CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN NĂM B

487

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Gr. 23, 1-6; Ep. 2, 13-18; Mc. 6, 30-34

—–

Mục lục

1.  Chạnh lòng thương (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2.  Nhịp sống Kitô hữu  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3.  Xin đừng vô cảm  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4.  Một cõi riêng tư (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

5.  Chạnh lòng  (Trầm Thiên Thu)

6.  Người chạnh lòng thương  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7.  Làm việc và cầu nguyện (Văn Hào, SDB)

8. Chúa Nhật 16 Thường Niên_B  (Lm. Antôn)

9. Chạnh lòng trước nỗi đau đồng loại  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

10. Thành quả lao động  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

11. Khiêm hạ và nhiệt tình phục vụ noi gương mục tử Giêsu  (Lm. Đan Vinh)

.

CHẠNH LÒNG THƯƠNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Có một chứng bệnh ngày nay người ta nhắc đến khá nhiều, đó là “bệnh vô cảm”. Bệnh này đông tây y đều bó tay, không thể chữa lành. Bệnh vô cảm đang lây lan từ trong nhà ra ngoài phố, từ thành thị đến thôn quê, từ giữa những người xa lạ đến những người thân trong gia đình. Nạn nhân của bệnh vô cảm thì nhiều vô kể: những em bé lang thang, những người già bất hạnh, những gia đình ly tán… Các phương tiện thông tin nhan nhản những hậu quả của căn bệnh này. Bệnh này vừa gây tai hại cho người về tinh thần vật chất, vừa làm xói mòn lòng tin giữa con người với nhau. Trong xã hội của nền kinh tế thị trường, người ta có nguy cơ biến mọi sự thành hàng hóa và lợi nhuận là mục đích hàng đầu. Trái tim con người trở nên chai đá trước nỗi đau của đồng loại. Vì tiền người ta có thể làm mọi sự, kể cả chém giết, cướp bóc và làm cho huynh đệ tương tàn.
 
Những ngày đầu tháng bảy này, hai vụ thảm sát rúng động xã hội đã xảy ra, một vụ ở Nghệ An (ngày 2-7-2015) và một vụ ở Bình Phước (ngày 7-7). Mọi người đều bàng hoàng và căm phẫn trước mức độ dã man của những kẻ sát nhân, vì có những trẻ em vô tội cũng bị giết cùng với cha mẹ mình. Trước những vụ việc này, người ta nói đến những kẻ sát nhân máu lạnh, những kẻ không còn lương tâm. Con người ngày càng trở nên hoang dã trong cách đối xử với nhau.
 
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng bạo lực và sự dửng dưng vô cảm của con người, đó là sự lãng quên Thiên Chúa, coi thường tiếng nói của lương tâm. Thực vậy, khi không tin vào Chúa, thì chẳng có gì ngăn cản người ta làm điều thất đức. Khi không tôn trọng lương tâm thì chẳng có gì giữ họ khỏi những việc làm xấu xa. Thiên Chúa là trọng tài phân định việc tốt việc xấu. Lương tâm là tòa án được thiết lập để nhắc bảo đâu là điều chính nẻo ngay. Nhờ tin có Chúa mà con người tìm đường hướng đi cho cuộc sống. Nhờ lắng nghe lương tâm mà con người nhận ra những chuẩn mực của cuộc đời. Lãng quên Thiên Chúa sẽ làm cho con người mất lý tưởng. Phủ nhận lương tâm sẽ làm luân lý băng hoại suy đồi.

Trước một đám đông đang đói khát chân lý, Đức Giê-su đã “chạnh lòng thương”, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Sứ mạng của Đức Giê-su là đem cho nhận loại tình thương của Thiên Chúa. Giáo huấn của Người nhằm giúp cho con người tìm được chân lý vĩnh cửu, đồng thời tìm được ý nghĩa trong cuộc sống hiện tại.
 
Không chỉ đem cho con người tình thương của Thiên Chúa, Đức Giê-su còn giáo huấn và mời gọi con người hãy thực thi tình mến đối với nhau. Chúng ta có thể chữa được căn bệnh vô cảm, nếu biết noi gương Đức Giê-su, để có một trái tim nhân hậu và quan tâm để ý đến những người xung quanh mình. Thực vậy, Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta – đã cảm thông an ủi những người đau khổ và giúp họ lấy lại nghị lực và niềm tin. Tình liên đới với anh chị em là một trong đặc tính căn bản của Ki-tô giáo, vì qua đó, người tín hữu thể hiện hình ảnh của Thiên Chúa, “Đấng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Chính Đức Giê-su đã đến để liên kết muôn dân nên một. Ai cũng có thể được đón nhận Tin Mừng Người rao giảng. Không còn sự phân biệt giữa các dân tộc hay nền văn hóa, mà hết thảy đều trở nên một thân thể duy nhất (x. Bài đọc II).
 
Khi có cái nhìn như cái nhìn “chạnh lòng thương” của Chúa Giê-su, chúng ta sẵn sàng nâng đỡ những anh chị em của mình,  nhất là những người yếu đuối và bất hạnh. Sống trong cuộc đời, mỗi người cũng cần có trách nhiệm đối với nhau và đối với công ích xã hội. Nhiều người tín hữu rất dửng dưng với những phong trào do xã hội khởi xướng nhằm làm đẹp quê hương, giúp bài trừ những tệ nạn, thăng tiến con người và xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh. Những đóng góp tuy nhỏ nhưng nhiều người góp lại sẽ trở thành việc lớn. Xây dựng trái đất này cho tốt đẹp và nhân ái hơn, cũng chính là thực thi giáo huấn của Chúa Giê-su trong Tin Mừng.
 
Trong cuộc sống hôm nay, biết bao người đang khao khát đón nhận Lời Chúa làm lẽ sống và lương thực thiêng liêng. Nhân loại thời nào cũng giống như đàn chiên không có người chăn, cần có người hướng dẫn và giúp họ khỏi lạc đường. Lời Chúa hôm nay cũng dặn dò các mục tử trong Giáo Hội, là những người lãnh trách nhiệm hướng dẫn các cộng đoàn đức tin. Mối quan tâm hàng đầu của các mục tử phải là tận tâm phục vụ cộng đoàn được trao phó, làm cho đời sống đức tin được nẩy nở và phát triển. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử trong Giáo Hội và những người có trách nhiệm trong hệ thống lãnh đạo dân sự, để mọi người đều biết lo lắng cho công ích chung. Khi chuyên cần lắng nghe và thực hành Lời Chúa, mỗi tín hữu chúng ta cũng đang cộng tác với sứ mạng của các mục tử, góp phần quản trị Giáo Hội địa phương và làm cho tình liên đới được triển nở nơi mọi người.
 
“Con người chỉ giống hình ảnh Chúa khi hiến mình liên lỉ, như mỗi Ngôi trong Thiên Chúa là: hoàn toàn hiến dâng, hoàn toàn tương quan, hoàn toàn yêu thương” (Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận ĐHV 606).

Về mục lục

.

NHỊP SỐNG KITÔ HỮU

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư những cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Nhịp hai chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.

Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ phút cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.

Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời, ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa lỗi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.

Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?

2- Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?

3- Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?

4- Gia đình bạn có cầu nguyện chúng với nhau trước khi đi ngủ không?

Về mục lục

 

XIN ĐỪNG VÔ CẢM

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có ai đó nói rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”. Sự lạnh lùng con tim khiến cho tình người giá rét đến nỗi không thể thổi hơi ấm tình người cho nhau. Trái tim lạnh lùng đã khiến họ co ro trong vỏ ốc ích kỷ cá nhân mà không thể vươn ra với đồng loại. Sống giữa xã hội lạnh băng tình người, ta sẽ cảm thấy cái lạnh xuyên thấu tâm can, nó dẫn ta đến nỗi đau tột cùng của sự cô đơn.
Cái lạnh tình người ấy dường như đang bao phủ trong xã hội việt Nam hôm nay. Theo kết quả mới công bố của hãng khảo sát quốc tế Gallup, Việt Nam xếp thứ 13 trong những quốc gia vô cảm nhất thế giới. Thực hư của khảo sát không biết đúng hay sai? Nhưng càng ngày, chúng ta càng phải chứng kiến những câu chuyện đau lòng, những vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Chuyện nữ sinh đánh nhau được các bạn cổ vũ nhiệt tình; chuyện bác sĩ thờ ơ, tắc trách làm chết bệnh nhân; chuyện bảo mẫu, cha mẹ bạo hành con trẻ đến chết; chuyện những vụ án giết người man rợ… khiến người ta không khỏi bàng hoàng về sự suy đồi đạo đức mà biểu hiện rõ nhất là sự vô cảm của con người. Người ta lo ngại “bệnh vô cảm” đang có sức lây lan rất lớn, len lỏi khắp mọi ngõ ngách của đời sống xã hội.
Sự vô cảm của con người dâng cao đến độ vô tâm làm hại nhau bằng đầu độc thuốc độc hại trong thực phẩm, trong trái cây. . . Dường như trong tất cả các trái cây hay rau xanh bán ở thị trường Việt Nam hôm nay đều được xịt thuốc trước hoặc sau. Đó là hành động giết người, là tội ác, là vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Thế nhưng, những sát thủ này vì lợi nhuận vẫn thản nhiên bơm thuốc vào thực phẩm để bán. Sư vô tâm còn man rợ đến nỗi gây nguy hiểm cho tha nhân khi chạy xe ẩu, lạng lách, đánh võng và thiếu nhường nhịn nhau trong giao thông đã gây nên hàng vạn cái chết thương tâm.
Trước một xã hội lạnh giá như vậy thì cần lắm một ngọn lửa tình người được thắp lên. Cần lắm những con người vượt lên trên lợi nhuận để sống có lương tâm, có đạo đức, có tình người. Đừng vì lợi nhuận mà đầu độc thuốc vào thực phẩm. Đừng vì vô tâm mà thấy nguy hiểm với tha nhân mà vẫn thản nhiên.
Giữa một xã hội lạnh lùng tình người thì cần lắm một đời sống chứng nhân của người ky-tô hữu. Người ky-tô hữu phải sống cho Tin mừng. Một Tin Mừng của yêu thương không tham lam của người và biết chia sẻ cơm bánh cho người nghèo khó. Một Tin mừng của tình người luôn biết chạnh lòng thương xót những khổ đau của tha nhân, và sẵn lòng cúi xuống phục vụ mà không mong đền đáp. Một Tin Mừng của công lý và hòa bình để người người biết tôn trọng nhau, tôn trọng luật pháp hầu xây dựng một thế giới hòa bình yêu thương.
Chúa Giê-su đã sống yêu thương. Tình yêu của Ngài trải rộng cho mọi người. Trái tim Ngài luôn chạnh lòng xót thương những mảnh đời khổ đau. Ngài luôn dấn thân xây dựng một thế giới công bằng bác ái. Ngài luôn đặt lợi ích tha nhân lên trên quyền lợi bản thân. Phúc âm ghi rằng Ngài và các môn đệ toan tính rời xa đám đông để nghỉ ngơi. Thế mà, đám đông vẫn theo Ngài. Ngài chạnh lòng thương xót họ và tiếp tục thi ân cho họ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết trở nên giống như Chúa luôn sống bác ái yêu thương với mọi người. Xin đừng vì ích kỷ mà đóng cửa lòng với những nhu cầu khổ đau của tha nhân. Xin đừng vì tham lam mà sống thiếu công lý và tình thương làm hại người, hại đời. Amen.

Về mục lục

 

MỘT CÕI RIÊNG TƯ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Sau chuyến đi, các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và khuyên nhủ : “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực, một sự quan tâm thật ân cần, ấm áp tình thầy trò.

Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Nghỉ ngơi ở đây không phải là chè chén say sưa, hưởng thụ thỏa thích, hay lười biếng “nhàn cư vi bất thiện”, nhưng đó chính là thời giờ bồi dưỡng tâm hồn, là dịp tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.

 

  1. Thinh lặng là một cõi riêng tư

Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.

Giữa những ồn ào của đám đông

giữa những sôi nổi của thành công

và ê chề của thất bại

xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.

 

Giữa những đam mê quay cuồng

giữa những khát khao thèm muốn

và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,

xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu

 

Giữa lúc bị cuộc đời từ khước

giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,

chẳng có ai để cậy dựa,

xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,

để một mình ở đó

trầm lắng và bình an.

Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”: Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.

Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.

 

2.Chúa Giêsu, mẫu gương thinh lặng

Thinh lặng là điểm nổi bật nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa sống thinh lặng, yêu thích thinh lặng, dạy thinh lặng, và dùng sự thinh lặng như một phương thế hữu hiệu để hoạt động tông đồ. Chúa khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…

Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.

Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”, đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu. 

 

  1. Thinh lặng để sống nội tâm

Thinh lặng thuộc về yếu tính của thánh thiện. Trong thinh lặng và lòng cậy trông, sức mạnh của các Thánh được hình thành (Is 30,15). Ðời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Thiên Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.

Là Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người, Chúa Giêsu nói bằng thinh lặng nhiều hơn bằng những lời rao giảng của Ngài. Thinh lặng cũng là luật sống của Mẹ Maria. Triết gia Jean Guitton gọi Mẹ Maria là “Trinh nữ suy tư”. Người trinh nữ ấy “ghi nhớ mọi sự và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Mẹ không vội vã phản ứng và phát biểu nhưng “ghi nhớ” và “suy đi nghĩ lại trong lòng”. Trong thinh lặng, Mẹ khám phá ý nghĩa các sự kiện và biến cố. Trong thinh lặng, Mẹ đi vào cuộc giao tiếp thâm sâu với Lời Thiên Chúa và để Lời ấy nên hình hài trong lòng Mẹ. Nếu Tin Mừng ghi lại một vài câu nói của Mẹ Maria thì Thánh Cả Giuse không có một lời nào, hoàn toàn thinh lặng. Ngay giữa lúc được Thiên Thần hiện đến trong giấc mộng để báo tin về Mẹ Maria cưu mang Ngôi Hai Thiên Chúa, Thánh Giuse cũng không nói một lời nào, và nhất là Ngài âm thầm ra đi khỏi cuộc đời lúc nào cũng không ai hay biết.

Thinh lặng là miền đất phì nhiêu cho hạt lúa đơm bông. Thinh lặng là cung lòng người mẹ cho tư tưởng mang lấy hình hài. Thinh lặng nội tâm để cầu nguyện, đó chính là những tâm tình kết hợp với Thiên Chúa trong đời sống nội tâm, “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1Sm 16, 7b). Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em. 

Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.

Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi. Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.

 

  1. Thinh lặng cầu nguyện

Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn. 

Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.

Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.

Sứ điệp Ngày Truyền Thông Quốc Tế năm 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chọn chủ đề “Thinh Lặng và Lời: Con Đường Phúc Âm Hóa”. Sứ điệp viết: Nếu Thiên Chúa nói với chúng ta ngay trong thinh lặng, chúng ta sẽ khám phá trong thinh lặng khả năng để nói với Chúa về Chúa…Trong sự chiêm niệm thinh lặng, Lời Hằng Sống, qua Đấng cấu tạo thế giới, trở nên hiện diện mạnh mẽ hơn và chúng ta ý thức nhiều hơn về kế hoạch cứu chuộc Chúa đang thực hiện trong lịch sử chúng ta bằng lời nói và việc làm…Lời nói và thinh lặng: học cách truyền thông là học cách lắng nghe và chiêm niệm cũng như học nói.

Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.

Lạy Thiên Chúa,Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen. 

Về mục lục

 

CHẠNH LÒNG

Trầm Thiên Thu

Một danh nhân đã nhận định: “Chỉ có những người biết yêu thương thì mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Một câu nói khá nhẹ nhàng mà lại khiến lòng người “nhức nhối” lắm.

Trong những ngày vừa qua, các phương tiện truyền thông “nóng lên” về chuyện những người có “máu lạnh” – tài xế cho xe ủi đất cán chết một phụ nữ trong vụ tranh chấp đất đai ở Hải Dương, hoặc sát thủ Nguyễn Hải Dương ra tay hạ sát 6 nạn nhân tại Bình Phước. Họ là ai? Họ là con người nhưng không hề biết chạnh lòng thương người khác.

Ai cũng phải yêu thương vì đã được Thiên Chúa xót thương. Không yêu thương là ích kỷ, là chống lại chính Thiên Chúa. Mà dám chống lại Thiên Chúa thì số phận học sẽ như thế nào? Chắc hẳn ai cũng biết. Người đời cũng vẫn nói: “Không sợ người hại, mà chỉ sợ Trời hại”. Chắc chắn “chạy trời không khỏi nắng”.

Bất cứ ai không biết chạnh lòng trước cảnh khổ của người khác thì đều là kẻ bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nếu người đó là người lãnh trọng trách chăm lo cho người khác. Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!

Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!

Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụcủng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!

Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!

Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổichẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:2-4). Vâng, Thiên Chúa luôn thích những chữ T kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,…

Người dám nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn. Thật khó mà phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23:5-6).

Miệng nói là một chuyện, tay có làm hay không lại là chuyện khác. Vì thế, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây” (Mt 12:33). Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).

Chân thành tín thác vào Thiên Chúa thì chúng ta sẽ an tâm, lỡ có gặp “hàng giả” cũng không lo bị tác hại: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, vinh thân phì da.

Phải thực sự can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ mình để có Chúa, được là thân nhân của Ngài. Thánh Phaolô phân tích: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận “chính Người là bình an của chúng ta” và giải thích chi tiết: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15).

Chúa Giêsu là mối liên kết, là “dấu cộng” nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:16-18). Đó là sự no thỏa tâm linh, no thỏa để tâm linh phát triển và trưởng thành, cũng như thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý.

Trình thuật Tin Mừng Mc 6:30-44 (tương đương Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) tường trình phép lạ “bánh hoá nhiều” lần thứ nhất mà Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Và Ngài biết họ đang đói lắm.

Chiều hôm đó, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Nhưng Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ngài biết công việc mục vụ vất vả lắm, vất vả thì phải mệt, Ngài thương các ông lắm, vì công việc cần làm mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.

Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa, dù đó là nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng vì Chúa và vì tha nhân mà họ chấp nhận hy sinh. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Nhưng thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, thậm chí còn đến trước cả các ngài. Thế mới chắc cú! Điều đó cho thấy sức hút của Chúa Giêsu rất mạnh, dù nhìn bề ngoài Ngài rất “bụi”, chẳng có gì “nổi bật”.

Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Ngài dạy họ cách sống vì thương xót họ, thương xót vô điều kiện.

Nói đến chuyện chăm sóc mục vụ, chúng ta không thể không liên tưởng tới cuộc đời Thánh LM Gioan Maria Vianney (1786-1859, Pháp quốc). Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Thánh Gioan Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa. Và Ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu. Thật đáng khâm phục biết bao!

Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự nhận lỗi mình chứ đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,…

Lúc sinh thời, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!

Hình ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.

Lo cho thân xác được no ấm thì cũng phải lo cho linh hồn no thỏa. Muốn như vậy thì phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã động viên chúng ta 365 lần: “Đừng sợ!”. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó cho chúng ta thấy rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống hiền như chiên giữa bầy sói, hiền lành nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng nhân của Thiên Chúa.

Trong Tông thư Laudato Si (Chúc Tụng Thiên Chúa), ĐGH Phanxicô có đề cập một cách sống độc đáo theo tinh thần của Đức Giêsu Kitô: “Hãy sống khôn ngoan, hãy suy nghĩ sâu sắc, hãy yêu thương rộng lòng”. Ước gì mỗi chúng ta đều biết thể hiện lòng thương xót đối với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn, những người bị xã hội ruồng bỏ, có làm vậy thì chúng ta mới xứng đáng nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Lòng Chúa Thương Xót, đời đời con ca tụng – Misericordias Domini in aeternum cantabo” (Tv 89:1).

Lạy Thiên Chúa giàu lòng xót thương, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ (Tv 51:12) để con biết thương xót tha nhân như chính mình. Xin cho các Kitô hữu luôn cố gắng sống xứng đáng kiếp người trong mọi hoàn cảnh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

 

NGƯỜI CHẠNH LÒNG THƯƠNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Tông đồ Gio-an đã cho ta một định nghĩa rất tuyệt vời về Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu”, rồi sau đó ông cố gắng giải thích cho ta hiểu tình yêu đó là như thế nào (1 Ga 4:7-11). Đức Giê-su cũng giảng giải cặn kẽ cho ông Ni-cô-đê-mô biết về thứ tình yêu ấy: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3:16-18). Các lời giải thích trên thật siêu việt và đầy tính thuyết phục ngay cả đối với một bậc ráp-bi trong dân, tuy nhiên tình yêu không phải là điều gì thuần tư duy; tình yêu thuộc lãnh vực cảm nghiệm và biểu lộ nhiều hơn. Biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa chính là cái chết thập giá của Đức Giê-su, do đó cảm nghiệm của ta chỉ trở nên sâu sắc khi vào sâu trong cái chết tự hiến của Người. Thế nhưng tình yêu, ngoài biểu lộ đỉnh điểm và mãnh liệt trên Thập Giá, vẫn còn có thể biểu lộ bằng nhiều cách khác, bình dị hơn nhưng không kém phần sâu sắc mặn mà. Tác giả Mác-cô, qua đoạn văn Tin Mừng ngắn gọn và giản dị hôm nay, muốn chúng ta chạm được tới thứ tình yêu rất nhân bản đầy tình người đó.

Các tông đồ mệt nhọc sau chuyến đi truyền giáo trở về, hẳn sẽ nghiệm thấy một tình cảm nồng ấm như thế nào khi nghe Thầy Giê-su ân cần: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Các ông có lẽ đã không ngờ những lời đậm đà như thế lại được thốt ra từ môi miệng một bậc thầy được thiên hạ kính nể với những lời giảng dạy cao siêu đầy uy lực, ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư’ (Mc 1:22). Các ông càng không thể ngờ được rằng, nếu Thầy Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể gần gũi và ân cần chăm sóc tới từng chi tiết của cuộc sống đời thường của con người đến thế?

Cựu Ước đã nhiều lần cho thấy Đức Chúa Gia-vê chăm sóc dân riêng tới từng chi tiết cuộc sống; trong thời xuất hành, Ngài hàng ngày chu cấp cho họ Man-na, thịt chim trời và nước uống trong mát (Xh 16:17), cho mây che ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (Xh 13:21). Tuy nhiên đó vẫn là một Đức Chúa quyền uy cao vời, và dân Híp-ri phải luôn kính phục. Thế cho nên cái cảm nghiệm về một Thiên Chúa sống giữa loài người đầy ắp yêu thương thì chưa ai từng đã có bao giờ. Là các thủ lãnh tương lai của Giáo Hội, chắc chắn các tông đồ cần phải biết tới cảm nghiệm này: và mọi phần tử của Hội Thánh qua các thời đại cũng cần phải có nữa. Riêng các Ki-tô hữu, không trừ một ai, trong một mức độ nào đó, cũng cần nghiệm thấy như thế trong cuộc sống hàng ngày của mình, nhất là khi họ mở miệng tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã trở nên giống con người mọi đàng, và cư ngụ giữa chúng ta (xem Pl 2:6-8). Lúc đó, phải, chỉ lúc đó, thực tế này không còn chỉ là một suy tư thần học, một mầu nhiệm cao vời, mà phải trở thành một kinh nghiệm sống ngọt ngào thường ngày.

‘Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt’.

Cựu Ước hầu như muốn dành sự chăm sóc của Đức Chúa Gia-vê cho riêng dân Do Thái của Ngài mà thôi. Các tiên tri sau này chỉ dám ám chỉ xa xa rằng Thiên Chúa cũng quan tâm tới các dân tộc khác và muốn qui tụ họ (xem Is 2:2). Phần các môn đệ, sau cảm nghiệm riêng tư thân mật, các ông đã được dẫn tới một trải nghiệm khác: sự quan tâm nhân ái của Thầy Giê-su mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là những ai bơ vơ vất vưởng. Chuyến đi truyền giáo cho các ông cái kinh nghiệm đầu tay về việc thiết lập một dân riêng mới, nhưng dân này sẽ không hề có tính biệt loại (exclusive). Vừa cảm thấy được Thầy Giê-su ân cần chăm sóc, các ông liền được cho biết, cõi lòng từ nhân của Người mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là cho các kẻ tội lỗi lầm lạc. Sau này rất nhiều lần khác nữa, Người không ngừng khảng định điều này…, và đây mới chính là đặc điểm không thể nhầm lẫn của đoàn dân mới là Hội Thánh (xem Mc 9:38-40; Lc 9:49-55). Như Phao-lô đã từng khảng định, mọi Ki-tô hữu cần nhận thức điều này: phe phái, biệt loại dưới bất kì hình thức nào, đều đi ngược lại với cõi lòng từ nhân của Đức Ki-tô, vì Người tới để phá bỏ mọi bức tường ngăn cách (xem Gl 3:27-28).

Tôi có thể đi tới kết luận cho chính bản thân mình rằng: càng có được cảm nghiệm riêng tư về lòng nhân ái Chúa, do được ưu ái chăm sóc cách đặc biệt (như khi nhận được ơn gọi Ki-tô hữu, tu sĩ SDB, linh mục…hay gặt hái được thành công…, vượt qua được thử thách…), tôi càng phải biết mở rộng cõi lòng hơn để vượt thắng mọi hình thức phân rẽ: lương – giáo; triều – dòng; tu – đời, đạo đức – khô khan; tốt – xấu.., để trên hết, lòng từ bi thương xót Chúa phải bao trùm trên tất cả trong tôi. Nếu cõi lòng tôi chưa được như thế, thì có nghĩa là cảm nghiệm về lòng thương xót Chúa nơi tôi chưa thật sự chân thành và sâu sắc.

Lạy Thầy Giê-su từ bi và nhân hậu, xin đừng để con run sợ trước các cảm nghiệm về sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa, hay sự cao siêu bóng bảy trong các học thuyết Người loan truyền. Lòng con khao khát hơn một cảm nghiệm nồng ấm vì thấy mình được chăm sóc mến thương, nhất là được xót thương tha thứ. Xin cho con có được mỗi ngày vài giây phút gần gũi thân mật trong tâm tình và cảm nghiệm: mình được Chúa yêu thương chăm sóc. A-men.

Về mục lục

 

LÀM VIỆC VÀ CẦU NGUYỆN

Văn Hào

Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi. Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giê-su áp dụng cho các học trò của mình. Sau khi các tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn. Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình. Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.

Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được mọi người yêu mến và nể phục. Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ để cầu nguyện trước Chúa Giê-su Thánh Thể. Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện. Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa Giê-su Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa ?”. Cụ già chất phác và chân chất trả lời “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả. Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi”. Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm của cỏi lòng. Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.

Chính Đức Giê-su cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện. Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện. Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha. Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.

Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy. Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông. Moise cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập. Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa. Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người. Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ. Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình. Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.

Bác học Ampère đã nói: “ Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện”. Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa. Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện. Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song. Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế. Lời căn dặn Chúa Giê-su ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyến mời Chúa nói với chúng ta hôm nay “ Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.

Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình. Vị ẩn sĩ đó trả lời “ Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối. Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch”. Anh thương gia hỏi lại “ Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?” Vị ẩn sĩ nói tiếp: “ Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng ”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai. Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa. Chính Đức Giê-su đã nói “ Không có thầy, anh em không làm được gì.”

Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng. Chúa Giê-su đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế. Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giê-su đã thể hiện một trái tim yêu thương. Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giê-su đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên. Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác. Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên. Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giê-su.

Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay. Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình. Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn. Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi. Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối sống tục hóa. Người môn đệ Chúa Giê-su muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.

Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giê-su, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.

Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Đức Giê-su chính là sự bình an của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “ Người đã đến loan Tin Mừng bình an : Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”

Về mục lục

 

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay tôi muốn cùng với mọi người ôn lại bài học lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa một cách ngắn gọn. Tôi hứa sẽ không bắt đầu thời tiền sử hay lúc Thiên Chúa mới tạo dựng vũ trụ, nhưng vào thời vua Đa vít, khoảng một ngàn năm trước Chúa Cứu Thế. Phải thú nhận rằng trong đại học chủng viện tôi không thích môn lịch sử mấy, nhưng khi học môn Kinh thánh, tôi cảm thấy lối cuốn và rất thích. Tôi không thể dồn 1 ngàn năm lịch sử ơn cứu độ vào mấy phút ngắn ngủi trong bài giảng này, cho nên tôi chỉ đề cập đến những thời điểm liên quan và được đề cập đến trong bài Kinh thánh hôm nay.

Khi Đa vít được dân chúng tôn làm vua, ông muốn xây một đền thờ cho Thiên Chúa, vì chưa có một ngôi đền thờ nào hết. Thiên Chúa không muốn, nhưng qua ngôn sứ Nathan, hứa sẽ chúc lành cho Đa vít và sẽ giúp ông xây dựng một vương quốc tồn tại đến muôn đời, và con cháu ông sẽ nối dòng cai trị vương quốc đó. Nhưng tiếc thay con người bằng cách này hay cách khác có khả năng hủy bỏ lời chúc lành của Chúa. Thật vậy, khi vua Sa-lô-môn, con của vua Đa-vít lên thế vị cha, thì đã từ bỏ Chúa thờ thần ngoại bang, và tăng thuế để xây những tòa nhà lộng lẫy cho mình. Khi vua Sa-lô-môn qua đời, con của vua là Rê-hô-bô-hàm lên kế vị, có nhiều nhóm nổi lên chống đối, và sau đó vương quốc đã bị phân chia thành hai miền Nam và Bắc. Vua Rê-hô-bô-hàm cai trị phía Nam có tên là Giu-đê-a, và trong vòng 400 năm kế tiếp, dòng dõi vua Đa-vít tiếp tục cai trị phần đất phía Nam này.

Phần đất phía Bắc, có tên là Is-ra-en, chịu nhiều sự lầm than khốn khổ dưới ách cai trị của những vị vua của những nhóm loạn quân nổi lên đảo chánh. Trong vòng hơn 200 năm, vương quốc phía Bắc bị tàn phá và đô hộ bởi quân xâm lăng đến từ Át-si-ri-a, bây giờ là phía Bắc của I-rắc. Sau đó, quân Át-si-ri-a đã bị quân Ba-bi-lon, từ phía Nam tiến qua đánh bại và cai trị toàn thể Trung đông.

Cuộc xâm lăng của quân Ba-bi-lon ở phần đất phía Bắc Do thái đưa chúng ta tới thời điểm của ngôn sứ Giê-rê-mi-a được đề cập đến trong bài đọc 1 hôm nay. Tình hình nước Do thái lúc này như sau: vương quốc phía Bắc hoàn toàn bị tiêu diệt bởi quân xâm lăng không còn tồn tại. Vương quốc phía Nam do dòng dõi của vua Đa vít cai trị, nhưng không còn trung thành với Thiên Chúa và luật lệ của Người. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã cảnh báo 4 vua thay phiên lên cai trị vương quốc này, nhưng những lời cảnh báo của ngôn sứ đã bị bỏ ngoài tai. Vị vua cuối cùng là Giê-đê-ki-a đã chết trong sự nhục nhã. Sau khi bị quân xâm lăng Ba-bi-lon bắt, con của ông cũng đã bị giết ngay trước mặt ông, còn ông thì bị trói và giải về Ba-bi-lon làm nô lệ và chết ở đó.

Chúng ta có thể đọc chi tiết những lời cảnh báo nghiêm trọng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a với các vị vua này trong sách Cựu ước. Ngôn sứ cho họ biết một cách rõ ràng phải làm thế nào để thoát khỏi cảnh bị quân Ba-bi-lon xâm lăng và bị bắt đi làm nô lệ, nhưng họ đã ngoảnh mặt đi, từ chối không nghe. Vì vậy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã khiển trách và qui tội cho họ không chu toàn trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên, là dân chúng, và để cho tai họa đổ trên đầu họ.

Như chúng ta vừa nghe trong bài đọc 1, Thiên Chúa, qua lời ngôn sứ, đã phán: “Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé đoàn chiên Ta.” Và Thiên Chúa nói Ngài hứa sẽ cứu thoát đoàn chiên ấy khỏi ách nô lệ và đích thân chăm sóc. Chúa sẽ quy tụ những con chiên tản lạc, dẫn chiên đến đồng cỏ, và che chở chúng khỏi mọi nguy hiểm. Thiên Chúa còn hứa sẽ ban cho họ một mục tử đích thực từ dòng dõi Ða-vít và dẫn đưa họ tới sự an bình. Nhưng dân Do thái phải đợi tới 600 năm sau lời tiên hứa ban Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa mới mới hoàn thành. Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa sai đến trần gian sẽ đem ơn cứu rỗi, sự bình an và công chính đến cho mọi người nhân loại.

Khi Đấng Cứu Thế sinh xuống trần gian, Thiên Chúa đã sai thiên thần báo tin cho một trinh nữ đã hứa hôn với một người tên là Giuse thuộc chi họ Đa-vít, và người trinh nữ đó có tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Đấng tối cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đa-vít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Gia-cóp, và triều đại Người sẽ vô tận.”

Ông bà anh chị em thân mến. Trong bài Tin mừng tuần trước, Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế, đã sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng và ban cho các ông quyền năng chữa bệnh và trừ quỉ. Trong bài Tin mừng hôm nay, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa Giê-su nghe những thành quả đã đạt được. Sau đó, Chúa Giêsu đã khuyên các ông hãy rút lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi cầu nguyện. Bài Tin mừng còn cho chúng ta biết “Chúa Giê-su thấy đám đông dân chúng thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn và Người dạy dỗ họ nhiều điều.”

Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta một tin vui mừng, đó là, Thiên Chúa yêu thương và nhân từ với chúng ta. Người dạy dỗ và dẫn dắt chúng ta bằng Lời Chúa, để chúng ta luôn sống trong ân sủng và bình an của Ngài. Thiên Chúa còn chọn lựa và sai những người khác đến dạy dỗ chúng ta. Nhưng chúng ta phải biết tránh xa những điều người Do thái xưa đã làm, từ chối, ngoảnh mặt làm ngơ trước lời Chúa. Chúng ta phải chân thành lắng nghe lời Chúa khi cuộc sống không có sự bình an, khi gia đình có sự bất hòa, khi cộng đoàn có sự tranh chấp, ghen ghét và chia rẽ, khi xã hội còn có những tội ác, khủng bố như chúng ta thấy xảy ra trong những ngày gần đây. Chúng ta phải lắng nghe lời Chúa khi thế giới còn có chiến tranh, hận thù và áp bức, khi người dân còn bị đàn áp, đối xử một cách dã man tàn ác, như vụ chính quyền Việt Nam dùng xe ủi cán người phụ nữ trên đường vừa mới xảy ra.

Có lẽ Chúa Giê-su vẫn còn đang tiếp tục dạy dỗ chúng ta nếu Người không bị đóng đinh và chết trên thập giá. Là những Ki-tô hữu, chúng ta sẽ là những người vô phúc và bất hạnh nếu chúng ta ngừng không lắng nghe lời Chúa nữa. Nhưng vì yêu thương, Chúa vẫn luôn kêu mời chúng ta đến với Chúa để nghe lời Người dạy dỗ. Do đó, chúng ta phải hy sinh, dành thời giờ đến nhà thờ, tham dự Thánh lễ hàng ngày, hàng tuần một cách sốt sắng, để chúng ta cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa. Nếu chúng ta không có đời sống cầu nguyện thì sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng và vì thế sinh ra tự phụ và kiêu hãnh. Xin Chúa giúp chúng ta có lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế, được Thiên Chúa sai đến trần gian, đem tình yêu, hạnh phúc, bình an và ơn cứu độ đến cho chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta biết mở rộng tâm hồn, chân thành lắng nghe lời Chúa dạy, nhất là can đảm và sức mạnh thực hành lời Chúa trong cuộc sống.

Về mục lục


CHẠNH LÒNG TRƯỚC NỖI ĐAU ĐỒNG LOẠI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong Sứ điệp Mùa Chay 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh báo về lối sống vô cảm đang diễn ra trên thế giới và nơi nhiều tín hữu. Lối sống này biến con người trở nên khô cằn, ích kỷ, dửng dưng trước những đau khổ của anh chị em. Cách đây ít tháng, có những sự kiện khiến nhiều người bức xúc : Một bà mẹ chứng kiến đứa con trai của mình bị tai nạn xe, bà ôm đứa còn đầy thương tích và kêu gào mọi người giúp đỡ. Có nhiều người đi qua, nhưng không ai dừng lại để giúp người phụ nữ này ; một học sinh nữ bị các bạn xúm vào đánh hội đồng, mặc cho nạn nhận kêu khóc lạy van, những đứa bạn chung quanh không hề có phản ứng gì, trái lại, chúng thản nhiên lấy điện thoại ra quay film bạn mình đang bị hành hung như thế. Sự vô cảm đi đến độc ác như vụ án ở Bình Phước, một gia đình gồm sáu người bị thảm sát bằng dao. Hung thủ cắt cổ nạn nhân như cắt cổ con vịt mà không gớm tay.
Vô cảm là tình trạng khi con người chỉ còn nghĩ đến mình và không quan tâm đến người khác. Lối sống đua đòi bon chen, mạnh được yếu thua đã dẫn đến tình trạng con người phải chà đạp lên nhau để sống. Từ đó, con người đã trở nên vô tâm vô tình với nhau, và dần dần trở thành vô cảm lạnh lùng trước những đau khổ của người chung quanh. Sự vô cảm không chỉ xảy ra nơi xã hội, nhưng nó đang xảy ra nơi gia đình và lối xóm. Nhiều người sống mà không hề quan tâm và không hề biết gia đình bên cạnh mình là ai. Trong gia đình, cha mẹ con cái sống với nhau hết sức dửng dưng, mỗi người mỗi việc, mỗi sở thích, không quan tâm, không trò chuyện và không hiểu nhau.
Không chỉ dửng dưng đối với nhau, nhiều Kitô hữu ngày nay còn dửng dưng với Thiên Chúa. Tình trạng này thể hiện qua việc họ coi đời sống đạo chỉ là việc tùy phụ, việc thực hành đạo bị cho là thứ yếu không quan trọng. Nhiều người đã để cho trái tim mình mất cảm xúc, mất cảm nhận về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Vì thế, họ coi thường hoặc từ chối việc lãnh nhận các bí tích, họ đến nhà thờ như một cái xác vô hồn, không ý thức. Từ lối sống vô cảm với Thiên Chúa, dửng dưng với anh em, vô cảm trước nỗi đau của anh em, sẽ dẫn đến nhẫn tâm với anh em, sẽ làm cho lương tâm bị chai lì trước những lời nhắc bảo của Thiên Chúa.
Thiên Chúa chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, mà là một Thiên Chúa đồng cảm, chạnh lòng thương với những hoàn cảnh khác nhau của con người. Thiên Chúa không đứng xa để nhìn thấy con người đau khổ, nhưng Thiên Chúa đã bước đến với con người, nâng con người chỗi dậy, và Ngài còn “hôn vào vết thương” của con người. Thiên Chúa không nhắm mắt làm ngơ khi thấy con người phải đau khổ, nhưng Ngài đã chấp nhận trở nên kẻ “liên lụy” với thân phận con người. Khác với Đức Phật đi tìm con đường tu hành giũ bỏ thế trần, tiêu diệt cảm xúc, Chúa Giêsu chọn con đường bước vào trần thế, tìm đến với con người đau khổ, cùng đau nỗi đau của con người, và chấp nhận cả cái chết vô cùng đau đớn để giải thoát con người.
Tin Mừng Marcô hôm nay muốn diễn tả một Thiên Chúa chạnh lòng thương, tìm đến với con người, chứ không trốn tránh những vấn đề thực tế của con người. Sau khi sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng sám hối, các ông trở về kể lại cho Chúa về những việc các ông đã làm. Chúa Giêsu thấy rõ niềm vui xen lẫn mệt mỏi trên trên gương mặt các tông đồ, Ngài thấy điều các ông cần lúc này là được nghỉ ngơi. Vì thế Ngài đã nói với các ông : Các con hãy tìm một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút. Điều này cho thấy Chúa Giêsu hết sức quan tâm đến các cộng tác viên của mình, vì Ngài thấy các ông bận rộn đến độ không có giờ ăn uống ngơi nghỉ.
Chúa Giêsu muốn các ông tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, là Ngài muốn các ông dành sự nghỉ ngơi để gặp gỡ Thiên Chúa, nạp lại năng lượng cho đời sống thiêng liêng của mình. Giống như chiếc điện thoại cần phải được sạc pin thường xuyên mới có thể họat động, càng hoạt động nhiều, càng phải sạc thường xuyên ; cũng vậy, Chúa cũng muốn các cộng tác viên của Chúa phải được sạc pin thường xuyên nơi nguồn điện là Thiên Chúa, qua đường dây là sự cầu nguyện.
Khi bước ra khỏi thuyền, thấy đám đông dân chúng đang đi tìm Ngài, Chúa Giêsu chạnh lòng thương, Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Nhìn thấy đám đông bị bỏ rơi, như rắn không đầu, như chiên không chủ, Chúa Giêsu không đành lòng để những con người này lầm lũi mất phương hướng, Ngài đã tiếp tục dạy dỗ họ. Quả thật tình trạng của đám đông này là như thế, họ sống trong một thế giới có rất nhiều tư tưởng triết học của Hylạp, nhiều tôn giáo, có nhiều lời giải thích của các luật sĩ, lời giảng của các thượng tế và kinh sư. Tuy nhiên những tư tưởng tôn giáo, triết học và luật lệ này không chỉ ra cho con người một con đường đi đến hạnh phúc, mà chỉ có Chúa Giêsu mới có thể chỉ cho con người con đường đạt đến hạnh phúc mà thôi.
Những tư tế luật sĩ như những mục tử để hướng dẫn dân Chúa. Tuy nhiên, thay vì trở nên những người quy tụ và dẫn dắt dân Chúa, họ đã không chu toàn nhiệm vụ, đã để cho đoàn chiên bị tan tác thất lạc. Lời của ngôn sứ Giêrêmia cho biết : Thiên Chúa sẽ lấy lại đoàn chiên khỏi tay các mục tử, và chính Ngài sẽ là Đấng chăn dắt chiên Ngài, Ngài sẽ quy tụ chúng sau những ngày chúng bị tản mác. Ngài sẽ đem lại cho chiên của Ngài sự bình an và sẽ dẫn dắt chăm sóc chúng, đưa chúng vào đồng cỏ Nước Trời.
Thư Ephêsô cho thấy, nguyên nhân khiến cho con người trở nên vô cảm vô tâm với nhau là do tội. Tội đưa đến xa cách giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Chúa Giêsu đã chết để tẩy rửa tội lỗi nhân loại, đưa con người trở về với Thiên Chúa và đưa con người về lại với nhau. Như thế để xóa bỏ tình trạng dửng dưng vô cảm của con người hôm nay, trước tiên cần loại trừ tội và sự dữ trong tâm hồn. Chỉ khi tâm hồn có Chúa người ta mới biết nghĩ đến anh em, khi có Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng sẽ có được trái tim biết chạnh thương, biết rung động trước những nỗi khổ của anh chị em. Ngược lại khi tội và ma quỷ ở trong tâm hồn, người ta chỉ biết nghĩ đến bản thân và dửng dưng với anh em mình.
Mặt khác, với sức ép của cơm áo gạo tiền, lối sống đua đòi phô trương đang khiến nhiều người chỉ biết tìm kiếm tiền bạc lợi nhuận bằng mọi giá, không quan tâm đến nhau, trở nên vô cảm lạnh lùng với nhau. Lối sống này đang diễn ra trong nhiều gia đình, các thành viên quá bận rộn với công việc khiến họ không còn thời giờ cho nhau và không còn quan tâm đến nhau. Nhiều bậc cha mẹ không còn giờ cho con cái, họ để con cái bị lạc lõng, bị bỏ rơi ngay trong gia đình, thiếu quan tâm, thiếu giáo dục, thiếu tình yêu thương. Lời Chúa hôm nay mời gọi các bậc cha mẹ cần biết dừng lại để quan tâm lo lắng cho gia đình đúng cách hơn, đừng chỉ lo cơm áo, làm giàu nhưng quan tâm chăm sóc cho từng thành viên trong gia đình để không ai cảm thấy bơ vơ lạc lõng trong căn nhà của mình.
Lối sống dửng dưng vô cảm đang ảnh hưởng trầm trọng trên nhiều bạn trẻ, nhiều người đã vùi mình trong thế giới ảo của Internet và các trang mạng xã hội, quên thế giới thật mình đang sống. Họ làm thui chột các tương quan xã hội bạn hữu, để mình rơi vào tình trạng tự kỷ. Lối sống tiêu dùng đua đòi khiến nhiều bạn có thể có nhiều bạn chơi, nhưng lại không có người nào là bạn thật sự. Vì thế, nhiều người cảm thấy trống rỗng lạc lõng, dẫn đến chìm đắm mình trong các thứ nghiện ngập. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy trở về với cuộc sống thật, hãy tìm kiếm những giá trị thật, là những giá trị giúp phát triển con người toàn diện hài hòa. Đặc biệt là hãy tìm kiếm những giá trị tôn giáo, hay nói đúng hơn là tìm kiếm chính Chúa Giêsu và Tin Mừng, gặp gỡ Chúa nơi Bí Tích Giải tội và Thánh Thể, Chúa sẽ cho chúng ta có một trái tim thật mềm để có thể rung nhịp, chạnh thương, một tâm hồn thật nhạy bén trước những nhu cầu của anh em.
Xin Chúa giúp chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

THÀNH QUẢ LAO ĐỘNG

Lm. Jos. DĐH

Sau 12 năm đèn sách, các học sinh, kẻ thì hân hoan, người thì vui mừng, với kết quả của kỳ thi “2 trong 1” được tổ chức bốn ngày đầu tháng bảy vừa qua. Trong mua bán “thiên hạ” nói rằng thun mua va bán, tin nào ca ny; trong kế hoạch làm ăn thì có câu mưu s ti nhân, thành s ti thiên; còn khi thi cử, người ta lại an ủi nhau bằng câu hc tài thi phn. Thật giả, được hay mất, còn tùy thuộc tự do của mỗi người; hoặc, muốn có thành quả tốt đẹp, ta không thể thiếu việc đầu tư : tiền của, thời giờ, công sức.

Xưa kia, người làm nông có mùa màng bội thu, họ thường cho rằng nhờ : mưa thun gió hòa. Ngày hôm nay họ quan niệm, trúng mùa, được mùa, là do kỹ thuật gieo trồng đúng, là biết áp dụng công nghệ khoa học. Và trong học tập, nhiều bạn trẻ đạt được thành tích, lại bị xuyên tạc, mỉa mai cho rằng : may hơn khôn, hoặc “vì nó” thuộc diện “CÔCC”. Mơ ước thành đạt trong cuộc sống, có được kết quả tốt đẹp trong lao động, giáo dục, tai nghe mắt thấy sự trưởng thành của con cháu; mơ mộng ấy, hạnh phúc ấy, thật là chính đáng, khi người ta biết phấn đấu.

Thành quả làm việc tông đồ của các học trò, luôn được Đức Giêsu quan tâm cách đặc biệt, đó là sự nghỉ ngơi bồi dưỡng; kết quả lao động của các môn đệ hôm xưa là vui mừng về thành tích các ông đạt được. Sau một chuyến thực tập việc tông đồ, những người học trò thuở ban đầu ấy rất phấn khởi, báo cáo cho Thầy Giêsu về kết quả truyền giáo đầy khả quan.

Đức Giêsu không vội vã trước sứ mạng tông đồ, không đề cao thành tích của các học trò, cũng không im lặng về việc dấn thân phục vụ của các học trò, Ngài còn quan tâm nhắc nhớ : “các con hãy lo tìm chỗ nghỉ ngơi một chút”. Sau một ngày làm việc của các bậc cha mẹ, trải qua 12 năm ngồi ghế nhà trường, theo phương diện tự nhiên, cũng chỉ là thời gian để ta “suy xét, báo cáo” với Chúa về trách nhiệm, bổn phận của mình. Các môn đệ cần nghỉ ngơi đôi chút rồi tiếp tục sứ mạng, người Kitô hữu cầu nguyện, xin ơn, rồi tiếp tục sống niềm tin, đó cũng là dấu chứng tình yêu những ai theo Chúa.

Lao động có kết quả, làm việc có thành công, không phải là mơ ước của người chăm chỉ, mà còn cho thấy phần thưởng dành cho những ai biết sống tinh thần kỷ luật, sống tin yêu phục vụ. Người học tập có phương pháp là người sẽ gặt hái được thành quả tương xứng với sức đầu tư của họ. Người làm việc có chương trình, có kế hoạch, nhất định sẽ thu được hiệu quả cao dù trong thâm tâm của họ mới có ước mơ thành công. Khi trình báo kết quả thu được, các tông đồ mới từ từ hiểu hoạt động truyền giáo phải có Chúa Giêsu, phải có nghỉ ngơi, cầu nguyện, đó cũng là sự hiệp thông cần thiết nơi người hiến dâng phục vụ.

Đám đông xưa kia và số đông người tín hữu hôm nay vẫn chung một nỗi khắc khoải yêu thương, Chúa Giêsu chạnh lòng yêu thương thì Ngài cũng đáp ứng nhu cầu bình an hạnh phúc cho những ai theo Ngài. Để duy trì tốt công việc được giao, người ta phải biết bảo vệ sức khoẻ : biết làm chủ lấy mình; đến với thành công, người ta cần khiêm tốn nghe sự chỉ dạy của các bậc lão thành. Chúng ta hôm nay và các tông đồ xưa kia đều có thể xác, có linh hồn, chúng ta không thể đi ra ngoài qui luật : giầu mạnh về thân xác, khoẻ đẹp về linh hồn. Nghỉ ngơi cầu nguyện là tuân thủ theo tiến trình tự nhiên, dù là công tử hay bần nông đều phải biết chăm lo cho sức khỏe thể xác, bổ dưỡng phần hồn.

Tục ngữ có câu : “chuông có gõ mi kêu, đèn có khêu mi rng”. Kết quả, thành quả, chỉ có giá trị khi ta đầu tư công sức làm rạng ngợi ánh sáng đức tin, làm cho tình yêu Đức Kitô sống động. Không ai có thể làm việc hiệu quả mà thiếu nghỉ ngơi, bồi dưỡng, làm sao người ta biết sống gương sáng cho con cháu nếu không được Chúa bổ sức ban ơn ? Kinh nghiệm cũng cho chúng ta biết, thành công chỉ đến khi ta làm việc tận tâm tận lực, và luôn lạc quan nghĩ tới những điều tốt đẹp ở phía trước.

Cũng phải mất thời gian, phải có sự chuẩn bị đầu tư lâu dài cho hành trình truyền giáo, các đệ tử của Chúa Giêsu mới thấm nhuần được bài học Thầy truyền lại : nghỉ ngơi, bồi dưỡng thể xác tinh thần để công việc tông đồ luôn khởi sắc. Thành quả lao động tùy thuộc nơi mỗi người chăm chỉ, gắn bó với công việc, tình yêu của người môn đệ chỉ phát sinh hiệu quả khi có Chúa Giêsu, có biết chạnh lòng thương yêu phục vụ như Chúa Kitô.

Ngụ ngôn La Fontaine có kể câu truyện về 2 con nhái như sau : có 2 con nhái vui đùa vô ý nhảy vào thùng sữa, 1 con cố gắng vùng vẫy nhảy lên miệng thùng, con còn lại thì tuyệt vọng không muốn tốn công vô ích. Cuối cùng con nhái lười biếng thì chết trong thùng sữa ! Con nhái còn lại vì lạc quan, sau khi vùng vẫy từ từ nó đã làm cho thùng sữa đông đặc, thế là con nhái ấy đã nhạy vụt ra khỏi thùng sữa an toàn.

Các tông đồ khi xưa có được thành quả xuất sắc trong chuyến thực tập việc truyền giáo, một phần các ông chăm chỉ làm việc, phần khác các ông đã tuân theo chỉ thị của Thầy Giêsu, nên đã thành công rực rỡ. Mỗi chúng ta hôm nay Chúa cũng mời gọi chăm chỉ làm việc và đừng bao giờ để mất sự hiệp thông cầu nguyện, hy vọng rằng tinh thần tông đồ sẽ theo mãi là dịp may mắn để chúng ta sống tình bác ái yêu thương như Chúa kêu mời. Amen.

Về mục lục

.

KHIÊM HẠ VÀ NHIỆT TÌNH PHỤC VỤ

NOI GƯƠNG MỤC TỬ GIÊSU

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG : Mc  6,30-34.

(30) Các Tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. (31) Người bảo các ông : “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (32) Vậy, Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. (33) Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. (34) Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.

  1. ÝCHÍNH :

Đức Giê-su là một mục tử tốt lành. Người đã bảo các môn đệ đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi sau những ngày truyền giáo vất vả. Nhưng khi thuyền cập bến, thấy đám đông dân chúng từ xa kéo đến muốn được nghe giảng Tin Mừng thì Người lại “chạnh lòng xót thương” nên không nghỉ ngơi nữa để tiếp tục phục vụ họ.

  1. CHÚ THÍCH :

-C 30-31 : + Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su và kể lại cho người biết mọi việc : Sau cuộc thực tập truyền giáo, các Tông Đồ đã họp lại quanh Thầy để báo cáo công tác rao giảng kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12), hành động trừ quỉ và xức dầu chữa bệnh nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13). + Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút : Lời này cho thấy Đức Giê-su cảm thông với nỗi vất vả của các Tông đồ khi làm việc truyền giáo nên cần có thời gian thư giãn để hồi phục sức khỏe cả về thể xác cũng như tâm hồn. + Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống: Dân chúng kéo tới tấp nập gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa đã đi theo Mô-sê trong hoang địa Xi-nai trên đường về Đất Hứa. Đây cũng là kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo vừa qua của các Tông đồ : Các ông đã làm cho người ta nhận biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và khao khát đi tìm Người để được ơn cứu độ.

-C 32-33 :  + Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng : Đức Giê-su muốn cho các Tông Đồ vào nơi thanh vắng để họ được sống thân tình với Người và được hồi phục sức khỏe thể xác tâm hồn. + Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài : Thấy thầy trò lên thuyền, nhiều người đoán các ngài sẽ đến miền Bét-sai-da và Giu-li-a cách đó chừng 10 cây số. Họ không ngại đường xa, đi bộ ven bờ hồ và đến nơi trước các ngài. Khi đã yêu mến Chúa thì tình yêu ấy sẽ thôi thúc người ta vượt qua trở ngại để đến với Người, như lời Thánh Phao-lô : “Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).

-C 34 : + Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương : “Chạnh lòng thương” hay “Động lòng trắc ẩn”, là một tình cảm sâu xa bắt nguồn từ nội tâm và biểu lộ ra bằng hành động. Tin Mừng đã nhiều lần thuật lại các phép lạ Đức Giêsu làm do động lòng thương” như : Chữa hai người mù tại Giê-ri-cô (x. Mt 20,34), phục sinh con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,13), chữa một đứa bé mắc bệnh động kinh vì bị quỷ ám (x. Mc 9,22). + Vì họ giống như đoàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt : Đây là hình ảnh đáng thương của dân Ít-ra-en thời bấy giờ. Những người đầu mục là các tư tế và các kinh sư, lẽ ra phải dạy dỗ dân thì lại lười biếng và chỉ lo tìm kiếm tư lợi như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm: “Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình ! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên đó sao ? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi giết, còn đàn chiên thì các ngươi lại không lo chăn dắt : Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; Chiên bệnh tật các ngươi không chữa lành; Chiên bị thương các ngươi không băng bó; Chiên đi lạc các ngươi không đưa về; Chiên bị mất các ngươi không đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta vì thiếu mục tử chăn dắt nên biến thành mồi ngon cho dã thú, chúng chạy toán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,1-6). + Và người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều : Đức Giêsu đặt nặng sứ vụ  loan báo Tin Mừng Nước Trời, nên khi cần, Người sẵn sàng vượt qua chương trình nghỉ ngơi đã định trước. Tin Mừng Lu-ca viết: “Đức Giê-su tiếp đón họ, nói về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa” (Lc 9,11).

4.CÂU HỎI :

1) Các Tông Đồ đi truyền giáo về đã họp lại báo cáo những gì với Đức Giê-su ?

2) Câu nào cho thấy Đức Giê-su luôn nghĩ đến người khác, nghĩ đến nỗi vất vả của các Tông Đồ khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời ?

3) Kết quả cụ thể của cuộc hành trình truyền giáo của các Tông Đồ là gì ?

4) Đức Giê-su muốn cho các Môn đệ vào nơi thánh vắng để làm gì ?

5) Dân chúng biểu lộ lòng yêu mến Đức Giê-su và hâm mộ nghe lời Người giảng qua hành động nào ?

6) Chạnh lòng thương nghĩa là gì ? Tin Mừng ghi nhận Đức Giê-su làm gì khi “chạnh lòng thương” dân chúng ?

7) Tin Mừng dùng hình ảnh nào để diễn tả sự đáng thương của dân chúng lúc đó ? Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tuyên sấm Lời Thiên Chúa quở trách các mục tử Ít-ra-en như thế nào ?

 8) Đức Giê-su đã làm gì để đáp ứng nhu cầu của dân chúng ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA : Đức Giêsu bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.- “Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,31.34) :
  2. CÂU CHUYỆN: HAI THÁI ĐỘ PHỤC VỤ PHÁT SINH HAI HIỆU QUẢ KHÁC NHAU :

PRI-MƠ-NĂNG (Premanand) là một Ki-tô hữu thuộc tầng lớp quí tộc Ấn Độ, đã ghi lại kinh nghiệm truyền giáo trong cuốn tự thuật sau : “Từ xưa đến nay, sứ điệp được các tín hữu chúng ta nói với anh em lương dân là : “Thiên Chúa luôn ưu ái quan tâm đến hết mọi người. Tôi có một số kinh nghiệm về vấn đề này như sau : Bản thân tôi hay bất cứ ai trong số các linh mục tu sĩ khi giao tiếp với người Ấn Độ có trình độ cao, theo đạo rồi hay chưa, mà lại có thái độ nóng nảy miễn cưỡng… với lý do không có giờ rảnh, hoặc sắp đến giờ cơm hay giờ nghỉ trưa … thì sau đó chắc chắn tôi sẽ bị mất liên lạc với người ấy, vì họ sẽ bất mãn bỏ đi và không bao giơ quay trở lại nữa !”.

PRI-MƠ-NĂNG tiếp tục đề cập đến câu chuyện về một vị giám mục người ngoại quốc lúc đó đang cai quản giáo phận Băng-gan thuộc Ấn Độ như sau : Một hôm, ông PĂNG-ĐI VI-ĐI-SA-GA (Pandit Vidyasagar); sáng lập viên trường cao đẳng Ấn Độ, là nhà cải cách giáo dục và xã hội có tiếng. Ông được các người theo Ấn giáo ở Can-quít-ta (Calcutta) cử đi thăm viếng giao hảo với cộng đồng Giáo hội Công giáo mà vị giám mục là đại diện. Nhưng sự việc đã xảy ra lại thật đáng tiếc : Vị giám mục đã không trực tiếp gặp gỡ phái đòan, mà chỉ sai linh mục thư ký ra tiếp qua loa, khiến ông PĂNG-ĐI ra về với tâm trạng bất mãn vì nghĩ mình bị coi thường. Sau đó, ông ta đã thành lập một đảng phái tôn giáo lớn, gồm nhiều thành phần xã hội ở Can-quít-ta như quí tộc, trí thức, những người giàu có và có thế lực … Đảng này thề chống lại Giáo hội Công giáo, và tìm mọi cách ngăn chặn sự bành trướng của Ki-tô giáo tại nước Ấn Độ.

  1. THẢO LUẬN :

Một thanh niên kia tính tình ngang bướng đã gặp nhiều khó khăn khi tiến hành thủ tục hôn phối. Sau khi lấy được vợ, anh luôn cảm thấy uất ức và căm ghét đạo Công giáo, đặc biệt là các vị mục tử. Anh cho biết lý do bỏ đạo như sau :”Tôi đã gặp bao nhiêu phiền hà về thủ tục hành chành nơi các viên chức ngòai đời. Hy vọng sẽ gặp được thái độ khoan dung nhân ái nơi các vị mục tử trong đạo. Nhưng một lần nữa tôi lại gặp phải bao nhiêu rắc rối phiền hà về thủ tục hành chánh trong đạo !” Từ đó anh không thèm đi nhà thờ dự lễ Chúa Nhật mà đưa vợ con đến các buổi giảng Thánh kinh tại nhà thờ Tin Lành gần đó. Về sau, khi được một bà cô đạo đức khuyên bảo thì anh đã trả lời như sau : “Cháu cám ơn cô đã khuyên bảo. Nhưng từ nay xin cô đừng bao giờ nói về đạo với cháu nữa. Vì từ khi cháu bỏ được cái đạo Công Giáo này, cháu cảm thấy tâm hồn thật thoải mái bình an, giống như trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân. Xin cô thông cảm và cho cháu được tự do theo ý cháu muốn !”.

1) Theo bạn, lý do chàng thanh niên trong câu chuyện trên nêu ra để biện minh cho việc bỏ đạo là đúng hay sai ? Tại sao ?

2) Bạn sẽ phản ứng thế nào nếu gặp phải hòan cảnh như chàng thanh niên trên để chứng tỏ bạn có một đức tin trưởng thành ?

  1. SUY NIỆM:

Thật đáng tiếc khi chỉ vì cách ứng xử thiếu khôn ngoan tế nhị của người có trách nhiệm trong Giáo hội mà một cơ hội thuận lợi cho việc truyền giáo đã bị bỏ qua ! Chính do thái độ câu nệ hình thức và quan liêu của một vị mục tử đã biến một con người đang có thiện chí muốn giao hảo trở thành một kẻ thù nguy hiểm cho Hội thánh sau này. Ngày nay vẫn không thiếu những cách xử sự cứng nhắc vụ luật, thiếu cảm thông và thiếu bác ái của một vài vị mục tử, trái với thái độ dấn thân phục vụ và biết “chạnh lòng xót thương” của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Người không nặng lời trách mắng và từ chối những người tội lỗi công khai đến với mình, không ngại tiếp xúc và tận tình phục vụ những người nghèo hèn đau khổ và bất hạnh. Người lắng nghe các môn đệ báo cáo công tác đã thực hiện được và sẵn sàng thích nghi thay đổi dự định nghỉ ngơi để tiếp tục công việc rao giảng và chữa bệnh cho nhiều người, vì “họ bơi vơ như bầy chiên không người chăn dắt”. 

  1. a) Ân cần phục vụ:

Mỗi người chúng ta hôm nay tuy cần phải tổ chức sắp xếp nhà cửa và sinh hoạt theo thời khóa biểu hợp lý, nhưng luôn phải ưu tiên cho việc loan báo Tin mừng. Những ai có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn cần phải tránh lối hành xử quan liêu, cứng nhắc và thiếu bác ái mục tử … vì dễ gây sự bất mãn có hại cho sứ vụ loan Tin mừng. Làm cho nhiều người lương hay những người kém đức tin bị bức súc không còn muốn đến nhà thờ để gặp gỡ các vị chủ chăn.

  1. b) Cảm thông phục vụ:

Đức Giêsu luôn thể hiện sự cảm thông với nỗi đau của con người: Người đã khóc thương thành Giê-ru-sa-lem sắp bị hủy diệt (Lc 19,44), Ngừơi cảm thông với tiếng khóc của một bà góa đang khóc thương đưa xác đứa con trai duy nhất đi chôn tại thành Na-im và Người đã phục sinh đứa con ấy trao lại cho bà (Lc 7,11-17); Người khóc thương anh Lazarô đã chết chôn trong mồ được bốn ngày và đã truyền cho anh hãy trỗi dậy ra khỏi mồ (Ga 11,1-14)… Đức Maria cũng thể hiện thái độ bác ái khi cảm thông nâng đỡ đôi tân hôn tại thành Ca-na. Mẹ đã cầu xin Đức Giêsu làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon để giúp đỡ cho đôi tân hôn (x. Ga 2,1-11). Thánh Phaolô cũng dạy các tín hữu chúng ta phải biết cảm thông và phục vụ tha nhân: ”Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).           

  1. c) Dấn thân phục vụ: 

Đức Giêsu luôn quên mình khi phục vụ tha nhân: Người sẵn sàng đi đến nhà ông trưởng hội đường tên Gia-ia để chữa cho con gái của ông ta sắp chết (Mc 5,21-24.35-43). Người sẵn sàng đến nhà viên đại đội trưởng ngọai giáo để chữa bệnh cho người đầy tớ được ông ưu ái. Người dành tòan bộ thời gian cho việc rao giảng Tin mừng và chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền trong dân… Trong thực hành, thái độ hy sinh quên mình phục vụ tha nhân thật không dễ làm chút nào. Chỉ khi có tình thương thực sự, chúng ta mới có thể hết mình dấn thân phục vụ tha nhân. Một bà mẹ đang nuôi con thơ, sẽ không khó chịu khi phải thức dậy nhiều lần trong đêm để dỗ dàn, chấp nhận nằm chỗ ướt trên chiếu và nhường chỗ khô ráo cho con, sẵn sàng thay đổi dự tính dành tiền đầu tư cho việc chữa trị bệnh nặng cho đứa con đau liệt. Còn chúng ta cần phải phục vụ tha nhân như thế nào trong những ngày sắp tới noi gương Đức Giêsu mục tử?

  1. LỜI CẦU:

Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và cầu nguyện tha thiết với Chúa Cha.

Lạy Thiên Chúa,Đấng ưa thích sự thinh lặng, xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói, để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ganh ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự.

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

.