Các bài suy niệm Chúa Nhật 15 Thường Niên Năm B

565

Lời Chúa:  Am. 7, 12-15;  Ep. 1, 3-14;  Mc. 6, 7-13

——-

Mục lục

1. Như Cha sai Thầy  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tình yêu và sứ vụ  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Được chọn làm con để trở nên tinh tuyền thánh thiện (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Để có một vụ mùa mới (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

5. Bài sai  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

6. Được Chúa sai đi  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)

7. Ân ban  (Thiên San, MTG.Thủ Đức)

8. Chúa gọi và sai đi (Maria Hồng Phúc, MTG.Thủ Đức)

9. Loan báo Tin mừng với Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

10. Được chọn gọi – được huấn luyện – được sai đi (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)

11. Ra đi là vì được sai đi  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Khước từ và giũ sạch (Trầm Thiên Thu)

 

Mục lục  (2018)

1. Lên đường (Gm.Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hành trang người môn đệ (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chung một sứ mạng  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Một chút từ bỏ  (Hồng Thương,  MTG. Thủ Đức)

5. Đẹp thay sứ mạng Chúa sai đi  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Sai đi  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Gọi và sai đi  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Người sai các ông đi (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Hành trang của người tông đồ  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Ngài sai các ông đi (Lm. Nguyễn Thái)

11. Sứ mạng làm chứng cho Chúa (Lm. Đinh Lập Liễm)

12. Suy niệm Chúa Nhật 15 Thường niên_B  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

13. Suy niệm Chúa Nhật 15 Thường niên. Năm B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

14. Được Ngài sai đi  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

15. Tay không  (Trầm Thiên Thu)

16. Chứng nhân giá trị hơn thầy dạy  (Lm. Đan Vinh)

17. Nét đẹp người môn đệ Chúa  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

18. Cộng tác với Chúa Giêsu để loan báo Tin mừng  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

19. Hành trang của người tông đồ.  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

20. Ý nghĩa và mục đích của việc được sai đi rao giảng  (Lm. Trần Bình Trọng)

21. Chân dung người tông đồ  (Martin Lê Hoàng Vũ)

22. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 15 Thường niên_B  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

23. Chân dung người được sai đi  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

24. Mười hai chi tộc (Lm. Vũ Đình Tường)

25. Căn tính và tinh thần của người thừa sai  (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

26. Tình yêu quê hương  (Lm. John Nguyễn)

27. Anh em hãy đi rao giảng  (Fx. Đỗ Công Minh)

28. Thánh Thần là bảo chứng  (JM. Lam Thy, ĐVD)

29. Chúa Nhật 15 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

 

NHƯ CHA SAI THẦY

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Đức Giêsu là Đấng Thiên sai. Tại Hội đường Nagiaréth, khi về thăm quê và đọc Lời Chúa ngày Sabát, trước sự ngỡ ngàng của những người đồng hương, Chúa đã xác quyết Người là Đấng Thiên sai, khi tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (x. Lc 4, 16-22). Khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu mời gọi mọi người cộng tác với sứ vụ thiên sai của Người. Người đã chọn gọi các môn đệ, đào tạo các ông và sai các ông lên đường để loan báo Tin Mừng cứu độ. “Như Cha sai Thày, Thày cũng sai anh em!”, Chúa Giêsu đã nói như thế khi sai các môn đệ. Noi gương Thày mình, các ông nhiệt thành lên đường. Sau khi Chúa Giêsu về trời, nhờ những vị thừa sai đầu tiên này mà Tin Mừng như một dòng chảy nhanh chóng lan toả đến mọi miền thế giới.

Những người được chọn và sai đi không hẳn là người uyên bác tài giỏi. Ngôn sứ Amos đã thú nhận: tôi không phải dòng dõi ngôn sứ, mà chỉ là một người chăn chiên bò và chuyên đi hái sung, nhưng Chúa đã chọn và gọi tôi và nói: ‘Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta’. Sống ở thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, vào thời Nam Bắc phân tranh, Amos là người phía Bắc. Ông là vị ngôn sứ của người nghèo. Giáo huấn của ông gồm những lời phê phán mạnh mẽ những người giàu có bóc lột dân nghèo. Ông cũng kêu gọi dân chống bạo lực, gian dối, mời gọi họ trung thành với Chúa. Như thế, sự khôn ngoan can đảm nơi các ngôn sứ đến từ Chúa. Ngài sai các ông đi và hướng dẫn cho các ông những điều các ông rao giảng. Các ngôn sứ là người chuyển tải ý muốn của Chúa. Lời rao giảng của các ông vừa là lời động viên khen ngợi, nhưng cũng là những lời phê bình chỉ trích và đôi khi lên án quyết liệt những hành vi và lối sống sa đoạ của dân. Ngôn sứ không nhằm làm hài lòng con người và chiều theo những khuynh hướng đam mê của họ, nhưng là làm vừa lòng Thiên Chúa và giữ gìn kỷ cương trật tự.

Như Chúa đã sai các môn đệ, hôm nay Người cũng sai chúng ta, là những người tín hữu, nam cũng như nữ, giàu cũng như nghèo. Tất cả mọi tín hữu đều có ơn gọi thừa sai, loan truyền Danh Chúa trong mọi hoàn cảnh, phù hợp với bậc sống và điều kiện của mình. Thánh Phaolô đã nói lên vinh dự cao quý của người Kitô hữu: “Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài” (Bài đọc II). Ca tụng vinh quang ân sủng của Chúa, đó chính là giới thiệu và loan truyền để Người được nhận biết giữa những người đang sống xung quanh chúng ta.

Thành công của sứ vụ loan báo Tin Mừng không lệ thuộc vào những phương tiện trần gian, cũng không do sức riêng của con người, nhưng là do Chúa. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dặn dò các môn đệ rất kỹ lưỡng. Người dạy các ông phải buông bỏ để thanh thoát nhẹ nhàng, dễ dàng lên đường mà không bị dính bén hay ràng buộc. Hành trang quan trọng là lòng tín thác nơi Thiên Chúa. Chúa cũng dạy các ông phải kiên trì. Bởi lẽ sứ điệp Tin Mừng không dễ dàng được chấp nhận bởi con người mọi thời đại, nhất là đối với những người đã có sẵn thành kiến với Giáo Hội. Truyền giáo không phải là mua chuộc, cũng không phải là gâp áp lực bắt người khác phải theo. Truyền giáo là nói về lòng nhân lành của Chúa, đồng thời trình bày niềm hạnh phúc của những ai tin vào Ngài. Niềm hạnh phúc ấy, không phải là một công thức bên ngoài, nhưng được cảm nghiệm và lan toả từ chính cuộc sống của người loan báo.

Mỗi khi thánh lễ kết thúc, linh mục chủ tế nói với cộng đoàn phụng vụ: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”. Nhiều người hiểu đây là một lời chào tạm biệt. Không phải vậy. Đó là lời sai đi. Linh mục vừa thay mặt Chúa Giêsu, vừa thay mặt cho Giáo Hội để sai chúng ta lên đường. Người tín hữu, sau khi đã được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Mình Chúa, nay lên đường với nghị lực mới. Thánh lễ là một cuộc lên đường, là một khởi đầu mới với những năng lượng đón nhận từ nơi Chúa.

Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng trần gian!” (Ga 8,12). Với các môn đệ, Người cũng khẳng định: “Anh em là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-67). Lời Chúa vừa nhắc đến danh dự của người tín hữu, vừa gợi cho họ nhớ đến sứ mạng phải toả sáng nơi lòng cuộc đời bằng chính đời sống khiêm nhường và yêu thương.

Về mục lục

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ

Lm. Jos DĐH.

Tất cả mọi người đều có quyền tìm thầy kiếm thợ, khi túi họ nhiều tiền lắm bạc. Đấng làm thầy dạy, luôn được tự do đón nhận hoặc từ chối các học trò ngổ ngáo, thiếu thiện cảm, không đủ điều kiện làm đệ tử. Lý tưởng nhất ở đời là trò ngoan được thọ giáo nơi người thầy đức độ, kẻ đau ốm bệnh tật được gặp thầy thuốc giỏi. Tìm kiếm đã khó, song thầy trò cần nghiêm túc, cần phải trung thành với phận vụ ; thầy thuốc, bệnh nhân, có tuân thủ việc chữa trị, sẽ còn là một chuỗi dài phức tạp. Cuộc đời không đơn giản theo công thức: con nhà giầu là học giỏi. Các đấng bậc đã từng nói: mục tiêu cũng như hải đăng, đủ sáng mới có thể hướng dẫn được tầu thuyền. Trong tương quan gia đình xã hội, người ta vẫn đòi hỏi sự công bằng: có làm thì mới có ăn, trong đời sống đức tin, có đầu tư, có đón nhận ơn ích thiêng liêng, sẽ có ngày gặt hái kết quả.

Thầy Giêsu năm xưa gọi chọn 12 học trò, bằng một tình yêu không tính toán, Thầy trao ban cho các ông, cùng tham dự trọn vẹn vào sứ vụ loan báo tin mừng ơn cứu độ. Thầy thao thức cho cả nhân loại nhận ra tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha, các học trò thì mơ ước Thầy sẽ ở mãi bên các ông, dù hoàn cảnh, niềm tin yêu mỗi vị mỗi khác nhau. Các ông lên đường trong ý thức phục vụ, bằng một tinh thần từ bỏ: “đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Vâng, vui cảnh nào, chào cảnh ấy, được một điều mừng, trăm điều nghi ngại. Được gọi chọn theo Thầy Giêsu là một vinh dự, lên đường không có tiền của phòng thân, phục vụ, làm việc tông đồ như thế, đúng là phải hy sinh, tín thác cao độ hơn, trước tình yêu thương của Thầy.

Với cái nhìn tự nhiên, chúng ta sẽ thắc mắc, các vị chài lưới đầy giới hạn, làm sao các ông có thể sống từ bỏ, chu toàn được sứ vụ loan báo tin mừng cứu độ, nếu các ông chưa được biến đổi tâm tính, hoặc thiếu sự hiện diện của Vị Thầy quyền năng. Trước vấn đề cao siêu khó hiểu, chính tình yêu đã hé mở cho các ông, cho chúng ta một cảm nhận: nghịch cảnh càng lớn, người ta càng trưởng thành hơn, khó khăn càng nhiều, thành quả càng cao. Ngày hôm nay, nhờ tình yêu và sứ mạng rất cao quý từ nơi Đức Kitô, chúng ta đủ khôn ngoan để nói với chính mình, nói với thế hệ con cháu: hãy nắm bắt lấy cơ hội, tất cả hoàn cảnh, thời gian, đều là cơ hội. Tình yêu, nhiệt huyết tông đồ của ta đang minh chứng: người có uy tín nhất, thường là người sẵn sàng hành động, và chấp nhận thách thức từ mọi phía.

“Các ông ra đi rao giảng sự thống hối, các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu và chữa nhiều bệnh nhân”. Là học trò của Đức Giêsu, không phải chỉ hô to hãy sám hối ăn năn, mà bản thân mỗi người phải biết tự bỏ mình, bỏ tính ích kỷ nhỏ nhen, và vui sống hài hòa chuẩn mực. Theo Đức Giêsu làm môn đệ, không phải cứ nhịn ăn nhịn uống mới là dấn thân phục vụ, căn bản hơn là hãy tín thác vào Thầy Giêsu bằng tinh thần cảm mến tri ân. Đức Giêsu quyền năng, Ngài mời gọi các học trò, các môn đệ, và chúng ta hôm nay, hãy cộng tác, chia sẻ, đem tin mừng yêu thương đến khắp mọi nơi. Chắc chắn Đức Giêsu muốn những ai là học trò, là môn đệ của Thầy phải hiểu rằng: tình yêu không cần phải thừa dư, tình yêu không cần phải hoàn hảo, điều cần hơn cả trong tình yêu chính là chân thật.

Tình yêu, luôn khó hiểu đối với phận làm con, tình yêu, bao giờ cũng phức tạp với các học trò, tình yêu, chắc chắn ngọt ngào với kẻ đang được yêu. Kinh nghiệm ở đời mãi mãi là bài học không có đáp án chung cho chúng ta: người nào yêu mà không mong được đáp đền, người đó không những là sư phụ, là bậc thầy, cách sống của họ đã đủ chứng minh họ có tình yêu thật. Tình yêu của Đức Giêsu không phải chỉ có 3 năm rao giảng tin mừng hay 33 năm sống chứng nhân tại trần thế, mà còn cho đến tận cùng của thế giới, Ngài vẫn hiện diện với tư cách là Thầy, là Chúa, là Đấng cứu độ. Sứ vụ tông đồ, tình yêu Đức Kitô, sẽ mãi mãi ở trong tình yêu các học trò, nơi mỗi người tín hữu chúng ta, không có gì cao thượng hơn tình yêu ở nơi những trái tim trong sáng, thành khẩn.

Đức Giêsu chọn các môn đệ, mời gọi người tín hữu chúng ta theo Ngài, đó là vinh dự, là cơ hội, Ngài biết rõ từng tâm hồn, biết cả những giới hạn thiếu sót của chúng ta. Nét đẹp của người học trò, là hãy sống tốt, đừng quan tâm đến những kẻ khác nghĩ về mình, là hãy khiêm tốn cậy dựa vào tình yêu của Thầy mình. Theo Thầy Giêsu làm môn đệ, theo Thầy cùng thực thi sứ mạng yêu thương, điều lớn lao nhất không phải là ta làm được việc quan trọng, không hệ tại cái đích ở trần gian, mà hướng ta đang đi, niềm tin ta đang bày tỏ thế nào ? Thầy Giêsu sẽ vui biết bao khi các học trò trưởng thành, Thầy rất hạnh phúc khi các môn đệ của Thầy biết khiêm tốn, tín thác vào tình yêu và sứ vụ của Thầy. Amen.

Về mục lục

ĐƯỢC CHỌN LÀM CON ĐỂ TRỞ NÊN

TINH THẦN THÁNH THIỆN

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Thể theo lời thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô chương 1, 3-6, chúng ta thấy được ơn lớn nhất mà Thiên Chúa dành cho chúng ta là ơn gọi làm con Chúa, tức làm thánh.

Câu hỏi được đặt ra là Chúa chọn chúng ta khi nào?

Thưa: Chúa không chọn chúng ta làm con Chúa ngày hôm qua, hay hai ngàn năm trước, nhưng là, “trước khi tạo dựng thế gian”. Thiên Chúa biết rằng trong thế kỷ này có một người là tôi, mà Ngài đã nhận làm con. Trước khi tạo thành thế gian, Chúa đã chọn tôi, và việc tôi nay là người tốt hay xấu không thành vấn đề. Chúa không để ý xem tôi có xứng đáng không. Thật ra, chẳng ai trong chúng ta xứng đáng được chọn làm con Chúa. Ðáng lẽ mọi người chúng ta đều phải gánh chịu sự chết khi tổ tông loài người phạm tội. Nhưng Chúa không đành, mà lại cho chúng ta trở thành con Chúa do ân sủng: “Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,5). Được làm con Chúa, chúng ta có một người Cha hằng chăm sóc, lo lắng và có quyền năng giải quyết mọi khó khăn của chúng ta. Ðiều quan trọng là chúng ta phải biết nhìn vấn đề theo con mắt đức tin, để thấy được những ơn cao trọng. Ðược Thiên Chúa nhận làm con, chúng ta có được quyền lợi cũng như trách nhiệm của người con trong gia đình Thiên Chúa. Chúng ta được quyền gọi Thiên Chúa là Cha, Abba – Cha ơi và được thừa hưởng tất cả những ơn từ Cha. Khi linh hồn lìa khỏi thể xác, chúng ta sẽ được về nhà Cha, vì là con của Ngài. Không những có người cha trên Trời, chúng ta con có anh chị em trong Hội Thánh, vì mọi người đều là con Thiên Chúa. Người ngồi cạnh chúng ta hôm nay là anh chị em của chúng ta vì có cùng một Cha trên Trời.

Chúa chọn chúng ta để làm gì?

Thưa, “để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 1, 4). Chữ “Thánh” có nghĩa là “tách riêng ra.” Trong thời Cựu Ước, đền thánh là nơi được giành riêng để thờ phượng Chúa; thầy tế lễ là người được tách biệt ra để lo việc thờ phượng Chúa. Cũng vậy, Chúa chọn chúng ta làm con, và tách biệt chúng ta để chúng ta thuộc về Ngài.

Ngài làm cho chúng ta nên thánh. Đúng như vậy, vì khi nhìn tôi, Thiên Chúa không còn thấy những tội lỗi của tôi nữa. Dòng máu cứu chuộc của Chúa Giêsu đã tẩy sạch tội tôi, để tôi trở nên tinh tuyền trước nhan thánh Chúa. “Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài” (Ep 1, 4).

Bài học về chức phận làm con 

Chúng ta học được gì qua những điều Phaolô nói ở đây?

Thứ nhất, chúng ta phải sống xứng đáng với chức phận làm con Chúa. Ðời sống chúng ta phải phản ảnh được địa vị cao trọng này. Chúng ta phải càng ngày càng giống Chúa hơn.

Thứ hai, hãy vững tin vào địa vị làm con Chúa. Chúa chọn chúng ta không dựa vào những việc làm tốt chúng ta làm, để có thể “từ” chúng ta nếu chúng ta phạm tội. Nói như thế cũng không có nghĩa là chúng ta giờ đây cứ tha hồ phạm tội. Bị giam hãm trong xác thịt này, chúng ta sẽ còn phạm tội; và nếu lỡ lầm phạm tội, đừng vì thế mà đánh mất niềm tin, nghĩ rằng Chúa không còn yêu mình nữa. Chúa sẽ gìn giữ chúng ta cho đến giây phút cuối cùng.

Thứ ba, chúng ta phải khiêm nhường, vì Chúa chọn chúng ta không dựa vào công trạng chúng ta. Ngài không chọn chúng ta vì chúng ta giàu sang, hay nghèo đói, học cao hay thấp. Ngài chọn chúng ta trước khi chúng ta có thể làm một điều lành nhỏ.

Hãy đi rao giảng Tin Mừng làm chứng về Chúa

Là con, chúng ta phải làm chứng về Cha của mình với mọi người. Nhiều người cho rằng, nếu Chúa đã chọn từ lâu, thì chúng ta không cần làm chứng cho ai nữa! Nhưng nếu không có ai nói về Cha thì làm sao người khác tin được? Chúa đã chọn họ, nhưng Chúa cũng đã chọn chúng ta để nói với họ về Ngài. Nếu có một người chịu nghe lời chứng của chúng ta, ấy là Chúa đã chọn người đó để nghe chúng ta, và đã chọn chúng ta để đem Tin Mừng đến với họ. Khi chia sẻ niềm tin với một người, chúng ta phải biết rằng đằng sau khả năng yếu kém, lời nói vụng về của chúng ta là sự chọn lựa của Thiên Chúa. Chúng ta không đánh trận bằng xác thịt, dựa vào khả năng riêng của mình, nhưng dựa vào sự chọn lựa của Chúa đã có sẵn từ trước.

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức được ơn gọi làm con Chúa thì phải làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm trong đời sống hằng ngày của chúng con. Amen.

Về mục lục

ĐỂ CÓ MỘT VỤ MÙA MỚI

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Đối diện với một thế giới đang bị tục hóa và càng ngày càng trở nên ngoại giáo, trong Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng,” Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi các Kitô hữu “đi vào một giai đoạn mới của truyền giáo được đánh dấu bằng niềm vui” gặp gỡ Chúa Giêsu. Liên quan đến vấn đề này, Lời Chúa hôm nay làm nổi lên những câu hỏi: vậy thì, việc truyền giáo cốt ở điều gì? Đâu là sự mới mẻ phải có? Chúng ta cần phải thay đổi điều gì? Đâu là ý muốn đích thực của Chúa Giêsu khi Người sai các môn đệ tiếp tục đi loan báo Tin Mừng?

1- Bắt đầu lại từ Chúa Kitô

Tin Mừng hôm nay muốn làm sáng tỏ những câu hỏi đó khi cho rằng: Chúa Giêsu chính là nguồn mạch, là nguồn cảm hứng và là khuôn mẫu của công cuộc loan báo Tin Mừng đối với các Tông Đồ và mọi tín hữu xưa cũng như hôm nay. Chúa Giêsu đã chọn họ. Mỗi người có một nguồn gốc, lý lịch, tính tình khác nhau, nhưng họ có chung một sứ vụ được ủy thác. Mỗi người được sai đến những nơi khác nhau, nhưng họ đều có chung một lý tưởng là loan báo Tin Mừng và xây dựng Nước Trời.
Các Tông Đồ được Chúa Giêsu sai đi không phải để nhân danh mình và rao giảng về mình, nhưng là nhân danh Chúa Kitô và chỉ rao giảng Tin Mừng. Họ không có quan tâm gì khác ngoài việc hiến mình hoàn toàn cho Chúa để mở ra những con đường cho triều đại Thiên Chúa mau đến.

Bởi thế, chỉ có một con đường đưa tới “một giai đoạn mới của truyền giáo được đánh dấu bằng niềm vui” gặp gỡ Chúa Giêsu” là chúng ta cần phải thanh tẩy bản thân và sống kết hợp thân mật với Người. Sẽ không có một cuộc tân Phúc Âm hóa nếu không có những nhà truyền giáo mới. Sẽ không có những nhà truyền giáo mới nếu không có sự gặp gỡ sống động, thân mật và vui tươi với Chúa Giêsu. Không có Người, chúng ta chỉ là những nhà hoạt động xã hội, những công chức tôn giáo làm việc tôn giáo.

2- Hành trang truyền giáo

Tin Mừng Máccô cũng cho biết: Khi sai họ đi, Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi các môn đệ hoạt động một mình. Chúa Giêsu ban cho họ “quyền” của Người, một thứ quyền lực không phải để điều khiển, thống trị và chi phối người khác, nhưng là quyền để “trừ nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6,13); nhờ đó, họ giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ, áp bức và phi nhân.

Các môn đệ ý thức rất rõ những gì Chúa Giêsu đã ủy thác cho họ. Các ông không bao giờ thấy Chúa dùng quyền để thống trị và áp đặt bất cứ ai. Họ luôn nhìn thấy Chúa đi đến đâu là thi ân giáng phúc ở đó, Người chữa lành các vết thương, làm giảm bớt nỗi đau khổ, chữa lành kẻ bệnh hoạn tật nguyền, cho kẻ chết sống lại, giải thoát người khỏi tội lỗi, loan báo Tin Mừng về Thiên Chúa. Như thế, việc “chữa lành” và “giải thoát” là những bổn phận chính yếu trong hoạt động truyền giáo của Chúa Giêsu. Đây là những cách thế mang lại sự mới mẻ và khác biệt cho sứ vụ truyền giáo của chúng ta hôm nay.

Hơn nữa, để công cuộc truyền giáo hiệu quả, Chúa Giêsu còn chỉ thị cho họ chỉ mang những gì cần thiết cho hành trình truyền giáo. Theo Máccô, “Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6,8-9). Như thế, hành trang truyền giáo không gì khác ngoài sự khó nghèo Tin Mừng và lòng tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Giêsu muốn các Tông Đồ sống một cuộc sống đơn giản, thanh thoát và không dính bén vào của cải vật chất khi đi truyền giáo. Họ chỉ mang những gì là cần thiết cho cuộc sống mình. Chúa Giêsu muốn người rao giảng trở thành những người thực sự tự do và không có gì làm cản trở bước chân họ, nhờ đó họ luôn luôn sẵn sàng dấn thân và phục vụ trong sự tín thác vào quyền năng của Chúa Thánh Thần.

3- Phục hồi lại cung cách sống theo Tin Mừng

Để có thể truyền giáo cho con người hôm nay, chúng ta phải thực sự sống tinh thần khó nghèo Tin Mừng, để không rơi vào việc tìm kiếm vật chất, lợi tức khi thi hành sứ vụ, nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ nhưng không vì Tin Mừng và ơn cứu độ của tha nhân.

Như thế, nếu không có phục hồi lại “cung cách Tin Mừng” này, sẽ không có “một giai đoạn mới của loan báo Tin Mừng.” Điều quan trọng không phải là có những chiến lược truyền giáo mới mẻ, chi tiết và hấp dẫn, nhưng chính là việc chúng ta dám can đảm để đi ra khỏi những thói quen, lối snghĩ, khỏi những cơ cấu tổ chức và những ảnh hưởng xung quanh đang trói buộc chúng ta, không còn làm chúng ta được tự do để loan báo những giá trị Tin Mừng một cách chân thật và đơn sơ nhất.

Trong Giáo Hội hôm nay, xem ra chúng ta đang đánh mất “cung cách sống theo Tin Mừng” ban đầu mà Chúa Giêsu đề nghị. Nhiều lúc chúng ta bước đi cách chậm chạp và tỏ ra mệt nhọc trong sứ vụ này. Nhiều lúc chúng ta không biết làm sao để đồng hành với những người được giao phó cho chúng ta khi họ đang bị bủa vây mọi sự khó khăn và bế tắc của cuộc sống hiện đại.

Nếu không có “cung cách sống theo Tin Mừng” ban đầu mà Chúa Giêsu đề nghị, chúng ta sẽ đánh mất khả năng nhạy bén để lắng nghe những tiếng thở dài và kêu cứu của anh chị em mình; chúng ta sẽ đánh mất khả năng đồng hành và quyền năng chữa lành những vết thương cho người bị tổn thương. Rốt cuộc chúng ta chỉ là những người tuyên truyền hơn là truyền giáo. Như thế, chúng ta chỉ lo bảo tồn niềm tin và quyền lực của chúng ta, hơn là tìm kiếm lợi ích cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta cần hoán cải; nghĩa là phải trở về với “cung cách Tin Mừng” ban đầu mà Chúa Giêsu truyền dạy. Có lần, tôi đến thăm một cộng đoàn của các nữ tu của Mẹ Têrêxa Calcutta ở Orange, Australia. Điều làm tôi ấn tượng và cảm phục là cuộc sống đơn sơ, khó nghèo, giản dị, họ sống âm thầm và làm những việc không ai muốn làm: hằng ngày các sơ đi thăm viếng những ai cô đơn, bị bỏ rơi, bị bệnh tật trong vùng. Các xơ đi tìm những người vô gia cư và đưa về sống trong một ngôi nhà để các xơ chăm sóc. Các xơ có những ngôi nhà nho nhỏ để dạy giáo lý cho các trẻ em. Cách dạy giáo lý hoàn toàn khác, không bằng lý thuyết suông hay sách vở, nhưng bằng các trò chơi, cụ thể để trình bày về Chúa Giêsu, về giáo lý căn bản, về các bí tích. Đây là cách dạy vừa dễ nhớ, vừa cụ thể, làm cho các em thích thú đến học. Bí quyết của các xơ là làm những việc nhỏ bé với lòng yêu mến lớn lao; sống cuộc sống âm thầm, phó thác cho sự quan phòng của Chúa. Nhưng các sơ đã làm được rất nhiều điều lớn lao mà ngay cả các linh mục cũng không làm được như thế, các xơ đưa rất nhiều người trở về với Chúa và gia nhập đạo thông qua sứ vụ phục vụ này. Tôi nghĩ rằng đây là một bằng chứng cụ thể của “cung cách Tin Mừng” mà Chúa Giêsu đề nghị thực hiện. Chỉ như thế, giai đoạn mới cuộc công cuộc loan báo Tin Mừng thực sự được tái sinh và bắt đầu có hiệu lực. Amen.

Về mục lục

BÀI SAI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

Tiên tri Amos xuất hiện khoảng năm 760 trước Công Nguyên dưới thời của Vua Phương Nam Uzziah (783-742) và Vua Phương Bắc Jeroboam II (786-746). Tiên tri Amos làm việc nơi đồng áng và chăn nuôi súc vật. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng sám hối tại trung tâm miền Bắc Bethel và Samaria. Quan niệm thần học tập trung việc cảnh cáo dân Do-thái rằng Thiên Chúa sẽ trừng phạt và phá hủy dân Israel bởi vì tội lỗi của họ. Amos kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và cải đổi đời sống theo giới răn của Chúa.

Phúc âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ và sai từng hai người đi. Chúa ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. Với lời nhắn nhủ sống đơn sơ chân thành và đi làm nhân chứng với hai bàn tay trắng. Các ông đã ra đi vào các làng mạc chuẩn bị các tâm hồn đón nhận ơn Chúa. Các ông hoàn toàn cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm thường, họ không có nhiều tài năng chuyên môn, không có của cải và không có chỗ đứng trong xã hội. Chúa chọn những người bình thường để làm những việc phi thường cho Nước Chúa.

Thật lạ lùng, Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền sứ mệnh quan trọng nhưng không ban cho các phương tiện, tiền bạc hay của cải. Ngày nay trong công tác mục vụ, chúng ta thường chuẩn bị rất kỹ càng, nào là tiền mặt, thẻ tín dụng, thức ăn thức uống, bản đồ, áo trong áo ngoài, máy móc đủ loại và các dụng cụ cá nhân. Nếu khi phải ở qua đêm, chúng ta còn cần nhiều thứ lỉnh kỉnh nữa. Chúng ta lo lắng cho những nhu cầu vật chất như chỗ ăn chỗ ở, cái ăn cái mặc và những tiện nghi tối thiểu. Đôi khi chúng ta lại quá lo lắng cậy dựa vào những nhu cầu vật chất của đời thường. Theo thông lệ một số các đấng bậc khi thăm viếng mục vụ, các giáo đoàn phải chuẩn bị đón tiếp long trọng và đôi khi còn phải chi tiêu hao tốn, thiếu đi tinh thần nghèo khó và sự phó thác.

Câu chuyện vào thời chiến, có một sự kiện xảy ra nơi một làng nhỏ ở nước Đại Hàn. Trước nhà thờ có một tượng Chúa Giêsu bị trúng mảnh bom làm vỡ bể. Một nhóm binh sĩ Hoa Kỳ đã giúp linh mục lau dọn và thu thập các mảnh vỡ vụn để gắn đặt lại tượng Chúa. Họ tìm thấy mọi phần của tượng Chúa, trừ một cánh tay bị vỡ tan. Các binh sĩ đề nghị với linh mục là đưa tượng Chúa về Hoa Kỳ để tu sửa và làm cánh tay mới. Linh mục bổn sở từ chối. Ngài nói: Tôi có một ý tưởng. Cứ để tượng như thế, thiếu một cánh tay. Chúng ta hãy viết trên bệ cho các khách hành hương chú ý: Hỡi bạn, cho tôi mượn cánh tay của bạn.

Trong cách này, mỗi tu sĩ nam nữ, các thiện nguyện viên hay các linh mục ra đi giúp mọi người nhận ra những nhu cầu trong sứ mệnh phục vụ của mình. Chúng ta sẽ là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu để xây dựng lại những đổ nát và hư mất. Cùng một suy tưởng, Chúa cần những đôi chân của chúng ta để đi tìm kiếm những ai đã lạc bước. Chúa muốn những đôi tai của chúng ta để nghe những tâm sự cô đơn buồn chán của tha nhân. Chúa dùng miệng lưỡi của chúng ta để nói những lời thân thương, khuyến khích, ủi an và nâng đỡ những kẻ đau buồn, khổ sở và thất vọng.

Trong thơ gởi cho tín hữu Ephêsô, thánh Phaolô đã viết rằng: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người (Ep 1, 4). Sau khi hồi đầu, Phaolô đặt trọn niềm tin nơi Đức Kitô. Chúa đã chọn và gọi Phaolô một cách đặc biệt. Biến đổi ông từ một người bách hại các Kitô hữu trở nên nhân chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Phaolô đã được sai đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Tông đồ Phaolô đã không ngại gian khó rong ruổi khắp các thành thị và làng mạc để loan báo về công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.

Giáo hội luôn kêu gọi chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi dâng hiến. Có rất nhiều tâm hồn đã và đang quảng đại đáp lại tiếng Chúa trong ơn gọi tu trì. Mỗi tín hữu đều có bổn phận góp sức mình, của cải và khả năng để xây dựng và loan truyền tin mừng cứu độ. Chúng ta không thể đổ dồn trách nhiệm cho môt thành phần riêng biệt nào. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự cộng tác của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nâng đỡ tinh thần và khuyến khích hơn là sự chỉ trích, gây chia rẽ, đàm tiếu hoặc phá đổ.

Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát, xin Chúa sai thêm những thợ gặt lành nghề. Chúng con cảm tạ Danh Chúa đến muôn ngàn đời. Amen.

Về mục lục

ĐƯỢC CHÚA SAI ĐI

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, Chúa Giêsu gọi nhóm Mười Hai và sai từng hai người một đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Sau khi đã được ở với Chúa một thời gian, các ông đã được nghe Người giảng dạy, được học cung cách phục vụ của Người, thấy Người chữa lành bệnh tật cho những ai có lòng tin. Hôm nay, các ông sẽ đi thực tập tông đồ.

Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6, 8-9). Thoạt đầu, ta cảm thấy lo lắng khi nghe Thầy Giêsu nói đi rao giảng Tin Mừng mà chẳng mang gì phòng thân. Chỉ có cây gậy trong tay, chân mang đôi dép và một tấm áo che thân, không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. Các ông đã ra đi trong thiếu thốn hay trong sự phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa? Chúa Giêsu bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi” (Mc 6, 11). Khi vào nhà nào, các ông phải thật sự trở thành những vị khách dễ thương và là khách quý thì mới có thể trú ngụ lại lâu ngày tại nhà họ. Có lẽ, khi được ai đó đón tiếp, mời vào trú ngụ, dù gia đình ấy giàu hay nghèo thì cũng không quan trọng, điều quan trọng là ngay tại mái gia đình ấy, các ông sẽ góp phần xây dựng một bầu khí yêu thương và tôn trọng. Các ông sẽ đón nhận tất cả những gì được người ta đón tiếp với một tấm lòng biết ơn. Nếu người ta không đón tiếp thì các ông chỉ giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ chứ không lên án, chỉ trích hay “kêu lửa từ trời để thiêu đốt họ” (x.Lc 9, 54). Nghĩa là dù không được đối xử tốt, các ông vẫn không được dùng quyền đã được ban cho để làm hại một ai, vì các ông được sai đi là để trao ban tình yêu của Chúa cho muôn người. Chúa Giêsu sai đi từng hai người một, cả hai sẽ cùng nâng đỡ nhau trong hành trình sứ vụ, sẽ là những chứng nhân về tình yêu thương và tôn trọng nhau. Các ông sẽ không chuyển từ nhà này sang nhà khác khi thấy bầu khí gia đình đang xảy ra xung đột, các ông sẽ là những người mang lại bình an cho mọi người. Các ông cũng sẽ không chia tay nhau khi gặp mâu thuẫn nhưng cộng tác với nhau, cùng nhau lắng nghe để tìm kiếm và thi hành điều Chúa muốn. Có lúc, các ông sẽ là chiếc cầu nối nối lại mối tương quan cho những thành viên trong gia đình khi các ông nói lời của Thiên Chúa, làm những việc Người ủy thác cho các ông nhân danh Chúa Giêsu.

Là môn đệ của Chúa Giêsu, ta cũng được Người sai đi. Không phải ta tự ý ra đi nhưng là chính Chúa sai đi và ta ra đi nhân danh Chúa qua Hội dòng, cộng đoàn, giáo xứ,… Có lúc, ta thấy mình chưa đủ khả năng, chưa kịp chuẩn bị, ta chưa sẵn sàng trước một nhiệm vụ mới mẻ, đến những vùng truyền giáo đầy khó khăn. Nhưng Chúa Giêsu muốn ta lên đường mà không chần chừ. Chúa Giêsu luôn đồng hành bên ta, đừng lo lắng chi cả. Người chia sẻ cùng ta cả những khi thành công hay thất bại. Đừng lo lắng khi người ta không đón tiếp. Có nhiều người thương mến Chúa nhưng cũng có không ít kẻ muốn tra tay hại Người. Ta cũng giống Chúa thôi. Người nhắn nhủ ta, hãy bước đi cùng Người. Ở trong Chúa Giêsu ta sẽ được bình an, dù phải gặp muôn vàn khó khăn, gian khổ, bị bách hại hay bị vu khống đủ điều xấu xa. Điều quan trọng là ta có nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Chúa Giêsu trong tình yêu thương hay không.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã chọn gọi con. Xin cho con trở nên tông đồ nhiệt thành của Chúa. Mỗi ngày, xin Chúa giúp con luôn ý thức về hồng ân Chúa ban và biết ở lại trong Chúa để được Chúa dạy dỗ; hầu khi ra đi rao giảng, con biết nói lời của Chúa và sống giống Chúa nhiều hơn. Con không chỉ là người rao giảng lời của Chúa bằng chính đời sống của con nhưng con còn phải biết sám hối mỗi ngày, từ bỏ mọi sự để theo sát Chúa hơn. Amen.

Về mục lục

ÂN BAN

Thiên San

Thánh sử Máccô kể lại cho chúng ta về việc Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kêu gọi mọi người sám hối. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, cùng các chỉ thị kèm theo. Qủa thực, các môn đệ ra đi theo lệnh truyền của thầy Giêsu.

Để trở thành một thầy thuốc, một bác sĩ hay một giáo viên, chúng ta phải trải qua quá trình đào tạo từ cơ bản đến chuyên sâu. Trước khi hành nghề, chúng ta phải có giấy phép, đặc biệt là trong việc bốc thuốc chữa bệnh, mở phòng khám. Vậy mà các môn đệ của Đức Giêsu lại không hề qua một lớp đào tạo nào về nghề y, trừ quỷ. Họ ra đi theo lệnh truyền của Thầy Giêsu. Chính Người sai các ông đi với quyền trừ quỷ. Chúng ta có thể hiểu rằng, Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, Ngài có quyền trên muôn loài muôn vật. Tin Mừng kể lại nhiều lần Đức Giêsu chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, dẹp yên gió bão. Các môn đệ có thể đặt tay chữa lành bệnh tật, trừ quỷ là nhờ ơn nhận được từ Thầy Giêsu, không phải bởi những khả năng riêng hay những gì họ thủ đắc từ các khóa học.

Khi ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi thực thi những chỉ thị của Đức Giêsu mời gọi trong tinh thần phó thác hoàn toàn. Ở thời đại công nghệ 4.0, trong công việc tông đồ, chúng ta được hỗ trợ rất nhiều bởi các trang thiết bị hiện đại. Phải chăng, chỉ thị của Đức Giêsu không còn phù hợp nữa? Thực ra, chúng ta nhận được từ Thiên Chúa rất nhiều ân huệ. Như thánh Phaolô đã từng nói rằng: “Bạn có gì mà không do nhận lãnh? Nếu bạn đã nhận lãnh tại sao lại vênh vang như thể đã không lãnh nhận” (1Cr 4, 7). Những gì chúng ta sử dụng để hỗ trợ cho công việc tông đồ đều là ơn của Chúa ban. Nếu chúng ta hiểu điều đó, chúng ta sẽ thực thi công việc tông đồ đúng nghĩa, theo tinh thần phó thác hoàn toàn, không bị lệ thuộc quá vào chúng.

Tiên tri Amốt bị chống đối rất dữ dội khi ông thực thi sứ mạng ngôn sứ của mình. “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm” (Am 7,12). Phải chăng, ngôn sứ chỉ là một nghề để người ta kiếm sống? Ngôn sứ Amốt đã cho chúng ta câu trả lời. “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân Ta’.” (Am 7,15). Linh mục và  tu sĩ không phải là một nghề nhưng hơn hết là căn tính, là sứ mạng. Chúng ta có thể nói: Tôi là một linh mục, tôi là một tu sĩ. Thật vậy chính Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta làm linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Như các tông đồ xưa, chúng ta cũng được mời gọi ra đi làm công việc tông đồ với ơn ban của Chúa. Người sai chúng ta đi thì Người cũng sẽ ban ơn. Bởi đó, chúng ta cần bám vào Chúa hơn là chỉ dựa vào sức riêng hay vào các phương tiện hỗ trợ.

Tiếp bước dấu chân của các vị tiền bối, chúng ta được mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa trong tinh thần sẵn sàng, phó thác và đón nhận tất cả những điều Chúa ban cho ta. Chỉ cần nỗ lực hết sức mình với một con tim đầy tràn yêu mến trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta sẽ là những cộng tác viên tích cực của Chúa. Với niềm tin tưởng Chúa sẽ sai thêm nhiều thợ gặt để cùng với chúng ta ra đi gặt lúa về, vì lúa đã chín đầy đồng.

Về mục lục

CHÚA GỌI VÀ SAI ĐI

Maria Hồng Phúc

Trong sứ mạng cứu độ nhân loại, Chúa Giê-su cần có những người cộng tác. Phải chăng một mình Ngài không đủ khả năng thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó? Chắc chắn là không, vì Ngài là Thiên Chúa Toàn Năng và chỉ cần phán một lời thôi là đã có thể làm nên mọi sự. Vậy tại sao Chúa Giê-su lại gọi và chọn những tông đồ, xưa cũng như nay, để con người có thể được tham gia vào công trình cứu chuộc của Ngài?

Khi chọn những người cộng tác, Chúa Giê-su gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một (x. Mc 6,7). Nhóm Mười Hai đã được chọn trước đó, là những kẻ được chọn do Chúa muốn chứ không do cá nhân họ muốn (x. Mc 3, 13-19). Họ là ai, là thành phần ưu tuyển trong xã hội Do Thái thời đó sao? Hoàn toàn không. Họ là những ngư phủ thất học, quanh năm lao động vất vả kiếm sống. Họ là một trong số những người bị liệt vào hàng tội lỗi, làm tay sai cho đế quốc. Họ là những người hay hoài nghi, có người thì hăng say với phong trào chính trị chống La Mã, lại có kẻ được làm quản lý nhưng không thành thật,… Họ thuộc đủ mọi giai cấp, nghề nghiệp, thành phần, lứa tuổi, tính cách nhưng có một điểm chung là được Chúa gọi tên đích danh và đặt làm tông đồ. Ơn gọi của các tông đồ, các môn đệ năm xưa cũng như ơn gọi của mỗi người chúng ta hôm nay đều bắt nguồn trước hết từ Thiên Chúa. Ngài gọi và chúng ta, tùy mỗi người mỗi hoàn cảnh, đáp trả lại hay từ chối. Đời sống tại thế của chúng ta có hạnh phúc và viên mãn hay không là tùy vào sự đón nhận và thái độ đáp trả của chúng ta trước tiếng gọi của Chúa. Ý muốn Chúa dành cho mỗi người luôn là điều tốt nhất, nhưng nhiều người trong chúng ta lại không biết, hoặc biết mà cố tình không nghe theo. Bị rơi vào sự bế tắc, sống không vui, không hạnh phúc, bất an, lỗi tại ai? Cha Thomas Merton viết trong cuốn “Tự thuật” của ngài: “Chỉ có một hạnh phúc, đó là làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chỉ có một muộn phiền, đó là làm mất lòng Chúa, đó là từ chối Ngài một điều gì đó, đó là quay lưng lại với Ngài, ngay cả trong những điều nhỏ nhặt nhất, ngay cả trong tư tưởng, trong ước muốn nửa vời của chúng ta”.

Không phải chỉ có một số ít người có ơn gọi làm tông đồ. Mỗi một Ki-tô hữu, bất kể là linh mục, tu sĩ, giáo dân hay thuộc ngôn ngữ, màu da nào đi nữa thì đều có sứ mạng làm tông đồ. Chúng ta làm tông đồ tùy vào ơn gọi, môi trường, hoàn cảnh riêng của mỗi người. Tất nhiên có một số ít người được kêu gọi sống đời thánh hiến linh mục và tu sĩ, nhưng sứ mạng làm chứng và loan báo Tin Mừng thì không phải chỉ dành riêng cho họ. Là học sinh – sinh viên, các bạn có bao giờ suy nghĩ và ý thức Chúa muốn mình làm tông đồ nơi trường học? Là nhân viên, kỹ sư, bác sĩ, công nhân,… Chúa mời gọi chúng ta là Ki-tô hữu đúng với vị trí và vai trò của mình. Thánh Phao-lô Tông đồ nói: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12, 6-8). Nếu không có sự cộng tác của các tông đồ giáo dân, sứ mạng loan báo Tin Mừng sẽ không mang lại nhiều kết quả như Chúa Giê-su mong muốn. Ngay trong môi trường giáo xứ, Chúa cũng cần lắm sự chung tay cộng tác của mọi thành phần dân Chúa với các linh mục quản xứ để phục vụ dân thánh. Sự năng động, nhiệt thành, hy sinh của các nhóm huynh trưởng, giáo lý viên, giới trẻ, ca đoàn, các hội đoàn, là thành tố quan trọng và cần thiết giúp các xứ đạo được phát triển. Những hình ảnh đẹp của họ đã mang đến rất nhiều âm hưởng tích cực đối với mọi người, kể cả những người lương dân.

Nhìn vào bối cảnh của xã hội và thế giới hôm nay, chúng ta mới hiểu hơn vai trò của người tông đồ Chúa Ki-tô. Chúa muốn chúng ta cộng tác để chúng ta biết ra khỏi nơi trú ẩn an toàn của mình, để nhìn thấy được bao mảnh đời bất hạnh, chạm đến được bao người đang đau khổ, cùng cực. Nếu không đi ra, có lẽ chúng ta chỉ lo quay quắt trong những nỗi đau nhỏ nhặt của mình, như có người ví von “tiểu thư giẫm phải gai mồng tơi” mà cứ kêu đau, cứ than thân trách phận, nghĩ rằng không ai khổ bằng mình. Giờ phút này, tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam chúng ta, đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc đối phó với đại dịch Covid. Dịch vẫn đang bùng phát rất mạnh và chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Thành phố Hồ Chí Minh trong những ngày tới sẽ giãn cách xã hội theo chỉ thị 16, nhiều người dân, nhất là những người lao động nghèo, thất nghiệp, mất việc,… sẽ phải đối diện với bao nhiêu khó khăn. Hoàn cảnh này cần lắm, sáng lắm gương những người tông đồ nhiệt thành như nhiều giáo xứ, cộng đoàn dòng tu, tổ chức bác ái đang thực hiện các sáng kiến để lan tỏa tình thương của Thiên Chúa đến mọi người. Đúng là “cách ly nhưng không cách lòng”.

Hãy mạnh dạn lên đường khi được sai đi. Chúng ta đừng để những nỗi lo lắng về tiền bạc, của cải, tài năng cản ngăn bước chân của chúng ta. Chúa Giê-su đã chẳng khuyên bảo các môn đệ đừng mang theo nhiều thứ lỉnh kỉnh, đừng mang tiền bạc, nhiều giày dép, quần áo,…(x.Mc 6,8-9) là những thứ đem đến cho ta cảm giác an toàn đó sao? Mang nặng quá nhiều hành lý, hoặc chúng ta sẽ không theo kịp Chúa, hoặc chúng ta sẽ chỉ cậy dựa vào đó mà quên đi niềm tín thác vào Chúa. Hẳn vật chất thì cần, nhất là khi ta đến với những nơi và những người đang thiếu thốn, chúng ta phải có thì mới cho họ được chứ. Nhưng đừng quên, nó luôn chỉ là phương tiện, và phương tiện thì không bao giờ được thay thế hoặc có thể thay thế được mục đích căn bản. Chúng ta là tông đồ của Chúa, chúng ta làm việc của Chúa và cho sáng danh Chúa, đó là mục đích đời sống chúng ta. Chúng ta làm việc hết mình nhưng cũng phó thác hết tất cả cho Thiên Chúa như sách giáo lý Hội thánh Công Giáo đã dạy. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ luôn vui vẻ lên đường cách nhẹ nhàng và thanh thoát; luôn bình an và tràn đầy hy vọng dù có gặp những khó khăn, thử thách, chống đối, thất bại; luôn hạnh phúc và có sáng kiến để vượt thắng mọi hoàn cảnh.

“Lạy Chúa, chẳng phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài chọn con từ trước… Xin dùng con theo ý của Ngài, làm tay chân cho người què cụt, cùng làm tai cho người bị điếc. Xin dùng con theo ý của Ngài, làm đôi mắt cho người bị mù, làm tiếng kêu cho người bị oan. Xin gởi con đi tới mọi miền, để đem cơm cho người nghèo hèn, và tặng nước cho người còn khát. Xin gởi con vào khắp muôn nhà, tặng thuốc thang cho người bệnh tật, tặng chiếu chăn cho người lạnh co.

Xin gởi con ra khắp nẻo đường, bàn tay nâng ánh đèn dọi đường, tỏa lửa ấm cho người lạnh giá. Xin gởi con ra khắp nẻo đường, cảm thông chia vui buồn phận người, và sớt chia cho đời niềm vui. Xin gởi con vào khắp thôn làng, ủi an trao cho người khổ sầu, gợi lòng tin cho người buồn chán. Xin gởi con vào khắp buôn làng, niềm vui trao những người buồn phiền, người lắng lo xin gởi bình an” (Lời bài hát “Chính Chúa chọn con”). Amen.

Về mục lục

LOAN BÁO TIN MỪNG VỚI CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà 

Như người cha trong gia đình không muốn tự mình làm hết mọi việc, để con cái ngồi chơi xơi nước, nhưng muốn đoàn con cùng tham gia làm việc với mình để chúng trưởng thành hơn, khôn ngoan hơn, Thiên Chúa cũng muốn chúng ta là con cái Ngài tham gia làm việc với Ngài như thế.

Chính vì thế, khi muốn có đông người sinh sống trên mặt đất, Thiên Chúa không tự mình nắn lên từng người một, nhưng Ngài đã dựng nên nguyên tổ loài người là A-đam và E-va rồi trao cho hai ông bà và con cháu qua các thế hệ, cộng tác với Ngài sinh thêm những người con khác, nhờ đó, nhân loại được sinh sôi phát triển khắp địa cầu.

Trong công cuộc cứu chuộc loài người cũng thế, Chúa Giê-su không tự mình đảm đương mọi việc, nhưng Ngài đã trao cho các Tông đồ, các môn đệ cùng hợp tác chặt chẽ với Ngài trong sứ mạng hệ trọng nầy.

Bài Tin mừng hôm nay cho thấy việc ra đi rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, kêu gọi người ta ăn năn sám hối[1]… vốn là việc của Chúa Giê-su, thế mà Ngài lại trao cho 12 môn đệ lên đường làm công việc đó.

Sau nầy, Ngài còn sai Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ lên đường tiếp nối sứ mạng cao cả nầy[2].

Và trước khi về trời, Chúa Giê-su trao cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta sứ mạng rao giảng Tin mừng khắp nơi.

Từ ngày lãnh Bí tích Thánh tẩy (Rửa tội), chúng ta được trở nên chi thể, trở nên bàn tay của Chúa Giê-su như Hội thánh dạy: “Bí tích Thánh tẩy làm cho ta trở thành chi thể Chúa Giê-su.”

Vì được trở nên chi thể Chúa Giê-su, chúng ta được thông dự vào vai trò ngôn sứ, tức là vai trò rao giảng của Chúa Giê-su cũng như vai trò tư tế và phục vụ của Ngài.

Là ngôn sứ của Chúa Giê-su, nghĩa là người rao giảng lời Chúa, chúng ta phải tích cực tham gia vào sứ mạng này mà không được thoái thác với bất cứ lý do gì.

Giúp cho bao người chung quanh hiểu biết và yêu mến Chúa là nhiệm vụ chính yếu của chúng ta. Chúng ta không thể trông chờ Chúa Giê-su xuống thế làm người lần thứ hai để loan Tin mừng cho họ, điều đó không cần thiết vì đã có chúng ta là môi miệng của Chúa rồi, chúng ta phải mở miệng ra mà loan báo.

Sáng hôm kia thức dậy, ông Năm kinh hoàng tột độ khi phát hiện ra rằng mình bị cấm khẩu, không nói được lời nào. Dù cố gắng nói đôi lời với vợ con, nhưng ông cứ ú a, ú ớ… mãi mà không thốt nên lời. Ông vô cùng bực bội, rất đỗi buồn phiền và đau khổ vô cùng vì không ngờ mình trở nên câm đặc.

Hôm nay, Chúa Giê-su cũng truyền lệnh cho chúng ta là miệng lưỡi của Ngài hãy mở ra để loan Tin mừng, để giới thiệu cho bao người nhận biết và yêu mến Chúa…  nhưng chúng ta vẫn im hơi lặng tiếng. Ngài thúc giục hoài, Ngài khuyến dụ đủ cách… nhưng chúng ta là môi miệng của ngài vẫn câm nín, vẫn lặng im. Vì thế, Ngài bực bội biết dường nào, buồn phiền, đau khổ biết bao !

Lạy Chúa Giê-su,

Bí tích Thánh tẩy đã biến chúng con thành chi thể của Chúa, làm cho chúng con trở thành miệng lưỡi của Chúa và điều Chúa mong muốn nhất là chúng con phải mở lời giới thiệu Chúa cho mọi người không trừ ai.

Xin cho chúng con đừng thoái thác trách nhiệm của mình để khỏi làm cho Chúa đau lòng vì không nói được điều Chúa muốn nói với những người chung quanh chúng con. Amen.

Về mục lục

ĐƯỢC CHỌN GỌI – ĐƯỢC HUẤN LUYỆN – ĐƯỢC SAI ĐI

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Sứ vụ loan báo Tin mừng bắt nguồn từ Thiên Chúa khi sai Con của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô xuống làm người. Đức Giê-su xuất hiện nơi trần gian nhằm để loan báo Nước Thiên Chúa đã gần đến, và kêu gọi con người ăn năn hối cải để đón nhận ơn cứu độ. Ngang qua biết bao lời giảng dạy cùng với các phép lạ, Đức Giê-su muốn con người nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa để con người được sống và sống dồi dào. Ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su là ở đó được thi ân giáng phúc. Nơi nào Đức Giê-su có mặt là người què đi được, người câm nói được, người mù được nhìn thấy, người điếc được nghe, người bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, ngay cả người chết cũng được hồi sinh,…Qua đó, nhiều người đã tin nhận vào Đức Giê-su và đi theo Ngài.

Với vai trò là Thiên Chúa làm người, Đức Giê-su có thể làm được mọi sự và không cần sự cộng tác của con người để loan báo Tin mừng cứu độ cho muôn người. Tuy nhiên, chúng ta đã nhận thấy Đức Giê-su đã chọn gọi các môn đệ Ngài muốn để các ông ở lại với Ngài, rồi Ngài sai họ đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Tin mừng hôm nay (Mc 6, 7-13) cho chúng ta thấy việc Đức Giê-su sai các Tông đồ ra đi loan báo Tin mừng. Nhưng để hiểu rõ hơn bối cảnh của bài Tin mừng này, chúng ta phải biết rằng làm sao các Tông đồ được sai đi nếu trước đó không ở lại với Đức Giê-su? Làm sao ở lại với Ngài nếu không được chọn gọi bởi Đức Giê-su?

Chính vì thế, chúng ta phải khởi đi từ việc chọn gọi các Tông đồ. Quả thật, để tiếp nối sứ vụ loan báo Tin mừng cho muôn dân, Đức Giê-su đã đích thân chọn gọi cho mình những môn đệ Ngài muốn. “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ.” (Mc 3, 13-15). Chính Đức Giê-su chủ động chọn gọi các ông như Ngài đã nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em.” (Ga 15,16). Ngài đi bước trước để kêu gọi cho mình những người nối nghiệp trung thành và can đảm trong việc loan báo Tin mừng. Như vậy, chúng ta biết rằng ơn gọi làm môn đệ, ơn gọi loan báo Tin mừng là xuất phát từ ý định của Thiên Chúa chứ không phải tự ý con người. Chính Thiên Chúa kêu gọi và con người cần đáp trả để kế hoạch của Ngài được thực hiện.

Thế nhưng, chọn gọi xong không có nghĩa là đủ khả năng để thực thi sứ vụ, mà các môn đệ phải ở lại và hiện diện với Đức Giê-su để cùng với Ngài rảo bước khắp mọi nẻo đường nhằm giúp các môn đệ biết nhìn, biết nghe, biết yêu, biết tha thứ, biết cảm thông, biết chạnh lòng thương, biết gần gũi với những kẻ bị coi là tội lỗi, biết thân thiện với những mảnh đời éo le và khổ sở,…Vì thế, trước khi được sai đi, các Tông đồ phải bắt buộc phải ở vói Đức Giê-su. Vì Ở vói Đức Giê-su, để các môn đệ học cung cách cư xử đối với mọi người nhằm loan truyền “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Ở với Đức Giê-su để học hỏi các nhân đức của Ngài là khiêm nhường, là hiền lành, là hy sinh, là quảng đại, là vị tha, là bao dung, là cởi mở, thân thiện và gần gũi. Ở với Đức Giê-su để biết chấp nhận mọi sỉ nhục, mọi đau thương, ngay cả sẵn sàng chịu chết để mưu ích phần rỗi cho muôn người. Như thế, ở lại với Chúa là để được huấn luyện trở nên những nhà thừa sai cứng cáp, nhiệt huyết, nhiệt thành, can đảm, và hăng say dấn thân ra đi rắc gieo Tin mừng khắp muôn nơi.

Quả thật, sau khi đã được hướng dẫn, được học hỏi và được huấn luyện cũng như chịu nhiều thử thách nơi Thầy Giê-su, các Tông đồ bắt đầu đón nhận sứ vụ sai đi của Thầy mình. Như Tin mừng hôm nay trình thuật: “Khi ấy, Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế.” (Mc 6, 7). Đức Giê-su sai đi ‘từng hai người một’, là muốn họ có tinh thần cộng đoàn, nghĩa là họ không làm việc đơn lẻ nhưng làm việc theo nhóm, theo anh em. Chúng ta thấy điều đó trong Công vụ Tông đồ khi các môn đệ luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phê-rô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô và Barnabe (Cv 13, 2); Giuđa và Sila (Cv 15, 22b),…Khi sai đi, Đức Giê-su cũng ban cho các Nhóm Mười Hai một quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như một trong dấu chỉ xác thực rằng sự hiện diện của Nước Thiên Chúa giữa trần gian.

Bên cạnh đó, khi sai các Tông đồ ra đi rao giảng, Đức Giê-su mong muốn các ông không được lệ thuộc vào của cải vật chất, các tiện nghi nhưng hãy sống ký thác mọi sự cho Chúa và sống nhẹ nhàng khoan thai.“Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.”(c.8-9). Như vậy, người ra đi rao giảng Tin mừng không được màng tới hoặc đòi hỏi những đồ dùng này đồ dùng kia, không phải lo lắng cho bản thân quá nhiều, mà cần thanh thoát, bỏ đi những thứ xem ra cần thiết cũng như không cần thiết để dễ dàng phục vụ và dấn thân cho tha nhân. Đức Giê-su xác tín cho các ông rằng hãy hết mình khi ra đi rao giảng và hy sinh phục vụ, mọi sự khác sẽ có Chúa và mọi người lo liệu. Vì làm thợ thì đáng được nuôi ăn. Một sự sẵn sàng lên đường mà lòng không vướng bận là điều mà một người loan báo Tin mừng luôn luôn phải có. Cứ dấn thân, cứ nhiệt huyết, cứ hăng say, cứ ra đi, cứ gặp gỡ,…Chúa sẽ dùng nhiều cách thế để giúp đỡ, để an ủi và bổ túc tất cả những thiếu thốn khác ngang qua các ân nhân hoặc các mạnh thường quân trong hành trình sống.

Hơn nữa, Đức Giê-su còn căn dặn các Tông đồ : “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.” (c.10). Nói như vậy là Đức Giê-su muốn những nhà thừa sai, những người loan báo Tin mừng đừng chọn nhà này hơn nhà khác, đừng chọn theo sở thích của bản thân mình nhưng hãy thoả mãn và vui vẻ chấp nhận sự chật hẹp hay khó khăn nơi gia đình, nơi làng xóm mà mình được sai đến. Thật vậy, theo bản tính con người, ai ai cũng thích chỗ sung sướng, thoải mái, ăn ngon mặc đẹp, phòng ốc đàng hoàng, có điều hoà khi thời tiết nóng, có nóng lạnh khi mùa đông đến,…nhưng theo Đức Giê-su, một khi đã được sai đi rao giảng Tin mừng, chúng ta không màng tới điều đó nhưng biết hội nhập tất cả cũng như chịu đựng những khó khăn nơi vùng miền được sai đến.

Điều đặc biệt các Tông tồ cần hướng đến là đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối để được ơn tha tội và được hưởng ơn cứu đội của Thiên Chúa. Ngang qua việc trừ quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa lành các bệnh nhân, các Tông đồ dễ dàng giới thiệu cho mọi người biết về tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa cũng như Lòng thương xót của Ngài. Cũng vậy, nơi người loan báo Tin mừng ngày hôm nay cũng được mời gọi hãy sống bằng chứng nhân, bằng những việc làm cụ thể là bác ái yêu thương, là hy sinh phục vụ các bệnh nhân, người già cả neo đơn, là tiếp đón người nghèo mà không phân biệt lương giáo, hay sắc tộc. Qua những việc làm cụ thể và thiết thực đó, chúng ta đang thu hút và cảm hoá nhiều người biết về đạo yêu thương, đạo của Chúa Giê-su. Quả thật, Đức Thánh Cha Phanxico đã nhấn mạnh điều đó rằng Giáo hội phát triển không phải bằng chiều dụ nhưng bằng sức thu hút. Như vậy, Đức Giê-su mong muốn mỗi người hãy là muối, là ánh sáng cho trần gian (x.Mc 9, 50; Lc 14, 34-35) ngang qua cách sống yêu thương và tha thứ của chúng ta.

Quả thật, ơn gọi trở nên chứng nhân của Chúa cho con người ngày hôm nay là ơn gọi phổ quát, tuy nhiên, có những người đặc biệt đã được chọn gọi, được huấn luyện tại các trường Đại chủng viện, học viện, tu viện để trở nên những thừa sai đích thực, chuyên môn và nhiệt huyết nhằm ra đi lan toả Tin mừng cho mọi người ở khắp mọi nơi. Điều quan trọng mà Chúa Giê-su mong muốn là ai được sai đi dấn thân phục vụ Tin mừng và giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho muôn dân thì tiên vàn phải là người cầu nguyện, là người có đủ ơn Chúa, đủ sức mạnh từ Chúa; là người thanh thoát với của cải vật chất để chủ tâm cho công việc loan báo Tin mừng; là người sống nối kết với anh chị em mà không ích kỷ hay riêng rẽ; là những chứng nhân đích thực ngang qua cách sống vui vẻ, cởi mở, thân thiện, quảng đại, vị tha và đượm tình bác ái yêu thương.

Về mục lục

RA ĐI LÀ VÌ ĐƯỢC SAI ĐI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng Chúa nhật tuần trước cho biết “Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo”. Tin Mừng tuần này kể tiếp: “Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai để họ ở với Người và để Người sai họ đi rao giảng với quyền trừ quỷ”. Như vậy, Nhóm Mười Hai đã ở với Chúa từ đầu. Sách Tin Mừng không cho ta biết thời gian bao lâu. Sau một thời gian, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ về quê Nadaret, cho họ chứng kiến thân nhân, người “đồng hương” đối xử với Người như thế nào; Người đã nói cho họ biết thực tế phũ phàng trong thân phận ngôn sứ. Rời Nadaret, Người tiếp tục đi các làng chung quanh mà rao giảng, không để “kinh nghiệm Nadaret” tác động trên đường sứ mạng của mình. Bây giờ, Người bắt đầu sai Nhóm Mười Hai đi rao giảng với quyền trừ quỷ.

Ta có thể thắc mắc, sao Người không sai các ông đi trong lúc hứng khởi, khi Người được đón tiếp, được đám đông chen lấn chung quanh thán phục? Tại sao lại chờ gáo nước lạnh của làng quê Nadaret rồi mới sai các ông đi?

Người huấn luyện các ông bằng thực tế. Phải để cho các ông đứng cả hai chân trong thực tế của sứ mạng rao giảng, như các ngôn sứ, rồi mới sai đi để biết “thắng không kiêu, bại không nản”. Ngôn sứ Isaia được sai đi …nói với đá (x.Is 6,1-10); ngôn sứ Giêrêmia được sai đi để “nên cột sắt thành đồng chống lại cả xứ” (x. Gr 1,18-19). Ra đi là vì được sai đi, chứ không phải vì mong được đón tiếp, được hoan hô, được công kênh lên như siêu sao bóng đá sau khi đoạt cúp. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).

  1. Các Tông đồ lên đường với hành trang 3 không và 2 có.

Ba không: không lương thực, không bao bị, không tiền bạc. Hành trình như vậy là đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ nơi đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi nào Chúa muốn.

Hai có: cây gậy và đôi dép. Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ. Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em“.

Đây quả là một gói hành trang dị thường, một lời khuyên nghịch lý, trái với suy nghĩ khôn ngoan tự nhiên của con người mọi thời.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa. Vì thế, các Tông đồ luôn sống tinh thần phó thác, tin tưởng vào Chúa.

Chúa Giêsu cũng trao cho các môn đệ những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.

Khi sai đi “từng hai người một“, Chúa Giêsu mong các môn đệ hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn, nhất là biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ Ngài (x.Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ hết sức sống động và lôi cuốn người khác theo mình.

  1. Hành trang của người Tông đồ là sự gắn bó mật thiết với Chúa

Các Tông đồ đã được ở với Chúa. Các ông đã nghe lời Chúa dạy. Các ông đã chứng kiến các việc Chúa làm. Biết bao nhiêu bài học các ông đã ghi tâm khắc cốt. Bài học về tình thầy trò, tình đồng nghiệp. Bài học về sự từ bỏ hy sinh, về các nhân đức… các ông đã được Chúa Giêsu đào tạo, huấn luyến, uốn nắn và giáo dục. Được gần gũi với Chúa Giêsu, các ông đã học hỏi nơi Ngài rất nhiều điều từ đời sống nhân bản, đời sống thiêng liêng. Đó là những hành trang quý báu Chúa trao cho các ngài. Bây giờ, trước lúc lên đường, Chúa muốn các ngài cần có tinh thần phó thác và tin tưởng vào Chúa chứ không cậy dựa vào sức riêng hay của cải vật chất. Của cải có thể là vật cản cho người môn đệ trong hành trình truyền giáo. Cho nên, khi không dính bén tới của cải vật chất, người Tông đồ thảnh thơi hơn để lo việc rao giảng Tin mừng.

Với những hành trang ấy, các Tông đồ lên đường thực hành sứ vụ. Thánh Maccô cho biết, các ông đã “trừ được nhiều quỷ và chữa lành được nhiều bệnh nhân”.

  1. Mỗi Kitô hữu đều được chọn để sai đi.

Ba bài đọc Kinh Thánh hôm nay đều hướng đến chủ đề: ơn gọi sai đi. Thiên Chúa chọn để sai đi. Ngôn sứ Amos được gọi và sai đi để nói tiên tri khuyến cáo những dân tội lỗi bất trung (Bài đọc 1). Nhóm Mười Hai được gọi để sai đi loan báo tin mừng, kêu gọi mọi người sám hối. Chúa gọi để người được gọi ở với Chúa và sai họ đi loan báo ý định yêu thương cứu độ. Ở với Chúa là đón nhận sự sống và ân sủng Chúa ban tặng. Ở với Chúa để nên thánh thiện và tinh tuyền. Ở với Chúa là để nên nghĩa tử yếu dấu của Ngài (Bài đọc 2). Ở với Chúa để được Ngài sai đi.

Chúa trao cho các Tông đồ những hành trang thực sự cần thiết, hữu ích cho sứ vụ, và sai đi vào môi trường thực tế. Mỗi Kitô hữu đều là môn đệ của Chúa. Khi lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi vào chính môi trường mình đang sống để trở nên muối men ướp cho mặn đời, để nên ánh sáng cho thế gian. Tất cả cuộc sống phải thấm nhuần tinh thần phúc âm.

Người môn đệ ở mọi nơi mọi thời vẫn được Chúa và Giáo Hội sai đi. Người môn đệ hôm nay có thể ra đi với cung cách hơn xưa là mang theo nhiều vật dụng, có nhiều phương tiện, nhưng cốt lõi vẫn là hành trang đơn sơ, phục vụ, sống công chính để rao giảng và giới thiệu Đức Kitô cho tha nhân.

Sống đơn sơ: Vượt thắng những cám dỗ tiện nghi vật chất với ba không: không lương thực, không bao bị, không tiền bạc; để có thể sống đơn sơ, thanh thoát nhẹ nhàng. Nhờ đó, người Tông Đồ mới có thể dấn thân cho sứ vụ đạt kết quả hữu hiệu. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24). Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở các mục tử: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”.

Sống phục vụ: Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi” Không theo ý riêng, không đòi hỏi được phục vụ mà hoàn toàn vâng theo Thánh ý Chúa, bằng lòng với môi trường đang sống, chấp nhận mọi thách đố, khó khăn, chu toàn bổn phận. Người được sai đi là để là phục vụ chứ không phải để được phục vụ : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34-35)

Sống công chính: “Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”. Không bao giờ thỏa hiệp với sự dữ với thế gian và không đối thoại với ma quỷ. Tông Đồ luôn khẳng định là chứng nhân đích thực của Đức Kitô. Thánh Phaolô lấy làm hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.” (Gl 6, 14).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.

Về mục lục

KHƯỚC TỪ VÀ GIŨ SẠCH

Trầm Thiên Thu

Trong cuộc sống có nhiều thứ cần phải biết khước từ và giũ sạch. Rất cần can đảm để có thể dứt khoát. Khước từ cái xấu là hành động tốt, khước từ cái tốt là hành động xấu. Khước từ không dứt khoát thì như giặt đồ không sạch. Đối với tâm linh cũng tương tự.

Có kiểu khước từ đáng yêu thì cũng có kiểu khước từ đáng sợ. Kinh Thánh nói: “Người tội lỗi khước từ lời khiển trách, tìm đủ lẽ để làm theo ý mình.” (Hc 32:17) Thật đáng quan ngại biết bao!

Theo Chúa đòi hỏi phải khước từ mạnh mẽ hơn – cả tinh thần và vật chất. Xét theo nghĩa đen, khước từ là giũ bỏ  cái gì đó. Muốn nhẹ mình thì phải bỏ, muốn bỏ thì phải buông, càng bám chặt thì càng nặng người, đúng như người ta thường nói: “Già lừa ưa nặng.”

Chắc rằng ai cũng có kinh nghiệm ít nhiều về sự từ bỏ, nhất là đối với chất gây nghiện như rượu bia hoặc thuốc hút. Quả thật, không dễ gì mà bỏ ngay được, có người bỏ năm lần bảy lượt vẫn chưa được. Chất gây nghiện bình thường mà còn vậy, huống chi ma túy. Người nghiện ma túy cứ tái nghiện nhiều lần, rất hiếm người bỏ được. Nghiện thứ gì thì khổ thứ đó.

Ngày nay còn thứ nghiện @ gọi là nghiện internet, internet addiction hoặc cyber addiction. Chứng nghiện này cũng gây rối loạn tâm sinh lý. Không ai có thể cứu mình, ngoại trừ chính mình. Điện thoại thông minh là điện thoại khôn, nhưng nó khiến người ta hóa khốn. Kinh Thánh nhắc nhở chí lý: “Trong mọi chuyện lớn nhỏ, đừng tỏ ra vô ý thức.” (Hc 5:15)

Nghiện là đam mê lệch lạc quá độ. Nghiện gì cũng “chết” – chết ảo và chết thật. Nhưng vì sức khỏe của chính mình, và có liên quan người khác, rất cần quyết tâm khước từ. Khước từ chất gây hại để bảo vệ hệ miễn nhiễm, nhất là trong tình trạng dịch bệnh lây lan lúc này. Chất gây hại cho thân xác còn nguy hiểm như vậy thì chất gây hại cho linh hồn càng nguy hiểm hơn bội phần. Dù xác hay hồn, có khỏe mạnh mới có thể làm việc hiệu quả. Sức khỏe thể lý có ảnh hưởng tới sức khỏe tinh thần và linh hồn.

Từ bỏ những thứ tầm thường để có thể làm những điều tốt đẹp – cho mình và cho tha nhân, đặc biệt là lợi ích cho Thiên Chúa, cụ thể là công việc chung của mọi tín nhân: Loan báo Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Đó là trọng trách Chúa Giêsu trao cho những người tin vào Đức Giêsu Kitô – Đấng Ngôi Lời.

Không hẳn “ra đi” là phải đến nơi kia, tới nơi nọ. Thánh nữ Teresa Lisieux không ra khỏi bốn bức tường dòng kín mà vẫn đến được mọi nơi trên thế giới này. Vấn đề quan trọng là tinh thần truyền giáo của Chị Thánh. Ngày nay, với internet, người ta có thể đi đến bất cứ nơi nào và biết được nhiều chuyện dù chỉ ngồi một chỗ. Đó là một lợi thế cho những ai biết tận dụng theo hướng tốt, nhưng có thể là mối nguy hiểm cho những ai tò mò, chỉ tìm hiểu những chuyện không nên biết. Lợi bất cập hại.

Ngày xưa, sau khi xung khắc, Amátgia nói với Amốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.” (Am 7:12-13) Ông Amốt đã không được người ta tiếp nhận. Nghe lạ mà không lạ, bởi vì chính Chúa Giêsu – Ngôn sứ của mọi ngôn sứ – cũng đã bị người ta khước từ khi Ngài trở về Nadarét. (Mt 13:53-58; Mc 6:1-6; Lc 4:16-30) Một tình huống phũ phàng như vậy khó có thể tưởng tượng được!

Ông Amốt nói với Amátgia: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta.” (Am 7:14-15) Ngôn sứ Amốt không dám nhận mình là ngôn sứ nhưng ông thực sự là ngôn sứ, dù ông bị “ép buộc” làm ngôn sứ, đi rao giảng cho dân Israel.

Ngôn sứ Amốt là ai? Ông là người thuộc miền Nam Giuđê nhưng đi rao giảng ở miền Bắc Israel. Ông là người đương thời với hai ngôn sứ Hôsê và Isaia, hoạt động vào khoảng năm 750 TCN, thời vua Giêrôbôam II. Ngôn sứ Amốt qua đời năm 745 TCN.

Xưa nay đức tính được đề cao là lòng trung hiếu. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, cụ Đồ Chiểu đã đề cập đức trung hiếu ở ngay câu lục bát đầu tiên: “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.” Nói là nói vậy, chứ nam hay nữ đều cần cả trung hiếu và tiết hạnh. Thiên Chúa cũng quý mến người trung hiếu. Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.” (Tv 85:9-10) Chắc chắn ai cũng mơ ước một đất nước “đại đồng” như vậy, nhưng có lẽ ước mơ vẫn chỉ là mơ ước đối với chúng ta trên thế gian này, càng tệ hại hơn đối với cư dân ở các quốc gia vô thần.

Dù có thế nào thì chúng ta cũng vẫn phải không ngừng ước mơ, khao khát, mong mỏi,… Nếu có Thiên Chúa thì chắc chắn điều đó sẽ đạt được. Thời kỳ “đáng mơ ước” đó thực sự đã đến với chúng ta, ngay trên thế gian này: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân.” (Tv 85:11-14) Nước Chúa đã đến, việc còn lại là trách nhiệm của chúng ta: Bài trừ mọi bất công và thực hiện công lý. Có công lý ắt sẽ có hòa bình. Chưa có hòa bình vì chúng ta chưa thực hiện công lý – nghĩa là chúng ta còn đàn áp nhau, áp bức kẻ yếu, đè bẹp kẻ nghèo khổ, thậm chí còn “dàn cảnh” để đàn áp dân lành. Thánh Phaolô khuyên: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.” (Rm 12:21)

Napoléon nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không vì tội ác của những kẻ xấu, mà vì sự im lặng của những người tốt.” Đúng vậy. Và có liên quan vấn đề cá nhân: “Dối trá và lừa lọc là hành động của kẻ ngu xuẩn không đủ trí óc để trung thực.” (Benjamin Franklin)

Thiên Chúa biết phàm nhân “dẻo miệng” lắm, hứa rồi quên, nhưng Ngài vẫn hết mực yêu thương và chính thức thiết lập Kế Hoạch Cứu Độ – ngay từ khi Ông Bà Nguyên Tổ phạm tội bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Thật diễm phúc khi chúng ta có một Thiên Chúa tuyệt đối như vậy. Thảo nào Thánh Phaolô đã không thể lặng im mà phải lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người.” (Ep 1:3-4)

Rõ ràng hạnh phúc chồng lên hạnh phúc, niềm vui nối kết nỗi mừng. Tại sao? Bởi vì không chỉ chúng ta được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ, mà còn được Ngài quan tâm chăm sóc không ngừng: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.” (Ep 1:5-7)

Quả thật, dành cả đời đời của tỷ tỷ người để tạ ơn Ngài cũng không đủ chứ nói chi tới một cuộc đời của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô cho biết chi tiết: “Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.” (Ep 1:8-12)

Tất cả là hồng ân. Thật vậy, Cựu Ước đã xác định: “Lành dữ, sống chết, giàu nghèo, tất cả đều do Đức Chúa.” (Hc 11:14) Không gì ngoài Thánh Ý Chúa, nhưng trong mọi hoàn cảnh, “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định.” (Rm 8:28) Sống theo Thánh Ý Chúa là điều quan trọng tuyệt đối. Nhận biết được như vậy là bắt đầu trưởng thành tâm linh. Nhưng muốn trưởng thành trong đời sống Kitô giáo, chúng ta cần phải có ba yếu tố quan trọng: Yêu Thương, Tha Thứ, và Chấp Nhận. Đó là tam-giác-sống như điều kiện ắt có và đủ.

Để động viên chúng ta sống tích cực, Thánh Phaolô cho biết: “Trong Đức Kitô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.” (Ep 1:13-14) Có tin tưởng thì mới chờ đợi, khi chờ đợi thì phải hành động, chứng tỏ bằng hành động là can đảm gặp gỡ tha nhân, muốn gặp gỡ thì phải đứng dậy và vào đời, vào đời hôm nay để vào trời ngày mai. Đức Mẹ Fatima đã đặt vấn đề: “Nếu người ta biết thế nào là đời đời thì người ta sẽ hành động bằng mọi giá.” Và có điều đặc biệt này: “Cửa Thiên Đàng rất thấp, chỉ những người hạ mình mới có thể vào được.” (Thánh Elizabeth Seton)

Trình thuật Mc 6:7-13 (≈ Mt 10:5-15; Lc 9:1-6) đề cập việc Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi loan báo Tin Mừng. Ngài sai họ đi từng đôi, từng cặp. Để cung cấp “hành trang” cho họ lên đường, Ngài ban cho họ quyền trừ quỷ. Tuy nhiên, Ngài đưa ra chỉ thị xem chừng “không giống ai” chút nào: Không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Chúa Giêsu nói rất rõ ràng, không úp mở, không bóng gió, thế mà ngày nay vẫn thấy có người làm trái ngược, xao lãng cái chính mà chú trọng cái phụ, lem nhem về chuyện tiền bạc, tìm mọi cách để có thể vơ vét…

Biết con người sợ khó, thích nhàn, mê tiền, hám lợi, thế nên Chúa Giêsu bảo các môn đệ “ra đi với đôi tay trắng,” không được dính bén vật chất, vì vật chất sẽ gây mù quáng. Ngài căn dặn rất cặn kẽ: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” (Mc 6:10-11) Người ta không tiếp nhận mình thì thôi, đi nơi khác chứ cũng không ghét bỏ ai. Tự nhiên vậy thôi, như tục ngữ Việt Nam có câu: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.” Chúa Giêsu luôn sống bình dân, tự nhiên và thanh thản. Ngài không muốn ai miễn cưỡng nên Ngài không bao giờ ép buộc ai.

Vâng lời Thầy Giêsu, các môn đệ ra đi rao giảng Nước Trời, kêu gọi hoán cải, trừ quỷ, xức dầu và chữa khỏi bệnh tật. Sống tốt giữa đời thường, thể hiện lòng thương xót, nhất là trong tình trạng dịch bệnh hiện nay, để nêu gương sáng. Đó là cách sẵn sàng và can đảm vào đời và sống giữa bầy sói. Khước từ tiện nghi cho mình để giũ sạch mọi thứ tham lam, tà tâm, mưu ma chước quỷ.

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con biết khước từ chính mình để có thể thay đổi những gì cần thay đổi, biết chia sẻ những gì cần chia sẻ, dám giũ sạch mọi đam mê trần tục, biết khó với chính mình và sống nghiêm túc, để người khác có thể nhận ra Ngài là Cha giàu lòng thương xót. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

 

LÊN ĐƯỜNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Cuộc sống quanh ta muôn màu muôn vẻ.  Mỗi ngày sống chỉ có ý nghĩa khi đem lại niềm vui và hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân. Cuộc sống cũng như dòng chảy, luôn mang theo sức sống đến với mọi người ta gặp gỡ và mọi nơi ta hiện diện. Thiếu niềm vui, cuộc sống sẽ trở nên nghèo nàn đơn điệu vô nghĩa. Cuộc sống cũng luôn là cuộc lên đường, mở rộng tầm nhìn, khám phá những điều kỳ diệu Thiên Chúa đang không ngừng thực hiện mỗi ngày, để ca tụng tôn vinh và loan báo tình thương của Ngài đối với nhân loại. Đối với người tin Chúa, mỗi ngày sống là một cuộc lên đường. Càng nhiệt thành lên đường, ta càng nhận ra cuộc đời này tươi đẹp.

Tiếp nối tư tưởng sứ mạng “ngôn sứ” được diễn giải trong Chúa nhật trước, Lời Chúa hôm nay muốn phác họa chân dung người ngôn sứ trong cuộc sống hiện tại. Ngôn sứ là người được sai đi nói lời của Chúa. Một khi được sai đi, người ngôn sứ không thể ù lỳ bất động, nhưng phải lên đường. Cuộc lên đường nào cũng đòi hỏi phải chấp nhận hy sinh, thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để đến với người khác. Đến với người khác là chấp nhận họ cùng với những khiếm khuyết và bất toàn của họ trong nhân cách cũng như mối tương giao.

Chẳng có ai sinh ra lập tức đã là ngôn sứ, nhưng phải rèn luyện bản thân và thiện chí học hỏi. Ngôn sứ Amos đã được Chúa gọi “bất thình lình” khi ông đang đi theo đàn chiên. Ông tự nhận mình không phải là một ngôn sứ cha truyền con nối. Nhưng một khi đã được Chúa gọi, ông làm hết sức mình để chuyển tải lời giáo huấn của Chúa cho dân (Bài đọc I). Chúa có quyền tự do chọn lựa và gọi những ai Ngài muốn. Tất cả đều có thể cộng tác với Ngài để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ. Không có ai lấy cớ, sức khỏe, học vấn, địa vị xã hội… để khước từ sứ mạng cao quý này. Hiệu quả của nhiệm vụ ngôn sứ không đến từ sự khôn ngoan loài người, nhưng do Chúa làm nên. Ngôn sứ Giona đã lên đường với toan tính kiểu con người, tức là trốn tránh trách nhiệm Chúa trao vì quá nặng nề, nhưng kết cục, ông vẫn phải đến nơi Chúa muốn sai ông đến. Trong Cựu ước, có những vị ngôn sứ vì sợ cường quyền hoặc ham muốn bổng lộc, đã làm sai lệch ý Chúa. Những vị này đã phải chuốc lấy thất bại, vì tội bất trung.

Mỗi người tín hữu là một ngôn sứ được sai vào lòng đời. Thánh Mác-cô thuật lại việc Chúa Giê-su sai các môn đệ lên đường. Hành trang các ông mang theo trước hết là quyền năng và sức mạnh thần thiêng của Chúa. Nhờ quyền năng này, các ông có thể xua trừ ma quỷ, đẩy lui sự tấn công của thần ô uế và những mãnh lực tăm tối. Những người được sai đi không làm việc đơn lẻ, nhưng trong tình hiệp thông và liên kết với anh em mình. Đó là lý do tại sao Chúa sai “từng hai người đi”. Sự liên kết này vừa tạo sức mạnh trong việc loan báo, vừa là một chứng từ sống động để giúp người khác nhận ra sứ điệp của Chúa.

Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên những ngôn sứ của Giao ước mới. Thánh Phao-lô khẳng định: Thiên Chúa đã chọn chúng ta từ trước khi tạo dựng thế gian, với mục đích để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài (Bài đọc II). Đây chính là vinh dự của người Ki-tô hữu. Vinh dự này đem lại cho chúng ta ân sủng và niềm vui. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương cũng thúc bách chúng ta hãy loan báo tình yêu thương ấy cho mọi người. Đó chính là nhiệm vụ ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận khi được thanh tẩy.

Nhiệm vụ ngôn sứ gắn liền với những khó khăn chống đối và thử thách trăm chiều. Chúa Giê-su là vị Ngôn sứ vĩ đại khôn ngoan, đã chấp nhận những phản đối từ phía đồng bào của Người và đã phải chết trên thập giá, do sự ghen tương thù nghịch của họ. Những ngôn sứ tiếp nối Chúa Giê-su không thể khước từ thập giá, vì thập giá là con đường Chúa đã đi, là phương tiện Chúa đã sử dụng và là phong cách Chúa qua đó Chúa thể hiện tình thương vô biên của Chúa Cha đối với nhân loại.

Thi hành nhiệm vụ ngôn sứ qua lời rao giảng. Đó là điều đương nhiên. Tuy vậy, người Ki-tô hữu còn phải thực hiện chức năng này qua chính cuộc sống hằng ngày. Sự thân thiện, cởi mở, bao dung, nhân hậu, hiếu hòa, độ lượng… đều là những chứng từ tuyệt vời khẳng định chúng ta là môn đệ của Chúa Giê-su. Khi cố gắng trau dồi những đức tính trên đây, mặc dù chúng ta chẳng đi đâu xa, nhưng vẫn đang lên đường mỗi ngày. Với thiện chí của bản thân và ân sủng của Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ đem lại những hoa trái và thành công.

Về mục lục

.

HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.

Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
  2. Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?
  3. Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
  4. Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?

Về mục lục

.

CHUNG MỘT SỨ MẠNG

Lm. Jos. DĐH.

Câu ca dao quen thuộc: đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam, được xem như nét đẹp trong sáng của tình yêu dệt nên. Phải chăng sức mạnh của yêu thương đã làm cho người ta không sợ cảnh túng thiếu, không ngại phải đối diện với hiểm nguy ở hiện tại và tương lai ? Tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, hay tình yêu gia đình, đâu nặng nhẹ đầy vơi để người ta nhìn xem, thu giữ, …, nhưng vẫn đang trải rộng bằng một cấu trúc định sẵn: “biết yêu vì được yêu”. Đôi bạn trẻ thời nào cũng sẽ vui mừng, gia đình hướng tới hạnh phúc, mơ ước đó là sự thật, nhưng tất cả đều nhờ bởi tình yêu, trong tình yêu của Đấng ban phát, và mời gọi nhân loại chung chia sứ mạng với Ngài.

Theo quy luật bất thành văn, người giầu cậy của, người thông thái nhạy bén trong đối nhân xử thế, con ông cháu cha dựa vào chức quyền, và họ ấp ủ lợi thế đó như “tấm bùa” hộ mệnh. Vợ chồng vừa tài vừa đức, các thành viên gia đình dễ sống, những người làm con, được lớn lên trong bầu khí yêu thương, biết sống kỷ luật, xác suất thành công bao giờ cũng cao hơn. Cứ sự thường, thời nào cũng thế, các thầy dạy, các ông chủ, thu phục học trò, tuyển lựa nhân sự làm việc, họ đều có ý củng cố lợi danh cho mình. Đức Giêsu hôm xưa Ngài kêu gọi các đệ tử và hướng các ông theo cùng một sứ mạng yêu thương, tín thác: “các ông ra đi rao giảng sự thống hối, trừ quỷ, xức dầu và chữa lành nhiều bệnh nhân”.

Khuynh hướng chung chung ở đời, người ta sẽ tự tin hơn với số kiến thức mà họ đã thu thập được, người ta sống chủ trương mạnh vì gạo, bạo vì tiền. Người ta sẽ thoải mái vô tư, khi hoàn cảnh của họ không có của chìm của nổi, không hề có ý tranh giành quyền cao chức trọng với ai. Trước số học trò còn đầy tham vọng, Đức Giêsu đưa ra một chỉ thị quả là mới lạ: “khi đi đường, đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị không mang bánh, chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Đúng là lệnh truyền hay chỉ thị, bao giờ cũng có tính cương quyết, nếu học trò không đoán biết ý thầy, nếu nhân viên không hiểu ý chủ, hẳn người ta sẽ xem chỉ thị luôn là gánh nặng, khó thực hành.

Sứ mạng Đức Giêsu tại trần gian không phải là “tiền hô hậu ủng”, không phải thu hút bá nhân bá tánh bằng sức mạnh quyền uy, Ngài có ý thu phục các tâm hồn tội lỗi bất xứng bằng tình yêu thương. Nếu người ta từng suy nghĩ: đặc trưng của gà trống là phải biết gáy, con chó phải biết sủa, biết tỉnh thức trông nhà cho chủ, con người dễ thương và đáng yêu là biết sống tương quan có tình có nghĩa. Đức Giêsu dư biết thân phận con người bất toàn, làm bất cứ việc gì dù bé nhỏ vẫn cần đến thủ tục “tiền đâu”, nhưng chỉ thị của Ngài hướng các học trò, và những ai theo Ngài đều phải có lòng tín thác vào Thiên Chúa quyền năng.

Người môn đệ không hiểu thầy, không tin thầy, không thể theo thầy và mãi mãi chỉ là “con rối” vô hồn, hoặc chỉ là tên hề ngớ ngẩn vô duyên. Đức Giêsu, Vị Thầy đủ kinh nghiệm để nhìn xa trông rộng, và biết đâu là những hành trang cần thiết, nhằm giúp người tông đồ thanh thoát theo Ngài cùng chia sẻ sứ mạng yêu thương. Thực tế thì những thứ nguy hiểm có thể hạ gục người theo Chúa, đó là công danh, là tiền của vật chất, chúng sẽ khiến người ta trở nên ích kỷ, gian tham, và chỉ mơ tưởng đến hưởng thụ. Tuy khả năng, hoàn cảnh, thời giờ, sức khoẻ, mỗi người mỗi khác nhau, nhưng ơn gọi theo Đức Giêsu phải có chung một niềm tin, rất cần đến nhiệt huyết tông đồ, hầu có khẳ năng thực thi sứ mạng phục vụ cách trọn vẹn nhất.

Người xưa cho chúng ta một kinh nghiệm: có thức đêm mới biết đêm dài, có khó khăn vất vả trong học tập, mới thấy tấm văn bằng giá trị ; có dám sống tinh thần từ bỏ, mới đáng được dự phần vào sứ mạng của Đức Kitô. Chúa Giêsu cần trò ngoan trò giỏi, nhưng không cần người đệ tử kiêu căng, Chúa Giêsu sẽ không chê người lắm tiền nhiều của, nhưng Ngài cần các môn đệ có tinh thần quảng đại hơn, biết ý thức sống tinh thần sẻ chia. Con người thời nào cũng yếu đuối tội lỗi, dù là linh mục, tu sĩ, hoặc là một tín hữu bình thường, do đó, chúng ta cần làm gì để nhận ra tình yêu thương của Chúa vẫn là một lưu ý.

Hy vọng khi có sẵn chút đạo đức rồi, chúng ta sẽ mơ ước được thánh thiện hơn, đã có tinh thần phục vụ, chúng ta sẽ thao thức phục vụ nghiêm túc hơn nữa. Khi có ý thức về ơn gọi tông đồ rồi, chúng ta sẽ mong ước được chung chia sứ mạng yêu thương với Đức Kitô mãnh liệt hơn nữa. Amen.

Về mục lục

.

MỘT CHÚT TỪ BỎ

Hồng Thương

Mỗi khi đi đâu chúng ta luôn mang bên mình những thứ cần thiết cho bản thân và cho công việc. Tất cả những thứ ấy được chất trong một chiếc túi hay một ba lô. Đó là những thứ bên ngoài. Còn trong lòng chúng ta thì sao? Nếu đi đâu vì công việc, chúng ta sẽ mang theo một tinh thần trách nhiệm cao cùng với sự lo lắng. Còn đi chơi thì chúng ta đã biết, lòng chúng ta háo hức vô cùng. Nhưng đâu đó chúng ta vẫn quan tâm cho vẻ bên ngoài hơn, cho bản thân mình hơn.

Vậy, theo như Lời Chúa: “Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép nhưng không được mặc hai áo.” (Mc 6, 8-9) chẳng phải khó chấp nhận với nhu cầu cuộc sống ngày hôm nay sao, cách riêng đối với một xã hội hưởng thụ và đặt lợi ích cá nhân lên trước. Mặt khác, những người đi rao giảng miền núi xa xôi, hẻo lánh nghèo nàn, cần vật chất nhiều hơn thì sao? Có phải nơi nghèo nàn ấy, điều họ cần thiết hơn cả là đủ thức ăn hằng ngày thôi chăng? Có phải trước tiên là phải giúp họ có bữa ăn thì họ mới có tinh thần lắng nghe Lời Chúa?

Thật sự, nếu chúng ta nghĩ rằng “có thực mới vực được đạo”, Lời Chúa chỉ như một cái gì đó để trang điểm bên ngoài cho đời chúng ta đẹp hơn khi chúng ta đã no đủ thì Lời Chúa rất khó để được rao giảng và được đón nhận. Tuy nhiên, điều Lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta trong ngày hôm nay đó là sự từ bỏ bản thân ở bên trong. Ngài mời gọi mọi người hãy nhìn lại mục đích rao giảng là gì? Vì ai? Và điều cần thiết là gì? Đôi khi vì quá quan tâm đến bản thân mà không còn thời gian lo cho công việc Nhà Chúa. Mà những cái ở bên ngoài phải là một phương tiện cho chúng ta thực hiện, còn cốt lõi để rao giảng là cách sống của chúng ta. Ngoài sự ra đi rao giảng ở những miền xa xôi, chúng ta còn được mời gọi rao giảng ngay trong chính cuộc sống hiện tại của mình. Như chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su, chị đã truyền giáo bằng chính những công việc nhỏ nhặt hằng ngày.

Ngoài ra, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta sống khó nghèo để gần gũi, chia sẻ với người nghèo. Mà càng sống khó nghèo, việc từ bỏ những gì nơi bản thân càng dễ dàng. Thánh Phanxicô Assisi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, vậy mà ngài đã từ bỏ áo gấm lụa là, làm người nghèo khổ đi theo Chúa. Và Đức Cha Lambert, một vị thẩm phám, biện luận tài ba đã từ bỏ tương lai tươi sáng để trở thành con người nay đây mai đó. Các ngài ra đi trong sự tin tưởng phó thác. Ước gì, mỗi người chúng ta dù không thể làm được điều tuyệt vời ấy ngay lập tức, nhưng vẫn cố gắng mỗi ngày sống từ bỏ mình một chút để làm cho cuộc sống mọi người hòa bình hơn và lương dân nhận biết Chúa.

Lạy Chúa, sự từ bỏ nơi bản thân cả bên trong và bên ngoài thật là khó với chúng con. Xin Chúa hãy kiên nhẫn và thức tỉnh chúng con như Chúa đã thức tỉnh Thánh Phao-lô. Nhờ đó, chúng con nhận ra giá trị của sự từ bỏ để sống kết hợp với Chúa và mọi người. Amen!

Về mục lục

.

ĐẸP THAY SỨ MẠNG CHÚA SAI ĐI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài, có thể là lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.

Không ít lần Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân Do thái bị lưu đày, sầu khổ, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho dân một niềm hy vọng hay niềm vui cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah, Giêrêmia đã loan báo về lòng thương xót cảm thông của Thiên Chúa đối với nỗi khổ của dân, và Chúa ra tay cứu thoát.

Thế nhưng không ít lần các tiên tri cũng vạch trần nỗi thống khổ của dân là do họ đã bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng phê phán, cảnh cáo lối sống sai lạc, và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc sẽ kéo dài nếu người ta không đổi mới cuộc đời. Tiên tri Amos là một bằng chứng.

Ơn gọi của Amos

Tên Amos có nghĩa là “gánh nặng” hay “người gánh vác nặng nhọc”. Ông quê làng Tekoa, một xóm nhỏ phía Nam Giêrusalem, nay đã hoang phế và không còn lưu lại một dấu vết nào, làng này cách Bethlehem chừng vài dặm. Chính ông cho biết ông sống bằng nghề chăn súc vật, trồng cây sung. “Lời của Amos. Ông là một trong những  người chăn cừu tại Tơcôa …” (Amos 1,1). Lời Amos trả lời ông Amátgia : “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung(Amos 7,14). Mặc dù ông đang chăn cừu, nhưng Chúa đã túm lấy ông, Chúa lôi ông đi và bắt ông làm tiên tri, với sứ mệnh nặng nhọc đúng với tên của ông.

Ông đâu muốn làm ngôn sứ vì ông an phận với cương vị một nông dân. Ông bị bắt làm ngôn sứ : “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta” (Am 7, 15). Amos thổ lộ biết : ông không muốn được người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên Chúa truyền dạy ông phải làm, là “đi tuyên sấm cho Israel dân Chúa”. Amos được Chúa chọn gọi làm ngôn sứ vào thời vua Uzziah coi sóc vuơng quốc Giuda ở miền Nam, tức vào  khoảng năm 791 đến 740 trước TC. Lúc đó Giêrôbôam làm vua vương quốc Israel miền Bắc ( năm 793 đến năm 753 trước Chúa Giêsu giáng sinh. Thời điểm Amos lên tiếng nói : “Ông đã thấy thị kiến liên quan đến Ítraen, dưới thời Uzziah làm vua nước Giuđa, và Giêrôbôam con vua Giôsias làm vua nước Ítraen, hai năm trước trận động đất” ( Amos 1,1).

Chúng ta biết những ngôn sứ chân chính, ngôn sứ thật bao giờ cũng bị ghen ghét. Thời Amos, các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng khó chịu và không muốn thấy Amos hiện diện tại miền đất của họ nữa.  Đứng trước nền đạo đức xuống cấp và nền luân lý suy đồi, ngôn sứ Amos tố cáo mọi cấp bậc trong dân Chúa đồng thời cảnh báo họ sẽ bị phạt nếu không thay đổi đời sống. Amos đã làm tốt các công việc Chúa muốn: ông không tự mình nói gì và làm gì ngoài lệnh của Thiên Chúa.

Đẹp thay sứ mạng Tông Đồ

Tin Mừng Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu sai mười hai Tông Đồ cứ từng hai đến hai một đi loan báo Tin Mừng. Tin Mừng ấy là Thiên Chúa Cha đã yêu thương loài người bằng tình yêu vô hạn, Ngài ban tặng sự sống cho chúng ta để chúng ta sống và hạnh phúc luôn mãi. Tin Mừng này dành cho tất cả mọi người, không một ai ở ngoài lời mời gọi cứu chuộc của Thiên Chúa, và cũng không một ai bị loại trừ khỏi Tình yêu của Chúa. Tin Mừng này phải được loan đi đến tận cùng thế giới. Chúng ta phải công bố niềm vui và ơn cứu rỗi phổ quát của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã tái tạo con người, đã chết và sống lại để cho con người được sống.

Những người được sai đi, Chúa trao cho “quyền trên các thân ô uế” (Mc 6, 7) và một hành trang “hầu như không có gì”. Người còn ra lệnh cho họ “đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo” (Mc 6,8) để cho họ thấy rằng, hiệu quả của việc rao giảng Tin Mừng sẽ không đến từ sự ảnh hưởng của con người hay vật chất, mà là từ quyền năng của Thiên Chúa, như lời Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói : ” Thiên Chúa được truyền cảm hứng trong lòng người ta do ân sủng của Chúa Thánh Thần“.

Niềm vui tông đồ

Vào buổi bình minh của thế kỷ XXI, Tin Mừng còn chưa đến mọi nơi, rất cần đến lòng nhiệt thành truyền giáo.

Chúng ta đã nhận được Tin Mừng, chúng ta có biết giá trị thực sự của Tin Mừng không? Chúng ta có ý thức về điều đó không ? Chúng ta có biết ơn không? Chúng ta hãy xem xét chính mình, người đã lãnh nhận Phép rửa tội, chúng ta co loan báo Tin Mừng bằng gương mẫu của chúng ta chưa?

Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 27. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại lời Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Mọi canh tân trong Hội Thánh phải có truyền giáo như mục đích, để không rơi vào nguy cơ của một Hội Thánh quy về mình. Quan trọng hơn, đây là dịp tốt nhất để khơi dậy ơn ban và huyền nhiệm ơn gọi Truyền giáo Ngôi Lời”.

Chúng ta hãy khám phá ra vẻ đẹp đích thực của sứ giả loan báo Tin Mừng qua những nét đặc trưng liên quan đến Nguồn gốc ơn gọi, nội dung rao giảng, mục đích hướng tới và cả Thách đố.

Không ai tự mình trở thành sứ giả Tin Mừng do địa vị, tài năng, công trạng… Chính là “do lòng thương xót và được tuyển chọn” (Thánh Bêđa Khả kính), được Chúa thương tha thứ và đưa vào sứ vụ của Người (Missio Dei).

Sứ giả loan báo Lời từ Thiên Chúa, Hồng ân và Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng không phải là một loại thông tin. Tin Mừng là một sứ điệp có bản chất hoàn toàn khác biệt. Tin Mừng chiếu tỏa vẻ đẹp vô tân của lòng thương xót Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng không phải là sản phẩm do con người suy tư hay làm ra (Gl 1,11). Tin Mừng đã được Đức Giêsu Kitô mạc khải, được tỏ bày do tình bằng hữu, nên chỉ có thể lãnh nhận và loan báo trung thành.

Về mục lục

.

SAI ĐI

Lm. Trần Việt Hùng

Hai người một nhóm đồng hành,

Ra đi rao giảng tin lành cho dân.

Trao quyền cứu chữa tha nhân,

Cuộc đời phó thác, thanh bần đơn sơ.

Không tiền, không bị, không nhờ,

Hoàn toàn tin tưởng, thiên cơ quan phòng.

Người nào đón tiếp ước mong,

Vững tâm ở lại, thong dong đáp lời.

Ai mà chê chối không mời,

Phủi chân tố cáo, những nơi bất đồng.

Tông đồ sánh bước lập công,

Gọi mời thống hối, hiệp thông ơn lành.

Tin vui loan báo hoàn thành,

Xua trừ ma quỉ, chữa lành bệnh nhân.

Chu toàn sứ vụ canh tân,

Trở về bên Chúa, dự phần phúc vinh.

Chúa Giêsu sai nhóm mười hai Tông đồ ra đi rao giảng tin mừng cứu độ. Ngài đã ban quyền trừ qủy và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Chúa đưa ra chỉ dẫn cụ thể khi ra đi: Đừng mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, chân đi dép và đừng mặc hai áo. Ngài muốn các môn đệ sống tinh thần khó nghèo và phó thác. Vật chất cần thiết nhưng chỉ là phương tiện giúp chúng ta sống. Loại trừ được những lỉnh kỉnh vật chất sẽ bớt đi sự bận vướng.

Một người lên đường mà hành trang gọn nhẹ thì dễ dàng di chuyển. Người môn đệ sống khó nghèo được tự do thanh thản và không bị vật chất chi phối. Người môn đệ sống nghèo nhưng tình thần thì đầy ắp yêu thương. Thật lý tưởng khi con người thoát ra khỏi những nhu cầu vật chất.

Chúng ta biết việc truyền giáo của Giáo Hội vào thời nào cũng thế. Các nhà truyền giáo muốn phát động chiến dịch đến với dân ngoại mà không có tài chánh và phương tiện thì cũng khó khăn. Người ta nói: Có thực mới vực được đạo. Mỗi Địa phận hay Dòng tu đều có qũy truyền giáo. Có tiền bạc thì công việc xem ra trôi chảy dễ dàng. Chúng ta không khỏi thắc mắc tại sao xưa kia Chúa Giêsu trực tiếp sai các môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng. Các môn đệ có thể làm được gì? Thực tế, các môn đệ đã ra đi và đã thâu hoạch nhiều kết qủa.

Nhìn vào hoàn cảnh cụ thể về cách sống đạo, từ những nước nghèo đói như Phi Châu, Á Châu và những vùng đất xa xôi chiến tranh hoang tàn có nhiều nhà thờ siêu vẹo đổ nát nhưng lại có nhiều tâm hồn nhiệt thành. Rất nhiều tín hữu trung kiên giữ đạo và sống đạo. Trong khi xã hội văn minh giầu có, ngày càng ít người đến nhà thờ. Nhiều nhà thờ bị đóng cửa. Có những nhà thờ khang trang, đầy đủ tiện nghi nhưng lại vắng bóng tín đồ.

Lời truyền của Chúa Giêsu vẫn là một thức tỉnh cho Giáo Hội. Việc quan trọng là mỗi người hãy ý thức trách nhiệm truyền giáo của mình. Chúng ta không thể thoái thác cho rằng truyền giáo là bổn phận của các thừa sai, các giáo sĩ và tu sĩ. Chúng ta có sự liên đới và hỗ trợ lẫn nhau. Người hậu phương, kẻ tiền tuyến. Các nhà truyền giáo ra đi với bàn tay trắng. Các ngài có chúng ta ở hậu phương yểm trợ. Công việc truyền giáo sẽ sinh hoa quả tốt đẹp.

Hãy ra đi loan truyền ơn cứu độ. Nhớ khi kết thúc thánh lễ, linh mục cầu chúc anh chị em đi bình an. Chúng ta đã nhận lãnh của ăn là Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta tiếp tục ra đi đem tin mừng chia xẻ cho mọi người. Đó cũng là việc truyền giáo.

Về mục lục

.

GỌI VÀ SAI ĐI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồM. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).

  1. Hành trang người tông đồ

a) Hành trang đi đường:  cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

–        Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

–        Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em“.

–        Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu trao cho các môn đệ những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

b) Phương tiện sinh sốngkhông được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Gói hành trang chỉ gồm những chữ “không” và chữ “đừng”: “Đừng mang gì, …, không mang bị, mang bánh, không mang tiền trong túi, …, đừng mặc hai áo”. Một gói hành trang lạ thường. Nhờ vậy nên không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.

c) Tương lai bấp bênh.Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh Phaolô nói: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

  1. Phương thức hoạt động:”từng hai người một”

Khi sai đi “từng hai người một “, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

  1. Tinh thần tông đồ là ra đi

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Maccô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa … Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối rồi vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận… Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.

Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.

Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế“. (Mt 28,20).

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Các môn đệ luôn tin tưởng, phó thác vì biết mình đã tin vào ai. Tin yêu dù biết rằng mình chẳng là gì, chẳng có khả năng gì, chỉ là một mục đồng bé nhỏ như Amos, chỉ là một ngư phủ ít học như Phêrô, nhưng lại được chính Thiên Chúa nắm lấy và bảo hãy đi (bài đọc I). Lên đường với trọn niềm tín thác, người môn đệ dành cả đời mình cho sứ vụ, bởi biết mình đã được Chúa Giêsu kêu gọi, được Chúa Cha tuyển chọn và được Chúa Thánh Thần đóng ấn, được ủy thác sứ mạng hoàn tất ý định yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa, muốn qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô (bài đọc II).

Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.

“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.

Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI SAI CÁC ÔNG ĐI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 Đọc sách Tin Mừng Mác-cô, người ta dễ dàng thắc mắc tại sao Đức Giê-su lại sai các môn đệ lên đường đi rao giảng sớm quá như vậy, với một chuẩn bị quá sơ sài như thế; và quan trọng hơn nữa, các ông môn đệ này lên đường rao giảng cái gì đây, họ đâu đã được dạy dỗ căn kẽ gì cho cam?

Quả vậy, chỉ tới chương 3 của sách Tin Mừng, tác giả Mác-cô mới cho biết Đức Giê-su ‘lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn… Người lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng’ (Mc 3:13-14); sau đó trong chương 4 tác giả ghi lại một vài nét giáo huấn của Người qua một số dụ ngôn, rồi chương 5 tường thuật thêm một vài phép lạ… và thế là chương 6 Người đã sai các ông đi rao giảng. Trước hết khó có thể xác quyết là các môn đệ đã nắm bắt và thấu hiểu tường tận sứ điệp Tin Mừng mà Đức Giê-su muốn mạc khải (xem Gioan chương 16). Chính vì thế mà ta có thể kết luận rằng, mục đích của chuyến sai đi lần này cùng lắm là để các môn đệ nếm được cái cảm nghiệm sơ khởi, ‘được cùng Thầy chia sẻ một sứ mạng’.

Sứ mạng Đức Giê-su được chia làm hai giai đoạn:

Giai đoạn một là công bố: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần… anh em hãy sám hối” (Mc 1:15). Trong giai đoạn này việc tỏ lộ quyền năng Thiên Chúa qua các dấu lạ là rất cần thiết, nhất là đối với đám dân chúng bình dị. Đức Giê-su đã thực hiện một số phép lạ để quả quyết rằng: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11:20). Vì thế, không lạ gì, khi sai môn đệ lên đường lần này, Đức Giê-su chỉ trang bị cho các ông duy một điều, ‘Người ban cho các ông quyền trừ quỷ’. Tiếng là rao giảng, nhưng hình như các môn đệ giảng dạy rất ít, ngoài việc ‘kêu gọi người ta ăn năm sám hối’; các ông hành động nhiều hơn, ‘Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh’. Hành động như thế các ông đề cao quyền năng Thiên Chúa hơn là sức mạnh của mình. Đó là lý do, hay để làm nổi bật điều đó, ‘các ông không được mang gì đi đường… không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng… không được mặc hai áo’. Tóm lại giai đoạn này cần hành động, nhưng là hành động làm lộ rõ quyền năng Thiên Chúa.

Giai đoạn hai, đồng thời cũng là tâm điểm của sứ mạng Đức Giê-su, là mạc khải Tin Mừng cứu rỗi qua cuộc tử nạn thập giá. Giai đoạn này không cần tới nhiều phép lạ cho bằng làm sao để mọi người nhận biết lòng nhân ái vô biên của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ. Ngay cả Đức Giê-su trong giờ phút đó cũng giữ thái độ thinh lặng thay vì làm dấu lạ như vua Hê-rô-đê yêu cầu (xem Lc 23:8-11). Chương 16 sách Tin Mừng Mác-cô sẽ đề cập tới việc sai đi lần thứ hai này; “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16:15). Việc loan báo này hình như cũng không cần nhiều lời giảng dạy cho bằng nhiều chứng nhân, ‘anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tân cùng trái đất’ (Cv 1:8). Các môn đệ nói chung, và Tông Đồ Gio-an nói riêng, chắc chắn đã hiểu được giá trị của việc làm chứng này; “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Hơn thế nữa, chứng từ này sẽ không phải là thuyết minh dài dòng, chưng dẫn các lý lẽ và bằng chứng thuyết phục, nhưng chủ yếu dựa vào Thần Khí Chúa, một dạng quyền năng tuyệt vời của Thiên Chúa Cứu Độ. Sai đi lần hai này là như thế, “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em! Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. (Ga 20:21-22).

Như vậy ta nhận ra một điều, trong cả hai giai đoạn này vai trò của con người xem ra khá giới hạn! Suy tư trên giúp tôi nắm bắt rõ hơn tiến trình ‘truyền giáo’ và hoạt động tông đồ của Hội Thánh nói chung qua các thời đại, cách riêng các hoạt động của chính cá nhân tôi; đó là rao giảng Tin Mừng phải bằng hành động trong quyền năng Thiên Chúa, và công bố Hồng Ân Cứu Độ qua chứng tá đức tin dưới tác động mãnh liệt của Thần Khí Chúa…, đồng thời cũng cần xác định rõ, vai trò của mình trong công cuộc vĩ đại đó thật là nhỏ bé. Một rao giảng như thế cũng không đòi tôi nhất thiết phải là một bậc thánh hiền, một gương mẫu về đạo đức, một trí tuệ siêu phàm hay thông minh tài trí, nhưng ngay trong sự yếu đuối của mình, tôi có thể chứng tỏ được Thiên Chúa Cứu Độ đang hoạt động mãnh liệt và hữu hiệu nơi tôi.

Trong thời gian dưỡng bệnh tại Hàn Quốc sau cuộc tham gia trực tiếp truyền giáo ngắn ngủi tại Mông Cổ, tôi đã dành thời giờ chiêm ngắm thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê và nghiệm ra các điều trên, rao giảng bằng chứng tá cuộc sống.

Lạy Chúa! Qua các thời đại, Chúa đã sai nhiều tông đồ khác nhau đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân; người này Chúa sai thực hiện giai đoạn một, người khác thể hiện giai đoạn hai, kẻ khác nữa cả hai giai đoạn cùng một lúc. Có lẽ con thuộc thành phần thứ ba chăng? Xin cho con luôn biết xác tín rằng, để trở nên môn đệ và tông đồ đích thực, con cần làm lộ rõ sức mạnh quyền năng Chúa trong hành động và hiện diện sinh động của Thần Khí Chúa trong tâm hồn con. Xin dạy con giảm bớt tin tưởng đặt nơi ‘bao bị, tiền đồng, cơm áo, v.v…’ thậm chí ngay cả trí tuệ, nhân đức hoặc thánh thiện của mình. A-men

Về mục lục

.

HÀNH TRANG CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ

Lm. GB. Trần Văn Hào

Khởi đầu bất cứ cuộc hành trình nào, người ta luôn phải chuẩn bị cho mình những vật dụng cần thiết. Người con gái trước khi về nhà chồng vẫn luôn được mẹ dặn dò và sắm sửa cho những gì cần phải mang theo. Cũng vậy, khi sai những học trò đi truyền giáo với bao khó khăn phía trước, Đức Giêsu cũng nhắn nhủ và căn dặn các ông kỹ lưỡng. Nhưng có một điều khá lạ thường, thay vì trang bị cho các môn đệ những vật dụng tùy thân để phòng hộ, Đức Giêsu lại khuyến mời các ông từ bỏ tất cả, ngay cả giầy dép, áo quần, gậy gộc hoặc tiền bạc. Điều duy nhất các ông mang theo nơi mình, là năng quyền trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu. Điều này xem ra khá nghịch thường, nhưng đó lại là một chỉ lệnh, một đòi hỏi bắt buộc. Bài Tin Mừng hôm nay phác vẽ chân dung đích thật của người môn đệ và đây cũng là sứ điệp Chúa muốn nhắn gửi đến mọi người chúng ta hôm nay.

  1. Mầu nhiệm ơn gọi.

Tự bản chất, ơn gọi của chúng ta luôn là một mầu nhiệm, vì nó khởi phát từ chính Thiên Chúa. “Không phải anh em chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em và cắt cử anh em để anh em ra đi sinh nhiều hoa trái” (Ga 15, 16). Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Amos cũng nói về ơn gọi của mình. Ông tự thú, ông chỉ là một con người bất tài, làm nghề chăn bò và hái sung. Ông không thích và chẳng bao giờ mơ tưởng sẽ được làm ngôn sứ cho Chúa. Nhưng Chúa đã tóm lấy ông và ra lệnh: “Hãy  đi công bố lời của Ta cho Israel ”. Ơn gọi của vị tiên tri hoàn toàn nằm ngoài suy tính và lựa chọn của con người. Cũng vậy, trong bài Tin mừng, thánh Marcô trình thuật về ơn gọi và sứ mạng rao giảng của nhóm mười hai. Trong nhóm học trò này, ngoại trừ Matthêu có ít vốn về chữ nghĩa, còn lại đa phần là những ngư phủ quê mùa và dốt nát. Người có chút ít học thức  như Matthêu hành nghề thu thuế lại bị dân chúng coi khinh. Họ vẫn xếp những người thu thuế vào hạng tội lỗi, chẳng chút gì thiện cảm đối với những người này. Nhưng Đức Giêsu đã gọi, đã chọn, đã biến những con người bất tài như thế trở nên tông đồ, trở nên những cánh tay nối dài của Ngài trong sứ vụ cứu thế. Đối với Đức Giêsu, Ngài chẳng hề quan tâm chút nào đến quá khứ hay lý lịch của một ai. Ngài cũng chẳng cần những con người có tài có đức, có những phẩm tính ưu việt hay sở đắc nhiều bằng cấp xã hội. Cũng thế, ngày hôm nay Chúa cũng chọn mỗi người chúng ta không theo bất kỳ một quy chuẩn nào của xã hội loài người. Ngài gọi và chọn làm sao, chúng ta không hay biết, và tất cả hoàn toàn do ý muốn của Ngài. Vì thế, ơn gọi vẫn luôn là một mầu nhiệm khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc con người chúng ta.

2.Ơn gọi gắn liền với sứ mạng truyền giáo.

Đức Giêsu đến trần gian với một sứ mạng duy nhất Chúa Cha trao ban, đó là thực thi sứ mạng cứu thế. “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Cũng vậy, ơn gọi của mỗi người chúng ta hôm nay cũng chính là ơn gọi truyền giáo, thông dự vào sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, giống như ơn gọi của các tông đồ năm xưa. Chúa sai phái những học trò thân tín của mình lên đường để họ ra đi, đến với những người đau khổ, những bệnh nhân, những người bị ma quỷ khống chế (Mc 6,13). Rõ ràng đây là sứ mệnh truyền giáo được ngỏ trao. Truyền giáo không phải là đi quảng bá một học thuyết, hoặc đi chiêu dụ người khác theo đạo. Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu của Đức Giêsu và các học trò của Ngài mà bài Tin mừng hôm nay vạch dẫn. Đức Giêsu là vị truyền giáo đầu tiên, là nguyên mẫu cho tất cả chúng ta về sứ vụ truyền giáo. Hai ngàn năm trước, Chúa đã đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo như nhiều người vẫn nghĩ tưởng. Ngài đến chỉ để công bố cho thế giới một tin mừng, đó là tin mừng về lòng yêu thương mà Thiên Chúa ngỏ ban cho nhân loại. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài” (Ga 3,16). Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá chính là đỉnh điểm của lời tuyên bố này. “Không có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13). Thập giá Đức Kitô chính là câu định nghĩa toàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa hiến tặng cho chúng ta. Đồng thời trên  thập giá, Chúa Giêsu đã đạt đến sự sung mãn của sứ mệnh cứu thế mà Ngài thực hiện theo ý muốn của Chúa Cha.

Khi Chúa sai các môn đệ lên đường truyền giáo, Ngài nhắn nhủ các ông hãy mời gọi mọi người ăn năn sám hối (Mc 6,12). Đây cũng là lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Đó chính là Tin Mừng về lòng thương xót của Chúa đối với các tội nhân. Muốn đón nhận Tin Mừng đó, con người phải sám hối, phải metanoya, phải trở về để có thể ngụp lặn trong bầu trời bao la của tình yêu Thiên Chúa.

Cũng vậy, sứ mạng truyền giáo của mọi tín hữu chúng ta chính là rao giảng Tin Mừng của Chúa cho mọi người. Nhưng chúng ta rao giảng bằng cách nào? Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nói: “Giáo hội ngày nay cần những chứng nhân hơn là những thày dạy”. Chúng ta rao giảng Tin Mừng nhưng không phải rao giảng bằng lý thuyết trên đầu môi chót lưỡi, mà bằng chứng tá cuộc sống cách cụ thể. Một nguyên tắc giản đơn nhưng rất căn bản của việc truyền giáo, đó là chúng ta không thể công bố Tin Mừng, công bố về tình yêu của Thiên Chúa nếu tâm hồn chúng ta cằn cỗi và thiếu vắng tình yêu. Để có thể lấp đầy tình yêu nơi tâm hồn mình, chúng ta phải biết cách làm cho con người chúng ta trở nên trống rỗng, phải biết tự hư vô hóa chính mình. Đây là điều kiện căn bản của việc thực thi sứ mệnh truyền giáo mà Chúa Giêsu nói đến hôm nay : sống tinh thần nghèo khó cách tận căn.

3.Chân dung nghèo khó của người môn đệ Đức Giêsu.

Chúa dặn dò các môn đệ “Anh em không được mang gì đi đường chỉ trừ cây gậy. Không được mang lương thực bao bị hay tiền bạc giắt lưng, được đi dép nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6 8-9 ). Sống nghèo khó triệt để là một mệnh lệnh. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để trở thành môn đệ Đức Giêsu và để phục vụ cho vương quốc Nước Trời. Nghèo khó là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Đức Giêsu công bố trong bài giảng trên núi. Chúa cũng nói với chàng thanh niên: “Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho người nghèo, rồi đến theo Ta” (Mc 10,21).

Tinh thần nghèo khó Chúa nói ở đây hệ tại ở thái độ nội tâm, không dính bén của cải vật chất để toàn tâm phục vụ cho ơn cứu độ và trở nên sứ giả phục vụ cho việc rao giảng Tin Mừng. Chắc chắn Đức Giêsu không cổ súy cho một lối sống bần cùng, túng quẫn đến độ dễ làm tha hóa con người và khiến chúng ta rơi vào tình trạng dễ đánh mất đi phẩm giá chính mình. Trong ba năm rao giảng, Chúa vẫn nhờ vả sự giúp đỡ của những phụ nữ giàu có. Ngài cũng chọn một trong các học trò của mình làm người quản lý tài sản. Chúa vẫn lui tới dùng bữa với những người giàu   như Giakêu. Để tổ chức bữa tiệc ly và thiết lập Bí Tích Thánh thể, Ngài cũng mượn ngôi nhà của một người giàu có trong vùng. Sự giàu có mà Chúa kết án ở đây là thái độ sống thượng tôn tiền bạc một cách hẹp hòi ích kỷ đến mức độ Chúa phải nói một cách thẳng thừng: “Người giàu vào Nước Trời khó biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào được Nước Trời” (Mt 19,23). Người thanh niên giầu có khi đến gặp Chúa, được Chúa nhìn với đôi mắt thiện cảm vì anh ta tuân thủ lề luật rất nghiêm túc. Chúa nói với anh ta, anh chỉ thiếu mỗi một điều là hãy về cho đi mọi của cải anh có. Cái thiếu nơi người thanh niên ấy, là anh ta đã không biết cho đi, và vẫn bám vào của cải, đặt tiền bạc lên trên hết. Chúng ta cũng nhớ lại dụ ngôn người phú hộ giàu có và chàng Lazaro nghèo kiết xác (Lc 16,19-31). Anh chàng phú hộ này đâu có tội tình gì. Anh ta đâu có ăn trộm ăn cắp của ai. Anh ta cũng chẳng giận ghét hay oán thù người nào. Nhưng anh ta bị kết án trầm luân trong hỏa ngục chỉ vì mỗi một tội duy nhất, đó là anh ta luôn mang  nơi mình một con tim ích kỷ và keo kiệt, luôn rửng rưng và vô cảm trước nỗi khổ đau của người khác. Một triết gia đã nói : “ Chỉ có loài vật mới đang tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại đễ chăm sóc cho bộ lông mượt mà của nó, còn con người thì không.” Nghèo khó của Tin mừng mà Chúa muốn nói tới, luôn gắn liền với lòng quảng đại, biết cảm thông, biết hiến dâng và trao ban. Đó chính là tinh thần nghèo khó mà Chúa khuyến mời các tông đồ thực hiện đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay.

Một nhà tu đức đã nói: “Không ai nghèo đến mức độ không có cái gì để cho”. Thánh Vinh sơn Phaolô đã từng nói với các con cái của Ngài: “ Chúng con đừng quên những người nghèo mà Chúa  gửi đến. Họ là ân nhân và là ông chủ của các con. Các con hãy phục vụ họ với tình yêu”. Mẹ thánh Têrêsa Calcutta cũng nhắn nhủ các nữ tu của Mẹ: “Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những người nghèo. Chính nhờ họ mà chúng ta có cơ hội làm việc với nhau, và sống ơn gọi của mình”.

Để kết luận, xin trích dẫn một giai thoại. Các nhà truyền giáo sau một thời gian làm việc ở Ấn Độ, cảm thấy mình không mấy thành công. Họ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi: “Thưa ông, làm cách nào để những người Hindu ở đây đón  nhận ánh sáng đức tin? Nhiều năm qua chúng tôi đã vất vả, nhưng công việc truyền giáo của chúng tôi chẳng đi đến đâu.”  Gandhi trả lời: “Các anh hãy nhìn vào những bông hoa hồng, người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp quyến rũ của nó, nhưng vì nó còn tỏa ra một hương thơm dịu dàng làm mọi người ngây ngất say mê. Các anh hãy làm việc với bí quyết đơn giản này”. Sứ vụ truyền giáo của chúng ta ngày hôm nay, cũng như của các tông đồ năm xưa chỉ đạt được kết quả nếu cuộc sống của chúng ta luôn lan tỏa hương thơm của tình yêu. Đó là tình yêu phát nguồn từ chính Đức Kitô như Thánh Phaolô đã cảm nghiệm : “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi”. Đó cũng là tình yêu đặt nền tảng trên tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu đã vạch dẫn và mời gọi các học trò của mình thi hành. Chúng ta hãy sao chép lại lối sống của Đức Kitô, đấng “ vốn là Thiên Chúa giàu sang, đã tự nguyện trở nên khó nghèo, để cho chúng ta được thông dự vào sự giàu sang của Ngài” (2 Cor 8,9).

Về mục lục

.

NGÀI SAI CÁC ÔNG ĐI

Lm. Nguyễn Thái

Tôi biết rất ít về khoa học kỹ thuật và chậm chạp trong việc theo kịp đà tiến bộ của computer, internet. Tôi rất ngại đi vào internet, nhưng đã đi vào thế giới thông tin này rồi thì lại đâm nghiền vì nó rất hấp dẫn và mới lạ. Ngày nào cũng check email, nhận rất nhiều chuyện vui cười rồi lại gửi đi cho bạn bè. Tôi rất ngạc nhiên về sức mạnh kỳ diệu của nó. Chỉ qua những ngón tay nhỏ bé đánh máy trên bàn chữ, tôi có thể đến được với tất cả mọi bạn hữu. Tôi có thể gửi đi ngay tức khắc những tin tức cần thiết, và đón nhận những sự trả lời cũng mau chóng như vậy. Tôi có thể gửi đi những lời chúc mừng, những lời hỏi thăm, khích lệ, nâng đỡ… Tôi cảm thấy có một sức mạnh nổi lên qua những ngón tay của tôi khi tôi bấm vào chữ “send” hay “OK”. Toàn bộ những gì tôi muốn gửi đi vâng lệnh ngay. Sức mạnh nằm trên đầu ngón tay tôi! Lạ lùng thật! Chỉ bấm một cái, một thông điệp được truyền đi.

Cảm nghiệm về một sức mạnh nổi lên trên đầu ngón tay, chỉ qua một cái bấm trên bàn chữ, làm tôi suy nghĩ về trường hợp và cảm giác phấn khởi của các thánh tông đồ khi Chúa Giêsu sai họ đi thi hành sứ mệnh trong các làng và chữa được bệnh tật: “Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân” (Mc 6:13).

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 6:7-13, Chúa Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai tượng trưng cho mười hai chi tộc Israel. Các ông là những viên đá nền móng cho thành Giêrusalem mới (Kh 21:12-14). Mười Hai Tông Đồ đã tham dự vào sứ mạng Chúa Kitô, vào quyền năng và vào số phận của Ngài. Qua hành vi này, Chúa Kitô chuẩn bị và xây dựng Giáo Hội (GLCG # 765) với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.

Theo William Barclay để hiểu sâu xa đoạn Phúc Âm này, chúng ta cần tìm hiểu y phục của một người thường mặc ở Palestine thời Chúa Giêsu. Có năm thứ căn bản: 1- Áo trong: rất đơn sơ, dài cho đến chân, chỉ là một miếng vải dài được gấp và khâu lại. 2- Áo choàng bên ngoài: là một miếng vải dầy, ban ngày dùng làm áo choàng, ban đêm là mền để đắp. 3- Dây vải thắt lưng: được cột ngang bụng ở bên ngoài hai áo trên, thường được khâu chập đôi trở thành cái túi đựng tiền. 4- Mũ che đầu: làm bằng một miếng vải hay nỉ khổ 1 mét vuông, được xếp chéo góc thành cái mũ bảo vệ đầu, sau gáy, hai bên má, và mắt khỏi sức nóng và sự chói chang của ánh mặt trời. 5- Đôi dép sandal.

Ngoài ra còn có hai loại túi thường được sử dụng. Túi cho khách du hành làm bằng da thú vật đựng bánh, nho và trái olive với hai sợi dây đeo trên vai. Và một loại túi đặc biệt của các thầy tư tế đi gom góp tiền và các thứ đóng góp của dân chúng cho đền thờ. Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ “không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng” để phó thác và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Ngài còn muốn ám chỉ các môn đệ không được mang túi thu tiền giống như các thầy tư tế. Họ phải ra đi để ban phát chứ không phải thu góp.

Công Đồng Vatican II cũng đã nhắc lại sứ điệp của Tin Mừng như sau: “Các Kitô hữu vì có những ân huệ khác nhau (Rm 12:6), nên mỗi người phải cộng tác vào việc rao giảng Phúc Âm tùy theo hoàn cảnh thuận tiện, tài năng đặc sủng và chức vụ (1Cr 3:10) của mình. Do đó tất cả mọi người, kẻ gieo và người gặt, kẻ trồng và người tưới, phải hiệp nhất, đồng tâm gắng sức xây dựng Giáo Hội” (Ad Gentes, đoạn 28).

Trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô cũng đã nhắc nhở chúng ta về nhiệm vụ phải làm chứng tá cho Tin Mừng bằng những lời lẽ hết sức chân thành và yêu thương: “Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian… Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1:4).

Do đấy nơi mỗi người chúng ta được ban những ơn khác nhau để hoàn thành sứ mệnh trong những cách khác nhau. Vì “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người” (1 Cor 12, 4-6).

Chim sơn ca là loài chim quý. Nó thích bay lên trời cao, và hát những bài ca thánh thót. Nhưng chỉ có một điều nó không thích là phải lao động hằng ngày vất vả để đào bới tìm kiếm những con giun, con bọ làm lương thực sinh sống qua ngày. Một ngày nọ khi đang cao hứng và thú vị bay tít trên trời cao, nhìn xuống đất trông thấy một người đàn ông mang chiếc áo đỏ rảo bước trên đường và rao to: “Giun đại hạ giá. Giun on sale. Đổi giun lấy lông chim sơn ca. Đại hạ giá. Mại dô, mại dô!” Nghe vậy, con sơn ca từ trên cao tập trung tầm mắt vào người đàn ông, xà xuống thấp rồi hỏi: “Giá cả làm sao?” “Hai con giun một sợi lông,” người đàn ông trả lời, “Thử xem, bạn sẽ thích mà! Giá cả như vậy là quá rẻ rồi!” Chim sơn ca nghe thế lấy làm hợp lý bèn thử một phen và thú vị lắm, vì nghĩ rằng mình vẫn còn đầy đủ lông, mất một sợi có nghĩa lý gì. Rồi từ ngày này sang ngày khác, chim sơn ca cũng đã nhổ hết lông dài đến lông ngắn lấy giun ăn qua ngày. Ngày khốn cùng đã đến, nó cố gắng cất cánh bay thử lên khỏi mặt đất, nhưng thân xác nặng nề của nó cứ lao đầu xuống đất. Nó đã nhận biết sự gì xảy ra. Nó đã trở thành một con chim sơn ca dính đầy bùn đất, không thể nào bay nổi nữa. Thật là mâu thuẫn, chim sơn ca mà không thể bay được. Do đấy nó phải suốt ngày đi đào đất bới tìm những con giun đất. Khi đêm về, người đàn ông mặc áo đỏ đi ngang, chim sơn ca lo âu nói với ông ta: “Xin ông đổi lại những chiếc lông cho tôi đi.” Không thèm quay lại, người đàn ông cứ tiếp tục bước đi vừa cười vừa trả lời: “Đâu có vụ đó, ông bạn! Đổi giun lấy lông là nghề nghiệp của tôi, không phải là đổi lông lấy giun. Tôi không cần giun đâu!”

Chúng ta cũng có thể giống như con chim sơn ca này. Một con chim sơn ca không còn lông cánh để bay. Chỉ mải mê kiếm tìm của ăn vật chất mà quên đi việc truyền giáo rao giảng Tin Mừng, chúng ta cũng trở nên mâu thuẫn với chính mình: một người Kitô hữu không mang một sứ mạng gì cả!

Dĩ nhiên, khi làm việc tông đồ truyền giáo, chúng ta sẽ gặp nhiều trở ngại và khó khăn trong mọi lãnh vực (2 Tm 4:2). Theo bài Phúc Âm, Chúa dạy các môn đệ phải rũ sạch bụi khỏi giầy dép và ra đi khi không được đón tiếp: “Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ” (Mc 6:11).

Linh mục Munachi Ezeogu, CSSp – Dòng Thánh Linh và Trái Tim Vẹn Sạch Đức Bà, kể câu chuyện như sau. Một người bạn của tôi đã mướn một ông thợ mộc giúp anh ta sửa lại nhà kho ở nông trại. Ngày đầu tiên đến làm việc thật là không may cho ông thợ mộc đó. Ông đến làm việc quá trễ vì bị bể bánh xe trên đường đi làm. Đang làm nửa chừng thì cái cưa điện bị gẫy. Và cuối cùng, sau một ngày lao động vất vả, leo lên chiếc xe pickup truck thì xe không nổ máy được. Người bạn của tôi phải chở ông ta về nhà!

Về tới nhà, ông mời người bạn tôi vào nhà chơi. Khi sắp bước tới cửa, người thợ mộc ngừng lại một lúc phía trước một cái cây nhỏ, xoa cả hai tay vào đầu những cành lá. Rồi ông ta mở cửa nhà với những nụ cười tươi nở trên mặt; ông ôm lấy hai đứa con nhỏ và hôn nhẹ lên má vợ ông. Sau đó ông đưa bạn tôi ra xe về. Khi họ bước qua cái cây, ông bạn tôi mới tò mò hỏi ông thợ mộc về hành vi ông đã làm trước khi bước vào nhà. “Đây là cái cây xả xui”, “That’s my trouble tree” ông trả lời. “Tôi biết rằng khi làm việc tôi chẳng làm được gì cả với những trục trặc, nhưng một điều chắc chắn là, những trục trặc rắc rối đó đã không do vợ con của tôi gây ra và nó cũng không ở trong căn nhà này. Do đó tôi đã treo cổ chúng nó lên trên cái cây này mỗi đêm trước khi bước vào nhà. Thế rồi sáng sớm tôi lại nhặt lấy chúng lại. Điều buồn cười là, khi tôi đi ra ngoài vào ban sáng để nhặt lấy chúng nó, dường như là không còn nhiều như tôi nhớ được khi treo chúng lên vào đêm hôm trước.”

Những trục trặc khó khăn là một phần của đời sống con người và luôn luôn có mặt trong công việc truyền giáo. Thế nhưng Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là phải “phủi bụi chân”, phủi khó khăn và nghịch cảnh ra, treo nó lên như người thợ mộc, đừng để nó theo chúng ta và làm chúng ta nản chí (Cv 18:6).

Theo William Barclay, ở Đông Phương sự hiếu khách là một bổn phận thiêng liêng. Khi người khách lạ vào làng, người dân làng đó phải đón tiếp bằng sự hiếu khách như một bổn phận. Đối với luật của Rabbi, bụi của một quốc gia ngoại giáo là nhơ nhuốc, và khi một người bước vào xứ Palestine từ một quốc gia khác, phải giũ sạch mọi hạt bụi của vùng đất nhơ bẩn đó đi. Đây là một hình ảnh diễn tả sự từ chối với bất cứ một sự liên hệ nào, dù chỉ là hạt bụi của người ngoại giáo. Ý Chúa Giêsu muốn nói rằng, nếu họ từ chối lắng nghe lời giảng dạy của các môn đệ, thì hãy đối xử với họ như một người Do Thái nghiêm khắc đối xử với một nhà ngoại giáo. Phủi bụi chân tức là không còn giữ lại một sự liên hệ nào cả!

Trong Phúc Âm của Máccô, các môn đệ được trình bày như là những con người yếu đuối, thất bại, và chậm hiểu. Máccô nhắc đi nhắc lại rằng họ vẫn không hiểu lời Chúa nói (Mc 4;13; 8;21; 9;32). Chúa Giêsu đã biết rõ những yếu đuối của các môn đệ của Ngài. Ngài gọi họ không phải để thành công, nhưng để thi hành sứ mạng trong niềm phó thác nơi Thiên Chúa. Thành công là trách nhiệm của Thiên Chúa.

Khi chấp nhận sứ mạng của Chúa Giêsu đã trao, chúng ta cũng phải chấp nhận chia sẻ số phận Ngài đã chịu. Chính Chúa Giêsu đã bị những người đồng hương từ chối (Mc 6:1-6), các môn đệ từ bỏ (Mc 14:50), sau cùng bị lên án, và chết treo trên cây thập giá. Ngài đã mang lấy số phận của “một cái cây xả xui” như lời Thánh Phêrô đã nói: “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5: 7), “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1 Pr 2: 24).

Về mục lục

.

SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA

Lm. Đinh Lập Liễm

Khi Đức Giêsu đã về trời, các Tông Đồ đã chia nhau đi rao giảng Tin Mừng, có các người phụ tá và những người cộng tác với các ngài. Khi các ngài đã qua đi thì Giáo Hội lãnh nhận công tác tiếp nối công việc của các Tông Đồ mà rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới, không kể mầu da sắc tộc, ngôn ngữ. Lời Chúa phải được rao giảng cho mọi người. Và đến lượt các tín hữu, mọi người có trách nhiệm phải rao giảng cho người khác. Mọi người phải rao giảng Tin Mừng, không trừ ai, nhưng Giáo Hội trạch cử một số người chuyên đi rao giảng mà ta gọi là “các nhà truyền giáo.” Đức Giêsu không còn trực tiếp rao giảng như ngày xưa nữa mà cần loài người chúng ta phải cộng tác để đi đến các hang cùng ngõ hẻm đem Lời Chúa đến cho mọi người.

Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công Giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất. Một hôm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối. Ông nói: “Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân tượng lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA BAN” (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 494).

Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta biết Đức Giêsu đã chọn 12 Tông Đồ để trở thành những cán bộ nồng cốt cho việc rao giảng Tin Mừng. Các ông đã sống với Ngài một thời gian, đã chứng kiến cuộc đời Chúa, đã nghe Ngài giảng thuyết, đã chứng kiến phép lạ Ngài làm, đã nhìn thấy những thất bại của Ngài ở Gherasa và ở Nazareth, đã nhận thức thái độ thù ghét của người biệt phái (Jn 15:27). Nay đã đến lúc thử để biết vàng hay thau. Ngài cần cho các ông biết phải hoạt động theo tinh thần nào và những nguyên tắc nào.

Chúng ta hãy xem cách thức Đức Giêsu sai các Tông Đồ như thế nào: 1. Ngài sai các ông đi từng hai người một để giúp đỡ nhau (Mk 6:7), biểu lộ tinh thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ, đồng thời để làm chứng tích sống động về điều họ rao giảng là cộng đoàn huynh đệ yêu thương. Nguời ta cứ dấu đó mà biết họ là những môn đệ của Chúa Kitô (Jn 13:35). 2. Ngài ban quyền lực đây phải hiểu là “quyền trừ các thần ô uế” (Mk 6:7) Câu nói đó phải hiểu theo quan điểm đã ghi chép trong Mt 10,8 và Lc 9,1 nghĩa là khu trừ quỉ ám và chữa lành các bệnh tật: vì theo quan niệm thời đó, tất cả các bệnh tật đều coi như là hậu quả của tội lỗi (Jn 9:2, 34) và không ít thì nhiều do ma quỉ làm.

Trước tiên hãy đến với dân Chúa tức là những người Do Thái: ”Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn là hãy đến với các chiên lạc nhà Israel” (Mt 10:5). Còn đối với dân ngoại, các ông sẽ đến với họ sau khi Chúa đã về trời (Act 13:46).

Các ông sẽ rao giảng sự thống hối (Mk 6:12). Vì công cuộc cứu chuộc chưa hoàn tất nên Đức Giêsu không dạy các ông giảng về Ngài. Điều đó Ngài sẽ dạy các ông rao giảng sau này khi Ngài đã chịu chết và sống lại để chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế (Rm 1,3-4; 1Cr 1,23).

Khi sai các Tông Đồ đi truyền giáo, Đức Giêsu căn dặn các ông kỹ càng nhiều điều để làm hành trang lên đường. Chúng ta có thể tóm tắt các lời căn dặn đó trong 3 điểm sau: 1. Đức Giêsu đã từng nói về Ngài: ”Con chồn có hang, con chim có tổ, Con người không có nơi tựa đầu” (Mt 8:20). Ngài di chuyển nay đây mai đó, không vướng mắc gì về phần vật chất nghĩa là sống siêu thoát. Vì thế, Ngài khuyên các ông đừng mang gì ngoài cây gậy. Thậm chí không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi (Mk 6:8). Người tông đồ không chuẩn bị gì để lên đường, mọi sự đã có Chúa lo: ”Tiên vàn các con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho” (Mt 6:33). 2. Đức Giêsu đã bị hất hủi nơi quê hương mình: ”Không có tiên tri nào mà không bị khinh dể nơi quê hương mình” (Mk 6:4). Các Tông Đồ cũng sẽ rơi vào trường hợp đó. Các ông sẽ không được một số người tiếp nhận và còn bị ngược đãi nữa. Trong trường hợp đó, Ngài cho phép ra đi đến một nơi khác, và giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm của họ (Mk 6:11). Người Do Thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu xa với dân ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho những người ấy biết rằng cách cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại. 3. Đức Giêsu đã dạy các Tông Đồ phó thác theo nghĩa là khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số phương tiện vật chất vừa đủ: một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường, một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Đừng quá lo lắng về vật chất: không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ nhiều tiền trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, không cần tìm đến nhà giầu sang, chỗ nào không tiếp nhận thì đi chỗ khác (Mt 10:9; Lc 10:4-7). Điều chính yếu quan trọng mà các ông cần cậy dựa vào, đó là quyền năng của Chúa.

Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, trước khi ra về, Linh mục nói lên lời cầu chúc và căn dặn mọi người: ”Ite, Misa est”: Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an. Linh mục không cầu chúc mọi người trở về nhà bình an mà cầu chúc mọi người ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Thánh Lễ chưa kết thúc ở đây mà còn kéo dài trong cả ngày, trong cả cuộc sống. Chúng ta đã tiếp nhận được Lời Chúa trong Thánh Lễ thì hãy đem lời Chúa gieo rắc khắp nơi nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa. Hãy đi làm chứng cho Chúa giữa lòng đời.

Làm chứng cho Chúa là lấy lời nói, nhất là cách ăn ở, việc làm mà tỏ cho người khác biết Chúa Kitô, vì người ấy giống Chúa Kitô trong tư tưởng, nói năng, xử sự, việc làm. Vì giống như vậy nên khi người ta gặp người ấy, thì người ta nhớ đến Chúa Kitô. Người ấy đã trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô như Thánh Phaolô nói: ”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20).

Chúng ta chỉ là công cụ của Chúa để nhờ đó người ta biết Chúa. Tuy công cụ nhỏ bé chẳng đáng kể nhưng lại cần thiết. Chúa không trực tiếp tỏ mình ra cho người ta mà dùng con người nhỏ bé của chúng ta để tỏ lộ cho mọi người biết Thiên Chúa cao cả. Chúng ta chỉ là phương tiện để Chúa đến với người ta và người ta đến với Chúa. Ví dụ: một người muốn biết ngôi sao mai trên trời nhưng không biết ngôi nào trong hàng ngàn ngôi sao, nhưng nếu chúng ta dùng bàn tay chỉ cho họ thì họ sẽ nhận ra ngôi sao mai trên trời. Bàn tay chỉ là phương tiện để người ta nhìn ra sao mai, nếu không có bàn tay ấy thì người ta không nhìn ra sao mai được.

Một ngày mùa đông một người đàn ông đang đi gặp một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành phố. Trời lạnh, gió thổi mạnh. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này?” Thiên Chúa đáp lại: “Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi. Ta đã làm ra con” (Flor McCarthy, Sđd, tr 492).

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ những lời sau cùng: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc 16,15; Mt 28,19). Nếu Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân thì lệnh truyền ấy phải có thể thực hiện được: thực tế đã chứng minh, các ông đã đem Tin Mừng đến mọi nơi, và từ hai ngàn năm nay vẫn còn tiếp tục. Dĩ nhiên với thời gian vắn vỏi các ông chưa có thể đi khắp thế giới rao giảng được, nhưng Giáo Hội đã tiếp nối sứ mạng ấy và nhờ chúng ta là những phần tử trong Giáo Hội tiếp tục sứ mạng ấy. Ai không rao giảng Tin Mừng là một điều thiếu sót. Thánh Phaolô đã nói: ”Khốn thân tôi, nếu không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16).

Chúa về trời, Ngài đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến những người cùng khổ. Tuy về trời, Ngài vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi Kitô hữu.

Mỗi công việc đều có phương tiện để đạt tới mục đích. Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngành nghề, biết bao lãnh vực cho nên có vô vàn vô số những phương tiện thích hợp. Trong lãnh vực truyền giáo, Chúa cũng dùng đủ mọi phương tiện để nhờ đó người ta có thể nhận biết Chúa, nhưng phương tiện sống động và hữu hiệu nhất là chính con người chúng ta. Chính vì vậy mà Chúa đã bảo các Tông Đồ và chúng ta rằng: ”Các con là chứng nhân của Thầy” (Lc 24,48).

Chúng ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ một phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta; chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho Linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ Ngài về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: ”Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người.”

Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa… Về nhà, thầy dòng hỏi cha Thánh: “Giảng ở đâu?” Cha Thánh trả lời: “Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.”

Trong cuộc sống văn minh đầy tiện nghi hôm nay, nhiều Kitô hữu đã lao mình vào cuộc sống vật chất; họ chỉ biết hưởng thụ, thu tích cho nhiều của cải mà quên đi vai trò làm chứng của mình. Họ là những Kitô hữu vô thần. Trên danh nghĩa thì họ là Kitô hữu, nhưng trong thực tế, cách sống của họ hoàn toàn là vô thần. Họ còn vô thần hơn cả người vô thần nữa. Cách sống thiếu gương mẫu của họ vô tình biến đổi từ nhân chứng đến “phản chứng”, thay vì lôi kéo người ta đến với Chúa lại đẩy người ta ra xa Chúa hơn.

Đức Giêsu đã dạy chúng ta: ”Các con sẽ làm chứng về Thầy” (Jn 15:27; Lc 24:48; Act 1:8). Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh. “Không ai có thể nhìn thấy Chúa” (Jn 6:46), nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh chị em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh chị em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng giầu lòng tha thứ (Lc 6:36; Mt 5:48).

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN_B

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến,

Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa sai 12 các tông đồ đi thực tập truyền giáo. Đây là lần thực tập đầu tiên. Cũng có thể coi đây là cuộc thử nghiệm. Vì là cuộc thực tập đầu tiên và vì các tông đồ mới bước vào cuộc, cho nên trước khi ra đi, Chúa đã đưa ra những chỉ dẫn rất cụ thể và cần thiết cho các ngài.

1-  Họ phải giảng điều gì và phải giảng như thế nào?

+ Về nội dung lời giảng, thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Nội dung này cũng chính là nội dung mà Chúa Giêsu (Mc 1,15) và Gioan tẩy giả đã rao giảng cho mọi người (Mc 1,4). Và đây cũng chính là nội dung mà Hội Thánh sẽ tiếp tục rao giảng sau này cho đến ngày tận thế.

+ Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn giảng:

a/ bằng việc làm chứng (c 7: Họ đi từng nhóm hai người, đúng quy định của luật Môisê về điều kiện để sự làm chứng giá trị)

b/ bằng việc giải thoát người ta khỏi xiềng xích của thế lực gian tà (“trừ qủy”)

c/ bằng việc giải thoát người ta khỏi đau khổ thể xác (“chữa bệnh”).

+ Về tác phong người của người rao giảng. Có thể tóm lược trong hai điều: Nghèo khó và luôn tin tưởng vào Chúa quan phòng.

  1. Cách rao giảng.

Cách giảng hữu hữu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là chính cuộc sống của mình và cuộc sống tốt nhất đối với Chúa là cuộc sống nghèo và luôn biết tin tưởng vào Chúa.

Đã có lần Lênin nói về Thánh Phanxicô Assisi với những người nghe ông như thế này: “Để có thể thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy cũng đủ rồi”(Trích “mỗi ngày một niềm vui”)

Vâng! Chẳng có chứng tá nào bằng chứng tá của cuộc sống.

Một nhà truyền giáo tại Ấn Độ, ông Gordon Marsuel đã xin một tín đồ Ấn độ giáo, đến sống bên cạnh để dạy ông học tiếng bản xứ. Nhưng tín đồ Ấn này từ chối, anh ta nói:

– Thưa Ngài, tôi không thể đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì lẽ tôi không muốn trở thành Kitô hữu.

Nhà truyền giáo trả lời:

– Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao tiếp với những người chung quanh để hiểu biết họ hơn, chứ không nhằm bắt họ trở lại với đạo Chúa.

Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:

– Thưa ngài, tôi biết vậy. Nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không một ai có thể sống bên cạnh ngài mà không bị ngài cảm hóa để tin vào Chúa. Tôi không thể dạy ngài vì tôi đã nghĩ, không thể nào sống bên cạnh ngài mà không trở thành Kitô hữu.

  1. Còn chứng nhân của Chúa ngày hôm nay.

Lacordaire từng nói: “Kitô hữu là một người đã được Chúa Giêsu Kitô phó thác những người khác cho mình.”

Công Đồng Vaticanô II trong hiến chế Ad Gentes số 2 xác định thật rõ “Tự bản chất, Hội Thánh lữ hành phải truyền giáo, vì chính Hội Thánh bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, theo ý định của Chúa Cha”.

Bằng cách nào đây?

Chắc chắn cũng không có cách nào khác hơn là cách chính Chúa Giêsu đã làm và các tông đồ của Người đã noi gương.

Một ngày kia Đức Hồng y Hume, trong một buổi thuyết giảng về việc rao truyền Phúc âm, đã nói rằng:  “Muốn cho sứ điệp được lắng nghe, người rao giảng cần phải có những đức tính cần thiết như thành thật, thâm tín, vui tươi. Tiên quyết ở đây hẳn không phải là một giáo trình, một giáo sư, một lối biện bác. Người nghe thường lưu tâm trước hết đến lời nói chân thành, mức độ thâm tín được bộc lộ trong cuộc sống, niềm vui tuôn tràn từ tận đáy lòng và mong được chia sẻ vì yêu thương của người rao giảng”.

Đức Phaolô VI: “Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì vì những vị thầy ấy là những chứng nhân”

Còn đức Hồng Y L.J. Suenens một trong những guơng mặt nổi bật nhất của Công Đồng chung Vaticano II thì quả quyết: “Người ta chỉ có thể tin vào sứ điệp Kitô giáo một khi môn đệ Chúa Kitô thực hiện đức tin của mình trong cuộc sống hằng ngày. Con người ngày nay chán ngán các lý thuyết ý thức hệ hoặc lối nói quảng cáo. Nên, việc loan báo Phúc âm phải nhập thể, phải gắn liền với thực tế.”

Chính đời sống đem lại cho lời nói sức thuyết phục. Mỗi Kitô hữu đều được gọi để trở nên một Phúc âm sống mà mọi người đọc được.

Khi diễn tả về những đòi hỏi phải làm chứng nhân bằng đời sống, Wallace E. Norwood đã bộc lộ tâm tình của mình qua một bài thơ khá hay làm cho nhiều người phải suy nghĩ.  Bài thơ đó có tên “Chính bạn là Cuốn Phúc âm”.

Đây là câu truyện đẹp nhất kể cho nhân loại

Đã được viết lại từ thuở thật xa xưa

Bởi Máthêu, Marcô, Luca và Gioan

Để mạc khải về Chúa Kitô và sứ  mạng Ngài trên trần thế.

Còn bạn, bạn cũng viết Phúc âm, mỗi ngày mỗi chương;

Bằng chính cuộc sống của mình, tệ hại hay ngay lành là tuỳ ở bạn

Khi kẻ khác đọc, họ sẽ nghĩ gì về cuốn Phúc âm do bạn viết?

Phúc âm là truyện tình tuyệt diệu,

Rạng chiếu nơi cuộc sống thần thánh Chúa Kitô.

Ôi chân lý ấy ước gì còn kể lại

qua truyện đời của bạn và của tôi.

Bạn vẫn viết, viết cho người khác, mỗi ngày một chữ,

Hãy cố làm sao cho chữ bạn viết thật ngay lành,

Vì Phúc âm gần nhất mà người ta đọc được,

Lại là Phúc âm mà chính đời bạn viết nên”.

Quả đúng như vậy thưa anh chị em. Mỗi người chúng ta phải là một cuốn Phúc âm sống. Đó là cách thức hay nhất qua đó chúng ta có thể đem Chúa Giêsu đến với mọi người.

Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng:

– Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.

Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi:

– Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!.

Thánh Phanxicô đáp:

– Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?

Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan.

Chúng ta hãy rao giảng. Chẳng cần phải đi đâu xa. Hãy rao giảng ngay cho những người trong gia đình của chúng ta, những người trong khu xóm của chúng ta, trong chỗ chúng ta làm việc, với những người chúng ta có dịp gặp gỡ hằng ngày. Hãy rao giảng cho họ về một cuộc sống không phải là một cuộc sống giầu sang, nhiều tiền nhiều bạc, cũng không phải là một cuộc sống đầy ắp những tiện nghi vật chất, lúc nào cũng hợp mốt hợp thời, nhưng là một cuộc sống có ý nghĩa, đáng nể phục và là một cuộc sống đáng sống, đáng sống ngay tại đời này và nhất là đời sau khi chúng ta lìa bỏ tất cả để trở về với Chúa là Cha đầy lòng yêu thương chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN. NĂM B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tông đồ là người được Đức Giêsu chọn gọi và sai đi để nhân danh Thiên Chúa, nói lời Thiên Chúa. Ơn gọi tông đồ hay ngôn sứ khởi đi từ Thiên Chúa. Chính Thiên chúa chon gọi, con người đáp lại bằng cách đi theo và truyền đạt ý định cứu độ của Chúa cho tha nhân. Ngôn sứ Amos đã trả lời với tư tế Amatgia một cách ấn tượng”Chính Đức Chúa bắt lấy tôi và đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Irael dân Ta”.

Thánh Marcô ghi rõ: “Khi ấy Chúa Giêsu gọi nhóm Mười Hai và bắt đầu sai đi từng 2 người một” (Mc 6, 7). Đức Giêsu đã nhiều lần nói với các tông đồ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em và sai anh em đi”.

Người tông đồ được sai đi để thi hành một sứ vụ của Thiên Chúa. Trước hết nhân danh Thiên Chúa truyền đạt ý định của Chúa cho mọi người.. Đó chính là sứ vụ ngôn sứ mà cựu ước gọi là đi tuyên sấm hay nói tiên tri: “Hãy đi tuyên sấm cho Irael dân Ta” và tân ước gọi là đi rao giảng Tin mừng, rao giảng Nước Thiên Chúa, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, cải tà quy chánh, xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, phục sinh kẻ chết.

Người tông đồ ra đi loan báo Tin mừng phải có tinh thần khó nghèo, siêu thoát khỏi của cải vật chất: “Đừng mang gì, ngoài cây gậy…” để hoàn toàn phó thác cho Chúa quan phòng và ưu tiên cho việc rao giảng lời Chúa. Hơn nữa người tông đồ sẵn lòng từ bỏ mọi sự theo gương Đức Giêsu, kể cả những gì thiết thân nhất, những nhu cầu cần thiết: “không mang bánh, tiền bạc…”. Tất cả vì nước Trời và phần rỗi của anh em. Tiền bạc, của cải vật chất, cơm ăn, áo mặc… là nhu cầu cần thiết đối với con người. Nhưng nếu đem lòng dính bén, quyến luyến của cải thì nó trở nên vật cản bước người tông đồ trên con đường truyền giáo. Cồng kềnh với những phương tiện để hưởng thụ, thì làm sao có thể nhiệt tình loan báo Tin mừng được. Ham mê của cải trần gian thì không thể nào đi theo Chúa được: “không ai có thể làm tôi hai chủ được, hoặc Thiên Chúa hoặc tiền bạc”.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa phải ý thức cách tích cực hơn về sứ mạng truyền giáo của mình trong xã hội hôm nay.

– Như Đức Giêsu yêu mến, tôn trọng giúp đỡ những người anh em lương dân đang sống bên chúng ta.

– Như Đức Giêsu, yêu mến phục vụ những người đau yếu, bệnh hoạn tật nguyền, những người bị xã hội bỏ rơi, những người đau khổ tinh thần và vật chất.

– Như Đức Giêsu, yêu mến và hết mình phục vụ những người nghèo hèn thiếu thốn, cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.

Yêu mến, giúp đỡ, tôn trọng anh em lương dân, những kẻ đau ốm bệnh tật, những anh em nghèo nàn đau khổ là chúng ta đã làm việc truyền giáo một cách thuyết phục nhất. Bởi vì truyền giáo là bày tỏ tình thương của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Kitô cho anh em. Theo Công đồng Vatican II, truyền giá là bổn phận, nghĩa vụ của mọi Kitô hữu: “Những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa tội đều có bổn phận làm việc truyền giáo. Vì bản chất của Giáo hội lữ hành là truyền giáo”.

Người Kitô hữu phải thao thức truyền giáo: ra đi đến với lương dân. Từ thao thức muốn anh em lương dân trở về với Chúa, chúng ta mới hăng say loan báo Tin mừng bằng chính cuộc sống chứng nhân giữa đời, để nước chúa được lan rộng khắp nơi. Công đồng Vatican II dạy:

“Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo hội hiện diện và hoạt động ở những nơi và trong mọi hoàn cảnh mà nếu không có giáo dân, thì Giáo hội sẽ không trở thành muối trần gian” (GH 33).

Về mục lục

.

ĐƯỢC NGÀI SAI ĐI

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Ðức Giêsu là người làm nên Nhóm Mười Hai.

Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14),

họ đã được Ngài sai đi rao giảng.

Người được sai đi

phải là người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.

Ðức Giêsu sai họ lên đường.

Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có:

quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.

Ðó là hành trang lên đường của các ông.

Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc:

một chiếc áo đang mặc,

một cây gậy và đôi dép khi đi đường.

Ðức Giêsu cấm các ông không được mang theo

lương thực, bao bị, tiền bạc…

Không lương thực đi đường nên có thể bị đói.

Không bao bị nên không thể để dành.

Không tiền bạc nên không thể mua sắm.

Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa

vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.

Ra đi mà không có một chút bảo đảm.

Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia,

lê gót qua các làng mạc và thành phố.

Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công,

vì họ nhớ lời của Thầy:

“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh,

để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)

Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ.

Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.

Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa đang đến.

Ðó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.

Hoán cải là điều chẳng ai ưa.

Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói.

Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng,

không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân,

cũng không mị dân để vuốt ve dư luận.

Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón

một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.

Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.

Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ.

Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng.

Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh.

Họ đem đến cho con người niềm vui,

sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.

Hôm nay Ðức Giêsu vẫn sai ta đến trong thế giới.

Ði từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau.

Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa,

nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa.

Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật:

bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín…

Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin sai chúng con lên đường

nhẹ nhàng và thanh thoát,

không chút cậy dựa vào khả năng bản thân

hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:

rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,

chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng

với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,

biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng

đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ

của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,

thế giới thật bao la

mà vòng tay chúng con quá nhỏ.

Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau

mà tin tưởng lên đường,

nhẹ nhàng và thanh thoát.

Về mục lục

.

TAY KHÔNG

Trầm Thiên Thu

Người ta xác định: “Có bột mới gột nên hồ”. Tay không mà làm nên chuyện mới là người tài giỏi. Chẳng dễ gì đối với con người, nhưng đối với Thiên Chúa thì “không thể thành có thể” (Mt 19:26; Lc 1:37), điển hình minh nhiên là công cuộc tạo thành vũ trụ của Thiên Chúa.

Loại “thuận ngôn” luôn “nghịch nhĩ”. Thế nên người Việt thường nói: “Sự thật mất lòng”. Thời nào cũng vậy, điều tốt ít được người ta chăm chú, nhưng điều quấy lại được người ta “chú ý”. Nói như vậy không có nghĩa là điều tốt bị coi thường, mà vì cái xấu như cái gai dễ nhận ra lắm. Lời ngay thẳng và chân thật làm người ta “khó chịu”, còn lời nịnh bợ hoặc tâng bốc lại làm người ta thích thú. Tuy nhiên, lời thật rất quan trọng: “Nói lời ngay thẳng bằng ăn chay cả tháng” (tục ngữ).

Thánh Vịnh gia xác định: “Lời Chúa phán là lời chân thật, như bạc nấu trong lò đã bảy lần tinh luyện” (Tv 12:7). Nhưng người ta không vui vẻ đón nhận, thậm chí còn tìm mọi cách để tránh né hoặc “dập tắt”, bởi vì Lời Chúa nói thẳng nói thật, “xoáy sâu” và “chạm” vào những nhược điểm của con người, những điều mà người ta chỉ muốn “sống để bụng, chết mang theo”. Và do đó, người ta tìm mọi cách chèn ép, đàn áp, hành hạ và bắt bớ những người “dám” nói và dám sống đúng Lời Chúa.

SẴN SÀNG LÊN ĐƯỜNG

Thời nào cũng vậy, xưa cũng như nay, cứ thấy ai có “tính thẳng thắn thật thà” thì người ta tỏ vẻ khó chịu, không ưa, tìm cách gièm pha hoặc xa tránh. Bóng tối chẳng bao giờ ưa ánh sáng. Thời Cựu Ước, các ngôn sứ thường bị ghét chỉ vì có những câu nói thật rất nhức nhối – chẳng hạn như ngôn sứ Hô-sê hoặc A-mốt. Thật thế, ông A-mát-gia đã nói với ông A-mốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều” (Am 7:12-13). Một lời nói rất… “sốc”! Danh từ “thầy chiêm” thường có nghĩa là “chiêm tinh gia”, nhưng ở đây hẳn là không có nghĩa đó mà có thể nghĩa là “thầy chiêm bao”, ý nói người đó không thực tế, mơ hồ hoặc ảo tưởng.

Nhưng với lòng khiêm nhường, ông A-mốt liền trả lời thẳng thắn: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung” (Am 7:14). Ôi, lời nói rất thật, rất thẳng, rất rõ ràng, và cũng rất khiêm nhường. Rồi ông cho biết rằng chính Đức Chúa đã bắt lấy ông khi ông đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho ông: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta” (Am 7:15). Ông A-mốt dễ thương quá chừng luôn!

Vâng, ông A-mốt chỉ là một người bình thường mà thôi, có thể bình thường nhất trong những người bình thường, là dân lao động nghèo, là người vô sản “chính hiệu”, nhưng Thiên Chúa đã tuyển chọn ông và trao cho ông sứ vụ “tuyên sấm cho dân Ít-ra-en”. Tất nhiên ông ông thể thoái thác, vì không ai có thể cưỡng lại Thiên Chúa, nhưng ông cũng không miễn cưỡng chấp nhận trọng trách, mà vì Thiên Chúa đã “nhẹ nhàng ép buộc” ông, như Thánh Phaolô đã từng thổ lộ: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5:14). Đó là cách “triệt buộc” thú vị, như kiểu người ta thích gọi tình yêu là “Thú Đau Thương” (tên ca khúc của Nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ của Thi sĩ Lưu Trọng Lư).

Như có ý nói về ngôn sứ A-mốt, Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Ngài, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Ngài” (Tv 85:9). Thiên Chúa không cần biết người đó là ai, thuộc giai cấp nào, mà Ngài chỉ cần người đó TRUNG TÍN và CHÂN THẬT, Ngài “sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Ngài, để vinh quang của Ngài hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:10). Để nhờ đó, “tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao” (Tv 85:11-12). Đất nước an bình vì tôn trọng công lý, không có công lý thì không thể có hòa bình đích thực: “Khốn cho ngươi, hỡi đất nước có vua cai trị là một thằng nhãi con, có người lãnh đạo là những đứa mới sáng ra đã lo chè chén” (Gv 10:16).

Bất cứ ai cũng cần công lý, cần được đối xử bình đẳng. Người quyền thế và giàu sang có thể không cần công lý, vì họ luôn sống ung dung, an nhiên tự tại, muốn gì được nấy, thâm chí chính họ còn là kẻ coi thường công lý, bất chấp đạo lý mà áp bức người khác. Còn người nghèo khổ luôn cần công lý, vì họ luôn bị đàn áp, bị bóc lột, bị khinh miệt, bị hành hạ, bị chèn ép,… Họ “thấp cổ, bé miệng”, có kêu cũng chẳng ai thèm nghe, nhưng họ vẫn cương quyết đòi lại công lý, đòi lại công bình xã hội, vì đó là quyền căn bản của con người (nhân quyền) và họ cũng có đầy đủ phẩm giá của con người (nhân phẩm). “Con giun xéo lắm cũng quằn” và “con chó bị dồn đến chân tường cũng phải cắn lại”. Đó là tự vệ, là nhân quyền cơ bản để sinh tồn. Vì nghèo mà hóa hèn, họ khổ lắm, khổ trăm đường. Kinh Thánh phân tích rạch ròi: “Cái khôn của người nghèo bị khinh dể, lời người ấy nói chẳng ai chịu lắng nghe” (Gv 9:16).

“Khốn cho ai lơ là với công việc của Đức Chúa!” (Gr 48:10). Ngược lại, ai hăng say nhiệt thành thì được Thiên Chúa chúc phúc, hứa “sẽ tặng ban phúc lộc và đất trổ sinh hoa trái” (Tv 85:13). Người ta nói: “Đất lành chim đậu”.  Dĩ nhiên rồi, bởi vì đất không lành làm sao chim dám đậu? Chim sợ hãi vì “đất không lành, đất nhậu luôn chim”. Khắp nơi trên thế giới ngày nay không ngừng xảy ra xung đột vì vắng bóng công lý, thiếu sự tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền. Chúa biết vậy nên Ngài mới bảo mọi người “ra khơi” và “lên đường” để loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người vô sản: “Công lý đi tiền phong trước mặt Ngài, mở lối cho Ngài đặt bước chân” (Tv 85:14).

Cần lắm sự sẵn sàng. Có sẵn sàng thì mới mau mắn, có mau mắn thì mới có thể nhiệt thành làm việc cho Thiên Chúa, vì Nước Trời. Đó là sứ vụ chung của mọi tín nhân – những người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.

THI HÀNH SỨ VỤ

Sứ vụ là sứ mệnh, nhiệm vụ, sự sai phái,… cách hiểu của Công giáo là truyền giáo hoặc loan báo Tin Mừng. Phúc Âm chuyển tải sứ mệnh giải thoát người ta khỏi mọi bất công – xã hội và tinh thần. Những người cần được giải thoát, tức là cần biết Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu, là giai cấp vô sản, là dân lao động, là những người thuộc giai cấp hạ lưu, “ăn bữa nay, lo bữa mai”, không có gì dư, luôn sống khổ sở và đầy nỗi lo lắng, không biết ngày mai ra sao. Yêu thương người nghèo là điều cần thiết, vì đó là thực hiện điều Chúa Giêsu đã dạy. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên coi chừng vì có thể chúng ta vẫn LỢI DỤNG hoặc BÓC LỘT NGƯỜI NGHÈO ngay khi chúng ta có những động thái tưởng chừng là yêu thương giúp đỡ họ. Lòng tốt vẫn có thể “ẩn khuất” sau tấm-bình-phong-của-lòng-bác-ái. Thật đáng quan ngại!

Theo Chúa Giêsu vừa dễ vừa khó. Ngài đã từng cảnh báo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9:62). Thật vậy, điều kiện theo Chúa “khắc nghiệt” lắm: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26). Không chỉ vậy, Ngài còn bắt buộc rõ ràng và dứt khoát: “Hãy từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Bất cứ vấn đề gì “chạm” đến cái tôi đều rất khó, khó lắm, nhưng chính lúc có thể từ bỏ chính mình cũng là lúc thanh thản vác thập giá mình mà bước theo Chúa.

Đồng tiền liền khúc ruột. Kho tàng ở đâu thì lòng ở đó (Lc 12:34). Tài sản có ít nhất hai ý nghĩa – nghĩa đen và nghĩa bóng. Tài sản là vật chất còn khó bỏ huống chi tài sản là những “ý riêng” của chính mình – loại “tài sản” đặc biệt và vô cùng “quý giá”. Và như vậy, chưa hẳn là người giàu vật chất khó theo Chúa, và người nghèo vật chất dễ theo Chúa. Nhưng dù giàu hay nghèo, về tinh thần hay vật chất, chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi và truyền lệnh “từ bỏ mọi sự mà theo Ngài”, nhất là phải “từ bỏ chính mình”.

Phải công nhận rằng dù sao chúng ta cũng là những người may mắn vì được biết Chúa và đi theo Chúa, dù mức độ khác nhau, được quyền tự do theo Ngài chứ không bị bắt buộc, và hạnh phúc được thân thưa: “Abba! Cha ơi!”. Người Cha đó là chính Thiên Chúa, là Thân Phụ của Đức Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta. Niềm hạnh phúc đó càng gia tăng gấp bội! Thánh Phaolô nói: “Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Ngài đã thi ân giáng phúc cho chúng ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Ngài đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước Thánh Nhan Ngài, chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài” (Ep 1:3-4). Phàm ngôn không thể diễn tả hết niềm vui sướng lớn lao như thế!

Đúng như vậy, Thánh Phaolô xác định rằng “theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho chúng ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho chúng ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:5-6). Thánh nhân đưa ra cách giải thích thật tuyệt vời: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra mà chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Ngài” (Ep 1:7). Đó chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhờ Thiên Chúa thương xót mà chúng ta mới được làm thân nhân của Ngài, chứ chúng ta hoàn toàn bất xứng, và cũng không có quyền đòi hỏi chi cả.

Hơn thế nữa, Ngài còn cho chúng ta được biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này chính là kế hoạch yêu thương mà Ngài đã tiền định trong Đức Kitô (Ep 1:9). Thánh Phaolô xác định: “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1:10). Mọi sự đều không ngoài “kế hoạch của Thiên Chúa”, và chính trong Đức Kitô, chúng ta đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ chúng ta. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh chị em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (Ep 1:13-14).

Vì thế, việc “rao truyền Nước Chúa” hoặc “loan báo Tin Mừng” không chỉ là lời mời gọi của Đức Kitô mà còn là trách nhiệm của mọi người tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng là Thiên-Chúa-Con-Người.

Một hôm, Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Đó là những “hạt giống” được gieo vào “đất thế gian”. Ngài ban cho các ông quyền trừ quỷ và ra chỉ thị cho họ: “KHÔNG được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; KHÔNG được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng KHÔNG được mặc hai áo” (Mc 6:8-9). Đó là “chỉ thị ba không” Chúa trao làm kim chỉ nam khi họ ra đi làm nhiệm vụ. Vật chất, tiền bạc, danh vọng, địa vị, chức tước,… là những thứ có ma lực khiến người ta thoái hóa mau chóng. Ai “dính líu” những thứ đó sẽ khó “đứng vững”, dù đó là ai. Chúa Giêsu không muốn ai sa vào “bẫy tinh vi” của ma quỷ nên Ngài muốn chúng ta phải sống “tinh thần nghèo khó” như những người vô sản chân chính. Sống thật chứ không nói suông hoặc lý luận biện hộ, từ xưa Thiên Chúa đã khuyến cáo “rát tai” về nhiều thứ (Am 5:10-15), nhất là kiểu phụng tự hình thức (Am 5:21-24).

Ngoài ra, Ngài còn dặn dò các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (Mc 6:10-11). Chúa Giêsu cho phép “phản đối” điều sai trái hoặc người cố chấp. Giáo huấn Xã hội Công giáo cũng đề cập trách nhiệm phải TỐ GIÁC ĐIỀU ÁC theo tinh thần đó. Vâng lệnh Đức Kitô và theo thể thức Ngài dạy, “các ông đi rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn sám hối; các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6:12-13). Đúng ý Chúa thì tất cả đều “mát mái, xuôi chèo” và “thuận buồm, xuôi gió”, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Chắc chắn là như thế!

Trong Kinh Thánh có nhiều “mối khốn”, một trong số đó là vấn đề liên quan chân lý và công lý: “Khốn cho những ai biến LẼ PHẢI thành ngải đắng, và vứt bỏ CÔNG LÝ xuống đất đen” (Am 5:7). Đó là vấn đề luôn nóng bỏng và mang tính thời sự, nhất là trong xã hội Việt Nam ngày nay. Cứ hành động theo linh hứng của Chúa Thánh Thần, còn kết quả thế nào là do Thiên Chúa định đoạt: Phaolô trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên (2 Cr 3:6).

Lạy Thiên Chúa công minh chính trực, xin ban thêm sức mạnh để chúng con đủ can đảm mà hành động theo đúng Tôn Ý Ngài, hành động trong sự thật mọi lúc và mọi nơi, làm gì cũng chỉ để vinh danh Ngài và cứu rỗi các linh hồn, chứ không có ý đánh bóng chính mình. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHỨNG NHÂN GIÁ TRỊ HƠN THẦY DẠY

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG : Mc 6,7-13.

(7) Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. (8) Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng ; (9) được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. (10) Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. (11) Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”. (12) Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. (13) Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

  1. Ý CHÍNH : Đức Giê-su sai 12 Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Người chỉ thị cho các ông phải rao giảng Tin mừng bằng lời nói và gương sáng : Phải liên kết từng hai ngừơi thành một nhóm, sống siêu thoát khó nghèo và đầy lòng cậy trông phó thác. Các ông đã vâng lời ra đi thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ và xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
  2. CHÚ THÍCH :

-C 7 : + Người gọi nhóm Mười Hai lại : Trước đây Đức Giê-su đã tuyển chọn Nhóm Mười Hai, để các ông “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (x. Mc 3, 13-14). + Sai đi từng hai người một : Tông đồ (A-pos-to-lus) nghĩa là “người được sai đi”. Đức Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi từng hai người để nâng đỡ nhau và biểu lộ sự hiệp nhất yêu thương là dấu hiệu môn đệ đích thực của Người (x. Ga 13,35).+ Ban cho các ông quyền trừ quỷ : Quỷ (di-a-bo-los – nghĩa là kẻ vu khống), hoặc Xa-tan (nghĩa là địch thủ), thường được dùng để chỉ về một nhân vật vô hình, chuyên nói dối và xúi giục loài người phạm tội chống lại Thiên Chúa. Sứ mệnh của Đức Giê-su là “tiêu diệt ma quỷ” (x. Dt 2,14), xua trừ chúng ra khỏi người bị nhập (x. Mc 5,8.13). Hôm nay Người cũng ban cho các môn đệ quyền trừ quỷ ( c 13) và sau khi trở về các ông đã báo cáo với Người như Tin mừng Lu-ca ghi lại như sau: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải chịu khuất phục chúng con” (x. Lc 10,17).

-C 8-9 : + Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đuờng: Nghĩa là các ông phải có phong cách đơn giản khi đi truyền giáo. + Chỉ trừ cây gậy : Được mang gậy là biểu tượng quyền mục tử và là vật hộ thân khi đi đường. + Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng: Không mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc vật chất để biểu lộ lòng tín thác vào Chúa quan phòng sẽ lo mọi sự cho mình. + Được đi dép : Tin mừng Mác-cô cho đi dép (x Mc 6,9) đang khi Tin Mừng Mát-thêu lại cấm đi giày hay cầm gậy theo (x. Mt 10,10). Sở dĩ có sự khác nhau về một vài chi tiết phụ này là tùy theo tác giả đứng trên quan điểm văn hóa Hy Lạp hay Do Thái khi viết Tin Mừng. + Không được mặc hai áo: Người Do Thái khi đi đường thường mặc hai áo : Áo trong và áo choàng ngoài. Áo choàng là áo mặc ngoài để che nắng nóng ban ngày và làm mền đắp ấm ban đêm. Đức Giê-su không cho các Tông đồ mặc hai áo vì là cuộc hành trình truyền giáo ngắn hạn nên việc mang hai áo không thực sự cần thiết.

-C 10-11 : + Đã vào nhà nào thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi : Theo phong tục Đông Phương, dân chúng rất hiếu khách. Do đó khi các Tông đồ đã đến ở trọ nhà nào, thì phải ở đó cho đến lúc ra đi. Nếu tự ý đổi chỗ ở sẽ làm cho chủ nhà buồn lòng và các ông sẽ bị đánh giá là người “trọng phú khinh bần”. + Nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ : Giũ bụi chân là một cử chỉ người Do Thái thường làm khi đi từ miền đất của dân ngoại trở về miền đất của Do thái. Cử chỉ giũ bụi chân biểu lộ sự tuyệt giao vì dân Do Thái bị cấm tiếp xúc với dân ngoại. Ở đây giũ bụi chân làm bằng chứng họ đã từ chối Tin Mừng được loan báo.

-C 12-13 : + Đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối : Sám hối là việc phải làm trước tiên để dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ. Khi đi thực tập truyền giáo, các Tông đồ mới chỉ được Đức Giê-su trao nhiệm vụ kêu gọi người ta ăn năn sám hối, giống như Gio-an Tẩy Giả đã làm (x Mt 3,2). + Các ông trừ được nhiều quỷ : Các Tông đồ đã trừ được nhiều quỷ nhân danh Đức Giê-su và nhờ quyền năng của Người. Tuy nhiên có lần các ông không trừ được quỷ vì các ông không mạnh bằng lòai quỷ dữ đó (x. Mc 9,17-18). Các ông chỉ trừ được chúng do quyền năng của Đức Giê-su ban cho nhờ cầu nguyện và ăn chay (x. Mt 17,21). + Xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh : Xức dầu là cách chữa bệnh phổ biến thời Đức Giê-su. Có những loại dầu trị bá chứng được dùng để chữa mọi thứ bệnh thông thường. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu cho thấy ông ta cũng dùng dầu và rượu để chữa vết thương cho người gặp nạn (x. Lc 10,34). Ở đây, việc xức dầu còn mang tính bí tích nữa như thư của thánh Gia-cô-bê dạy : “Ai trong anh em ốm yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến. Họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh. Người ấy được Chúa nâng  dậy, và nếu đã phạm tôi, thì sẽ được Chúa thứ tha” (x. Gc 5,14-15).

  1. CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su tuyển chọn Nhóm Mười Hai nhằm mục đích gì ? 2) Tại sao Đức Giê-su lại sai từng hai người đi truyền giáo ? 3) Quỷ hay Xa-tan ám chỉ ai ? Đức Giê-su có sứ vụ gì đối với ma quỷ ? 4) Đức Giê-su đã ra lệnh cho các Tông đồ phải làm gì và các ông đã thi hành thế nào ? 5) Đức Giê-su chỉ thị cho các Tông đồ được mang và không được mang theo những gì khi đi truyền giáo ? Tại sao ? 6) Lý do có sự khác biệt trong các chỉ thị của Đức Giê-su giữa Tin Mừng Mác-cô và Mát-thêu ? 7) Tại sao các ông chỉ nên ở trọ trong một nhà và không được dời từ nhà này sang nhà khác ? 8) Việc giũ bụi chân lại khi gặp thành không tiếp nhận lời các ông giảng dạy có ý nghĩa thế nào ? 9) Tại sao trước hết các ông phải kêu gọi ngừơi ta ăn năn sám hối ? 10) Do đâu mà các Tông đồ khử trừ được nhiều quỷ ? 11) Tại sao có lần các ông không trừ được một quỷ câm ? Theo Đức Giê-su thì muốn trừ được lọai quỷ này cần phải có điều kiện nào ? 12) Tại sao Đức Giê-su truyền cho các Tông đồ xức dầu để chữa bệnh ? Thánh Gia-cô-bê dạy gì về bí tích Xức Dầu bệnh nhân ?

II. SỐNG LỜI CHÚA :

  1. LỜI CHÚA : Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh (Mc 6,13).
  2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM :

1) TẠI SAO PHẢI SỐNG SIÊU THOÁT KHI ĐI TRUYỀN GIÁO?

Người ta kể rằng: có một thanh niên muốn từ bỏ mọi sự thế gian để sống cuộc đời tu trì. Anh quyết định vào trong một khu rừng vắng để sống ẩn tu trong một chiếc lều tạm. Hành trang duy nhất anh mang theo là chiếc áo vải thô để mặc khi đi khất thực hằng ngày như các tu sĩ thời đó.

Một ngày kia, anh rất buồn khi thấy chiếc áo thô anh phơi ở bờ sông đã bị lũ chuột đến cắn nát. Anh đành phải vào trong làng xin một chiếc áo thô khác. Nhưng rồi chiếc áo thứ hai này cũng cùng chung số phận do bị chuột cắn. Anh liền nghĩ ra cách phải nuôi mèo để bảo vệ chiếc áo. Nhưng rồi, khi có mèo mỗi ngày anh lại phải lo thêm phần ăn cho mèo để nó đuổi chuột.

Ngày ngày đeo bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng cho dân làng. Nghĩ thế, anh đã cố gắng tiết kiệm tối đa để dành tiền mua thêm một con bò để khỏi phải đi xin ăn. Nhưng khi có bò rồi thay vì đi khất thực hằng ngày anh lại phải đi kiếm cỏ cho bò ăn. Việc chăn nuôi bò ngày càng phát triển khiến anh không còn thời giờ để cầu nguyện tối sớm như trước. Rồi anh phải thuê thêm người đi cắt cỏ để nuôi đàn bò. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ dần biến thành một trang trại rộng lớn. Do đàn bò ngày một sinh sôi nảy nở nên anh phải thuê thêm nhân công cho trang trại. Con người ban đầu muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay đã trở thành một ông chủ trang trại nuôi bò sữa lớn.

Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có thêm người bạn đời để sớm hôm chia sẻ gánh nặng công việc. Anh đã lấy vợ sinh con và trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình như bao người khác. Thế là anh đã đánh mất lý tưởng tu trì ban đầu chỉ vì muốn bảo vệ một chiếc áo vải thô.

** SUY NIỆM: Ba kẻ thù nguy hiểm của loài người.

Ma quỷ thường tỏ ra khôn ngoan khi cám dỗ loài người từng bước, giống như nó đã cám dỗ nguyên tổ A-đam E-và khi xưa. Cũng vậy, câu chuyện trên cho thấy một người ban đầu có thiện chí muốn đi theo lý tưởng tu trì cao đẹp, nhưng khi bắt đầu bận tâm lo làm ăn kinh tế, anh đã không hứng thú với việc cầu nguyện và suy niệm, là hai yếu tố giúp anh ta trung thành với lý tưởng tu trì. Rồi xác thịt có đặc điểm “được đằng chân, lân đằng đầu”: Một khi thân xác đã được hưởng thụ các tiện nghi vật chất thì sẽ ngày một gia tăng nhu cầu muốn được thỏa mãn thêm các tiện nghi khác. Như vậy lòng tham lam tiền bạc chính là nguyên nhân làm cho người ta ham hưởng thụ các tiện nghi và dần dần đánh mất đi lý tưởng cao đẹp. Vì thế Đức Giê-su đã chỉ thị cho các tông đồ phải sống siêu thoát để dễ dàng chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.

2) THIÊN CHÚA THƯỜNG HÀNH ĐỘNG QUA LOÀI NGƯỜI:

Vào một buổi sáng mùa đông, một người đàn ông đi ngang qua một ông lão ngồi ăn xin trên vỉa hè tuyết rơi lất phất. Ông lão run lên từng cơn vì trời lạnh và bụng đói. Nhìn thấy ông lão ăn xin, người đàn ông cảm thấy thương hại liền thưa với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa lại không làm gì để giúp đỡ cho lão ăn mày đáng thương này?” Và ông đã nghe Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm rồi”.

Ông ta lại thưa với Chúa: “Phải chăng việc Chúa làm có vẻ như không làm ?”.

“Đúng thế”, Chúa đáp.

Ông ta lại hỏi: “Nhưng Chúa giúp lão ăn mày này bằng cách nào?”

Chúa đáp: “Ta đã tạo dựng nên con và Ta muốn con hãy thay Ta mà giúp đỡ cho người anh em nghèo khó này đó”.

** SUY NIỆM:

– Chúa Giê-su đã chọn lựa các môn đệ, huấn luyện họ trong một thời gian và sai họ đi thực tập việc truyền giáo noi gương Người.

– Người đòi các ông phải có nếp sống siêu thoát: “Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy”. Gậy là biểu tượng vai trò mục tử và là vật hộ thân khi đi đường; “Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng” để biểu lộ lòng tín thác vào Chúa quan phòng; “Được đi dép” là nhu cầu tối thiểu, “nhưng không được mặc hai áo” do không cần thiết, vì việc truyền giáo chỉ vài ba ngày.

– Người muốn các ông thể hiện dấu chỉ của người môn đệ đích thực là yêu thương hiệp nhất khi sai các ông đi từng nhóm hai người một (x. Mc 6,7) và đi đến với mọi người không phân biệt Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, giàu có hay nghèo khó…

– Các ông đã đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12) và đã làm chứng cho Chúa bằng việc: xua trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa bệnh cho nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13).

3) BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA:

Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Trái Tim Chúa Giê-su. Tuy nhiên, sau cuộc chiến thì bức tượng đã bị bom đạn phá phá hủy thành nhiều mảnh vung vãi trên mặt đất. Còn bàn tay bức tượng thì hoàn toàn đã bị biến mất.

Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn của bức tượng và cẩn thận lắp ráp lại pho tượng như cũ. Riêng hai bàn tay bức tượng bị biến mất thì họ đề nghị nhờ thợ điêu khắc đến làm lại bàn tay khác. Nhưng vị linh mục lại từ chối và nói: “Chúng ta hãy cứ để pho tượng không có bàn tay, và dưới chân đế của bức tượng sẽ để hàng chữ như sau: Chính bạn là đôi tay của Chúa”.

** SUY NIỆM : Chính bạn là đôi tay của Chúa:

Quả thật, nhiều khách đến viếng thăm ngôi nhà thờ đổ và bức tượng không bàn tay đã hiểu được ý nghĩa của câu nói trên: Giờ đây tuy Đức Giê-su không có bàn tay nhưng Người muốn mỗi tín hữu chúng ta hãy cho Người mượn đôi bàn tay để nâng đỡ những anh em tội lỗi được đứng dậy, băng bó những vết thương đau, chia sẻ cơm áo vật chất cho người nghèo đói; Người muốn dùng bàn chân của chúng ta để đi tìm những con chiên lạc mang về đoàn chiên Hội Thánh; Người muốn chúng ta dùng đôi tai để lắng nghe và cảm thông với những người bất hạnh; Người muốn chúng ta dùng miệng lưỡi để động viên những kẻ khốn cùng, giúp họ luôn tín thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa.

4) LOAN BÁO TIN MỪNG BẰNG CUỘC SỐNG CHỨNG NHÂN:

Cô SO-PHI BÉC-ĐĂNG-CA (Sophie Berdanska) là một tín hữu Công giáo vừa có tài giáo dục trẻ thơ lại vừa có đức tin mạnh mẽ. Một hôm cô được nhận vào làm gia sư trong gia đình Méc-tơn (Merston) giàu có nhưng lại theo Do thái giáo. Công việc chính của cô là dạy kèm cho năm đứa con mới bị mồ côi mẹ. Ngày đầu tiên, khi biết So-phie là người Công giáo, ông Méc-tơn đã cấm cô giảng đạo cho mấy đứa con của ông và cô đành miễn cưỡng chấp nhận. Buổi tối hôm ấy, trong căn phòng riêng dưới tầng hầm, sau khi đọc kinh tối xong, So-phie đã viết lời cầu vào một mảnh giấy nhỏ, xếp gọn rồi nhét vào trong cái hộp nhỏ xíu gắn phía sau chiếc huy chương hình thánh giá. Đây là kỷ vật mà người cha thân yêu đã tặng cô trước khi ông chết, với lời trăn trối cô phải chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa mọi lúc mọi nơi. Từ ngày cha chết, So-phie luôn đeo chiếc huy chương để nhắc cô về sứ vụ truyền giáo phải thực hiện dù trong hòan cảnh không thuận lợi.

Từ ngày được cô giáo So-phie chăm sóc dạy dỗ, lũ trẻ nhà Méc-tơn ngày càng trở nên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành khác hẳn lúc trước. Chúng quí mến và coi cô như bà mẹ thứ hai. Rồi một ngày kia, tai nạn lần lượt đổ xuống nhà Méc-tơn: Trước tiên là cô bé út Na-ta-cha bị sốt cao khiến ông Méc-tơn rất lo lắng. Ông vội mang con đến bệnh viện cấp cứu. Trong thời gian này, cô So-phie đã luôn túc trực bên giường bệnh để chăm sóc đứa bé. Rồi đến lượt hai đứa khác cũng bị lây bệnh và cũng được cô giáo tận tình chăm lo đến khi cả ba anh em hoàn toàn bình phục. Sau cùng chính cô So-phie lại ngã bệnh ! Đây là hậu quả của những ngày vất vả chăm sóc bệnh nhân. Sau hai tuần lễ liệt giường, các bác sĩ đành bó tay không thể chữa cô khỏi bệnh. So-phie đã từ giã cuộc đời trong sự tiếc thương vô hạn của cả gia đình Méc-tơn. Trước khi lìa đời, Sophie đã tặng chiếc huy chương hình thánh giá cho Na-ta-cha là cô học trò bé nhỏ của cô.

Thấm thoát đã đến ngày giỗ đầy năm của So-phie. Hôm ấy cả gia đình Méc-tơn dậy sớm và cùng đi nhà thờ dự lễ cầu nguyện cho cô. Tại sao có sự kiện lạ lùng này? Số là sau khi So-phie chết được một tuần, ông Méc-tơn đến thăm các con lúc đó vẫn đang ưu sầu thương nhớ cô gia sư mới chết. Tình cờ ông thấy chiếc huy chương trong tủ kính. Tò mò cầm lên xem, ông mở hộp nhỏ phía sau chiếc huy chương, lấy ra một mẩu giấy và đọc thấy hàng chữ như sau: “Lạy Chúa, trong nhà Méc-tơn này, con đã bị cấm nói về Chúa với lũ trẻ. Vậy xin Chúa giúp con nói với chúng bằng hành động khiêm nhường yêu thương và phục vụ. Con hy vọng gia đình này có ngày sẽ tin vào Chúa và cũng được hưởng ơn cứu độ giống như con”. Ông Méc-tơn rất xúc động khi đọc những hàng chữ này. Ông trao cho các con cùng đọc và chúng cũng xúc động như ông. Rồi cả gia đình Méc-tơn đã đến xin học giáo lý tại một nhà thờ công giáo gần nhà và đã được nhận phép Rửa Tội nhập đạo công giáo vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh năm đó.

** SUY NIỆM: Chứng nhân có giá trị thuyết phục hơn thầy dạy:

Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng như sau: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy cũng là những chứng nhân”. Chỉ có các hành động yêu thương kèm theo lời giảng mới có sức thuyết phục con người thời nay tin theo Đức Giê-su.

Mỗi tín hữu hôm nay cần gắn bó với Chúa Giê-su như cành nho tháp nhập vào thân cây nho. Vì nếu không có ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ không thể chu tòan sứ vụ làm chứng cho Chúa được (x Ga 15,5). Cần tập nhẫn nhịn chịu đựng và biết quảng đại tha thứ các xúc phạm của tha nhân, luôn nghĩ đến người khác và phục vụ họ trong tinh thần khiêm tốn và yêu thương, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt để được mối lợi là đưa được nhiều người về làm con Chúa như thánh Phao-lô đã viết: “Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, họan nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).

3. THẢO LUẬN : 1) Bạn có kinh nghiệm gì về việc truyền giáo bằng đời sống chứng nhân bác ái không ? 2) Trong những ngày này, mỗi người chúng ta sẽ giới thiệu Chúa cho bạn bè và người thân chưa biết Chúa thế nào ?

4. LỜI CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa, cho chúng con luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng một lối sống quên mình vị tha, dấn thân hy sinh và khiêm nhường phục vụ tha nhân cách chân thành. Nhờ đó, người ngòai sẽ nhận biết tôn thờ và tin theo Chúa để được hưởng ơn cứu độ đời đời cùng với chúng con.- AMEN.

Về mục lục

.

NÉT ĐẸP NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA

Lm Jos Tạ duy Tuyền

Nét đẹp của một người không hệ tại ở chức vụ người đó, cũng không hệ tài ở tài sản của họ mà quan yếu là ở những gì họ cống hiến phục vụ cho đời. Càng cho đi thì giá trị họ càng cao. Càng sống thanh thoát khỏi những bon chen thì con người họ càng thanh cao. Càng sống phục vụ thì con người họ càng cần thiết cho gia đình và xã hội.
Người cao đẹp như thế cũng tựa như dòng nước. Nước nuôi dưỡng tất cả các sinh linh, tưới tắm cho vạn vật, nó không tranh đấu vì quyền lợi, và cũng không cần sự báo đáp. Mặc dầu nước rất cần cho con người. Thiếu nước con người sẽ chết. Thiếu nước vạn vật cũng không tồn tại. Nhưng nước vẫn thanh thoát tự tại, không màng đến được- mất, thắng- thua . . .
Thế nên, điều quan trọng trong cuộc sống là ta hãy tích đức. Tích đức bằng việc đến với tha nhân để thi ân, để phục vụ. Tích đức bằng việc cho đi mà không cần nhận lãnh. Sống thanh thoát khỏi những tham sân si để tâm hồn luôn cởi mở bình an. Khi con người gieo việc thiện sẽ nhận được những điều tốt lành, vì “gieo gì gặt ấy”. Càng sống quảng đại thì trời lại càng cho thêm như người xưa đã nói: “Xởi lởi Trời lại cho thêm”
Người ta kể rằng: có một người phụ nữ mù đi taxi tới một tòa nhà. Lúc đến nơi, đồng hồ hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng. Tài xế taxi dẫn cô vào chỗ an toàn rồi nói: “Tôi không thu tiền của cô, bởi vì so với cô thì việc kiếm tiền của tôi chắc là dễ dàng hơn”.
Vừa đúng lúc này, từ trong khu cư xá, người đàn ông có dáng vẻ của một ông chủ đi ra. Ông cũng lên chiếc xe taxi đó rồi đi. Trên đường, hai người đàn ông vui vẻ chuyện trò cùng nhau. Khi xuống xe, đồng hồ hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng nhưng người đàn ông lấy ra số tiền 200 ngàn và nói: “Tiền này bao gồm cả số tiền của người phụ nữ lúc nãy. Tôi cũng không phải vĩ đại gì, nhưng chắc là việc kiếm tiền cũng dễ dàng hơn cậu một chút, hy vọng cậu có thể tiếp tục làm việc tốt!”.
Cuộc sống giống như một chiếc gương phản chiếu, nó có thể ghi nhận rồi phản ánh hết thảy những chuyện tốt xấu của đời người. Vậy nên, sẽ có lúc chúng ta nhận ra, những việc mình đã làm cuối cùng đều sẽ quay trở lại. Gieo điều thiện sẽ gặt trong hân hoan.
Hôm nay Chúa bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Giáo hội luôn được người đời yêu mến vì thời nào cũng có những sứ giả tin mừng sống thanh thoát với đời để sẵn lòng phục vụ mọi người và mọi nơi. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống thanh bần như người nghèo, để phục vụ mà không mong đền đáp.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu biết sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen

Về mục lục

.

CỘNG TÁC VỚI CHÚA GIÊSU ĐỂ LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, sống thân phận người phàm ở giữa nhân loại. Ngài đã dành 30 năm đầu đời, sống ẩn dật tại Na-da-rét và chỉ dành non 3 năm sau đó để đi rao giảng Tin Mừng và đặt nền móng thiết lập Hội Thánh. Đến năm 33 tuổi, Ngài chịu khổ nạn và phục sinh, chấm dứt cuộc sống hữu hình trên dương thế.

Tại sao Chúa Giê-su lìa bỏ trần gian sớm đến thế?

Ngài rao giảng thì hẳn là phải thuyết phục và lôi cuốn hơn các môn đệ kém cỏi của mình. Ngài trực tiếp đến với muôn dân để chăm sóc, phục vụ cũng như chữa lành các bệnh tật cho họ thì sẽ có tác dụng lớn lao hơn. Giả như Ngài sống trên mặt đất này lâu hơn, trực tiếp đi đến nhiều nơi trên thế giới, tiếp cận với nhiều dân tộc hơn, ban bố nhiều phúc lành cho mọi người… cho đến sáu, bảy mươi tuổi mới bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh, thì ảnh hưởng của Ngài sẽ rộng lớn biết bao! Thành quả đạt được sẽ lớn lao biết chừng nào!

Vậy mà Chúa Giê-su không làm như ta tưởng. Ngài không gom hết mọi việc về mình. Ngài kêu mời các môn đệ và chúng ta cộng tác với Ngài.

Trước hết, như bài Tin mừng hôm nay cho thấy, Ngài sai Nhóm Mười Hai môn đệ ra đi rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (Mc 6,12-13).

Sau này, Ngài còn sai Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ lên đường tiếp nối sứ mạng của Ngài (Lc 10, 1-12).

Hôm nay, Chúa Giê-su trao sứ mạng rao giảng (ngôn sứ) cho tất cả những ai đã được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tức là những người được trở thành chi thể của Ngài.

Thế là Chúa Giê-su chỉ trực tiếp rao giảng trong vòng ba năm thôi, rồi chuyển giao sứ mạng rất hệ trọng của mình cho con cái Ngài khắp nơi trên thế giới, bởi vì công cuộc rao giảng Tin mừng không phải là việc riêng của Đầu (là Chúa Giê-su) mà là việc của toàn thân mình Ngài là Hội thánh. Ai thuộc về thân mình Ngài đều có trách nhiệm tham gia sứ mạng của Chúa Giê-su.

Chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su

Từ ngày lãnh Bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giê-su như cành liền cây, như bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Ngài.

Từ đó, Chúa Giê-su muốn rao giảng qua chúng ta là môi miệng của Ngài; Chúa Giê-su muốn chăm sóc bệnh nhân và người đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Ngài; Chúa Giê-su muốn tỏ lòng thương xót nhân loại qua chúng ta là trái tim của Ngài…

Thế nên, chúng ta phải cộng tác với Chúa Giê-su và để Ngài sử dụng chúng ta như chi thể của Ngài mà tiếp nối sứ mạng loan Tin mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.

Chúng ta không thể viện cớ mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối… để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giê-su và dù không mang lương thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giê-su sử dụng.

Đừng trở nên bàn tay tê bại

Nhân loại hôm nay đông đảo gấp hàng triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin mừng lúc này càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giê-su vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin mừng như các môn đệ xưa.

Là chi thể của Chúa Giê-su, chúng ta không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Ngài.

Một chi thể không tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể tê bại.

Một chi thể tê bại chẳng những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên chướng ngại cho hoạt động của toàn thân.

Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.

Vậy thì hãy sẵn sàng hiến thân làm khí cụ cho Chúa Ki-tô.

Khi chúng ta hiến đời mình để Chúa Giê-su sử dụng như bàn tay của Ngài, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ được Ngài thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.

Lạy Chúa Giê-su,

Dù con bất xứng, ươn hèn và yếu đuối, nhưng con đã là chi thể của Chúa rồi, xin hãy sử dụng con như đôi tay của Chúa để đem lại ơn cứu độ cho những người chung quanh con.

Về mục lục

.

HÀNH TRANG CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ.

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong sinh hoạt của giáo phận hoặc các nhà dòng, cứ vào dịp hè, các cha các thầy, các sơ thường quan tâm đến việc bổ nhiệm, thuyên chuyển. Có những người từ thành thị về thôn quê, có người từ vùng sâu ra thành thị, có người mới chuyển được một hai năm nay lại tiếp tục lên đường. Ngược lại, có những người đã làm việc nhiều năm nhưng vẫn chưa được thuyên chuyển. Có những người lên đường trong vui vẻ vâng lời, nhưng cũng không ít người ra đi trong tiếc nuối ngại ngùng; Và, cũng có một vài trường hợp, tìm cách níu kéo, chần chừ, không muốn ra đi.
Thưa quý OBACE, căn cốt người môn đệ là người được tuyển chọn và sứ mạng của người môn đệ là làm theo lệnh sai đi. Vì nếu không làm theo lệnh sai đi, thì việc làm của người đó chỉ là việc làm mang tính cá nhân, thỏa mãn sở thích của mình, không còn phải là việc của Giáo Hội nữa. Vì được gọi và được sai đi, nên dù công việc của người môn đệ thành công hay thất bại đều là việc của Chúa và của Giáo Hội, “thành công không kiêu, thất bại không nản”. 
Trong thực tế, người môn đệ khi được sai đến một môi trường mới, không phải lúc nào cũng thành công, trái lại có nhiều lúc thất bại ê chề, nhưng người đó vẫn bằng an vì biết mình đang làm việc của Chúa, làm theo ý Chúa. Cũng có thể trong mắt của người đời, người môn đệ dường như bị thất bại, nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài có thể biến sự thất bại của người này thành ích lợi cho người khác.
Lần đầu tiên khi thi hành sứ mệnh được trao, rao giảng, kêu gọi dân Israel sám hối, tiên tri Amos đã không thành công. Ông không chỉ bị từ chối, mà còn bị dân chúng xua đuổi, mỉa mai. Tiên tri Amos là người miền Nam xứ Giuđêa. Ông được Chúa gọi đi làm ngôn sứ, cảnh báo về lối sống sai lệch của người miền bắc là Israel. Vương quốc Israel lúc đó phát triển về xã hội, kinh tế, cuộc sống giàu có xa hoa. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự suy thoái về đời sống đạo đức, sống gian dối, làm ăn bất công lươn lẹo, bỏ rơi người nghèo khổ. Người dân đã từ bỏ giới răn lề luật của Thiên Chúa và sống theo những thói tục dân ngoại. Tiên tri Amos được Chúa gọi và sai đến để cảnh tỉnh nhà vua, các tư tế và dân chúng về lối sống sa đọa đó. Dân Israel đã không nghe mà còn tìm cách trục xuất Amos. Họ nói với ông: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa, quê ông mà kiếm ăn và giảng dạy ở đó. Đừng hòng mà hoạt động ở đất Bêthel này”.Tiên tri Amos đã trả lời: “Tôi không phải là nhà ngôn sứ, gia đình tôi cũng không thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn cừu và hái lá sung. Nhưng Chúa bắt lấy tôi và nói với tôi: ‘Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta’. Và tôi đã đi. Câu trả lời của Amos cho thấy ông được sai đi là để nói lời của Chúa và ý của Chúa cho dân. Vì thế, ông đi theo lệnh của Chúa và nói là nói những gì Chúa muốn. Chúa dùng ông như một dụng cụ của Chúa và ông chỉ như một đầy tớ hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Đó chính là thái độ mà người ngôn sứ phải có, là sẵn sàng để cho Chúa sử dụng môi miệng, cả con người, sức lực và khả năng của mình theo ý Chúa.
Tin Mừng Marcô cho thấy, khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu còn đòi hỏi gắt gao hơn nữa. Chúa sai từng hai người một và dặn các ông: “Không mang gì, trừ cây gậy, không mang lương thực, bao bị, tiền bạc”. Sai từng hai người làm thành một nhóm để cho thấy lời các ông rao giảng là lời đáng tin và việc làm của các ông có người làm chứng là chân thật. Sai từng hai người đi, để cho thấy các ông không ra đi trong lẻ loi đơn độc, nhưng làm việc với những anh em cùng chung sứ mạng. Như thế, cho dù các ông thành công hay thất bại, các ông sẽ không nản lòng cũng không kiêu ngạo, không tìm kiếm thành công hay vinh dự cho cá nhân, mà là của tập thể. Các ông cũng không phải mang lương thực bao bị tiền bạc, không mang hai áo, vì các ông ra đi trong sự quan phòng phó thác cho Chúa. Các ông không phải bận tâm về nhu cầu cuộc sống cá nhân vì Chúa sẽ lo liệu cho các ông. Như thế, Chúa muốn những kẻ được sai đi phải dám sống trong sự tin tưởng phó thác hoàn toàn cho Chúa, không cậy dựa vào các thế lực hay tham lam vật chất, danh vọng trần gian và phải dám sống khó nghèo.
Chúa cũng dặn các ông: “Khi vào nhà nào, anh em hãy ở lại đó cho đến khi ra đi. Nơi nào người ta không đón tiếp anh em, thì hãy ra khỏi đó và giũ bụi chân trả lại cho họ”. Lời dặn này có nghĩa là người tông đồ được sai đến với những con người và với các hoàn cảnh sống của gia đình và xã hội. “Hãy ở lại đó cho đến khi ra đi”, là để có thể thực sự hiểu và chia sẻ với cuộc sống của các gia đình. “Ở lại nơi đó”, còn có nghĩa là vui lòng đón nhận các hoàn cảnh khác nhau của nơi mình được sai đến, không chọn lựa hay tìm kiếm sự thoải mái tiện nghi, không đứng núi này nhìn núi khác. Nơi nào người ta không đón tiếp thì hãy ra khỏi đó và giũ bụi chân trả lại. Như vậy, Chúa cũng muốn nói trước với các tông đồ, khi thi hành sứ mạng không phải lúc nào các ông cũng thành công hoặc được mọi người đón tiếp, trọng kính. Nhưng sẽ có khi các ông gặp thất bại, bị từ chối hoặc chống đối. Trong những trường hợp đó, các ông vẫn giữ được sự bình an và niềm vui trong tâm hồn vì mình đã làm việc của người được sai đi. Tin Mừng cũng cho thấy sự thành công bước đầu của các môn đệ: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Các ông trừ nhiều quỷ và xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”. Câu kết luận này cho thấy, những người được Chúa sai đi đã làm những việc Chúa Giêsu đã làm và kêu gọi những điều Chúa Giêsu kêu gọi. Nói khác hơn, những người được sai đi đã trở thành hiện thân của Chúa Giêsu, là cánh tay nối dài và là trái tim mở rộng của Chúa.
Thưa quý OBACE, qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta được Chúa gọi và sai đi như các môn đệ ngày xưa. Chúa muốn chúng ta nhiệt tâm ra đi nói về Chúa cho anh em trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Chúa cũng muốn chúng ta dám sống tâm tình phó thác cho Chúa, miệt mài với sứ mạng, không tìm kiếm thành công, danh vọng địa vị hay vật chất theo kiểu của thế gian, nhưng mang trong mình niềm tự hào vì được cộng tác với Chúa và là cánh tay nối dài của Chúa. Chúng ta được mời dám sống trong sự tin tưởng vào Chúa dù lúc thuận lợi hoặc khi gặp khó khăn, lúc người ta nghe và đón tiếp hoặc khi bị từ chối, xua đuổi. Chúng ta cũng được mời gọi đón nhận mọi trở ngại với tâm hồn bình an và tin rằng Chúa luôn ở với ta và trợ giúp ta trong sứ mạng lớn lao này.
Chúa đang sai các bậc cha mẹ vào trong các gia đình để yêu thương, rao giảng, kêu gọi mọi thành viên sám hối. Chúa cũng trao cho cha mẹ trách nhiệm xua trừ ma quỷ và sự xấu trong gia đình, đồng thời chữa lành bệnh tật của gia đình và trong tâm hồn các thành viên. Vì thế, chúng ta đừng chỉ mải mê tìm kiếm vật chất cho gia đình, mà hãy chuyên tâm vào việc canh tân biến đổi các thành viên trong gia đình nên tốt hơn, sống đúng với Tin Mừng hơn, làm cho gia đình trở nên yêu thương ấm cúng hơn
Các anh em Tin Lành rất nhiệt thành trong việc giới thiệu về Chúa cho người khác. Họ nói về Chúa ở khắp nơi, khi đi đường, lúc trên xe, lúc ngồi quán, dù bị từ chối hay được đón nhận. Còn những người Công Giáo lại không mạnh dạn nói về Chúa như họ. Phải chăng chúng ta không biết về Chúa Kitô và Tin Mừng của Người hay chúng ta còn bận vướng nhiều thứ khiến không thể nói về Chúa cách xác tín được? Qua Bí Tích Rửa Tội, mỗi người được Chúa sai đi làm chứng nhân cho Chúa. Chúng ta phải loan báo Tin Mừng Tình Yêu, sự tha thứ và ơn giải thoát cho thế giới này. Cho dù được thế giới đón nhận hay từ chối, chúng ta vẫn phải không ngừng nói về Chúa và đem tình yêu thương, lòng bao dung tha thứ vào trong xã hội hôm nay.
Có một người thắp một ngọn đèn và từng bước lên một ngọn tháp cao. Càng lên cao gió càng mạnh, khiến cho ngọn đèn run rẩy. Ngọn đèn thưa với ông chủ: “Thưa ông, ông đem con đi đâu?” Ông chủ đáp: “Ta đem con lên ngọn tháp”. Ngọn đèn đáp: “Thưa ông con bé nhỏ làm sao có thể đương đầu được với gió bão”. Ông chủ đáp: “Việc đó để ta lo”. Ngọn đèn lại năn nỉ: “Mình con làm sao có thể làm gì được?” Ông chủ lại trả lời: “Việc đó để ta lo”. Một lần nữa ngọn đèn lại năn nỉ: “Thưa ông con không thể làm được việc đó”. Ông nói với ngọn đèn: “Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng hết mình, còn việc khác để ta lo”. Lên đến đỉnh tháp, ông chủ đặt ngọn đèn vào giữa những tấm kiếng. Kỳ diệu thay, từ một ngọn đèn nhỏ khi được đặt vào giữa những tấm kiếng, nó trở thành một ngọn hải đăng chiếu ánh sáng để dẫn lối cho tàu bè đi lại.
Chúa cũng muốn chúng ta cứ cháy sáng hết mình. Còn các việc khác Chúa sẽ lo liệu. Amen.

Về mục lục

.

Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC ĐƯỢC SAI ĐI RAO GIẢNG

Lm Trần Bình Trọng

Nếu có ai hỏi người ngoại quốc nào trong nước chủ nhà được nể nang hơn cả, người ta sẽ nghe đa số trả lời là ông hay bà đại sứ.

Khi tổng thống hay quốc trưởng tiếp nhận đại sứ được gửi đến với uỷ nhiệm thư là thừa nhận chính phủ của xứ sở họ. Khi chính phủ đổ thì đại sứ cũng không còn đại diện cho chính phủ nào cả.

Chính Ðức Giêsu cũng dùng quan niệm được gửi đến hay sai đi của loài người để tiếp tục việc rao giảng nước trời. Trong Phúc âm hôm nay, Ðức Giêsu sai các tông đồ đi rao giảng sự thống hối, xua trừ ma quỉ, xức dầu và chữa lành nhiều bệnh nhân (Mc 6:12-13). Người căn dặn các ông chỉ mang dép, mang gậy, không được mang bị, mang bánh, không được mang tiền trong túi, và không được mang hai áo. Nếu áp dụng lời Chúa theo nghĩa đen thì đa số giáo sĩ đi truyền giáo đời nay đều đi trật lất đường rầy vì họ mang hai hay ba va-li đồ dùng và quần áo, lại còn mang tiền trong túi hay thẻ tín dụng nữa.

Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay còn khác với lời Chúa trong Phúc âm Thánh Mát-thêu và Luca về hành trang lên đường của các tông đồ đi rao giảng (Mt 10:5-15; Lc 9:1-6). Sở dĩ có sự khác biệt về hành trang có lẽ vì trí nhớ khác nhau của các thánh sử. Ðiểm này chứng tỏ rằng cắt nghĩa lời Chúa theo nghĩa đen là không thực tế. Vì thế ta cần nhờ đến những nhà chú giải thánh kinh để cắt nghĩa lời Chúa cho thích hợp. Ta cũng cần nhờ đến Giáo hội để giải thích lời Chúa vì Giáo hội có sứ mệnh bảo toàn kho tàng mạc khải trong Thánh kinh để khỏi bị cắt nghĩa sai lạc. Như vậy chi tiết về hành trang truyền giáo không quan trọng cho bằng sứ điệp rao giảng Phúc âm.

Lời Chúa dạy các tông đồ về hành trang trên đường truyền giáo là họ chỉ cần mang theo những vật dụng cần thiết tối thiểu mà thôi. Vật dụng cần thiết tối thiểu tại đất Pa-lét-tin  thời bấy giờ khác vật dụng cần thiết và tối thiểu thời nay trong quốc gia hoặc thế giới hiện tại. Làm việc tông đồ ở xứ giầu thì có thể sống thế này, nhưng làm việc tông đồ ở xứ nghèo thì phải sống thế khác.

Trong hoàn cảnh nào đi nữa thì Ðức Giêsu muốn dậy ta phải sống lối sống đơn giản để cho sứ điệp rao giảng Phúc âm được tỏ hiện. Và Chúa còn muốn dạy ta phải đặt tin tưởng vào chương trình quan phòng của Chúa để được cung cấp như Phúc âm Thánh Mát-thêu trong cùng câu chuyện có ghi: Thợ thì đáng được nuôi ăn (Mt 10:10). Nếu câu nệ vào những chi tiết như những vật dụng gì Chúa dạy các tông đồ phải mang, ta sẽ quên đi điều quan trọng là việc rao giảng tin mừng cứu thế.

Ðược Ðức Giêsu trao ban quyền năng, các tông đồ lại sai cộng sự viên đi rao giảng tin mừng cứu chuộc. Các giám mục cai quản giáo phận là những người kế vị các tông đồ cũng sai cộng sự viên là các linh mục làm việc tông đồ. Sắc Lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống Linh Mục của Công Ðồng Vaticanô II có ghi: Chúa Kitô đã sai các Tông đồ như chính Người được Chúa Cha sai, và rồi qua các tông đồ, Người đã làm cho các đấng kế vị là các giám mục cũng được tham dự việc thánh hiến và sứ mệnh của NgườiNgười lại trao ban cho các linh mục chức vụ thừa hành ở một cấp độ kế tiếp (Linh mục # 2). Họ nhận lệnh sai đi qua việc đặt tay trong Bí tích truyền Chức thánh.

Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa gọi ông A-mốt là người xứ Giuđa miền nam đi nói tiên tri cho người xứ Ít-ra-en miền bắc. Ông phản đối mạnh mẽ đời sống tôn giáo và luân lí sa đọa và bất công trong xã hội đang lan tràn tại Ít-ra-en, tách rời khỏi Juđa năm 930 trước kỉ nguyên Kitô giáo. Ông tiên báo là vua Gia-rốp-am xứ  Ít-ra-en sẽ bị ám sát và Ít-ra-en sẽ bị đi lưu đầy. Ðể trả đũa, A-mát-gia, được nhà vua đặt làm tư tế đền thờ Bết-ên của vương quốc Ít-ra-en, vì sợ nguy hại đến quyền lợi, bèn phản đối, và đòi khai trừ Amốt khỏi Ít-ra-en. A-mát-gia gọi A-mốt một cách xách mé là thầy chiêm thay vì ngôn sứ hay tiên tri và còn mỉa mai mà rằng: Này thầy chiêm ơi, mau chạy về xứ Giuđê, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm (Am 7:12).

Ðọc lịch sử Ít-ra-en, người ta thấy thời đó có trường dạy làm nghề thầy chiêm, một nghề để kiếm ăn. Do đó mà có nhiều thầy chiêm xuất thân từ trường này, một loại ngôn sứ giả, phò nhà vua, để cầu khẩn cùng thần thánh của họ cho vương quốc được an khang thịnh trị ngay cả khi đồi tệ. A-mốt hiểu nghĩa của từ thầy chiêm mà A-mát-gia dùng, nên khẳng định: ông không phải là thày chiêm, mà chỉ là: người chăn chiên và đi hái sung vả, và Chúa đã gọi ông: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân của ta (Am 7:15).

Như vậy, ta thấy dụng cụ mà Chúa dùng không tuỳ thuộc vào địa vị xã hội hay trình độ học vấn, hay sự tài khéo của loài người, nhưng là tuỳ thuộc vào quyền năng của Chúa và sự cộng tác của loài người. Sự kiện này được chứng minh qua việc Thiên Chúa chọn ông Amốt – chỉ là người chăn chiên và hái sung – đi làm ngôn sứ và việc Ðức Giêsu chọn mười hai tông đồ, đa số làm nghề chài lưới và ít học.

Suy luận và quan sát, ta còn thấy quyền bính trong Giáo hội được trao ban từ trên xuống dưới là nhằm mục đích để duy trì sự hiệp nhất trong nhiệm thể Chúa Kitô hầu cho các việc tông đồ được phối trí và hoà hợp. Nếu không có hệ thống quyền bính trao ban từ trên xuống duới, người ta có thể tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi, khó lòng mà hiệp nhất. Lịch sử các giáo phái Kitô giáo đã chứng minh điều đó. Nhìn quanh hay nhìn ra xa, người ta thấy có cả hàng trăm giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới. Bất đồng quan điểm hay phản đối vấn đề gì, người ta có thể tách ra, lập thành giáo phái khác.

Các hoạt động trong Giáo hội không những chỉ nhắm đến việc hiệp nhất, mà còn nhắm đến tinh thần hiệp thông hay thông hiệp với gốc nho là Ðức Kitô và thông hiệp với ngành nho là người tín hữu bằng cảm tình và ơn thánh nữa. Thông hiệp là đặc điểm của Giáo hội Công giáo. Những giáo phái khác hoặc các tổ chức chính trị, xã hội có thể có sự hiệp nhất mà không có sự thông hiệp. Thông hiệp bao hàm sự hiệp nhất và thông phần cũng như cảm thông bằng ơn thánh, bằng tình cảm và ước muốn nữa. Chẳng hạn mối ưu tư và quan tâm của những vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng phải là mối quan tâm và ưu tư của toàn thể Giáo hội. Khi có chuyện vui chuyện buồn, điều lo âu hoặc hi vọng trong Giáo hội thì giáo sĩ cũng như giáo dân đều thông hiệp và cảm thông với Giáo hội, mà thành ngữ La ngữ được gọi là sentire cum ecclesia. Ðó là điều mà thánh Phaolô dậy: Vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12:15).

Lời cầu nguyện xin được hiệp nhất và hiệp thông với Giáo hội:

Lậy Chúa Giêsu là mục tử tối cao.

Con xin tạ ơn Chúa đã thiết lập Giáo hội

trên nền tảng các thánh tông đồ.

Xin cho các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân

được hiệp nhất và hiệp thông với Ðấng kế vị thánh Phêrô

trong việc rao giảng tin mừng cứu thế.

Xin cũng dậy con biết hợp tác làm việc tông đồ

để duy trì sự hiệp nhất và thông hiệp với Giáo hội. Amen

Về mục lục

.

CHÂN DUNG NGƯỜI TÔNG ĐỒ

Martin Lê Hoàng Vũ

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu sai nhóm 12 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. Trước khi lên đường, ngoài việc ban quyền trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, Đức Giêsu còn đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các ông trong đời sống tông đồ.

Đó là những điều Chúa đòi hỏi với từng người môn đệ qua mọi thời đại. Nếu dám sống theo những đòi hỏi ấy, chúng ta mới là môn đệ thật sự của Chúa. Vì ngày nay Chúa vẫn sai chúng ta ra đi vào đời với tư cách của người tông đồ.

Là môn đệ Đức Giêsu, mỗi người Kitô hữu phải sống theo những lời chỉ dạy của Chúa. Chỉ dẫn của Đức Giêsu cho các tông đồ cách đây hơn 2000 năm vẫn luôn hợp thời. Nhìn chung những đòi hỏi đó Chúa chỉ muốn các ông tin tưởng vào Ngài. Không cho mang bao bị, tiền bạc, lương thực, mặc hai áo, nghĩa là Ngài muốn người môn đệ phải sống tinh thần khó nghèo. Những thứ đó là nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Chúng chỉ tốt khi giúp con người đạt tới mục đích tốt. Không mang những thứ đó người môn đệ đỡ phải vướng bận lo lắng, vì đôi khi chúng còn chiếm cả thời gian dành cho Chúa của ngườI môn đệ. Một người lên đường mà hành trang gọn nhẹ như các tông đồ được Đức Giêsu chỉ dẫn thì thật là dễ di chuyển đến nhiều nơi. Người tông đồ có sống nghèo mới được tự do, thanh thản, không bị vật chất chi phốI, điều khiển. Người môn đệ nghèo vật chất nhưng rất giàu tấm lòng yêu mến. Càng nghèo người môn đệ càng dễ tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Hơn nữa khi dám sống nghèo người tông đồ sẽ là bạn của người nghèo. Bởi vì Tin Mừng mà Đức Giêsu ủy thác cho Giáo Hội và cho mỗi người Kitô hữu là Tin Mừng cho những người nghèo khó, bị tù đày, đang sầu khổ, đang thiếu cơm ăn áo mặc và vô gia cư. Những người đó được xem là thành phần “thấp cổ bé miệng” trong xã hội, bị người đời khinh thường, nhưng lại được người tông đồ tiếp đón niềm nở.

Thật thế, dám sống theo những chỉ dẫn của Đức Giêsu, người tông đồ sẽ là con người tự do, tự mình suy nghĩ và hành động mà không lo sợ bị mất quyền lợi vật chất. Nếu cần họ sẵn sàng chịu mất tiền bạc và tất cả mọi sự để có được Chúa. Họ luôn ý thức rằng chỉ có Chúa là Cứu Cánh Tối Thượng của cuộc đời mình. Như vậy, dù Chúa có cử họ đi bất cứ nơi đâu, họ cũng hoàn toàn vâng theoThánh Ý Ngài. Mỗi khi gặp khó khăn thử thách xảy ra là dịp để họ bộc lộ lòng yêu mến và tin tưởng vào Chúa.

Ngoài ra Chúa còn đòi hỏi các tông đồ phải có một thái độ kiên nhẫn, biết chịu đựng cả những gì mà xem ra mình không thể chấp nhận được. Có thể khi ra đi rao giảng Tin Mừng người tông đồ sẽ bị người đời từ chối. Nhưng kiên nhẫn chờ đợi với lòng tin tưởng và làm hết mọi việc với tâm sức vào việc Chúa giao, không bao giờ buông xuôi hay chạy trốn việc khó. Biết chấp nhận thực tại bị chối từ người tông đồ sẽ ra đi rao giảng Tin Mừng trong niềm vui tươi phấn khởi. Dù có bị người đời tẩy chay và cô lập hoàn toàn vì lối sống “ngược dòng đời “ của mình, nhưng người tông đồ không cảm thấy trống vắng. Chúa không những sai các ông ra đi, mà Ngài còn đi bên cạnh các ông trên đường sứ vụ. Chính Chúa sẽ lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của các ông.

“Khi anh em vào nhà nào làm được người ta đón tiếp thì ở lại cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em thì ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ’ Chỉ dẫn này cho thấy Chúa chỉ sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng chứ không phải là cưỡng bức, áp đặt người khác phải tin theo. Việc bây giờ các ông làm chỉ trông chờ vào bàn tay Chúa làm cho có kết quả mĩ mãn

Lời Chúa dạy các tông đồ năm xưa ngày nay vẫn đang thôi thúc mọi Kitô hữu. Chúa sai chúng ta ra đi đến với con người để sống như người anh em của mọi người. Dĩ nhiên không phải ai trong chúng ta cũng có hạnh phúc được đi đến những nơi xa xăm để rao giảng Tin Mừng như các thừa sai. Tuy nhiên sự ra đi của chúng ta của người Kitô hữu nằm ngay trong cuộc sống đức tin của mỗi người. Sự ra đi đó đặt vấn đề cho niềm tin của chúng ta khi chúng ta phải đương đầu những khó khăn, phải đối diện với những chọn lựa dứt khoát. Để chúng ta biết chọn lựa Chúa và thực hành những đòi hỏi gay gắt của Tin Mừng. Chúng ta không chạy theo tiền tài, danh vọng, chức quyền mà phải tìm kiếm chính Chúa. Chúng ta chỉ có thể giới thiệu Tin Mừng của Chúa cho những người chung quanh bằng một đời sống khiêm tốn, hiền lành và bác ái. Chúng ta sống khó nghèo qua việc chia sẻ vật chất, thăm hỏi. ủi an và kính trọng yêu thương tha nhân.

Lạy Chúa, Chúa đã đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Và Chúa còn chịu chết vì con người. Chúng con hiểu điều đó và hết lòng tin tưởng vào sứ mạng Chúa đã trao cho mỗi người chúng con là làm tông đồ giữa thời đại ngày nay. Xin cho chúng con biết giương cao những giá trị của Tin Mừng là hy sinh quên mình và yêu thương giữa một xã hộI ai cũng chạy theo hưởng thụ vật chất. Để nhờ đời sống của chúng con mà có them nhiều người nhận biết Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Chủ đề Chúa Nhật XV năm B này là Sứ Vụ. Sứ vụ đem lại cho người lãnh nhận sự cao cả, niềm hân hoan, nhưng cũng không thiếu nỗi buồn phiền, vị đắng cay.

Am 7: 12-15

Trong Bài Đọc I, ngôn sứ A-mốt, vốn xuất thân từ vương quốc miền Nam, vương quốc Giu-đa, được Thiên Chúa sai đi truyền đạt sứ điệp của Ngài cho dân chúng vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en. Sứ vụ thật khó khăn, dù bị trục xuất trở về vương quốc Giu-đa, nhưng ngôn sứ A-mốt cũng đã hoàn thành sứ vụ ngôn sứ của mình.

Ep 1: 3-14

Trong phần mở đầu thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho biết ý định muôn thuở của Thiên Chúa là cứu độ nhân loại. Thiên ý này được Đức Ki-tô mặc khải, hoàn thành và chuyển giao cho Giáo Hội.

Mc 6: 7-13

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ với lời căn dặn phải có tinh thần siêu thoát triệt để, cũng như báo trước những thất bại có thể có.

BÀI ĐỌC I (Am 7: 12-15)

Các sự việc diễn ra ở vương quốc miền Bắc, dưới triều đại của vua Gia-róp-am II (787-747 tCN)

  1. Hoàn cảnh lịch sử:

Để hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử ở đó ngôn sứ A-mốt được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình, xin được nhắc lại, sau khi vua Sa-lô-mon băng hà, vào năm 931 trước Công Nguyên, mười hai chi tộc Ít-ra-en chia rẽ nhau. Hai chi tộc vẫn trung thành với vương triều Đa-vít, tức vương quốc miền Nam, còn gọi là vương quốc Giu-đa. Mười chi tộc còn lại tách ra khỏi vương triều Đa-vít, tự chọn cho mình một vị vua mới, vua Gia-róp-am, và thiết lập vương quốc miền Bắc, còn gọi là vương quốc Ít-ra-en.

Vương quốc miền Nam có lợi thế là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối lại, vương quốc miền Bắc xây dựng hai đền thánh: đền thánh Ghin-gan thuộc cực bắc xứ Pa-lê-tin, và đền thánh Bết-Ên thuộc cực nam cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 15 cây số, ngỏ hầu dân chúng miền Bắc quên đi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đền thánh Bết-Ên có ưu điểm là nhắc nhớ tổ phụ Gia-cóp; chính ở nơi đây mà vị tổ phụ này đã có một giấc mơ được lưu truyền mãi (một chiếc thang nối liền trời với đất) trong đó ông đã nghe tiếng Đức Chúa phán. Vì thế vị tổ phụ đã gọi nơi nầy là Bết-Ên, nghĩa là “Nhà Thiên Chúa”.

Hai đền thánh nầy, cũng như các tư tế phục vụ chúng, hoàn toàn phụ thuộc vào vương triều, như ông A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-Ên, nói cho ngôn sứ A-mốt biết: “Đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều”.

  1. Sứ vụ của ngôn sứ A-mốt:

Vốn là người sinh trưởng ở vương quốc miền Nam, vị ngôn sứ đã được Thiên Chúa sai đến vương quốc miền Bắc để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình. Ngôn sứ xuất thân từ một thị trấn miền Bết-lê-hem; ông làm nghề chăn nuôi súc vật và chăm sóc vườn cây ăn trái, chính xác là châm những trái nho dại để làm cho chúng trở thành trái nho ngọt (phải chăng đây cũng chính là ý nghĩa sứ vụ ngôn sứ của ông?).

Sứ mạng của vị ngôn sứ gặp nhiều khó khăn. Ông phải ngỏ lời với dân chúng đang sống trong cảnh thanh bình, thịnh vượng và phú túc. Tuy nhiên, xã hội đầy dẫy những chuyện bất công. Những kẻ “lắm tiền nhiều của” liên kết với những kẻ “có thế có quyền” áp bức bóc lột những người nghèo hèn trong xứ. Sứ điệp của ngôn sứ gởi đến vương quốc miền Bắc thịnh vượng nầy thật nghiêm khắc: “Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật. Vậy, bởi các ngươi chà đạp kẻ yếu hèn và đánh thuế lúa mì của họ, nên những ngôi nhà bằng đá đẻo các ngươi đã xây, các ngươi sẽ không được ở; những gốc nho ngon ngọt các ngươi đã trồng, các ngươi sẽ không được uống rượu của chúng. Bởi Ta biết tội ác các ngươi nhiều vô kể, tội lỗi các ngươi nặng tầy trời: nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào áp bức kẻ nghèo hèn tại cửa công” (5: 10-12).

Vị ngôn sứ phẫn uất trước những lễ hội xa hoa, những đám rước linh đình của những kẻ làm giàu trên xương máu của những người nghèo hèn. Ông nhận thấy ở nơi những lớp vỏ thịnh vượng vật chất giả tạo bên ngoài là thực chất của một xã hội bất công thối nát. Vì thế, vào thời buổi nầy, cách xử thế khôn ngoan nhất là “Dĩ hòa vi quý”, nhắm mắt làm ngơ trước hiện trạng bất công xã hội mà mình đang sống: “Bởi thế thời buổi nầy, ai cẩn trọng thì làm thinh, vì đây là một thời khốn quẩn” (5: 13). Tuy nhiên, ngôn sứ A-mốt không như thế, ông đã nhân danh Thiên Chúa tuyên sấm tố cáo lối sống gian trá của vương quốc nầy: “Vào ngày Ta trị tội Ít-ra-en Ta sẽ triệt hạ các bàn thờ của Bết-Ên: các sừng của bàn thờ sẽ bị bẻ gãy và quăng xuống đất. Biệt thự mùa đông, biệt thự mùa hè, Ta sẽ triệt phá; điện ngọc đền ngà sẽ sụp đổ, lâu đài dinh thự cũng tan hoang” (3: 14-15).

  1. Sấm ngôn của A-mốt:

Thật ra, khi thấy hiểm họa xâm lăng của các đạo quân Át-sua, ngôn sứ A-mốt ra sức cảnh báo ngăm đe ngõ hầu vương quốc Ít-ra-en, vương quốc miền Bắc, có thể hồi tâm trở lại cùng Thiên Chúa của mình, thay đổi đời sống mà tránh khỏi án phạt: “Hãy tìm Đức Chúa thì các ngươi sẽ được sống”. Ngôn sứ A-mốt không nêu đích danh Át-sua, ông chỉ nói đơn giản “quân thù”: “Quân thù sẽ bao vây lãnh thổ, sẽ triệt hạ sức mạnh của ngươi, và đền đài của ngươi sẽ bị cướp phá…” (3: 11). Rảo khắp các thành thị và đền thánh, vị ngôn sứ cảnh báo: liệu Thiên Chúa sẽ gìn giữ dân của Ngài, nếu dân vẫn cứ ngoan cố trong tội ác của mình? Sấm ngôn của ông càng lúc càng vang dội lời cảnh báo ngăm đe: “Hãy tìm kiếm điều lành chứ đừng tìm điều dữ rồi các ngươi sẽ sống”. Sấm ngôn của ông được ứng nghiệm. Vương quốc miền Bắc bị tiêu diệt dưới những cuộc tấn công của quân Át-sua và biến mất vĩnh viễn khỏi lịch sử vào năm 721 trước Công Nguyên.

  1. Phẩm chất của ngôn sứ A-mốt:

Trước đó, tư tế A-mát-gia tố cáo ngôn sứ A-mốt với vua Gia-róp-am: “A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Ít-ra-en, và đất nước nầy không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì A-mốt nói như thế nầy: Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ” (7: 10-11). Trong đoạn trích hôm nay, tư tế A-mát-gia, hoặc thừa hành lệnh vua, hoặc nhân danh quyền của mình là tư tế lãnh đạo thánh địa Bết-Ên, truyền lệnh cho ngôn sứ A-mốt ra khỏi thánh địa nầy mà trở về vương quốc Giu-đa: “Nầy thầy chiêm ơi, Mời ông ra khỏi nơi này, cuốn gói về xứ Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm!”.

Tư tế A-mát-gia vu khống ngôn sứ A-mốt khi đồng hóa ông với các ngôn sứ mạo danh, những kẻ xem việc tuyên sấm như một nghề để làm ăn, để kiếm tiền. Trước lời vu khống nầy, ngôn sứ A-mốt đáp lại: ông không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải xuất thân từ trường lớp ngôn sứ, nhưng chỉ là người chăn súc vật và chăm sóc vườn cây. Chính Đức Chúa “đã bắt lấy” ông khi ông đang làm công việc thường ngày của mình, nghĩa là, chính Thiên Chúa đã gọi ông và sai ông đi thi hành sứ vụ của Ngài mà ông không thể cưỡng kháng được. Đó là cứu thoát dân Ít-ra-en khỏi án phạt của Thiên Chúa sắp đến.

  1. Sự nghiệp của ngôn sứ A-mốt:

Phải chăng lệnh truyền của tư tế A-mát-gia đã chấm dứt sự vụ của ngôn sứ A-mốt? Chúng ta không biết chính xác; nhưng xem ra sứ vụ ngôn sứ của A-mốt chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, sứ điệp của ông vẫn lưu danh muôn thuở.

Ngôn sứ A-mốt là vị ngôn sứ bút ký sớm nhất mà sứ điệp của ông vẫn còn được bảo tồn bằng văn tự cho đến ngày nay. Ông đã khai sáng “độc thần giáo luân lý”, đây là nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ Ít-ra-en: “đưa đạo vào đời”. Ở nơi sứ điệp của ông, chúng ta gặp thấy âm vang lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thật sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thật vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được quy tụ trong Chúa Ki-tô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi đem đến cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên đới mật thiết với loài người và lịch sử loài người” (Vui Mừng và Hy Vọng, số 1).

BÀI ĐỌC II (Ep 1: 3-14)

Thánh Phao-lô đã viết bức thư nầy khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Chủ đề của bức thư là ý định muôn thuở của Thiên Chúa không gì khác hơn là cứu độ nhân loại. Thiên ý này được Đức Giê-su mặc khải, hoàn thành và chuyển giao cho Giáo Hội.

  1. “Chúc tụng Thiên Chúa…”

Đoạn văn mà chúng ta đọc là phần đầu của bức thư ngay sau lời chào hỏi mở đầu. Thánh nhân diễn tả tâm tình tạ ơn theo cách thức cầu nguyện của truyền thống Do thái, được gọi “berakah”: “Chúc tụng Thiên Chúa”. Dù với tư cách cá nhân hay cộng đoàn, lời nguyện nầy bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, không trừu tượng, nhưng luôn luôn vì những ân phúc rõ ràng. “Lời chúc tụng” nầy có thể là lời cầu nguyện tự phát cá nhân, điển hình như những lời kinh nguyện của bà An-na, mẹ ông Sa-mu-en, của ông Tô-bi-a, của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đây cũng là lời kinh nguyện gia đình trước bữa ăn và đặc biệt long trọng vào bữa ăn Vượt Qua. Đức Giê-su đã đọc “lời chúc tụng” trên bánh và rượu. Sau cùng, lời chúc tụng là hình thức tuyệt vời nhất của kinh nguyện hội đường.

Thánh Phao-lô, trước đây là một Pha-ri-sêu, vẫn trung thành với hình thức chúc tụng nầy. Toàn bộ bài thánh thi nầy kể ra muôn phúc lộc mà Thiên Chúa đã tuôn xuống cho nhân loại. Thánh nhân cũng bắt đầu thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô theo cùng một cách như vậy: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, và là Thiên Chúa hằng sẳn lòng ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó…” (2Cr 1: 3).

  1. Ý định muôn thuở của Thiên Chúa:

Trước tiên, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Thiên Chúa là nguyên lý và nguồn mạch của muôn phúc lộc mà Ngài đã chuẩn bị kế hoạch muôn thuở của Ngài trên nhân loại.

Chúng ta ghi nhận rằng “lời chúc tụng” này được xây dựng theo kỷ thuật đóng khung rất quen thuộc với thánh Phao-lô, bắt đầu: “Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (1: 3) và kết thúc: “Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã nghe chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một khi đã tin, anh em đã được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (1: 13-14). Như vậy, lời chúc tụng này bắt đầu trong Đức Ki-tô, trong Ngài Thiên Chúa ban xuống muôn vàn phúc lộc của Thánh Thần cho chúng ta, để rồi kết thúc cũng trong Đức Ki-tô mà chúng ta nghe được Tin Mừng cứu độ và cũng trong Đức Ki-tô mà Thiên Chúa đóng ấn chúng ta bằng Thánh Thần, là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta. Nói theo ngôn ngữ của Tin Mừng Gioan: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1: 16).

  1. Đức Ki-tô và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa:

Trong nhiệm cục xưa, mọi sự đều nhằm chuẩn bị cho cuộc giáng trần của Đức Ki-tô; trong nhiệm cục mới, mọi sự đều khởi đi từ Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô đặt ở trung tâm lời chúc tụng của mình công trình cứu độ của Đức Ki-tô. Chính nhờ Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, mà kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện. Việc mặc khải thiên ý mầu nhiệm nầy là một sự khai mở diệu kỳ, cao vời khôn ví, vượt quá sự khôn ngoan thông hiểu của loài người (chúng ta nhận ra ở đây một đề tài rất tâm đắc của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô nầy).

Sau cùng, thánh nhân gợi lên vai trò của Đức Giê-su, “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô”. Ở đây, động từ Hy lạp “quy tụ” được thánh Phao-lô dùng một lần khác trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma để nói lên rằng giới luật Đức Ái“thâu tóm” tất cả mọi giới luật khác (Rm 13: 9). Trong đoạn trích này, ý nghĩa cũng như vậy. Đức Giê-su“thâu tóm” toàn thể vũ trụ vì ở nơi Người mà muôn loài trên trời dưới đất đều quy hướng về Người để gặp thấy sự hiện hữu của chính mình và ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Theo sau thánh Phao-lô, động từ “thâu tóm” đã đi vào trong từ vựng thần học, nhất là với thánh I-rê-nê, và trở thành đối tượng của biết bao sự khai triển.

Nói một cách chính xác, thánh Phao-lô không gán cho Đức Ki-tô vai trò vũ trụ, nhưng triển khai khái niệm “Nhiệm Thể”. Theo cách nầy, thánh nhân chống lại vũ trụ quan của Do thái như trong thư gởi các tín hữu Cô-lô-xê, đồng thời cũng chống lại vũ trụ quan của phái khắc kỷ. Quả thật, trong vài môi trường Do thái, người ta gán cho các thiên thần một vai trò đặc biệt và xem các ngài là những người tổ chức và điều hành vũ trụ. Các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo duy trì những niềm tin như thế có nguy cơ giảm nhẹ vai trò của Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô sửa sai vũ trụ quan này. Đối với phái khắc kỷ, họ thấy sự hòa điệu và trật tự của vũ trụ qua tác động của sức mạnh thần thiêng. Những biểu ngữ của thánh Phao-lô rất gần với phái khắc kỷ, nhưng thánh nhân loại bỏ tất cả khuynh hướng phiếm thần. Về điểm nầy, thánh nhân định vị tư tưởng của mình vào trong truyền thống minh triết Cựu Ước, nghĩa là thánh nhân mượn vài đề tài ở nơi trường phái khắc kỷ, nhưng định vị chúng vào trong viễn cảnh của Đức Chúa cao siêu mầu nhiệm (Hc 43: 26-28; Kn 1: 7; 7: 22-23; 12: 1, vân vân).

  1. Kế hoạch của Thiên Chúa được diễn tiến trong lịch sử: 

Lúc đó, thánh Phao-lô nhắm đến kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại được diễn tiến trong lịch sử, được gọi Lịch Sử Cứu Độ. Lịch sử cứu độ này được bày tỏ qua ba giai đoạn: Chúa Cha hoạch định, Chúa Con thi hành, Chúa Thánh Thần tác động.

Trước tiên, thánh nhân gợi lên việc tuyển chọn Ít-ra-en, dân Chúa chọn, để làm nhân chứng về việc trông đợi Con của Ngài. Ở đây, thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu gốc Do thái mà ngài kể mình vào trong số họ với đại từ “chúng tôi”: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Ngài, đã tiền định cho chúng tôi đây…”. Tiếp đó, thánh nhân nói với các Ki-tô hữu gốc lương dân bằng đại từ “anh em”: “Trong Đức Ki-tô cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em…”. Sau cùng, thánh nhân đề cập đến việc Chúa Cha sai phái Chúa Thánh Thần một cách nào đó như là thực hiện lời cam kết theo đó Ngài đã hứa ban gia nghiệp, nghĩa là được sống bên Ngài để “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa”.

Diễn ngữ “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” lập lại đến ba lần (1: 6, 12, 14) như một điệp khúc trong lời chúc tụng nầy. Đó là mục đích tối hậu của kế hoạch Thiên Chúa: đó là cứu cánh của nhân loại.

TIN MỪNG (Mc 6: 7-13)

Trong chương trước, thánh Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su chọn nhóm Mười Hai và xác định sứ vụ của họ: “Người thiết lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (3: 14). Thánh Lu-ca tường thuật cùng một sự kiện và nói thêm: “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6: 13). Thật ra, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đã tránh dùng danh xưng “Tông Đồ” cho các môn đệ, trong khi thánh Gioan không bao giờ dùng thuật ngữ nầy, vì “Tông Đồ” tức là “người được sai đi” mà chỉ mình Đức Giê-su xứng đáng với danh xưng này: Người là Đấng được Chúa Cha sai đi. Chung chung, các thánh ký thường nói: “nhóm Mười Hai” hay đơn giản “các môn đệ”.

  1. Nguồn gốc sứ vụ của các môn đệ: 

Sau một thời gian chuẩn bị: “nhóm Mười Hai” đã sống với Người, đã nghe giáo huấn của Người và được Người giải thích mọi điều, đã thấy quyền năng của Người qua các phép lạ của Người, cũng như những thất bại của Người như ở Na-da-rét, Đức Giê-su cho rằng đã đến lúc đặt các ông vào trong thử thách khi sai các ông đi thi hành sứ vụ.

Thái độ nầy của Đức Giê-su thật sự là mới mẽ. Vào thời của Người, các kinh sư quy tụ chung quanh mình một nhóm môn đệ để chia sẻ cuộc sống của thầy; tuy nhiên, họ không bao giờ nghĩ đến việc sai các môn đệ ra đi và ủy quyền cho họ thi hành sứ vụ. Chính Đức Giê-su đích thân sai các ông đi và ủy quyền cho các ông thi hành sứ vụ, như sau nầy Người sẽ nói với họ trước khi từ giả các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em đi” (Ga 20: 21).

  1. Sai đi từng hai người một:

Chúa Giê-su sai các ông đi từng hai người một. Thánh Mát-thêu đã bảo tồn cho chúng ta nhóm từng hai người một nầy: Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, Phi-líp-phê và Ba-tô-lô-mê-ô, Tô-ma và Mát-thêu, Gia-cô-bê và Ta-đê-ô, Si-mon và Giu-đa.

Có phải ở đây Đức Giê-su quan tâm đến tâm lý? Chắc chắn, công việc dễ dàng hơn nếu có hai người cùng nhau bàn bạc, bổ sung cho nhau và giúp đỡ nhau trên dặm đường truyền giáo; nhưng con số “hai” cũng là biểu tượng cộng đoàn, nghĩa là các vị thừa sai không làm việc đơn lẻ một mình, nhưng làm việc cùng nhau theo từng nhóm. Ngoài ra, theo quy định của Lề Luật, một lời chứng chỉ có giá trị nếu có hai nhân chứng (x. Đnl 17: 6; 19: 15; Ds 35: 30). Các môn đệ sẽ làm chứng từng hai người một về những dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa: trước hết, quyền năng trên những thế lực sự Dữ; thứ nữa, siêu thoát khỏi những bận lòng trần thế để nhắm đến những của cải tinh thần.

  1. Hành trang của vị thừa sai.

Những căn dặn của Đức Giê-su cho các vị thừa sai nhắm đến hành trang thật gọn nhẹ, hay đúng hơn không trang bị gì cả: không lương thực, không bao bị, không tiền giắc lưng, không áo để thay đổi. Có vài chi tiết khác biệt giữa các Tin Mừng Nhất Lãm, tuy nhiên bài học thì rõ ràng: đức khó nghèo và sự phó thác hoàn toàn vào ơn Quan Phòng phải là những dấu ấn mà các vị thừa sai để lại trong lòng mọi người. Phong thái của họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không vương vấn bất cứ điều gì cả. Họ được mô tả như những lữ khách luôn luôn sống trong tư thế lên đường, không tìm cách định cư ở một nơi nào nhất định, bởi vì còn có những nơi khác nữa cần đến sứ điệp của họ. Vào lúc dùng bữa sau cùng với các môn đệ, Đức Giê-su sẽ hỏi các ông: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Mọi người đồng thanh đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).

Quả thật truyền thống hiếu khách Đông Phương tạo cơ hội thuận tiện cho việc thi hành sứ vụ của các các môn đệ lữ hành. Tuy nhiên, Đức Giê-su căn dặn họ một sự ổn định nào đó: “Khi anh em vào nhà nào mà người ta đón tiếp, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi”.

  1. Giũ bụi chân:

Vì là những người được sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ được hưởng quyền được tiếp đón một cách vô vị lợi từ những gia đình mà họ viếng thăm. Nhưng Đức Giê-su cũng tiên liệu sứ điệp kêu gọi hoán cải mà họ rao giảng có thể có những người khước từ: “Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”.

Đây là tập tục của người Do thái sau cuộc hành trình trở về. Khi đặt chân lên miền đất Pa-lét-tin, họ giũ bụi đường khỏi giày dép để không đưa bụi phàm trần vào đất thánh của mình. Trong lời căn dặn của Đức Giê-su, không có bất kỳ một sự khinh bỉ nào đối với những người khước từ sứ điệp, nhưng hành động “giũ bụi chân” nói lên sự tuyệt giao.

Lời rao giảng của các môn đệ chưa trọn vẹn vì họ chưa rao giảng con người của Đức Giê-su – vả lại vào giây phút này họ chưa có thể hiểu đầy đủ về Ngài – nhưng chỉ chuẩn bị các tâm hồn: kêu gọi hoán cải. Như Đức Giê-su, lời rao giảng của họ kèm theo những dấu chỉ: trừ quỷ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành bệnh tật.

  1. Xức dầu bệnh nhân:

Vào thời Cựu Ước, người ta xức dầu để làm dịu vết thương; các tông đồ xức dầu, không như một phương thuốc, nhưng như dấu chỉ biểu tượng của một tác động siêu nhiên. Công Đồng Tren-tô đã thấy trong cử chỉ của các tông đồ nầy một trực giác, một phác thảo bí tích xức dầu bệnh nhân. Thư thánh Gia-cô-bê chứng thực rằng bí tích nầy đã được thực hành ngay từ thời các tông đồ: “Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội , thì sẽ được Chúa tha thứ” (Gc 5: 14-15).

Bệnh nhân được chữa lành, ma quỷ bị trục xuất, những cử chỉ này của các thừa sai được ghi khắc trên cùng bình diện với các cử chỉ của Đức Giê-su. Các sự dữ được gán cho tội lỗi, vì thế, việc chúng bị giảm đi loan báo thời đại lòng xót thương của Chúa.

  1. Ý nghĩa:

Bài diễn từ sai các môn đệ lên đường nầy rất cổ kính vì mang đậm nét các phong tục thời xưa. Tuy nhiên, sứ điệp của nó rất hiện thực. Tin Mừng được truyền bá bằng những cuộc sống đơn sơ giản dị và trao ban một cách vô vị lợi, vì thế, mời gọi mọi người đón nhận nó cũng một cách vô vị lợi. Sứ điệp được đi kèm theo các dấu chứng chiến thắng của Đức Ki-tô trên sự Ác và Tử Thần là sứ điệp muôn thuở của bài trình thuật cổ kính nầy.

Về mục lục

.

CHÂN DUNG NGƯỜI ĐƯỢC SAI ĐI

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Ai là những người được sai đi?

Hằng năm cứ vào dịp hè về, các Chủng viện, các Hội Dòng tại Việt Nam thường có những tổ chức cắt cử người thụ huấn đi thực tập mục vụ, truyền giáo, với các văn thư sứ vụ hay còn gọi là “bài sai”. Hình như tâm trạng chung là vừa hí hững khi được dịp khẳng định mình và vừa hồi hộp không biết mình sẽ đi đâu và làm việc gì. Cần khẳng định rằng không phải chỉ có các linh mục, chủng sinh, thỉnh sinh, tập sinh hay tu sĩ nam nữ mới là những người được sai đi.

Những người được sai đi phải là những người được Thiên Chúa chọn gọi. Ngôn sứ Amốt đã trả lời với tư tế Amatgia cách tượng hình rằng: “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật…”(Am 7, 15). Thánh sử Maccô ghi rõ “Khi ấy Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai và bắt đầu sai đi từng hai người một…”(Mc 6,7). Có thể nói rằng bất cứ ai là Kitô hữu cũng đều được sai đi, đặc biệt khi đã lãnh nhận hồng ân Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức để sống đời Kitô hữu cách trưởng thành, nghĩa là với sự ý thức, tự giác và tinh thần trách nhiệm. Một người dân quê, chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung như Amốt cũng được sai đi. Tất thảy là vì “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1, 4).

Được sai đi để làm những gì?

Chúng ta có thể liệt kê một vài công việc của người được sai đi như sau: Trước hết là nhân danh Chúa truyền đạt ý định của Chúa cho tha nhân. Đây chính sứ vụ làm ngôn sứ mà Cựu ước thường gọi là đi tuyên sấm hay đi nói tiên tri và Tân ước thường gọi là đi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Công việc của người được sai đi còn là xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, nghĩa là thi ân giáng phúc cả phần hồn lẫn phần xác cho nhân trần.

Một định luật dường như là tất yếu: Không ai có thể trao ban những gì mình không có. Để thực thi những điều, những việc vượt lẽ thường tình, thì những người được sai đi phải có khả năng cách nào đó cũng như phương tiện nào đó. Nhìn vào danh sách của Nhóm Mười Hai thì người ta có quyền nghi ngại về khả năng tự bản thân các ngài. Hơn nữa, khi các ngài được sai đi thì như với hai bàn tay trắng. Không tiền bạc, không lương thực, không bao bị, trên thân chỉ mỗi một manh áo, dưới chân chỉ có đôi dép và chiếc gậy trên tay, thế thì các ngài dựa vào đâu để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, rao giảng tin mừng và kêu gọi người ta ăn năn sám hối? Câu trả lời là đây: Chúa Giêsu ban cho các ngài quyền trên các thần ô uế (6,7).

Một nguồn lực để thực thi sứ mạng tông đồ: Có quyền trên các thần ô uế.

Có quyền trên một ai đó là ta thực sự làm chủ trên họ, ra lệnh cho họ và họ phải tuân theo. Thử hỏi các thần ô uế là những ai? Nếu cho rằng đó là thần dữ, là ma quỷ thì ít ai dám phản đối. Thế nhưng, người mà thần ô uế đành tuân lệnh thì phải Đấng Thánh của Thiên Chúa (x.Mc 1,23-24). Thần ô uế xét như là thế lực bên ngoài thì chính là ma quỷ. Chúng ta tin nhận Chúa Giêsu đã ban quyền cho các Tông đồ cách nào đó trên thế lực này. Xưa lẫn nay, cũng có nhiều đấng được thông ban ơn trừ quỷ. Tuy nhiên số các vị này rất ít. Thế thì những người khác không có ơn này thì không được sai đi để thi hành sứ vụ tông đồ ư? Dễ dàng trả lời là không phải như thế. Thử hỏi có mấy ai dám to gan cho rằng mình đủ khả năng đương đầu với ma quỷ? Trước kẻ thù bên ngoài như “sư tử gầm thét”, thì chúng ta không dám coi thường (x.1 P 5,8), nhưng chúng ta rất có thể xao lãng kẻ nội thù.

Vậy cần phải xem xét thêm một thứ thế lực ô uế bên trong con người chúng ta. Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định những cái bên trong phát xuất ra làm cho người ta ra ô uế đó là “tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc 7,21). Có quyền trên các thần ô uế thì cũng có nghĩa là làm chủ các khuynh hướng xấu, các ý định xấu, các việc làm xấu xa ở trên. Một điều chắc chắn rằng để được sai đi và có khả năng thực thi sứ mạng, thì người đựơc sai phải làm chủ một cách nào đó những cái bên trong vốn có thể làm chúng ta ra ô uế.

Đó đây có thể thiếu người được sai đi, nhưng ở Việt Nam hiện nay thì có thể nói vẫn chưa thiếu nếu không muốn nói là còn thừa. Với những người được sai đi thì Thiên Chúa không bao giờ dè sẻn ân ban. Thế nhưng, những người được sai đi có thực thi được sứ mạng hay thực hiện sứ mạng cách tốt, xấu ra sao, thì vẫn còn tùy ở việc họ có làm chủ được các thần ô uế bên trong, nghĩa là làm chủ những xung lực xấu ở bên trong, khả dĩ có thể làm cho họ ra ô uế như thế nào.

Về mục lục

.

MƯỜI HAI CHI TỘC

Lm Vũdình Tường

Kinh Thánh ghi lại lịch sử của mười hai con cháu ông Jacob trở thành Mười Hai Chi Tộc Israel, dân riêng Chúa. Mười hai chi tộc bắt đầu từ một đại gia đình. Chính tên Jacob cũng do Chúa đặt cho. Tên của 12 chi tộc đó là: Reuben, Simeon, Judah, Issachar, Zebulun, Benjamin, Dan, Naphtali, Gad, Asher, Ephraim và Manasseh. Sáng Thế Ký 9.

Khi Jacob định cư đất Aicập cũng là lúc lịch sử Israel được thành lập. Trên núi thánh Sinai Thiên Chúa ban cho họ lề luật và đó là lề luật của cả một dân tộc ghi lại trong sách Torah. Lề luật bị coi thường, việc thờ phượng lơ là, xa dời Thiên Chúa, đời sống đồi trụy trở thành nô lệ thói hư tật xấu bản thân sau đó là nô lệ cho Pharaoh. Thiên Chúa sai Môisen đến cứu họ và dân này lưu đầy bốn mươi năm trong sa mạc trước khi đến miền đất hứa. Tại đây mỗi chi tộc chiếm một vùng đất do chi tộc trưởng lãnh đạo và tất cả dưới quyền lãnh đạo chung của Saul và thầy cả thượng phẩm Eli. Nội chiến xảy ra và các bô lão ủng hộ David và David trở thành vua. Sau khi David chết Solomon thay cha lãnh đạo. Sau khi Solomon chết, Nam Bắc phân tranh chia đất nước làm hai. Lãnh thổ phía Bắc nhận là Israel; lãnh thổ phía Nam thành Judah.

Thời Tân Ước Đức Kitô cũng chọn mười hai tông đồ tạo dựng nước Thiên Chúa nơi trần gian. Chính Đức Kitô đã chọn họ và đặt tên cho một số các môn đệ, huấn luyện và sai họ đi rao giảng Tin Mừng và sau đó là Tin Mừng Phục Sinh. Ai tin và nhận phép thanh tẩy: Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, người đó trở thành dân riêng của Thiên Chúa, trở thành anh chị em trong Đức Kitô và trở thành Dân Tư Tế, thừa hưởng gia nghiệp Đức Kitô trao ban, là kẻ thừa tự trong đại gia đình Chúa. Là kẻ thừa tự, hưởng gia nghiệp Chúa bởi chính Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ban sự sống trường sinh cho những ai tin theo, sống tinh thần mến Chúa, yêu tha nhân. Trong nước Đức Kitô chỉ có một lề luật đó là luật yêu thương bởi chính Đức Kitô xác định: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau.Gn 15,12

Đức Kitô thiết lập Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Ngài trao quyền điều hành cho thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi và những kẻ kế tiếp điều hành Giáo Hội trần thế theo tinh thần của Đức Kitô, Ngài là đầu và các Kitô hữu là thành phần của thân thể Kitô. Giáo hội trần thế nhận sức mạnh và sự khôn ngoan của Thánh Thần Chúa, lắng nghe và thực thi lời hướng dẫn của Thánh Thần. Dân Israel chịu lưu đầy bốn mươi năm trong sa mạc truớc khi tiến vào miền đất hứa. Dân Đức Kitô không phải lưu đầy mà là những người lữ hành suốt cuộc sống trần gian. Trở thành người lữ hành để họ tìm kiếm người khác cùng đồng hành với họ rao giảng Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh. Trước khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ rao giảng kêu gọi mọi người thống hối để đón nhận nước Thiên Chúa đang đến. Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, họ là sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh, là anh chị em sống trong đại gia đình Chúa. Người lãnh đạo dân Chúa mang tinh thần của Đức Kitô, tinh thần đó là “đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” Mat 20,28. Chính Đức Kitô xác nhận điều đó và thực thi trong cuộc sống rao giảng của Ngài. Phục vụ trong tinh thần khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Khiêm tốn, yêu thương, phục vụ là yếu tố căn bản chọn người lãnh đạo dân Chúa. Khi người lãnh đạo thực sự mang tinh thần trên của Đức Kitô thì việc tranh giành quyền lực sẽ không còn bởi họ được kêu gọi để phục vụ, để nhận ra khuôn mặt Đức Kitô nơi người họ phục vụ và nhận biết sự sống là lành thánh vì do Chúa ban.

Về mục lục

.

CĂN TÍNH VÀ TINH THẦN CỦA NGƯỜI THỪA SAI

Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ngày nay, trên thế giới, người ta đang rất quan tâm và thán phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trân trọng không hẳn vì ngài khôn ngoan cho bằng nhân đức của ngài vượt trội. Một trong những đức tính tuyệt vời mà nhiều người nhận ra, đó là đức tính khiêm nhường, can đảm và nghèo khó. Vì thế, ngài đơn sơ, giản dị, dễ gần, luôn cảm thông cho người tội lỗi, nâng đỡ những người bất an, bảo vệ những người bị áp bức, và nhất là luôn thương cảm với người nghèo.

Ngài thực là người mục tử mẫu mực, luôn “cảm thấu” và “ngửi” thấy mùi chiên.

Hôm nay, phụng vụ Lời Chúa cũng làm toát lên những đặc tính cần phải có nơi người môn đệ.

  1. Ý nghĩa Lời Chúa

Bài đọc I, trích sách Amos, thuật lại việc ngôn sứ Amos  bị mời đi nơi khác hoạt động, vì nơi đó, người ta không muốn ngài hiện diện. Tuy nhiên, vị ngôn sứ này rất chân thành, đơn sơ, nghèo khó và can đảm xác tín mạnh mẽ về ơn gọi của mình đến từ Chúa và sứ mạng ông đang thực thi cũng là do chính Chúa chỉ định. Khi xác tín như thế, ông đã trung thành và quả cảm ở lại ngay tại nơi “nước sôi lửa bỏng” để loan báo sứ điệp mà Thiên Cháu muốn ông thi hành.

Với bài đọc II, thánh Phaolô tuyên tín mạnh mẽ và gợi lại cho dân về ơn gọi của mỗi người cách nhiệm mầu trong tình thương của Thiên Chúa từ trước cả khi tạo dựng đất trời.

Điều cao quý nhất, đó là trong Đức Giêsu, mỗi người được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa và được cứu chuộc nhờ máu của Con của Người đã đổ ra trên thập giá để giải thoát khỏi tội lỗi và ban cho chúng ta sự sống thần linh.

Ân huệ này phải được chúng ta cảm nghiệm và loan truyền cho mọi người được thấy.

Cuối cùng, thánh sử Máccô thuật lại việc Chúa gọi và chọn mười hai Tông đồ, rồi nhắn nhủ các môn sinh của mình trước lúc lên đường những điều cốt lõi, trọng tâm.

Tin Mừng thuật lại: Đức Giêsu trao cho các ông quyền trên mọi thần ô uế, để các ông chữa lành và củng cố lời giảng của mình, hầu cho lời giảng có giá trị và thuyết phục, đồng thời để lời nói và hành động không bị mâu thuẫn.

Từ bài Tin Mừng, chúng ta có thể hiểu về lời căn dặn của Đức Giêsu trước khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng như sau:

Trước tiên là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng, kêu gọi thống hối chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.

Thứ hai là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, bám chặt lấy Thiên Chúa, trao phó mọi sự nơi Ngài. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Và đừng quá lo lắng về vật chất, bởi vì: Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho (Helder Camara).

Thứ ba là thái độ của người được sai đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên”  “mang mùi chiên nơi mình”, luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh vì phần thưởng của người thừa sai trên trời thật lớn lao.

Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội đầy nhiễu nhương, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Quan điểm, lập trường của một số người mọi thời là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin…. Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng. Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy… nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và, cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người thừa sai. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.

Tuy nhiên, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo củng cố bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.

Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và, phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.

Cuối cùng, lời chào của người ra đi: là lời chúc bình an của Chúa chứ không phải là những gợi ý, mong muốn để được nâng đỡ cách này hay cách khác mang tính phàm tục.

  1. Tin Mừng cho người nghèo

Từ những suy niệm trên, chúng ta thấy, Đức Giêsu rất quan tâm đến tinh thần của người môn đệ. Một trong những điều mà Ngài quan tâm hơn cả, đó là tinh thần nghèo khó của người được sai đi. Tinh thần nghèo khó có nghĩa là chỉ gắn bó với sự giàu có của Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Ngài đã không gọi những người giàu có, tài ba lỗi lạc, mà đa phần là những người nghèo, tội lỗi để loan báo Tin Mừng. Có thế, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: hành trang các ông mang theo trên đường truyền giáo là trái tim, sự khiêm nhường và lòng phó thác.

Mặt khác, khi chọn người nghèo và tội lỗi là đối tượng chính yếu để loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn cho mọi người nhận thấy rằng: người nghèo chính là tài sản của Giáo Hội.

Từ ơn gọi của các Tông đồ đến đối tượng của sứ vụ các ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa, mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng đều là những nhà thừa sai đúng nghĩa. Vì thế, tiên vàn, mỗi người Kitô hữu phải xác tín căn tính của mình là thuộc về Chúa và phải truyền giáo. Không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất và không còn là người Kitô hữu đúng nghĩa. Có chăng chỉ là cái xác không hồn hay chỉ có tên tuổi trong sổ Rửa Tội!

Noi gương Vị Thừa Sai Vĩ Đại là Đức Giêsu, chúng ta truyền giáo bằng đời sống tốt lành, gương mẫu. Nhất định không bao giờ trở thành cái phèng la làm điếc tai thiên hạ, hay giống như cái thùng kêu to nhưng bên trong rỗng tuếch. Đời sống cầu nguyện, nghèo khó và sự khiêm tốn là nền tảng cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Đối tượng chính yếu của công cuộc này là người nghèo.

Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi: “Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa cho việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, và giúp họ là thành viên đầy đủ của xã hội” (số 187). Ngài quả quyết thêm: “Trong trái tim của Thiên Chúa có môt chỗ đặc biệt cho người nghèo, vì chính Thiên Chúa “đã trở nên nghèo khó” (x. 2 Cr 8,9; số 197). Nói như Paula Hoesi: “Nếu sự ham muốn của cải thế gian lấp đầy con tim tôi thì thử hỏi đâu còn chỗ dành cho Thiên Chúa?.

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng: Giáo Hội thực sự trung tín với Thiên Chúa khi Giáo Hội khiêm nhường, khó nghèo và tín thác. Xin cho mọi thành phần dân Chúa luôn sống tinh thần ấy khi loan báo Tin Mừng để Lời Chúa không bị bóp méo nơi những người loan báo. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG

Lm. John Nguyễn.

Quê hương mỗi người chỉ một như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nỗi thành người. ( thơ Đỗ Trung Quân).

Trong trái tim của mỗi con người, tình yêu quê hương là điều thiêng liêng. Khi đi xa quê hương, ta nhớ về lũy tre làng, nhớ dòng sông, cánh đồng, vì nó được gắn liền với tuổi thơ. Khi xa quê hương lòng người càng thêm nhớ thương. Xa quê hương nhớ mẹ hiền, nhớ cha, nhớ anh chị, nhớ mái trường, thời cắp sách đến trường, nhớ tình làng nghĩa xóm. Quê hương được ví như dòng sữa mẹ nuôi ta khôn lớn. Quê hương được khắc ghi trong trái tim mọi người khi đi xa, ta càng nhớ quê hương. Nếu ai không nhớ thì không lớn nỗi thành người.

Theo dòng chảy tình yêu quê hương dạt dào, nó gợi lại cho ta bao nhớ thương quê nhà. Chúa Giêsu cũng có những tâm trạng nhớ thương quê hương của mình, Ngài đã trở lại làng Nazaret nơi Ngài lớn lên. Đó là nỗi niềm của mỗi con người khi xa quê hương. Nhưng lần trở về này, Chúa Giêsu bị thất bại. Ngài bị người anh em đồng hương từ chối. Chúng ta thắc mắc tại sao họ lại khước từ đón tiếp Chúa Giê-su, mặc dù Ngài đã làm nhiều phép lạ cho họ.

Lý do thứ nhất là vì gia thế của Chúa Giêsu. Khi nhìn thấy Chúa Giêsu giảng dạy một cách khôn ngoan, thì dân chúng lại bảo: “ Ông ấy không phải là con ông bác thợ mộc và bà Maria.” Lời họ nói mang tính mỉa mai, coi thường gia thế của Chúa Giê-su. Một gia đình nghèo khó, chẳng có tiếng tăm. Người Việt Nam có câu: “Bụt nhà thông thiêng là vậy.” Họ biết gia thế của Chúa Giê-su nên họ chẳng có gì là ngạc nhiên bởi lời giảng dạy khôn ngoan của Ngài. Chúa Giêsu không có học vị cao như các tiến sĩ luật, các kinh sư, hàng tư tế trong đền thờ.

Chúa Giê-su đã thấu hiểu lòng họ, Ngài nói: “ Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Thật là đau lòng, một con người yêu quê hương tha thiết, ấy thế mà Ngài không làm được gì tại quê hương mình. Đáng lẽ họ được hưởng phúc lộc từ các phép lạ nơi Chúa Giê-su. Con mắt thị phi làm cho họ trở nên mù lòa khi đánh giá nhau qua dáng vẻ bên ngoài, qua gia thế và địa vị. Đó là một sự sai lầm mà nhiều mắc phải. Điều sâu xa của sự đánh giá đó, nó nói lên sự kiêu ngạo, xem thường người khác, coi mình trọng hơn người khác. Người ấy có gì hay đâu. Họ tự đề cao chính mình nên họ không đón nhận tài năng của người khác và cũng không muốn người khác hơn mình vì tính ghen tỵ.

Lý do thứ hai họ loại trừ Chúa Giêsu là vì thành kiến. Khi Ngài nói thẳng mặt với các tư tế, kinh sư và dân chúng biết lý do tại sao các phép lạ chỉ xẩy ra cho dân ngoại tại Ca-phác-na-um mà không xẩy ra cho dân It-ra-el. Chúa Giê-su đã vạch trần sự thật điều họ làm trong thời các tiên tri. Bởi vì, họ cố chấp, tự cao tự cho mình là người đạo đức thánh thiện hơn người, đúng hơn là do tội kiêu ngạo. Khi Chúa nói lời này, nó đã đụng chạm đến lòng tự ái dân tộc, họ phẫn nộ, tìm cách trục xuất Chúa Giêsu ra khỏi thành.

Thành kiến đã có sẵn trong họ, họ đã có ác cảm và đối nghịch với Chúa Giêsu về đường lối giảng dạy, về cách giữ đạo. Đó là lý do để họ loại trừ Chúa Giê-su ra khỏi quê hương của họ. Một khi chúng ta dán cho ai vào cái nhãn hiệu, thì ta đóng khung họ trong cái suy nghĩ hạn hẹp của mình. Nó đánh mất đi mối tương quan với người khác, dù họ có làm điều tốt, ta cũng không đón nhận hay đánh giá khách quan về họ. Định kiến là mối nguy hiểm có thể giết chết tài năng của một người nào đó. Vì ta đóng đinh họ vào cách suy nghĩ của mình. Cũng vậy dân chúng có thành kiến với Chúa Giê-su khi Ngài nói lên sự thật. Sự thật thì dễ mất lòng. Từ thành kiến với việc làm của Chúa Giêsu, họ nói rằng: “Ông ta khôn ngoan như vậy nghĩa là sao? Họ chưa hiểu được Chúa Giê-su là ai, đang làm gì cho họ.” Ông ta không phải là người hàng xóm của chúng ta sao?. Người ta thường nói, “Quen quá hóa nhàm” “ Gần Chùa gọi bụt bằng anh” nên Chúa Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở quê hương của mình.”

Tóm lại, trong cuộc sống trần gian này có nhiều nơi để cho chúng ta đi, nhưng đi đâu rồi chúng ta cũng phải trở về: về với gia đình, về với chính mình, về với căn tính của mình, về với Thiên Chúa của mình. Trở về để biết mình đang đi đâu và về đâu. Mỗi người có thể đi nhiều nơi, nhưng quê hương chỉ có một. Đó là quê hương trên trời, mỗi người chúng ta mong chờ khi kết thúc hành trình cuộc sống tại thế. Thế gian là quán trọ dừng chân, để cho ta bước về quê hương vĩnh cửu. Chỉ có quê hương Chúa Giê-su giới thiệu cho chúng ta mới là quê hương thật. Nếu chúng ta không nhớ, thì sẽ không trở thành người con dân Nước Chúa.

Vậy chúng ta đón tiếp Chúa Giêsu gia đình, nơi tâm hồn chúng ta hay chối từ Ngài. Một chút thinh lặng hồi tâm để ta nhìn lại, chúng ta đang thuộc về ai?.

Về mục lục

.

ANH EM HÃY ĐI RAO GIẢNG

 Fx Đỗ Công Minh.

Bài tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu “gọi 12 Tông đồ và sai từng người một, Người trao cho các ông quyền trừ quỉ”  với sứ mạng “ Đi  rao giảng và kêu gọi người ta sám hối”. Đức Giêsu truyền cho các ông: “Không được mang gì đi đường, trừ cây gậy. Không được mang bao, mang bị, mang tiền; thắt lưng. Được đi dép nhưng không được mặc hai áo. . .”

Ngày hôm nay, Sứ mạng ấy vẫn đang thôi thúc từng người tín hữu và cả Giáo hội Chúa nơi trần gian này. Ngay tại quê hương Việt Nam chúng con, với hơn 90 triệu dân, nhưng những người tin nhận Chúa mới chỉ chiếm trên dưới 7 triệu người. Cả một vùng đất Châu Á rộng lớn trên 2 tỷ người, những người tin vào Đức Kytô chỉ là một con số rất nhỏ. Điều đó cho thấy chúng con phải tiếp tục công việc Chúa đã trao một cách mạnh mẽ hơn, tích cực hơn. Thế nhưng phải loan báo thế nào để có nhiều người tin nhận Chúa là điều không dễ dàng.

Không được mang gì đi đường. . . phải chăng là mỗi người chúng con phải tuyệt đối tin tưởng và cậy dựa vào ơn của Chúa, không thể cậy dựa vào của cải vật chất và những phương tiện thế gian ?

Nếu con chỉ loan báo bằng cách nói về đạo, tổ chức  những buổi nói chuyện, hội thảo, thậm chí tổ chức những ngày lễ thật long trọng, hoành tráng, sầm uất, rồi mời gọi những anh chị em chưa tin vào Chúa đến nghe,  đến tham dự hẳn là chưa đủ để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha.

Nếu con chỉ dừng lại ở việc chu tòan lề luật hay sinh họat đạo đức gói gọn trong khuôn khổ đòan thể, xóm đạo, xứ họ thôi, để nhắm “Quảng bá đạo” thì hẳn là chưa thực thi điều Chúa truyền dạy.

Chúa không đòi hỏi con trong tư cách là người giáo dân, đang sống trong ơn gọi gia đình, phải đi đây đi đó loan báo Tin Mừng, hay từ bỏ trách nhiệm, bổn phận Chúa trao cho mỗi người, để đi đến những nơi xa xôi rao giảng. Chúa đã chỉ cho con cách sống tin mừng, qua các vị chủ chăn :“Sống Đức Kitô giữa dân tộc mình”(Đức Giáo Hòang Benedicto XVI)  bằng những lời nói tốt, những giáo lý của Chúa (1); bằng gương sáng, can đảm phục vụ Chúa nơi những người nghèo hèn, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, trung thực, nhân ái (2); bằng việc cầu nguyện liên lỉcho công cuộc loan báo tin mừng(3) và bằng cả việc hy sinh, đóng góp ít nhiều về vật chất cho việc rao giảng của Hội Thánh Chúa nơi trần gian (4)

Xin cho con biết sống lời Chúa dạy, như người Samari trong tin mừng, trở thành người thân cận với những người sống bên con mỗi ngày. Đó chính là con cũng đang thực hiện sứ mạng “Rao giảng “. Con tin vào Lời Chúa “Này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. AMEN.

Về mục lục

.

THÁNH THẦN LÀ BẢO CHỨNG

 JM. Lam Thy

Thông thường khi một người lãnh đạo sai nhân viên đi công tác có tính tập thể, thì tập trung nhân viên thành một tốp hoặc một nhóm người, chớ không bao giờ để đi riêng lẻ một hay hai người. Cùng với quyết định ấy, sẽ kèm theo chương trình hành động, phân công phân nhiệm; thậm chí còn lo chu tất cả tiền xe cộ, tiền ăn uống, nơi nghỉ ngơi… Bài Tin Mừng hôm nay (CN XV/TN-B – Mc 6, 7-13) trình thuật việc Đức Giê-su sai 12 Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, có nhiều điểm thật lạ lùng: Đó là “không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng, không được mặc hai áo.” Thêm một điểm lạ nữa là “vào nhà nào thì cứ ở lại nhà đó cho đến lúc ra đi. Nếu ở đó họ không đón tiếp thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” Ngoài ra, Đức Giê-su không sai tất cả đi thành một nhóm, cũng không sai đi riêng lẻ từng người, mà là “từng hai người một”. Sự kiện này có ý nghĩa gì?

Nếu tập trung tất cả thành một đoàn thì đi được rất ít nơi, số người tiếp xúc bị hạn chế; không những thế, các môn đệ đi chung với nhau dễ bị chia bè phái, phe nhóm (câu chuyện 2 người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an là một ví dụ: Hai ông “xin được ngồi bên tả và bên hữu Đức Giê-su khi Người được vinh quang” đã làm “mười môn đệ kia đâm ra tức tối” (Mt 20, 20-28); thậm chí còn có thể tranh nhau làm lãnh đạo vì không có Thầy cùng đi (“Các môn đệ hỏi Đức Ki-tô xem ai là người lớn nhất trong các môn đệ” – Mt 18, 1-5; Mc 9, 33-37; Lc 9, 40-50). Còn nếu đi riêng lẻ từng người thì chắc chắn các môn đệ sẽ đi được nhiều nơi hơn, tiếp xúc được nhiều người hơn, nhưng hiệu quả sẽ kém hơn, vì đi một mình thì khi gặp khó khăn – chẳng hạn khi bị người khác từ chối không tiếp, hoặc phản bác một vấn đề nào đó – các ông sẽ không biết bàn hỏi với ai, không được ai khích lệ, nên sẽ dễ nản lòng và bỏ cuộc. 

Khi sai đi “từng hai người một”, Đức Giê-su muốn các Tông đồ hợp tác và liên đới trách nhiệm với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn, nhất là biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ Người (“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này là anh em có lòng yêu thương nhau.” – Ga 13, 35). Dấu chỉ này là một chứng từ hết sức sống động và lôi cuốn tha nhân. Lời rao giảng luôn đi đôi với hành động và nhất là được biểu lộ rõ ràng trong sinh hoạt đời thường, sẽ mang tính thuyết phục rất cao. 

Xét theo tâm lý chung, khi phải rời xa nơi cư trú một thời gian dài – dù là đi công tác, đi du lịch, hay chuyển đổi chỗ ở – con người thường tỏ ra lưu luyến, bịn rịn khung cảnh, nhân vật, sự sinh hoạt nơi chốn cũ, và cũng chính vì tâm trạng ấy, nên nhiều khi cuộc đi xa bị đình chỉ hoặc gặp trở ngại không thực hiện được nữa. Đó là về mặt tinh thần. Ngoài ra, khi ra đi thì ai cũng phải chuẩn bị cho mình những nhu cầu cần thiết (áo quần, tiền bạc, lương thực…); nhưng Đức Giê-su lại “chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.” (Mc 6, 8-9). Chỉ mới nghe qua đã thấy là mâu thuẫn, vì như thế thì làm sao mà thi hành sứ vụ? Tục ngữ Việt Nam có câu “Có thực mới vực được Đạo”, vậy mà ở đây không có “thực” (có ăn) thì làm sao mà “vực được Đạo” (thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng)? 

Không những chỉ dạy các môn đệ không lưu ý đến vấn đề ăn mặc, tiền bạc, Đức Ki-tô còn khuyên ai muốn đi theo Người thì phải dứt bỏ cả người thân ruột thịt, kể cả mạng sống mình nữa (“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” – Lc 14, 26-27; “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” – Lc 9, 23). Nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen thì sẽ thấy Lời dạy này của Đức Giê-su mâu thuẫn với Lời dạy về “Điều răn quan trọng nhất”, đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào điều răn ấy.” (Mt 23, 37-40). 

Nếu “Dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa” thì sao gọi là “yêu người thân cận như yêu chính mình” được? Vấn đề là phải hiểu theo nghĩa bóng (nghĩa ẩn dụ): “Dứt bỏ” không có nghĩa là tuyệt tình tuyệt nghĩa, mà chỉ là sẵn sàng rời xa cha mẹ, anh em, họ hàng, không lưu luyến, bịn rịn, để lên đường theo Chúa thi hành sứ vụ Người trao. Và nếu hoàn tất được sứ mạng thì “Thầy bảo thật anh  em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa mà lại không được gấp bội ở đòi này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” (Lc 18, 29-30). Vâng, “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25). Lời chí thánh thật rõ ràng: Nếu yêu chiều xác thịt trần thế, buông theo những dục vọng thấp hèn, sẽ mất tất cả. Còn nếu sẵn sàng coi thường tất cả, xa lánh mọi cám dỗ, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho lý tưởng đi theo Thầy chí thánh, thì sẽ tìm lại “được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau”. 

Chung quy, Đức Ki-tô chỉ muốn những ai đi theo Người không nên lưu luyến những gì thuộc về thế gian, về xác thịt nặng nề, bởi “thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống” (Kn 9, 15). Rõ ràng Lời dạy của Người không có gì là mâu thuẫn, khó hiểu cả. Đến như những người xa lạ gặp trên đường đời, Người còn dạy phải coi họ như những người thân cận mà sẵn sàng giúp đỡ (câu chuyện “Người Sa-ma-ri nhân lành” – Lc 10, 29-37), huống hồ là những bậc sinh thành ra mình (cha mẹ), những người có quan hệ huyết thống ruột thịt với mình (anh em), những người cùng “một xương một thịt” (vợ con) với mình. Dứt bỏ hay từ bỏ là đối với những cám dỗ, những mời mọc hấp dẫn của tính xác thịt trần gian, của ma quỷ và sự dữ chúng đem đến mà thôi. 

Chưa hết đâu, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi theo Người Thầy Chí Thánh mới chỉ là điều kiện tiên quyết, nhưng tiếp theo còn phải biết can đảm đối diện với những thử thách nghiệt ngã, vì “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10, 18). Trở ngại lớn nhất đối với việc đi theo Đức Giê-su chính là cái quyết tâm từ bỏ tất cả mọi sự, rồi còn phải vác thập giá mình (những hy sinh, mất mát, đau khổ…) mà đi theo Người. Cũng không phải chỉ một lần này, mà rất nhiều lần Đức Ki-tô kêu gọi mọi người muốn đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả (kể cả chính bản thân mình), từ bỏ một cách dứt khoát (“Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” – Mt 16, 24). Dứt khoát từ bỏ mọi sự đã là một trở lực khó lòng vượt qua; vậy mà còn phải vác thập giá mình nữa thì quả thật vượt quá sức con người, không dễ gì thực hiện nổi. 

Và cũng vì thế nên không thiếu những trường hợp tuyên bố rất hùng hồn sẵn sàng từ bỏ tất cả (như trong đêm Vọng Phục Sinh 3 lần được hỏi ”Có từ bỏ ma quỷ không? Có từ bỏ mọi việc của ma quỷ không? Có từ bỏ mọi sự sang trọng của ma quỷ không?” thì cả 3 lần đều hô lớn một cách rất trịnh trọng “Thưa, từ bỏ”); nhưng lúc đối diện với thực tế thì lại quên đi một cách rất ư là… vô tư!  Chính vì thế, muốn có được quyết tâm từ bỏ trần tục và đủ dũng khí chấp nhận thử thách, thì cũng chớ ỷ vào sức mình, mà phải biết cầu nguyện, cậy nhờ sự soi sáng, hướng dẫn và nhất là thêm sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Ấy cũng bởi vì ”Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.” (Ep 1, 14). 

Tóm lại, khi sai môn đệ đi rao giảng, Đức Ki-tô muốn các Tông đồ phải có một thái độ dứt khoát, không bị ràng buộc bởi những nhu cầu không cần thiết, không lệ thuộc vào những ảnh hưởng ngoại tại (tác động từ bên ngoài), để có thể từ bỏ chúng bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ trường hợp nào mà sứ mạng và lương tâm đòi buộc. Người Ki-tô hữu ngày hôm nay khi được tham dự vào 3 chức vụ Tư tế – Ngôn sứ – Vương giả của Đức Giê-su, thì cũng có nghĩa là được sai đi loan báo Tin Mừng. Đó chính là sứ vụ Phúc Âm hóa, mà muốn thi hành sứ vụ cách tốt đẹp thì phải biết Tân Phúc-Âm-hóa như Thư Chung 2013 của Hội đồng Giám mục Việt Nam giải thích: 

“Tân Phúc-Âm-hoá” không phải là rao giảng một Phúc Âm mới vì “Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.” (Dt 13, 8), nhưng là “mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp, và mới trong cách diễn tả”. Mới về lòng nhiệt thành là làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giê-su Ki-tô, để mối tương quan ấy hướng dẫn toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương pháp là biết vận dụng những phương pháp thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại về nhiều mặt, văn hoá, xã hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách diễn tả là cố gắng nghiên cứu và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh hội được sứ điệp Phúc Âm.” 

Như vậy “Tân Phúc-Âm-hoá” phải là đổi mới phương cách rao giảng Tin Mừng. Cũng đã có phản biện: “Lời hướng dẫn của HĐGMVN chỉ dành riêng cho giáo sĩ và giáo lý viên, còn đại đa số Giáo dân chỉ là tầng  lớp bình dân, đâu có thể đứng trên bục giảng để rao giảng Lời Chúa, như vậy thì làm sao mà “đổi mới phương pháp, đổi mới cách diễn tà”. Mới thoạt nghe thì thấy có vẻ như vậy, nhưng nếu hiểu công cuộc loan báo Tin Mừng không chỉ là “đứng trên bục giảng”, mà quan trọng hơn cả phải là rao giảng bằng phương cách sống, bằng cả đời sống chứng tá. Ấy cũng bởi vì “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân.” (Thông điệp Loan báo Tin Mừng Evangelii Nuntiandi”, số 41). Vậy thì “đổi mới phương pháp, đổi mới cách diễn tả” tức là đổi mới phương cách sống sao cho luôn thích nghi với thời đại, mà vẫn “đem được Lời Chúa đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc”. 

Tóm lại, muốn rao giảng Tin Mừng bằng đời sống chứng tá thì đừng bao giờ quên: “Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Ep 1, 14)”. Xin hãy cầu nguyện: Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thánh Thần thêm sức mạnh cho con để con có đủ can đảm “không lưu luyến CÁI VỎ BẰNG ĐẤT” (Kn 9, 15) là cái thân xác nặng nề của con với biết bao cám dỗ mê đắm của trần thế. Con không dám cao vọng làm một phát ngôn viên rao giảng Lời Chúa, mà chỉ cầu xin cho con sống một cuộc sống khiêm tốn trong yêu thương để làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ. Ôi! Lạy Chúa! Xin cho con sống những điều con tin và sẵn sàng chia sẻ cho anh em những điều con sống. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN_B

Về mục lục

.