Lời Chúa: Gr 23,1-6; Ep 2,13-18; Mc 6,30-34
——
- Mục tử và đàn chiên (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Bao La Tình Chúa(Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Tìm Nơi Thanh Vắng Để Cầu Nguyện Sau Ngày Làm Việc(Lm. Ngọc Dũng, SDB)
- Cần sự yên tĩnh (Lm. Thái Nguyên)
- Tận hưởng yêu thương (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
- Nghỉ ngơi (Lm. Vũ Đình Tường)
- Để yêu như Chúa (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Quên mình (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
- Đức Giêsu, Đấng luôn chạnh lòng thương (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
- Lương thực cho tâm hồn (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
- Tập thinh lặng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
- Tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi (Lm. Trần Bình Trọng)
- Chúng ta cũng cần vaccine thiêng liêng (Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ)
- Chúa chăm sóc đoàn chiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
- Thuận ngôn nghịch nhĩ (Trầm Thiên Thu)
- Biết nhạy bén (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện sau ngày làm việc (Lm. Ngọc Dũng, SDB)
- Nghỉ ngơi để “Đi Ra” với trái tim yêu thương (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
1. Vị mục tử chạnh lòng thương (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Nhịp sống Kitô hữu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Hãy nghỉ ngơi (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Hãy dành thời gian cho nhau (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Nơi thanh vắng (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
6. Về bên Giêsu (Hoa Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
7. Làm việc và nghỉ ngơi (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
8. Hãy nghỉ ngơi bên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
9. Lời khuyên thiết thực (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Tĩnh dưỡng (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
11. Nghiêm khắc và xót thương (Lm. Gioan Quốc Toản, CRM)
12. Nơi vắng vẻ (Lm. Nguyễn Thái)
13. Tấm lòng của vị mục tử (Lm. Đinh Lập Liễm)
14. Tìm kiếm lương thực thiêng liêng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
15. Hãy đi riêng ra (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
16. Người chạnh lòng thương (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
17. Làm việc và cầu nguyện (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
18. Nghỉ ngơi bồi dưỡng (JM. Lam Thy, ĐVD)
19. Tin mừng bình an, Tin mừng hạnh phúc (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
20. Suy niệm Chúa Nhật 16 Thường niên_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
21. Suy niệm Chúa Nhật 16 Thường niên_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
22. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 16 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
23. Mầu yêu sắc thương (Trầm Thiên Thu)
24. Một chủ đề luôn có tính thời sự: Mục tử (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
25. Chạnh lòng thương và quên mình phục vụ (Lm. Đan Vinh)
26. Con tim mục tử (Lm. Giuse Nguyễn)
27. Thiên Chúa quy tụ và chăm sóc dân Người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
28. ThiênChúa đặt ta dưới sự chăm sóc của Mục tử nhân lành (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
29. Chúa Nhật 16 Thường niên_B (Lm. Antôn)
Tgm. Vũ Văn Thiên
Một lần nữa, Lời Chúa hôm nay lại nói với chúng ta về mục tử. Trước hết là những mục tử lãnh đạo dân Israen. Một số trong họ bị Thiên Chúa lên án, vì vô cảm và thiếu trách nhiệm với công việc được trao. Họ là những người ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân mình, trong khi đó nhiều người đói khát và bị bỏ rơi không được quan tâm. Khi đề cập đến các mục tử, Lời Chúa hôm nay chất vấn những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, nhất là những người có thái độ dửng dưng, sống ích kỷ và chỉ lo bản thân mình.
Thiên Chúa mới là Mục tử đích thực của Dân Ngài. Nếu những người được trao phó trách nhiệm bất trung, thì chính Ngài can thiệp và bù đắp. Chính Chúa quy tụ Dân Ngài, băng bó những vết thương, khôi phục những đổ vỡ, đem lại niềm hy vọng cho những người đang đứng trước ngõ cụt của cuộc đời. Chúa là vị Thẩm phán chí công. Ngài trừng phạt những mục tử vô lương tâm, yêu thương chăm sóc những con chiên yếu thế.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Tình yêu thương ấy được thể hiện qua việc Thiên Chúa sai con của Ngài đến thế gian, là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng Thánh Máccô diễn tả Đức Giêsu với trái tim mục tử. Người chạnh lòng thương đám đông dân chúng, vị họ như bầy chiên không người chăn dắt. Nếu ông Môisen và vua Đavít thường được tôn vinh như những vị lãnh đạo trung thành, thì Đức Giêsu được các tác giả Phúc Âm trình bày như một Môisen mới, như một Đavít đến trần gian để lãnh đạo Dân Chúa. Đàn chiên của vị Mục tử này không còn đóng khung trong dân tộc Do Thái, mà đã vượt ra khỏi ranh giới để đến với các dân tộc. Như thế, những ai nghe tiếng vị Mục tử Giêsu, bất luận họ thuộc nền văn hoá hay chủng tộc ngôn ngữ nào, đều thuộc về đàn chiên của Ngài. Thánh Phaolô (Bài đọc II) đã trình bày Đức Giêsu là sự bình an của chúng ta. Qua giáo huấn của Người và nhất là qua hy tế thập giá, Người đã phá đổ bức tường ngăn cách dân Do Thái với các dân ngoại. Không chỉ dừng ở đó, Chúa Giêsu còn hoà giải Thiên Chúa với con người. Người tiêu diệt sự thù ghét, nối kết muôn người nên một trong tình thương mến chan hoà.
Trước một đám đông đang đói khát chân lý, Đức Giêsu đã “chạnh lòng thương”, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Sứ mạng của Đức Giêsu là đem cho nhân loại tình thương của Thiên Chúa. Giáo huấn của Người nhằm giúp cho con người tìm được chân lý vĩnh cửu, đồng thời tìm được ý nghĩa trong cuộc sống hiện tại.
Để tiếp nối sứ vụ mục tử, Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ. Thánh Máccô khởi đầu trình thuật bằng việc gọi các ông là “Tông đồ”. Đây là lần sử dụng duy nhất thuật ngữ này trong Tác phẩm Tin Mừng của thánh Máccô. Tông đồ là người được sai đi. Đức Giêsu đã huấn luyện các ông và sai đi truyền giảng những gì Người đã dạy. Các ông rất vui mừng vì thấy lời giảng dạy của mình mang lại nhiều hiệu quả nhãn tiền. Chính trong lúc các ông đang say sưa với thành quả đã đạt được, Chúa lại bảo các ông dành thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Đời sống của người tông đồ phải tạo được sự quân bình giữa “động” và “tĩnh”. Nếu chỉ “động” mà thôi, lời chứng của họ sẽ rỗng tuếch. Nếu chỉ dừng lại ở “tĩnh” cuộc đời họ sẽ vô nghĩa đối với tha nhân.
Nhờ bí tích Thánh tẩy, mối người tín hữu đều trở nên tông đồ của Chúa. Được xức dầu và được sai đi, họ nhân danh Chúa Giêsu để đem tình thương đến cho con người bất hạnh, ở mọi nơi và mọi thời. Như vậy, người Kitô hữu đích thực vừa là người gắn bó với Mục tử của mình, vừa là người có trái tim “chạnh lòng thương” như Chúa Giêsu, để đem tình thương cho những ai đang cần.
Trong những ngày này, cả nước đang hướng về các tỉnh thành phía Nam, nhất là thành phố Sài Gòn, vì ở đó dịch Covid-19 đang bùng phát. Số những người nhiễm bệnh gia tăng nhanh chóng. Người dân phải giãn cách xã hội. Biết bao người nghèo lâm cảnh thiếu thốn khó khăn. Trong cơn hoạn nạn, chúng ta vui mừng chứng kiến những tấm lòng quảng đại san sẻ tinh thần vật chất. Đây là những nghĩa cử đáng trân trọng và làm lan toả yêu thương nơi cuộc sống và trong hoàn cảnh cụ thể của thời dịch bệnh. Chúng ta cám ơn những người đang xả thân phục vụ bất chấp mọi nguy hiểm. Họ là hình ảnh của Chúa Giêsu, đấng chạnh lòng thương xót đối với những người nghèo khổ và đói khát tinh thần cũng như vật chất. Họ đang góp phần làm lan toả giáo huấn yêu thương của Người giữa cuộc sống hôm nay.
“Con người chỉ giống hình ảnh Chúa khi hiến mình liên lỉ, như mỗi Ngôi trong Thiên Chúa là: hoàn toàn hiến dâng, hoàn toàn tương quan, hoàn toàn yêu thương” (Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận ĐHV 606).
Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc
Kết quả đạt được, thành quả trông thấy, bóng mát cuộc đời, chính là niềm vui, phần thưởng, là khích lệ cần thiết cho cuộc sống đầy đủ, ý nghĩa. Trải qua những “ê chề” cuộc sống, các đấng bậc cho hậu thế một định nghĩa thú vị: thành công là khi bạn vượt qua hết thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết. Hành trình đời người không phải là một ngày, một năm: thiếu sót, lỗi lầm, hoặc dư tràn phúc đức, tất cả đều hướng ta về phía trước. Con người tự nhiên phải lao động, làm việc, nghỉ ngơi; con người siêu nhiên có ơn Chúa, biết thực thi đức tin và đức ái. Đồng ý rằng: may mắn trong đời không phải là trúng số, nhặt được tiền, mà là có thầy dạy, có anh chị em cảm thông, giúp nhau tiến tới bến bờ hạnh phúc.
Cũng như máy móc cần được ngừng nghỉ, bảo trì, Đức Giêsu thúc giục các học trò nghỉ ngơi, ăn uống, sau chuyến thực tập mục vụ. Với tư cách là thầy dạy, Đức Giêsu thức tỉnh các học trò: ngày hôm qua dù đẹp mấy cũng không quay lại được nữa. Sứ mạng người tông đồ, thánh ý Chúa, không dừng lại ở tiếng khen chê, thành công hay thất bại. “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” ! Nghỉ ngơi, điều hợp lý hợp tình, bảo đảm cho sức khoẻ. Nghỉ ngơi, điều cần thiết để người tông đồ hiệp nhất cầu nguyện, quyết sống đúng, sống đẹp thánh ý Chúa. Bậc cha mẹ, luôn thao thức được thấy con cháu trưởng thành, nên người hữu ích, Thầy Giêsu cũng muốn được nhìn các học trò khoẻ mạnh thể xác, tinh thần. Vâng lời Thầy, “các ngài đã xuống thuyền, chèo đến một nơi hẻo lánh, có ý nghỉ ngơi, cầu nguyện”.
Người trẻ hôm nay hay dùng từ: bao đẹp, bao giầu, bao giỏi, phải chăng người ta nên hiểu: “biết bao điều tốt đẹp” mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện nơi cuộc sống này. Đức Giêsu cho thấy nhu cầu cần được yêu thương, cần được nâng đỡ vật chất, tinh thần, ở đâu, thời nào, vẫn là thiết thực. Tiền nhân chúng ta rất thực tế khi nói: nếu bạn làm việc lành, bạn sẽ được phước, nếu bạn làm sự ác, bạn sẽ tự rước hoạ vào thân. Ở môi trường nào ta cũng được nhắc nhớ: lời nói phải đi đôi với việc làm; đức tin không có việc làm là đức tin chết. (Gc 2, 17). Biết bao người lại quan niệm: học không chơi phí đời tuổi trẻ, hoặc làm ra tiền mà không tiêu xài, quả là ngu ngốc ! Bao la tình Chúa, vẫn mãi là tình yêu, là bình an, là hạnh phúc thật, khi mà người ta có Đức Giêsu trong cuộc sống.
Bao la tình Chúa, tất cả là hồng ân, nhóm 12 năm xưa lớn lên trong tình yêu thương, các ông trải nghiệm: một thao thức sống, một nơi mà đi tới đâu các ông cũng hướng về, đó là nơi có Thầy Giêsu. Thời đại nào, cũng có kẻ giầu người nghèo, ở đâu người ta cũng cần được yêu thương. Ở đâu, người ta cũng trao “vương miện” cho người xinh đẹp toàn diện, tất cả các cuộc thi, người ta chỉ trao phần thưởng cho người xuất sắc, đạt thành tích. Ở trong Đức Giêsu, dù là linh mục, tu sĩ, là người thánh thiện, tội lỗi, Ngài vẫn quảng đại trao ban hồng ân, cho chúng ta cơ hội để thực thi đức ái Kitô. Đức Giêsu rất vui vì các môn đệ sẵn sàng cùng Thầy xuống thuyền để rao truyền lòng thương xót Chúa. Thực tập là hạt giống của kiến thức: sống điều mình hiểu, sống lạc quan, rõ ràng, đó là hạt giống của đức tin.
Bao la tình Chúa, bao nhiêu dịp thuận tiện để ta thể hiện niềm tin, để ta cùng Thầy Giêsu thực hành việc tông đồ, yêu như Chúa yêu. Biết bao điều kỳ diệu, và không ít người trẻ đang dấn thân, mang yêu thương đến vùng sâu, vùng cao, bất luận nguy hiểm, đường xá trơn trượt. Đúng, khó khăn, đau khổ nơi cuộc sống là điều ai cũng phải đối mặt, việc cần làm là vận dụng những hiểu biết để có phương án vượt qua. Bao la tình Chúa, còn là dấu chỉ lòng thương xót Chúa được ban, cho dẫu xã hội quan niệm có thực mới vực được đạo. Đức Giêsu động lòng thương, bởi đám đông chẳng khác gì đàn chiên không người chăn dắt, bảo vệ ! Bao la tình Chúa, dồi dào tình người, tình đồng loại, tất cả là hồng ân, là ơn ban, mà ta phải cảm nhận bằng mắt tâm hồn.
Có hai đệ tử xuống núi thực hành đạo lý, khi trở về, họ báo cáo: thưa sư phụ, con thấy con người nơi nào cũng gian tham, sống ích kỷ, nói cách khác, ở đâu cũng đầy tội lỗi bất công ! Người thứ hai lên tiếng: thưa sư phụ, đi đến đâu con cũng thấy dân chúng đói nghèo, đáng thương lắm, sư phụ mau sai phái thêm nhiều đệ tử đến trợ giúp họ. Ở đời luôn có giầu nghèo, khôn ngoan khờ dại, kẻ lười biếng, người chăm chỉ, nhu cầu thiết thực mà ai cũng mong, đó là được yêu thương. Kinh nghiệm ở đời: không phải cứ cố gắng là thành công, nhưng hãy cố gắng để không phải hối tiếc khi thất bại. Đức Giêsu cho thấy nghỉ ngơi, cầu nguyện, là quy trình hợp lý hợp tình, nhằm giúp ta cảm nhận được Thiên Chúa, Đấng giầu lòng xót thương đã đến, đang đến và sẽ đến.
TÌM NƠI THANH VẮNG ĐỂ CẦU NGUYỆN SAU NGÀY LÀM VIỆC
Lm. Ngọc Dũng, SDB
Trong bài đọc 1 hôm nay, Đức Chúa khiển trách những mục tử đã không làm tròn trách nhiệm của mình: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác -sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23:1). Những mục tử không làm tròn trách nhiệm của mình là những mục tử mang lại sự chia rẽ, làm cho đoàn chiên không hiệp nhất vì đã không để tâm đến đoàn chiên mà chỉ đến lợi ích của cá nhân mình: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng” (Gr 23:2). Những lời này khuyến cáo mỗi người chúng ta, vì ai trong chúng ta cũng được xem là người mục tử, mỗi người trong chúng ta được Thiên Chúa trao cho anh chị em để chăm sóc. Nhưng nhiều lần, chúng ta chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân của mình mà không cộng tác với Đức Chúa để chăm sóc anh chị em mình. Hình ảnh Đức Chúa là mục tử nhân lành giúp chúng ta biết việc chúng ta phải làm, đó là: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:3-4). Những lời này chỉ ra vai trò chính yếu của người mục tử là trung tâm điểm của hiệp nhất, mang lại sức sống cho chiên của mình và nhất là tìm kiếm những con chiên đi lạc và bị bỏ rơi. Những nhiệm vụ này là một thách đố cho mỗi người chúng ta, vì thông thường ai trong chúng ta cũng chỉ muốn “ngồi mát ăn bát vàng,” hoặc là không muốn làm việc với những người khó tính khó nết. Hình ảnh Đức Chúa là mục tử nhân lành đưa chúng ta về lại với căn bản của tình yêu Kitô Giáo, đó là một tình yêu mang lại sự hiệp nhất, đoàn kết và sức sống cho mọi người.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2, trình bày sự tương phản giữa cuộc sống trước kia khi các tín hữu Êphêsô không có Đấng Kitô và sau khi có Ngài. Trước khi có Đấng Kitô, họ “không được hưởng quyền công dân Israel, xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này…. là những người ở xa” (Ep 2:12-13). Một cách cụ thể, Thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Êphêsô [chúng ta] những điều Chúa Giêsu đem lại cho những ai có Ngài trong cuộc đời: (1) “nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.” Nói một cách cụ thể, những người sống trong ân sủng của Thiên Chúa luôn cảm nghiệm được sự gần gũi của Thiên Chúa dù vẫn phải đối diện với những khó khăn thử thách như bao nhiêu người khác; (2) những người có Đấng Kitô là những chứng nhân của bình an và hiệp nhất vì họ nhận ra rằng chính Đấng Kitô là bình an của họ và Ngài cũng là Đấng đã “liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15); (3) những người có Đấng Kitô là những người được hoà giải với Thiên Chúa: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2:16). Suy niệm trên ba điểm này, chúng ta tự hỏi: Tôi có những điều này trong cuộc sống của tôi không? Ba điểm này được thể hiện cách cụ thể trong đời sống bình an và hợp nhất với hết mọi người của chúng ta trong lời nói cũng như trong việc làm.
Bài Tin Mừng hôm nay liên kết rất chặt chẽ với bài Tin Mừng ngày hôm qua. Chính vì vậy, ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay chỉ được hiểu khi chúng ta đặt nó vào trong cấu trúc: Sai đi – làm chứng – trở về kể lại với Chúa Giêsu những gì họ đã làm và dạy. Có bốn điểm chúng ta cần tập trung suy gẫm trong bài Tin Mừng hôm nay vì đây là điều chúng ta dễ dàng quên trong cuộc sống hằng ngày của mình.
Thứ nhất là “các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy” (Mc 6:31). Sau một ngày làm việc vất vả, chúng ta thường làm gì? Các môn đệ tụ họp chung quanh Chúa Giêsu để kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và đã dạy. Điều này không có gì sai. Tuy nhiên, khi làm như vậy, các môn đệ quên mất một khía cạnh quan trọng của người môn đệ, đó là, khía cạnh “ở với Chúa Giêsu”: “Ở với Chúa Giêsu là khía cạnh nền tảng và quyết định căn tính và sứ mạng của người môn đệ của Chúa Giêsu. Những môn đệ không ở với Chúa Giêsu sẽ không biết mình được sai đi làm gì. Họ chỉ làm những việc họ thích hơn là làm những việc họ được sai đi để làm. Thật vậy, chúng ta thường đánh giá người môn đệ dựa trên việc làm hơn là trên việc ở lại với Chúa. Thánh Máccô nói cho chúng ta điều này khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (Mc 3:14-15). Hãy “là môn đệ” của Chúa Giêsu” trước khi “làm tông đồ” của Ngài!
Thứ hai là việc Chúa Giêsu bảo các ông “hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút. Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (Mc 6:32). Trong điểm thứ nhất chúng ta thấy rằng, các môn đệ trở về và kể với Chúa Giêsu những “chiến tích của mình.” Nhưng họ quên một điều là khi họ được sai đi, Chúa Giêsu “ban cho họ quyền trên các thần ô uế” (Mc 6:7). Như vậy, những gì họ đã làm và dạy không phải do quyền lực hay khả năng của các ông, mà là của Chúa Giêsu. Chính vì vậy, “chiến tích” không thuộc về họ, mà thuộc về Chúa Giêsu. Khi mời gọi các ông tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, Chúa Giêsu muốn các ông trở về lại với con người thật của mình để khám phá ra sự thật là: “Không có Thầy, anh em sẽ không làm được gì” (Ga 15:5).
Thứ ba là thái độ của Chúa Giêsu như vị Mục Tử cao cả. Tình yêu của vị mục tử không bao giờ yên nghỉ khi còn có “tội nhân” cuối cùng chưa ăn năn trở lại. Dù bận rộn với công việc; dù cho “kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa” (Mc 6:31). Dù muốn nghỉ ngơi, nhưng khi “ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:34). Chúng ta thường phàn nàn rằng chúng ta làm quá nhiều việc đến độ không còn giờ cho chính mình, thì làm sao có giờ dành cho người khác. Nhiều khi chúng ta nổi giận hoặc không muốn làm gì khi mệt mỏi. Nhìn vào gương Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải tự vấn chính mình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ mệt mỏi khi làm điều tốt cho người khác, ngay cả khi “chẳng có giờ để ăn uống.” Khi làm việc với niềm vui và con tim của Chúa, chúng ta sẽ không còn để ý đến gánh nặng của công việc mà chỉ còn để ý đến niềm vui và hạnh phúc của những người khác. Đây chính là điều giúp chúng ta không thấy mệt mỏi khi làm việc tốt cho người khác.
Điểm cuối cùng làm chúng ta lưu ý là câu mở đầu và câu kết của Tin Mừng hôm nay. Câu mở đầu nói về việc các môn đệ trở về và tường thuật lại việc họ đã làm và đã dạy và câu kết nói đến việc Chúa Giêsu dạy dỗ họ [bao gồm nhóm 12]. Như chúng ta đã biết, đây là lối viết “bánh mì kẹp” của Máccô: Mở đầu và kết thúc cùng một đề tài là “dạy dỗ,” chỉ khác nhau về “người dạy.” Trong câu mở đầu, các môn đệ dạy; còn trong câu kết, Chúa Giêsu dạy. Tuy nhiên, như chúng ta đã trình bày, các môn đệ “dạy với quyền năng của Chúa Giêsu.” Chính vì lý do này, cuối cùng chỉ có một thầy dạy, đó là Chúa Giêsu. Điều này nhắc nhở chúng ta về việc phải luôn có “thái độ của một người học trò” trong mọi công việc của chúng ta, vì qua công việc của chúng ta, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta về thánh ý của Ngài.
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Sau một chuyến đi thực tập truyền giáo, các tông đồ trở về tụ họp chung quanh Đức Giêsu. Các ông hồ hởi kể lại những điều các ông đã làm và đã dạy. Với con tim mục tử, Chúa Giêsu quan tâm đến con người hơn công việc. Ngài biết các ông rất vui nhưng cũng đã mệt, nên dịu dàng nhủ bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ðức Giêsu muốn các ông tạm dừng lại công việc, để có đôi chút nghỉ ngơi cho thân xác, đôi chút yên tĩnh cho tâm hồn, để hưởng nếm những giây phút thư thái và ấm áp trong tình nghĩa thầy trò, để có thêm năng lực và sự hăng hái cho ngày mai.
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng gia tăng. Nguyên nhân chính do là áp lực của công việc, lúc nào người ta cũng phải lo toan tính toán để đạt mục tiêu, đạt kế hoạch… Áp lực công việc gắn liền với những nỗi lo sợ khác: sợ thất bại, sợ thua lỗ, sợ mất danh giá, sợ bị khiển trách, sợ mất việc… Ngoài những nỗi lo sợ đó còn là những ham mê lợi lộc và ham muốn trổi vượt. Tâm trạng đó khiến người ta không dám nghỉ ngơi, cứ phải làm việc liên tục, khiến sức khỏe mau suy kiệt, trí não suy thoái, tinh thần suy giảm, và nhiều thứ suy nhược khác. Hoặc nghỉ ngơi bằng cách tìm đến những cuộc vui chơi, tổ chức ăn uống, hưởng lạc… Làm thế càng mệt mỏi, căng thẳng và tai hại hơn.
Chúng ta cần một chút yên tĩnh mỗi ngày để nghỉ ngơi thật sự, để tìm lại một cõi riêng tư của tâm hồn mình, để trở lại chỗ sâu nhất của lòng mình, để phục hồi và gia tăng sức sống. Cần tìm một chỗ thật yên tĩnh để tôi có thể ngồi lại với tôi, ngồi lại với Chúa, nhất là mỗi tối khi đêm về, mỗi sáng sớm trước khi đi vào ngày sống. Thứ yên tĩnh ta cần là thứ yên tĩnh bên trong, không còn bồn chồn, lo lắng, xôn xao; thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào của tình Chúa tình người.
Khi thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng, thì không ngờ dân chúng đã kéo nhau đến trước nơi mà các ngài định đến. Nhìn thấy đám đông như đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, khiến Chúa Giêsu cảm động tận cõi lòng. Vì yêu thương nên Ngài đã nhủ bảo họ nhiều điều. Dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ, vì quá khô khan và nặng hình thức, nay gặp thấy Tin Mừng của Chúa vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình thương nên họ say sưa đón nhận.
Cho dù đang sống giữa một thế giới đầy những lôi cuốn của danh, lợi, thú, con người vẫn cảm thấy cô đơn trống vắng và bơ vơ lạc loài. Bên trong sâu thẳm của lòng người vẫn còn một khao khát vô biên mà không có gì có thể lấp đầy ngoài một mình Thiên Chúa. Chỉ khi trở về trong sự yên tĩnh của lòng mình, người ta mới cảm thấy sự khao khát đó dâng lên. Augustinô sau một thời gian chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc, rồi cũng đến lúc chán chường. Một hôm anh chàng cầm theo một quyển sách vào trong khu vườn vắng vẻ, chẳng để ý là sách gì. Đột nhiên, anh nghe vang lên tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc”. Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc thấy ngay câu:“Hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa.” (Gl 5, 16). Câu nói ấy đã khởi đầu cho một cuộc sống mới của thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Ước chi các bạn trẻ tìm được cho mình những giây phút yên tĩnh, để từ đó được khơi dậy ước muốn gặp gỡ Chúa Giêsu và khao khát lắng nghe Lời Ngài, nhất là cảm nhận được tình thương Chúa dành rất riêng biệt cho đời mình. Nhờ vậy mà các bạn lấy lại niềm tin, tìm được hướng sống, đồng thời nhận ra vai trò và sứ mạng của mình trong cuộc sống hôm nay. Mỗi ngày cần có những giây phút kề cận bên Chúa, cần tận dụng mọi cơ hội để sống với Chúa một cách thân tình hơn. Ta phải gặp được Chúa từ chính tâm hồn mình, nếu không, có thể mọi việc sẽ trở thành vô nghĩa, cuộc sống sẽ trở nên vô vị, mọi nỗ lực và giải pháp hóa ra vô ích. Gần gũi với Chúa Giêsu, ta trở thành một Giêsu khác cho anh chị em mình, để đem lại an bình và sức sống cho nhau, nhất là an ủi và nâng đỡ những ai đang bơ vơ vất vưởng trên đường đời.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Cuộc sống con vẫn ồn ào náo nhiệt,
con vẫn bị mê hoặc bởi cái “tôi”,
với những sục sôi nhiều ham muốn.
Con cần trở về trong thinh lặng,
để sống với Chúa trong yên bình,
để thấy rõ chính mình trong yên tĩnh.
Thiếu thinh lặng để gặp Chúa,
tâm con sẽ bồn chồn manh động,
và bung xung theo những thói thị phi.
Thiếu yên lặng để nghe Chúa,
con sẽ bị cuốn theo phù du thế tục,
cũng ham mê những điều phàm tục.
Thiếu trầm lặng để nghỉ ngơi bên Chúa,
con sẽ sống như bao người đang sống,
dễ vong thân xa lạc với chính mình.
Thiếu tĩnh lặng để kín múc thần lực,
con sẽ như muối không còn mặn,
như men không còn nồng,
như hạt giống vẫn trơ trơ.
Thiếu bình lặng để quy hướng về Chúa,
con sẽ luôn hối hả và đon đả,
lo chạy tìm những cái trong thiên hạ,
cứ ngỡ là vinh hoa, ai ngờ bả phù hoa.
Xin cho con biết quí chuộng thinh lặng,
là sự đều đặn mỗi ngày kề bên Chúa,
đem lại cho đời con sức sống mới,
để thể hiện tình thương với mọi người.
nhất là nghững người đang khốn khó.
Con phải làm gì đó cho họ,
dù không to nhưng thật lòng biết chăm lo,
biết sớt chia những gì mình đang có,
là món quà nho nhỏ con cho Chúa mỗi ngày. Amen.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nhiều người nói rằng: “Dịch bệnh phải ở nhà chán quá!”. Nhưng đại đa số lại vui mừng vì đây là cơ hội để gia đình gắn kết với nhau, hiểu nhau hơn và chia sẻ công việc với nhau.
Lâu nay người ta coi ngôi nhà như là quán trọ. Quán trọ nghỉ qua đêm hay chỉ ngủ tạm chờ giờ tăng ca. . . Thời gian và công việc vất vả khiến chẳng còn hơi sức hay thời gian quan tâm chăm sóc cho nhau. Mạnh ai nấy sống. Việc ai nấy làm.
Giờ đây, họ có thể cùng làm việc chung với nhau dọn dẹp nhà cửa, cùng nấu ăn, cùng dọn và còn nhiều thời gian hỏi han chia sẻ với nhau.
Đó cũng là lý do nhiều người đang ở giữa tâm dịch nên không được về quê mới thấy nhớ nhà biết bao! Nhiều bạn trẻ hay nhắc nhau câu nói cửa miệng của cha mẹ rằng: “Về nhà có cơm ăn cơm, có rau ăn rau”. Cha mẹ nào cũng sẵn lòng giang rộng đôi tay để mỗi khi cánh chim non lỡ chẳng may gặp khó khăn trên đường đời có phương hướng, có nơi để quay về. Cửa nhà và vòng tay cha mẹ luôn rộng mở là thế.
Bởi dịch Vũ Hán, không còn những cuộc giã ngoại vui chơi hay những lúc ngồi “đồng” bên ly cà phê, những buổi chiều lai rai cùng chúng bạn… nhưng lại là cơ hội thần tiên cho gia đình sum vầy, để qua đó, mỗi người sẽ biết trân quý hơn cuộc sống hiện tại, với những bình yên đang có. Đơn sơ như việc bố mẹ mình còn khỏe. Mẹ mình còn nấu cơm chờ mình mỗi tối đi làm về hay chỉ như một lời nhắc của mẹ: “Nhớ ghép mùng kỹ không muỗi nghe con…”.
Và có lẽ, đây cũng là dịp để chúng ta biết sống chậm, lắng đọng hơn, bình tâm lại… để tình cảm từ đó có dịp chan hòa với những người thân trong gia đình. Sống hun đúc tình thân để mãi gắn kết với nhau và xác tín hơn về gia đình, về một tình yêu chân thành, một động lực cho cuộc sống mà ai cũng cần có để lớn lên thành người.
Bên cạnh tình cảm gia đình mà chúng ta cần hun đúc lại, còn có một mối dây thân tình hơn mà có lẽ lâu nay chúng ta cũng đang sống vội đến nỗi vội đến, vội đi. Đó chính là thời gian riêng tư của chúng ta với Chúa. Một mình ta, một mình Chúa hình như lâu nay không có thời gian, có chăng những cuộc gặp gỡ cũng chóng vánh và không trọn vẹn, vì bản thân chúng ta còn qúa nhiều những bận tâm khác.
Tin mừng hôm nay kể rằng: sau khi các tông đồ ra đi truyền giáo và nay trở về tường trình lại những việc đã làm, Chúa Giê-su đã bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Bởi vì lúc đó người ra kẻ vào rất đông, dân chúng cứ ùn ùn kéo tới nên Chúa Giê-su đã nói với các Tông đồ: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Và rồi, các ngài đã lên thuyền cùng đi với Chúa để tìm một nơi riêng tư cho tình thầy trò.
Cuộc sống của người tín hữu là sống và làm theo thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa thể hiện trong từng công việc, trong từng biến cố xảy ra. Thánh ý Chúa nói qua Lời Chúa và nhất là qua đời sống cầu nguyện riêng tư một mình ta với Chúa. Khi còn một mình ta với Chúa ta mới thấy Chúa đang nói với ta, Chúa đang kêu mời ta dấn thân hay đón nhận những chuyện đang xảy ra.
Như vậy, chúng ta chỉ có thể đón nhận thánh ý Chúa khi chúng ta dành thời gian riêng tư với Chúa, đồng thời, phải trở về với Chúa thì chúng ta sẽ được Chúa bao bọc, nâng đỡ, chở che và giúp sức cho chúng ta vượt qua. Trở về với Chúa ta sẽ thêm sức mạng để đón nhận mọi sóng gió trong cuộc đời.
Như người con trở về với mái ấm gia đình mới cảm nhận được sự bình yên ấm áp trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Xin cho chúng ta đang sống trong môi trường dịch bệnh đầy lo âu, hãy biết tận dụng thời gian này để ở bên Chúa, để cầu nguyện với Chúa, để qua đó ta tìm được giây phút bình an được ở bên nhà Chúa, dầu ngoài kia còn đầy những sóng gió nghi nan nhưng ở bên Chúa ta sẽ mãi mãi bình an, và nhất là sẽ được thêm sức mạnh của Chúa giúp vượt qua.
Xin cho mỗi người chúng ta nhận ra đây là thời gian hồng ân được ở bên gia đình và ở bên Chúa nhờ đó chúng ta được tận hưởng giây phút yên bình bên gia đình và bên lòng Chúa xót thương. Amen
Lm Vũđình Tường
Nghỉ ngơi không phải là xa xỉ, vô bổ, phí thời gian, mà chính là nhu cầu cần thiết cho cơ thể con người. Nghỉ ngơi cho cơ thể lại sức, tốt cho sức khỏe và là thời gian cần thiết cho cơ thể xả độc tố trong người. Cơ thể làm việc tái tạo đó trong lúc chúng ta nghỉ xả hơi, và ngay cả trong lúc chúng ta ngủ.
Cuộc sống tâm linh cũng cần nghỉ ngơi. Khác với cơ thể, lúc tâm linh nghỉ ngơi chính là lúc tâm linh liên kết với tình yêu Chúa. Tự tâm linh không thể tái tạo tình yêu mà tâm linh nhận tình yêu từ Thiên Chúa. Vì thế tâm linh nghỉ chính là lúc tâm linh liên kết với Thiên Chúa. Liên kết với Thiên Chúa qua cầu nguyện. Nhờ vào tình yêu Chúa mà tâm linh bài trừ được các dịp tội, đủ sức mạnh chống lại cám dỗ, sửa sai, chỉnh đốn lại con đường tâm linh.
Cách đẹp nhất cho một ngày là bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Cảm tạ Chúa cho một đêm ngủ yên lành và phó dâng ngày mới cho Thiên Chúa. Xin Chúa cùng đồng hành với ta trong cuộc sống, hướng dẫn tư tưởng, hành động để ta sống, sinh hoạt, làm đẹp lòng Chúa. Cuối ngày làm việc, cần nhìn lại. Xét mình xem ta liên kết với Chúa, với tha nhân ra sao?. Lần này chúng ta không xin ơn gì ngoài ơn thinh lặng. Xin cho tâm hồn lắng đọng để nhìn lại sự việc trong ngày. Nhìn đến mối giây liên kết giữa ta với Chúa, giữa ta với tha nhân. Trước khi ngủ dâng trọn đêm cho Chúa coi sóc, bảo vệ.
Môn đệ Đức Kitô luôn liên tưởng đến hướng dẫn Đức Kitô dặn các ông. Các ông tin tưởng, trung thành với giáo huấn Đức Kitô. Dù Đức Kitô không hiện diện bằng xương thịt, các ông không nhìn thấy Ngài, nhưng các ông tin Ngài hiện diện cách vô hình giữa các ông. Điều này ban cho các ông tâm hồn bình an. Các ông nhận biết Thánh Thần Chúa hoạt động trong đời sống các ông và trong đời sống những ai thành tâm đón nhận lời các ông rao giảng.
Trở về từ cánh đồng truyền giáo, các ông rất mệt nhưng đồng thời rất vui. Vui vì gặp lại Thầy Chí Thánh, vui vì gặp lại các anh em, ai cũng mạnh khoẻ, vui vì công việc truyền giáo thành công rực rỡ. Đức Kitô biết các ông rất mệt, nên Ngài khuyên các ông đi tìm vơi hoang vắng, nghỉ ngơi, lại sức.
Các ông xuống thuyền, đám đông đoán biết nơi các ông sẽ đến, họ đi bộ tới trước các ông. Tông đồ đi thuyền đến chậm có lẽ do mệt mỏi và đói khát làm chuyến hải hành chậm chạp. Đến nơi Thầy trò thấy đám đông dân chúng chờ sẵn trên bờ. Đám đông chào đón Thầy trò cho biết họ có cảm tình nồng hậu với các ông. Đám đông yêu quí các ngài và các ngài yêu mến đám đông. Họ muốn nghe thêm các ông giảng dậy. Phục vụ tha nhân đòi hỏi tinh thần cởi mở, mềm dẻo và uyển chuyển khi cần. Nhiều khi phải đặt thứ tự ưu tiên phục vụ tha nhân trên nhu cầu riêng của cá nhân. Đây chính là một phần của việc tông đồ.
Đức Kitô tỏ lòng thương xót đám đông vì ‘họ như những chiên không chủ chăn’. c.34.
Ngài giảng dậy họ bởi tâm tư Ngài rất yêu mến những ai thành tâm, cởi mở, rộng lòng đón nhận Lời Chúa.
Chúng ta nhận biết Đức Kitô bởi chính Ngài tỏ lòng thương đến chúng ta, và chúng ta chân thành đáp lại lời Ngài mời gọi trở thành con cái Chúa. Chúng ta học từ Đức Trinh Nữ Maria thưa ‘xin vâng’, trung thành bước theo Chúa.
Bông hồng nhỏ
Hôm nay, các tông đồ trở về bên Thầy Giêsu và kể cho Người nghe về hành trình ra đi rao giảng Tin Mừng. Thầy lắng nghe từng người trong các ông thuật lại mọi điều các ông đã dạy, mọi việc các ông đã làm. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).
Thánh sử Máccô cho ta thấy, các tông đồ đã rất bận rộn, đến cả việc ăn uống cũng không có thời gian, vì kẻ lui người tới quá đông. Dù trong lòng rất phấn khởi vì đạt được những thành công ban đầu nhưng các ông đều đã thấm mệt. Thầy trò cùng nhau lên thuyền lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Các ông được Thầy quan tâm săn sóc, cùng nhau tìm nơi thanh vắng để lấy lại sức. “Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài” (Mc 6, 33). Thầy trò đã lên thuyền mà người ta vẫn tìm mọi cách để đi theo, dù phải chạy bộ đến mệt lả. Nhìn đám đông dân chúng kéo nhau đi tìm Thầy Giêsu, lòng ta cũng được thôi thúc tìm về bên Người. Lòng yêu mến Chúa thật tâm sẽ giúp ta vượt qua mọi khó khăn.
“Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6, 34). Dù đã lên chương trình để Thầy trò có thời gian riêng để nghỉ ngơi nhưng vừa nhìn thấy đám đông dân chúng, Thầy Giêsu đã không thể cầm lòng. Người là mục tử nhân lành luôn yêu thương, trái tim Người luôn thổn thức và lo lắng cho từng người. Hiểu được lòng mọi người đang khao khát được nghe những lời giảng dạy, Người dạy dỗ họ nhiều điều. Các môn đệ cũng được mời gọi cộng tác với Thầy trong sứ vụ. Một tình yêu được đong đầy trong trái tim sẽ phải tràn ra để trao ban cho người khác bằng hành động. Yêu thương ai, ta cũng được mời gọi quên mình đi như thế. Có nhiều lúc, ta sốt sắng cầu nguyện, chuyện trò bên Chúa Giêsu Thánh Thể, ta thấy lòng bình an và ngập tràn niềm vui. Khi đứng trước một người đang cần ta giúp đỡ, dù lúc ấy ta có giờ cầu nguyện riêng, ta có vui vẻ để giúp người anh chị em của ta không? Ta có nhận ra cơ hội để trở nên một người Samari nhân hậu ngay lúc ấy không hay ta chỉ muốn nghĩ cho mình, rằng bản thân tôi đang cần được nghỉ ngơi, cần phải cầu nguyện đủ giờ? Nếu không sống từng giây phút đời mình với một con tim tràn đầy tình yêu và biết mở ra với người khác, liệu ta có đến và ở lại với Chúa thật sự không? Ta không chỉ đi vào tương quan với Thiên Chúa bằng việc cầu nguyện nhưng còn phải cùng với Người đến với anh em. Mỗi lần ta để cho Chúa hành động trong ta ngay trong chính những giây phút của ngày sống, đời ta sẽ tràn đầy tình yêu, trái tim và trí tuệ của ta dần được uốn nắm để nên giống Chúa nhiều hơn.
Lạy Chúa Giêsu! Bài học Chúa dạy con thật cụ thể và mạnh mẽ. Chúa lên tiếng mời gọi con hãy yêu thương từ trái tim và biết làm theo sự thôi thúc mãnh liệt của con tim. Chính Chúa đã yêu thương con và dạy dỗ con, chăm sóc và bảo vệ con. Mỗi lần con rước Chúa, xin hãy mở trái tim con để con biết chạnh lòng thật sự, xin thanh luyện tâm trí con để con biết hành động như Chúa: yêu thương đến quên đi chính bản thân mình, coi người khác trọng hơn mình. Chính lúc con yêu thương, con mới trở nên người môn đệ của Chúa. Amen.
Thiên San
Sau khi nghe các học trò hăm hở kể về những thành công của mình trong công việc tông đồ, Đức Giêsu ôn tồn mời gọi các môn đệ yêu quý của mình: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Thầy trò cùng nhau lên thuyền, đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng để nghỉ ngơi. Quả thực, kẻ lui người tới quá đông nên các ngài không còn thời gian ăn uống. Mọi người thấy Thầy trò ra đi thì hiểu ý nên từ khắp các thành, họ theo đường bộ chạy đến trước cả các ngài. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương. Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (x Mc 6, 30- 34).
Chúng ta hãy tưởng tượng cảnh đám đông dân chúng lũ lượt chạy đến với Chúa. Họ chạy. Có thể họ sợ mất dấu của Người. Trong cuộc sống, đã bao giờ chúng ta sợ mất dấu của Chúa không? Nếu chúng ta không tìm kiếm Chúa, không đến với Người nhưng để cho bao đam mê kéo ghì mình xuống và đánh mất cảm thức về tội, thì chúng ta sẽ mất dấu của Chúa dù Người vẫn đồng hành cùng chúng ta. Con người luôn có những nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần. Thầy Giêsu và các môn đệ cũng vậy. Các ngài có nhu cầu nghỉ ngơi, cầu nguyện cùng Chúa Cha sau những ngày làm việc vất vả. Đã đến lúc các ngài cần quan tâm, dành một chút thời gian cho bản thân. Đám đông dân chúng cần đến Thầy Giêsu và các môn đệ. Họ cần được quan tâm, được trừ quỷ, chữa lành, và được giảng dạy. Dường như nhu cầu của ai cũng cần thiết và quan trọng. Trong cuộc sống, có thể có những lúc chúng ta sẽ chọn cách thỏa mãn nhu cầu của bản thân, của nhóm mình hơn là nghĩ đến nhu cầu của người bên cạnh. Đức Giêsu là mục tử đích thực khi Ngài chạnh lòng thương lo cho đám đông dân chúng khi họ chạy đến với mình. Các môn đệ cũng theo Thầy mà làm như vậy.
Đối với Thầy trò Đức Giêsu, lúc này, các ngài không còn nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, để nghĩ đến mình nữa nhưng là một con tim mở rộng đến với mọi người. Không ai trong các môn đệ hỏi Thầy về chuyện “nghỉ ngơi đôi chút”. Thực ra ban đầu, không phải tất cả các môn đệ đều cảm thấy dễ chịu khi nhìn thấy đám đông dân chúng. Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy thánh sử Máccô còn kể cho chúng ta về phản ứng của các môn đệ khi Thầy Giêsu yêu cầu các ông: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6,37). Các ông trả lời: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” (Mc 6,37). Trong hoàn cảnh đó, có thể chúng ta cũng sẽ có những phản ứng như các môn đệ. Thầy bảo chúng con đi nghỉ ngơi đôi chút nhưng sao bây giờ chúng con lại phải lo cho đám dân này? Sau đó, các ông cộng tác với Thầy để lo cho đám đông dân chúng.
Cơn đại dịch Covid không những không kết thúc mà ngày càng lan rộng. Cuộc sống của chúng ta bị đảo lộn. Ngay cả những nhu cầu về lương thực thực phẩm của chúng ta cũng bị giới hạn. Không phải chúng ta không có tiền để mua những nhu yếu phẩm ấy nhưng vì nhiều lý do như giãn cách xã hội, không có thực phẩm để mua bán… Trong hoàn cảnh đó, khi “lướt” trên những trang mạng, chúng ta không khỏi cảm động khi bắt gặp những hình ảnh của các y bác sĩ, các nhân viên y tế, của các tình nguyện viên và của biết bao tấm lòng đẹp mỗi ngày đang gồng mình và có khi kiệt sức để lo cho các bệnh nhân, cho mọi người đang cần được giúp đỡ. Vẫn còn đó những con người biết quên mình để lo cho người khác. Thiết nghĩ, họ là những Giêsu hữu của ngày hôm nay. Có thể có những người trong số họ chưa được rửa tội nhưng lối sống của họ cách nào đó phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu. Họ cần được nghỉ ngơi đôi chút nhưng khi thấy đám đông dân chúng đang quằn quại trong dịch bệnh, họ đứng lên và tiếp tục phục vụ đến quên mình.
Lạy Chúa! Chúng con cám ơn Chúa đã luôn đồng hành cùng chúng con. Xin Chúa đoái thương nhìn đến nhân loại chúng con đang trong cơn khủng hoảng của dịch bệnh. Xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng con để dù trong những khó khăn thử thách, chúng con luôn biết sống yêu thương, quên mình, biết nghĩ đến người khác. Để chúng con cùng dìu dắt nhau bước qua mọi khó khăn thử thách trong niềm tin trong vào Chúa. Amen.
ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG LUÔN CHẠNH LÒNG THƯƠNG
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
Lúc này đây, trên toàn thế giới, nhất là tại Việt Nam, mọi người đang phải oằn mình và mệt mỏi để chống chọi với Đại Dịch Vũ Hán. Tình hình diễn biến Đại dịch ngày càng gia tăng con số nhiễm bệnh và tử vong. Điều này làm cho con người không những thiếu thốn đủ mọi thứ: ngoài việc phải ngưng nghỉ công việc, nhu yếu phẩm ít ỏi, bệnh viện hết chỗ cho các bệnh nhân F0, lương thực thực phẩm sẽ thiếu hụt trong nay mai,…mà mỗi người đang phải sống trong trạng huống hoang mang, lo sợ, chán nản và mất hết tinh thần. Trong bối cảnh này, là người tín hữu, chúng ta chỉ biết chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa để xin Ngài thương đến nhân loại, nhất là những nơi đang bị dịch bệnh hoành hành và nếu đẹp ý Ngài, xin Ngài mau chấm dứt cơn Đại dịch gớm giếc này hầu mọi người trở lại cuộc sống bình an và hạnh phúc. Trong nhãn quan đức tin, chúng ta tin rằng hơn bao giờ hết Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô cũng đang nhìn thấy cảnh lầm than khốn khổ của con người và Ngài cũng đang chạnh lòng thương tới hết thảy chúng sinh. Chúa nhật 16 thường niên B hôm nay như lời trấn an cho mỗi chúng ta đang sống trong bối cảnh này. Chính Đức Giê-su đã chạnh lòng thương khi thấy dân chúng đông đúc như đàn chiên không có người chăm sóc. Hôm nay, Ngài cũng đang chạnh lòng thương mỗi chúng ta khi chúng ta đang đối diện với gian nan khốn khổ bởi Đại dịch Covid-19 này.
Quả thật, Thiên Chúa là tình yêu. Là Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, Ngài luôn mong muốn cho con người được sống và được hạnh phúc luôn mãi. Nên, Ngài đã có nhiều phương cách để giúp con người đạt tới ơn cứu độ, qua việc dùng các trung gian đến an ủi, chăm sóc, và nâng đỡ con người khi con người gặp tai ương hoạn nạn. Ngài là Mục tử nhân lành luôn mong cho đàn chiên của mình luôn được ấm no và đông đủ. Nơi Bài đọc I đã minh định điều đó: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng.” (Gr 23, 3-4). Chính Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su đã thi thố tình yêu kỳ diệu của Ngài trên dân Ngài. Thiên Chúa vô hình được hiện diện hữu hình nơi Ngôi Lời Nhập Thể để chạnh lòng thương trong mọi hoàn cảnh và đối với tất cả mọi người. Ngài gặp người mù, người mù được sáng vì Ngài yêu thương. Ngài gặp kẻ bại liệt, kẻ ấy liền đứng dậy vác chọng mà đi nhờ quyền năng yêu thương của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su. Ngài gặp người phong cùi, vì yêu thương, Ngài không xa lánh nhưng gần gũi và đụng chạm lấy anh ta, cuối cùng anh ấy được khỏi bệnh. Ngài yêu thương người cha của đứa con gái vừa mới chết và xác nhận niềm tin chắc chắn của người cha để rồi đứa con được cứu sống. Vì tin vào quyền năng của Đức Giê-su và tình yêu chữa lành của Thiên Chúa, người đàn bà bị băng huyết 12 năm đã được khỏi bệnh.
Hơn nữa, chạnh lòng thương nơi Đức Giê-su khi Ngài thực sự nhìn thấy đám đông như bầy chiên không người chăm sóc. (Mc 6, 34). Sự lưu tâm và để ý đến thân phận con người, vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Không thể không chạnh lòng thương đối với con người được, vì bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Mà vì yêu nên “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Một khi đã được ban cho con người vì tình yêu, Đức Giê-su không thể không thực thi tình yêu, không thể không chạnh lòng thương đối với con người. Vì thế, nhìn thấy con người gặp đau khổ và gian nan, là đương nhiên Đức Giê-su phải biểu lộ sự cảm thông và sự quan tâm ngay mà không chần chừ và lưỡng lự.
Đặc biệt đối với những kẻ bé mọn, những kẻ khiêm nhường, những kẻ nghèo đói, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị loại ra khỏi lề xã hội, những người tội lỗi, Chúa Giêsu càng phải chạnh lòng thương họ hơn bao giờ hết. Vì Ngài đã phán: “Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn.”(Lc 5,32). Ngài chạnh lòng thương khi thấy họ vất vả, mang gắng nặng nề. Ngài chạnh lòng thương họ khi mời họ hãy mang lấy ách của Ngài và hãy học lấy sự hiền lành cũng như sự khiêm nhường của Ngài. (x. Mt 11,28-30). Ngài chạnh lòng thương khi dân chúng sai đường lạc lối và mong muốn họ hãy đi theo Ngài vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. (x.Ga 14,6). Ngài chạnh lòng thương khi thấy các môn đệ buồn bã, thất vọng sau khi mất Thầy, Ngài đến đồng hành, an ủi, trấn an, giải thích Lời Chúa và cùng bẻ bánh với họ. (x.Lc 24,13-35). Ngài chạnh lòng thương các môn đệ khi các ông vất vả cả đêm mà không bắt được con cá nào và Ngài đã cho thu được những mẻ cá lạ lùng. (x.Lc 5,1-11). Ngài chạnh lòng thương khi các môn đệ phải đi ngược gió khi lái thuyền và Ngài đã làm cho gió yên biển lặng. (x.Mt 8,23-27). Ngài chạnh lòng thương khi các môn đệ bỏ thầy mà đi khi thầy bị bắt. Ngài chạnh lòng thương đối với Phêrô, khi chối thầy ba lần và ánh mắt nhân từ cũng như tha thứ của Ngài đã làm cho Phêrô khóc lóc ăn năn. (x.Lc 23,61-62)
Ngoài ra, Đức Giê-su còn chạnh lòng thương đối với những thành đã được nghe lời giảng cũng như chứng kiến các phép lạ mà không chịu ăn năn hối cải.(x.Mt 11,20-24). Ngài chạnh lòng thương đối với dân làng, quê hương khi không đón nhận Ngài.(x.Lc 4,24-30). Ngài chạnh lòng thương đối với những người cứng đầu cứng cổ không chịu tin vào Ngài. Ngài chạnh lòng thương và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài. (x.Lc 23,34) Ngài chạnh lòng thương khi trao ban Đức Mẹ cho thánh Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ.(x.Ga 19,25-27). Ngài chạnh lòng thương đối với nhân loại khi sẵn sàng chịu chết trên cây Thập giá. (x.Mt 26,36-46). Ngài chạnh lòng thương khi trao ban Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ cho nhân loại. (x.Ga 14,15-21). Ngài chạnh lòng thương khi trao Mình Máu của Ngài cho con người để con người được sống đời đời. (x.Ga 6,41-51). Ngài chạnh lòng thương nên không muốn cho nhân loại mồ côi. Ngài chạnh lòng thương nên Ngài sẵn sàng dạy dỗ họ trong mọi nơi mọi lúc. Ngài chạnh lòng thương nên Ngài không nghĩ cho riêng mình nhưng trao ban tất cả cho muôn người.
Thật vậy, thay vì tìm nơi để Thầy trò nghỉ ngơi nhưng không, vì thương đám đông như đoàn chiên không người chăn dắt nên Thầy trò lại tiếp tục giảng dạy Lời Chúa cho họ. (x.Mc 6,34). Họ tìm đến với Chúa Giê-su vì họ đang khát Lời Chúa và sự bình an. Tình yêu nơi Thầy Giê-su không ngưng nghỉ nhưng là luôn luôn sẵn sàng trao ban ở mọi nơi mọi lúc miễn sao cho con người được sống và sống dồi dào.(x.Ga 10,10). Ngài chạnh lòng thương khi biết nối kết sự hiệp nhất như Thánh Phaolô đã khẳng định trong Bài đọc 2: “Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét. Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét.” (Ep 2,14-16).
Quả thật, cho dù Đức Giê-su là hình ảnh chạnh lòng thương của Thiên Chúa ở với nhân loại, nhưng Ngài vẫn chờ đợi sự đáp trả của con người. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Ngài luôn chạnh lòng thương nhưng con người có đón nhận được hay không là tuỳ thuộc vào sự cộng tác của con người. Như dân chúng trong Tin mừng hôm nay đã tìm gặp Đức Giê-su bằng mọi cách mà không ngại khó ngại khổ, kết quả là họ đã được Đức Giê-su tiếp nhận và được lắng nghe những lời giảng dạy đầy bình an của Ngài. Như vậy, ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su chỉ đến được với con người khi con người khiêm tốn nhận ra sự thiếu thốn của mình và nỗ lực tìm kiếm. Tôi có thực sự được Chúa chạnh lòng thương không? Tôi đang ở trong tình trạng nào để đón nhận tình yêu của Thiên Chúa: khiêm tốn tìm gặp Chúa hay kiêu căng loại trừ Chúa ra khỏi cuộc đời?
Lm Trần Ngà
Chúng ta thử quan sát 2 nhóm người:
Nhóm thứ nhất gồm những người chỉ hấp thụ các loại thực phẩm vật chất như cơm bánh, rượu bia… mà không tiếp nhận lương thực tinh thần lành mạnh như sách báo tốt, những lời khuyên dạy khôn ngoan…
Nhóm thứ hai gồm những người thường xuyên hấp thụ lương thực tinh thần lành mạnh như là học hỏi điều hay điều tốt, trau dồi nhân đức và thực hành những giáo huấn của Chúa Giê-su và các bậc thánh hiền.
Kết quả là trong số những người thuộc nhóm người thứ nhất, vì chỉ hấp thụ lương thực vật chất mà không biết đến lương thực tinh thần lành mạnh, nên họ ứng xử như những người thiếu văn hóa, phẩm chất của họ xuống cấp, tư cách của họ sa sút… vì thế, họ thường bị người đời xem thường, khinh dể; còn nhóm thứ hai, nhờ hấp thụ lương thực tinh thần cao quý nên họ tạo cho mình tư cách đáng trọng, tác phong đáng nể và có nhiều phẩm chất cao đẹp được mọi người quý trọng và yêu thương.
Các loài thú chỉ cần thức ăn vật chất: trâu, bò, dê, cừu … chỉ cần ăn rơm, rạ, cỏ, lá; con heo cần cám; gà vịt chỉ cần bắp lúa là xong…
Trong khi đó, con người thì khác. Ngoài thực phẩm thông thường là cơm bánh, con người còn cần đến thức ăn thứ hai, rất cần thiết, rất quan trọng… Đó là những lời răn dạy khôn ngoan, những giáo huấn lành mạnh… có khả năng làm cho họ ngày càng văn minh, tiến bộ, tốt lành. Như thế, lương thực tinh thần lành mạnh là điều tối cần mà mỗi người phải tiếp nhận không thể bỏ qua.
Nếu con người chỉ dùng lương thực vật chất mà thôi thì con người không hơn gì thú vật và sẽ gây ra nhiều thảm họa cho thế giới.
Do đó, Chúa Giê-su dạy rằng: “Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bằng Lời Chúa nữa.[1]”
Chính vì thế, khi “Chúa Giê-su thấy một đám người rất đông tuôn đến với Ngài, thì Ngài chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” và Ngài tỏ lòng thương xót bằng cách “dạy dỗ họ nhiều điều.[2]”
Tiếc thay, nhiều người không màng đến lương thực tinh thần mà chỉ quan tâm đến lương thực vật chất. Nếu các nhà hảo tâm hoặc các tổ chức từ thiện phân phát cơm bánh, thực phẩm miễn phí mỗi ngày thì sẽ có rất đông người đến nhận, còn nếu chỉ trao tặng sách quý, báo chí lành mạnh, sách dạy làm người hay dạy sống đạo mà thôi… thì chỉ có ít người quan tâm.
Noi gương Chúa Giê-su, nếu chúng ta thực lòng yêu mến người khác, thì không chỉ giúp họ lương thực nuôi xác mà còn trao tặng cho họ lương thực nuôi hồn, đó là những lời khuyên dạy khôn ngoan, là những hướng dẫn đạo đức, là những gương lành việc tốt… vì đây là thứ làm cho họ trở nên những người có phẩm chất cao hơn, văn minh và tiến bộ hơn.
Cha mẹ thương con thì không chỉ lo cho con được no cơm, ấm áo… mà còn lo khuyên dạy con cái nên người trưởng thành, giúp cho con được học tập tốt và trau dồi nhân đức.
Bạn bè thương nhau thì không quên trao tặng cho nhau những lời khuyên mang lại lợi ích thiết thực, giúp nhau thăng tiến trên đường nhân đức.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con đừng mải mê kiếm tìm lương thực nuôi xác mà không dành thời giờ tìm kiếm lương thực nuôi hồn. Xin cho chúng con thường xuyên hấp thụ Lời Chúa là kho tàng lương thực tinh thần phong phú mang lại niềm vui, sự sống và hạnh phúc đời đời cho chúng con. Amen.
[1] Mát-thêu 4,4
[2] Mc 6,34
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng Chúa nhật tuần trước kể chuyện: Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Trang Tin Mừng hôm nay kể tiếp: các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Ngài chia sẻ niềm vui với các môn sinh và khuyên nhủ : “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Tập nói rồi bây giờ phải tập im lặng. Để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi. Đó là nhịp sống của Đức Giêsu từ ngày đầu ở Caphanaum (x.Mc 1,35-38).
- Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Chúa Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”, đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
- Môn đệ nghỉ ngơi bên Chúa
Thiên Chúa sau sáu ngày làm việc để tạo dựng trời đất và con người, ngày thứ bảy Ngài cũng nghỉ ngơi và còn “ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi việc sáng tạo”( St 2,3)
Con người làm việc để mưu sinh cho mình và mưu ích cho xã hội. Nghỉ ngơi là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống của mỗi người. Nhưng phải nghỉ ngơi như thế nào? Có phải là chè chén say sưa, là hưởng thụ cho thỏa thích?
Thấy các môn đệ vất vả mệt nhọc sau những ngày làm việc, Chúa Giêsu muốn cho các ông “nghỉ ngơi đôi chút”; và thế là “thầy trò đã xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng”. Nghỉ ngơi nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy gẫm, bồi bổ tâm hồn, bồi dưỡng thân xác.
Những giây phút bên Chúa giúp chúng ta trút bỏ những mệt mỏi và lo toan trong cuộc sống.Nghỉ ngơi bên Chúa để chúng ta biết vươn tới những giá trị cao cả, để khỏi bị cuốn theo dòng chảy của cuộc sống.Nghỉ ngơi bên Chúa để đón nhận được tình thương của Người vì có những giờ phút thinh lặng con người mới nhìn thấy được những sai lầm, thiếu sót của bản thân mình. Nghỉ ngơi bên Chúa như chiếc xe sau chặng mỗi chặng đường cần dừng lại để tiếp nhiên liệu.
Như Chúa Giêsu khuyên các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân thời nay cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh – ngưng nói, ngưng làm – để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc một hôm nay mà cảnh giác chăng (Gr 23,1-6)?
“Nghỉ ngơi bên Chúa”, qua lời khuyên ấy, Chúa cho chúng ta biết sự cần thiết và ích lợi của hồi tâm, thinh lặng suy nghĩ để tâm hồn bình an. Chúa Giêsu chính là sự bình an của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói về chân lý này trong bài đọc hai: “Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, khi biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không chỉ là sự nghỉ ngơi thân xác, mà còn là sự tĩnh lặng tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.
- Thinh lặng để sống nội tâm
Lắm khi trong cuộc sống xô bồ, bận rộn vì cơm áo gạo tiền, bận rộn trong việc đạo đức, lo tập hát, lo đoàn thể, lo các công việc bác ái, xã hội…chúng ta quên đi việc “nạp năng lượng” từ Thiên Chúa.
Ðời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Ðời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi. Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Sau một tuần lao động vất vả, chúng ta có ngày Chúa nhật để nghỉ ngơi thể xác và tâm hồn. Đến Nhà thờ để gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh lễ mà “nghỉ ngơi đôi chút”, đón nhận giáo huấn của Ngài, được “nâng đỡ bổ sức” cho năng lượng tâm linh một tuần lễ mới. “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Ngài thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi. Ngài hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Ngài lo bồi dưỡng” (Tv 22,1)
Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành 31-5-1998, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nhắc lại: Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’; Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa nhật là ngày của Đức Kitô, ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi sau những ngày giờ làm việc vất vả. Xin giúp thánh hoá công việc con làm và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen.
TÌM NƠI THANH VẮNG ĐỂ NGHỈ NGƠI
Lm Trần Bình Trọng
Thấy các tông đồ đầu tắt mặt tối: làm việc cũng như giảng dạy đến nỗi không còn thời giờ mà ăn uống, Ðức Giêsu mới bảo họ: Hãy vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi đôi chút (Mc 6:31). Rồi Người cùng với các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Ðể duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Ðức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi.
Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Ðức Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là Kitô giáo đã dùng ngày Chúa nhật để nghỉ ngơi, thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa thay vì ngày Thứ Bảy là ngày Sabát.
Có bao giờ ta cảm thấy dù bận rộn với công việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu, mà vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng chăng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Ðức Giêsu khuyên các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đời nay cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh – ngưng nói, ngưng làm – để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay mà cảnh giác chăng (Gr 23:1-6)?
Khi còn tại thế, Ðức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm (Ga 5:17), và còn cầu nguyện xin Thiên Chúa Cha thánh hoá họ và công việc làm của họ trong cả chương 17 của Phúc âm thánh Gioan. Sách Sáng thế có ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Thiên Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có cơm bánh mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, người ta cần làm việc để độ thân và hộ đỡ gia đình và xây dựng xã hội loài người. Tuy nhiên nếu lúc nào cũng làm việc và coi việc làm như cùng đích và cứu cánh là người ta đã bị sa vào thuyết duy vật. Duy vật chủ nghĩa coi con người là dụng cụ sản xuất và đánh giá con người tùy theo năng lượng sản xuất. Tại những xứ kĩ nghệ hoá và hậu kĩ nghệ, nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi như vậy, khiến người ta bị gò bó vào thời giờ làm việc tại văn phòng, nhà máy và công sở. Trong trường hợp đó người ta cần tìm ngày giờ khác nghỉ bù lại để có thể dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.
Nghỉ ngơi bao gồm cả việc đi nghỉ hè. Khi đi nghỉ hè, người tín hữu nên mời Chúa đi cùng với mình. Nói như vậy có nghĩa là trước khi đi nghè cần giàn xếp thế nào để Chúa nhật có thể dâng lễ thờ phượng. Có những người đạo đức còn làm hoà với Chúa qua Bí tích cáo giải nữa vì sợ xẩy ra tai nạn máy bay, tàu bè. Nghỉ ngơi còn gồm cả việc đi hành hương ở những nơi có ghi dấu thánh tích về cuộc đời Chúa Cứu thế để làm sống lại lời Chúa, hoặc đến thủ đô Giáo hội để làm tăng triển căn tính công giáo, hoặc những nơi Ðức Mẹ hiện ra để củng cố đức tin khi thấy khách hành hương bầy tỏ đức tin trong cách thế cầu nguyện xin ơn của họ. Nhận xét thấy nhiều bà mẹ Việt nam nhất là những bà ở miền quê sinh trước khi đất nước chia đôi năm 1954 và trước khi làn sóng di dư ra ngoại quốc năm 1975 thật vất vả, không dám ăn miếng ngon, nhưng để dành cho con cái như thi sĩ Tú Xương đã mô tả về bà xã ông như sau: Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Trong ý hướng ghi ơn bậc sinh thành và dưỡng dục, thì con cháu nên gom góp tiền để giúp bố mẹ, ông bà đi hành hương một vài lần cho biết đó biết đây. Có linh mục kia hướng dẫn nhóm hành hương nói với phái đoàn trên xe là hôm đó đến tiệm ăn tối, chủ tiệm sẽ cho uống rượu vang miễn phí, nên các bà cứ uống một chút cho đời nó lên hương. Chính Ðức Giêsu đã làm phép lạ biến nước thành rượu cho khách dự tiệc cưới Cana được tiếp tục vui vẻ đấy (Ga 2:1-11). Nghe vậy, có mấy bà ngồi trong xe được dịp phất cờ trong bụng. Kết quả là khi ăn uống xong, lên xe buýt, có bà đi lảo đảo, khiến mấy người trong nhóm phải dìu đi theo. Nhớ cả đời đấy!
Việc nghỉ ngơi để lấy lại sức còn bao gồm việc cầu nguyện và thờ phượng. Vào ngày lễ nghỉ, ta đến nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chúa nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Tới cuối tuần khác, khi kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và thiêng liêng.
Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành 31-5-1998, Ðức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’ trong chương một. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa là ngày của Ðức Kitô, ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Ðức Thánh cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.
Khi Ðức Giêsu và các tông đồ chèo thuyền vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, thì nhiều người hiểu ý nên chạy đến trước đón Người. Khi thấy đám đông, thì Chúa chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (Mc 6:34). Trong cánh đồng truyền giáo ta thấy có nhiều nơi thiếu chủ chăn, nên nhiều giáo sĩ phải bao thầu cáng đáng nhiều công việc đến nỗi không còn giờ nghỉ ngơi. Vậy thì ta cần cầu xin Chúa ban thêm nhiều mục tử để hướng dẫn và chăn dắt đoàn chiên (Gr 23:4) cũng như thợ gặt làm việc trong cánh đồng truyền giáo.
Lời cầu nguyện xin được đủ sức làm việc:
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ
về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi
sau những ngày giờ làm việc vất vả.
Xin giúp thánh hoá công việc con làm
và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi
hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả
và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa
để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen.
CHÚNG TA CŨNG CẦN VACCINE THIÊNG LIÊNG
Giuse Phạm Đình Ngọc
Thế giới thực sự mệt mỏi ròng rã gần hai năm trời với con virus Covid-19. Nó đã cướp đi biết bao sinh mạng, để lại hậu quả nặng nề trên mọi lãnh vực. Đây thực sự là cuộc khủng hoảng toàn cầu. Tạ ơn Thiên Chúa đã cho các nhà khoa học tìm ra được nhiều loại vaccine để chống lại con virus khủng khiếp này. Khi tiêm vaccine này, người ta hy vọng cuộc sống của con người sớm trở lại bình thường mới. Đó là giải pháp duy nhất trong lần đại dịch này.
Trong đời sống thiêng liêng thì sao? Nếu bệnh tật, tội lỗi và thế lực ma quỷ không mệt mỏi tấn công đời sống tâm linh của mỗi người, thì mỗi người chúng ta cũng cần được nhận “vaccine” để chống lại chúng. Vaccine này chúng ta tạm gọi là “vaccine thiêng liêng”. Khi được tiêm chủng vaccine Covid-19, cơ thể sẽ được cung cấp tế bào lympho T “ghi nhớ”, cũng như tế bào lympho B sẽ ghi nhớ cách chống lại virus Covid trong tương lai. Nhờ khả năng ghi nhớ này, nếu virus Covid xâm nhập vào cơ thể, hệ miễn dịch của chúng ta sẽ nhận ra và chống lại tác nhân gây bệnh nhanh chóng và hiệu quả để bảo vệ cơ thể. Cũng vậy, để chống lại mầm bệnh trong đời sống thiêng liêng, người ta cũng cần khả năng nhận diện và ghi nhớ để chống trả lại mưu mô của ma quỷ.
Thực ra bài Tin Mừng Chúa Nhật 16 thường niên hôm nay[1] có thể cho chúng ta những chỉ dẫn để nhận được vaccine thiêng liêng một cách hiệu quả. Vaccine này đòi người ta phải lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Đây không phải là cách ly hoặc giãn cách xã hội. Thay vào đó, khi một mình với sự thinh lặng, thư thái và nguyện cầu, tâm hồn người ta dễ gặp được Thiên Chúa hơn. Chính trong bầu không khí này, người cầu nguyện cũng nhận được những kinh nghiệm thiêng liêng quý giá. Từ kinh nghiệm thiêng liêng này, người ta có khả năng ghi nhớ những ân huệ Chúa ban, nhớ những bài học Chúa dạy để chống lại nhiều cám dỗ của phận người. Kinh nghiệm ấy thực sự là vũ khí mạnh mẽ để khi về lại với cuộc sống xô bồ, người ta biết cách để tâm hồn mình không mắc những thứ bệnh thường có, cũng dễ lây lan, chẳng hạn như: căng thẳng, lo âu, tức giận, sợ hãi, thất vọng, nóng nảy, kém tin, trầm cảm, cô đơn, vô vọng, v.v.
Cụ thể, chúng ta thấy bài Tin Mừng hôm nay kể về câu chuyện các môn đệ vất vả trở về sau nhiều ngày giúp đỡ người dân. Đức Giêsu rất tâm lý khi đề nghị họ nghỉ ngơi để lấy lại sức. Trong lúc nghỉ ngơi, họ có giờ để hồi tưởng lại những gì mình đã làm, đã dạy. Họ cũng có thể rút ra được những kinh nghiệm, bài học bổ ích cho những việc làm tiếp theo. Thế là họ lên đường từ bờ bên này của hồ Galilê sang bờ bên kia. Dân chúng thấy thầy trò lên đường, thì chạy dọc theo đường bộ để mong nhận được trợ giúp. Lý do là dân chúng rất háo hức được gặp thầy Giêsu và các môn đệ. Phải chăng họ đang cần một loại vaccine là Lời Chúa và sự yêu thương của Ngài? Dẫu sao chúng ta thấy họ chạy trước, đón đầu để mong gặp bằng được Đức Giêsu!
Vậy là con thuyền nhẹ nhàng tiến về phía bên kia bờ hồ. Đang định bước lên bờ tìm chỗ nghỉ ngơi, chính Đức Giêsu thấy đoàn người đông đảo đang chờ ở trên bờ. Lúc này Đức Giêsu chạnh lòng thương xót họ, nghĩa là Ngài xót xa trước nỗi bất hạnh của người ta, và chính Ngài muốn làm điều gì đó giúp họ. Thực vậy, những người trên kia đang bơ vơ, họ như bầy chiên không người chăm sóc. Câu chuyện Tin mừng cho thấy Đức Giêsu ở với họ trong nhiều giờ, giảng dạy cho họ nhiều điều, đưa vào tâm hồn họ những “vaccine” của sự sống, tình yêu và tình người. Dĩ nhiên, các môn đệ cũng ở lại chốn này. Dẫu sao nơi đâu có Đức Giêsu ở đấy cũng là chốn nghỉ ngơi an toàn và bổ ích.
Trở lại cuộc sống hiện nay, tiếc là rất nhiều người chưa để tâm đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa[2]. Thật thú vị khi Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chia sẻ rằng: “Khởi đầu cho cuộc sống Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố với một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và từ đó một định hướng dứt khoát.”[3] Nếu thiếu trải nghiệm gặp gỡ này, khi khủng hoảng hoặc cám dỗ đến, nhiều người không có “vaccine” của Chúa để chống lại. Vì lý do nào đó mà họ ngại ngùng không đón nhận tin Mừng, hững hờ với những bài học của Thiên Chúa. Tệ hơn, họ loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Khi những con virus của tội lỗi, của hận thù và sự chết ập đến, họ choáng váng không biết chống đỡ làm sao. Trong ý hướng này, thật tốt để chúng ta làm bạn với Thiên Chúa, cố gắng am tường những bài học và chỉ dẫn của Chúa. Từ đó, tâm hồn của người này có “hệ thống miễn dịch” tốt để nhận diện những nguy cơ nào gây tổn hại đến đời sống thiêng liêng. Nhờ vậy họ có khả năng chống lại chúng, nhờ ơn Thiên Chúa nữa.
Thử lấy một ví dụ cho những giải thích trên đây. Tôi nhớ khi làn sóng Virus lan nhanh trên toàn thế giới, rất nhiều người chạy đến với tôn giáo, với Thiên Chúa. Ai ai cũng cầu nguyện để Thiên Chúa cho đại dịch sớm qua đi. Về mặt tâm lý, rất nhiều người tìm được bình an nhờ vào cầu nguyện và chạy đến với Thiên Chúa. Họ lan tỏa bình an này cho người khác. Về mặt tâm linh, họ tin tưởng Thiên Chúa luôn quan phòng và luôn ở với con người, trong mọi hoàn cảnh. Đây thực sự là kinh nghiệm quý để họ tin tưởng vào Thiên Chúa nhiều hơn. Rồi với kinh nghiệm đặc biệt này, mỗi người có khả năng kinh nghiệm và khắc ghi những hồng ân của Chúa. Để từ đó về sau, kể cả trong làn sóng nguy hiểm hiện nay, ước mong nhờ ơn Chúa, mỗi người tiếp tục bình tĩnh, cầu nguyện để lướt thắng những gian nan của kiếp người.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần chúng con không thể nhìn thấy sự hiện diện của Ngài, nhất là trong những giây phút mờ mịt tối tăm. Lúc ấy, xin Chúa đánh thức con, đánh thức hệ miễn dịch trong tâm hồn con. Để nhờ đó, chúng con nhớ lại biết bao ân huệ Chúa đã làm cho con. Và chúng con cũng xác tín như tổ phụ Gia-cóp: “Chắc chắn, Đức Chúa ở nơi này mà tôi không hề biết” (St 28,16). Nhờ những kinh nghiệm thiêng liêng, chúng con biết mình không cô độc, vì Chúa Giêsu đã ở với chúng con ở đây và lúc này. Amen
………………
[1] Mc 6,30-34
[2] “Ngày nay ta ở trong một thế giới “vô cảm”, một hình thức lãnh đạm lười biếng thiêng liêng mà các giáo phụ ở sa mạc xưa gọi tên là “acedia”. Lãnh đạm với Thiên Chúa là vấn đề lớn của đời sống thiêng liêng. Tâm tính con người ngày nay coi cầu nguyện không có nghĩa lý gì, và sổ nhật ký dày đặc không còn chỗ cho cầu nguyện. Cũng cần chiến đấu chống lại Tên Cám dỗ, luôn tìm mọi cách để ngăn cản con người hiến thân cho Chúa. Nếu Chúa không muốn ta đến với Chúa trong cầu nguyện, ta sẽ không thắng trận được.” (Youcat 505)
[3] Thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình Yêu), số 1
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã tạo dựng và chăm sóc con người, nhất là luôn muốn con người không những sống mà còn sống dồi dào trong tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Ngài không muốn con người phải hư mất hay bị diệt vọng, nhưng muốn con người đạt tới cùng đích là sống viên mãn tràn đầy.
Chúa là mục tử chúng ta là chiên
Lời Chúa qua miệng tiên tri Isaia nói: “Các ngươi là chiên của Ta. Các ngươi, những phàm nhân kia, các ngươi là chiên trong đồng cỏ của Ta. Và Ta là Thiên Chúa của các ngươi” (Ed 34,31). Thiên Chúa tự ví mình là “mục tử, người chăn chiên” và dân Israel được Chúa chọn là chiên của Chúa. Hình ảnh thật là đẹp.
Thánh Vịnh 22 tán tụng Thiên Chúa, Mục Tử nhân lành, lo cho đoàn chiên có cỏ non, nước ngọt và bóng mát, che chở chiên khỏi sói dữ và quân trộm cướp. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm rằng, được sống dưới sự chăn dắt của Chúa thì sẽ không thiếu chi và không còn phải sợ gì: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng” (Tv 22, 1-3). Ðiều này có nghĩa là Thiên Chúa muốn hướng dẫn chúng ta tới các đồng cỏ tốt tươi, nơi chúng ta có thể được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Chúa là Mục Tử tốt lành, đầy yêu thương và trách nhiệm. Ngài luôn chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và làm cho đàn chiên ngày càng phát triển. Tình mục tử của Thiên Chúa không đơn giản là thương cảm đối với sự khó khăn của con người, nhưng là thái độ của một Vì Thiên Chúa đối với con người và lịch sử của loài người.
Chúng ta được Chúa chăm sóc và bảo vệ
Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân: “Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta từ khắp các xứ mà Ta đã phân tán chúng, Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên và tăng số” (Gr 23, 3). Chúa luôn bảo vệ giữ gìn. Chúa đặt một số người gọi là mục tử để trực tiếp thay Chúa chăn dắt đoàn chiên. Những người này sống nhờ đoàn chiên cho sữa, thịt, len, nên bổn phận đầu tiên là phải biết chăm lo cho chiên khỏe mạnh, có đủ đồng cỏ xanh tươi và nước mát, cũng như những điều kiện cần thiết cho chiên. Họ thừa lệnh của Chúa lo cho dân Chúa, và phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa, chứ không phải là kẻ có toàn quyền muốn làm gì thì làm, tác oai tác quái thế nào cũng được.
Thực tế, có những người không chu toàn nhiệm vụ cao quý này nên Chúa mới mạnh mẽ quở trách: “Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi…” (Ed 34,2-7).
Vì muốn bảo vệ đoàn chiên, Chúa phán thế này: “Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,8-10).
Tình mục tử ấp ủ đoàn chiên. Thiên Chúa không đành để chiên tan tác, chính Ngài gửi Đấng Cứu Thế đến trực tiếp chăm sóc chiên: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều…Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực…Chồi non của nhà Đavít ấy là Đức Giêsu Kitô”, Ngôi Lời Con Thiên Chúa nhập thể làm người, là Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống cho đàn chiên, chịu sát tế để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành
“Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6, 34).
Cảnh đàn chiên không người chăn giống như “rắn mất đầu” là tình trạng khủng hoảng, nô lệ cho những lạc thuyết, làm mồi ngon cho những xu hướng xấu và tệ nạn. Không có Chúa Kitô, Vị Mục Tử dẫn đầu, Giáo Hội sẽ mất phương hướng, dễ lầm lạc, sợ hãi, kinh hoàng, thiếu sự chăm sóc, yêu thương, bị đe dọa bởi nanh vuốt của sói dữ, kẻ thù. Không được chăn dắt, điều đó cũng đồng nghĩa với việc “không được giáo dục” và trở thành mồi ngon cho những thù địch. Ma quỷ, thế gian, xác thịt luôn là những kẻ thù nhạy bén, chắc chắn sẽ không buông tha đàn chiên và chúng sẽ tìm mọi cách để xâu xé, hãm hại đoàn chiên.
Chúa Giêsu xuất hiện như hiện thân của sự quan tâm, ân cần của Thiên Chúa đối với nhân loại. Người hiểu rõ tình trạng khốn khổ của đàn chiên không có chủ chăn “Chúa động lòng thương”. Chúa dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, gần bên suối mát để chiên được no thỏa uống tận nguồn suối nước trường sinh.
Không có Chúa Kitô hướng dẫn, chúng ta không thể tìm được hướng đi đúng. Xa Chúa Giêsu và lìa khỏi tình yêu của Người, chúng ta sẽ đánh mất chính mình. Có Chúa Giêsu ở bên, chúng ta có thể tiến bước một cách chắc chắn, vượt qua các thử thách, tiến lên trong tình yêu. Hãy an tâm, vì Chúa luôn chăm sóc giữ gìn, không đành để mất một ai, miễn sao chúng ta biết luôn lắng nghe theo tiếng Chúa.
Trầm Thiên Thu
Kẻ hảo ngọt không thích người thẳng tính, xưa nay vẫn vậy. Kinh Thánh nói: “Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật.” (Am 5:10) Thuận ngôn nghịch nhĩ – Lời thật mất lòng. Đó là một sự thật phũ phàng nhưng rất cần thiết cho cuộc sống, đặc biệt là đời sống Kitô hữu.
Thiên Chúa có nghiêm lệnh: “Đây là những điều các ngươi phải thi hành: Hãy nói thật với nhau; nơi cổng thành của các ngươi, hãy theo lẽ thật, lẽ công minh và sự ôn hoà mà xét xử. Chớ để lòng mưu điều ác hại nhau; đừng ưa chuộng thề gian, vì Ta ghét tất cả những điều đó.” (Dcr 8:16-17) Sách Huấn Ca khuyên: “Dù phải chết, con hãy phấn đấu cho sự thật, và Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ bênh vực con.” (Hc 4:28)
Trong thời gian khổ sở vì dịch bệnh này, các phương tiện truyền thông “nóng lên” về chuyện những người có “máu lạnh” và vô cảm. Họ đã không giúp đỡ thì thôi, mà họ lại nhẫn tâm tìm tư lợi bằng cách cướp phần của những người nghèo khó. Vô cùng bất nhân. Những người có tật rất dễ giật mình bất cứ lúc nào, vì họ “yếu tim” lắm.
Chắc chắn rằng dù là ai thì cũng phải yêu thương, giữ Đạo Làm Người. Là Kitô hữu thì càng phải yêu thương nhiều hơn vì đã được Thiên Chúa xót thương. Không yêu thương là ích kỷ, là chống lại chính Thiên Chúa. Người đời cũng vẫn nói: “Không sợ người hại, mà chỉ sợ Trời hại.” Bất cứ ai không biết chạnh lòng trước cảnh khổ của người khác thì đều là kẻ bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nếu người đó là người được giao trách nhiệm chăm sóc tha nhân.
Thời Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia cho biết lời nguyền rủa của Thiên Chúa: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác.” (Gr 23:1) Mục tử PHẢI chăm sóc đoàn chiên. Đã không chu toàn trách nhiệm mà chỉ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là mục tử giả, đáng nguyền rủa hơn nếu họ còn làm tản mác đoàn chiên của Chúa.
Trong bài “Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay,” ĐGM G.B. Bùi Tuần chia sẻ: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê. (x. Ga 10:12) Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa.” Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế. Ai dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Người đó phải thực sự can đảm lắm mới dám. Không thiếu những kẻ tránh né, nịnh hót và phe cánh.
Thế kỷ I đã có vị mục tử đích thực là Thánh GH Grêgôriô (540?-604). Chính ngài đã thẳng thắn và cương quyết CÁCH CHỨC các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ. Ngài lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard.
Sự thật thường gây mất lòng, vì nó chạm vào những gì nhạy bén nhất. Kẻ yếu bóng vía rất sợ sự thật. Thật đáng quan ngại về lời xác nhận của Thánh Phaolô: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính.” (2 Cr 11:14-15)
Có những chữ bắt đầu bằng mẫu tự T rất kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,… Thật vậy, chính Thiên Chúa đã tuyên án rạch ròi đối với các mục tử dỏm: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã XUA ĐUỔI và CHẲNG LƯU TAM gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các HANH VI GIAN AC của các ngươi mà TRỪNG PHẠT các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa.” (Gr 23:2-4)
Tối sợ sáng. Xấu sợ tốt. Dốt sợ giỏi. Lỏi sợ đầy. Giả sợ thật. Người nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn,… Rất khó phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: ‘Đức Chúa, sự công chính của chúng ta’.” (Gr 23:5-6)
Theo bí quyết của Chúa Giêsu, chúng ta rất cần xin ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây.” (x. Mt 12:33) Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Miệng nói là một chuyện, tay làm hay không là chuyện khác. Kiểu Biệt Phái ở đâu cũng có.
Ai cũng sợ “hàng giả” – người và vật. Nhưng chúng ta có thể an tâm nếu chân thành tín thác vào Thiên Chúa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:4-6) Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, ích kỷ, thực dụng…
Cháy nhà mới ra mặt chuột. Trong thời buổi dịch bệnh hiện nay, chúng ta dễ nhận thấy “đồ giả” hơn lúc bình thường: Những kẻ có chức quyền luôn khoác lác về đủ thứ, nhưng khi dân chúng gặp hoạn nạn thì không thấy kẻ nào lên tiếng hoặc bỏ ra 1 đồng nào để giúp đỡ, thậm chí họ còn ăn chặn đồ từ thiện và ngăn cản người khác làm từ thiện. Rồi còn tăng giá xăng, giá điện, trong khi dân đang khốn khổ vì dịch bệnh. Hệ lụy tất yếu: Dân khốn đốn vì quan khốn nạn. Đừng nghe, hãy mở to mắt để nhìn cho rõ, đừng mê muội hoặc nhẹ dạ cả tin nữa!
Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.” (Ep 2:13) Thật vậy, thánh nhân xác nhận chính Đức Kitô là bình an của chúng ta. Ông giải thích: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người.” (Ep 2:14-15) Phải can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ để có Chúa, được là thân nhân của Ngài.
Thập Giá Đức Kitô là “dấu cộng” để nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep 2:16-18) Đó là sự no thỏa tinh thần giúp chúng ta phát triển và trưởng thành tâm linh, tương tự thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý vậy.
Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Ngài biết họ đang đói lắm, nên Ngài hành động cụ thể chứ không nói suông. Trình thuật Mc 6:30-44 (≈ Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) cho biết phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ nhất.
Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, kể lại cho Người biết mọi việc họ đã làm và mọi điều họ đã dạy. Nhưng Ngài bảo họ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Ngài biết công việc mục vụ vất vả nên mệt mỏi lắm, Ngài thương họ lắm, vì làm những việc cần mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.
Thầy trò không kịp ăn uống vì người ta quá đông. Phải hy sinh thôi. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy vậy, người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy theo, họ còn đến trước các ngài. Đúng là Chúa Giêsu có sức thu hút rất mạnh, mặc dù nhìn Ngài rất “bụi,” không gì đặc biệt.
Vừa bước ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều, dạy cả bí quyết sống tốt. Ngài thương xót họ nên muốn cứu họ.
Đề cập vấn đề mục vụ, chắc hẳn ai cũng nhớ ngay tới Thánh LM Jean-Marie Vianney (1786-1859), người Pháp. Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Chúa Giêsu đã xác định: “Con Người đến KHÔNG phải để ĐƯỢC người ta phục vụ, nhưng là ĐỂ phục vụ, và HIẾN MẠNG SỐNG làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:28; Mc 10:45) Thánh Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa, thậm chí ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu.
Người ta đưa ra “chuỗi” này: Linh mục là thánh nhân thì giáo dân sẽ thánh thiện, linh mục thánh thiện thì giáo dân tốt lành, linh mục tốt lành thì giáo dân tử tế, linh mục tử tế thì giáo dân vô tín ngưỡng. Thánh Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,… Đừng ảo tưởng mà vỗ ngực, bởi vì ảo tưởng rồi sẽ há ảo giác, ảo giác rồi thì bất trị.
Thánh GH Piô X là gương sáng mục tử. Ngài xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn.” Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!” Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt tại Vườn Dầu vậy.” Nhân đức tuyệt vời quá!
Thánh GH Gioan XXIII cũng là gương sáng mục tử thật. Ngày nhận chức thượng phụ Venezia năm 1953, ngài viết trong chúc thư: “Sinh trưởng trong sự nghèo nàn, ở một gia đình giản dị nhưng được trọng kính, tôi rất sung sướng được chết trong sự nghèo nàn, vì theo sự đòi hỏi và các trường hợp sinh sống của đời giản dị và hèn mọn của tôi, tôi đã phân phát cho người nghèo và Giáo Hội đã nuôi dưỡng tôi, những gì ít ỏi của tôi đã có, trong những năm làm linh mục và giám mục. Đời Giám mục mà cứ phải ngồi bàn giấy và làm ngoại giao thì tội nghiệp quá. Tôi bắt đầu sứ vụ trực tiếp vào tuổi mà người khác kết thúc hoạt động của mình (72 tuổi). Từ nay tôi nghèo hơn trước, một vị hồng y nghèo lo giúp người nghèo… Tôi thấy mình như một bà mẹ nghèo, phải nuôi một đoàn con đông đảo. Tôi xuất thân từ giới bình dân. Cha mẹ tôi là người nghèo. Chúa đã đưa tôi ra khỏi xóm làng quê hương, cho tôi chung đường và kề vai sát cánh với những người có tín ngưỡng khác nhau. Bây giờ cũng vậy, tôi không quan tâm đến những gì gây chia rẽ mà chỉ quan tâm đến những gì gây tình đoàn kết. Xin anh chị em hãy coi tôi như một tôi tớ của Chúa.”
Hiện nay, hình ảnh GH Phanxicô cũng cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.
Cuộc sống luôn phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Thiên Chúa động viên chúng ta “Đừng sợ!” tới 365 lần. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó chứng tỏ rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống khôn như con rắn, hiền như bồ câu, như chiên giữa bầy sói, nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng về Đấng duy nhất – Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, chính trực và công minh, xin thêm can đảm để chúng con hành động theo ý Ngài, xin giải thoát chúng con khỏi tay người áp bức, (Nkm 9:27) giúp chúng con chân thành thương xót nhau, luôn sống xứng đáng là tín nhân mọi nơi và mọi lúc, nhất là trong lúc khó khăn vì dịch bệnh này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lm. Jos DĐH.
Chẳng phải tự nhiên cha ông lại ta nhắn gởi con cháu: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Không phải là không có lý khi các đấng các bậc quả quyết: khôn chết, dại chết, biết mới sống. Quả thực, biết ăn người, hoặc biết chu toàn bổn phận, vấn đề đã khác nhau rồi. Ít nhiều gì chúng ta cũng đã được nghe câu thành ngữ: đời người như áng phù vân, kẻ ăn không hết, người lần không ra. Có thể chúng ta vẫn đặt vấn đề, tại sao mà trời đất lại thiếu công bằng như vậy ? Có hay không, một số người vẫn sống ích kỷ, thủ đoạn, trục lợi ? Trong khi đó, có đủ mọi thành phần: người trẻ, người già, người giầu, người tri thức, … đang xả thân làm việc “thiện nguyện” không biết mệt mỏi, chỉ vì đại dịch covid bùng phát gây nên đau khổ mất mát cho gia đình, xã hội.
Sống ở đời, ai chẳng mơ ước hạnh phúc, kẻ chú trọng đến niềm vui hiện tại, cách sống của họ thoải mái như không có ngày mai. Người vô tình, vô tâm, lại chẳng quan tâm đúng sai, dại khờ, lý sự, làm gì, có chăng là nghĩ đến lợi nhuận càng cao càng tốt. Người môn đệ theo Chúa Giêsu, sống hiệp thông cầu nguyện, mỗi người sẽ biết phải làm gì, khi đã tín thác trọn vẹn đến độ chỉ còn mối tình trong Giêsu. Biết nỗ lực cố gắng, biết quan tâm đến anh chị em đang sống chung quanh mình, biết lưu ý đến sự giới hạn của mình, cụ thể hơn là biết trình diện, báo cáo sự việc của mình với Đức Giêsu. Kẻ làm con sẽ rất vui khi được cha mẹ thương yêu, cho dù việc chăm sóc đầu tư của các ngài hết sức âm thầm. Đấng là Thầy, là Chúa, sẽ hạnh phúc khi biết các học trò của mình mỗi ngày một trưởng thành hơn trong tình yêu.
Sách có câu: tuổi tác không nói lên mức độ trưởng thành, điểm số chưa thể gọi là năng lực ; tiếng lành, lời đồn đại, đâu phải là kết quả để công nhận bạn là thánh nhân. Chúng ta không biết các môn đệ đã báo cáo, đã trình bày kết quả, chuyến đi thực tập việc tông đồ thành công tới đâu ? Mọi người chỉ biết Chúa Giêsu quan tâm đến việc ăn uống, nghỉ ngơi, của các học trò. Chúa Giêsu không chú trọng đến thành tích, cũng không dửng dưng trước những tâm sự vui buồn của các môn đệ, đúng hơn, Chúa muốn người môn đệ phải hết sức nhạy bén với sứ mạng được trao ban. Ưu tư của người học trò sẽ mãi mãi là biết thực thi đúng ý thầy, thế nào gọi là nghỉ ngơi hợp lý hợp tình, chạnh lòng thương xót tới mức độ nào là đúng là chuẩn ?
Cất tiếng chào đời mọi người đều là em bé đáng yêu, lớn lên, có sự khác biệt: giầu nghèo, kẻ là quan chức, người là dân đen. Kitô giáo chúng ta thì mỗi người dù là linh mục, tu sĩ, giáo dân, đều có sứ mạng riêng, quan trọng là ta biết hoàn thành tốt trách nhiệm và bổn phận của mình. Cuộc đời vốn chẳng có thứ gì hoàn hảo, song mỗi người vẫn có những nét đẹp riêng, thiên tài hay không ở chỗ ta xác định được tính chất đẹp của mình và hoàn thiện chúng. Chúa Giêsu biết các học trò của Ngài cần được dưỡng sức, bổ sức, sau những ngày làm việc tông đồ. Chúa Giêsu biết đám đông dân chúng: cần được no đủ về đời sống tinh thần, cần được quan tâm yêu thương, cần được bồi bổ tâm tư, và niềm tin nơi tâm hồn phải lớn lên, trưởng thành hơn. Biết yêu thương anh chị em của mình, cũng là biết nhạy bén trước nhu cầu được ấm no hạnh phúc của gia đình nhân loại.
Biết nhạy bén trước nhu cầu của tha nhân đồng loại, biết rung cảm trước những khát vọng chính đáng là được yêu thương, được gặp Chúa, được cứu độ, chính là sứ mạng của chúng ta, những người theo Chúa Kitô. Biết mình là ai, biết mình là phần tử sống động của Thầy Giêsu, biết mình đã từng được nghe: “Ta thương đám đông này, vì họ như đàn chiên không người chăn….”. Vâng, ơn gọi của chúng ta không phải là làm việc như những con “robot”, người có lý trí, ý chí tự do, là người biết xác định mục tiêu: sống có ý nghĩa, sống phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện mình đang có. Xin đừng ai vô ơn với cha mẹ, đừng ai thờ ơ với anh chị em mình, vì không ai trong chúng ta là không chịu ơn bậc sinh thành, không ai là trong chúng ta là “người máy”, và chẳng ai trong chúng ta lại không được hưởng cứu độ của Đấng cứu thế.
Người ta có kể câu truyện thế này: hai đệ tử sau một chuyến công tác từ xa về, anh thứ nhất đến trình diện sư phụ: thưa thầy, con thấy ở khắp mọi nơi người ta sống gian tham ích kỷ, nghĩa là làm những việc xấu xa tội lỗi, bất công, đáng chết ! Anh thứ hai: thưa thầy, đi tới đâu con cũng thấy người ta cực khổ, túng thiếu mọi mặt, đáng thương lắm ! xin thầy mau cử thêm nhân sự, để thầy trò mình có thể góp một phần bé nhỏ giúp họ. Người trẻ hôm nay nói rằng: phong độ là nhất thời, đẳng cấp mới là vĩnh cửu. Nếu ý thức mình là người tín hữu, là môn đệ của Đức Kitô, hãy liên đới hiệp thông với Đấng là Thầy, là Chúa ; hẳn Đức Giêsu sẽ nói: Ta không cần đẳng cấp, không cần phong độ, chỉ cần những ai có tình yêu thương, biết cùng Ta sống tốt, sống đúng với bổn phận và trách nhiệm của mình là đủ. Amen.
TÌM NƠI THANH VẮNG ĐỂ CẦU NGUYỆN SAU NGÀY LÀM VIỆC
Lm. Ngọc Dũng
Trong bài đọc 1 hôm nay, Đức Chúa khiển trách những mục tử đã không làm tròn trách nhiệm của mình: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác -sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23:1). Những mục tử không làm tròn trách nhiệm của mình là những mục tử mang lại sự chia rẽ, làm cho đoàn chiên không hiệp nhất vì đã không để tâm đến đoàn chiên mà chỉ đến lợi ích của cá nhân mình: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng” (Gr 23:2). Những lời này khuyến cáo mỗi người chúng ta, vì ai trong chúng ta cũng được xem là người mục tử, mỗi người trong chúng ta được Thiên Chúa trao cho anh chị em để chăm sóc. Nhưng nhiều lần, chúng ta chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân của mình mà không cộng tác với Đức Chúa để chăm sóc anh chị em mình. Hình ảnh Đức Chúa là mục tử nhân lành giúp chúng ta biết việc chúng ta phải làm, đó là: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:3-4). Những lời này chỉ ra vai trò chính yếu của người mục tử là trung tâm điểm của hiệp nhất, mang lại sức sống cho chiên của mình và nhất là tìm kiếm những con chiên đi lạc và bị bỏ rơi. Những nhiệm vụ này là một thách đố cho mỗi người chúng ta, vì thông thường ai trong chúng ta cũng chỉ muốn “ngồi mát ăn bát vàng,” hoặc là không muốn làm việc với những người khó tính khó nết. Hình ảnh Đức Chúa là mục tử nhân lành đưa chúng ta về lại với căn bản của tình yêu Kitô Giáo, đó là một tình yêu mang lại sự hiệp nhất, đoàn kết và sức sống cho mọi người.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2, trình bày sự tương phản giữa cuộc sống trước kia khi các tín hữu Êphêsô không có Đấng Kitô và sau khi có Ngài. Trước khi có Đấng Kitô, họ “không được hưởng quyền công dân Israel, xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này…. là những người ở xa” (Ep 2:12-13). Một cách cụ thể, Thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Êphêsô [chúng ta] những điều Chúa Giêsu đem lại cho những ai có Ngài trong cuộc đời: (1) “nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.” Nói một cách cụ thể, những người sống trong ân sủng của Thiên Chúa luôn cảm nghiệm được sự gần gũi của Thiên Chúa dù vẫn phải đối diện với những khó khăn thử thách như bao nhiêu người khác; (2) những người có Đấng Kitô là những chứng nhân của bình an và hiệp nhất vì họ nhận ra rằng chính Đấng Kitô là bình an của họ và Ngài cũng là Đấng đã “liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15); (3) những người có Đấng Kitô là những người được hoà giải với Thiên Chúa: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2:16). Suy niệm trên ba điểm này, chúng ta tự hỏi: Tôi có những điều này trong cuộc sống của tôi không? Ba điểm này được thể hiện cách cụ thể trong đời sống bình an và hợp nhất với hết mọi người của chúng ta trong lời nói cũng như trong việc làm.
Bài Tin Mừng hôm nay liên kết rất chặt chẽ với bài Tin Mừng ngày hôm qua. Chính vì vậy, ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay chỉ được hiểu khi chúng ta đặt nó vào trong cấu trúc: Sai đi – làm chứng – trở về kể lại với Chúa Giêsu những gì họ đã làm và dạy. Có bốn điểm chúng ta cần tập trung suy gẫm trong bài Tin Mừng hôm nay vì đây là điều chúng ta dễ dàng quên trong cuộc sống hằng ngày của mình.
Thứ nhất là “các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy” (Mc 6:31). Sau một ngày làm việc vất vả, chúng ta thường làm gì? Các môn đệ tụ họp chung quanh Chúa Giêsu để kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và đã dạy. Điều này không có gì sai. Tuy nhiên, khi làm như vậy, các môn đệ quên mất một khía cạnh quan trọng của người môn đệ, đó là, khía cạnh “ở với Chúa Giêsu”: “Ở với Chúa Giêsu là khía cạnh nền tảng và quyết định căn tính và sứ mạng của người môn đệ của Chúa Giêsu. Những môn đệ không ở với Chúa Giêsu sẽ không biết mình được sai đi làm gì. Họ chỉ làm những việc họ thích hơn là làm những việc họ được sai đi để làm. Thật vậy, chúng ta thường đánh giá người môn đệ dựa trên việc làm hơn là trên việc ở lại với Chúa. Thánh Máccô nói cho chúng ta điều này khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (Mc 3:14-15). Hãy “là môn đệ” của Chúa Giêsu” trước khi “làm tông đồ” của Ngài!
Thứ hai là việc Chúa Giêsu bảo các ông “hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút. Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (Mc 6:32). Trong điểm thứ nhất chúng ta thấy rằng, các môn đệ trở về và kể với Chúa Giêsu những “chiến tích của mình.” Nhưng họ quên một điều là khi họ được sai đi, Chúa Giêsu “ban cho họ quyền trên các thần ô uế” (Mc 6:7). Như vậy, những gì họ đã làm và dạy không phải do quyền lực hay khả năng của các ông, mà là của Chúa Giêsu. Chính vì vậy, “chiến tích” không thuộc về họ, mà thuộc về Chúa Giêsu. Khi mời gọi các ông tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, Chúa Giêsu muốn các ông trở về lại với con người thật của mình để khám phá ra sự thật là: “Không có Thầy, anh em sẽ không làm được gì” (Ga 15:5).
Thứ ba là thái độ của Chúa Giêsu như vị Mục Tử cao cả. Tình yêu của vị mục tử không bao giờ yên nghỉ khi còn có “tội nhân” cuối cùng chưa ăn năn trở lại. Dù bận rộn với công việc; dù cho “kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa” (Mc 6:31). Dù muốn nghỉ ngơi, nhưng khi “ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:34). Chúng ta thường phàn nàn rằng chúng ta làm quá nhiều việc đến độ không còn giờ cho chính mình, thì làm sao có giờ dành cho người khác. Nhiều khi chúng ta nổi giận hoặc không muốn làm gì khi mệt mỏi. Nhìn vào gương Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải tự vấn chính mình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ mệt mỏi khi làm điều tốt cho người khác, ngay cả khi “chẳng có giờ để ăn uống.” Khi làm việc với niềm vui và con tim của Chúa, chúng ta sẽ không còn để ý đến gánh nặng của công việc mà chỉ còn để ý đến niềm vui và hạnh phúc của những người khác. Đây chính là điều giúp chúng ta không thấy mệt mỏi khi làm việc tốt cho người khác.
Điểm cuối cùng làm chúng ta lưu ý là câu mở đầu và câu kết của Tin Mừng hôm nay. Câu mở đầu nói về việc các môn đệ trở về và tường thuật lại việc họ đã làm và đã dạy và câu kết nói đến việc Chúa Giêsu dạy dỗ họ [bao gồm nhóm 12]. Như chúng ta đã biết, đây là lối viết “bánh mì kẹp” của Máccô: Mở đầu và kết thúc cùng một đề tài là “dạy dỗ,” chỉ khác nhau về “người dạy.” Trong câu mở đầu, các môn đệ dạy; còn trong câu kết, Chúa Giêsu dạy. Tuy nhiên, như chúng ta đã trình bày, các môn đệ “dạy với quyền năng của Chúa Giêsu.” Chính vì lý do này, cuối cùng chỉ có một thầy dạy, đó là Chúa Giêsu. Điều này nhắc nhở chúng ta về việc phải luôn có “thái độ của một người học trò” trong mọi công việc của chúng ta, vì qua công việc của chúng ta, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta về thánh ý của Ngài.
NGHỈ NGƠI ĐỂ “ĐI RA” VỚI TRÁI TIM YÊU THƯƠNG
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Trong những ngày này, rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam chúng ta, đang vật vã chống chọi với Đại dịch Covid-19, mà những “chiến sĩ ở tuyến đầu” là các nhân viên y tế, đang lâm vào tình trạng mỏi mệt, kiệt sức. Hai tin nhắn của nhân viên y tế Thừa Thiên Huế sau đây là một thí dụ điển hình:
– “Bác ơi, cứ cường độ làm PCR như thế này, em sợ mấy em không chịu nỗi bác à. Mỗi ngày làm việc 12 giờ, nghỉ được 6 tiếng, liên tục mấy ngày nay rồi bác à”.
– “Hà ơi, bác biết hết. Anh em CDC gần như kiệt sức cả rồi. Bác cầu mong mọi người không ai gục ngã hết. Cố gắng vượt qua giai đoạn này, tất cả vì cộng đồng”[1].
Vâng, trong những hoàn cảnh và tình trạng như thế, nếu có được một chút không gian và thời gian để “nghỉ ngơi đôi chút” thì quả là tuyệt diệu !
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay, có thể nói được, đã bắt đầu từ một lời kêu gọi trở về nghỉ ngơi: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”.
Chắc chắn, khi ra chỉ thị nầy cho các môn sinh, Đức Kitô đã nhìn thấy bao nhiêu lo toan, mệt nhọc, bận bịu…của các bạn hữu của Ngài như Tin Mừng kể lại: Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống; một sự bận rộn, tất bật có nguy cơ sẽ dẫn các ngài tới chỗ chán nản, buông xuôi hoặc tình trạng bị tục hóa, biến chất…!
Người tông đồ hôm nay nào có khác gì ! Trước bao nhiêu nhu cầu của “đàn chiên không người chăn”, chỉ có “trái tim chạnh thương của người mục tử” mới có khả năng đáp ứng, chứ không thể là một mục tử biến chất, một tông đồ mà cuộc sống chẳng khác nào một công nhân, một người thợ máy móc vô cảm, chai lỳ…!
Cũng trong ý nghĩa này, theo như trực cảm của ĐTC Phanxicô trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, nếu không có cuộc “dừng chân nội tâm cần thiết”, một cuộc “ngơi nghỉ tâm hồn”, tất cả chúng ta, các đồ đệ của Chúa Giêsu, có nguy cơ “không còn nghe được tiếng nói của Thiên Chúa, đánh mất niềm vui và bình an, phai nhạt ước muốn làm điều thiện”, hoàn toàn bị tục hóa: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Khi mà đời sống nội tâm của chúng ta bị trói chặt trong những lợi ích và những mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được nghe thấy, niềm vui an bình của tình yêu của Người không còn được cảm thấy, và ước muốn làm điều thiện bị phai mờ.” (EG 2).
Điều đó lại càng bi đát hơn đối với Dân Chúa, nếu tình trạng đó thuộc về các mục tử, những người có trách nhiệm với đàn chiên, như lời cảnh báo của ngôn sứ Giêrêmia từ thời Cựu ước xa xăm, trước Chúa Kitô hàng mấy trăm năm: “Chúa phán: “Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé đoàn chiên Ta. Vì thế, Chúa là Thiên Chúa Israel phán cùng các mục tử chăn dắt dân Ta rằng: “Các ngươi đã phân tán xua đuổi và không trông nom đoàn chiên Ta” (BĐ 1).
Nhưng, theo ngữ cảnh Tin Mừng, việc “nghỉ ngơi” mà Chúa Giêsu mời gọi đó có gì đặc biệt ?
Phải chăng đó là: “xúm xít quanh Đức Kitô, kể lại mọi điều đã làm và đã dạy”.
Vâng, Đức Kitô phải ở trung tâm của đời sống chúng ta. Chỉ có Ngài mới giúp chúng ta tìm lại được chính mình, thanh lọc cõi lòng mình, điều chỉnh con tim mình và định hướng cho hành trình tiếp theo của mình, như chính ĐTC Phanxicô đã xác nhận trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng: “Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (EG 3).
Có thể, thời Đại Dịch nầy, là một “cơ hội thuận lợi” để chúng ta có dịp “xúm xít quanh Đức Kitô” cách ý thức và trân trọng hơn:
– Quanh Đức Kitô nơi một Thánh lễ online với gia đình, một “bàn Tiệc Thánh Thể cao quý”, mà trong thuở bình thường trước đây, tại nhà thờ, tôi chỉ là một kẻ bàng quang lo ra chia trí !
– Quanh Đức Kitô nơi giờ kinh gia đình với chuỗi Mân Côi, với Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse…
– Quanh Đức Kitô với một đoạn Lời Chúa cùng đọc, cùng suy với con cái, cháu chắt…
– Quanh Đức Kitô trong những bữa cơm chiều thân mật với vợ con…
Vâng, “nghỉ ngơi” theo Chúa Kitô đích thị là một cuộc “tĩnh tâm”, một cuộc “gặp gỡ”, một cuộc “canh tân mối tương quan với Ngài”, một cuộc “hoán cải nội tâm”…
Một khi đã được “tái tạo thành một con người mới” sau cuộc tĩnh tâm với Chúa Giêsu, chắc chắn, các môn sinh của Ngài sẽ nhận ra một điều quan trọng nhất nơi dung mạo của Đức Kitô, nhân cách của Đức Kitô và chương trình hành động của Ngài mà Tin Mừng hôm nay đã tóm gọn bằng một cụm từ chân xác: ĐỘNG LÒNG THƯƠNG: Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Quả thật, không ai đã từng gặp gỡ đích thực với Chúa Kitô mà lại không khám phá được một Thiên Chúa Tình Yêu, một tình yêu có khả năng phá đổ mọi bức tường rẻ chia ngăn cách, như thư Êphêsô xác nhận: “xưa kia anh em là những kẻ ở xa, thì nay trong Đức Giêsu Kitô, anh em đã nên gần nhờ bửu huyết của Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người…”.
Và Đức Kitô mời gọi chúng ta lên đường, tiếp tục thể hiện thái độ “Chạnh lòng thương” đó đối với con người, với thế giới hôm nay, một thế giới, không chỉ có một đoàn chiên không người chăn mà có hàng tỷ thân phận con người bì vùi dập trong những nỗi bi đát, thương đau, khổ lụy, như ĐTC Phanxicô đã liệt kê trong cả số 15 của Tông sắc “Dung nhan lòng thương xót”, để rồi ngài kết luận: “Chúa Ki-tô đang hiện diện trong bất cứ một con người nào trong số “những người nhỏ bé nhất” ấy. Thân xác của Ngài đang tái trở nên rõ ràng trong bất cứ thân xác nào đang bị hành hạ, đang bị gây tổn thương, đang bị đánh đập, đang bị thiếu dinh dưỡng và đang bị ép buộc phải trốn chạy…, để chúng ta nhận ra Ngài, đụng chạm được tới Ngài và giúp đỡ Ngài một cách chu đáo. Chúng ta đừng quên những lời của Thánh Gioan Thánh Giá: “Vào lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị kết án theo Đức Ái.” (Số 15).
Tóm lại, sứ điệp Lời Chúa hôm nay, khi mang chúng ta trở về gặp gỡ Đức Kitô, Vị Mục tử chạnh lòng thương, lại đưa chúng ta lên đường để yêu thương phục vụ mọi người, nhất là những người đang mang những vết “trầy xướt”[2] bi ai đang bị lãng quên trên những “vùng rìa”[3] của thế giới. Amen.
[1] HOÀ KHÁNH; bài viết: Hình ảnh nữ nhân viên xét nghiệm kiệt sức, ngồi bệt trong phòng gây xúc động; website https://congan.com.vn/doi-song/kiet-suc-ngoi-bet-trong-phong-trong-tuyen-dau-chong-dich-covid-19_112169.html; đăng ngày 17.7.2021.
[2] Tông sắc “Dung nhan lòng thương xót”, số 15: “Có biết bao nhiêu là những vết thương đang bị làm trầy xước.”
[3] Tông sắc “Dung nhan lòng thương xót”, số 15: “tất cả những ai đang sống tại những vùng rìa khác nhau…”
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc sống xung quanh ta đầy rẫy những bon chen tính toán. Những quay cuồng vật lộn, những lo toan cơm áo gạo tiền dễ làm ta lạc đường mất hướng. Có những lúc giật mình nhìn lại, ngỡ ngàng không biết mình sống cho ai, để làm gì và sẽ đi về đâu. Giữa mớ hỗn độn của cuộc sống đời thường, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta: hãy tìm định hướng cho cuộc đời mình. Hãy chọn lựa và đi theo Chúa vì Ngài là Mục tử của đời ta. Hình ảnh người mục tử chăm sóc đàn chiên giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, thêm an tâm tin tưởng và phó thác nơi Ngài, vì Ngài là Cha nhân hậu và là Đấng giàu lòng xót thương.
Người mục tử là một hình ảnh rất thân thương và gần gũi đối với dân tộc Do Thái, là dân chuyên sống bằng nghề du mục. Ảnh hưởng của người mục tử rất quan trọng, liên quan đến sự tồn vong của đàn chiên. Qua lời ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa khẳng định, chính Ngài là mục tử của vương quốc Israen, cũng là Vua lãnh đạo dân tộc này. Ngài chăm sóc, hướng dẫn và chúc lành cho dân. Lịch sử nhân loại cũng là lịch sử cứu độ. Từng trang sử đều in đậm dấu ấn do quyền năng và tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với dân riêng Ngài đã chọn, tức là dân Do Thái. Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn hứa ban cho dân Israen một vị vua trong tương lai. Vị vua này sẽ dẫn dắt dân trong sự công chính. Người sẽ là vị Vua Hòa Bình. Nhờ Người, Thiên Chúa và con người sẽ giao hòa, muôn nước sẽ sống trong bình an. Người ta không còn dùng gươm giáo để tiêu diệt nhau nữa, nhưng cùng nắm tay nhau xây dựng một thế giới nhân ái yêu thương.
Vị vua tương lai mà ngôn sứ Giêrêmia loan báo là chính Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và Đấng Cứu độ trần gian. Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên, để nói về quyền năng của Người. “Ta là Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên”, Chúa Giêsu đã khẳng định như thế. Người là Mục tử tốt và cũng là Mục tử đích thực. Hai đặc tính này đi đôi với nhau và diễn tả sứ mạng Thiên sai của Người. Trong lịch sử cũng như ngày hôm nay, đã và đang có những mục tử giả hiệu, những mục tử không tốt. Những mục tử này, thay vì phục vụ đàn chiên, lại hành hạ và giết chết đàn chiên. Chúa Giêsu là Mục tử tốt và thật. Vị Mục tử Giêsu vừa quan tâm đến những người cộng tác là các môn đệ, vừa lo lắng cho đám đông dân chúng. Khi thấy các môn đệ mệt mỏi, Người đã bảo họ đi nghỉ ngơi cầu nguyện tĩnh dưỡng. Khi thấy dân chúng đông đảo đi theo Người, Người chạnh lòng thương trước nỗi khốn cùng về thể xác cũng như tinh thần của họ. Không chỉ những người đi theo Chúa vào tận nơi hẻo lánh, mà còn cả nhân loại đang đói khát tình thương, cũng đang rất cần sự nâng đỡ của Chúa, vì chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những khát vọng thâm sâu của con người.
Trước nỗi khốn cùng của cuộc sống, nhiều người đã chọn những giải pháp trần gian mà họ quên chạy đến với Chúa để xin Ngài hướng dẫn, chỉ lối đưa đường. Cũng có những người mù quáng đi theo những mục tử giả, tức là những cá nhân hoặc những trào lưu buông thả, vô thần, chủ trương lối sống duy vật chất và phủ nhận những giá trị thiêng liêng. “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi”, đó vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là tâm tình phó thác của chúng ta, với tư cách là Kitô hữu. Trải qua hai mươi thế kỷ, biết bao sói dữ đã trở thành chiên lành, nhờ chuyên tâm đi theo vị Mục tử nhân lành dẫn dắt. Biết bao con chiên lạc đã trở về chính lộ nhờ thiện chí đón nhận lời giáo huấn của Người. Ý thức mình là con chiên trong đàn chiên đông đảo của Chúa, chúng ta hãy chân thành lắng nghe lời Người dạy và thực hiện lời Người nhủ khuyên. “Đường đi có Chúa chông gai con có sợ chi”, tin vào sự dẫn dắt của Chúa giúp chúng ta vượt thắng mọi gian khó trên đường đời.
Hình ảnh vị Mục tử nhân lành cũng nhắc nhở những ai được Chúa trao nhiệm vụ lãnh đạo các cộng đoàn tín hữu, tức là Giám mục, linh mục, phải noi gương Đức Giêsu, Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống vì tha nhân. Bất kể thời nào và ở đâu, Giáo Hội luôn cần những mục tử tài đức, khiêm tốn và sẵn sàng phục vụ đàn chiên Chúa đã trao phó. Những vị lãnh đạo này rất cần đến sự nâng đỡ, cộng tác và cầu nguyện của các tín hữu.
Ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo một vị Vua công chính đến để kiến tạo hòa bình, đó là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tiếp tục quảng diễn sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu, tức là giao hòa thế gian với Thiên Chúa và giao hòa con người với nhau. Người đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái với các dân, tiêu diệt mối thù nghịch, liên kết mọi người và làm thành gia đình của Thiên Chúa (Bài đọc II). Gia đình này là đàn chiên đông đảo, không còn phân biệt nguồn gốc, ngôn ngữ hay mọi dị biệt. Mỗi cộng đoàn đều là hình ảnh của gia đình ấy. Sự hiệp thông gắn bó, tình đoàn kết yêu thương giữa mọi cá nhân trong một cộng đoàn, chính là lời chứng hùng hồn cho sự dẫn dắt yêu thương của vị Mục tử nhân lành, luôn chạnh lòng thương và chúc lành cho những ai tin tưởng phó thác nơi Người.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư những cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Nhịp hai chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.
Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ phút cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.
Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời, ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa lỗi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?
2- Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?
3- Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?
4- Gia đình bạn có cầu nguyện chúng với nhau trước khi đi ngủ không?
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Làm việc miệt mài, lao động cần cù là điều cần thiết, đáng trân trọng. Rao giảng, loan báo Tin Mừng là điều tối cần để đưa nhiều linh hồn về với Chúa. Tuy nhiên, sau khi Chuá sai các môn đệ đi thực tập loan báo Tin Mừng, các ngài phân khởi trở về, hớn hở thuật lại những công việc vàng son mà các ngài đã làm được. Chúa không chê trách, không cho những công việc mả các môn đệ đã làm được là vô ích, là không có giá trị. Chúa đặt quan tâm con người, giá trị con người hơn công việc. Ngài muốn các môn đệ vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút sau những ngày, những giờ vất vả với công việc. Ngài muốn các môn đệ lắng đọng tâm hồn, sống tình thầy trò và sống mật thiết với nhau.
Thực tế, con người vốn thích thành công trong việc làm, trong những sáng kiến của mình. Họ muốn đề cao thành tích, thích khoe khoang những công trình mình đã làm. Ít khi con người muốn ngồi lại, tĩnh lặng, lắng đọng tâm hồn để xem xét, nhìn lại những việc mình đã làm và phân định, lượng giá những việc làm của mình. Con người luôn nại vào khối lượng công việc chồng chất,cạnh tranh thị trường,thời giờ hạn hẹp, nên họ ít khi dừng lại để rà soát, thẩm định, lắng nghe tiếng lương tâm, tiếng Chúa nói với mình.
Vâng, thấy đám đông Chúa chạnh lòng thương, Chúa nhân từ, đầy trắc ẩn và lòng thương xót của Ngài bao la, Ngài luôn quan tâm đến những nhu cầu thiêng liêng và vật chất của con người. Ngài đụng tới nỗi đau, nỗi khốn khổ của từng con người. Ngài miệt mài rao giảng, làm phép lạ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ vv…Ngài quên cả bản thân của mình. Ngài hiểu thấu sự hạnh phúc, niềm vui của các môn đệ khi các môn đệ thành công trong việc rao giảng của mình. Nhưng Ngài không dừng lại nơi những thành công rực rỡ, vinh quang mau qua của công việc. Ngài tôn trọng phẩm giá, sức khỏe và đặc biệt nhắc nhớ các môn đệ hãy giãn xả, hãy để tâm hồn thanh thản, thân xác nghỉ ngơi, bởi vì làm việc với khối lượng lớn sẽ làm con người bù đầu, bù óc không có giờ tĩnh lặng, cầu nguyện và nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi để lấy lại sức sau những ngày, những tháng, những giờ lao đao vất vả vì sứ vụ. Ngài ân cần xin các môn đệ để tâm hồn thảnh thơi, yên lặng, và đặc biệt để các ngài có giờ nghỉ ngơi, thư giãn, chơi bời, trò chuyện thân mật với nhau, và có những khoảng khắc chuyện vãn thân mật với Thiên Chúa. Mẹ Têrêsa Calcutta dù công việc bề bộn vẫn luôn dành giờ cho Chúa trước Thánh Thể và buộc các nữ tu bác ái của Mẹ luôn phải cầu nguyện, dành giờ cho Chúa trước Thánh Thể vv…Các vị thánh luôn làm như vậy. P.Doncocur nói :” Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng mà hồi tâm và cầu nguyện “. Như thế, xem ra sự ồn ào thái quá, sự miệt mài thái quá trong công việc sẽ không mang lại hiệu quả tốt đẹp như lòng con người mong ước. Ngày nay, nhiều khóa thường huấn được mở ra để giúp cá linh mục, các tu sĩ nam nữ học hỏi và đào tạo trường kỳ cũng mng một ý nghĩa tích cực như vậy. Càng muốn làm việc có hiệu quả, càng phải biết cách làm việc khoa học, có giờ làm, có giờ nghỉ. Càng muốn đi xa, càng phải chuẩn bị và nghỉ ngơi dưỡng sức.Càng muốn làm việc tông đồ tốt càng phải cầu nguyện, tĩnh dưỡng, và bồi đắp kiến thức, đạo đức, nhân bản vv…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã truyền cho các môn đệ vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi đôi chút. Xin cho chúng con biết xa lánh những công việc bề bộn hằng ngày để có những giờ nghỉ ngơi, tĩnh lặng và cầu nguyện với Chúa, để qua những sự thành công, những thất bại ở đời, chúng con luôn biết dừng lại rà soát, thẩm định và thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa mời gọi hầu chúng con biết tĩnh lặng và bình an.
Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con không vinh vang khi thành công, không thất vọng khi thất bại, nhưng vẫn một mực tin vào Chúa và cậy trông vào Đức Mẹ. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao khi các môn đệ hăng say kể lại những việc thành công của mình trong chuyến đi truyền giáo thì Chúa lại nói với họ:” Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi đôi chút ? “.
2.Nơi thanh vắng là gì ?
3.Các môn đệ nghĩ làm sao khi Chúa nhắc nhở họ hãy nghỉ ngơi ?
4.Nghỉ ngơi đối với Chúa có ý nghĩa gì ?
5.Anh chị em nghĩ gì về câu :” Thấy dân chúng đông đảo Chúa chạnh lòng thương ?”.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có lời hát viết rằng:
“Hãy cho nhau thời gian nhé
Hãy cho nhau bình yên nhé
Để biết ta còn gần nhau dẫu mai về đâu
Hãy vững tin người ơi đường dài còn mãi những nỗi đau
Thì vẫn tin, tương lai mình sẽ có nhau….. “
Người ta nói khi còn yêu nhau thì thời gian luôn là của nhau. Đôi trẻ yêu nhau thì họ dành toàn bộ thời gian bên nhau, nếu vì công việc thì họ vẫn luôn nghĩ tới nhau rồi tranh thủ điện thoại, nhắn tin cho nhau. Cặp vợ chồng yêu nhau thì luôn quan tâm tới công việc của nhau và sẵn lòng dành thời gian để chia sẻ giúp đỡ nhau. Con cái yêu cha mẹ thì dù ở phương xa vẫn tranh thủ về thăm khi có dịp hay ít ra cũng thăm hỏi thường xuyên qua điện thoại, email.
Đúng như lời bài hát khẳng định: “Hãy cho nhau thời gian nhé, để biết ta còn gần nhau dẫu mai về đâu”. Và cho dù đường dài có những nỗi đau thì người yêu nhau vẫn có nhau để chia sẻ ngọt bùi, nhục vinh.
Trong “Ngày hội gia đình và tuổi thơ” tại Sài gòn ban tổ chức đã hỏi các gia đình: “Theo anh (chị), vấn đề lớn nhất ảnh hưởng đến hạnh phúc của mỗi gia đình hiện nay là gì?”. Kết quả, có đến 50 % cho rằng các thành viên quá ít thời gian dành cho nhau, và 50 % còn lại là vấn đề kinh tế, giáo dục con cái hoặc người thứ 3 xen vào.
Có một chị là giáo viên kể rằng: Khi mới lấy nhau, chị dành rất nhiều thời gian để đi chợ, nấu nướng, háo hức chờ chồng về ăn cùng. Nhưng ngày nào cũng thế, chồng chị đi đến nửa đêm mới về, mặc cho vợ dùng hết “vũ khí” từ khóc lóc đến bỏ nhà đi và đòi ly dị nhưng anh chồng vẫn không thay đổi. Đến khi chị có thai, rồi sinh con, chị đàm phán: “Giờ có con rồi, anh phải ở nhà nhiều hơn để lỡ có chuyện gì xảy ra còn kịp xử lý”.
Nhưng chỉ được vài bữa anh lại “ngựa quen đường cũ”, tiếp tục những ngày vắng nhà triền miên với đủ lý do. Chị vừa buồn vừa tiếc công sức mình bỏ ra. Chị nghĩ: “Thời gian đó để làm việc khác chắc sẽ có ý nghĩa hơn”. Rồi từ đó, khi chị sinh con, chị liền gửi con ở nhà ngoại. Còn chị, hết giờ dạy ở trường, chị tìm chỗ dạy thêm. Khi không còn việc gì để làm, chị chạy về nhà mẹ ruột ăn vội chén cơm rồi đón con về nhà. Chồng chị một vài tiếng sau mới về, họ cũng chẳng có thời gian, tâm trí để hỏi han hay tâm sự…
Điều đáng báo động là nhiều gia đình trẻ hôm nay khi cưới nhau về là bỏ rơi nhau. Họ dành thời gian cho công việc sinh sống và quảng đại dành thời gian với bạn bè mà rất ít khi dành thời gian cho nhau. Họ đâu hiểu được rằng trong đời sống vợ chồng việc không có thời giờ cho nhau chính là nguyên nhân đưa đến những hiểu lầm, xích mích, tranh cãi, lạnh nhạt, và nếu không được giải quyết kịp thời nó có thể đưa đến đổ vỡ hạnh phúc vợ chồng.
Nói về thời gian có lẽ không ai là hoàn toàn rảnh rỗi, nhưng nếu còn yêu thì luôn dành thời gian cho người mình yêu. Khi không có yêu thương thì người ta sẽ dành thời gian cho nghỉ ngơi, cho hạnh phúc riêng mình.
Bài phúc âm hôm nay kể rằng sau một ngày vất vả cứu chữa những mảnh đời khổ đau, Chúa Giê-su cũng muốn cùng các môn đệ nghỉ ngơi đôi chút. Các ngài lên thuyền lánh riêng ra nơi khác. Nhưng khi vừa lên tới bờ, các Ngài đã thấy một đoàn người đang khao khát để được Ngài thi ân, giúp đỡ. Ngài chạnh lòng thương và tiếp tục dành thời gian dấn thân phục vụ cho họ.
Là người ky-tô hữu chúng ta hãy biết chạnh lòng thương anh em mình. Chạnh lòng thương là biết dành thời gian cho nhau. Khi ai đó đang cần chúng ta quan tâm hãy dành thời gian cho họ. Khi ai đó đang yếu đau hãy dành thời gian viếng thăm họ. Khi ai đó đang cô đơn hãy an ủi họ. Đặc biệt trong đời sống gia đình đừng bao giờ bỏ rơi người thân khi chúng ta vô tâm đi qua cuộc đời họ mà thiếu chăm sóc, hỏi han đến nhau. Đừng nại vào công việc để rồi quên đi mái gia đình là nơi có những con người đang chờ đón sự ân cần chăm sóc của chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Biết hy sinh cho anh em. Biết sống quảng đại vì anh em. Biết dành thời gian cho con người hơn là công việc hay tiền tài. Xin cho đời sống chúng ta luôn là một lời chứng hùng hồn về tình yêu và lòng quảng đại luôn yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen
.
Anna Cỏ May
Cậu bé vừa đi học về chạy ngay vào trong bếp ríu ra ríu rít với mẹ về điểm mười. Nó kể vì sao được điểm mười và cô giáo khen nó như thế nào? Bà mẹ gật đầu và cười cho tới lúc nó nói hết. Sau khi nói xong, nó mong chờ Mẹ sẽ nói gì với mình. Hiểu ý con, bà mẹ liền nói: “Con của mẹ giỏi quá! Con muốn mẹ thưởng gì nào?”. Nó vừa nhảy lên vừa la: “Con muốn đi siêu thị mua đồ chơi”. Thế là cậu bé được như ý muốn.
Chúng ta cũng thế, sau khi làm được việc gì thành công, chúng ta liền muốn chia sẻ cho một ai đó biết để chung vui với mình. Và các Tông đồ cũng vậy, sau những ngày ra đi rao giảng Tin Mừng và được các làm phép lạ, họ đã “tụ họp quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi công việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy.” (Mc 6,30). Đức Giê-su biết rõ trong lòng các ông như thế nào. Ngài rất muốn khen sự nhiệt tình hy sinh của các Tông đồ, nhưng Ngài vẫn muốn điều gì đó tốt hơn cho các Tông đồ. Bởi đó, ngài đã nói: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6,31)
Sau khi nghe các tông đồ kể chuyện của họ xong, Chúa Giêsu muốn các Tông đồ nghỉ ngơi để lấy lại sức vì Ngài muốn cho họ biết niềm vui đích thật và tron vẹn hệ tại nơi điều gì. Niềm vui mà các Tông đồ chia sẻ là niềm vui thật nhưng chỉ là niềm vui chóng qua. Niềm vui ấy có thể khiến các Tông đồ lạc đường hay không còn là chính mình nữa. Do đó, Ngài mời gọi các Tông đồ hãy tìm một nơi “thanh vắng” để nghỉ ngơi. Nơi ấy, các Tông đồ sẽ nhìn lại được chính bản thân mình, nhìn lại những lời nói và việc làm của mình với người khác. Cũng chính nơi thanh vắng ấy, các Tông đồ sẽ thấy và vui trong niềm vui của Thiên Chúa. Sâu xa hơn, Ngài muốn tập cho các Tông đồ đi vào cuộc sống của Ngài, đi vào cuộc tử nạn với Ngài. Tình yêu của Ngài là thế đó, một tình yêu tận hiến và tuyệt vời. Tình yêu tuyệt vời ấy vẫn luôn nối dài cho đến hôm nay và mãi mãi.
Là những người mang danh Kitô hữu, là những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có muốn được cảm nếm và hưởng tình yêu của Ngài không? Cuộc sống của chúng ta quả thật rất nhộn nhịp, chúng ta luôn luôn bận rộn và chạy theo hạnh phúc “ảo”, nên chúng ta rất khó trong việc nhận ra tình yêu và hạnh phúc thật. Nếu chúng ta cứ chạy theo nhịp sống hiện đại và bận rộn của thế gian thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết mình là ai, mục đích của đời mình là gì, hạnh phúc thạt của đời mình hệ tại điều gì? Chúng ta hãy luôn cân bằng cuộc sống, đừng để niềm vui bên ngoài lôi chúng ta vào vòng xoáy tối tăm. Chúng ta hãy tìm cho mình một nơi “thanh vắng,” chỉ có mình ta với ta và có Thiên Chúa ở cùng vì đó mới lành hạnh phúc thật. Và hãy luôn tạo cho mình một sự thanh vắng bên trong tâm hồn để Chúa đến.
Lạy Chúa, xin giúp con hạ màn che thế gian xuống khỏi tầm mắt chúng con, để chúng con được nhìn thấy ánh sáng của Chúa, xin lấp đầy tâm hồn bằng tình yêu của Chúa để con chỉ sống cho mình Chúa và anh anh chị và và cũng để con được vui trong Chúa và trong anh chị em con. Amen!
.
Hoa Hồng Nhỏ
Người mẹ trẻ sai đứa con tám tuổi của mình mang chục quả trứng sang biếu bà ngoại. Đã khá muộn mà cô con gái chưa về, lòng mẹ lo lắng. Cô bé thấy mẹ đang thái rau liền chạy đến bên thưa:
- Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ…
- Sao vậy con?
- Con làm bể mất hai quả trứng mẹ ạ. Con xin lỗi ông bà rồi, mẹ cũng tha lỗi cho con nha mẹ.
Ôm con vào lòng, người mẹ thủ thỉ:
- Con biết xin lỗi là giỏi lắm. Lần sao con nhớ cẩn thận hơn là được. Bố sắp về rồi, mẹ con mình dọn cơm ăn tối nha.
- Dạ, con cám ơn mẹ!
Khi được giao cho một nhiệm vụ, ta cũng mong muốn hoàn thành cho thật tốt. Hoàn thành nhiệm vụ rồi, lòng ta phấn khởi, hân hoan và muốn được giao cho nhiệm vụ khác nữa. Ta càng giao được cho nhiều nhiệm vụ càng chứng tỏ ta được tín nhiệm. Thế nhưng khi không hoàn thành được nhiệm vụ, ta sẽ ứng xử thế nào? Giấu nhẹm đi hay đơn sơ bày tỏ như bé gái trong câu chuyện trên?
Hôm nay, các Tông đồ trở về tụ họp quanh Đức Giê-su. Các ông được sai đi từng hai người một để rao giảng Tin Mừng. Bây giờ nhiệm vụ đã hoàn thành, các ông đến bên Thầy “kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy.” (Mc 6,30b). Điều đó có nghĩa là các ông kể cho Thầy mình nghe cả những thành công lẫn thất bại của mình. Trên hành trình rao giảng Tin Mừng, có lẽ các ông cũng gặp kẻ cứng lòng tin, những người chối từ sự bình an các ông mang đến. Cũng như kinh nghiệm thất bại của Thầy khi trở về quê hương Caphacnaum, lúc đó có lẽ các ông cũng tự hỏi: “Tại sao họ không tin?” Thầy lắng nghe hết mọi điều rồi ân cần bảo ban: “Chính anh em cũng lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6,31). Thầy không khen ngợi hay chê trách các ông sau một hành trình được sai đi nhưng điều Thầy quan tâm là tình trạng hiện tại của các ông: đói, khát và rất mệt bởi “kẻ lui người tới quá đông khiến các ông chẳng có thì giờ mà ăn uống.” (Mc 6,31b). Thầy chính là người cha và cũng là người mẹ nữa. Đã bao lần, ta hăng hái ra đi trong sứ vụ của mình, khi trở về dù thành công hay thất bại, ta đều đến với thầy Giê-su trong Bí tích Thánh Thể để tâm sự, và hơn hết là được bổ sức. Mỗi lần như thế, ta có cơ hội được nghỉ ngơi, tâm hồn được lắng đọng để cho lời Thầy Giê-su vang vọng trong tâm hồn. Ta được có cơ hội phản tỉnh: “Tôi đã làm gì?” “Tại sao tôi làm thế?” “Bởi đâu tôi làm được như vậy?” Để nhờ đó, ta sẽ nhận ra được tất cả những gì ta đã cống hiến là vì bản thân hay để vinh Danh Chúa hơn. Chúa sẽ thánh hóa tất cả trong công nghiệp của Chúa khi ta biết dâng lên Chúa tất cả những gì ta đã thực thi. Nhờ đó, ta sẽ tìm được thánh ý Chúa và thực thi.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa vẫn luôn lắng nghe mọi điều con thầm thĩ, luôn quan tâm đến tình trạng của con. Xin Chúa cho con hiểu rằng, dù con dấn thân trong bất việc gì, con đều làm nhờ ân sủng Chúa và vì lòng yêu mến Chúa. Thành công hay thất bại thì không quan trọng cho bằng lòng yêu mến Chúa con đặt để mọi nơi mọi việc. Xin cho con biết chạnh lòng thương và sẵn sàng dấn thân phục vụ, bởi trong con tim con có tình yêu ĐỨC Ki-tô thúc bách”(2Cr 5,14) và nếu con có tự hào thì cũng tự hào trong Chúa (x.1Cr 1,31). Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Vui xuân không quên nhiệm vụ, phải chăng đó là lời nhắc khéo giữa người trên kẻ dưới, hoặc tự nơi người trưởng thành đang ý thức về trọng trách mình phải chu toàn. Theo nho giáo: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là 4 bước quan trọng, nhằm đưa dẫn người ta đến đỉnh cao hạnh phúc nhất. Người bình dân thường triết lý: làm việc, nghỉ ngơi, chính là quy trình tạo lập cho cuộc sống đầy ý nghĩa, luôn tuỳ tự do nơi mỗi người. Đại văn hào Voltaire cho rằng, lao động, làm việc, xua tan được 3 mối hoạ lớn: nghèo túng, nhàn rỗi, và thói hư. Người ta sống đâu phải chỉ có cật lực “làm việc”, cổ nhân chúng ta cũng có câu nhẹ nhàng đầy ẩn ý: làm lắm ăn cơm mắm với cà, làm tà tà ăn cơm cà với mắm. Làm việc có nghỉ ngơi, làm việc điều độ có chừng mực, chắc không phải do vụng chèo khéo chống, đúng hơn, nghỉ ngơi làm việc cách hợp lý, năng suất lao động, hiệu quả công việc sẽ phải tốt hơn.
Vị Thầy Giêsu nhắc bảo các đệ tử tìm chỗ nghỉ ngơi, sau một thời gian các ông đi thực tập việc tông đồ, thân xác được nghỉ ngơi hay tinh thần được bổ dưỡng, đều nói lên tính hợp lý giúp xác hồn được ổn định. “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”, đó là tình yêu, là sự quan tâm của Đức Giêsu đối với các học trò. Với đám đông tấp nập tìm đến bên thầy trò Đức Giêsu hôm đó, Vị Thầy lại một lần nữa “chạnh lòng thương bởi họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt”. Sống trong xã hội, làm việc, nghỉ ngơi, là chuyện bình thường, làm việc lao động, vất vả mà không ăn không nghỉ ngơi, sẽ là bất thường. Mang danh phận là kitô hữu, chúng ta được nghỉ ngơi trong một ý nghĩa cao hơn, đó là gặp Chúa, thưa chuyện cùng Chúa, tiếp tục nhạy bén hơn, và trong nghỉ ngơi cầu nguyện, thánh ý Chúa dễ phần thực thi.
Thông thường, người ta vẫn quan niệm nghỉ ngơi là bồi bổ sức khoẻ cho thể xác, là tìm thư giãn cho tâm hồn được thoải mái, hầu nâng cao năng suất lao động, tự tin hơn cho hành trình phía trước. Ngày hôm nay, người trẻ còn lý lẽ khá thuyết phục: học không chơi, phí đời tuổi trẻ, chơi không học, bán rẻ tương lai. Người tín hữu kitô hôm nay, làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, sẽ không phải là hưởng thụ, bồi bổ thân xác bởi những bữa ăn nhậu, nghỉ ngơi là dành cho mình những phút giây thinh lặng cầu nguyện bên Chúa, là lắng nghe được tiếng Chúa phán bảo. Thầy Giêsu cần các học trò khoẻ mạnh về tinh thần thể xác, có sức làm việc lâu dài, không những vậy, Ngài còn cần những ai theo Thầy đều phải có nhiệt huyết tông đồ, phải có trái tim bén nhạy yêu thương.
Nếu người nông dân mong có được thời tiết ưu đãi: mưa thuận gió hoà, cùng với sự cần cù chăm chỉ, họ sẽ tận hưởng mùa màng bội thu. Nếu hành trình đời người, có lưu ý sống mực thước: làm việc tận tâm tận lực, nghỉ ngơi bổ dưỡng cho sức khoẻ, đúng là họ đáng được phần thưởng rồi. Sứ mạng làm con Chúa, chăm chỉ làm việc, nghỉ ngơi theo tinh thần người môn đệ, hẳn người ta đang sống tình liên đới hiệp thông, cầu nguyện, là đang làm sống động cả một chuỗi dài sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Kitô. Lao động, cầu nguyện, không phải chỉ là “linh đạo” của ơn gọi Đan viện Dòng tu, làm việc, cầu nguyện, là cách tô vẽ sự bình an cho tâm hồn, là khôn ngoan để một chút lắng đọng trong tình Chúa và tiếp tục cho hành trình phía trước.
Sau những ngày bôn ba thực tập việc truyền giáo thật phấn khởi bên Thầy Giêsu, chính là lúc các môn đệ đang trở về trong cầu nguyện, thưa chuyện, tạ ơn Chúa. Vị Thầy không khen thưởng, cho dù những học trò hôm đó có báo cáo nhiều thành quả tốt đẹp, Thầy ân cần tỏ dấu hiệu yêu thương: “các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Hành trình đời người môn đệ có dài ngắn khác nhau, và điểm chung vẫn là làm việc, nghỉ ngơi, trong tinh thần cầu nguyện, hầu được tiếp sức, được thấu hiểu thánh ý Chúa, và sống hoàn hảo hơn ơn gọi theo Thầy Giêsu của mình. Kết quả làm việc tuỳ mức độ nghỉ ngơi có khoa học, sứ mạng người tông đồ đẹp, đúng thánh ý Chúa, là tuỳ người môn đệ có cầu nguyện trong Chúa nghiêm túc hay không.
Tục ngữ có câu: tốt khoe, xấu che, vì đó là danh dự của gia đình, của đất nước. Người kitô hữu ở trong cầu nguyện, ở trong Thầy Giêsu, người ta sẽ được biến đổi để trở nên chân thành, tín thác, dám bày tỏ những yếu đuối tội lỗi của mình. Người tín hữu tất bật với trách nhiệm là cha mẹ, và cha mẹ chỉ bình an, đủ năng lực sống, đủ sức mạnh khi có Thầy Giêsu, có cả cuộc đời nghỉ ngơi cầu nguyện chuẩn mực. Người linh mục tu sĩ, ngoài việc “ăn cơm Chúa, múa tối ngày”, tất nhiên phải có lúc ngừng việc “múa hát” để gặp Chúa, thưa chuyện với Chúa, và rút kinh nghiệm phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân cách hữu hiệu hơn. Phận làm con Chúa và Hội thánh, ngoài việc chu toàn trọng trách với gia đình, ai cũng được lưu ý tới phương thế có hiệu quả cao, đó là biết nghỉ ngơi cầu nguyện để đủ sức, đủ ơn Chúa, mà sống ơn gọi của mình cách trọn vẹn hơn. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tin Mừng Chúa nhật thứ XVI thường B tuần này mời gọi chúng ta khám phá tầm quan trọng của sự nghỉ ngơi trong Chúa. Các Tông Đồ trở về từ sứ mệnh Chúa Giêsu đã giao. Họ đã trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau bệnh tật và rao giảng Tin Mừng. Họ mệt mỏi và Chúa Giêsu bảo họ rằng : “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31).
Các Tông Đồ Chúa, sau chặng đường dài thi hành sứ vụ Thầy trao không tiền, không bao bị, không bánh, chỉ một tấm áo mong manh với cây gậy và con tim đầy ắp niềm vui của hành trình loan báo Tin Mừng, các ông đã trở về với Chúa, kể cho Chúa nghe “mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy”. Nhưng Chúa Giêsu khám phá ra sự mệt mỏi, rã rời ẩn bên dưới lớp hào quang của thành công. Vì thế, một đàng đón nhận thành quả đầy an ủi đối với các Tông đồ, đàng khác Chúa Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Với tình thầy trò Người bảo các môn sinh : “Các con hãy hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút”, Người nhẹ nhàng kéo các ông ra khỏi “cơn say” bởi “men chiến thắng”. Sở dĩ như thế là vì Chúa sợ các môn đệ của mình nhiễm cái thói hám danh, thích khoe khoang, phô trương, quyền lực, vì theo Chúa thành công ấy là khởi điểm tốt đẹp cho chặng đường tiếp theo, chứ không làm các ông tự mãn rồi rơi vào ảo tưởng, ngủ quên trong những thành công đầu đời. Đường trước mắt mà thầy trò phải bước không phải là con đường bằng phẳng, mà đó là một con đường dài, đầy gian nan, thử thách, sức lại có giới hạn. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, nghỉ ngơi là cần thiết, nghỉ ngơi sẽ giúp các Tông đồ tỉnh táo hồi tâm suy nghĩ và nhấtlà để Chúa bổ sức cho. Thế nên, điều Chúa nói với các Tông đồ ngày xưa, cũng là điều Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay.
Một trong những cám dỗ mà bất kỳ Kitô hữu nào cũng có thể rơi vào là muốn làm nhiều điều, và khi thành công với muôn lời chúc tụng ta dễ bỏ bê tương quan với Chúa thậm trí quên Chúa luôn. Sự bận rộn và thành tích là những căn bệnh hiện đại khiến nhiều người trong chúng ta đau khổ. Nghỉ ngơi, trái ngược với sự bận rộn là một trong những điều mà Chúa muốn nơi chúng ta. Sách Giáo Lý nhắc nhở chúng ta rằng trong giờ cầu nguyện, một trong những nguy hiểm nhất là nghĩ rằng có những điều khác cấp bách hơn phải làm, thế là chúng ta chấm dứt giờ kinh nguyện và bỏ qua mối quan hệ thân tình với Thiên Chúa mà chúng ta đang có. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với các môn đệ của mình, những người đã làm việc chăm chỉ, những người đang mệt mỏi và những người hạnh phúc vui cười bởi vì mọi thứ diễn ra tốt đẹp của mình rằng chúng ta phải nghỉ ngơi. Tin Mừng nói với chúng ta : “các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh” (Mc 6,33).
Để thực hành một giờ nguyện tốt cần phải có ít nhất tối thiểu hai điều: thứ nhất là ở với Chúa Giêsu, bởi vì ở với Chúa chúng ta mới nói chuyện được với Chúa. Ở bên Chúa là gặp gỡ Người, nhờ đó ta thấy cuộc sống của Chúa không phải là quyền lực, là thành công rực rỡ, nhưng là khiêm nhường, nghèo khó, từ bỏ mình, hy sinh vì yêu thương. Chúng ta phải tin chắc Chúa hiện diện trước mắt chúng ta. Bắt đầu giờ cầu nguyện dù ở bất cứ nơi đâu việc ý thức về sự hiện diện của Chúa là điều cần thiết trước tiên và thường là khó khăn nhất. Có thế, chúng ta mới cảm nghiệm được mình ở với Chúa. Điều thứ hai là sự thinh lặng cần thiết. Nếu chúng ta muốn nói chuyện với ai đó, buổi trò chuyện có thân mật và sâu sắc hay không còn tùy thuộc vào sự lắng nghe. Có thinh lặng chúng ta mới nghe được Chúa nói với chúng ta.
Sức mạnh của chúng ta là nghỉ ngơi trong Chúa. Trong sự thinh lặng và cậy trông! Chúng ta có thể thấy tầm quan trọng trong việc dành thời gian thinh lặng trong đời sống của Chúa Giêsu. Người thức dậy rất sớm và đi vào nơi thanh vắng một mình cầu nguyện (x. Mc 1,35). Người cần thời gian tĩnh nguyện với Thiên Chúa Cha. Đương nhiên, chúng ta cần thời gian đó! Chúng ta không cần phải lấp đầy thời gian biểu của mình với hàng trăm hoạt động làm cho chúng ta bận rộn. Chỉ trong thinh lặng và ở với Chúa chúng ta mới tìm được sức mạnh trong các hoạt động của mình.
Thánh Phêrô Eymard được đề nghị nghỉ ngơi trong Chúa sau khi hiệp lễ. Và ngài cảnh báo chúng ta về nguy cơ khi kết thúc Thánh lễ với những lời mà chúng ta biết bằng trái tim. Ngài nói rằng, sau khi rước Mình và Máu Chúa Kitô, tốt nhất là thinh lặng trong chốc lát để lấy thêm sức mạnh và nhất là để cho Chúa Giêsu nói với chúng ta trong sự im lặng của tâm hồn chúng ta. Đôi khi, thay vì nói với Chúa về các kế hoạch của chúng ta, tốt hơn là để Chúa dạy chúng ta và ban cho chúng ta lòng can đảm.
Trong việc tông đồ chúng ta cũng cần phải có những thời gian nghỉ ngơi, hãy tạm quên đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, để chuyện vãn với Chúa nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả! Với công việc tông đồ chồng chất nhiều khi chúng ta quên mất việc nghỉ ngơi lấy sức. Cần thinh lặng để thẩm định lại những biến cố và rà soát lại những công việc đã làm cùng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Nên nhớ rằng chúng ta đang trên đường lữ hành về trời, con đường vừa hẹp vừa dốc nếu không nghỉ ngơi lấy sức thì không thể đến đích.
Đời sống con người luôn có hai nhịp: lao động và nghỉ ngơi. Lao động chính là phúc lành cho chúng ta, giữa bộn bề cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải làm việc, chăm sóc gia đình… Nhưng đôi khi chúng ta quá mải mê lao động mà quên đi phần tâm hồn thiêng liêng mà Chúa trao tặng cho mỗi người, rồi dần dần chúng ta sẽ rời xa Chúa, hình ảnh của Chúa trong tâm hôn chúng ta sẽ phai nhạt dần đi. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Như khí trời cần cho con người, người Kitô hữu cũng cần phải cầu nguyện.
Vì vậy, chúng ta phải lao động và nghỉ ngơi bên Chúa. Nghỉ ngơi bên Chúa để Ngài bồi dưỡng, tăng cường sức lực tinh thần, cũng như để cảm nếm sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, và nhờ vậy, việc lao động của chúng ta được đổi mới và tràn đầy sáng tạo.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, tin tưởng phó thác vào Chúa. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.
Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Ngài chia sẻ niềm vui với các môn sinh và khuyên nhủ : “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực. Nếu khoảng lặng trong bài hát cần thiết để làm cho ý nhạc thấm vào lòng người nghe, thì lời Chúa làm chững lại câu chuyện hào hứng của các tông đồ cũng giúp các ông nhận ra ý nghĩa cuộc đời tông đồ. Cần thiết phải “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”
Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.
- Thinh lặng là một cõi riêng tư
Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.
Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.
Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.
Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.
Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.
Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.
Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.
Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.
2.Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”, đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
- Thinh lặng để sống nội tâm
Lắm khi trong cuộc sống xô bồ, bận rộn vì cơm áo gạo tiền, bận rộn trong việc đạo đức, lo tập hát, lo đoàn thể, lo các công việc bác ái, xã hội…chúng ta quên đi việc “nạp năng lượng” từ Thiên Chúa.
Ðời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Ðời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi. Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã nhắc nhở chúng con qua Tin Mừng hôm nay rằng, đừng kể lể những gì mình đã làm, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là sự gặp gỡ thân mật với Chúa, nơi là nguồn sống của chúng con. Xin giúp chúng con khám phá ra sự ngọt ngào của Chúa mỗi ngày.
“Lạy Thiên Chúa,Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen” (Mẹ Têrêxa Calcutta).
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tông đồ đón nhận tin vui,
Ra khơi tung lưới, chiều lui trở về.
Vui mừng chiến thắng mọi bề,
Nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, cận kề bên nhau.
Thấy dân vất vả sầu đau,
Chúa thương cứu chữa, xóa lau giọt sầu.
Môn đồ mỏi mệt đêm thâu,
Xuống thuyền sang bến, ngõ hầu tránh xa.
Tìm nơi hẻo lánh xa nhà,
Sườn đồi vắng vẻ, dần dà luyện tâm.
Nhóm người tìm đến âm thầm,
Như chiên xa lạc, dẫn lầm lối đi.
Động lòng thương xót từ bi,
Chúa thương an ủi, những khi đau buồn.
Ban ơn phúc lộc mưa tuôn,
Dưỡng hồn nuôi xác, ban nguồn ân thiêng
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: Các con hãy vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút. Chúa dùng những lời âu yếm thân thương đối với các môn đệ. Chúa quan tâm đến sự cực nhọc vất vả của các ông. Sau một hành trình rao giảng, các tông đồ cần có sự nghỉ ngơi. Sự nghỉ ngơi giúp thư giãn tâm hồn và dễ chịu thể xác. Trong chương trình sáng tạo, Thiên Chúa cũng dùng ngày thứ bảy để nghỉ ngơi. Không phải Thiên Chúa mệt nhọc hay đuối sức cần nghỉ ngơi bồi dưỡng, nhưng đây là một tiến trình tự nhiên cần có cho các loài thụ tạo.
Thiên nhiên cũng hòa trong một nhịp điệu tuần tự qua bốn mùa Xuân, Hạ, Thu và Đông hoặc hai mùa mưa nắng. Cây cối có mùa đâm chồi nẩy lộc, có mùa sinh hoa kết trái và có mùa lá rụng trơ cành. Thiên nhiên phát triển không ngừng. Nơi rừng hoang không cần con người chăm sóc, rừng vẫn xanh và cây cối vẫn đua nhau trổ sinh hoa lá đời này qua đời khác. Luật thiên nhiên là thế, con người sống trong thiên nhiên cũng không thể đi ra ngoài luật tự nhiên. Con người cần phải lao động và cũng cần có những giây phút nghỉ ngơi.
Ngày giờ nghỉ ngơi sẽ giúp bồi dưỡng sức lực cho thân xác và sự tinh anh của tâm hồn. Chúng ta cần có những giây phút thư giãn để giúp tâm hồn thanh thản. Hơn nữa, chúng ta cần có thời gian để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em trong các sinh hoạt của cộng đoàn, giáo xứ và xã hội.
Các Tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng. Các ông đã lăn xả vào các nhu cầu của cuộc sống. Chia xẻ những khốn cùng của dân chúng. Cảm thông những nỗi bất hạnh, lo sợ và khổ đau. Các Tông đồ cũng mệt mỏi và cần sự nghỉ ngơi. Chúa Giêsu biết rõ các nhu cầu tâm linh của các môn đệ. Khuyên các ông lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nơi vắng vẻ là nơi thanh tịnh và dễ dàng cầu nguyện.
Dân chúng thì khao khát lắng nghe lời Chúa. Kẻ đến người đi tấp nập, có người thì thành tâm đến với Chúa, có kẻ đi tìm ân huệ chữa lành và cũng có người thì tò mò đến xem. Chúa đã săn sóc họ như mục tử săn sóc đàn chiên. Chúa chữa trị họ bằng tình thương. Chúa đón tiếp họ không loại trừ ai. Dân chúng bám sát và quây quần bên Chúa. Chúa động lòng thương và nhìn họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn.
Mẹ Têrêxa nói rằng không có gì nghèo hơn và đau khổ hơn là nghèo vì sự bỏ rơi và không được yêu thương. Nếu chúng ta có dịp vào trong các Viện Dưỡng Lão, ngày này qua ngày khác, các cụ ông cụ bà ra ngồi ngoài hành lang chờ đợi con cháu đến thăm. Họ buồn đau khi bị quên lãng. Sự quan tâm lo lắng là một trong những nguồn ủi an cho mọi người.
Chúa quan tâm lo cho các môn đệ. Chúa chạnh lòng thương đến dân chúng. Chúa thấu tỏ tâm can của chúng ta. Hãy dừng đôi phút mỗi ngày chạy đến bên Chúa nơi Nhà Tạm, nơi thanh tịnh vắng vẻ và xin Chúa thêm sức bồi dưỡng cho chúng ta.
.
Lm. Gioan Quốc Toản
Một cha xứ được mời đi ban phép xức dầu cho kẻ liệt. Ông ta là một tội phạm khét tiếng không chút quan tâm đến Thiên Chúa hoặc trời cao đất thấp gì. Đến nơi Cha xứ rất ngạc nhiên khi thấy kẻ hấp hối đang luống cuống lật những trang sách Kinh Thánh. Nghĩ mình có thể giúp được kẻ hấp hối Cha xứ hỏi, “Ông đang kiếm đoạn nào?” Và kẻ liệt lạnh nhạt trả lời, “Tôi đang tìm lối thoát.”
Tin Mừng hôm nay rất thích hợp cho những Kitô hữu đang tìm lối thoát. Thánh Marcô trình bầy hai hình ảnh mâu thuẫn rõ ràng về Chúa Giêsu. Hình ảnh thứ nhất là một Chúa Giêsu nghiêm khắc thiếu tế nhị đã trở mặt với đám đông đang cần đến sự giúp đỡ của Ngài để đi tìm chỗ nghỉ ngơi. Hình ảnh thứ hai là một Chúa Giêsu nhân từ, cảm thông và có lòng xót thương đã không ngần ngại gạt bỏ chương trình nghỉ ngơi để dạy dỗ đám đông dân chúng như chiên không chủ. Vậy thì Chúa Giêsu là một người nghiêm khắc thiếu tế nhị hay là một người nhân từ có lòng xót thương?
Theo thông thường, một người đọc Kinh Thánh ở mức trung bình khi gặp phải tình trạng khó xử này sẽ dễ nhận ra nơi Chúa Giêsu những đức tính thích hợp nhất với chính đức tính của họ. Những người giữ kỷ luật khắt khe sẽ nhìn thấy Chúa Giêsu là một người giữ kỷ luật rất khắt khe và những kẻ có lòng nhân từ yêu người sẽ thấy Chúa Giêsu là một người nhân từ yêu tha nhân. Nếu vậy thì có phải Kính Thánh chỉ là một chiếc gương phản chiếu khuôn mặt của người đọc? Có phải Kinh Thánh chỉ để cung cấp lý lẽ chính đáng cho những lối sống kỳ thị và buông thả mà con người tự chọn? Nếu thật sự là vậy, thì chúng ta chẳng hơn gì kẻ tù tội sắp chết lật mở những trang Kinh Thánh để tìm lối thoát.
Sự thật thì Kinh Thánh là phương tiện để khẳng định và đồng thời thách đố người đọc. Nếu chúng ta đọc Kinh Thánh mong rằng Lời Chúa sẽ thách thức cuộc sống tầm thường thiếu quan tâm đến tha nhân của chúng ta, thì chúng ta rất dễ nhận ra điểm chính của Tin Mừng hôm nay là hình ảnh một Chúa Giêsu hiền từ và xót thương. Điểm này được nêu rõ trong câu 34, “Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:34). Mặc dù Chúa Giêsu đến đây tìm sự thanh vắng để nghỉ ngơi với các môn đệ, mặc dù dân chúng không có lý lẽ để đến quấy rầy Ngài; nhưng, Ngài vẫn có thể nhìn vào những khuôn mặt mệt nhọc và nhận ra những sự cần thiệt của họ. Ngài liền thay đổi chương trình và đáp ứng nhu cầu của họ. Dĩ nhiên Chúa Giêsu có quyền đi nghỉ ngơi, và dĩ nhiên dân chúng không có quyền để quấy nhiễu Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không chú trọng đến quyền lợi của Ngài. Ngài biết đám đông tìm đến Ngài trong cơn tuyệt vọng và Ngài đã sẵn sàng tìm mọi cách để giúp họ khỏi cơn tuyệt vọng đó.
Phần chúng ta, chúng ta sẽ phản ứng hoặc xử thế nào khi phải gặp trường hợp tương tự? Chắc có lẽ chúng ta sẽ trách móc đám đông thiếu tế nhị và truyền cho các môn đệ đuổi họ đi và nếu cần sẽ mời luật pháp đến can thiệp. Cũng có thể chúng ta sẽ nổi nóng, bực tức và đoán xét họ thay vì thông cảm và tìm hiểu sự cần thiết của họ. Nhưng, với một người có lòng xót thương thì họ sẽ đặt mình vào địa vị của người khác để có thể hiểu được những nỗi thống khổ và túng thiếu của kẻ túng thiếu. Một câu châm ngôn thích hợp với người có lòng thương xót là, “Đừng chỉ trích tha nhân trừ khi bạn đã đi được một dặm trong đôi giầy của họ.”
Vậy, nếu Chúa Giêsu là một người giầu lòng xót thương thì tại sao ngay từ đầu Ngài lại tìm cách tránh xa đám đông dân chúng? Thưa, nếu đọc kỹ lại đoạn Kinh Thánh thì chúng ta sẽ thấy hành động đó không phải là một hành động thiếu tế nhị, nhưng cũng là một hành động đầy xót thương; không phải xót thương đối với đám đông dân chúng nhưng thương xót đối với các môn đệ là những người đang cần thời giờ nghỉ ngơi sau một chuyến đi rao giảng mệt nhọc, “Ngài liền bảo các ông: ‘Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.’ Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống” (Mc 6:31). Qua đó, chúng ta thấy cả hai quyết định của Chúa Giêsu là đều do lòng xót thương thúc đẩy. Quyết định thứ nhất là do lòng xót thương các tông đồ và quyết định thứ hai là do lòng thương xót đám đông dân chúng. Không quyết định nào được thúc đẩy bởi lòng ích kỷ nhưng chỉ do lòng thương xót. Quả thật, bài Phúc Âm hôm nay rất ngắn, chỉ trong vỏn vẹn có 5 câu vắn tắt nhưng đã hai lần (hay ba lần) nói lòng thương xót của Chúa Giêsu.
Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta tinh thần xót thương của Ngài để có thể trở nên nhậy cảm và sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu cần thiết của những người chung quanh, như Chúa Giêsu đã thể hiện. Và mỗi người hãy sẵn sàng sống cuộc sống cảm thương cho dù có phải thay đổi chương trình của mùa nghỉ hè hoặc chương trình của cả cuộc sống.
Xin Mẹ Maria là Mẹ đầy lòng yêu thương, giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để dễ cảm thông với những người đang cần đến sự thông cảm.
.
Lm. Nguyễn Thái
Bạn có một nơi nào thật đặc biệt, bí mật, chỉ dành riêng cho một mình bạn lui tới thôi không? Khi tôi còn nhỏ, tôi thích thơ thẩn, chơi một mình đằng sau nhà, dưới những lùm cây. Những lùm cây này làm thành một cái hang trống rỗng, không có một ngọn cỏ nào có thể mọc lên nổi. Tôi thích chơi dưới đó, bày biện đồ chơi ra, nào là máy bay, xe tăng, tàu thủy, quân lính đủ loại binh chủng… mà người lớn không ai nhìn thấy tôi chơi.
Thế rồi khi lớn hơn một chút, gia đình tôi dọn về lập nghiệp trên bờ Sông Bé tỉnh Đồng Nai. Bố tôi có cả một nông trại lớn, với bao nhiêu mẫu ruộng. Đằng trước nhà có một cây đa cổ thụ mọc bên bờ sông, phía sau nhà là rừng và suối. Vào những buổi trưa hè sau khi đi học về, tôi thả bộ dọc theo con đường mòn dẫn vào ven rừng. Gần ven rừng có một cái ao và mảnh đất trống trên đó có cây cổ thụ cao khoảng 30 thước. Cành lá nó che rộng ra như một cái dù lớn, tạo thành một bóng mát tuyệt vời. Những buổi trưa hè nóng nực, tôi thường một mình nằm trên đám lá cây rải trên đất như một chiếc chiếu: nhìn ánh mặt trời xuyên qua những kẽ lá, thưởng thức những ngọn gió mát và lắng nghe tiếng chim ca thánh thót xung quanh. Từ nơi này tôi đã biết suy nghĩ, biết thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên xung quanh và hiểu ra ý nghĩa của cuộc đời.
Mỗi người đều có một nơi nào đó rất riêng tư cho mình. Nơi đó có thể là một chỗ rất đặc biệt, ngay trong nhà bạn, nơi nhà nguyện, trên rừng hoang, ngoài bãi biển… một chỗ cô tịch, một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi, tĩnh tâm và cầu nguyện.
Chúa Giêsu cũng cảm thấy cần phải quân bình giữa đời sống nội tâm và đáp ứng những nhu cầu mục vụ của dân chúng. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 6:30-34, chúng ta thấy Chúa Giêsu gọi các môn đệ của Ngài đi đến một nơi vắng vẻ, hẻo lánh để nghỉ ngơi: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút. Vậy các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng… người ta đi bộ kéo đến nơi đó…” (Mc 6:31-33).
Chỉ trong một đoạn Phúc Âm ngắn, từ ngữ “nơi vắng vẻ” được nhắc đến ba lần. Trong Thánh Kinh có rất nhiều đoạn nhắc đến nơi hoang vu, vắng vẻ. Mô-sê và Êlia đã đi vào nơi hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa (Xh 3:1; 1 V 17:3). Dân Do Thái phải đi trong sa mạc 40 năm trước khi vào đất hứa. Thánh Gioan Tẩy Giả đã đi vào nơi hoang địa để rao giảng sự sám hối và dân chúng kéo nhau theo ngài (Mt 3:1). Chúa Giêsu hay rút lui vào nơi thanh vắng trên núi, thường vào ban đêm để cầu nguyện (Mc 1:35; 6:46; Mt 4:1). Và hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu và các môn đệ nuôi 5000 người ăn uống no nê trong hoang địa.
Trong cuốn chú giải Thánh Kinh, “The Gospel of Mark”, William Barclay đã có những lời giải thích rất phong phú về đoạn Thánh Kinh này như sau: “Ở đây chúng ta nhìn thấy điều có thể gọi là sự nhịp nhàng của đời sống Kitô hữu. Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục đi từ sự hiện diện của con người vào sự hiện diện của Thiên Chúa, rồi lại bước ra, đi từ sự hiện diện của Thiên Chúa vào sự hiện diện của con người. Nhịp điệu này giống như sự nhịp nhàng của giấc ngủ và sự làm việc. Chúng ta không thể làm việc được trừ khi chúng ta có thời giờ nghỉ ngơi; và giấc ngủ sẽ không đến trừ khi chúng ta đã làm việc cho đến khi mệt mỏi.
Có hai điều nguy hiểm trong đời sống. Trước hết, nguy hiểm vì hoạt động quá mức. Không ai có thể chỉ mải mê làm việc mà không cần sự nghỉ ngơi; và cũng không có ai có thể sống đời sống Kitô hữu hoàn hảo trừ khi người đó tự dành thời giờ của mình cầu nguyện với Thiên Chúa. Tất cả những xáo trộn trong đời sống sở dĩ có thể xảy ra vì chúng ta đã không cho Thiên Chúa cơ hội để trò chuyện với chúng ta; chúng ta không biết im lặng và lắng nghe. Chúng ta đã không cho Thiên Chúa thời gian để ban lại cho chúng ta nghị lực và sức mạnh tinh thần. Làm thế nào chúng ta có thể vác được những gánh nặng của cuộc sống nếu chúng ta không tiếp xúc với Ngài, Thiên Chúa của tất cả mọi sự tốt lành trong cuộc đời? Làm thế nào chúng ta có thể thi hành được công việc của Thiên Chúa trừ khi bằng chính sức mạnh của Ngài? Và làm thế nào chúng ta có thể đón nhận được sức mạnh của Ngài trừ khi chúng ta kiếm tìm trong cô đơn thinh lặng và trong sự hiện diện của Thiên Chúa? Điểm thứ hai, nguy hiểm vì quá thụ động. Lòng nhiệt thành sùng đạo mà không có hành động thì không phải là sự sùng đạo thực sự. Cầu nguyện mà không có hành động thì không phải là sự cầu nguyện thực sự. Chúng ta không được phép tìm kiếm sự thân tình với Thiên Chúa để tránh né tình bạn hữu với con người, vì tình nghĩa với Thiên Chúa là để giúp chúng ta cải thiện tình người trở nên tốt đẹp hơn. Sự nhịp nhàng của đời sống Kitô hữu là sự gặp gỡ luân phiên với Thiên Chúa ở nơi vắng vẻ và sự phục vụ con người giữa phố chợ.
Sự nghỉ ngơi mà Chúa Giêsu đi tìm cho chính Ngài và cho các môn đệ của Ngài không phải là loại nghỉ ngơi thụ động. Đám đông đã trông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tránh né họ, tới một chỗ đặc biệt. Chỗ này, nếu dùng thuyền bơi ngang qua hồ thì xa khoảng 4 dặm, và nếu đi bộ vòng quanh hồ thì 10 dặm. Vào một ngày không có gió, hay gió ngược, một con thuyền phải mất một thời gian khá lâu để vượt qua khoảng cách này, và một người đầy nghị lực, khỏe mạnh có thể bước đi bộ xung quanh hồ và tới đó trước khi con thuyền đến. Đây chính là điều đã xảy ra. Và khi Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài vừa bước ra khỏi thuyền thì họ đã trông thấy đám đông đi bộ đến đó trước rồi.
“Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng, vì họ như đàn chiên không người chăn” (Mc 6:34). Nguyên tắc mục vụ của Chúa Giêsu dựa trên đời sống cầu nguyện kết hợp với Đức Chúa Cha và lòng thương yêu dân chúng.
Kết hợp đời sống cầu nguyện, cử hành Phụng Vụ Thánh của Giáo Hội, nhất là Bí tích Thánh Thể, và hoạt động trong sự hiệp thông cùng một tâm hồn với nhau theo gương các tín hữu của Giáo Hội sơ khai (Cv 4:32), các Kitô hữu đã sống và cử hành đức tin một cách sống động (GLCG #3, 15).
Người xưa có một chú bé muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Chú nghĩ chắc phải vượt qua một đoạn đường dài lắm mới tới được chỗ Thiên Chúa ngụ, nên chú gói ghém đầy đủ lương thực, gồm bánh và nước ngọt trong cái túi sách. Rồi chú bắt đầu cuộc hành trình. Khi vừa ra đi được 3 khu phố, chú gặp một ông lão đang ngồi ở ghế công viên ngắm nhìn những con chim bồ câu. Chú bé đến ngồi bên cạnh ông lão và mở túi sách ra. Khi chú bé sắp sửa khui một lon nước ngọt ra uống, chú thấy ông lão có vẻ đói bụng; chú bé bèn lấy cho ông một cái bánh. Ông lão đón nhận cái bánh một cách rất biết ơn, và nhìn chú bé mỉm cười. Nụ cười của ông lão tươi đẹp làm sao! Chú bé cứ muốn nhìn nó mãi. Chú bé cho ông lão một lon nước ngọt. Một lần nữa, ông lại nhìn chú bé mỉm cười.
Chú bé sung sướng quá! Họ ngồi với nhau suốt buổi trưa ăn bánh, uống nước ngọt, và mỉm cười với nhau mà không nói với nhau câu nào. Đến chiều tối, chú bé nhận ra mình đã mỏi mệt và phải trở về nhà; nhưng trước khi rời gót, chú bé quay lại, ôm lấy ông lão từ giã. Ông lão lại nở một nụ cười rất tươi chưa từng có.
Khi chú bé vừa mở cửa bước vào nhà, mẹ chú rất đỗi ngạc nhiên vì niềm vui không thể che giấu được trên khuôn mặt của nó, bèn hỏi: “Hôm nay con làm gì mà sao con vui quá vậy?” Nó trả lời: “Con ăn trưa với Chúa.” Trước khi mẹ nó đáp lại, nó nói tiếp, “Mẹ biết gì không? Ngài có nụ cười thật đẹp mà con chưa bao giờ thấy!”
Trong khi đó, ông lão cũng trở về nhà với nguồn vui rạng rỡ trên khuôn mặt. Người con trai ông thấy vậy liền hỏi: “Ba à, hôm nay sao ba vui quá chừng vậy?” Ông lão đáp: “Ba đã ăn donut trong công viên với Chúa.” Ông nói thêm: “Con biết không, Chúa trẻ trung hơn là ba nghĩ nhiều!”
Sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, yêu thương tha nhân và hài hòa với chính cuộc sống riêng tư của mình là lý tưởng của người môn đệ Chúa Giêsu. Một tác giả nào đó đã cho ta những lời khuyên như sau: “Hãy dành thời giờ để VUI CƯỜI, vì đó là tiếng nhạc của tâm hồn. Hãy dành thời giờ để SUY NGHĨ, vì đó là nguồn sức mạnh. Hãy dành thời giờ để CHƠI ĐÙA, vì đó là bí mật để trẻ mãi không già. Hãy dành thời giờ để ĐỌC SÁCH, vì đó là nền tảng của sự khôn ngoan. Hãy dành thời giờ để CẦU NGUYỆN, vì đó là sức mạnh lớn nhất của con người. Hãy dành thời giờ để YÊU VÀ ĐƯỢC YÊU, vì đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Hãy dành thời giờ để KẾT BẠN, vì đó là con đường dẫn tới hạnh phúc. Hãy dành thời giờ để MƠ ƯỚC, vì nó sẽ làm nên tương lai. Hãy dành thời giờ để LÀM VIỆC, vì đó là cái giá phải trả cho sự thành công. Hãy dành thời giờ cho THIÊN CHÚA, vì đó là cách ta phải sống.”
.
Lm. Đinh Lập Liễm
Đức Giêsu Động Lòng Thương.
Đây là lần đầu tiên và duy nhất, Marcô gọi các môn đệ là “Tông đồ” (apostoloi) (Mk 6:30), có nghĩa là “những kẻ được sai đi.” Tuần vừa qua, ta đã nghe Ngài dặn dò các Tông Đồ khi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Hôm nay các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông kể lại cho Chúa những việc đã làm, giảng dạy và làm phép lạ, thành công và thất bại, kể cả những sự chống đối, khước từ và lãnh đạm. Đức Giêsu lắng nghe các ông. Ngài chia sẻ niềm vui với các ông, nhưng nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt sau một cuộc truyền giáo, nên Ngài bảo: ”Các con hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút” (Mk 6:31).
Đức Giêsu đề nghị với các ông đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là “Stress” có hại cho công việc tông đồ cũng như các công việc khác của con người.
Điều này nhấn mạnh rằng Đức Giêsu muốn bảo các Tông Đồ sống riêng với Ngài, xa hẳn đám dân chúng để có bầu khí tương giao mật thiết hơn đối với Ngài và với nhau. Điều này cũng được biểu lộ khi Đức Giêsu chọn các Tông Đồ “để ở với Ngài” trước khi sai họ đi giảng (Mc 3,14) và ngay sau khi đi truyền giáo về, Ngài cũng muốn đem các ông đi nghỉ ngơi với Ngài.
Ngoài ra, ở đây ta cũng thấy Đức Giêsu không đề cập tới công việc của các ông, nhưng Ngài lại lưu ý riêng đến chính bản thân các ông: ”Các con hãy nghỉ ngơi một chút” (Mk 6:31) chứng tỏ rằng Ngài săn sóc cách riêng đến chính bản thân cộng sự viên của mình.
Đức Giêsu muốn cùng các Tông Đồ xa rời đám đông sang bên kia Biển Hồ để Thầy trò sống thân mật và trao đổi tâm sự với nhau. Tuy vậy, dân chúng nhìn hướng đoán trước được thuyền của các Ngài định đi đến đâu. Từ Capharnaum đến miền lân cận Betsaiđa và Giulia xa chừng 10 cây số, dân chúng không quản ngại đi bộ, nên họ đến trước Đức Giêsu. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy dân chúng đã đợi sẵn ở đó thật đông, Ngài chạnh lòng thương vì đám dân này sống bơ vơ như đàn chiên không có người chăn (Mk 6:34).
Thánh Marcô, giống như nhà quay phim tài ba, đã thu cảnh khuôn mặt Đức Giêsu lúc Ngài rời khỏi thuyền bước lên bờ; một khuôn mặt dịu hiền khôn tả, khuôn mặt của người cha nhân hậu, khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, khuôn mặt của một vì Thiên Chúa không ngăn nổi nhịp đập thổn thức của con tim giầu lòng thương xót và hay trắc ẩn.
Đức Giêsu là hiện thân của một Thiên Chúa mang “trái tim đa cảm” trước đau khổ của con người. Chưa bao giờ Ngài nặng lời với hạng người mang tiếng là “tội lỗi” hoặc khước từ thi ân giáng phúc cho những người bé mọn. Ngài là một bậc thầy nhân ái biết lắng nghe các môn đệ phúc trình công việc, nhưng thương họ vì thấy họ cần được nghỉ ngơi. Ngài cũng tỏ lòng nhân ái khi thấy đám dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn và dạy dỗ họ nhiều điều.
Bài Tin Mừng diễn tả: chung quanh Đức Giêsu lúc nào cũng có đám đông muốn nghe lời Chúa và muốn được Ngài thi ân. Ngài làm việc không biết mỏi mệt. Thậm chí các Tông Đồ vừa đi truyền giáo về mệt nhoài, cần sự tĩnh dưỡng nghỉ ngơi bên Chúa, nhưng cũng không được (Mk 6:31). Chương trình nghỉ ngơi đã bị phá vỡ vì dân chúng lại đến quấy rầy, họ muốn nghe lời Chúa: họ muốn được chữa bệnh, việc đó làm cho Ngài và các Tông Đồ bận rộn đến nỗi không có thời giờ ăn uống (Mk 3:20). Nhưng trước hoàn cảnh ấy, Đức Giêsu đã không bực dọc, Ngài tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Ngài. Ngài xúc động vì thương yêu họ.
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư: “Bạn xoay sở thế nào để làm việc được với quá nhiều lần gián đoạn như thế?” Ông giáo sư trả lời: “Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi.” Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời giờ cho công việc của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại, ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường (Flor McCarthy).
Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta.
Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói: “Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và – Nào ai biết được? – Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày.”
Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu Ấn Độ, đã viết trong tập tự thuật của ông: ”Từ xưa cho đến mãi bây giờ, sứ điệp chúng ta cho thế giới chưa tin Chúa vẫn là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi người (Mt 5:45). Đúng thế, chúng ta không nên quá bận rộn đến nỗi không dành được thời giờ cho người khác, và đừng bao giờ tự ý coi họ là kẻ gây rối phiền hà cho mình.” Nếu chúng ta lấy lý do bận rộn không chịu tiếp người khác thì chúng ta mất ngay những người khách đó; họ không bao giờ trở lại nữa.
Sự chú trọng hình thức, nghi lễ của một viên chức Giáo Hội đã làm cho một người bạn trở thành một kẻ thù. Một cơ hội cho Chúa đã bị đánh mất vì một người quá câu nệ hình thức lễ nghi, đã không chịu để cho đời sống riêng tư của mình bị quấy rầy. Một số người vì không muốn để cho người khác đụng đến cuộc sống riêng tư của mình mà đã làm mất cơ hội cho Chúa. Đức Giêsu không bao giờ xem ai là mối phiền hà cho mình, dù lúc Ngài cần nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nhìn đám đông, Ngài cảm động và thương xót họ; họ quá ư nhiệt thành; họ quá mong muốn điều mà chỉ một mình Ngài mới ban cho họ được.
Đức Giêsu luôn quan tâm săn sóc mọi người khi họ cần đến Ngài. Ngài sẵn sàng đến nhà ông trưởng hội đường Giairô cứu con gái ông sắp chết (Mc 5,21-24. 35-43). Ngài sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của một viên sĩ quan đại đội trưởng đến chữa bệnh cho đứa đầy tớ của ông (Mt 8:5-10). Ngài đã dành biết bao thời giờ cho việc rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh. Ngài không mệt mỏi phải thi ân. Ngài luôn quan tâm săn sóc mọi người (Mk 1:32-39).
Quan tâm săn sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Một số người muốn săn sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã chỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ.
Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu săn sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Khi chúng ta dành thời giờ để chăm sóc người khác, là chúng ta đang sống Tin Mừng.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại một ngày nọ, Mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy Điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Tuy nhiên khi Mẹ rảo quanh một vòng, Mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế? Chị điều dưỡng đáp: ”Họ mong ngóng có người đến thăm họ.” Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ. Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay.” Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế.” “Không một ai đến!” Câu nói này ám ảnh Mẹ Têrêsa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất (Flor McCarthy).
Tôi đã có dịp đọc cuốn “No man is an island” của Thomas Merton, cái nhan đề này đã nói lên rất nhiều về nội dung của cuốn sách cũng như tư tưởng chính yếu của tác giả. Nó chính là một câu trả lời gián tiếp cho những ai chủ trương rằng con người là một thế giới khép kín, là một con vật bị đọa đầy, bỏ rơi; một mình đương đầu với số mệnh mù quáng và phũ phàng trong một thế giới mà mọi người và mọi vật khác đều xa lạ nếu không là thù địch với mình.
Đọc trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn thông cảm với những đau khổ của con người, ví dụ Ngài khóc thương thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá (Lc 19,41), chạnh lòng thương người con trai của bà góa phụ thành Naim khi người ta đem con bà đi chôn (Lc 7,11-17) và khóc thương bên mồ Lazarô đã chết bốn ngày (Jn 11:35). Đó là ba trường hợp Đức Giêsu tỏ ra thông cảm bề ngoài với những giọt nước mắt nóng hổi như chúng ta. Đức Maria cũng tỏ ra lo lắng khi chủ nhà giữa tiệc hết rượu tại Cana, Ngài đã xin Đức Giêsu can thiệp và phép lạ nước thành rượu đã được thực hiện (x. Ga 2,1-11).
Thánh Phaolô Tông Đồ đã đưa ra một học thuyết mới về thân thể Đức Kitô (Rm 12:5; I Cor 12:12): Giáo Hội là một thân thể, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể của thân thể ấy, tức là chi thể của nhau. Các chi thể liên lạc mật thiết với thân, với đầu và với nhau, nên anh em có giây liên lạc với nhau một cách đặc biệt. Vì thế, Thánh Tông Đồ dân ngoại đã khuyên chúng ta phải biết thông cảm với nhau: ”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12:15).
Người đời cũng nhận thấy rằng mình không thể sống đơn độc được, cả về vật chất lẫn tinh thần. Con người có nhu cầu vật chất cần trao đổi, có những tình cảm cần phải được chia sẻ trong đời sống thường ngày. Nhờ đó, đời sống con người mới được quân bình.
Đức Giêsu quan tâm đến con người hơn là công việc: ”Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31). Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ cuộc sống đứng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài” đến giai đoạn suy tư “bên trong.” Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washington Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: ”Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình Ngài xếp đặt cho tôi.” P. Doncoeurđã quả quyết: ”Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện.” Ernest Hello cũng quả quyết: ”Tâm hồn càng nhận được nhiều trong yên lặng thì càng ban phát nhiều trong khi hoạt động.” Maurice Barrès đã viết trong cuốn sổ tay của ông: ”Trong đời sống hấp tấp và đa đoan của chúng ta, có những giây phút người ta cũng cần cầm trí lại tận trong đáy lòng, khác nào trở về nguồn, và từ đó nhìn cho rõ hơn mình đi đâu, đâu là nơi mình phải đến và nắn lại đường đi của mình cho ngay thẳng.” Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài.” Đức Giêsu làm gương yêu thích sự thinh lặng và dạy môn đệ theo con đường đó.
Đức Giêsu không nghĩ đến mình; Ngài chỉ quan tâm đến người khác. Ngài rất nhạy cảm trước những đau khổ của con người. Ngài đáp ứng những nhu cầu của họ nhằm đưa họ đến hạnh phúc. Hạnh phúc của người khác là đối tượng tình thương của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con một quả tim như Chúa, biết cảm rung trước những bất hạnh của anh em. Xin cho con đừng bao giờ than vãn khi bị quấy rầy, cho con dám quên mình vì Chúa, bởi Chúa đã vì yêu mà trao ban tất cả.
.
TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC THIÊNG LIÊNG
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.
Ông Delia kể tiếp: “Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân.”
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Vì em cũng chẳng biết tên của mình nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn:Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan… nên em không thể thành người. Tuy có hình hài con người nhưng em lại mang tính cách của loài chó hoang.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giê-su (Mt 4,4).
Khao khát lương thực tinh thần
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả khó nhọc, các Tông Đồ tụ họp quanh Chúa Giê-su và kể cho Ngài biết thành quả các ông vừa đạt được. Bấy giờ đám đông dân chúng tuôn đến đông đúc, kẻ tới người lui tấp nập, khiến các môn đệ không còn giờ nghỉ ngơi và ăn uống. Chạnh lòng thương các Tông Đồ vất vả nhiều mà chẳng được nghỉ ngơi, Chúa Giê-su bảo các ngài hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút.
Kế đó, Chúa Giê-su và các môn đệ xuống thuyền tìm chỗ nghỉ ngơi. Đoàn dân chúng đoán biết địa điểm mà Chúa Giê-su và các môn đệ sẽ tới, nên họ vội vã chạy đến nơi ấy trước Chúa Giê-su.
Thế là khi vừa bước lên bờ, Chúa Giê-su lại gặp đông đảo những người mà Ngài mới từ giã họ để lánh qua đây.
Trước đám đông dân chúng đổ xô đến với mình như đoàn chiên không có người chăn dắt, Chúa Giê-su chạnh lòng thương xót họ và ban cho họ thứ lương thực thiêng liêng tối cần thiết là những lời dạy dỗ khôn ngoan. (Mc 6,34)
Hôm nay, chúng ta không phải vất vả tìm kiếm Chúa Giê-su để được đón nhận Lời khôn ngoan của Ngài như đám đông người Do-thái được thuật lại trên đây, vì chúng ta có Lời Chúa ở bên cạnh chúng ta, có Chúa Giê-su là hiện thân của Sự Khôn Ngoan đang sống giữa chúng ta.
Vấn đề quan trọng là chúng ta có mở tâm hồn ra để đón nhận, có bỏ công sức để khai thác “Kho Tàng” vô giá này hay không.
Khai thác kho tàng trong tầm tay
Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp mặc dù tổ tiên họ sở hữu một kho báu vĩ đại nằm ngay dưới chân mình. Đó là nguồn dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng đen” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có.
Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giê-su, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
* * *
Muốn bắt được cá lớn, người ta phải dong buồm ra khơi vì không ai có thể câu được cá lớn ven bờ. Muốn tìm được trầm hương, người ta phải lặn lội vào rừng sâu đầy gian nan hiểm trở… Vậy muốn tìm được kho báu, chúng ta phải chấp nhận gian lao thử thách.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con sẵn sàng hy sinh thời giờ và công sức để tìm kiếm và khai thác “Kho báu” trong Tin Mừng của Chúa, nhờ đó chúng con được trở nên giàu có trong đời sống thiêng liêng, được hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Sau một cuộc hành trình truyền giáo,
các tông đồ phấn khởi trình bày cho Ðức Giêsu
những gì mình đã làm và đã dạy.
Ðức Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc.
Ngài biết các tông đồ giờ đây cần gì.
Họ cần một chút nghỉ ngơi cho thân xác.
Họ cần một chút riêng tư, trầm lắng cho tâm hồn,
để nhìn lại phía sau, để nhìn về phía trước,
để tách mình ra khỏi công việc bề bộn nơi đám đông,
để sống tình thầy trò ấm áp.
“Hãy đi riêng ra, đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút.”
Chỉ cần một chút thôi, năm phút, mười phút…
Ai trong chúng ta cũng cần một chút lặng lẽ mỗi ngày,
để trở lại chỗ sâu nhất của lòng mình,
để nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Cần tìm một chỗ lặng lẽ trong nhà,
để tôi có thể ngồi với tôi, trước nhan Chúa.
Cuộc sống hôm nay không để cho ta một chút nghỉ ngơi.
Các tông đồ cũng bị cuốn vào cơn lốc của công việc.
Cần phải phấn đấu để có được một chút mỗi ngày.
Một chút lắng sâu đủ nuôi cả ngày.
Một chút êm ả khi ta đã làm mình rỗng không
khỏi bao điều đã nghe và thấy, đã nói và ước mơ.
Phải xuống thuyền để đi đến nơi nghỉ ngơi.
Phải ra khỏi chỗ mình đang sống.
Thầy trò đã lên thuyền, nhưng kế hoạch bất thành.
Có lẽ vì ngược gió nên thuyền đi chậm.
Một số người đã chạy đến trước nơi Thầy trò sắp ghé vào.
Ðức Giêsu sững sờ khi thấy đám đông.
Những bước chân nôn nao, hối hả của họ
đã khiến Ngài rung động tận cõi lòng.
Ngài biết họ cần Ngài và Ngài thương họ.
Cái cần của tập thể thật cấp bách
đến nỗi nhu cầu chính đáng của cá nhân phải hy sinh.
Ðức Giêsu mang trái tim của người mục tử nhân hậu,
nhói đau trước sự bơ vơ của đoàn chiên.
Bơ vơ là tâm trạng của con người mọi thời,
nhất là của người trẻ hôm nay.
Bơ vơ khi bị ném vào cuộc đời lọc lừa, xảo trá.
Bơ vơ khi bị nghiền nát bởi những thủ đoạn gian manh.
Bơ vơ khi bị sa sảy, không sao đứng lên được.
Bơ vơ khi những thần tượng lần lượt tan vỡ.
Bi bơ vơ dẫn đến chán chường và buông trôi,
mặc cho mình bị kéo vào những cái bẫy nghiệt ngã.
Làm thế nào để người bạn trẻ gặp được Giêsu,
để lấy lại niềm tin, để tìm được hướng sống,
để vững vàng bình an giữa sóng gió cuộc đời.
Tôi phải giới thiệu Ðức Giêsu cho người khác,
nhưng tôi cũng phải trở thành một Giêsu gần gũi
để đến với những ai bơ vơ quanh tôi.
Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông,
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại,
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó,
trầm lắng và bình an.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tông đồ Gio-an đã cho ta một định nghĩa rất tuyệt vời về Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu”, rồi sau đó ông cố gắng giải thích cho ta hiểu tình yêu đó là như thế nào (1 Ga 4:7-11). Đức Giê-su cũng giảng giải cặn kẽ cho ông Ni-cô-đê-mô biết về thứ tình yêu ấy: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3:16-18). Các lời giải thích trên thật siêu việt và đầy tính thuyết phục ngay cả đối với một bậc ráp-bi trong dân, tuy nhiên tình yêu không phải là điều gì thuần tư duy; tình yêu thuộc lãnh vực cảm nghiệm và biểu lộ nhiều hơn. Biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa chính là cái chết thập giá của Đức Giê-su, do đó cảm nghiệm của ta chỉ trở nên sâu sắc khi vào sâu trong cái chết tự hiến của Người. Thế nhưng tình yêu, ngoài biểu lộ đỉnh điểm và mãnh liệt trên Thập Giá, vẫn còn có thể biểu lộ bằng nhiều cách khác, bình dị hơn nhưng không kém phần sâu sắc mặn mà. Tác giả Mác-cô, qua đoạn văn Tin Mừng ngắn gọn và giản dị hôm nay, muốn chúng ta chạm được tới thứ tình yêu rất nhân bản đầy tình người đó.
Các tông đồ mệt nhọc sau chuyến đi truyền giáo trở về, hẳn sẽ nghiệm thấy một tình cảm nồng ấm như thế nào khi nghe Thầy Giê-su ân cần: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Các ông có lẽ đã không ngờ những lời đậm đà như thế lại được thốt ra từ môi miệng một bậc thầy được thiên hạ kính nể với những lời giảng dạy cao siêu đầy uy lực, ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư’ (Mc 1:22). Các ông càng không thể ngờ được rằng, nếu Thầy Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể gần gũi và ân cần chăm sóc tới từng chi tiết của cuộc sống đời thường của con người đến thế?
Cựu Ước đã nhiều lần cho thấy Đức Chúa Gia-vê chăm sóc dân riêng tới từng chi tiết cuộc sống; trong thời xuất hành, Ngài hàng ngày chu cấp cho họ Man-na, thịt chim trời và nước uống trong mát (Xh 16:17), cho mây che ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (Xh 13:21). Tuy nhiên đó vẫn là một Đức Chúa quyền uy cao vời, và dân Híp-ri phải luôn kính phục. Thế cho nên cái cảm nghiệm về một Thiên Chúa sống giữa loài người đầy ắp yêu thương thì chưa ai từng đã có bao giờ. Là các thủ lãnh tương lai của Giáo Hội, chắc chắn các tông đồ cần phải biết tới cảm nghiệm này: và mọi phần tử của Hội Thánh qua các thời đại cũng cần phải có nữa. Riêng các Ki-tô hữu, không trừ một ai, trong một mức độ nào đó, cũng cần nghiệm thấy như thế trong cuộc sống hàng ngày của mình, nhất là khi họ mở miệng tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã trở nên giống con người mọi đàng, và cư ngụ giữa chúng ta (xem Pl 2:6-8). Lúc đó, phải, chỉ lúc đó, thực tế này không còn chỉ là một suy tư thần học, một mầu nhiệm cao vời, mà phải trở thành một kinh nghiệm sống ngọt ngào thường ngày.
‘Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt’.
Cựu Ước hầu như muốn dành sự chăm sóc của Đức Chúa Gia-vê cho riêng dân Do Thái của Ngài mà thôi. Các tiên tri sau này chỉ dám ám chỉ xa xa rằng Thiên Chúa cũng quan tâm tới các dân tộc khác và muốn qui tụ họ (xem Is 2:2). Phần các môn đệ, sau cảm nghiệm riêng tư thân mật, các ông đã được dẫn tới một trải nghiệm khác: sự quan tâm nhân ái của Thầy Giê-su mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là những ai bơ vơ vất vưởng. Chuyến đi truyền giáo cho các ông cái kinh nghiệm đầu tay về việc thiết lập một dân riêng mới, nhưng dân này sẽ không hề có tính biệt loại (exclusive). Vừa cảm thấy được Thầy Giê-su ân cần chăm sóc, các ông liền được cho biết, cõi lòng từ nhân của Người mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là cho các kẻ tội lỗi lầm lạc. Sau này rất nhiều lần khác nữa, Người không ngừng khảng định điều này…, và đây mới chính là đặc điểm không thể nhầm lẫn của đoàn dân mới là Hội Thánh (xem Mc 9:38-40; Lc 9:49-55). Như Phao-lô đã từng khảng định, mọi Ki-tô hữu cần nhận thức điều này: phe phái, biệt loại dưới bất kì hình thức nào, đều đi ngược lại với cõi lòng từ nhân của Đức Ki-tô, vì Người tới để phá bỏ mọi bức tường ngăn cách (xem Gl 3:27-28).
Tôi có thể đi tới kết luận cho chính bản thân mình rằng: càng có được cảm nghiệm riêng tư về lòng nhân ái Chúa, do được ưu ái chăm sóc cách đặc biệt (như khi nhận được ơn gọi Ki-tô hữu, tu sĩ SDB, linh mục…hay gặt hái được thành công…, vượt qua được thử thách…), tôi càng phải biết mở rộng cõi lòng hơn để vượt thắng mọi hình thức phân rẽ: lương – giáo; triều – dòng; tu – đời, đạo đức – khô khan; tốt – xấu.., để trên hết, lòng từ bi thương xót Chúa phải bao trùm trên tất cả trong tôi. Nếu cõi lòng tôi chưa được như thế, thì có nghĩa là cảm nghiệm về lòng thương xót Chúa nơi tôi chưa thật sự chân thành và sâu sắc.
Lạy Thầy Giê-su từ bi và nhân hậu, xin đừng để con run sợ trước các cảm nghiệm về sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa, hay sự cao siêu bóng bảy trong các học thuyết Người loan truyền. Lòng con khao khát hơn một cảm nghiệm nồng ấm vì thấy mình được chăm sóc mến thương, nhất là được xót thương tha thứ. Xin cho con có được mỗi ngày vài giây phút gần gũi thân mật trong tâm tình và cảm nghiệm: mình được Chúa yêu thương chăm sóc. A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi. Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giê-su áp dụng cho các học trò của mình. Sau khi các tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn. Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình. Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.
Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được mọi người yêu mến và nể phục. Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ để cầu nguyện trước Chúa Giê-su Thánh Thể. Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện. Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa Giê-su Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa ?”. Cụ già chất phác và chân chất trả lời “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả. Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi”. Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm của cỏi lòng. Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.
Chính Đức Giê-su cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện. Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện. Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha. Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.
Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy. Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông. Moise cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập. Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa. Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người. Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ. Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình. Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.
Bác học Ampère đã nói: “ Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện”. Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa. Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện. Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song. Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế. Lời căn dặn Chúa Giê-su ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyến mời Chúa nói với chúng ta hôm nay “ Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình. Vị ẩn sĩ đó trả lời “ Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối. Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch”. Anh thương gia hỏi lại “ Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?” Vị ẩn sĩ nói tiếp: “ Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng ”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai. Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa. Chính Đức Giê-su đã nói “ Không có thầy, anh em không làm được gì.”
Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng. Chúa Giê-su đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế. Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giê-su đã thể hiện một trái tim yêu thương. Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giê-su đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên. Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác. Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên. Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giê-su.
Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay. Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình. Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn. Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi. Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối sống tục hóa. Người môn đệ Chúa Giê-su muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.
Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giê-su, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.
Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Đức Giê-su chính là sự bình an của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “ Người đã đến loan Tin Mừng bình an : Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”
.
JM.Lam Thy
Bài Tin Mừng tuần trước (CN XV/TN-B – Mc 6, 7-13) trinh thuật Đức Giê-su Ki-tô sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Sau một thời gian, các môn đệ trở về “kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa.” Bài Tin Mừng hôm nay (CN XVI/TN-B – Mc 6, 7-13) trình thuật tiếp việc “thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng”. Tuy nhiên, đám đông “hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.” Đó là lý do khiến Thầy “chạnh lòng thương” và lại “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Không gì hạnh phúc bằng những thành quả gặt hái được sau chuyến “được sai đi” của các Tông đồ; đó là được người ta đón nhận và đi theo các ngài rất đông, đông đến độ không còn thì giờ để các ngài ăn uống (Mc 6, 31). Chính vì thế, các môn đệ đã rất phấn khởi thuật lại những kết quả tốt đẹp đó cho Thầy nghe. Đức Ki-tô hiểu tường tận những thành quả của các môn đệ, nhưng Người lưu tâm đến Lời Người đã hứa từ trước khi sai các môn đệ đi rao giảng. Đó là “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30).
Sau một chuyến công tác vất vả nhưng đạt hiệu quả cao, thì vấn đề nghỉ ngơi bồi dưỡng chính là phần thưởng phù hợp nhất. Sự nghỉ ngơi không chỉ đơn thuần mang tính cách bồi dưỡng sức khoẻ thể chất, mà chính là bồi dưỡng về mặt tâm linh. Thật thế, được nghỉ ngơi là một dịp tìm lại khoảng lặng của tâm hồn để từ đó rút ra được những bài học bổ ích: rút ưu khuyết điểm để có thế phát huy những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, bổ sung những điều còn thiếu sót. Quả thực “CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.” (Tv 23, số 1-3).
Khi cho các môn đệ “hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”, Đức Ki-tô đã “bổ sức” cho các ngài để các ngài tiếp tục công việc trên hành trinh loan báo Tin Mừng. Như vậy, vấn đề nghỉ ngơi ở đây không phải là hưởng thụ mà chính là dịp tìm lại cái tâm an bình (“tĩnh tâm”). Nói cách khác, đây là dịp tìm lại sự bình an – bình an cho tâm hồn, bình an trong cuộc sống và nhất là bình an trong sứ vụ. Thực thế, điều chính yếu cần quan tâm trong sứ vụ mục tử của Chúa Ki-tô được Thánh Phao-lô lưu ý không phải là vấn đề cơm bánh, mà là sự bình an (“Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta… Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” – Ep 2, 14-18; “Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” – Rm 14, 17).
Với các môn đệ thì như vậy, nhưng với bản thân thì Chúa có nghỉ ngơi được không? Vừa mới tới nơi chỉ định cho các môn đệ nghỉ ngơi, thì “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” (Mc 6, 34). Đức Ki-tô khi thấy đám đông – mà đám đông này là thành quả của một quá trình rao giảng của cả Thầy lẫn trò – thì Người “chạnh lòng thương” vì thấy họ “như bầy chiên không người chăn dắt”. Sở dĩ vậy, vì chính Người là vị Mục Tử Nhân Lành (“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” – Ga 10, 14-15). Là Chúa Chiên, nên cùng lúc Đức Ki-tô đã quan tâm tới tất cả đàn chiên (đám đông người đi theo, kể cả các Tông đồ).
Sự nhạy cảm trước nhu cầu cần thiết của đàn chiên, bộc lộ một tình thương bao la nơi Chúa Chiên. Tình thương ấy đòi buộc Người phải làm cho họ một cái gì, mà cái gì đó phải chăng chính là sự nghỉ ngơi bồi dưỡng? Các Tông đồ được “nghỉ ngơi đôi chút” và đám đông được “dạy dỗ nhiều điều”, đó chính là sự bồi dưỡng về mặt tâm linh. Nói cách khác thì đó là Đức Ki-tô đã cụ thể hoá việc “sống Lời Chúa” cho mọi người. Tuy nhiên, việc làm trên của Đức Giê-su mới chỉ thể hiện được vế 2 của Lời Người từng dạy dỗ “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4); còn vế 1 “vấn đề cơm bánh” bồi dưỡng thể xác thì sao?
Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này: Đức Giê-su đã dùng cách nói “Không những…, mà còn…” để nêu bật nhu cầu sống của loài người về cả hai mặt: Thể chất và tâm linh, cả 2 đan quyện vào nhau, bổ túc cho nhau. Người ta sống trên đời không chỉ bằng cơm bánh không thôi, vì như thế sẽ chẳng khác chi loài thực vật vô tri vô giác. Nhưng Chúa cũng không yêu cầu sống hoàn toàn bằng Lời Chúa, vì dù sao con người sống trên trần gian này vốn chỉ là một thụ tạo, có nhu cầu về thể chất thì cũng có nhu cầu về tinh thần. Vì vậy, ngay sau khi ban lương thực tinh thần cho các Tông đồ và đám đông, thì Đức Ki-tô đã lưu ý tới nhu cầu cần bồi dưỡng thể chất cho mọi người. Và chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Người đã bồi dưỡng cho đám đông tới 5000 người không kể đàn bà và trẻ con (tất nhiên trong đó có các Tông đồ) được no nê thoải mái, mà vụn bánh còn dư tới 12 thúng đầy (Mc 6, 37-44).
Trong xã hội loài người hiện nay, những người thiếu cơm ăn áo mặc, lầm than, cực khổ về thể xác vẫn là con số quá đông; nhưng đến như những người thiếu lương thực tinh thần cũng không phải là ít. Tuy rằng cũng đã có thật nhiều những cá nhân, đoàn thể biết “chạnh lòng thương” những người xấu số ấy, nhưng xem ra cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Ấy mới chi là những nạn nhân của thiên nhiên, chưa nói tới những nạn nhân của chính con người với con người. Quả thật đời là bể khổ, đời là bể trầm luân, mà trong đó con người triền miên ngụp lặn với biết bao sóng gió bão bùng. Chính vì thế, nên vẫn cần – rất cần – có những mục tử kế vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô, có một trái tim thật nhạy bén “chạnh lòng thương” những “bầy chiên không người chăn dắt” (cả chiên nội và chiên ngoại – cả ràn chiên được tuyển chọn và những ràn chiên khác).
Trong xã hội hiện nay có rất nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết “chạnh lòng thương” và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Đàn chiên đau khổ rất cần những mục tử biết “chạnh lòng thương”. Nói như vậy, không có nghĩa là chỉ có những mục tử mới có trách nhiệm, mà cả những con chiên chính hiệu (“chiên nội”, nhãn hiệu trình toà – marque déposée – đàng hoàng) cũng phải có bổn phận cộng tác với các mục tử trong sứ vụ cao trọng này; bởi đến như Thiên Chúa cũng rất cần sự cộng tác của con người mới thực hiện được công trình cứu độ (“Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” – Thánh Au-gus-ti-nô).
Tóm lại, trách nhiệm bồi dưỡng đàn chiên của Chúa về cả 2 mặt thể xác và tâm linh là trách nhiệm chung của Hội Thánh Chúa bao gồm cả tư tế thừa tác (linh mục) và tư tế cộng đồng (giáo dân). Ấy cũng bởi vì “Thánh Au-gus-ti-nô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei – XX, 10).” (Tông huấn Ki-tô hữu Giáo dân “Christi Fideles Laici”, số 14). Nói cụ thể, người Ki-tô hữu không chỉ rao giảng Tin Mừng bằng cách đem lương thực tinh thần (Lời Chúa) đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc; mà còn có nhiệm vụ đem lương thực vật chất (cơm áo, gạo tiền) đế cho những người nghèo đói, tật bệnh… Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Xin Chúa ban Thần Khí soi sáng cho chúng con, để chúng con hiểu rằng khi Chúa thương gọi con làm Ki-tô hữu, Chúa đã cho con được tham dự vào chức vụ mục tử của Ngài (tư tế cộng đồng). Cùng với sự hiểu biết ấy, con sẽ nhận ra trách nhiệm của chính bản thân con là phải cộng tác – đồng trách nhiệm – với các vị mục tử Chúa đã chọn trong Bí tích Truyền Chức (tư tế thừa tác), “Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu…” (“Kinh hoà bình” – TCCĐ).
.
TIN MỪNG BÌNH AN, TIN MỪNG HẠNH PHÚC
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Người đã đến loan Tin Mừng Bình An: bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2,17).
Đức Giê-su Ki-tô đến loan Tin Mừng Bình an, vì “chính Người là sự bình an của chúng ta”(x.Ep 2,14). Bình an cho những người ở xa và bình an cho những người ở gần. Người ở xa là ai và người ở gần là ai ? Người ở xa là dân ngoại và người ở gần là dân Do Thái.
Người ở xa cũng là chính chúng ta, những người Tín Hữu Ki-tô. Vì xưa chúng ta là dân ngoại, chúng ta không phải là người Do Thái, nhưng nay “Trong Đức Ki-tô, nhờ Máu Đức Ki-tô đổ ra, chúng ta đã trở nên người ở gần” (x.Ep 2,13). Còn người Do Thái, xưa họ là người ở gần, nay họ lại là người ở xa, vì họ không tin vào Đức Giê-su Ki-tô.
Bây giờ, đối với Giáo Hội Công Giáo, thì những người Do Thái, lại trở thành “dân ngoại” và đối với Do Thái Giáo, thì chúng ta, những người Tín Hữu Ki-tô cũng vẫn là dân ngoại. Theo thánh Phao-lô, người ở gần chính là những người Do Thái đã tin vào Chúa Giê-su và những người ở xa chính là những người không là Do Thái, là dân ngoại nhưng đã chịu phép rửa tội.
Xưa kia, dân Do Thái cho mình là dân Thiên Chúa và coi những người không là dân Do Thái là dân ngoại, là dân của ma quỉ, nên có sự thù ghét nhau. Thế nhưng, Đức Giê-su đã đến và trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một Thân Thể duy nhất (x.Ep 2,16).
Thân thể duy nhất này chính là Giáo Hội. Đức Giê-su đã xây dựng Giáo Hội. Giáo Hội này chính là Thân Mình mầu nhiệm của Đức Ki-tô. Trong Giáo Hội này không có sự thù ghét, chỉ có sự yêu thương mà thôi. Điều răn trọng nhất và duy nhất là MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI. “Yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình” (x.Mt 22, 37-39).
Trên bình diện quốc tế, Giáo Hội Công Giáo chúng ta cũng là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, nên bình an cho những người ở xa tức là bình an cho những người ở tôn giáo khác và bình an cho những người ở gần, chính là bình an cho chúng ta, những người thuộc về Giáo Hội Công Giáo.
Hơn nữa, không những bình an cho những người đến nhà thờ đọc kinh, dâng lễ mà còn bình an cho những người không còn giữ đạo, bỏ đọc kinh, bỏ dâng lễ nữa. Nghĩa là sự bình an của Đức Ki-tô; bình an của Thiên Chúa đến cho hết mọi người. Nhưng, người ta có được hưởng sự bình an đó không lại còn phải tùy thuộc vào mỗi người nữa. Đức Giê-su đã đến để loan báo Tin Mừng Bình An, mà ta có đón nhận sự Bình Anđó và thực hành Tin Mừng đó không ?
Quả thật, bất cứ ai đón nhận và thực hành Tin Mừng Bình an đó thì mới có sự bình an trong tâm hồn. Người ở xa cũng như người ở gần; người có đạo cũng như người không có đạo. Đương nhiên người ở gần, người có đạo sẽ có cơ may đón nhận Tin Mừng Bình An đó hơn.
Trên Thập Giá, Đức Giê-su đã tiêu diệt sự thù ghét, thì chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng hãy tiêu diệt sự thù ghét với Đức Giê-su Ki-tô trong chúng ta. Đó chính là cách thức ta đón nhận và thực hành Tin Mừng Bình An của Đức Ki-tô Giê-su. Nghĩa là trong tâm hồn ta, trong đầu óc của ta không có sự thù ghét ai; ai cũng là anh chị em của ta, không ai là kẻ thù của ta cả. Bây giờ cũng vậy và ta sẽ cố gắng giữ như vậy cho đến hết đời.
Quả thực khi không có thù ghét ai; khi không có ai là kẻ thù thì tâm hồn ta sẽ tràn đầy sự bình an. Đó chính là Tin Mừng Bình An; đó chính là sự Bình An của Tin Mừng. Nếu ai cũng làm như vậy thì chắc chắc thế giới này sẽ không có chiến tranh; thế giới sẽ có hòa bình. Đây là mấu chốt của vấn đề. Muốn có hòa bình, không chỉ cầu nguyện cho hòa bình; không chỉ đi bộ vì hòa bình mà làm sao loại bỏ sự ghen ghét, loại bỏ sự thù ghét; tức là làm sao cho người ta yêu thương lẫn nhau.
Tin Mừng Bình An là Tin Mừng Yêu Thương. Nhiều khi người ta nhiệt thành cầu nguyện cho hòa bình lắm; hăng say, chịu khó đi bộ vì hòa bình lắm, nhưng trong lòng lại đầy những cao ngạo, đầy những hận thù, đầy những ghen ghét thì cũng như không thôi, đâu có mang lại lợi ích gì. Nó mang tính phong trào thì có.
Thực tế cho thấy, những người đầy lòng phẫn nộ, đầy lòng ghen ghét thì thường tích cực tham gia các phong trào đó. Nó như cái bình phong che đậy cái bên trong. Những người thực sự thiện chí, thiện tâm e rằng không có bao nhiêu. Có cái ngọn mà không có cái gốc. Cái gốc là sự yêu thương, phải có cái gốc này thì mới sinh Hòa Bình; mới phát sinh Bình An.
Yêu thương thậtthì yêu thương người ở gần cũng như người ở xa; yêu người cùng dân tộc cũng như yêu thương người ngoại quốc; yêu thương lúc ở xa cũng như lúc ở gần; yêu thương lúc nghèo cũng như lúc có của. Nghĩa là xa cũng thương mà gần cũng thương, người như thế thì lúc nào cũng bình an và hạnh phúc.
Còn yêu thương giả thì gần thì thương, xa thì thôi. Thấy “người ngoại”, có quyền, có thế, có của thì xum xoe, khúm na khúm núm; thấy “người nội” thì làm ngơ, phớt tỉnh ăng-lê; lúc nghèo thì chia sẻ, lúc có của thì ăn một mình. Nghĩa là ích kỷ, cơ hội và giả hình. Người như thế thì lúc nào cũng bất an và bất hạnh.
Bình an cho Em, bình an cho Anh. Bình an cho Em khi gần Anh cũng như khi xa Anh. Bình an cho Anh, khi xa Em cũng như gần Em.“Thật vậy, Nhờ Đức Ki-tô, cả đôi bên được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (x.Ep 2,18). Sự yêu thương bắt đầu từ hai con người đó; sự bình an cũng bắt đầu từ hai con người đó, để rồi lan tỏa khắp mọi nơi và khắp mọi người.
Để từ nay không còn là Em, không còn là Anh nữa mà chúng ta là một. Từ nay không còn phe phái, không còn tranh giành, không còn hơn thua, không còn ghen ghét nữa mà chúng ta là một; là anh em một nhà; là con cùng một Cha, để cùng nhau làm, cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau tiến, cùng nhau xây dựng hòa bình; cùng nhau xây dựng hạnh phúc.
Quả thật, về con người xác thịt thì có sự xa cách, có ở nơi này thì không có ở nơi kia; nhưng về tinh thần thì không có khoảng cách. Yêu thương rồi thì có xa cũng như gần thôi; xa về địa lý nhưng gần về tâm lý; nó ở trong tâm hồn, trong trái tim và trong khối óc của ta. Để khi nhớ đến là có đó, dào dạt bao ân tình, bao yêu thương; nó ở trong tâm, trong trí ta rồi, thì có gì có thể ngăn cách; có gì có thể làm ta mất bình an, mất hạnh phúc chăng !!!! Còn không yêu hay ghen ghét thì có gần cũng như xa mà thôi.
Yêu thương thì có bình an và hạnh phúc. Ghen tương thì chỉ có bất an và bất hạnh mà thôi. Yêu thương chính là Tin Mừng mà Đức Giê-su mang đến và loan báo. Đó chính là Tin Mừng Bình An.
Vậy ta hãy đón nhận và thực hành Tin Mừng đó trong cuộc sống của ta, ta sẽ luôn luôn có bình an trong tâm hồn và yêu thương mọi người. Trong yêu thương mọi người chắc chắn sẽ có người yêu thương đặc biệt, mà người ta gọi là “người yêu” hay “người tình”, lòng ta sẽ tràn ngập hạnh phúc.
Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô là Tin Mừng Bình An; là Tin Mừng Hạnh Phúc. Ai mà thực hành Tin Mừng đó sẽ có bình an và hạnh phúc.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Lòng nhân từ của Đức Kitô, vị mục tử được biểu lộ qua việc quan tâm, chăm sóc các tông đồ đi truyền giáo về và nhất là qua lòng trắc ẩn xót thương dân chúng đi theo Ngài: “Họ như bầy chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều”.
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái là dân du mục. Trong cựu ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh người mục tử để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những mục tử xấu và hứa ban cho dân những mục tử tốt lành để lãnh đạo dân: “Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng, họ sẽ chăn dắt chúng”. Hơn nữa, Thiên Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng tộc David, để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Đó làĐức Giêsu, vị mục tử nhân lành mà các tiên tri đã loan báo. Lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Đức Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay biểu lộ tâm tình của Đức Kitô mục tử:
– Ngài quan tâm, chăm sóc tới cuộc sống của các tông đồ. Sau cuộc hành trình truyền giáo mỏi mệt, vất vả, trở về với những thành công phấn khởi, Đức Giêsu truyền cho các ông phải đi nghỉ để bồi dưỡng sức khỏe, tìm nơi yên tĩnh để khỏi bị dân chúng quấy rầy, cần có thời giờ để cầu nguyện, để tĩnh tâm: “Anh em hãy lánh riêng ra đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Với con tim mục tử, Chúa Giêsu chia sẻ, cảm thông những vất vả quan tâm đến sức khỏe con người của các ông hơn là công việc làm. Thầy trò cần có thời gian bên nhau, cho nhau để sống tình thầy trò, tâm sự, trao đổi với nhau những kinh nghiệm truyền giáo. Nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng để làm việc hữu hiệu hơn, lâu dài hơn. Muốn đi xa, phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức. Muốn hoạt động tông đồ tốt, cũng phải năng tĩnh tâm, tĩnh dưỡng tâm hồn. Thời gian hồi tâm, thinh lặng, suy nghĩ rất cần thiết, hữu ích và quan trọng.
– “Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn”. Tâm tình mục tử nơi Đức Giêsu biểu lộ qua lòng thương xót trong khi Chúa rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Cảm thương số phận của đàn chiên không người chăn. Mạng sống đàn chiên tùy thuộc vào người chăn. Chiên mà không có người chăn thì mạng sống sẽ bị đe dọa, nguy hiểm, không biết đi về đâu, không ai hướng dẫn, không ai tựa nương.
Chúa Giêsu rất nhạy cảm trước khổ đau của con người. Thấy đám dan bơ vơ, đói khát lời Chúa, không ai quan tâm. Chúa Giêsu đã hy sinh không đi nghỉ chung với các tông đồ, Ngài đích thân ở lại với họ và tiếp tục giảng dạy cho họ nhiều điều. Ở đây thánh sử Marcô không ghi lại những điều Chúa Giêsu dạy. Nhưng thánh sử Luca 9, 10-11 ghi rõ: Ngài tiếp đón họ, nói cho họ về nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa. Chính việc giảng dạy “nhiều điều này” đã chứng thực Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn biểu lộ lòng thương xót của Chúa để dạy chúng ta biết cảm thông, động lòng trắc ẩn trước nhu cầu của anh em như Chúa Giêsu, chúng ta biết hy sinh ý riêng để phục vụ mọi người, lo cho việc chung, lo cho phần rỗi của anh em.
Tìm nơi thanh vắng để cầu nguyên, thinh lặng là điều cần thiết cho người tông đồ, cho người tu sĩ. Thời gian tĩnh dưỡng, tĩnh tâm cầu nguyện và suy nghĩ, thẩm định lại những biến cố, những công việc đã làm để sống việc tông đồ đạt kết quả tốt hơn và đời sống đạo đức tiến bộ hơn. P. Doncour đã quả quyết: “Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong thinh lặng và cầu nguyện”.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN_B.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Chúng ta vừa nghe một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong Kinh Thánh. Đẹp trong hình ảnh và đẹp cả trong ý nghĩa. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một hình ảnh rất cảm động: Chúa ở giữa dân của Người. Đồng thời cũng cho chúng ta thấy lý do tại sao Chúa lại làm như thế: Vì Chúa thương. Vì yêu thương cho nên Chúa luôn ở giữa dân của Người.
A. Thiên Chúa luôn yêu thương những ai tin ở Người. Tình thương ấy rất cụ thể, được biểu lộ qua việc Người luôn lưu tâm lo lắng cho những người đó. Bài sách Thánh thứ nhất chúng ta vừa nghe chứng minh một phần nào điều đó.
Như một mục tử tốt luôn biết lo lắng, bảo vệ cũng như săn sóc cho đoàn chiên thế nào thì Chúa cũng bảo vệ, săn sóc, lo lắng cho những ai biết tin tưởng vào Chúa như thế…và có thể nói là còn hơn thế. Chúa biết thật rõ:
a) Một con chiên không có người chăn, sẽ không tìm được đường đi.
Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta cũng có thể bị lạc lõng trong cuộc sống như thế. Thi sỹ Dante có lần đã nói: “Tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể có những lúc khiến chúng ta bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp những ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi được Chúa hướng dẫn, chúng ta mới biết rõ con đường phải đi.
b) Một con chiên khôngngười chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn.
Sống trên đời này chúng ta phải tìm kế mưu sinh. Nếu chúng ta tìm nó ở một nơi nào đó ngoài Chúa, tâm trí chúng ta sẽ không bao giờ được thoả mãn, tấm lòng chúng ta sẽ không được yên nghỉ, và linh hồn chúng sẽ không bao giờ được no thoả. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực của đời sống thật từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống của chúng ta.
c) Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại với những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể một mình tự vệ chống lại với bọn trộm cướp và đám thú rừng.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta không thể sống một mình, không thể tự mình sống. Không ai có đủ sức để có thể tự vệ với những cám dỗ luôn tìm đủ cách tấn công ta. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian mà vẫn giữ được áo xống mình khỏi sự ô uế của đời này. Không có Ngài chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn. Đó là chân lý.
Sự săn sóc của Chúa thật chu đáo. Tắt một điều là Chúa muốn cho những ai theo Chúa luôn có được sự bình an và hạnh phúc. Nhưng tiếc một điều là nhiều khi con người không nhận ra được điều đó. Và chính vì thế mà nhiều khi họ cảm thấy dường như Thiên Chúa chẳng lưu tâm gì đến mình.
Đức Cha Tihamer Toth có kể một câu chuyện như thế này trong cuốn sách Ngài viết gửi cho các bạn trẻ. “Một hôm kia có một chàng thanh niên vô rừng đốn củi. Đến trưa anh ta tìm đến một gốc đa cổ thụ thật lớn để nằm nghỉ cho đỡ mệt. Nằm dưới gốc cây nhìn lên anh thấy những cành lá thì thật là rườm rà nhưng những quả đa thì trái nhỏ, anh phải cố gắng lắm mới nhìn thấy. Thấy như vậy nên anh ta nghó thầm:
“Lạ thật. Cây thì khổng lồ. Lá thì lớn mà trái thì lại nhỏ xíu! Thật là chẳng cân xứng tí nào”.
Rồi anh ta tự nghĩ:
– Nếu tôi mà là Chúa thì tôi sẽ cho cây đa mang trái to như trái bí, lá to như lá chuối. Như thế mới cân xứng. Tội cho cây bí! Thân thì yếu ớt mà lại phải đeo những trái lớn. Cây chuối mảnh khảnh mà lại phải mang những tấm lá to như tấm phản. Quả thật là Chúa chẳng công bằng tí nào…Hay là không có Chúa…mọi loài mọi vật đều tự nhiên mà có!.
Suy nghĩ miên man như vậy được một lát thì anh thiếp ngủ đi lúc nào mà anh cũng chẳng hay. Giữa lúc anh ngủ say như thế thì vô tình có một cơn gió lốc thổi rất mạnh làm rớt xuống giữa sống mũi của anh một trái đa. Anh giật mình tỉnh dậy vừa xít xoa vừa suy nghĩ:
– May quá, phải mà trái đa lớn như trái bí thì kể như là bữa nay mình tận số rồi. Thế ra Đức Chúa Trời khôn ngoan thật. Ngài xếp đặt tất cả rồi đấy chứ. Thảo nào mà người ta thường nói: “Trái dừa rớt bao giờ cũng tránh người”.”Quả sầu riêng bao giờ cũng rơi vào ban đêm”. Công việc của Chúa thật là kỳ diệu.” Bằng tình yêu thương Người luôn lo lắng cho chúng ta.
B. Bước qua Bài Tin Mừng, Tình thương của Chúa được biểu lộ dưới một khía cạnh khác. Người dạy dỗ chúng ta. Chúa thực sự quan tâm đến nhu cầu của chúng ta.
Sau những ngày thực tập truyền giáo mệt nhọc, Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài quả đã không tìm được sự nghỉ ngơi như mình mong muốn.
Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Từ chỗ Chúa Giêsu xuất phát đến nơi mà Chúa Giêsu với các môn đệ định tới cách xa khoảng chừng 6km nếu vượt biển bằng thuyền, nhưng nếu phải đi bộ vòng bờ hồ thì đường đi đến hơn 16km. Vào ngày lặng gió hay có gió ngược thì một chiếc thuyền vượt quãng đường này phải tốn khá nhiều thời gian, còn người khoẻ chân có thể đi bộ vòng bờ hồ và đến nơi trước khi thuyền cập bến. Sự việc đã xảy ra ngay ở điểm này. Lúc Chúa Giêsu và các môn đệ vừa bước ra khỏi thuyền, thì chính đoàn dân mà Chúa và các môn đệ của Ngài muốn lánh mặt để tìm thời giờ nghỉ ngơi đã chờ sẵn ở đó rồi. Họ đang nóng lòng chờ đợi những điều Ngài có thể ban cho họ.
Thật là rất dễ bực bội với đám đông, dễ cảm thấy họ đã gây phiền toái cho Ngài. Họ đâu có quyền xâm phạm vào đời sống riêng tư của Ngài bằng những đòi hỏi triền miên như vậy? Ngài không có quyền được nghỉ ngơi yên tịnh và có thời giờ dành riêng cho mình sao? Nhưng Chúa Giêsu đã không màng tới điều đó, chẳng những Ngài không thấy họ gây phiền hà mà còn động lòng trắc ẩn xót thương họ.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa. Vì nhờ Lời Người dạy dỗ mà bao nhiêu con người trên thế giới từ trước cho đến hôm nay đã tìm ra cho đời mình một ý nghĩa, một hướng đi, giúp cho họ biết sống một cuộc đời cao cả và tốt đẹp hơn.
Tôi nhớ một câu chuyện trong cuộc đời của Augustinô. Hôm ấy Augustinô vừa thực hiện xong một cuộc tranh luận. Trở về nhà bạn của mình là Alpius, ông cảm thấy tâm hồn vô cùng trống rỗng. Lúc đó tự nhiên ông nghĩ tới Chúa, ông buột miệng thưa với Ngài: “Lạy Chúa, đến bây giờ, đến bây giờ Chúa còn nổi giận sao? Chúa không xóa đi những lỗi lầm quá khứ của con ư? Bao lâu nữa? Bao lâu nữa? Ngày mai ư? Đến mãi ngày mai sao? Tại sao không lập tức ngay bây giờ.” Thế rồi ông khóc, khóc như một đứa trẻ. Một ông tiến sĩ giáo sư đại học khóc…khóc như một đứa trẻ. Tâm hồn ông bị dày vò. Bỗng nhiên ông nghe thấy từ ngôi nhà bên cạnh, tiếng nói của một em bé nói vọng sang: “Hãy cầm lấy và đọc đi. Hãy cầm lấy và đọc đi.” Nét mặt ông đổi sắc. Ông không khóc nữa. Ông chạy thẳng lại chỗ Alpius cầm lấy cuốn thư của Phaolô gửi cho giáo đoàn Roma. Im lặng. Ông từ từ mở ra và đọc thấy ngay ở đầu trang những lời như thế này: “Anh em chớ sống trong say sưa, trong lạc thú dâm ô, trong cãi cọ và phân bì nữa – Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô và đừng quá chăm lo về xác thịt và làm phỉ lòng nó.”
Ông gấp lại, không đọc thêm nữa. Bằng ấy thôi cũng đã đủ để ông nhận ra được ánh sáng và con đường. Ông quyết định làm lại cuộc đời. Ông cho Mẹ ông biết quyết định đó. Và bà nói đây là ngày đẹp nhất trong cuộc đời của Bà.
Vâng Augustinô đã trở lại thực sự. Ông quay hẳn một góc 180 độ. Sự trở lại của Ông đã đem lại không biết bao nhiêu lợi ích cho các linh hồn. Bằng cương vị của một Linh mục rồi một Giám mục, Augustinô đã giúp cho rất nhiều người tìm về với Chúa. Và ngày nay trên Thiên đàng với vai trò một vị Thánh, Thánh tiến sĩ Augustinô của Hội Thánh hẳn là sự trợ lực lớn lao cho Giáo Hội và chúng ta hữu hiệu hơn.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta khám phá ra được những giá trị cao cả của Lời Chúa để Lời của Chúa giúp chúng ta biết sống một cuộc sống tốt đẹp xứng đáng với danh nghĩa là con Thiên Chúa hơn. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Chủ đề của Chúa Nhật XVI Thường Niên năm B này có thể được gọi là “Tấm Lòng của Vị Mục Tử đích thật”.
Gr 23: 1-6
Lên án các vị mục tử vô trách nhiệm khiến dân Ít-ra-en phải lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân nắm giữ vận mệnh dân Ngài và sẽ ban cho họ một vị mục tử đích thật, thuộc dòng dõi Đa-vít, Đấng ấy sẽ chăn dắt dân trong công minh chính trực.
Ep 2: 13-18
Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho thấy Đức Ki-tô chính là Đấng quy tụ dân Do thái và lương dân trong bình an và hòa giải để chỉ có một dân duy nhất và một thân thể duy nhất.
Mc 6: 30-34
Trong bài trình thuật của thánh Mác-cô, Đức Giê-su hành xử như một vị mục tử đích thật, vị mục tử Mê-si-a được loan báo trong Bài Đọc I. Thương đám đông dân chúng “bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”, Đức Giê-su quy tụ họ, trước tiên nuôi dưỡng họ bằng lời hằng sống của Ngài, và sau đó cho họ được no thỏa bằng hóa bánh ra nhiều, tượng trưng bàn tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Gr 23: 1-6)
Như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sống vào giai đoạn bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa, dưới những cuộc tấn công của đạo quân Ba-by-lon, vào đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Sấm ngôn của chương 23 này được định vị giữa hai cuộc tấn công của quân Ba-by-lon vào Giê-ru-sa-lem. Cuộc tấn công thứ nhất vào năm 597, thành đô Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ nhất và cuộc lưu đày lần thứ nhất; cuộc tấn công thứ hai vào năm 587, thành đô Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị phá hủy và những cuộc lưu đày mới.
Trái với ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị lưu đày; ông vẫn ở Giê-ru-sa-lem và cực lực tố cáo các vị lãnh đạo, đời cũng như đạo, phải chịu trách nhiệm về tai họa bi thảm này. Tuy nhiên, ngay ở giữa lòng thành đô tang thương này, vị ngôn sứ thắp lên ngọn lửa hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung tín, Người không bỏ rơi dân Người; đến thời đến buổi, Người sẽ sai phái một vị Mục Tử đích thật đến chăn dắt họ.
- Những mục tử vô trách nhiệm
Đó là các vua vương quốc Giu-đa mà vị ngôn sứ nhắm đến trước tiên (tước hiệu mục tử được ban cho các vị vua ở Đông Phương xưa). Ông trách cứ họ là đã không trung thành với sứ mạng của mình, đã “hành xử như những nhà chính trị chứ không như những con người của Thiên Chúa”. Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là phần đầu của chương 23, chương kết thúc “sách chống lại các vua”.
Nhưng bên kia các vua, Giê-rê-mi-a ngỏ lời với toàn thể tầng lớp lãnh đạo, đời cũng như đạo, những người mà nhiều lần vị ngôn sứ gọi họ tước hiệu mục tử này (2: 8; 10: 21; 25: 34). Như ngôn sứ đã nói trước đó, những vị lãnh đạo dân đã coi thường quyền lợi và công bình; họ đã sống một cuộc sống hưởng thụ phù phiếm; họ đã xây cho mình những dinh thự đền đài tráng lệ mà không ngó ngàng gì đến cuộc sống của dân chúng (22: 3, 13; vân vân). Cuối cùng, họ đã đưa dân chúng lâm vào cảnh lầm than nước mất nhà tan và phải tản mác khắp nơi: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc”. Không chỉ những người phải bị lưu đày ở đất khách quê người, nhưng cũng biết bao người đã phải rời Giê-ru-sa-lem tỵ nạn ở miền quê hẻo lánh, vài người trốn chạy sang tận bên Ai-cập.
“Ta sẽ hỏi thăm các ngươi về những hành vi ngang trái của các ngươi”. Quả thật án phạt đã không chậm trễ. Vua Giơ-hô-gia-khin bị dẫn đi giam cầm ở Ba-by-lon. Thành phần ưu tú bị lưu đày lần thứ nhất vào năm 597 trước Công Nguyên (2V 24: 10-16).
- Sứ điệp tràn đầy hy vọng: vị Mục Tử Mê-si-a
Sau bản cáo trạng nghiêm khắc này, vị ngôn sứ công bố một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Bởi vì các vị mục tử đã không chu toàn sứ mạng của mình, Thiên Chúa sẽ can thiệp: Người sẽ đích thân đảm nhận việc chăn dắt dân Người; Người sẽ tập hợp đàn chiên của Người bị phân tán khắp nơi và đưa chúng về đồng cỏ của chúng.
Đây là một trong những giấc mơ lớn lao đã làm nức lòng dân chúng; họ mong chờ thời Mê-si-a đến để thống nhất quốc gia Ít-ra-en. Việc phân tranh giữa các chi tộc miền Bắc và các chi tộc miền Nam, mặc dầu đã xa xưa, nhưng vẫn còn để lại nỗi đau trong lòng mọi người. Cuộc sụp đổ của vương quốc miền Bắc đã kéo theo một cuộc tản mác đầu tiên, hoặc do phải trốn chạy hoặc do bị lưu đày ở Át-sua. Cuộc sụp đổ vương quốc miền Nam gây nên những hậu quả còn thậm tệ hơn.
Trong lời sấm của vị ngôn sứ, chính Đức Chúa sẽ đảm nhận vai trò của vị mục tử nhân lành, Người sẽ tập hợp đàn chiên của Người vào trong đồng cỏ của chúng. Sấm ngôn loan báo viễn cảnh của cuộc hồi hương trở về từ chốn lưu đày và từ những nơi dân phải lưu lạc tha hương. Đức Chúa sẽ đem lại cho dân Người niềm vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.
- Chân dung của vị mục tử lý tưởng
Sau cùng, sấm ngôn loan báo vị mục tử lý tưởng: “Này đây sẽ đến thời kỳ Ta khiến mọc lên cho nhà Đa-vít một Mầm Non công chính”. Biểu thức: “Này đây sẽ đến những thời kỳ” mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc được dùng để giới thiệu một thị kiến tương lai. Có thể ông mượn biểu thức này từ ngôn sứ A-mốt (Am 4: 2; 8: 11; 9: 13). Tước hiệu “Mầm Non” đã trở thành tước hiệu Mê-si-a. Tước hiệu này đã xuất hiện trước tiên tại I-sai-a (4: 2); Giê-rê-mi-a đã trích dẫn tước hiệu này hai lần (một ở đây và một nơi khác: 33: 15); chúng ta sẽ gặp lại tước hiệu này ở ngôn sứ Da-ca-ri-a (3: 8; 6: 12).
Dưới triều đại vua Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít này, “miền Giu-đa sẽ được cứu thoát, miền Ít-ra-en sẽ an cư lạc nghiệp”. Giu-đa và Ít-ra-en được nêu lên như hai miền của chỉ một vương quốc, như vào thời vua Đa-vít, dân Thiên Chúa chỉ là một dân tộc duy nhất. Người ta sẽ gọi vị mục tử Mê-si-a này là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”. Ngài sẽ phân xử toàn dân trong công minh chính trực.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 13-18)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-xô. Trong đoạn trích của Chúa Nhật trước, thánh Phao-lô đã trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Ki-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân mô tả sự hòa giải mà Đức Ki-tô thực hiện: chết cho mọi người, cả người Do thái lẫn lương dân. Như vậy, Đức Ki-tô muốn kiến tạo một nhân loại mới và quy tụ họ vào trong Giáo Hội của Ngài.
- Người Ki-tô hữu gốc lương dân
Trước tiên, thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ chiếm đa số trong các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Thánh nhân dùng thành ngữ “xa-gần” đã được I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ hậu lưu đày, sử dụng rồi (Is 57: 19). Dụng ngữ này đã trở nên phổ biến trong Do thái giáo. Qua dụng ngữ “xa-gần” này, thánh nhân muốn nói rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân, trước kia là những người xa lạ, bây giờ trở thành những người nhà của Thiên Chúa, vì từ nay họ được dự phần vào những lời hứa của Giao Ước, bởi vì chính họ cũng được ban ơn tha thứ tội lỗi.
- Một dân duy nhất
Vì thế, những người Ki-tô hữu, dù gốc lương dân hay gốc Do thái, đều có thể nói: Đức Ki-tô “là sự bình an của chúng ta”. Chúng ta khó mà đo lường được việc liên kết giữa những người Ki-tô hữu gốc lương dân và những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã đem lại tính cách mạng đến mức độ nào cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, ở đó vốn nảy sinh biết bao sự ngộ nhận và lời qua tiếng lại ở giữa đôi bên.
Những Ki-tô hữu gốc Do thái ý thức mình là một dân được tuyển chọn và được tách riêng ra, dân cưu mang Mặc Khải. Họ tự hào về nét đặc thù tôn giáo của họ, việc tuân giữ lề luật giúp họ khỏi những uế nhiễm của dân ngoại; họ tránh giao tiếp với những kẻ không chịu cắt bì chừng nào có thể. Trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, có một lan can bằng đá cẩm thạch ngăn chia khuôn viên dân ngoại khỏi khuôn viên dân Ít-ra-en. Khi nói: “Bức tường ngăn cách là sự thù ghét”, thánh Phao-lô ám chỉ đến bức lan can phân cách này. Chắc chắn thánh nhân đã nghĩ đến những kẻ xách động đồng bào Do thái bắt ngài được tường thuật trong sách Công Vụ 21: 28: “Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh này! Nó còn đem cả mấy người Hy lạp vào cả Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh này ra ô uế”.
Ngược lại, những thái độ bài Do thái thường xảy ra, như được chứng thực trong nhiều thành phố chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, kể cả thành phố A-lê-xan-ri-a. Chúng ta đừng quên sách Khôn Ngoan được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thời kỳ những người Do thái bị chính quyền quấy nhiễu. Thái độ bài Do thái này cũng gặp thấy trong thế giới Rô-ma, ở đó người ta không ưa những người Do thái vốn không làm việc vào ngày thứ bảy, cũng như không chỉ đường cho những ai không chịu cắt bì hỏi đường (như thi sĩ Junéval kể ra vài ví dụ trong bài thơ châm biếm của ông vào cuối thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên).
Đức Ki-tô đã hủy bỏ bức tường ngăn cách này: tinh thần duy luật khiến những kẻ thực hành tỉ mỉ Lề Luật tự thu mình lại vào trong thế giới của riêng mình. Luật Mới không còn chia cách nữa, nhưng hòa giải.
- Một thân thể duy nhất
Thánh Phao-lô thật táo bạo khi khẳng định rằng: đôi bên, người Ki-tô gốc lương dân và người Ki-tô hữu gốc Do thái, hình thành nên chỉ một con người duy nhất, một người mới. Người Ki-tô hữu là một con người được tái tạo và tất cả những người Ki-tô hữu được quy tụ hình thành nên những chi thể của một thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki tô.
Thánh Phao-lô đã sử dụng từ vựng thần học này rồi trong các thư gửi các tín hữu Cô-rin-tô và Cô-lô-sê. Đây là đề tài chủ đạo của thư gửi tín hữu Ê-phê-sô này, diễn tả ơn gọi phổ quát của Giáo hội.
- Bình an và hiệp nhất, công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi
Cuối cùng, thánh Phao lô cho thấy rằng nhờ Đức Ki tô, “cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha”. Nhờ Đức Ki-tô, con đường đến cùng Chúa Cha rộng mở cho tất cả mọi người. Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Chúa Cha và Chúa Con, dẫn đưa các tín hữu vào trong cung lòng cuộc sống Ba Ngôi.
TIN MỪNG (Mc 6: 30-34)
Chúa Nhật tuần trước tường thuật cho chúng ta Đức Giê-su đã sai các tông đồ ra đi thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê. Bây giờ, thánh Mác-cô tường thuật những diễn biến khi họ trở về. Thánh Mác-cô cho chúng ta bài tường thuật đầy tình tiết sống động. Vị thánh ký này luôn luôn cho chúng ta những đường nét nêu bật con người của Đức Giê-su.
- Các tông đồ tụ họp quanh Đức Giê-su
Danh xưng “tông đồ” được dùng để chỉ nhóm Mười Hai chỉ xuất hiện ở đây trong Tin Mừng của ông. Cách dùng này được biện minh: các tông đồ đã “được Đức Giê-su sai đi”. Xin được nhắc lại điều đã được nói trước đây, các tác giả Tin Mừng chung tránh dùng danh xưng “tông đồ” này cho nhóm Mười Hai, bởi vì chỉ mình Đức Giê-su xứng với tước hiệu này: Đấng được Chúa Cha sai đi thi hành sứ vụ.
Nhóm Mười Hai quy tụ lại chung quanh Đức Giê-su, chắc chắn ở Ca-phác-na-um, thành phố mà Đức Giê-su chọn làm bản doanh cho sứ vụ của Ngài. “Các ông kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy”. Đây là hai khía cạnh của một sứ vụ đã được trao gửi cho các ông: lời giảng dạy kèm theo các dấu chỉ, theo gương Thầy mình. Vào ngày hôm ấy, Đức Giê-su sắp đưa ra cho các ông một mẫu gương: sau khi đã giảng dạy đám đông dân chúng nhiều điều, Ngài sẽ cho họ được ăn no nê, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, một trong những dấu chỉ quan trọng bậc nhất của thừa tác vụ của Ngài.
“Kẻ lui người tới quá đông”, trong số đó có những kẻ hiếu kỳ còn muốn hỏi các ông thêm nhiều điều nữa. Trong bối cảnh đó, các ông khó thuật lại cho Đức Giê-su sứ vụ mà họ vừa mới thi hành theo lệnh của Ngài. Thánh Mác-cô không xác định khung cảnh, nhưng chỉ ghi lại một chi tiết theo ông có ý nghĩa nhất “nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.
Ấy vậy, các tông đồ mệt mỏi. Đức Giê-su lưu ý sự mệt mỏi của các ông, vì thế, nếu cứ ở lại đây, họ không tài nào thoát khỏi đám đông quấy nhiễu này: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thái độ của Đức Giê-su nói lên tấm lòng của một vị thầy ân cần quan tâm đến các môn đệ mình. Các môn đệ đồng thuận và xuống thuyền lánh xa một nơi hoang vắng.
- Lánh xa một nơi khác
Đây không là lần đầu tiên Đức Giê-su tìm cách lánh xa đám đông để được ở lại một mình với các môn đệ và dạy riêng cho họ. Trước đây, thánh Mác-cô ghi nhận, sau khi giảng dạy cho đám đông nhiều dụ ngôn, “khi chỉ có Thầy trò với nhau, thì Ngài giải thích hết cho họ” (4: 34). Nhưng việc thầy trò lánh đi như vậy không phải luôn luôn là dễ dàng. Thánh Mác-cô cũng đã viết: “Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Ngài lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê người ta lũ lượt đi theo Ngài” (3: 7). Cũng xảy ra đúng y như vậy trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
- Tấm lòng của đám đông dân chúng
Việc dân chúng lũ lượt kéo nhau đến với Đức Giê-su là một trong những nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, như chúng ta đã ghi nhận rồi. Sự kiện này không phải là không có liên hệ với sự thành công sứ vụ của Ngài.
Thánh Mác-cô không cho chúng ta biết địa danh, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ của đám đông với Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài. Theo Lu-ca, Đức Giê-su “đem các ông đi riêng ra với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa” (Lc 9: 10), đây là thành phố ở phía đông nam Biển Hồ, bên kia sông Giô-đan, dòng sông đổ nước vào Biển Hồ. Từ thành Ca-phác-na-um đến thành Bết-xai-đa khoảng 12 cây số, vì thế có lẽ đám đông cùng nhau theo đường bộ vượt qua một quảng đường như vậy đến trước cả các ngài. Cách diễn tả: “nhiều người hiểu ý” gợi lên một mối tương quan gần gũi thân thiết giữa đám đông dân chúng với Đức Giê-su như theo cách nói của Tin Mừng Gioan: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10: 14).
- Tấm lòng của vị Mục Tử Mê-si-a
Lòng nhiệt thành này của đám đông dân chúng trái với ý muốn của Đức Giê-su và các môn đệ là được lánh riêng một nơi thanh vắng. Ấy vậy, thay vì bực mình, Đức Giê-su “chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước. Dân Ít-ra-en là đoàn chiên thương mến của Đức Chúa. Người đã trao gửi đoàn chiên của mình cho các vị mục tử Ít-ra-en chăn dắt. Nhưng những vị mục tử vô trách nhiệm này chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình mà không quan tâm đến cảnh sống của đàn chiên Người, khiến đàn chiên của Người phải bơ vơ lạc lõng. Đức Giê-su sẽ ân cần săn sóc họ và chứng tỏ mình là vị Mục Tử Mê-si-a được ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo. Công việc của người mục tử là tìm kiếm cho đàn chiên của mình cánh đồng cỏ tốt tươi. Lương thực mà Ngài trao ban cho đám đông này trước hết là Lời Ngài. Chính cái đói này phải được đáp ứng trước tiên: “Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Phép lại bánh hóa nhiều nối tiếp theo sau. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều này là luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là Lời Chúa, tiếp đó là Thánh Thể.
Khi ngỏ lời với đám đông suốt ngày hôm ấy quên cả nghĩ ngơi, Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài một giáo huấn rõ ràng: “người mục tử nhân lành là người hiến dâng trọn vẹn bản thân của mình cho đàn chiên”.
Bài tường thuật của Mác-cô chứng tỏ Đức Giê-su ân cần săn sóc các môn đệ mệt mỏi của Ngài sau khi họ hoàn thành sứ vụ, cũng như đám đông dân chúng sau khi họ đi một quảng đường xa đến gặp Ngài. Đây là một trong số các bài tường thuật cho thấy ở nơi Đức Giê-su một tấm lòng từ bi nhân hậu: vừa có độ nhạy cảm sâu xa của con tim nhân loại vừa có tấm lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng, tìm nương tựa ở nơi Ngài. Đó cũng là mẫu gương cho tất cả các vị mục tử của Giáo Hội Ngài, không tìm cách trốn tránh dưới chiêu bài này hay chiêu bài khác, nhưng tìm cách đáp trả nỗi khốn khổ đau của đoàn chiên, bởi vì: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10: 11).
.
Trầm Thiên Thu
Mọi thứ đều có màu sắc đặc trưng: cam, vàng, lục, lam, chàm, tím, xanh, đỏ, tía, xám, trắng, đen,… Tuy nhiên, yêu thương là “chất” trừu tượng, vô hình, làm sao biết nó có màu sắc gì? Đúng vậy, nhưng người ta vẫn “điểm tô” cho nó bằng loại màu sắc đẹp đẽ: màu hồng, màu xanh. Riêng những người thất tình,có lẽ họ thấy tình yêu màu xám xịt hoặc đen thui. Còn những ai yêu Chúa thì chắc chắn KHÔNG BAO GIỜ bị thất tình – nghĩa là tình yêu luôn có màu hồng hoặc xanh biếc, khả dĩ quyến rũ lòng người: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20:7).
Ai trong chúng ta cũng bị Thiên Chúa quyến rũ như vậy. Thế nhưng con người rất yếu đuối, hứa nhiều mà chẳng giữ được bao nhiêu. Mỗi ngày té lên té xuống bao lần. Cả đời biết bao lần ăn năn mà vẫn chưa “nên người”. Quả thật, không có Ơn Chúa thì con người không thể làm được gì (Ga 15:5), nhưng Ngài đòi buộc chúng ta phải “từ bỏ mọi sự” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27).
Thế nên, sách Huấn ca có những lời cầu nguyện để chúng ta học hỏi: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Chúa Tể đời con, xin đừng để mặc con chiều theo sở thích của môi miệng, đừng để nó làm con vấp ngã. Tư tưởng con, ai sẽ lấy roi sửa trị, tâm can con, ai sẽ dùng khôn ngoan dạy dỗ, để đừng dung thứ những lầm lỗi của con, cũng đừng làm ngơ trước tội con đã phạm? Bằng không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều, con sẽ quỵ ngã trước mặt đối phương và kẻ thù con đắc chí nhạo cười” (Hc 23:1-3).
Hằng ngày luôn có nhiều thứ nguy hiểm rình rập vây quanh chúng ta, sơ sảy một chút là “mắc mưu ma chước quỷ” ngay lập tức. Vì thế, chúng ta không chỉ phải cảnh giác mọi sự mà còn phải canh chừng chính mình: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Thiên Chúa của đời con, xin đừng để mắt con trâng tráo, xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi truỵ lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:4-6). Và Kitô giáo quên cầu nguyện: “Xin Chúa đừng bắt con phải chết cùng quân tội lỗi, với bọn ác nhân. Miệng thì những nói bình an, mà lòng thâm độc chỉ toan hại người” (Tv 28:3).
Không ai lại không mong muốn được sống thư thái trong sự hòa bình đích thực, mà điều đó chỉ có thể tìm thấy ở nơi Thiên Chúa. Muốn vậy thì phải biết khước từ tội lỗi và sống phó thác cho Ngài quan phòng. Khi đó, chúng ta có thểsung sướng minh định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”(Tv 23:1). Thật vậy, chúng ta không thể im lặng khi niềm vui dâng trào, nên phải thổ lộ: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người”(Tv 23:2-3). Đó là chia sẻ niềm vui thánh đức với tha nhân.
Cứ thế và cứ thế, càng gia tăng niềm vui mừng càng thêm niềm tin tưởngđể thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”(Tv 23:4). Không nói Chúa cũng biết – vì Ngài thấu suốt mọi sự (1 Sbn 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10 :12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), nhưng bổn phận người hàm ơn phải biết ơnvà không thể không bày tỏ điều đó: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa”(Tv 23:5). Niềm hạnh phúc đó còn được “khoe” với người khác, đó là chia sẻ với tha nhân để chung hưởng vui mừng với nhau:“Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên”(Tv 23:6).
Cuộc đời luôn biến đổi và mang nhiều màu sắc, người đời gọi là “lên voi, xuống chó”. Sau thời gian sống u buồn ảm đạm vì vắng bóng Thiên Chúa, giờ đây chúng ta sống bình an trong niềm hạnh phúc kỳ diệu để rồi con tim lại thấy vui mừng: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5).
Vừa giải thích vừa xác định, Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13).Chỉ vì yếu đuối mà sa ngã, phạm tội; và tội lỗi khiến chúng ta xa cách Chúa, nhưng nhờ giá Máu cứu chuộc của Ngài mà chúng ta lại được tiếp cận Ngài, được phục hồi quyền làm con cái của Ngài. Niềm hạnh phúc thật lớn lao. Đó không phải là công của chúng ta, mà là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy phát xuất từ Thánh Tâm nhân từ của Đức Giêsu. Chúng ta thật diễm phúc, bởi vì nếu không có lòng thương xót đó thì chúng ta phải trầm luân mãi mãi. Cuộc đời của chúng ta đang xám xịt trở thành hồng thắm, đang đen thui hóa ra trắng ngần. Kỳ lạ thay!
Cuộc đời là bể khổ mênh mông. Yêu mà khổ te tua đã đành, không yêu mà cũng khổ tả tơi. Thánh Gióp đã than oán về sinh nhật của mình: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời… Phải chi ngày ấy là đêm tối… Phải chi đêm ấy bị tối tăm xâm nhập, không được kể vào niên lịch, không được tính trong số các tháng” (G 3:3-6). Một loạt “phải chi” thật não nuột!
Cái khổ cứ cộng thêm rồi nhân lên, chẳng bao giờ trừ bớt. Con cái phải lìa xa cha mẹ thìkhổ sở lắm, hai người yêu nhau mà không được gần nhau thìkhổ vô cùng. Khổ thì mệt. Mệt tinh thần kéo theo mệt thể lý. Mệt thì mỏi. Thế nên mệt dạng nào cũng cần được nghỉ ngơi hợp lý. Khi gia đình đoàn tụ, khi những người yêu nhau được gần nhau,niềm vui bừng lên và dâng cao như nước thủy triều.
Than thì cứ than, thở vẫn phải thở. Hãy cứ bình tĩnh, rồi đâu lại vào đấy. Thật vậy, chính Thiên Chúa vẫn mãi là bình an của chúng ta: “Ngài đã liên kết dân Do-thái và dân ngoại thành một; Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Ngài đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật” (Ep 2:14-15). Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Ngài đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Ngài. Hai “đối thủ” hài hòa và sống hòa bình trên cánh đồng xanh mướt yêu thương. Đó là “nhờ thập giá mà Ngài đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2:16). Ngài đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho chúng ta là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần.Rồi cũng chính nhờ Ngài, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha (Ep 2:18).
Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Deus meus et omnia – Thiên Chúa của tôi và tất cả của tôi”. Thánh nhân là người rất nghèo mà lại trở nên rất giàu. Đó là cách sống tín thác, sống khôn ngoan, bởi vì nhờ đức tin mà được nên công chính (Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6). Thánh Phêrô cảnh báo: “Hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa” (2 Pr 3:17).
Thông thường, cái gì cũng có hai mặt. Chuyện yêu thương cũng thế, có khoảng sáng và khoảng tối – như một bức tranh có màu sáng và tối vậy. Cả hai đều cần để hỗ trợ nhau.
Yêu thương cũng có lúc vui vẻ, lúc buồn bã; lúc hăng hái, lúc chán nản; lúc khỏe khoắn, lúc mệt mỏi. Mệt thì phải nghỉ để “nạp” năng lượng tinh thần. Theo tường thuật của Thánh sử Mác-cô, hôm đó các Tông Đồ tụ họp xung quanh Thầy Giêsu, kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy.Và Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31).Đó là một dạng tĩnh tâm cần thiết lắm.
Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6:34), tránh trời không khỏi nắng. Ngày nào cũng có việc bận rộn, làm gì cũng mệt – làm ít, mệt ít; làm nhiều, mệt nhiều; thậm chí không làm cũng… mệt. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, và Ngài cũng rất tâm lý nên thương các ông mà bảo các ông “nghỉ ngơi đôi chút”, tức là Ngài bảo chúng ta làm gì thì cũng cần có những giây phút tịnh tâm (tĩnh tâm hoặc cấm phòng) để không chỉ PHỤC HỒI THỂ LÝ mà quan trọng hơn là PHỤC HỒI TINH THẦN, đặc biệt là tâm sự với Chúa để tâm hồn được nghỉ ngơi và bình an.Cố Hồng y P.X. Nguyễn Văn Thuận nói: “Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động”. Chúa Giêsu cũng căn dặn Thánh Faustina: “Hãy tựa đầu vào vai Ta, hãy nghỉ ngơi và lấy lại sức, Ta luôn ở bên con” (Nhật ký, số 498).
Thánh sử Mác-cô cho biết rằng, hôm đó kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Thế nên thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy thầy trò đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.
Thật kỳ lạ, Chúa Giêsu thu hút mọi người không chỉ vì Ngài luôn nói lời thiêng ý thánh, đơn giản mà thâm thúy, giáo huấn chân lý cao siêu nhưng vẫn phù hợp với mọi trình độ, thực hiện những việc lạ lùng,… mà chắc hẳn Ngài còn ăn nói rất có duyên (cả âm và sắc), rất chí lý,thế nên người ta mới tâm phục khẩu phục như vậy.Cuộc sống luôn nhiêu khê, thế nênChúa Giêsu đã khuyên nhủ về bí quyết sống: “Khôn như rắn, hiền như bồ câu” (Mt 10:16). Đó là cách “sống khôn”, mà sống khôn đâu dễ gì. Người ta có bí quyết thú vị này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu”. Còn Lão Tử phân tích: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện”. Nghĩa là “người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không thiện”. Đó cũng là dạng yêu thương mang màu sắc lạ.
Khi Thầy trò ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì CHẠNH LÒNG THƯƠNG, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6:34). Thánh Tâm thương xót của Ngài không thể chịu được khi thấy người ta nghèo khổ và vất vưởng giữa cuộc đời, thế nên Ngài luôn động lòng trắc ẩn, và Ngài muốn chúng ta cũng phải biết xót thương nhau như vậy, không chỉ xót thương bằng lời nói suông mà còn phải thể hiện bằng hành động thực tế, cách thức mà Thánh Giacôbê đã xác định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17).
Chỉ là ích kỷ nếu tôi được nghỉ ngơi nơi đồng xanh yêu thương của Chúa trong khi người khác phải long đong khốn khó, cũng là ích kỷ nếu tôi chỉ lo cho phần rỗi của tôi mà bỏ mặc người khác. Đó là vô cảm tâm linh. Muốn lên Thiên Đàng một mình là ích kỷ, mà người ích kỷ thì làm sao mà vào Nước Trời chứ?
Lạy Thiên Chúa, xingiúp chúng con biết sống khôn để có thể chết thiêng, biết kết hợp và cân bằng giữa hoạt động với cầu nguyện. Xin giúp chúng con luôn đồng hành với nhau và dìu bước nhau vào Miền Đất Hứa mà Ngài đã hứa ban. Xin tô thắm cuộc đời chúng con bằng màu sắc yêu thương tươi thắm của Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
MỘT CHỦ ĐỀ LUÔN CÓ TÍNH THỜI SỰ: MỤC TỬ
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Khởi đầu phần Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XVI TN B, Giáo hội cho chúng ta nghe những lời đanh thép thật đáng sợ: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,1)… “Này Ta để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi…”(c.3). Các hành vi gian ác của các mục tử đã rõ ràng với lời nguyền rủa của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia. Đó là những mục tử làm cho đàn chiên tan tác vì chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên. Đó là những mục tử chỉ biết lo cho bản thân, mãi mê kiếm tìm quyền lực, thu tích của cải. Và chuyện gì sẽ đến, rồi sẽ đến, đó là sự vinh thân phì da và sự sa đoạ cách này kiểu khác của những người mang danh là mục tử. Các hậu quả mà chính vị mục tử gánh lấy có thể không xảy ra ở đời này nhưng chắc chắn không thể tránh được ở đời sau. Tuy nhiên, với chính đàn chiên thì hậu quả như nhãn tiền ở đời này. Đàn chiên tan tác, con thì gầy yếu, con thì bệnh tật, con thì bỏ mạng dưới móng vuốt của thú dữ rừng hoang… Chính vì lợi ích của đàn chiên do đó Thiên Chúa không thể không ra tay đúng lúc, đúng thời. Người sẽ loại bỏ các mục tử vô tâm và bất nhân ấy để rồi “sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành”(c.4).
Vị mục tử tốt lành “chính danh” đã xuất hiện. Có thể nói rằng một người duy nhất trong nhân loại đã tự giới thiệu: “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11), đó là Chúa Giêsu Kitô, Cứu Chúa của chúng ta. Đây là một sự tự khẳng định không phải liều lĩnh hay khoa trương, nhưng rất có căn cứ. Chính con người và cuộc đời của Chúa Giêsu mà Tin Mừng tường thuật xác nhận cho ta căn cứ này. Tin mừng Thánh Gioan trình bày khá đầy đủ về hình ảnh vị mục tử nhân lành. Đó là người biết chiên, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên, là người luôn đi trước đàn chiên để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát, để bảo vệ đàn chiên trước nanh vuốt của sói dữ và ác thù. Chúa Nhật XVI TN B, Mẹ Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta đoạn Tin Mừng thánh Maccô mô tả một vài nét về vị mục tử ấy, đó là người biết quan tâm đến đàn chiên cách cá thể và cụ thể, toàn diện và đến cùng.
1.Yêu thương cách cá thể và cụ thể: Giêsu không chỉ yêu thương đàn chiên cách tổng thể nhưng còn với tính cách cá thể từng chiên một. Người sẵn sàng bỏ 99 con chiên để tìm cho đựơc một con chiên lạc bầy. Đó là người phụ nữ bị bệnh băng huyết đã 12 năm. Đó là người bại tay trong một Hội Đường nhân ngày hưu lễ. Đó là hai người bị quỷ ám ở vùng Ghêrada, là em bé con ông Giairô, trưởng Hội đường đựơc chỗi dậy từ cõi chết. Và giờ đây, đó là nhóm Mười Hai tông đồ đang mệt nhoài vì chuyến đi truyền giáo vất vả.
Tình yêu của mục tử Giêsu không dừng lại ở tình cảm suông, nhưng luôn được thể hiện bằng hành động cụ thể, thiết thực, thấy được, cảm đựợc và chứng nghiệm được. Không phải chúng ta cổ võ chủ nghĩa duy hiệu năng nhưng lắm khi việc xem thường các kết quả bên ngoài cũng là một trong những cách thế che đậy sự thiếu dấn thân tích cực hoặc biện minh cho một thứ tình cảm hời hợt trên môi miệng.
2.Yêu thương cách toàn diện: Vị mục tử Giêsu không phải yêu thương đàn chiên cách phiếm diện hoặc chỉ có linh hồn hay chỉ có thể xác. Người chăm sóc đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn. Không chỉ rao giảng tin mừng cho dân chúng, nhưng khi thấy họ đang cồn cào vì bụng đói thì Người đã cho họ no nê bằng bánh và cá. Người không chỉ chữa lành bệnh tật cho chiên mà còn xua trừ ma quỷ ra khỏi chiên. Người không chỉ nhắm đến chuyện tâm linh mà còn lo lắng cả phương diện thể lý của các môn đệ. “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Một lời chỉ dạy vừa thân tình vừa thiết thực. Giữa một thế giới đầy tiếng động, lắm tất bật do bởi công việc, nhiều căng thẳng vì các kế hoạch, chương trình chồng chất… thì một vài giây phút nghỉ ngơi, thư giãn quả là rất cần thiết cho thể lý và tâm hồn. Ai không biết nghỉ ngơi thì cũng khờ dại không kém gì người lười biếng không chịu làm việc. Một vị thầy vừa lo lắng cho các môn sinh về việc làm là sai đi truyền giáo sau khi đã ban cho họ quyền trên bệnh tật và ma quỷ, nay lại còn lo cho họ cả chuyện nghỉ ngơi, đích thật là vị mục tử tốt lành.
3.Yêu thương cho đến cùng: Nói đến tính đến cùng trong tình yêu của vị mục tử Giêsu, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến việc Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên. Tuy nhiên bài Tin Mừng Chúa Nhật này lại cho ta thấy một nét trong tình yêu đến cùng của Người đó là sẵn sàng từ bỏ nhu cầu chính đáng của mình vì nhu cầu cấp thiết của đàn chiên. “Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (c.34).
Hơn bao giờ hết, ngày nay, chúng ta không chỉ mong mà còn khao khát có được nhiều mục tử tốt lành. Chúng ta cầu nguyện. Quả không sai. Thế nhưng, chúng ta đừng quên Chúa muốn thánh ý của Người được thể hiện qua những con người, qua chúng ta. Hãy nỗ lực cộng tác với Chúa để loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử gian ác, những mục tử chỉ biết mưu cầu lợi ích bản thân, những mục tử làm đàn chiên tan tác, những mục tử không có tấm lòng với chiên, không lo lắng cho đàn chiên cách cá thể từng chiên một, cách cụ thể bằng hành động. Hãy loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử không biết yêu thương đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn, cả chuyện tâm linh lẫn đời sống thể lý, kinh tế văn hoá… Và hãy loại đi cả những mục tử chỉ biết đặt nhu cầu của mình, cho dù là chính đáng, lên trên nhu cầu cấp thiết của đàn chiên.
Nghe hai từ loại bỏ thì có vẻ nhẫn tâm và bất hiếu hay vô đạo. Cách riêng với tâm lý Á Đông thì thường không nỡ “cạn tào ráo máng”. Hơn nữa, tín hữu Kitô chúng ta vốn sợ mang tai mang tiếng khi có chuyện đụng chạm đến các đấng bậc bề trên. Tín hữu giáo dân vốn rất sợ mang tiếng chống cha, chống cụ, và lại còn sợ Chúa phạt, khiến cả gia đình ngóc đầu lên không nỗi. Dĩ nhiên, nếu chúng ta loại bỏ các mục tử gian ác bằng các phương thế tiêu cực thì quả là đáng trách và không phải phép. Không ai là không thể đổi thay. Vậy cách thế tích cực hơn là hãy tìm cách xây dựng các chủ chăn vô tình, tắc trách, thành những mục tử nhân hậu, tốt lành theo khả năng và hoàn cảnh của chúng ta. Các phương thế xây dựng thì đủ kiểu, nhiều cách, miễn sao chúng được thực thi trong đức ái.
Chủ đề “mục tử” (trong Giáo Hội) và “người lãnh đạo” (ngoài xã hội) luôn có tính thời sự. Tất vì một lẽ thường tình: “mạnh ở tướng chứ mạnh gì ở quân”.
.
CHẠNH LÒNG THƯƠNG VÀ QUÊN MÌNH PHỤC VỤ
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG : Mc 6,30-34.
(30) Các Tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. (31) Người bảo các ông : “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (32) Vậy, Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. (33) Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. (34) Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
- Ý CHÍNH :
Đức Giê-su là một mục tử tốt lành cảm thông với nỗi vất vả của các môn đệ, nên Người đã bảo các ông hãy đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Nhưng khi thuyền cập bến, nhìn thấy đám đông dân chúng từ xa kéo đến đang khao khát nghe giảng Tin Mừng thì Người lại “chạnh lòng xót thương” họ, nên Người và các môn đệ không nghỉ ngơi mà lại tiếp tục công việc giảng dạy.
- CHÚ THÍCH :
-C 30-31 : + Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su và kể lại cho người biết mọi việc : Sau cuộc thực tập truyền giáo, các Tông Đồ đã họp lại quanh Thầy để báo cáo công tác rao giảng kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12), trừ quỉ và xức dầu chữa bệnh cho nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13). + Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút : Lời này cho thấy Đức Giê-su cảm thông với nỗi vất vả của các Tông đồ khi không có thời gian thư giãn hồi phục sức khỏe. + Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống: Dân chúng kéo tới tấp nập gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa đã đi theo Mô-sê trong hoang địa Xi-nai trên đường về Đất Hứa. Đây cũng là kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo vừa qua của các Tông đồ : Các ông đã giúp người ta nhận biết Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và đi tìm Người để được ơn cứu độ.
-C 32-33 : + Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng : Đức Giê-su muốn cho các tông đồ vào nơi thanh vắng để họ được sống thân tình với Người và được hồi phục sức khỏe cả thể xác lẫn tâm hồn. + Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài : Thấy thầy trò lên thuyền, nhiều người đoán các ngài sẽ đến miền Bét-sai-da và Giu-li-a cách đó khoảng 10 cây số. Họ không ngại đường xa vất vả nên đã đi bộ ven bờ hồ và đến nơi trước các ngài. Khi đã yêu mến Chúa thì tình yêu ấy sẽ thôi thúc người ta vượt qua trở ngại để đến với Người, như lời Thánh Phao-lô : “Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).
-C 34 : + Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương : “Chạnh lòng thương” hay “Động lòng trắc ẩn”, là một tình cảm sâu xa bắt nguồn từ nội tâm và biểu lộ ra bằng hành động. Tin Mừng đã nhiều lần thuật lại các phép lạ Đức Giê-su làm do động lòng thương” như : Chữa hai người mù tại Giê-ri-cô (x. Mt 20,34), phục sinh con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,13), chữa một đứa bé mắc bệnh động kinh vì bị quỷ ám (x. Mc 9,22). + Vì họ giống như đàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt : Đây là hình ảnh đáng thương của dân Ít-ra-en thời bấy giờ. Những người đầu mục Do thái là các tư tế và các kinh sư, lẽ ra phải dạy dỗ dân thì lại lười biếng và chỉ lo tìm kiếm tư lợi như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm: “Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình ! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên đó sao ? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi giết, còn đàn chiên thì các ngươi lại không lo chăn dắt : Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; Chiên bệnh tật các ngươi không chữa lành; Chiên bị thương các ngươi không băng bó; Chiên đi lạc các ngươi không đưa về; Chiên bị mất các ngươi không đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta vì thiếu mục tử chăn dắt nên biến thành mồi ngon cho dã thú, chúng chạy toán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,1-6). + Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều : Đức Giê-su đặt nặng sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời, nên khi cần, Người sẵn sàng bỏ qua chương trình nghỉ ngơi đã định trước. Tin Mừng Lu-ca viết: “Đức Giê-su tiếp đón họ, nói về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa” (Lc 9,11).
4.CÂU HỎI :
1) Các Tông đồ đi truyền giáo về đã báo cáo những gì với Đức Giê-su ?
2) Câu nào cho thấy Đức Giê-su luôn nghĩ đến người khác, nghĩ đến nỗi vất vả của các Tông đồ khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời ?
3) Kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo của các Tông đồ là gì ?
4) Đức Giê-su muốn đưa các Môn đệ vào nơi thanh vắng để làm gì ?
5) Dân chúng biểu lộ lòng yêu mến Đức Giê-su và hâm mộ nghe lời Người giảng qua hành động nào ?
6) Chạnh lòng thương nghĩa là gì ? Tin Mừng ghi nhận Đức Giê-su làm gì khi “chạnh lòng thương” dân chúng ?
7) Tin Mừng dùng hình ảnh nào để diễn tả sự đáng thương của dân chúng lúc đó ? Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tuyên sấm Lời Thiên Chúa quở trách các mục tử Ít-ra-en thế nào ?
8) Đức Giê-su đã làm gì để đáp ứng nhu cầu của dân chúng ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA : “Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,34) :
- CÂU CHUYỆN :
1) HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ CẦN ĐI ĐÔI VỚI LỜI CẦU NGUYỆN:
Cuộc sống của Cha Sở xứ Ars cho ta thấy rõ sức mạnh chinh phục tâm hồn người ta là do ơn Chúa ban. Gio-an Vi-an-ney không tài giỏi, nhưng ngài luôn tích cực làm việc và tin tưởng ở Chúa. Hoạt động mục vụ của Cha Vi-an-ney xây dựng trên ba trục chính: đời sống khắc khổ hy sinh; tôn sùng Thánh Thể; phục vụ giáo dân qua lời giảng và nơi tòa giải tội.
Trong cuộc sống tông đồ hôm nay, người ta chỉ có thể thu lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật thiết với Chúa.
2) YÊU THƯƠNG LÀ QUAN TÂM CHIA SẺ NIỀM VUI CHO THA NHÂN:
KEN-NETH là một học sinh lớp 6. Cậu rất vui và hồi hộp khi được ban giám hiệu chọn để tham dự ngày hội thao của nhà trường. Cậu đã vượt qua các bạn và về nhất trong lần thi chạy đầu tiên. Phần thưởng là dải ruy-băng choàng chéo vai và sự hoan hô của khán giả khiến cậu cảm thấy hãnh diện với bố mẹ và với bạn bè cùng lớp.
Bấy giờ cậu bé tiếp tục thi chạy lần thứ hai. Nhưng khi về gần đến đích, chỉ cần thêm vài bước chân nữa là Ken-neth sẽ lại chiến thắng. Tuy nhiên cậu bé bỗng chạy chậm lại và bước ra khỏi đường đua. Sau đó bố mẹ cậu rất thắc mắc hỏi con:
– Tại sao con lại làm như vậy hả Ken-neth? Nếu con tiếp tục chạy, chắc chắn con sẽ giành được chiến thắng nữa cơ mà.
Bấy giờ cậu bé Ken-neth ngước mắt lên nhìn bố mẹ và nói:
– Nhưng, mẹ ơi, con đã có phần thưởng rồi, còn bạn Bil-ly của con thì lại chưa có. (First news)
Chính tình yêu thương bạn là Bil-ly đã khiến cậu bé Ken-neth sẵn sàng chạy chậm lại cho bạn vượt qua mình để cũng giành được huy chương giống như mình.
3) HÃY BIẾT QUAN TÂM ĐẾN THA NHÂN BÊN CẠNH:
Một học viên đã chia sẻ bài học cuối khóa tu nghiệp như sau:
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông. Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: “Chị tạp vụ ở trường bạn tên là gì?”. Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sâm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi đã nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
– Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm chỉ là một lời chào và mỉm cười với họ.
Tôi đã không quên bài nọc đó trong suốt cuộc đời mình sau này. Sau đó tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường là Do-ro-thy.
4) HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA THÁI ĐỘ BẤT KHOAN DUNG CỦA VỊ MỤC TỬ:
Một thanh niên kia tính tình ngang bướng đã gặp nhiều khó khăn khi tiến hành thủ tục hôn phối. Sau khi lấy được vợ, anh luôn cảm thấy uất ức và căm ghét đạo Công giáo, đặc biệt là các linh mục. Anh bỏ đến nhà thờ ngày Chúa Nhật và cho biết lý do bỏ đạo như sau : ”Tôi đã gặp bao nhiêu phiền hà về thủ tục hành chánh nơi các viên chức ngòai đời. Hy vọng sẽ gặp được thái độ khoan dung nhân ái nơi các vị mục tử trong đạo. Nhưng một lần nữa tôi lại gặp phải bao nhiêu rắc rối phiền hà về các thủ tục hành chánh !”
Giả như vị mục tử trong câu chuyện trên học nơi Chúa Giê-su đầy lòng thương xót thì chắc đã biết cách giải quyết các trường hợp rắc rối về hôn nhân, để vừa trung thành tuân giữ luật Hội Thánh, lại vừa thể hiện lòng bao dung nhân ái noi gương Mục Tử Giê-su, thì có lẽ đã không đẩy chàng thanh niên ngang bướng nói trên đến chỗ bất mãn và lìa bỏ Hội Thánh.
- SUY NIỆM :
1) BỆNH VÔ CẢM CỦA CON NGƯỜI THỜI NAY:
Theo kết quả khảo sát mới đây của viện Quốc tế Gal-lup thì Việt Nam là nước đứng thứ 13 trên thế giới về tệ nạn vô cảm. Thực hư của cuộc khảo sát thế nào chưa rõ, chỉ biết rằng rất nhiều câu chuyện vô cảm đã được báo chí Việt Nam ghi nhận và được đăng trên các trang mạng xã hội ngày càng nhiều hơn: Chuyện mấy nữ sinh tuổi teen đánh nhau được bạn bè đứng chung quanh thay vì ra tay can ngăn lại nhiệt tình cổ vũ kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu; Chuyện bác sĩ có thái độ tắc trách đã không cấp thời cứu chữa nạn nhân, chỉ vì người nhà chưa kịp nộp viện phí; Chuyện cô bảo mẫu bạo hành trẻ thơ được cha mẹ nhờ cậy chăm sóc, đã gây phẫn nộ trong cư dân mạng… Những điều này khiến người ta không khỏi bàng hoàng về sự suy đồi đạo đức và sự vô cảm của xã hội Việt Nam hôm nay. Sự vô cảm còn được nhân lên khi có những người bán trái cây hám lợi đã sẵn sàng ngâm trái cây vào thùng hóa chất có thể gây ung thư cho mau chín; Chuyện chủ trại heo cho bơm nước vào heo sắp xuất chuồng, người nuôi tôm bơm thạch vào tôm để kiếm lời nhiều hơn… Các hành vi đó chính là tội ác, vi phạm pháp luật nghiêm trọng cần bị xã hội lên án. Nhất là sư vô cảm còn thể hiện rõ nét qua hành động dã man của tài xế xe tải sau khi gây tai nạn, đã điều khiển xe quay lại cán chết nạn nhân bị thương đang nằm bên đường, để hy vọng sẽ bị đền bù ít hơn…
2) GƯƠNG “CHẠNH LÒNG THƯƠNG” CỦA MỤC TỬ GIÊ-SU:
Trong Tin Mừng hôm nay, sau chuyến đi thực tập truyền giáo trở về, các môn đệ đã vui mừng thuật lại những thành quả các ông đã đạt được cho Thầy Giê-su nghe, mà không nghĩ đến việc phải ăn uống nghỉ ngơi cho lại sức. Trái tim mục tử của Đức Giê-su biết các ông cần được nghỉ ngơi, nên bảo: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Nhưng khi thầy trò lên thuyền, dân chúng đoán ra nơi các ngài sắp đến, nên đã đi bộ theo đường quanh bờ hồ để đến nơi trước các ngài. Khi thuyền cập bến, thấy dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su đã động lòng thương, vì họ giống như “đàn chiên không người chăn dắt”, và Người lại tiếp tục công việc giảng dạy và chữa bệnh để đáp ứng nhu cầu của họ.
Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su luôn tỏ tình yêu thương mọi người, nhất là những người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật và tội lỗi… bị xã hội khinh thường. Người đã thể hiện tình thương bằng việc sẵn sàng vượt qua Luật Mô-sê để chữa bệnh trong ngày hưu lễ Sa-bát, không sợ bị ô uế theo Luật khi đặt tay trên đầu các bệnh nhân phong cùi để chữa lành, sẵn sàng để người phụ nữ bị bệnh băng huyết chạm vào áo mình… Người cũng nặng lời quở trách thái độ giả đạo đức và thiếu lòng khoan dung của các đầu mục dân Do thái đương thời như sau: ”Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình…” (Mt 23,23tt); “Ngày Sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sa-bát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát.” (Mc 2,27-28). Theo Đức Giê-su thì luật trọng nhất mà mọi người phải tuân giữ là sống yêu thương. Về điểm này thánh Phao-lô cũng dạy: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
3) HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA BỆNH VÔ CẢM:
PRI-MƠ-NĂNG (Premanand) là một Ki-tô hữu thuộc tầng lớp quí tộc Ấn Độ, đã ghi lại một kinh nghiệm truyền giáo của ông trong cuốn tự thuật sau : “Từ xưa đến nay, sứ điệp được các tín hữu chúng ta nói với anh em lương dân là : “Thiên Chúa luôn ưu ái quan tâm đến hết mọi người. Tôi có một số kinh nghiệm về vấn đề này như sau : Bản thân tôi hay bất cứ ai trong số các linh mục tu sĩ khi giao tiếp với người Ấn Độ có trình độ cao, theo đạo rồi hay chưa, mà lại tỏ thái độ nóng nảy miễn cưỡng… với lý do không có giờ rảnh, hoặc sắp đến giờ cơm hay giờ nghỉ trưa … thì sau đó chắc chắn tôi sẽ bị mất liên lạc với người ấy, vì họ sẽ bất mãn bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa !”.
Ông cũng thuật lại câu chuyện về lối ứng xử quan liêu của một vị giám mục người ngoại quốc thuộc giáo phận Băng-gan nước Ấn Độ, đã gây hậu quả tệ hại như sau : Một hôm, ông PĂNG-ĐI VI-ĐI-SA-GA (Pandit Vidyasagar), sáng lập viên trường cao đẳng Ấn Độ, là nhà cải cách giáo dục và xã hội có tiếng. Ông được các người theo Ấn giáo ở Can-quít-ta (Calcutta) cử đi thăm viếng để giao hảo với cộng đồng Giáo hội Công giáo mà vị giám mục là đại diện. Nhưng sự việc đã xảy ra hôm đó thật đáng tiếc: Vị giám mục đã không ra trực tiếp gặp gỡ phái đòan, mà chỉ sai linh mục thư ký tiếp xúc qua loa, khiến ông PĂNG-ĐI ra về với tâm trạng bất mãn vì nghĩ mình bị coi thường. Sau đó, ông ta đã thành lập một đảng phái tôn giáo lớn, gồm nhiều thành phần xã hội ở Can-quít-ta như quí tộc, trí thức, những người giàu có nhiều thế lực … Đảng này thề chống lại Hội thánh Công giáo, và tìm cách ngăn chặn việc truyền giáo tại nước Ấn Độ.
4) CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ ĐỂ NOI GƯƠNG MỤC TỬ NHÂN LÀNH GIÊ-SU? :
a) Ân cần phục vụ:
Mỗi người chúng ta, đặc biệt là những ai có nhiệm vụ chăm sóc cộng đòan, tuy cần phải tổ chức sinh họat theo thời khóa biểu hợp lý, nhưng vẫn phải dành ưu tiên cho sứ mệnh loan báo Tin mừng. Cần tránh lối hành xử quan liêu, cứng nhắc và thiếu bác ái của bọn Biệt Phái khi xưa… vì dễ gây sự bất mãn cho anh em lương dân khi có dịp tiếp xúc với chúng ta.
Noi gương Đức Giê-su vị Mục Tử giàu lòng từ bi thương xót, các mục tử hôm nay cần phải ân cần phục vụ như: Sẵn sàng gặp gỡ các khách từ phương xa đến dù không có hẹn trước; Sẵn sàng ban phép giải tội cho các hối nhân xin xưng tội ngoài giờ quy định; Sẵn sàng đi kẻ liệt khi có người đau nặng vào giờ nghỉ trưa hay giữa lúc đêm khuya…
b) Cảm thông phục vụ:
Đức Giê-su luôn tỏ thái độ cảm thông với nỗi đau của tha nhân: Người đã khóc thương thành Giê-ru-sa-lem sắp bị hủy diệt (x. Lc 19,44); Người cảm thông khi nghe tiếng khóc của một bà mẹ góa đang đi chôn đứa con trai duy nhất tại cửa thành Na-in và đã phục sinh anh ta (x. Lc 7,11-17); Người đã khóc thương người bạn thân La-gia-rô mới chết và chôn được bốn ngày trong mồ và truyền cho anh trỗi dậy ra khỏi mồ (x. Ga 11,1-14)… Đức Ma-ri-a cũng có thái độ cảm thông với đôi tân hôn trong bữa tiệc cưới tại thành Ca-na. Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn khi mở miệng xin Đức Giê-su làm phép lạ biến nước lã thành rượu để giúp đỡ họ (x.Ga 2,3).
Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng cần tỏ thái độ cảm thông với nỗi đau của tha nhân như thánh Phao-lô đã dạy: ”Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Riêng các mục tử cần có thái độ cảm thông và sẵn sàng chia sẻ niềm vui nỗi buồn với đàn chiên được Chúa trao phó, nhất là với những cộng tác viên của mình.
c) Dấn thân phục vụ:
Đức Giê-su đã luôn quên mình để phục vụ tha nhân: Người sẵn sàng đến nhà ông trưởng hội đường tên là Giai-rô để chữa bệnh cho con gái ông sắp chết (x. Mc 5,21-24.35-43); Sẵn sàng đi đến nhà viên đại đội trưởng ngọai giáo để chữa bệnh cho đầy tớ của ông ta; Người sẵn sàng bỏ chương trình nghỉ ngơi để tiếp tục thi hành sứ vụ như Tin Mừng đã ghi lại…
Để luôn hy sinh phục vụ noi gương Đức Giê-su thật không dễ chút nào. Chỉ những ai có tình thương yêu tha nhân thực sự, mới sẵn sàng dấn thân quên mình phục vụ như vậy. Riêng các mục tử cần tận tình hướng dẫn các đôi hôn phối gặp hoàn cảnh bất thường, để giúp họ đủ điều kiện cử hành hôn lễ tại nhà thờ, hầu an tâm sống đạo…
- LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hiểu biết, cảm thông và chia sẻ nỗi đau của tha nhân, chính là bổn phận của mỗi tín hữu, đặc biệt là các mục tử hôm nay. Ơn gọi của chúng con là trở nên khí cụ bình an của Chúa; Là đi bước trước đến với tha nhân, hiểu biết cảm thông với những nỗi đau và nguyện vọng của họ, để sẵn sàng phục vụ với tình thương xót noi gương Chúa xưa. Xin hãy mở mắt con để nhìn thấy những người đang đói cơm bánh vật chất, đang khát nghe giảng Tin Mừng, hầu sẵn sàng đáp ứng với hết khả năng của con. Xin giúp con luôn biết “chạnh lòng xót thương” để nên giống Chúa là đấng từ bi bao dung và nhân hậu, nhờ đó con sẽ tích cực góp phần, đưa được nhiều người về làm con Chúa trong gia đình Hội thánh.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Trong vài tháng qua, nhiều Linh mục ở Philippines và Mexico bị giết chết cách dã man khi đang thi hành sứ vụ mục tử của mình. Mới đây, hôm 09/07/2018, 1 Hồng y và 2 Giám mục đã bị hành hung khi cố gắng giải thoát cho một số người đang bị cảnh sát và du đãng thân chính quyền bao vây tại Nicaragua. Nhiều những Giám mục, Linh mục khác ở khắp nơi trên thế giới gặp khó khăn, chống đối, kể cả đe dọa đến tính mạng khi đang thi hành nhiệm vụ của mình… Dù như thế nào, những mục tử này vẫn hết mình vì đoàn chiên. Từ đó tôi nghĩ ngay đến hình ảnh Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ngài cư xử rất nhân bản với các Tông đồ, các cộng sự viên được Ngài sai đi rao giảng Tin mừng. Sau khi trở về họ quây quần chung quanh thầy Giêsu, tíu tít kể lại những chuyện diễn ra trong chuyến đi của họ. Ngài lắng nghe tất cả rồi truyền cho các ông:“Hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Ngài chạnh lòng thương đám đông vì “họ như bầy chiên không người chăn dắt” nên Ngài đã sẵn sàng “dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 16, 34), dù Ngài cũng rất cần thời giờ để nghỉ ngơi.
Ngài xứng đáng là vị mục tử được tiên báo trong bài đọc I: “Ta sẽ làm cho nhà Đa vít một chồi non chính trực” (Gr 23, 5). Chồi non này sẽ thay thế “các mục tử đã làm cho đoàn chiên phải thất lạc và tan tác”, là các vua và các tư tế được đặt lên theo truyền thống gia đình và dân tộc của họ, nghĩa là theo những gì là tự nhiên, phàm tục. Từ đây những mục tử sẽ do chính Chúa tuyển chọn để đoàn chiên “không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa.” (Gr 23, 4)
Thời nào cũng cần những con người có trái tim mục tử như Đức Giêsu, đặc biệt là các linh mục của Chúa: vừa cư xử nhân bản với người khác, lại vừa biết “chạnh lòng thương” với hết mọi người ; “vừa sốt sắng phục vụ bàn thờ, lại vừa hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ” ; “vừa cương nghị, vừa khiêm tốn”… Nghĩa là biết vượt qua tự nhiên để hành xử theo lối siêu nhiên.
Trước hết đối với các mục tử, chắc hẳn rằng khi đã chọn dấn thân trên con đường phụng sự Chúa, ban đầu họ đều có quyết tâm hết mình để phục vụ đoàn chiên mình được trao phó. Tuy nhiên những quyết tâm đó thường bị cản trở bởi tính tự nhiên của con người linh mục mà tập trung ở nét chung là cư xử thiếu nhân bản, vì vậy mà họ đã vô tình làm cho chiên “thất lạc và tan tác”. Lời Chúa hôm nay trước hết để nhắc cho các mục tử của Chúa hãy biết bắt chước Đức Giêsu để thấu hiểu dân chúng, nhất là những người cộng tác với mình, nghĩa là phải có trái tim mục tử. Điều cần thiết nơi một linh mục không phải là tài năng hay những việc họ làm, vì giáo dân sẽ có chuyên môn và kinh nghiệm nhiều hơn, nhưng là sự hiện diện của một Giêsu, Đấng giàu lòng thương xót.
Kế đến cũng để nhắc nhở đoàn chiên hãy biết cộng tác với các mục tử của mình trong tinh thần hiệp thông, xây dựng. Mục tử này đi rồi mục tử khác đến. Người này chăn chiên giỏi, người kia chăn chiên dở. Cha này được lòng giáo dân về điểm này, cha kia được lòng giáo dân về điểm nọ… Điểm chung là không ai hoàn hảo và cũng không mục tử nào muốn làm cho đoàn chiên Chúa phải tan tác, phải đói khát và sâu xa hơn cả là Họ đạo này là của chúng ta, cánh đồng này là của đoàn chiên chúng ta.
Dù không phải là mục tử, nhưng mỗi người cũng được mời gọi giống Đức Giêsu để cư xử hiền lành, nhân hậu với hết mọi người, nhất là có trái tim biết “chạnh lòng thương” để mở lòng ra trước những nhu cầu, những thiếu thốn của người khác. Trong đời sống gia đình, nhiều khi chúng ta cư xử thiếu nhân bản, thiếu hiểu nhau làm cho người bạn chúng ta bị tổn thương. Lắm lúc trái tim chúng ta khép kín không mở ra trước những nhu cầu chính đáng của người khác. Ví dụ người vợ than chồng con suốt ngày cứ la cà ở quán café, người chồng thì nói vợ con suốt ngày cằn nhằn mệt cả óc… Mỗi người phải hiểu nhau 1 chút: người phụ nữ trái tim có 1 ngăn, trong khi trái tim đàn ông có 4 ngăn trong đó có 1 ngăn dành cho sự nghiệp và 1 ngăn dành cho việc giải trí lành mạnh… Rồi gia đình, cha mẹ nhiều khi cũng không hiểu con cái cho đủ. Thương con ngày hôm nay không phải chỉ là giữ để con không làm điều xấu, nhưng là hướng nó đến với những giá trị tốt đẹp hơn…
Tất cả mọi người trong bậc sống của mình đều được mời gọi có trái tim mục tử giống như Đức Giêsu biết “chạnh lòng thương”. Để có thể làm được điều đó, giống như Thiên Chúa ngày xưa đã loại bỏ những mục tử “tự nhiên” (cha truyền con nối, hoặc truyền thống của dân tộc) để chính Ngài sẽ chọn và ban cho dân những mục tử như Ngài mong ước, nghĩa là những con người mang tính “siêu nhiên” ; thì mỗi người cũng phải biết loại bỏ những giá trị tự nhiên để đối xử với nhau theo lối siêu nhiên. Muốn hành xử theo lối siêu nhiên thì mỗi người phải tập tiếp cận với những giá trị siêu nhiên, đó là việc siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, năng lãnh nhận các Bí tích để có được sự linh thánh trong chính con người chúng ta. Đức Giêsu đã muốn các môn đệ tìm nơi thanh vắng không phải chỉ để nghỉ ngơi về phần xác, mà còn để nghỉ ngơi về phần hồn, nghĩa là việc cầu nguyện với Thiên Chúa Cha.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Cầu nguyện là hoa trái của đức tin. Đức tin là hoa trái của tình yêu. Tình yêu là hoa trái của phục vụ. Phục vụ là hoa trái của bình an”. Mỗi người chúng ta hãy tha thiết nài xin Chúa ban cho mình được sự bình an đích thực để từ đó chúng ta có thể phục vụ nhau trong tình yêu thương chân thành, giống như mục tử Giêsu.
.
THIÊN CHÚA QUY TỤ VÀ CHĂM SÓC DÂN NGƯỜI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong dịp dự lễ tấn phong Giám mục Giáo phận Thánh Hóa, chúng tôi được nghe kể về hoàn cảnh hết sức khó khăn của giáo phận này. Sau năm 1954 phần lớn các linh mục và giáo dân di cư vào miền Nam. Con số những người còn ở lại rất ít, số linh mục chỉ chừng mười cha. Với tình hình như thế, các cơ sở tôn giáo bị lấn chiếm, các sinh hoạt tôn giáo bị ngưng trệ, dân chúng sống trong sợ hãi vì tù đày, nên tản mác khắp nơi. Đức Cha Phêrô Phạm Tần lúc đó được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục từ năm 1960, nhưng vì bị chính quyền quản thúc nên cho đến năm 1975 Ngài mới được tấn phong Giám mục. Vì không thường xuyên có linh mục và thánh lễ, vì hoàn cảnh xã hội, đời sống đức tin mai một, có nhiều người được rửa tội nhưng không biết gì về đạo và các bí tích. Cho đến nay, đoàn chiên Giáo phận Thanh Hóa đã được quy tụ lại và phục hồi sau những ngày bị tản mác, nhưng vẫn còn mười xứ đạo chưa phục hồi lại được, vì mất nhà thờ, vì sự khó khăn của chính quyền địa phương. Tình hình đất nước, xã hội có phần dễ chịu hơn, các chủ chăn được liên tục sai đến với đoàn chiên Thanh Hóa, giúp cho giáo phận này đang từng bước hồi sinh và lớn mạnh.
Thưa quý OBACE, Chính Thiên Chúa là chủ đoàn chiên, Ngài không nỡ để cho đoàn chiên của mình bị bơ vơ tản lạc. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã chạnh lòng thương trước cảnh nghèo đói, thiếu thốn, bơ vơ, Ngài quy tụ họ lại và chăm sóc cho đoàn chiên mình. Thiên Chúa còn liên tục sai nhiều chủ chăn đến với đoàn chiên, để những mục tử này nhân danh Thiên Chúa yêu thương phục vụ và hướng dẫn đoàn chiên đi theo con đường Chúa muốn.
Thời cựu ước, Israel là đoàn chiên của Chúa, được Chúa yêu thương chăm sóc. Thiên Chúa đã dùng cánh tay hùng mạnh để bảo vệ và dẫn dắt Israel khỏi cảnh nô lệ của Ai Cập và đưa họ vào đất hứa. Chúa đã đặt lên trong Israel những người thay mặt Chúa để hướng dẫn dân Chúa. Tuy nhiên, những người này đã không chu toàn trách nhiệm. Họ để cho đoàn chiên Israel thường xuyên bị lôi kéo bởi lối sống dễ dãi, cúng bái các thần linh của dân ngoại. Các đế quốc chung quanh đến đánh phá và bắt dân Israel phải đi lưu đày bên Babylon. Từ Babylon, Thiên Chúa lại quy tụ Israel và dẫn họ trở về. Qua lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay, Thiên Chúa đã lên án các mục tử không chu toàn trách nhiệm khiến cho đàn chiên tản mác: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên Ta phải tán mác; Các ngươi xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng. Ta sẽ để ý đến hành vi của các ngươi và trừng phạt các ngươi”.
Cũng qua Giêrêmia, Thiên Chúa hứa sẽ quy tụ đoàn chiên Israel sau thời kỳ bị phân tán, sẽ phục hồi đoàn chiên và làm cho đoàn chiên nảy nở và gia tăng. Hơn nữa, Thiên Chúa còn hứa ban cho đoàn chiên các mục tử để lãnh đạo, dẫn dắt chiên đi theo con đường của Chúa và hết lòng xả thân để bênh vực, bảo vệ đàn chiên khi bị tấn công. Từ đó, chiên không còn phải sợ hãi, không bị tán loạn và không bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn này của Thiên Chúa đã được ứng nghiệm qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu.
Tin Mừng Marcô cho thấy, Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà các tổ phụ và các tiên tri mong đợi. Ngài chính là vị mục tử Thiên Chúa sai đến để cứu thoát nhân loại và dẫn đưa đoàn chiên nhân loại đến đồng cỏ Nước Trời. Chúa Giêsu chính là vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã chạnh lòng thương trước cảnh đói khổ cả thể xác và tinh thần của dân chúng. Câu chuyện hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một ngày đầy ắp công việc giảng dạy và phục vụ đám đông dân chúng đang đi theo Ngài. Họ quy tụ quanh Chúa Giêsu để được nghe giảng dạy, để được yêu thương chăm sóc, chữa lành các đau khổ thể xác và tâm hồn. Chúa Giêsu rất cảm thông với sự vất vả của các tông đồ, Chúa quan tâm đến các ông là những cộng tác viên của Ngài. Thấy các ông quá vất vả, Chúa đã đề nghị các ông: “Các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thánh Marcô cho biết các ông bận rộn đến độ không có giờ ăn và giờ nghỉ.
Chúa Giêsu và các môn đệ xuống thuyền ra đi. Thấy vậy, dân chúng đi bộ vòng bờ hồ đến nơi trước các Ngài. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Mặc dù đã mệt mỏi vì cả ngày phục vụ đám đông, dù nhu cầu nghỉ ngơi một chút là chính đáng, nhưng khi thấy đám đông như đoàn chiên bơ vơ, Chúa Giêsu lại tiếp tục phục vụ họ. Ngài không quan tâm đến bản thân và việc nghỉ ngơi, nhưng Ngài chạnh lòng thương trước sự đói khát cả tinh thần lẫn vật chất của họ. Quả thật, dân Do Thái lúc đó như một đoàn chiên không người hướng dẫn. Các luật sĩ và các thượng tế là những người lãnh đạo trong dân, họ có bổn phận chỉ cho dân biết sống theo lề luật của Thiên Chúa, nhưng những người này đã không chu toàn nhiệm vụ. Các vị lãnh đạo Do Thái lúc đó chỉ biết tìm kiếm lợi ích cho bản thân, họ bị lôi cuốn vào của cải vật chất và lối sống hình thức bên ngoài, bỏ bê dân chúng.
Thánh Marcô dùng một câu ngắn gọn để diễn tả tấm lòng của vị mục tử Giêsu: “Đức Giêsu trông thấy đám đông thì chạnh lòng thương”. Ngài đến với nhân loại bằng tấm lòng chạnh thương. Cả cuộc đời của chúa Giêsu là tìm kiếm những người tội lỗi đưa họ trở về với Thiên Chúa, chữa lành những tâm hồn đau yếu và băng bó, an ủi những tâm hồn bị thương tích. Chúa Giêsu chăm sóc cho con người như người mẹ chăm lo cho con cái. Ngài chỉ cho mọi người biết sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa và dẫn mọi người tiến về quê trời. Đức Giêsu không chỉ chăm lo cho đoàn chiên Do Thái, nhưng thánh Phaolô cho biết, Chúa Giêsu đã liên kết tất cả chúng ta nên một nhờ cái chết và sự sống lại của Người. Đức Giêsu đã phá đổ bức tường ngăn cách, nhờ cái chết và sự sống lại, Ngài liên kết muôn dân nên một. Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô anh em đã trở nên những người ở gần.
Thưa quý OBACE, Thiên Chúa hằng yêu thương, quy tụ, dẫn dắt và bảo vệ chúng ta là đoàn chiên của Người. Chúng ta tạ ơn Chúa, vì dù khó khăn từ bên ngoài vẫn còn, nhưng Chúa vẫn cho chúng ta được quy tụ với nhau để thờ phượng Chúa. Qua Giáo Hội, Chúa vẫn luôn chăm sóc yêu thương ta nuôi dưỡng ta bằng Thánh Thể của Chúa và hướng dẫn ta bằng Lời của Ngài.
Việt Nam được coi là xã hội cộng sản, vô thần, đời sống tâm linh không được coi trọng. Từ đó, xã hội đang tạo ra những khoảng trống tâm linh trong đời sống. Trong khi đó, nhu cầu tôn giáo, tâm linh là một nhu cầu không thể thiếu của con người, dù là người sơ khai hoặc người văn minh hiện đại. Để bù đắp cho sự thiếu hụt trong đời sống tâm linh của người dân, người ta đã cố tình tạo ra những thứ thần linh. Họ tôn ông này bà nọ lên như thể là những vị thần, họ lập đền thờ cho dân thờ cúng, tạo ra những giai thoại cho dân chúng học hỏi tìm hiểu về những nhân vật đó. Bên cạnh việc tạo ra thần linh, những người quản lý xã hội dường như đang khuyến khích hoặc làm ngơ để cho các hình thức tín ngưỡng dân gian được phục hồi. Hàng năm tại Việt nam có đến 8 ngàn lễ hội, trong đó có những lễ hội mang tính bạo lực, dung tục. Vì sống trong tình trạng vô thần, con người cảm thấy mình chơi vơi, nên dẫn đến việc tin kiêng, cúng bái vớ vẩn, thêu dệt nên huyền thoại để tin kiêng. Ví dụ: Hàng ngàn người cúng bái, cắm nhang cho hai con rắn nằm trên ngôi mộ.
Chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta có được trái tim và lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu để chúng ta cũng biết chạnh thương khi nhiều người chung quanh chúng ta chưa được biết Chúa. Họ chưa được ánh sáng Tin Mừng dẫn lối nên đã phải sống và bước đi trong tối tăm mù mờ như vậy. Xin cho mỗi người Công Giáo biết nhiệt tâm giới thiệu Chúa và Tin Mừng cho anh em, đưa nhiều anh chị em chung quanh đến với Chúa, để họ cũng được quy tụ với chúng ta mà ca tụng Chúa.
Xin cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên đất nước chúng ta đạt nhiều kết quả, cho có nhiều người biết mở tâm hồn đón nhận hạt giống Tin Mừng và Đức Giêsu là Thầy là mục tử hằng yêu thương dẫn lối chúng ta đến đồng cỏ hạnh phúc nước trời. Amen.
.
THIÊN CHÚA ĐẶT TA DƯỚI SỰ CHĂM SÓC CỦA MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Gr 23:1-6; Ep 2:13-18; Mc 6:30-34)
Thiên Chúa là mục tử nhà Ít-ra-en và Chúa Giê-su là Mục Tử nhân lành, đó là những đề tài lớn trong Kinh Thánh. Hình ảnh mục tử có thể nói lên thật nhiều điều Thiên Chúa đã làm cho Ít-ra-en cũng như Chúa Giê-su đã làm cho chúng ta và Giáo Hội Người. Tuy nhiên Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dường như muốn nhấn mạnh đến tình trạng khốn khổ của đàn chiên cần được chăm sóc chở che. Cho nên vì tình yêu và lòng thương xót, Thiên Chúa trong vai trò mục tử đã “quy tụ đoàn chiên còn sót lại từ khắp mọi miền” lại, để Người chăm sóc họ. Đó cũng là hình ảnh báo trước Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành, sẽ được sai đến để quy tụ mọi người vào trong Giáo Hội là ràn chiên của Người.
Trước hết chúng ta hãy trở lại bối cảnh lịch sử Ít-ra-en để hiểu lời Thiên Chúa hứa rằng chính Người sẽ quy tụ đoàn chiên còn sót lại của Người. Lời Thiên Chúa lên án các người có trách nhiệm chăn dắt dân Ít-ra-en đã cho thấy tại sao dân Chúa, một dân tộc hùng mạnh, nay chỉ là đám người còn sót lại. Từ năm 931 trước công nguyên, nước Ít-ra-en bị phân chia làm hai, miền bắc là nước Ít-ra-en và miền nam là nước Giu-đa. Các vua cai trị hai nước là những mục tử “đã làm cho đoàn chiên Chúa phải thất lạc và tan tác, đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng”. Bởi thế, năm 721 nước Ít-ra-en rơi vào tay vua Át-sua, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ. Đến năm 587, vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-xo đã tàn phá Giê-ru-sa-lem và bắt dân nước Giu-đa đem đi đày. Thế là nước Ít-ra-en cả hai miền bắc và nam đều kết thúc, đa số dân sống kiếp lưu đày khốn khổ hoặc bị đồng hóa với dân ngoại. Tuy nhiên một số người còn sót lại ở Giê-ru-sa-lem. Chính trong bối cảnh này, qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a Thiên Chúa hứa rằng: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng…, cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng”. Chúng ta hãy lưu ý đến phần cuối cùng của lời Thiên Chúa hứa: “Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi…, thi hành điều chính trực công minh”. Vậy “chồi non chính trực” và “vị vua khôn ngoan tài giỏi” ấy là ai? Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ, sẽ được Thiên Chúa Cha sai đến. Trong bối cảnh lịch sử đen tối của Ít-ra-en, Thiên Chúa hứa sẽ quy tụ dân Người lại và sẽ tận tình chăm sóc họ. Thực ra lời tiên tri của Giê-rê-mi-a còn nhắm đến tình trạng khốn khổ thiêng liêng của nhân loại sau này và sự xuất hiện của Chúa Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, sẽ đến để đem mọi người về hiệp nhất với Thiên Chúa trong nước Ít-ra-en Mới. Bài Tin Mừng Mác-cô hôm nay kể lại một ít hoạt động của vị Mục Tử Nhân Lành. Đoạn sách thánh đề cao việc Chúa Giê-su chạnh lòng thương đối với đoàn chiên của Người. Mặc dù đã mệt nhọc với việc giảng dạy, chữa lành, huấn luyện các tông đồ và cần được nghỉ ngơi, Chúa Giê-su vẫn hy sinh sự nghỉ ngơi ấy để chăm sóc cho những nhu cầu của dân chúng. Thánh Mác-cô kể: “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Vì lòng thương xót, Chúa Giê-su đã đặt nhu cầu được dạy dỗ của dân chúng lên trên nhu cầu cần nghỉ ngơi của Người. Trong khi các mục tử chăn dắt dân Ít-ra-en “xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng”, thì Chúa Giê-su vừa trông thấy đám đông dân chúng, Người đã “chạnh lòng thương” và “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Bài Tin Mừng đã trình bày Mục Tử Nhân Lành chăm sóc các con chiên của Người. Nhưng hôm nay qua đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu Chúa Ki-tô đã làm thế nào để quy tụ mọi người, không phân biệt chủng tộc, làm thành một Giáo Hội. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô là những người dân ngoại trở lại Ki-tô giáo, thánh Phao-lô viết: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần”. Thật là cảm động và tuyệt vời! “Những người ở xa” trở thành “những người ở gần” là “nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra”. Kẻ xưa kia ở ngoài Giáo Hội nay được ở trong Giáo Hội là nhờ tình yêu tuyệt đối và hy sinh của Con Một Thiên Chúa! Như thế, cách Chúa Giê-su quy tụ mọi người chính là “Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét”. Người ta thù ghét nhau và thù ghét Thiên Chúa. Giờ đây Chúa Giê-su đến để giải hòa chúng ta với Thiên Chúa và giải hòa chúng ta với nhau, để “sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Gio-an 10:16).
Sống sứ điệp Lời Chúa
Bạn cảm thấy thế nào khi suy nghĩ về việc Thiên Chúa quy tụ chúng ta vào trong gia đình của Người và để Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành, chăm sóc chúng ta? Thật là cảm động và an ủi phải không? Với những suy nghĩ ấy, hôm nay bạn hãy đọc đi đọc lại nhiều lần hoặc hát lên bài Thánh Vịnh Đáp Ca “Chúa chăn nuôi tôi”, từng chữ từng câu, dừng lại ở những chữ hoặc câu nào đánh động bạn, để bạn “nếm cho biết Chúa tốt lành biết bao”! Hình ảnh thật cảm động Chúa Giê-su vác con chiên trên vai cũng có thể giúp bạn cầu nguyện sốt sắng nữa. Cảm tạ Chúa và hãy tận hưởng tình thương của Mục Tử Nhân Lành.
.
Lm. Antôn
Ông Abraham Lincoln là vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ. Ông nhậm chức vào Tháng Ba năm 1861 cho đến khi bị ám sát chết vào Tháng Tư năm 1865. Trong thời gian nhiệm chức, ông đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sử đất nước. Ngày nọ, ông cảm thấy căng thẳng gần như điên cuồng, cho nên ông đã nhờ một người về nơi sinh quán của mình là thành phố Hodgenville, tiểu bang Kentucky, mời cho bằng được người bạn thân già đến thủ đô Washington để ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn rất vui mừng khi gặp lại nhau. Sau những giờ phút tâm sự, tổng thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau một phóng viên hỏi ông đã làm gì để tổng thống vui tươi phấn khởi hẳn lên như thế, người bạn thân gìa của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi bất cứ chuyện gì có liên quan đến chính trị hay chiến tranh đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng, để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình.
Tổng thống Abraham Lincoln khi căng thẳng đã tìm đến người bạn của mình để tâm sự, và người bạn kia chỉ thinh lặng để lắng nghe thôi, nhưng đã làm cho tinh thần của Abraham Lincoln vui tươi hẳn lên. Sau khi làm việc mệt nhọc thì chúng ta có quyền nghỉ ngơi, vì thế, sau khi trở về từ chuyến đi rao giảng, Chúa Giêsu cũng đã kêu gọi các môn đệ tìm nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Chúa nói: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.”
Chúng ta cũng vậy, không ai làm việc suốt mà không cần phải nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi để bồi dưỡng sức khỏe, để gìn giữ và xây dựng tình liên hệ vợ chồng, con cái trong gia đình, nhưng quan trọng hơn là bồi dưỡng tinh thần. Nếu chúng ta làm việc liên tục, bận rộn với công việc suốt ngày thì thứ nhất thân thể sẽ mệt mỏi hôm nay và ảnh hưởng tới sức khỏe ngày mai, thứ hai không còn thời giờ cho gia đình vợ chồng, con cái, tình liên hệ sẽ bị ảnh hưởng, và thứ ba không còn có thời giờ cho Chúa, cho đời sống tâm linh, đức tin. Mỗi một con người có ba phần: thể xác, tình cảm và tâm linh, vì vậy cũng cần có những thức ăn để bồi dưỡng thể xác, cảm tình và tâm linh.
Chúng ta đang sống trong một xã hội giàu có, văn minh và tân tiến nhất thế giới. Hầu hết mọi người đều có cuộc sống tương đối đầy đủ, khá giả. Nhưng nếu chúng ta thành thật nhìn vào đời sống, thì có những lúc chúng ta cảm thấy cô đơn, lo lắng vì hoàn cảnh gia đình con cái, hay không biết tương lai sẽ ra sao. Hàng ngày qua TV hay những nguồn thông tin xã hội, facebook, internet, chúng ta nghe biết những tin tức trộm cướp, phạm pháp, giết người làm cho chúng ta lo sợ. Có những lúc chúng ta phải đối diện với những sự khó khăn trong tình liên hệ gia đình làm cho tâm trạng của chúng ta trở nên căng thẳng và buồn sầu.
Mỗi người Kitô hữu hàng ngày cần phải có những giờ phút tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa. Bên Chúa chúng ta có thể chia sẻ nỗi niềm, nói lên những lo lắng, ước vọng và cũng chỉ có thể thinh lặng thôi để chiêm ngắm tình yêu và lòng thương xót Chúa cũng là đủ.
Bài Tin mừng còn cho chúng ta biết, “Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.” Chúa dùng hình ảnh bầy chiên không người dẫn dắt để đề cập tới phạm vi siêu nhiên, có nghĩa là, nếu chúng ta không có thời giờ với Chúa, tâm hồn chúng ta bơ vơ, không có Chúa hiện diện và không có Chúa chăn dắt thì thật đáng thương vô cùng.
Có câu truyện về hai người bạn thân quen lâu năm, nhưng một người đã gia nhập đạo Công giáo, từ ngày đó hai người ít gặp lại nhau. Một hôm trong một buổi tiệc, hai người gặp lại tâm sự hỏi han về gia đình. Người bạn cho người kia biết gia đình anh gặp cảnh khó khăn, không được hòa thuận, vợ chồng đã ly dị, con cái hư hỏng. Sau đó, hỏi người bạn cũ bây giờ theo đạo Công giáo cuộc sống bây giờ ra sao? Đây là những câu họ trao đổi với nhau.
“Thế nào? Anh đã vào đạo Công giáo và tin Chúa Giêsu rồi à?”
“Phải, tôi đã tin vào Chúa Giêsu.”
“Vậy là anh biết Ngài rõ lắm phải không? Anh cho tôi biết Ngài sinh ra ở nước nào?”
“Rất tiếc tôi không biết điều đó.”
“Vậy Ngài chết hồi mấy tuổi?”
“Rất tiếc tôi cũng không biết điều đó.”
“Anh không biết về thân thế Ngài, vậy cho tôi hỏi, Ngài giảng được mấy bài giảng?”
“Cái đó, xin lỗi, tôi lại càng không biết nữa.”
“Như thế anh biết rất ít về Chúa Giêsu, mà anh bảo anh tin vào Ngài và theo Ngài.”
“Anh nói đúng, tôi cũng cảm thấy xấu hổ khi tôi biết rất ít về Ngài. Nhưng có điều này tôi nhận thấy một cách rõ ràng là ba năm trước khi còn gặp anh thường xuyên, tôi rượu chè say sưa, nghiện ngập cờ bạc mắc nợ đủ chỗ, vì thế gia đình không được hòa thuận, vợ con tôi buồn và không muốn thấy mặt tôi khi tôi mang thân thể đầy rượu về nhà. Nhưng bây giờ tôi đã bỏ rượu và cờ bạc, trả xong nợ, gia đình tôi bây giờ hòa thuận, hạnh phúc. Tất cả những cái đó tôi xác tín Chúa Giêsu đã làm cho tôi. Tôi biết và tin chắc điều đó.”
Đứng trước cảnh đông đảo dân chúng, Chúa Giê-su chạnh lòng thương vì họ bơ vơ, lạc lõng như chiên không người chăn dắt, như những tâm hồn không có Chúa hiện diện, dẫn dắt và làm chủ. Và như chúng ta biết nếu làm việc quá nhiều, quá sức, không còn thời giờ cho tâm linh, cho Chúa, thì tâm hồn cũng sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng trống vắng, bơ vơ và sẽ bị sự dữ, tội lỗi đến chiếm giữ, như tình trạng cuộc sống của người bạn trước khi gia nhập đạo Công giáo ở câu truyện trên.
Ước gì hôm nay chúng ta nghe tiếng Chúa dạy bảo, biết hy sinh dành thời giờ tìm đến với Chúa, tham dự Thánh lễ vì tình yêu mến Chúa, để chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu, lòng thương xót của Chúa, để được Chúa bồi dưỡng bằng sự an bình, ơn lành và sức sống của Chúa và tạ ơn Ngài.
.