thuận làm dây ràng buộc.” Ngài so sánh cộng đoàn như một thân thể, và “chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa” nối kết, làm cho thân thể ấy được sống, mạnh khỏe và hoạt động. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta tấm lòng quảng đại chia sẻ tình yêu Chúa với những người chung quanh, và hiệp nhất với nhau trong giáo xứ qua Thánh Thể là Thân Thể Chúa Ki-tô, để chúng ta xây dựng giáo xứ và làm sáng danh Chúa.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Các kênh truyền hình ngày nay có những chương trình bổ ích, đầy tính nhân văn, coi mãi, coi hoài mà không chán. Ví dụ chương trình: “Vượt lên chính mình”, “khát vọng sống”, “như chưa hề có cuộc chia ly”… Những chương trình này hấp dẫn, xúc động vì nó chạm đến trái tim người ta, nó làm cho người xem thấy được tình yêu trong cuộc đời; tình yêu nơi những con người dù sống trong đau khổ vẫn luôn hướng về phía trước, tin tưởng vào tương lai, và sống hết mình cho hiện tại; tình yêu nơi những con người biết cảm thông, chia sẻ với người khác cả vật chất lẫn tinh thần, để cho những người kém may mắn thấy rằng tình người vẫn còn chan hòa trong cuộc sống, thấy rằng mình vẫn được yêu thương. Đó chính là một tình yêu hiệp thông.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: 2 V 4, 42-44
Trong bài đọc 1, sách Các Vua kể lại cho chúng ta vào khoảng những năm 850-840 TCN, lúc Israel đang gặp nạn đói, có một người đem đến cho ông Êlisa, người của Thiên Chúa 20 chiếc bánh. Đang lúc gặp nạn đói mà có bánh ăn, có thể người ta sẽ cất giấu rất kỹ để thủ thân. Còn ở đây, người của Thiên Chúa sai đệ tử “Phát cho người ta ăn”. Từ sự rộng rãi, quên mình của Êlisa mà Thiên Chúa đã làm dấu lạ từ 20 chiếc bánh cho cả trăm người ăn.
- Bài Đọc II: Ep 4, 1-6
Thánh Phaolô đã kêu gọi giáo dân thành Êphêxô hiệp nhất:“Anh em hãy ăn ở thuận hòa, gắn bó với nhau”. Muốn được như vậy, ngài dạy họ:“Hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.” Xem ra Phaolô là một con người rất tâm lý, chỉ những ai khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, biết chịu đựng mới có thể hiệp thông với người khác. Lý do để Phaolô kêu gọi con cái mình hiệp thông là bởi vì:“Chỉ một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha”.
- Tin Mừng: Ga 6, 1-15
Liên tục trong những tuần gần đây, bài Tin Mừng trong các Chúa Nhật cho chúng ta thấy Thiên Chúa luôn yêu thương và chăm sóc dân Người. CN 15 TN, CG sai các môn đệ của mình đi rao giảng Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa. CN 16 TN tuần rồi, sau khi các môn đệ rao giảng trở về, dân chúng kéo theo rất đông khiến CG “Chạnh lòng thương vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt”, và bắt đầu giảng dạy cho họ. Còn hôm nay, CN 17 TN, khi thầy trò lên núi cầu nguyện, ngước mắt lên, CG ngỡ ngàng vì dân chúng đông đảo kéo đến với Ngài. Lúc đó con tim yêu thương tự nhiên đã thúc bách khiến Ngài cảm thấy bổn phận phải lo cho dân chúng. Ngài hỏi Philipphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Ngài hỏi như vậy không phải vì Ngài bế tắc, không có hướng giải quyết, nhưng để khơi lên cho các môn đệ cũng biết đi vào mối bận tâm của Ngài. Sau khi Anrê giới thiệu cho Chúa một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá. Với số lượng tượng trưng đó, CG đã làm một phép lạ vĩ đại, phép lạ mà cả 4 tác giả Tin mừng đều thuật lại, riêng Matthêu thuật đến 2 lần. Từ năm chiếc bánh và hai con cá cho 5 ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà và con nít (chắc chắn phải đông hơn) được ăn no nê mà vẫn còn dư tới 12 thúng đầy. Qua những hành động đó, cho chúng ta thấy Thiên Chúa rất giàu có, nhưng không phải keo kiệt, mà Ngài sẵn sàng ban phát một cách dư thừa. Điều chúng ta cần để ý trong bài Tin mừng hôm nay là tình yêu của Thiên Chúa mang tính cách hiệp thông. Ngài làm phép lạ cho tập thể và trong tập thể. Phép lạ đó chỉ được thực hiện khi có sự quan tâm trong cộng đoàn, và khi cộng đoàn đó biết cho đi dù là phần bé nhỏ của mình như em bé hôm nay.
II. GIÁO HỘI LÀ CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG
Thực vậy, hiệp thông là một trong những sự thật về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là sự hiệp thông được mặc khải qua hành động của Chúa Ba Ngôi. Vì vậy khi thiết lập Giáo Hội, ĐGK cũng muốn Giáo Hội và từng người trong Giáo Hội sống hiệp thông. Muốn như thế thì mỗi người phải biết hiệp thông với Thiên Chúa, để từ nền tảng căn bản đó dẫn đến sự hiệp thông với Giáo Hội và tha nhân.
- Với Thiên Chúa:
Đời sống người kitô hữu chỉ thực sự có giá trị khi họ biết gắn bó với nguồn cội của mình là chính Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên, nên họ phải hướng về Chúa. Những ai không hiệp thông, không gắn bó với Chúa thì giống như xác không hồn, chỉ là xác chết; họ cũng làm việc, cũng hoạt động, nhưng hoàn toàn không có ý nghĩa, không có giá trị gì cả, có chăng chỉ là những giá trị tạm bợ ở đời này thôi. Còn những ai biết hiệp thông, biết gắn bó với Chúa thì không quan trọng họ làm gì, bởi vì bất cứ điều gì họ làm cũng là để hiệp thông với Chúa.
Phải gắn bó, hiệp thông với Chúa trong mọi nơi, mọi lúc và mọi việc. Nói như vậy coi bộ khó! Nhưng khi đã tập cho mình một thói quen, làm bất cứ việc gì cũng nói với Chúa một tiếng: con đi làm, con đi đám tiệc, con đi lễ, con đi chơi… thì đó là đã hiệp thông với Chúa rồi, vì mình ý thức có Chúa cùng làm với mình trong mọi việc. Mà khi ý thức như vậy sẽ tránh cho mình những chuyện sai trái, bởi vì mình luôn sống dưới cái nhìn của Chúa. Nhưng quan trọng hơn cả là hiệp thông với Chúa trong Thánh lễ, trong các Bí tích và trong cầu nguyện.
- Với Giáo Hội, với tha nhân:
Khi đã có được nền tảng căn bản là sự hiệp thông với Chúa, từ đó sẽ dẫn đến mọi sự hiệp thông khác: với Giáo Hội, với tha nhân.
Không lạ gì khi những người thường xuyên lui tới nhà thờ là những người yêu mến Chúa. Họ xem nhà thờ, nhà xứ, giáo hội là con tim của họ. Họ yêu mến Đức Thánh Cha, yêu mến Đức Giám Mục của mình, yêu mến cha sở, cha phó, quý dì, quý thầy, những con người dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Họ sẵn sàng cộng tác, giúp đỡ trong khả năng có thể… Còn tâm lý chung, những người không gắn bó với Chúa, cụ thể là bỏ đạo lâu năm, khi đến nhà thờ họ cảm thấy lạ lẫm, thậm chí là sợ nữa; gặp các cha, các dì, các thầy, họ ngại ngùng, những sinh hoạt trong họ đạo, trong giáo phận họ không hay biết gì… Điều đó thể hiện họ không có sự hiệp thông với Giáo Hội bởi vì họ chưa có sự hiệp thông với Chúa.
Sau cùng, tình yêu với Thiên Chúa không bao giờ là một tình yêu ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, người ta càng yêu thương anh chị em của mình. Chính sự yêu thương đó thúc bách mình quan tâm đến người khác, sống cho người khác, san sẻ với người khác nhất là những con người bé mọn; chúng ta gọi là hiệp thông với tha nhân. Sự hiệp thông không chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ, chia sẻ vật chất. Nếu hiệp thông chỉ là giúp đỡ, chia sẻ vật chất thì rất rất nhiều người không thể sống hiệp thông, bởi vì họ rất nghèo. Nhưng hiệp thông còn là và phải là quan tâm đến phần hồn, phần rỗi của anh chị em mình, nhất là những người thân trong gia đình.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa luôn yêu thương và chăm sóc con người, không phải vừa đủ, mà một cách dư dật. Điều đó thể hiện Thiên Chúa luôn muốn hiệp thông với con người. Phần chúng ta muốn được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc, thì chúng ta phải hiệp thông với Chúa trong từng suy nghĩ, lời nói, việc làm; trong mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Đồng thời cũng biết hiệp thông với anh chị em của mình, nhất là trong đời sống đức tin. Cầu chúc mọi người và từng người luôn thể hiện được sự hiệp thông với Chúa và với nhau. Có như vậy chúng ta mới trở thành một cộng đoàn đức tin và đức mến thực sự.
.