CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

609

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN_C

Lời Chúa: Đnl. 30, 10-14;  Cl. 1, 15-20;  Lc. 10, 25-37

——–

Mục lục

1. Người thân cận  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tin yêu là thế  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Con đường sống hạnh phúc (Jorathe Nắng Tím)

4. Ai là người thân cận (Lm. Thái Nguyên)

5. Chúng ta đang kết thân với ai?  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

6. Hãy đi và làm như vậy (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

7. Hình bóng tôi  (Lm. Vũ Đình Tường)

8. Chúa Nhật 15 Thường niên_C. (Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

9. Hãy làm như người Samaritanô  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

10. Yêu bằng việc làm (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Chuyện bốn người  (Trầm Thiên Thu)

12. Hãy là người thân cận của nhau  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

 

Mục lục

1. Lý thuyết và thực hành (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đừng bỏ rơi người thân cận(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Trở nên người thân cận (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

4. Yêu thương mọi người (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Đạo làm con Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn)

6. Đức Kitô là tột đỉnh và sự kiện toàn lề luật (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

7. Tình yêu, cốt lõi của Kitô Giáo  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

8. Hàng xóm  (Lm. Vũ Đình Tường)

9. Sống đời  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Người trong bốn bể thật là anh em (JM. Lam Thy, ĐVD)

11. Hãy đi và làm như vậy. (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

12. Tình yêu không biên giới (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

13. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 15 Thường niên_C (Lm.Inhaxio Hồ Thông)

14. Trái khoái  (Trầm Thiên Thu)

15. Chúa Nhật XV Thường niên_C (Lm. Antôn)

 

Mục lục

1. Hãy đi và làm như vậy (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Nhớ mang theo trái tim(Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Ngụ ngôn về tình yêu (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Tôi là anh em của ai? (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

5. Có đạo, sống đạo  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

6. Chiêm ngắm làm sao, yêu làm vậy  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7.. Trả nợ lòng thương xót (Trầm Thiên Thu)

8. Người Samaritanô nhân hậu (Lm. GB. Văn Hào, SDB)

9. Luật yêu thương  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Để được sống đời đời (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

11. Ai là anh em tôi? (AM. Trần Bình An)

12. Ai là người thân cận? (JM. Lam Thy, ĐVD)

13. Bệnh vô cảm (Lm. Anthony Trung Thành)

14. Lòng thương xót phát xuất từ trái tim (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

15. Có xót thương mới được cứu độ (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

16. Yêu thương cụ thể là dừng lại, cúi xuống và phục vụ (Lm. Đan Vinh)

17. Bài học yêu thương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

18. Chúa Nhật 15 Thường niên_C (Lm. Antôn, giáo xứ Thánh Giuse, Tulsa)

 

NGƯỜI THÂN CẬN

Tgm. Vũ Văn Thiên 

Khi nói đến Thiên Chúa hoặc Thượng Đế, người ta liên tưởng tới vị Thần Linh thống trị và cách biệt hoàn toàn thế giới loài người. Kinh Thánh nói với chúng ta: nếu Thiên Chúa cao cả và chí thánh, thì Ngài lại rất gần gũi và yêu thương con người. Giáo huấn của Ngài bao gồm những điều cụ thể, giúp con người dễ dàng đón nhận và thực thi. Tác giả sách Đệ nhị Luật (Bài đọc I) khẳng định: “Luật của Chúa rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng nhân hậu. Ngài cảm thương nỗi khốn khổ cơ hàn của con người. Do tội lỗi, nhân loại ở bên bờ vực thẳm của sự chết. Thiên Chúa đã ra tay cứu vớt con người và giúp họ phục hồi.

Sự gần gũi yêu thương của Thiên Chúa được diễn tả trong câu chuyện Người Samari nhân hậu. Người Samari là hình ảnh của Đức Giêsu. Người bị đánh bầm dập nửa sống nửa chết là hình ảnh của nhân loại đáng thương do tội lỗi. Người Samari đã săn sóc người bị nạn đưa anh vào quán trọ, dặn dò chủ quán chu đáo. Tất cả những cử chỉ đó đều diễn tả sứ mạng của Đấng Cứu thế nơi trần gian. Người mang trên thân mình mọi tội lỗi nhân loại để nhân loại được tự do. Thánh Phaolô đã diễn tả với chúng ta trong Bài đọc II: “Đức Giêsu là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo…. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”.

Câu chuyện người Samari nhân hậu hàm chứa những bài học sâu sắc đối với chúng ta.

Nhân vật mở đầu câu chuyện là một người tiến sĩ luật. Ông đại diện cho giới trí thức và thượng lưu. Cuộc đối đáp giữa ông và Chúa Giêsu chứng tỏ ông chỉ hỏi để thử Chúa Giêsu. Chính tác giả cũng xác định điều này, khi ông viết: “Có người thông luật kia muốn thử Đức Giêsu, mới đứng lên hỏi Người rằng…”.  Với nghệ thuật trình bày rất hấp dẫn, câu chuyện cho chúng ta thấy sự hoán đổi của những vấn đáp rất tài tình, để rồi người hỏi lại là người trả lời:

“Thưa Thày, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Đây là câu hỏi của vị tiến sĩ Luật. Sau đó, chính ông ta là người đưa ra những gợi ý để trả lời cho câu hỏi của mình: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Trong phần này, người tiến sĩ Luật đã trích dẫn sách Đệ nhị Luật (6,5) và sách Lêvi (19,18). Đây là giáo huấn cốt lõi của Lề Luật. Sau này Chúa Giêsu cũng nhắc lại để trả lời một vị kinh sư, khi ông này hỏi: “Thưa Thày, trong mọi điều, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12,28). Vị tiến sĩ Luật đã đặt câu hỏi, rồi chính ông ta lại trả lời.

“Nhưng ai là người thân cận của tôi?” – vị tiến sĩ Luật đã đặt câu hỏi. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi, mà Người kể một câu chuyện về người Samari nhân hậu. Cuối câu chuyện này, Người hỏi lại vị tiến sĩ: “Vậy, theo ông nghĩ, trong ba người đó (tư tế, Lêvi và người Samari) ai đã tỏ ra là người thân cận với người bị rơi vào tay kẻ cướp? Và, vị tiến sĩ đã câu trả lời: “Chính là kẻ đã thực lòng thương xót đối với người ấy”. Trong câu trả lời này, những danh xưng, chức vụ và dòng dõi xem ra đã trở thành vô nghĩa, mà điều quan trọng là sự cảm thương, lòng nhân hậu. Chỉ có lòng nhân hậu mới đáng kể. Lòng nhân hậu vượt lên tất cả mọi danh xưng và chức vụ. Hai người đi qua, thày tư tế và Lêvi, chỉ quan tâm đến lý thuyết, mà họ quên thực hành. Họ dửng dưng trước nỗi đau của người bị nạn. Câu hỏi được vị tiến sĩ đặt ra là: “Ai là người thân cận của tôi?” đã được đảo ngược thành: “Tôi là người thân cận của ai? Giá trị giáo huấn là ở chỗ đó. Đối với người Samari, ông chỉ thấy trước mắt ông là một con người bị nạn. Ông không bận tâm xem người đó thuộc dòng tộc nào. Ông cũng không tìm cách khoe khoang việc mình làm. Hành động của ông âm thầm khiêm tốn và đậm tình người.

“Ông hãy đi và làm như vậy” – Vị tiến sĩ vừa khoe khoang sự hiểu biết và lòng đạo đức của mình ở trên kia, giờ đây được Chúa giáo huấn: ông mới chỉ thông thạo về lý thuyết thôi. Ông cần phải thực hành những gì ông hiểu biết. Ông hãy cố gắng để trở nên người thân cận với người khác, như thế ông mới thực sự đạt tới sự hoàn thiện.

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Tác giả Luca bỏ lửng câu chuyện ở đây để độc giả tiếp tục suy tư và cảm nhận mình có thể là nhân vật vị tiến sĩ Luật trong câu chuyện. “Hãy làm như vậy”, tức là có tâm tình bao dung quảng đại như người Samari. Chúng ta biết, giữa người Do Thái và người Samari có mối thù truyền kiếp. Người Do Thái thường coi người Samari là người ngoại đạo. Khi tranh luận với Chúa Giêsu, những người Do Thái nói một cách khinh miệt: “Chúng tôi bảo ông là người Samari và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao” (Ga 8,48). Vậy mà dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, người Samari lại có tâm hồn nhân hậu, hơn cả tư tế và Lêvi, vì ông này đã dừng chân cứu giúp người bị nạn.

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” – Câu kết rất đơn giản, cũng là câu trả lời cho câu hỏi ở đầu trình thuật: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (câu 25). Đó cũng là thông điệp mà Phụng vụ muốn gửi đến mỗi người chúng ta.

Về mục lục

TIN YÊU LÀ THẾ

Lm. Jos DĐH.

Không ai thực sự vui vẻ, nếu không sống yêu thương. (Thomas Aquinas). Kinh nghiệm cho thấy: những gì thầy cô viết lên tấm bảng cuộc đời của mình, hẳn không ai xoá được ! Có phải người thông luật còn thiếu điều gì, ngôn ngữ hôm nay gọi là “lăn tăn” trong việc hiểu và sống, rất may, anh ta biết tìm đến Thầy Giêsu ? Đúng, một người thầy giỏi là người thầy biết giải thích, một người thầy xuất chúng là người thầy biết minh hoạ, một người thầy vĩ đại là người thầy truyền được cảm hứng cho học trò. Tiếp xúc với người thông luật, Đức Giêsu đã cho thấy nét cơ bản giữa tình người là “sống yêu thương”, và có thể khẳng định: một người thầy tuyệt vời trước hết là người thầy biết lắng nghe học trò của mình. Vâng, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời, nếu không phải là khôn ngoan, làm sao biết đặt vấn đề đó ? Nếu thực sự đã sống yêu thương, niềm vui, bình an, đâu còn phải là điều ta chờ đợi, tìm kiếm ?

Trước khi trả lời khúc mắc cho người thông luật, Đức Giêsu gián tiếp hỏi chúng ta, bạn đang sử dụng con tim khối óc như thế nào: “trong lề luật đã chép gì, và bạn đã đọc được điều gì trong đó” ? Đọc, hiểu, biết, và sống, lưu ý người ta phải thức thời, nhạy bén hơn, gọi là khôn ngoan. Không bậc sinh thành nào hài lòng với con cháu khi chúng: khôn nhà dại chợ ! Chẳng đứa con cháu nào hạnh phúc khi chúng chứng kiến bố mẹ “đánh chửi nhau”, anh chị em cấu xé, tranh giành quyền lợi, mâu thuẫn, bất hoà với nhau ! Câu ca dao rất quen: công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, không khó. Đáp đền công đức sinh thành, sống chữ thảo chữ hiếu, người thông luật đã thực thi, ấy vậy mà anh ta không thể hiểu “ai là anh chị em của tôi” ?

Thuộc các kinh dài kinh ngắn, nói được trọng tâm của việc sống “mến Chúa yêu người”, biết sự vất của cha mẹ, nhưng chu toàn bổn phận không phải đơn giản chỉ dừng lại ở lý thuyết. Tất cả chúng đang cùng nhau sánh bước trên đường đời, nhưng ăn uống, nạp năng lượng, tự mỗi người phải thực hiện cho mình. Mọi người đều có thể và đang đồng hành với bạn, nhưng không ai có thể bước đi thay bạn. Đức Giêsu khai mở cho người thông luật biết “ai là anh chị em của bạn”, và việc thực thi giới luật yêu thương, tự bạn phải sống một cách nghiêm túc hơn với cái biết của mình. Tìm kiếm và học hỏi nơi người tài đức khôn khoan, học hỏi kinh nghiệm nơi người có tâm hồn bình an hạnh phúc, sau hết bạn có đem sự hiểu biết và không chậm trễ thực hành điều hay lẽ phải, đó mới là quan trọng.

Tin Đức Giêsu là Vị Thầy tài giỏi, đã là tuyệt vời, nhưng người thông luật còn được mời gọi đi xa hơn: Thầy Giêsu chính là Thiên Chúa cứu độ. Tiếng nói sâu thẳm trong ta mách bảo hãy làm việc lành, xa tránh điều xấu, xã hội thực dụng chỉ dạy rất khúc triết: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Người thông luật trong cuộc gặp gỡ đối thoại với Thầy Giêsu, anh ta đã hiểu được vấn đề, chỉ những ai khôn ngoan mới tìm hỏi: “tôi phải làm gì để có sự sống đời đời” ? Đâu phải cứ xinh đẹp thì có danh hiệu hoa hậu, người mẫu, không phải cứ nghèo khổ là lý trí họ thấp kém, không phải cứ thánh thiện, chuyên chăm làm việc bác ái, thì gọi họ là linh mục tu sĩ ? Tin và yêu, chẳng nói lên điều gì, nếu không được gắn liền với những hành động cụ thể của ta. “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn người, và hãy yêu thương anh em như chính mình người”.

Tin yêu là gì ? Chúng ta vẫn nói là tin Đức Giêsu là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ, là thực hành việc mến Chúa yêu người, đúng là chuẩn không cần chỉnh. Tin yêu mà Đức Giêsu muốn nói tới là không giới hạn ở mầu da, sắc tộc, tôn giáo, vì tự nhiên chúng ta đã hiểu: tứ hải giai huynh đệ. Dụ ngôn người Samaria nhân hậu phản ánh một thực tế: đường đi đến sự sống đời đời, tất cả chúng ta đang đi, nhưng để tới đích hạnh phúc, ai cũng phải sử dụng tự do của mình để trả lời việc mến Chúa yêu người. Tất cả đều phải vượt qua sự giới hạn của mình bằng sức mạnh của niềm tin và hiệp thông. Thiên Chúa không phải chỉ hiện diện ở nhà thờ, người thân nghĩa thiết không phải chỉ là bố mẹ anh chị em ruột, mà là những tâm hồn khao khát được hạnh phúc, được sự sống đời đời.

Người xưa có câu: qua sông mới phải luỵ đò, những như đường liền ai phải luỵ ai ? Nếu cuộc sống tuỳ thuộc lý của kẻ mạnh, hẳn người thông luật cũng không phải mất công tốn sức cậy nhờ Đức Giêsu. Tin Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, không phải chỉ thuộc về những ai đạo gốc đạo dòng, cũng không phải vì tôi là linh mục tu sĩ. Thực hành giới luật yêu thương không hệ tại là giầu có, đủ tình nghĩa hiệp như người Samaria, mà già trẻ, sang hèn, tất cả đều phải biết yêu vì đã được yêu. “Ai là người thân cận của tôi”, quả là vô duyên, vì chưng, người tin Chúa, yêu Chúa, hằng ngày vẫn đang liên đới cầu nguyện và sống thánh ý Chúa.  Cổ nhân nói rằng: đừng khóc vì những khó khăn đã trôi qua, đừng than van vì những khổ đau trong quá khứ, đừng đổ lỗi vì quên không nhớ anh chị em ta đang mang hình ảnh của Chúa. Hãy thật lòng sống đức ái bằng con tim và khối óc của mình. “Hãy đi làm như vậy” để hiểu rõ hơn thế nào là tin là yêu, là ta sống nén bạc Chúa trao cách trọn vẹn nhất. Amen.

Về mục lục

CON ĐƯỜNG SỐNG HẠNH PHÚC

Jorathe Nắng Tím

Chắc chắn một điều là ai cũng muốn sống hạnh phúc, nên không ai tìm con đường dẫn đến sự chết đời đời  là nỗi bất hạnh kinh khủng nhất của đời người, nhưng tất cả đều tìm cho mình con đường sống hạnh phúc. Về phần Thiên Chúa, vì dựng nên con người giống hình ảnh mình là Nguồn Hạnh Phúc, nên Thiên Chúa cũng chỉ ước mong con người hạnh phúc như Ngài, và Tin Mừng đã chứng minh điều này.

Cựu Ước khẳng định: “Đức Chúa sẽ lấy làm vui vì hạnh phúc của anh (em), cũng như Người đã lấy làm vui vì hạnh phúc của cha ông anh (em)” (Đnl 30,9). Và để đạt được hạnh phúc đó, Thiên Chúa muốn con người “nghe tiếng Đức Chúa, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người hết lòng hết dạ” (Đnl 30,10).

Đây là con đường sống hạnh phúc được Thiên Chúa đề nghị với con người: con đường nối kết trái tim Thiên Chúa với trái tim mỗi người, vì thế, con đường ở ngay trước mặt, đúng hơn là ở ngay trong chúng ta được làm nên bằng Lời Thiên Chúa, mà sách Đệ Nhị Luật đã  qủa quyết: “Lời đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em) để anh (em) đem ra thực hành” (Đnl 30, 14).

Đến thời Tân Ước, cũng trong ý muốn cho mọi loài thụ tạo được hạnh phúc,  “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Đức Giêsu, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1, 19-20). Nói cách khác, Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa đã trở nên Đường Sống Hạnh Phúc cho mọi người, vì chính Ngài là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6) cho tất cả những ai tin vào Ngài. Và con đường hạnh phúc ấy cũng vẫn là con đường từ trái tim Thiên Chúa đến trái tim mỗi người; là con đường tình yêu đưa  con người đến với Thiên Chúa.

Khi trả lời câu hỏi của thầy thông luật: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10,25), Đức Giêsu đã mặc khải dung mạo Chúa Cha giầu lòng thương xót, và rộng lòng ban phần thưởng lớn lao là “sống  hạnh phúc đời đời” cho những ai có lòng xót thương anh em mình; đồng thời cho thấy con đường hạnh phúc Thiên Chúa vạch ra cho toàn thể nhân loại là con đường rất gần, con đường “không vượt qúa sức lực hay ngoài tầm tay” (Đnl 30,11), cũng không cao tít tắp trên các tầng trời hay xa xôi ở bên kia biển (x. Đnl 30,12-13) nhưng gần gũi như người thân cận, sát bên cạnh như những người sống chung quanh trong sinh hoạt thường ngày.

Đó là  con đường bác ái mà người Samari nhân hậu đã thưc hiện với tất cả trái tim chạnh lòng thương xót, và quảng đại hy sinh khi “lại gần, lấy rượu lấy dầu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy lên lưng lừa của mình, đưa về qúan trọ mà saăn sóc. Hôm sau, ông còn lấy ra hai quan tiền trao cho chủ qúan và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, tôi sẽ hoàn lại bác” (Lc 10, 34-35).

Nạn nhân bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử,  rồi bỏ mặc bên lề đường nửa sống nửa chết được quan tâm, săn sóc ấy tuy không quen biết, nhưng là người thân cận đích thực của người Samari có tấm lòng; tuy xa lạ nhưng là con đường rất gần của trái tim người Samari biết chạnh lòng thương xót, và sau khi kể dụ ngôn Con Đường Bác Ái mà  người Samari đã thực hiện, trong khi hai thầy tư tế và Lêvi đã dửng dưng, vô cảm “tránh qua bên kia mà đi” (x. Lc 10, 31-32),Đức Giêsu đã hỏi lại  người thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận vói người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10, 36-37).

Chỉ cho người thông luật con đường người Samari nhân hậu đã đi chính là con đường ông phải đi để có hạnh phúc vĩnh cửu, có “sự sống đời đời làm gia nghiệp”, Đức Giêsu cũng thì thầm với trái tim mỗi người chúng ta: Con đường yêu thương ấy cũng chính là đường con phải đi với Thầy để hưởng hạnh phúc của Thầy trong Vương Quốc Thiên Chúa, và để niềm vui của con ngay ở đời này được nên trọn vẹn.

Về mục lục

AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Yêu mến Thiên Chúa hết tình và yêu người thân cận như chính mình là điều kiện để đạt tới sự sống đời đời. Nhưng câu hỏi được nêu lên: “Ai là người thân cận của tôi ?”. Người Do Thái vẫn hiểu đó là đồng bào, đồng đạo, thuộc dân Thiên Chúa. Phải chăng vị luật sĩ muốn tìm một câu định nghĩa toàn bích hơn về “người thân cận”? Nhưng đối với Đức Giêsu, định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận. Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ. Với ý hướng đó mà Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn vừa cụ thể vừa sâu sắc, vừa éo le vừa lạ lùng.

Éo le là vì đứng trước tình cảnh một người đang bị trọng thương trên đường, mà thầy Tư tế và Lê vi lại làm ngơ như không thấy, và tránh qua bên kia đường mà đi. Lạ lùng là người Samari ngoại giáo vừa trông thấy nạn nhân, đã đến cứu giúp tận tình, mà có thể nạn nhân đó là người Do Thái, kẻ thù của dân tộc mình. Người Samari đã sống luật yêu thương một cách trọn vẹn, không chỉ là lòng thương cảm mà “yêu bằng việc làm”, và làm với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: “Hãy đi và làm như vậy”. 

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ. Sở dĩ thầy Tư tế và thầy Lê vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà xảy ra cho mình. Những nỗi sợ xem ra rất khôn ngoan và hợp lý, chỉ có điều chẳng có chút tình yêu nào. Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công tốn sức, tốn thời giờ, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn hay tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Yên thân là bất động, là dòng sông sự sống bị tắt nghẽn, không còn được chuyển thông.

Đứng trước nạn nhân, có lẽ câu hỏi mà hai vị giáo sĩ đặt ra là:“Nếu tôi dừng lại giúp đỡ người này, chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi?”. Nhưng xem ra người Samari đảo ngược lại câu hỏi:“Nếu tôi không dừng lại giúp đỡ người này, chuyện gì sẽ xảy ra cho anh ta?”. Hai câu hỏi với hai hướng khác nhau, nên cách thái hành động cũng khác nhau. Một câu hỏi hướng về sự an toàn của bản thân, còn một câu hỏi hướng đến lợi ích của tha nhân. Cách đặt câu hỏi hay cách đặt vấn đề cũng là một cách xác định tâm hồn và tính cách của một con người.

Ở cuối dụ ngôn, Đức Giêsu cũng đảo chiều câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?” thành câu: “Ai là người thân cận của kẻ bị cướp?” Với lối đặt câu hỏi này, mọi hàng rào ngăn cách và quan niệm lâu đời của người Do Thái bị phá đổ. Tôi không chỉ phục vụ cho người thân cận của tôi, mà tôi trở thành người thân cận với người tôi phục vụ, và người ấy trở thành người thân cận của tôi. Như thế ai cũng có thể thành người thân cận của tôi, và tôi cũng có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai, khi tôi dám yêu họ như chính mình.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Kahlil Gibran có một câu nói chí tình: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng xác định: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân”. Đó là ý nghĩa thật nhiệm mầu trong Bí tích Thánh Thể. Tham dự thánh lễ chẳng có ý nghĩa gì khi tôi không sống lòng nhân ái. Càng đi tìm bản thân, tôi càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc của mình, tôi càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, tôi càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của tôi chỉ có thể được lấp đầy khi tôi biết coi trọng hạnh phúc của tha nhân. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Muốn vậy, tôi hãy yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi tôi mới biết phải làm gì cho người anh em, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, tôi mới biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần tôi dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Đường về quê hương sự sống đời đời,
là đường Chúa đã gọi mời con đi,
nhưng đi với trái tim mới tới đích,
bằng không sẽ dang dở cuộc hành trình.

Thầy Tư tế và Lêvi rẽ sang hướng khác,
vì không mang theo mình một trái tim,
chỉ mang theo của lễ ở bên ngoài,
nhưng Chúa chỉ đoái hoài lòng nhân hậu.

Người Sa-ma-ri lên đường không của lễ,
nhưng anh có trái tim để hiến dâng,
với tấm lòng yêu thương người lân cận,
nên anh cảm thấu được nỗi khổ đau,
của những ai đang gặp phải cơ cầu,
và cúi xuống để tận tình hầu hạ.

Con đường đến quê hương sự sống mới,
không khó không dài như phải lên non,
nhưng đường dài khó nhất đối với con,
là đường từ trái tim đến bàn tay.

Xin Chúa đặt trái tim trên bàn tay,
để thu ngắn lại cho con đường dài,
nên con không sợ gì những trở ngại,
mọi cái sẽ dễ lại trước khó khăn.

Xin cho con lên đường với trái tim:
suy nghĩ và nhìn đời với trái tim,
lắng nghe và hành động với trái tim,
một trái tim được nung nấu mỗi ngày,
để tình yêu trong con luôn rực cháy
thành lửa thiêng niềm vui sống dâng đầy. Amen.

Về mục lục

CHÚNG TA ĐANG KẾT THÂN VỚI AI?

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người Việt Nam hình như rất thích khoe gia thế của mình. Gần đây tôi có dịp ra Hà Nội nên hay được nghe giới thiệu về gia thế của họ là cháu ông này, em ông kia. . . Thậm chí có anh lái taxi cũng khoe mình là cận vệ của các bác ở trung ương. Anh ấy còn đưa 1 tấm hình đang chụp chung với lãnh đạo và hỏi: anh biết ông này là ai không? Tôi bảo: hình như không. Anh ta nói : lạ nhỉ, tuổi như anh mà không biết lãnh đạo à? Tôi cười cười và bảo mình chỉ bận tâm kiếm tiền và những ai giúp đỡ mình thôi.

Phải chăng đây là nguyên do phát sinh câu: “có biết bố mày là ai không?” .

Trang báo tuổi trẻ cười có viết câu chuyện rằng:Bữa nọ, hết tiền, Chí Phèo lục tục đi kiếm cây ATM để rút ăn xài. Trúng ngày phát lương, nên người đi rút tiền xếp hàng dài mấy thước. Mặc kệ, thiên hạ này là cái thá gì, xếp hàng là thứ không có trong từ điển Chí Phèo. Phèo ta ngang nhiên chen vào trụ ATM để được rút tiền đầu tiên. Thấy bộ dạng côn đồ của Phèo, ai nấy đều dạt ra cho yên chuyện. Trừ một chị, chắc xưa nay chưa giao tiếp với giang hồ bao giờ, mới thỏ thẻ lên tiếng: “Anh gì ơi! Làm ơn xếp hàng trật tự dùm em với!”. Nghe câu ấy, Phèo ta giật bắn người như bị điện cao thế giật, liền quắc mắt quay sang người phụ nữ: “Câm mồm! Mày có biết bố mày là ai không?”. Người phụ nữ đáng thương thật thà trả lời như lần đầu đi phỏng vấn tuyển dụng: “Chỉ có con hoang mới không biết bố mình là ai thôi anh ạ”. Thế là Chí Phèo nổi điên lên, xông vào đánh chị kia lên bờ xuống ruộng…

Công an đến tóm cổ hắn về đồn và hỏi hắn: vậy bố mày là ai ? Chí Phèo mới buồn bã nói: thực tình cháu không biết bố cháu là ai , nên cứ đi tìm mãi, mà cái chị kia dám nói tới nỗi đau của cháu là thằng con hoang nên cháu không kềm được liền đánh cho chị ấy một trận.

Chuyện vui thôi nhưng cũng phản ánh hiện thực xã hội. Con người thích kết giao với kẻ giầu có. Thích núp bóng kẻ quyền thế. Thích kết nghĩa anh em với người có tiền, có địa vị trong xã hội. Khi có quyền, có tiền thì ở trong hang, trong rừng vẫn có người lui tới. Khi không có tiền thì dầu ở giữa phố thị cũng chẳng ai thèm thân.

Lời Chúa hôm nay đang hỏi chính chúng ta vậy ai là người thân của bạn? hay có thể nói rõ hơn là: bạn đang thân cận, kết giao với ai? Ai là kẻ bạn đang tìm đến để kết thân? Hình ảnh Thầy Tư tế và Lê vi dửng dưng với kẻ bị nạn phản ánh cách sống của họ luôn xa lánh kẻ hèn yếu. Không dám kết thân với người bất hạnh. Bởi vì kết thân với kẻ yếu, kẻ bất hạnh thì chẳng được lợi có khi còn phải tốn kém của cải. Đây cũng là điều mà nhiều giáo dân than phiền vì cha xứ chỉ kết thân với người giầu, giao du với người quyền thế nhưng lại thờ ơ trước những đau khổ, bất hạnh của tín hữu trong xứ đạo.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết rằng “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không. Để gió cuốn đi”, là bài hát như nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết mởtâm hồn để gió cuốn đi những nghĩa cử yêu thương, những việc làm phúc đức, hãy gieo yêu thương đến với mọi người thì niềm vui mới đến với chúng ta.

Người Samaria đã tìm được niềm vui của cuộc đời phục vụ. Ông đã dừng lại để xoa dịu nỗi đau của kẻ bất hạnh. Cuộc đời ông hạnh phúc biết bao khi ông băng bó nỗi đau của đồng loại. Khi ánh mắt của kẻ chịu ơn đang nhìn ông một cách trìu mến thân thương. Niềm vui của ông càng được nhân lên khi người mà ông giúp đỡ đã coi ông như anh em. Từ một người xa lạ nay trở thành kẻ thân thích. Ông đã biết dùng của cải đời này để mua bạn hữu đời này và cả đời sau. Đó chính là mẫu người mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy làm theo như vậy.

Xin Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì chúng ta, giúp cho chúng ta cũng biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen

Về mục lục

HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY

Bông hồng nhỏ

Sống trên đời, ta có rất nhiều câu hỏi cần được trả lời. Đâu là câu hỏi quan trọng và cần ưu tiên để tìm kiếm câu trả lời? Ngày xưa, có người thông luật kia vì muốn thử Thầy Giêsu nên đã đứng lên hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10, 25). Thầy Giêsu đã để người thông luật ấy tự đưa ra câu trả lời cho chính mình dựa vào sự hiểu biết Luật của ông. Câu trả lời của ông rất chính xác: mến Chúa và yêu người. Thầy Giêsu khen ngợi ông: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10, 28). Không chỉ có người thông luật mà tất cả những ai muốn có được sự sống đời đời làm gia nghiệp thì chỉ cần làm như lời Thầy Giêsu dạy. Thế nhưng, dường như ai cũng gặp khó khăn trong việc trở thành người thân cận cho người khác và thường băn khoăn tự hỏi: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”

Cổ nhân thường nói “vô tri bất mộ”, không hiểu biết thì không yêu mến. Không chịu tìm hiểu về giáo lý, về Lời Chúa dạy, làm sao ta có thể sống đúng với tinh thần của Tin Mừng? Có nhiều người khi đọc Tin Mừng thường cảm thấy những lời ấy quen thuộc, vừa quen vừa thuộc lòng, bởi họ nghe nhiều, từ năm này qua năm khác. Dù hiểu được Chúa dạy phải mến Chúa và yêu người nhưng nhìn lại những tháng ngày đã qua, ta nhận ra được những phản ứng quen thuộc của chính mình. Đó là từ chối trở thành người thân cận cho người khác và không biết ai mới là người thân cận của chính mình. Lắng nghe câu chuyện mà Thầy Giêsu vừa kể, ta nhìn thấy chính mình. Câu chuyện Thầy kể rất đơn sơ, giản dị, không có nhiều tình tiết bất ngờ nhưng lại khiến cho người nghe rơi vào khoảng lặng của lòng mình.

 Có người kia đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay bọn cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy, trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy và tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, ngang qua chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương. Cả ba người đều gặp cùng một tình huống nhưng cách phản ứng của họ lại hoàn toàn trái ngược nhau. Hai người trước đi qua chỗ người bị nạn, trông thấy người ấy, họ đều tránh qua bên kia mà đi. Trong ba người lại có đến hai người chọn cùng một cách phản ứng: xa tránh để không phải liên lụy. Có lẽ cả hai đều quá bận rộn, đang vội đi đến Đền Thờ chăng! Tôi không quen biết người ta, họ chẳng liên can gì tới tôi cả. Đó cũng là cách phản ứng của số đông trong xã hội. Những người nhận biết và thờ phượng Chúa lại có cách phản ứng xa tránh. Trái tim họ không có chỗ cho những người anh em xa lạ này thì liệu họ có đang thờ phượng Chúa và yêu mến Người không?

Một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương. Cả ba người đều nhìn thấy người bị nạn nhưng chỉ có trái tim người Samari này là chạnh lòng. Khi trái tim chạnh lòng thì liền muốn cưu mang và nâng đỡ. Ông không ngần ngại tiến lại gần người ấy, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Chắc chắn người bị nạn chẳng quen biết gì người Samari kia nhưng ông vẫn nhận được sự quan tâm, chăm sóc ân cần của người ấy. Người Samari đã tự nguyện trở nên người thân cận, thực thi lòng thương xót đối với người ấy. Ông tự nhận trách nhiệm chăm sóc và chi trả những khoản tiền cần thiết để người bị nạn kia sớm phục hồi sức khỏe. Mở lòng yêu thương và cưa mang những người khác, nhất là những người đang gặp khó khăn đòi hỏi ta phải quên đi chính mình, chịu thiệt về mình như thế.

Quả thực, có nhiều lần ta cũng chỉ lo nghĩ đến mình, không thực sự quan tâm đến những anh chị em bên cạnh. Họ sống rất gần ta nhưng lại bị coi như người xa lạ chỉ vì trái tim cứng cỏi của ta không biết chạnh lòng. Ta tìm cách tránh né vì không muốn phiền phức hay rước họa vào thân. Đó đâu phải là cách phản ứng mà Chúa Giêsu muốn nơi ta! Trở thành người thân cận cho người khác là cách để ta có thể trả lời được câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?” Mỗi ngày, ta hãy để cho Lời Chúa chất vấn, để nhận được câu trả lời từ Chúa, và xin Người gia tăng sức mạnh để ta biết quên mình mà sống cho người khác. Điều quan trọng là sau khi đã nhận được câu trả lời, ta hãy đi và làm như Chúa dạy.

Về mục lục

HÌNH BÓNG TÔI

Lm Vũđình Tường

Vị luật sư hỏi Đức Kitô anh cần làm gì để được hưởng nước trời? Bởi anh là luật sư nên Đức Kitô nói với anh. Sách luật dậy thế nào? Anh trả lời theo luật trong sách Xuất hành 20 và Lêvi 19, dậy: mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và thương yêu tha nhân như chính mình. Đức Kitô khen kiến thức luật của anh. Ngài nói với anh: ‘Cứ làm như vậy sẽ được sống’ C.28. Vị luật sư rành rẽ về luật, nhưng gặp trở ngại trong việc áp dụng luật vào thực tế trong cuộc sống. Khó khăn lớn nhất của anh là việc hiểu chính xác nghĩa tha nhân. Anh hỏi Đức Kitô: Tha nhân là ai? Anh mong Ngài giải thích cho. Đức Kitô không trả lời thẳng vào câu hỏi nhưng kể cho anh dụ ngôn người Samaritanô.

Chuyện xảy ra như sau. Một người đi đường bị cướp. Bọn cướp đã lấy hết của còn đánh anh cách tàn nhẫn. Để anh nằm bên vệ đường, nửa sống, nửa chết. Sau đó ít lâu có Thầy Tư Tế và rồi thầy Lêvi cả hai đều đi qua đoạn đường đó. Cả hai trông thấy anh nhưng không ai ra tay cứu giúp. Cả hai, mỗi người tránh sang lối khác mà đi. Kế đến một thương gia đi ngang, trông thấy nạn nhân, ông xuống ngựa đến cứu chữa nạn nhân. Đức Kitô hỏi người luật sư. Theo anh, trong ba người đó, ai là tha nhân của người bị cướp đánh. Vị luật sư đáp: Người thương gia. Đức Kitô nói với anh. ‘Anh hãy đi và cũng làm như vậy’ c.37.

Người thương gia không thông luật bằng vị Tư Tế và Lêvi. Bởi ông là thương gia nên rành vềluật thương mại, buôn bán. Ông lại là người ngoại đạo nên rất có thể ông không rành rẽ về luật mến Chúa hết tâm hồn và yêu tha nhân như chính mình. Người thương gia trông thấy nạn nhân, ông hành xử theo tính nhân bản. Thấy người đau khổ cần giúp thì ông giúp với khả năng của mình. Điều này cho biết luật yêu thương đồng loại được ghi sẵn trong tâm hồn mỗi người. Khi sanh ra đời, ai cũng biết luật yêu thương đồng loại. Luật yêu thương trở thành luật tự nhiên. Thứ hai, biết luật và giữ luật là hai việc khác nhau. Không phải ai biết luật cũng thi hành luật, giữ trọn lề luật. Thứ ba, biết luật không làm cho luật nên trọn. Thực hành luật mến Chúa, yêu tha nhân mới làm trọn lề luật.

Người luật sư đã đúng khi ông tin sự sống trường sinh là quà đặc biệt Chúa ban. Tự sức con người không thể lấy được mà cần nhận từ Thiên Chúa. Để nhận sự sống đời đời con người cần phải mến Chúa và thương người đồng loại. Ông luật sư không gặp trở ngại trong việc mến Chúa, nhưng yêu mến đồng loại như chính mình là vấn đề ông gặp khó khăn. Hầu hết tranh tụng, cãi vã đến từ tha nhân. Hàng xóm tranh tụng cãi vã vì con gà sang bới vườn rau, vì con chó sủa nguyên đêm, vì giây leo hàng rào, vì tiếng ồn vang nhà hàng xóm, vì mùi hôi chuồng heo bay sang. Toàn những chuyện lặt vặt biến sang chuyện lớn tiếng, lớn đến độ kiện tụng nhau.

Yêu người như yêu ta. Ai là tha nhân là vấn đề người luật sư cần làm sáng tỏ. Nói chung, chúng ta thường hiểu tha nhân là người chúng ta biết ít nhiều về họ. Họ sống gần ta, làm cùng sở, xóm giềng. Dụ ngôn người Samaritanô cho biết tha nhân được hiểu là tất cả mọi người. Tha nhân bao gồm mọi sắc tộc, mầu da, ngôn ngữ và ngay cả khác niềm tin tôn giáo, hoặc không tin gì hết. Nạn nhân thuộc tôn giáo gì không rõ nhưng người thương gia rõ ràng là dân ngoại. Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu chính là dụ ngôn nói về tình yêu không biên giới. Tình yêu này không phân biệt bất cứ ai, giúp được trong khả năng mình thì cứ giúp, và như thế là làm trọn lề luật. Khi giúp nạn nhân người thương gia chấp nhận hiểm nguy có thể xảy ra cho chính ông. Ông không rõ bọn cướp đã đi xa hay còn ẩn trốn đâu đó chờ cướp kẻ khác. Khi ra đi việc thương mại là chính yếu. Bây giờ ông đặt việc thương mại của ông sang hàng thứ yếu, cứu người là ưu tiên số một. Ông cũng tin vào người chủ khách trọ, tin người chủ đó không lường gạt, hoặc đòi giá cắt cổ. Ông chăm sóc cho nạn nhân và còn lo cho chu đáo đến lúc lành bệnh. Ông không trông mong nạn nhận bồi thường, trả lại phí tổn ông chăm sóc cho nạn nhân. Ta có thể nói ông chăm sóc cho nạn nhân như chăm sóc cho chính mình.

Đức Kitô nói với anh luật sư, anh dãy đi và làm như vậy. Đức Kitô cũng nói với mỗi người chúng ta, hãy đi làm như người thương buôn Samaritanô tốt lành.

Về mục lục

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN_C.

Lm GB Phạm Hồng Thái

Chúa Giêsu đồng ý với phát biểu của ông luật sĩ về giới răn Mến Chúa Yêu Người, và Chúa cho biết thực hành trọn vẹn giới răn nầy là đủ để chúng ta được sự sống đời đời, nhưng đi vào thực tế, phải thể hiện lòng Yêu Người như thế nào thì Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta dụ ngôn người Samari nhân hậu như là mẫu gương để ta trở nên người anh em của người chẳng may bị tai nạn.

Đường đi từ Giêrusalem xuống Giêricô: Giêrusalem ở độ cao khoảng 800m, còn Giêricô có độ thấp 275m so với mực nước biển. Quãng đường chỉ dài có 25km nhưng gần bên có những khe núi và hốc đá. Bọn trộm cắp thường lợi dụng để làm sào huyệt.

Dụ ngôn có những nhân vật như sau:

– Trước hết là một người chẳng may lọt vào tay bọn trộm cướp. Người này không những bị lột hết tiền của mà còn bị chúng đánh nhừ tử, nửa sống nửa chết bỏ nằm ở dọc đường. Thật là tội nghiệp và không may mắn, tất nhiên nạn nhân này đang rất cần được sự săn sóc, bằng không thì cầm chắc cái chết!

– Bọn trộm cướp không biết là mấy tên chúng sống ngoài pháp luật chỉ biết gây tai họa cho tha nhân để cướp tiền cướp của. Những người này hiển nhiên là không để ý gì tới luật mến Chúa yêu người.

– Một tư tế và thầy Lê vi đi qua con đường thấy nạn nhân thì tránh sang một bên và tiếp tục hành trình của mình. Hai vị này mới ở đền thờ Giêrusalem thi hành chức vụ của mình xong và trở về nhà. Có thể nói hai vị này tỏ ra có lòng mến Chúa nơi đền thờ nhưng lại thiếu lòng yêu người trong đời sống vì không giúp gì cho nạn nhân; lí do vì sao? Chúa Giêsu không nói, có thể vì họ sợ phiền toái, mất thời giờ hay sợ bọn cướp rình rập, và cũng có thể vì lí do sợ nhiễm ô uế vì theo sách Lêvi đụng tới xác chết là nhiễm ô uế (Lev 21,16). Nhưng nói gì thì nói, họ đã tỏ ra vô cảm đối với người bị nạn.

– Người Samari nhân hậu cũng đi con đường như hai vị tư tế và Lêvi, nhưng khi thấy nạn nhân, ông động lòng thương, tới gần băng bó vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: “Ông hãy săn sóc cho người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông”. Chúng ta thấy người Samari này tỏ ra tận tâm săn sóc hết lòng và tới nơi tới chốn, không quản ngại mất thời giờ, tốn phí tiền bạc miễn là cứu vãn dược mạng sống cho người bị nạn.

Ông không cần biết người này có phải là đồng bào với ông không, cũng không phân biệt tôn giáo, chính trị hay gì gì đi nữa, nhưng ông đã hành động ngay theo lòng thương cảm của ông: điều này khác với quan niệm của người Do thái khi đó chỉ coi người thân cận là anh em đồng bào của mình thôi còn người nước ngoài không phải là người thân cận, có khi còn có thái độ khinh bỉ nữa.

Vậy người Samari nhân hậu này là ai?

Các thánh giáo phụ và nhất là thánh Augustinô nói đó là hình ảnh về Chúa Giêsu, còn người bị nạn là nhân loại, Chúa Giêsu từ Giêrusalem tức là từ trên trời xuống Giêricô là trần gian. Chúa dùng Dầu rượu để xức các vết thương tức là Chúa lập nên các bí tích để chữa lành vết thương do tội lỗi gây nên, Chúa đưa vào quán trọ để nạn nhân được tiếp tục chăm sóc tức là Chúa đưa chúng ta vào Giáo Hội để chờ ngày Chúa trở lại trần gian.

Thế nhưng theo văn mạch, qua người Samari nhân hậu, Chúa có ý chỉ mỗi người chúng ta phải như làm như thế, nên Chúa bảo ông luật sĩ: “Ông hãy đi và làm như vậy”.

Trên đường đời khi gặp anh em đau khổ khó khăn, chúng ta thể hiện tình thương bằng sự giúp đỡ thiết thực, bằng sự chăm sóc tận tình, bằng lời an ủi khích lệ, bằng cử chỉ thân thiện… như lời thánh Phaolô: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12,15)”.

Câu chuyện : Ngày 13/1/1982, khi lái xe tới cầu sông Potomac, anh Larry Skutnik bị kẹt lại vì cầu có lớp tuyết quá dầy, bỗng anh thấy một chiếc máy bay Boeing chở hành khánh gặp nạn lao xuống sông, được biết chiếc máy bay chở tới 79 người. Bước ra khỏi xe, anh thấy có 3 người bám vào đuôi máy bay đang chìm xuống nước. Trực thăng bay tới cứu họ, nhưng chỉ có hai người lên được trực thăng, còn một phụ nữ vuột tay rơi xuống nước. Larry vội nhảy ngay xuống dòng sông giá lạnh và cứu được người phụ nữ đó lên an toàn. Hôm sau phóng viên nhà báo tới phỏng vấn anh: “Do đâu mà anh có được hành động anh hùng như vậy?” Anh trả lời: “Tôi xấu hổ vì chữ anh hùng. Thực ra đó chỉ là phản xạ tự nhiên của tôi thôi”.

Nếu chúng ta có lòng yêu người ăn sâu vào tâm hồn mình thì chúng ta sẽ thể hiện cách thực tình và chu đáo như người Samari nhân hậu và như anh Larry Skutnik trong câu chuyện trên. Xin Chúa cho chúng con biết mến Chúa yêu người như Chúa dạy để chúng con đáng được sống và được sự sống đời đời làm gia nhiệp. Amen.

Về mục lục

HÃY LÀM NHƯ NGƯỜI SAMARITANÔ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, chúng ta tự hỏi: “Ai là anh em của tôi?” (Lc 10, 29).

Chuyện kể rằng, một số thầy người Do thái thấy một thầy Do thái kia hay vắng mặt vào giờ cầu nguyện thứ Bẩy hằng tuần. Các thầy kia nghi ngờ người anh em có gì bí mật với Thiên Chúa, nên bàn bạc với nhau cử một thầy theo dõi người anh em… Thế là, ông thầy được cử tò mò tìm kiếm, nhưng thật xúc động vì thấy người anh em mình vào chiều thứ Bẩy đến một khu phố nghèo trong thành dọn nhà cho một bà đang bị bại liệt, và phục vụ giúp bà, chuẩn bị bữa cơm cho bà. Khi điệp viên trở về, những thầy Do thái ở nhà đã hỏi: “Ông ấy ở đâu? ở trên trời, trên các tầng mây hay giữa các vì sao?”. Thầy được sai đi trả lời: “Không, người anh em của chúng ta đã được đưa lên nơi rất cao”.

Yêu bằng hành động

Yêu người thân cận thể hiện bằng hành động cụ thể là cao cả nhất; vì đây là lúc mà tình yêu được thể hiện. Chỉ có mình Chúa Kitô kêu lên, “thấy người nghèo, đừng bỏ đi qua” để thức tỉnh lòng bác ái nơi các môn đệ. Công đồng Vatican II trong một tài liệu đã chép: Làm “người Samaritanô” có nghĩa là thay đổi kế hoạch của mình ( “đến gần anh ta”), dành thời gian để (“chăm sóc anh ta”) … Điều này cũng đúng với nhân vật chủ quán, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Người Samaritanô đã có thể làm mà không có chủ quán? Thật vậy, người chủ quán, người vô danh ấy, đã thi hành nhiệm vụ cách cao cả. Tất cả chúng ta cũng có thể hành xử như ông ta, hoàn thành nhiệm vụ của riêng mình với tinh thần phục vụ. Tất cả chúng ta đều có cơ hội, nhiều hay ít trực tiếp hay gián tiếp, để giúp đỡ những người cần giúp. Trung thành thi hành sứ vụ là yêu mến mọi người.

Hãy vứt bỏ sau lưng cái chưa cần thiết để đón nhận người đang cần đến chúng ta, (người Samaritanô nhân hậu) và ông chủ quán đã làm việc của mình với tình yêu, cả hai đều thể hiện tình yêu bằng việc làm cụ thể. Chúa Giêsu đã hỏi nhà thông luật: “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rời vào tay bọn cướp?” Và Chúa bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy ” (Lc 10,36-37).

Chúa Giêsu chính là người Samaritanô

Chúa Giêsu Kitô tự nhân mình là người Samaritanô đi ngang qua, khi những người Pharisiêu xúc phạm Chúa và nói: “Ông là một người Samaritanô và là người bị quỷ ám” (Ga 8, 48 ) … Vậy người hành hương Samaritanô là chính Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu thực sự là một lữ hành đã gặp con người bị thương do tội lỗi, do ma quỷ, thế gian tra tấn, đang nằm sõng soài trên mặt đất . Chúa đã không bỏ qua, bởi vì mục đích cuộc hành hương của Chúa nhằm để “viếng thăm chúng ta” (Lc 1, 68.78). Người đã từ trời lữ hành xuống thế và cư ngụ giữa chúng ta. Người không chỉ “xuất hiện trên đất, nhưng còn sống và trò chuyện với con người” (Br 3,38) …

Người đã đổ rượu, rượu của Lời Chúa trên các vết thương của chúng ta, và như mức độ nghiêm trọng của vết thương không thể chịu được, Người đã pha trộn rượu với dầu là sự êm dịu của Người và “tình yêu Người dành cho nhân loại” (Tit 3 4) … Sau đó, đưa con người đến quán trọ. Quán trọ ở đây là Giáo hội, Giáo hội đã trở thành nơi ở và nơi ẩn náu của toàn dân … Chính Chúa Kitô ở trong Giáo hội, Người trao ban hồng ân… Quán trọ ở đây còn là nhà chầu có chủ quán là Chúa Giêsu đón mời. Các Thánh Tông đồ và các Mục tử, các Tiến sĩ và những người kế vị tượng trưng cho chủ quán trọ… Các ngài chăm sóc bệnh nhân là chúng ta bằng Lời Chúa, Cựu Ước và Tân Ước, bằng Lề luật Thánh và các tiên tri.

Hãy đi và làm như vậy

“Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37, đó là lời của Chúa Giêsu dành cho nhà thông luật khi xưa. Hôm nay, Chúa cũng bảo mỗi người chúng ta “Hãy đi và làm như vậy”.

Có người hỏi: Hãy đi và làm như vậy là thế nào? Là làm như người Samaritanô nhân hậu đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: Ai là anh em tôi? Nhưng hãy đi và tỏ ra mình là anh em của mọi người. Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không có đạo. Nhưng hãy đi và làm như người Samaritanô kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, gặp người đau khổ phải cứu giúp. Cần vượt qua quan niệm hẹp hòi, đi đến tình huynh đệ phổ quát.

Thánh Gioan Phaolô II giáo hoàng nói: “Người Samaritanô nhân hậu là bất kỳ ai nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác, là người “cảm động” trước bất hạnh của người lân cận mình. Chúng ta cần phải nuôi dưỡng sự nhạy cảm của trái tim, vì nó làm chứng cho lòng trắc ẩn của ta đối với những người đau khổ”.

Lạy Chúa, mỗi lần chúng con thấy người anh em mắc nạn, xin giúp chúng con biết hành động thương xót anh em như Chúa đã thương xót chúng con. Amen.

Về mục lục

YÊU BẰNG VIỆC LÀM

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là câu chuyện đẹp về tình yêu thương. Người Samaritanô nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”.

“Ai là anh em tôi?”. Khi đặt câu hỏi như thế, vị tiến sĩ luật hy vọng rằng, Vị Thầy sẽ đưa ra cho ông một phẩm trật giữa những người gần gũi phải giúp đỡ và những người xa lạ, không cần quan tâm, không cần để ý đến. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã quay ngược hoàn toàn câu hỏi. Người anh em, chính là người có lòng thương cảm, ra tay nâng đỡ, cứu giúp những ai đang gặp khó khăn, thử thách, đau khổ, thất vọng. Chúa nói với vị luật sĩ: “Ông hãy đi và làm như vậy”; Ông cứ quảng đại nhân hậu và chạnh thương với mọi người, ông sẽ trở thành người thân của mọi người và mọi người sẽ là người thân của ông.Tấm gương người Samaritanô nhân hậu đã được Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao trong Năm Thánh Lòng Thương Xót.

  1. Vô cảm và quan tâm

Chúa Giêsu kể dụ ngôn: một người ở Giêrusalem xuống Giêricô, giữa đường bị bọn cướp trấn lột, đánh cho nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Thầy Tư Tế đi qua, thấy vậy liền lãng tránh. Thầy Lêvi đi tới cũng chẳng ngó ngàng, bỏ mặc nạn nhân. Họ “tránh qua” một bên để đi, thật lạnh lùng, thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, họ vẫn tự cho mình là những người đạo đức, không dám sờ chạm đến người bị nạn vì sợ bị nhiễm uế.

Một người ngoại đạo Samari đi ngang, thấy người lâm nạn nên đã quan tâm, liền cúi xuống băng bó, đặt lên lưng lừa đưa về quán trọ, nhờ chủ quán săn sóc rồi trả hết mọi phí tổn. Người Samari “tới gần” nạn nhân nửa sống nửa chết. Ông “chạnh lòng thương” nên đã đi vào nếm cảm cảnh khốn cùng “bị tước đoạt, bị cướp bóc” như nạn nhân; chạnh lòng thương là cùng đớn đau nỗi khổ ải bất lực “nửa sống nửa chết” của người ấy. Đây chính là điều bất ngờ và làm thành ý nghĩa độc đáo của dụ ngôn. Người Samari đã sống luật yêu thương một cách trọn vẹn, không chỉ là lòng thương cảm mà “yêu bằng việc làm”, và làm với hết khả năng của mình.

Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Thiên Chúa làm người, rất gần gũi với con người. Vì con người là con đường của Giáo hội (Thánh Gioan Phaolô II). Người Đông Phương lấy chữ nhân mà định nghĩa con người: nhân là người, nhân là nhân ái là lòng thương người.

  1. Tình yêu và lề luật.

Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể, tôi thấy rằng, cái khác biệt sâu xa giữa Kitô giáo và Do thái giáo, đó là: một bên là đạo của tình yêu, một bên là đạo của lề luật. Tư Tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Thấy người bị nạn, người Samari tốt lành đã động lòng xót thương. Lương tâm và tình thương đồng loại thúc đẩy anh cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn bất chấp nạn nhân là người Do Thái thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc của anh. Cung cách hành xử đầy tình thương này mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Nhìn từ lăng kính luật pháp Do thái, hai ông Tư Tế và Lêvi đã không sai. Luật Cựu Ước dạy rằng, Tư Tế không được đụng vào thây người chết vì sợ bị ô uế. Nếu ô uế thì không được phục vụ trong đền thờ. Nạn nhân dở sống, dở chết, tức là có thể chết. Hai người Tư Tế và Lêvi không dám chạm đến người có thể chết. Họ lựa chọn lề luật. Sách luật (Lv 21) ghi rõ điều khoản luật này khi nhắc đến Tư Tế và người chết.

Người Samari lựa chọn bác ái. Ông không ngại chạm đến người dở sống dở chết này. Ông chăm sóc, lo lắng cho bệnh nhân như người thân và đã vượt quá giới hạn lề luật để sống theo bác ái. Khi phải lựa chọn giữa lề luật và bác ái, người nhân hậu lựa chọn bác ái dù biết các ràng buộc của lề luật. Người ấy không bỏ qua lề luật, không đả phá lề luật nhưng vượt trên lề luật nên đã làm trọn lề luật.

Chúa Giêsu hỏi người thông luật: “Ai là người thân cận của nạn nhân đã sa vào tay kẻ cướp?”. Người ấy đáp: “Người đã đem lòng từ bi thương nạn nhân”. Chúa Giêsu đã khéo léo lái vấn đề từ câu hỏi người thông luật: ai là người thân cận của tôi? sang gợi ý tuyệt vời của Ngài: tôi là người thân cận của ai? Trả lời câu hỏi này có lẽ phải đi từ cuộc sống cụ thể của mình. Khi tôi đến gần ai để phục vụ với tình yêu thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy thành người thân cận với tôi. Ai cũng có thể trở thành người thân cận của tôi nếu tôi yêu thương họ bằng tình yêu mà Chúa đã thương yêu tôi. Chúa Giêsu nói với người thông luật: “Ông hãy đi và hãy làm như vậy”. Ông cứ quảng đại nhân hậu và chạnh thương với mọi người, ông sẽ trở thành người thân của mọi người và mọi người sẽ là người thân của ông.

Luật bác ái vượt trên mọi lề luật khác.Mến Chúa và yêu người là cốt lõi của Kitô giáo. Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ Lời Thầy”. Đạo của Thầy Giêsu là Đạo Tình Yêu. Yêu Chúa, Yêu Người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Yêu Chúa đích thực thì phải yêu người. Thánh Gioan viết: “Ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối”. Đối với Thánh Phaolô: “Yêu thương là giữ trọn lề luật”. Lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu mà cho người không có tình yêu. Nếu không có tình yêu thì việc làm theo lề luật có tốt đến đâu cũng vô giá trị: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. Thánh Augustinô khuyên nhủ: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu sẽ cho biết ta phải làm gì.

  1. Luật “Good Samaritan”

Theo tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc (Úc) : “Dưới ảnh hưởng của Phúc Âm Luca, chữ “Samaritan” trở thành biểu tượng của sự từ ái nói chung. Và từ thế kỷ 17, nó nhập vào kho từ vựng tiếng Anh, với nghĩa là người có thiện tâm, biết đồng cảm với nỗi đau của người khác và không ngại cứu giúp người khác. Không phải chỉ giới hạn trong văn chương. Nó còn biến thành luật. Trong thuật ngữ luật pháp, có chữ luật “Good Samaritan” rất phổ biến, với ý nghĩa là “một người nào đó sẵn sàng cứu giúp một kẻ khác đang bị thương hoặc có nguy cơ bị thương chỉ vì thiện chí và không hề tính toán đến chuyện được đền đáp hay bất cứ một phần thưởng nào khác”.

Nội dung khái niệm luật “Good Samaritan” thay đổi theo từng nước. (Xem bài: “The Good Samaritan Law Across Europe” của The Dan Legal network trên https://www.daneurope.org). Ở một số nơi, luật ấy chỉ quy định miễn thuế trên số tiền người dân cống hiến cho các quỹ từ thiện cũng như miễn tội cho những thiệt hại hay những sai phạm có tính kỹ thuật mà những người muốn cứu giúp người khác có thể mắc phải trong lúc khẩn cấp. Ở một số nước, như Pháp hay Đức, luật “Good Samaritan” còn buộc tội bất cứ ai thấy người gặp nạn cần cứu giúp mà không cứu giúp, từ những người gây ra tai nạn (ví dụ tài xế), đến thân nhân nạn nhân (bố mẹ, anh em trước những nguy hiểm của người thân trong nhà) đến cả những người đi qua đường.

Tại Úc, luật “Good Samaritan” chỉ giới hạn trong việc miễn truy tố những thiệt hại do người có thiện chí cứu giúp người khác gây ra (nếu có) nhưng lại không kết tội những kẻ bàng quan vô cảm (trừ đối với những kẻ gây ra tai nạn). Gần đây, đối diện với hiện tượng dửng dưng trước những người gặp tai nạn cần được cứu giúp, nhiều người, đứng đầu là Giáo hội Công giáo tại Úc, đề nghị thêm vào luật “Good Samaritan” một điều khoản mới, về bổn phận giúp đỡ người khác (duty to aid). Nội dung của điều khoản này là: việc cứu giúp người bị nạn không phải chỉ là một vấn đề đạo đức mà còn là một vấn đề pháp lý; không phải chỉ là chuyện thuộc lương tâm mà còn là bổn phận của mọi công dân. Theo luật này, ai thấy người khác đang gặp nạn mà không ra tay cứu giúp có thể bị truy tố và phạt tội. Dĩ nhiên, cái gọi là “cứu giúp” ở đây còn tùy thuộc vào điều kiện và khả năng của từng người. Nhưng ít nhất, có một điều tối thiểu mà ai cũng làm được: kêu cứu (gọi người chung quanh, báo cho cảnh sát hoặc sở cấp cứu). (x. https://en.wikipedia.org/wiki/Good_Samaritan_law).

Trong Thánh Lễ vào sáng sớm thứ Hai tại nguyện đường Thánh Mácta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã giảng về dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Đoạn kết, ngài nói: Một số nhà Thần Học cổ đại nói rằng, dụ ngôn người Samariatanô nhân hậu chứa đựng “toàn bộ Tin Mừng”. Mỗi người trong chúng ta đều là một người bị thương nằm ở đó và người Samariatanô chính là Chúa Giêsu. Ngài đến gần chúng ta. Ngài chăm lo cho chúng ta. Ngài thanh toán phí tổn cho chúng ta. Ngài chữa lành những vết thương của chúng ta. Và Ngài nói với Giáo hội của Ngài rằng: “Nếu cần nhiều hơn, thì xin bạn cứ ứng ra dùm, khi nào tôi trở lại thì tôi sẽ trả cho bạn. Anh chị em hãy suy nghĩ cho thật kỹ nhé: Toàn bộ Tin Mừng đều nằm trong đoạn này”. (Theo Vatican News – gs – 08.10.2018).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là những người Samaritanô của thời đại này, biết “yêu bằng việc làm” để chúng con trở nên dấu chỉ hữu hiệu cho Tin Mừng Tình Yêu của Chúa. Amen.

Về mục lục

CHUYỆN BỐN NGƯỜI

Trầm Thiên Thu

Dụ ngôn “Người Samari Tốt Lành” (Lc 10:25-37) đề cập “điều răn lớn” và cũng là điều răn quan trọng về lòng thương xót – sống đạo thực sự chứ không giữ đạo theo nguyên tắc, tích cực chứ không tiêu cực, chủ động chứ không thụ động.

Thánh Luca kể tình huống này: Một hôm, có người thông luật muốn THỬ Chúa Giêsu nên hỏi Ngài về CÁCH SỐNG TỐT NHẤT để được sống đời đời. Chúa Giêsu không trả lời thẳng mà hỏi ngược lại: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Là người thông luật nên ông ta nói đâu ra đấy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Chúa Giêsu khen ông ta và xác định: “Ông trả lời đúng lắm. CỨ LÀM NHƯ VẬY thì sẽ được sống.”

Nếu được hỏi, chắc hẳn chúng ta cũng có thể trả lời ngay, không cần suy nghĩ lâu. Nhưng đó mới chỉ là lời nói suông. Từ miệng lưỡi tới bàn tay là khoảng cách rất ngắn nhưng cũng là con đường hun hút rất dài, ngỡ như vô tận, bởi vì nói được chứ chưa chắc làm được.

Chúa Giêsu nói rõ ràng, thẳng thắn, nhưng ông ta muốn chứng tỏ là mình có lý nên hỏi vặn lại: “Nhưng ai là NGƯỜI THÂN CẬN của tôi?” Chúa Giêsu ôn tồn kể dụ ngôn: Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có THẦY TƯ TẾ cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một THẦY LÊVI đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một NGƯỜI SAMARI kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông đưa tiền cho chủ quán và nhờ săn sóc nạn nhân, tốn kém thêm bao nhiêu rồi ông sẽ hoàn lại sòng phẳng.

Rồi Ngài hỏi người thông luật: “Vậy theo ông, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là NGƯỜI THÂN CẬN với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Người thông luật cũng mau mắn trả lời: “Chính là kẻ đã THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT đối với người ấy.” Chúa Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng HÃY LÀM NHƯ VẬY.” Hai lần Ngài bảo người thông luật “hãy làm như vậy.” Liệu ông ta có thi hành? Không ai biết, nhưng rất có thể là “không,” vì điều đó có lẽ quá khó đối với ông.

Và hôm nay, Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta y như thế. Làm hay không là quyền tự do của mỗi người, Chúa không muốn ai miễn cưỡng mà làm bất cứ việc gì. Câu nói “hãy làm như vậy” rất đơn giản mà lại phức tạp, dễ mà khó. Ai “làm như vậy” là thanh toán món nợ lòng thương xót đối với nhau – và Thiên Chúa coi như là làm cho chính Ngài. (x. Mt 25:31-46) Bất cứ ai “làm như vậy” thì “tên được ghi trên trời,” (Lc 10:20) và chắc chắn sẽ được lãnh nhận sự sống đời đời như Chúa Giêsu đã xác nhận.

Mỗi khi nghe dụ ngôn này lại thấy “nhột” lắm. Là thầy này thầy nọ, ông nọ bà kia, chức cao phẩm lớn, nhưng viện đủ lý do để làm ngơ người khác: lấy cớ bận việc, không có thời gian, vội vì có việc gấp, không muốn khó đến mình,… Đó là tự biện hộ cho sự vô cảm xấu xa của mình. Còn người mà chúng ta nhìn bằng nửa con mắt lại là NGƯỜI TỐT, thực sự nhân hậu, không so đo chi cả.

Trong dụ ngôn này có bốn người: Nạn nhân, thầy tư tế, thầy Lêvi, và người Samari. Nạn nhân là người “bị động” vì không thể làm gì được. Chúng ta cũng có những lúc đành thúc thủ như vậy, nhưng nhờ đó mà chúng ta nhận ra ai là người bạn đích thực, đa số chỉ là “bè” mà thôi.

Hai người kia là thầy tư tế và thầy Lêvi, những người được tôn trọng vì chức tước, những người dạy người ta sống đúng đắn và làm điều hay lẽ phải, thế nhưng họ chỉ nói năng hay, giảng thuyết giỏi, khuyên răn đúng, chứ chính họ không làm. Rõ ràng họ thấy nạn nhân khốn khổ mà họ làm ngơ, viện đủ cớ để thoái thác.

Còn người Samari? Ông này là người ngoại đạo, không biết luật tôn giáo, không nói hay, không chỉ bảo ai, nhưng ông thực sự có trái tim của Chúa, biết chạnh lòng thương xót nạn nhân mà ông bất ngờ gặp trên đường. Chắc là ông cũng bận việc, nhưng ông gác lại việc riêng để làm điều phải làm ngay: cứu người gấp. Ông không chỉ làm những gì cần thiết – sơ cứu, mà ông còn tận tụy đưa nạn nhân đi cấp cứu và thậm chí còn thanh toán mọi chi phí cho nạn nhân, chứ không đòi hỏi gì hoặc sợ bị thua thiệt. Ông ngoại giáo này sống đạo chứ không chỉ giữ đạo như những người có đạo, ông không nề khó khăn, cũng chẳng sợ bị phiền toái, sẵn sàng “vác tù và hàng tổng” mà không sợ người khác chê bôi.

Người Samari không mắc nọ nạn nhân nhưng ông vẫn thanh toán món nợ không vay: Nợ Yêu Thương. Ông là người thật tuyệt vời! Lạ thay, Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái.” (Rm 13:8a) Món nợ này rất kỳ diệu, bởi vì “ai yêu người thì đã chu toàn lề luật.” (Rm 13:8b) Yêu người là yêu Chúa, miệng nói kính mến Chúa mà không yêu thương tha nhân thì chỉ là nói xạo, phét lác. (x. 1 Ga 4:7-21)

Nhưng Chúa Giêsu còn “nghiêm khắc” hơn về món nợ này. Ngài bắt buộc mọi người đều phải “trả hết đồng xu cuối cùng.” (x. Mt 5:26) Đó cũng chính là mệnh lệnh yêu thương. Mệnh lệnh có nghĩa là phải thực hiện, không thể không làm.

Thời Cựu Ước, ông Môsê nói với dân: “Nếu anh em nghe tiếng Chúa, Thiên Chúa của anh em, hãy giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ. Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em.” (Ðnl 30:10-11) Ông cho biết thêm rằng mệnh lệnh đó không ở trên trời, cũng không ở bên kia biển, mà ở rất gần chúng ta, ngay trong miệng, ngay trong lòng chúng ta, để chúng ta đem ra thực hành. (Ðnl 30:12-14)

Hồng Ân Thiên Chúa luôn dạt dào, bao la, tuôn trào vô tận. Cảm nhận sâu sắc nên Thánh Vịnh gia đã thốt lên: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ.” (Tv 69:14) Nhưng không phải vì thế mà ỷ lại, ảo tưởng. TIN Thiên Chúa yêu thương mình thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG Thiên Chúa yêu thương mình thì là kiêu ngạo. Làn ranh giữa TIN và TƯỞNG rất mong manh. Là tín nhân thì phải thành tâm cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến.” (Tv 69:17)

Có vô số lý do để chúng ta cầu xin, đơn giản nhất là nhận biết mình yếu đuối: “Phần con đây, thật khốn cùng đau khổ, lạy Chúa Trời, xin cứu vớt đỡ nâng.” (Tv 69:30) Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, mà trước tiên phải là tạ ơn và chúc tụng: “Tôi sẽ hát bài ca chúc mừng Danh Thánh, sẽ dâng lời cảm tạ tán dương Người.” (Tv 69:31)

Đối với đứa con yếu đuối, cha mẹ yêu thương đặc biệt hơn. Đó chính là hình bóng của Lòng Chúa Thương Xót, vì Ngài rất yêu thương và quan tâm những người mọn hèn – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, như Thánh Phaolô xác nhận: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5:20) Thế thì thật may mắn cho chúng ta – những tội nhân xấu xa. Nhưng như vậy cũng có nghĩa là chúng ta “mắc nợ” Thiên Chúa. Vì thế, Thánh Vịnh gia động viên: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhậm lời kẻ nghèo khó, CHẲNG COI KHINH thân hữu bị giam cầm.” (Tv 69:33-34)

Thánh Phaolô xác nhận rằng “Đức Kitô đứng hàng đầu,” vì Ngài là Vua các vua, Chúa các chúa, và có toàn quyền. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã BAN CHO NGƯỜI CON MỌI QUYỀN XÉT XỬ, để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con.” (Ga 5:22-23) Thánh Phaolô phân tích: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, TẤT CẢ ĐỀU DO THIÊN CHÚA TẠO DỰNG NHỜ NGƯỜI và CHO NGƯỜI.” (Cl 1:15-16)

Thiên Chúa duy nhất, không có bất cứ thần linh nào khác. Thật hạnh phúc vì chúng ta được ơn nhận biết và tôn thờ Ngài. Nói về Ngài, Thánh Phaolô nói: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự, Người đứng hàng đầu.” (Cl 1:17-18) Vậy là quá rõ ràng, chúng ta là các chi thể, nghĩa là chúng ta không thể là một “phần rời” mà là “phần dính,” nghĩa là có tính liên đới về mọi sự – cả hữu hình và vô hình, cả tâm linh và đời thường. Ai tự tách rời là tự hủy diệt, vì cành nho không thể tách khỏi thân cây nho.

Tại sao? Thánh Phaolô cho biết nguyên nhân: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật ĐƯỢC HÒA GIẢI với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại BÌNH AN CHO MỌI LOÀI dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:19-20)

Là tình yêu nên Thiên Chúa rất nhân từ và đại lượng. Mặc dù chúng ta ngang ngược, hoàn toàn bất xứng, nhưng chúng ta vẫn được tha thứ, được nâng như trứng mỏng, vậy mà chúng ta lại quá hẹp hòi, ngôn hành đối lập, nói một đàng, làm một nẻo. Vì ích kỷ và vô tâm nên không thực thi đức ái hoặc lòng thương xót. Có bị phạt cũng chẳng oan ức chi!

Kinh Thánh cho biết: “Người thương xót bao nhiêu thì cũng hạch tội bấy nhiêu: Người xét xử ai nấy tuỳ theo việc họ làm. Kẻ tội lỗi không thoát nổi với của gian đã cướp, và người đạo hạnh kiên nhẫn đợi chờ sẽ chẳng luống công.” (Hc 16:12-13) Kinh Thánh cũng xác định: “Áp bức người yếu thế là sỉ nhục Đấng tạo thành nên họ, thương xót kẻ khó nghèo là tôn kính Đấng dựng nên người đó.” (Cn 14:31)

Có bốn người nhưng có hai vấn đề: Tốt và Xấu. Người nào cũng dạy cho chúng ta bài học sống vô giá: Người xấu giúp chúng ta tránh đi vào vết chân của họ, còn người tốt thúc giục chúng ta phải đi theo dấu chân của họ.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con nhận biết mình là “nạn nhân” giữa đời này và chấp nhận mọi sự, nhờ đó có thể sống khiêm tốn; xin giúp chúng con biết quan tâm và sẵn sàng giúp đỡ tha nhân; và xin giúp chúng con tránh thói ỷ lại, hợm mình mà vô cảm trước nỗi đau của người khác. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

HÃY LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA NHAU

Thiên San

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về câu chuyện giữa Đức Giêsu và một nhà thông luật. Để trả lời cho câu hỏi của ông: “Ai là người thân cận của tôi”, Đức Giêsu đã kể câu chuyện về người Samari nhân hậu. Quan sát cách xử lý tình huống của các nhân vật trong câu chuyện Đức Giêsu kể, chúng ta sẽ biết được ai mới thật sự là người thân cận. “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10, 37). Đó là lời mời gọi không chỉ dành cho riêng cho người thông luật mà còn dành cho hết thảy mọi người. Chúng ta hãy là người thân cận của nhau khi biết trông thấy, lại gần, cúi xuống, chạnh lòng thương và ra tay giúp đỡ.

“Mến Chúa yêu người” là giới răn đứng đầu trong tất cả các giới răn. Chúng ta chẳng thể nói yêu Chúa mà lại chẳng thể yêu thương tha nhân. Yêu thương tha nhân chính là chứng tá cụ thể cho thấy ta yêu mến Chúa thật sự. Nhưng yêu tha nhân là yêu như thế nào? Chúng ta thường yêu thương những người ta quen biết, dễ gần, người trong gia đình, những người không chống đối,… Quả thực, yêu tha nhân không phải là điều dễ dàng. Yêu theo cách của Chúa lại càng khó biết bao. Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta thực thi tình thương cách cụ thể với tha nhân để thực sự là người thân cận của nhau. Người Samari trong câu chuyện hôm nay là một mẫu gương sáng ngời, cụ thể để chúng ta học hỏi.

Ba người đi đường, một thầy Lêvi, một thầy tư tế và một người Samari cùng đi qua một con đường và cùng gặp một người. Người mà họ gặp đang rơi vào tình trạng hết sức nguy kịch “nửa sống nửa chết”. Tuy nhiên, thầy Lêvi và thầy tư tế khi đi ngang qua lối ấy, gặp thấy nạn nhân thì tránh qua bên kia mà đi. Ngược lại, người Samari kia đi qua cũng thấy nhưng động lòng thương. Vì động lòng thương nên ông tiến lại gần, lấy rượu xức vết thương cho người ấy, băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và dặn: “Nhờ bác săn sóc  cho người này, có tốn kém thêm  bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” (x. Lc 10, 33-35).

Chúng ta là ai trong ba người đi đường trên? Thật khó để nói ai đúng ai sai trong chuyện này. Chúng ta chỉ nhìn và học hỏi cách hành xử tuyệt vời, tận tình chu đáo của người Samari kia. Có thể thầy Lêvi và thầy tư tế kia có lý do để “tránh qua bên kia mà đi”. Có thể các ông đang vội đi lên đền thờ, người chuẩn bị của lễ, người dâng lễ. Trong hoàn cảnh ấy, nếu đụng vào người gặp nạn, “nửa sống nửa chết”, các ông sẽ bị ô uế, không dâng lễ được. Còn người Samari kia thật đáng khen. Ông ta đã đặt người gặp nạn lên lưng lừa của mình mà đưa vào quán trọ. Ông ấy đi đường với một con lừa. Xét cho cùng, ông cũng chẳng giàu có gì. Nhưng cứ nhìn cách ông hành xử, ta sẽ thấy ông ấy thật giàu tình thương. Ông không chỉ chạnh lòng thương “phút ban đầu” nhưng là những hành động hết sức cụ thể. Ông đã hy sinh thời gian, sức khỏe, sự kiên nhẫn và hết tình tận tụy để giúp nạn nhân “đến nơi đến chốn”. Vì chạnh lòng thương, ông không chỉ cúi xuống mà còn nhận trách nhiệm về phần mình, trách nhiệm lo cho người khác, một người mà ông tình cờ gặp trên đường, người ấy đang gặp nạn.

Người Samari đã chỉ cho chúng ta biết cách trở nên người thân cận của nhau. Tuy nhiên, điều đó không hề đơn giản chút nào. Vì như thầy tư tế và thầy Lêvi, chúng ta có quá nhiều lý do để không thể giúp đỡ người khác. Chúng ta đã bỏ qua quá nhiều cơ hội để trở nên người thân cận của nhau. Thầy Lêvi và thầy tư tế bị luật cản trở, sợ ô uế không dâng lễ được; còn chúng ta, chúng ta đang bị điều gì cản trở khiến chúng ta khó thực thi một hành động bác ái, dám cúi xuống trên cuộc đời người khác và giúp đỡ họ? Chúng ta cần chân nhận rằng, để cúi xuống trên cuộc đời người khác, chúng ta phải dám hy sinh thời gian, sức khỏe, công việc riêng và chấp nhận những rắc rối có thể gặp phải. Đồng thời, chúng ta cũng hãy thực thi lòng thương xót ngay khi bản thân đang cần được xót thương, cho đi ngay khi bản thân còn thiếu thốn… Điều quan trọng là dám nhận trách nhiệm về phần mình. Là con cái cùng một Cha trên trời, chúng ta có trách nhiệm và liên đới với nhau. Khi nhận lấy trách nhiệm này, chúng ta sẽ biết cúi xuống trên cuộc đời của nhau, biết thực thi lòng thương xót như Cha chúng ta.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con. Xin Chúa giúp chúng con biết mở trái tim, đôi mắt, tấm lòng để biết đón nhận nhau. Nhất là biết cúi xuống, tiến lại gần và thực thực lòng thương xót như chính Chúa đã cúi xuống trên cuộc đời chúng con. Xin Chúa giúp chúng con vượt qua mọi rào cản khiến chúng con co rúm lại, vén chân bước qua cuộc đời người khác với sự thờ ơ, lạnh nhạt; để nhờ ơn Chúa giúp, chúng con có khả năng trông thấy, chạnh lòng thương, tiến lại gần nhau hơn, trở nên người thân cận của nhau hơn. Amen.

Về mục lục

 

LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Cách đây vài ngày, ngày 25-6-2019, báo chỉ đưa tin và hình ảnh Camera ghi lại một chiếc taxi hãng Vinasun tông xe vào một đôi nam nữ đang chạy xe gắn máy trên đường tại Sàigòn khiến hai người bất tỉnh. Người tài xế dừng xe, bước xuống quan sát và khi không thấy ai ngoài hai nạn nhân, anh ta lạnh lùng lên xe và tẩu thoát. Ngày 8-7-2019, một thông tin khác cho hay tại Gia Lâm (Hà Nội) một chiếc xe hơi đã tông thẳng vào người phụ nữ lao công đang làm việc, khiến chị bị văng bên lề đường và tử vong. Người tài xế “máu lạnh” này cũng bỏ chạy, để mặc nạn nhân. Những thông tin này cho thấy con người càng ngày càng vô trách nhiệm và vô cảm đối với tha nhân, nhất là đối với những nạn nhân do chính họ gây nên.

Truyền thống văn hoá Việt Nam của chúng ta có biết bao lời giáo huấn về tình liên đới, ca ngợi những nét đẹp thể hiện qua sự đùm bọc cứu giúp lẫn nhau: “Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng…”, “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Trong thời buổi hiện đại này, những nét đẹp truyền thống ấy có nguy cơ bị quên lãng do sự ích kỷ của con người.

Đối với một số tín hữu Công giáo, việc đón nhận giáo huấn của Chúa và của Giáo Hội chỉ dừng lại ở lý thuyết và không có thực hành. Đó là lý do tại sao vẫn tồn tại những tranh chấp nơi các cộng đoàn. Đây đó vẫn có những người nhận mình là Kitô hữu mà sống ngược lại với giáo huấn của Chúa. Người tín hữu đích thực là người lắng nghe và thực hành Lời Chúa, để rồi Lời Chúa là kim chỉ nam hướng dẫn và soi rọi mọi hành vi cử chỉ và lời nói của mình. Thiếu thực hành, đời sống đức tin có nguy cơ biến thành một truyền thống văn hoá hoặc những chỉ dẫn luân lý thuần tuý trần gian. Đó là điểm nhấn trong giáo huấn của Lời Chúa hôm nay.

Thiên Chúa không chỉ là Đấng ngự trên chín tầng cao xanh. Tác giả Đệ nhị Luật đã khẳng định điều đó. Xuyên suốt lịch sử dân Do Thái, Thiên Chúa luôn phù trợ đồng hành và che chở. Ngài đã mặc khải cho ông Môisen: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp. Điều này có nghĩa, Ngài là Thiên Chúa gần gũi với con người và luôn cứu giúp con người. Vì vậy, luật của Chúa cũng không phải điều gì xa xôi, mà gần gũi với con người, để rồi ai cũng có thể thực hành được, tuỳ hợp với khả năng và bậc sống của mình.

Nếu trong Cựu ước, Thiên Chúa được trình bày như một Đấng che chở đồng hành với Dân được tuyển lựa, thì đến thời của Tân ước, Chúa sai Con của Ngài nhập thể để ở cùng nhân loại, đồng cam cộng khổ với con người, để chia sẻ kiếp sống nhân sinh đầy thử thách gian nan và đau khổ. Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình. Đấng vĩnh cửu đã bước vào thời gian. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Đức Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Điều đó có nghĩa, nếu con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa, thì họ có thể gặp ngài qua Người Con, là Ngôi Lời nhập thể (Bài đọc II). Người Samaritanô nhân hậu chính là hình ảnh của Chúa Giêsu. Người đã cứu vớt và chữa lành cả nhân loại đã bị tổn thương do tội lỗi. Người đã mang lấy nỗi đau và bệnh tật của con người, để cho họ được hạnh phúc và bình an. Kitô giáo là Đạo nhập thể, là tôn giáo khẳng định “Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta”.

Nếu Thiên Chúa đã cúi mình xuống để cưu mang và cứu độ con người, thì con người lại dửng dưng đối với nhau. Trong dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu”, Chúa Giêsu đã nhắc tới hai người được đào tạo và có chức vị trong Do Thái giáo, đó là một tư tế và một trợ tế. Họ là những người “cầm cân nẩy mực” để đánh giá và duy trì những chuẩn mực luân lý và mức độ đạo đức của người dân. Khi thấy người bị nạn, bầm dập vết thương và bị bỏ rơi nửa sống nửa chết bên vệ đường, hai người này đã dửng dưng bỏ đi. Họ được giáo dục về lòng yêu mến tha nhân, nhưng lòng yêu mến đó chỉ dừng lại ở sách vở và lý thuyết, còn những con người đau khổ cụ thể thì họ lại bỏ qua. Trong khi đó, người Samaritanô, một người “dân ngoại” và vô danh, lại mang một trái tim nhân hậu. Những chi tiết được nhắc tới trong dụ ngôn cho thấy anh là một người chu đáo tận tâm. Anh chấp nhận những hệ luỵ và mọi tốn kém để cứu giúp người bị nạn. Anh còn chu đáo dặn người chủ quan: “Nhờ anh chăm sóc giúp người này, tốn phí bao nhiêu, tôi sẽ thanh toán khi trở về”. Anh đã coi người bị nạn như người thân cận của mình, và hơn nữa, như chính bản thân mình vậy.

Lời Chúa hôm nay vừa dạy chúng ta cảm thương cứu giúp những người bị nạn, vừa thay đổi những thành kiến về những người xung quanh. Như đã nói ở trên, trong quan niệm của người Do Thái nói chung thời bấy giờ, những người Samaritanô là người bị coi thường và đáng khinh bỉ. Đây là những hệ luỵ vừa mang tính lịch sử vừa mang tính tôn giáo. Khi diễn tả người Samaritanô cảm thương cứu giúp người bị nạn, Chúa Giêsu muốn lên án sự kỳ thị chia rẽ và phân biệt. Đừng coi thường những người không cùng chủng tộc và tôn giáo với mình, vì họ mang trái tim nhân hậu, trong khi những người xưng mình là công chính chưa chắc đã tốt như họ.

“Lạy Thày, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Chúa Giêsu đã trả lời bằng cả một câu chuyện đong đầy ý nghĩa sâu sắc. Người Samaritanô vốn bị khinh bỉ coi thường, bỗng trở thành mẫu gương cho mọi người: “Hãy đi và làm như vậy!”. Đây vừa là câu trả lời dành cho người thông luật, vừa là mệnh lệnh Chúa gửi đến chúng ta. Quả vậy, Lời Chúa không chỉ là những lý thuyết suông, nhưng phải được thực hành cụ thể trong đời sống. Vâng, chúng ta hãy đi vào cuộc sống. Hãy có lòng nhân hậu đối với tha nhân. Hãy có trái tim nhân hậu và lòng nhân từ như Cha trên trời.

Về mục lục

.

ĐỪNG BỎ RƠI NGƯỜI THÂN CẬN

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Sống với nhau chưa hẳn đã là người thân của nhau. Bởi vì tâm hồn họ vẫn còn xa nhau, có khi còn làm đau lòng nhau. Đi bên nhau chưa chắc đã là bạn bởi vì thiếu niềm tin nơi nhau.

Trong một bài báo viết rằng: Cuối tuần, quán nhậu ì xèo, ầm ầm tiếng nói cười – người tỉnh người say rào rào lên; đâu đó có tiếng điện thoại: “Gọi gì mà gọi nhiều thế, tối tôi về, lắm mồm!”. Một người đàn ông lớn tiếng, chắc là quát vợ. Nói xong, anh lại quay sang hội chiến hữu.

“Uống đi này các cậu, bữa nay tôi mời! Lâu lắm mới gặp nhau!”.

Đám bạn gọi anh là thằng bạn “chơi được” nhất, tử tế quá! Còn vợ anh, chắc đang ngồi ngao ngán, gọi chồng về ăn cơm cũng bị mắng vốn.. .

Đôi khi nghĩ lại mình cũng “khôn nhà dại chợ” thật! Chúng ta cũng thường dễ cáu gắt với mẹ khi dọn phòng sạch sẽ nhưng lại dễ cười xòa bỏ qua khi ai đó nhỡ tay bôi bẩn ra áo.  Vợ yêu kể chuyện cười thì không nghe, có khi còn lẩm bẩm kêu nhạt quá,nhưng nếu một người dưng không quen biết họ kể thì mình khen lấy khen để,chỉ để cho họ vui lòng. Có khi, chỉ vì bị bố gọi dậy đi làm thôi tôi cũng gắt gỏng, trong khi nếu sếp mắng vì đi làm trễ thì cũng ngậm ngùi bỏ qua.

Tại sao vậy? Tại sao chúng ta luôn cư xử với người lạ một cách thân tình, tử tế nhưng một lời nhắc của bố mẹ “đi đường cẩn thận nhé con” cũng khiến chúng ta nổi quạu “biết rồi mà, bố mẹ nói nhiều quá”. Tôi cứ hỏi đi hỏi lại câu hỏi này rất nhiều lần…?

Hôm nay Chúa Giê-su bảo nếu là người thân của nhau thì phải cúi xuống ủi an, nâng đỡ và dành thời gian giúp đỡ cho nhau. Hình ảnh thầy Levi, Thầy Tư tế bỏ lại người thân của mình nơi ven đường phải chăng cũng là hình ảnh của chính chúng ta cũng từng làm ngơ trước biết bao cái khổ, cái cực nhọc của người thân trong gia đình.

Ở đâu đó trong những mái nhà có những người cha người mẹ già yếu, ăn nhờ con cái nhưng cũng chỉ được bữa có bữa không, thiếu thốn, cô đơn giữa đàn con đông đúc.

Ở đâu đó trong những mái nhà có người vợ một mình đau đớn trong bệnh tật bên cạnh người chồng vô tâm chỉ biết ăn nhậu và sống trưởng giả.

Ở đâu đó trong những xóm đạo dành của cải để đầu tư vào lễ hội kèn trống linh đình mà bỏ rơi người nghèo khó Lagiaro đang kiếm tìm từng đồng tiền lẻ để có miếng cơm hằng ngày.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dừng lại để giúp đỡ những ai đang cần đến chúng ta, hãy biết chia sẻ với những khó khăn của tha nhân.

Hình ảnh vô tâm của thầy Tư Tế và Lê vi vô cảm như là lời nhắc nhở chúng ta đừng vô tâm với người thân cận của mình. Chúng ta có thể tốt với bạn bè, lịch thiệp với đồng nghiệp tại sao ta lại không đối xử tốt với người thân trong nhà? Chúng ta quảng đại từ thiện chỗ này, rộng rãi với chỗ kia sao chúng ta không dành sự quan tâm chia sẻ cho những người đang sống bên cạnh chúng ta?

Ước gì trong năm mục vụ với chủ đề đồng hành với gia đình khó khăn sẽ là lời nhắc nhở chúng ta đừng để gia đình mình trở thành gia đình khó khăn vì chính thái độ vô tâm thiếu trách nhiệm của mình. Hãy quan tâm tới người thân của mình đừng để thiên hạ nói: “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”. Nguyện xin Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì chúng ta, xin giúp cho chúng ta cũng biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta.   Amen

Về mục lục

.

TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN CẬN

Bông hồng nhỏ

Cuộc sống luôn mang đến cho ta những bài học làm người. Nếu chỉ dừng lại trên những kiến thức ta lĩnh hội được, việc làm người sẽ không trọn vẹn, điều cần thiết hơn cả là những hành động yêu thương cụ thể. Đã hơn một lần ta kinh nghiệm rằng, làm một hành động yêu thương thì khó hơn là nói một lời yêu thương.

Hôm nay, có một người thông luật đã đến hỏi Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10, 25). Thầy Giêsu đã để ông tự trả lời khi gợi mở: “Trong Lề luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” (Lc 10, 26). Ông nói rõ ràng từng điều một, rất chính xác: “Ngươi phải  yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10, 27). Thầy Giêsu cũng mời gọi ta như mời gọi người thông luật: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Người ta có thể đánh lừa người khác bằng sự thánh thiện bề ngoài khi siêng năng “giữ đạo”, nhưng Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng người đã luôn đòi hỏi mỗi người Kitô hữu phải “sống đạo”. Khi lòng ta thực lòng yêu mến Thiên Chúa thì chính Người sẽ ban cho ta khả năng yêu mến người khác. Một người yêu mến và kính sợ Thiên Chúa sẽ không ngừng thực thi lòng thương xót đối với người khác. Để yêu thương thật tâm, với sức riêng ta không thể làm được. Bởi chính khi chỉ cậy dựa vào sức mình, ta cũng yêu thương người khác, nhưng tình yêu ấy đã chỉ dừng lại trên ý muốn  của ta, ta chưa yêu như Thầy Giêsu đã yêu. Tình yêu của ta hoàn toàn vị kỷ. Bằng cách ở lại bên Chúa Giêsu Thánh Thể, ta sẽ được Người dạy cho biết yêu thương đến cũng và vô vị lợi.

Ai là người thân cận của tôi? Đó cũng là câu hỏi làm ta băn khoăn, trăn trở. Thầy Giêsu đã kể một dụ ngôn về người Samari nhân hậu. Người này đã thực thi lòng thương xót đối với người bị rơi vào tay kẻ cướp khi dừng lại, cúi xuống để xức dầu và rượu, băng bó vết thương cho người anh em của mình. Lời Chúa hôm nay mời gọi ta “hãy đi” để rời khỏi vị trí của mình, nơi mà ta đã chỉ lo lắng cho sự an toàn của bản thân, chỉ dừng lại để nghĩ tốt cho mình; “hãy đi” để ra khỏi cái nhìn hạn hẹp, ích kỷ, để nhìn sang, nhìn xuống và nhìn đến người đang ở bên cạnh ta. Họ là những người  nghèo của Chúa, những người Chúa muốn ta “trở nên người thân cận” của họ. Để khi đã đi ra khỏi mình, ta mới có thể bắt tay vào việc trở nên người thân cận của tất cả mọi người, “tất cả” bắt đầu từ những người cụ thể. “Cứ làm như vậy”, đó là lời mời gọi rất khẩn thiết mà mỗi ngày Thầy Giêsu vẫn không ngừng nói trong tâm hồn ta.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu! Xin mở rộng trái tim con mỗi ngày để tình yêu Chúa thấm vào lòng con. Xin đốt lòng con yêu mến Chúa và xin giúp con biết mở ra trước sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần và hết lòng yêu mến Chúa, để chính Người sẽ dạy con biết trở nên người thân cận của anh em mình. Những gì Chúa đã ban cho con, con xin dâng lại cho Chúa để danh Chúa được cả sáng hơn. Amen.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Sống  trên đời nếu ai đó không sống, không cảm nghiệm tình yêu thì khó lòng có thể hiểu tình yêu là gì ! Thường người ta thích, cảm tình với người yêu mình, với người thiện cảm hay quan tâm tới mình.Tuy nhiên đối với người môn đệ của Chúa, người Kitô hữu, Chúa đòi hỏi con người chúng ta phải đi xa hơn nữa.Chúa bảo chúng ta phải yêu hết mọi người, chính bản thân mình.yêu thương ngay cả thù địch.Đức Giêsu nói :” Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn…”, đối với người lân cận, chúng ta hãy xem Chúa đưa ra dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu để trả lời vị thông luật cũng như cho mọi người qua muôn thế hệ là “ hãy yêu mến người thân cận như chính bản thân mình “ ! Đúng là một đòi hỏi đầy tình nghĩa, một sự đáp trả đầy tình thương, đầy tình người…

Dụ ngôn về người Samaria nhân hậu mang ý nghĩa cao vời,nhân văn sâu xa và đầy tình yêu thương, bác ái. “ Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp đánh ?”- Chúa đặt câu hỏi với người thông luật và ông đã mau mắn thưa lại với Chúa Giêsu:” Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót “. Chúa Giêsu bảo ông :”…Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy “ ( Lc 10,37 ).Người Samaritanô nhân hậu đã không chỉ nói trên đầu môi chóp lưỡi, nói mà không làm. Ông đã thi hành đức ái và tình thương tuyệt vời đối với người bị cướp đánh dở sống dở chết. Ông đã nói và hành đông. Ngôn hành đi đôi.Người Pharisêu, người Do Thái đã qui định tình yêu thương đối với người khác. Họ bóp méo giới luật yêu thương của Thiên Chúa. Đối với họ, họ đã bóp méo luật bác ái, yêu thương, họ đã quá tỉ mỉ, cố bóp méo tình yêu thương. Họ chỉ yêu phe họ, những  người yêu họ, thiện cảm với họ. Chúa Giêsu qua dụ ngôn này đã phá đổ rào cản mà các Kinh sư, Luật sĩ, Pharisêu núp bóng để tránh thực thi luật bác ái yêu thương.Trong đoạn Tin Mừng này cho chúng ta thấy cái trớ trêu của các thầy Tư tế và Lêvi, những thầy dạy sống yêu thương lại tránh lối khác mà đi khi đối diện với người bị nạn. Sở dĩ các thầy Tư tế và Lêvi tránh người bị nạn ví họ chỉ nói mà không làm, họ sợ bị lây nhiễm, phiền hà, sợ đụng vào xác chết, sợ bọn cướp và nhất là chỉ nói ngoài môi miệng, sống giả hình vv…Còn người Samaritanô dù là người ngoại giáo, không phải là chức sắc, chức việc , nhưng ông đã biết dừng lại để làm cái  điều mà tiếng lương tâm đòi buộc là thực thi tình nhân loại, đức thương người.Hành động của người Samaritanô thật cao quý biết bao, vì ông đã vượt qua giới hạn mà các thầy Tư tế và Lêvi phải làm nhưng đã không làm. Vâng, người Samaritanô đã trở nên bạn với người bị nạn. Bởi vì, người ta có thể trở nên huynh đệ, anh em với nhau khi con người biết cảm thông, quảng đại, tha thứ …Vì yêu thương không có nghĩa là cho tha nhân tiền của, vật chất nhưng là sống bác ái với nhau. Thầy Tư tế và Lêvi đã sống hoàn toàn xa lạ đối với người đồng loại, họ đã làm ngơ với người bị nan khi hằng ngày họ vẫn rao giảng sống bác ái yêu thương. Ngôn hành của họ thực bất nhất. Họ nói mà không làm đúng như lời Chúa nói.

 Chính vì thế, có sống yêu thương, con người mới hiểu được hai chữ yêu thương. Người Samaritanô nhân hậu chính là hình ảnh của Chúa Giêsu.Vì yêu thương nhân loại, Người đã hóa kiếp làm người để sống vì, sống cho nhân loại, sống cho con người. Người đã hủy mình ra không, sống khó nghèo, làm tất cả mọi sự, thậm chí làm những việc vượt quá sự mong đợi của con người miễn sao con người được hạnh phúc.Chúa Giêsu chính là quà tặng tình yêu vô giá Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, cho con người.Tình yêu của Chúa chính là sự tự hiến chết cho ngươi mình yêu :” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15,13 ).

Đạo Công giáo là Đạo tình yêu. Người Kitô hữu phải thể hiện Đạo Tình Yêu bằng chính đời sống bác ái yêu thương của mình theo gương Đức Giêsu. Mỗi Kitô hữu phải sống tình yêu thương bác ái bằng những việc làm cụ thể, bằng những hành động tỏa sáng. Nếu không, họ chỉ là Kitô hữu giả hiệu như thầy Tư tế và Lêvi đã rao giảng tình thương nhưng không sống tình thương. Yêu thương là tự hiến, hy sinh chết đi cho người yêu được sống.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã làm gương cho chúng con bằng chính sự hy sinh tự nguyện, dám chết cho nhân loại, cho chúng con để cho tất cả người Chúa yêu được sống. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết sống như Chúa để mọi người khi gặp chúng con họ cũng nhận ra Chúa đang hiện diện trong chúng con.Amen.

GỢI Ý  ĐỂ CHIA SẺ :

1.Người Samaritanô nhân hậu là ai ?

2.Tại sao Thầy Tư Tế và Lêvi lại tránh người bị nạn mà đi đường khác ?

3.Yêu thương đối với Chúa Giêsu là gì ?

4.Tại sao không cảm nghiệm yêu thì lại không hiểu được thế nào là yêu ?

5.Đạo Công Giáo là Đạo gì ?

Về mục lục

.

ĐẠO LÀM CON CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn

Đức Hồng Y G.B. Phạm Minh Mẫn khi còn làm Tổng Giám mục Sài Gòn đã từng đưa ra câu hỏi: “Người Công Giáo là ai?” Ngài đã trả lời từ cái nhìn bên ngoài về người công giáo: “Là người theo đạo yêu thương”, “là người đi nhà thờ”, “là người của Thiên Chúa”… Tuy nhiên Ngài cũng đưa ra một “định nghĩa mới” về người công giáo: “Căn cứ vào những trải nghiệm ở chiều sâu đời sống đạo, người công giáo còn được định nghĩa là người cảm nhận mình được Chúa thương, đồng thời ý thức ân huệ đó đã trở thành luật căn bản cho cuộc sống làm người. Nói cách khác, trọng tâm của đạo làm người là yêu thương người khác như Thiên Chúa yêu thương. Vì thế, trong quan hệ với Thiên Chúa, cũng như trong quan hệ với đồng đạo, đồng bào, đồng loại, người công giáo chân chính là người chu toàn bổn phận hàng đầu là lấy tình thương đáp trả tình thương”. Trọng tâm của đạo làm người, nhất là đạo làm người Công giáo là yêu thương người khác.

Đoạn Tin Mừng này là lời giải đáp cho những người muốn thử thách Đức Chúa. Ông luật sĩ đã biết con đường để lên trời là mến Chúa, yêu người mà còn hỏi thử ĐG. ĐG hỏi ngược lại để chính ông nói lên điều răn của Đức Chúa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi… và yêu người thân cận như chính mình”. Ông luật sĩ lại muốn thử xem người thân cận trong đạo của ông Giêsu này là ai, vì đối với người Do Thái quan niệm người thân cận rất hạn hẹp, chỉ là những người bà con và đồng đạo. Thay vì định nghĩa “người thận cận” là ai, ĐC đã chứng minh “người thân cận” là thế nào: là người không phân biệt bà con, lương giáo, quan điểm, thành phần xã hội… mà là người biết thực thi tình bác ái.

Tư Tế và Lêvi trong đoạn Tin Mừng này chính là Phó Tế và Linh mục ngày hôm nay. Luca ghi rất rõ, Thầy Sáu thấy người bị cướp: “Trông thấy người này, ông tránh qua một bên”. Linh mục, cũng vậy, “cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi”. Phải chi người Samari, là một người dân ngoại “cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi”, thì đỡ xấu hổ biết bao nhiêu. Đằng này ông ấy cũng đi ngang con đường đó, cũng thấy, nhưng khác nhau ở chỗ là “chạnh lòng thương”. Vì vậy ông đã dừng lại làm những hành động mà Tư Tế và Lêvi của đạo Do Thái không dám làm vì sợ vi phạm lề luật khi nghĩ rằng mình đụng đến xác chết, hoặc sợ trễ công việc của mình. Còn người Samari thì chỉ biết tìm cách giúp đỡ nạn nhân mà không sợ mất giờ, mất công, mất của. Rõ ràng Thầy Sáu và Linh Mục giữ luật trên sách vở, còn người Samari giữ luật trong tim.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không? để gió cuốn đi”. Tấm lòng chính là đạo yêu thương, không bám víu, không nặng nề, mà rất nhẹ nhàng, thanh thoát để gió có thể cuốn đi bất cứ nơi nào cần tình yêu thương. Tấm lòng đó còn có thể gọi là lòng tốt. Lòng tốt được nhận thấy ở những điểm sau đây:

1. Lòng tốt tự phát là lòng tốt đã ăn sâu vào con tim, đã trở thành máu thịt và hơi thở của con người, để gặp một hoàn cảnh đáng thương, nó sẽ bộc lộ một cách hết sức tự nhiên và dễ dàng.

Lòng tốt này chúng ta nhận thấy nơi ĐG, tự nhiên thấy đám đông bơ vơ cũng “Chạnh lòng thương”,  tự nhiên thấy chiều tới là kêu các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”

Lòng tốt này chúng ta thấy nơi hình ảnh của người Samari nhân hậu trong bài Tin Mừng hôm nay. Tự nhiên thấy người ta bị nạn, nhào xuống lấy dầu, lấy rượu xức, băng bó vết thương, còn chở vào quán trọ, bỏ tiền ra nhờ người ta chăm sóc vì mình có việc gấp phải đi.

Lòng tốt này tôi cũng nhận thấy nơi hình ảnh bà già trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Tự nhiên dựng một cái chòi lá sát mé lộ, để một sạp tre, một lu nước mưa. Con cháu hỏi để chi vậy? Bà nói để người ta đi đường có mỏi vào nghỉ, có khát vào uống. Ban đêm đốt cái đèn dầu treo toòng teng trong cái chòi. Người ta hỏi treo chi vậy? Bà nói treo cho người đi đường khỏi sợ ma, đi đêm mà thấy ánh sáng cũng an tâm, cũng ấm lòng hơn.

Lòng tốt này không nhiều nhưng chúng ta cũng thấy trong cuộc sống. Tự nhiên thấy người ta nghèo cũng thương, nghe người ta kể khổ cũng khóc, có nhiêu tiền cũng móc cho người ta. Tôi đang đi với một người, bỗng thấy anh hối hả qua bên kia đường, không biết chuyện gì? À, thì ra anh đi qua cho bà già ăn xin ít tiền. Bà đâu có kêu la, vậy mà anh vẫn thấy.

Lòng tốt tự phát này, người đời có thể gọi là “lòng tốt lãng xẹt”. Lòng tốt này không phải muốn là được, không phải tập một ngày một bữa là có, mà nó là kết quả của những việc tốt nho nhỏ hằng ngày được dệt kết trong ý thức mình là con Chúa, phải sống đạo yêu thương. Phần thưởng của lòng tốt tự phát này không gì khác hơn là niềm vui được làm thêm “những việc lãng xẹt”. Ví dụ, một đám bạn đi trước sân nhà thờ, một đứa nhào tới lấy miếng giấy hốt cục phân chó. Mấy đứa kia cười ha hả: “Thứ gì thấy cứt chó như thấy bánh!” Đối với người đời đó là “chuyện lãng xẹt”, còn đối với những ai có được lòng tốt tự phát đó, lại là một niềm vui, một niềm hạnh phúc. Một đám bạn chạy xe trên đường. Một đứa bỗng dừng lại, qua lộ, dắt bà già qua đường. Mấy đứa kia nói: “Rãnh quá hé!” Họ không mong chờ phần thưởng nào khác hơn là được làm nhiều những “chuyện lãng xẹt!”

2. Lòng tốt không giới hạn là không phân biệt thành phần, đối tượng, đẳng cấp; không ranh giới gia đình, họ đạo, có đạo hay không có đạo… nhưng là lan tỏa cho tất cả mọi người, mọi thành phần, mọi ranh giới.

Đụng xe cái rầm trong xóm đạo, mọi người nhào ra xem, hai người bị thương như nhau. Bỗng một người la lên: “Thằng này đeo thánh giá, đem nó đi trước, còn thằng kia đeo ông Phật, để đó tính sau”. Đó là giới hạn của tình yêu.

Cha Piô Ngô Phúc Hậu kể chuyện: Ông Năm có hai bà vợ, người ta gọi là bà Năm lớn, bà Năm nhỏ. Từ khi ông Năm chết, hai bà Năm về sống chung nhà. Một hôm cha Hậu lại thăm bà Năm nhỏ, tặng bà một xâu chuỗi. Bà xin thêm một xâu nữa cho bà Năm lớn. Ai nói tình yêu không thể san sẻ đâu?!

Họ đạo nọ cha sở khó lắm, nên có người không thương cha. Ngược lại cha phó rất vui vẻ, hoạt bát, dễ thương. Một hôm cha phó đi thăm một bà già bệnh tật trong họ đạo. Khi cha về, bà nói: “Con sẽ cầu nguyện cho cha”. Cha phó nói: “Cầu nguyện cho cha sở nữa”. Bà già trả lời: “Không, cha sở khó quá, con không cầu nguyện cho cha sở. Cha phó dễ thương, con cầu nguyện cho cha phó!” Cha phó bảo: “Nếu bà không cầu nguyện cho cha sở thì tôi không đến thăm bà nữa!” Bà già nói: “Vậy con sẽ cầu nguyện cho cha sở, cha phó luôn, nhưng cha phó nhiều hơn!”“Vậy cũng được!”– cha phó trả lời cho bà ta. Cha phó đang tập cho giáo dân mình biết sống tình yêu thương không giới hạn.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay làm nỗi bật chủ đề yêu thương, đó là đạo làm người, và nhất là đạo làm con Chúa. Tình yêu thương này phải là một tình yêu thương tự phát và không có giới hạn. Nghĩa là nó trở thành nhịp thở của trái tim ta, nó trở thành phản ứng tự nhiên của ta.

Xin ơn Chúa giúp qua lời bầu cử của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và cha Phanxicô Trương Bửu Diệp cho mỗi người chúng ta luôn ý thức để sống đạo làm người, đạo làm con Chúa qua việc trau giồi đời sống yêu thương

Về mục lục

.

ĐỨC KITÔ LÀ TỘT ĐỈNH VÀ SỰ KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Đnl 30:10-14;  Cl 1:15-20;  Lc 10:25-37)

          Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua việc Người muốn luôn luôn cải thiện mối tương quan giao ước với nhân loại.  Ôn lại lịch sử cứu độ, chúng ta biết sự cải thiện ấy đã xảy ra nhiều lần:  nào là biểu tượng cầu vồng sau cơn lụt đại hồng thủy, nào là phép cắt bì khi Thiên Chúa kêu gọi Áp-ra-ham, rồi tới Mười Điều răn Người ban cho dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê.  Sau đó là các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến để nhắc nhở dân Người hãy trung thành với Người.  Bước cuối cùng để cải thiện mối tương quan với nhân loại là sự kiện Thiên Chúa sai Con Một đến làm dấu hiệu sống động bày tỏ tình yêu Người yêu thương chúng ta.  Lề Luật là những lời trên bia đá hoặc sách vở.  Còn Chúa Ki-tô là bộ luật bằng xương bằng thịt sống giữa nhân loại như người con đích thực của Thiên Chúa.  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về người con ấy.

          Trước hết chúng ta hãy nghe chính miệng ông Mô-sê giải thích về Lề Luật Chúa như thế nào.  Ở đây khi nói với dân Ít-ra-en, ông Mô-sê nhấn mạnh đến tính cách thực dụng của Lề Luật.  Thứ nhất, ông Mô-sê minh định:  “Mệnh lệnh (Luật Thiên Chúa) tôi truyền cho anh em hôm nay đây không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em”.  Lề Luật là mệnh lệnh và thánh chỉ của Thiên Chúa giúp chúng ta thể hiện tốt đẹp mối tương quan với Người.  Nhưng nếu đó là những “gánh nặng” đặt trên vai chúng ta (Mt 23:4), hoặc là những điều không thích hợp với khả năng của ta, thì Lề Luật ấy chẳng ích lợi gì cả và cũng chẳng làm cho mối tương quan của ta với Chúa được phát triển chút nào. Thứ hai, ông Mô-sê giải thích rằng Lề Luật ấy là do Thiên Chúa ban và Người đặt Lề Luật ấy “ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”.  Quả là thực tiễn.  Luật Chúa không chỉ là lời nói ngoài miệng, mà phải là những gì chúng ta tâm niệm trong lòng, để thúc đẩy và hướng dẫn ta hành động theo ý Chúa.  Đây cũng chính là điều Chúa Giê-su đã từng lập đi lập lại để giúp các môn đệ Người không những đón nghe lời Chúa, mà còn đem ra thực hành nữa.

          Thiên Chúa đã ban cho dân Người các Điều răn được khắc trên bia đá và đặt chúng ngay trong lòng họ, cốt để giúp họ sống xứng đáng là dân được Người tuyển chọn.  Tuy nhiên Thiên Chúa còn muốn ban cho toàn thể nhân loại một bộ luật sống bằng xương bằng thịt, đó là Chúa Ki-tô được chiêm ngưỡng trong đoạn thư Cô-lô-xê chúng ta nghe hôm nay.  Thánh Phao-lô giới thiệu Chúa Ki-tô như “trưởng tử” của nhân loại, hoặc nói theo ý nghĩa thần học, Chúa Ki-tô là khuôn mẫu tạo dựng mà Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta phải theo.  Chúa dựng nên chúng ta, nhưng chúng ta đừng hiểu việc tạo dựng ấy chỉ đơn thuần là việc chúng ta được thụ thai trong lòng mẹ, rồi lớn lên và cuối cùng là chết.  Chúng ta được dựng nên, đó phải là một tiến trình phát triển theo khuôn mẫu Chúa Giê-su, Đấng “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40, 52).  Chúng ta được dựng nên có nghĩa là chúng ta không những lớn lên về thể xác, mà tinh thần và đạo đức cũng phải đạt tới “tầm vóc viên mãn” của Chúa Ki-tô nữa (Ep 4:13).

          Chúng ta đã nghe ông Mô-sê nói về tính thực tiễn của Lề Luật.  Rồi thánh Phao-lô cống hiến chúng ta hình ảnh Chúa Giê-su là Lề Luật giúp ta sống đời sống mới trong sự thánh hóa của Chúa Thánh Thần và trở nên giống Chúa Ki-tô.  Nhưng đặc biệt nhất là bài Tin Mừng Lu-ca đã diễn tả Chúa Giê-su vừa là Đấng ban Lề Luật vừa là mẫu gương thực hành Lề Luật.  Khi trả lời câu hỏi của Chúa “Trong Luật đã viết gì?  Ông đọc thế nào?”, người thông luật đã liên kết chặt chẽ hai điều răn mến Chúa cùng yêu tha nhân và được Chúa tán dương.  Nhưng đó mới chỉ là nói về Lề Luật trên lý thuyết thôi!  Ông là nhà thông luật thì Luật “viết” gì mà ông chẳng đọc chẳng biết!  Nhưng từ cái biết đến thực hành là con đường dài, nên Chúa Giê-su đã bổ túc câu trả lời của ông ta bằng cách đưa ra phương pháp sống những điều mình biết.  Chúa kể dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu cho ông nghe, rồi Người kết luận:  “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.  Đây cũng là lời nhắn nhủ dành cho nhóm Pha-ri-sêu nói riêng và cho tất cả chúng ta nói chung.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Lời Chúa hôm nay trình bày vấn đề thật sâu sắc.  Cũng như người thông luật trong bài Tin Mừng, chúng ta đều hỏi Chúa:  Thưa Thầy, con phải làm gì để được sống đời đời?  Có lẽ Chúa không cần khảo bài giáo lý chúng ta, nhưng Người sẽ tùy theo cá tính hoặc tình trạng đời sống thiêng liêng của ta để kể cho ta nghe một câu chuyện đã xảy ra trong đời sống của ta.  Chúa sẽ nói cho ta biết cách hành xử của ta nên có trong câu chuyện ấy, giống như Người đã chỉ cho nhà thông luật cách tỏ lòng thương xót đối với anh chị em như thế nào.  Đợi cho chúng ta thấm bài học, Chúa sẽ dịu dàng bảo chúng ta:  Con hãy đi và cũng hãy làm như vậy.  Chúa Giê-su là Mô-sê Mới, nên các Điều răn Người ban cho chúng ta cũng là những Điều răn mới.  Mới không có nghĩa là khác với cũ, nhưng là mới trong cách sống và thực hành các những điều răn ấy.  Tột đỉnh và sự kiện toàn của Lề Luật chính là Chúa Giê-su và cách Người thực hành Lề Luật.  Người dạy ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, rồi Người chết trên thập giá để kiện toàn Lề Luật!

Về mục lục

.

TÌNH YÊU, CỐT LÕI CỦA KITÔ GIÁO

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong tác phẩm Quo Vadis của nhà văn Henry Sienkiewicz kể lại rằng: Một này nọ, một người ngoại giáo đến hỏi Thánh Phêrô khi ngài vừa tới Rôma: “Người Hy Lạp đem đến cho chúng tôi sự khôn ngoan, người La Mã chúng tôi có lề luật và quyền lực, còn tôn giáo của ông đem lại điều gì?” Thánh Phêrô không ngần ngại trả lời: “Tình yêu! Kitô giáo mang đến cho thế giới tình yêu.”

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XV giới thiệu với chúng ta một chủ đề đáng suy nghĩ, đó là: “Mến Chúa và yêu người.” Đây là luật mới và là cốt lõi của đời sống người Kitô hữu.

1. Mến Chúa trên hết mọi sự

Trong bài đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, qua môi miệng của Môsê, Thiên Chúa mời gọi dân Chúa hãy tuân giữ các giới răn và huấn lệnh của Người. Luật này không phải ở đâu xa xôi, nhưng là ở bên cạnh các ngươi, trên môi miệng và khắc ghi trong lòng các ngươi. Luật này đạt tới sự viên mãn nhờ và trong Đức Kitô (bài đọc II).

Cốt lõi của lề luật được tìm thấy trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn người, và hãy yêu thương anh em như chính mình” (Lc 10,27). Chúa Giêsu xác nhận đó là con đường dẫn tới sự sống đời đời.

Vậy, “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi” có nghĩa là gì? Xin thưa: có nghĩa là chúng ta phải đặt Thiên Chúa ở chỗ nhất trong bậc thang giá trị của cuộc sống. Theo đó, Thiên Chúa là ưu tiên số một, là quan trọng nhất trong mỗi suy nghĩ, phán đoán và hành động của đời ta, còn những thứ khác là thứ yếu. Và mỗi ngày ta sống theo chọn lựa đó, trong khi có những người bên cạnh có thể chọn tiền bạc, danh dự, quyền lực, hưởng lạc là chỗ nhất cho cuộc đời của họ.

2. Yêu người như chính mình

Nhưng chỉ mến Chúa thôi thì chưa đủ, mới chỉ được một nửa, chúng ta còn phải “yêu thương anh em như chính mình.” Ở đây, chúng ta để ý chữ “như chính mình” trở thành chuẩn mực: Đơn giản là chúng ta hãy xem mình đối xử với chính mình như thế nào thì cũng phải đối xử với người khác như vậy. Đức Khổng Tử dạy: “Đừng làm cho người khác những gì mà bạn không muốn làm cho mình.” Đức Giêsu còn đi xa hơn: “Hãy làm cho người khác những gì mà bạn muốn làm cho mình,” nhất là đối với những người đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Vì thế, theo tinh thần của Tin Mừng, chúng ta không được phép tìm mọi cách để đạp đổ và hạ bệ những người khác khi họ thành công, cũng không được phép vui mừng khi thấy họ gặp thất bại. Trái lại, chúng ta phải vui với người vui, khóc với người khóc!

Cũng cần chú giải thêm dụ ngôn: Vị tư tế và Lêvi đã không giúp đỡ người gặp nạn trên đường. Tại sao? Xét theo luật của Cựu Ước, thì họ không sai, họ đang giữ luật. Vì theo luật Do Thái, khi lên Đền Thờ thì mọi người, nhất là tư tế, luật sỹ phải giữ mình khỏi ô uế và phải sạch. Nên họ không được đụng đến máu, xác chết, không được vào nhà gặp gỡ người ngoại. Vì vậy khi làm như thế, hai vị này đang trung thành tuân giữ lề luật của Do Thái Giáo. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một sự mới mẻ. Đó là luật bác ái vượt trên mọi lề luật khác. Ai yêu thương là chu toàn lề luật. Và mến Chúa và yêu người là cốt lõi của Kitô giáo.

3. Hãy đi và làm như vậy

Như thế, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho Kark Marx, ông tổ của học thuyết cộng sản vô thần, khi ông nói rằng tôn giáo của chúng ta chỉ lo cho sự sống mai hậu nhưng lại sao nhãng bổn phận xây dựng cuộc sống trần thế. Có thể Marx đã có lý trên bình diện thực tiễn, khi ông không thấy có những Kitô hữu thực sự sống Tin Mừng vào thời ông, hay nói như triết gia Jacques Maritain rằng “nỗi đau của thế kỷ XIX là không phải có Marx, mà là không có những Kitô hữu giống như Marx.” Bởi lẽ, cốt lõi của Kitô giáo dạy chúng ta là yêu mến Thiên Chúa và từ đó hướng tới tha nhân, không phân biệt ai, hướng tới xây dựng xã hội bình đẳng, công bình và bác ái. Việc đến nhà thờ là để giúp chúng ta sống tốt hơn trong gia đình, nơi công sở, trong công việc chúng ta. Việc đọc kinh xem lễ không phải là để ẩn náu, thoát đời một cách ích kỷ, nhưng là để tìm kiếm sự bình an cho tâm hồn mình, từ đó chúng ta mang bình an về trong gia đình và lan tỏa bình an đó ngoài xã hội.

Hãy đi và làm như vậy!” (Lc 10,37). Lời đó Chúa nói với người thông luật và hôm nay Người cũng nói với mỗi người chúng ta. Như người Samaritanô nhân hậu đã ưu tiên chọn bác ái là trên hết, tất cả chúng ta cũng được mời gọi thực hành luật bác ái bằng việc làm cụ thể cho tha nhân. Bằng cách đó, chúng ta đang yêu mến Chúa, đang giữ luật và đang xây dựng thế giới này theo nền văn minh tình thương do Chúa Giêsu gợi hứng cho chúng ta hôm nay. Amen!

Về mục lục

.

HÀNG XÓM

Lm Vũđình Tưng

Nói đến hàng xóm, ai cũng có câu chuyện kể về hàng xóm. Người may mắn là người có hàng xóm tốt bụng. Hàng xóm tốt coi sóc nhà hàng xóm như của chính mình. Hàng xóm tốt giả hình là người ngày đêm rình rập nhà người với mục đích riêng. Sau năm 1975 có nhiều chuyện kể về người hàng xóm. Sống nơi xóm làng chuyện đôi co giữa hàng xóm nhỏ bằng con gà, lớn hơn là con lợn và đôi khi to bằng con trâu. Gà nhà bà sang vườn nhà tôi. Lợn nhà bác ủi sạch luống rau sau nhà. Trâu nhà bác ăn lúa nhà tôi. Tất cả đều là những chuyện nhỏ được nuôi dưỡng trở thành chuyện lớn.

Hàng xóm cũng là người đầu tiên đến giúp đỡ, ủi an khi gia đình gặp tai biến. Hàng xóm cũng là người khiêng người thân mình ra nghĩa trang. Thông thường chúng ta coi hàng xóm là những người sống gần nhà mình, cùng trong xóm ngõ. Theo đó í nghĩa hàng xóm giới hạn đến độ người chung chuyến xe với mình từ quê ra tỉnh không phải là hàng xóm, người ngồi đợi đến lượt hớt tóc không phải là hàng xóm. Dụ ngôn người Samaritanô cho biết Đức Kitô muốn thay đổi quan niệm giới hạn về hàng xóm. Theo Ngài, mọi người đều là hàng xóm. Đã là con người, dù xấu tốt, cùng lí tưởng hay khác chính kiến, người đó cũng là hàng xóm. Đức Kitô dậy: ‘Yêu Chúa hết sức mình… và yêu tha nhân như chính mình’ Lc 10,27. Nghe thế có người luật gia hỏi Đức Kitô, xin Ngài nói rõ hơn ‘Ai là người hàng xóm? c.29’.

Đức Kitô kể dụ ngôn một người đi đường bị cướp, còn bị đánh đập gần chết, để nằm dọc đường. Thầy Tư Tế đi qua lối đó, ông tránh sang một bên. Thầy Lêvi cũng trông thấy nhưng cũng tránh sang một bên. Cả hai đều không giúp nạn nhân. Người thương buôn thành Samaritanô trông thấy, ông ta xuống băng bó và gởi vào nhà trọ gần bên. Ông trả tiền cho chủ nhà trọ và hứa khi xong việc nếu còn thiếu ông sẽ trả thêm. Đức Kitô hỏi người luật gia, trong ba người ấy ai là người hàng xóm? (c.37). Người luật gia đáp người Samaritanô. Đức Kitô bảo ông. Đúng thế anh hãy đi và làm như vậy. Dụ ngôn cho biết người Samaritanô lần đầu tiên gặp nạn nhân và ông động lòng thương ra tay giúp đỡ, coi người đó như hàng xóm, bất kể người đó xấu tốt ra sao. Lòng nhân ái, thương người của ông vượt qua ngôn ngữ, màu da, phái tính và ngay cả quá khứ của nạn nhân. Câu chuyện cho biết tất cả đều là hàng xóm. Thầy Tư Tế, thầy Lêvi, và ngay cả bọn cướp đều là người hàng xóm. Thầy Tư Tế và thầy Lêvi là những người hàng xóm coi trọng luật, Họ cố gắng giữ mình khỏi bị ô uế khi chạm vào bệnh nhân mình mẩy bê bết máu. Vì lí do đó mà cả hai đều tránh sang một bên không giúp đỡ nạn nhân. Bọn cướp là hàng xóm rình rập, chỉ biết đến lợi nhuận, coi tiền bạc trọng hơn mạng sống người khác. Người Samaritanô là người có lòng thương tha nhân như chính mình và ông ta là mẫu người hàng xóm mà Đức Kitô kêu gọi mọi người sống theo hành động bác ái đó. ‘Yêu người như yêu ta’.

Dụ ngôn người Samaritanô còn dậy khôn về cách xử dụng tiền bạc, của cải. Không đủ tiền để sống chính mình là nạn nhân; khi tiền bạc dư giả người khác là nạn nhân. Nhan nhản trong xã hội khi thành công gia đình tan rã, ăn chơi, lên mặt dậy đời, ra lệnh cho người này, sai bảo kẻ nọ làm điều sai trái. Dùng tiền bạc hối lộ xuyên tạc sự thật, dùng quyền thế bao che hành vị tội ác. Người Samaritanô hành xử hoàn toàn khác, ông dùng tiền bạc của mình để cứu người. Ông không mong nạn nhân trả lại. Ông không mong chủ nhà trọ giảm giá. Ông ước mong nạn nhân được chăm sóc chu đáo vì thế ông hứa khi xong việc nếu cần phải trả thêm phí tổn ông sẵn sàng. Điều này chứng tỏ ông coi mạng sống con người trọng hơn tiền bạc. Ông dùng tiền một cách khôn ngoan, dùng tiền bảo vệ sự sống. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết cách xử dụng của cải Chúa ban cách khôn ngoan.

Trên phương diện lớn hơn, phương diện quốc gia. Nếu lãnh tụ các quốc gia trên thế giới học được bài học này, sống theo phong cách của người thành Samaritanô, chắc chắn sẽ không có chiến tranh biên giới, sẽ không có tranh chấp Biển Đông, sẽ không có đặc khu kinh tế, sẽ không có chạy đua vũ khí. Như thế tiền thay vì dùng vào việc chế tạo, chạy đua vũ khí, hoả tiễn đầu đạn nguyên tử, tầu ngầm, máy bay tàng hình, được chuyển vào quĩ giáo dục, bệnh viện và cứu đói sẽ dồi dào, do đó đời sống dân nghèo sẽ thoải mái, thảnh thơi hơn cuộc sống hiện tại.

Về mục lục

.

SỐNG ĐỜI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Làm gì được sống đời đời?
Một thầy thông luật, ngỏ lời xin thưa.
Chúa rằng yêu mến luật xưa,
Hết lòng mến Chúa, cả vừa trí khôn.
Linh hồn hết sức kính tôn,
Anh em thương mến, đồng môn như mình.
Trả lời chính xác đồng tình,
Thi hành trọn vẹn, phúc vinh sống đời.
Ai là bạn hữu trên đời?
Dụ ngôn Chúa dậy, tuyệt vời lắm thay.
Một người bị cướp không may,
Dập vùi đánh đấm, nằm ngay vệ đường.
Không ai giúp đỡ dủ thương,
Tình cờ tư tế, đường trường vượt qua.
Nạn nhân khổ nạn kêu la,
Tiếp theo trợ tế, đi qua không nhìn.
Nằm yên một chỗ van xin,
Có người ngoại giáo, niềm tin không ngờ.
Giúp cho người lạ đang chờ,
Anh em của Chúa, bến bờ yêu thương.

Chúa Giêsu đã kể câu truyện về một người rơi vào tay bọn cướp bị đánh nhừ tử và đã được một người ngoại giáo thương giúp đỡ. Hành vi bác ái của người ngoại giáo là bài học tình liên đới con người với nhau. Qua việc bác ái yêu thương, mọi người trở thành anh chị em với nhau. Chúng ta là đồng loại. Một người ngoại giáo được nêu gương soi cho mọi người về việc bác ái yêu thương.

Anh chị em của tôi là ai? Có thể là những người trong gia đình, họ hàng, cùng quê hương xứ sở, cùng màu da, tiếng nói, dân tộc và cùng tôn giáo. Chúa Giêsu đi vượt qua tất cả các giới hạn đó. Chúa đi vào lòng con người, tình anh chị em được thể hiện qua chính sự yêu thương chia xẻ. Chúng ta cùng có một Cha trên trời, Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật. Chúa cho mưa nắng thuận hòa trên hết mọi người. Chúng ta cùng nhận lãnh nguồn sống từ Thiên Chúa. Chúng ta đều mắc nợ nhau, mắc nợ tình yêu mến.

Trong cuộc sống xã hội, con người đã tự đặt ra nhiều ngăn cách với nhau. Họ phân chia lãnh thổ, tạo ra biên giới và xây tường ngăn cách. Các quốc gia dân tộc cũng thế, họ giới hạn bờ cõi, quốc tịch, quyền công dân và các đặc quyền riêng từng nước. Các tôn giáo cũng bị ảnh hưởng trong các tổ chức trần thế, có các tín điều, nghi thức, thủ tục, luật lệ và truyền thống. Con người xã hội còn rất nhiều những phân biệt về văn hóa, niềm tin, tục lệ và thêm sự kỳ thị chủng tộc, mầu da và ngôn ngữ…Tất cả những rào cản đó làm con người tự xa lạ với nhau.

Chúa Giêsu muốn nối kết tất cả mọi người trở thành một gia đình nhân loại. Chúa dậy rằng: Ai nghe và thực hành lời Chúa, người đó là anh chị em và là mẹ của Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu mở thêm cánh cửa để mọi người kết thành anh chị em với nhau. Đó chính là việc thực hành bác ái yêu thương. Bác ái không phân biệt kẻ sang và người hèn, kẻ giầu và người nghèo. Bác ái bao trùm tất cả. Chúng ta sống chung và đồng hành với người khác. Đời của chúng ta là một chuỗi mang ơn. Đã có những lần chúng ta sa cơ lỡ bước, những lần chúng ta rơi vào cảnh không nhà, không cửa, đã có những lần chúng ta bơ vơ giữa chợ đời và đã có những bàn tay nhân ái đưa ra phụ giúp chúng ta.

Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không, hãy cho nhưng không. Hãy rộng tay giúp đỡ những kẻ kém may mắn hơn chúng ta là những trẻ mồ côi, người khuyết tật, kẻ phong cùi, người già nua góa bụa và những người không có nơi ăn chốn ở… Những người này là anh chị em của chúng ta. Chính họ đang giúp chúng ta trên đường về nước Chúa.

Về mục lục

.

NGƯỜI TRONG BỐN BỂ THẬT LÀ ANH EM

JM. Lam Thy

Các bài đọc hôm nay (CN XV/TN-C) nói đến luật Bác Ái là kính mến Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân, đặc biệt trong việc giúp đỡ những người lâm cảnh khó khăn. Bài Đọc I (Đnl 30, 10-14) phân giải: Lề luật của Chúa đã được ghi khắc vào lòng chúng ta (lương tâm) để hướng dẫn chúng ta sống cho xứng đáng những con người đã được Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa, chúng ta cần đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Bài đọc II (Cl 1, 15-20) khẳng định: Chúa Giê-su cũng chính là Thiên Chúa thật, Người mặc lấy thân xác con người, đổ máu ra trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại và trở nên “trưởng tử mọi loài thọ sinh và là Đầu Giáo Hội.” Bài Tin Mừng (Lc 10, 25-37) kêu gọi người tín hữu phải thực hành Đức Bác Ái để được sống đời đời. Đó là yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương phục vụ tha nhân. Người Sa-ma-ri tốt lành là hình ảnh của những người biết thương cảm và hy sinh giúp đỡ mọi người, nhất là những người gặp hoạn nạn, dù người đó là ai.

Bài Tin Mừng (Lc 10, 25-37) trình thuật câu chuyện một người thông luật “hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Lại thêm một trường hợp những luật sĩ, kinh sư Pha-ri-sêu đến “thử” Đức Giê-su. Thay vì trả lời, Đức Giê-su lại hỏi ngược lại để xem thử ông ta “thông luật” đến cỡ nào: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ta đành tự trả lời câu hỏi của mình: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” (Lc 10, 28). Tới đó, Đức Giê-su mới trả lời thẳng váo thắc mắc lúc đầu của “nhà thông luật”: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

Cứ tưởng như thế thì “nhà thông luật” sẽ câm miệng, không ngờ ông ta lại “muốn chứng tỏ là mình có lý” để tiếp tục “thử” Đức Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Hỏi câu này, ông ta đã dựa theo lẽ thường tình thế sự vẫn quan niệm “người thân cận” là những người gần gũi, thân thiết như cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, họ hàng, bạn bè … (như trong từ “thân” vẫn thường dùng; vd : “thân nhân: người thân”, “thân phụ: cha”, “thân mẫu: mẹ”, “thân thích: họ hàng nội ngoại” v.v…). Và vì thế, Đức Giê-su phải kể một dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành” và từ dụ ngôn ấy, Người lại đặt câu hỏi để chính người thông luật tự tìm ra định nghĩa trả lời cho câu hỏi của mình.

Như vậy, “người thân cận” trong dụ ngôn của Đức Ki-tô không phải là họ hàng máu mủ ruột thịt, mà lại là một người xa lạ, một người bất chợt gặp trên đường đời. Nghe ra có vẻ nghịch lý, bất bình thường (một người chưa hề quen biết, bất chợt gặp trên đường mà lại được coi là “thân cận” ư?). Tuy nhiên, nếu suy cho cùng, thì sẽ thấy là mặc dù sống gần gũi nhau nhưng chưa chắc cha mẹ, anh em bè bạn đã thật sự thân thiết với nhau, nếu chưa thật sự yêu thương nhau. Đến ngay như vợ chồng đầu gối tay ấp, cũng không thiếu những trường hợp “đồng sàng, dị mộng” (chung giường, khác mộng), huống hồ. Chính Đức Giê-su cũng nói : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.” (Mt 13, 57 ), “Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10, 36).

Đức Ki-tô rất hay dùng cách nói mà ngày nay thường coi là biện pháp nghệ thuật đắc dụng, đó là biện pháp “tương phản” (nói trái với ý chính để làm nổi bật ý chính – vd : “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” – Mt 10, 34-36); hoặc “ám tỉ” (so sánh ngầm, vd: “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” – Mt 12, 33) ; hoặc “ẩn dụ” (ví ngầm, vd : “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.” – Mt 13, 31-32).

Và trong dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành” cũng vậy, Đức Ki-tô đã dùng biện pháp “tương phản”: Sự gần gũi (thân cận), nếu xét theo quan niệm “tĩnh”, thì thầy Tư tế và thầy Lê-vi là người đồng hương (cùng ở Giê-ru-sa-lem) và đồng đạo (Do Thái giáo) với người bị nạn, hẳn nhiên phải gần gũi hơn người Sa-ma-ri (là một dân ngoại) chỉ tình cờ đi ngang qua chỗ người bị nạn. Gần gũi như vậy nhưng thấy người bị nạn “nửa sống nửa chết” thì “lánh qua một bên mà đi”. Còn người xa lạ Sa-ma-ri thoạt trông thấy đã “chạnh lòng thương” và ở lại hết lòng cứu chữa người bị nạn. Vậy thì phải hiểu như thế nào về từ “thân cận”? Rõ ràng ở đây phải hiểu theo quan niệm “động”: nghĩa là thân cận hay không thân cận là do cách đối xử yêu thương hay không yêu thương đối với nhau. Tình yêu làm con người trở nên gần gũi nhau, còn sự thờ ơ, lãnh đạm tạo nên khoảng cách là điều tất yếu vậy.

Cũng chính vì người đời quan niệm chỉ có cha mẹ, anh em, họ hàng mới là người thân cận, nên Đức Giê-su Ki-tô mới dạy: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12, 48-50). Thi hành ý muốn của Chúa Cha là ý muốn gì? Không cần hỏi thì cũng đã sẵn câu trả lời: Đó là ý muốn “Đem Tin Mừng Cứu  Độ đến cho mọi người – nhất là những người nghèo khó, bệnh tật, tù tội… – bằng tình yêu, như Thiên Chúa Tình Yêu đã thực hiện cho nhân loại, thông qua chính Con Một của Người là Đức Giê-su Ki-tô.” Người Sa-ma-ri trong dụ ngôn tuy không thông luật, nhưng đã “làm theo ý muốn của Chúa Cha, Đấng ngự trên trời” vậy. Và người thông luật cuối cùng cũng đã thông hiểu vấn đề, nên Đức Ki-tô liền bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10, 37).

Lời Đức Giê-su nói với người thông luật cũng tương tự như lệnh truyền cho 72 môn đệ đi rao giảng: “Anh em hãy ra đi” (Lc 10, 3). Chính ở điểm này cho thấy câu chuyện người thông luật cùng với dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành có liên hệ với việc các môn đệ được Đức Giê-su sai đi rao giảng Tin Mừng. Người bảo người thông luật hãy ra đi và làm như người Sa-ma-ri (yêu thuơng tất cả mọi người, coi họ như người thân cận của mình). Khi sai các môn đệ đi rao giảng, Người cũng truyền: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà It-ra-en. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh  em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh  em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 6-8)

Người Ki-tô hữu chính là những môn đệ đã hơn một lần được Thầy Chí Thánh Giê-su truyền: “Anh em hãy ra đi và cũng hãy làm như vậy”. Khi được sai đi như thế, điều tiên quyết là phải từ bỏ chính mình và coi tất cả mọi người trên khắp năm châu bốn biển đều là người thân cận như anh em trong một gia đình (“tứ hải giai huynh đệ”). Một cách cụ thể: “Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa… Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc… Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người.” (Rm 12, 9-18).

Tóm lại, “Ki-tô hữu có thể nhìn bằng con mắt của Chúa Giê-su và chia sẻ tâm trí của Người, thiên hướng con thảo của Người, vì họ chia sẻ tình yêu của Người, vốn là Thần Khí của Người.” (Thông điệp “ÁNH SÁNG ĐỨC TIN – LUMEN FIDEI”, số 21). Vâng, hãy nhìn bằng “con mắt của Chúa Giê-su” – Con-Mắt-Tình-Yêu – như trong dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành”, mọi việc sẽ sáng tỏ. Đúng vậy, “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Ấy cũng bởi vì “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.” (1Ga 4, 20-21). Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY.

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Sống ở đời chúng ta đều mang một ước mơ là mong sao cho mình được bình an hạnh phúc, trường sinh bất tử. Nhà luật sĩ cũng nằm trong khát vọng đó nên tìm đến với Đức Giêsu để nói lên ước vọng của mình: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”. Đức Giêsu hỏi lại: “Ông đọc thấy trong sách luật có viết điều gì?”. Nhà luật sĩ trả lời ngay: “Hãy yêu mến Chúa hết lòng….. và yêu tha nhân như chính mình”. Đức Giêsu khen ông trả lời chính xác, và Ngài bảo: “Ông hãy đi, và làm như vậy”.

 Thế nhưng, xem ra ông chưa hài lòng nên thưa lại với Đức Giêsu: ” ai là thân cận để tôi yêu?”. Đức Giêsu không trực tiếp trả lời nhưng Ngài kể cho ông nghe câu chuyện người Samaria nhân hậu.

Đọc trong Tin mừng, chúng ta thấy có những người không có đạo, nhưng họ lại sống tinh thần đạo. Chẳng hạn như: Người vác đỡ thập giá cho Chúa trên đường lên núi Sọ là ông Ximong ngoại đạo. Người tỏ lòng biết ơn khi được Chúa chữa lành bệnh phong cùi là người ngoại đạo. Người tin nhận “Đúng ông này là Con Thiên Chúa”, là anh lính Rôma, ngoại đạo. Người có lòng thương cảm đối với nạn nhân trong dụ ngôn hôm nay cũng là người ngoại đạo. Trong khi đó Thầy Tư Tế, Thầy Lêvi là những người có đạo, những người rao giảng về đạo, nhưng lại không thi hành cốt lõi của đạo thánh Chúa.

Anh chị em thân mến,

Khi sống giữa nhân loại, Đức Giêsu đã không ngần ngại nhận chúng ta là anh em. Ngài là người Samaria nhân hậu đến trần gian để băng bó và chữa lành vết thương bầm dập vì tội lỗi, giúp con người trở về tình trạng thánh thiện nguyên thuỷ. Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an và ơn giải thoát cho con người.

Từ câu chuyện dụ ngôn trên, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta con đường dẫn đến sự sống đời đời là tình yêu. Tình yêu không đóng khung trong lề luật như thầy tư tế, như thầy Lêvi, nhưng tình yêu phải trải rộng ra không phân biệt màu da chủng tộc, giai cấp, tôn giáo. Tình yêu không dừng lại ở cảm xúc, nhưng ở hành động cụ thể như người Samaria đã làm trong Tin mừng hôm nay.

Nhìn vào cung cách sống của người xứ Samaria, chúng ta cần xem lại đời sống đạo của mình. Nếu chúng ta dự lễ đọc kinh hằng ngày như thầy Tư tế, như thầy Lêvi, mà chúng làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân… thì chúng ta mắc tội thiếu sót, đây là một trong bốn tội mà trước mỗi thánh lễ chúng ta đều thưa lên: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói việc làm và những điều thiếu sót”. Tội thiếu sót này Chúa nói rõ trong dụ ngôn nhà Phú hộ đối với Lazarô nghèo khó.

Bởi lẽ, có Lời Chúa dạy: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ Lời Thầy”. Đạo của Chúa là đạo tình yêu. Yêu Chúa, yêu người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Yêu Chúa đích thực thì phải yêu người. Thánh Gioan viết: “Ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối”. Còn đối với thánh Phaolô: “Yêu thương là giữ trọn lề luật”. Bởi vì, nếu không có tình yêu thì việc làm dù có tốt đến đâu cũng vô giá trị: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng: ” Chúng ta không thể an vui hạnh phúc, nếu ở đâu đó người hành khất Lazarô vẫn còn đứng chờ trước cửa nhà chúng ta”.

Người Samaria nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Anh đã cho đi mà không tính toán, không chờ đợi một lời cảm ơn nào, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống và thực thi yêu thương: “Hãy đi và làm như vậy”.

Trên thế giới ngày nay có quá nhiều người đau khổ cùng cực đủ mọi hoàn cảnh khác nhau. Chúa cần bàn tay chúng ta nâng đỡ những người đau khổ trên đường phố.

Chúa cần đôi chân chúng ta đi đến thăm viếng những người bệnh tật, những người bị con cháu bỏ rơi.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy là những Samaria nhân hậu; hãy là Gioan Thiên Chúa; hãy là Mẹ Têrêsa Cacutta…. biết chạnh lòng thương trước nỗi khổ của tha nhân. Hãy đem những mãnh đời đau thương dập nát về quán trọ của lòng mình, bằng  ánh mắt quan tâm, với đôi tay rộng mở.

Vậy, sau khi chúng ta được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, có Chúa ở với chúng ta. Xin cho chúng ta biết thể hiện niềm tin của mình bằng hành vi yêu thương người thân cận. Người thân cận được hiểu là người ta đang sống, đang gặp gỡ, đang mời gọi chúng ta cảm thông, nâng đỡ và yêu thương họ. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU KHÔNG BIÊN GIỚI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Ông Maisen, trước khi từ biệt dân Do thái để đi về đời sau, đã khuyên nhủ họ hãy quyết tâm theo Chúa bằng việc tuân giữ các giới răn của Ngài. Theo họ, luật Chúa ở bên ngoài họ và vượt trên sức họ, nhưng ông Maisen cho họ biết giới răn ấy không ở đâu xa mà ở ngay trong lòng họ (bài đọc 1). Đức Giêsu đã giản lược các giới răn ấy lại còn hai giới răn là “Mến Chúa và yêu người” (Tin mừng).

Đối với luật sĩ và biệt phái thì luật mến Chúa là quá rõ, ai cũng biết vì nó có ở trong kinh Schema mà người Do thái đọc hằng ngày; nhưng còn luật yêu người thì họ còn mù mờ : “Thế nào là yêu người thân cận như chính mình ? Người thân cận là ai” ? Chính vì vậy mà một người thông luật đến chất vấn Đức Giêsu xem người thân cận là ai ? Đức Giêsu không trả lời bằng lý thuyết xuông có thể gây tranh luận, Ngài dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu để nói cho người thông luật biết rằng : người thân cận không phải chỉ là người Do thái, mà là bất cứ ai không phân biệt giai cấp, mầu da, chủng tộc hoặc tín ngưỡng, đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.

Một khi đã công nhận “Tứ hải giai huynh đệ” : bốn bể là anh em thì mọi người phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, phải thực hành bác ái bằng những việc làm cụ thể chứ không phải chỉ ở trên đầu môi chót lưỡi. Mọi việc làm phải có tính cách vô vị lợi, không tính toán, bởi vì những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa và Ngài sẽ trả công cho xứng đáng và còn dư dật nữa.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài đọc 1 : Đnl 30,10-14.

          Lề Luật của Thiên Chúa được ghi trong Thánh Kinh. Lề Luật được truyền qua ông Maisen và Luật ấy không vượt quá sức con người, không cần tìm ở trên trời hay ngoài biển khơi mà ở sát bên con người, nơi miệng con người và ở ngay trong con người.

          Luật Maisen là phương tiện giúp dân Israel xây dựng một tình huynh đệ chân thành. Luật ấy không dựa trên những nguyên tắc trừu tượng, nhưng được khắc ghi trong lòng con người đến nỗi ai cũng biết, nên mọi người phải ra sức thi hành với lòng yêu mến.

          +  Bài đọc 2 : Cl 1,15-20.

          Tín hữu Côlôssê tuy đã tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng còn làm những việc trái với lòng tin đó. Vì thếù, thánh Phaolô đã khẳng định sự ưu việt của Đức Giêsu Kitô. Trước hết trong trật tự tự nhiên : Ngài siêu việt hơn các tạo vật, vì chính Ngài là đầu hết và chung cuộc của công trình sáng tạo.

          Còn trong trật tự cứu độ : Ngài là khởi nguyên mọi ơn cứu độ, vì Ngài giao hoà tạo vật với Thiên Chúa. Như vậy, địa vị của Đức Kitô là địa vị trung tâm, là Đấng trung gian duy nhất.

          Bởi vậy, muốn được cứu độ thì chỉ cần tin vào một mình Đức Giêsu Kitô, không cần nhờ bất cứ một tôn giáo hay thần thánh nào khác.

          +  Bài Tin mừng : Lc 10,25-37.

          Sách Luật gồm có 613 khoản. Người ta chưa đồng ý với nhau về câu hỏi : điều khoản nào trọng nhất. Vì thế, một thầy thông luật đã đặt ra cho Đức Giêsu một câu hỏi hết sức căn bản :”Điều răn nào trọng nhất” ? Đức Giêsu hỏi lại, và ông đã đáp trúng, đó là mến Chúa yêu người (Đnl 6,5; Lv 19,18). Nhưng vấn đề ông đặt ra là  “Tha nhân hay nguời thân cận là ai” ? Phải chăng, người thân cận chỉ là những đồng bào Do thái của mình ?

          Đức Giêsu trả lời bằng một dụ ngôn về một người Samaritanô nhân hậu đối với một người bị nạn, để Ngài có ý nói rằng người thân cận là bất cứ ai, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm…

          Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ mình ra là người thân cận đối với những người đang cần mình giúp đỡ (câu 36).

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG.

  1. Một câu hỏi.

Những người luật sĩ và biệt phái có ác cảm với Đức Giêsu, họ lợi dụng mọi dịp để bắt bẻ Ngài, cốt làm giảm uy tín. Dựa vào sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, một luật sĩ đến chất vấn Ngài trong câu hỏi :”Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”? Chắc ông tưởng rằng Ngài sẽ kể ra một lô những nghi lễ, những qui tắc mới lạ và sẽ làm giảm giá trị của Luật pháp. Nhưng ông ta giật mình nghe Ngài hỏi ngược lại :”Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào” ? Câu trả lời dưới hình thức hỏi lại đã tước mất khí giới của đối tượng. Tuy ông ta cũng khôn khéo trả lời rằng Luật pháp gồm tóm trong đòi hỏi kính Chúa yêu người. Ngài bảo :”Ông trả lời đúng. Cứ làm như vậy là sẽ được sự sống đời đời”.

  1. Một lời đáp.

          Người luật sĩ này đã quá hiểu về luật mến Chúa trên hết mọi sự vì đã có trong kinh Schema, trích ra từ Đệ nhị luật 6,5 mà người Do thái đọc mỗi ngày hai lần. Còn câu “hãy yêu thương thân cận như chính mình” thì không có trong kinh Schema, nhưng lấy ở sách Lêvi (10,18). Theo câu trả lời này, chứng tỏ luật sĩ này đã nhiều lần nghe Đức Giêsu giảng dạy về tính cách bác ái huynh đệ, nên khi trả lời  Ngài về luật yêu thương, ông đã tạm thời theo quan niệm của Ngài.

         Tuy thế, ông muốn gây lúng túng cho Đức Giêsu khi đặt cho Ngài câu hỏi :”Thân cận là ai” ? Bởi vì đối với mọi người Do thái “Thân cậm hay tha nhân” được hiểu là người đồng hương con cháu Abraham, còn những người khác mà mình tiếp xúc với người ta phải nghĩ thế nào ? Thay vì trả lời một cách lý thuyết hay gây tranh luận, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn để đưa đến một kết luận dễ dàng.

          Một người đi từ Giêrusalem đến Giêricô, một lữ khách không biết rõ quốc tịch bị cướp bóc lột và đánh nhừ tử nằm bên vệ đường. Tình cờ một tư tế đi qua trông thấy, ông tránh né và đi tiếp. Sau đó lại một thầy Lêvi đi qua trông thấy cũng tránh né. Sau cùng có một người dân ngoại Samaritanô đi qua trông thấy, dừng lại, băng bó, xức thuốc thơm và trao nạn nhân cho người chủ quán săn sóc, hết bao nhiêu tiền người ấy sẽ trả.

          Đến đây, Đức Giêsu hỏi người luật sĩ :”Theo ông nghĩ ai trong ba người là thân cận của người bị gặp tai nạn” ? Luật sĩ đã trả lời ngay :”Kẻ đã tỏ lòng thương xót đối với người ấy”. Luật sĩ đã có nhận thức đúng về bác ái và ông cho rằng người Samaritanô là người duy nhất đã cảm thông và tỏ ra  mình là người thân cận của kẻ xấu số.

          Đức Giêsu đã kết thúc cuộc đối thoại ấy bằng một câu vắn tắt :”Ông hãy đi và làm như vậy”. Đức Giêsu muốn nói rằng khi giúp đỡ một kẻ vô danh như vậy, người Samaritanô đã trở thành kiểu mẫu  của tình bác ái đích thực. và vì vậy, Ngài đã khuyên nhủ luật sĩ  hãy thực thi tinh thần bác ái theo kiểu mẫu đó thì sẽ được sự sống đời đời.

II. AI LÀ THÂN CẬN CỦA TÔI ?

  1. Tương giao giữa người Do thái và người Samaria.

          Người Samaria cũng là người gốc Do thái, nhưng chia lìa từ năm 935 vì lý do nam bắc (do vua Omri). Họ sống chung với dân ngoại và bị lây nhiễm. Khi Nehemias dẫn họ về quê hương thì dân Do thái cựu đã khinh bỉ và không cho phép họ  góp phần xây dựng Đền thờ. Họ tức giận bèn xây đền thờ tại Garisim. Người Samaria cũng thờ một Thiên Chúa, và tin Ngũ Kinh mà thôi. Giữõa người Do thái và Samaria luôn có sự kỳ thị và kình chống nhau.

          Và một sự kiện xẩy ra, cách đấy 20 năm, giữa mùa Lễ Chiên, một nhóm người Samaria này đã cả dám xông vào đền thờ Giêrusalem, đem xương người vung vẫy làm ô uế nơi thánh. Từ đó, hai dân tộc trở nên thù ghét xung khắc nhau như nước và lửa.

          Và hôm nay, Đức Giêsu lại đem người Samaria ra làm ví dụ đối đầu với hai vị Tư tế và Lêvi Do thái. Ngài đến phá vỡ những vòng vây bao quanh đạo giáo, tập quán xã hội làm quên lãng giá trị con người và tình nhân loại.

  1. Thái độ thầy Tư  tế và Lêvi.

          “Tình cờ có thầy Tư tế thấy nạn nhân đã tránh né và thầy Lêvi đi qua trông thấy cũng tránh đi”. Phải chăng hai vị này còn nhớ đến đoạn Kinh thánh :”Nếu ngươi thấy anh em có con lừa  hay thấy con bò nằm té ở dọc đường, ngươi đừng đi qua, ngươi hãy lo giúp cho nó đứng dậy”(Đnl 22,4). Huống chi con người ?  Tại sao họ lại bỏ đi qua ?

          Chúng ta phải cho rằng vị Tư tế thánh thiện và thầy Lêvi nhiệt thành là những người có trách nhiệm phục vụ để Thiên Chúa được tôn vinh và phụng thờ trên hết mọi sự. Hai người tôi tớ trung thành ấy có lý do chính đáng để giữ sự trong sạch theo luật định, bơiû vì “ai chạm vào xác chết (…), hoặc một người bị ám sát, một người chết (…) sẽ mắc dơ trong 7 ngày”(Ds 19,11-13.16). Trong trường hợp đó vị Tư tế hoặc thầy Lêvi  không được làm việc phụng tự.

          Những người giữ luật như vậy lầm rồi. Vì khi giữ luật, họ lại phản bội luật. Khi tưởng rằng họ đang tôn kính Thiên Chúa, họ lại xúc phạm đến Ngài. Thiên Chúa ở đó kìa, Ngài ẩn mình dưới dạng một người bị thương nửa sống nửa chết trong cái hố bên đường. Hai vị này chắc chắn không phải là người không biết tới luật yêu người (Đnl 6,5t), nhưng họ đã viện dẫn lý do để không thực hành (Fiches dominicales).

  1. Thái độ của người Samaritanô.

          “Người Samaritanô thấy vậy… thì chạnh lòng thương”(Lc 10,33).

Thấy nạn nhân nằm bên vệ đường, thầy Tư tế và Lêvi dửng dưng bỏ đi qua. Trái lại, người Samaritanô không thể bỏ qua trước cảnh tượng thương tâm này. Người này đã đến gần nạn nhân, trông thấy và chạnh lòng thương”. “Đến gần” tức là đi vào trong hoàn cảnh của người bị nạn. Chữ “Chạnh lòng thương” do tiếng La tinh là Compassio, ghép bởi hai chữ cum= cùng với, passio = đau khổ. Như vậy, “chạnh lòng thương” có nghĩa là cùng chịu đau khổ với, chia sẻ đau khổ với người khác.

          Theo thần học gia Gustavo Gutierrez , chữ “Chạnh lòng thương” trong tiếng Hy lạp có thể được dịch là “vì con tim của ông ta đã chảy ra”. Bằng việc tiến đến gần người lâm nạn, người Samaritanô đã trở nên người hàng xóm, người thân cận của người ấy. Trong quan điểm này, Gutierrez đã nói :”Người hàng xóm không phải là một người tôi tìm thấy trên đường đi của tôi, nhưng là một người  mà tôi tự đặt mình vào trong đường đi của người ấy, là người mà tôi đến gần và tích cực tìm kiếm” .

          Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu đã muốn biến người Samaritanô thành vị anh hùng của lòng nhân ái. Ngài muốn dạy cho người Do thái một tình yêu không biên giới. một tình yêu tìm đến mọi kẻ đang gặp khó khăn, tình yêu không bỏ đi, không dửng dưng, mà là dừng lại  để giúp đỡ, để “dây dưa” vào kẻ đang gặp khốn khó, bất kể đó là ai.

Truyện : Đi tìm chén thánh.

          Có một câu chuyện huyền thoại về “một người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh  mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu ! Thất bại,  chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà.  Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho,  anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước  quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.

  1. Mọi người là thân cận.

          Ngày nay chúng ta hay nói :”Tứ hải giai huynh đệ” : bốn bể là anh em, nhưng người Do thái không chấp nhận quan niệm này. Luật của người Do thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do thái  với những người không phải là Do thái. Theo luật của họ, người thân cận được định nghĩa là “những người con trai của riêng xứ sở bạn”. Do đấy, chỉ có những người Do thái mới là hàng xóm, là thân cận của mình.

          Đức Giêsu chủ trương ngược lại : người anh em của tôi, người thân cận của tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người anh em, người thân cận. Như vậy, không biết ai là người anh em của mình nữa, mà điều quan trọng là  tìm cách để trở nên người anh em, người gần gũi với bất cứ ai đang cần giúp đỡ.

Cousin giải thích : “Hỏi ai là người anh em của mình, vị luật sĩ tự  đặt mình làm trung tâm thế giới, và nhìn mọi người như những vệ tinh quay chung quanh mình.. Đức Giêsu đảo ngược vấn đề : người anh em là người thực thi lòng thương xót, chứ không phải người hưởng thụ lòng thương xót”.

III. YÊU THƯƠNG NGƯỜI THÂN CẬN.

  1. Luật bác ái và phụng tự.

          Thầy Tư tế và thầy Lêvi là những chuyên viên lo việc phụng tự trong Đền thờ. Họ phải tỉ mỉ giữ đúng các lễ nghi, các luật lệ, đó là một điều tốt. Nhưng Thiên Chúa muốn gắn cho sự “thực hành” bác ái và phục vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày bằng một tầm quan trọng to lớn hơn  việc thực hành phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Việc đạo đức và lòng sùng kính  chỉ là những phương tiện non yếu và tạm thời,  phải nhường cho đức bác ái là cái tuyệt đối nhất định. Đức ái được bầy tỏ ra  trong tình yêu thương người thân cận là bằng chứng cụ thể  tình yêu chân thành của ta đối với Chúa.

          Hiểu Luật theo cách của Đức Giêsu, không cần phải tìm ai là người thân cận, nhưng đúng là làm thế nào  để “trở nên thân cận của ai đó”, là biết “chạnh lòng thương”, biết gạt bỏ mọi thành kiến  về giai cấp và chủng tộc, về địa vị và tôn giáo…

  1. Yêu thương trong việc làm.

        Mọi người chúng ta đã học thuộc lòng luật mến Chúa yêu người. Nhưng yêu có năm bảy đường yêu, yêu trong lý thuyết và trong thực hành. Nhưng thế nào là yêu, là tình yêu?

Ông Robert Ingerson định nghĩa Tình yêu như sau : “Tình yêu là Ngôi Sao Mai, Sao Hôm. Nó chiếu rọi trên vành nôi em bé, và toả ánh huy hoàng trên ngôi mộ vắng. Đó là nghệ thuật làm mẹ, bài thơ của thi sĩ. Nó bao trùm không gian với tiếng nhạc, vì nhạc là âm thanh của Tình yêu. Tình yêu là người diễn viên văn nghệ biến đổi những điều buồn tẻ trở thành niềm vui. Đó là hương thơm của trái tim – một loài hoa tuyệt vời – và nếu không có sự say mê thiêng liêng đó, chúng ta thua kém cả loài vật; nhưng với nó, trần gian là Thiên đàng”.

          Định nghĩa Tình yêu như thế thì thật là hoa mỹ và bay bướm. Nếu chỉ nghe biết hay nói rất hay về tình yêu thì chưa đủ, mà điều quan trọng là phải làm, phải thực hiện, phải hành động trong yêu thương, bởi vì như thánh Giacôbê nói :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Khi nói đến bác ái yêu thương, không phải chỉ nói bi bô ngoài miệng, viết những bài kêu gọi rất xôm, rồi không làm gì cả. Mà bác ái là miệng nói tay làm, là giúp đỡ người ta thật sự theo sức mình. Nếu không thì người ta nói mỉa mai :

                                      Thương miệng thương môi

                                      Thương miếng xôi miếng thịt.

         Đọc bài dụ ngôn hôm nay, ta nhận thấy thầy Tư  tế và Lêvi là những con người vị ngã, lấy mình làm trung tâm. Khi có sự cố xẩy ra, họ đặt họ lên trước. Trái lại, Người Samaritanô là một người vị tha, ông đặt người khác lên trước.

          Thực ra, thầy Tư tế và Lêvi không phạm tội một cách tích cực nhưng đã phạm một tội không mấy người để ý đến, đó là tội thiếu sót :”Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”(Kinh Cáo mình). Tội thiếu sót có lẽ là tội xấu nhất của chúng ta, tuy nhiên chúng ta nghĩ rằng mình chưa làm hại ai là mình tốt rồi. Nhưng phải chăng chúng ta đã từng thấy có người bị làm cho tổn thương mà vẫn không can thiệp để giúp đỡ người ấy ? Có người vẫn giữ mình sạch sẽ bằng cách đứng xa một người gặp cảnh không may.

Truyện : Đã đến giờ rồi đấy.

       Một ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ về sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo :

          – Thầy không biết yêu sao ?

          Vị ẩn sĩ trả lời :

–          Chưa đến giờ đó thôi.

          Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện  người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị.

          Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân  mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói :

          – Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót !

          Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samaritanô nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không phải chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình.

  1. Tình yêu không tính toán.

          Hành động bác ái không được xây dựng trên sự tính toán, mà phải do lòng quảng đại tự phát. Tình trạng cao nhất mà chúng ta có thể đạt đến là khi lòng nhân từ trở thành một dòng nước ân sủng một cách dễ dàng, tự nhiên và không tính toán.

          Trường hợp người Samaritanô cũng thế. Rõ ràng lòng nhân từ của người Samaritanô trở thành thói quen, tự phát, một bản tính thứ hai. Điều tốt đẹp mà người ấy làm cho người khác thì người ấy không coi là một việc gì đặc biệt. Đối với một số người, lòng quảng đại nằm trong những hành động lác đác, lẻ loi; đối với những người khác, đó là một cách sống (McCarthy).

          Làm thế nào để có lòng tốt tự phát như người Samaritanô ? Việc này không phải muốn là được, không phải chỉ cố gắng tập một lần mà có, mà là kết quả của việc thực thi những việc tốt nho nhỏ cách đều đặn và kiên trì. Một hành động tốt cao cả là thành quả của nhiều hành động nho nhỏ đã quen làm trước đó. Phần thưởng đích thực của một hành động tốt là nó giúp ta  có thể làm thêm những hành động khác một cách dễ dàng hơn.

        Khi đọc kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assisi với câu “Vì chính khi hiến thân là lúc được nhận lãnh”. Lúc mới nghe câu này thì có người cho là không hợp lý, không bình thường, nhưng nếu xét cho kỹ, không những trong đời sống thiêng liêng, mà ngay trong cuộc sống hằng ngày, chân lý đó vẫn còn đứng vững : Cho đi là lãnh nhận ! Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói :”Phúc cho ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”(Mt 5,7). Muốn được Thiên Chúa xót thương thì chúng ta phải thương xót người khác đã, vì chúng ta đong cho người khác bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng đong lại cho ta bằng đấu ấy, mà còn dư dật nữa.

Truyện : Lòng tốt được đền đáp.

          Chuyện xẩy ra tại một làng đánh cá ven bờ biển. Phía sau làng là dẫy núi cao. Cách đây 20 năm, nơi này có một cụ già xa lạ đến cư ngụ và đã bỏ tiền ra làm một ngôi nhà lớn bằng gỗ quí. Dân làng thấy cụ già đơn độc thường lên thăm và đều nhận xét cụ già rất tự hào và quí căn nhà lắm, xem nó như một vật cần thiết trên đời. Thế rồi, một bữa kia biển động mạnh dữ dội. Bỗng đang đêm, dân làng đều thức dậy vì thấy đám cháy lớn trên sườn núi, ngay căn nhà quí của cụ già. Vừa tò mò vừa thương cụ già đơn chiếc, toàn dân làng già trẻ, trai gái rủ nhau mỗi người mang một thau nước, gắng sức trèo lên dốc chữa cháy. Xẩy ra là khi mọi người đã lên núi khá cao, thình lình một cơn sóng thần vĩ đại tràn lên bờ và cuốn trôi mọi thứ trong làng.  Vì bận chữa cháy nên rất ít người bị sóng thần cuốn đi.

          Ban đầu ai cũng tưởng rằng họ bỏ công leo lên núi để cứu giúp cụ già, nhưng thực tế cụ già đã cứu giúp họ. Bởi vì, một phần nhờ kinh nghiệm và phần khác ở trên cao nên cụ già thấy trước ngọn sóng thần từ xa đang tiến vào bờ, song đang đêm khuya không biết làm sao  báo tin để cứu dân làng cả. Chỉ còn một cách : hy sinh đốt căn nhà yêu quí nhất mới mong dân làng thấy mà chạy lên chữa cháy chăng.

          Có lẽ do quá chủ quan hay quá hẹp hòi nông cạn nên nhiều khi phần đông chúng ta  cứ tưởng mình bố thí ít tiền bạc, đồ vật, hy sinh chút công sức, thời giờ để giúp đỡ kẻ khác là chuyện nhưng không, hoàn toàn vô vị lợi, song thực ra, khi mình hy sinh cho đi như thế không những giúp kẻ khác, mà còn làm lợi cho chính bản thân mình nữa. Ngay cả những việc đạo đức mà chúng ta cố gắng thực hiện như nhẫn nhục chịu khổ, trung thành tuân thủ các giới răn, hãm mình ép xác, siêng năng xưng tội rước lễ, lần hạt… chúng ta cứ tưởng là làm cho Chúa vui lòng, nhưng kỳ thực là làm lợi cho chính chúng ta, vì khi sống ngay lành, thánh thiện sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi đời đời của mình (Quê Ngọc).

TÂM NGUYỆN :

Người Samaritanô nhân hậu

                             Cúi xuống

                             Ôm lấy nỗi đau của anh em mình,

                             Ôi tấm lòng nhân ái bao dung…

 

                             Nhân loại hôm nay

                             Vẫn còn đầy đau thương và nước mắt

                             Cay đắng cơ hàn

                             Đói lương thực, đói tinh thần và đói cả tình thương !

 

                             Lạy Chúa

                             Xin cho con noi bước Ngài xưa

                             Như người Samaritanô nhân ái

                             Yêu kính những thương đau

                             Vì đó là chính Ngài, Lạy Chúa.

( Trích Lời hằng sống)

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XV Thường Niên Năm C mời gọi chúng ta suy gẫm về Thiên Chúa, Ngài là Đấng cao cả tuyệt mức nhưng cũng là Đấng vô cùng gần gũi với chúng ta. Đây là hai chiều kích bất khả phân về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Đnl 30: 10-14

Lời Chúa không ở xa chúng ta, nhưng ở gần bên chúng ta, ngay trong miệng trong lòng để chúng ta đem ra thực hành.

Cl 1: 15-20

Thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu Cô-lô-xê tính ưu việt tuyệt đối của Chúa Ki-tô trong trật tự tự nhiên cũng như trong trật tự siêu nhiên.

Lc 10: 25-37

Tin Mừng thuật lại huấn lệnh “yêu người” của Đức Giê-su được minh họa qua dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân lành”. Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su để cho thấy Ngài đến với chúng ta bằng trọn tấm lòng xót thương của Ngài, cúi xuống trên những khốn khổ của chúng ta và làm cho mình trở thành người thân cận của chúng ta.

BÀI ĐỌC I (Đnl 30: 10-14)

Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm và cuối cùng của bộ Ngũ Thư. “Đệ Nhị Luật”, tức “luật thứ hai” (deuteros: thứ hai và nomos: luật), vì thế cũng được gọi một cách ngắn gọn“Thứ Luật”. Đây là nhan đề mà Kinh Thánh Hy-lạp đặt cho sách vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên.

  1. Bối cảnh

Quả thật, sách được trình bày dưới hình thức năm bài diễn từ của ông Mô-sê được cho là đang ngỏ lời với dân Ít-ra-en trước khi dân tiến vào Đất Hứa. Thật ra, tác phẩm này đã được biên soạn nhiều thế kỷ sau này, vào thời kỳ mà dân Chúa bất trung cần những lời nhắc nhở về lịch sử Giao Ước và những yêu sách mà Giao Ước đòi hỏi. Cuộc khủng hoảng này chắc chắn xuất xứ từ vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên và một thế kỷ sau đó đã để lại hệ lụy cho vương quốc miền Nam.

Vì thế, sách Đệ Nhị Luật là thể loại giáo lý về Giao Ước nhằm trả lời cho một câu hỏi cơ bản: Tại sao dân Ít-ra-en lại thiếu niềm tin? Do bởi niềm tin này đã không được sống ở trong lòng, những huấn lệnh cũng như những chỉ thị của Thiên Chúa vẫn ở bên ngoài con người. Đoạn văn mời gọi một đời sống tôn giáo nội tâm này, vốn là một trong những nét đặc trưng nhất của sách, thuộc về phần cuối diễn từ thứ năm của ông Mô-sê, tức là phần kết của tác phẩm.

  1. “Anh em hãy nghe tiếng của Đức Chúa”

Lệnh truyền “Anh em hãy nghe” là một trong những điệp khúc của sách Đệ Nhị Luật, nhất là ở nơi lời kêu gọi long trọng của lệnh truyền “mến Chúa” (6: 4-9), bắt đầu với: “Hãy nghe đây, hỡi Ít-ra-en”, hình thành nên lời mở đầu kinh nguyện thường ngày của Do thái giáo, được gọi là kinh “Shê-ma”.

Lệnh truyền: “Hãy trở về với Đức Chúa, là Chúa của anh em, hết lòng hết dạ”, nhắc nhở Ít-ra-en phải một lòng một dạ với Thiên Chúa của mình. Chúng ta gặp thấy ở nơi lệnh truyền này một định nghĩa về Giao Ước, tức là một kết ước tình yêu từ hai phía. Phải đáp trả những ân tình của Thiên Chúa bằng cách “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Ở nơi tư tưởng này của sách Đệ Nhị Luật, người ta phát hiện ảnh hưởng của các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Hô-sê. Ngôn sứ Hô-sê đã sánh ví tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài với tình yêu của chồng đối với vợ của mình. Do đó, ngôn sứ Hô-sê xem Giao Ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài là Hôn Ước, vì thế, đòi hỏi dân Thiên Chúa phải một lòng một dạ với Thiên Chúa của mình, giữ trọn tình yêu nhất mực chung thủy với Thiên Chúa của mình.

  1. Nội tâm hóa Lề Luật

“Vì mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay”. Từ “hôm nay” này thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật nhằm để chuyển từ chuyện kể sang lời khuyên bảo, từ quá khứ sang hiện tại, từ “ôn cố” sang “tri tân”. Vì thế, “hôm nay” muốn nói lên giá trị thường hằng của Lề Luật.

Lề Luật này không ở ngoài tầm tay của chúng ta, nhưng ở trong tâm khảm của chúng ta. Sau này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sẽ phát biểu theo cùng một cách như vậy: “Này đến ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân Ta” (Gr 31: 31-33).

  1. Nhân cách hóa Lời Thiên Chúa

Lề Luật bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì thế Lề Luật là Lời Thiên Chúa. Tác giả nhân cách hóa và nội tâm hóa Lời Thiên Chúa: “Vì Lời Chúa ở sát bên anh em, ngay trong miệng trong lòng, để anh em đem ra thực hành”. Việc nhân cách hóa và nội tâm hóa Lời Chúa này xem ra như một linh cảm về Ngôi Lời. Các sách minh triết sẽ dâng hiến vài ví dụ như thế. Những cách tiếp cận Lời Chúa của các hiền nhân này không xa lạ với thần học Ngôi Lời, mà thánh Gioan sẽ khai triển, không chỉ trong Tựa Ngôn, nhưng cũng trong ý nghĩa và tầm mức mà thánh nhân sẽ ban cho động từ “ở”. Thánh Phao-lô sẽ trích dẫn những câu Đệ Nhị Luật này để đối lập sức mạnh bên trong của Đức Tin với sự vô ích bên ngoài của Lề Luật (Rm 10: 6-8).

Tin Mừng hôm nay, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”, nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã đích thân đến ở kề bên chúng ta để cứu giúp chúng ta trong những khốn cùng của chúng ta.

BÀI ĐỌC II (Cl 1: 15-20)

Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê và trong Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô còn bảo tồn cho chúng ta hai bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô (Cl 1: 15-20 và Pl 2: 6-11). Cả hai bài thánh thi này dường như thuộc về gia sản phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi; chúng hình thành nên những chứng liệu quý báu. Bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô trong Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê được đặt vào bối cảnh của lời khuyến dụ luân lý; còn bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thì đáp ứng mối quan tâm đạo lý.

  1. Bối cảnh

Thành phố Cô-lô-xê là một thành phố nhỏ thuộc miền Phy-gi-a, cách Ê-phê-xô khoảng chừng 200 cây số về hướng đông. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố này đã mất đi nhiều tầm quan trọng xưa kia của nó. Thành phố này đã không được thánh Phao-lô đích thân rao giảng Tin Mừng, nhưng bởi một trong những cộng sự viên của thánh nhân, là ông Ê-páp-ra, nguyên quán Cô-lô-xê, ông này cũng đã thiết lập các cộng đoàn Ki-tô hữu ở Lao-đi-xê và ở Hi-ê-ra-pô-li, hai thành phố khác được định vị trong thung lũng Lycus, như Cô-lô-xê.

Những khó khăn đạo lý nổi lên khiến ông Ê-páp-ra lo lắng, vì thế ông đến thỉnh ý thánh Phao-lô, lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, hoặc ở Rô-ma (61-62), hoặc còn ở Xê-da-rê trước khi bị chuyển đến Rô-ma (58-60). Thánh Phao-lô không thể đích thân đến tận nơi, nên viết thư này gởi tín hữu Cô-lô-xê.

Chúng ta khó biết được đích xác những biện luận sai lạc làm xao động các tín hữu Cô-lô-xê, chúng liệu cốt yếu mà chúng ta có được là bức thư này. Dù thế nào, chắc hẳn những biện luận này giảm thiểu vai trò của Đức Ki-tô, trong khi đề cao tầm quan trọng của các hữu thể thần thiêng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Quả thật, trong Thư, thánh Phao-lô nói về “mãnh lực thần thiêng hay quyền năng thượng giới”, “những yếu tố vũ trụ”, “việc cúng tế các thiên thần”, từ vựng gợi lên những biện luận tôn giáo hỗn hợp mà vài người Cô-lô-xê say mê.

Để trả lời, thánh Phao-lô trích dẫn liền ngay sau những lời chào hỏi thông thường và một lời mào đầu khuyến dụ, bài thánh thi ca ngợi quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự tự nhiên cũng như thuộc trong trật tự siêu nhiên.

Vài người nghĩ rằng bài thánh thi này có nguồn gốc ngoại giáo nhằm ca ngợi sự hài hòa của vũ trụ theo trường phái triết học khắc kỷ và đã được Ki-tô hóa. Nhưng bài thánh thi này, rất gần với lời mở đầu Thư gởi tín hữu Do thái và với Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan, hướng về một nền tảng Kinh Thánh chung, đặc biệt nền tảng của các sách minh triết.

  1. Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự tự nhiên

– “Đức Giê-su Ki-tô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,

 là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo” (Cl 1: 15)

Những câu mở đầu này áp dụng cho Đức Ki-tô những từ ngữ ca ngợi tính ưu việt của Đức Khôn Ngoan, trong các bản văn thuộc trào lưu minh triết Kinh Thánh:

“Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu,

là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa,

là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26),

hoặc:

“Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người,

trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.

Ta đã được tấn phong từ đời đời,

từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất

…..

Đã có ta hiện diện khi Người thiết lập cõi trời

…..

Khi người đặt nền móng cho đất,

ta hiện diện bên Người như tay thợ cả” (Cn 8: 22-30).

– Thánh Phao-lô ca ngợi Đức Ki-tô vừa nguyên nhân tác thành vừa nguyên nhân cùng đích của vũ trụ:

“Vì trong Người, muôn vật được tạo thành

trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình…

Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng

nhờ Người và cho Người” (Cl 1: 16)

Thánh Gioan sẽ lấy lại những từ ngữ này trong Tựa Ngôn của mình:

“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,

và không có Người, thì chẳng có chi tạo thành.

Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống,

và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1: 3).

– “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).

Chúng ta không nên nghĩ rằng viễn cảnh này mang tính vũ trụ, trước hết nó mang tính thần học. Đức Ki-tô “thâu tóm” ở nơi Ngài toàn thể vũ trụ, như các nhà thần học nói.

  1. Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự siêu nhiên

Nếu Đức Ki-tô là khởi nguyên công trình tạo dựng trong trật tự tự nhiên, thì Ngài không kém là khởi nguyên toàn bộ sự sống siêu nhiên. Ngài là đầu Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Ngài. Ngài là “Trưởng Tử trên mọi loài thọ sinh” như thế nào, thì Ngài là người đầu tiên từ cõi chết sống lại như vậy, nghĩa là Ngài đã khai mạc sự sống vinh quang; Ngài là Chủ Tể đời sống mới này. Ngài là “khởi đầu và kết thúc, An-pha và Ô-mê-ga”  mà thánh Gioan sẽ nói trong sách Khải Huyền.

Chính Đức Ki-tô là tác giả của ơn cứu độ: “Nhờ máu Người đổ ra khi chết trên thập giá, Thiên Chúa đã làm hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”. Đối chiếu với sự hài hòa của vũ trụ là sự hài hòa của các tâm hồn mà việc tha thứ tội lỗi mang lại: sự bình an trong tâm hồn này là thành quả hy tế của Đức Ki-tô.

Khi trích dẫn bài thánh thi ca ngợi tính ưu việt của Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã thấy ở đây trước tiên một vũ khí chống lại những lời nói vớ vẩn của các triết gia Cô-lô-xê; nhưng đồng thời thánh nhân cũng đã gặp thấy ở đây những từ ngữ thần học, diễn tả sâu xa thần học của thánh nhân. Biến cố trên đường Đa-mát đã mặc khải cho thánh nhân tầm quan trọng hàng đầu của vai trò Đức Ki-tô. Con người Đức Ki-tô ngự trị trên quan điểm về ơn cứu độ, quan niệm về Giáo Hội, cũng như kinh nghiệm nội tâm của thánh nhân. Đức Ki-tô là tất cả trong mọi sự.

TIN MỪNG (Lc 10: 25-37)

Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất là cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với vị thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất: “Mến Chúa và Yêu Người”, và phần thứ hai là dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” để minh họa giới luật “Yêu Người”.

Trong nhiều dụ ngôn riêng của Tin Mừng Lu-ca, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”  là một trong những dụ ngôn danh tiếng nhất. Thánh Lu-ca đặt dụ ngôn này ngay trước cuộc viếng thăm của Đức Giê-su tại nhà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, ở đó cô Mác-ta và cô Ma-ri-a tiếp đón Đức Giê-su, mỗi người mỗi cách, để minh họa cho giới luật “Mến Chúa”. Như vậy, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri” này cùng với câu chuyện “hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a” hình thành nên bức tranh bộ đôi dồi dào về ý tứ và phong phú về giáo huấn: “Mến Chúa và Yêu Người”.

Cuộc đối thoại giữa Đức Ki-tô và người thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất này, cũng được thánh Mát-thêu (22: 34-40) và thánh Mác-cô (12: 28-31) thuật lại. Cả hai thánh ký này đều định vị cuộc đối thoại này vào khuôn khổ sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó; trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc đối thoại này ở đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su.

Ngoài ra, thánh Mác-cô nhận định thái độ tích cực của vị thông luật này: khi hỏi Chúa Giê-su, ông chân thành muốn biết giới luật nào đứng hàng đầu và khi thấy câu trả lời xác đáng của Chúa Giê-su, chính ông đã tán thưởng: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng” (Mc 12: 32). Trái lại, thánh Lu-ca cũng như thánh Mát-thêu xem câu hỏi của vị thông luật này là có ác ý: hỏi một vấn đề nan giải để “thử” Chúa Giê-su ngỏ hầu để Ngài lỡ lời mà bắt bẻ hay để Chúa Giê-su không trả lời được mà dèm pha bêu xấu Ngài.

  1. Câu hỏi của vị thông luật

Trong Tin Mừng Lu-ca, vị thông luật này lên tiếng hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Nhưng Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp mà hỏi ngược lại vị thông luật này: “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”.  Vì thế, chính vị thông luật này đặt câu hỏi và cũng chính ông trả lời bằng cách liên kết giới luật: “mến Chúa”  được dạy trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5) và giới luật “yêu người” được ghi trong sách Lê-vi (19: 18).

Có thể các kinh sư trước thời Chúa Giê-su đã đối chiếu hai bản văn này rồi. Tôn giáo về một Thiên Chúa giàu lòng yêu thương được mặc khải trong Cựu Ước là một mặc khải duy nhất và đáng kính so với quan niệm về Thượng Đế tại các dân tộc khác, kể cả triết học Hy-lạp. Trong câu chuyện của Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô, chính Đức Giê-su công bố hai giới luật mến Chúa và yêu người là ngang bằng nhau. Chắc chắn, các nhà thông luật đã không dám đẩy lời dạy của họ xa cho đến mức xem hai giới luật này ngang bằng nhau như vậy.

Sau khi nghe câu trả lời của vị thông luật, Chúa Giê-su chỉ còn xác nhận: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Nhưng để chứng tỏ là mình có lý, vị thông luật lại hỏi Chúa Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?”. Quả thật, trong sách Lê-vi, người thân cận được định nghĩa là người thuộc vào dân Thiên Chúa và phải được cư xử như là anh em. Chúa Giê-su muốn phá vỡ quan niệm hẹp hòi này. Để giúp vị thông luật hiểu rõ hơn, Ngài kể dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân hậu”.

  1. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu

Hai thành phố này cách nhau khoảng hai mươi lăm cây số với độ chênh lệch khá lớn (Giê-ru-sa-lem được định vị ở độ cao khoảng 800 đến 900 mét; Giê-ri-cô ở dưới mực nước biển khoảng 250 mét). Vào thời đó, đoạn đường giữa hai thành phố này có những đồi núi khô cằn, những hốc đá và những khe núi, vì thế, đầy những hang ổ trộm cướp và những chuyện cướp bóc thường hay xảy ra đối với khách bộ hành. Vì thế, câu chuyện của Chúa Giê-su phản ảnh thực tế đoạn đường đầy hiểm nguy này.

Trên con đường đó, có một người bị sa vào tay bọn cướp, “chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết”.  Trước hết, một thầy tư tế, đoạn, một thầy Lê-vi đi qua con đường đó mà trở về nhà sau khi đã chu toàn nghĩa vụ của mình ở Đền Thánh. Cả hai đều gặp thấy nạn nhân nữa sống nữa chết nằm trên đường, nhưng “tránh qua bên kia mà đi”. Chúa Giê-su không nói cho chúng ta biết tại sao họ tránh qua một bên mà đi. Có thể họ không muốn mình bị ô uế qua việc đụng chạm đến xác chết (Lv 21: 11) hay lo sợ an nguy đến tính mạng của mình, vì có thể tên cướp vẫn còn ẩn khuất ở một nơi nào đó để phục kích. Xem ra thật hơn, Chúa Giê-su đưa hai nhân vật này vào câu chuyện vì họ là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng và đạo đức nhất trong xã hội Do thái để tạo nên một sắc màu tương phản với nhân vật Sa-ma-ri bị coi là tạp chủng, bị khinh bỉ, bị khai trừ, mà người Do thái ghét cay ghét đắng tránh giao tiếp. Điều Chúa Giê-su muốn nêu bật chính là hai nhân vật đáng kính và đạo đức này, sau khi đã thực thi lòng mến Chúa trong Đền Thờ lại dững dưng vô cảm trước người anh em khốn khổ bất ngờ gặp thấy trên đường.

Sau cùng, một người Sa-ma-ri tình cờ đi qua con đường đó. Thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn, anh “động lòng thương”. Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân này là ai, thuộc dân tộc nào, theo tôn giáo nào, có quan điểm hay chính kiến nào, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp nạn nhân bất hạnh này. Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.

  1. Câu hỏi của Chúa Giê-su

Sau khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giê-su hỏi trở lại vị thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Vị thông luật trả lời: “Chính là kẻ thực thi lòng thương đối với người ấy”. Chúa Giê-su xác nhận câu trả lời của ông là đúng và mời gọi ông: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Như vậy, ở đầu câu chuyện, qua câu hỏi của mình, vị thông luật nói lên nỗi bận lòng của ông là muốn phân biệt rõ ràng ai là người thân cận của tôi để tôi thực thi luật yêu người; còn ở cuối câu chuyện, câu hỏi mà Chúa Giê-su đặt ra cho ông ngầm chứa câu trả lời của Ngài: không phải “ai là người thân cận của tôi” như vị thông luật đã hỏi trước dụ ngôn, nhưng “tôi phải là người thân cận của bất cứ ai cần đến sự cứu giúp của tôi trên đường đời”. Đó là cách thức “để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” mà anh đã nêu lên ở đầu câu chuyện.

  1. Bài học

Phải chăng ở nơi nhân vật Sa-ma-ri nhân hậu này, Chúa Giê-su muốn gợi lên hành động của chính Ngài, Đấng Cứu Độ đầy lòng xót thương? Và kẻ bị đánh trọng thương, bị trấn lột, bị bỏ rơi dỡ sống dỡ chết bên đường, đó không phải thân phận của nhân loại tội lỗi bị sự Ác đè nặng nên không thể tự mình cứu mình được? Lời giải thích này thật sự trở nên kinh điển tại các Giáo Phụ theo lối giải thích ẩn dụ. Các ngài đã phân tích dụ ngôn này cho đến từng chi tiết, chẳng hạn như cách giải thích của thánh Âu-gút-ti-nô: Đức Giê-su đã xuống từ Giê-ru-sa-lem thiên giới để cứu chữa nhân loại bị trọng thương do tội lỗi. Dầu và rượu biểu tượng các bí tích; quán trọ là hình ảnh Giáo Hội mà Chúa Ki-tô trao gởi những tội nhân để băng bó và chữa lành, trong khi chờ đợi ngày Ngài trở lại, ngày Ngài hoàn tất ơn cứu độ của chúng ta, sau khi đã giải thoát chúng ta khỏi mọi nợ nần.

Tuy nhiên, theo văn mạch, mỗi độc giả phải thấy chính mình ở nơi người Sa-ma-ri nhân lành này. Chính hành động cứu giúp anh chị em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ nào đi nữa, dù đó là thầy tư tế hay thầy Lê-vi đi nữa. Đối với bổn phận “yêu người”,không có bất kỳ hạn định nào, bởi vì đó là luật phổ quát nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong tận cõi thâm tâm của con người được gọi tiếng nói lương tâm của mỗi người như câu thành ngữ của người Việt Nam: “Thương người như thể thương thân”, và làm cho con người khác với con vật như câu nói thời danh: “Chỉ có con vật mới quay lưng lại trước nỗi khổ đau của đồng loại”.

Như thế, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân hậu”, Chúa Giê-su chấm dứt tinh thần duy luật, chấm dứt chủ nghĩa dân tộc, chấm dứt sự phân biệt đối xử, chấm dứt mọi lý lẽ đưa ra để biện minh cho thái độ “tránh sang một bên”  trước những nỗi khốn khổ của anh em đồng loại của mình trong cuộc sống đời thường. Nói như Lu-the: “Điều làm tôi kinh hãi không phải kẻ ác làm điều ác mà là người thiện thờ ơ lãnh đạm trước những đau khồ của anh em mình”. Tác giả Suy Niệm Lời Chúa đã nhận xét như sau: “Có những tội tiêu cực biểu lộ qua việc đắm chìm trong vũng lầy của tội lỗi; nhưng có những tội tiêu cực biểu lộ bằng sự dững dưng, thờ ơ, khoanh tay chẳng thèm làm gì. Một thái độ nhắm mắt làm ngơ cũng đủ bị kết án. Vì sự thánh thiện hay tội lỗi của một người không chỉ ảnh hưởng trên bản thân họ, mà còn lan tỏa đến những người khác, đến môi trường họ sống”.

Về mục lục

.

TRÁI KHOÁI

Trầm Thiên Thu

Trái khoán là trái phiếu, tức là “giấy ghi nợ”. Món nợ là thứ đáng quan ngại, chẳng ai ham, dù nó to hay nhỏ, vì phiền toái lắm, đôi khi vì nó mà mối quan hệ bị sứt mẻ. Thật vậy, mặc dù món nợ nhỏ mà mối lo vẫn to. Có vay ắt có trả!

Ngày xưa, cứ bảy năm thì lại có năm sabát, và các khoản nợ đều được tha: “Bảy năm một lần, anh em hãy tha nợ. Đây là cách thức tha nợ: mỗi chủ nợ sẽ tha món nợ đã cho người đồng loại vay mượn, không thúc người đồng loại và người anh em trả nợ, vì người ta đã công bố việc tha nợ để kính Đức Chúa” (Đnl 15:1-2; Lv 25:1-7).

Đời thường thật phiền phức với trái khoán. Nhưng về tâm linh, trái khoán không hề trái khoáy, không là thứ trái ngược, mà là thứ xuôi xắn, tốt lành, vì đó là món “nợ tình” – nợ yêu thương. Nợ to mà không lo, nợ lớn mà không ớn, không hề kỳ cục mà lại kỳ diệu. Không thể định nghĩa chính xác và giải thích ý nghĩa đầy đủ nhất về tình yêu, nhưng chắc chắn ai cũng hiểu và biết phải làm gì cho phù hợp. Thế nhưng không dễ để có đủ can đảm mà thực hiện cho đúng mức và trọn vẹn.

Nói đơn giản, người có lòng yêu thương là người biết chạnh lòng thương xót, biết động lòng trắc ẩn, biết cảm thông, biết chia sẻ,… như Chúa Giêsu đã hành động, và Ngài cũng muốn mọi người làm như Ngài. Nhưng yêu thương không thể chỉ là lời nói suông, mà phải được thể hiện bằng hành động cụ thể, vì Thánh Giacôbê đã so sánh: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” (Gc 2:17 và 26). Rất rõ ràng và cụ thể. Chuyện yêu thương thật đơn giản, thế mà lại thực sự khá nhiêu khê!

Yêu thương tưởng chừng là “chuyện dĩ nhiên”, nhưng thực ra đó là món nợ mà ai cũng mắc – như phần cài đặt mặc định, mặc dù có thể không hề vay, và là món nợ lớn nhất mà cả đời chúng ta cũng chẳng ai trả hết. Bất cứ món nợ gì cũng không nên mắc, dù vật chất hoặc tinh thần, nhưng món nợ yêu thương thì nên “vay” lắm, như Thánh Phaolô khuyên: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8). Đó là ý tốt lành của Thiên Chúa để chúng ta khả dĩ “nên hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48).

Rất chí lý với lời khuyên của Thánh Phanxicô Xaviê: “Cần đốt lên lửa yêu thương, bởi vì có yêu thương thì tự nhiên sẽ đối đãi tốt với mọi người, luôn nói những lời yêu thương, và tâm hồn sẽ tự nhiên thu hoạch được rất nhiều kết quả”. Một chuỗi liên kết rất lô-gích.

SUỐT KIẾP MẮC NỢ

Văn hào Victor Hugo nhận định: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay. Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Đã đành mỗi chúng ta đều mắc nợ yêu thương đối với Thiên Chúa, nhưng chúng ta còn mắc món nợ đó với tha nhân – bất cứ ai ở xung quanh chúng ta, dù người đó không hề quen tên, quen mặt. Điều đó hoàn toàn là chuyện bình thường chứ không hề bị “triệt buộc” hoặc “chơi ép” gì cả. Của cho không bằng cách cho: “Ân huệ không bởi việc cho thật nhiều mà là cho đúng lúc” (La Bruyère).

Kinh Thánh cho biết rằng sau cuộc lưu đày Babilon, dân chúng được Thiên Chúa xót thương cho hồi hương. Đó là món nợ tình quá lớn. Tuy nhiên, Ngài cũng đưa ra điều kiện, nhưng đó là mệnh lệnh không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay của họ. Lại một món nợ tình nữa. Mệnh lệnh đó không ở trên trời, nên dân chúng không cần đặt vấn đề rằng: “Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?” (Ðnl 30:12). Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến dân chúng phải thắc mắc: “Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?” (Ðnl 30:13). Và rồi chính Thiên Chúa xác định: “Lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Ðnl 30:14). Không cần tìm đâu xa, không cần loanh quanh bất cứ nơi nào. Lời đó sống động trong mọi người.

Chắc chắn rằng khi mắc nợ thì phải biết ơn – đặc biệt là món nợ thương xót, chứ không thể nghĩ đó chỉ là sự công bằng, cứ có vay thì có trả. Vì thế, bắt chước Thánh Vịnh gia là điều cần thiết: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ. Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến. Phần con đây, thật khốn cùng đau khổ, lạy Chúa Trời, xin cứu vớt đỡ nâng” (Tv 69:14, 17 và 30). Kinh Thánh đã nhiều lần xác định: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; Er 3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26).

Thiên Chúa là Đấng trọn lành, và chỉ có Ngài là Đấng nhân lành. Ngài không muốn bất cứ điều xấu nào xảy ra, dù là điều nhỏ nhoi. Ngài là Đấng chí minh, chí công, và chí thiện, luôn đặc biệt quan tâm những kẻ khốn cùng: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm” (Tv 69:33-34). Từ xưa, sự công bình đã được khuyến cáo: “Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ” (Cn 31:9). Thế nhưng ngày nay những kẻ có chức quyền lại biến dân nghèo thành dân oan ức, kêu chẳng ai nghe!

Thiên Chúa chí thánh, Luật Chúa hoàn thiện, nhưng đơn giản và ngắn gọn – gọi là “yêu thương”, có thể rút gọn chỉ còn một chữ YÊU theo Việt ngữ. Nói về Luật Chúa, Thánh Gioan tông đồ nói: “Điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (1 Ga 5:3). Vậy mà chúng ta vẫn chẳng thi hành đúng ý Chúa. Luật Ngài rất đặc biệt, khác hẳn luật của phàm nhân: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:8-9).

Như hai vế cân bằng chứ không đối lập: thế này thì thế kia – và ngược lại. Thật vậy, ai thực sự thuộc về Chúa thì mới thực sự yêu mến Thánh Luật và thực sự quyết tâm thi hành Thánh Luật. Trạng từ “thực sự” ở đây rất quan trọng. Vì nếu không “thật lòng” thì chỉ là giả hình, là cái “mác” hoặc cái vỏ bên ngoài, nói hay mà làm dở. Những người thực sự yêu mến Chúa thì cũng có thể nhận định như Thánh Vịnh gia: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh, thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng, ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Phàm ngôn chỉ có thể so sánh như vậy, không còn cách nào hơn.

Giải thích về Đức Giêsu Kitô, “chủ nợ” của chúng ta, Thánh Phaolô cho biết: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1:15-16). Phàm nhân chỉ là “số không” to lớn, rỗng tuếch, chẳng có gì mà tự mãn. Thế nên không thể có bất cứ lý do gì mà dám kiêu căng, tự đắc, hoặc tự mãn. Hợm mình mà chê trách người khác thì tồi tệ thật. Vậy mà đôi khi chúng ta vẫn tìm mọi cách để biện hộ cho những hành vi bỉ ổi của mình. Thế thì khốn nạn vô cùng!

Cũng chẳng hề oan trái gì đâu, vì chúng ta là “người một nhà” mà. Thánh Phaolô cho biết: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu” (Cl 1:17-18). Tất cả chúng ta đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa, đều là những “con nợ” không thể nào thanh toán hết số nợ chúng ta đã mắc, nếu không được “chủ nợ” Giêsu trả dùm và thậm chí còn xóa nợ hoặc tha bổng. Vì thế, tất cả phàm nhân chúng ta đều là những “kẻ ăn mày”. Thật vậy ư? Đúng vậy, mỗi khi chúng ta xưng tội là chúng ta hạ mình xuống để ăn mày Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Tại sao Chúa Giêsu là người đứng đầu? Thánh Phaolô giải thích: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:19-20). Chúng ta mắc nợ Chúa Giêsu không phải là món nợ bình thường mà là NỢ MÁU. Trái khoán này quá lớn. Biết thân biết phận và nài xin Ngài thương xót thì được tha, nếu không thì “không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5:26). Làn ranh quá mong manh giữa sự sống và sự chết. Ôi, rất đáng quan ngại! Nhưng đó là sự thật bất biến: “Mọi xác phàm như chiếc áo, thảy đều mòn hao, vì quy luật muôn đời là: chắc chắn con sẽ phải chết” (Hc 14:17).

Không chỉ lo mà còn sợ, vì biết sợ mà lo trả nợ. Và phải nhớ điều quan trọng này: “Thiên Chúa không thiên vị ai” (Gl 2:6; Cv 10:34). Không thể lấy lý do này hoặc viện cớ nọ. Trái khoán nào cũng cần phải thanh toán cho xong, món nợ nào cũng cần được tha, như chiếc áo bẩn phải giặt sạch – giặt bằng Bửu Huyết Cứu Độ của Đức Kitô.

CẢ ĐỜI PHẢI TRẢ

Liên quan Luật Chúa không chỉ có hành động, mà mọi lời nói cũng “phải quy về Luật của Đấng Tối Cao” (Hc 9:15). Nói về Chúa cũng là một phần trong quá trình trả nợ tình – đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân.

Trình thuật Lc 10:25-37 đề cập “điều răn lớn” liên quan sự sống đời đời: AI LÀ ANH EM? Thánh sử Luca cho biết: Một hôm, có người thông luật kia hỏi Đức Giêsu để thử Người: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”. Đây cũng là dạng chúng ta vẫn thường thấy có những người “chảnh”, tỏ ra mình hơn người, không muốn người khác hơn mình nên tìm cách “gài bẫy” và “trù dập” người khác bằng nhiều chiêu thức ranh mãnh rất tinh vi. Có lẽ họ không biết, không nhớ hoặc không muốn nhớ lời cảnh báo của Chúa: “Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái” (1 Cr 1:19). Trèo cao thì lao sâu, té đau. Vỏ quýt dày sẽ có móng tay nhọn.

Sau khi nghe nhà thông luật hỏi vậy, Chúa Giêsu không trả lời thẳng, mà dùng cách hỏi lại ông ta: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”. Ông ấy thản nhiên: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Đúng là nhà thông luật có khác, trả lời ngay và rất hay. Thế nên Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Ôi chao, cái vụ này “hơi bị căng” chứ chẳng chơi! Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ mình có lý, nên ngang nhiên hỏi vặn lại Đức Giêsu: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”. Lý sự quá, “chảnh” quá, ra vẻ “ta đây” quá. Đó là kiểu của những kẻ hợm mình, tưởng thế gian có ba bồ chữ thì bụng mình chứa hai bồ rồi. Thấy gớm!

Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu “cười thầm”, và rồi Ngài trả lời ông ta bằng một câu chuyện rất thực tế đời thường: Có người đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp, bị đánh nhừ tử. Chúng bỏ mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Ông ta thấy nạn nhân nhưng tránh qua bên kia mà đi. Sau đó, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy cũng thấy và cũng bỏ đi. Nhưng một người Samari đi tới và thấy nạn nhân thì chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, sơ cứu và băng bó vết thương cho nạn nhân, rồi đặt nạn nhân lên lưng lừa đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Thật đáng khâm phục!

Rồi Chúa Giêsu ôn tồn: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Lại trả lời đúng và hay lắm. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng HÃY LÀM như vậy”. Đó cũng chính là lời Chúa Giêsu vẫn “nhắc nhở” mỗi chúng ta không ngừng. Trong Nhật Ký, Thánh Faustina ghi lại lời Chúa Giêsu: “Linh hồn nào truyền bá Lòng Thương Xót của Ta sẽ được Ta bảo bọc suốt đời” (số 1075). Nhưng nếu chỉ “truyền bá” mà không thể hiện thì liệu có “ổn” không? Chắc ai cũng tự trả lời được. Liên quan vấn đề đức ái – từ thiện, thiết tưởng nên lưu ý điều này: làm thì ngại mà khoái được khen!

Tình huynh nghĩa đệ là gì? Ai là người lân cận? Thầy tư tế và thầy Lêvi là ai? Liệu chúng ta có dám “nói thẳng” và có dám “đấm ngực” hay là cứ “vỗ ngực” đây? Dạy và khuyên người khác yêu thương mà mình lại vô cảm, bảo người ta thương xót mà mình lại chẳng xót thương ai – thậm chí còn mưu mô thâm độc! Về dạng người này, Chúa Giêsu thẳng thắn nói thế này: “Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23:27). Lời Chúa làm đau nhói và nhức buốt quá! Người Việt chúng ta gọi loại người như vậy là “nói phét” (xạo là dạng còn nhẹ). Chúa Giêsu rất thẳng thắn, không hề úp mở, cũng chẳng rào trước đón sau hoặc tránh né. ĐGH Phanxicô làm được điều này khi dám thẳng thắn công kích những thói hư tật xấu của hàng giáo sĩ. Vậy mà một số người (cả giáo sĩ và giáo dân) vẫn cố ý “giả đò ngó lơ”, thậm chí còn cho rằng Chúa nói người khác chứ không hề chỉ trích mình. Có đáng “tội nghiệp” hay không?

Không ái dám cả gan “bới bèo ra bọ” hoặc “vạch lá tìm sâu”, nhưng nếu chỉ đề cập cái tốt thì đôi khi có thể tạo ảo giác, cũng phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dám đấu tranh với cái tiêu cực để giúp nhau thăng tiến và hoàn thiện, như vậy mới thực sự can đảm – dám chấp nhận là dám từ bỏ mình. Xưa nay ít người dám xin lỗi trước thiên hạ về những sai lầm của Giáo Hội trước đó, thế mà lúc sinh thời, Thánh GH Gioan Phaolô II đã dám công khai xin lỗi thế giới thì quả là tuyệt vời, can đảm, thảo nào ngay khi mới nhận sứ vụ kế vị Thánh Phêrô, ngài đã xác định: “Đừng sợ!”. Mắc sai lầm là mắc nợ, dám xin lỗi là trả nợ. Thiên Chúa rất vui lòng tha thứ, và loài người cũng sẵn sàng bỏ qua. Hẹp hòi thì được gì? Chẳng được gì. Không tha thứ là tự đày đọa mình mà thôi.

Cái gì cũng có mức độ riêng. Bố thí, công bình và bác ái là ba mức độ khác nhau nhưng cùng thể hiện lòng yêu thương: Bố thí là “cho” để tránh bị làm phiền, công bình là chia sẻ vì có dư, bác ái mới thực sự là yêu thương – vì người khác chứ không vì thứ gì khác. Thánh TS Thomas Aquino (1225-1274) nói: “Nếu KHÔNG có đức ái thì KHÔNG có bất kỳ đức hạnh nào, giống như nếu KHÔNG có mặt trời thì cũng KHÔNG có một tinh tú nào cả”. Một cách so sánh thú vị và cụ thể, rất dễ hiểu. Theo thánh nhân, có ba loại công bằng: công bằng giao hoán (có vay có trả, có qua có lại), công bằng phân phối (người lãnh đạo có trách nhiệm phân phối cho thuộc hạ những gì cần thiết để sống), công bằng pháp lý (trách nhiệm chung của mọi người là lo cho công ích, phúc lợi xã hội).

Đối với xã hội ngày nay, rất có thể có người cho rằng những người tốt như người Samari nhân hậu kia là những người rảnh rỗi, vô công rỗi nghề, lăng xăng bao đồng, thích “vác tù và hàng tổng”. Mà thật, có những người thấy người khác bị tai nạn rồi đưa nạn nhân vô bệnh viện, cuối cùng lại bị bắt oan, thậm chí có trường hợp còn bị đánh đập tàn nhẫn.

Tuy nhiên, chính những người đó lại là những người được Chúa yêu quý vì họ sống theo “luật yêu thương” mà Ngài đã truyền, và Ngài luôn khuyến khích mọi người phải cố gắng thể hiện trong cuộc sống hằng ngày. Thiên Chúa không thiên vị ai, ai làm đúng thì thành môn đệ của Ngài, là con cái của Ngài, và được Ngài chúc lành – dù họ không được người khác chấp nhận, dù họ là người ngoại, người khố rách áo ôm, người cùng đinh, người bị xã hội ruồng bỏ, người không theo phe mình, người không đồng đạo với mình,…

Có lẽ chúng ta cần nghiêm túc xem lại chính mình để có thể học cách cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người theo Hồi giáo; học suy niệm và chiêm niệm nơi người theo Ấn giáo; học từ bỏ của cải và quý trọng sự sống nơi người theo Phật giáo; học động thái thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi người theo Khổng giáo; học sự đơn sơ và khiêm tốn nơi người theo Lão giáo. Cái gì dở của mình thì dứt bỏ, cái gì hay của người khác thì học hỏi, đừng câu nệ bất cứ điều chi!

Lạy Chúa Cha nhân lành và thương xót, xin giúp các tín nhân biết noi gương Thánh Phanxicô Assisi để có thể “mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Lạy Chúa Kitô, Ngài đã làm vui lòng Chúa Cha bằng cách sống hòa đồng, chia sẻ phận người với chúng con, xin giúp mọi người biết sống tình huynh đệ tương thân tương ái, cùng giúp nhau sống tốt và cùng nhau xây dựng Giáo Hội hiệp nhất và yêu thương. Xin ban cho con trí thông minh tâm linh để con có thể quyết định đúng đắn, nói điều cần nói, và làm việc nên làm cho đúng ý Ngài. Con xin tín thác vào Ngài, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Trong cuộc sống, chúng ta thường đối xử với nhau theo tình cảm, thí dụ như nếu ai yêu thương chúng ta thì chúng ta yêu thương người đó, hay yêu thương những người thân thuộc, bạn bè. Còn ai thù ghét hay làm hại chúng ta, thì chúng ta lánh xa hay tìm cách trả thù.

Đối với người Kitô hữu thì khác. Chúa dạy chúng ta yêu mến Chúa như một người Cha, và yêu thương tha nhân như anh chị em. Tuy nhiên, câu hỏi là: tình yêu đối với tha nhân cần phải đi xa tới đâu, cần phải trải rộng tới đâu?  Người thông luật trong Tin Mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: “Ai là anh em của tôi?” Chúng ta thấy Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của ông, nhưng Chúa kể dụ ngôn người Samaria nhân hậu để trả lời cho ông, và dạy chúng ta là những người tin vào Chúa rằng: tình thương phải trải rộng đến tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ, kể cả những người thù ghét chúng ta nữa.

Dụ ngôn trong bài Tin mừng cho chúng ta thấy ba nhân vật, lần lượt là thầy tư tế, rồi đến một thầy trợ tế, cuối cùng là một người Samaria. Cả ba, kẻ trước người sau, đều đi trên một lộ trình từ “Giêrusalem xuống Giêricô.” Cả ba đều nhìn thấy cảnh đáng thương của một người lữ khách “bị rơi vào tay kẻ cướp, bị lột sạch, bị đánh nhừ tử và bị quẳng xuống bên vệ đường nằm rên rỉ. Dù trông thấy người lữ khách đang nằm “nửa sống nửa chết”, nhưng cả thầy tư tế lẫn thầy trợ tế đều “tránh qua bên kia mà đi.”  Còn người Samaria thấy cảnh đó và động lòng thương.”  Sự động lòng thương của người Samaria không dừng ở đôi mắt, không dừng ở tấm lòng, mà được thể hiện qua hành động cụ thể của đôi chân và đôi tay.

Vào thời đó, người Do thái và Samaria có những sự thù nghịch với nhau.  Người Do thái khinh thường và coi người Samaria là kẻ thù.  Nhưng thái độ của người Samaria đối với người Do thái bị nạn, nửa sống nửa chết, hoàn toàn khác với thái độ “tránh qua mà đi”, dửng dưng và vô cảm của người tư tế và trợ tế đối với người cùng chủng tộc, cùng cộng đoàn.

Sau câu chuyện, Chúa Giêsu đã hỏi người thông luật:  Vậy ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Người thông luật trả lời: Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy.”  Chúa Giêsu bảo ông và dạy chúng ta: Ông hãy đi, và làm như vậy.”

Ngày 30.09.1978, một chuyến xe lửa đi Colombia bị trật đường rầy. Tai nạn là 10 người bị chết và nhiều người bị thương. Trong số hành khách có một linh mục bị gãy chân, một phần ruột lòi khỏi bụng. Nhận ra ngài, các y tá chạy đến ân cần săn sóc, nhưng cha ra hiệu bảo họ đi săn sóc các hành khách khác và ngài lấy khăn băng phần ruột. Nói xong, cha xin người ta đưa đến những nạn nhân bị thương nặng đang hấp hối để giải tội cho những ai muốn xưng tội. Làm xong công tác mục vụ, cha nói với các y tá: “Cám ơn Chúa đã cho tôi thi hành chức linh mục đến giây phút cuối cùng, giờ đây có thể mang xác tôi đi”. Người ta chở vội cha đến nhà thương, nhưng chỉ vài giờ sau, cha đã trút hơi thở cuối cùng khi tuổi đời chưa tròn 36.

Yêu thương không phải là chỉ cho đi một cái gì hay một chút tiền, nhưng còn là hành động hy sinh, tha thứ và quên mình phục vụ tha nhân. Chính Chúa Giê-su đã làm gương hy sinh, từ bỏ, hiến thân cho nhân loại. Trong Tin mừng thánh Gioan, Chúa đã cho chúng ta biết:  “Không có tình yêu nào cao quí bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu.”( Ga 15, 13 ). Như vậy, người Ki-tô hữu chúng ta phải yêu thương bằng lòng quảng đại và sự hy sinh phục vụ thì mới đúng ý nghĩa, có giá trị và đúng với bản chất.

Nói tóm lại, bài Tin mừng hôm nay đề cập đến ba điểm quan trọng là lề luật, tình yêu thương và cuộc sống vĩnh cửu. Điểm chính yếu nhất là tình yêu thương bởi vì tình yêu thương có thể giúp chúng ta đạt được hạnh phúc vĩnh cửu.  Nếu chúng ta có lòng yêu mến Chúa với tất cả tâm hồn và thể xác, thì chúng ta sẽ thành tâm thực hành lời Chúa, đức tin của chúng ta sẽ sống động, sinh nhiều hoa quả tốt đẹp. Tình yêu mến Chúa sẽ là động lực giúp chúng ta sống bác ái, quảng đại, hy sinh giúp đỡ tha nhân trong niềm vui mừng.  Ngược lại, nếu không có lòng yêu mến Chúa chân thành thì luật lệ, lời Chúa và quảng đại chỉ là một cái ách đè nặng con người. Chúng ta thi hành luật và sống lời Chúa một cách miễn cưỡng và bề ngoài. Và chúng ta sẽ không thể tìm thấy bình an thật sự, niềm hy vọng và sự sống đời đời.

Chúng ta cũng phải ý thức yêu mến Chúa và nhân hậu với tha nhân là những yếu tố rất cần thiết cho đời sống Ki-tô hữu của chúng ta. Vì thế, người Ki-tô phải sống đức bác ái, thực hành tình yêu thương qua những việc làm cụ thể, qua lòng bác ái, hy sinh và quảng đại với mọi người, kể cả kẻ thù thì mới có bình an và hạnh phúc đời này và đời sau.

Về mục lục

.

 

HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Hình ảnh người Samari nhân hậu được chú trọng cách đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, như một thông điệp được gửi đến cho mọi người, tín hữu cũng như lương dân. Bởi lẽ, trong xã hội của chúng ta, con người càng ngày càng dửng dưng vô trách nhiệm với nhau. Những thông tin đau lòng ở mọi lãnh vực chúng ta nhận được hằng ngày qua các phương tiện truyền thông là hậu quả của chứng vô trách nhiệm ấy.
 
Một căn bệnh nữa không kém phần nguy hiểm, đó là căn bệnh lý thuyết. Nơi nhiều người, lời nói khác xa với thực tế. Trong ngôn từ thì lớn lao, nhưng hiệu quả thì nhỏ xíu.
 
“Yêu là quan tâm đến người khác và mong muốn những điều tốt lành đến với người đó”. Đây là một trong những định nghĩa của tình yêu. Vì quan tâm đến người khác, nên người ta sẵn sàng chịu thiệt thòi và hứng chịu những phiền toái vì người mình quý mến. Bạn chỉ muốn điều tốt cho mình, mà dửng dưng trước những người mình quý mến, trong lúc họ gặp khó khăn, thì tình yêu nơi bạn chỉ là đầu môi chót lưỡi.
 
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta thế nào là tình bác ái đích thực. Thánh Luca kể lại, trước tình trạng một nạn nhân bị đánh “nửa sống nửa chết” và bỏ rơi bên vệ đường, hai người đi ngang qua. Họ là những bậc vị vọng: một thày tư tế và một thày Lêvi. Hai vị này là những bậc đáng kính trong cộng đoàn phụng vụ Do Thái giáo và có chỗ ưu tiên trong Hội đường. Họ thường giảng dạy về đức bái ái và tỉ mỉ tuân giữa luật Môisen. Họ cũng được coi là những người trọn lành, hoàn hảo. Ấy vậy mà hai ông này “tránh qua bên kia mà đi”. Việc né tránh khi gặp người bị nạn là biểu hiện của chứng vô cảm, và cũng là hậu quả của bệnh lý thuyết mà không thực hành.
 
Nhân vật thứ ba là người Samari, tức là một người ngoại và đáng khinh. Dù không quen biết, không mối liên hệ, nhưng ông đã dừng lại chăm sóc cứu chữa nạn nhân một cách chu đáo. Ông đã chủ động nhận người bị nạn là người thân của mình. Ông không nhân danh một phong trào tổ chức hay tôn giáo nào, mà ông đại diện cho lòng nhân đạo, cho tình người.
 
Bài giảng của Chúa Giêsu đã làm cho cử tọa xôn xao. Những người vị vọng thì xấu hổ. Những người “thấp cổ bé họng” thì hân hoan. Bởi lẽ qua dụ ngôn này, Chúa đảo ngược quan niệm thông thường về người thánh thiện và người tội lỗi. Chúa xóa bỏ cái nhìn kỳ thị của người Do Thái đối với người ngoại giáo. Theo giáo huấn của Chúa qua dụ ngôn này, người biết quan tâm đến người bị nạn là người có tình yêu đích thực, bất kỳ họ mang nhãn hiệu nào.
 
Trong cuộc sống hiện tại, vẫn tồn tại một khuynh hướng chú trọng quá nhiều đến danh xưng. Có những danh xưng được mua bằng tiền bạc hay thủ đắc bằng dây dợ vây cánh. Tuy vậy, xã hội hôm nay đánh giá một con người không dựa trên chức vị hoặc danh xưng, mà  dựa trên khả năng và tài đức của người đó đối với những người xung quanh. Những chức vị không đi kèm với tài đức sẽ biến người mang chức vị đó thành một nhà tài phiệt. Những hình thức đạo đức mà thiếu nhân tâm, hay những lời có cánh mà thiếu tấm lòng sẽ nhanh chóng bị tróc đi như lớp sơn kém chất lượng phủ phết bên ngoài một bức tường.
 
Không phải vô cớ mà thánh Luca nhấn mạnh, người đặt câu hỏi cho Chúa là một “nhà thông luật”. Thánh sử cũng cho biết ông ta muốn thử Chúa. Xem ra phép thử của ông đã thất bại, vì qua câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu đã buộc ông phải đưa ra câu kết luận cuối cùng. Thay vì đặt câu hỏi: Ai là người thân cận của tôi? Người thông luật được mời gọi đặt câu hỏi: Tôi là người thân cận của ai. Qua sự kiện một người thông luật đặt câu hỏi: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Thánh sử Luca muốn khẳng định ông này chỉ lý thuyết sách vở. Biết đâu, hình ảnh người tư tế hay Lêvi trong dụ ngôn lại là chính vị thông luật đang tỏ ra khôn ngoan về lý thuyết nhưng dại khờ về thực tế!
 
Bác ái yêu người là cốt lõi của Đạo Chúa. Ông Môisen nhắc lại cho dân Israen điều luật căn bản này, đồng thời khuyên họ hãy đem ra thực hành. Luật Chúa chẳng phải đâu xa, cũng không hệ tại ở những bài thuyết trình tràng giang đại hải. Luật ấy cũng chẳng vượt quá sức con người, nhưng rất gần gũi và giúp con người hướng thiện. Cách nói của ông Môisen đã diễn tả điều đó: “Lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em để anh em đem ra thực hành”. Nói cách khác, ngay thẳng trong ngôn hành, trung thực trong cách sống, chính là thực hành Luật của Chúa và đón nhận Lời Ngài.
 
Bác ái yêu thương cũng là giới răn mà Chúa Giêsu truyền dạy. Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa cao sang, đã không ngần ngại nhận chúng ta làm anh em. Người là người Samari nhân hậu đến trần gian để chăm sóc một nhân loại bầm dập vì tội lỗi, để phục con người, giúp họ trở về tình trạng thánh thiện nguyên thuỷ. Nhờ máu Người, mối giao hoà giữa Thiên Chúa và con người được tái thiết lập (Bài đọc II).
 
“Ông hãy đi và cũng làm như vậy”. Không rõ người thông luật phản ứng ra sao trước lời khuyên này, nhưng chắc chắn một điều, ông không còn dám khoe khoang sự thông thái của mình nữa.
 
“Ông hãy đi và cũng làm như vậy”. Đây là một một gợi ý cụ thể Chúa đang ngỏ với cộng đoàn phụng vụ của chúng ta hôm nay. Sau khi được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, chúng ta lên đường, có Chúa ở với chúng ta. Hãy sống với nhau bằng tấm lòng để trở thành thân cận của anh chị em mình.

Về mục lục

.

NHỚ MANG THEO TRÁI TIM

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước muôn đời của mọi người. Hôm nay, một thày thông luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi Chúa “làm cách nào để được hưởng sự sống đời đời”.

Để trả lời ông, Chúa Giêsu kể câu chuyện, một câu chuyện bình thường xảy ra hằng ngày: Một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp trấn lột, đánh nhừ tử, dở sống dở chết nằm rên rỉ bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế tránh qua bên kia đường mà đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria, một người ngoại đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa hết, ông còn chở nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ quán chăm sóc nạn nhân cho đến khi bình phục.

Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Đường Giêrikhô tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là con đường gập ghềnh khó đi. Đó là con đường nguy hiểm vì có trộm cướp rình rập. Đó là con đường thử thách. Để vượt qua thử thách, vũ khí duy nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng có những phẩm chất như sau:

Đó phải là một trái tim nhạy bén.

Người xứ Samaria nhân hậu có một trái tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó ngựa phi nhanh, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn, các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh cửa lề luật: Sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế không được tới đền thờ dâng lễ vật. Người xứ Samaria không nghe bằng đôi tai, không nhìn bằng đôi mắt, nhưng nghe và nhìn bằng trái tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng. Có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong tâm khảm.

Đó phải là một trái tim quan tâm.

Trái tim quan tâm đưa ta đến gần gũi anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em. Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy người bị nạn đã tránh sang bên kia đường mà đi. Người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân. Vì có trái tim quan tâm nên ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Vì quan tâm nên ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải. Chẳng học nghề thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo. Chẳng có kỹ thuật mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm tất cả theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác và nhất là với nhiệt tình để cứu nạn nhân.

Đó phải là một trái tim chung thuỷ.

Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi, nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng. Người xứ Samaria bận rộn công việc, nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy đủ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang. Và khi xong việc ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng: đường đến sự sống đời đời là con đường mọi người vẫn đang đi. Nhưng chỉ người đi với trái tim mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác vì các thầy không mang theo trái tim. Người xứ Samaria đã đi đến nơi vì ông đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.

Chúa Giêsu dạy tôi bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Theo ý bạn đâu là những dấu hiệu cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?

2- Mỗi khi gặp một người cần giúp đỡ, bạn có hăng hái ra tay giúp ngay hay còn chần chờ, viện lý do để thoái thác?

3- Sau khi nghe dụ ngôn “Người xứ Samaria nhân hậu”, bạn có quyết tâm gì?

4- Mang theo trái tim nghĩa là gì?

Về mục lục

.

NGỤ NGÔN VỀ TÌNH YÊU

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Chuyện kể rằng ngày xưa, có một hòn đảo – nơi có tất cả mọi cảm xúc sinh sống : Hạnh phúc, Giàu có , Nỗi buồn , Tri thức và những cái khác bao gồm cả Tình yêu.
Một ngày kia , các cảm xúc được thông báo rằng hòn đảo sẽ chìm. Vì vậy tất cả đều đóng thuyền và rời đi ngoại trừ Tình yêu. Tình yêu là người duy nhất ở lại.
Tình yêu muốn chống chọi đến giây phút cuối cùng. Khi hòn đảo sắp chìm, Tình yêu mới quyết định nhờ giúp đỡ. Sự giàu có đi ngang qua trên 1 chiếc thuyền rất lớn, Tình yêu nói : ” Giàu có ơi , có thể đưa tôi đi cùng không ? ” Giàu có trả lời : ” tôi không thể, trong thuyền có rất nhiều vàng bạc, đây không có chỗ cho anh đâu ” . Tình yêu bèn quyết định nhờ Phù hoa , người cũng đi qua trên một con tàu rất đẹp . ” Phù hoa ơi , hãy giúp tôi !”. “Tôi không thể giúp anh Tình yêu ạ ! Anh quá ẩm ướt và có thể sẽ làm hỏng tàu tôi” Phù hoa trả lời.
Nỗi buồn đang ở gần đó, Tình yêu nói: “Nỗi buồn ơi! Hãy cho mình đi với cậu”. “Ôi Tình yêu, mình buồn quá, mình chỉ muốn được ở một mình”. Bỗng nhiên có 1 tiếng gọi: “Lại đây Tình yêu. Ta sẽ đưa cháu đi”, đó là 1 người lớn tuổi. Quá vui mừng và sung sướng, Tình yêu quên cả hỏi xem họ đi đâu. Khi đến 1 miền đất khô ráo, người lớn tuổi ấy lại tiếp tục đi con đường của mình.
Tình yêu hỏi Tri thức – một người lớn tuổi khác.
– Ai vừa giúp cháu vậy ?
– Đó là Thời gian – Tri thức trả lời.
– Thời gian ư ? – Tình yêu hỏi – Nhưng tại sao lại giúp cháu.
Tri thức mỉm cười khôn ngoan rồi nói: “Bởi lẽ chỉ có Thời gian mới hiểu được giá trị của Tình yêu”.
Người ta nói rằng: “Bạn chưa cần đến 3 giây để nói “I love you”, chưa đến 3 phút để giải thích câu nói ấy, chưa đến 3 ngày để cảm nhận được ý nghĩa của nó, nhưng để chứng minh câu nói đơn giản ấy thì cả cuộc đời vẫn là chưa đủ”.
Thực vậy, đâu dễ để nói “I Love you” với người xa lạ, càng đâu dễ để thổ lộ với người thù ghét chúng ta. Xem ra con người còn cần nhiều thời gian để thấy giá trị của tình yêu, để có thể sống cho tình yêu. Con người còn cần nhiều thời gian để học yêu thương và thực hành yêu thương. Con người phải học cách yêu thương ngay cả với những con người còn khiếm khuyết, còn bất toàn, đôi khi còn phải yêu thương ngay cả những kẻ xa lạ và thù nghịch với chúng ta.
Hôm nay Chúa mời gọi ta hãy có tình yêu thương với mọi phận người. Tình yêu sẽ làm cho từ xa lạ trở nên thân cận với nhau. Tình yêu sẽ phá vỡ mọi ngăn cách, kỳ thị bởi chính trị, tôn giáo, màu da sắc tộc. Tình yêu sẽ làm cho con người thêm gần gũi nhau và hợp nhất với nhau. Tình yêu mời gọi chúng ta dấn thân phục vụ nhau. Không phân biệt giai cấp. Không phân biệt tôn giáo như người Samaria năm xưa đã làm. Tình yêu giúp người ta dễ dàng cúi xuống phục vụ mà không so đo tính toán thiệt hơn.
Ky-tô giáo là đạo của yêu thương. Xin cho chúng ta luôn biết thể hiện niềm tin của mình bằng hành vi yêu thương người thân cận. Người thân cận được hiểu là người ta đang sống, đang gặp gỡ, đang mời gọi chúng ta cảm thông, nâng đỡ, yêu thương. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà hãy can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ nặng trĩu bông lúa vàng yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

TÔI LÀ ANH EM CỦA AI?

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là một thắc mắc do nhà thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” (Lc 10,25). Biết ông ta là nhà thông luật nên Chúa Giêsu yêu cầu ông hãy tự tìm lời giải đáp. Ông đã tìm thầy và trả lời rất chính xác khi tóm lược hai Giới răn chính : “Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn, và thương mến anh em như chính mình” (Lc 10,27). Chúa khen ông trả lời đúng, nhưng để biện minh, ông hỏi thêm: “Nhưng ai là người anh em của tôi?” (Lc 10,29). Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để trả lời ông. “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô…” khi đọc lên mọi người biết ngay: đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu !

Quan niệm của người Do thái về người thân cận

“Ai là anh em của tôi ?” Trong Do thái Giáo thời bấy giờ có sự bàn cãi về người anh em của người Israel. Vì theo họ, phạm trù “người anh em” bao gồm tất cả những người đồng hương với mình và những người dân ngoại bí mật theo Do Thái giáo. Khi chọn nhân vật (một người Samaritanô đến giúp đỡ một người Do thái!) Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, phạm trù người anh em là phổ quát. Chân trời của nó là nhân loại chứ không phải gia đình, chủng tộc, hay tôn giáo. Người thù chúng ta cũng là một người anh em! Tin Mừng theo Thánh Gioan dẫn chứng những người Do thái trên thực tế không có tương quan tốt với những người Samaritanô (x. Ga 4,9).

Mọi người là anh em với nhau

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng tình yêu người thân cận không những phải phổ quát mà con phải cụ thể và tiên phong thực hiện. Người Samaritanô cư xử thế nào trong dụ ngôn? Nếu người Samaritanô chấp nhận nói với người bị hại đang nằm đó trong vũng máu rằng, kẻ vô phúc! Sao xảy ra như vậy? Hãy vui lên! Hay một điều tương tự, rồi tiếp tục lên đường, thì tất cả những sự kiện đó không phải là mỉa mai sao? Trái lại, ông đã làm một nghĩa cử cho người bị hại : “Ông ta lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: “Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông.” (Lc 10,34-35). Cuối dụ ngôn Chúa Giêsu hỏi người thông luật : “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó [thầy Lêvi, thầy tư tế, người Samaritanô] là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” (Lc 10,36)

Điều mới lạ trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu không phải là Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu cụ thể, phổ quát. Nhưng mới lạ ở tại một cái gì khác, mà Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI : Chúa Giêsu đem đến một sự đảo ngược bất ngờ trong quan niệm truyền thống về người anh em. Người Samaritanô là anh em chứ không phải là người bị thương tích, như chúng ta vẫn quan niệm. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải đợi cho tới khi người anh em chúng ta xuất hiện trên đường đi của chúng ta, có lẽ là quá thê thảm. Chúng ta phải sẵn sàng nhận ra họ, gặp họ. Tất cả chúng ta được kêu gọi nên người anh em! Vấn đề của người thông luật bị đảo ngược. Từ một vấn đề trừu tượng và lý thuyết, trở thành một vấn đề cụ thể và sống động. Câu hỏi không phải là : “Ai là người anh em của tôi? ” Nhưng “ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của ai? (x Chương 7 sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”).

Tôi là anh em của ai?

Giả thiết, nếu Chúa Giêsu đến với dân Israel hôm nay và một người thông luật lại hỏi Người, “Ai là người anh em của tôi? ” Người sẽ thay đổi một chút bài dụ ngôn và thay vì người Samaritanô, Người sẽ đặt một người Palestin! Nếu một người Palestin hỏi Người cũng một câu hỏi, thì trong chỗ người Samaritanô chúng ta sẽ gặp một người Israel!

Chúng ta không áp dụng cho Trung Đông nữa. Nếu có ai trong chúng ta đang ngồi đây hỏi Chúa Giêsu : Ai là người anh em của con, thì Người sẽ trả lời sao? Chắc chắn Người sẽ nhắc chúng ta rằng người anh em chúng ta không những là người đồng hương Việt Nam máu đỏ da vàng với chúng ta, nhưng cũng là những kẻ ngoài cộng đồng chúng ta, không những là những người Kitô hữu mà còn những người Phật Giáo, không những là những người Công Giáo mà cũng là những người Tin Lành, không những là người cùng tín ngưỡng mà cả những người vô thần nữa. Nhưng Người sẽ nói thêm liền là  điều này không phải là quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất  không phải biết ai là người anh em của tôi nhưng là thấy ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của những ai, tôi có thể làm người Samaritanô nhân hậu cho ai.

Hôm nay, Chúa nói với chúng ta : “Hãy đi và làm y như vậy” (Lc 10,37), làm như người Samaritanô đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: Ai là anh em tôi? Nhưng hãy đi và tỏ ra mình là anh em của mọi người. Amen.

Về mục lục

.

CÓ ĐẠO, SỐNG ĐẠO

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Có lần nghe ca sĩ Hương Lan hát bài “Lạy Chúa, con là người ngoại đạo” với lời ca: Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ngự trên cao; tôi tự hỏi: tại sao là người ngoại đạo mà lại tin là có Chúa ngự trên cao ? Đã tin có Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn là ngoại đạo thì chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo đó thôi.

Tôi đã gặp nhiều người có đạo mà không sống đạo. Và tôi cũng đã gặp nhiều người sống đạo mà không có đạo.

Nói về đạo và sống đạo, tôi thấy trong Phúc Âm có nhiều câu chuyện tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.

– Khi Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ, đường dài, sức nặng của thập giá, kiệt sức vì bị hành hạ, Ngài gục ngã đến ba lần. Kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa là ông Simon người xứ Kyrênê, một người ngoại đạo.

– Khi Chúa Giêsu đến Caphanaum, Viên Bách Quản, một người ngoại đạo đến gặp và van xin: Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà đau đớn lắm. Chúa nói: Ta phải đến chữa nó. Viên Bách Quản thưa lại: Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, nhưng Ngài hãy phán một lời, đứa hầu nhà tôi sẽ khỏi. Nghe vậy Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: Quả thật Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel.

– Một lần khác, Chúa Giêsu vào một làng kia, có mười người phong hủi đến gặp Ngài. Từ đàng xa họ đã lên tiếng thưa: Lạy Thầy Giêsu xin thương xót chúng tôi. Thấy vậy, Chúa bảo họ: Hãy đi trình diện với hàng Tư Tế. Và xảy ra là khi họ đi thì họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch liền quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari, người ngoại đạo. Chúa Giêsu cất tiếng nói: Không phải là cả mười người được sạch cả sao, chín người kia đâu không thấy họ quay trở lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại này?

– Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn: một người ở Giêrusalem xuống Giêricô, giữa đường bị bọn cướp trấn lột, đánh cho nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Thầy Tư Tế đi qua, thấy vậy liền lãng tránh. Thầy Lêvi đi tới cũng chẳng ngó ngàng, bỏ mặc nạn nhân. Một người ngoại đạo Samari đi ngang, thấy người lâm nạn, chạnh lòng thương liền băng bó, đặt lên lưng lừa đưa về quán trọ, nhờ chủ quán săn sóc rồi trả hết mọi phí tổn.

Thầy Tư Tế, Thầy Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa họ còn là kẻ rao giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng không sống đạo. Người Samari,kẻ sống đạo lại là người không có đạo.

Như thế kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa trên con đường dài với những bước chân xiêu té cuối đời là người ngoại đạo. Kẻ tỏ lòng biết ơn khi được Chúa chữa lành là người ngoại đạo. Kẻ thể hiện lòng bác ái xót thương không phải là Tư Tế, là Lêvi, các chức sắc trong đạo mà là người Samari, người ngoại đạo.

Khi băn khoăn tự hỏi: thế nào là người bên ngoài, thế nào là người bên trong ? Thế nào là có đạo, thế nào ngoại đạo ? Tôi thấy trong Phúc Âm có lần Chúa Giêsu nói: Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ từ Phương Đông, Phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Giacop trong Nước Trời, còn chính con dân trong nước lại sẽ bị đuổi ra ngoài tối tăm.

Vậy thì có một khoảng cách rất lớn giữa hiểu biết về đạo và sống đạo. Đạo thì mênh mông vô bờ bến như đất trời, làm sao có thể đem đạo vào một định nghĩa chật hẹp được ? Làm sao có thể nhốt đạo vào nhà thờ ? Làm sao vẽ chân dung đạo bằng tờ giấy rửa tội được ? Bởi lẽ “Đạo khả đạo phi thường Đạo” (Lão Tử)

Hiểu biết về đạo được thể hiện qua đời sống đạo. Có người nói rằng: tôi tin đạo chứ tôi không tin người có đạo. Đạo thì tốt, nhưng nhiều người có đạo lại xấu. Có nhiều người ngoại đạo lại tốt hơn người có đạo. Họ nói như thế vì họ thấy nhiều người có đạo mà lại không sống đạo của mình. Quả thật, con đường dài nhất là con đường từ cái đầu đến bàn tay. Giữa suy nghĩ, lời nói và việc làm, giữa hiểu biết và cuộc sống có một khoảng cách thật lớn.

Đức Khổng Tử đã nói chí lý: Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo. Nghĩa là: đạo không xa cái bản tính của người ta, nếu theo đạo để cho xa cái bản tính của người ta thì không phải là đạo.

Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Thiên Chúa làm người, rất gần gũi với con người. Vì con người là con đường của Giáo hội (Thánh Gioan Phaolô II). Người Đông Phương lấy chữ nhân mà định nghĩa con người: nhân là người, nhân là nhân ái là lòng thương người. Ai không biết thương người khác là kẻ không xứng danh là người. Nhân bản và nhân ái có quan hệ mật thiết với nhau.

Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể, tôi thấy rằng, cái khác biệt sâu xa giữa Kitô giáo và Do Thái giáo, đó là: một bên là đạo của tình yêu, một bên là đạo của lề luật. Tư Tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Thấy người bị nạn, người Samari tốt lành đã động lòng xót thương. Lương tâm và tình thương đồng loại thúc đẩy anh cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn bất chấp nạn nhân là người Do Thái thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc của anh. Cung cách hành xử đầy tình thương này mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Nhìn từ lăng kính luật pháp Do thái, hai ông Tư Tế và Lêvi đã không sai. Luật Cựu Ước dạy rằng, Tư Tế không được đụng vào thây người chết vì sợ bị ô uế. Nếu ô uế thì không được phục vụ trong đền thờ. Nạn nhân dở sống, dở chết, tức là có thể chết. Hai người Tư Tế và Lêvi không dám chạm đến người có thể chết. Họ lựa chọn lề luật. Sách luật Lv 21 ghi rõ điều khoản luật này khi nhắc đến Tư Tế và người chết. Người Samari lựa chọn bác ái. Anh không ngại chạm đến người dở sống dở chết này. Anh chăm sóc, lo lắng cho bệnh nhân như người thân và anh đã vượt quá giới hạn lề luật để sống theo bác ái. Khi phải lựa chọn giữa lề luật và bác ái, người nhân hậu lựa chọn bác ái dù biết các ràng buộc của lề luật. Người ấy không bỏ qua lề luật, không đả phá lề luật nhưng vượt trên lề luật nên đã làm trọn lề luật.

Chúa Giêsu hỏi người thông luật:”Ai là người thân cận của nạn nhân đã sa vào tay kẻ cướp?”. Người ấy đáp: “Người đã đem lòng từ bi thương nạn nhân“.

Chúa Giêsu đã khéo léo lái vấn đề từ câu hỏi người thông luật: ai là người thân cận của tôi ? sang gợi ý tuyệt vời của Ngài: tôi là người thân cận của ai ? Trả lời câu hỏi này có lẽ phải đi từ cuộc sống cụ thể của mình. Khi tôi đến gần ai để phục vụ với tình yêu thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy thành người thân cận với tôi. Ai cũng có thể trở thành người thân cận của tôi nếu tôi yêu thương họ bằng tình yêu mà Chúa đã thương yêu tôi.

Càng hiểu biết về đạo càng phải sống đạo. Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ Lời Thầy”. Đạo của Thầy Giêsu là Đạo Tình Yêu. Yêu Chúa, Yêu Người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Yêu Chúa đích thực thì phải yêu người. Thánh Gioan viết : “Ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối”. Đối với Thánh Phaolô: “Yêu thương là giữ trọn lề luật”. Lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu mà cho người không có tình yêu. Nếu không có tình yêu thì việc làm theo lề luật có tốt đến đâu cũng vô giá trị: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. Thánh Augustinô khuyên nhủ: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu sẽ cho biết ta phải làm gì.

Tin Mừng hôm nay là câu chuyện đẹp về tình yêu thương, sống đạo cụ thể. Người Samari nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Anh đã cho đi mà không tính toán, không chờ đợi một lời cảm ơn nào, và có lẽ anh vừa đi vừa hát bài ca hạnh phúc. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống và thực thi yêu thương: “Hãy đi và làm như vậy”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con rằng: không phải những người cứ kêu lên “Lạy Chúa, Lạy Chúa..” là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha mới được vào mà thôi. Xin cho Lời ấy in vào lòng trí giúp chúng con luôn biết thể hiện trong đời sống đạo hàng ngày. Amen.

Về mục lục

.

CHIÊM NGẮM LÀM SAO, YÊU LÀM VẬY

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Ông thầy thông luật là một người Do Thái chính hiệu, thường xuyên suy niệm về luật pháp của Cựu Ước, chắc hẳn ông thừa hiểu rằng: yêu người là một luật điều mà mọi người Do Thái đều phải tuân giữ, dựa trên giao ước đã ký kết với Đức Chúa Gia-vê. Chính việc giữ các giới luật này sẽ tạo nên sự công chính thánh thiện, có sức mang lại sự sống đời đời, trong khi yêu người được ông hiểu là yêu người cận thân, còn kẻ thù thì đương nhiên phải ghét bỏ (xem Đnl 19:18-21); và điều này thật là hợp lý và rất thường tình, người cận thân trở thành người thân cận có đi có lại với mình; thậm chí ngay cả Đức Chúa Gia-vê trong lịch sử giải phóng cũng đã có đi có lại rất sòng phẳng với dân riêng của Ngài. Cũng chính vì quan niệm về Đức Chúa được luật pháp trình bày như thế, nên thầy thông luật đã có thể biện minh cho khái niệm ‘yêu đồng loại và ghét kẻ thù’ của mình là hợp lý.

Đức Giê-su cũng đặt ‘yêu người’ thành ‘luật’ nền tảng của Giao Ước Mới; đối với Người, yêu người cũng vẫn là yêu người cận thân, yêu đồng loại, tuy nhiên nội dung của hạn từ ‘cận thân’ này hình như đã được mở rộng tới chân trời vô tận, rộng tới độ, nó hầu như đã mang lấy một ý nghĩa hoàn toàn mới, một cái mới vô tiền khoáng hậu. Đức Giê-su giải thích, bắt đầu bằng việc kể câu chuyện dụ ngôn về ‘người Sa-ma-ri tốt lành’, rồi ứng dụng bằng chính cái chết của Người trên thập giá, như một minh chứng cụ thể. Người muốn xác quyết rằng: chính Thiên Chúa là người đầu tiên thực hành cái ‘luật yêu người’ rất mới mẻ này. Quả vậy các Ki-tô hữu chúng ta, qua hình ảnh người Sa-ma-ri nhân hậu, luôn chiêm ngắm một Thiên Chúa yêu thương cứu vớt, một Thiên Chúa luôn chủ động đi bước trước, hiện thân cách cụ thể trong một Giê-su Ki-tô tự hiến và trao ban cách tự nguyện trên thập giá. Nhờ thế mà sự hiểu biết và thực thi ‘yêu người cận thân’ của các Ki-tô hữu cũng sẽ được biến cải hoàn toàn, tùy theo mức độ họ chiêm ngắm ‘Người Sa-ma-ri Tốt Lành’ đó ra sao.

Thiên Chúa mà Ki-tô hữu ký kết giao ước với, sẽ không còn là một Thiên Chúa chỉ yêu kẻ lành thánh và ghét bỏ kẻ tội lỗi, ân thưởng người lành và trừng phạt kẻ gian ác, như quan niệm thông thường của nhiều tôn giáo và ngay cả của Cựu ước. Khi bắt gặp một người sa ngã, Người đâu có như các thày tư tế và Lê-vi ‘tránh qua bên kia mà đi’. Thậm chí nhiều lần Người đã so sánh mình với thầy thuốc đến vì người bệnh chứ đâu vì người khỏe mạnh, với người mục tử bỏ cả đàn lại để ra đi tìm con chiên lạc. Người không những không xa tránh người bị phong hủi ghê tởm, mà còn chạm tới và chữa lành anh ta; không xua đuổi mà còn để cho người đàn bà tội lỗi ôm hôn chân mình… Ki-tô hữu phải biết rằng: mình đã ký kết Giao Ước Mới với một Thiên Chúa như thế. Mà làm sao họ không biết cho được, khi mà ngay từ khởi đầu ơn gọi Ki-tô hữu, chính họ đã lãnh nhận Phép Rửa thứ tha, và liên tục trong suốt đời sống không ngừng nhận đi lãnh lại bí tích Hòa Giải với lòng thống hối ăn năn? Đối với họ, hình ảnh người Sa-ma-ri tốt lành vẫn còn là quá mờ nhạt, so với ánh sáng nhân ái chói chang mà Đức Ki-tô Giê-su đã thực hiện trên thập giá, cho cá nhân họ và cho toàn nhân loại!

Ấy thế mà hình như vẫn còn điều gì chưa ổn: nếu trong tư cách Ki-tô hữu, chúng ta thật sự thường xuyên chiêm ngắm (chưa nói tới kết hợp mật thiết) một Giê-su – Thiên Chúa như thế; nếu ta liên tục làm dấu Thánh Giá và cử hành hiến tế Thập Giá… thì tại sao ta vẫn chưa thể yêu người cận thân, thậm chí ngay trong suy tưởng chứ chưa nói tới hành động? Cho tới giờ vẫn chẳng thấy gì chuyển biến cả; ta vẫn cứ đòi cho bằng được người ta phải yêu mình trước, để rồi mình yêu lại sau… Yêu người của chúng ta – Ki-tô hữu đâu có gì khác với yêu tha nhân của dân ngoại’ sống chung quanh, vẫn tính toán hơn thua, vẫn ‘hòn đất ném đi hòn chì ném lại’, vẫn chẳng mấy lộ rõ nét ‘tự hiến’ (cho dầu nhiều người, nhất là các linh mục tu sĩ, vẫn tự mãn đề cao và áp dụng hạn từ đó cho mình). Lý do có thể là: vẫn còn tồn tại một thiếu sót trầm trọng nào đó trong việc chiên ngắm ‘Người Sa-ma-ri Thập Giá’ của các Ki-tô hữu chúng ta; “Ông hãy đi, và cũng làm như vậy”, lời Đức Giê-su nói với ông thầy thông luật, lẽ ra phải là cả một chương trình chiêm ngắm và hành động của mỗi Ki-tô hữu chúng ta qua các thời đại.

Ồi, nếu tôi đã biết chiêm ngắm nhiều hơn nữa một Thiên Chúa “đã thực thi lòng thương xót đối với…” chính tôi; một Thiên Chúa đã coi tôi là một cận thân, ngay cả khi tôi thù hằn và đối nghịch với Người, đã “chạnh lòng thương… lại gần, lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho tôi, băng bó lại… rồi vực lên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc…”! Tôi thiết nghĩ: toàn bộ chương trình sống của Ki-tô hữu chúng ta chỉ hệ tại ở việc ‘chiêm ngắm’ lòng thương xót Chúa đã dành cho mình, rồi ra đi… và cũng làm như vậy.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm một Giê-su Thập Giá mà ‘người Sa-ma-ri tốt lành’ trong bài dụ ngôn chỉ là một phác thảo mờ nhạt; và câu kết của câu chuyện cũng là một lời mời gọi tôi: ‘hãy ra đi, và hành động như Người’.

Lạy Chúa Giê-su, để xây dựng và củng cố niềm tin và đời sống Ki-tô hữu của con, con sẽ không xin Chúa giúp con điều gì khác ngoài việc biết say sưa chiêm ngắm tình yêu thương xót Chúa biểu hiện nơi Thập Giá, cách riêng mỗi lần cử hành cách sinh động Thánh Lễ, là mầu nhiệm tự hiến Chúa dành cho chính con. Làm sao để, càng chiêm ngưỡng và cử hành Đức Ki-tô – ‘Người Sa-ma-ri Thập Giá nhân hậu’, con càng biết sống và thực thi tình yêu cận thân cách chân thành và quảng đại hơn nữa. A-men.

Về mục lục

.

TRẢ NỢ LÒNG THƯƠNG XÓT

Trầm Thiên Thu

Chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, Hoa Kỳ) so sánh một thực tế đơn giản mà thâm thúy: “Thà lên giường ngủ mà không ăn tối còn hơn thức dậy vẫn mang nợ nần”. Nghèo mà không nợ ai, thế là an tâm, thế là hạnh phúc rồi.

Có nhiều dạng nợ, thực tế đời thường là nợ về tiền bạc, vật chất. Có lẽ không ai lại không đã từng hơn một lần là con nợ của người khác, chí ít cũng là vài chục ngàn đồng (theo giá trị tiền Việt Nam ngày nay).

Số tiền nợ càng nhiều thì mức khổ càng nhiều. Vì nghèo mà mắc “cái eo”, chẳng đặng đừng mà phải chịu mang nợ, chứ chẳng ai muốn. Đó là nói những con người làm ăn lương thiện, còn những người “bóc ngắn, cắn dài”, “vung tay quá trán” hoặc “sĩ diện” mà phải mang nợ thì… miễn bàn.

Con nợ khổ thật. Chính cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858) đã “Than Nghèo” thế này: “Chửa chán ru mà quấy mãi đây, Nợ nần dan díu mấy năm nay, Mang danh tài sắc cho nên nợ, Quen thói phong lưu hóa phải vay”. Ngày nay gọi đó là… “chảnh”.

Có những món nợ vì vay mượn – tất nhiên là phải trả, nhưng có những món nợ không vay mượn mà vẫn phải trả: nợ yêu thương, nợ thương xót. Nói là “không vay” chứ thật ra người ta vay mượn nhau một cách mặc nhiên, ngầm hiểu mà thôi.

Hãy nghe Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8a). Món nợ này rất kỳ diệu, bởi vì “ai yêu người thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13:8b). Yêu người là yêu Chúa, miệng nói kính mến Thiên Chúa mà không yêu thương tha nhân thì chỉ là nói xạo (x. 1 Ga 4:7-21). Tuy nhiên, Chúa Giêsu còn “nghiêm khắc” hơn về món nợ này, Ngài bắt buộc mỗi người trong chúng ta đều phải “trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5:26).

Đó cũng là mệnh lệnh. Thời Cựu Ước, ông Môsê nói với dân chúng: “Nếu anh em nghe tiếng Chúa, Thiên Chúa của anh em, hãy giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ. Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em” (Ðnl 30:10-11). Ông cho biết thêm rằng mệnh lệnh đó không ở trên trời, cũng không ở bên kia biển, mà ở rất gần chúng ta, ngay trong miệng, ngay trong lòng chúng ta, để chúng ta đem ra thực hành (Ðnl 30:12-14).

Thật vậy, có lẽ chúng ta sống trên mây nên thích mơ mộng xa vời, hão huyền, chuyện gần không lo mà cứ ngóng chuyện đâu đâu. Nói theo kiểu bình dân là “lo bò trắng răng”. Phép lạ hằng ngày xảy ra xung quanh chúng ta, cụ thể là xảy ra cho mỗi chúng ta, thế mà nghe nói ở đâu có “sự lạ” là đã xôn xao rồi. Kể cũng kỳ cục thật đấy!

Vâng, Hồng Ân Thiên Chúa luôn dạt dào, bao la, cao vời khôn ví. Tác giả Thánh Vịnh đã cảm nhận sâu sắc nên đã thốt lên: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ” (Tv 69:14).

Tuy nhiên, không phải vì thế mà ỷ lại, ảo tưởng. TIN Thiên Chúa yêu thương mình thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG Thiên Chúa yêu thương mình thì là kiêu ngạo. Làn ranh giữa TIN và TƯỞNG rất mong manh, phải hết sức cẩn thận, đồng thời phải thành tâm cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến” (Tv 69:17).

Có nhiều lý do để chúng ta cầu xin, đơn giản nhất là nhận biết mình yếu đuối: “Phần con đây, thật khốn cùng đau khổ, lạy Chúa Trời, xin cứu vớt đỡ nâng” (Tv 69:30). Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, mà trước tiên phải là tạ ơn và chúc tụng: “Tôi sẽ hát bài ca chúc mừng Danh Thánh, sẽ dâng lời cảm tạ tán dương Người” (Tv 69:31). Được như vậy thì Thiên Chúa sẽ vui mừng chúc lành cho chúng ta.

Với đứa con yếu đuối, cha mẹ yêu thương đặc biệt. Đó là hình bóng của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì Ngài rất yêu thương và quan tâm những người mọn hèn – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, như Thánh Phaolô xác nhận: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).

Thế thì thật may mắn cho những tội nhân chúng ta! Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta “mắc nợ” Ngài. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh mời gọi và động viên: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhậm lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm” (Tv 69:33-34).

Thánh Phaolô xác nhận rằng “Đức Kitô đứng hàng đầu”, vì Ngài là Vua của các vua và Chúa của các chúa, mọi quyền hành. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con” (Ga 5:22-23).

Thánh Phaolô phân tích: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1:15-16).

Thật hạnh phúc vì chúng ta được ơn nhận biết Đấng mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất, chứ không có bất cứ thần linh nào khác. Điều này thật hay không, và Đấng đó là ai? Thánh Phaolô cho biết: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự, Người đứng hàng đầu” (Cl 1:17-18). Như vậy là quá rõ ràng, chúng ta đều là các chi thể, nghĩa là chúng ta không thể là một “phần rời”, mà là “phần dính” thì có tính liên đới về mọi sự – cả hữu hình và vô hình, cả tâm linh và xã hội. Ai tự tách rời là tự hủy diệt.

Quả thật, Thánh Phaolô cho biết nguyên nhân rạch ròi: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:19-20).

Thiên Chúa đại lượng, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng, thế nhưng được nhận lãnh mọi thứ rồi chúng ta lại quá hẹp hòi, ngôn hành không song song về việc thực thi đức ái hoặc lòng thương xót, không chỉ với nhau mà đôi khi chúng ta còn so đo với chính Đấng đã đại lượng với mình. Tệ thật đấy!

Trình thuật Lc 10:25-37 nói về lòng thương xót. Thật vậy, yêu thương là “điều răn lớn” hơn hết.

Một hôm, có người thông luật muốn thử Chúa Giêsu nên hỏi Ngài về cách sống tốt nhất để được sự sống đời đời. Đức Giêsu trả lời bằng cách hỏi ngược lại ông ta: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”. Là người thông luật nên ông ta nói trôi chảy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy thì sẽ được sống.

Một tấc lên tới trời. Nếu được hỏi, chắc hẳn chúng ta cũng có thể trả lời ngay, không cần suy nghĩ lâu. Nhưng đó mới chỉ là lời nói suông. Từ miệng tới tay là con đường rất ngằn nhưng cũng rất dài, giống như vô tận vậy.

Đức Giêsu nói vậy quá đúng, nhưng ông ta muốn chứng tỏ là mình có lý, nên hỏi vặn: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”. Đức Giêsu cười và ôn tồn kể dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành:

Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có THẦY TƯ TẾ cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một THẦY LÊ-VI đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một NGƯỜI SA-MA-RI kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông đưa tiền cho chủ quán và nhờ săn sóc nạn nhân, tốn kém thêm bao nhiêu rồi ông sẽ hoàn lại sòng phẳng.

Nghe dụ ngôn này thấy “nhột” quá. Là thầy này thầy nọ, ông nọ bà kia, chức cao phẩm lớn, nhưng viện đủ lý do để làm ngơ người khác: lấy cớ bận việc, không có thời gian, vội vì có việc gấp, không muốn khó đến mình,… Đó là tự biện hộ cho sự vô cảm xấu xa của mình. Còn người mà chúng ta nhìn bằng nửa con mắt lại là NGƯỜI TỐT.

Đức Giêsu hỏi người thông luật: “Vậy theo ông, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Người thông luật cũng mau mắn trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.

Hai lần Chúa Giêsu bảo người thông luật “làm như vậy”. Liệu ông ta có làm như vậy? Không ai biết, nhưng rất có thể là “không”, vì điều đó khó quá. Và Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta y như thế. Làm hay không là quyền tự do của mỗi người, Chúa Giêsu không ép buộc ai!

“Làm như vậy” đơn giản mà phức tạp, dễ mà khó. Ai “làm như vậy” là thanh toán món nợ lòng thương xót đối với nhau – và Thiên Chúa coi như là làm cho chính Ngài (x. Mt 25:31-46), tất nhiên ai “làm như vậy” thì “tên được ghi trên trời” (Lc 10:20), và chắc chắn sẽ được lãnh nhận sự sống đời đời như Chúa Giêsu đã xác nhận.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết mình là “con nợ” của Ngài và của tha nhân, để nhờ vậy mà con thực sự biết sống khiêm nhường và biết sống cho tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI SAMARITANÔ NHÂN HẬU

 Lm. G.B. Trần Văn Hào

“Chỉ có loài vật mới nhẫn tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại để chăm chút cho bộ lông mượt mà của nó, còn con người thì không”. Đây là lời phát biểu của ông Karl Marx, một triết gia vô thần. Tuy ông ta không tin vào Thiên Chúa, nhưng tự trong thâm tâm, ông vẫn tin vào sức mạnh của tình yêu, là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người. Còn chúng ta thì sao? Là những người Công giáo, chúng ta tin vào Thiên Chúa, đấng có tên gọi là ‘Tình yêu’, nhưng chúng ta đã thực hành luật yêu thương cụ thể như thế nào ? Qua dụ ngôn bài Tin mừng hôm nay, Chúa cảnh báo tất cả, từ các linh mục, tu sĩ đến giáo dân, để lay động lương tâm từng người. Người Samaritanô vốn chỉ là người ngoại đạo mà dân Do thái vẫn coi như thù địch, nhưng đã trở thành chuẩn mẫu để Chúa Giêsu đưa ra như một tấm gương soi. Sau khi thuật lại câu chuyện về người Samaritanô nhân hậu, Chúa nói với người thông luật đến hỏi Ngài, cũng như nói với chúng ta hôm nay : “Ông hãy đi và cũng hãy làm như  vậy (c.37).

Một câu chuyện mang tính thời sự.

Ngày hôm nay, nếu Đức Giêsu đứng giữa chúng ta và cũng thuật lại giai thoại trên, Ngài sẽ đem ai ra để làm hình mẫu, bạn hay tôi, linh mục này hay tu sĩ nọ ? hay Chúa lại tiếp tục đưa một người ngoại giáo nào đó ra để mời chúng ta bắt chước? Đức Cha Bùi Tuần khi đọc bài Tin mừng trên đã viết lại những dòng chia sẻ sau. “Cứ mỗi lần suy gẫm về câu truyện này, tôi cảm thấy xấu hổ và có chút gì mỉa mai làm tôi ray rứt. Tôi tưởng rằng khi đưa ra một mẫu gương bác ái, Chúa sẽ bảo chúng ta hãy nhìn vào gương sáng nơi vị linh mục này hay tu sỹ nọ, nhưng không, Chúa chỉ đưa ra một người ngoại giáo làm mẫu mực. Càng suy nghĩ tôi càng cảm thấy hổ thẹn.”

Thầy tư tế chuyên lo việc đền thờ, nhưng đền thờ đích thực nơi con người, những thụ tạo được Chúa dựng nên giống hỉnh ảnh Ngài, thì ông ta lại không màng. Cũng vậy, các thầy Lêvi thường hay đeo bảng khắc lề luật ở trước ngực, nhưng luật của tình yêu thì ông lại nhẫn tâm dẫm đạp, để mặc người bị nạn nằm đó chờ chết. Còn người Samaritanô ngoại giáo thì khác. Anh ta không biết chút gì về lề luật trên lý thuyết, nhưng trong thực hành, ông lại quá tuyệt vời.

Sự ích kỷ và vô tâm nơi mỗi người, thường xuất phát từ thái độ tự mãn mà chúng ta vẫn hay có. Trong Tin mừng Matthêu chương 18, Chúa nặng lời chỉ trích thái độ trịch thượng, khoe khoang của những người biệt phái và ký lục giả hình. Họ là những con người bề ngoài xem ra rất đạo đức nhưng trong lòng thì rống tuếch, chẳng khác gì mồ mả sơn phết bên ngoài. Cũng thế, hai ‘đấng bậc’ mà Chúa nhắc đến hôm nay, Thầy tư tế và Thầy Lêvi, đã hoàn toàn tỏ ra vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Họ vẫn tự cho mình là những người đạo đức, không dám sờ chạm đến xác chết vì sợ bị nhiễm uế. Nhưng sự vô cảm và ích kỷ lại chính là tình trạng nhiễm uế ghê tởm nhất từ chính bên trong tâm hồn của họ. Chúng ta cũng dễ rơi vào tình trạng giống vậy. Ông Wilberforce, một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại để cầu nguyện thì rất tốt, nhưng biết mở tay ra để đến với anh em, nhất là những con người cùng khổ, thì vẫn tốt hơn.”

Cho thì có phúc hơn là nhận.

Đây là điều Chúa đã nói với Phaolô năm xưa, cũng như nói với chúng ta ngày hôm nay. Gương mẫu của người Samaritanô rất cụ thể và sống động, bởi vì ông ta đã biết cho đi. Nhưng trên hết, chúng ta hãy nhìn vào chính nguyên mẫu nơi Chúa Giêsu. Ngài đã cho đi tất cả, ngay cả mạng sống. Ngài không còn giữ lại chút gì cho mình. Triết gia vô thần Jean Paul Satre đã từng tuyên bố : “Tha nhân là hỏa ngục”. Ngược lại, Chúa Giêsu lại mạnh mẽ khẳng quyết : “Ai làm những điều tốt cho tha nhân là làm cho chính Ngài” (x. Mt 25). Trên Thập giá, Chúa bị mọi người hắt hủi và mỉa mai, từ những kẻ qua đường đến lính gác và đám đông. Những con người này đã hoàn toàn vô cảm trước nỗi thống khổ của Chúa. Chỉ duy nhất một mình ông Thánh ăn trộm đã tỏ lòng thương cảm đối với Ngài: “Còn ông này, ông có làm gì nên tội…” Từ trái tim biết rung lên giai điệu yêu thương ấy, tên trộm đã được biến đổi và trở nên một vị thánh lớn.

Kết luận

Tác giả Lý Thanh Thảo có viết một câu chuyện rất ngắn.

Trên một chiếc xe hơi đời mới, một bà mẹ trẻ đang dỗ đứa con.

– Ăn thêm một cái nữa đi con, mẹ thương.

– Ngán quá, con không ăn đâu, đứa bé phụng phịu.

-Ráng ăn một cái nữa, ngoan nào.

-Con nói không ăn mà, vứt đi, vứt nó đi.

Thằng bé lắc đầu quầy quậy, lấy tay gạt mạnh. Chiếc bánh kem văng ra khỏi cửa xe rơi xuống đường sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy nhanh.

Hai đứa trẻ lem luốc đang móc rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng trơ vội xô đến nhặt. Mắt chúng sáng rực dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy cái bánh lấm láp, đứa em gái nuốt nước miếng bảo thằng anh trai:

-Anh Hai thổi sạch rồi mình ăn.

Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính chặt chẳng chịu đi cho. Đứa em cũng sốt ruột ghé miệng thổi tiếp. Cái miệng háu đói của chúng làm cái bánh rơi tõm xuống cống hôi hám.

-Ai bảo anh Hai thổi mạnh làm chi. Con bé nói rồi khóc thút thít.

-Ừ, thì tại anh. Nhưng kem còn dính tay anh đây này. Cho em 3 ngón, anh chỉ liếm 2 ngón thôi.

Những đứa trẻ đường phố tuy nghèo, nhưng rất thơ ngây và đầy ắp tình người. Chúng biết nhường nhịn và đùm bọc lẫn nhau.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có sống quảng đại với nhau hay chỉ sống ích kỷ và hẹp hòi giống như thầy Lêvi hoặc Thầy tư tế mà Chúa nói tới hôm nay.

Về mục lục

.

LUẬT YÊU THƯƠNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Người ta kể rằng ngày kia Chúa Giêsu đóng vai bác hành khất đi ăn xin. Chiều đến, Ngài rảo qua các biệt thự xin trọ qua đêm. Kẻ thì bảo vào chuồng ngựa mà ngủ, kẻ nói xuống vựa lúa, kẻ khác bảo chui vào gầm cầu thang… Nhưng xem ra bác hành khất không muốn nhận những tấm lòng tốt đó. Bác ra xóm lao động xin ở trọ. Bác được lối xóm tiếp đãi tử tế và cho ăn, ngủ chung nhà. Sáng sớm hôm sau thức dậy, bác ta biến đâu mất nhưng gia chủ thấy một bức thơ để lại, trong có ghi câu: “Các con là bạn thân của Đức Kitô.” Sau này mấy kẻ nhà giàu nghe biết rất lấy làm hổ thẹn.

Đức ái là yêu thương. Bác ái không ghen tương đố kỵ. Thiên Chúa đã phú bẩm trong lương tâm con người để biết phân biệt lành dữ, xấu tốt. Lương tâm cần được hướng dẫn và chỉ bảo hướng về đàng lành. Giống như một cây non cần được uốn nắn để mọc thẳng lên. Xưa Thiên Chúa đã chọn một dân riêng và ban lề luật cùng các huấn lệnh để hướng dẫn họ đi trong đường lối của Thiên Chúa. Sách Đệ Nhị Luật được ghi chép những điều Thiên Chúa truyền dạy, lời các tiên tri và những lề luật cần thiết để sống theo đường lối Chúa: “Miễn là anh em nghe tiếng Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Thiên Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ.” (Đnl 30,10). Lề Luật vừa hướng dẫn và vừa gìn giữ rào cản để mọi người khỏi rơi vào lầm lỗi. Sống theo mệnh lệnh và thánh chỉ của Chúa là sống theo Chúa.

Tất cả các lề luật đều quy về giới luật yêu thương. Luật yêu thương là căn cốt của tất cả cuộc sống. Sống để yêu và yêu để sống. Luật đó đã được in ghi sâu tận tâm can của mọi loài thụ tạo. Luật ở tại tâm: “Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.” (Đnl 30,14). Chúng ta không phải tìm kiếm đâu xa, tâm yêu thương ở sẵn trong lòng ta. Hạt giống yêu thương đã được Thiên Chúa gieo trong lòng mỗi người. Chúng ta có bổn phận tưới gội, chăm sóc và làm cho hạt giống sinh xôi nảy nở. Trái tim yêu thương cần mở rộng để cho đi và đón nhận. Yêu như dòng nước luôn chảy, có ra có vào và có lên có xuống. Tình yêu như dòng nước nếu bị đóng khung khép kín, tình yêu sẽ cô đơn, lẻ loi và giá lạnh.

Thánh Gioan đã tuyên xưng: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1 Ga 4,8). Vì muốn chia sẻ tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng mọi kỳ công trong vũ trụ. Mọi vật và mọi loài được hiện hữu trong tình yêu của Thiên Chúa. Dấu ấn tình yêu được lan tỏa khắp cùng vũ trụ. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự theo thánh ý. Tình yêu có những cách thể hiện khác nhau giữa muôn loài. Cảm súc tình yêu được bày tỏ qua sự sống. Từ những loài có sự sống đơn sơ đến phức tạp đều được ngụp lặn trong biển tình của Thiên Chúa. Sống để yêu và được yêu. Kinh Thánh đã nói 686 lần về tình yêu ‘Love, loved, loving, loves, lover’, yêu Chúa và yêu người.

Truyện kể có một con chó, tên là Capitan, đã nằm ngồi bên mộ của chủ suốt quãng thời gian 6 năm. Ông Miguel Guzman đã nhận nuôi con chó như món quà cho đứa con trai trẻ vào năm 2005. Năm 2006 ông bất ngờ chết và đã được chôn cất tại nghĩa trang Villa Carlos Paz, trung tâm Argentina. Sau khi chôn táng ông xong, con chó Capitan đã ra khỏi nhà và tìm đến nghĩa trang nơi chôn cất ông. Con chó luẩn quẩn và quỳ bên mộ ông. Mỗi ngày, cứ đúng 6 giờ chiều, nó nằm xuống trên mộ suốt đêm trong vòng 6 năm trời. Chúng ta không thể hiếu thấu cái gì đã đang xảy ra trong tâm ở thế giới động vật. Tình cảm, tình yêu, cảm xúc hay một sự thần giao cách cảm nào đó.

Nhà Khoa học đã nghiên cứu 14 cặp khỉ Rhesus Macaque tại Trung Hoa. Đã học biết rằng con khỉ mẹ và các khỉ con cũng bày tỏ sự trìu mến yêu thương. Những con khỉ mẹ và khỉ con nhìn nhau với ánh mắt thân thương. Khỉ mẹ cúi xuống mơn trớn và hôn các khỉ con trên mặt, trên môi và khỉ con cũng hôn trả lại. Các con khỉ cùng chia sẻ thực phẩm và săn sóc nâng đỡ nhau giống như xã hội con người. Khỉ mẹ thường ôm con vào lòng và bảo vệ con một cách rất âu yếm. Các con khỉ cũng sống thành bày, thành đàn và yêu thương hỗ trợ nhau. Khi một con bị thương hay ốm yêu bệnh tật, các con khỉ khác cũng lo lắng chăm sóc. Qua khuôn mặt và cách biểu tỏ cảm tình, chúng ta nhận biết loài vật cũng có một mức độ yêu thương mà Tạo Hoá đã phú bẩm.

Chúng ta cũng có thể quan sát gà mẹ dẫn đàn gà con đi tìm mồi. Mẹ dẫn con ra vườn và lấy sức mình dùng đôi chân giãi đất tìm mồi, rồi cục cục gọi các gà con đến ăn mồi. Khi nghe biết có quạ đen, diều hâu hay bất cứ sự nguy hiểm nào, gà mẹ dáo giác giang cánh ra để ấp ủ con dưới cánh. Tuy cuộc sống gà vịt rất đơn sơ nhưng cũng nói lên tình liên đới bảo vệ và chia sẻ yêu thương. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh gà mẹ ấp ủ con để nói lên tình yêu của Thiên Chúa với loài người: “Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái người lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các người không chịu.” (Mt 23,37).

Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài ra tình thương mến. Câu truyện trong bài Phúc Âm hôm nay nói về một người lữ hành bị tai nạn cướp bóc và bị đánh đập dọc đường. Có thầy tư tế và trợ tế đi ngang qua và thấy nạn nhân nhưng không mở lòng giúp đỡ. Một người xứ Samaria đi qua, động lòng thương và giúp đỡ nạn nhân bằng mọi cách. Người Samaria, tuy là ngoại đạo, nhưng đã biết tỏ lòng thương xót. Ông đã thực hành giới răn yêu thương bằng chính hành động của mình. Chúa Giêsu đã khuyến khích các thầy thông luật, các môn đệ và cả chúng ta nữa: Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy.” (Lc 10,37). Nói về giới luật yêu thương thì dễ, ai cũng có thể suy niệm, phát biểu và truyền rao nhưng để đưa vào áp dụng trong cuộc sống hằng ngày thì không đơn giản. Chúng ta cần thấm nhuần tinh thần bác ái và quảng đại dấn thân. Đạo của Chúa là đạo yêu thương. Không chỉ yêu bằng lời nhưng bằng hành động.

Chúa Giêsu đã nêu gương bằng tình yêu thập giá. Chúa đã cho và cho tất cả. Chúa Kitô là hiện thân của Thiên Chúa Cha: “Chúa Giêsu Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo.” (Cl 1,15). Tình yêu Chúa cao vời, làm sao chúng ta có thể đáp đền cho cân xứng. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một Yêu Dấu, chịu khổ hình và chết để chuộc tội chúng ta. Chúa Con đã hiến thân trên thập giá và đã đổ tới giọt máu cuối cùng để cứu độ. Chúa Thánh Thần là ngọn lửa yêu mến khơi dậy lòng yêu thương trong tâm hồn chúng ta. Mọi sự bắt đầu với tình yêu và sẽ kết thúc trong tình yêu: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người.” (Cl 1,19).

Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con. Tình yêu Chúa lan toả khắp cùng thế giới. Vũ trụ muôn loài đều mang dấu ấn tình yêu của Chúa. Xin cho nguồn tình yêu tuôn chảy trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn biết yêu và được yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.

Về mục lục

.

ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Giữa hai công việc, một là thờ phượng Thiên Chúa trong đền thờ, hai là phục vụ người đau yếu, nghèo khổ… trong xã hội, ta nên chú trọng đến việc nào hơn?  Làm việc nào trong hai việc đó thì sẽ được sống đời đời?

Thầy Tư tế và thầy Lê-vi trong bài Tin mừng hôm nay là người tiêu biểu cho những người chọn việc thờ phượng Thiên Chúa là việc cần phải làm để được sống đời đời, còn việc phục vụ người hoạn nạn, khốn khổ thì để người khác lo.

Chính vì thế, khi thấy một nạn nhân nằm thoi thóp bên đường, mình đầy thương tích máu me, đang rên la cần sự trợ giúp, thì các thầy lánh sang một bên, vội vã tiến về nhà cho kịp giờ cầu nguyện hay dâng lễ vật lên Thiên Chúa; còn chuyện cứu khổ cứu nạn, thì đừng dại dột giây mình vào làm chi cho phiền hà rắc rối, để người khác lo.

Còn người Sa-ma-ri là tiêu biểu cho những người chọn phục vụ người hoạn nạn khốn khổ là việc cần làm để được sống đời đời, nên khi thấy nạn nhân nằm thoi thóp bên đường, mình đầy máu me, ông liền cho lừa dừng lại, bước xuống cúi mình trên nạn nhân, cảm thương thân phận người xấu số. Ông mở hành trang lấy rượu rửa sạch vết thương, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên lừa của mình, quay trở về quán trọ để chăm sóc chu đáo. Sáng hôm sau, trước khi ra đi, ông trao tiền cho chủ quán và dặn dò: “Xin ông lo chăm sóc người nầy giùm tôi cho chu đáo, còn tốn phí thêm bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông.”

Về phần chúng ta, chúng ta chọn lựa làm theo bên nào, theo cách hành xử của thầy tư tế và Lê-vi hay theo cung cách phục vụ của người Sa-ma-ri?

Tốt nhất, chúng ta hãy học cách hành xử đúng như Chúa Giê-su muốn, dựa theo bài Tin mừng hôm nay.

Khi có người thông luật hỏi Chúa Giê-su: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”

Chúa Giê-su giúp anh tìm ra câu đáp chính xác, đó là mến Chúa và yêu người.

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn ngươi và yêu mến người thân cận như chính mình.”  

Như thế là phải chọn cả hai, vừa yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức, vừa yêu thương người thân cận như chính mình. Cả hai việc này đều phải được ưu tiên như nhau, nếu chúng ta thiếu một trong hai thì không thể được hưởng phúc thiên đàng.

Tại sao thế?

Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô 16 cho ta biết lý do:

Ta phải chọn cả hai, vừa yêu mến Thiên Chúa, vừa phải yêu thương tha nhân là vì:

-Chúa Giê-su đã nên một với mọi người quanh ta;

-Yêu người cũng là yêu Chúa vì Chúa và con người chỉ là một.

Nguyên văn ngài viết như sau :

“Chúa Giê-su đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Mến Chúa và yêu người đã trở thành một: trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu chúng ta gặp được Thiên Chúa.” (Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” số 15 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô)

Và chính vì thế, ngài dạy:

-Việc bác ái cũng như việc ban phát bí tích và rao giảng Lời Chúa đều là hoạt động cốt yếu của Hội thánh;

-Yêu thương những người bất hạnh cũng như ban phát bí tích và rao giảng Lời Chúa đều thiết yếu đối với Hội thánh;

Do đó,

-Hội thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là việc ban bí tích và rao giảng Tin mừng. (Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô)

 

Chính vì Chúa Giê-su là một với những người quanh ta, nên chúng ta không chỉ thờ phượng Ngài trong nhà thờ mà còn phải ân cần phục vụ Ngài nơi những người bất hạnh. Chúng ta hãy nghe lời nhắn nhủ của thánh Gioan kim khẩu như sau về bổn phận này như sau:

“Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Ki-tô ư? Thì chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi: đừng có thái độ nầy là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Ngài mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần trụi.…

Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia thì cần được chăm lo tận tình.” (thánh Gioan Kim Khẩu)

Lạy Chúa Giê-su,

Xin ban thêm cho chúng con đức tin và lòng yêu mến để chúng con tin Chúa hiện diện nơi mọi người, đặc biệt là nơi những người đau khổ và đem hết khả năng để phục vụ và yêu mến họ. Có như thế, chúng con mới được hưởng phúc thiên đàng.

Về mục lục

.

AI LÀ ANH EM TÔI

AM. Trần Bình An

Vào một ngày nọ, tôi đến một quán phở ven đường để ăn sáng, tại thị trấn Mỹ Ca, thuộc Thành phố Cam Ranh. Trong lúc tôi đang ngồi chờ người phục vụ bàn mang thức ăn ra, tôi nhìn thấy một ông cụ trạc chừng trên 70 tuổi, áo quần xốc xếch, dơ bẩn, bước vào với dáng điệu rất mệt mỏi, đi ngang qua trước mặt tôi, đưa đôi bàn tay run run và nói: “Tôi đói quá, xin ông cho tôi ít đồng tiền lẻ để mua ổ bánh mì ăn cho đỡ đói, tôi từ Thành Phố Vinh về Phan Thiết để thăm con, nhưng chẳng may đi trên xe bị chúng móc bóp, lấy sạch hết tiền bạc, giấy tờ và cả xắc áo quần của tôi nữa, hai ngày nay tôi chẳng có miếng chi bỏ vào bụng, nên tôi đói quá và cũng chẳng còn tiền để đi tiếp vào thăm con…” Tôi đã nghe nhưng giả điếc làm ngơ.  Ông cụ đi tiếp qua bàn khác, trước mặt tôi có một cậu thanh niên trạc chừng 20-22 tuổi cũng đang ngồi chờ đợi như tôi, câu ta ân cần bảo ông cụ: “Bác ngồi xuống đây, hãy đợi một tí.” Ông cụ nghe lời ngồi xuống, khi người phục vụ bàn mang tô phở tới vừa đặt xuống bàn, cậu thanh niên đã bưng đưa qua và mời:“Bác ăn đi cho đỡ đói”. Ông cụ có một chút lưỡng lự, nhưng vì đói quá nên ông cụ đã ăn ngấu nghiến một cách ngon lành…Cậu thanh niên không kêu tiếp, mà ngồi nhìn ông cụ ăn mà lòng rất thương cảm. Tôi vừa ăn vừa theo dõi thái độ của cả hai người, ông cụ ăn xong nhìn lên và hỏi: “Ủa, sao anh không ăn ?” Cậu thanh niên trả lời: “Dạ, cháu ăn rồi.” Cậu thanh niên trả tiền và mời ông cụ đi theo về nhà mình, tôi tò mò cũng đi theo và giả làm như người đi tìm nhà người thân.

Nhà cậu thanh niên nầy cách xa quán ăn khoảng chừng vài trăm mét. Khi đã vào nhà, cậu trịnh trọng mời ông cụ ngồi xuống ghế, rồi chạy ra đàng sau kêu: “Mẹ ơi, vào đây có người muốn gặp mẹ.” Người mẹ hộc tốc chạy vào, vừa nhìn thấy khách lạ trông rất tiều tụy, phờ phạc nên bà ngạc nhiên hỏi: “Ai đây con ?” Người thanh niên kể lại cho mẹ nghe hoàn cảnh đáng thương của ông cụ và thêm: “Mẹ ơi, cứu giúp ông cụ nầy với, hoàn cảnh bi đát tội nghiệp lắm.” Người mẹ ngần ngại, vì lúc nầy nhiều kẻ lợi dụng vào lòng nhân ái của người khác để trục lợi, xảy ra nhan nhản trước mắt, và chính bà cũng đã bị người ta lừa dối nên bà rất thận trọng. Cậu thanh niên nói tiếp :“Mẹ ơi, sáng nay mẹ cho con tiền ăn sáng, nhưng con không ăn, con dành cho ông cụ này đây, nhìn ông cụ ăn mà con thấy còn ngon hơn chính con ăn nữa mẹ ạ.” Người mẹ nghe con nói như vậy trong lòng rất vui, và người con cứ mãi nằng nặc, nên người mẹ cũng xiêu lòng. Hơn nữa sau khi hỏi han, dò xét thấy dáng vẻ của ông cụ thật thà, hiền lành, nên bà đồng ý qua nhà người hàng xóm mượn tiền để giúp ông cụ tiền xe, tiền ăn dọc đường. Cậu thanh niên khi biết mẹ đã nhận lời nên rất vui mầng. Cậu chạy vào tìm kiếm bộ áo quần còn tốt và sạch sẽ của người cha, đem ra cho ông cụ thay. Cụ rất vui và cám ơn rối rít. Tắm rửa xong, ông cụ thay đồ mới bảnh bao, rồi theo người thanh niên ra đón xe để  tiếp tục cuộc hành trình lên đường đi vào thăm con ở Phan Thiết.

Chứng kiến lòng nhân ái tuyệt vời của một người thanh niên ngoại giáo, tôi cảm thấy hổ thẹn; bởi vì tôi là người lớn tuổi hơn nhiều, đã từng trải hơn nhiều, tiền bạc trong túi cũng rủng rỉnh, tôi lại là người Công giáo nòi.… Kể từ đó tôi thường hay lui tới, tìm cách nọ cách kia để làm quen với gia đình đó, một thời gian sau, tôi trở thành người thân tín của gia đình họ. Nhờ đó, tôi mới biết ra tông tích của dòng tộc họ rất đáng nể. Ông nội của cậu thanh niên là bạn thân học cùng trường, cùng lớp, cùng ăn, cùng ngủ với Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, nhưng ông không vào đạo được, vì ông là con trai trưởng. Nhờ từ cốt lỏi tốt lành đó, nên gia đình cậu thanh niên trở thành một gia đình tuy nghèo, nhưng có sự giáo dục vững vàng rất tốt đẹp, có căn bản đạo đức làm người thật tuyệt vời. Tôi đã học được ở nơi họ rất nhiều điều tốt lành, và cũng nhờ họ mà tôi đã thay đổi cách sống, từ một người sống rất ích kỷ, vô cảm, chỉ biết sống cho riêng mình… (Hải Chi, Tấm gương lòng nhân ái, web Gp Phan Thiết)

Chàng thanh niên kể trên quả có tấm lòng thương xót, một con tim nhạy cảm, đôi tay nhân ái, môt tinh thần trách nhiệm, tựa người Samaria trong dụ ngôn Tin Mừng Chúa nhật 15 hôm nay.

Con tim nhạy cảm

Không giống trái tim bị xơ cứng, chai lỳ, đông lạnh của ngài tư tế và ngài Lêvi, con tim nhạy cảm của người Samaria nhìn thấy nạn nhân thừa sống thiếu chết, liền chạnh lòng thương. Với trái tim vô cảm, người ta chẳng thấy điều gì khác, người nào khác ngoài bản thân vị kỷ. Với trái tim đông lạnh, người ta coi tha nhân chỉ là bậc thang để leo lên đỉnh danh vọng. Với trái tim hoá đá, người ta coi tha nhân là đối thủ thù địch để tranh giành, cấu xé, chửi bới, đánh đấm, rủa xả, xúc phạm, thậm chí coi tha nhân là hoả ngục!

Cả ba người khách đi đường cùng đều nhìn thấy nạn nhân đáng thương, nhưng hai đấng tư tế và Lêvi đều giả mù, giả điếc, coi như không thấy, không nghe, không biết người bị nạn. Chỉ duy nhất người Samaria cám cảnh nhìn thấy, động lòng, dừng lại đến gần, cúi xuống ân cần lấy dầu rượu chăm sóc băng bó vết thương.

Vị kỷ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ lo bảo vệ, gìn giữ và hết sức ý tứ, đề cao cảnh giác, khỏi bị cướp bóc, bị lợi dụng, bị lừa gạt, bị ô uế vì đụng vào xác người, thầy tư tế và thầy Lêvi đều mù loà tâm hồn, vong thân, đánh mất tình người, tình nhân ái, lòng thương xót.

Xả kỷ vị tha, chẳng lo thủ thân, chẳng hề đắn đo cân nhắc thua thiệt, hao tiền tốn của, mất thì giờ, trễ nãi hành trình, mà quên mình, nhiệt thành quan tâm đến tha nhân, người anh em xa lạ dở sống dở chết, cần được cấp cứu, săn sóc băng bó, chữa trị, hồi sức, người Samaria dấn thân phục vụ. Cứu người như cứu hoả, ông chẳng từ nan để cứu chữa người đang nghìn cân treo ngọn tóc.

Đôi tay nhân ái

Lòng thương xót đi từ trái tim đến đôi tay, người Samaria liền xuống lừa, xắn tay áo lên giúp đỡ. “Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc.” Sơ cứu xong, người Samaria còn đem theo về nơi mình trú trọ tận tình chăm sóc, thể hiện trọn vẹn tình nhân ái.

Tình thương yêu, lòng nhân ái thật sự không chỉ bằng lời nói mà cần thể hiện qua hành động, việc làm, như trong thư thứ nhất thánh Gioan, đã hết sức ân cần dặn dò điều chính người Kitô hữu hôm nay, cũng cần thiết thực hành theo: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” (1Ga 3, 18)

Đôi tay chỉ thực sự nhân ái tràn trề lòng thương xót, khi âm thầm, kín đáo, lặng lẽ, vô tư, bất vụ lợi, mở rộng đón nhận, giúp ích tha nhân, chẳng cần lời khen, bằng ghi ơn, chẳng cần huy chương, vang danh trên truyền thông. Nếu không thì coi như đã nhận lãnh phần thưởng thế gian, chẳng còn chút gía trị với Nước Trời. “Hãy coi chừng, đừng phô trương công đức trước mặt người ta, để hòng được thấy; chẳng vậy, các người mất công nơi Cha các ngươi, Ðấng ngự trên trời.” (Mt 6, 1)

Trách nhiệm trọn vẹn

Tình hình tạm ổn, nạn nhân đã qua cơn nguy kịch, cần tiếp tục tĩnh dưỡng để phục hồi sức khoẻ. Người Samaria mới yên tâm lên đường, tiếp tục cuộc hành trình dang dở. “Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: ‘Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông.”

Yêu thương, quan tâm, giúp đỡ, hết lòng phục vụ tha nhân, nhất là những người đang hoạn nạn, nguy khốn, cô đơn, là bổn phận và trách nhiệm của ai theo Chúa, Đấng giàu Lòng Thương Xót. Đó là việc lành bắt buộc, là nghĩa vụ cấp bách, ưu tiên không thể nào từ chối hay nhẫn tâm bỏ qua, nếu thực sự là Kitô hữu.

Đức Giêsu đã cặn kẽ dạy những ai muốn trở nên người môn đệ chân chính của Người: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời.” (Mt 7, 21) Người đã thân thương nhắc ông thông luật tái xác nhận điều cốt tuỷ của đạo lý yêu thương:“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình.” Vậy qua dụ ngôn người Samaria tốt lành, hẳn người Kitô hữu đã biết tỏ tường ai chính là anh em, ai là người thân cận của mình.

Vậy để thực hành được yêu cầu của Đức Giêsu: “Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống,” thì tín hữu Kitô luôn cần trang bị một trái tim thiệt nhạy cảm trước nỗi khổ của tha nhân, một đôi tay nhân ái mở rộng, sẵn sàng xoa dịu, cứu chữa, một tấm lòng yêu thương tràn đầy trách nhiệm, chân thành dấn thân phục vụ tha nhân.

Song bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng:

là liên lỉ canh tân,

là quyết định chọn hay chối Chúa,

là tìm nước Chúa,

là tin ở tình yêu vô bờ của Chúa,

là hành động với tất cả hăng say,

là thể hiện mến Chúa yêu người,”ngay trong giây phút này.”

(Đường Hy Vọng, số 26)

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con thấm nhuần đạo lý yêu thương, xin dạy chúng con biết tha nhân chính là anh em, chính là bản thân chúng con, để chúng con có thể thương yêu, vui vẻ chia sẻ, giúp đỡ và phục vụ.

Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ yêu người, biết chân thật yêu thương tha nhân trong bất cứ hoàn cảnh nào, để chúng con mãi xứng đáng là con Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN?

Lam Thy ĐVD. 

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XV/TN-C – Lc 10, 25-37) trình thuật câu chuyện một người thông luật hỏi thử Đức Giê-su xem điều răn nào trọng nhất trong Luật Mô-sê? Thay vì trả lời, Đức Giê-su lại hỏi ngược lại để chính người thông luật tự trả lời: “Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” (Lc 10, 28). Người thông luật đã nối kết một câu trong sách Ðệ Nhị Luật (“Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng, hết dạ, hết sức anh (em)” – Đnl 6, 5) với một câu trong sách Lê-vi (“Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” – Lv 19,18). Ông ta muốn chứng tỏ mình là người thông hiểu lề luật và biết tổng hợp để có những nguyên tắc sống đạo đầy đủ, khiến Ðức Giê-su tỏ ý khen ngợi và khuyến khích ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.” (Lc 10, 28).

Nhà thông luật ở đây chính là những kinh sư Pha-ri-sêu chuyên môn “thử” Đức Giê-su để tìm cách hại Người. Cứ tưởng được Đức Giê-su khen như thế thì “nhà thông luật” sẽ thôi không còn “thử hay gài bẫy” nữa, nhưng không ngờ ông ta lại “muốn chứng tỏ là mình có lý” để tiếp tục “thử” Đức Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Hỏi câu này, ông ta đã dựa theo lẽ thường tình thế sự vẫn quan niệm “người thân cận” là những người gần gũi, thân thiết như cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, họ hàng, bạn bè … (như trong từ “thân nhân”, “thân thích”, “thân bằng quyến thuộc”… vẫn thường dùng). Ngầm ý của ông ta là ông đã sửa câu trích trong sách Lê-vi (“Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” – Lv 19,18) thành câu “yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10, 28) để cố ý gài bẫy Đức Giê-su; nhưng ý đồ đó vẫn không che giấu được trước Đấng thấu suốt mọi sự; vì thế Đức Giê-su phải kể dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành” và từ dụ ngôn ấy, Người lại đặt câu hỏi để chính người thông luật tự tìm ra định nghĩa trả lời cho câu hỏi của mình.

Với du ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành” (Lc 10, 29-37) Đức Giê-su đã đưa vào câu chuyện 3 nhân vật: Hai người đầu (một vị Tư tế, một thày Lê-vi) là hai nhân vật thuộc nhóm “người thông luật”, tức là những người liên quan đến những hoạt động trong Đền Thờ. Nhân vật thứ ba (một người Sa-ma-ri) là một người Do-thái ly giáo, bị coi là ngoại bang, một thứ dân ngoại dơ bẩn, tội lỗi. Dụ ngôn trình thuật: Một người kia,  trên con đường từ Giê-ru-sa-lem đến Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết nằm bên vệ đường. Vị Tư tế và thày Lê-vi trông thấy người này, nhưng đều “tránh qua bên kia mà đi” (Lc 10, 31-32). Nếu nói thầy Lê-vi, vị Tư tế, là những người luôn có mặt trong Đền Thờ, thì tất nhiên phải nắm vững Lề Luật, mà Lề Luật của Đức Chúa đều đã qui định trách nhiệm cần phải giúp đỡ nạn nhân; nhưng cả hai đều không dừng bước mà băng ngang qua đó với thái độ dửng dưng, lạnh lùng. Điều này cho thấy không phải những ai lui tới với Nhà Chúa, thông hiểu Lề Luật và biết được lòng thương xót của Chúa mà có thể yêu thương tha nhân. 

Tuy nhiên, với người Sa-ma-ri – một con người bị khinh bỉ, coi là phường tội lỗi – khi trông thấy kẻ bị thưong tích đã không bỏ đi như hai người thông luật trước đó, mà “đã chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.” (Lc 10, 33-34). Ông “đã chạnh lòng thương”, chứng tỏ tâm can của ông đã thương cảm; trái tim của ông đã rung động! Như vậy là trái tim của người Sa-ma-ri đã đập cùng một nhịp với chính con tim của Thiên Chúa (Mt 9, 36; 14, 14; 15, 32; Mc 6, 34). Thật vậy, phải có “lòng cảm thương” bao la nhân hậu mới “chạnh lòng thương” trước những nạn nhân của áp bức, nghèo khổ, cơ cực, lầm than, đói khát… “Lòng cảm thương” là đặc tính thiết yếu của Lòng Chúa Thương Xót. Nơi những cử chỉ và hành động của người Sa-ma-ri bộc lộ rõ ràng tác động từ bi nhân hậu của Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót trong suốt dòng lịch sử cứu độ.

Như vậy, “người thân cận” trong dụ ngôn của Đức Ki-tô không phải là họ hàng máu mủ ruột thịt, mà lại là một người xa lạ, một người bất chợt gặp trên đường đời. Nghe ra có vẻ nghịch lý, bất bình thường (một người chưa hề quen biết, bất chợt gặp trên đường mà lại được coi là “thân cận” ư?). Tuy nhiên, nếu suy cho cùng, thì sẽ thấy là mặc dù sống gần gũi nhau nhưng chưa chắc cha mẹ, vợ chồng, anh em bè bạn đã thật sự thân thiết với nhau, nếu chưa thật sự yêu thương nhau. Đến ngay như vợ chồng đầu gối tay ấp, cũng không thiếu những trường hợp “đồng sàng, dị mộng” (chung giường, khác mộng), huống hồ! Chính Chúa Giê-su cũng nói : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.” (Mt 13, 57 ), “Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10, 36); và khi nói về cha mẹ, anh em, họ hàng, thì Người dạy: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12, 48-50).

Đức Ki-tô rất hay dùng cách nói “tương phản” (nói trái với ý chính để làm nổi bật ý chính – Vd: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” – Mt 10, 34-36) ; “ám tỉ” (so sánh ngầm – Vd: “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” – Mt 12, 33) ; “ẩn dụ” (ví ngầm – Vd: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.” – Mt 13, 31-32). Và trong dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành” cũng vậy, Đức Ki-tô muốn cho người nghe hiểu được chỉ có những người sống trong Tình Yêu mới thật sự là người thân cận với nhau. Nhiều lắm những Lời dạy chí tình chí nghĩa của Người Thầy chí thánh minh hoạ cho chân lý Tình Yêu.

Đông phương học xưa cũng từng truyền tụng “Tứ hải giai huynh đệ“  (Người trong bốn bể thật là anh em), “Ái nhân như ái thân“ (Yêu người như yêu chính bản thân mình). Vâng, chính Thánh Phao-lô cũng đã khẳng đinh trong thư gửi tín hữu Ga-lat: “hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.“ (Gl 5, 13-14). Như vậy, để được coi là thân cận, yêu thương, gần gũi, gắn bó với nhau, phải là những người sống với nhau bằng tình bác ái. Làm công việc tông đồ bác ái là làm những việc thể hiện được tình yêu bao la của Thiên Chúa, thể hiện được chính Đức Vua Tình Yêu – hiện thân của Lòng Thương Xót – đã hy sinh cả tính mạng cho người mình yêu. Đối tượng để thực thi bác ái không giới hạn trong phạm vi gia đình hay quốc gia, mà là tất cả những người cùng khổ, hoạn nạn, bệnh tật, nghèo đói trên thế giới.

Nói “hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” thì rất cần phải lưu ý: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người.” (Rm 12, 9-18).

Khi giảng Giáo Lý về Lòng Thương Xót trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, ĐTC Phan-xi-cô đã dạy: “Dụ ngôn “Người Sa-ma-ri Nhân Lành” là một tặng ân kỳ diệu cho tất cả chúng ta, và đồng thời cũng là một thứ dấn thân! Chúa Giê-su lập lại với từng người chúng ta những gì Ngài đã nói với Vị Tiến Sĩ Luật: “Hãy đi mà làm như thế” (câu 37). Tất cả chúng ta đều được kêu gọi theo đường lối của Người Samaritanô Nhân Lành, vị là hình ảnh của Chúa Ki-tô, ở chỗ, Chúa Giê-su đã cúi xuống trên chúng ta, biến Mình thành tôi tớ của chúng ta, nhờ đó Người đã cứu chúng ta, để chúng ta cũng có thể kính mến Người như Người đã yêu thương chúng ta cùng một cách thức như vậy.” (Bài Giáo lý 12: Về Dụ ngôn “Người Sa-ma-ri Nhân Lành”).

Tóm lại, người Ki-tô hữu có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai gặp gỡ trong đời đang cần giúp đỡ, và tất nhiên sẽ là người thân cận như người Sa-ma-ri nhân lành nếu có lòng cảm thương nơi tâm can, luôn biết “chạnh lòng thương” với nỗi đau của tha nhân, tức là có khả năng chịu khổ với người khác. Để được như vậy thì cần phải biết “nhìn bằng con mắt của Chúa Giê-su và chia sẻ tâm trí của Người, thiên hướng con thảo của Người, vì họ chia sẻ tình yêu của Người, vốn là Thần Khí của Người.” (Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin “Lumen Fidei”, số 21). Vâng, hãy nhìn bằng “con mắt của Chúa Giê-su” – Con Mắt Tình Yêu, Con Mắt của Lòng Thương Xót – như trong dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành”, mọi việc sẽ sáng tỏ.

Đúng vậy, “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Ấy cũng bởi vì “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.” (1Ga 4, 20-21). Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

BỆNH VÔ CẢM

Lm. Anthony Trung Thành

Thản nhiên nhìn tài xế cán xe lên người bé gái nhiều lần. Đó là tựa đề của một vụ việc xảy ra tại chợ Lao Bảo, thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc từ năm 2011. Nhưng trong năm 2015 được nhiều tờ báo mạng Trung Quốc đăng lại, trong đó có tờ báo lớn như Chinadaily, nhằm cảnh báo về vấn nạn “vô cảm.”

Theo camera giám sát tại khu chợ, một bé gái đang đi lang thang trong chợ, không may đã bị một chiếc xe tải đâm trúng. Khi biết bánh trước vừa đâm phải người, tài xế đã phanh lại nhưng chỉ vài giây sau, anh ta đã lại quyết định lái xe đi tiếp khiến em bé bị bánh xe sau cán tiếp lần thứ hai. Sau đó, chiếc ô tô khác đi tới lại tiếp tục chèn vào em mà không dừng lại. Rất nhiều xe đi qua đó, thậm chí có cả người đi bộ chứng kiến cảnh em bé đau đớn nhưng vẫn không mảy may để ý, không gọi xe cứu thương hoặc đến hỏi han em.

Rất lâu sau, một công nhân quét rác đi qua mới phát hiện em bé đang nằm trên đường. Bà đã kêu gọi người giúp đỡ nhưng không ai ra giúp. Vài phút sau, mẹ của cô bé xuất hiện và đưa cô bé đi cấp cứu.

Theo điều tra, cô bé tên là Nguyệt Nguyệt, 2 tuổi, sống cùng bố mẹ gần khu chợ. Trong lúc bố mẹ đi lấy hàng, em chạy đi chơi và xảy ra chuyện.

Do bị cán qua cán lại nhiều lần và không được cấp cứu kịp thời, bé Nguyệt Nguyệt bị chết não và khả năng sống rất thấp. Nếu có sống cũng sẽ là người thực vật suốt đời.

Ngay khi vụ viêc xảy ra, gia đình đã báo cho cảnh sát và nhờ họ điều tra tên tài xế “dã man kia”. Khi bắt được hung thủ, tên tài xế này cho hay: lúc đó anh ta đang nói chuyện với người yêu và cô ấy đòi chia tay. Do tâm lý không ổn định và đã không nhìn thấy bé ở trước đầu xe nên đã đâm vào cô bé. Sau đó, anh ta nghĩ rằng nếu bé chết anh ta chỉ phải bồi thường 20.000 tệ (khoảng 70 triệu đồng), nhưng nếu em bé chỉ bị thương thì anh ta có thể sẽ tốn hàng trăm nghìn tệ. Chính vì vậy anh ta đã không cứu đứa bé mà lại cán thêm.

Vụ việc này đã gây lên một làn sóng phẫn nộ của người dân. Họ không chỉ lên án, chỉ trích sự dã man của hai tên tài xế đã đâm phải bé mà họ còn cảm thấy bức xúc với sự thờ ơ, vô tâm và thiếu tình người của những người xung quanh đó. (Nguồn: baogiaothong.vn)

Thật vậy, vô cảm là căn bệnh trầm kha của con người qua mọi thời đại. Trong xã hội chúng ta đang sống, dường như căn bệnh vô cảm lại trở nên trầm trọng hơn. Người ta thờ ơ, vô tâm trước những vấn đề của người khác. Người ta im lặng, làm ngơ trước những bất công của xã hội. Đáng sợ nhất khi căn bệnh vô cảm đang lây lan tới hết mọi người và mọi môi trường sống.

Vô cảm trong gia đình: khi vợ chồng không quan tâm đến nhau. Cha mẹ nhẫn tâm không cho con cái chào đời. Con cái cháu chắt bỏ rơi không chăm sóc ông bà cha mẹ. Người ta quên đi tình anh em ruột thịt, tình làng nghĩa xóm, để rồi “Đèn nhà ai rạng nhà nấy.”

Vô cảm tại trường học, khi các tiêu cực xảy ra hằng ngày trong chính môi trường giáo dục: nạn chạy trường, chạy lớp, chạy điểm; thầy cô giáo chỉ lo dạy chữ, không quan tâm đến việc dạy đạo đức nhân bản cho học sinh; nhiều thầy cô dùng bạo lực để sửa lỗi học sinh; nhiều học sinh không còn giữ truyền thống “tôn sư trọng đạo”; nhiều trường hợp học sinh bị đánh hội đồng ngay chính nơi trường học mà thủ phạm chính là những bạn bè cùng trang lứa mà không một ai dám can ngăn.

Vô cảm có mặt trong các bệnh viện: khi các y, bác sĩ để mặc các bệnh nhân kêu gào đau đớn mà không quan tâm chăm sóc. Thậm chí, nhiều bệnh nhân bị chết oan vì chưa có phong bì lót tay cho bác sĩ. Nhiều bác sĩ làm việc thiếu trách nhiệm, thiếu cả chuyên môn nên gây ra hậu quả khôn lường cho các bệnh nhân. Câu chuyện “Bé trai bị bác sĩ mổ nhầm tay trái để rút đinh ở tay phải” xảy ra tại bệnh viện 115 Nghệ An vừa qua là một bằng chứng. Việc các bác sĩ móc nối với các nhà thuốc khi kê đơn cho bệnh nhân để kiếm hoa hồng chứ không nghĩ đến những loại thuốc đó có hiệu quá tốt nhất cho các bệnh nhân của mình, đó cũng là một vấn đề đáng báo động.

Những tháng gần đây chúng ta chứng kiến sự vô cảm của chính phủ Việt Nam đối với vấn đề cá chết hàng loạt ở Miền Trung. Đặc biệt, khi biết thủ phạm chính gây nên thảm hoạ môi trường là công ty gang thép Formosa Hà Tĩnh, nhưng chính phủ vẫn tiếp tục cho nó hoạt động và chỉ nhận một số tiền rẻ mạt so với hậu quả vô cùng to lớn trước mắt và lâu dài. Họ vô cảm không nghĩ đến tình cảnh của người dân bị hại trong hiện tại và cả trong tương lai. Sự vô cảm của họ có thể giết chết không những ngư dân Miền Trung mà cả dân tộc Việt Nam chúng ta.

Sự vô cảm còn lan tràn trong các lĩnh vực khác của xã hội chúng ta đang sống: nhiệm vụ của công an, quân đội là bảo vệ bình an cho người dân nhưng họ lại đàn áp dân một cách vô tội vạ; khi những người đứng ra bênh vực cho công lý và lẽ phải lại bị bắt bớ đánh đập, tù tội; nhiều người vì muốn an thân nên khi thấy kẻ cắp móc túi người khác mà không dám lên tiếng; người ta im lặng trước sự ác, không mủi lòng trước những đau khổ của anh chị em mình; khi người ta thấy tai nạn xảy ra trên đường đi mà không sẵn sàng giúp đỡ…

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy sự thờ ơ, vô cảm của một tư tế và trợ tế đối với một người bị nạn. Tư tế và trợ tế là những người có thế giá trong dân, là những người có vai trò trong đạo Do Thái lúc bấy giờ. Họ thuộc lòng những khoản luật của đạo Do Thái, nhất là luật mến Chúa yêu người, nhưng họ không thực hành những điều luật đó. Nói cách khác, họ thờ ơ, vô cảm  trước nhu cầu của anh chị em đồng loại.

Vô cảm có thể là một tội. Tội dửng dưng trước nhu cầu của anh em. Chúa Giêsu đã đề cập tới tội vô cảm này trong dụ ngôn nhà phú hộ và ông Lazarô (x. Lc 16, 19-21). Nhà phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Ông Lazarô thì nghèo khó, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Điều đáng nói là số phận đời sau của nhà phú hộ : ông phải sa hoả ngục. Ông sa hoả ngục không phải vì ông giàu có, nhưng vì ông vô cảm trước sự đói khổ của người nghèo đói Lazarô.

Để tránh khỏi bệnh vô cảm, tội dửng dưng, chúng ta bắt chước gương của người Samaria nhân hậu. Mặc dầu ông không phải là người Do Thái, người bị nạn không liên hệ gì đến ông, nhưng ông nhạy cảm trước nhu cầu của người khác. Sự nhảy cảm đó được thể hiện không chỉ qua cách : “Trông thấy và động lòng thương,” mà còn thể hiện qua việc ông: “Xắn tay áo để thoa dịu những đau khổ của người bị hại.” Tin mừng kể lại rằng: “Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc”(x. Lc 10,35).

Ông không dừng lại ở đó, sự quan tâm của ông còn đi xa hơn khi ông trả tiền bạc cho chủ quán thay cho người bị hại và hứa sẽ quay lại thanh toán những gì còn lại. Sự quan tâm chăm sóc của người Samaria đối với người bị hại là mẫu gương cho con người qua mọi thời đại, nhất là đối với mỗi người kitô hữu chúng ta. Chính Chúa Giêsu cũng nói với người thông luật rằng : “Ông hãy đi và cũng hay làm như vậy” (Lc 10,37).

Trong cuộc sống, chúng ta cần phải nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em mình, không phải chỉ bằng lý thuyết mà cần phải ra tay hành động. Bởi vì : “Lòng thương xót nếu không có việc làm thì tự nó sẽ chết” (ĐGH Phanxicô). Những lời huấn dụ của Đức Thánh Cha Phanxicô sau đây đáng chúng ta suy nghĩ, Ngài nói : “Ai đã cảm nghiệm trong cuộc sống của mình lòng thương xót của Chúa Cha thì không thể không nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em mình…Những công việc từ bi thương xót không phải là những đề tài lý thuyết, nhưng là những chứng tá cụ thể, đòi chúng ta phải xắn tay áo lên để thoa dịu những đau khổ của nhân loại”(Bài huấn dụ 30/06/2016).

Lạy Chúa Giêsu, xin chữa chúng con khỏi căn bệnh vô cảm, để chúng con luôn biết nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em mình. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT PHÁT XUẤT TỪ TRÁI TIM

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Một trong những chương trình gần đây của VTV bị dư luận phê phán kịch liệt đó là chường trình 60 phút mở, do biên tập viên nữ nổi tiếng của đài thực hiện. Trong kỳ phát sóng vừa qua, cô đã đặt vấn đề : Làm từ thiện để làm gì ? Khi nêu những ví dụ về các nhóm làm từ thiện, cô muốn xoáy sâu để đào bới các động lực chính trị nơi những người làm từ thiện. Có người mang danh tiến sĩ đã phát biểu : Làm từ thiện khiến cho người ta mất đi bản sắc văn hóa dân tộc. Ngay lập tức, chương trình bị dân chúng phản ứng và cho rằng, chương trình thiếu lương tâm, vô nhân đạo và những con người phát biểu cách lạnh lùng như cô biên tập viên hoặc như ông tiến sĩ kia là những con người vô cảm. Họ chỉ là hạng người có cái đầu nhưng không có óc, có cái xác nhưng không có trái tim. Nhiều người bày tỏ quan điểm rằng, họ làm từ thiện là do thúc đẩy của sự cảm thông và chạnh thương. Những người khác cho rằng, họ làm từ thiện để cho tâm hồn được thanh thản.

Đối với Kitô giáo, việc làm từ thiện không dừng lại như một công tác xã hội, người làm bác ái không như một chuyên viên, nhưng vì sự thúc đẩy của trái tim chạnh thương. Hơn nữa, việc bác ái của Kitô hữu còn là việc làm thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa, nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi anh chị em chung quanh. Vì thế, việc bác ái Kitô giáo không chỉ là tặng quà, không chỉ là cho đi những của cải dư thừa, mà là dám chia sẻ cả những cái mình đang cần, đang dùng, và cả những cái mình đang thiếu. Nhưng trên hết, việc bác ái của người Kitô hữu là việc làm phát xuất từ lòng yêu mến Thiên Chúa.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay thuật lại, khi Chúa Giêsu nói với ông luật sĩ về hai giới răn quan trọng nhất là Mến Chúa- Yêu Người. Ông luật sĩ đã đặt vấn đề với Chúa : Nhưng ai là người thân cận của tôi ? Ngay câu hỏi này đã cho thấy, người thông luật muốn quy về bản thân mình, lấy mình làm trung tâm. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện về người Samaritanô nhân hậu như một mẫu gương cho người luật sĩ. Qua câu chuyên này, Chúa muốn đổi hướng nhìn của người luật sĩ và muốn ông nhìn đến người khác hơn, khi Ngài đặt cho ông câu hỏi : Ai là người thân cận của người bị bỏ rơi ?

 Do lịch sử để lại khiến người Do Thái và người Samaria trở nên thù nghịch với nhau. Người Do Thái coi người Samaria là những người mất gốc, là con lai và rối đạo. Vì thế, họ không giao du tiếp xúc với nhau, mặc dù cùng sống trên một quốc gia. Trong mắt người Do Thái, những người Samaria là những người bị suy thoái trong đời sống đạo, vậy mà Chúa Giêsu lại lấy người Samaritanô làm tấm gương cho người Do Thái.

Câu chuyện được Chúa Giêsu kể mang rất nhiều ý nghĩa : Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp, chúng trấn lột và đánh anh ta nhừ tử, dở sống dở chết rồi bỏ đi. Tình cờ, một thầy Tư tế, một thầy Lêvi đi ngang qua, thấy nạn nhân, họ đã tránh qua chỗ khác mà đi. Chi tiết này cho thấy mặt trái trong đời sống của những người có thế giá, chức vị. Đáng lẽ các thầy tư tế phải là những người có lòng chạnh thương và phải ra tay cứu giúp người bị nạn, nhưng ông đã không làm, ông nhắm mắt làm ngơ như không nhìn thấy nạn nhân. Có thể thầy thượng tế này nại vào lý do lề luật quy định, khi người nào đụng chạm đến nạn nhân dính máu, thì bị ô uế, không thể tham dự các nghi thức tế tự trong đền thờ. Cũng vậy, các thầy Lêvi là những người giúp việc đền thờ, họ cũng phải giữ luật thanh sạch như vậy.

Trong câu chuyện được kể, Chúa Giêsu cho thấy rằng, không có một thứ lề luật nào có thể ngăn cản con người thể hiện theo sự nhắc bảo của trái tim. Thầy thượng tế và Lêvi đã để cho công việc chức vụ của mình lấn át sự mách bảo của trái tim, nói cách khác, trái tim của những người này tuy còn đập nhưng đã chết trước nỗi đau khổ và nguy cập của anh em. Trái với vẻ đạo mạo của các Tư tế và Lêvi là một người Samatitano, người mà trong mắt người Do Thái chỉ là kẻ tầm thường, không địa vị, không danh vọng, nhưng ông lại có một tâm hồn cao thượng, một trái tim hết sức nhân hậu, biết chạnh thương.

Khi nhìn thấy nạn nhân nằm bên đường, người Samaritanô này không cần quan tâm kẻ ấy là ai, trong mắt ông, anh ta là một nạn nhân đang cần sự giúp đỡ. Câu chuyện kể lại thái độ hết sức ân cần của ông, ông chăm sóc cho nạn nhân như chăm sóc người ruột thịt : Ông lại gần, lấy dầu và rượu xức vết thương, băng bó lại, đặt người đó trên lưng lừa của mình và đưa về quán trọ săn sóc. Điều này chứng tỏ rằng ông trực tiếp chăm lo cho nạn nhân, ông còn cho nạn nhân thời giờ, công sức của ông, mặc dù ông đang trên đường đi công việc.

Người Samaritanô còn tỏ ra quảng đại và có trách nhiệm đối với nạn nhân : Sáng hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ hoàn lại. Việc làm này lại càng cho thấy sự quảng đại và tinh thần trách nhiệm của ông. Ông làm việc bác ái không chỉ bằng tiền mà còn bằng chính đôi tay, công sức, tinh thần trách nhiệm và tình thương của ông dành cho người bị nạn.

Kể đến đây, Chúa Giêsu đã hướng cái nhìn và sự quan tâm của người luật sĩ về phía tha nhân, thay vì hướng về mình, Ngài hỏi ông : Theo ông, trong ba người đó, ai tỏ ra là người thân cận với người bị nạn ? Người thông luật trả lời : Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót với người ấy. Như thế, khi chúng ta thực thi lòng thương xót với mọi người, thì ta sẽ là người thân cận của mọi người. Chúa Giêsu đã nói với ông : Ông hãy đi và làm như vậy. Có nghĩa là, ông cứ quảng đại nhân hậu và chạnh thương với mọi người, ông sẽ trở thành người thân của mọi người và mọi người sẽ là người thân của ông.

Tấm gương người Samaritanô nhân hậu cũng được Đức Thánh Cha nhấn mạnh cho mỗi chúng ta trong Năm thánh Lòng Thương Xót này. Chúng ta được mời gọi để đem lòng thương xót của Chúa đến cho anh em, chia sẻ tình yêu thương cho mọi người như chúng ta đã được Chúa yêu. Hãy đi và làm như vậy : Chúa muốn chúng ta thực thi lòng thương xót bằng cả trái tim nhân hậu, không điều kiện, không giới hạn và không đặt bất cứ rào cản nào, vì Chúa cũng đã yêu thương chúng ta không giới hạn, không tính toán thiệt hơn.

Xã hội phát triển có thể kéo chúng ta lại gần nhau về khoảng cách, nhưng nó không thể làm cho tâm hồn chúng ta lại gần nhau được. Sự tiến bộ của khoa học có thể làm cho trái tim chúng ta đập đúng nhịp, nhưng không thể làm cho trái tim chúng ta trở nên nhân hậu bao dung, nếu chính mỗi người không tự mở lòng mình ra. Công nghệ thông tin khiến cho người ta dễ dàng nói chuyện giao tiếp với nhau, nhưng dường như nó cũng khiến cho con người lạnh lùng vô cảm với nhau nhiều hơn. Sự vô cảm dửng dưng đang xảy ra khắp nơi : các nhà lãnh đạo vô cảm với dân, cha mẹ, vợ chồng vô cảm với con cái, con người trong xã hội vô cảm với nhau. Trong gia đình, dù ngồi chung với nhau nơi bàn ăn nhưng cả nhà dán mắt vào cái tivi, mỗi người quan tâm đến những việc khác nhau mà không quan tâm đến người ngồi bên cạnh mình. Các bạn trẻ ngồi với nhau trong cùng bàn café, nhưng mỗi người một hearphone, điện thoại và một thế giới riêng.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh lại ánh mắt, trái tim để chúng ta có thể nhìn thấy chung quanh còn rất nhiều người đang cần đến sự quan tâm giúp đỡ của chúng ta. Hãy mạnh dạn tắt tivi, cúp điện thoại, bỏ hearphone, gác lại công việc, để chúng ta có thể nhìn thấy người bên cạnh, nghe được tiếng kêu của họ và ra tay giúp đỡ họ. Cuộc sống bận rộn khiến nhiều người không còn thời giờ cho gia đình và cho nhau, khiến các tương quan ngày càng lỏng lẻo. Có những người dành rất nhiều giờ cho đối tác làm ăn, mất nhiều giờ cho những bữa nhậu, nhưng lại rất tiết kiệm thời gian với cha mẹ, vợ con và người thân. Người thân và con cái trong gia đình cần có thời gian để bên nhau, cần được yêu thương hơn tiền bạc, vì thế, món quà thời gian chính là món qùa mà người thân đang chờ đợi nơi chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta cũng biết học theo gương của người Samaritanô hôm nay, qua lòng nhân hậu và xót thương, chúng ta sẽ biến mọi người chung quanh thành người thân của chúng ta và biến chúng ta thành người thân của họ. Amen.

Về mục lục

.

CÓ XÓT THƯƠNG MỚI ĐƯỢC CỨU ĐỘ

Jos. Vinc. Ngọc Biển

“Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10, 25). Đây là câu hỏi của nhà thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay và cũng là tiếng vọng được vang lên từ trong sâu thẳm của con người ở mọi nơi và mọi thời. Tuy nhiên, muốn có sự sống đời đời cần phải có ý ngay lành và phải thực thi đức ái trong lòng mến thì mới hy vọng đạt được.

Hôm nay, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đưa tới sự sống ấy qua dụ ngôn người Samari nhân hậu. Qua đó, Ngài cũng mời gọi mỗi người hãy xót thương  như thế thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

  1. Bối cảnh câu chuyện

Khởi đi từ câu chuyện giữa Đức Giêsu và người thông luật: ông này lên tiếng hỏi: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10, 25). Dựa trên những hiềm khích sẵn có, nên câu hỏi này không phải xuất phát từ ý hướng ngay lành, nhưng nó là một sự gài bẫy để như một cái cớ nhằm cơ hội đánh bại Đức Giêsu nếu Ngài bị lỡ lời! Điều mà ông ta mong mỏi, đó là hy vọng Đức Giêsu sẽ đưa ra một mớ lý thuyết, một lô nghi lễ và dày đặc những nguyên tắc để trả lời!!! Tuy nhiên, Đức Giêsu đã tước lấy vũ khí ngay trong tay đối phương khi Ngài hỏi ngược lại vấn đề: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” (Lc 10, 26). Người thông luật đã trả lời cách chính xác: “Yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận như chính mình” (x. Lc 10,27). Nghe xong, Đức Giêsu đã dạy cho ông ta một bài học sống động ngay trên chính câu trả lời của ông, Ngài nói: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10, 28).

Chính câu hồi đáp này đã làm cho người thông luật chưng hửng và thất bại. Bởi lẽ, câu hỏi của Đức Giêsu đã làm đảo lộn tình thế. Từ chỗ Ngài là đối tượng để gài bẫy, đến chỗ chính cái bẫy ấy đã tố cáo và vạch trần những điều ám muội bởi lương tâm đê tiện của nhóm thông luật mà ông là người đại diện.

Thấy được lối sống hình thức của nhà thông luật, nên Đức Giêsu mới kể cho ông nghe dụ ngôn về người Samari nhân hậu.

Câu chuyện ấy là: một người đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Bất ngờ anh bị bọn cướp tấn công. Khiến anh ta nửa sống nửa chết. Có một thầy Lêvi đi qua, ông trông thấy rồi bỏ đi. Một Tư tế cũng lựa chọn như vậy. Nhưng người Samari trông thấy, ông đã chạnh lòng thương và ra tay cứu giúp.

Tưởng cũng nên biết thêm: Giêrusalem cao cách mặt nước biển 766 mét. Trong khoảng 32 km, con đường này đã đổ dốc tới 1.200 mét. Từ Giêrusalem xuống Giêrikhô có rất nhiều đèo và đường xá chật hẹp, quanh co, khúc khửu. Đây là điều kiện thuận lợi cho bọn cướp hoành hành. Vì thế, người ta thường gọi đoạn đường này là “con đường máu”, ai muốn được an toàn khi đi trên con đường này thì hoặc là đi thành từng đoàn hay phải tính giờ để về nhà lúc mặt trời chưa lặn.

  1. Ý nghĩa câu chuyện

Khi kể cho nhà thông luật câu chuyện trên, Đức Giêsu muốn vận dụng nó vào trong bối cảnh cụ thể, nhằm dạy cho ông ta một bài học sống động về việc thi hành luật.

Để hiểu sâu sắc ý nghĩa của nó, chúng ta cùng phân tích ý nghĩa của từng nhân vật.

Trước tiên là khách bộ hành: vị khách này không được Đức Giêsu nói rõ là ai, hình dạng ra sao hay thuộc dân tộc nào, mà chỉ nói là người lữ khách lâm nạn. Nhưng cứ theo sự thường thì có lẽ là người Dothái và ông ta phải là một người rất liều lĩnh. Bởi vì chỉ đi có một mình mà lại mang nhiều tư trang hành lý. Vì thế, ông ta bị cướp và bị đánh đập là lẽ đương nhiên trên con đường đầy nguy hiểm này.

Tuy nhiên, điều đáng nói là hình ảnh của những người đi đường khi trông thấy người lâm nạn.

Trước tiên là thầy Tư tế: ông ta trông thấy nạn nhân nằm quằn quại bên lề đường. Nhanh tay, nhanh mắt, thầy Tư tế đã tránh sang một bên và bỏ qua. Có lẽ vị tư tế này không dám đụng vào nạn nhân vì sợ bị ô uế bởi Luật. Vì trong Luật có chép rằng: nếu ai đụng vào người đã chết thì bị ô uế đến 7 ngày (x. Ds 19,11). Vì thế, có thể ông ta suy diễn: nếu giúp đỡ người bị nạn, ông sẽ không còn thanh sạch để xứng đáng tế lễ, và đương nhiên ông bị mất phiên phục vụ trong đền thờ! Như vậy, thầy Tư tế này đã có lựa chọn: ông ta đặt lễ nghi trên tình thương. Đền thờ và nghi lễ đã làm cho lòng trắc ẩn của ông bị đóng khung bởi luật.

Thứ đến là thầy Lêvi: cũng cùng một lựa chọn như thầy Tư tế, nên ông đã ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi khổ đau của người gặp nạn. Tuy chỉ là người giúp việc cho thầy Tư tế. Bổn phận của ông cũng theo đó mà nhẹ nhàng hơn. Thế nhưng, ông không dám đụng vì sợ liên lụy, nên đã “đào vi thượng sách” cho an thân.

Cuối cùng là người Samari: ông cũng thấy người gặp nạn như thầy Tư tế và Lêvi. Nhưng, thay vì tránh né, phủi tay, ông đã chạnh lòng thương và đến để cứu giúp người lâm nạn.

Kết thúc câu chuyện, Đức Giêsu lên tiếng hỏi: “Ai là người thân cận của người gặp nạn?” (x. Lc 10, 36). Nhà thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10, 37).

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Có lẽ khi đọc qua câu chuyện trên, nhiều người trong chúng ta không khỏi bức xúc và buông những lời chỉ trích nặng nề đến những người đã vô tâm và lạnh lùng không giúp đỡ người lâm nạn. Đồng thời không ngớt trầm trồ khen ngợi người Samari nhân hậu.

Tuy nhiên, nếu suy niệm dưới ánh sáng đức tin và dưới cái nhìn liên đới, hẳn chúng ta thật bỡ ngỡ vì những hình ảnh và lựa chọn của thầy Tư tế và Lêvi trong câu chuyện trên lại đang tiếp diễn nơi những hành vi và lựa chọn của chúng ta. Còn tấm lòng và nghĩa cử nhân ái của người Samari lại quá xa vời trong đời sống đạo của mỗi người!

Vì thế, không lạ gì khi chúng ta vẫn thấy đây đó sự dửng dưng, vô cảm và thiếu vắng lòng thương xót ngay tại những trung tâm tôn giáo với nhiều lễ nghi tối ngày… Hay vẫn còn đó biết bao người đói khát, rét mướt, không nhà cửa ngay tại những trung tâm thành phố sầm uất, tráng lệ. Hoặc biết bao trẻ em mồ côi, người già neo đơn không nơi nương tựa đang ngày đên cầu cứu tại các chợ trời, gầm cầu!!!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: dù là ai, làm việc gì, trong đạo hay ngoài đời, ngôn hành phải đồng nhất. Nếu chỉ tập trung lo tổ chức lễ nghi hay sự kiện nhằm mục đích “võ sĩ dương oai” mà quên đi việc thăng tiến con người, nhất là người nghèo, khổ đau, bị gạt ra bên lề xã hội, thì tất cả mọi chuyện chúng ta làm chẳng khác gì một tay hề trên sân khấu tôn giáo! Điều đáng nói, đó là: chúng ta sẽ phải trả lời trước Vị Thẩm Phán chí công, giàu lòng thương xót trong ngày chung thẩm về đức ái mà mình có với tha nhân chứ không phải là những thành công nơi những công trình hay lễ nghi bề ngoài. Mặt khác, nếu vì kiêu ngạo mà bám víu vào một mớ kiến thức rồi đưa ra những khái niệm, định nghĩa để phân tích phải – trái, nhưng không hề có lòng xót thương như người Samari, thì chắc chắn ơn cứu độ sẽ vuột mất ngay trong tay chúng ta. Hãy nhớ lại lối sống giả nhân giả nghĩa và kết cục bi đát của Giuđa để làm bài học cho chính mình!

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho cho chúng con có được tấm lòng thương xót như người Samari, để khuôn mặt xót thương của Thiên Chúa được hiện tại hóa nơi hình ảnh và hành vi của mỗi chúng con. Được như thế, chúng con mới hy vọng có được sự sống đời đời. Amen.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG CỤ THỂ LÀ DỪNG LẠI, CÚI XUỐNG VÀ PHỤC VỤ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 10,25-37

(25) Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? (26) Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” (27) Ông ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình” (28) Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. (29) Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (30) Đức Giêsu đáp: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. (31) Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. (32) Rồi cũng thế, một thầy lê-vi đi tới chỗ ấy cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. (33) Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương. (34) Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy, và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. (35) Hôm sau ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.(36) Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” (37) Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần: Phần một là người thông luật hỏi Đức Giêsu về điều kiện để được sống đời đời. Ông cũng kể ra được hai điều căn bản của Luật dạy là “mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu mình”. Đức Giêsu đã khen ông đã hiểu đúng và dạy ông hãy làm như Luật dạy thì sẽ được sống đời đời. Phần hai là nhà thông luật hỏi Đức Giêsu về người thân cận mà ông phải yêu thương kia là ai ? Đức Giêsu đã kể ra dụ ngôn về người Samari nhân hậu để dạy ông hãy noi theo bằng cách vượt qua những điều tùy phụ của Luật Môsê để thực hiện điều quan trọng là quên mình phục vụ người gặp nạn cần được trợ giúp.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 25-28: + Người thông luật: Từ này ám chỉ các Kinh sư Do thái, là những nhà thông thái hiểu biết về Luật Môsê và có nhiệm vụ giải thích Lề luật cho dân chúng tại các hội đường Do thái. + Đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người: Các người thông luật thường tự cao, nghĩ mình là giỏi và không cần phải hỏi ai cả. Ở đây họ hỏi Đức Giêsu chỉ nhằm thử thách và gài bẫy để có dịp bắt bẻ Người mà thôi.+ Làm gì để được sống đời đời?: Người thông luật thuộc phái Pharisêu, là phái tin có đời sau và có sự kẻ chết sống lại, nên ông đã đặt ra câu hỏi này, trái với các người phái Sa-đu-xê-ô không tin kẻ chết sống lại (x. Cv 23,6-8).+ Trong Luật đã viết gì?: Người Do thái gọi 5 cuốn sách đầu trong bộ Thánh kinh Cựu ước là các sách Luật Môsê vì do chính Môsê và các đồ đệ của ông đã viết ra. 5 cuốn sách đó là: Sáng thế ký, Xuất hành, Lê-vi, Dân số và Đệ nhị luật. + Ông đọc thế nào?: Đức Giêsu trả lời bằng một câu hỏi, buộc người đối thoại phải tỏ rõ lập trường của mình ra trước. + Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa…: Người thông luật đã đọc kinh Shê-ma là lời cầu nguyện hằng ngày của dân Do thái. Kinh này gồm hai câu rút ra từ 2 sách Luật là Đệ nhị luật (Đnl 6,5) và Lê-vi (Lv 19,18). Điều đó cho thấy Cựu ước đã chuẩn bị trước cho Tân ước. + Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm…”: Để được sống đời đời thì phải sống yêu thương. Lòng mến Thiên Chúa và yêu người thân cận luôn phải đi đôi với nhau.

– C 29-30: + Ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý: Người thông luật muốn chứng tỏ mình thực tâm muốn tìm hiểu. Ông ta mở rộng vấn đề bằng một câu hỏi khác bên ngoài bộ Luật và độ khó nhiều hơn so với câu hỏi trước đã có sẵn đáp án trong Luật. + “Ai là người thân cận của tôi?”: Câu hỏi này mở đường cho Đức Giêsu bày tỏ quan điểm mang tính cách mạng của Người, khác với quan niệm cổ truyền hẹp hòi của các nhà thông luật của dân Do thái về đối tượng phải yêu mến. Đó là phải yêu cả kẻ thù của mình nữa! + Con đường từ Giêrusalem xuống Giê-ri-khô: Con đường này dài gần 25 cây số, băng ngang hoang địa Giuđa, thời đó có nhiều băng trộm cướp ẩn núp hoạt động.

– C 31-33: + Thầy tư tế đi xuống: Tư tế là người thuộc dòng dõi A-ha-ron có nhiệm vụ dâng chiên bò sát tế trong Đền thờ. Vị này đi xuống Giê-ri-khô vì thành này dành cho gia đình các tư tế ở. + Thầy Lê-vi­: hay trợ tế, thuộc dòng dõi Ghéc-sôn, là một trong ba ngành lớn của dòng họ Lê-vi (x. St 46,11). Các thầy trợ tế Lê-vi có nhiệm vụ đàn hát trong các buổi thờ phượng tại Đền thờ. + Một người Samari kia: Samari là một miền đất nằm ở giữa hai miền Bắc (Galilê) và miền Nam (Giuđê) của nươc Do thái. Dân miền này bị người Do thái coi là một giống dân lai căng và khinh thường họ. Vì trong cuộc lưu đày vào năm 721, một số người Do thái ở miền này đã không bị đi lưu đày. Họ ở lại và dựng vợ gả chồng lẫn lộn với dân Ni-ni-vê từ Ba-tư kéo xuống. Dân Samari này thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim, và không hành hương lên Đền thờ Giêrusalem như người Do thái. Họ cũng có thái độ thiếu thân thiện như không cho những người Do thái đi hành hương Giêrusalem vào ở trọ trong làng của họ (x. Ga 4,20 ; Lc 9,53).

– C 34-35: + Lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương: Người Samari này đã làm động tác sơ cấp cứu theo y học sơ đẳng thời bấy giơ, là dùng dầu để làm giảm đau và dùng rượu để rửa sạch vết thương. + Hai quan tiền: Tương đương với lương hai ngày công lao động thời đó (x Mt 20,9).

– C 36-37: + “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”: Như vậy, chúng ta sẽ trở thành thân cận của người gặp nạn kia nếu chúng ta yêu thương và sẵn sàng giúp đỡ họ. + Hãy làm như vậy: Đức Giêsu chấp nhận lối xử thế của người Samari. Người đề nghị ông thông luật hãy đi và làm giống như người Samari. Tình thương Kitô giáo không biên giới, không cần biết người cần giúp đỡ có cùng chủng tộc, tôn giáo với mình hay không.

  1. CÂU HỎI: 1- Lòng tin về mầu nhiệm kẻ chết sống lại của hai phái tôn giáo thời Đức Giêsu là Pharisêu và Sá-đu-xê-ô khác nhau thế nào? 2- Sách Luật Môsê gồm có mấy cuốn và là những sách mào? 3- Hằng ngày người Do thái ngoan đạo phải cầu nguyện bằng việc đọc kinh Shê-ma, kinh này được rút ra từ sách nào? Lời kinh ấy nhắc đến hai bổn phận phải làm là những bổn phận gì? 4- Đức Giêsu dạy người Pharisêu hãy làm theo gương của ai trong ba người trong bài dụ ngôn người Samari nhân hậu? Tại sao?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: “Ông hãy đi, và cũng làm như vậy”.
  2. CÂU CHUYỆN:

1) TRÁNH THỜ Ơ TRƯỚC NỖI ĐAU CỦA ĐỒNG LOẠI :

Cách đây ít lâu trang mạng Telegraph và các trang mạng khác ở Trung Quốc và trên thế giới đều đồng lọat phát đi một đọan video clip và bình luận về tai nan tại thành phố Phật Sơn tỉnh Quảng Đông mà nan nhân là một bé gái 2 tuổi tên Duyệt Duyệt (Yue Yue) đang đi ngòai đường tại khu chợ ổ gần nhà và đã bị một chiếc xe tải nhỏ đụng phải. Đoạn video clip từ một máy quay bảo vệ an ninh tại hiện trường cho thấy viên tài xế xe tải sau khi đụng bé Duyệt Duyệt ngã ra đường, đã chỉ dừng lai một chút rồi lại tiếp tục chạy khiến bánh sau chiếc xe cán qua người bé lần thứ 2. Tuy nhiên, sự việc không dừng lại ở hành động phi nhân tính của gã tài xế. Chính thái độ thờ ơ của những người qua đường sau đó mới khiến người Trung Quốc băn khoăn tự hỏi không biết tương lai đất nước của họ sẽ đi về đâu ?

Thực vậy: trong suốt 7 phút từ lúc bé Duyệt Duyệt gặp nạn, lần lượt đã có tới 18 người đi ngang qua nơi cô bé bị nạn nằm trên đường, nhưng chẳng một ai quan tâm giúp đỡ. Người đầu tiên là một thanh niên mặc áo phông trắng và quần thể thao đi qua bé gái nằm sõng soài trên đường, máu túa ra trên mặt, nhưng anh ta đã ngó lơ. Tiếp theo là một người đi xe đạp thấy em đã vòng qua để đi. Anh ta đã ngóai lại xem có phải một người bị nạn đang nằm ở đó hay không, rồi lại thản nhiên đạp xe đi tiếp. Khi máu tuôn ra nhiều hơn, một người đi xe đạp nữa xuất hiện. Người này không chút quan tâm tới số phận của đứa trẻ. Ba con người vô cảm vừa nói đã không giúp đỡ bé Duyệt Duyệt đáng thương, dù chỉ làm một việc đơn giản là kéo cô bé vào bên vệ đường. Sự thờ ơ của họ đã dẫn tới sự kiện một tài xế xe tải khác đi tới, do đang nói chuyện diện thọai không nhìn thấy bé Duyệt Duyệt trên đường nên đã cán xe lên người em. Sau lần bị xe đè này, bé Duyệt Duyệt đã không còn cử động nữa. Liên tiếp sau đó, rất nhiều người đi xe đạp và cả một số người đi xe chở hàng qua khu vực nạn nhân nằm vẫn không hề quan tâm tới bé Duyệt Duyệt. Cũng có một người phụ nữ dắt theo đứa con đi qua, thấy bé Duyệt Duyệt bị nạn lại rảo chân bước nhanh hơn ngang qua em…

Chỉ tới khi một nữ lao công quét đường 58 tuổi đi tới, thì bé Duyệt Duyệt mới được cứu giúp. Bà này vội hạ túi đồ xuống và lôi đứa trẻ sang một bên đường để tránh cho bé khỏi bị xe cán tiếp. Rồi bà tri hô lên yêu cầu được trợ giúp. Bấy giờ mẹ đứa trẻ nghe thấy hớt hải từ trong nhà chạy ra và vội mang con đi cấp cứu tại một bệnh viện gần đó. Tuy nhiên, sự can thiệp đã trở nên quá muộn. Các bác sĩ nói rằng bé Duyệt Duyệt do bị chảy máu nhiều nên bị suy hô hấp và còn bị chấn thương sọ não nghiêm trọng không được cấp thời cứu chữa nên khó có cơ hội hồi phục lại được và cuối cùng đã chết trong nỗi tiếc thương của cha mẹ và người thân của em.

        2) TÌM THẤY HẠNH PHÚC NHỜ QUẢNG ĐẠI CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG :

        Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: ở một thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.

Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc. Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên đôi má của ông. Chim én ngạc nhiên và hỏi rằng:

– Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!

– Ông hoàng trả lời: Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?

– Không được, tôi phải bay đi cho kịp đàn đang bay về phương bắc.

– Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.

– Chim én ngập ngừng giây lát rồi nói: Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?

– Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.

– Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.

– Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.

– Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.

  1. THẢO LUẬN: 1) Bài Tin mừng mời chúng ta hãy xét mình: “Tôi thường cư xử thế nào đối với những kẻ đang gặp hòan cảnh khó khăn? 2) Tôi cần làm gì khi gặp một người bị tai nạn trên đường hay đang lâm vào hòan cảnh bất hạnh trong cuộc sống để vừa thi hành được đức bác ái, lại vừa khôn ngoan tránh bị người khác hiểu lầm đã gây ra tai nạn?
  2. SUY NIỆM:

1) “Phải làm gì để được sự sống đời đời ?”:

Người thông luật đã hỏi Đức Giêsu va sau đó đã tự tìm ra đáp án trong Luật: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Đức Giêsu đã khen câu trả lời của người thông luật và bảo ông ta rằng: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.

2) “Ai là người thân cận của tôi?” :

Người thông luật lại hỏi Đức Giêsu: “Ai là người thân cận của tôi?” Thay vì trả lời, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về người Samari tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giê-ri-cô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Đang khi hai thầy tư tế và Lê-vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc và sẵn sàng trả thêm tốn phí săn sóc nạn nhân cho chủ quán. Qua đó cho chúng ta câu trả lời: người thân cận của chúng ta là hết những ai đang cần đến sự trợ giúp của chúng ta, là người gặp nạn được chúng ta dừng lại, cúi xuống và phục vụ tận tình. Cần nhắc lại: Không phải vì đó là người thân nên chúng ta mới phục vụ, nhưng là bất cứ ai mà khi tận tình phục vụ họ là chúng ta đã trở thành người thân cận của họ.

Người thân cận không phải đâu xa mà có thể là người cùng sống chung nhà, cùng nhóm sinh họat, cùng khu xóm. Có thể là bà hàng xóm, là cô bạn đang ở chung phòng, là người thân bên cạnh mà chúng ta đang phải chịu đựng thói hư. Tóm lại là tất cả những ai đã và đang gây ra đau khổ cho chúng ta… Tất cả đều có thể được chúng ta yêu thương và trở nên người thân cận của chúng ta. Chỉ cần chúng ta dừng lại, cúi xuống phục vụ là một người xa lạ hay đáng ghét lập tức trở thành thân quen, một kẻ thù liền hóa thành bạn hữu của chúng ta.

3) “Kẻ đã thực thi lòng thương xót”: 

Thánh Au-gút-ti-nô đã dạy: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Quả thực, khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết mình phải làm gì cho tha nhân trong bất cứ tình huống nào. Chúng ta sẽ có sáng kiến để hiến thân phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh đáng sống ngay bên. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho một kẻ xa lạ trở thành người thân, thù địch trở nên bạn hữu… Vi chỉ cần làm theo người Samari là thực thi lòng thương xót: Đó là hãy dừng lại và cúi xuống phục vụ những người lâm cảnh khó khăn bất hạnh đang cần sự tích cực trợ giúp của mình.

4) “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”:

Qua dụ ngôn này Đức Giêsu muốn dạy nhà thông luật và các tín hữu chúng ta hôm nay bài học: hãy yêu thương bằng hành động cụ thể. Sở dĩ hai thầy tư tế và Lê-vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ bị ô uế theo Luật khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp có thể quay lại, sợ bị phiền hà… Nhiều người trong chúng ta cũng không dám ra tay giúp đỡ tha nhân khi họ đang cần là do chúng ta cũng sợ có thể bị phiền hà, sợ tốn nhiều công sức, thời giờ, tiền bạc… Đang khi người Samari trong bài dụ ngôn đã sẵn sàng vượt qua những nỗi sợ hãi ấy.

Tình yêu là một phép mầu, chỉ cần bước tới, xích lại và cúi xuống phục vụ là người xa lạ lập tức trở thành thân quen, kẻ thù hóa nên bạn hữu… Tình yêu thực sự cũng đòi hành động cụ thể: sẵn sàng bị lấm lem chân tay, quần áo, sẵn sàng đối mặt với những rắc rối có thể xảy ra… Thế giới hôm nay vẫn có quá nhiều những người bất hạnh đang nửa sống nửa chết, những người nghèo đói bệnh tật và bị người thân bỏ rơi. Thế giới vẫn đang cần những người Samari là các tín hữu chúng ta dám dừng lại, cúi xuống và tận tình phục vụ. Đã có khi nào bạn thực hành tình yêu tha nhân cụ thể giống như người Samari trong Tin Mừng hôm nay chưa ?

  1. LỜI CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin cho mắt chúng con nhìn thấy được nỗi đau khổ trong ánh mắt kẻ khác, đặc biệt là của những người thân trong gia đình chúng con. Xin cho tai chúng con biết lắng nghe tiếng khóc của kẻ khác, nhất là của những kẻ cùng chung huyết nhục với chúng con. Xin cho chúng con biết lưu tâm thương xót những ai đang lâm cảnh khốn khó, đặc biệt những người thân yêu của chúng con.

– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con đủ khiêm tốn để đừng bao giờ gặp người đau khổ mà phớt lờ bỏ đi vì ngại phải vất vả cực nhọc, vì sợ bị nghi ngờ và nói xấu, hay sợ bị những kẻ gian lừa dối… Xin cho chúng con biết đề nghị để được giúp đỡ họ: “Này anh, tôi có thể giúp gì được cho anh hay không?”

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

BÀI HỌC YÊU THƯƠNG

Lm. Jos. DĐH.

Người thông thái đi đến đâu cũng được nể phục, người hiền lành, cởi mở, sống ở đâu cũng có bạn, còn người thành công trong các lãnh vực cuộc sống, chính là người biết áp dụng bài học yêu thương. Nhu cầu để hiểu biết, khao khát được yêu thương, đó là ước mơ chung, nhưng đâu là bí quyết để người ta dám xả thân thực hiện bài học yêu thương, bao giờ cũng khó. Xã hội thời nào cũng xem thường những kẻ nói mà không làm, biết mà không sống. Ấy vậy, ai cũng trân trọng, nể phục, kẻ nói ít làm nhiều, đúng như câu thành ngữ : tấm ngẩm tầm ngầm mà đánh chết voi.

Biết lắng nghe và đem ra thực hành, làm nhiều nói ít, yêu thương giúp đở nhau bằng việc làm, hẳn phải là người khôn ngoan thật sự. Cứ theo quy luật tự nhiên, nghiêm túc với chính mình, biết ý thức sống đạo luật làm người đã là khá lắm rồi, người thông luật trong Tin mừng hôm nay, quả anh phải có “nội công thâm hậu” lắm mới biết tìm hỏi “tôi phải làm gì để có sự sống đời đời”. Thời nào cũng thế, dù cố ý hay vô tình, con người vẫn bị xoáy theo quy luật : cọp chết để da, người chết để tiếng. Thật, không phải tự nhiên mà người ta biết làm điều lành và xa tránh điều xấu, không phải tự sức mình trở thành anh hùng, trở nên người nổi tiếng.

Xã hội thực dụng triết lý rằng : khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Suy nghĩ của người thông luật trong Tin mừng, nơi Đức Giêsu khôn ngoan tài giỏi, Ngài có thể chỉ cho biết đâu là con đường dẫn tới sự sống đời đời. Tuy nhiên, theo Đức Giêsu, căn bản sống của người khôn ngoan, người muốn có sự sống đời đời không hệ tại là tài giỏi, kinh nghiệm, mưu lược, mà là mến Chúa yêu người. Ý tưởng đó còn chứng thực : không phải người xinh đẹp là do họ giầu, không phải người nghèo nên họ xấu xí. Không phải người thánh thiện vì là giáo sĩ, tu sĩ, cũng không phải những người thông luật đều biết sự sống đời đời chỉ có nơi Đức Giêsu.

Từ giới răn căn bản : mến Chúa yêu người, Đức Giêsu giúp người thông luật và chúng ta hôm nay hãy vượt lên cái nhìn hạn hẹp của mình. Thiên Chúa không phải chỉ hiện diện ở nhà thờ, người thân cận đâu phải chỉ là cha mẹ anh em ruột thịt, người thân cận chính là người thân quen, người chúng ta gặp gỡ hàng ngày, người cùng chí hướng, ước muốn nên hoàn thiện. Người thân cận phải là người đang sống chung quanh ta, dù là người ta không ưa thích, không cùng mầu da, không cùng tôn giáo, không cùng lập trường chính trị.

Câu hỏi “ai là người thân cận của tôi…” xem ra thật là vô duyên, nên chăng ta thay đổi : tôi phải là người thân cận của mọi người như thế nào mới cụ thể và hợp lý ? Người Samaria biết chạnh lòng yêu thương tha nhân, anh ta không dừng lại ở tình cảm suông : băng bó, đưa người bị nạn về quán trọ, anh còn hứa tốn phí thế nào, anh sẽ quay trở lại hoàn trả cho người bị nạn. Chính những hành động bác ái cụ thể mới chứng thực ai thật là người có đạo, là người có tâm, chính trái tim nóng bỏng vì tình, giải nghĩa được mọi lý lẽ yêu thương.

Người Kitô hữu chúng ta, nếu chỉ yêu mến Chúa trong nhà thờ, chưa đủ, nếu chỉ yêu mến Chúa trên đường đi, và trong anh chị em đồng loại, hẳn cũng chỉ là tình yêu lý thuyết. Kinh nghiệm của người nông dân là kinh nghiệm thực tế : nắng tốt dưa, mưa tốt lúa, với họ, chỉ thế thôi là đủ. Quan niệm của các chuyên gia nông nghiệp, để có hiệu quả, người ta cần có bằng cấp, có kiến thức, gieo trồng phải có kỹ thuật khoa học. Tiếng nói của người có năng lực, địa vị xã hội, vẫn bị coi là những chuyên viên lý sự, lập trường vững chắc của những người ít học, lại thường bị gán cho rằng, lý cùn. Không lẽ cuộc sống này lại bi quan như thế chăng ?

Theo kinh nghiệm của tiền nhân, của Tin mừng hôm nay thì : một trăm cái lý, không bằng một tí cái tình, nghĩa là lý sự hay lý cùn, cũng chỉ là bài học lý thuyết. Bài học yêu thương mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ và gởi đến chúng ta là gì ? Đó phải chăng là thực tế, là tình yêu vượt lên sự cứng ngắc của lề luật, là tình yêu vượt qua khỏi sự giới hạn máu mủ ruột thịt, tình yêu được dàn trải trên mọi đối tượng bằng hiểu biết và chia sẻ. Sống đạo, sống bài học yêu thương, không ai được dửng dưng trước những đau khổ của anh chị em mình, để kịp thời nhận biết và sống thực hành giới luật mến Chúa yêu người.

Bài học yêu thương mà Chúa Giêsu để lại, luôn cần mỗi chúng ta có một sự mạo hiểm, vì khi đã thấm nhuần tình yêu của Chúa, người ta không sợ phải ô uế, không sợ phải liên lụy khi đối diện với người bị nạn, bị cướp bóc. Tấm lòng người Samaria không lạnh lùng hay vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Chúa Giêsu đề cao giá trị tình yêu của người Samaria, anh ta đã biết đụng chạm đến vết thương ngoài da thịt và vết thương tâm hồn, cứu chữa, và chia sẻ đức yêu thương đến với khổ đau. Mỗi chúng ta đều phải nghiêm túc thực hành lời nhắn gởi của Chúa Giêsu, nếu muốn có sự sống đời đời, “bạn hãy đi và làm như vậy”. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Các bài Kinh thánh Chúa Nhật tuần này chú trọng đến chân lý, giới luật Bác Ái, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân, đặc biệt những người lâm cảnh khó khăn. Bài đọc 1 nhắc nhở chúng ta lề luật của Chúa được ghi khắc vào tâm hồn của chúng ta, hướng dẫn chúng ta sống xứng đáng là những người đã được Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài, và khuyên nhủ chúng ta đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày.   Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết một người thông thái đến hỏi Chúa Giê-su “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Chúa đã bảo ông hãy sống đức bác ái như Kinh thánh đã dạy: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình.” Nhưng vì người thông thái này muốn biết anh em của mình là ai, cho nên Chúa đã kể câu truyện người Samarita nhân hậu để cho ông biết anh em là ai và phải đối xử với họ thế nào.

Đến đây tôi phải thú nhận với ông bà anh chị em 2 điều.  Điều thứ nhất không liên quan đến ý nghĩa của những bài Kinh thánh hôm nay, nhưng tôi nghĩ ông bà anh chị em có thể cảm thấy vui vui. Số là trưa Thứ Năm tuần vừa qua khi soạn bài giảng, tôi thú nhận đã đọc những bài giảng cũ mấy năm trước đây, và những bài giảng này đã làm cho tôi gần ngủ gật.  Nếu ai gật đầu đồng ý thì sẽ không làm cho tôi buồn hay tự ái!  Điều thứ hai tôi muốn thú nhận là vào những năm khi tôi mới chịu chức linh mục, thật tình tôi không muốn đọc hay nghe câu truyện người Samarita nhân hậu này, vì tôi cảm thấy câu truyện gán cho linh mục những điều xấu không tốt.  Thông thường linh mục là những người tốt, lo lắng quan tâm và sẳn sàng giúp đỡ mọi người.  Nhưng như tất cả mọi người đều biết, thực tế thì không hoàn toàn hoàn như vậy.  Tôi phải thú nhận, đôi khi tôi cảm thấy mình như người tư tế hay trợ tế trong câu truyện, từ chối giúp đỡ những người đang cần sự giúp đỡ, vì ngại ngùng, vì nghi ngờ hay không muốn mang họa vào thân.  Tôi thường đặt nặng vào sự kiện hay những người mà tôi tin chắc chắn cần đến sự giúp đỡ và an toàn, cho nên vì tính toán tôi đã bỏ qua những cơ hội giúp đỡ những hoàn cảnh hay những người có vẻ nghi ngờ. Nhưng càng thêm tuổi, tôi cảm thấy sự tin chắc của tôi càng bớt đi, vì yêu thương đích thực không phải chỉ vươn tay giúp đỡ người khác, mà còn là sự sẵn sàng nhận chịu những thiệt thòi, đau khổ, bị đánh lửa hay bị lợi dụng.  Và đó, tôi nghĩ, là một bài học rất quan trọng của bài Tin mừng hay thực tế hơn là ý nghĩa của câu truyện về người Samarita mà Chúa Giê-su kể cho chúng ta nghe hôm nay.

Ông bà anh chị em hảy tưởng tượng, người Do thái nạn nhân bị đánh cướp có thể đã chết.  Nếu như vậy và nếu đến giúp người chết, thì theo luật tôn giáo thời đó, vị tư tế và trợ tế sẽ bị loại trừ không được cử hành nghi lễ tại đền thờ vì ô uế. Ngược lại, nếu nạn nhân không chết, nhưng giả vờ chết nằm bên lề đường để đánh lừa người khác dừng lại, rồi đồng bọn nấp ở bụi bên cạnh xấn đến cướp của, hành hung và hạ sát. Vì vậy chúng ta thấy trở thành một người Samaritan nhân hậu là một sự mạo hiểm, rủi ro và liều mạng. Và đó, thưa ông bà anh chị em, chính là ý nghĩa của yêu thương.  Chúa Giê-su, Thầy Chí Thánh của chúng ta, cho chúng ta biết và dạy chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay yêu thương đòi hỏi chúng ta phải mở rộng tâm hồn, trái tim và sẵn sàng lãnh nhận những sự rủi ro, thiệt thòi hay bị lợi dụng.

Chúng ta biết vào thời Chúa Giê-su, có sự thù nghịch giữa người Do thái và Samaritan, do đó khi Chúa đưa người Samaritan vào câu truyện, Chúa muốn nói với chúng ta anh em là mọi người, kể cả những người chúng ta không ưa thích và những người thù ghét chúng ta.  Chúng ta thấy người thông thái đã hỏi Chúa Giê-su “Ai là anh em tôi?” nhưng tôi nghĩ rằng có một câu hỏi quan trọng hơn đáng lẽ người thông thái nên hỏi Chúa tiếp theo là: “Vậy, thưa Thầy yêu thương là gì?”  Chúng ta thấy trong xã hội ngày nay, yêu thương là một khái niệm rất phức tạp, và có thể nói rằng trong tâm trí mọi người yêu thương là làm hay giúp đỡ qua những cảm giác thoải mái, có lợi, được cám ơn và đền đáp. Thí dụ như cầu nguyện mà tôi cảm thấy thoải mái và được ơn thì tôi yêu mến Chúa; còn nếu tôi cầu nguyện mà tôi không cảm thấy gì hay được gì, thì tốn thì giờ vô ích.  Nếu tôi đi nhà thờ xem lễ mà tôi không cảm thấy gì, không cảm thấy thoải mái, không “feel good” hay không “getting anything out of it”, thì phí thời giờ vô ích hay tại sao phải đi.  Hay như: nếu tôi làm điều gì cho người nào mà tôi cảm thấy thoải mái, đưa đến lợi lộc, nhận được sự cám ơn và đền đáp là biết thương người. Còn nếu họ không cám ơn, không nhận biết hay coi thường, không đáp trả, thì tôi không ưa thích, không bằng lòng và không đáng làm.  Xã hội tân tiến hôm nay dạy chúng ta đo lường hành động yêu thương bằng những sự tính toán, những cảm giác thoải mái, ưa thích, lợi lộc, cám ơn và đáp trả.  Có những lúc chúng ta cảm thấy thoải mái khi cầu nguyện, ưa thích khi làm điều tốt hay giúp đỡ người khác, nhưng cũng có nhiều lúc không.  Thật sự, hành động yêu thương được đo lường bằng sự cho đi, bằng sự hy sinh, bằng sự dâng hiến không tính toán, và nhưng không, và không mưu ích lợi lộc đáp trả, như trong những việc thờ phượng Chúa, cầu nguyện, hay những việc giúp đỡ quảng đại cho tha nhân.  Người Samaritan nhân hậu có thể cảm thấy thoải mái, sung sướng vì làm việc tốt, bác ái và quảng đại cho người khác, anh không nghi ngờ, tính toán, sợ thiệt thòi hay lo lắng cho sự an toàn.  Anh cũng có thể cảm thấy là một gánh nặng, là một sự hy sinh vì những áp lực, khó khăn mà anh tự tạo cho chính mình.  Chúa Giê-su không cho chúng ta biết cảm giác của người Samaritan nhận hậu, mà chỉ cho chúng ta biết hành động tốt lành, thương yêu và quảng đại không tính toán và nhưng không của anh mà thôi.

Ông bà anh chị em thân mến. Bài đọc 2 xác định cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật.  Vì yêu thương và để cứu độ chúng ta, nên Ngài đã vâng phục và khiêm nhường nhập thể, mặc lấy thân xác hèn mọn con người, chịu nhiều sự đau khổ, bị khinh bỉ, chế nhạo, bị đánh đòn, bị đóng đanh và chết trên thập giá.  Ngài chính là Người Samaritan Nhân Hậu đã đến với chúng ta là những con người đau thương cần giúp đỡ.  Chúa đã giang tay trên thập giá sẵn sàng đón nhận tất cả, chấp nhận tất cả và vui mừng trao ban cho chúng ta tất cả, chỉ vì yêu thương chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta trở thành những nhân chứng và khí cụ tình yêu của Chúa trong một xã hội đầy kỳ thị, hận thù và gian dối hôm nay.  Và là sứ giả lòng thương xót Chúa cho mọi người.

Về mục lục

.