CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN NĂM B

296

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Am. 7, 12-15; Ep. 1, 3-14; Mc. 6, 7-13

——-

.

Mục lục

1. Giáo hội của người nghèo  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Hành trang người môn đệ  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Đồng tiền thị phi  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Hành trang cho sứ vụ  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

5. Ra đi  (Trầm Thiên Thu)

6. Người sai các ông đi  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7. Chúa Nhật 15 Thường Niên_B (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

8. Chứng nhân mạnh hơn Thầy dạy  (Lm. Đan Vinh – HHTM)

9. Hành trang của người tông đồ  (Văn Hào, SDB) 

10. Thiên Chúa nói qua trung gian  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

11. Chúa đang gọi và sai chúng ta đi (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

12. Ơn gọi làm tông đồ (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

13. Căn tính người môn đệ của Thầy Giêsu (Huệ Minh)

14. Nước Trời và sự sống (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

15. Ngài gọi và sai đi (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

 

 

GIÁO HỘI CỦA NGƯỜI NGHÈO

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn cũng như thực hành của Đức đương kim Giáo Hoàng Phanxicô là quan tâm đến người nghèo. Khi được bầu làm Giáo Hoàng, ngài đã nhận tước hiệu Phanxicô là một vị thánh nghèo. Qua việc quan tâm đến người nghèo, người kế vị Thánh Phêrô muốn đưa Giáo Hội về với sứ mạng cốt lõi của mình là “Giáo Hội của người nghèo”. Noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã trở nên nghèo vì chúng ta, Giáo Hội được mời gọi sống nghèo và dấn thân phục vụ người nghèo.
 
Thánh Mác-cô thuật lại, khi sai các môn đệ ra đi rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu đưa ra những yêu sách lạ lùng khác thường: các ông ra đi như những người nghèo đúng nghĩa, không sở hữu bất cứ thứ gì, chỉ trừ cây gậy và đôi dép. Khi truyền cho các môn đệ như vậy, Chúa Giêsu muốn khẳng đinh với các ông, hành trang các ông mang theo trên đường truyền giáo là trái tim và lòng phó thác. Bởi lẽ tuy các ông là người trực tiếp loan báo Tin Mừng, nhưng Chúa mới là Đấng mang lại những hiệu quả của công cuộc truyền giáo, các ông chỉ là dụng cụ Chúa dùng mà thôi. Kết quả của truyền giáo không đến từ vàng bạc vật chất và quyền hành thế gian, nhưng từ sự đơn sơ và tâm hồn phó thác của người tông đồ.
 
Chúa Giêsu là một người nghèo. Các tác giả Tin Mừng đều khẳng định với chúng ta điều đó. “Con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu”(Mt 8,20), Chúa Giêsu đã nói về mình như thế. Con Thiên Chúa cao sang đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta. Người đã từ bỏ mọi sự để nêu gương sáng cho chúng ta về sự khó nghèo và khiêm nhường. Thập giá là bằng chứng rõ ràng về điều đó. Người mời gọi những ai muốn làm môn đệ Người cũng phải có tinh thần khó nghèo như người. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã mở đầu bằng lời chúc phúc cho những ai khó nghèo, vì Nước Trời là của họ (x. Mt 5,2).
 
Lịch sử Giáo Hội ghi lại những gương sáng đạo đức tới mức anh hùng của nhiều vị thánh nghèo như thánh Phanxicô khó khăn, Thánh Đaminh, Thánh Antôn, Thánh Gioan Maria Vianey, Chân phước Têrêsa Calcuta, Chân phước Charles de Foucauld… Sự nghèo khó đơn sơ của các ngài đã đánh động tâm hồn nhiều người và giúp họ trở về với Chúa.
 
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, từ một nhóm môn đệ nghèo quê ở Galilêa, Tin Mừng đã được loan truyền đi khắp thế giới, Giáo Hội càng ngày càng phát triển đến mọi nền văn hóa. Sự trường tồn và phát triển của Giáo Hội đã chứng tỏ cho thấy, hiệu quả của công cuộc truyền giáo không lệ thuộc vào tiền tài vật chất hay quyền lực thế gian, nhưng đó là tác động của Chúa Thánh Thần.
 
Mỗi tín hữu chúng ta đều được Chúa sai vào lòng cuộc đời để làm chứng cho Ngài. Tuy vậy, hoa trái của việc tông đồ không đến từ tài ba cá nhân của chúng ta, mà là từ Chúa. Qua việc kêu gọi những người dân chài trở thành môn đệ, Chúa cũng cho chúng ta thấy, chính Ngài làm nên những hiệu quả của sứ mạng tông đồ. Ngôn sứ Amos là một bằng chứng: ông phân trần, ông không thuộc dòng giống ngôn sứ. Ông chỉ là người chăn chiên. Chúa đã gọi ông khi ông đang đi sau đoàn chiên và trao cho ông sứ mạng tiên tri. Ông truyền đạt cho dân những gì Chúa dạy. Ông chỉ như dụng cụ Chúa dùng, và ông chỉ biết làm hết khả năng của mình.
 
Quan tâm đến người nghèo là một trong những nhiệm vụ chính của Giáo Hội. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi: “Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa cho việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, và giúp họ là thành viên đầy đủ của xã hội” (số 187). Người Cha chung của Giáo Hội cũng quả quyết: “Trong trái tim của Thiên Chúa có môt chỗ đặc biệt cho người nghèo, vì chính Thiên Chúa “đã trở nên nghèo khó” (2 Cr 8:9) (số 197).
 
Cũng cần phải phân định rõ, khái niệm nghèo của Tin Mừng trước hết là sự tự do đối với của cải vật chất. Con người luôn làm chủ của tiền bạc chứ không làm nô lệ cho tiền bạc. Tiền bạc chỉ là phương tiện chứ không phải là một mục đích. Hơn nữa, các môn đệ của Chúa Kitô được mời gọi sống nghèo mà không hèn. Nhờ sự nghèo khó này, chúng ta luôn thanh thoát, tự do và hoàn toàn thuộc về Chúa và sống theo thánh ý của Ngài.
 
Nếu sự ham muốn của cải thế gian lấp đầy con tim tôi thì thử hỏi đâu còn chỗ dành cho Thiên Chúa? (Paula Hoesi).
 
Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho (Helder Camara).

Về mục lục

 

.

HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.

Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?

2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?

3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?

4- Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?

Về mục lục 

 

 

ĐỒNG TIỀN THỊ PHI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có người bảo rằng: “Thiên hạ ồn ào đều vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi”. Thực vậy, nhìn vào xã hội với những ồn ào, náo nhiệt chúng ta sẽ thấy điều gì? Thưa, chúng ta sẽ thấy sự náo nhiệt được hình thành bởi kẻ có tiền đến đó để xài tiền và kẻ không có tiền đến đó để kiếm tiền. Có thể nói ở thế gian chỉ có hai loại người: Một là kẻ kiếm tiền. Hai là kẻ xài tiền. Hai loại người này đã làm thành một xã hội đầy những thị phi, và vui buồn, sướng khổ cuộc đời cũng từ đó mà ra!
Hôm nay Chúa lại bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Nhưng xem ra có mấy ai thanh thoát được với tiền bạc trần gian. Ai cũng cần tiền. Ai cũng tích góp. Ai cũng tìm cơ hội để có tiền, để giầu có. Có mấy ai sống mà không dắt lưng cho mình ít tiền để làm vốn, để phòng khi trái gió trở trời?
Ở nơi này nơi kia vẫn nghe nói có cha này cha nọ chỉ lo đi kiếm tiền mà bỏ bê giáo xứ. Ở nơi này nơi kia vẫn còn đó những người đi truyền giáo thì không lo chỉ lo đi lấy lòng người giầu có để trục lợi cho bản thân. Ở nơi này nơi kia giáo xứ cũng tan nát vì đồng tiền thiếu minh bạch dẫn đến kiện cáo, đố kỵ với nhau.
Nhưng đó chỉ là những gợn sóng nhỏ vẫn lăn tanh trong lòng Giáo hội. Giáo hội vẫn còn nhiều những con người sống nghèo khó để cho mọi người và vì mọi người. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống khó nghèo như người nghèo, để sống cứu đời cho người nghèo và vì người nghèo.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Một điều mà ai cũng biết là tham thì thâm. Lòng tham sẽ trói buộc con người trong ích kỷ chỉ để thu vén. Lòng tham sẽ làm cho con người ra đê tiện, tiểu nhân và tầm thường. Người ta kể rằng: Người Ấn Độ làm lồng bắt khỉ thường để thức ăn vào trong. Khỉ thò tay vào để lấy thức ăn, chỉ cần nắm được thì không thể nào lấy tay ra được. Nếu muốn lấy được tay ra chỉ có thể bỏ lại thức ăn. Khỉ đã thò tay nắm được thức ăn thì không muốn bỏ ra.
Khỉ không chấp nhận việc từ bỏ, còn con người thì sao? Đáng tiếc là con người vẫn còn nhiều thứ khó từ bỏ, thế nên vẫn chết trong lòng tham như loài khỉ!
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu con người sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

 

 

HÀNH TRANG CHO SỨ VỤ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).

  1. Hành trang người tông đồ 

a) Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

– Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

– Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

– Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu trao cho các môn đệ những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

b) Phương tiện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.

c) Tương lai bấp bênh. Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh Phaolô nói: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

  1. Phương thức hoạt động:”từng hai người một”

Khi sai đi “từng hai người một “, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

  1. Tinh thần tông đồ là ra đi

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Maccô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa … Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối rồi vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận… Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.

Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20).

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.

“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.

Về mục lục

 

 

RA ĐI

Trầm Thiên Thu

Cảm nghiệm sâu sắc về việc cầu nguyện, tác giả Thánh Vịnh đã xác định niềm tin và sự thỏa mãn ân tình của Thiên Chúa:

Sống trong công chính mọi ngày

Con đây hạnh phúc thấy ngay Chúa Trời

Mỗi khi con thức giấc đời

Thỏa lòng chiêm ngưỡng rạng ngời Thánh Nhan

                                                     (Tv 17:15)

Cuộc đời luôn có nhiều dạng ra đi. Ai cũng có kinh nghiệm ít nhiều về sự ra đi, vì ai cũng đã từng ra đi hoặc chứng kiến người khác ra đi. Cuộc ra đi có thể gần hoặc xa, mau hoặc lâu, nhưng vẫn là một cuộc ra đi. Buồn lắm, nếu cuộc ra đi không hẹn ngày tái ngộ: Người yêu người mà chia tay, bạn bè chấm dứt mối quan hệ, anh chị em ruột không muốn nhìn mặt nhau,… Với các nguyên nhân khác nhau: Ghen tương, ích kỷ, tham lam, cố chấp, độc đoán,… Và buồn nhất vẫn là cuộc ra đi mãi mãi, không hẹn trở lại: Chết!

Tuy nhiên, có những cuộc ra đi đầy phấn khởi, rất vui vẻ đối với cả người ra đi và người ở lại, vì cuộc ra đi này được mong đợi từ lâu – chẳng hạn như việc xa nhà lên thành phố học đại học, con gái theo chồng, người đi định cư ở quốc gia khác,… Nhưng hẳn là vui mừng và cần thiết nhất là cuộc ra đi vì sứ mạng: Loan báo Tin Mừng. Vâng, chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Đó là nhiệm vụ quan trọng đối với mọi Kitô hữu.

Ra đi cũng có “phong cách” riêng, loan báo Tin Mừng cũng vậy. Có người ra đi, nhưng người ta có đón nhận hay không lại là chuyện khác. Chẳng hạn, có những thuyền nhân không được quốc gia nào đó tiếp nhận, hoặc có những người khách đến mà người ta không tiếp đón. Nhưng có những người đi đâu cũng được tiếp đón nồng hậu. Sự đời cũng lắm chuyện nhiêu khê!

Có lần sau khi xung đột, A-mát-gia nói với ông A-mốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều” (Am 7:12-13). Ông A-mốt đã không được người ta tiếp nhận. Nghe lạ mà không lạ. Thật vậy, chính Chúa Giêsu – Ngôn sứ của mọi ngôn sứ – cũng đã bị người ta khước từ khi Ngài trở về quê quán Na-da-rét (Mt 13:53-58; Mc 6:1-6; Lc 4:16-30). Thật khó có thể tưởng tượng nổi một tình huống quá phũ phàng như vậy!

Sau khi nghe A-mát-gia nói vậy, ông A-mốt trả lời: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta” (Am 7:14-15).

Ngôn sứ A-mốt không dám nhận mình là ngôn sứ nhưng ông thực sự là ngôn sứ, dù ông bị “ép buộc” làm ngôn sứ, đi rao giảng cho dân Ít-ra-en. Ông A-mốt ở miền Nam Giu-đê nhưng đi rao giảng ở miền Bắc Ít-ra-en. Ông là người đương thời với hai ngôn sứ Hô-sê và I-sai-a, hoạt động vào khoảng năm 750 (trước công nguyên), thời vua Giê-rô-bô-am II. Ông A-mốt qua đời năm 745 (TCN).

Trung hiếu là đức tính được đề cao. Cụ Nguyễn Đình Chiểu đã đề cập ngay câu lục bát đầu tiên của tác phẩm Lục Vân Tiên: “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Nói là nói vậy, chứ nam hay nữ đều cần trung hiếu. Thiên Chúa cũng quý mến người trung hiếu. Tác giả Thánh Vịnh đã nói: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:9-10). Chắc chắn ai cũng mơ ước một đất nước “đại đồng” như vậy, nhưng có lẽ ước mơ vẫn chỉ là mơ ước đối với chúng ta trên thế gian này!

Dù biết chỉ là mơ ước thì chúng ta cũng vẫn phải ước mơ, khao khát, mong mỏi. Chắc chắn điều đó sẽ đạt được khi có Thiên Chúa. Và thời kỳ đó đã thực sự đến giữa chúng ta, ngay trên thế gian này: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85:11-14). Nước Thiên Chúa đã đến, việc còn lại là trách nhiệm của chúng ta: Thực hiện công lý. Có công lý ắt sẽ có hòa bình. Chưa có hòa bình vì chúng ta chưa thực hiện công lý – nghĩa là chúng ta còn đàn áp nhau, áp bức kẻ yếu, đè bẹp kẻ nghèo khổ, thậm chí còn “dàn cảnh” để cướp giật của người khác. Họ ích kỷ với quan niệm: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.

Thiên Chúa biết phàm nhân “miệng nam-mô, bụng một bồ dao găm”, nhưng Ngài vẫn hết mực yêu thương và đã chính thức thiết lập Kế hoạch Cứu độ – ngay từ khi Ông Bà Nguyên Tổ phạm tội bất tuân lệnh của Thiên Chúa [Adam và Eva không là tên riêng, chỉ là tên tượng trưng để gọi hai con người đầu tiên: Adam nghĩa là “con người” hoặc “từ bụi đất”, Eva nghĩa là “người cộng sự”].

Thật hạnh phúc khi chúng ta có một Thiên Chúa tuyệt đối như vậy. Thảo nào Thánh Phaolô đã không thể lặng im mà phải lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1:3-4). Hạnh phúc chồng lên hạnh phúc, niềm vui nối kết nỗi mừng. Tại sao? Bởi vì không chỉ chúng ta được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ, mà còn được Ngài quan tâm chăm sóc không ngừng: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người” (Ep 1:5-7).

Quả thật, dành cả đời đời của tỷ tỷ người để tạ ơn Ngài cũng không đủ chứ nói chi tới một cuộc đời của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô cho biết chi tiết: “Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:8-12).

Thật vậy, Cựu Ước đã xác định: “Lành dữ, sống chết, giàu nghèo, tất cả đều do Đức Chúa” (Hc 11:14). Không gì ngoài Thánh Ý Chúa, nhưng trong mọi hoàn cảnh, “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8:28). Nhận biết được như vậy là bắt đầu trưởng thành tâm linh. Nhưng muốn trưởng thành trong đời sống Kitô giáo, chúng ta cần phải có ba yếu tố quan trọng: Yêu Thương, Tha Thứ, và Chấp Nhận. Đó là tam-giác-sống như điều kiện ắt có và đủ, thế nhưng lại không hề đơn giản – nghĩa là phải nỗ lực không ngừng qua từng hơi thở.

Thánh Phaolô cho biết thêm, đồng thời cũng xác định và động viên chúng ta sống tích cực: “Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (Ep 1:13-14). Vì tin tưởng mà chờ đợi, khi chờ đợi thì phải hành động, chứng tỏ bằng hành động là can đảm gặp gỡ tha nhân, muốn gặp gỡ thì phải đứng dậy và vào đời.

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mc 6:7-13 (Mt 10:5-15; Lc 9:1-6), nói về việc Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi giảng. Ngài gọi sai họ đi từng hai người một. Để cung cấp “hành trang” cho họ lên đường, Ngài đã ban cho họ quyền trừ quỷ. Tuy nhiên, Ngài đưa ra chỉ thị xem chừng “không giống ai” chút nào ráo trọi: Không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Chúa Giêsu nói rất rõ ràng, không úp mở, không bóng gió, thế mà thật buồn khi thấy có người vẫn dám làm trái ngược, xao lãng cái chính mà chú trọng cái phụ, lem nhem về chuyện tiền bạc, tìm cách lo thu gom vật chất vì mục đích cá nhân! [Xem: http://vietcatholic.com/News/Html/140212.htm].

Chúa Giêsu không muốn ai dính bén vật chất, vì vật chất sẽ làm người ta mù quáng, thế nên Ngài bảo “ra đi với đôi tay trắng”, và Ngài căn dặn các môn đệ rất cặn kẽ: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (Mc 6:10-11). Chúa Giêsu luôn có phong cách thanh thản và tự nhiên: Người ta không tiếp nhận mình thì thôi, đi nơi khác chứ cũng không ghét bỏ ai. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Đơn giản thôi!

Các ông ra đi rao giảng Nước Trời, kêu gọi ăn năn sám hối, trừ quỷ, xức dầu và chữa người ta khỏi bệnh tật. Đó là sống yêu thương, thực hiện lòng thương xót với bất cứ ai, đặc biệt là đối với những người không ưa mình, kể cả những kẻ thù. Sống lòng thương xót là sẵn sàng và can đảm ra đi, vào đời, ra khơi, vào giữa bầy sói,…

Lạy Chúa, xin cho con biết bình tĩnh chấp nhận thua thiệt và đón nhận những gì không thể thay đổi, can đảm THAY ĐỔI những gì CẦN THAY ĐỔI, càng sớm càng tốt, và khôn ngoan phân biệt con người và hoàn cảnh của con với con người và hoàn cảnh của người khác. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Về mục lục

 

 

NGƯỜI SAI CÁC ÔNG ĐI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Đọc sách Tin Mừng Mác-cô, người ta dễ dàng thắc mắc tại sao Đức Giê-su lại sai các môn đệ lên đường đi rao giảng sớm quá như vậy, với một chuẩn bị quá sơ sài như thế; và quan trọng hơn nữa, các ông môn đệ này lên đường rao giảng cái gì đây, họ đâu đã được dạy dỗ căn kẽ gì cho cam?

Quả vậy, chỉ tới chương 3 của sách Tin Mừng, tác giả Mác-cô mới cho biết Đức Giê-su ‘lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn… Người lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng’ (Mc 3:13-14); sau đó trong chương 4 tác giả ghi lại một vài nét giáo huấn của Người qua một số dụ ngôn, rồi chương 5 tường thuật thêm một vài phép lạ… và thế là chương 6 Người đã sai các ông đi rao giảng. Trước hết khó có thể xác quyết là các môn đệ đã nắm bắt và thấu hiểu tường tận sứ điệp Tin Mừng mà Đức Giê-su muốn mạc khải (xem Gioan chương 16). Chính vì thế mà ta có thể kết luận rằng, mục đích của chuyến sai đi lần này cùng lắm là để các môn đệ nếm được cái cảm nghiệm sơ khởi, ‘được cùng Thầy chia sẻ một sứ mạng’.

Sứ mạng Đức Giê-su được chia làm hai giai đoạn:

Giai đoạn một là công bố: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần… anh em hãy sám hối” (Mc 1:15). Trong giai đoạn này việc tỏ lộ quyền năng Thiên Chúa qua các dấu lạ là rất cần thiết, nhất là đối với đám dân chúng bình dị. Đức Giê-su đã thực hiện một số phép lạ để quả quyết rằng: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11:20). Vì thế, không lạ gì, khi sai môn đệ lên đường lần này, Đức Giê-su chỉ trang bị cho các ông duy một điều, ‘Người ban cho các ông quyền trừ quỷ’. Tiếng là rao giảng, nhưng hình như các môn đệ giảng dạy rất ít, ngoài việc ‘kêu gọi người ta ăn năm sám hối’; các ông hành động nhiều hơn, ‘Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh’. Hành động như thế các ông đề cao quyền năng Thiên Chúa hơn là sức mạnh của mình. Đó là lý do, hay để làm nổi bật điều đó, ‘các ông không được mang gì đi đường… không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng… không được mặc hai áo’. Tóm lại giai đoạn này cần hành động, nhưng là hành động làm lộ rõ quyền năng Thiên Chúa.

Giai đoạn hai, đồng thời cũng là tâm điểm của sứ mạng Đức Giê-su, là mạc khải Tin Mừng cứu rỗi qua cuộc tử nạn thập giá. Giai đoạn này không cần tới nhiều phép lạ cho bằng làm sao để mọi người nhận biết lòng nhân ái vô biên của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ. Ngay cả Đức Giê-su trong giờ phút đó cũng giữ thái độ thinh lặng thay vì làm dấu lạ như vua Hê-rô-đê yêu cầu (xem Lc 23:8-11). Chương 16 sách Tin Mừng Mác-cô sẽ đề cập tới việc sai đi lần thứ hai này; “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16:15). Việc loan báo này hình như cũng không cần nhiều lời giảng dạy cho bằng nhiều chứng nhân, ‘anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tân cùng trái đất’ (Cv 1:8). Các môn đệ nói chung, và Tông Đồ Gio-an nói riêng, chắc chắn đã hiểu được giá trị của việc làm chứng này; “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Hơn thế nữa, chứng từ này sẽ không phải là thuyết minh dài dòng, chưng dẫn các lý lẽ và bằng chứng thuyết phục, nhưng chủ yếu dựa vào Thần Khí Chúa, một dạng quyền năng tuyệt vời của Thiên Chúa Cứu Độ. Sai đi lần hai này là như thế, “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em! Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. (Ga 20:21-22).

Như vậy ta nhận ra một điều, trong cả hai giai đoạn này vai trò của con người xem ra khá giới hạn! Suy tư trên giúp tôi nắm bắt rõ hơn tiến trình ‘truyền giáo’ và hoạt động tông đồ của Hội Thánh nói chung qua các thời đại, cách riêng các hoạt động của chính cá nhân tôi; đó là rao giảng Tin Mừng phải bằng hành động trong quyền năng Thiên Chúa, và công bố Hồng Ân Cứu Độ qua chứng tá đức tin dưới tác động mãnh liệt của Thần Khí Chúa…, đồng thời cũng cần xác định rõ, vai trò của mình trong công cuộc vĩ đại đó thật là nhỏ bé. Một rao giảng như thế cũng không đòi tôi nhất thiết phải là một bậc thánh hiền, một gương mẫu về đạo đức, một trí tuệ siêu phàm hay thông minh tài trí, nhưng ngay trong sự yếu đuối của mình, tôi có thể chứng tỏ được Thiên Chúa Cứu Độ đang hoạt động mãnh liệt và hữu hiệu nơi tôi.

Trong thời gian dưỡng bệnh tại Hàn Quốc sau cuộc tham gia trực tiếp truyền giáo ngắn ngủi tại Mông Cổ, tôi đã dành thời giờ chiêm ngắm thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê và nghiệm ra các điều trên, rao giảng bằng chứng tá cuộc sống.

Lạy Chúa! Qua các thời đại, Chúa đã sai nhiều tông đồ khác nhau đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân; người này Chúa sai thực hiện giai đoạn một, người khác thể hiện giai đoạn hai, kẻ khác nữa cả hai giai đoạn cùng một lúc. Có lẽ con thuộc thành phần thứ ba chăng? Xin cho con luôn biết xác tín rằng, để trở nên môn đệ và tông đồ đích thực, con cần làm lộ rõ sức mạnh quyền năng Chúa trong hành động và hiện diện sinh động của Thần Khí Chúa trong tâm hồn con. Xin dạy con giảm bớt tin tưởng đặt nơi ‘bao bị, tiền đồng, cơm áo, v.v…’ thậm chí ngay cả trí tuệ, nhân đức hoặc thánh thiện của mình. A-men.

Về mục lục

 

 

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Tuần trước, khi đề cập đến ngôn sứ Ê-zê-ki en, tôi có dẫn giải rằng trong Cựu ước một số ngôn sứ nói tiên tri về những gì có thể xảy ra ở tương lai, nhưng sứ vụ của họ là nói lời Chúa, dạy dỗ và khuyên bảo dân chúng ân năn, cải thiện đời sống và sống như lời Chúa dạy, để khỏi bị những sự đau khổ tương lai.  Và vì vậy, họ thường bị dân chúng thù ghét và chống đối. 

Hôm nay trong bài đọc 1, chúng ta được biết đến ngôn sứ A-mốt, sống vào khoảng 7 trăm năm trước Chúa Giê-su Ki-tô.  Vào thời gian đó, những người bói đoán chuyên nghiệp có cuộc sống rất thoải mái, qua việc cho những ý kiến, phương cách để giải quyết vấn đề tình duyên và gia đình cá nhân, cũng như cho thân chủ những lời khuyên bảo, tiên đoán tương lai về vấn đề thương mại làm ăn hay công việc.  Những nhà bói đoán này không nói và không là ngôn sứ cho Thiên Chúa, nhưng họ nói những điều mà thân chủ muốn nghe hay ưa thích.  Nếu họ phê bình, khiển trách hay cho những lời khuyên nặng nề thì sẽ không được trả lệ phí, và nhiều khi bị khách hàng sỉ vả hay hành hung.

Vâng lệnh Chúa, ngôn sứ A-mốt đã từ giã nếp sống bình yên ở miền Nam để lên miền Bắc thi hành sứ vụ Chúa trao ban.  Khi A-mốt giảng dạy dân chúng ở đền thờ Bê-theo, ông không có những lời vuốt ve, nịnh hót, a dua và tâng bốc về lối sống tội lỗi và ngược lại giáo huấn Chúa của dân chúng ở đó.  Ông thẳng thắn can đảm vạch tội của mọi hạng người, và lớn tiếng công kích tất cả những tệ nạn xấu xa và tồi tệ trong xã hội.  Ông kêu gọi những người có đời sống khô khan, nguội lạnh, ích kỷ, tự kiêu, tự ái và kỳ thị chia rẽ hãy ăn năn, cải thiện đời sống. Dĩ nhiên như chúng ta có thể hiểu, những người này tức giận, căm tức, thù ghét và tìm cách chống lại A-mốt. A-ma-zi-a, một vị thượng phẩm, đã lầm lẫn A-mốt với những nhà bói đoán chuyên nghiệp, cho nên sua đuổi A-mốt hãy trở về quê quán mà bói đoán.  Nhưng A-mốt đã lên tiếng trả lời, ông không phải là một nhà bói đoán chuyên nghiệp.  Ông có thể sống cuộc sống thoải mái và bình an, nhưng Thiên Chúa đã kêu gọi và thúc dục ông đến Bê-theo giảng dạy và cảnh báo dân chúng về cuộc sống tội lỗi và sai trái làm mất lòng Chúa của họ, vì cuộc sống này sẽ đưa đến những hậu quả đau khổ tương lai. Và bài đọc 1 cũng hướng dẫn chúng ta chú ý đến bài Tin mừng, về việc Chúa Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng, kêu gọi dân chúng cải thiện đời sống và cảnh báo họ về sự khó khăn của sứ vụ, có những người chấp nhận lắng nghe, những sẽ có những người chống đối, thù ghét.

Chúng ta cũng biết là từ khi bắt đầu công khai thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa lựa chọn 12 người làm tông đồ, người thì ở nơi này kẻ thì nơi khác, để tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi nhân loại mà Chúa khởi đầu. Chúng ta thấy hầu hết các tông đồ là những người chất phác, bình dân, nghèo nàn, không thế lực, không học thức hay danh vọng. Chúng ta thắc mắc là tại sao Chúa lại chọn những người như thế?  Ngày nay, nếu muốn thành lập một công ty, một tổ chức hay muốn tranh cử chức vụ gì như tổng thống chẳng hạn, thì người ta tuyển lựa những người có bằng cấp, danh tiếng, thế lực, tài năng và đầy kinh nghiệm.  Nhưng đó không phải là tiểu chuẩn của Chúa.  Thiên Chúa đã chọn những người khiêm hạ, vô danh và bình dân để làm và chu toàn những chuyện kỳ lạ, lạ lùng.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa đã sai các ông đi rao giảng, trừ quỉ, chữa lành và kêu gọi mọi người ăn năn thống hối.  Chúa cũng ban quyền cho họ để thi hành sứ mệnh, không phải bằng sức riêng của họ mà bằng ơn sủng của Chúa.  Chúa còn căn dặn họ không mang theo gì ngoài cây gậy để đề phòng nguy hiểm, và cảnh báo cho họ biết rõ là sẽ có người đón tiếp và lắng  nghe họ, nhưng cũng có những người từ chối, không đón tiếp và thù ghét họ.   Họ phải biết chấp nhận mọi hoàn cảnh, lúc thuận tiện cũng như khi khó khăn, lúc thành công cũng như khi thất bại, không nản lòng, thối chí, luôn cố gắng chu toàn sứ mệnh và phó thác vào Thiên Chúa.

Chúng ta có thể hình dung các môn đệ được Chúa sai đi trong một thời gian ngắn hạn thôi.  Nếu Chúa sai các ông đi mấy tuần hay mấy tháng, thì chắc chắn các ông cũng phải sửa soạn, chuẩn bị hành trang quần áo, những đồ dùng cá nhân, và những điều khác nữa.

Ông bà anh chị em thân mến.  Khi tôi sửa soạn gom góp những ý tưởng cho bài giảng này, tôi cũng muốn dành đôi dòng để nói về sứ vụ linh mục của mình.  Tôi cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng tôi đã được Chúa kêu gọi và sai đi rao giảng Tin mừng của Chúa.  Tôi cũng cảm thấy tự hài lòng khi biết những lời chia sẻ, những lời khuyên và những ý tưởng có ảnh hưởng tốt đến đời sống của người nào đó, và mang họ đến gần với Chúa.  Nhưng tôi cũng nhận biết có những sự khó khăn và từ chối.  Tôi tự nhắc nhở cố gắng và cầu nguyện thường xuyên để biết nói những gì giúp người khác biết cảnh tỉnh và làm những điều đúng, tốt và sống tốt lành, thánh thiện và theo giáo huấn của Chúa và giáo hội.  Tôi không muốn một ngày nào đó, khi đối diện với Chúa, Chúa sẽ nói với tôi “Tại sao con không nói điều này, điều nọ.”   Tôi nhận biết cuộc sống linh mục ngày nay rất khó khăn và nhiều thử thách.  Tôi tin chắc rằng tất cả ông bà anh chị em, là những bậc làm ông bà, cha mẹ cũng phải đối diện với những sự khó khăn này, vì ai cũng muốn cho con cái, cháu chắt có cuộc sống ngay thẳng, tốt lành và thánh thiện, nhất là có đời sống đức tin vững chắc và trung thành với Chúa và giáo hội.  

Qua Bí tích Rửa tội, Chúa đã chọn và kêu mời mỗi người chúng ta trở thành môn đệ của Chúa, được Chúa sai đi rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Chúa.  Như các môn đệ xưa yếu kém về mọi mặt nhưng đã làm được những việc lạ lùng cả thể vì được Chúa biến đổi và ban ơn thêm sức, Chúa cũng sẽ biến đổi và ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác để chúng ta chu toàn sứ mệnh mà Chúa đã trao ban cho chúng ta, và vượt qua những khó khăn, thử thách nếu chúng ta tin và phó thác mọi sự vào Chúa.  Xin Chúa cũng ban cho mỗi người chúng ta có một đức tin vững mạnh và trung kiên, một tấm lòng bác ái và quảng đại, một ý chí hy sinh và phục vụ, để rao giảng Tin mừng, xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa.  

Về mục lục

 

 

CHỨNG NHÂN MẠNH HƠN THẦY DẠY

Lm. Đan Vinh

I- HỌC LỜI CHÚA

1/ TIN MỪNG : Mc 6,7-13

(7) Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. (8) Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng ; (9) được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. (10) Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. (11) Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”. (12) Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. (13) Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

2/ Ý CHÍNH : Đức Giêsu sai 12 Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Người chỉ thị cho các ông phải rao giảng Tin mừng bằng lời nói và gương sáng : Phải liên kết từng hai ngừơi thành một nhóm, siêu thoát khó nghèo và đầy lòng cậy trông phó thác. Các ông đã vâng lời ra đi thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ và xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.

3/ CHÚ THÍCH

– C 7 : + Người gọi nhóm Mười Hai lại : Trước đây Đức Giêsu đã tuyển chọn Nhóm Mười Hai, để các ông “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (x. Mc 3, 13-14). + Sai đi từng hai người một : Tông đồ (A-pos-to-lus) nghĩa là “người được sai đi”. Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi từng hai người để nâng đỡ nhau và biểu lộ sự hiệp nhất yêu thương là dấu hiệu môn đệ đích thực của Người (x. Ga 13,35).+ Ban cho các ông quyền trừ quỷ : Quỷ (diabolos – nghĩa là kẻ vu khống), hoặc Xa-tan (nghĩa là địch thủ), thường được dùng để chỉ về một nhân vật vô hình, chuyên nói dối và xúi giục loài người phạm tội chống lại Thiên Chúa. Sứ mệnh của Đức Giêsu là “tiêu diệt ma quỷ” (x. Dt 2,14), xua trừ chúng ra khỏi người bị nhập (x. Mc 5,8.13). Hôm nay Người cũng ban cho các môn đệ quyền trừ quỷ ( c 13) và báo cáo với Đức Giêsu như Tin mừng Lu-ca ghi lại : “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải chịu khuất phục chúng con” (x. Lc 10,17).

– C 8-9 : + Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đuờng: Nghĩa là các ông phải có phong cách đơn giản khi đi truyền giáo. + Chỉ trừ cây gậy : Được mang gậy là biểu tượng quyền mục tử và là vật hộ thân trong lúc đi đường. + Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng: Không mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc vật chất để biểu lộ lòng tín thác vào Chúa quan phòng. + Được đi dép : Tin mừng Mác-cô cho đi dép (x Mc 6,9) đang khi Tin Mừng Mát-thêu lại cấm đi giày hay cầm gậy theo (x. Mt 10,10). Sở dĩ có sự khác nhau về một vài chi tiết phụ này là tùy theo tác giả đứng trên quan điểm văn hóa Hy Lạp hay Do Thái khi viết Tin Mừng. + Không được mặc hai áo: Người Do Thái khi đi đường thường mặc hai áo : Áo trong và áo choàng ngoài. Áo choàng là áo mặc ngoài che nắng nóng ban ngày và làm mền đắp cho ấm ban đêm. Đức Giêsu không cho các Tông đồ mặc hai áo trong cuộc hành trình truyền giáo ngắn hạn và vì việc mang hai áo không thực sự cần thiết.

– C 10-11 : + Đã vào nhà nào thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi : Theo phong tục Đông Phương, dân chúng rất hiếu khách. Do đó khi các Tông đồ đã đến ở trọ trong nhà nào, thì phải ở đó cho đến lúc ra đi. Nếu tự ý đổi chỗ ở sẽ làm cho chủ nhà buồn lòng và các ông sẽ bị đánh giá là người “chuộng phú khinh bần”. + Nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ : Giũ bụi chân là một cử chỉ người Do Thái thường làm khi đi từ miền đất của dân ngoại về miền đất Do thái. Cử chỉ giũ bụi chân này biểu lộ sự tuyệt giao vì dân Do Thái bị cấm tiếp xúc với dân ngoại. Ở đây giũ bụi chân để làm bằng chứng họ đã từ chối Tin Mừng được loan báo.

– C 12-13 : + Đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối : Sám hối là việc phải làm trước tiên để dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ. Khi đi thực tập truyền giáo, các Tông đồ mới chỉ được Đức Giêsu trao nhiệm vụ kêu gọi người ta ăn năn sám hối, giống như Gio-an Tẩy Giả đã làm (x Mt 3,2). + Các ông trừ được nhiều quỷ : Các Tông đồ đã trừ được nhiều quỷ nhân danh Đức Giêsu và nhờ quyền năng của Người. Tuy nhiên có lần các ông không trừ được quỷ vì các ông không mạnh bằng lòai quỷ dữ đó (x. Mc 9,17-18). Các ông chỉ trừ được chúng do quyền năng của Đức Giêsu ban cho khi cầu nguyện và ăn chay (x. Mt 17,21). + Xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh : Xức dầu là cách chữa bệnh vào thời Đức Giêsu. Có những loại dầu trị bá chứng được dùng để chữa mọi thứ bệnh thông thường. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu cho thấy người này đã dùng dầu và rượu để chữa trị vết thương cho người gặp nạn (x. Lc 10,34). Ở đây, việc xức dầu mang tính bí tích như lời thánh Gia-cô-bê : “Ai trong anh em ốm yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến. Họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh. Người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu đã phạm tôi, thì sẽ được Chúa thứ tha” (x. Gc 5,14-15).

4/ CÂU HỎI : 1) Đức Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai nhằm mục đích gì ? 2) Tại sao Đức Giêsu lại sai từng hai người đi truyền giáo ? 3) Quỷ hay Xatan ám chỉ ai ? Đức Giêsu có sứ vụ gì đối với ma quỷ ? 4) Đức Giêsu đã ra lệnh cho các Tông đồ phải làm gì ma quỷ và các ông đã thi hành thế nào ? 5) Đức Giêsu chỉ thị cho các Tông đồ được mang va không được mang theo những gì khi đi truyền giáo ? Tại sao ? 6) Tại sao lại có sự khác biệt trong các chỉ thị của Đức Giêsu giữa Tin Mừng Mác-cô và Mát-thêu ? 7) Tại sao các ông chỉ nên ở trọ trong một nhà và không được dời từ nhà này sang nhà khác ? 8) Việc giũ bụi chân lại khi gặp nơi không chịu tiếp nhận lời các Tông đồ giảng dạy có ý nghĩa thế nào ? 9) Tại sao trước hết các ông phải kêu gọi ngừơi ta ăn năn sám hối ? 10) Do đâu mà các Tông đồ khử trừ được nhiều quỷ ? 11) Tại sao có lần các ông không trừ được một quỷ câm ? Muốn trừ được lọai quỷ này cần điều kiện nào ? 12) Tại sao Đức Giêsu truyền cho các Tông đồ xức dầu để chữa bệnh ? Thánh Giacôbê dạy thế nào về bí tích Xức Dầu bệnh nhân ?

II- SỐNG LỜI CHÚA

1/ LỜI CHÚA : Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh (Mc 6,13).

2/ CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM

1- TẠI SAO MÔN ĐỆ PHẢI SỐNG SIÊU THOÁT KHI ĐI TRUYỀN GIÁO?

Người ta kể rằng: có một thanh niên muốn từ bỏ mọi sự thế gian để sống cuộc đời tu trì. Anh quyết định vào trong một khu rừng vắng để sống ẩn tu trong một chiếc lều tạm. Hành trang duy nhất anh mang theo là chiếc áo vải thô dùng để mặc khi đi khất thực hằng ngày như các tu sĩ thời đó.

Một ngày kia, anh rất buồn khi thấy chiếc áo thô được phơi ở bờ sông đã bị lũ chuột đến cắn nát. Anh đành phải vào trong làng xin một chiếc áo thô khác. Nhưng rồi chiếc áo thứ hai này cũng cùng chung số phận do bị chuột cắn. Anh liền nghĩ ra cách phải nuôi mèo để bảo vệ cho chiếc áo. Thế nhưng, khi có mèo hằng ngày anh lại phải lo thêm phần ăn cho mèo để nó đuổi chuột.

Ngày ngày đeo bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng cho dân làng. Nghĩ thế, anh đã cố gắng tiết kiệm tối đa để dành tiền mua thêm một con bò để khỏi đi xin ăn. Nhưng có bò rồi hằng ngày thay vì đi khất thực anh lại phải đi kiếm cỏ cho bò ăn. Việc chăn nuôi bò ngày một phát triển khiến anh không còn thời giờ để cầu nguyện tối sớm như trước. Rồi anh lại phải thuê thêm người đi cắt cỏ để nuôi đàn bò. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã dần biến thành một trang trại rộng lớn. Do đàn bò ngày một sinh sôi nảy nở nên anh phải thuê thêm nhân công cho trang trại. Con người ban đầu muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay đã trở thành một ông chủ của trang trại nuôi bò sữa lớn.

Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có thêm người để chia sẻ gánh vác công việc. Anh giờ đây đã lấy vợ sinh con trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình. Thế là anh đã đánh mất lý tưởng ban đầu chỉ vì muốn bảo vệ một chiếc áo vải thô.

** Ba kẻ thù nguy hiểm cho loài người.

Ma quỷ thường khôn ngoan khi cám dỗ loài người từng bước giống như nó đã cám dỗ nguyên tổ A-đam E-và khi xưa. Cũng vậy, câu chuyện trên cho thấy một tu sĩ ban đầu muốn đi theo lý tưởng cao đẹp, nhưng khi phải bận tâm làm ăn kinh tế, sẽ không còn dành thời giờ cho việc cầu nguyện và suy niệm là yếu tố giúp anh ta trung thành với lý tưởng tu trì truyền giáo. Rồi xác thịt có đặc điển “được đằng chân lân đàng đầu”: Một khi thân xác đã được hưởng thụ các tiện nghi vật chất thì sẽ ngày một gia tăng nhu cầu muốn được thỏa mãn thêm những tiện nghi khác. Như vậy lòng tham lam tiền bạc của cải là nguyên nhân khiến người ta ham hưởng thụ tiện nghi và dần dần đánh mất lý tưởng cao đẹp phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Vì thế Đức Giê-su đã chỉ thị cho các tông đồ phải sống siêu thoát để các ông có thể chu toàn được sứ vụ truyền giáo là đi loan báo Tin Mừng Nước Trời.

2- THIÊN CHÚA THƯỜNG HÀNH ĐỘNG QUA TRUNG GIAN LOÀI NGƯỜI

Một ngày mùa đông một người đàn ông đi ngang qua một ông lão đang ngồi ăn xin trên vỉa hè tuyết rơi lất phất. Ông lão run lên từng cơn vì trời lạnh và đói. Nhìn thấy ông lão ăn xin, người đàn ông cảm thấy thương hại liền thưa với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa lại không làm gì để giúp đỡ cho lão ăn mày đáng thương này?” Và ông ta đã nghe Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm rồi”.

Ông ta lại thưa với Chúa: “Phải chăng những việc Chúa làm đều có vẻ như không làm ?”.

“Đúng thế”, Chúa đáp.

Ông ta lại hỏi: “Nhưng Chúa sẽ giúp lão ăn mày này bằng cách nào?”

Chúa đáp: “Ta đã tạo dựng nên con và Ta muốn con hãy thay Ta mà giúp đỡ cụ thể cho người anh em này đó”.

** Tin Mừng hôm nay cho thấy:

– Chúa Giê-su đã chọn lựa các môn đệ, huấn luyện họ trong một thời gian và sai họ đi thực tập công việc truyền giáo noi gương Người.

– Người đòi các ông phải có nếp sống siêu thoát: “Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy”. Gậy là biểu tượng của người mục tử và là vật hộ thân khi đi đường; “Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng” để biểu lộ lòng tín thác vào Chúa quan phòng; “Được đi dép” là nhu cầu tối thiểu, “nhưng không được mặc hai áo” do không cần thiết, vì việc truyền giáo chỉ kéo dài vài ba ngày.

– Người muốn các ông thể hiện dấu chỉ của người môn đệ đích thực là sống yêu thương hiệp nhất khi sai các ông đi từng hai người một (x. Mc 6,7) và đi đến với mọi người không phân biệt Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, giàu có hay nghèo khó…

– Các ông đã đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12) và đã làm chứng cho Chúa bằng việc: xua trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa bệnh cho nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13).

3- BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA

Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Trái Tim Chúa Giê-su. Tuy nhiên, sau cuộc chiến thì bức tượng đã bị bom đạn phá phá hủy thành nhiều mảnh vung vãi trên mặt đất và bàn tay bức tượng thì hoàn toàn bị biến mất.

Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn của bức tượng và cẩn thận lắp ráp lại pho tượng như cũ. Riêng hai bàn tay bức tượng bị biến mất thì họ đề nghị sẽ nhờ thợ điêu khắc đến làm lại. Nhưng vị linh mục đã từ chối và nói: “Tôi chợt nảy ra ý này là: Chúng ta hãy cứ để pho tượng không có bàn tay, và dưới chân đế của bức tượng sẽ để hàng chữ như sau: “Chính bạn là đôi tay của Chúa”.

** Chính bạn là đôi tay của Chúa:

Quả thật, nhiều khách đến viếng thăm ngôi nhà thờ đổ và bức tượng không tay đã hiểu được ý nghĩa của câu nói trên: Giờ đây tuy Đức Giê-su không có tay nhưng Người muốn mỗi tín hữu hãy cho Người mượn đôi bàn tay để nâng đỡ những anh em tội lỗi được đứng dậy, băng bó những vết thương đau, chia sẻ cơm áo vật chất cho người nghèo đói; Người muốn dùng bàn chân của chúng ta để đi tìm những con chiên lạc và mang về đoàn chiên Hội Thánh; Người muốn chúng ta dùng đôi tai để lắng nghe và cảm thông với những người bất hạnh; Người muốn chúng ta dùng miệng lưỡi để động viên những kẻ khốn cùng, giúp họ luôn tín thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa.

4- SỨC MẠNH TIỀM ẨN CỦA CUỘC SỐNG CHỨNG NHÂN

Cô SO-PHI BÉC-ĐĂNG-CA (Sophie Berdanska) là một tín hữu Công giáo vừa có tài giáo dục trẻ em lại vừa có đức tin mạnh mẽ. Một hôm cô được nhận vào làm gia sư trong gia đình Méc-tơn (Merston) giàu có nhưng lại theo Do thái giáo. Công việc chính của cô là dạy kèm cho năm đứa con mới bị mồ côi mẹ. Ngày đầu tiên, khi biết So-phie là người Công giáo, ông Méc-tơn đã cấm cô giảng đạo cho mấy đứa con của ông và cô đành miễn cưỡng chấp nhận. Buổi tối hôm ấy, trong căn phòng riêng dưới tầng hầm, sau khi đọc kinh tối xong, So-phie đã viết lời cầu vào một mảnh giấy nhỏ, xếp gọn rồi nhét vào trong cái hộp nhỏ xíu phía sau chiếc huy chương hình thánh giá. Đây là kỷ vật mà người cha thân yêu đã tặng cô trước khi ông chết, với lời trăn trối cô phải chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa mọi lúc mọi nơi. Từ ngày cha chết, So-phie luôn đeo chiếc huy chương để nhắc cô về sứ vụ truyền giáo phải thực hiện dù trong hòan cảnh không thuận lợi.

Nhờ được cô giáo So-phie chăm sóc dạy dỗ, lũ trẻ nhà Méc-tơn ngày càng trở nên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành khác hẳn lúc trước. Chúng quí mến và coi cô như bà mẹ thứ hai. Rồi một ngày kia, tai nạn đã dồn dập đổ xuống nhà Méc-tơn: Trước tiên là cô bé út Na-ta-cha bị sốt cao khiến ông Méc-tơn rất lo lắng. Ông vội mang con đến bệnh viện cấp cứu. Trong thời gian này, cô So-phie đã luôn túc trực bên giường bệnh để chăm sóc đứa bé. Rồi đến lượt hai đứa khác cũng bị lây bệnh và cũng được cô giáo tận tình chăm lo đến khi cả ba anh em hoàn toàn bình phục. Sau cùng chính cô So-phie lại bị ngã bệnh ! Đây là hậu quả của những ngày vất vả chăm sóc bệnh nhân. Sau hai tuần lễ liệt giường, các bác sĩ đành bó tay không thể chữa cô khỏi bệnh. So-phie đã từ giã cuộc đời trong sự tiếc thương vô hạn của cả gia đình Méc-tơn. Trước khi lìa đời, Sophie đã tặng chiếc huy chương hình thánh giá cho Na-ta-cha là cô học trò bé nhỏ của cô.

Thấm thoát đã đến ngày giỗ đầy năm của So-phie. Hôm ấy cả gia đình Méc-tơn dậy sớm và cùng đi nhà thờ dự lễ cầu nguyện cho cô. Tại sao có sự kiện lạ lùng này? Số là sau khi So-phie chết được một tuần, ông Méc-tơn đến thăm các con lúc đó vẫn đang ưu sầu thương nhớ cô gia sư mới chết. Tình cờ ông thấy chiếc huy chương trong tủ kính. Tò mò cầm lên xem, ông mở hộp nhỏ phía sau chiếc huy chương, lấy ra một mẩu giấy và đọc thấy hàng chữ như sau: “Lạy Chúa, trong nhà Méc-tơn này, con đã bị cấm nói về Chúa với lũ trẻ. Vậy xin Chúa giúp con nói với chúng bằng hành động khiêm nhường yêu thương và phục vụ. Con hy vọng gia đình này có ngày sẽ tin vào Chúa và cũng được hưởng ơn cứu độ giống như con”. Ông Méc-tơn rất xúc động khi đọc những hàng chữ này. Ông trao cho các con cùng đọc và chúng cũng xúc động giống như ông. Rồi cả gia đình Méc-tơn đã đến xin học giáo lý tại một nhà thờ công giáo gần nhà và đã được lãnh nhận phép Rửa Tội để gia nhập vào Hội Thánh vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh năm đó.

** Chứng nhân có giá trị thuyết phục hơn là thầy dạy:

Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng như sau: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”. Chỉ các hành động yêu thương kèm theo lời giảng mới có sức thuyết phục con người thời nay tin theo Đức Giêsu.

Các tín hữu cần gắn bó với Chúa Giêsu như cành nho tháp nhập vào thân cây nho. Vì nếu không có ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ không thể chu tòan sứ vụ làm chứng cho Chúa được (x Ga 15,5). Cần tập nhẫn nhịn chịu đựng và quảng đại tha thứ các xúc phạm của tha nhân, luôn nghĩ đến người khác và phục vụ mọi người trong tinh thần khiêm tốn và yêu thương, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt để được mối lợi là đưa được nhiều linh hồn về làm con Chúa như thánh Phaolô đã viết: “Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, họan nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). 

3/ THẢO LUẬN : 1) Bạn có kinh nghiệm gì về việc truyền giáo bằng đời sống chứng nhân bác ái không? 2) Trong những ngày này, mỗi người chúng ta sẽ giới thiệu Chúa cho bạn bè và người thân chưa biết Chúa như thế nào?

4/ LỜI CẦU

LẠY CHÚA GIÊSU, Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa, cho chúng con luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng một lối sống quên mình vị tha, dấn thân hy sinh và khiêm nhường phục vụ tha nhân cách chân thành. Nhờ đó, người ngòai sẽ nhận biết tôn thờ và tin theo Chúa để được hưởng ơn cứu độ đời đời cùng với chúng con. AMEN./.

Về mục lục

 

 

HÀNH TRANG CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ

Văn Hào

Khởi đầu bất cứ cuộc hành trình nào, người ta luôn phải chuẩn bị cho mình những vật dụng cần thiết. Người con gái trước khi về nhà chồng vẫn luôn được mẹ dặn dò và sắm sửa cho những gì cần phải mang theo. Cũng vậy, khi sai những học trò đi truyền giáo với bao khó khăn phía trước, Đức Giêsu cũng nhắn nhủ và căn dặn các ông kỹ lưỡng. Nhưng có một điều khá lạ thường, thay vì trang bị cho các môn đệ những vật dụng tùy thân để phòng hộ, Đức Giêsu lại khuyến mời các ông từ bỏ tất cả, ngay cả giầy dép, áo quần, gậy gộc hoặc tiền bạc. Điều duy nhất các ông mang theo nơi mình, là năng quyền trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu. Điều này xem ra khá nghịch thường, nhưng đó lại là một chỉ lệnh, một đòi hỏi bắt buộc. Bài Tin Mừng hôm nay phác vẽ chân dung đích thật của người môn đệ và đây cũng là sứ điệp Chúa muốn nhắn gửi đến mọi người chúng ta hôm nay.

  1. Mầu nhiệm ơn gọi

Tự bản chất, ơn gọi của chúng ta luôn là một mầu nhiệm, vì nó khởi phát từ chính Thiên Chúa. “Không phải anh em chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em và cắt cử anh em để anh em ra đi sinh nhiều hoa trái” (Ga 15, 16). Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Amos cũng nói về ơn gọi của mình. Ông tự thú, ông chỉ là một con người bất tài, làm nghề chăn bò và hái sung. Ông không thích và chẳng bao giờ mơ tưởng sẽ được làm ngôn sứ cho Chúa. Nhưng Chúa đã tóm lấy ông và ra lệnh: “Hãy đi công bố lời của Ta cho Israel ”. Ơn gọi của vị tiên tri hoàn toàn nằm ngoài suy tính và lựa chọn của con người. Cũng vậy, trong bài Tin mừng, thánh Marcô trình thuật về ơn gọi và sứ mạng rao giảng của nhóm mười hai. Trong nhóm học trò này, ngoại trừ Matthêu có ít vốn về chữ nghĩa, còn lại đa phần là những ngư phủ quê mùa và dốt nát. Người có chút ít học thức như Matthêu hành nghề thu thuế lại bị dân chúng coi khinh. Họ vẫn xếp những người thu thuế vào hạng tội lỗi, chẳng chút gì thiện cảm đối với những người này. Nhưng Đức Giêsu đã gọi, đã chọn, đã biến những con người bất tài như thế trở nên tông đồ, trở nên những cánh tay nối dài của Ngài trong sứ vụ cứu thế. Đối với Đức Giêsu, Ngài chẳng hề quan tâm chút nào đến quá khứ hay lý lịch của một ai. Ngài cũng chẳng cần những con người có tài có đức, có những phẩm tính ưu việt hay sở đắc nhiều bằng cấp xã hội. Cũng thế, ngày hôm nay Chúa cũng chọn mỗi người chúng ta không theo bất kỳ một quy chuẩn nào của xã hội loài người. Ngài gọi và chọn làm sao, chúng ta không hay biết, và tất cả hoàn toàn do ý muốn của Ngài. Vì thế, ơn gọi vẫn luôn là một mầu nhiệm khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc con người chúng ta.

  1. Ơn gọi gắn liền với sứ mạng truyền giáo

Đức Giêsu đến trần gian với một sứ mạng duy nhất Chúa Cha trao ban, đó là thực thi sứ mạng cứu thế. “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Cũng vậy, ơn gọi của mỗi người chúng ta hôm nay cũng chính là ơn gọi truyền giáo, thông dự vào sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, giống như ơn gọi của các tông đồ năm xưa. Chúa sai phái những học trò thân tín của mình lên đường để họ ra đi, đến với những người đau khổ, những bệnh nhân, những người bị ma quỷ khống chế (Mc 6,13). Rõ ràng đây là sứ mệnh truyền giáo được ngỏ trao. Truyền giáo không phải là đi quảng bá một học thuyết, hoặc đi chiêu dụ người khác theo đạo. Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu của Đức Giêsu và các học trò của Ngài mà bài Tin mừng hôm nay vạch dẫn. Đức Giêsu là vị truyền giáo đầu tiên, là nguyên mẫu cho tất cả chúng ta về sứ vụ truyền giáo. Hai ngàn năm trước, Chúa đã đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo như nhiều người vẫn nghĩ tưởng. Ngài đến chỉ để công bố cho thế giới một tin mừng, đó là tin mừng về lòng yêu thương mà Thiên Chúa ngỏ ban cho nhân loại. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài” (Ga 3,16). Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá chính là đỉnh điểm của lời tuyên bố này. “Không có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13). Thập giá Đức Kitô chính là câu định nghĩa toàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa hiến tặng cho chúng ta. Đồng thời trên thập giá, Chúa Giêsu đã đạt đến sự sung mãn của sứ mệnh cứu thế mà Ngài thực hiện theo ý muốn của Chúa Cha.

Khi Chúa sai các môn đệ lên đường truyền giáo, Ngài nhắn nhủ các ông hãy mời gọi mọi người ăn năn sám hối (Mc 6,12). Đây cũng là lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Đó chính là Tin Mừng về lòng thương xót của Chúa đối với các tội nhân. Muốn đón nhận Tin Mừng đó, con người phải sám hối, phải metanoya, phải trở về để có thể ngụp lặn trong bầu trời bao la của tình yêu Thiên Chúa.

Cũng vậy, sứ mạng truyền giáo của mọi tín hữu chúng ta chính là rao giảng Tin Mừng của Chúa cho mọi người. Nhưng chúng ta rao giảng bằng cách nào? Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nói: “Giáo hội ngày nay cần những chứng nhân hơn là những thày dạy”. Chúng ta rao giảng Tin Mừng nhưng không phải rao giảng bằng lý thuyết trên đầu môi chót lưỡi, mà bằng chứng tá cuộc sống cách cụ thể. Một nguyên tắc giản đơn nhưng rất căn bản của việc truyền giáo, đó là chúng ta không thể công bố Tin Mừng, công bố về tình yêu của Thiên Chúa nếu tâm hồn chúng ta cằn cỗi và thiếu vắng tình yêu. Để có thể lấp đầy tình yêu nơi tâm hồn mình, chúng ta phải biết cách làm cho con người chúng ta trở nên trống rỗng, phải biết tự hư vô hóa chính mình. Đây là điều kiện căn bản của việc thực thi sứ mệnh truyền giáo mà Chúa Giêsu nói đến hôm nay : sống tinh thần nghèo khó cách tận căn.

  1. Chân dung nghèo khó của người môn đệ Đức Giêsu

Chúa dặn dò các môn đệ “Anh em không được mang gì đi đường chỉ trừ cây gậy. Không được mang lương thực bao bị hay tiền bạc giắt lưng, được đi dép nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6 8-9 ). Sống nghèo khó triệt để là một mệnh lệnh. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để trở thành môn đệ Đức Giêsu và để phục vụ cho vương quốc Nước Trời. Nghèo khó là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Đức Giêsu công bố trong bài giảng trên núi. Chúa cũng nói với chàng thanh niên: “Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho người nghèo, rồi đến theo Ta” (Mc 10,21).

Tinh thần nghèo khó Chúa nói ở đây hệ tại ở thái độ nội tâm, không dính bén của cải vật chất để toàn tâm phục vụ cho ơn cứu độ và trở nên sứ giả phục vụ cho việc rao giảng Tin Mừng. Chắc chắn Đức Giêsu không cổ súy cho một lối sống bần cùng, túng quẫn đến độ dễ làm tha hóa con người và khiến chúng ta rơi vào tình trạng dễ đánh mất đi phẩm giá chính mình. Trong ba năm rao giảng, Chúa vẫn nhờ vả sự giúp đỡ của những phụ nữ giàu có. Ngài cũng chọn một trong các học trò của mình làm người quản lý tài sản. Chúa vẫn lui tới dùng bữa với những người giàu như Giakêu. Để tổ chức bữa tiệc ly và thiết lập Bí Tích Thánh thể, Ngài cũng mượn ngôi nhà của một người giàu có trong vùng. Sự giàu có mà Chúa kết án ở đây là thái độ sống thượng tôn tiền bạc một cách hẹp hòi ích kỷ đến mức độ Chúa phải nói một cách thẳng thừng: “Người giàu vào Nước Trời khó biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào được Nước Trời” (Mt 19,23). Người thanh niên giầu có khi đến gặp Chúa, được Chúa nhìn với đôi mắt thiện cảm vì anh ta tuân thủ lề luật rất nghiêm túc. Chúa nói với anh ta, anh chỉ thiếu mỗi một điều là hãy về cho đi mọi của cải anh có. Cái thiếu nơi người thanh niên ấy, là anh ta đã không biết cho đi, và vẫn bám vào của cải, đặt tiền bạc lên trên hết. Chúng ta cũng nhớ lại dụ ngôn người phú hộ giàu có và chàng Lazaro nghèo kiết xác (Lc 16,19-31). Anh chàng phú hộ này đâu có tội tình gì. Anh ta đâu có ăn trộm ăn cắp của ai. Anh ta cũng chẳng giận ghét hay oán thù người nào. Nhưng anh ta bị kết án trầm luân trong hỏa ngục chỉ vì mỗi một tội duy nhất, đó là anh ta luôn mang nơi mình một con tim ích kỷ và keo kiệt, luôn rửng rưng và vô cảm trước nỗi khổ đau của người khác. Một triết gia đã nói : “Chỉ có loài vật mới đang tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ lông mượt mà của nó, còn con người thì không.” Nghèo khó của Tin mừng mà Chúa muốn nói tới, luôn gắn liền với lòng quảng đại, biết cảm thông, biết hiến dâng và trao ban. Đó chính là tinh thần nghèo khó mà Chúa khuyến mời các tông đồ thực hiện đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay.

Một nhà tu đức đã nói: “Không ai nghèo đến mức độ không có cái gì để cho”. Thánh Vinh sơn Phaolô đã từng nói với các con cái của Ngài: “ Chúng con đừng quên những người nghèo mà Chúa gửi đến. Họ là ân nhân và là ông chủ của các con. Các con hãy phục vụ họ với tình yêu”. Mẹ thánh Têrêsa Calcutta cũng nhắn nhủ các nữ tu của Mẹ: “Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những người nghèo. Chính nhờ họ mà chúng ta có cơ hội làm việc với nhau, và sống ơn gọi của mình”.

Để kết luận, xin trích dẫn một giai thoại. Các nhà truyền giáo sau một thời gian làm việc ở Ấn Độ, cảm thấy mình không mấy thành công. Họ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi: “Thưa ông, làm cách nào để những người Hindu ở đây đón nhận ánh sáng đức tin? Nhiều năm qua chúng tôi đã vất vả, nhưng công việc truyền giáo của chúng tôi chẳng đi đến đâu.” Gandhi trả lời: “Các anh hãy nhìn vào những bông hoa hồng, người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp quyến rũ của nó, nhưng vì nó còn tỏa ra một hương thơm dịu dàng làm mọi người ngây ngất say mê. Các anh hãy làm việc với bí quyết đơn giản này”. Sứ vụ truyền giáo của chúng ta ngày hôm nay, cũng như của các tông đồ năm xưa chỉ đạt được kết quả nếu cuộc sống của chúng ta luôn lan tỏa hương thơm của tình yêu. Đó là tình yêu phát nguồn từ chính Đức Kitô như Thánh Phaolô đã cảm nghiệm : “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi”. Đó cũng là tình yêu đặt nền tảng trên tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu đã vạch dẫn và mời gọi các học trò của mình thi hành. Chúng ta hãy sao chép lại lối sống của Đức Kitô, đấng “ vốn là Thiên Chúa giàu sang, đã tự nguyện trở nên khó nghèo, để cho chúng ta được thông dự vào sự giàu sang của Ngài” (2 Cor 8,9).

Về mục lục

 

 

THIÊN CHÚA NÓI QUA TRUNG GIAN

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Thiên Chúa luôn làm việc. Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một số người đặc biệt để nói với con người của mọi thời đại. Mỗi một người rao giảng đều phải là người đã biết lắng nghe và vâng nghe Lời Chúa trong đời sống.

  1. Amos đã được sai để nói nhân danh Thiên Chúa cho dân Ngài

Con người là tạo vật được yêu thương. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, Ngài mong ước con người sống hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Khi cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách đặc biệt, Thiên Chúa dùng các tôi tớ Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên tri Amos cho thấy tiên tri Amos không phải là tiên tri “chuyên nghiệp”, nghĩa là, Ngài không thuộc nhóm tiên tri, hoặc con cháu tiên tri. Ngài là một người chăn cừu, người đi hái trái sung, nhưng đã được Thiên Chúa gọi đi nói tiên tri, đi làm ngôn sứ.

Tiên tri Amos đã được Chúa sai tới nói với dân ở phía bắc, tại đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah đuổi: “hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến, hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri, mà kiếm cơm ở đó”. Amos không là người kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy ra cho dân, để cho dân biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa sắp xảy tới là do nhà vua và dân chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân chúng thuộc vương quốc phía bắc không đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành, chứ không ai muốn nghe nói tai họa sẽ xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại Bethel đã trục xuất tiên tri Amos và không cho ông rao giảng nữa.

Tiên tri, là người của Thiên Chúa. Amos đã vâng nghe Chúa, đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ nghề, đã đi tới vùng đất xa lạ và thậm chí nói cả điều mà chính ông cũng biết sẽ không được người ta chấp nhận. Những nhà tiên tri “chuyên nghiệp”, kiếm cơm bằng nghề bói toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ không dám nói mất lòng dân chúng vì như vậy đâu có kiếm cơm được. Nhiều tiên tri “thật” trong lịch sử đã phải khốn khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà nhiều người cho là ngu dại. Một tiên tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa, vâng theo Chúa bất chấp những gì xảy tới cho mình.

2. Đừng mang theo gì cả trừ cây gậy

Sau khi nhận phép rửa tại sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày trong hoang địa, đã rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu không có gì ngoài chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói, không sợ vất vả, không sợ phải màn trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức Giêsu chấp nhận tất cả, Ngài chỉ có sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính Ngài đang là Lời cho dân chúng qua cách sống và cách ứng xử của Ngài.

Đức Giêsu cũng sai các tông đồ đi rao giảng. Có lẽ Ngài đang huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương lai. Ngài ban cho các ông quyền trên thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một, dạy các tông đồ đừng mang gì cả ngoại trừ cây gậy. Hành trang của một người tông đồ rất đơn giản: không trang bị lương thực, không bao bị rương hòm, không hai áo! Chả có gì phải bận tâm ngoại trừ chính sứ điệp phải rao giảng.

Người tông đồ của Chúa không chọn ở chỗ này chỗ kia vì được tiện nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng diễn tả tính thành tín của Thiên Chúa bằng việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho tới khi ra đi. Nếu người ta không nghe, thì hãy ra đi và không mang theo gì cả, kể cả bụi chân, cũng không ra đi với lòng hận thù hay nguyền rủa. Người của Thiên Chúa mang bình an tới, nhưng nếu người ta không đón nhận, nghĩa là họ không đủ điều kiện để sống bình an, thì người tông đồ của Chúa cũng chấp nhận họ như Thiên Chúa đã chấp nhận họ.

3. Người được sai cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho con người

Thiên Chúa tạo dựng con người qua Lời của Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do. Qua lương tâm, Thiên Chúa mời gọi con người sống vươn lên từng ngày, từng giây phút sống trọn vẹn trong yêu thương, để thành con cái yêu quý của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình yêu thương con người, Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến ở giữa con người, thành một người rất cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn thân phận con người, Ngài cũng phải chọn lựa từng ngày, từng hành vi để thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu không là một người giầu có về vật chất tiền bạc, Ngài không là một người có địa vị chức quyền, Ngài trắng tay như bao người nghèo khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha, và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi ngày.

Thiên Chúa muốn ban tất cả cho con người, không chỉ là sự hiện hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con người nhìn vào và dõi theo, để sống yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao, Thiên Chúa sẵn sàng cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn tả tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho con người.

Đức Giêsu Kitô là điều gì vô cùng mới, theo thánh Phaolô, được dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức Giêsu Kitô là mặc khải tuyệt vời của Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta hiểu hơn Thiên Chúa là ai, là Đấng yêu thương con người đến độ nào, là Đấng có nhiều sáng kiến tuyệt vời như thế nào để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng là Lời của Thiên Chúa, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu là bình an của con người, hiểu theo nghĩa, qua Đức Giêsu con người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, đến độ mình có thể phó thác tất cả cho Thiên Chúa và sống bình an.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Bạn có nghĩ rằng bạn là người được Thiên Chúa sai để làm điều gì chăng? Nếu có xin chia sẻ.
  2. Theo bạn, Đức Giêsu được sai tới để làm gì? Ngài có làm trọn sứ mạng của Ngài không?

Về mục lục

 

 

CHÚA ĐANG GỌI VÀ SAI CHÚNG TA ĐI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Nick Jivucic, một người khuyết tật tài ba được cả thế giới biết đến với những bài nói chuyện về nghị lực sống, vượt lên số phận. Qua những cơ hội diễn thuyết khắp thế giới, Nick Jivucic, còn cho thấy anh là một Kitô hữu rất nhiệt thành với việc nói về Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Anh chia sẻ rằng khi được chào đời trong tình trạng không có tay chân, lúc đầu anh không hề ý thức, rồi từ khi biết mình khiếm khuyết, mình không giống như các bạn khác, anh vô cùng mặc cảm và oán hận Chúa, nhiều lần anh đã tìm cách để chết nhưng không thành. Anh thường đặt câu hỏi : tại sao Chúa lại để cho tôi như thế này ? Tại sao tôi không được như các bạn của tôi họ có đầy đủ tay chân ? Một lần đọc đoạn Tin Mừng Gioan nói về việc Chúa chữa anh mù từ khi mới sinh : Khi thấy anh mù ngồi ăn xin bên đường, các môn đệ hỏi Chúa : Anh này bị mù là do tội của hắn hay của cha mẹ hắn? Chúa Giêsu trả lời: Không phải do tội của anh ta, cũng không phải do tội của cha mẹ anh ta, nhưng là để quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện. Nick chia sẻ, đọc đến đây, tôi đã nhận ra lời mời gọi của Chúa và nhận ra rằng, Chúa muốn dùng tôi để thể hiện quyền năng của Ngài. Từ đó tôi đã dành trọn cuộc đời tôi để nói về quyền năng của Thiên Chúa và sự tin tưởng vào quyền năng ấy.

Khi nói về việc Chúa chọn gọi và sai đi, nhiều người chỉ nghĩ đến việc Chúa chọn các linh mục hoặc tu sĩ, mà quên rằng lời mời gọi của Chúa dành cho hết mọi người. Tin Mừng hôm nay cho thấy, sau một thời gian được Chúa chọn để ở với Chúa, nay Chúa sai các môn đệ ra đi rao giảng cho mọi người về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. Trước khi ra đi Chúa căn dặn các ông : Không mang bao bị, lương thực, tiền bạc, không mặc hai áo. Tại sao vậy ? Chúa muốn các môn đệ của Chúa lên đường trong một tư thế thanh thoát không bận vướng bởi vật chất tiền bạc. Ra đi tay không như thế, để các ông luôn biết cậy trông vào Thiên Chúa và cũng để các ông không tự hào, kiêu ngạo, khi thành công, cũng không chán nản khi thất bại.

Sai các môn đệ ra đi, Chúa chỉ cần nơi các ông một thái độ hoàn toàn tin tưởng phó thác và tấm lòng kiên nhẫn, quảng đại, không đòi hỏi, không điều kiện, dù được đón tiếp hay bị từ chối. Đòi hỏi này nghe tưởng như đơn giản nhưng lại không dễ dàng. Cám dỗ tự nhiên của con người là luôn tìm kiếm quyền lực và muốn gây ảnh hưởng, sốt ruột muốn nhìn thấy thành công ngay trước mắt. Nhưng Chúa không muốn người môn đệ của Chúa có thái độ như thế, trái lại phải có thái độ của một người đầy tớ khiêm tốn, làm nhiệm vụ của mình cách vuông tròn, còn kết quả ra sao là tùy nơi Thiên Chúa là chủ.

Bên cạnh đó, người được sai đi không phải để nói lời của mình, nhưng nói lời của Chúa và kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, thay đổi lối sống. Đó cũng là mục đích Chúa sai chúng ta ra đi. Người được sai đi không chỉ kêu gọi sự sám hối mà phải là người sám hối trước. Có nghĩa là phải chấp nhận sự thay đổi hoàn toàn từ trong suy nghĩ đến lời nói và hành động, quay trở lại với Thiên Chúa, từ đó mới có thể giúp người khác sám hối. Ngày xưa Chúa trao cho các tông đồ quyền trừ quỷ, xức dầu, chữa bệnh, ngày nay Chúa vẫn ban cho chúng ta quyền để thực thi tình yêu thương, lòng trắc ẩn trên những người bị đau khổ, bệnh tật thể xác lẫn tâm hồn.

Một khi làm việc của Chúa, làm theo ý Chúa, thì dù gặp khó khăn hay thất bại người môn đệ vẫn không nản chí. Amos là người miền Giudea được Chúa sai đến kêu gọi dân Israel sám hối thay đổi đời sống. Tuy nhiên những người Israel đã không chấp nhận Amos, họ xua đuổi ông: Ông hãy về quê của ông mà kêu gọi. Amos đã trả lời họ: Tôi không phải là ngôn sứ, tôi chỉ là một đứa chăn cừu, nhưng Chúa đã gọi tôi và sai tôi đi cảnh báo cho dân Israel. Amos đã thi hành sứ mạng trong tinh thần vâng phục hoàn toàn mệnh lệnh của Chúa, cho dù ngay từ lúc đầu ông không hứng thú với nhiệm vụ này, nhưng vì được sai đi nên ông hết sứ để chu toàn.

Làm thế nào để phân định giữa việc tông đồ và việc cá nhân ? Điều cốt yếu để phân định việc tông đồ và việc cá nhân là khi người tông đồ là người ý thức cách rõ ràng mình được Chúa chọn và được sai đi. Ngược lại, tất cả những công việc bác ái từ thiện hoặc các công việc phục vụ, nếu không được sai đi, thì đó là công việc cá nhân, hoặc chỉ là công tác bác ái mang tính xã hội. Ngược lại có những công việc dù hết sức nhỏ bé tầm thường, nhưng được Chúa qua Giáo Hội trao phó thì đó là công việc tông đồ.

Qua Bí tích Rửa tội tất cả chúng ta được chọn trở nên con Thiên Chúa, thành cộng tác viên được tuyển chọn đem Tin Mừng tình thương và ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người. Vì thế, mỗi người với mỗi hoàn cảnh khác nhau đều có chung một nhiệm vụ: bước đến với anh em, nói cho họ về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Mỗi người cần nhận ra sự cấp bách và thôi thúc của Chúa để mau mắn lên đường rao giảng Chúa Kitô cho mọi người. Chúng ta được sai đi để nói cho mọi người về Thiên Chúa là Cha và Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế, nói về ơn được làm con Chúa. Chúng ta không chỉ nói trên môi, nhưng phải nói bằng cả con người và cuộc sống của mình, hoàn toàn tin tưởng cậy trông Thiên Chúa dù khi thành công cũng như khi thất bại, qua đời sống yêu thương bác ái.

Đức Thánh cha Phanxicô trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, cảnh báo về tình trạng ủ rũ buồn tẻ nơi nhiều tín hữu, họ đã để cho cuộc đời trở nên ủ dột buồn chán, khiến cho người khác không tin là chúng ta đang sống Tin Mừng. Bên cạnh đó là lối sống ù lì, chần chừ, ngủ quên trong nếp sống đạo, khiến nhiều người không còn nhìn thấy anh em bên cạnh đang chờ được nghe, được thấy Chúa Giêsu nơi mỗi chúng ta. Đức Thánh Cha nhắc chúng ta mạnh dạn bước ra và bước đến với anh em, ra khỏi sự êm ấm và nếp sống thường ngày để bước đến với những người đau khổ nghèo đói chung quanh, để chia sẻ, cảm thông nâng đỡ.

Nhưng điều quan trọng của người được sai đi trước tiên đó là không ngừng sám hối chính sửa bản thân cho phù hợp với đòi hỏi của Tin Mừng, chứ không phải cắt xén Tin Mừng để chứng minh cho hành động của mình. Chỉ khi chúng ta sám hối và thay đổi đời sống, thì những người chung quanh và thế giới mới có thể sám hối và biến đổi.

Các bậc cha mẹ được chọn gọi và sai vào môi trường gia đình, Thiên Chúa đang muốn dùng quý vị để Ngài thể hiện quyền năng tạo dựng và yêu thương nơi mỗi gia đình. Vì thế, hãy làm cho gia đình mình thực sự trở nên một gia đình Công Giáo tốt lành thánh thiện, làm cho tình yêu và sự sống nảy sinh trong đời sống hôn nhân gia đình của mình. Các bậc làm cha mẹ luôn ý thức rằng, mình đang được Chúa gọi sống bậc gia đình, và sai đến với gia đình mình lúc này. Dó đó, hãy dùng hết sức, hết khả năng chu toàn bổn phận của một người tông đồ, trong vai trò là cha mẹ của gia đình. Đừng để cho tiền bạc của cải vật chất và những lôi kéo bên ngoài khiến mỗi người trì hoãn việc sám hối canh tân, chần chừ trong việc đem Tin Mừng, niềm vui của Chúa vào trong gia đình.

Các bạn trẻ cũng đang được Chúa sai đến với những môi trường rộng lớn hơn đó là trường học, công ty, nơi làm việc. Nơi đó, các bạn được mời gọi thể hiện niềm tự hào là Kitô hữu của mình, qua việc sống công bằng ngay thẳng, bác ái và nhiệt thành với công việc dù là việc quan trọng hay chỉ là những việc bình thường. Đó là nơi các bạn phải làm cho Chúa hiện diện qua đời sống của mình, đừng bao giờ bỏ qua cơ hội nói về Chúa cho người khác. Các bạn cần phải sống làm sao để những bạn bên cạnh, có thể vui khi gặp được bạn, có thể tự tin khi làm việc với bạn, và có thể cậy nhờ khi có sự hiện diện của bạn.

Để mọi người có thể nhận ra Chúa nơi người tín hữu, điều quan trọng là mỗi người cần thường xuyên soi rọi mình mỗi ngày dưới ánh sáng của Tin Mừng, để biết điểu chỉnh cuộc sống cho phù hợp và sẵn sàng để cho Chúa đi vào cuộc đời và biển đổi chúng ta qua việc đón rước Chúa vào tâm hồn. Chúa sẽ luôn ở bên ta, đồng hành với ta. Amen.

Về mục lục

 

 

ƠN GỌI LÀM TÔNG ĐỒ

Lm. Jos. DĐH

Xã hội phát triển, mọi người đều có cơ may tiếp cận với những tiện nghi hiện đại : nhà đẹp, xe mới, điện thoại thông minh, đồ ăn thức uống ngon, bổ, dịch vụ nào cũng đáp ứng mau lẹ. Đời sống văn minh, người tài có đất dụng võ, người nghèo tìm được việc làm, kẻ hiếu học có điều kiện để thăng tiến bản thân, đất nước phồn vinh. Khi cần giải quyết công việc, ta thường nghĩ tới những vị có năng lực, có kinh nghiệm, nếu phải chi phí tốn kém, chúng ta vẫn mong có các đại gia tài trợ.

Chúa Giêsu hôm xưa gọi nhóm 12, Ngài không hứa hẹn bổng lộc, không chú trọng đến sự thông thái, chẳng quan tâm đến quá khứ tốt, xấu… Đã vậy, Chúa còn chỉ thị các học trò đi truyền giáo với một tinh thần thanh thoát, không mang bị, mang bánh, không mang tiền trong túi… ! Dù không nói ra, các học trò Giêsu đều hiểu tình yêu, niềm tín thác vào Thầy là hành trang gọn nhẹ và hiệu quả hơn cả. Chúa Giêsu gọi nhóm 12 dự phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng là vì yêu thương, Chúa trao cho các ông quyền trên các thần ô uế nhằm giúp các ông tự tin trước sứ mạng người tông đồ.

Ngày hôm nay muốn loại trừ “gian tham”, nhiều người đã nghĩ đến các thành viên gia đình xã hội phải no đủ và hạnh phúc. Nếu học sinh muốn vào trường chuyên, phải tài giỏi, các bạn trẻ muốn vào học viện bóng đá Hoàng Anh Gia-lai, nhất định phải có năng khiếu. Cuộc sống tuy có phức tạp, tất cả chúng ta vẫn được gọi chọn làm Con Chúa, Ngài không yêu cầu chúng ta thông minh, có bằng cấp, tuy nhiên, tâm hồn mỗi người theo Chúa phải được biến đổi để trở nên môn đệ của Thầy Giêsu.

Trong tương quan xã hội, người ta sẽ tự tin khi đủ khả năng hiểu biết, hoặc sẽ mạnh dạn hơn vì lắm tiền nhiều của; và những ai muốn sống ơn gọi làm tông đồ, đều phải tuân thủ chỉ thị “gọn nhẹ” theo tinh thần của Đức Kitô. Cứ sự thường, con gà hơn nhau “tiếng gáy”, con chó hơn con mèo là nhờ tiếng “gâu gâu”; con người hơn nhau ở chỗ “biết và sống” ơn ban của Chúa. Tục ngữ có câu : khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có 30 tết mới hay. Thực ra thì cho dù ta giàu có, ta khôn ngoan, dù ta hạnh phúc, chúng ta đều phải chứng minh bằng hành động của mình.

Lệnh truyền của Thầy Giêsu quả là nặng nề đối với những ai muốn theo Chúa làm học trò; và sẽ càng vô duyên đối với những ai theo Chúa làm kinh tế, nghệ thuật… Ơn gọi làm tông đồ xuất phát từ tình yêu, nhờ đó người ấy sẽ mạnh dạn dấn thân, dám nói dám làm. Sự thành công, hạnh phúc, không hệ tại giàu nghèo, tài giỏi đức độ, nhưng tùy thuộc mức độ hiệp thông với tình yêu Đức Kitô. Kinh nghiệm cho thấy, bạn học cao hiểu rộng, bạn có tiếng là vừa khéo vừa khôn…., nhưng nếu thiếu sự chuẩn bị, hay chuẩn bị không kỹ vẫn dễ sai sót, nguy cơ thất bại không phải là không có.

Người theo Chúa Giêsu sẽ không phù hợp, nếu như chúng ta quá lo lắng về hành trình phía trước, để rồi lòng yêu mến và nhiệt huyết tông đồ bị nhạt phai. Người Kitô hữu nếu chỉ lo thủ thân thủ thế, sẽ không còn thời gian để quan tâm đến anh chị em xung quanh mình. Người tông đồ mà “nặng lòng” về vật chất tiện nghi, sẽ dẫn đến việc tìm hưởng thụ, thiện chí, tinh thần sẽ mai một, hướng đi sai lạc, lý tưởng theo Chúa chắc chắn bị đảo ngược.

Người xưa cho rằng : tiền của vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả, dẫn đến chỗ tự mãn, tự phụ, lầm tưởng những gì ta có, ta đang thành công là nhờ tài sức của mình. Xưa kia Thầy Giêsu không sai phái các học trò đi riêng lẻ, một phần do lời chứng của một cá nhân chưa đủ thuyết phục, mặt khác còn muốn nhắc nhớ về sự đồng tâm nhất trí của tập thể sẽ dễ lay động lòng người hơn. Sự hiệp thông và tình liên đới luôn tạo nên một sức mạnh vừa đủ, vừa đúng lúc để chu toàn trọng trách được giao phó.

Cha ông chúng ta có câu : người thanh tiếng nói cũng thanh, chuông kêu thì đánh bên thành cũng kêu. Hình thức và nội dung mà người đời mong muốn là thanh và kêu, tiêu chuẩn người theo Chúa là tình yêu và nhiệt huyết tông đồ, nhờ đó họ biết tín thác vào sứ mạng của Thầy giao phó. Ơn gọi làm tông đồ chỉ có và tồn tại từ lòng yêu mến, người phục vụ Tin Mừng chỉ có ý nghĩa khi tâm trí gạt bỏ được những vướng bận về tiền tài danh vọng. Thầy Giêsu sẽ ở mãi trong hành trình theo Chúa của chúng ta, hành trang gọn nhẹ sẽ giúp chúng ta nghe được chỉ thị và quyết tâm sống trung thành, hoàn tất sứ mạng Chúa trao. Amen.

Về mục lục

 

 

CĂN TÍNH NGƯỜI MÔN ĐỆ CỦA THẦY GIÊSU

Huệ Minh

Hẳn nhiên, ai cũng biết rằng phàm là người thì cần phải có cơm ăn, áo mặc và những dụng cụ để phòng thân. Cơm, áo, gạo, tiền … là những mối lo âu thiết thực nhất hay nói đúng hơn đó là nỗi sợ của con người. Đơn giản dễ hiểu đó là thực chất nếu như con người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiện nghi cơ bản cho cuộc sống thì con người không sống được cũng như chẳng làm được gì.

Ta thấy vật chất, tiền bạc … rất gần và rất cần cho con người cũng như những người gọi là môn đệ đi theo Chúa. Cần và cần nhiều nữa là khác thế nhưng hôm nay ta bắt gặp hình ảnh hay nói cách khác là lời mời gọi hay nói đúng hơn là lệnh truyền của Thầy Giêsu : Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo (Mc 6, 8.9).

Người môn đệ sống như thế nói thẳng ra là “chết chắc” vì chẳng có cái gì gọi là phòng thân cả. Sống như thế nghĩa là sống chỉ biết ngày hôm nay, ngày mai có ngày mai lo !

Thoạt đầu, khi nghe những lời ấy ta cảm thấy khó chịu, cảm thấy sốc thế nhưng Nước Thiên Chúa là như vậy đó ! Nước Thiên Chúa là Nước không phải thuộc thế gian để người người lo phòng thủ, lo vun vén cho mình được càng nhiều càng tốt.

Nói hơi lý thuyết một chút, lời mời gọi của Thầy Giêsu gởi các môn đệ quả là chí lý, là có căn cơ, có cơ sở chứ không phải là lời mời gọi vu vơ. Căn tính của người môn đệ, của thành viên Nước Thiên Chúa, của công dân Nước Trời là như vậy. Nước Trời, Nước Thiên Chúa dành cho những tâm hồn đơn sơ, bé mọn và mãi luôn tín thác vào Thiên Chúa. Người đó sẽ không hề phải phụ thuộc vào thế gian, không phải quỵ lụy thế gian cũng như không hề có ý định hay ý định vun vén thế gian vào lòng mình.

Thật ra, thật giằng co khi con người sống ở giữa thế gian mà lại mời gọi họ từ bỏ những gì thuộc về họ, thuộc về thế gian. Đơn giản dễ hiểu là con người cần tiền, cần vật chất, cần quyền, cần danh để sống giữa cuộc đời. Nay lại bảo phải từ bỏ e rằng khó.

Chính khi nghe lại lời mời gọi này, ta lại bắt gặp hình ảnh của ta về căn tính người môn đệ chân chính của Chúa.

Nếu như cuộc sống của ta, ta cảm thấy bình an, ta cảm thấy đủ với những gì ta đang có thì ta thật hạnh phúc bởi lẽ ta đã thấy đủ. Khi ta tạm gọi là “dừng cuộc chơi” nghĩa là khi ta ý thức được chuyện không phải thủ cái gì cho đời ta cả.

Chắc có lẽ, chính có ta mới lượng giá được căn tính người môn đệ có ở trong ta như thế nào ?

Có khi ta biện minh rằng ta cần cái này cái kia cho cuộc sống để rồi ta chạy đi tìm, đi sắm, đi trang bị. Nực cười là ta quá lo lắng để ta đi tìm những cái để thủ cho đời ta mà những thứ đó chính ta tự nghĩ ra.

Giản đơn nhất để thấy điều đó là thi thoảng ta chịu khó dọn cái phòng của ta. Thật ngạc nhiên khi ta thấy cứ ngày mỗi ngày cái phòng của ta chật lại và đường đi hẹp lại vì ta vun vén quá nhiều. Ta không chỉ lo cho ngày mai mà lo cả lo cho ngày mốt, ngày kia, ngày kìa nữa … có những thứ mà ta cố sắm nhưng chẳng bao giờ xài đến, chẳng bao giờ đụng đến cả.

Hay là, ta thử dừng lại để ta dọn lòng ta thử. Khi dọn lòng, ta sẽ thấy lòng ta vẫn còn đó bề bộn, vẫn còn bừa bãi bởi những thứ làm cho ta nặng nề không thanh thoát đủ để bước lên đường rao giảng Tin Mừng như Chúa mời gọi. Có khi lòng ta còn nặng nề bởi sự sân hận, bởi sự ganh ghét anh chị em đồng loại.

Có lẽ, hài nhất và thực tế nhất đó chính là chuyện Chúa bảo là anh em không được mặc hai áo. Hai áo ở đây ta có thể hiểu được cả về cái áo vật chất và cả cái áo tâm hồn của ta.

Chúa đã trang bị, Chúa đã cho ta cái áo thật tinh tuyền nhưng rồi ta lại tự trang bị cho ta những cái áo giáp. Những cái mà ta tìm, ta trang bị xem ra không phù hợp với cái y phục tiệc cưới Nước Trời mà Chủ tiệc cưới mời gọi. Những cái áo mà ta trang bị nó được thêu dệt nên bởi sự giả tạo, sự giả dối của ta nhằm che mắt thiên hạ cũng như mắt Chúa. Thế nhưng, duy chỉ mình Chúa mới là người nhìn thấy suốt lòng ta, thấu suốt những chiếc áo của đời ta.

Về chiếc áo vật chất theo cách hiểu bình thường như Chúa nói đó. Chúa mời gọi mỗi người hãy sống hết lòng đơn giản, đừng trang bị cho mình hai áo cũng như những chiếc áo lụa là gấm vóc … Hãy mặc lấy cho mình một chiếc áo thôi, còn mọi chuyện khác Chúa sẽ quan phòng và Chúa sẽ an bài.

Nhắc đến chuyện này, tôi cũng cảm thấy ngượng về chính bản thân mình. Có khi tôi cũng tự nghĩ rằng mình sống giản đơn, ít quần áo nhưng xem ra còn nhiều hơn bậc thầy của mình mấy bậc.

Tôi có một người thầy, phải nói rằng Thầy là mẫu gương cho sự thanh thoát, nhẹ nhàng từ “cấu hình” cho đến “hình thể”. Cấu hình của Thầy thật mỏng manh, mảnh mai… nhìn vào Thầy, ai ai cũng thấy được một sự hãm mình về chuyện ăn uống. Và thật là như thế ! Thầy giản đơn từ cách ăn cho đến kiểu mặc. Nhìn tới nhìn lui, Thầy chỉ có đúng 3 bộ đồ trong người chứ không tìm thấy hơn nữa.

Quả chăng, Thầy chính là người gần nhất để tôi soi rọi đời mình. Nhìn Thầy, có khi chợt nhận ra rằng mình còn vun vén hơn Thầy của mình nhiều.

Và hôm nay, bắt gặp trang Tin Mừng mà Thầy Giêsu nói về căn tính người môn đệ, tôi không còn giật mình nữa mà giật bắn cả mình và thót cả tim khi nhìn lại bản thân mình về vật chất. Có khi đã được nghe nhiều, nói nhiều, dạy nhiều nhưng những bài học đó cũng như lời mời gọi của Thầy bị tôi bỏ ngoài tai. Chính vì bỏ ngoài tai lời của Thầy Giêsu nên tôi cứ mãi miết lo lắng cho mình về sự đời. Nhưng, nhìn thực tế, Chúa có để cho ai phải đói, phải không có cơm ăn áo mặc đâu mà ta lại cứ mãi lăn tăn. Chính vì ham hố, chính vì thiếu niềm tin vào Thầy Giêsu để rồi ta cứ lăn tăn đi tìm, trang bị cho mình những thứ phù du, nay còn mai mất.

Ta sẽ mang theo được gì khi đi đến mộ phần ?

Cũng nghe nhiều nhưng mới đây, nghe một bác dược sĩ già đam mê âm nhạc đã diễn tả lòng mình qua ca khúc quen thuộc của cố nhạc sĩ họ Trịnh :

 

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai vươn hình hài lớn dậy

Ôi cát bụi tuyệt vời

Mặt trời soi một kiếp rong chơi

 

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi

Ôi cát bụi mệt nhoài

Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi

 

Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chiều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy

Cho trăm năm vào chết một ngày”

 

Tất cả cũng trở về cát bụi, tất cả cũng chỉ là phù vân để rồi ta cứ mãi chạy đi tìm và lấp đầy lòng ta cát bụi và phù vân.

Tạ ơn Chúa vì ngày hôm nay Chúa lại nhắc nhớ ta về thân phận con người, cách riêng về căn tính của người môn đệ.

Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta rũ bỏ tất cả những gì là vướng bận ta không trở thành người môn đệ chân chính. Xin cho ta có một tâm hồn trẻ bé để luôn luôn tín thác đời ta trong tay Chúa vậy.

Về mục lục

 

NƯỚC TRỜI VÀ SỰ SỐNG

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại và sai các ông đi từng hai người một để “rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (c. 12). Như thế, các Tông Đồ được sai đi rao giảng, rao giảng “Tin Mừng Nước Thiên Chúa” như chính Người đã rao giảng ngay từ khởi đầu đời sống công khai:

Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

(Mc 1, 14-15)

Triều Đại Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng mời gọi thực hiện hành trình sám hối. Bởi vì, để đón nhận Nước Trời đang đến, chúng ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta đón nhận Nước Trời, phải giữ khoảng cách với tất cả những gì không thuộc về hay không giúp hướng về Nước Trời, và phải định hướng sự qui về Nước Trời, như Đức Giê-su mời gọi chúng ta trong Bài Giảng Trên Núi: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33).

 

  1. Tin Mừng Sự Sống

Các Tông Đồ được sai đi rao giảng Tin Mừng, và dấu chỉ của Tin Mừng Triều Đại Thiên Chúa đang đến là sứ vụ phục vụ cho sự sống của con người: “Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (Mc 1, 34; và các bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô của những tuần vừa qua). Chính vì thế, khi được sai đi rao giảng, các Tông Đồ được chia sẻ sứ vụ phục vụ cho sự sống của Đức Giê-su:

Người ban cho các ông quyền trừ quỷ… Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

(c. 7 và 12-13)

Như thế, chúng ta có thể nói, Tin Mừng Triều Đại Thiên Chúa là Tin Mừng mang lại sự sống, là “Tin Mừng Sự Sống”. Như chính Đức Giê-su, hiện thân của Tin Mừng Nước Trời, nói về sứ vụ của Người: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Chính vì thế, Tin Mừng Nước Trời của Đức Giê-su Ki-tô mang lại “Niềm Vui”, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đặc biệt nhấn mạnh trong Thông Điệp “Niềm Vui Tin Mừng” (Gaudium Evangelii) và Tông Huấn về Năm Đời Sống Thánh Hiến.

Về sự sống của loài người và của từng người chúng ta. Chúng ta thường bị ấn tượng và ưa thích những phép lạ chữa bệnh, vì bệnh tật làm cho con người khốn khổ. Tuy nhiên, bệnh tật lại thuộc về thân phận con người, đã là người thì phải trải qua, không tránh được: sinh lão bệnh tử; nhưng sự sống của con người còn bị quấy phá, bị chi phối bởi ma quỉ, bởi thần dữ, trong mức độ ma quỉ gieo vào lòng con người và vào tương quan giữa người với người sự nghi ngờ, loại trừ, bạo lực, ham muốn, ghen tị, dục vọng… Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những sự dữ này còn phá hoại sự sống của chúng ta hơn cả bệnh tật. Chỉ có Lời Chúa, và tuyệt đỉnh là Lời Thập Giá (x. 1Cr 18, 1) mới có thể chữa lành, giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ.

Theo lời kể của thánh Mát-thêu, các môn đệ được mời gọi phục vụ cho sự sống, trong tâm tình nhưng không : « Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy » (Mt 10, 8). Và không ở đâu sự nhưng không được thể hiện cách tuyệt đối, như ở ơn huệ sự sống. Như thế, Nước Trời gắn liền với sứ mạng phục vụ cho sự sống cách nhưng không. Bởi vì Nước Trời là Nước của Thiên Chúa, và Thiên Chúa là Nhưng Không, vì Người là Tình Yêu.

 

  1. Lời Chúa là Thần Khí

Khi sai các môn đệ đi rao giảng, Đức Giê-su căn dặn rất chi tiết và triệt để, chi tiết và triệt để đến độ không thể thực hiện được:

Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”.

(c. 8-10)

Bởi vì, nếu chúng ta làm theo y như lời dặn này của Đức Giê-su, chúng ta không thể rao giảng được mấy ngày, thậm chí đi tĩnh tâm cũng không được ! Tuy nhiên, nếu chúng ta không sống theo lời của Đức Giê-su, thì chúng ta sẽ giống như người xây nhà trên cát (x. Mt 7, 24-27), sẽ chẳng sinh hoa kết quả để tôn vinh Thiên Chúa (x. Ga 15, 5; 21, 3-6).

Đức Giê-su cố ý nói thật triệt để như thế, để một đàng chúng ta không thể biến lời của Ngài thành lề luật, hiểu theo chữ viết, đàng khác mặc khải cho chúng ta một năng động được thúc đẩy và lôi cuốn bởi Thần Khí. Bỡi lẽ, Lời Chúa là thần khí (x. 2Cr 3, 17). Những lời của Đức Giêsu không mô tả cho chúng ta những hành vi phải thực hiện cách chính xác, nhưng mời gọi chúng ta hướng tới, nếu cần thiết, thật xa theo năng động mà lời của Ngài gợi ra. Lời dặn của Đức Giê-su muốn nhắc nhở chúng ta rằng, sứ vụ của chúng ta phải được thi hành dựa trên ơn ban nhưng không của Chúa, chứ không phải là dựa trên các phương tiện và tài năng của chúng ta ; và nếu có các phương tiện và tài năng, thì tất cả là ơn huệ Chúa ban cách nhưng không.

 

  1. Sống mầu nhiệm Vượt Qua

Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể hiểu được lời này, và mọi lời nói của Đức Giê-su, dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua mà thôi. Thực vậy, trong cuộc thương khó và nhất là trên thập giá, Đức Giê-su hoàn toàn không có gì, không có dép, gậy, áo, thậm chí chân cũng không đạp đất; nhưng đó lại là lúc:

  • Người hoàn toàn sống bằng sự sống của Chúa Cha, và nên một với Chúa Cha bằng tình yêu.
  • Người tự do với phương tiện, quyền lực, danh vọng, mà ma quỉ gợi ý và con người chờ đợi, để cảm thông và nên một với loài người ở mức độ thấp nhất: đau khổ trong thân xác, đau khổ vì bị bỏ rơi và chính sự chết, chết như một tử tội và ở giữa những tử tội.
  • Người bày tỏ khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa là ánh sáng, sự sống, hiền lành khiêm tốn, sự thiện, có sức mạnh đánh tan bóng tối, sự chết, bạo lực, sự dữ và ma quỉ, để dẫn đưa loài Người về với Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần.

* * *

Như thế, Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm này nói về mầu nhiệm Vượt Qua mà Người sẽ sống và mời gọi tất cả những ai tin, yêu và đi theo Người sống mầu nhiệm này mỗi ngày: đó là để cho Sự Sống mạnh hơn sự chết của Thiên Chúa được tỏ hiện, nơi những gì nhỏ bé giới hạn yếu đuối của chúng ta.

Về mục lục

 

 

NGÀI GỌI VÀ SAI ĐI

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy Niệm

Ðức Giêsu là người làm nên Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14),
họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi
phải là người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Ðức Giêsu sai họ lên đường.
Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có:
quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Ðó là hành trang lên đường của các ông.
Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc:
một chiếc áo đang mặc,
một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Ðức Giêsu cấm các ông không được mang theo
lương thực, bao bị, tiền bạc…
Không lương thực đi đường nên có thể bị đói.
Không bao bị nên không thể để dành.
Không tiền bạc nên không thể mua sắm.
Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa
vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm.

Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia,
lê gót qua các làng mạc và thành phố.
Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công,
vì họ nhớ lời của Thầy:
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ.
Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.

Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa đang đến.
Ðó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa.
Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói.
Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng,
không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân,
cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận.
Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón
một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ.
Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng.
Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh.
Họ đem đến cho con người niềm vui,
sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.

Hôm nay Ðức Giêsu vẫn sai ta đến trong thế giới.
Ði từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau.
Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa,
nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa.
Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật:
bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín…
Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.

Về mục lục