Các bài suy niệm Chúa Nhật 14 Thường Niên Năm B

822

Các bài suy niệm Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm B

Lời Chúa: Ed 2, 2-5;  2Cr 12, 7-10;  Mc 6, 1-6

——-

Mục lục

  1. Người gieo niềm hy vọng (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Nghe Để Hiểu(Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  3. Gặp Gỡ Chúa Giêsu Qua Những Cái Bình Thường Của Ngày Sống(Lm. Ngọc Dũng, SDB)
  4. Yêu là thế  (Lm. Jos DĐH. Gp.Xuân Lộc)
  5. Giá trị con người  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
  6. Tại sao tôi không gặp được Đức Giêsu?  (Lm. Phaolô Phạm trọng Phương)
  7. Bụt nhà vẫn thiêng  (Alphonse Marie Trần Bình An)
  8. Hãy trân trọng người thân và cầu nguyện cho quê hương (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  9. Con người cứng lòng khiến Chúa ngạc nhiên  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  10. Thành kiến làm cản trở đức tin  (Lm. Trần Bình Trọng)
  11. Vượt lên định kiến (Maria Hồng Phúc, MTG.Thủ Đức)
  12. Lấy làm lạ vì họ không tin (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  13. Trở về quê nhà  (Gioan Phạm Duy Anh, SJ)
  14. Suy diễn  (Trầm Thiên Thu)

 

Mục lục (2018)

1. Vững tin giữa cuộc đời đầy biến động  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đừng để lỡ cơ hội  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Tin mới thấy được  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Đừng xem thường nhau (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Được Chúa viếng thăm (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

6. Quê hương  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Hãy rao giảng Tin mừng, dù gặp điều bất lợi (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Không làm được phép lạ nào (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

9. Thành kiến  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Họ vấp ngã vì Người (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

11. Vị tiên tri bị chối từ (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

12. Vai trò ngôn sứ  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

13. Chối từ  (Lm. Louis Minh Nhiên, CRM)

14. Quê hương mình  (Lm. Nguyễn Thái)

15. Sứ mạng của tiên tri (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

16. Khai tử niềm vui  (Lm. Vũ Đình Tường)

17. Người lấy làm lạ vì họ không tin  (Lm. Phan Văn Lợi)

18. Chúa Nhật 14 Thường niên_B (Lm. Antôn)

19. Ngôn sứ bị từ chối  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

20. Thói kiêu ngạo và định kiến đã cản trở ơn cứu độ (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

21. Lòng chai dạ đá   (JM. Lam Thy, ĐVD)

22. Cần xác định lại bậc thang giá trị (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

23. Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh (Lm.Bosco Dương Trung Tín )

24. Phải tránh óc thành kiến để được ơn cứu độ  (Lm. Đan Vinh)

25. Suy niệm và chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 14 Thường niên_B (Lm. Inhaxio Hồ thông)

26. Biết và không  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

 

NGƯỜI GIEO NIỀM HY VỌNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Đọc Kinh Thánh Cựu ước, chúng ta thấy bất kể thời nào, Thiên Chúa cũng sai sứ giả của Ngài đến để hướng dẫn dân Do Thái. Dù dân này cứng cổ và phản nghịch, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi họ. Ngài vừa là một nhà giáo dục khôn ngoan, kiên nhẫn, mạnh mẽ lên án những sai lầm của dân, nhưng cũng là một người Cha bao dung tha thứ những tội lỗi dân đã phạm. Những sứ giả của Thiên Chúa cũng được gọi là tiên tri hay ngôn sứ, tức là những người được sai đi để chuyển tải sứ điệp của Thiên Chúa. Trong bối cảnh đau thương, thất bại, sa đoạ của dân Do Thái, họ là những người xây dựng hoà bình và gieo niềm hy vọng.

Êdêkien là một vị ngôn sứ sống ở cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ông cùng chia sẻ thân phận lưu đày tại Babylon với dân tộc mình. Trong cảnh lưu đày xa quê, vào thời điểm không còn đền thờ, không còn nghi thức tế tự, cũng giống các ngôn sứ khác, ông có sứ mạng giúp dân duy trì niềm tin, tránh xa việc thờ ngẫu tượng cũng như những ảnh hưởng ngoại lai. Bài đọc hôm nay kể lại việc Chúa trao sứ vụ cho ngôn sứ Edêkien. Chúa cho ông biết trước, đây là một nhiệm vụ khó khăn và sẽ gặp nhiều chống đối. Lời trấn an «đừng sợ» được lặp đi lặp lại, cho thấy Thiên Chúa luôn ở bên và đồng hành với những sứ giả của Ngài. Chúa cũng hứa trước, Ngài sẽ ban cho vị ngôn sứ sức mạnh can trường, để có thể đương đầu với những nghịch cảnh. Như chúng ta đọc thấy trong sách ngôn sứ mang tên ông, vị ngôn sứ đã nhiệt thành chuyên cần và can đảm để rao giảng Lời Chúa, củng cố đức tin, loan báo niềm hy vọng cho dân chúng. Ông cũng được gọi là ngôn sứ của niềm hy vọng. Ông chuyển tải đến Dân Chúa lời hứa hẹn sẽ có ngày Chúa mở huyệt và đưa mọi người đã chết ra khỏi đó (x. Ed 11,19). Sẽ có ngày Chúa sẽ ban cho dân một quả tim mới, bỏ đi quả tim chai đá, thay vào đó là quả tim bằng thịt biết yêu thương. Ông cũng được gọi là vị Ngôn sứ của Thần Khí Thiên Chúa. Ông loan báo sẽ có ngày Thần Khí Chúa can thiệp làm cho dân được sức sống mới, như những bộ xương khô dường như không còn chút hy vọng sẽ tái sinh và trở thành những con người cường tráng (x. Ed 37,1-14). Những hình ảnh này đã nâng đỡ và khích lệ dân tộc đang lưu đày xa quê và đang chịu ngàn nỗi thống khổ.

Để thực hiện chương trình cứu nhân độ thế, Thiên Chúa đã sai con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian. Người là vị Ngôn sứ vĩ đại nhất trong lịch sử. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai có sứ mạng cứu nhân độ thế. Lời nói và việc làm của Người đã chứng tỏ quyền năng thiên linh, đồng thời nhằm đem cho con người sự giải thoát. Khi nghe lời Chúa giảng dạy, những người nghe đã thốt lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7, 16). Lời Người giảng dạy vừa có uy quyền vừa có sức thu hút lạ kỳ. Hễ người đi đến đâu, dân chúng đi theo rất đông để đón nhận Lời Hằng Sống. Trước uy quyền của Người, những kẻ thù ghét Người cũng phải chùn bước.

Nếu có nhiều người đón nhận giáo huấn của vị ngôn sứ thành Nagiarét, thì cũng có những người khước từ và mưu mô chống đối. Đó là trường hợp những người đồng hương của Chúa Giêsu. Thánh Máccô trong Tin Mừng hôm nay kể lại một chuyến về thăm quê của Người. Người thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, khi vào Hội đường để đọc và chú giải Sách Thánh. Đây là một sinh hoạt hàng tuần của các cộng đoàn Do Thái. Rất nhiều người ngạc nhiên vì lời giảng dạy của Chúa sâu sắc và khôn ngoan. Tuy vậy, cũng có những người dè bỉu chế nhạo. Khi không bắt bẻ được Người trong lời giảng dạy, họ bàn tán chê bai về gia đình và thân thế của Người. Họ lôi nghề nghiệp thợ mộc của cha Người để soi mói và nhằm giảm uy thế của Người. Họ chỉ đánh giá Người theo cái nhìn ghen tỵ và thành kiến. “Ngôn sứ không được tôn trọng tại chính quê hương mình…” Chúa Giêsu đã nhắc lại một câu ngạn ngữ thường được sử dụng trong giới bình dân, để chỉ sự cứng lòng của họ.

Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được trao ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Ngôn có nghĩa là lời; Sứ có nghĩa là được sai đi. Ngôn sứ tức là người được sai đi để nói Lời của Chúa. Nhiệm vụ này, không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì “Trung ngôn nghịch nhĩ – Lời nói thẳng thì khó nghe”. Để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, có những lúc người tín hữu giống như người bơi ngược dòng. Trong khi nhiều người dễ dàng chấp nhận sự dối trá, thỏa hiệp để được lợi lộc danh vọng, thì người Kitô hữu phải cân nhắc kỹ càng để không phạm Luật Chúa và không làm trái với lương tâm. Lịch sử ghi lại rất nhiều tín hữu đã chọn con đường thập giá của Chúa Giêsu để làm chứng cho sự thật. Các thánh tử đạo là những ví dụ điển hình và là gương mẫu cho chúng ta về lòng trung thành với Chúa, noi gương Chúa Giêsu.

Trong bối cảnh xã hội còn nhiều bóng tối do bạo lực, ghen ghét, hận thù và tranh chấp, mỗi người tín hữu phải là một ngôn sứ của hy vọng. Niềm hy vọng đối với người Kitô hữu không chỉ là một thái độ sống, nhưng còn là một nhân đức đối thần, đó là đức cậy trông. Khi chúng ta đặt niềm hy vọng nơi Chúa, thì niềm hy vọng ấy là sự trông cậy. Trông cậy vào Chúa tức là chúng ta tin Ngài có thể làm được mọi sự, vì Ngài vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là Đấng thành tín yêu thương. Các ngôn sứ và các thánh vịnh khẳng định với chúng ta : ai tin vào Thiên Chúa sẽ không bao giờ phải thất vọng. Ngài là Cha nhân hậu, luôn muốn những điều tốt đẹp cho con cái mình. Đôi lúc chúng ta không nhận ra những điều tốt đẹp ấy, như người con còn nhỏ không hiểu thiện ý của cha mẹ, mà lại cho đó là những kìm hãm ràng buộc, nên khó chịu và buồn lòng. Kitô hữu là người cậy trông ở Chúa. Kitô hữu cũng là người gieo niềm hy vọng đối với những người đang sống xung quanh. Lối sống thân thiện, lạc quan và hài hoà chính là những hạt giống làm nảy sinh hoa trái của niềm hy vọng đối với những người chung sống. Người Do Thái lưu đày ở Babylon đã nhờ các ngôn sứ, trong đó nổi bật là ngôn sứ Edêkien, mà họ bớt tiêu cực chán nản và họ vững tin vào Chúa. Ước chi nhờ đời sống lạc quan của người Kitô hữu, mà những ai đau khổ chán chường được tiếp sức để biét trân trọng và yêu mến cuộc sống này hơn.

Sống và thực thi ơn gọi ngôn sứ đòi hỏi sự kiên trì. Mặc dù bị chống đối, Chúa Giêsu không nản chí và thối lui. Người tiếp tục lên đường đến các làng mạc khác mà giảng dạy. Thánh Phaolô noi gương Thày mình, ông đã trải qua nhiều khó khăn thử thách trong khi thi hành nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Ông không buồn, trái lại, ông rất lạc quan: «Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô». Phaolô bền tâm vững chí trong sứ mạng, vì ông tin tưởng vào lời Chúa: ơn Ta đủ cho con. Quả vậy, Chúa luôn ban ơn trợ giúp đúng lúc và đủ cho những ai cậy trông vào Ngài.

«Thần khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó». Lời Kinh Thánh quen thuộc nhắc chúng ta danh dự và bổn phận của người Kitô hữu. Bất luận già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, ai trong chúng ta cũng được Chúa sai đi để làm chứng cho Ngài. Không ai viện cớ mình không có khả năng để từ chối bổn phận này, vì lời chứng cho Tin Mừng rất đơn giản: một lời nói, một nụ cười, và cụ thể hơn cả là lối sống tốt lành của mỗi chúng ta.

Về mục lục

NGHE ĐỂ HIỂU

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Mọi người rất tự do để nhận biết, ai là người tài giỏi, khôn ngoan, ai tri thức, hoặc vô cùng chủ quan khi nhận định tốt xấu, thật giả ! Tâm lý tự nhiên, ai chẳng thích thực tế, đơn giản, vắn gọn đủ điều, sợ dài dòng lý thuyết, dù mơ ước chung là làm gì để có hạnh phúc. Cuộc sống đâu phải chỉ có thích hay sợ, trải qua kinh nghiệm, cha ông chúng ta rất sòng phẳng với quan niệm: có vay có trả, có được có mất, đó là sự thật. Khao khát được hạnh phúc, ước muốn thành tài, là chính đáng, tuy nhiên, phải nỗ lực, cố gắng tập luyện, sẽ không có gì quá đáng, như chúng ta đã nghe biết: có công mài sắt có ngày nên kim. Tại hội đường Nagiaret, Đức Giêsu nói hay, làm rung động lòng người: “nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người” ! “Sao ông này được khôn ngoan như vậy” ?

Chỉ nghe thôi chưa đủ, chỉ được khen, được vỗ tay, có gì là thú vị, dù tay bắt mặt mừng, dù được cụ thể “cái nhìn” trăm nghe không bằng một thấy ! Đám đông xưa kia đã tự thốt lên: “bởi đâu ông này được như vậy, bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy” ? Nghe cho vui tai, nghe để thoả mãn tính hiếu kỳ, liệu có ổn không, hẳn chỉ là chỉ sự trống rỗng sau vài phút giây thích thú. Ăn uống phải lịch sự, làm việc cần có phương pháp, học hỏi không bao giờ thừa đối với mọi lứa tuổi, lắng nghe chính là cơ hội để nắm bắt về mình, về cái nhìn hạn hẹp về mình. Học đi đôi với hành, nhờ học hành người ta mới cảm nhận được thời gian trôi qua là khoảnh khắc hạnh phúc vụt tắt, tình yêu cứ tan vỡ người ta mới ngộ ra mình đã từng yêu.

Không gì quý hơn độc lập tự do, không gì hạnh phúc hơn được gặp thần tượng của mình, và không gì đáng tiếc hơn khi gặp Đức Giêsu vừa tài vừa đức mà trở về cuộc sống với sự “trắng tay” ! Vâng, nghe để hiểu, để biết, mình giới hạn, cần được yêu thương, cần được lớn khôn và trưởng thành. Từ kinh nghiệm bản thân, các đấng bậc chao rằng: nói hay không bằng nghe giỏi. Nghe để hiểu, để biết rõ hơn: hạnh phúc là một thực tế đơn giản, lúc vui có người chia sẻ, lúc buồn có bạn lắng nghe, lúc khổ đau có người đồng hành. Nghe để hiểu, để biết: không ai có thể làm được tất cả, nhưng mọi người cùng nhau sẽ làm được mọi điều tốt đẹp. Nghe để hiểu, để sống tinh thần chung: muốn ăn quả ngọt, hãy gieo trồng giống tốt.

Người xưa có câu: sảy chân gượng lại còn được, sảy miệng biết nói làm sao bây giờ. Đúng, sảy chân, sảy miệng, đều có thể để lại hậu quả xấu: “ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao ? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao” ? Nghe để hiểu, sự gắn kết giữa các thành viên gia đình là nụ cười của đứa trẻ, là tình yêu thương của người mẹ và là niềm vui nơi người cha. Nghe để hiểu, để biết và tự tin hơn: sống thọ hay chết yểu không quan trọng, miễn sao ta có cuộc sống bình an, niềm vui, thế là đủ. Cơ hội để gặp, để được nghe, để được hiểu biết, người ta cần phải có khao khát sống tốt, sống chuẩn hơn: chỉ cần bạn tin, mọi thứ sẽ ổn thoả.

Tại hội đường năm xưa, đám đông dân làng Nagiaret đã gặp, đã nghe, đã thấy, họ thích thú bởi phong cách giảng dạy của Đức Giêsu, nhưng đón nhận và sống giáo huấn của Đấng là Thầy là Chúa mới quan trọng. Đâu phải tự nhiên mà các đấng lại nói: cái đẹp mà không kết hợp với cái nết, có khác gì một bông hoa chẳng hương, chẳng sắc ? Khôn ngoan, tài giỏi mà “tâm phật khẩu xà”, kết quả tốt cho mình, cho đời không thấy, hẳn còn để lại tai hoạ xấu cho anh chị em. Đồng ý rằng, sứ mạng chung của các ngôn sứ không bao giờ xuôi thuận, các ngài luôn phải đối diện với nghịch cảnh, khổ đau và cái chết ! Đức Giêsu cho thấy, tài năng, lời nói việc làm, chưa thể thuyết phục được người cứng lòng tin, rất cần đến tinh thần cầu nguyện, gọi là thời gian, là kiên nhẫn.

Có 3 con trâu đang cùng ăn cỏ trên một ngọn đồi, bỗng một chú tỏ ra buồn phiền, chỉ loáng thoáng gặp một vài ngọn cỏ, hai chú trâu bạn nhận biết tình thế, liền chân thành hỏi bạn lý do ? Lắng nghe chú trâu bạn chia sẻ: thời đại văn minh, con người làm ra máy móc để thay trâu bò, chúng ta sẽ vô dụng, ăn cho béo tốt làm chi rồi cũng sớm trở thành trâu nhúng mẻ cho bọn nhậu mà thôi. Hai chú trâu lạc quan nói: cho dù chúng ta sẽ không cày ruộc, không kéo xe, chúng ta hãy cứ vui vẻ ăn cỏ, tung tăng trên cánh đồng, rồi cuối cùng trở thành thực phẩm tốt cho chủ, có sao đâu ! Ai chẳng phải chết, đừng làm tổn hại đến danh dự họ nhà trâu. Trâu chăm chỉ, trâu mãi mãi là một thành viên của bác nông dân tốt lành. Là kitô hữu, là thành viên của Đại gia đình Hội Thánh, chúng ta có cơ hội để nghe, để hiểu, và để sống tinh thần người môn đệ Đức Kitô: nhanh nhạy trước sứ vụ và ơn gọi riêng của mình.

Về mục lục

GẶP GỠ CHÚA GIÊSU QUA NHỮNG CÁI BÌNH THƯỜNG CỦA NGÀY SỐNG

(Ed 2:2-5; 2 Cr 12:7-10; Mc 6:1-6)

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Nhiều người thường nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong những gì là vĩ đại hoặc ngoại thường. Còn những gì bình thường dễ làm cho nhiều người trong chúng ta nhàm chán. Điều này có một ảnh hưởng rất lớn trên đời sống thiêng liêng của chúng ta. Nhiều lần trong ngày sống, Thiên Chúa đến với chúng ta trong những gì là bình thường nhất – trong những công việc phục vụ nhỏ bé mà không ai muốn làm hoặc trong những người mà không ai muốn chăm sóc yêu thương – nhưng chúng ta không mấy quan tâm. Điều này không chỉ xảy ra cho chúng ta bây giờ. Ngay cả trong thời của Ngôn sứ Êdêkien và trong thời của Chúa Giêsu, người Do Thái đã không nhận ra vị ngôn sứ được Chúa sai đến và không nhận ra Con Một Thiên Chúa sai đến. Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Êdêkien được Đức Chúa sai đến với dân Israel, “dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại” Đức Chúa (Ed 2:3). Vì là dân phản loạn, nên Chúa Giêsu cũng khuyến cáo Êdêkien rằng, họ “có thể nghe hoặc không nghe” ông (Ed 2:5). Điều quan trọng ở đây là dù dân Israel có nghe hoặc không nghe, Êdêkien phải chu toàn sứ mệnh của mình, đó là sống trọn vẹn ơn gọi làm ngôn sứ của mình ở giữa “dân phản loạn.” Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về việc làm chứng cho Chúa trong đời sống thường ngày. Nhiều khi chúng ta trở nên kiêu ngạo khi được nhiều người ngưỡng mộ; nhưng rồi, khi bị chống đối hoặc không được nghe theo, chúng ta trở nên nản chí và bỏ cuộc. Hãy sống trọn vẹn ơn gọi của mình hơn là để ý đến kết quả mà chúng ta để lại trên người khác. Điều đó là do ân sủng của Chúa!

Khi đối diện với những yếu đuối của thân xác, nhiều người trong chúng ta thường có cảm giác mặc cảm hoặc thất vọng về chính mình. Nhưng chúng ta cần ý thức rằng, những yếu đuối của thân xác giúp chúng ta khiêm nhường và ý thức hơn sự nương tựa Chúa, cần đến ân sủng của Người. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay quả quyết rằng: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:9). Trong yếu đuối của mình, chúng ta lại làm được những điều mà tự sức chúng ta không làm được. Đây là điều làm cho chúng ta vui mừng và tự hào, vì trong những việc như thế, chúng ta nhận ra là chính Chúa đang hành động trong chúng ta chứ không phải chúng ta đang làm: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:9-10). Những lời này mang lại cho chúng ta sự an ủi trong khi thất bại và yếu đuối. Bên cạnh đó, những lời này cũng nhắc nhở chúng ta về thái độ khiêm nhường cần phải có khi sống trong thân phận con người.

Thánh Máccô trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu trở về quê quán mình. Mỗi khi đi xa, chúng ta thường mong ước trở về quê quán mình vì ở đó chúng ta sẽ gặp được những người thân của mình. Chúa Giêsu cũng thế. Sau một thời gian xa nhà, Ngài về thăm Mẹ Maria và những người thân. Nhưng lần này, Ngài về với các môn đệ của Ngài: “Khi ấy, Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo” (Mc 6:1). Điều chúng ta lưu ý ở đây là Chúa Giêsu đã “nổi tiếng.” Đây chính là lăng kính để chúng ta hiểu phản ứng của dân chúng ở quê quán của Ngài. Nhìn trong bối cảnh chung của Tin Mừng, trình thuật Tin Mừng hôm nay kết thúc phần gồm ba hành động ngoại thường của Chúa Giêsu (làm biển lặng, trừ quỷ, chữa lành bệnh nhân). Phần kết thúc này nói về việc Chúa Giêsu bị loại trừ bởi những người thân, những người nơi quê quán mình. Chi tiết này rất quan trọng vì nó đưa những đề tài đang được thánh sử phát triển như ơn gọi người môn đệ và đức tin đến cùng đích. Nói cách khác, trình thuật này ám chỉ đến vận mệnh của những người môn đệ Chúa Giêsu, những người đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Họ sẽ bị loại trừ vì lối sống khác biệt, lối sống theo ân sủng chứ không theo tính xác thịt của mình.

Câu chuyện được đặt trong bối cảnh ngày sabát: “Đến ngày sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường” (Mc 6:2). Những lời này tiếp tục trình bày Chúa Giêsu như là thầy dạy và người chữa lành, điều đã được đề cập đến trong chương 1 (21-28). Chính những lời dạy và việc chữa lành của Chúa Giêsu trong ngày sabát là nguyên nhân những người Do Thái loại trừ và kết án Ngài. Tuy nhiên, điều chúng ta suy gẫm ở đây là thái độ của thính giả của Ngài. Khi nghe Ngài giảng “nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên” (Mc 6:2). Nhưng sau đó, họ đổi thái độ qua nghi ngờ, chất vấn, rồi vấp ngã: “Họ nói: ‘Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?’ Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6:2-3). Những câu hỏi trên liên quan đến nguồn gốc của sự khôn ngoan, nguồn gốc của quyền năng làm phép lạ và cuối cùng là nguồn gốc của chính Ngài. Chính những vấn nạn về nguồn gốc này đã làm họ thay đổi thái độ với Chúa Giêsu vì họ không thể vượt qua nguồn gốc con người của Chúa Giêsu. Sự thay đổi trong thái độ này cũng đươc phản chiếu trong đời sống mỗi người chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng thay đổi thái độ trong tương quan với Thiên Chúa và anh chị em mình từ ngạc nhiên, vui mừng đến chối bỏ, buồn sầu vì chúng ta không có cái nhìn vượt lên “nguồn gốc con người” của mọi sự. Để sống mãi trong thái độ kinh ngạc, thán phục, yêu thương và tôn vinh, chúng ta cần nhìn mọi sự với ánh mắt của Thiên Chúa; chúng ta cần đọc mọi sự dưới lăng kính của ân sủng hơn là dưới lăng kính của bản tính tự nhiên con người. Mọi sự xảy ra trong cuộc đời chúng ta đều có mục đích mang tính thiêng liêng. Chỉ những ai hiểu được ý nghĩa của ngày sabát, đó là nghỉ ngơi trong Chúa và với Chúa, mới có thể nhận ra mục đích thiêng liêng đó.

Trước thái độ loại bỏ của những người thân, những người ở quê quán mình, Chúa Giêsu sử dụng câu ngạn ngữ sau để trả lời: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Những lời này ám chỉ thái độ “quen thuộc thường là nguồn gốc của sự xem thường.” Nhưng điều giải thích cho những lời này là hành động đi kèm theo của Chúa Giêsu: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy” (Mc 6:5-6). Những lời này cho thấy, Chúa Giêsu “không thể” làm phép lạ nào, không phải là vì Ngài bị loại trừ hoặc xem thường, nhưng vì họ “không tin.” Như chúng ta biết, trong Kinh Thánh, đức tin luôn là điều kiện cần thiết cho phép lạ được thực hiện. Đức tin ở đây chính là “biết nhìn qua những gì mang tính con người để nhận ra nguồn gốc thần thiêng của mọi sự và mọi người.” Ở đây, chi tiết chúng ta lưu ý để suy gẫm là: không phải Chúa Giêsu “không thể” làm phép nào vì Ngài có đặt tay và chữa lành một vài bệnh nhân [“trong ngày sabát”]. Ngài vẫn làm việc tốt dù có bị khinh khi hoặc xem thường. Chúng ta thế nào: Khi bị anh chị em mình loại trừ hoặc xem thường, chúng ta có ngưng làm việc tốt hoặc tìm cách loại trừ và xem thường lại anh chị em mình không?

Về mục lục

YÊU LÀ THẾ

Lm. Jos DĐH.

Chẳng nhận ra cha mẹ mình là ai, suy nghĩ tích cực một chút ta sẽ nói: có thể vì người đó đui mù, câm điếc, hoặc điên khùng. Không thể phát hiện được việc làm tốt của anh chị em mình, suy nghĩ tự nhiên, nhiều người sẽ cho rằng bạn ấy đúng là vô cảm ! Mắt sáng tinh thông, tai nghe tốt, nhưng tâm trí mê muội, phán đoán sai lạc, có ai dám quả quyết kẻ đó bình thường không ? Cuộc sống hối hả, khiến tình bạn có thể phai nhạt, người ta bơn trải vì cơm áo gạo tiền, nhưng không lẽ bận rộn đến độ “lú lẫn” quên mất cội nguồn của mình ! Vâng, nếu không vô tâm vô tình, kẻ làm con sẽ đủ ý thức để hiểu: hạnh phúc nhất của tôi là có mẹ có cha, có mẹ để nói lời yêu, có cha để thực hành đức yêu thương. Yêu là thế, tình là thế, dù con cháu có từ chối lời răn dạy, có ngoảnh mặt làm ngơ món quà tinh thần của cha mẹ, các ngài vẫn hy vọng: con tôi sẽ tới đích, cho dù chúng gặp nhiều gian truân ở bước khởi đầu.

Đức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay: tài giỏi, đức độ, dồi dào năng lượng, được diễn tả qua lời nói việc làm, đầy chất yêu thương. Muôn dân ở khắp các vùng lân cận, tâm phục khẩu phục, khi họ được nghe, được xem thấy Đức Giêsu. Người bình dân ở hội đường hôm đó sửng sốt về giáo lý của Ngài, trong khi đó các luật sĩ chỉ nhận ra Ông Giêsu tài giỏi là con bác thợ bình thường. Thực ra, sống ở đời này, ai cũng có quyền tỏa sáng, đáng tiếc kẻ tiểu nhân lại muốn tỏa sáng trên “cái nền” là dập tắt người tốt. Đức Giêsu đến trần gian vì yêu, vì tình, Ngài kêu gọi mọi người mau sám hối vì nước trời đã đến, tại hội đường Nagiarét, Ngài mơ ước người đồng hương cũng giống như các dân dộc, sớm nhận biết Một Thiên Chúa cứu độ đang hiện diện nơi họ.

Con người giới hạn, tinh tế lắm mới nói được: yêu là chết ở trong lòng một tí, vì mấy khi yêu mà chắc được yêu. (Xuân Diệu). Người đồng hương hôm đó đã xúc phạm, từ chối Đức Giêsu, và chúng ta vẫn hiểu như thế nào về câu nói đầy ưu tư: “Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng” ! Phải chăng Đức Giêsu muốn nói riêng với các luật sĩ biệt phái, các bạn đừng ganh tỵ, đừng sợ mất ảnh hưởng, tai tiếng hay nổi tiếng rồi cũng qua đi, bình an, niềm vui ơn cứu mới là điều cần hơn cả. Yêu là thế, có vượt qua được đau khổ, có thắng được sự tự mãn nơi tâm tính bất toàn của mình, rồi bạn sẽ biết: có nhiều thứ ở xung quanh ta còn quan trọng hơn là được nổi tiếng. Hy vọng chúng ta đang tin yêu Thầy Giêsu, đang sống sứ mạng riêng của mình, sẽ không ngã lòng nản chí, dù ta yêu thật, và có bị người thân từ chối, tình yêu thương của ta vẫn không đổi thay.

Lời nói ngọt ngào, bài giảng thu hút, có nhất thiết phải trang bị đủ kiến thức, đủ khả năng diễn giải hay không, ấy vậy, nhiều người cho rằng, thuyết giảng là nghệ thuật nối kết giữa người nghe và người nói trong một tình yêu. Nếu bạn xinh đẹp, có chất giọng, hát đúng nhịp, liệu bạn đủ tố chất để thu phục người nghe, và có thể được gọi là ca sĩ chuyên nghiệp chưa ?  Một linh mục giảng hay, ngoài kiến thức, năng khiếu, đầu tư công sức dọn bài, linh mục đó còn phải có Chúa, bài giảng mới có hồn, có đủ lực lay động người nghe ? Chắc chắn người hương của Đức Giêsu năm xưa không mù, không điếc, nhưng có phải vì tự mãn kiêu căng, tai mắt họ không đủ tinh thông, họ không thể nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ ?

Yêu là thế, ngọt, mùi, và còn phải sống động, rõ ràng ai cũng trân trọng người tài giỏi đức độ, nể phục người có uy tín. Thời nào, hoàn cảnh nào: trời cao đất rộng vẫn cho ta những cơ hội để xem, để thấy, để hiểu, hạnh phúc thật luôn ở trong tầm tay của ta. Cuộc đời chúng ta được sánh ví như những trang sách chất chứa đầy kinh nghiệm: kẻ điên khùng, có thể sẽ xem lướt qua, người bình thường nhất, cũng biết đọc xem ứng dụng ; còn bạn, hãy thể hiện mình khôn ngoan: đọc, suy gẫm, và thực hành. Trong đời sống siêu nhiên, có khao khát được gặp Đức Giêsu, có nghiêm túc nghe giáo huấn của Ngài, thì cũng có cơ hội để hiểu, để tin Đức Giêsu là Thiên Chúa luôn đồng hành, chúc phúc cho ta đi tới bến bờ hạnh phúc.

Khối kẻ hiện tại vẫn trăn trở: yêu là gì, mà ngàn năm trước đến nay nhân loại vẫn khổ đau vì tình ? Kinh nghiệm cho thấy, nhiều kẻ yêu nhau lâu quá quên cả cưới, nhiều người cưới nhau lâu quá, quên cả yêu ! Cơ hội gặp Đức Giêsu hôm nay cũng thế, rất tự do, nghe giáo huấn của Đức Giêsu luôn là lời mời gọi, hiểu và sống niềm tin yêu, mãi mãi là một khám phá vừa mới vừa sống động. Có thể ta không đứng núi này trông núi kia, chẳng bận tâm linh mục ở thành thị, hay linh mục ở nông thôn ai giảng hấp dẫn, thu hút, nhưng ta đủ trưởng thành để thấy, để cảm nhận Đức Giêsu đang nói lời yêu, đang hành động vì tình, đang thực thi quyền năng yêu thương trên mỗi tâm hồn người khiêm tốn theo Chúa. Amen.

Về mục lục

GIÁ TRỊ CON NGƯỜI

Lm. I-nha-xi-ô Trần Ngà

Hiện nay, nhiều nơi trên thế giới và ngay tại Việt Nam chúng ta cũng có một số ngôi nhà úp ngược. Những ngôi nhà nầy giống y như những ngôi nhà khác nhưng mái nhà thì cắm xuống đất, còn nền móng thì chổng lên trời, tất cả đồ đạc bài trí trong nhà đều chúc ngược… khiến cho nhiều du khách mới nhìn qua cảm thấy choáng váng.

Nhìn những ngôi nhà úp ngược như thế, người ta liên tưởng đến các giá trị trong đời sống xã hội loài người hôm nay cũng bị đảo ngược cách đáng buồn.

Những phẩm chất đạo đức cao quý thì bị xem thường, bị dìm xuống, trong khi những điều thấp kém lại được tôn lên cao.

Cụ thể là, một số người xem thường những người tuy nghèo nhưng có tâm hồn cao đẹp, có phẩm chất cao quý, giàu lòng đạo đức và khiêm tốn… trong khi đó lại coi trọng những người thiếu phẩm chất đạo đức mà chỉ có bộ cánh hào nhoáng bên ngoài, có xe sang, nhà lớn…

Nhiều bạn trẻ nông nổi hôm nay tôn những diễn viên ăn mặc lố lăng, phong cách quái đản, tâm hồn rỗng tuếch… lên làm thần tượng, mà không biết quý trọng những người khôn ngoan và đạo đức…

Qua Tin mừng hôm nay, thánh Mác-cô cho thấy người dân thành Na-da-rét cũng đánh giá Chúa Giê-su theo nhãn quan đó.

Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân và nhờ những phép lạ Ngài làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, nhìn đến anh chị em họ hàng của Ngài thuộc hàng dân dã và ngay cả bản thân Ngài trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng… nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Ngài nữa.

Họ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Ngài” (Mc 6,3).

Thế là Chúa Giê-su chẳng làm phép lạ nào tại Na-da-rét cho người đồng hương. Ngài rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.

Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giê-su theo dáng vẻ bên ngoài, dựa vào gia thế, nghề nghiệp… mà không dựa vào phẩm chất cao quý của Ngài, nên dân làng Na-da-rét đã xem thường Chúa Giê-su và đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Ngài ưu ái dành cho họ. Cách đánh giá như thế khá phổ biến trong xã hội hôm nay.

Vì đề cao tiền tài, danh vọng, vẻ sang trọng bên ngoài… mà xem nhẹ những phẩm chất tinh thần cao đẹp bên trong nên giới trẻ ngày nay cố tạo cho mình có “lớp sơn” hào nhoáng bên ngoài, tranh đua ăn mặc sao cho hợp thời trang, cho lôi cuốn… còn đầu óc, trái tim và tâm hồn thì trống rỗng.

Vì say mê sự hào nhoáng của giàu sang mà coi rẻ nét đẹp tâm hồn nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!

Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào nhân đức, phẩm hạnh cao đẹp bên trong.

Trước thực trạng đó, Hội thánh nhắc nhở chúng ta rằng: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người”, còn nhân gian thì nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.”

Lạy Chúa Giê-su,

Xin dạy chúng con nhận ra rằng vẻ sang trọng và hào nhoáng bên ngoài chỉ là “lớp sơn” mỏng không thực sự làm gia tăng giá trị con người.

Xin giúp chúng con biết thẩm định giá trị con người dựa vào phẩm chất cao đẹp của họ, chứ không phải dựa vào những thứ “bao bì”, vỏ bọc bên ngoài.

Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.

Về mục lục

TẠI SAO TÔI KHÔNG GẶP ĐƯỢC ĐỨC GIÊSU?

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương 

Câu chuyện minh họa:

Trong truyện cổ Trung Hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:

– Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật

Dương phủ hỏi: Phật ở đâu?

Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó.

Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi ngoài cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.

Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà.

Nhận biết chính mình và nhận biết tha nhân không phải là chuyện dễ dàng trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Vì hình như ai ai cũng thích chính mình hơn người khác. Ai ai cũng thích sống tự khép mình, bảo vệ mình và lấy mình là trung tâm cho người khác. Vì thế, mối tương quan với nhau xem ra dễ dàng xảy ra xung đột trong lối sống hằng ngày. Vì thành kiến, vì kênh kệ và kiêu căng của chính mình nên khó chấp nhận anh chị em chung quanh. Đây cũng là lối sống của dân làng Nazaret khi đối xử với Đức Giê-su, Thiên Chúa làm người mà Tin mừng Chúa nhật 14 thường niên B hôm nay trình thuật. Họ đã không đón nhận Đức Giê-su vì ngài xuất phát từ ngôi làng thôn quê này dẫu lời giảng dạy đầy khôn ngoan kèm theo nhiều phép lạ của Đức Giê-su.

Đức Giê-su là Thiên Chúa hữu hình – yêu – sẵn sàng trao ban mọi ơn lành cho những ai thành tâm thiện chí và tin vào Ngài. Ngài tôn trọng tự do của con người. Luôn mong muốn con người được hạnh phúc và bình an. Thiên Chúa đó đã mang hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể, mang bản tính nhân loại nên sống rất gần gũi và giản dị đến nỗi mọi người, nhất là dân làng Nazaret đã không nhận ra Ngài là Thiên Chúa ở cùng nhân loại, thay vào đó, họ xem Ngài như người thợ mộc bình thường, như bao người dân quê khác. Họ chỉ nghĩ rằng Đấng Messia phải là người oai phong mãnh liệt, uy quyền và hùng dũng. Cho nên, họ đã không thể chấp nhận một Đức Giê-su con bác thợ mộc Giuse và bà Maria sống cùng làng với họ.

Họ quên mất rằng con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Họ quên mất rằng ‘nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí con người, con người có thể nhận biết cách chắc chắn về Thiên Chúa như là nguyên lý và cùng đích của mọi loài.’ (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 36). Nhưng chúng ta muốn biết tại sao dân làng Nazaret đã không đón nhận Đức Giê-su?

Quả thật, như chúng ta đã biết khi ai đó tự cao tự đại, kiêu căng, cậy sức mình, thượng tôn chủ nghĩa cá nhân thì dễ dàng khinh miệt người khác. Hơn nữa, họ có thể tự cho mình là khôn ngoan, là cái rốn của vũ trụ, là số một; không ai có thể hơn mình; tự mình giải quyết được mọi sự; mình là sao, là hạt giống tốt,…Nghĩ như vậy nên họ bất cần, chẳng cần đến ai, có thể khinh rẻ tất cả mọi người, chê bai kèm theo trách móc, luôn thành kiến hay xét đoán tiêu cực đối phương và phân biệt đối xử. Sống như vậy nên họ tạo bầu khí phản loạn, phá hoại, gây mất tình đoàn kết và tình liên đới. Họ cứng đầu cứng cổ, không nghe ai khuyên bảo, lì lợm, vô tổ chức, vô cảm, bất nhân hoặc bất tri lý,…Đọc lại phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta nhận thấy, nơi bài đọc I, (Ed 2, 2-5) dân Israen cũng đã sống xa cách Thiên Chúa của mình qua cách sống phản loạn và ngông cuồng. Cũng vậy, nơi bài Tin mừng, (Mc 6,1-6) chúng ta bắt gặp dân làng Nazaret có thể đang rơi vào cách sống đó khi đối diện với Đức Giê-su. Khi họ khư khư với lối sống thành kiến và coi thường đối với Đức Giê-su dẫu lời giảng dạy đầy khôn ngoan kèm theo nhiều phép lạ của Ngài.

Thật vậy, đứng trước những cách sống vô luân và sai lầm đó, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách thế, dùng nhiều trung gian đến để kêu gọi và giúp con người nhận ra cái sai đường lạc nẻo, cũng như vạch trần những cái tội, cái phản loạn, cái xấu xa, cái bất chính, cái yếu đuối,…để mong con người quyết tâm từ bỏ, ăn năn sám hối, dốc lòng chừa hầu trở về làm lại cuộc đời, trở về với Chúa và với anh chị em. Vì thế, con người cần biết bỏ đi cái ý riêng, cái tôi, cái kiêu căng, cái phản loạn để sống khiêm nhường, sống cho, sống cùng, sống với Chúa, với tha nhân và với vũ trụ thiên nhiên. Vì không ai là một hòn đảo. Do đó, khi con người chấp nhận trở về là dám chấp nhận khử trừ đi những thành kiến, những phán xét chủ quan để sống quảng đại hơn, yêu mến hơn và tin tưởng hơn,…Hơn nữa, con người cần năng xét mình để dễ nhận thấy tội và yếu đuối của mình nhằm tin vào sức mạnh của Chúa và tin Đấng có uy quyền ban phát mọi sự; năng bỏ mình để gặp gỡ Chúa và anh chị em. Lối sống liên đới với Chúa, với tha nhân là lối sống xây nhịp cầu yêu thương và gắn kết để tăng thêm sức mạnh cho bản thân cũng như tránh đi sự cô đơn chán chường trong cuộc sống.

Điều này, nơi bài đọc II, (2Cr 12, 7-10) Thánh Phaolô đã để lại mẫu gương cho mỗi chúng ta là biết nhận ra sai trái, cái tính kiêu căng của bản thân, biết nhận ra cái yếu đuối của chính mình để sức mạnh của Chúa được lớn lên và hoạt động trong con người của mình. Quả thật, khiêm nhường nhận ra những thiếu sót, mỏng giòn, yếu đuối của bản thân là cách thức dễ dàng đón nhận ân sủng của Chúa, dễ dàng để Chúa đi vào trong cuộc đời của mình. Người kiêu căng thì khó lòng đón nhận được ân lộc của Chúa và ngược lại Chúa sẽ rất khó để cư ngụ nơi tâm hồn của những con người như thế. Vì họ tự mình loại bỏ Thiên Chúa và tha nhân ra khỏi chính mình thì làm sao Chúa và anh chị em có chỗ để hiện diện.

Dân làng Nazaret phải chăng cũng là lối sống của mỗi chúng ta? Vì biết rõ về gia cảnh, biết rõ thân thể và công việc của Đức Giê-su nên đã dễ dàng thành kiến dù có thành công. Vẫn ngạc nhiên qua các phép lạ cũng như những lời giảng dạy của Đức Giê-su, nhưng với não trạng ‘gần chùa gọi bụt bằng anh’ nên họ đã xem thường Chúa Giê-su và không thể đón nhận được ‘con người quê mùa’ này theo cách nhìn của họ. Vì cách sống, cách nhìn của họ như thế, Chúa Giê-su đã không ngần ngại nói lên ‘bụt nhà không thiêng’, “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mc 6, 4). Đương nhiên, lối hành xử của họ đã ngăn cản họ đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Tự họ tách rời và chia cắt chính mình ra khỏi cuộc chơi, là đón nhận Chúa và anh chị em. Tự họ chọn con đường mù quáng hơn là ánh sáng soi đường từ Chúa. Tự họ khép kín chính bản thân họ thì làm sao Chúa có thể trao ban, gặp gỡ và đi vào trong cuộc đời của họ được. Tự họ đóng cửa và không chịu mở mỗi khi nghe tiếng gõ từ Chúa thì làm sao họ gặp được Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài. Tự họ đi vào ngõ cụt của cuộc đời mà Chúa cũng không thể can thiệp được. Tự họ khước từ những điều hay lẽ phải bên ngoài để khư khư sống trong sự ‘tù ngạt’của những tội lỗi êm ái. Như vậy, dù Thiên Chúa có đầy lòng xót thương và là Đấng luôn luôn sẵn sàng trao ban ân sủng của Ngài cho con người đi chăng nữa, nhưng nếu con người không sẵn sàng, không mong muốn hay từ chối thẳng thừng thì ân sủng đó vẫn không thể được trao ban. Chính vì thế, muốn gặp được Chúa, muốn đón nhận được sự bình an hay ân lộc từ Chúa, con người cần có sự cộng tác đích thực hay cần nỗ lực bỏ đi cái tôi, cái kênh kệ của mình. Hay nói khác đi, ân sủng Chúa vẫn luôn luôn có đó, vẫn luôn trao ban, muốn lãnh nhận, con người phải khiêm tốn và nhận ra sự thiếu thốn của chính mình để Chúa dễ dàng đi vào trong cuộc đời. Một Phaolô đã là gương mẫu cho chúng ta về điều này khi thánh nhân biết tự hào về những yếu đuối của bản thân để sức mạnh của Chúa chiếm trọn. “Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2Cr 12,10).

Tóm lại, ân sủng của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su vẫn tiếp tục được trao ban liên lỉ trong hành trình sống của con người chúng ta. Để đón nhận được những món quà vô giá đó, con người cần biết khiêm tốn và vui vẻ dâng hiến hơn là kiêu hãnh và tự phụ. Hơn nữa, con người cần dẹp bỏ đi tính ngông cuồng của mình để biết vâng lời Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài. Đặc biệt, trong cuộc sống, con người được mời gọi hãy biết sống vị tha, quảng đại và chân thành với nhau thay vì sống trong thái độ thành kiến, khinh miệt và loại trừ nhau. Phải chăng đây là cách thức chúng ta sống chứng nhân Tin mừng giữa lòng thế giới?

Về mục lục

BỤT NHÀ VẪN THIÊNG

Alphonse Marie Trần Bình An

Claude Monet là học sĩ bậc thầy, cha đẻ của trường phái Ấn tượng, hiện vẫn là họa sĩ Pháp được thế giới biết đến nhiều nhất. Cảnh trí thiên nhiên trong các bức tranh của ông có sức ám ảnh, mê hoặc lạ. Nó được thể hiện, phản chiếu bởi một thứ màu sắc, ánh sáng đặc biệt bắt mắt. Danh họa Paul Cézanne không hề quá lời khi nhận xét: “Người ta không thể chỉ xem tranh của Monet bằng hai mắt vì Monet còn nhìn đời bằng một con mắt khác”.

Tuy nhiên, trong khi vị thế của tranh Monet trên thị trường tranh quốc tế ngày một lên cao, thì tại chính quê hương ông, giới nghiên cứu mỹ thuật lại không mấy “mặn mà” với tác phẩm của Monet. Có lẽ, đó chính là lý do để Giám đốc Bảo tàng d’Orsay, ông Guy Cogeval, đứng ra tổ chức tại Paris một cuộc triển lãm lớn về Monet (bắt đầu từ ngày 22/9/2010 tới ngày 24/1/2011) nhằm góp phần điều chỉnh thái độ “bụt chùa nhà không thiêng” của những người yêu nghệ thuật ở “kinh đô ánh sáng.”

Điều này chẳng có gì đáng lạ, vì ngay từ 21 thế kỷ trước, Chúa Giêsu đã phán: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi!” (Mc 6, 4)

1- Rẻ rúng vì quen thuộc

Mặc dù Chúa Giêsu đã đi rao giảng, làm phép lạ cứu chữa bao người, danh tiếng nổi như cồn, nhưng khi về quê nhà Nazareth, thì bị người đồng hương khinh thường, như tâm lý dân gian muôn kiếp, bụt nhà không thiêng. Họ không chấp nhận, vì biết quá rõ lai lịch, gốc gác, nghề nghiệp, địa vị xã hội của gia đình ông thợ mộc Giuse quá bình dị, tầm thường và nghèo nàn. “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải bà Maria; an hem của ông không phải là các ông Gia cô bê, Giô xếp, Simon và Giu đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mt 13, 55-56).

2- Rẻ rúng vì đố kỵ

Họ ganh tỵ vì thấy Người tài giỏi, danh tiếng qua việc giảng dạy và làm nhiều phép lạ. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 5, 2) Cái tâm lý con gà ganh nhau tiếng gáy được dịp phát triển vô tội vạ. Cái tâm lý đố kỵ với người có tài hơn mình, bởi tánh kiêu ngạo, bởi mặc cảm thua kém, bởi lòng bất khoan dung, bởi thiếu trưởng thành trong nhân cách và tâm tư, bởi thói hùa theo bầy đàn.

3- Rẻ rúng vì cố chấp, hẹp hòi

Dù “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người, “(Lc 4, 22), nhưng những người đồng hương Nazareth vẫn cố chấp, hẹp hòi, thành kiến và tỏ ra khinh thường, không chấp nhận Người. Giá như Người sênh sang áo gấm, vinh quy về làng, thì còn cơ may được chào đón. Đàng này, Người chẳng có đến cái gối, chẳng có nhà cửa, dinh thự, chẳng xe xua lụa là, tiền hô hậu ủng, chỉ có mấy môn đệ tầm thường tháp tùng, xuất thân thuyền chài khó nghèo. “Hẳn các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào? ( Lc, 4, 23)

Ngay như sau này, thánh nữ Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thật thánh thiện đến thế, mả các nữ tu sống đồng thời, cùng dòng, cùng tu viện, cũng còn chẳng biết nói gì về ngài, vì chẳng thấy chi khác thường nơi ngài, khi được người ta phỏng vấn, tìm hiểu về sinh thời của thánh nữ.

Lạy Chúa Giêsu, con cũng đang bưng tai, nhắm mắt, không hề nhận ra Chúa hiện diện chung quanh, từ tha nhân, từ các Bí Tích, Thánh Thể và Lời Chúa. Xin Chúa thương tình luôn mở lòng trí con, để nhận biết và nghe theo tiếng Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Lạy Mẹ Maria, xin mở lòng dạ con, để luôn cảm nhận có Chúa hiện diện trong từng giây phút đời sống con, để con có thể thánh hóa mọi sự, mọi biến cố trong đời theo Thánh ý Chúa. Amen.

Về mục lục

HÃY TRÂN TRỌNG NGƯỜI THÂN

VÀ CẦU NGUYỆN CHO QUÊ HƯƠNG

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Ở đời người ta hay nói : “Khôn Nhà Dại Chợ” như ám chỉ cách cư xử của chúng ta thường là thiếu công bằng với người thân của mình. Hiếm khi chúng ta đánh giá cao về người thân, và càng hiếm khi chúng ta cám ơn về những việc mà người thân đã rất vất vả làm cho chúng ta. Có đôi khi còn có những lời, những việc làm đau lòng người thân.

Người ta nói rằng khó mà có một người đàn ông cư xử với vợ nhã nhặn, ôn hòa như anh ta từng nhỏ nhẹ , ân cần với phụ nữ quen biết ở công ty hay gặp gỡ bên ngoài xã hội.

Và người ta cũng nói rằng khó mà có một người phụ nữ ăn nói nhỏ nhẹ và cười duyên dáng với chồng như cô ta đã từng cư xử với đồng nghiệp nam bên ngoài.

Cuộc sống luôn cho ta cơ hội để vươn lên nhưng đừng quên rằng mỗi bước tiến của chúng ta luôn có sự hỗ trợ của người thân bên cạnh trợ giúp chúng ta. Họ luôn là hậu phương hỗ trợ rất nhiều cho sự thành công của chúng ta, nhưng đáng tiếc , chúng ta thường quên công sức của họ và có khi còn xem thường người thân của mình.

Chính Chúa Giê-su cũng phải chịu cùng một số phận đó. Dầu danh tiếng, địa vị của Ngài được mọi người khắp nơi nhìn nhận, thế mà về quê hương vẫn bị sự thành kiến lấn át đến nỗi chỉ xem Chúa Giê-su là một anh thợ mộc bình dị trong làng. Họ xì ra tán vào với nhau rằng: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao?  Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?  Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3). Từ cái nhìn đầy thành kiến của người đồng hương nên Chúa Giê-su đã từng chua xót nói rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4).

Thật đáng tiếc cho người đồng hương Nagiaret, vì đánh giá Chúa Giê-su theo lớp vỏ bên ngoài, nên họ cũng đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giê-su ưu ái dành cho họ. Ở đời phẩm giá cao trọng hơn chức quyền. Ở đời năng lực quan trọng hơn gia thế. Người có chức quyền mà không có tư cách cũng chỉ làm hại cho xã hội. Người có gia thế giầu có mà không có năng lực thì tiền núi bạc bể cũng tiêu tan. Rất đáng tiếc khi người Do Thái lại đánh giá Chúa Giê-su dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất, năng lực mà Chúa đã thể hiện qua lời nói, việc làm đầy uy quyền của mình trên hành trình truyền giáo..

Ở đời có khi “quen quá hóa nhàm” đã làm cho chúng ta không nhìn được ưu điểm của người bên cạnh. Ở đời có đôi khi chúng ta cũng chạy theo xu nịnh những người có gia thế  giầu sang và xem thường người nghèo khó, cơ hàn. Chúng ta tôn vinh người quyền thế mà xem thường người bé nhỏ tầm thường. Chúng ta đề cao vật chất mà quên giá trị tinh thần. Chúng ta chạy theo số lượng mà không quan tâm đến chất lượng. Chúng ta mãn nguyện vẻ bề ngoài mà bỏ quên rèn luyện vẻ đẹp tâm hồn.

Khi viết lại cái nhìn lệch lạc của người Do Thái về Chúa Giê-su, hình như thánh Marco cũng nhắc đến con người hôm nay đừng đánh giá nhau trên vẻ bề ngoài mà hãy đánh giá nhau trên giá trị của nhân phẩm. Đừng coi trọng cái áo người mặc mà hãy kính trọng tâm hồn cao đẹp của nhau. Hãy nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhau hơn là trầm trồ vẻ đẹp bên ngoài, vì chưng : “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người” .

Xin Chúa giúp chúng ta biết sống cảm thông nâng đỡ những người bên cạnh và xin đừng vì thành kiến mà chúng ta đối xử với nhau thiếu yêu thương và kính trọng. Amen

Về mục lục

CON NGƯỜI CỨNG LÒNG KHIẾN CHÚA NGẠC NHIÊN

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Bị hiểu lầm hay bị từ chối là những điều khiến người ta phiền lòng. Êdêkien, và ngay cả Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người cũng không đứng ngoài qui luật thường tình ấy. Là ngôn sứ thì dù ở hội đường hay trong gia đình cũng sẽ gặp khó khăn, có thể bị ruồng bỏ là kinh nghiệm của Chúa Giêsu và Êdêkien. Êdêkien được Chúa chọn, gọi làm ngôn sứ cho dân đi lưu đầy cùng với ông : “Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng… Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn” (Ed 2, 4-5). Chúa Giêsu về hội đường giảng dạy cho người đông hương cũng phát buồn và thốt lên câu nói để đời : “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình” (Mc 6, 4). Tại sao vậy?
Biết rõ

Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại sự lúng túng của dân thành Nagiarét trước Chúa Giêsu người đồng hương của họ đi xa trở về nơi hội đường. Vì họ đã quá biết về gia thế của Chúa Giêsu, vì biết rõ nên họ không đánh giá đúng về Người.

Có lẽ đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở về Nagiarét sau khi đi thi hành sứ mạng công khai. Nagiarét là cái nôi của thời thơ ấu, niên thiếu của Chúa Giêsu. Nơi ấy có gia đình, bà con, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, quê hương, nên khi Chúa Giêsu trở về nhà họ biết ngay. Trong số họ có người đã từng thấy Chúa Giêsu được mẹ ẵm như bao nhiêu trẻ em khác. Con cái họ và Chúa Giêsu đều học chung một lớp, cùng chơi và cười đùa với nhau, cùng thảo luận những bài học về cái cửa, cái xà. Chúa Giêsu đã từng cầm cưa, bào, đục, và nhất là nói giọng nói miền quê Nagiarét trong suốt bấy nhiêu năm trời.

Lần trở về này nhằm ngày Sabát, Chúa vào hội đường, dân làng đón tiếp Chúa rất vui vẻ. Tại đây, Chúa bắt đầu giảng dạy : “Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng : “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy?” (Mc 6, 2). Nói xong bỗng nhiên thái độ của họ đổi hẳn vì những cái đã biết về Người. Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ “vấp phạm vì Người” (Mc 6, 3).

Đã nhiều năm qua, gia đình Chúa Giêsu đã để lại những ấn tượng tốt về Người. Trước sự ngạc nhiên và từ chối của dân thánh Nagiarét, cũng như sự thiếu lòng tin của họ, Chúa Giêsu đã buông lời thở dài : “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình ! ” (Mc 6, 4). Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, Đấng tạo dựng thế gian nhưng thế gian đã không tiếp nhận Người.
Không được đánh giá đúng

Chúa Giêsu buồn vì thành kiến của đông hương về lý lịch của Chúa : cha mẹ, gia đình và nghề nghiệp : “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 3). Họ không thể đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.

Ông là ai? Là câu hỏi được đặt ra trong toàn bộ Tin Mừng Marcô. (1, 24 và 25 – 1, 27 – 1, 34 – 4, 41 – 6, 14 và 15). Căn tính bí ẩn này là gì? Trên đường hành trình với các môn đệ từ Xêsarê đến Philiphê Chúa hỏi các ông “Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai? ”
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật

Ngày hôm nay, Thiên Chúa cần có câu trả lời từ phía con người đang tìm kiếm ý nghĩa của Lời Chúa và bước vào cuộc đối thoại với Chúa. Người thợ mộc thành Gagiarét là Thiên Chúa thật và là Người thật, Người là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, là Lời Chân lý dẫn đến Sự Sống đời đời. Hãy biết nhận ra Chúa, đừng để Chúa đi qua. Mẹ Maria hòa mình vào đám đông để chiếm ngắm và lắng nghe người ta nói về con Mẹ : “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria !” (Mc 6, 3). Con bà Maria và là Con Thiên Chúa, đó là Bí Mật Tình Yêu của Thiên Chúa, Người bước vào đời sống công khai bằng con đường khiêm tốn và nghèo khó. Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, và buồn vì họ không chấp nhận bất cứ sự gì đến từ Người. Nghĩa xác thực được thánh Marcô sử dụng ở đây theo tiếng Hy lạp, không phải Chúa Giêsu mong đợi người đồng hương tin vào Thiên Chúa, nhưng là mong đợi phần lớn những người Nagiarét : tin vào Người.

Ngày hôm nay có người nói rằng: Nếu chúng ta sống vào thời các Tông Đồ và chứng kiến Chúa Giêsu như họ, chắc chúng ta cũng giống họ. Họ biết quê hương mình có người tên là Giêsu nhưng không biết người đang nói với họ là Chúa Cả trời đất…… Thực tế ngày hôm nay khác với ngày xa xưa ấy, vì nhiều người hạnh phúc hơn, tin tưởng vào những điều đã nghe và đã thấy.

Quả thật, ở giữa những người ẫu trĩ có một người khiêm nhường; là Thiên Chúa thật đến dạy dỗ chúng dân. Người đến với những thu thuế và tội lỗi, đồng bàn ăn uống với họ (Mt 9,11); Vì thế, có người miệt thị nói rằng : “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?” (Mc 6,3; Ga 6,42) Nhưng Chúa Giêsu vần là Thiên Chúa thật và là người thật, các vua chúa trần gian phải phụng thời Người… Người hoàn toàn là con người như chúng ta : ăn, uống, ngủ, nghỉ, đổ mồ hôi và mệt mỏi như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Người được gìn giữ khỏi hư nát và khỏi chết giữa muôn người. Giờ đây Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha (Mc 16,19), không gì có thể tách Người với Chúa Cha.

Thật là kỳ diệu, để có thể nhận biết và tin rằng một người như bao người là Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất và mọi sự trên trời dưới đất… Vì thế, hàng ngày chúng ta nghe Chúa Giêsu thông truyền thánh ý Chúa Cha qua các tác giả Tin Mừng, chúng ta phải vâng nghe, tuân giữ các giới răn của Người và tin vào Người.

Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Về mục lục

THÀNH KIẾN LÀM CẢN TRỞ ĐỨC TIN

Lm Trần Bình Trọng

Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa phán với loài người qua các ngôn sứ và các tổ phụ. Các ngôn sứ được Chúa sai đến thường bị bạc đãi và tẩy chay như ngôn sứ Êdêkien được: Sai đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại (Ed 2:3) Thiên Chúa. Cuối cùng Thiên Chúa sai chính Con Một Người đến mạc khải trực tiếp cho nhân loại về tình yêu và đường lối của Người.

Thánh Phaolô cũng chịu chung một số phận như các ngôn sứ: Bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Ðức Kitô (2Cr 12:10). Khi Ðức Giêsu về thăm quê nhà như Phúc âm hôm nay thuật lại, Người gặp thái độ nghi ngờ và tẩy chay của người đồng hương. Dân chúng không phàn nàn vì lời Người giảng dạy có tính cách nông cạn. Trái lại họ phải sửng sốt về những lời giảng dạy sâu sắc của Người. Dân chúng cho rằng họ biết tất cả về gia cảnh, thân thế và sự nghiệp của Người. Họ biết Người là con bà Maria nội trợ, con nuôi ông thợ mộc Giuse, không được đi học trường đào tạo giáo sĩ hay kinh sư. Thế thì tại sao Người lại có thể biết nhiều về Thánh kinh như vậy? Vì thế họ không chấp nhận Người.

Những thành kiến của họ có tính cách cố định. Thành kiến đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Ðức Giêsu và người đồng hương. Chính những thành kiến đó còn làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Ðấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một  tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Ðức Giêsu không thích hợp với quan niệm họ sẵn có về Ðấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Ðức Giêsu không thể là Ðấng cứu thế. Thành kiến của họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Ðức Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6:4). Phúc âm hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6:5). Sở dĩ Ðức Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6:6).

Ta có thể thầm trách đám đông trong Phúc âm hôm nay đã tẩy chay Chúa. Tuy nhiên ta có thể mang tội giống như người trong Phúc âm. Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi nguy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.

Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Ðó là điều Chúa nói trong Phúc âm thánh Mát-thêu: Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25:35). Ðể có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo len lỏi vào tâm trí, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.

Nếu để cho thành kiến và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho thành kiến len lỏi vào óc phán đoán của ta. Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?

Hôm nay mỗi người cần cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta được ơn nhận lãnh đức tin. Ta cần cảm tạ Chúa cho cha mẹ và người đỡ đầu, đã gieo vãi hạt giống đức tin vào tâm hồn ta khi đưa ta đến giếng nước rửa tội. Ta cần cảm tạ Chúa cho những người đã nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống đức tin của ta để hôm nay ta có thể bầy tỏ đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng Chúa. Ta cũng xin Chúa ban cho mình biết mở rộng trí óc và tâm hồn đón nhận lời Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho được mở rộng tâm hồn:

Lậy Ðức Giêsu, con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con

được ơn nhận lãnh đức tin qua Bí tích Rửa tội.

Xin tha thứ những lần con để cho thành kiến vể đạo

và người giảng đạo, làm cản trở đức tin vào Chúa.

Xin cho con biết loại bỏ thành kiến sai lầm

và ban cho con một tâm hồn rộng mở

để con biết nhìn người và sự vật,

dưới ánh sáng chân lí soi dẫn. Amen.

Về mục lục

VƯỢT LÊN ĐỊNH KIẾN

Maria Hồng Phúc

Hôm nay, Chúa Giê-su về thăm quê. Chỉ có Ngài và các môn đệ cùng đi, không có cảnh đám đông chen lấn, không có sự đón tiếp nồng hậu như nhiều người thành công danh tiếng ngày nay vẫn nhận được khi họ trở về quê.

Ngày Sa-bát, Ngài vào hội đường giảng, mọi người sửng sốt ngạc nhiên về sự khôn ngoan và Giáo lý mới mẻ của Ngài. Họ nhìn nhau thắc mắc: Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của ông không phải là Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? (x. Mc 6, 2-3).

Người ta sửng sốt ngạc nhiên, vì người làng Na-da-rét dường như rất bị coi thường trong xã hội miền Ga-li-lê. Chính ông Na-tha-na-en đã từng nói với ông Phi-lip-phê: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Người ta có định kiến về người Na-da-rét, nhưng chính người dân Na-da-rét cũng tin vào định kiến ấy. Họ cũng nghĩ rằng, từ nơi mảnh đất quê hương của họ, không có người khôn ngoan, không có người tài năng, không có bậc vĩ nhân nào có thể làm vẻ vang làng quê của họ.

Chúa Giê-su đã không được những người đồng hương đón nhận, người ta không tin vào Ngài. Gia đình Thánh Gia đã sống một cách rất bình thường, thậm chí là tầm thường giữa bà con thân thuộc và hàng xóm láng giềng. Chúa Giê-su, suốt ba mươi năm sống ẩn dật cũng không hề phô trương, không làm bất cứ một phép lạ nào. Ngài cũng lớn lên trong sự giáo dục và nếp sống của cha mẹ như bao người bình thường khác. Quá ẩn dật để rồi không có gì gây chú ý, một sự ẩn mình đầy khiêm tốn của Đấng Mê-si-a. Người dân vùng quê nghèo ấy luôn chấp nhận một sự khinh thường từ người làng khác, họ không muốn thay đổi chi, không mong có ai có thể khiến họ được “nở mày nở mặt”. Vậy nên, họ không hiểu sao cái ông Giê-su bình thường ấy lại có thể làm được những điều phi thường như thế. Dân chúng ở những nơi khác tin và đi theo Chúa rất nhiều, còn người làng Na-da-rét lại nghi ngờ, thắc mắc. Họ không tin, hay đúng hơn là họ không thể tin. Chỉ vì những định kiến của bản thân, họ đã không nhận được những món quà từ chính Đấng là Ngôi Hai Thiên Chúa. Bà Harper Lee trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Giết con chim nhại” đã nói: “Định kiến, một từ bẩn thỉu, và đức tin, một từ sạch sẽ, đều có một điểm chung: chúng đều bắt đầu ở nơi lý trí kết thúc”. Thật vậy, tin hay không thì đều tùy thuộc vào lý trí tự do của con người.

Con người ngày nay cũng thường chịu nhiều thất bại, gánh nặng, đau khổ chỉ vì những định kiến của mình hay của người khác. Rất nhiều người trong chúng ta thường chỉ biết đánh giá mọi sự và mọi người dưới lăng kính chủ quan của chúng ta. Có những người đã vì định kiến mà khiến người khác không bao giờ có cơ hội để được làm việc, được thể hiện mình, được thành công hay thậm chí được trở nên một người tốt trong mắt họ hoặc người khác. Vì định kiến, chúng ta sẽ xét đoán, phán đoán sai lệch, có thái độ tiêu cực đối với người khác ngay cả khi chưa bao giờ chuyện trò hay tiếp xúc với họ. Như có người đã nói: “Cuộc sống thường không chật hẹp trong những ngôi nhà, trên những con đường, góc phố, mà chính trong những định kiến và suy nghĩ của con người”. Khi chúng ta có một định kiến không tốt về một ai đó, chúng ta có khi sẽ lôi kéo nhiều người khác về phe mình, rốt cuộc có thể khiến chính bản thân người đó cũng nghĩ tiêu cực về mình như vậy. Họ sẽ phải chịu một sự đối xử thiếu công bình và bác ái, sẽ vấp phải một sự chống đối và đả kích ngầm hoặc công khai. Ai phải sống trong môi trường như vậy, thử hỏi sao họ có thể phát triển toàn diện nhất được.

Định kiến là thứ rất khó để xóa bỏ, thay đổi. Ông Nelson Madela, Tổng thống da màu đầu tiên của Nam Phi, đã từng viết trong cuốn hồi ký của mình: “Một lần lên máy bay, nhìn thấy phi công là người da đen, tôi đã rất lo lắng và cảm giác lo lắng đó kéo dài cho đến hết chuyến bay. Sau đó tôi đã rất xấu hổ, vì bản thân mình cũng là người da đen, cả cuộc đời đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, nhưng lại không tin nổi một người da đen có thể lái máy bay an toàn”. Chúng ta không có thái độ phân biệt chủng tộc cách công khai, nhưng rất có thể chúng ta cũng phân biệt về vùng miền, quê quán, dòng họ của người khác.

Hãy tập sống tích cực với môi trường, với con người, với hoàn cảnh cụ thể mà Chúa đang đặt để chúng ta vào. Qua đó, chúng ta sẽ là những nhà truyền giáo thấm nhuần tinh thần Chúa Ki-tô, sẽ đem đến những tín hiệu tích cực và tràn đầy niềm vui, hy vọng đến cho người khác. Đừng để mình bị giới hạn trong những định kiến của người khác, cũng đừng khiến cho người khác bị giới hạn và tổn thương do định kiến của mình. Chúng ta hãy là những Ki-tô hữu biết đón nhận những ân huệ thường ngày của Thiên Chúa, và cũng biết cách giúp cho những người khác cũng đón nhận được những hồng ân như chúng ta.

Về mục lục

LẤY LÀM LẠ VÌ HỌ KHÔNG TIN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Sau khi cho chúng ta chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu mạnh hơn cả cái chết, thánh Maccô đưa chúng ta đi theo Người về nơi quê quán là Nadarét. Tiếng đồn về Đức Giêsu đã vang khắp nơi, lôi kéo người bốn phương tìm đến với Người (Mc 3, 7-8), nay về thăm quê, chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu sẽ được dân làng đón tiếp linh đình, kèn trống râm ran, như cảnh “trạng về làng vinh quy bái tổ”. Chuyện diễn ra không như chúng ta nghĩ.Tuy về quê quán của mình, nhưng Người cũng chờ đến ngày sabát mới vào hội đường rao giảng. Phản ứng đầu tiên của dân làng là “rất đỗi ngạc nhiên”. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”. Thế ra họ cũng đã nghe biết về những phép lạ Người làm ở khắp nơi. Họ rất đỗi ngạc nhiên. Nhưng họ bỗng như bị xối nước lạnh lên đầu, khi họ nhìn thấy thân nhân của Người ngồi chung quanh họ trong cùng một hội đường. Thân nhân đã từng bị kích động vì dư luận, cho rằng Người đã mất trí và họ đã kéo nhau đi bắt Người về (Mc 3, 20-21.31-32), nhưng đã về tay không. Nhìn mặt Người thì vẫn là mặt bác thợ con bà Maria, từng làm thuê cho họ. Nhìn quanh, họ thấy anh em, chị em, bà con của Người, những người vẫn chen vai sát cánh với họ hàng ngày, trong cái làng quê nhỏ bé mà ai cũng biết mọi người, mọi nhà. “Và họ vấp ngã vì Người”. Đức Giêsu phải ngao ngán nói với họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Quả như câu tục ngữ xưa của Việt Nam: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Kết cục: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay lên trên một và bệnh nhân và chữa lành họ”. Lại như một câu tục ngữ Việt Nam: “Bụt nhà không thiêng”; “người phụ nữ” đã được Người tuyên dương: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”; ông trưởng hội đường đã được Người khích lệ: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” còn dân làng Nadaret thì Người cũng phải “lấy làm lạ vì họ không tin”. Thế là chuyến thăm quê cũ chẳng có gì phấn khởi.(x. Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).

Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu không được tiếp đón tại quê nhà và Ngài đều nói đến ý tưởng: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Ga 4,44). Nhưng mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau. Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại” (Mc 5,21-43).

Quê hương Nadaret của Chúa Giêsu chẳng là trái ngọt nhưng là trái đắng với vị chát chối từ, và chua cay thành kiến. Dẫu vậy Ngài không than van, không giận dữ hay oán trách quê nhà. Ngài vẫn hiện diện thật hiền lành và khiêm hạ để đón nhận thực tế. Quê hương là “chùm khế ngọt” của mỗi con người. Nhìn về quê hương Nadaret của Chúa Giêsu, thật khác lạ. Ngài trở về quê mà không được dân làng ủng hộ, trái lại họ đã xem thường Ngài và xúc phạm đến Ngài. Tại sao?

Bởi lẽ, họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadaret này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, mấy ai quan tâm đâu! Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đi từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ấy bỏ quê nhà đi một thời gian, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế nhỉ? Một quá khứ và hiện tại như vậy đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Dân làng Nadaret quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy lý lịch để thẩm định về Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Chính Nathanael cũng còn mang nặng quan niệm thành kiến đó: “Nadaret có cái gì tốt đâu?” (Ga 1,46). Những người Do thái cố chấp nhìn Đức Giêsu bằng lăng kính của thành kiến quê hương và họ đã đưa Ngài lên ngọn đồi và định xô xuống vực.

Đức Giêsu “ngạc nhiên vì sự không tin của họ”. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Dân làng Nadaret “vấp ngã vì Người”, họ không chấp nhận, họ không thể tin vào Đức Giêsu. Ngài mạc khải cho họ về nguồn gốc thiên sai của mình qua những lời giảng dạy khôn ngoan và các phép lạ, nhưng họ lại chỉ bám lấy thành kiến cố hữu. Chính thái độ bám ghì lấy, không dám buông bỏ những hiểu biết giới hạn nên họ không thể nhận biết Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Đức Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ không tin.

Dân làng Nadaret không tin vì thành kiến. Họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Đức Giêsu mở ra cho họ. Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đức Giêsu không sống như một siêu nhân, Ngài sống bình dị như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình.

Những người đồng hương của Đức Giêsu thật “dại”, thay vì “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng họ lại đánh mất cơ hội khi quan niệm “bụt nhà không thiêng”. Thành kiến kiểu “nhìn mặt là biết số nhà” khiến người ta không ít lần rơi vào sai lầm khi nhìn đến tha nhân.

Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được.Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể. Nếu là của tập thể thì nó tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được. Thành kiến là những nếp suy nghĩ, quan điểm, niềm tin chủ quan sẵn có, thường là tiêu cực đối với một người, một nhóm người dựa trên lối sống, nghề nghiệp, quan điểm chính trị, màu da, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo, giới tính…Thành kiến thường được định hình trong con người theo thời gian, từ trải nghiệm của bản thân, do được tuyên truyền, do thế hệ trước truyền lại, do môi trường sống.Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi.

Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả sai lầm hoặc nguy hại. Ai đeo kính đen nhìn cái gì cũng tối tăm; lưỡi đắng ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. Thật dễ để nhận ra hay để nói về sai lầm của người khác.

Thành kiến làm cho người ta mù quáng, không nhận định khách quan nên khó có thể đối thoại, cởi mở với người khác, không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi tha nhân.

Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng sự kiện dân làng Nagiarét ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường, và kết thúc bằng sự ngạc nhiên của Chúa khi Ngài thấy họ không tin. Làm sao họ không ngạc nhiên được khi lời rao giảng và những dấu lạ Ngài làm tỏ rõ Ngài là Đấng đầy quyền năng và khôn ngoan? Thế nhưng, sự ngạc nhiên ấy không đủ để thay đổi thành kiến của họ về Ngài. Họ không thể chấp nhận một bác thợ bình thường, là người đồng hương họ quen biết, lại là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến. Và càng không thể chấp nhận được một con người như Ngài lại cả dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô. Hạnh phúc được tin vào Đức Kitô, đáng lẽ họ nhận được lại bị mất vì một thành kiến.

ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh “không bao giờ đóng kín nơi chính mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ. Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 45).

Đức Maria được ca tụng là có phúc vì đã tin (Lc 1,45). Chúng ta cũng thật có phúc vì đã tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Đức tin là ân huệ quý giá nhất trong cuộc đời, nhờ đó, mọi việc, dù nhỏ bé, âm thầm đến đâu, vẫn có ý nghĩa và có thể đem lại niềm vui, bình an cho cuộc đời.

Mỗi ngày mới, chúng ta hãy bày tỏ lòng tri ân Chúa đã thương ban cho mình ơn đức tin qua đời sống chuyên cần cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, tham dự Thánh Lễ.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy hạnh phúc khi đi theo Chúa, khi làm môn đệ Ngài. Xin Chúa giúp con sống tốt tư thế môn đệ ấy. Xin giúp con luôn quảng đại và khiêm tốn trong lời nói, trong những nhận định về nhau và nhất là xin cho con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị me con.Amen.

Về mục lục

TRỞ VỀ QUÊ NHÀ

Gioan Phạm Duy Anh

Chắc hẳn rằng hai từ quê nhà với bạn gợi nhớ biến bao nhiêu những kỷ niệm thân thương và gắn bó nhưng có lẽ với những người khác nó lại gợi lên những kinh nghiệm về những nỗi đau và sự mất mát. Chúa Giêsu trải qua kinh nghiệm về sự khước từ ngay chính tại quê hương của mình. “Người đã đến nhà mình nhưng người ta lại chuộng bóng tối hơn ánh sáng.”[1] Thực ra, thái độ của dân làng đón tiếp Chúa Giêsu phản ánh thái độ nội tâm của bạn và tôi trong hành trình tiến về quê nhà đích thực trên thiên đàng.

  1. Hai từ quê nhà

Nói đến quê nhà thường bạn nghĩ ngay đến gia đình, tương quan, nơi cảm thấy an toàn, nơi được dưỡng dục hình thành nhân cách. Quê nhà thường gắn với những tương quan, nơi bạn được sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng và cưu mang những ước mơ. Nó là bệ phóng để bạn bước vào đời. Nói chung quê nhà thường là không gian được bảo vệ và nơi khao khát được trở về. Tuy nhiên không chỉ mang nghĩa cụ thể, quê nhà ở đây còn mang nghĩa trừu tượng.[2] Quê nhà chính là không gian nội tâm, thái độ sống, cung cách và hành vi ứng xử, là nơi ta gặp lại chính ta, là nơi thân mật gặp gỡ Thiên Chúa và chính mình. Quê nhà là quốc gia, là dân tộc[3], là dòng dõi của một người, là quê hương vĩnh cửu mà mỗi người hằng khao khát. Như thế quê nhà ở đây không chỉ là không gian cụ thể nhưng là không gian nội tâm, là điểm đến khi bạn hoàn tất cuộc sống lữ hành. Quê hương gợi nhớ nguồn cội. Tuy nhiên có một nghịch lý khi nói về quê nhà mà bạn ít để ý.

  1. Nghịch lý khi trở về quê nhà

Các bài đọc trong Chúa Nhật Tuần XIV TN Năm B có nói đến nhà hay ít nhiều liên quan đến quê nhà. Bài Đọc I “Thiên Chúa răn dạy nhà Ít-ra-en qua miêng ngôn sứ Êzêkiel bởi vì nhà ít-ra-en đã ra cứng lòng.”[4] Bài Đọc II Thánh Phao-lô biểu lộ sự vui sướng được đón nhận Đức Kitô vào trong ngôi nhà tâm hồn của mình.[5] Bài Tin Mừng: “Ngôn sứ không được tiếp đón khi ở tại nhà mình.”[6] Tin Mừng chỉ ra sự đối lập về sự mù tối của dân làng và sự mặc khải về căn tính của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa, ngôn sứ nói Lời của Chúa, nhưng Ngài đã bị chối từ ngay chính tại quê hương của mình. Ngài bị khước từ ở tại một nơi tưởng chừng như là nơi an toàn nhất. Thái độ dân làng Na-za-rét đón tiếp Chúa Giêsu phản ánh thái đội nội tâm của mỗi người khi đón tiếp Thiên Chúa, khi Ngài bước vào cuộc đời của mình.

Tại sao ngôn sứ không được tiếp đón khi trở về quê nhà? Có nhiều lý do dẫn đến điều này. Đó có thể do ghen tương, định kiến, cố chấp, có thể do bị mù lòa về đức tin, không nhận ra căn tính của Chúa Giêsu. Và có khi bạn không chấp nhận chính mình, khó tha thứ cho chính mình và ngay cả những người khác. Thâm chí không chấp nhận con người thật của mình và chấp nhận chính Chúa. Điều này có thể là cách bạn chối bỏ việc đón tiếp Thiên Chúa. Đôi khi bóng tối trong tâm hồn bạn cũng có thể ngăn cản bạn gặp gỡ Thiên Chúa. Gặm nhấm những vết thương của quá khứ cũng giúp bạn cảm thấy khoan khoái, ở lại trong tội cũng có thể giúp bạn cảm thấy được một chút ủi an.

Vả lại, khi bạn đối diện với những đau khổ và những mất mát trong đời sống, có lẽ bạn chỉ thấy và tập trung vào nỗi đau của chính mình và sự dữ trong đời sống mà quên mất hàng nghìn điều lớn lao hơn mà Thiên Chúa đang quan phòng và chăm sóc cho bạn. Bạn chỉ nhìn thấy những vết đốm nhỏ mà không nhìn thấy bức tranh lớn lao hơn. Có khi bạn đối diện với một sự mâu thuẫn và khó hiểu giữa sự tốt lành của Thiên Chúa, sự tồn tại của sự dữ và sự đau khổ của những người công chính. Đại dịch cũng là một thách đố cho niềm tin của bạn vào một Thiên Chúa tốt lành và sự hiện diện của sự dữ trong đời sống. Vấn đề là bạn có còn thực sự tin và cảm nhận vào sự hiện diện của Ngài giữa những phong ba bão táp của cuộc sống hay không. Phải chăng con sóng cuộc đời xô ngã trái tim tôi.

Khi bạn nhìn vào bức tranh gia đình ngày hôm nay hay nơi chính gia đình của bạn, có thể bạn không tìm thấy được hạnh phúc trong chính ngôi nhà của mình. Con cái suốt ngày bị tra tấn bởi sự cãi vã và bất hòa. Ngôi nhà không còn thực sự là tổ ấm, trường học đầu tiên và là sự hiệp thông của các ngôi vị nhưng gia đình là hỏa lò thiêu đốt tuổi thơ. Tuổi thơ bị lạc mất khỏi vòng tay gia đình. Trẻ em bị khước từ ở một nơi an toàn nhất, nơi cưu mang sự sống và ươm mầm những ước mơ. Chúa Giêsu không được đón nhận ngay cả những tương quan ruột thịt.

Giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị Do Thái thời Đức Kitô cũng chối bỏ việc đón nhận Lời của Ngài. “Bởi lẽ Lời này nghe chói tai quá.”[7] Lời Chúa không thể bén rễ trong tâm hồn và trái tim ủa họ. Họ không mở lòng ra với chân lý và sự thật cho nên sự thật không thể giải phóng họ được. Việc từ chối Chúa Giêsu vẫn là một hiện thực đang diễn ra trong xã hội và thế giới hôm nay. Nhiều nhà lãnh đạo chính trị tìm cách ngăn cản Tin Mừng và dập tắt niềm tin của người tín hữu bởi vì họ sợ rằng giáo lý đụng chạm đến lương tâm con người và họ sẽ được biến đổi.

Và thực tế đáng buồn ngay tại những quốc gia có truyền thống Kitô giáo tại Châu Âu cũng đã đang tìm cách chối bỏ chân lý của Đức Kitô cả trên bình diện lý thuyết lẫn thực hành. Có lẽ hơi quá đáng khi nói rằng không có Kitô Giáo thì sẽ không có Châu Âu ngày nay, ít nhất về mặt tổ chức xã hội, ý thức về nhân phẩm và sự tự do liên đới chứ chưa nói đến những giá trị siêu nhiên. Tuy nhiên có một sự thật đáng buồn là sau khi có được Châu Âu họ lại tìm cách loại bỏ chính nền tảng đã kiến tạo nên quê hương của mình. Nói thế không có nghĩa rằng, Giáo Hội và những nhà lãnh đạo tôn giáo đã hoàn thiện và thực sự trở nên tốt lành như người mục tử mà Đức Kitô hằng mong muốn. Trái lại, Giáo Hội cũng cần phải căn tân và hoán cải mỗi ngày. Vậy nếu hôm nay, Chúa Giêsu bước vào căn nhà nội tâm của bạn, Ngài sẽ thấy được điều gì?

  1. Quê nhà trong trái tim tôi

Chúa Giêsu bước vào căn nhà nội tâm của bạn với những ngổn ngang và yếu đuối, những ước mơ còn dang dở, những vết thương chưa được chữa lành, những tội lỗi thầm kín chưa dám xưng ra, những góc khuất mà trong đó ân sủng của Thiên Chúa chưa đụng chạm tới. Rất có thể Chúa Giêsu không có chỗ đứng trong trái tim bạn khi bạn không chấp nhận chính mình và sự tha thứ của Ngài.

Khi đối diện với chính mình và với những khao khát sâu thẳm trong lòng mình bạn thấy được điều gì? Phải chăng đó là khao khát sự nối kết và sự trao tặng chính mình, phải chăng là những yếu đuối và lời mời gọi phía trên cao, và cũng nơi đó bạn gặp được Đấng hiện diện sâu thăm hơn chính sự sâu thẳm trong trái tim bạn. Phải chăng đây là khao khát được là chính mình ngay trong chính căn nhà của mình. Bạn được ở với bạn ngay trong nhà mình, bạn được ở với Ngài ngay trong căn nhà nội tâm của mình. Dĩ nhiên trước khi được ở lại với chính mình trong chính căn nhà của mình, bạn vẫn có thể đang bị “lưu vong.” Điều mà thánh Phaolô gọi là sự yếu hèn. Nhưng điều làm cho thánh Phaolô cảm thấy được an ủi là sức mạnh của Đức Kitô ngự trong sự yếu đuối và mang lấy sự yếu đuối của tôi. Có được điều này, bạn thực sự được “hồi hương.”

Chúa Giêsu nói, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, và Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Chúa Giêsu không cách xa bạn nhưng Ngài luôn ở với bạn cho dù bạn không ý thức về sự hiện diện của Ngài. Một khi bạn có chỗ trong trái tim và được cư ngụ trong nhà Chúa khi đó bạn thực sự được ở trong nhà mình. Bạn được hưởng Phúc Kiến Nhan Thánh Chúa. Phải chăng đó là hành trình mà mỗi người đang tìm về.

………

[1] Ga 1,11

[2] Rabbi Chaim Weiner, There Is No Place Like Homehttps://myhebrewwords.wordpress.com/2015/12/17/19-%d7%91%d7%99%d7%aa-bayit-there-is-no-place-like-home/ (21 June, 2021)

[3] https://biblehub.com/greek/3624.htm

[4] Ed 2, 2-5

[5] 2 Cr 12, 7-10

[6] Mc 6, 1-6

[7] Ga 6,60

Về mục lục

SUY DIỄN

Trầm Thiên Thu

Con người là sinh vật cấp cao, hơn các động vật là có khối óc biết suy nghĩ. Phương pháp suy diễn là suy luận từ cái chung tới cái riêng, phương pháp quy nạp là suy luận từ cái riêng đến cái chung. Cách suy diễn có thể tốt hay xấu, ích lợi hoặc bất lợi. Không nên suy diễn lung tung, tùy hứng, hoặc theo định kiến riêng tư.

Không vồn vã với ai và không dửng dưng khinh người, cứ tự nhiên, thoải mái. Đó là cách xử sự không mấy người có được, bởi vì người ta thường thích nịnh bợ nhau. Thản nhiên là phong cách độc đáo và cần thiết, nhưng không dễ thể hiện, phải có đủ sâu sắc nội tâm mới toát ra ngoài.

Nhìn những người thản nhiên có vẻ rất lạnh lùng, người khác cảm thấy không thích. Họ là người bình tĩnh, điềm đạm, có thể làm chủ mọi tình huống và có thể tự kiềm chế bản thân. Họ vừa “tự động” vừa “chủ động,” chứ không “bị động” hoặc “thụ động.” Phong cách “cứ là chính mình” không phải ai cũng làm được – tức là không xu nịnh hoặc tâng bốc bất cứ ai, cũng không áp chế ai. Đó là “cái dũng của thánh nhân” – theo cách gọi của người xưa.

Những người thản nhiên không bao giờ vui quá hoặc buồn quá, trầm tư nên ít nói vậy thôi. Nhưng người ta cứ suy diễn rồi cho rằng họ tự kiêu, ra vẻ, chảnh, khinh người, lạnh như tiền,… Họ bị hiểu lầm và bị kết án oan.

Tín nhân, cuộc đời luôn mang tính thực tế, và có những dạng thực tế buồn. Chẳng hạn, một người bình thường, không thấy có gì nổi trội, nhất là khi người đó xuất thân từ một gia đình không danh giá, nghèo nàn, ít học,… thế mà bỗng nhiên làm được những việc khác người. Mặc dù vậy cũng chẳng ai tin. Xưa nay vẫn thế. Đó là một dạng “hàm oan,” một trong các dạng thực-tế-buồn thường thấy nhất. Người giỏi luôn thản nhiên, không cần biết người ta nghĩ gì về mình. Cuộc sống có một triết-lý-sống thú vị: Chỉ có người giỏi mới nhận ra và công nhận sự thông minh ở người khác.

Ngày xưa, khi về quê hương, Chúa Giêsu cũng “bó tay” và phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mc 6:4; Mt 13:57; Lc 4:24) Con người là thế, họ muốn thách thức với ngụ ý như câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình!” (Lc 4:23) Con gà tức nhau tiếng gáy. Những người ghét mình, chẳng ai đâu xa lạ, họ chính là những người thân quen nhất. Sự thật quá phũ phàng và đáng buồn. Chúa Giêsu luôn làm điều tốt mà vẫn bị người ta ghen ghét.

Người ta thường nói: “Đời là thế!” Chúa Giêsu còn phải “lắc đầu” thì phàm nhân chẳng còn cách nào khác. Môi miệng nói lời ngon ngọt vì cái lưỡi chứa đầy nọc độc. Kể cũng lạ, mình không làm được thì thôi, người khác làm được thì sao lại ghét? Nhóm Pharisêu, nhóm Sađốc, các kinh sư, các nhà thông luật, các tư tế,… là “siêu nhân” như vậy, nhiều lần họ bị Chúa Giêsu thẳng thắn nguyền rủa là đồ khốn, là mãng xà.

Người yếu thì sợ gió. Khi thấy mình bị đối xử bất công, những người hèn hạ sẽ tức giận, kẻ nhát đảm có thể “vào hùa” với họ để được an thân, trở thành hèn hạ như họ. Muốn giữ lập trường của mình thì phải phân định đúng đắn, phải đủ can đảm hành động. Ngôn sứ Êdêkien bộc bạch: “Một thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng. Người phán với tôi: Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay.” (Ed 2:2-3) Dám ăn nói với dân ngang ngược như vậy, chắc chắn ngôn sứ Êdêkien phải can đảm lắm. Nhờ ơn Chúa, người chính trực không sợ hãi gì.

Quả thật, họ là dân “anh chị” thứ thiệt chứ không phải là dân vừa: “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này.’ Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.” (Ed 2:4-5) Ngôn sứ Êdêkien vẫn thản nhiên, không hề sợ hãi. Thiên Chúa có phong cách rất độc đáo, Ngài không ép buộc mà cho họ tùy ý, nghe hay không nghe là quyền tự do của họ. Nhưng chắc chắn sẽ có hệ lụy kéo theo: “Ta sẽ căn cứ vào lối sống của chúng mà hạch tội.” (Ed 11:21)

Những người sống thẳng thắn thì thường thua thiệt, bị ghen ghét. Là con người, họ cũng buồn lắm, nhưng họ không thể “gió chiều nào ngả theo chiều nấy.” Và họ chỉ còn biết tâm sự nỗi lòng với Đấng mà họ luôn tôn thờ và tín thác: “Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, Đấng đang ngự trên trời. Quả thực như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt con cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa của con, tới khi Người xót thương chút phận.” (Tv 123:1-2)

Dù có thế nào thì vẫn phải không ngừng cầu nguyện, kết hiệp với Chúa ở mọi nơi, mọi lúc, nhưng lời cầu xin của họ như không được đáp lại. Tâm can trĩu nặng nỗi buồn. Chắc chắn không phải Thiên Chúa lãng tai hoặc làm ngơ, mà Ngài muốn chính họ xác nhận niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Họ đã từng thất vọng nhiều nhưng họ không tuyệt vọng, vẫn một lòng tín nguyện: “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương, bởi con bị khinh miệt ê chề; hồn thật quá ê chề vì hứng chịu lời nhạo báng của phường tự mãn, giọng khinh người của bọn kiêu căng.” (Tv 123:3-4) Thiên Chúa chỉ can thiệp đúng lúc, không sớm và không muộn. Ngài không thể lặng nhìn tôi tớ ngài sa cơ thất thế, gặp nguy hiểm, phải chịu oan uổng. Thật vậy, Thánh Augustinô xác định: “Ngài có đó khi ta tưởng cô đơn, Ngài nghe ta khi chẳng ai đáp lại, Ngài thương ta khi tất cả hững hờ.”

Tự tin nhờ hiểu biết. Tự tin là đức tính cần thiết để sống bình an, nhưng tự tin thái quá có thể dẫn tới kiêu ngạo. Thánh Phaolô chia sẻ kinh nghiệm: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.” (2 Cr 12:7-8a) Ông cho biết: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này.” (2 Cr 12:7-8) Ai cũng sợ đau khổ, cả thể lý lẫn tinh thần. Thánh Phaolô cũng “nổi da gà” khi đối mặt với đau khổ, ông năn nỉ Chúa cứu thoát, thế nhưng Chúa có vẻ như làm ngơ, nhưng rồi Ngài nói rõ: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2 Cr 12:7-8b) Thánh ý Thiên Chúa vô cùng mầu nhiệm.

Đúng là “được lời như cởi tấm lòng,” Thánh Phaolô hết sợ, và vui vẻ chia sẻ: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2 Cr 12:9-10) Hoàn toàn đảo ngược thế cờ: Nhược điểm (điểm yếu) hóa thành yếu điểm (điểm mạnh), sở đoản trở nên sở trường. Thật là kỳ diệu!

Phàm nhân khổng thể hiểu kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa. Chính Ngài đã chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, chịu nghèo khó để chúng ta được sung túc, chịu nhục nhã để chúng ta được rạng rỡ, chịu yếu đuối để chúng ta được mạnh mẽ, chịu sỉ nhục để chúng ta được ca ngợi, chịu bị loại bỏ để chúng ta được đón nhận, chịu tan nát để chúng ta được nguyên vẹn,… và cuối cùng, Ngài chịu chết một lần để chúng ta được sống dồi dào và sống mãi.

Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về quê hương thăm cha mẹ, cũng có các môn đệ đi theo. Ngày sabát, Ngài giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên nên bàn tán: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6:2) Lý do rất đơn giả và hiển nhiên: Đức Giêsu là con của bác thợ mộc Giuse và Cô Maria, anh em họ với Giacôbê, Giôsết, Giuđa và Simôn, chị em của Ngài là bà con lối xóm với họ. (Mc 6:3) Hoàn toàn bình thường, chẳng có gì nổi trội. Họ đã vấp ngã vì Ngài với lý do rất bình thường. Người ta không đủ hiểu để phân biệt sự khác nhau giữa điều bình thường và điều tầm thường. Điều bình thường nhưng chưa chắc là tầm thường, mà có thể là phi thường. Cuộc đời nhiều vị thánh đã chứng tỏ quy trình lạ lùng như vậy.

Nhưng rồi cái gì đến sẽ đến. Đời là thế! Và Đức Giêsu đưa ra một kết luận tất yếu: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mc 6:4) Đáng sợ thật, nhưng nếu có thể nhận ra và xác định như vậy thì không đáng sợ nữa. Thánh Máccô cho biết rằng hôm đó Chúa Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, mà chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ, chính Ngài cũng lấy làm lạ vì họ không tin. (Mc 6:5-6) Sự thật quá phũ phàng!

Chúa Giêsu không suy diễn, không quan ngại, không nao núng. Nhưng người ta lại cứ suy diễn nên có lối đối xử không hay – với Chúa và với nhau. Đừng suy bụng ta ra bụng người!

Lạy Thiên Chúa, xin ban ơn thông tuệ và khôn ngoan, xin giúp con hiểu biết và phân định đúng đắn, để con đủ nhận thức và ý thức những gì cần thiết theo ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

 

VỮNG TIN GIỮA CUỘC ĐỜI ĐẦY BIẾN ĐỘNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên  

Người tín hữu chân chính là người sống giữa cuộc đời biết bao biến động mà vẫn tin tưởng vào Chúa và trung tín với niềm tin ấy. Nói cách khác, tin vào Chúa và trung tín với Ngài, đòi hỏi phải chấp nhận những thiệt thòi trong cuộc sống. Tin vào Chúa cũng được so sánh như người lội ngược dòng giữa cuộc đời đầy rẫy những xáo trộn xung quanh. Giữa những bon chen, nghi ngờ và mưu mô mánh lới, người tin Chúa vẫn giữ tâm trạng an bình và phó thác, vì họ tin Chúa là chủ lịch sử và là Đấng quan phòng yêu thương.

Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta những khó khăn nghịch cảnh mà người tin Chúa phải đối diện trong cuộc sống hằng ngày. Thánh Mác-cô kể lại một chuyến viếng thăm quê hương của Chúa Giêsu và những nhận định của bà con đồng hương về Người. Việc Chúa Giêsu rao giảng và làm phép lạ làm cho những người ở Nagiarét ngưỡng mộ. Tuy vậy, họ chỉ dừng lại ở sự ngưỡng mộ đối với một nhân vật giỏi giang khôn ngoan, mà không chấp nhận gạt bỏ thành kiến để đi xa hơn, tức là nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, đến trần gian để cứu độ con người. Quan niệm của họ về Chúa chỉ dừng lại là “một bác thợ con bà Maria”.

Giữa một xã hội đa dạng trong suy tư và trong cách sống, đức tin vào Chúa Kitô nơi chúng ta cũng có nguy cơ bị thu hẹp lại trong một số quan niệm thuần túy trần thế. Khá nhiều tín hữu chỉ giữ Đạo mà không sống Đạo, tức là họ nhận mình là người được rửa tội và mang danh Công giáo, nhưng không thực hành đức tin, hoặc giả như nếu có thì đó là một lối thực hành miễn cưỡng chiếu lệ. Những tín hữu này cũng giống như những người đồng hương của Chúa Giêsu ở Nagiarét ngày xưa. Vì vậy, họ không cảm nhận được Đức Giêsu là Đấng hằng sống trong Giáo Hội và trong tâm hồn của họ. Vì đức tin nơi họ còn non yếu và hời hợt, một lúc nào đó, những biến động của cuộc đời sẽ làm cho đức tin tiêu tan.

Trong bối cảnh phức tạp, sống đức tin đã khó, làm chứng cho đức tin lại khó hơn nhiều. Tuy vậy, trong mọi nghịch cảnh, người tín hữu vẫn là những “tông đồ” và “ngôn sứ”. Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, hai danh xưng này đều có nghĩa “được sai đi”. Edêkien là một ngôn sứ sống vào thời kỳ người Do Thái bị lưu đày ở Babylon. Ông can đảm thi hành sứ vụ giữa những gian nan thử thách. Không những gặp khó khăn từ chế độ cai quản, ông còn gặp khó khăn đến từ những kỳ mục và dân Do Thái. Tuy vậy, ông không nản lòng. Nội dung bài đọc I là lời Chúa khích lệ ông, hãy tiếp tục thi hành sứ mạng, mặc cho dân cứng cổ và phản loạn. Lòng tín thác vào Chúa đã giúp ông đứng vững và loan báo sứ điệp của Chúa với lòng can đảm.

Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được trao ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Ngôn có nghĩa là lời; Sứ có nghĩa là được sai đi. Ngôn sứ tức là người được sai đi để nói Lời của Chúa. Nhiệm vụ này, không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì “Trung ngôn nghịch nhĩ – Lời nói thẳng thì khó nghe”. Để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, có những lúc người tín hữu phải kiên trung và phó thác. Trong khi nhiều người dễ dàng chấp nhận sự dối trá, thỏa hiệp để được lợi lộc danh vọng, thì người Kitô hữu phải cân nhắc kỹ càng để không phạm Luật Chúa và không làm trái với lương tâm. Lịch sử ghi lại rất nhiều tín hữu đã chọn con đường thập giá của Chúa Giêsu để làm chứng cho sự thật. Giáo Hội Công giáo Việt Nam đang cử hành Năm Thánh tôn vinh các Thánh Tử đạo Việt Nam. Các ngài đã chọn lựa Chúa và chấp nhận những hệ lụy đi kèm theo sự lựa chọn dứt khoát ấy. Đòn vọt, tù đầy, gông cùm và vu khống không làm các ngài nản chí. Ước chi việc cử hành Năm Thánh giúp mỗi người tín hữu nhận ra sứ mạng nhân chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, nhờ đó, chúng ta được vững tin giữa cuộc đời đầy biến động.

Qua chức năng ngôn sứ, mỗi chúng ta đều được sai đi để giới thiệu Chúa cho mọi người. Dù ở bậc nào, ai cũng có thể thực hiện được chức năng này, miễn là có thành tâm thiện chí. Được thúc đẩy và soi sáng bởi Đức tin, người được sai đi loan báo Lời Chúa không còn lo sợ. Thánh Phaolô, vị chiến sĩ Đức tin và là Tông đồ dân ngoại, đã cảm nhận được niềm vui khi chịu thử thách trăm chiều. Ngài vui sướng khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Chính lúc ấy, Ngài lại được thêm sức mạnh thần linh Chúa ban (Bài đọc II).

Không ai chúng ta viện cớ mình kém cỏi để từ chối nhiệm vụ ngôn sứ. Một nụ cười, một lời nói động viên, một cử chỉ thân thiện… dù rất đơn sơ, nhưng nếu được thực hiện với lòng yêu mến, chúng trở nên những món quà ý nghĩa. Món quà quan trọng và ý nghĩa nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho mọi người, đó là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và đang ở giữa chúng ta.

Những thử thách của cuộc đời không có ý làm ta tê liệt, chúng có ý giúp ta khám phá ra ta là ai(Bernice Johnson Reagon).

Về mục lục

.

ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.

Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.

Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.

Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?

3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

Về mục lục

.

TIN MỚI THẤY ĐƯỢC

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Cuộc sống âm thầm, ẩn dật của Chúa Giêsu với cha mẹ Ngài là Thánh Giuse và Mẹ Maria tại làng Nagiarét trong 30 năm, chắc chắn không phải là những năm tháng uổng phí.Đây là giai đoạn chuẩn bị cho sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, Ngài đã sống rất giản dị,bình thường,  không làm những gì nổi bật, đến nỗi những người đồng hương với Chúa Giêsu đã phải thốt lên cách kinh ngạc hầu như coi thường Ngài :” Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao ?”.

Chúa Giêsu sống ở Nagiarét với cha mẹ của Ngài làm nổi bật vai trò của đời sống gia đình. Thực vậy, Chúa không sống như một siêu nhân, Ngài không làm những việc phi thường, nổi bật, xuất chúng, nhưng Ngài đã sống cuộc sống bình dị, giản đơn, nghèo hèn như mọi người.Chính vì Chúa Giêsu đã sống và làm những công việc bình thường như mọi người mà những người đồng hương Nagiarét quê hương của Ngài, sau khi Ngài đã đi rao giảng, đã được nhiều người biết đến vì những lời nói, việc làm và những phép lạ Ngài thực hiện, mà khi về thăm quê hương, vào Hội Đường đọc Sách Thánh, Chúa Giêsu đã giải thích Kinh Thánh cách rõ ràng tường tận, uyên bác, có người khen, nhưng có những người vì thành kiến xấu nên đã tỏ vẻ khinh chê Ngài…Người đồng hương của Chúa vì óc hẹp hòi, tính ghen tỵ,thiển cận nên đã không nhận ra khuôn mặt của Ngài. Họ không coi Ngài là một tiên tri, lại càng không tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Họ càng không tin người đồng hương với họ lại là Con Thiên Chúa. Những người đồng hương với Chúa Giêsu không tin vì họ chỉ thấy quá khứ bình thường của Ngài mà thôi. Họ cũng không tin vì hiện tại của Chúa Giêsu vẫn không có gì hào nhoáng, vinh quang, họ chỉ nhìn thấy nơi Ngài là con bác thợ mộc Giuse, và con bà Maria nội trợ. Thực thế, vì không tin, họ đã không thấy Chúa, không nhận ra Chúa. Có tin mới nhận ra khuôn mặt đích thực của Chúa. Bởi vì Chúa đã nhận lấy xác phàm để sinh ra như thư Philip 2, 6-11 của thánh Phaolô đã viết…Thấy ở đây là thấy bằng con mắt đức tin.Thánh Phaolô viết :” Đức tin là bảo chứng những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy “ ( Dt 11, 1 ).

Theo Tin Mừng và theo suy nghĩ của chúng ta thì Chúa Giêsu, dù Ngài là Thiên Chúa toàn năng, Ngài có quyền trên con người, trên sự sống và sự chết, nhưng trước sự cứng lòng, trước lòng chai dạ đá của những người đồng hương, Ngài đành bó tay. Kinh Thánh viết :” Người đã không thể làm được phép lạ nào “ tại quê hương Nagiarét”. Con người được Chúa cho toàn quyền tự do quyết định nhận hay từ chối Thiên Chúa. Con người có khả năng ngăn cản Thiên Chúa đến với mình và từ khước ân huệ Ngài tặng ban.Chúa cho con người khả năng, quyền tự do để phân định phải trái và đón nhận Chúa hay từ khước Chúa. Tuy nhiên, tất cả phải có đức tin và đòi hỏi sự cộng tác của con người với ơn huệ của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa và biết chia sẻ niềm tin cho những người khác. Xin đừng để chúng con cứng lòng như những người đồng hương của Chúa Giêsu xưa vì họ thiển cận, hẹp hòi và có thành kiến xấu đối với Chúa, nên họ đã không tin và nhận ra Chúa là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa. Xin ban cho chúng con một trái tim mới, cái nhìn mới để chúng con luôn tin nhận Chúa và những kỳ công tuyệt vời của Chúa đã làm cho nhân loại, cho mỗi người.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1.Tại sao người đồng hương của Chúa Giêsu lại không tin Chúa là Thiên Chúa ?

2.Những người đồng hương của Chúa Giêsu có thái độ nào đối với Chúa ?

3.Chúa ban cho chúng ta điều gì để nhận, tin và biết Ngài ?

4.Chúa đòi hỏi chúng ta điều gì ?

Về mục lục

.

ĐỪNG XEM THƯỜNG NHAU

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Con người sống bên nhau thường hay bị “quen quá hóa nhàm” hay còn gọi là “gần Chùa gọi Bụt bằng anh”. Xem thường người bên cạnh và ca tụng người xa lạ. Chê sản phẩm của đồng hương lại đề cao sản phẩm nước ngoài. Đôi khi sự chênh lệch chẳng là bao. Có khi ngược lại hàng Việt Nam lại chất lượng cao hơn hàng ngoại. Người Việt Nam hơn hẳn người nước ngoài.

Có một lần tôi qua Mỹ và vào một siêu thị mua sắm, sau khi tìm kiếm mãi tôi cũng chọn cho mình một cái áo thun phù hợp giữa hàng trăm ngàn cái áo. Người bạn đi cùng bảo tôi : coi chừng lại là Made in Việt Nam! Và quả thật khi nhìn kỹ đúng là hàng Việt Nam xuất khẩu qua Mỹ.

Đúng là “Bụt nhà không thiêng” hay nói như lời Chúa Giê-su: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”

Thực vậy, Chúa Giê-su trong thân phận con người cũng chịu sự đời nghiệt ngã ấy. Người ta đánh giá nhau không phải do tài năng mà do thành kiến có sẵn để rồi dè bỉu chê bai. Và người ta cũng đánh giá Chúa với cái nhìn định kiến có sẵn về gia thế của Người. Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương chỉ nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, chỉ nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ đã không nhận ra thiên tính nơi Người mà chỉ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao?  Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?  Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3)

Tiếc thay, việc đánh giá Chúa Giê-su dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người nên dân làng Na-da-rét đã đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giê-su ưu ái dành cho họ.

Và hôm nay chúng ta cũng đánh mất nhiều sự trợ giúp từ những người thân cận chỉ vì chúng ta đã quá xem thường nhau.

Có một lần tôi gặp một bạn trẻ cùng quê với tôi ở Gia Kiệm, anh là một người rất thành đạt. Tôi hỏi: sao không về quê mở mang cho xứ quê nhà? Anh bạn trẻ ấy nói: có ai tin mình đâu mà có thể làm được gì cho xứ nhà!

Một lần tôi đến thăm và ăn cơm với một gia đình người quen. Cơm nấu rất ngon nên tôi khen thế nhưng cô vợ bảo: thế mà chồng con ngày nào cũng chê ăn chẳng ra gì!

Và còn đó những bạn trẻ tài năng vẫn bị cha mẹ xem thường, và vẫn còn đó những người đồng hương bị anh em tẩy chay xem thường, và vẫn còn đó những cặp vợ chồng luôn xem thường nhau bằng những lời khinh khi xúc phạm đến nhau.. .

Cuộc đòi sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người biết nhìn nhận giá trị của nhau, biết nhận ra cái tốt của nhau để khích lệ thay vì chỉ tìm cái xấu để bôi nhọ xem thường. Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa giúp sức để chúng ta đừng bao giờ thất vọng về bản thân mà biết nhận giá ưu điểm của mình để cống hiến cho tha nhân trong khả năng của mình.

Về mục lục

.

ĐƯỢC CHÚA VIẾNG THĂM

Bông hồng nhỏ

 “Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày…” (“Quê hương” của Giáp Văn Thạch, thơ :   Đỗ Trung Quân). “Quê hương” là cánh diều bay cao, là tiếng sáo mà ngày nào ta cùng đám bạn vui đùa trong mỗi buổi chăn trâu. Quê hương trong ta thật đẹp với bao kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ để mỗi khi nhớ về lòng ta lại bồi hồi, xúc động; dù đi xa vẫn muốn được trở về thăm quê.

Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Ngài chọn một người cha, người mẹ, có một quê hương để lớn lên và để trở về. Hôm nay, Đức Giê-su trở về quê quán cùng các môn đệ của mình. Có lẽ, lòng Ngài cũng thao thức mong chờ được trở về nơi “chôn nhau cắt rốn” để giảng dạy và chữa lành bệnh tật cho những người đồng hương. Tình thương lớn lao trong tâm hồn hối thúc bước chân Ngài. Thế nhưng khi đón nhận những lời giảng dạy đầy khôn ngoan, những phép lạ mà Ngài thực hiện, dân chúng rất đỗi ngạc nhiên và tự hỏi nhiều điều, để rồi họ chỉ nhìn vào thân thế của Đức Giê-su mà vấp ngã. Họ không tự hỏi tại sao Chúa Giê-su làm phép lạ, giảng dạy cách khôn ngoan như thế là bởi từ điều gì. Họ nhận ra những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Chúa nhưng không để Lời Chúa thấm vào lòng. Họ không cảm nhận được niềm vui của người được lành bệnh, không tin vào tất cả những gì Chúa Giê-su thực hiện. Óc thành kiến và cái nhìn hạn hẹp, chỉ biết về thân thế Đức Giê-su nhưng cho rằng đã nắm được tất cả, họ đã tự mình từ chối tình thương của Thiên Chúa. Chỉ có một câu trả lời duy nhất cho những câu hỏi mà họ đã đưa ra, rằng Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa sai đến và tất cả những gì Ngài thực hiện đều xuất phát từ tình thương yêu con người.

Người Việt Nam có câu thành ngữ: “Xa thì thương, gần thì thường”. Nhìn lại cuộc đời của ta, đã bao lần ta nhìn những người thân quen mà chẳng nhận ra nơi họ những điều tốt đẹp. Ta mang trong mình óc thành kiến và cái nhìn hạn hẹp đầy ích kỷ và đố kỵ khi đến với người khác. Bởi đó ta khó nhìn nhận người khác hơn mình, khó chấp nhận những giới hạn nơi chính mình. Càng không chấp nhận sự thật nơi bản thân, ta càng dễ phủ nhận điều tốt đẹp nơi người khác. Để rồi, Lời Chúa thốt lên khi xưa cũng trở thành lời chất vấn ta: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4).

Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Khi nhìn về một người anh chị em, xin Chúa cho con nhìn nhận họ với một tâm hồn chân thành. Xin Chúa cho con hiểu rằng: đằng sau một con người bình dị và có vẻ tầm thường ấy, nơi họ còn ẩn chứa những điều tốt đẹp hơn. Và trên hết, xin cho con khám phá ra quyền năng và tình thương của Chúa được bày tỏ nơi anh chị em con, để con tin rằng nơi họ Chúa đang hiện diện và mời gọi con yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

QUÊ HƯƠNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng 

Chúa cùng môn đệ về làng,

Nơi Na-za-rét, họ hàng thân quen.

Thân bằng quyến thuộc chúc khen,

Hội đường nhỏ bé, bon chen nhóm người.

Kẻ thương người ghét kẻ cười,

Chúa vào giảng dạy, vui tươi đón chào.

Ngạc nhiên thái độ đồng bào,

Khôn ngoan lời lẽ, làm giao động lòng.

Ghen tương thái độ bên trong,

Nghi ngờ sứ mệnh, trông mong cứu đời.

Mẹ cha chú bác cùng thời,

Dân làng biết rõ, cuộc đời Thầy đây.

Khinh khi vấp phạm lời này,

Con ông thợ mộc, hằng ngày lao công.

Ma-ry, mẹ Chúa ngắm trông,

Tiên tri ẩn dấu, họ không hiểu gì.

Chúa Giêsu trở về quê nhà, nơi Ngài đã sinh sống suốt gần ba mươi năm trời. Chúa Giêsu vào giảng trong Hội đường, nhiều người đã sửng sốt về lời giảng của Ngài. Họ ngưỡng mộ nhưng không tránh khỏi những dị nghị và dèm pha. Họ nghĩ là họ quá biết Ngài. Bà con kháo láo với nhau rằng: Bởi đâu ông này được như vậy. Đúng vậy, họ đâu có xa lạ gì, hằng ngày Ngài cùng lao động và cùng chia xẻ mọi biến cố trong xóm làng với họ. Gia đình của Ngài gần đây và cha mẹ của Ngài là những người hàng xóm tốt lành. Thế sao hôm nay Ngài giảng dạy và làm nhiều phép lạ như thế. Thế là họ tỏ thái độ khinh thường Ngài.

Chúng ta thường chứng kiến những tài tử thần tượng đi tới đâu cũng được người ta đón chào và ngưỡng mộ. Nhất là các tài tử thể thao, điện ảnh và cả các chính khách cũng được nhiếu người quí mến. Người ta không đánh giá hay nhìn họ ở khía cạnh luân lý. Nói chung, họ nhìn ở tài năng diễn đạt và thuyết phục. Người ta được thong dong không bị lương tâm đặt nghi vấn.

Sứ mệnh tiên tri thì khác, tiên tri nói lên sự thật. Tiên tri vạch trần cuộc sống giả dối, kêu gọi từ bỏ đường tà và dẫn dắt trở về nẻo chính đường ngay. Dĩ nhiên họ không ưa thích, vì không am hợp với cách sống của họ. Chúa về lại quê cũ. Chúa không phải là một tài tử. Chúa về quê như một vị tiên tri có các môn đệ theo sau.

Dân làng truy tìm nguồn gốc của Chúa và họ tỏ ra không vui. Họ thiển cận không biết được chân tướng thật của Chúa Giêsu. Họ đã bị lầm. Chúa Giêsu bị kẻ xấu xuyên tạc và nhiều người nhẹ dạ bị họ giật giây. Chúa Giêsu ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Niềm tin không phải là phép bùa hay lừa đảo nhưng là một lối sống đạo.

Truyện kể vào năm 1960, khi đạo giáo bị bách hại ở Sudan. Một thanh niên tên là Taban đã trốn nguy hiểm chạy sang Uganda tị nạn. Tại Uganda, anh đã nhập Dòng Tu và sau trở thành linh mục. Khi hòa bình trở lại, linh mục trở về quê hương và được bài sai đến xứ Palotake. Giáo dân nơi đây khó chấp nhận và không tin Taban là một linh mục. Cha nói rằng người ta đã nghi ngờ tôi và họ hỏi tôi: Ông có thật là linh mục không? Ông là người da đen. Họ không thể tin. Vì người ta chưa bao giờ thấy linh mục da đen. Họ chỉ gặp linh mục da trắng cho họ quần áo và thuốc thang.

Xét đoán diện mạo bên ngoài dễ bị lầm. Hãy quảng đại để đón nhận nhiều sự lạ chung quanh. Chúa ban cho mỗi người một kho tàng và một ơn gọi riêng để phục vụ. Chúng ta hãy đón nhận mọi người như hình ảnh của Chúa.

Về mục lục

.

HÃY RAO GIẢNG TIN MỪNG, DÙ GẶP ĐIỀU BẤT LỢI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá những cảm xúc từ Trái Tim Chúa Giêsu đối với những người đồng hương khi vào hội đường rao giảng. Thánh sử Marcô viết rằng, Chúa Giêsu “ngỡ ngàng về sự cứng lòng tin của họ” (Mc 6,6). Đây là một bất lợi cho chính Chúa Giêsu, một đàng có các môn đệ theo cùng về quê, đàng khác ngay tại quê hương, Thầy mình cũng không được đón nhận, vậy tương lai công việc của họ theo Thầy sẽ ra sao? Hẳn các môn đệ Chúa cũng sửng sốt về sự thiếu lòng tin của những người đồng hương với Thầy Giêsu và phản ứng của Thầy sau này nữa. Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu tương ứng với sự sửng sốt của những người đồng hương, theo một nghĩa nào đó cũng lấy làm đau buồn! Mặc dù Chúa biết không tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương, nên Người đã thốt lên câu nói để đời  “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình“, nghĩa là không có tiên tri nào được đón nhận nơi những người đã nhìn thấy tiên tri ấy sinh ra và lớn lên (x. Mc 6,4).

Cứ sự thường, khi người ta đã nghe biết những việc Chúa Giêsu làm, lẽ ra họ phải chào đón Người bằng tình yêu và lòng mến, hay hơn thế là hồ hởi lắng nghe lời Chúa Giêsu giảng dạy với lòng thán phục. Điều ngược lại là sự thật : “Họ sửng sốt về giáo lý của Người” (Mc 6,3). Những người đồng hương của Chúa “sửng sốt” vì sự khôn ngoan của Chúa, một loạt câu hỏi được đặt ra : “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ “vấp phạm vì Người” (Mc 6, 3).

Thiên Chúa muốn làm người để cảm thông, thân thiện, chia sẻ thân phận hèn mọn của con người. Nhưng xót xa thay! Chính điều Thiên Chúa muốn gần con người lại là điều làm con người vấp phạm.

Thánh Bernard nói rất hay khi viết : “Con Thiên Chúa đã đến và làm những điều kỳ diệu trong thế giới này, Người xé nát tâm trí chúng ta từ tất cả những điều trên thế gian, để chúng ta suy niệm và không bao giờ ngừng ca tụng những kỳ quan của Chúa. Người mỡ cho chúng ta những chân trời vô tận và dòng sông ý tưởng tuyệt vời, dồi dào đến mức không bao giờ vơi cạn. Có ai hiểu lý do tại sao Đấng uy nghi tối thượng muốn chết để ban cho chúng ta sự sống, để phục vụ cho chúng ta, Người đã sống lưu vong để mang chúng ta trở về quê trời, Người đã hạ thấp bản thân mình, nhận lấy những điều hèn hạ và bình thường nhất để nâng con người chúng ta lên?

Thời nào cũng thế, thế gian không ưa các tiên tri. Trong Cựu Ước, nhiều vị đã phải chết vì sứ vụ của mình. Như Giêrêmia, Dacaria và nhiều vị khác. Còn tiên tri Êlia chỉ nhờ chạy trốn mới có thể thoát chết. Chúa Giêsu cũng không đi ngoài qui luật ấy. Tuy nhiên, dù bị đe dọa, Chúa Giêsu không nao núng. Dù bị một số người khước từ, Lời của Chúa vẫn được loan truyền đi khắp nơi và không gì có thể ngăn cản Người được.

Chúng ta sống trong một thế giới bất tín và dửng dưng. Nhưng chính trong môi trường khước từ siêu nhiên như thế mà chúng ta được sai đến như các tiên tri của Chúa. Tiên tri là phát ngôn nhân, là người nói thay cho Thiên Chúa. Sứ vụ của tiên tri là loan báo Tin mừng và chứng nhân mang đến niềm hy vọng và các giá trị kitô giáo cho những nơi vắng bóng và thù địch với niềm tin kitô.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu dấn thân vào sứ vụ loan báo Tin mừng cho người nghèo khó mà Thiên Chúa Cha đã giao phó. Người đã đi vào một môi trường hòan toàn bất lợi và xung khắc với Người, nhưng Người đã không lùi bước, trái lại, Người đã trung thành cho đến giây phút cuối cùng. Còn chúng ta, vì đã được rửa tội và thêm sức, tất cả chúng ta được liên kết vào trong sứ vụ ấy. Và cũng như Người, có thể chúng ta sẽ gặp chống đối. Mang trong mình chứng từ của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay, người kitô hữu dễ bị phê phán và bị chế nhạo, và phải đi ngược dòng với tâm tưởng của thế gian. Nhưng nếu chúng ta trung thành với Đức Kitô, thì không gì có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Người. Lời Người là lời mang lại sự Sống đời đời. Khi tiếp nhận Lời, chúng ta có thể giữ được niềm hy vọng trong ta.

Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho chúng con, đễ dầu gặp khó khăn thử thách, chúng con vẫn nhất quyết đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em chúng con. Amen.

Về mục lục

.

KHÔNG LÀM ĐƯỢC PHÉP LẠ NÀO

Lm Giuse Hoàng Kim Toan.

Trở về quê Nazareth, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng, Người không làm được phép lạ nào, vì họ không tin (Mc 6, 1 -6).

Tại sao họ không tin?

Người cùng quê với Chúa Giê su họ có lý do để không tìn vào Chúa Giê su. Lý do làm sao trả lời câu hỏi:”Một Thiên Chúa siêu việt, vô biên, làm sao lại trở thành con người thực tại và giới hạn được?’

Không trả lời trực tiếp câu hỏi này, nhưng con người vẫn tìn: con người có hồn có xác, hồn bất tử và xác hay chết! làm sao dung hòa được cả hai yếu tố này trong một con người?. Người ta vẫn tin nhiều cặp đôi tồn tại trong một: “vật chất – tinh thần; tự nhiên và siêu nhiên; hình và bóng..”

Chỉ có thể hiểu được như thời đại của chúng ta vì căn bệnh GATO. Người làng một số người không thể chấp nhận được con người này hơn con người kia. Con mình bao giờ cũng là số một và con ai giỏi hơn, tài năng hơn thì buông lời gièm pha, chỉ trích, tìm cớ để khinh thường. Người ta thường hay mắc bệnh khoe, khoe nhà, khoe của, khoe đẹp, khoe con… Giữa những con người Gato thì cũng chẳng có phép lạ cuộc sống nào vì không có chỗ cho bác ái, yêu thương, hiệp nhất.

Bệnh khoe khoang là một trong nhóm của lòng kiêu căng, tự mãn. Không thấy giới hạn của mình, nhất là những giới hạn của con người không thể vươn tới vô biên. Con người tiến tới phía trước luôn là con người nhận biết rằng phía trước còn là mênh mông, nếu không con người sẽ chẳng tiến bước được gì ngoài giới hạn của mình.

Chúa Giê su chấp nhận, vì phép lạ không phải là để chinh phục người ta mà chỉ là một trong dấu chỉ để người ta biết là có Chúa hiện diện. Điều cần thiết Chúa mời gọi sau những phép lạ và trong tất cả bài giảng huấn của Người là: Sám hối và tin vào Tin Mừng là chính Chúa.

Để tin vào Chúa, con gười cần đi trên một lộ trình của lòng khiêm nhường tìm kiếm, gặp gỡ và hoán cải. Bởi niềm tin vừa là một ân ban Chúa mở ra cho con người và đáp lại bằng ý chí vâng phục của con người trước Chúa.

Thực tại dẫn về Chúa

Buồn lòng trước sự cứng tin của con người. Chúa đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhưng con người lại thích trong tội lỗi hơn ánh sáng. Cứ mãi lẩn quẩn trong vòng vây của bóng tối và giữa những đau khổ, chán chường mà không muốn thoát.

Con người tự thân là một mâu thuẫn giữa quyến luyến và dứt bỏ, giữa cầm nắm và cho đi, giữa cái tôi và cái chúng ta… Sống trong mâu thuẫn giữa thực tại và lý tưởng, sống ảo và sống thật. Trong vòng mâu thuẫn đó con người bị đưa đẩy hết bờ này sang bờ kia.

Ngay ở trong những thảm trạng của con người trải qua, người ta kinh nghiệm về cuộc đời của mình, càng muốn nắm giữ lại càng dễ mất. Kinh nghiệm này đi đến tận cùng vào giờ chết. Thế nên, càng giải quyết sớm tình trạng quyến luyến lại càng sống thấy ý nghĩa hơn cho cuộc đời. Tìm ra lý lẽ của cuộc sống mỗi người: sống với, sống cho và sống vì người khác. Đó là kinh nghiệm của con đường dứt bỏ.

Chúa lên tiếng mời gọi “Hãy theo Ta!” Theo Chúa, đón nhận tin mừng giải thoát khỏi cái tôi của mình, khỏi sự tha hóa bởi thế tục, tìm ra ý nghĩa cuộc đời của mình ở trong Thiên Chúa. Thánh Phao lô kinh nghiệm sau khi dứt bỏ coi như mọi sự là rác, để được biết Chúa Kitô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. (Gal 2, 20).

Có một niềm tin chắc chắn, tương lai sẽ mở ra và hiện tại được chiếu sáng, ý nghĩa cuộc đời sẽ gặp. Vậy còn chờ gì nữa không đặt niềm tin vào Chúa.

Xin cho con biết khiêm nhường tìm kiếm Chúa!

Về mục lục

.

THÀNH KIẾN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu không được tiếp đón tại quê nhà và Ngài đều nói đến ý tưởng: “Ngôn sứ không có thế giá tại quê hương mình” (Ga 4,44). Nhưng mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau. Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại” (Mc 5,21-43).

Đức Giêsu trở về quê hương Nagiaret. Ngài vào hội đường ngày sabat và đứng lên đọc rồi cắt nghĩa Sách Thánh cách rành mạch làm cho mọi người thán phục. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì ?”.  Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu. Họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ấy bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Dân làng Nagiarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Chính Nathanael cũng còn mang nặng quan niệm thành kiến đó: “Nagiarét có cái gì tốt đâu?” (Ga 1,46). Những người Do thái cố chấp nhìn Đức Giêsu bằng lăng kính của thành kiến quê hương và họ đã đưa Ngài lên ngọn đồi và định xô xuống vực.

Đức Giêsu nói với những kẻ đặt câu hỏi về sự khôn ngoan và gốc tích của Ngài bằng câu: “Ngôn sứ không bị rẻ rúng ngoại trừ nơi quê hương mình, nơi những người thân thuộc và trong gia đình mình” (Mc 6,4). Đức Giêsu giải thích về việc những người ở quê nhà không tin và không đón nhận giáo huấn của Ngài đến nỗi “Người ngạc nhiên vì sự không tin của họ” (Mc 6,6a).

Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa màu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Dân làng Nagiarét “vấp ngã vì Người”, họ không chấp nhận, họ không thể tin vào Đức Giêsu. Ngài mạc khải cho họ về nguồn gốc thiên sai của mình qua những lời giảng dạy khôn ngoan và các phép lạ, nhưng họ lại chỉ bám lấy thành kiến cố hữu. Chính thái độ bám ghì lấy, không dám buông bỏ những hiểu biết giới hạn nên họ không thể nhận biết Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Đức Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ không tin.

Dân làng Nagiarét không tin vì thành kiến. Họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Đức Giêsu mở ra cho họ. Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đức Giêsu không sống như một siêu nhân, Ngài sống bình dị như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình.

Những người đồng hương của Đức Giêsu thật “dại”, thay vì “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng họ lại đánh mất cơ hội khi quan niệm “bụt nhà không thiêng”. Thành kiến kiểu “nhìn mặt là biết số nhà” khiến người ta không ít lần rơi vào sai lầm khi nhìn đến tha nhân.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi người ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được.Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể. Nếu là của tập thể thì nó tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được. Thành kiến là những nếp suy nghĩ, quan điểm, niềm tin chủ quan sẵn có, thường là tiêu cực đối với một người, một nhóm người dựa trên lối sống, nghề nghiệp, quan điểm chính trị, màu da, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo, giới tính…Thành kiến thường được định hình trong con người theo thời gian, từ trải nghiệm của bản thân, do được tuyên truyền, do thế hệ trước truyền lại, do môi trường sống.Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi.

Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả sai lầm hoặc nguy hại. Ai đeo kính đen nhìn cái gì cũng tối tăm; lưỡi đắng ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. Thật dễ để nhận ra hay để nói về sai lầm của người khác.

Thành kiến làm cho người ta mù quáng, không nhận định khách quan nên khó có thể đối thoại, cởi mở với người khác, không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi tha nhân.

Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng sự kiện dân làng Nagiarét ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường, và kết thúc bằng sự ngạc nhiên của Chúa khi Ngài thấy họ không tin. Làm sao họ không ngạc nhiên được khi lời rao giảng và những dấu lạ Ngài làm tỏ rõ Ngài là Đấng đầy quyền năng và khôn ngoan? Thế nhưng, sự ngạc nhiên ấy không đủ để thay đổi thành kiến của họ về Ngài. Họ không thể chấp nhận một bác thợ bình thường, là người đồng hương họ quen biết, lại là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến. Và càng không thể chấp nhận được một con người như Ngài lại cả dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô. Hạnh phúc được tin vào Đức Kitô, đáng lẽ họ nhận được lại bị mất vì một thành kiến.

ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh “không bao giờ đóng kín nơi chính mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ. Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 45).

Đức Maria được ca tụng là có phúc vì đã tin (Lc 1,45). Chúng ta cũng thật có phúc vì đã tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Đức tin là ân huệ quý giá nhất trong cuộc đời, nhờ đó, mọi việc, dù nhỏ bé, âm thầm đến đâu, vẫn có ý nghĩa và có thể đem lại niềm vui, bình an cho cuộc đời.

Mỗi ngày sống, chúng ta hãy bày tỏ lòng tri ân Chúa ban cho mình ơn đức tin qua việc chuyên cần cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cũng như tham dự Thánh Lễ.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy hạnh phúc khi đi theo Chúa, khi làm môn đệ Ngài. Xin Chúa giúp con sống tốt tư thế môn đệ ấy. Amen.

Về mục lục

.

HỌ VẤP NGÃ VÌ NGƯỜI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thật dễ hiểu, đối với dân làng Na-da-rét vốn tò mò, vấn đề được họ quan tâm hơn hết nơi ông Giê-su mới nổi danh trở về thăm quê quán chính là xác định được quyền năng thần linh ông có được từ đâu mà đến; “Bởi đâu ông ta được như thế?”. Cụ thể, trước mặt họ là ông Giê-su trăm phần quá quen thuộc, một đồng hương từng chia sẻ với họ cuộc sống thường nhật; “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Giu-đa và Si-mon sao?” Ông Giê-su này thì họ đã quá nhẵn mặt qua những gì là tầm thường, là đời thường, là cơm áo gạo tiền. Điều mà họ không quen hoặc khó chấp nhận chính là quyền năng ‘đột xuất’ của bác thợ mộc trẻ Giê-su. Tác giả Mác-cô cho chúng ta thấy họ khó thoát ra khỏi lối suy nghĩ cố chấp này biết bao, ông này có gì mà làm nên chuyện? Đức Giê-su nhận ra ngay họ bị thái độ rẻ rúng ngăn cản để không thể chấp nhận Người, ngay cả khi Người xuất hiện trịnh trọng, đứng trước mặt họ trên bục sách trong hội đường. Tình trạng này được tác giả sách Tin Mừng gọi là bị ‘vấp ngã’, ‘họ vấp ngã vì Người’.

Đối với các tín hữu thời các tông đồ, vấn đề nặng nề nhất lại là cái chết tức tưởi và khổ nhục của thầy Giê-su trên cây thập tự; “Chúng tôi rao giảng một Đấng Ki-tô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là điên rồ” (1 Cr 1:23). Dầu có quen thuộc phần nào với cuộc sống trần gian của Ráp-bi Giê-su, các tông đồ vẫn thâm tín, qua các phép lạ Thầy thực hiện, rằng quyền năng Thiên Chúa hằng ngự nơi Thầy. Chính vì thế mà, đối với các ông, cái chết thập giá Thầy chịu là điều không thể chấp nhận được (xem Lc 24:19-24). Sau này, việc Thầy chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng Thiên Chúa đã là cả một cái phao cứu sinh giúp họ vượt qua được cái ‘vấp ngã’ ê chề của thập giá. Chính vì thế mà niềm tin phục sinh đối với cộng đoàn Ki-tô tiên khởi là vấn đề hệ trọng bậc nhất; ‘Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng’ (1 Cr 15:14).

Còn đối với chúng ta, các tín hữu của thế kỷ XX – XXI này, cái ‘vấp ngã’ trong niềm tin có thể là gì đây? Đời thường của Đức Giê-su, đối với chúng ta, không phải là nỗi ám ảnh, vì chúng ta có bao giờ được nếm cái cảm nghiệm một ông Giê-su quá gần gũi, quá cụ thể đó đâu. Cảm nhận cái chết khổ nhục của Người trên thập giá như một nỗi thất vọng ê chề, chúng ta cũng không có nốt, vì đã biết và tin rằng Người sống lại vinh hiển từ cõi chết. Ngược hẳn với các bậc tiền bối, chúng ta sẽ rất lấy làm vinh hạnh nếu được biết đôi chút về đời thường của Đức Giê-su tại Na-da-rét, và chúng ta thậm chí còn thấy hãnh diện về cuộc tử nạn của Người (phải chăng đó là lý do người ta dựng, và ùn ùn kéo nhau đi xem cuốn phim ‘The Passion of Christ’). Tuy nhiên tôi trộm nghĩ, điều mà ngày nay đã trở thành quen thuộc đối với niềm tin của chúng ta, có lẽ quá quen thuộc nữa là đàng khác, lại chính là thần tính của Đức Giê-su và quyền năng siêu phàm của Người. Mỗi khi nói về Đức Giê-su Ki-tô là tâm trí chúng ta lại hình dung ra một vị Thánh Tử, phục sinh khải hoàn vinh quang, sẽ uy nghi ngự đến để công thẳng phán xét kẻ sống và kẻ chết, và vương quốc Ngài sẽ uy hùng bất tận. Không như các đồng hương Na-da-rét, ngày nay chúng ta chắc chắn không hề rẻ rúng Ngài, rất kính sợ nữa là đàng khác. Không như các môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta không hề hoảng sợ về thập giá, ngược lại còn rất hãnh diện nữa là đàng khác. Thế thì – tôi xin phép được lặp lại vấn nạn – cái ‘vấp ngã’ trong niềm tin hôm nay thực chất có thể là điều gì? Thưa – tôi lại xin mạn phép được tự trả lời – có thể là lòng nhân từ thương xót, quá nhân từ xót thương của Người có thể làm cho chúng ta bị vấp phạm chăng?

Kể từ thời Thánh Phan-xi-cô Sa-lê (cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII) cho tới Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II (cuối thế kỷ XX tới đầu thế kỷ XXI), sự hiểu biết về Đức Giê-su Ki-tô như hiện thân và mạc khải tình yêu nhân hậu và xót thương của Thiên Chúa đã tiến triển chậm chạp đến thế nào trong Giáo Hội. Như một quan niệm, người ta đã thấy nó khó được chấp nhận như thế nào; còn việc tiếp nhận điều này như nền tảng của đức tin Công Giáo thì còn trì trệ hơn nữa nhiều, nhất là đối với số đông các chư vị trong các cấp phẩm trật. Phải chăng Đức Giê-su lại phải lên tiếng một lần nữa trong trường hợp này: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng (bị hiểu lầm) thì cũng chính… giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”? Do đó, tôi thật sự cầu mong cho Hội Thánh, được mệnh danh là một tổ chức mang mục đích rao giảng Tin Mừng tình thương, sẽ sớm là nơi mà sự nhận thức về tình yêu thương xót của Thiên Chúa hoàn toàn thống trị trong mọi lãnh vực…, và trong đó mọi cơ cấu luật lệ đều diễn đạt lòng nhân ái thần linh này mà thôi!

Riêng với chính mình, vì thuộc hàng linh mục – phẩm trật của Giáo Hội, tôi thấy mình có một phần lỗi trước tình trạng này. Tôi đã khám phá ra, và loan truyền lòng thương xót Chúa quá ít và quá trễ chăng?

Lạy Chúa Giê-su, xin trở lại viếng thăm Hội Thánh Chúa, không phải với quyền phép hay dấu lạ, nhưng với mạc khải nhân từ và xót thương vô biên. Sau nhiều thế kỷ lạ lẫm hoặc có phần sợ hãi, giờ đây xin thức tỉnh Hội Thánh Chúa, nhất là các vị trong phẩm trật, được thâm tín hơn về Tin Mừng nhân ái và yêu thương, nhờ đó Hội Thánh sẽ rao giảng cho người tội lỗi sứ điệp cao đẹp nhất mà họ hằng mong mỏi được nghe, đó là “Chúa Cha yêu mến trần gian tới nỗi…” A-men.

Về mục lục

.

VỊ TIÊN TRI BỊ CHỐI TỪ

Lm. GB. Trần Văn Hào

Đức Giêsu – Vị Tiên tri bị chối từ

Nỗi lòng của người đi xa khi trở về cố hương, ai lại chẳng muốn mình được đón tiếp nồng hậu, tay bắt mặt mừng, khi gặp lại những người thân quen, những bạn bè xưa cũ hay bà con lối xóm. Khi trở về Nazareth, Đức Giê-su đã không có được ước mơ cỏn con ấy. Thái độ của những người đồng hương như một gáo nước lạnh hắt vào mặt Đức Giê-su, khiến Ngài rất ngạc nhiên. “ Bởi đâu ông ta làm được những phép lạ như thế? Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria, và là anh em của các ông Giacôbê, Gio-xét, Giu-đa và Simon sao?… Và họ vấp ngã vì Người”(Mc 6,1-3). Thánh Marcô thuật lại sự kiện này và cho chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng thập giá ngay từ giai đoạn khởi đầu sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su. Đó là câu chuyện về một vị ngôn sứ bị chối từ ngay tại chính quê hương của mình. Các bài đọc lời Chúa trong phụng vụ hôm nay phác vẽ dung mạo của Đấng bị con người loại trừ và trong số những con người đó, có thể gồm chứa mỗi người nơi chúng ta.

Đức Giêsu, một mầu nhiệm ẩn kín

Đức Giê-su vẫn mãi luôn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm về Thiên Chúa luôn thách đố mọi người, và Thiên Chúa dường như vẫn còn đang giấu mặt. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Edêkien nói về dân Israel như là ‘những đứa con mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá… Chúng vốn là loài phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng’ (Ed 2,4-5). Sự cố chấp chai lỳ mà vị ngôn sứ nói tới chính là con đẻ của thói vô ơn và phản bội, trải dài trong suốt lịch sử dân Do Thái năm xưa, có thể còn kéo dài mãi cho đến chúng ta ngày hôm nay. Tân ước cũng nhiều lần nhắc lại sự phản bội và vô ơn này. Mười người phong hủi được Đức Giê-su chữa lành, nhưng chỉ có duy nhất một người trở lại tỏ dấu biết ơn. Bẽ bàng thay, đó lại là một người ngoại giáo, một cư dân Samari. Cả ngàn người được Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng chỉ có một người ghé vai vác đỡ Thập Giá khi Chúa oằn vai lê bước trên đường lên núi sọ. Đó cũng lại là một người ngoại giáo, gốc Xyrênê. Cao điểm của sự vô ơn này là toàn dân đồng thanh đả đảo, đòi kết án và xử tử Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã đến thi ân và yêu thương mọi người. Tương tự như thế, Thánh Marcô hôm nay nhắc lại sự kiện Đức Giê-su bị chối từ và bị hắt hủi bởi chính những người đồng hương thân thuộc, những con người rất thân quen, ngay cả những người có liên hệ máu mủ ruột thịt đã sống cận kề với Ngài suốt 30 năm ở Nazareth. Đây là một sự thật rất phũ phàng và khó hiểu!

Sự từ khước nơi mỗi người

Sự phũ phàng đó có thể vẫn còn đang được lặp lại ngày hôm nay nơi chính bản thân mỗi người chúng ta. Sự chối từ Thiên Chúa được thể hiện qua nhiều dạng thức khác nhau. Chúng ta vẫn tuyên xưng Thiên Chúa là tình yêu nhưng trong thực tế, chúng ta lại mang theo mình biết bao dao găm và lựu đạn của oán thù. Đó là một sự giả dối và bội phản. Chúng ta vẫn tự mãn nghĩ mình là người có đạo, vẫn tôn thờ Thiên Chúa, nhưng trong cuộc sống chúng ta lại thượng tôn tiền bạc, chạy theo một lối sống ích kỷ và hưởng thụ. Đây cũng là một lối sống vô thần thực hành, dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Giáo hội không sợ tuyên chiến với những con người tự cho mình là vô thần và không tin Thiên Chúa, nhưng Giáo hội lại rất khiếp sợ những con người tuy mang danh nghĩa là tín hữu, mà lại sống còn khủng khiếp hơn cả những người vô thần.

Năm 1904, viện Hàn lâm Hoàng Gia Anh tổ chức một cuộc triển lãm trong đó có một bức tranh khá nổi tiếng của họa sĩ Kosse, tựa đề ‘Đấng bị chối từ’. Bức tranh vẽ Đức Giê-su đang đứng trong sân một ngôi giáo đường lớn. Trên con đường phía trước, cả ngàn người đang rảo bước đi qua. Chỗ này một chàng thanh niên vừa đi vừa huýt sáo với thái độ rửng rưng bất cần đời. Chỗ kia một nhà khoa học đang mải miết suy nghĩ về công trình ông đang nghiên cứu. Chẳng ai thèm để ý và ngó ngàng tới Đức Giê-su. Một vị linh mục đi ngang qua, chỉ mải chăm chú lần hạt. Một nhà thần học vừa bước đi chậm rãi vừa nhăn trán suy nghĩ điều gì đó trong đầu của ông, cũng không màng đến những việc chung quanh. Chỉ có một nữ tu đang vội bước, lấm lét ngoảnh lại nhìn Chúa Giê-su rồi lại tiếp tục tiến bước. Đức Giê-su vẫn đứng đó, vẫn lặng lẽ và cô đơn một mình. Đôi mắt Ngài thoáng buồn vì sự rửng rưng và vô cảm của đám đông ngay trước cửa một ngôi giáo đường nguy nga đồ sộ. Tác giả ghi chú ở dưới bức tranh: “Bạn là ai trong số những người này?”

Tìm câu trả lời

Câu hỏi đó cũng được Giáo hội lập lại ngày hôm nay: “ Đức Giê-su là ai đối với tôi? Phải chăng, Ngài chỉ là một cư dân Galilê bình thường, là con bác thợ mộc và bà Maria, là người anh em lối xóm với chúng ta, chẳng có gì hơn, giống như ngày xưa những người đồng hương của Chúa vẫn nghĩ như thế.

Dân Galilê ngày trước đã có một thành kiến hẹp hòi về Đức Giê-su. Thành kiến thiển cận và tư duy bảo thủ đó đã làm con mắt đức tin của họ khép lại, khiến họ không thể nhận ra Đấng Cứu thế đang ở giữa họ. “ Phá vỡ một nguyên tử còn dễ hơn là phá đổ một thành kiến”. Người Nazareth ngày xưa đã mắc bệnh thành kiến khi nhìn vào Đức Giê-su, và lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Chúng ta ngày nay cũng dễ mắc phải căn bệnh này khi nhìn vào Đức Giê-su hiện thân nơi những cận nhân mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày. Chỉ qua lăng kính đức tin, chúng ta mới có thể khám phá và tiến sâu vào mầu nhiệm Đức Giê-su. Ngài luôn hiện diện nơi những người mà chúng ta gặp gỡ, nhất là nơi những anh em cùng khổ và bất hạnh. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn mời gọi mọi người hãy lên đường để tìm kiếm Đức Giê-su ở tận những vùng ven (periphery), ở những nơi hẻo lánh và xa xôi nhất. Ngài vẫn ở đó, vẫn đang chờ đợi chúng ta, hiện thân nơi những người bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài.

Kết luận

Đức Giê-su là ai đối với những người đồng hương Galilê năm xưa, cũng như đối với chúng ta ngày hôm nay ? Thiên Chúa dường như vẫn đang giấu mặt, khi chúng ta chứng kiến biết bao bất công xã hội, khi chúng ta đắng lòng nhìn thấy bao trẻ em bị đối xử bất công, khiến chúng tắt lịm niềm hy vọng. Đức Giê-su vẫn luôn là một mầu nhiệm, và chúng ta chỉ có thể đi vào quỹ đạo tình yêu nhiệm mầu của Ngài khi cung chiêm Đấng bị đóng đanh và chết nhục nhã trên Thập Giá.

Chúng ta hãy học lấy kinh nghiệm thần bí của Thánh Phaolô để có thể đi vào quỹ đạo tình yêu này. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô đã viết “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” Nơi Thập giá Đức Kitô, thánh nhân đã học được thế nào là nghịch lý của tình yêu. Nghịch lý đó là câu trả lời thuyết phục nhất cho vấn nạn được nêu ra hôm nay: Đức Kitô là ai đối với tôi?

Về mục lục

.

VAI TRÒ NGÔN SỨ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Đức Giêsu trở về quê hương mình là Nazareth. Theo thời gian vào ngày sa-bát, Ngài vào hội đường và rao giảng lời Chúa. Những người đồng hương rất ngạc nhiên về lời rao giảng của Ngài, sự khôn ngoan của Ngài và nhất là những phép lạ Ngài làm ở khắp nơi mà họ đã nghe biết và họ đã thán phục Ngài: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được những phép lạ như thế?”.

Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc của Ngài là một bác thợ mộc tầm thường bà con với những dân làng nghèo miền Nazareth… Họ không tin Ngài, không đón nhận gióa lý của Ngài, họ coi thường Ngài. Chính vì thái độ không tin ấy, Đức Giêsu không làm phép lạ ở Nazareth. Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn đối với người đồng hương. Ngài đã nói lên một thân phận người ngôn sứ ở trong xã hội thời xưa cũng như hôm nay: “Không có một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương của mình”.

Ngôn sứ là một người nói thay cho Thiên Chúa, nói lời của Thiên Chúa. Tiếng nói của những ngôn sứ rất lạ thường, bởi nói lên những chân lý về Thiên Chúa. Loài người thường “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Còn lời của Thiên Chúa mà các ngôn sứ loan truyền thì luôn nói thẳng nói thật để dạy dỗ, răn đe, sửa lỗi. Sự thật mất lòng, cho nên tiếng nói của Thiên Chúa nhiều khi chói tai, khó chấp nhận. Trường hợp của Chúa Giêsu tại hội đường Nazareth là một điển hình.

Ngôn sứ nói lời của Thiên Chúa, nên nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét, loại trừ, bách hại. Ngôn sứ Êdêkien thay mặt Chúa kêu gọi dân Do Thái sám hối tội lỗi, đừng ỷ lại vào sự kiện họ có đền thờ Giêrusalem và cũng đừng nương tựa vào thế lực ngoại bang. Những lời nói này đã khiến dân Do Thái kết tội ông phạm thánh và phản quốc. Họ đã nhiều lần bách hại ông, ông chỉ thoát chết trong đường dây kẽ tóc. Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chém đầu vì nói lên sự thật, tố cáo sự loạn luân của vua. Rất nhiều ngôn sứ cũng không thoát khỏi cảnh bách hại do sứ mạng nói lời của Thiên Chúa. Thân phận của người ngôn sứ là như thế!

Ngày hôm nay trong một xã hôi duy vật vô thần, nền đạo đức xuống cấp trầm trọng ở gia đình, học đường, xã hội… Biết bao nhiêu sự thật đau lòng, bất công, tham nhũng hối lộ, người có quyền đàn áp chiếm đoạt đất đai, tài sản của nhân dân, nạn cướp của giết người ở khắp nơi… trong Giáo hội cũng xảy ra nhiều vấn đề đau buồn: linh mục, tu sĩ lạm dụng tình dục trẻ em, đánh cắp những tài liệu mật ở Vatican, nhiều tiêu cực. Thiên Chúa cần những ngôn sứ can đảm nói lên sự thật để làm cho xã hội và Giáo hội được phục hồi, được thăng tiến về mọi mặt. Nhưng đáng buồn, đa số Kitô hữu, các cán bộ tin mừng, những linh mục tu sĩ đã chọn thái độ làm ngơ, im lặng. chỉ vì muốn được yên thân, an phận. Như thế là không thi hành chức năng ngôn sứ của mình.

Nhiều Kitô hữu không ý thức chức năng ngôn sứ của mình khi lãnh nhận bí tích Rửa tội được làm con Chúa, được tham dự vào 3 chức năng của Đức Giêsu Kitô là Ngôn sứ – Tư tế – Vương đế. Đáng buồn có những tín hữu chối bỏ đức tin khi làm lý lịch khai là không tôn giáo, không dám xưng mình là người có đạo, không dám làm dấu Thánh giá khi ăn cơm chung với nhiều người, đối xử thiếu nhân đạo, thiếu bác ái với anh em, bất công với người khác… Đó là những biểu hiện không thi hành chức vụ ngôn sứ trong xã hội.

Sống đạo là sống chứng nhân cho Chúa giữa đời: Sống đạo đức, lương thiện, bác ái, hy sinh phục vụ… để anh em lương dân nhìn thấy những việc làm tốt lành mà ngợi khen Thiên Chúa.

Thái độ thiên kiến, định kiến “Bụt nhà không thiêng”. “gần chùa gọi bụt bằng anh, thấy bụt hiền lành cõng bụt đi chơi”. Chỉ nhìn quá khứ với con mắt chủ quan của người đồng hương đối với Chúa làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Khi đánh giá một sự kiện, nhất là một con người cần phải có thái độ khách quan, trung thực nhìn nhận sự kiện, con người như hôm nay, bây giờ, hiện thực thì mới chính xác. Không nên nhìn quá khứ với những khuyết điểm nơi con người mà phải nhìn con người hôm nay với cái nhìn lạc quan hướng về một tương lai tốt đẹp, dĩ nhiên ai cũng có khuyết điểm, giới hạn của mình “nhân vô thập toàn”. Người đồng hương Nazareth không có cái nhìn này mà chỉ nghĩ về quá khứ: Ông Giêsu, một bác thợ mộc nghèo, tầm thường, vô danh tiểu tốt, cha mẹ Ngài cùng xóm ấp với mình. Vì thế họ không thấy được những điều hay, việc làm tốt, phi thường của Đức Giêsu nên họ không tin, mặc dù họ khâm phục Ngài. Trước thái độ của người Nazareth, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Không một tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình”.

Khách quan nhìn nhận sự thật về mình, về người khác và công nhận con người có thể biến đổi trở nên tốt mới có thể tạo được niềm tin giữa con người trong xã hội và giúp nhau thăng tiến về đạo cũng như đời. Hãy bỏ qua quá khứ và nhìn về tương lai tốt đẹp!

Về mục lục

.

CHỐI TỪ

Lm. Louis Minh Nhiên

Cách đây khá lâu, trong mục Tuổi Biết Buồn ở tờ Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có đăng tâm sự của hai chàng thanh niên bị chối từ tình yêu. Anh thứ nhất viết: Lệ Vũ mến, em rơi vào vùng cấm địa này đã 2 năm tròn. Em có thương một người, chẳng may cho em vì người ta chỉ thương hại em trong cơn sầu khổ. Khi em hỏi: “Có thương anh không?” Cô ấy thành thật trả lời: “Không và trăm ngàn lần không”. Một tháng qua hồn em như chết đi và ngớ ngẩn như gà nuốt dây thun. Đi ra cũng nhớ, trốn xa để khỏi gặp thì “nàng” cũng hiện hình; đêm về cũng nhớ. Có cách nào quên đi hình bóng “nàng” đã đến với mình. Ký tên: Hàn Băng Giá, Lincoln, Nebraska.

Anh thứ hai tâm sự: Em năm nay 30 tuổi và quen T được 5 năm thì chúng em tính đến chuyện kết hôn. Tuy nhiên T nói là chờ ba mẹ qua để làm đám cưới cho lớn. Ngờ đâu, khi cha mẹ T qua thì nhất quyết không chấp nhận và chê nào là em chân què rồi học không cao. Thế là chúng em đành chia tay. Theo Lệ Vũ, em đã học lấy Ph. D rồi mà còn bị chê là học không cao, nghĩa là làm sao? Cuộc đời em khổ nhiều hơn vui: Một tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ, về sống với ông bà nội được mười mấy năm thì cho em đi vượt biên. Qua đến Mỹ, không có người thân, em phải một mình tranh đấu để học hành. Thế mà sau khi “thành tài”, không hiểu tại sao Chúa lại trao thánh giá cho em như vậy. Ký tên: Người em phiền não, TX.

Xin nhắc nhỏ với các cô là cố gắng thương yêu các anh, đừng nỡ tâm phụ lòng các anh kẻo các anh phải phiền não, phải là hàn băng giá thì quả thật là tội nghiệp cho các anh nhiều lắm đó.

Điều chúng ta cần để ý là không phải chỉ có các anh trên mới bị chối từ tình yêu. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại Chúa về quê thăm nhà bị dân chúng khinh thường, coi rẻ vì biết rõ thân phận quá khứ của Chúa.

Nếu hai anh thanh niên đau khổ vì bị chối từ, thì có lẽ Chúa cũng vậy.  Không thể hoài nghi đây là một trong những kinh nghiệm đau đớn trong cuộc sống. Tuy nhiên, đối diện với việc bị chối từ, chúng ta nên làm gì và phải làm gì? Các anh thanh niên đã viết thư cho Lệ Vũ xin nhờ giúp đỡ tìm phương thức giải quyết. Nếu là Lệ Vũ, xin đề nghị với các anh là theo gương Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trước hết thành thật. Chúng ta nên kiểm điểm lại cuộc sống một cách thành thật với lòng mình để tìm hiểu nguyên do tại sao mình bị chối từ, phải chăng vì lỗi của mình hay vì một vài lý do nào đó khiến mình không được chấp nhận.  Có thể có người nêu lên thắc mắc: Phải chăng Chúa Giêsu cũng kiểm điểm lại cuộc sống?  Chúng ta không thể minh chứng bằng việc trích dẫn những câu Kinh Thánh, nhưng theo thiển ý, Chúa đã làm vì chúng ta đang nói với nhau về sự thành thật, và không ai có thể thành thật với Thiên Chúa và tha nhân nếu trước hết họ không thành thật với chính mình. Chúa Giêsu đã từng xác quyết Ngài là đường, là sự thật, và là sự sống, chắc hẳn Ngài không ngại đối diện với sự thật, ngay cả sự thật về chính mình.

Tuy nhiên, tự kiểm điểm không phải là chuyện dễ dàng, nó đòi hỏi sự khôn ngoan. Nếu tự kiểm điểm thái quá, chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng tự chỉ trích mình quá đáng. Còn nếu không kiểm điểm, chúng ta lại dễ mắc vào lầm lỗi là khiển trách người khác những lỗi lầm mà thực sự của chính chúng ta. Nếu người ta chối từ chúng ta vì chúng ta nóng nảy, kiêu ngạo, ăn nói cộc cằn hay thường xuyên phàn nàn kêu ca…, thì chúng ta cần nhận diện và thay đổi.  Nếu không, chúng ta đã không đối diện với việc bị chối từ một cách thành thật.

Thứ đến, Chúa bình tĩnh chấp nhận. Không thể hoài nghi là Ngài muốn được dân làng của Ngài tiếp nhận Ngài. Đây là quê làng, nhà của Ngài, là những người thân quen mà Ngài sống chung gần như cả cuộc đời Ngài. Cũng là con người nên bị chối từ chắc hẳn làm Ngài đau khổ nhiều. Nhưng Ngài chấp nhận sự kiện bị chối từ và tiếp tục sống. Phải chăng đó là điều chúng ta cần học khi cảm nghiệm sự chối từ? Bị chối từ chưa chắc có nghĩa chúng ta là người xấu, người không xứng đáng. Mỗi người đã từng sống đều từng bị một số người chối từ. Vì thế nên bình tĩnh và tiếp tục sống.

Sau cùng, điều Chúa làm là tránh nơi bị chối từ và kiếm tìm chỗ được chấp nhận. Tin Mừng ghi lại: “Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.” Bị chối từ bởi một người hay một số người không có nghĩa là bị cả thế giới chối từ. Do đó chúng ta không được phép thất vọng và trùm chăn, không tiếp tục dấn thân đến với những người khác, bởi vì rất có thể ở một nơi nào đó có người cũng đang cần những người như chúng ta.

Xin mượn lời của Lệ Vũ như lời kết cho bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay: “Không nên trách Chúa về những khó khăn, thử thách mình phải trải qua trong cuộc đời. Chính Con Một Chúa khi xuống thế làm người còn phải uống chén đắng, trải qua khó khăn, thử thách vì tội loài người. Chỉ khác nhau ở điểm, có người tìm đủ mọi cách để khuất phục mọi khó khăn tiến lên, trong khi đó có người xuôi tay đầu hàng vô điều kiện, tự biến mình thành nạn nhân đáng thương trong nhiều chuyện nhiều khi không đáng. Trong đời sống, con người chỉ biết giá trị thực của nụ cười khi đã biết giá trị của nước mắt. Sông có khúc, người có lúc. Mong sớm qua được cơn phiền não và tìm lại niềm vui trong đời sống.”

Về mục lục

.

QUÊ HƯƠNG MÌNH

Lm. Nguyễn Thái

Trưng hoa hồng trên bàn thờ vừa đẹp, lại vừa có hương thơm. Nhưng việc trồng tỉa nó lại là việc không mấy dễ dàng, nhất là bị những chiếc gai nhọn cào xước trên phần da thịt non nớt, để lại những vết trầy trụa xót xa!

Ở tiểu chủng viện, tôi trong ban phụng vụ, đã phải chăm sóc vườn hoa hồng của nhà trường. Khi loay hoay làm việc, đào xới, tỉa cành, vun gốc, bón phân thì chẳng thấy chuyện gì xảy ra. Nhưng sau đó vài ngày, tự nhiên thấy nhói đau ở một điểm nào đó nơi tay chân, thường thì ngay những ngón tay và cánh tay. Khi xem xét kỹ lại, thì ra là một cái gai nhọn của cây hồng đã nằm sâu bên dưới da thịt. Phải lấy nó ra cho bằng được mới hết đau!

Chỉ vài ngày sau khi làm công tác vun xới vườn hồng, cánh tay của tôi trông giống như đã vật lộn với một con mèo hoang hung dữ và bị cào cấu thê thảm. Không những gai nhọn đâm vào da thịt, gây thương tích trên người, mà ngay cả những chiếc lá hồng cũng có khả năng xước da xẻ thịt nữa. Đó là vũ khí phòng vệ của cây hoa hồng mà Thượng Đế đã ban tặng cho chúng. Những vết trầy trụa thường rất đau đớn và dễ gây nhiễm độc vì những cành lá đã được xịt thuốc diệt trừ sâu rầy pesticide.

Những bông hoa hồng sẽ không đẹp nếu thân cây không được chăm sóc bằng cách bón phân, vun xới xung quanh gốc, và cắt tỉa những cành lá mọc rối trật tự. Người ta phải tỉa những cành yếu để gia tăng sức mạnh vào những nhánh lớn hơn; do đấy, những nụ hoa đẫy đà mới nẩy sinh và trổ ra những bông hoa đẹp đẽ. Người ta phải chịu đau đớn làm một công việc gây thương tích dưới những bụi gai hồng; nhưng chỉ có cách này, mới có một vườn hồng đầy hoa thơm.

Bài Phúc Âm hôm nay (Mc 6:1-6) diễn tả một nghịch cảnh tương tự khi Chúa Giêsu và các môn đệ trở về quê quán của Ngài và giảng dạy trong hội đường vào ngày Sabbát. Chúa Giêsu là bông hoa hồng thơm ngát. Còn những người đồng hương của Ngài là những chiếc gai nhọn với những lời phê bình, chỉ trích, và gièm pha thật xót xa: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giuđa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6:3).

Những người đồng hương đã nhìn vào nghề nghiệp, gia đình, bà con họ hàng của Chúa Giêsu để đánh giá về Con Người của Ngài. Họ đã nhận ra giá trị nơi những lời Ngài rao giảng: “Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Bởi đâu ông ta được như thế?” (Mc 6:2). Nhưng họ lại không thể tin vào Con Người của Ngài được!

Có một vị giáo sĩ đi du hành khắp nơi để rao giảng đạo lý. Một ngày nọ ngài đi vào một thị xã xa lạ, và hỏi thăm cậu bé con đường đi tới bưu điện. Sau khi cậu bé đã cho ngài những hướng dẫn cần thiết, vị giảng thuyết đã cám ơn cậu và nói, “Con có vẻ là một cậu bé sáng sủa và thông minh đấy. Con có muốn đến nghe bài giảng thuyết của ta tối nay để ta chỉ cho con con đường đi lên trời không?” Cậu bé sững sờ hỏi lại, “Ngài chỉ cho con đường đi lên trời, thế tại sao con đường đi đến bưu điện ngài lại không biết!”

Thánh Mác-cô đã phải nói lên một câu rất nặng nề đối với những người đồng hương của Chúa Giêsu: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin” (Mc 6:5).

“Mọi sự đều có thể cho người tin” (Mc 9:23). Đối với Chúa Giêsu, Ngài đã không làm một phép lạ nào khi không có niềm tin. Ngài muốn làm tất cả mọi sự cho dân chúng của Ngài, nhất là những người đồng hương, nhưng Ngài cần đức tin của họ để xuất phát ra sức mạnh của Ngài. Hãy nhớ đến câu chuyện Phúc Âm tuần vừa qua (Mc 5: 21-43) nói về người phụ nữ bị loạn huyết. Nhiều người đã xô đẩy, đụng chạm vào người Chúa, nhưng không có gì xảy ra, vì họ đã không đụng chạm bằng lòng tin. Khi người phụ nữ có đức tin chạm vào Ngài (Hr 11:6), sức mạnh chữa lành liền phát xuất ra. Chúa Giêsu đầy quyền năng, nhưng chúng ta có thể làm tê liệt quyền năng của Chúa bằng sự “cứng lòng tin” hay thiếu lòng tin của chúng ta. Tại sao những người đồng hương đã không tin vào Chúa Giêsu?

Chúa Giêsu đã trả lời: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Tục ngữ ca dao Việt Nam cũng có những câu tương tự, “Bụt nhà không thiêng!” hay “Gần chùa gọi Bụt bằng anh. Thấy Bụt hiền lành bế Bụt đi chơi.” Và người Tây Phương cũng nói: “Familiarity breeds contempt, Sự quen thuộc sinh ra khinh bỉ.” Dân chúng trong vùng Ca-phác-na-um đã nghĩ rằng họ biết mọi sự về Chúa Giêsu rồi: tên tuổi, gia đình, nghề nghiệp, học vấn, Ngài đâu còn xa lạ gì đối với họ nữa!

Một vấn đề dễ gây ngộ nhận qua bài Phúc Âm hôm nay, khi đề cập đến anh em của Chúa Giêsu. Đối với người Công Giáo và những Kitô hữu tin tưởng vào sự đồng trinh của Đức Maria trước và sau khi sanh Chúa Giêsu đã lập luận rằng, trong ngôn ngữ cổ Aramaic, chữ “anh em” được sử dụng với một nghĩa rất rộng. Nó được dùng không những để chỉ anh em ruột, nhưng còn anh em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, anh em bà con, hay những liên hệ máu mủ họ hàng khác nữa. Trong Phúc Âm, không có chỗ nào nói đến những người anh em của Chúa Giêsu như là những người con của Đức Maria cả. Nếu Đức Maria có những người con khác nữa thì tại sao khi Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá lại phải trao phó Bà cho Gioan, môn đệ yêu quý của Ngài? (Ga 19: 26-27).

Một số người đã đề cập đến những người anh em của Chúa Giêsu là Giacôbê và Giuse (Mc 3:31-35; 6:3; 1 Cr 9:5; Gl 1:19). Về vấn đề này, sách Giáo Lý Công Giáo số 500 nói rằng: “Giáo Hội luôn hiểu các đoạn sách này không nói đến những người con khác nữa của Mẹ Maria: đúng thế, Giacôbê và Giuse ‘những người anh em của Chúa Giêsu’ (Mt 13:55) là con của một bà Maria khác, môn đệ của Chúa Kitô (Mt 27:56), và Thánh Kinh nói rõ đó là ‘một Maria khác’ (Mt 28:1). Đó là những anh em gần của Chúa Giêsu, theo kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước (St 13:8; 14:16; 29:15)”.

Qua chính vấn đề đang tranh luận này, Thánh Sử Mác-cô đã cố gắng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng dân chúng Ca-phác-na-um đã tự nghĩ là họ biết mọi sự về Chúa Giêsu, nhưng thật ra họ đã không biết gì về Ngài cả, hoặc là biết mà biết sai!

Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đang giảng đạo cho một nhóm người thợ lặn đi tìm ngọc trai. Ngài nói cho họ nghe về việc Chúa Giêsu đã so sánh Vương Quốc Thiên Chúa như là một hạt giống được gieo xuống ruộng, một kho tàng ẩn dấu trong cánh đồng, một mẻ cá gồm đủ mọi thứ cá, và như một viên ngọc quý mà một người đã phải bán tất cả mọi của cải để mua lấy viên ngọc quý đó. Nghe vậy, một trong những người thợ lặn tìm ngọc trai đã quen biết rất thân tình với vị truyền giáo từ lâu, tỏ vẻ rất xúc động. Ông đã mời ngài về nhà. Khi ngài đến nhà, nguời thợ lặn đưa ra một cái hộp to lớn vững chắc. “Con đã có cái hộp này nhiều năm rồi,” ông nói. Rồi ông cẩn thận mở các lớp vải nhung bao bọc ra. Sau cùng còn lại một viên ngọc trai óng ánh, ông đặt nó vào tay vị truyền giáo. Viên ngọc sáng chói! Rõ ràng, nó đáng giá một món tiền rất lớn trên thị trường.

“Thưa cha,” ông thợ lặn tìm ngọc trai nói, “xưa kia, con đã có một người con trai. Nó là người thợ lặn ngọc trai giỏi nhất vùng bờ biển Ấn Độ này. Nó là nguồn vui của con. Và nó luôn mơ ước tìm được một viên ngọc trai nổi tiếng như thế này. Một ngày kia, nó đã tìm thấy. Nhưng viên ngọc trai đang nằm trong bàn tay ngài đây đã lấy đi mạng sống của nó. Nó đã chết vì viên ngọc trai này. Bao nhiêu năm qua, con đã giữ viên ngọc trai này, và bây giờ có một sự thúc đẩy nào nó nói với con rằng con phải trao nó cho ngài.”

“Không được!” vị truyền giáo phản đối, “ông không thể cho đi được.” “Làm thế nào tôi có thể đón nhận món quà vô giá này được?” Ông thợ lặn có vẻ kinh ngạc. “Ngài nói gì?” ông hỏi. “Thưa cha, cha không hiểu rằng người con trai của con đã phải hy sinh mạng sống vì viên ngọc trai này, nên con không thể nào bán nó được. Nhưng con muốn trao lại cho ngài bởi vì tình yêu của con dành cho ngài!” Sau đó, với những giọt nước mắt chảy xuống trên mặt, người thợ lặn đã nói với tất cả sự xúc động, “Thưa cha, đây không phải là những điều cha đã nói với con và những người khác về món quà vô giá của Thiên Chúa ban cho nhân loại, là chính Người Con Trai duy nhất của Ngài sao?”

Tin Mừng hôm nay không phải là câu chuyện buồn của những người đồng hương đã gặp Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa mà không nhận ra. Họ đã bỏ ra đi mà không lãnh nhận được một ơn lành nào vì sự cứng lòng tin của họ!

Tin Mừng hôm nay là sự bắt đầu rao giảng trong hội đường của Chúa Giêsu, Thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng, “Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người” (Mc 6:2). Hôm nay chúng ta đến đây để cử hành sự hiện diện của Con Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể. Món quà vô giá là Người Con yêu quý của Thiên Chúa đã hiệp nhất chúng ta lại trong tình yêu thương của Người. Có bao giờ chúng ta kinh ngạc và sửng sốt về thực tại này chưa? Chúng ta có phải là những thính giả sửng sốt và ngạc nhiên về sự khôn ngoan và giáo lý của Người không?

Về mục lục

.

SỨ MẠNG CỦA TIÊN TRI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

           Đức Giêsu Kitô là sứ giả của Chúa Cha, Ngài đến đem Tin mừng và ơn cứu độ cho nhân loại. Sứù mạng đó không được kết thúc ở nơi Ngài mà còn tiếp tục mãi trong trần gian. Vào buổi sáng Thăng Thiên, qua con người của các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của Ngài cho đến tận thế.

          Thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng không phải là chuyện dễ. Chính Đức Giêsu đã tiết lộ cho chúng ta  những khó khăn sẽ gặp phải trên bước đường truyền giáo : Ngài đã bị người đồng hương chối bỏ, không chấp nhận sứ mạng Cứu thế của Ngài và còn ghen tị định tâm giết Ngài nữa (x. Lc 48,28-30). Chính vì thế, Ngài kết luận :”Không một tiên tri nào mà không bị khinh dể ở quê hương, gia đình họ hàng mình”(Mc 6,4).

          Sở dĩ người đồng hương không chấp nhận Đức Giêsu vì họ có thành kiến nặng nề về con người và gia cảnh của Ngài, đúng là “Bụt nhà không thiêng”. Ngày nay, những người thi hành sứ mạng tiên tri  không thể thoát khỏi cái công lệ đó. Họ phải theo gương tiên tri Ezéchiel (bài đọc 1) mà thi hành sứ mạng của mình trong kiên nhẫn, chịu đựng và tin tưởng.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài đọc 1 : Ed 2, 2-5.

          Ezéchiel nói về sứ mạng tiên tri của mình. Ông chỉ là một con người như tất cả mọi người, một con người đơn giản, nhưng được gọi để tuyên sấm lời Chúa cho dân của Ngài,  một dân tộc bất tuân đã chống lại Chúa. Đã nhiều lần, Chúa báo cho dân Israel biết rằng : nếu họ cứ cố chấp trong sự bất tuân, họ sẽ bị phạt. Lời răn đe đó đã bị bỏ ngoài tai, chứng nào tật ấy, nên họ đã bị lưu đầy ở Babylon. Ezéchiel cũng đồng chịu số phận của những kẻ lưu đầy.

          Trong hoàn cảnh bi đát đó, Thiên Chúa đã trao cho Ezéchiel nhiệm vụ cảnh tỉnh dân chúng, làm cho họ nhận biết tội lỗi và sám hối.  Ông phải đương đầu với một dân tộc phản loạn từ nhiều thế kỷ. Đối thủ của ông thì hùng mạnh trong khi đó ông biết thân phận  hèn yếu của mình, phương tiện rất nghèo nàn ; tuy thế, ông không do dự nhận lấy trách nhiệm nặng nề ấy.

          +  Bài đọc 2 : 2Cr 12,7-10.

          Thánh Phaolô thành thực chia sẻ tâm tình với chúng ta : Ngài là một Tông đồ sinh sau đẻ muộn, từ một người bách hại đạo Chúa, lại trở nên một Tông đồ nhiệt thành rao giảng đạo ấy. Mặc dầu Ngài đã được Chúa ban cho những ơn mạc khải phi thường như con người đã lên tới tầng trời thứ ba, nhưng Ngài không dám tự cao tự đại về hồng ân ấy.

          Để hạ mình trước sự yếu đuối của ông, Chúa để cho cái “dằm” đâm vào thân xác ông (2Cr 12,7). Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu cái “dằm” này là gì ? Dù chúng ta chưa xác định được cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là những sự yếu đuối của Phaolô, hay mối thù địch của những anh em giả mạo. Cũng có thể hiểu được đây là một căn bệnh đang hoành hành thân xác Ngài.

          Chính vì ý thức được sự yếu đuối của mình, nhiều lần Ngài đã muốn nản lòng, xin Chúa cất cái dằm ấy đi, nhưng Chúa yên ủi và bảo đảm cho Ngài :”Ơn Ta đã đủ cho con”. Do đó, Ngài lấy lại được sức mạnh và hăng say rao giảng Tin mừng với ý thức rằng “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh mẽ”.

          +  Bài Tin mừng : Mc 6,1-6.

          Từ Naazareth đi rao giảng Tin mừng ở nơi xa, thỉnh thoảng Đức Giêsu trở về thăm quê hương, và ngày Sabbat cũng vào cầu nguyện tại hội đường.  Đọc Lời Chúa như mọi người, nhưng qua bài Thánh Kinh, Ngài cũng được mời cắt nghĩa bài đọc đó và giải thích rằng :”Ngài chính là Đấng Messia mà toàn dân đang mong đợi”.

          Ban đầu, người dân làng Nazareth thán phục về những phép lạ Ngài đã làm khắp nơi và những lời giảng dạy rất khôn ngoan và đầy thế giá của Ngài, nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài, họ thắc mắc và không tin Ngài nữa. Tại sao ? Ngài chỉ là một người thợ mộc tầm thường, cha mẹ và anh em Ngài là những người hàng xóm quen thuộc đang ở với họ. Ông Giêsu  trước đây cũng chỉ là một người tầm thường có gì đặc biệt đâu, sao bây giờ lại được khôn ngoan như vậy ? Tuy thế, theo như tục ngữ đã nói “Bụt nhà không thiêng” nên họ không tin nhận Ngài nữa.

          Vì vậy, Đức Giêsu kết luận :”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mà thôi”(Mc 6,5). Chính vì thái độ cứng lòng ấy, nên ở Nazareth Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. ĐỨC GIÊSU TRỞ VỀ NAZARETH.

  1. Cuộc viếng thăm mục vụ.

          Đức Giêsu rời bỏ quê hương Nazareth đi rao giảng Tin mừng và chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Tại nơi đây và nhiều nơi khác, Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ như dẹp yên bão tố, chữa người bị qủi ám, chữa lành các chứng bệnh nan y, làm cho kẻ chết sống lại… Danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Nhưng Ngài cũng không quên xứ sở của mình, Ngài cũng trở về thăm quê hương Nazareth. Đây là lần thứ hai Ngài trở về Nazareth (Lần thứ nhất : Lc 4,16-30).

          Ngài không có ý trở về quê quán với tính cách riêng tư cốt chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình,  nghĩa là Ngài về quê với tư cách một rabbi. Các rabbi vẫn đi đây đó trong xứ với nhóm môn đệ nhỏ của mình. Với tư cách giảng sư Đức Giêsu đã trở về Nazareth với các môn đệ.

  1. Tại hội đường Nazareth.

          Theo thông lệ, ngày sabbat dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát Thánh vịnh từ 9 đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cũng đến hội đường cầu nguyện với dân làng. Đọc Sách Luật và Thánh vịnh xong, ông trưởng hội đường mời một vị có thế giá và hiểu biết về Thánh Kinh lên giải nghĩa bài đọc. Đức Giêsu cũng được mời lên đăng đàn.  Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt của Ngài luôn tỏ ra nét dịu  hiền mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn, Ý tứ Ngài trình bầy đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Ngài trình bầy một cách khôn ngoan và giọng nói như của Đấng có uy  quyền, làm cho họ ngạc nhiên, thì thầm với nhau :”Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế, nghĩa là gì”(Mc 6,2). Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu ở đâu ? Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài.

  1. Phản ứng của dân làng Nazareth.

          Trước những lời giảng dạy khôn ngoan và hấp dẫn, cùng với những phép lạ đã làm, Đức Giêsu đã làm cho dân làng Nazareth có nhiều phản ứng khác nhau, và chúng ta có thể gồm tóm những phản ứng ấy trong ba chữ :

a) Tín nhiệm.

          Từ Nazareth người ta đã nghe đồn thổi về Ngài rất nhiều, nghe đồn về những phép lạ Ngài đã làm khắp đó đây. Hôm nay, tại hội đường, họ đã trực tiếp được nghe Ngài giảng. Trước đây nghe lời đồn thổi họ đã ngạc nhiên, bây giờ họ càng ngạc nhiên hơn :”Mọi người làm chứng cho Ngài và họ thán phục về ân sủng xuất bởi miệng Ngài”(Lc 4,22).

          Những điều trên đây cho ta thấy khi Đức Giêsu trở lại Nazareth, những cảm nghĩ của họ hầu hết là tín nhiệm Ngài.

b) Hoài nghi.

          Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài. Mọi người đều biết mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giôsê, Giuđa và Simon. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nazareth này, một thôn ấp nhỏ bé có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đóng bàn sửa ghế, đóng giường tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ ông ấy nói năng, làm được việc gì lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế ?

c) Thất bại.

          Đáng lẽ những phép lạ Đức Giêsu đã làm ở những nơi khác cộng với sự rao giảng đầy thuyết phục của Ngài khiến cho dân làng Nazareth phải tin nhận Ngài, nhưng đàng này họ chỉ dựa vào nguồn gốc của Ngài, một nguồn gốc có vẻ tầm thường như họ thấy, nên họ nhìn sai lệch về con người của Ngài. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo cái dáng vẻ bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Vì thế,”họ bị vấp phạm vì Ngài”(Mc 6,3). Còn Ngài, Ngài âm thầm kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ:”Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì người ta thường nói:”Gần chùa gọi bụt bằng anh”.

          Trước sự cứng lòng tin kèm theo sự ghen tương với thành kiến cố hữu của họ, Đức Giêsu không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa lành vài bệnh nhân. Phép lạ đòi hỏi phải có lòng tin, mà phép lạ chỉ là phần thưởng cho lòng tin ấy. Sự cứng lòng của con người như thánh Matthêu nói rõ (Mt 13,58) làm tê liệt phần nào quyền làm phép lạ của Ngài.

II. CĂN BỆNH THÀNH KIẾN.

          Theo Đào duy Anh, Thành kiến là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi đã có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có. Thành kiến đã bóp méo sự thật , giống như người đeo kính xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính đỏ thì vật gì cũng đỏ.

          Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau :”Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì thì coi mọi cái đều đẹp đều tốt, khi ghét thì thấy mọi cái là xấu :”Yêu ai yêu cà đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.

Truyện : Thi sĩ R. Tagore.

        R. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.

          Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê :

          – Thơ mày là thơ thẩn !

          Tagore mới nghĩ ra một mưu : cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.

          Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen :”Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói :

          – Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.

          Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên  mặt tờ báo văn học của ông.

          Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đưa cuốn thơ cổ kia ra đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.

          Đến đây câu truyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore ! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.

(Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 333-335)

          Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài nguời, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ.

          Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Đức Giêsu đã nói:”Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình (Ga 4,44).

          Thành kiến làm cho bụt nhà không thiêng, thích những cái lạ; thích gì thì phóng đại tô mầu, ghét thì cũng thế. Nhiều khi lý luận một chiều sai lệch, cái vô lý ngớ ngẩn cũng cho là hay là đẹp, hoặc không hiểu gì cũng cho là hay. Sống hoàn toàn theo dư luận, theo cách của người đời, không dám vượt trên dư luận sai lạc, vượt trên những phán đoán thiên lệch. Ví dụ các bà tin theo thầy bói thì cái gì thầy nói ra cũng đúng, cũng hay, coi như lời sấm, như thánh phán :

                             Số cô không giầu thì nghèo,

                             Ba mươi Tết có thịt heo trong nhà.

                             Số cô có mẹ có cha,

                            Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.

                             Số cô có vợ có chồng,

                             Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

          Các bà các cô sẽ phải thốt lên :”Thánh phán.  Tuyệt ! Tuyệt” !

III. BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG.

  1. Đức Giêsu bị rẻ rúng nơi quê hương.

          Dân làng Nazareth không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết : thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là vị Cứu tinh, là Đấng Cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được ? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.

          Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân Nazareth, Đức Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quêâ hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”(Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.

  1. Các tiên tri cũng bị khinh dể.

          Trong Tin mừng thánh Luca, Đức Giêsu nhắc đến hai vị tiên tri đã không làm phép lạ ở quê nhà được mà lại làm phép lạ ở dân ngoại :”Và Ta bảo thật các ngươi : có nhiều bà goá tại Israel thời tiên tri Êlia, khi trời khoá lại ba năm sáu tháng, và xẩy ra nạn đói lớn trong toàn xứ, song ÊÙlia không được sai đến với một bà nào trong họ, mà lại đến với bà góa tại Sorepta thuộc hạt Sidon. Cũng có nhiều người phong hủi đời tiên tri Êlisê, song không người nào trong họ được lành sạch cả, trừ phi là Naaman người Syri”(Lc 4, 26-27). Tiên tri Êlisê đã làm nhiều sự lạ ở Guilgal mà không làm được ở quê nhà (2V 4,1-29t). Sự thật và thường tình, tiên tri không được tôn trọng nơi quê nhà.

  1. Những tài năng bị coi thường.

          Nhiều người có tài năng cao vời bị coi thường trước khi được chấp nhận. Chúng ta có thể đưa ra mấy trường hợp để làm chứng :

          – Giám mục Fulton Sheen, một nhà thuyết giáo vĩ đại, đã từng bị giáo sư môn biện luận trường đại học chê :”Anh đúng là diễn giả tồi nhất mà tôi từng gặp”.

          – Ernest Hamingway, một tiểu thuyết gia cự phách, đã từng bị các thầy giáo chê :”Hãy quên việc viết lách đi ! Anh không đủ tài để làm việc đó đâu”.

          – Richard Hooker, tác giả quyển sách nhan đề “Mash”, đã từng thấy quyển sách của ông bị đến 6 nhà xuất bản từ chối in để rồi cuối cùng quyển ấy đã trở thành một trong những quyển sách bán chạy nhất.

          Thành kiến đã làm cho dân làng Nazareth phán đoán sai về Đức Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu thế. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm cho chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm cho chúng ta không thể đối thoại , cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người khác. Mc Kenzie nói :”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.

  1. Số phận người rao giảng Tin mừng.

          Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài có thể làm được mọi sự, nhưng Ngài phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Ngài đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Ngài đã không làm được phép lạ nào”tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng  ngăn cản Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Thiên Chúa.

          Trên con đường truyền giáo, Đức Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.

          Các người rao giảng Tin mừng hãy bắt chước Đức Giêsu mà đón nhận thái độ “Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Đức Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người Tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy : phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi vớiø tình thương mến.

Truyện : Chú chồn Pepe LePew.

          Cách đây nhiều năm, các rạp chiếu bóng thường chiếu phim hoạt hoạ. Có một bộ phim được nhiều người ưa thích tên là Looney Tunes. Một vai được nhiều người hâm mộ trong phim là chú chồn lãng mạn tên là Pepe LePew. Pepe luôn luôn yêu mến mọi người nhưng vì chú có mùi hôi, nên mọi người đều từ chối tình thương của chú. Nhưng Pepe không nản lòng. Chú vẫn tiếp tục yêu thương dù có bị từ chối nhiều lần. Pepe không bao giờ từ chối yêu thương bất cứ một ai. Đó chính là lý do tại sao  rất nhiều người coi phim này càng quí mến Pepe.

(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 264).

Chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về tình yêu thương. Ngài không khước từ ai bao giờ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương dù biết bao lần Ngài đã bị từ chối. Chú chồn Pepe trong phim quả rất giống Chúa Giêsu. Đây là bài học cho chúng ta rút ra được từ các bài đọc hôm nay. Chúng ta phải bắt chước cách xử sự của Đức Giêsu, chúng ta có thể bắt chước chú chồn Pepe mà yêu thương mọi người dù có bị chối từ bao nhiêu lần đi nữa. Tóm lại, các bài đọc hôm nay dạy chúng ta hai điều : Trước hết, chúng có thể tin chắc rằng chúng ta sẽ nhiều lần bị người khác khước từ phản đối giống như Đức Giêsu đã từng bị trong đời Ngài. Tuy nhiên, chúng ta cứ tiếp tục yêu thương giống như Đức Giêsu. Dù bị khước từ Ngài vẫn không ngừng ban phát tình yêu của Ngài cho nhân loại.

Về mục lục

.

KHAI TỬ NIỀM VUI

Lm Vũdình Tường

Đây chính là thái độ dân chúng nơi làng mạc Đức Kitô đối xử với Ngài. Thực tế cuộc sống là giết chết niềm vui, sẽ tức khắc sanh cái buồn, cái khổ não ào vào chiếm chỗ. Cái buồn mang thai từ lúc nào không ai biết nhưng nó sẵn sàng sanh con bất cứ khi nào có cơ hội. Đức Kitô và các môn đệ trong tâm tình vui mừng trở về quê. Ngài cũng như chúng ta, trong tâm trí cũng rạo rực, vui mừng, mong mỏi, hình dung ra trong đầu khung cảnh làng mạc, cây cổ thụ này, con suối nọ và đồi ôliu cành trĩu trái xanh dương. Trong lòng Ngài cũng mong chờ ngày mẹ con gặp lại nhau, mở rộng vòng tay ôm chằm thân nhân và bàn tay xiết chặt tình thân hữu khi gặp nhau. Tay bắt, mặt mừng vui vầy xum họp gia đình, rồi tiệc tùng chén đũa, tiếng cụng li vang tiếng thuỷ tinh. Ngày cuối tuần Ngài và các môn đệ vào Đền Thờ giảng dậy. Dân chúng rất đỗi ngạc nhiên về giáo huấn của Ngài. Họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan, thông thái và phép lạ Ngài thực hiện. Vì điểm này mà họ giết chết niềm vui trong Ngài. Đám đông bắt đầu bàn tán với nhau và họ tự hỏi bởi đâu Ngài được thông thái, khôn ngoan như thế? Kinh thánh ghi lại ‘họ vấp ngã vì Người’ Mc 6,3. Vấp ngã như thế nào? Họ chối bỏ Đức Kitô về phương diện thể lí và quan trọng hơn là về phương diện tâm linh.

Về thể lí – Xã hội thời đó nặng về giai cấp. Sanh ra trong giai cấp nào thì sau này sẽ sống trong giai cấp đó. Đức Kitô là con bác thợ mộc nên dù thông thái đến đâu cũng là con thợ mộc, không thoát khỏi gốc rễ, nghề thợ mộc. Điểm thứ hai đám đông nhắc đến ‘ông ta là bác thợ, con bà Maria’ c.3. Điều này tái xác nhận Đức Kitô gốc thợ mộc và là con bà Maria. Việc không nhắc đến tên cha có thể hiểu theo hai cách. Cách tốt hiểu theo nghĩa ông Giuse đã qua đời và bà Maria là mẹ goá, con côi. Hiểu theo nghĩa nói xéo, móc méo câu trên ngụ í nói ông ta là đứa con hoang, không cha vì thế họ cố í nhắc tên mẹ mà lờ tên cha.

Về tâm linh – Đám đông nhận biết sự khôn ngoan, thông thái và phép lạ Đức Kitô thực hiện nhưng thắc mắc bởi đâu mà ra? Từ ma quỷ hay từ quyền năng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại trước đó nhóm Kinh sư từng nói ‘Đức Kitô dựa thế quỷ mà trừ quỷ’ Mc. 3,22. Thứ hai, đám đông không nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đang sống giữa họ. Thứ ba đám đông không có đức tin nơi Đức Kitô. Thứ tư đặt nghi vấn về quyền năng của Đức Kitô chính là nghi ngờ về quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Điểm thất bại khác, Đức Kitô không đạt được mục đích của chuyến đi. Ngài về thăm xóm làng nhưng quan trọng hơn chính là ban Tin Vui cho dân làng nhưng dân làng từ chối đón nhận Tin Vui. Đức Kitô buồn ít khi người ta nói về thời thơ ấu của Ngài nhưng buồn da diết khi người ta từ chối đón nhận Tin Mừng ơn cứu độ Ngài ban. Kết luận, người ta từ chối Ngài và từ chối cả Tin Mừng Ngài ban.

Thiên Chúa có khả năng biến nỗi buồn thành niềm vui, bi quan thành lạc quan. Đức Kitô dùng kinh nghiệm bị dân làng chê bai hướng dẫn các môn đệ bởi trong tương lai các ông sẽ được sai đi rao giảng và chắc chắn sẽ có kẻ đón, người xua. Khi bị xua đuổi khỏi làng các ông biết cách cư xử. Không cần phải nổi nóng, không cần trả đũa, cản trở công việc đang làm nhưng lặng lẽ, âm thầm, nhẹ nhàng bước khỏi làng đó để sang làng khác, tiếp tục công việc rao giảng bởi việc rao giảng là chính, là quan trọng mọi vấn đề khác là thứ yếu.

Về mục lục

.

NGƯỜI LẤY LÀM LẠ VÌ HỌ KHÔNG TIN

Lm. Phan Văn Lợi

Trong thời gian rao giảng Tin mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng các tác giả Nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này,

có lẽ vì các ông cho rằng thái độ khinh thường Đức Giêsu của đồng hương trong lần viếng thăm ấy đã tiêu biểu cho thái độ chối từ Người của dân Israen (đồng bào Người) và thái độ không tin Người đủ của bao kitô hữu (đồng thân thể với Người).

  1. Thái độ không tin của đồng hương Đức Giêsu

Phần đầu của cuộc viếng thăm này rất giống với những gì Máccô kể ra ở 1,21 (biến cố tại hội đường Caphácnaum): “Thiên hạ sửng sốt về lời Đức Giêsu giảng dạy”. Nhưng phần kết lại khác hẳn. Ở đây, “nơi quê quán Người”, khán thính giả nghe mà ngạc nhiên, nhưng rồi chẳng tin gì ráo! Do đâu vậy? “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do thái có một niềm tin phổ biến cho rằng Đấng Mêsia phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này, trong cuốn “Đối thoại với Tryphon”, thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng niềm tin này khi ghi lại ý kiến sau đây của nhiều học giả Do thái: “Nếu có kẻ nói rằng Đấng Mêsia đã đến, thì người ta đâu biết ai. Chỉ khi Người tỏ mình trong vinh quang, thiên hạ mới nhận ra Người”. Đó đúng là luận điệu của dân làng Nagiarét, mà cũng là luận điệu của dân thành Giêrusalem được Tin mừng Gioan ghi lại: “Ông ấy, chúng ta biết xuất thân từ đâu; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7,27), nghĩa là chẳng ai biết rõ nguồn gốc của Người. Đối với dân làng Nagiarét cũng thế, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì ai nấy biết rõ tông tích họ hàng của Người” (M.E. Boismard).

Thế nên, từ chỗ là niềm hãnh diện, Đức Giêsu đã thành một chướng ngại khiến đồng hương của mình vấp ngã. Họ trở nên điếc lác và mù quáng, do đó, đã không thể đón nhận các ân huệ của Người, nhất là ân huệ Tin mừng cứu rỗi. Thật ra, chẳng phải là họ không có lòng tin. Hằng tuần họ vẫn nhóm họp tại hội đường để thờ phượng Đức Giavê, Tạo Hóa và Chủ Tể lịch sử đấy chứ! Nhưng lòng tin mà Đức Giêsu đòi không chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa như Môsê đã truyền dạy, mà còn là lòng tin vào Người, Con Thiên Chúa hóa thân thành bác thợ mộc làng Nagiarét. Hơn nữa, lòng tin Người đòi hỏi chẳng phải là một mớ tín điều lề luật, song là sự đảo lộn cuộc sống, là bước theo Người trên đường thập giá, đường yêu thương.

  1. Thái độ không tin của môn đồ Đức Giêsu

Phần chúng ta, khi nghe được nhận xét ấy của Máccô (“Người lấy làm lạ vì họ không tin”) một nỗi sợ hãi có thể xâm chiếm chúng ta: tôi thì thế nào? Sợ như thế là có phúc, vì chúng ta sẽ chẳng bao giờ chú ý đủ tới tình trạng của đức tin chúng ta, vì việc sống một cái gì đó với Đức Giêsu hoàn toàn tùy thuộc sức mạnh của niềm tin tưởng vào Người. Mà đức tin là cái nhìn của chúng ta về Người, sự hiệp thông giữa chúng ta với Người, việc chúng ta nắm lấy Người, là phương thế để yêu Người ngày càng hơn và chẳng bao giờ “vì Người mà vấp ngã”.

Điều đã diễn ra tại Nagiarét có thể xảy tới với chúng ta. Câu ngạn ngữ Người nhắc lại cho đồng hương: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” cũng có thể nhắm chính các kitô hữu. Và đây là trọng điểm của trình thuật.

  • Có lẽ Người ngạc nhiên về niềm tin của chúng ta, về cách chúng ta tin Người. Để tin vào Đức Giêsu, phải thường xuyên vượt quá tri thức chúng ta có về Người lúc này đây. Đối với chúng ta, Người chẳng phải là bác thợ mộc làng Nagiarét, chúng ta đã chẳng sống với Người trong ba mươi năm tuổi trẻ của Người, các phản ứng của dân làng Nagiarét đối với Người chẳng phải là vấn đề của chúng ta. Nhưng có lẽ chúng ta cũng đã sống với Người nhiều năm. Chúng ta đã biết Đức Giêsu của cha mẹ chúng ta, của cha xứ chúng ta, Đức Giêsu của cuốn giáo lý, của một phong trào Công giáo, Đức Giêsu của mọi sách báo ta đã đọc, thậm chí của các sách chống Người và chống đạo Người.

Thình lình, hay dần dần, chúng ta gặp cơn khủng hoảng kiểu dân làng Nagiarét. Đức Giêsu là ai đối với tôi khi tôi đau khổ hay khi tôi thấy sự đau khổ? Khi một tình yêu ngây ngất đem tôi xa khỏi Đấng tôi từng nói với: Chúa là tất cả của con? Khi một cuốn sách mạnh mẽ và gây bối rối làm lung lay các xác tín của tôi? Khi một mục tử, đại diện chính thức của Người, làm tôi ngỡ ngàng, bởi lẽ thay vì hy sinh cho đoàn chiên, vị ấy lại hy sinh đoàn chiên để xin xỏ xun xoe với quyền lực?

Người vẫn có thể là Đức Giêsu của đời tôi, nếu tôi học biết Người cách khác. Phải chăng Người đã quá ư là con người, hay quá ư là Thiên Chúa đối với tôi? Mầu nhiệm một kẻ vừa là người vừa là Chúa thật chẳng dễ chấp nhận và cảm nghiệm. Lắm kiểu không tin đã phát xuất từ cái mà thật ra là đá tảng của Kitô giáo này. Thành thử chớ dừng lại trong cuộc tìm kiếm của chúng ta. Đối với mỗi người, có một Đức Giêsu vô danh phải khám phá. Cơn khủng hoảng kiểu Nagiarét, đó là do chúng ta có các ý tưởng quá xưa cũ về Người. Phải học hỏi về Người không ngừng qua Thánh Kinh, qua giáo lý, qua lời giảng dạy của Giáo Hội, qua đời sống các kitô hữu chứng nhân.

  • Có lẽ Người ngạc nhiên về cách chúng ta sống đức tin vào Người. Để tin vào Người, phải thường xuyên đổi mới và cụ thể hóa cách sống đức tin chúng ta đang có lúc này đây. Chúng ta tưởng mình biết Người, coi Người là thành phần cuộc sống chúng ta. So với những kẻ không tin thì chúng ta cùng làng với Người, đã luôn gặp gỡ Người. Sự thân mật với Người như thế làm chúng ta tự mãn, tự cho mình đã chu toàn bổn phận của một kẻ tin; hay ngược lại, sự thân mật ấy khiến chúng ta thỉnh thoảng mệt mỏi, việc đọc Tin mừng làm chúng ta chán ngán.

Vì chúng ta đã đọc cách đãng trí, uể oải, hay đọc mà chẳng mấy khi đem ra thực hiện. Hãy gỡ mình khỏi những cái nhìn lý thuyết về Đức Giêsu và về Kitô giáo. Hãy luôn tự vấn về sức sống của đức tin mình. Vì càng được đem sống, lòng tin càng giúp ta hiểu rõ về Đức Giêsu; và càng hiểu rõ, đức tin càng có nhiều sáng kiến thực hành cụ thể đích thực. Người lúc đó mới có thể là Đức Giêsu cho chúng ta. Nỗi thất vọng của Người ở Nagiarét phải động đến chúng ta thật sâu thẳm. Lạy Chúa, con không muốn làm Ngài thất vọng đến thế, thất vọng vì con chỉ biết tuyên xưng Chúa trên môi, qua những bài giảng thật hùng hồn, đang khi cuộc sống nơi con và quanh con chẳng được biến đổi.

Germaine Cousin (1579-1601) là một thiếu nữ quê mùa ở làng Pibrac, gần Toulouse, Pháp. Mẹ mất sớm, cô phải lớn lên trong hoàn cảnh bị cha ghét bỏ và dì ghẻ đối xử tàn tệ. Do không muốn Germaine chung đụng với con riêng của mình, bà bắt cô phải ngủ trong chuồng vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào cũng phải làm việc trong khi ăn uống rất kham khổ. Ngay khi chín tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu. Mặc những lao nhọc và bất công như thế, cô vẫn luôn vui vẻ chấp nhận. Cô cũng rất đạo đức và siêng năng tham dự Thánh Lễ. Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang chăn cừu, cô cũng vội vã cắm cây gậy xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho các thiên thần chăm sóc · Germaine quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, nhất là các trẻ em trong làng. Cô thường dạy cho chúng biết kính sợ Chúa · Sự thánh thiện của Germaine bắt đầu được dân làng chú ý. Nhưng điều này cũng chẳng thay đổi gì tình trạng của cô trong gia đình. Cô vẫn hay bị trừng phạt vì chia sẻ lương thực cho kẻ ăn xin. Có lần vào mùa đông, vì nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, bà dì ghẻ đã giật ra nhưng chỉ thấy những bông hoa mùa hè thật đẹp. Gia đình bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước. Năm cô 22 tuổi, người ta tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang. Cô được Đức Piô IX phong thánh năm 1849 và đặt làm quan thầy các thiếu nữ thôn quê.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Tôi còn nhớ cách đây mấy năm có một câu chuyện đã được báo chí và truyền hình đề cập, bàn tán và bình luận rất nhiều.  Đó là câu chuyện của ông Bernard Madoff, người đã gian lận hàng tỉ đô la.  Ông đã bị bắt và hiện đang bị giam trong tù.  Nhưng điều làm cho mọi người ngạc nhiên là câu nói của người vợ sau khi ông này bị kết án, bà nói: “Người đàn ông phạm tội gian lận không phải là người đàn ông mà tôi đã sống chung với bao nhiêu năm qua.”  Có nghĩa là bà ngạc nhiên về hành động của người chồng mà bà đã sống chung bao nhiêu năm trời.

     Thật vậy, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta ngạc nhiên về hành động của một người nào đó mà chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết người đó một cách rõ ràng, nhưng hoàn cảnh trái ngược, thật sự ra chúng ta không biết rõ người đó.

     Trong trường hợp của Chúa Giê-su mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay, những người thân trong gia đình, bạn bè và hàng xóm nghĩ rằng họ biết rõ về Người.  Đối với họ, Chúa chỉ là một người lao động tầm thường trở thành một người rao giảng. Người không thuộc về dòng dõi thượng phẩm hay linh mục, hay có sự học vấn cao siêu như những người biệt phái hay kinh sư. Có lẽ có một số ít người cảm phục nhưng hầu hết không tin Người có cái gì đặc biệt, mặc dầu họ đã nghe đồn về công việc và một số phép lạ Người đã làm ở nơi khác.

      Cho nên như chúng ta vừa nghe khi Chúa về quê hương và giảng dạy trong hội đường thì họ ngạc nhiên nhưng sau đó có thái độ khi thường:  “Ông là ai? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế?  Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao?  Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?”

     Thật sự ra thì trước khi về thăm dân làng, dân chúng đã nghe về những lời giảng dạy mới lạ đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia.  Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Người về Na-da-rét, quê hương của Người.  Nhưng những người đồng hương của Người ngạc nhiên đến độ không tin, không thể tin và có một thái độ như khi thường. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế,  tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên Sai, Đấng Cứu Chuộc, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm!

     Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta nhiều bài học thực tế trong đời sống Ki-tô hữu.  Nhưng tôi chỉ muốn chú ý đến 2 bài học quan trọng.  Bài học thứ nhất là thành kiến.  Nhu chúng ta biết thành kiến là một tâm trạng, thái độ lệch lạc, sai lầm rất tai hại, là một sự in sẵn, cố định trong tâm trí một đường lối, một quan niệm và một lối suy nghĩ.  Bởi vậy, những người có thành kiến suy diễn, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm có sẵn trong đầu óc.  Nhất là khi những tư tưởng, quan niệm hay những sự hiểu biết sai lạc đó có thể đưa đến những hậu quả không hay, gây ra những sự hiểu lầm, tranh chấp, chia rẽ nguy hại.  Thật vậy như chúng ta đã hiểu biết ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết, lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng, lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ.  Chúng ta thường nghe: “yêu nên tốt, ghét nên xấu,” và “khi yêu nhau thì yêu cả đường đi, yêu cả những tật xấu. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.”  Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng, và rồi chúng ta phán đoán, nhận xét người khác theo khuynh hướng đó của chúng ta.  Ít khi hay không bao giờ chúng ta tìm hay để ý đến những cái hay, cái tốt, hữu ích của họ, mà cảm nhận ra hay cám ơn về những ảnh hưởng đến đời sống của chính mình.

     Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người không ai thoát khỏi ngày xưa hay ngày nay cũng vậy.  Chúng ta thường to tiếng chỉ trích hay kết án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài đó mà đánh giá người khác.  Sự thực thì đánh giá một người theo phương diện bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Chúng ta có câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong.”  Và ngược lại chúng ta cũng thường nghe câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,” hay “Xanh vỏ mà đỏ lòng.”  Cho nên, nhận xét đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào thành kiến và bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận, nhiều khi phạm tội mất đức công bằng và bác ái, và gây ra những hậu quả chia rẽ, nghi ngờ trầm trọng, nguy hiểm và tai hại mà chúng ta thấy xảy ra trong nhiều cộng đoàn tôn giáo.
Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Na-da-rét nhận xét và phán đoán sai lầm về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế.  Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phán đoán một cách khách quan, đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người khác, nhiều khi, vì thiển cận và sai lầm chúng ta còn tìm cách bới móc để xuyên tạc, vu oan, giá hoạ cho người khác. Chúng ta nghe Chúa Giê-su đã nhiều lần khiển trách người Pharisêu, biệt phái và kinh sư về thành kiến của họ.

     Vì thế, là những Kitô hữu có đức tin vào Chúa, chúng ta phải cố gắng loại bỏ tất cả những thành kiến, để thứ nhất đối với cá nhân bản thân, khỏi sự tự ti mặc cảm; khỏi bị thu hẹp và nhất là tự hạ thấp giá trị con người của mình.  Và thứ nhì đối với những người chung quanh, có được một cái nhìn đúng đắn hơn, trung thực hơn, có một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và có một đời sống yêu thương cởi mở thân mật hơn.

      Bài học thứ hai là chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ tự phụ là đã biết rõ Chúa.  Chúng ta đi nhà thờ, chúng ta nghe về Chúa trong Tin mừng, tuyên xưng Chúa trong kinh Tin Kính, chúng ta đã học một số giáo lý và về Chúa ở lớp học, chúng ta nghe hay đọc về Chúa trong các kinh, và tự xưng là biết Chúa rõ rồi.  Các thánh và các người có đời sống liên hệ mật thiết thánh thiện với Chúa luôn nhắc nhở chúng ta: mọi ngày từng giây phút trong đời sống phải có tấm lòng khao khát muốn biết rõ hơn Chúa Giê-su là ai. Vậy chúng ta phải làm sao để biết Chúa hơn?   Bằng bốn điều thiết yếu sau: thứ nhất cầu nguyện, thứ hai năng chịu các Bí tích, thứ ba hy sinh khiêm nhường phục vụ và thứ bốn có tấm lòng quảng đại bác ái chân thật. Chỉ có một hay chỉ có 3 không đủ.

      Tôi cũng phải thú nhận với mọi người, tôi cũng chưa biết Chúa đủ hay một cách rõ ràng, nhưng tôi cố gắng và cố gắng từng giờ, từng ngày, và tôi cũng biết tất cả ông bà anh chị em cũng đang cố gắng như vậy,  đó là lý do tại sao chúng ta hiện diện trong Thánh lễ hôm nay.

      Vì thành kiến và lòng tự phụ mà người dân tại làng Na-za-rét đã không nhận được những ơn sủng của Chúa.  Xin Chúa khích động chúng ta có lòng khao khát muốn biết Chúa rõ hơn, biết loại bỏ những thành kiến, có tâm hồn chân thành và quảng đại để hứng nhận ân sủng của Chúa tuôn đổ xuống cuộc sống chúng ta.

Về mục lục

.

NGÔN SỨ BỊ TỪ CHỐI

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Người Do Thái có quan niệm giống người Việt, một người làm quan cả họ được nhờ, một người thành công cả làng hãnh diện. Thế nhưng, Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu sau khi đã thành công, nổi tiếng khắp vùng, khi trở về Nazareth, dân làng không những không hãnh diện, lại còn tỏ ra coi thường khinh bỉ. Tại sao vậy?
Có một sự thật trong cuộc sống, đó là, con người thích nghe những điều ngọt ngào, những lời khen tặng, khó chấp nhận những lời thẳng thắn phê bình góp ý. Càng làm lớn, càng khó để nghe những lời góp ý, càng có quyền càng khó chấp nhận nghe lời phê bình. Ví dụ: Vua Hêrôđê thích nghe những lời rao giảng của Gioan Tiền Hô, thế nhưng khi Gioan phê bình vua về việc vua đã cướp vợ của anh mình, thì liền sau đó, Gioan bị tống giam và chém đầu. Xã hội ngày nay cũng vậy, ai lên tiếng phê bình lãnh đạo, liền bị kết vào tội nói xấu lãnh tụ. Ai chân thành góp ý, thì bị quy vào tội làm chia rẽ nội bộ. Cuối cùng trong bộ máy lãnh đạo chỉ còn lại những người nịnh hót, bảo sao nghe vậy, không dám nói thật, không dám bênh vực sự thật.
Từ Cựu Ước cho đến ngày nay, các ngôn sứ luôn bị chối từ, bị coi thường, bởi vì các Ngài luôn nói lên sự thật, các Ngài dám chỉ ra những cái sai và kêu gọi phải đi theo đường lối của Thiên Chúa. Vì vậy, các ngôn sứ luôn bị chối từ, bị bách hại và có khi phải thiệt mạng vì những điều các ông nói ra. Bài đọc một, tiên tri Êzêkiel chia sẻ về ơn gọi của ông. Ông nhận được lời Chúa mời gọi và sai đến với dân Israel. Ông cảm thấy vô cùng lo lắng, sợ hãi, nhưng Thiên Chúa đã khuyến khích ông: “Ta sẽ làm cho chân ngươi đứng vững. Ta sẽ sai ngươi đến với nhà Israel”.  Như thế ông xác tín rằng ông là kẻ được sai đi; và vì được sai đi, nên ông có nhiệm vụ phải nói và làm theo ý Đấng đã sai mình. Chúa cũng cho Êzêkiel biết trước: “Israel là một dân phản nghịch đang nổi lên chống lại Ta…Chúng như những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng”. Dù biết trước sứ mệnh khó khăn, biết trước sẽ bị phản đối, nhưng vì lệnh truyền của Chúa, vị tiên tri vẫn can đảm vâng theo. Vị tiên tri cũng ý thức rằng, cho dù dân có nghe hay không nghe, thì việc ông đến với họ là vì Chúa, do Chúa, nói lời của Chúa. Nếu dân nghe lời vị ngôn sứ và điều chỉnh lại đời sống, họ lại đón nhận được tình thương của Chúa. Nếu từ chối, họ phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về thái độ của họ.
Chúa Giêsu là Ngôn Sứ Chúa Cha sai đến trần gian để nói Lời và ý định của Chúa cho dân. Tuy nhiên, Tin Mừng cho thấy, khi Chúa trở về Nazareth, dân làng đã tỏ ra dửng dưng và khinh bỉ Ngài. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã có một nhóm môn đệ đi theo, Ngài đã giảng dạy và thu hút được nhiều người tin tại các vùng lân cận như Caphacnaum. Khi trở về Nazareth, Chúa vào giảng trong hội đường. Mọi người ngạc nhiên về sự khôn ngoan thông thái của Chúa và về các phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Tuy nhiên sự ngạc nhiên này lại không dẫn đến sự cảm phục và tin kính, trái lại, các người Nazareth đã để cho thành kiến, nếp nghĩ coi thường người khác cản trở, khiến họ không đi xa hơn được trong việc tin Chúa Giêsu.
Họ bị cản trở bởi nghĩ rằng vùng Nazaret chẳng thể nào có được một ngôn sứ, vì Kinh Thánh không hề nói đến tên làng Nazareth bao giờ. Suy nghĩ này cũng ảnh hưởng trên ông Nathanael khi được Philipphê nói về Đức Giêsu, vị ngôn sứ thành Nazareth, ông đã trả lời: Ở Nazareth nào có cái chi hay? Ngôn sứ làm gì có ở Nazareth! Hơn nữa, người Nazareth còn mang một cái nhìn hẹp hòi thành kiến và khinh thường thế giá gia đình của Chúa Giêsu. Họ nói rằng: Con anh thợ mộc có gì đâu mà thông thái? Anh em nhà bà Maria có gì đâu đặc biệt? Chính những suy nghĩ này đã cản trở những người Nazareth đón nhận Chúa Giêsu và lời giảng dạy của Ngài. Cũng từ đó họ không thể chấp nhhận Đức Giêsu là một ngôn sứ được Chúa sai đến.
Nếu những người Nazareth có một tâm hồn khiêm nhường, họ đã có thể nhận ra ý Chúa qua lời của Vị Ngôn Sứ Giêsu; Nếu họ bỏ qua được thành kiến, họ đã có thể nhận ra Chúa Giêsu là niềm vinh dự cho cả dân làng và dân tộc của họ; Nếu họ đừng có cái nhìn khinh miệt về gốc gác, nghề nghiệp của gia đình Ngài, thì họ đã nhìn thấy nơi Đức Giêsu là ngôn sứ được sai đến; Nếu họ đừng có thái độ coi thường người khác, họ đã nhận ra việc Chúa làm qua con người của Đức Giêsu. Chúa Giêsu lấy làm tiếc cho những người Nazareth vì họ đã cố tình bỏ qua cơ hội Thiên Chúa dành cho họ: Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương của mình, hay bà con thân thuộc và trong gia đình mà thôi.
Chính vì họ khép lòng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, họ từ chối sứ giả của Thiên Chúa, nên Tin Mừng ghi lại: “Chúa Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó…vì họ không có lòng tin”. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể làm được mọi sự. Tuy nhiên, ở Nazareth Ngài không thể thể hiện quyền năng Thiên Chúa qua các phép lạ được vì những người ở đó thiếu một điều kiện tiên quyết đó là lòng tin. Lòng tin là chìa khóa để ta đi vào trong trái tim và khai mở lòng thương xót của Chúa. Trái lại sự cứng lòng không tin hoặc cố tình từ chối Thiên Chúa sẽ khiến cho lòng thương xót của Chúa không thể đổ vào lòng chúng ta được. Thiên Chúa chỉ có thể đổ tình yêu vào lòng chúng ta khi chúng ta mở lòng đón nhận. Ngài chỉ có thể cứu chúng ta khi chúng ta đưa tay cho Ngài nâng ta chỗi dậy. Thiên Chúa chỉ có thể ôm chúng ta vào lòng khi chúng ta như một đứa trẻ sà vào vòng tay Chúa.
Thái độ từ chối Chúa Giêsu vẫn đang diễn ra trong thế giới và xã hội hôm nay. Các nhà cầm quyền đang muốn tìm cách loại trừ Chúa Giêsu và ảnh hưởng của Ngài trong xã hội, vì họ sợ Giáo lý và Tin Mừng của Chúa chạm đến lương tâm của họ. Họ sợ Chúa có ảnh hưởng trên cộng đồng, sợ nhiều người tin theo, do đó họ tìm nhiều cách đề đàn áp, kìm hãm, gây khó khăn cho những người tin theo Chúa. Nhìn chung, vì xã hội đầy những gian dối và bóng tối, vì thế họ sợ ánh sáng và sự thật của Chúa. Không chỉ ở những quốc gia độc tài, Chúa Giêsu cũng đang bị loại trừ nơi các quốc gia có truyền thống Kitô giáo như tại Châu Âu. Các nhà lập pháp Châu âu đã từng đòi loại bỏ dấu hiệu Kitô Giáo như tượng đài, thánh giá ra khỏi nơi công cộng nhân danh sự tự do tôn giáo.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là vì con người ngày nay đã loại trừ Chúa ra khỏi lòng mình hoặc tách biệt giữa đức tin và đời sống. Khi trong lòng chứa đầy tội lỗi, vật chất, sự gian dối và hành động bất chính, thì không thể có Chúa trong lòng. Những người khác tuy vẫn còn tin Chúa, nhưng Chúa không còn ảnh hưởng gì trên cuộc sống của họ. Đời sống đạo của những người này chỉ còn là một thói quen vô hồn, hoặc Chúa chỉ còn là vật trang trí hoặc khi gặp khó khăn họ khấn vái như khấn các thần linh khác.
Trước đây, người công giáo mạnh dạn hiên ngang mang thánh giá Chúa hoặc tràng hạt trên cổ để thể hiện mình là người có đạo; vào quán ăn, họ không ngại ngùng khi làm dấu thánh giá. Nhưng nay, thánh giá chỉ được đeo trên tai như đồ trang sức, nhiều người không còn cảm thấy tự hào vì mình thuộc về Chúa Kitô. Nhiều người còn tìm cách làm mờ nhạt dấu vết của Chúa trong cuộc sống của mình, không dám khai mình là công giáo trong giấy tờ, lý lịch để có thể thăng tiến trong xã hội. Có người lý luận: “Tôi chỉ khai như thế nhưng tôi có bỏ đạo đâu?” Hành động như thế cho thấy sự gian dối trong suy nghĩ là dấu hiệu cho thấy có sự khác biệt hoàn toàn giữa lối sống bên ngoài và đời sống đạo. Nhiều người, trong đó các bạn trẻ từ chối Chúa Giêsu qua việc từ chối hoặc lười biếng học hỏi giáo lý, Tin Mừng để biết về Chúa Giêsu và những đòi hỏi của Tin Mừng. Vì thế, Chúa Giêsu vẫn mãi như người xa lạ đối với họ.
Xin Chúa thêm đức tin để chúng ta tin chắc chắn vào Chúa Giêsu, đón nhận giáo lý Tin Mừng của Ngài và mạnh dạn sống những đòi hỏi của Tin Mừng trong xã hội hôm nay. Amen

Về mục lục

.

THÓI KIÊU NGẠO VÀ ĐỊNH KIẾN ĐÃ CẢN TRỞ ƠN CỨU ĐỘ

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã tuyệt đối trung thành với sứ vụ Thiên Sai của mình, vì thế, khi tiếp xúc với dân chúng, Đức Giêsu đã can đảm, trung thành với sứ vụ. Luôn tỏ ra là một Vị Thiên Chúa sẵn sàng khích lệ, đồng hành, cảm thông và xót thương con người. Dạy dỗ và làm nhiều phép lạ nhằm loan báo Mầu Nhiệm Cứu Chuộc cho dân để họ sám hối, tin theo và được cứu chuộc.

Tuy nhiên, khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu đã gặp phải rất nhiều thử thách đầy cam go do chính những người đồng hương với Ngài gây nên. Những thử thách đó khởi đi từ sự kiêu ngạo, tự phụ và thành kiến của người đồng hương.

Tuy nhiên, khi đối diện với những vấn đề như vậy, Đức Giêsu đã không chùn bước, nhưng Ngài vẫn luôn trung thành cách trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha đã trao gửi cho  Ngài trong sự khiêm tốn và can đảm.

1.  Nguyên nhân dẫn đến việc cản trở Đức Giêsu khi Ngài trở về quê hương

Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại việc Đức Giêsu trở về quê hương của Ngài. Trong chuyến thăm quê lần này, cũng giống như những lần khác, Ngài vẫn vào hội đường và cầu nguyện cũng như thi hành sứ vụ Thiên Sai của mình.

Tuy nhiên, Dân Do thái vốn dĩ là một dân cứng đầu, dễ nổi loạn chống đối lại Thiên Chúa. Họ luôn thách thức Thiên Chúa khi Người không đáp ứng nhu cầu của họ. Hơn thế nữa, họ rất coi trọng nguồn gốc sáng giá của một con người.

Bởi thế, thán phục các phép lạ, nhưng lại coi thường Đức Giêsu vì Ngài xuất thân trong một gia đình không mấy nổi nang! Điều này chính những người Do thái đã thắc mắc: cha ông không phải là Giuse, mẹ ông chẳng phải là bà Maria sao? vì thế, họ không tôn trọng Ngài.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên không là gì khác, đó chính là sự kiêu ngạo của những người đồng hương.

Tại sao vậy? Thưa, sự kiêu ngạo đã là đó ngáng chỗ và lòng kiêu căng đã chiếm mất chỗ của Chúa trong cuộc đời của họ.

Trước thái độ trên, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu mà muôn đời vẫn giữ nguyên giá trị: đó là: “Tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình”.

Qủa đúng như vậy, vì, xét theo lẽ tự nhiên, một con người dù tài giỏi đến đâu, làm việc hiệu quả thế nào, và thành đạt trên nhiều lãnh vực hay nhiều nơi đi nữa, thì khi trở về gia đình, quê hương, họ luôn bị chính những người thân cận, làng xóm coi ở mức độ “thường thường bậc chung” vì lối suy nghĩ thiển cận, nên: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.

Điều này Đức Giêsu đã trải qua khi Ngài trở về quê hương của mình!

Nhưng sự coi thường đáng tiếc này đã khiến cho ơn cứu độ của Thiên Chúa vuột mất khỏi họ, và suốt bao thế kỷ, họ vẫn đang chờ đợi một Đấng Kitô khác chứ không phải Đức Giêsu, Đấng đã hiện diện giữa họ cách đây hơn 2.000 năm.

2.  Thực trạng kiêu ngạo của con người hôm nay

Thực trạng ấy nơi những người đồng hương với Đức Giêsu khi xưa, hôm nay vẫn còn đây đó nơi chúng ta, vì: thói ích kỷ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, ác cảm, nên ta hay giam người anh chị em mình trong quá khứ hay “tạc tượng” họ trong một lối nhìn tiêu cực và không bao giờ cho họ cơ hội để mở ra một tương lai tốt đẹp hơn….

Lý do họ không nhìn anh chị em mình dưới lăng kính màu hồng, mà toàn màu đen, bởi mắt họ đang đeo cặp kính râm của sự kiêu ngạo! Vì thế, lối suy nghĩ nông cạn, vu vơ và trống rỗng đã dẫn đến việc đánh giá, đối xử lệch lạc và thiếu công bằng cũng như bất nhân. Quả đúng là: “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”; hay Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.

Những người nông nổi như vậy, họ đâu có hiểu được rằng: “Sông có khúc, người có lúc”.

Thật vậy, có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác…. Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với người thân. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với anh chị em họ. Những người này thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”“làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”; … hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”. Hay như Mc Kenzie nói :”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.

3.  Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng ngôn sứ cũng như lối sống và cách thức loan báo Tin Mừng!

Trước tiên, sứ mạng ngôn sứ được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.

Vì thế, mỗi người phải có trách nhiệm loan báo Lời Chúa, thi hành sứ mạng ở mọi nơi, mọi lúc, dù: “Thuận tiện hay không thuận tiện”; được ủng hộ hay chống đối, được đón nhận hay bị khước từ, được tôn vinh hay giết chết…. Mặt khác, khi thi hành sứ vụ, chúng ta không thể chọn lựa theo ý mình, mà phải nói và làm điều Thiên Chúa muốn một cách trung thành (x. 1Cr 9,15-16); không được giả hình và bóp méo Lời Chúa (x. 2Cr 11,10 ; 13,8).

Thứ đến, khi thi hành sứ vụ, cần nhớ nằm lòng câu nói của Đức Giêsu: “Không ngôn sứ nào được kính trọng nơi quê hương mình”.

Cần nhớ rõ một điều, chúng ta đi đến đâu, làm bất cứ điều gì, sẽ có 30% người ủng hộ. 30% người chống đối, loại trừg, số còn lại dửng dưng. Đây cũng chính là số phận và cái giá phải trả của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.

Bởi vì làm ngôn sứ không phải là chuyện đơn giản, mà là: “Vô cùng phong nhiêu”, phúc tạp! Vì Lời Chúa một đàng là lời tình yêu, nhưng một đàng là lời cật vấn lương tâm, vạch trần tội ác, bất công, gian dối, hình thức…, nên:  “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước …. Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20).

Thật vậy, sứ mạng ngôn sứ đòi chúng ta chấp nhận lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào hay “hiệu ứng đám đông”. Đôi khi chấp nhận điên vì sứ vụ, khùng Tin Mừng, khi dám nói lên tiếng nói công lý, công bằng ngay tại những nơi nguy hiểm như: sòng bài, quán rượu, quán karaokê…, nơi những con người đang “quậy” tứ tung hay “điên cuồng” trong những cuộc chơi bất chính….

Khi lựa chọn như thế, sự lẻ loi, cô lập và chống đối hay phải thí mạng là lẽ đương nhiên!

Mong sao, sứ mạng và số phận ngôn sứ của Đức Giêsu trong thời của Ngài, cũng là của chúng ta trong thời đại hôm nay.

Ước gì vì: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” là lựa chọn của mỗi người Kitô hữu, vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” nên chúng ta “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao  giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sự khiêm nhường và tình yêu của Chúa, để chúng con yêu cả những người thù ghét mình. Xin ban sức mạnh của Chúa, để chúng con can đảm, vững bước trên con đường thi hành sứ vụ.

Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG CHAI DẠ ĐÁ

 JM. Lam Thy

Hiện nay, không ít các lễ hội, các không gian văn hóa tâm linh bị xâm hại một cách vô thức do sự thiếu ý thức của khách hành hương. Không ít điều chướng tai gai mắt xảy ra như cơm bữa ở nhiều lễ hội, hay các khu di tích văn hóa là nơi cần sự tôn nghiêm, trân trọng. Ấy cũng bởi vì đa số khách hành hương đều là những người chỉ đến viếng những nơi tôn nghiêm vì tò mò hoặc vì muốn khoe bộ vó sang trọng, cái vỏ bề ngoài lòe loẹt, chưng diện như một người giàu có, thế lực. Họ không đến những nơi thờ phương Thiên Chúa với một lòng tin. Họ chính là những kẻ được ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả: “Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi: Hỡi con người, hãy đi đến với nhà It-ra-en và nói với chúng những lời của Ta… Nhưng nhà It-ra-en không muốn nghe lời ngươi, bởi vì chúng không muốn nghe lời Ta: quả thật cả nhà It-ra-en đều mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá… Ngươi đừng sợ chúng, có phải giáp mặt chúng cũng đừng khiếp, bỏi vì chúng là nòi phản loạn.” (Ed 3, 4-8).

Họ là những kẻ “lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạn khinh đời. Rầm rập tới, kìa chúng đã bao quanh, mắt trừng trừng, như muốn quật con xuống đất, thật giống loài sư tử chực nuốt sống ăn tươi, hệt như con mãnh thú rình rập ở bụi bờ.” (Tv 17, 9-12). Quả thật họ “lòng chai dạ đá không chịu hối cải, và như vậy họ càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh.” (Rm 2, 5). Chính Đức Giê-su đã nói thẳng vào mặt họ là những kẻ “lòng chai dạ đá” (“Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người. Người đáp: “Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Đức Giê-su nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông.” – Mc 10, 2-5). 

Tâm lý chung của con người là cứ “trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo miếng lòng mới ngon”, truy tìm lý lịch dòng dõi “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” để mà … làm quen, bắt mánh, kết thân này nọ. Cái bản tính chuộng vẻ bề ngoài ở đâu thì không biết, chớ còn ở Việt Nam thì thấy rõ lắm. Hễ mở miệng ra là “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”, “một kẻ làm quan, cả họ được nhờ”. Cứ thấy “sang” là y như “bắt quàng làm họ”. Từ đó sinh tật cố tô vẽ cái vẻ bề ngoài cho hào nhoáng để che bớt đi cái “tẩy” bên trong (“Tốt phô ra, xấu xa đậy lại”). Chưa hết! Chẳng những chuộng vẻ bề ngoài, mà còn ‘vọng ngoại’ nữa kia! Anh em trong nhà chia sẻ, bảo ban nhau, thì chẳng ai nghe ai, chẳng ai nhường ai, và anh nào cũng muốn “ăn trên ngồi trốc, quyền lực đầy mình”; đến khi hữu sự phải nhờ người ngoài, nhờ hàng xóm phân xử, thậm chí đưa nhau ra toà, lúc bấy giờ mới bừng tỉnh thấy mình “trắng tay” (“Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không!” – “Cung Oán Ngâm Khúc” – Nguyễn Gia Thiều). 

Cũng xuất phát từ tâm lý đó nên mới nảy sinh quan niệm “Gần chùa gọi bụt bằng anh”, “Bụt chùa nhà không thiêng”. Điều này có thể nhìn thấy nơi Chúa Giê-su trong một lần về thăm Na-da-ret (CN XIV/TN-B – Mc 6, 1-6). Người đã đi rao giảng khắp nơi (từ Ga-li-lê tới Giê-ru-sa-lem, Pa-let-tin, Ca-phac-na-um và nhiều nơi khác), nơi nào đặt chân đến, Chúa Giê-su cũng được công chúng đón tiếp nồng nhiệt, trầm trồ khen ngợi vì những lời giảng dạy hết sức ấn tượng, những phép lạ hết sức thuyết phục của Người. Nhưng đến khi về quê hương bản quán thì sự tình lại đổi khác hẳn. Dân làng Na-da-rét, quê hương của Chúa Giê-su, đã có thái độ hết sức thờ ơ, lãnh đạm. Họ không thèm để ý đến cách giảng dạy khôn ngoan, thông thái của Người, mà chỉ chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của một chàng thanh niên bình thường con bác thợ mộc Giu-se và bà nội trợ Maria chất phác hiền lành. 

Họ bộc lộ bản tính “trông mặt mà bắt hình dong” bằng những lời lẽ khinh bỉ: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mc 6, 2-3). Cái tâm lý chuộng vẻ bề ngoài bước đầu hình thành một “thiên kiến”, đó là một cách nhìn lệch lạc, không đúng, thiếu khách quan. Từ thiên kiến dần dần trở thành một lăng kính cố hữu (“định kiến”) để nhận xét, đánh giá nhân vật, sự kiện. Lăng kính đó chính là một “thành kiến” bất di bất dịch, khó lòng gột rửa (Theo từ nguyên, “định kiến” hay “thành kiến” có nghĩa là: Ý nghĩ cố định về người hay vật, xuất phát từ cách nhìn sai lệch hoặc dựa trên cảm tính và thường xuyên có chiều hướng đánh giá thấp). 

Một khi đã có thành kiến về một vấn đề, một sự kịên hay một nhân vật nào đó, thì khó lòng “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi” cho được. Nó bám chặt vào tâm trí đến gần như trở thành bản năng. Cũng chính vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri dân làng Na-da-ret làm cho họ không tin vào những lời giảng dạy hết sức thuyết phục của một Đấng có thẩm quyền, khiến cho “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” (Mc 6, 5). Mới thoạt nghe tới đây, chắc ai cũng nghĩ rằng với quyền năng của Thiên Chúa thì điều “không thể” cũng sẽ trở thành “có thể”, chẳng có việc gì Người không làm được. Vậy tại sao Đức Giê-su Thiên Chúa lại không làm được phép lạ tại đó? Vấn đề cũng không đến nỗi khó trả lời. Thực ra, Đức Ki-tô đã “giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” thì Người cũng làm được phép lạ ở bất cứ nơi nào, trong bất cứ trường hợp nào. Sở dĩ Người không làm phép lạ nào tại Na-da-ret, bởi vì Người thấy rõ là “họ không tin”, mà một khi họ đã cứng lòng không tin thì dù Người có làm bao nhiêu phép lạ cũng vô ích mà thôi. 

Mấu chốt vấn đề chính là ở điểm này: Người bệnh – nhất là những chứng bệnh thụôc lãnh vực tâm linh – dù có tìm được những thầy thuốc siêu đẳng, cũng không thể khỏi bệnh nếu không có lòng tin vào thầy thuốc đó. Khi người thầy thuốc đó là Thiên Chúa thì cũng vậy thôi. Không thiếu những trường hợp vì yếu (hoặc không có) lòng tin, đến khi vấp ngã thì đã muộn. Nhìn vào gương các Tông đồ tiên khởi thì đủ rõ: Các ngài tin Thầy mình là Đấng quyền năng có thể làm cho các ngài “trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” nên mới theo Người. Theo Người và tuyên xưng Người là Đấng Mê-si-a – là Thiên Chúa thật – nhưng trong lòng vẫn bán tín bán nghi, và phải chờ đến khi được Thầy ban Thần Khi (vào ngày Lễ Ngũ Tuần) mới trở thành những người sẵn sàng chết cho đức tin của mình. Trong 12 môn đệ tiên khởi thì lại có một Giu-đa It-ca-ri-ốt vấp ngã vì không có lòng tin; chẳng những thế, khi phạm tội đã được Thầy “nhìn lại” mà vẫn không hối cải, để cuối cùng lại phạm thêm một tội tày trời: Huỷ hoại công trình tạo dựng của Thiên Chúa (treo cổ tự tử – Mt 27, 1-5). 

Vấn đề đã sáng tỏ như lời dạy của Thánh Au-gus-ti-nô: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài”. Vì thế cho nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.” (Mc 6, 5-6). Với những người dân làng bình thường không tin vào Đức Ki-tô thì còn có thể hiểu được, nhưng đến cả những người bệnh được chữa khỏi mà cũng không tin thì quả thật… hết biết! Và vì thế mới khiến cho một vị Thiên sai là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật phải “lấy làm lạ” và cuối cùng chua chát thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mc 6, 4). Thế đấy! 

Thực ra, cũng không phải chỉ riêng dân làng Na-da-rét mới có cái nhìn sai lệch về Thiên Chúa; mà kể cả dân tộc Do Thái từ trước đó hàng mấy thế kỷ cũng nổi loạn chống lại Thiên Chúa vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri họ (“Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá.” – Ed 2, 3-4). Ôi chao! Cứ tưởng đó chỉ là truyện cổ tích xảy ra cách đây hơn 20 thế kỷ, nào ngờ ở cái thời đại văn minh tiến bộ vượt bậc ngày nay vẫn còn không ít cảnh “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá” vì cái thành kiến “made in Nazareth, made in Israel” sống nhởn nhơ trên khắp địa cầu. 

Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng cái bản tính cố chấp hẹp hòi của loài người đã định vị trong con một cách nhìn lệch lạc, không đúng đắn, thiếu khách quan về con người, sự vật hay sự kịên. Cái thành kiến ấy khiến con nhìn một công trình bằng gỗ thì chỉ chú ý đến nước sơn choáng lộn bên ngoài, mà không cần biết đến chất lượng gỗ bên trong; con đã quên mất rằng “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Hơn thế nữa, khi nhìn anh em, con chỉ chú ý đến vẻ đẹp tô son trét phấn, áo quần loè loẹt bên ngoài, mà quên mất rằng “cái nết đánh chết cái đẹp”, quên  mất rằng con người cũng chẳng khác một bông hoa “hữu xạ tự nhiên hương” (có mùi thơm thì tự nhiên có hương toả bay, còn nếu đã không có hương thơm thì cái sắc hoa bên ngoài cũng trở thành vô vị mà thôi). Cái thành kiến ấy đã khiến con gặp không ít trường hợp “tốt mã dẻ cùi” (ví kẻ chỉ có cái đẹp trau chuốt bề ngoài giống như loài chim “dẻ cùi tốt mã, dài đuôi”  ), và chỉ đến lúc đó, con mới thấy sáng mắt, mới thấy “bừng con mắt dậy, thấy mình… vô duyên!” 

Ôi! Lạy Chúa! Khi nhìn ra  được những sai lầm, con rất muốn tẩy rửa tâm hồn cho sạch mọi vết nhơ của những thành kiến đã trở thành định kiến trong con, con rất muốn thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ, nhận định thiển cận của con. Nhưng, lạy Chúa ! Con lại cũng biết rằng con người của con thật mỏng giòn yếu đuối nhưng lại rất bảo thủ, khó lòng mà “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi” cố hữu được. Vì thế, cúi xin Chúa ban Thần Khí khơi dậy Lửa Mến trong lòng con, soi sáng và hướng dẫn con tẩy rửa con người trong Nước và Thánh Thần như Lời Chúa đã hứa năm xưa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CẦN XÁC ĐỊNH LẠI BẬC THANG GIÁ TRỊ

Lm. I-nha-xi-ô Trần Ngà

Một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya để tìm cách phá hoại.

Thấy trong cửa hàng có một bàn thờ bằng gỗ quý, chạm khắc rất mỹ thuật ghi giá bán 30 triệu đồng và một cái thùng rác ghi giá bán 100.000 đồng, người đột nhập gỡ miếng giấy ghi giá 30 triệu ở bàn thờ gắn vào thùng rác và gỡ miếng giấy ghi giá 100.000 đồng ở thùng rác dán vào bàn thờ. Thế là bàn thờ bằng gỗ quý chạm khắc công phu chỉ có giá 100.000 đồng trong khi thùng rác hèn hạ được nâng giá trị lên đến 30 triệu đồng và y tiếp tục thực hiện như thế với những món hàng khác.

Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần.

Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên có thể mua lầm một cách tai hại. (Dựa theo ý tưởng của Frère Phong trong cuốn “Mắm muối cho bữa cơm hằng ngày”)

Giá trị con người hôm nay cũng bị đảo lộn như thế:

Một số người xem thường những người tuy nghèo nhưng có tâm hồn cao đẹp, có phẩm chất cao quý, giàu lòng đạo đức và khiêm tốn… trong khi đó lại coi trọng những người thiếu phẩm chất đạo đức mà chỉ có bộ cánh hào nhoáng bên ngoài, có xe sang, nhà lớn…

Nhiều bạn trẻ nông nổi hôm nay tôn những diễn viên ăn mặc lố lăng, phong cách quái đản, tâm hồn rỗng tuếch… lên làm thần tượng, mà không biết quý trọng những người khôn ngoan và đạo đức…

Qua Tin mừng hôm nay, thánh Mác-cô cho thấy người dân thành Na-da-rét cũng đánh giá Chúa Giê-su theo nhãn quan đó.

Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân và nhờ những phép lạ Ngài làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, nhìn đến anh chị em họ hàng của Ngài thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Ngài trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Ngài nữa.

Họ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Ngài” (Mc 6,3).

Thế là Chúa Giê-su chẳng làm phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương. Ngài rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.

Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giê-su theo dáng vẻ bên ngoài, dựa vào gia thế, nghề nghiệp… mà không dựa vào phẩm chất của Ngài nên dân làng Na-da-rét đã không tôn trọng Chúa Giê-su và đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Ngài ưu ái dành cho họ. Cách đánh giá như thế khá phổ biến trong xã hội hôm nay.

Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay cố tạo cho mình có “lớp sơn” hào nhoáng bên ngoài, tranh đua ăn mặc sao cho hợp thời trang, cho lôi cuốn… còn đầu óc, trái tim và tâm hồn thì trống rỗng.

Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!

Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.

Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người.”

Lạy Chúa Giê-su,

Xin giúp chúng con “gắn lại bảng giá cho đúng với giá trị thật của mỗi món hàng”, biết thẩm định giá trị con người dựa vào phẩm chất của họ, chứ không phải dựa vào những thứ “bao bì”, vỏ bọc bên ngoài.

Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.

Về mục lục

.

KHI TÔI YẾU CHÍNH LÀ LÚC TÔI MẠNH

   Lm. Bosco Dương Trung Tín

  Mới đọc câu này, ta thấy khó hiểu. Tại sao thánh Phao-lô lại nói: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”. Tôi yếu là tôi yếu chứ làm sao mà mạnh được ? Cái “Tôi” của thánh Phao-lô đây, đại diện cho “cái tôi” của mỗi người chúng ta. Tôi yếu là do bản thân tôi; do bản tính yếu đuối của con người tôi. Tôi mạnh là do ơn Chúa. Tôi yếu là do con người bình thường; tôi mạnh là do con người đức tin. Tôi yếu là do con người tự nhiên; tôi mạnh là do con người siêu nhiên. Điều này được thấy rõ nơi các thánh Tử Đạo.

  Với con người tự nhiên, ai cũng sợ đau, sợ khổ, sợ đòn vọt, sợ tù đày và sợ chết. Thế nhưng, với ơn Chúa, với đức tin, các thánh Tử Đạo, đã dám hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình. Đó là con người siêu nhiên. Trong kinh tiền tụng về thánh Tử Đạo, Giáo Hội tuyên xưng: “Nhờ đó, Cha kiện toàn sức mạnh nơi những con người mỏng giòn và tăng sinh lực cho người yếu đuối, để họ làm chứng cho Cha nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con”.

  Chính lúc con tự nhiên của ta yếu, thì con người siêu nhiên của ta sẽ mạnh. Ta yếu là do con người yếu đuối, mỏng giòn; ta mạnh là nhờ ơn Chúa, nhờ đức tin. Chính lúc con người tự nhiên của ta không làm được gì thì con người siêu nhiên, nhờ ơn Chúa, nhờ đức tin mà ta làm được. Đó là một cảm nghiệm sâu sắc của thánh Phao-lô về thân phận con người của Ngài.

  Quả thật, với con người tự nhiên, chắc chắn thánh Phao-lô không thể hoàn thành công cuộc truyền giáo to lớn đến như vậy. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa; tất cả đều nhờ bởi lòng tin. Những lúc thánh Phao-lô cảm nghiệm mình yếu đuối nhất thì cũng là lúc ngài cảm nghiệm mình mạnh hơn nhất. Thánh Phao-lô cũng là con người như chúng ta, nên cũng yếu đuối, có lúc cũng đã tự cao tự đại. Con người chúng ta là thế, chẳng ai hơn ai. Cái quan trọng là mình có biết chấp nhận con người yếu đuối của mình và cần đến ơn Chúa để ta cố gắng nên thánh nên thiện hay không.

  Ta hãy suy gẫm về một số sự yếu đuối của con người chúng ta.

  Cái yếu đuối đầu tiên và rõ ràng hơn nhất là, ai trong chúng ta cũng muốn làm điều tốt, điều hay, thế nhưng ta không làm được. Nói thì hay lắm nhưng khi thực hành thì không hay chút nào. May ra cũng được đôi lần. Ta ăn bao nhiêu bữa cũng được, chứ dự hai ba Thánh Lễ chắc hơi khó. Ta ngồi coi ti vi, coi đá banh hay coi phim mấy tiếng đồng hồ cũng không sao, chứ đọc kinh, suy gẫm 30 phút là thấy nó lâu, nó dài và chán ngắt. Cứ ngồi nói chuyện mãi không sao, bắt đầu đọc kinh là ngáp ngắn ngáp dài. Con người yếu đuối của ta là thế đấy.

  Tiếp đó là hay quên. Học trước quên sau; mới học đó mà đã quên rồi. Mới nhớ đó, mà lại quên. Đã đời mãi không sao, vừa bóp ổ khóa mới sực nhớ để chùm chìa khóa trong phòng. Nhiều khi ta cố gắng luyện tập cho nhuần nhuyễn, thế mà khi vào việc lại quên tới quên lui. Nhiều lúc ta cũng bực mình với chính mình. Con người yếu đuối của ta là thế.

  Ta hay sai lỗi. Chuyên môn là làm sai, làm bậy và làm ngược. Cứ xem các kỳ thi thì biết. Đa số là rớt. Tại vì hiểu sai, đánh dấu sai, làm sai. Học rồi, biết rồi, thế mà vẫn làm sai như thường. Người ta nói là “học tài thi phận” là vậy. Một cái mẹo muốn thì đậu trong kiểu thi trắc nghiệm, ta cứ đánh dấu bình thường, nhưng xong rồi thi đánh dấu ngược lại. Trước đánh đúng, giờ đánh là sai; trước đánh là sai giờ đánh là đúng. Trước đánh dấu chéo, giờ đánh dấu tròn; trước đánh dấu tròn, giờ đánh dấu chéo. Chắc sẽ đậu !!!

  Ta hay lầm lạc. Người ta nói : “Con người là lầm lỡ”. Lầm là không biết đâu là đúng, đâu là sai; không biết thế nào là phải, thế nào là trái. Càng học càng cảm thấy mình ngu. Do đó mà phán đoán sai lầm. Sai mà cứ tưởng là đúng; đúng mà cứ tưởng là sai. Trái mà cứ nghĩ là phải; phải mà cứ tưởng là trái, nên cứ đi lạc mãi; cứ đi “đậu phộng” mãi thôi. Con người yếu đuối của ta là thế.

Ai cũng có bệnh. Là con người, ai cũng có bệnh này bệnh kia, chẳng có ai mạnh khỏe 100% cả. Trông thì khỏe khoắn đấy, khi khám thì mới biết có bệnh. Khám mới ra bệnh như “quét nhà ra rác” vậy. Người thì viêm họng, người thì viêm xoang; người thì bệnh gan, người thì bệnh thận; người thì bệnh tim, người thì bệnh phổi; người không đau răng thì cũng bị nhức đầu; không đau lưng thì cũng nhức mình nhức mẩy; không đau chân cũng đau tay; không lở mồm cũng long móng, vv…đâu có ai thoát khỏi. Mà đau cái gì cũng khổ. Mới thấy khỏe đó, chỉ một cơn gió thoảng qua là tay chân nhấc không nổi, ăn không ngon, ngủ không yên. Mới thấy phương phi, bệ vệ thế, mà xạ trị có mấy tháng, đã thấy teo héo như miếng tóp mỡ rồi. Con người yếu đuối của ta là thế.

  Không chỉ có bệnh mà còn có tật nữa cơ. Tật đây là những tật xấu ấy. Nào là khoe khoang, kiêu ngạo; nào là giả hình, giả bộ; nào là ghen tương, đố kị; nào là tranh chấp, bè phái; nào là say sưa, chèn chén,…..Làm được một chút thì khoe từ đầu trên đến xóm dưới; thời đại bây giờ thì lên mạng, lên face book; thấy người khác hơn mình thì ghen với tị; khó một tí là chán; cực một tí là nản; làm ít nói nhiều; võ tay không nổi thì võ mồm, đi nói hành nói xấu; làm ít đòi hưởng nhiều,……Con người của ta là như thế đó.

  Ta biết con người của ta yếu đuối thế đó, nhưng ta có cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi mình bị sỉ nhục, khi mình bị hoạn nạn, bị nói hành nói xấu hay bị vu khống không ? Nếu không, thì ta vẫn là ta, ta vẫn yếu đuối chứ không có mạnh. Ta không mạnh vì ta không chấp nhận con người yếu đuối của mình và cũng không cần ơn Chúa giúp nữa.

  Nhiều khi ta nghĩ, tại sao Chúa lại để ta yếu đuối như thế; tại sao Chúa lại để ta hay quên như thế; tại sao Chúa lại để ta sai lầm như thế; tại sao Chúa lại để ta bệnh và tật như thế ? Câu trả lời đó là để ta khỏi kiêu ngạo. Nhiều lúc ta muốn Chúa cất hết những yếu đuối của ta đi. Thế nhưng Chúa mà cất hết thì ta trở thành Thiên Thần rồi, chứ không còn là con người nữa. Rồi cứ đà này, ta lại chống lại Chúa, không nghe lời Chúa nói, ta nên giống ma quỉ thôi. Điều đó có ích gì cho ta không ?

  Bởi đó mà ta hãy chấp nhận thân phận con người yếu đuối của mình. Không chỉ chấp nhận mà còn vui mừngnữa cơ. Khi vui mừng chấp nhận con người yếu đuối của mình, ta mới cần đến ơn Chúa. Chúa nói với thánh Phao-lô: “Ơn Ta đủ cho con rồi, vì sức mạnh của Ta được biểu lộ trong sự yếu đuối của con”(x.2Cor 12,9).

  Ta vui mừng chấp nhận con người mình yếu đuối, không phải cứ để ta mãi như vậy mà là để ta cố gắng nhờ ơn Chúa và cố gắng với Chúa. Càng ý thức con người của ta yếu đuối bao nhiêu thì ta càng phải cầu nguyện và càng cần đến ơn Chúa bấy nhiêu. Ai không cầu nguyện thì người đó không cần đến ơn Chúa và Chúa giúp. Ai không cần đến Chúa là người kiêu ngạo, là con cái của ma quỉ. Quả thật, ta mà không cầu nguyện thì ta không có ơn Chúa, ta sẽ không nên thánh nên thiện được đâu.

  Vậy bước đầu tiên là ta phải chấp nhận con người yếu đuối của mình, vì đó là thân phận của một con người. Sau đó là vui mừng vì những yếu đuối đó, vì ta có cơ hội ăn năn sám hối và ta hãy siêng năng cầu nguyện. Để với ơn Chúa và sức mạnh Chúa ban, ta sẽ làm cho con người của ta nên mạnh mẽ, nên thánh nên thiện. Đúng như lời xác tín của thánh Phao-lô: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”. Ta cũng hãy nhớ và xác tín lời này cho chính ta nữa.

Về mục lục

.

PHẢI TRÁNH ÓC THÀNH KIẾN ĐỂ ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG : Mc 6,1-6

(1) Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. (2) Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. (4) Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. (5) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ vì họ không tin.

  1. Ý CHÍNH : Sau một thời gian đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đã về thăm quê hương là làng Na-da-rét. Dân làng ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan và thán phục trước các phép lạ Người làm ở khắp nơi. Nhưng họ lại đặt nghi vấn về thân thế dòng dõi của Người và không tin Người có thể là Đấng Thiên Sai. vì họ cứng lòng tin nên Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại đó.
  2. CHÚ THÍCH :

-C 1-2 : + Đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo : Đức Giê-su trở về quê hương Na-da-rét của Người (x. Mt 2,23). Làng này không mấy nổi danh, như ông Na-tha-na-en đã nhận xét : “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ?” (x. Ga 1,46). Đức Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng để thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời ở đó nữa. + Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường : Tại các hội đường Do Thái, dân làng có thói quen tập trung vào ngày Sa-bát để nghe các kinh sư đọc và giải thích Kinh Thánh. Trong các buổi cầu nguyện này, người ta cũng thường hay mời các kinh sư hay các bậc vị vọng đến giảng dạy. Đức Giê-su đã nổi tiếng khắp nơi nên cũng được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc nhiên về giáo lý của Người, nhất là khi nghe biết các phép lạ Người đã từng làm tại thành Ca-phác-na-um gần đó.

-C 3 : + Là bác thợ : Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà Đức Giê-su đã học nơi cha nuôi là Giô-xép. + Con bà Ma-ri-a : Họ không nhắc đến Giô-xép (hay Giu-se), có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu, mà chỉ nhắc đến bà Ma-ri-a là một phụ nữ bình thường. + Anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ? : Anh chị em được nêu tên ở đây chứng minh gia thế Đức Giê-su không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, có người lại dựa vào câu này để phủ nhận đức đồng trinh trọn đời của Đức Ma-ri-a, vì theo họ: ngoài Đức Giê-su ra, bà còn sinh thêm nhiều con trai con gái khác. Thực ra, anh chị em nói đây chỉ là anh chị em bà con mà thôi (x. St 13,8; 14,16). Chẳng hạn: Gia-cô-bê và Giô-xép là con của bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giu-đa là con của ông Gia-cô-bê (x. Lc 6,16). Ngay từ ban đầu, Giáo Hội Công giáo luôn khẳng định: Đức Giê-su là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7) và  “Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a. Cũng vì thế mà khi sắp tắt thở trên thập giá Đức Giê-su đã trối Mẹ Người cho môn đệ Gio-an, và từ giờ đó Gio-an đã đón bà về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19,27). Cuối cùng, nếu những người này thực là con của Đức Ma-ri-a, thì dân làng đã phải nói là “các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì nói từ chung chung “anh em ông” và “chị em ông”. + Và họ vấp ngã vì Người : Theo Thánh Phao-lô và thánh Phê-rô thì: Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng tin, thì Đức Giê-su đã trở nên viên đá chướng ngại (x Rm 9,33; 1 Pr 2,7-8). Tin Mừng Lu-ca cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức Giê-su, đã trở nên “viên đá góc”. Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Lc 20,18).

-C 4-6 : + “Ngôn sứ có bị rẻ rúng…” : Câu này tương tự như câu : “Bụt nhà không thiêng !”. Dân làng Na-da-rét đã vấp ngã trước những yếu tố nhân loại của Đức Giê-su như : Làm nghề thợ mộc là nghề tay chân hèn kém. Các thân nhân của Người cũng chỉ là người bình dân… Đó là các chướng ngại khiến dân làng Na-da-rét không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. + Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó : Trước khi làm một phép lạ nào, Đức Giê-su luôn đòi người ta phải có đức tin. Chẳng hạn: Người bảo bệnh nhân: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34); Người nói với ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), hay nói với người mù ở Giê-ri-cô: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” (Mc 10,52). Tại làng Na-da-rét, vì không tin, nên dân làng đã không được Đức Giê-su ban ơn là đã không làm các phép lạ như ở những nơi khác.

4.CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su về thăm quê hương Na-da-rét nhằm mục đích gì ? 2) Dân làng tập trung tại hội đường vào các ngày Sa-bát để làm gì ? 3) Dân làng Na-da-rét đánh giá thế nào về Đức Giê-su sau khi nghe Người giảng dạy ? 4) Dân làng có thành kiến thế nào về nghề thợ mộc và về các thân nhân tầm thường của Đức Giê-su ? 5) Phải chăng Đức Ma-ri-a đã không trọn đời đồng trinh, vì ngòai Đức Giê-su, Tin Mừng hôm nay còn kể ra tên nhiều anh em và chị em khác của Người ? 6) Dân làng Na-da-rét đã dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ? 7) Tại sao Đức Giê-su không làm nhiều phép lạ tại Na-da-rét quê hương Người ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao ?” (Mc 6,3).
  2. CÂU CHUYỆN :

1) CẦN LOẠI BỎ ÓC THÀNH KIẾN VỀ NGƯỜI KHÁC:

Vào năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, giới truyền thông báo chí đã mô tả cái chết của ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ được một nền văn học uyên thâm và đã để lại nhiều công trình lớn lao cho Hội Thánh.

Cơ Mật Viện đã bầu Tân Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Vị Giáo Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng bên ngoài mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo nhau: Đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy lại có sức thu hút mọi người. Nhất là ngài đã có công triệu tập Cộng đồng Vatican II và ngài đã trở thành một “siêu sao” thời đại, trổi vượt hơn các vị giáo hoàng tiền nhiệm.

Câu chuyên trên cho thấy: Chúng ta đừng đánh giá tha nhân theo thành kiến, như dân làng Na-da-rét xưa đã đánh giá Đức Giê-su: “Na-da-rét nào có cái chi hay!”. Thế mà Đức Giê-su làng Na-da-rét ấy lại chính là Đấng Thiên Sai muôn dân trông đợi.

2) BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG:

TA-GO-RE (1861-1941), một đại thi hào của Ấn Độ, đã đoạt giải No-bel về văn chương năm 1913 Ông có tài làm thơ ngay từ thuở niên thiếu. Khi ấy thỉnh thoảng Ta-go-re đã làm được một bài thơ và gửi về tòa soạn một tờ báo do thân phụ ông phụ trách biên tập. Khi thấy bài thơ gửi đến có ký tên tác giả là con của mình, ông bố chẳng thèm đọc một dòng mà quẳng ngay vào sọt rác, vì ông cho rằng con ông chỉ là một đứa trẻ thì biết gì về thi ca !

Khi hiểu rõ lý do tại sao bài mình gửi lại không được đăng lên báo, Ta-go-re liền chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi về tòa soạn trước đó, nhưng lần này cậu đã lấy một bút hiệu khác rồi gửi trở lại toà soạn. Lần nầy, thân phụ của Ta-go-re đọc và nhận thấy đây là những bài thơ rất có giá trị, nên ông đã cho đăng ngay lên báo mà không biết đó là những bài thơ của cậu con trai mà trước đó ông đã nhiều lần quẳng vào sọt rác.

Đúng như người ta thường nói : “Bụt nhà không thiêng”, hay như lời Chúa Giê-su : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4).

3) TAI HẠI CỦA ÓC THÀNH KIẾN:

Có một gánh xiếc đi lưu diễn tới vùng quê và đóng trại tại một khu rừng gần một ngôi làng. Vào một buổi tối trước giờ gánh xiếc trình diễn, bỗng một ngọn lửa bùng lên tại một chiếc lều chứa trang cụ của gánh xiếc. Ông giám đốc vừa chỉ huy việc dập lửa vừa sai một anh hề, lúc đó mới hóa trang chuẩn bị cho buổi trình diễn, đi vào làng gần bên để yêu cầu được giúp đỡ dập lửa. Vì nếu ngọn lửa cháy lan qua khu rừng thì ngôi làng cũng có nguy cơ bị hỏa hoạn.

Anh hề vội vã chạy nhanh vào làng. Anh đánh kẻng báo động yêu cầu dân làng mau đến rạp xiếc giúp dập lửa. Nhưng dân làng lại nghĩ đó là một cách quảng cáo lôi kéo người đến xem xiếc. Anh càng cố làm nói cho họ biết thực sự có hỏa hoạn, thì họ lại càng cười và cho là anh khéo diễn trò. Sau cùng lửa đã cháy lan nhanh đến ngôi làng và thiêu rụi tất cả.

Lý do chính mà dân làng không tin lời cảnh báo là do họ nghĩ người đưa tin chỉ là một anh hề có nhiêm vụ chọc cười của gánh xiếc, khiến họ không cần biết sự thật anh hề muốn nói. Cũng có một sự tương đồng giữa câu chuyện nói trên với câu chuyện Đức Giêsu về thăm làng quê Na-da-rét trong Tin Mừng. Dân làng tuy thán phục lời giảng của Đức Giê-su, nhưng lại không tin Người là Đấng Thiên Sai, vì tưởng đã biết rõ về gia thế bình thường của Người.

4) CHINH PHỤC LÒNG NGƯỜI BẰNG LÒNG BÁC ÁI    

Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng bên Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là TA-BAN đã bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong linh mục. Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ vụ linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như lời cha thuật lại: “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.

Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các linh mục thừa sai người da trắng đến chăm sóc và đã chia sẻ cho họ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên ngài không có gì phân phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ thánh lễ theo đường hướng công đồng Va-ti-can II. Giáo dân xầm xì với nhau: “Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng la tinh. Chắc ông ta không rành tiếng la tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là linh mục thật hay giả?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị và những lời dè bỉu khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.

  1. THẢO LUẬN : Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta cần ứng xử thế nào trước thái độ khinh thường hay những lời khích bác của những kẻ ác cảm với đạo Công giáo?
  2. SUY NIỆM :

1)”Ông ta không phải là bác thợ sao?”:

Đức Giê-su chỉ là bác thợ mộc trong làng, sống bằng đôi tay lao động vất vả giống như bao người khác. Rồi bà Ma-ri-a mẹ Người và các anh chị em của Người cũng là những láng giềng thân quen của dân làng. Những điều này đã khiến dân làng vấp phạm, không tin Đức Giê-su là một Ngôn Sứ, lại càng không tin Người là Đấng Thiên Sai. Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) rất thù ghét đạo, đã có lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giê-su Đấng sáng lập đạo của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bé, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế !”

Chúng ta thường nghĩ rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nhưng Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su là Con Thiên Chúa lại phải chịu bó tay trước sự cứng lòng của con người. Con người có thể dùng sự tự do Chúa ban để từ chối ơn cứu độ của Chúa, như dân làng Na-da-rét xưa do thành kiến đã không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và không thèm đón nhận ơn cứu độ do Người mang lại.

2) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó (Mc 6,5):

Phép lạ là món quà đặc biệt Chúa ban cho loài người, nhưng người ta chỉ có thể đón nhận được phép lạ khi có đức tin. Biết bao điều lạ lùng Thiên Chúa muốn thực hiện cho loài người nhưng họ đã từ chối, giống như các chủ quán ở Be-lem năm xưa đã xua đuổi Đấng Cứu Thế giáng sinh ra khỏi nhà trọ của họ như Tin Mừng đã ghi nhận: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Thực vậy: Đức Giê-su đến mặc khải Thiên Chúa là Cha yêu thương và Người là Con Thiên Chúa thì dân Do thái đã kết án Người là kẻ phạm thượng, là kẻ bị quỷ ám và điên khùng. Người đến đem bình an, chân lý và thiết lập Nước Trời thì lại bị họ tố là xách động quần chúng và kẻ cầm đầu bọn phản loạn. Cuối cùng, các đầu mục dân Do thái đã ra tay bắt bớ và lên án tử hình cho Người, rồi họ còn làm áp lực đòi Tổng Trấn Phi-la-tô phải kết án tử hình thập giá cho Người.

Ngoài thành kiến thì sự cứng lòng là nguyên nhân khiến người ta cố chấp không muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn tin… như Tin Mừng nói về sự cứng lòng tin của dân Do thái: “Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13,13-15).

3) Và họ vấp ngã vì Người:

Vì các người đồng hương biết rõ về gia cảnh của Đức Giê-su: Người chỉ là con bác thợ mộc Giu-se và mẹ và anh em bà con của Người cũng đang chung sống giữa họ. Do đầu óc thủ cựu đầy thành kiến nên họ đã không nhận ra Thiên tính nơi Đức Giê-su, dù họ có thán phục về tài ăn nói lưu loát và về sự hiểu biết Kinh Thánh của Người. Một số người trong bọn họ cũng đã được chứng kiến nhiều phép lạ Đức Giê-su đã làm ở thành Ca-phác-na-um và các nơi khác để cứu chữa nhiều bệnh nhân, xua trừ quỷ ám, phục sinh kẻ chết… Nhưng do kiêu ngạo và cố chấp, dân làng Na-da-rét đã không tin Đức Giê-su la Đấng Thiên Sai. Theo họ Đấng Thiên Sai không thể có lối sống nghèo khó giản dị, không thể có cha mẹ nghèo hèn như Đức Giê-su, nên họ đã không tin Người. Chính thành kiến đã là một trở ngại cho cuộc tiếp xúc giữa Đức Giêsu và người đồng hương. Theo họ thì Đấng Thiên Sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạ, tài ba, một vị tướng lãnh cầm quân đánh giặc bách chiến bách thắng, hầu đưa dân tộc Do Thái lên làm bá chủ hoàn cầu. Khi nhận ra Đức Giêsu không thích hợp với với quan niệm của họ về Đấng Thiên Sai như vậy, thì họ đã không chấp nhận Người.

4) “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”:

Tiên tri hay ngôn sứ là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài cho họ. Kết quả là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2,5). Thậm chí, lắm khi họ còn đe dọa mạng sống của các ngôn sứ, nhất là khi các ông tuyên sấm cáo trách tội lỗi của tầng lớp vua quan. Thánh Kinh đã ghi lại lời ngôn sứ Na-than tố cáo tội ngoại tình, giết chồng, cướp vợ của vua Đavít; hay ngôn sứ Elia, dám nói thẳng với vua A-kháp việc ông vua này đã giết và chiếm đoạt tài sản của Na-bót cách bất công… Kết quả là các ngôn sứ đã bị người đời hận thù giết hại. Hôm nay chính Đức Giê-su cũng bị các người đồng hương Na-da-rét chối bỏ vai trò của Người, nên Người đã phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dù bị khinh thường, nhưng Đức Giê-su vẫn luôn chu toàn sứ vụ như Tin Mừng thuật lại: “Người đã đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Rồi Người đi sang các làng khác mà rao giảng Tin Mừng.

Để có đức tin, chúng ta phải biết mở rộng tâm hồn và phải tránh thái độ thành kiến, thói xấu ganh tị là nguyên nhân cản lối Chúa đi vào nhà linh hồn của ta. Nếu để thành kiến và thói ganh tị lấn lướt, chúng ta sẽ khó lòng nhìn thấy các ưu điểm và khả năng của tha nhân. Nếu ta chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh mà xét đoán hoặc đánh giá một người là chúng ta đã để cho thành kiến điều khiển ta. Thực ra, giá trị của lời nói hay việc làm của một người không tuỳ thuộc vào họ có bằng cấp cao, có sự nghiệp lớn, có gia cảnh giàu có. Nếu ta mới chỉ nghe một vài lời nói không hay, hoặc nhìn thấy một vài khuyết điểm của một người để vội đánh giá không tốt về họ, thì đó chẳng phải là ta đã tỏ ra hẹp hòi và xét đoán hồ đồ sao? Trong đạo, nếu ta chỉ nghe vị chủ tế giảng không lọt tai, mà ta đã vội đánh giá vị đó không tốt và bỏ đến nhà thờ, thì chẳng phải là ta đã có lối ứng xử đầy tà tâm và thành kiến đó sao?

5.LỜI CẦU :

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa vốn là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chịu thất bại trước sự cứng lòng tin của những người đồng hương Na-da-rét. Nhiều lần chúng con cũng phải bị thất bại khi bị anh em lương dân từ chối không tin và có khi còn thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên đường rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn Chúa vì biết rằng: “Thất bại là mẹ thành công”, để noi gương Chúa khi xưa cũng đã từng chịu thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương. Khi ấy Chúa đã không nản lòng thối lui, mà kiên trì đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang” theo ý Chúa Cha, sẵn sàng chấp nhận chịu chết và sống lại, hầu ban ơn cứu độ cho loài người chúng con.

HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

SUY NIỆM VÀ CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV năm B này nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các nhà truyền giáo gặp phải, đặc biệt khi loan báo sứ điệp Thiên Chúa cho những người đồng hương của mình.

Ed 2: 2-5

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhận được sứ điệp phải loan báo cho những người đồng hương của ông một sứ điệp cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Vì thế, ông gặp biết bao khốn khổ trước những đồng hương lòng chai dạ đá này.

2Cr 12: 7-10

Thánh Phao-lô hãnh diện về những đặc sủng mà mình đã lãnh nhận, nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn trong suốt sứ vụ truyền giáo của mình: thử thách cá nhân (“như một cái dầm đâm vào thân xác”) và những bách hại, chống đối, nhục mạ, vân vân.

Mc 6: 1-6

Trở về Na-da-rét, Đức Giê-su rao giảng cho những người đồng hương của Ngài, nhưng gặp phải thái độ vô tri và ngờ vực của họ.

BÀI ĐỌC I (Ed 2: 2-5)

Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã là tư tế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đồng thời cũng lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ. Đây là trường hợp đặc biệt.

Ê-dê-ki-en đã sống trong một thời đại bi thảm: đế quốc Ba-by-lon đã chinh phục xứ Pa-lét-tin, triệt hạ thành đô Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ và vương quốc Giu-đa. Dân chúng bị đưa đi lưu đày và sống ở đất khách quê người trong cảnh nghèo khổ. Họ đã trải qua từ những nghi lễ huy hoàng ở Đền Thờ đến một tôn giáo trơ trụi, nội tâm. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là làm cho những kẻ lưu đày hiểu ý nghĩa của sự thử thách mà họ đang phải chịu để họ thay đổi “trái tim bằng đá thành trái tim bằng thịt”.

Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là bài trình thuật về ơn gọi của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Bài trình thuật này nêu bật quyền năng bất khả kháng của tiếng gọi Thiên Chúa và con người cảm thấy mình hư vô và nhỏ bé trước sự siêu việt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài trình thuật này cũng làm cho hiểu rằng dù chỉ là một phàm nhân nhưng ngôn sứ trở nên vĩ đại biết bao dưới tác động của Thiên Chúa.

  1. Thần Khí nhập vào tôi

Đối với Cựu Ước, Thần Khí chưa là một ngôi vị phân biệt với Đức Chúa, nhưng một sự thôi thúc đến từ Thiên Chúa, “hơi thở của Ngài”.

Thần Khí nhập vào ngôn sứ và làm cho vị ngôn sứ đứng dậy, nghĩa là, nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, con người chỉ là thụ tạo yếu đuối và nghiêng ngửa; nhưng khi được Thiên Chúa nắm bắt, vị ngôn sứ là một con người đứng thẳng, kiên cường trong sứ mạng của mình.

  1. “Hỡi con người”

Diễn ngữ: “con người” viết thường, được dịch theo sát từ là “con cái loài người”. Đây là một đặc ngữ Do thái, có nghĩa “một con người”, “một phàm nhân” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Nhưng trong sách Ê-dê-ki-en, đặc ngữ này xuất hiện nhiều lần và có nhiều sắc thái ngữ nghĩa.

Ở nơi này, đặc ngữ này bày tỏ rằng ngôn sứ xem mình như một một con người bình thường như bao nhiêu người khác, không có bất kỳ một đặc quyền nào, thậm chí cho dù ông là một phát ngôn viên của Thiên Chúa đi nữa: đặc ngữ này bày tỏ mối liên hệ của vị ngôn sứ với đồng bào của ông, vì ông không khác với họ về mọi phương diện, ngay cả ông đã được Thiên Chúa ủy thác sứ điệp của Ngài đi nữa. Đúng hơn ông thấy mình đơn giản như một thành viên của cộng đồng Ít-ra-en mà Thiên Chúa đang ngỏ lời qua ông.

Ở nơi khác, đặc ngữ này chỉ ra rằng khi so sánh với Đức Chúa, Thiên Chúa quyền năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, ông chỉ là một con người, một thụ tạo yếu đuối thấp hèn: sứ điệp mà ông truyền đạt có khoảng cách khôn sánh giữa Thiên Chúa và con người.

Chính luôn luôn dưới danh xưng này: “Hỡi con người, hãy đứng cho thẳng Ta sắp phán với ngươi” mà vị ngôn sứ được Thiên Chúa chỉ định là người truyền đạt sứ điệp cao vời của Ngài. Một cách nào đó, Thiên Chúa đòi hỏi nơi vị ngôn sứ đức tính khiêm hạ của một kẻ vô danh, như thử Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng càng cao trọng bao nhiêu thì thừa tác vụ của người ấy càng phải khiêm tốn và nhỏ bé bấy nhiêu.

Đặc ngữ này sẽ mặc lấy một ý nghĩa khác trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13), ở đó “Con Người” viết hoa là một nhân vật có nguồn gốc thần linh. Trong các sách Tin Mừng Chúa Giê-su áp dụng cho mình đặc ngữ này cả theo truyền thống Ê-dê-ki-en để nhấn mạnh nhân tính tròn đầy của Ngài như khi Ngài tiên báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài lần thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ vào Ngài, họ sẽ đánh đòn Ngài và giết chết Ngài” (Mc 10: 33-34), lẫn truyền thống Đa-ni-en để nhấn mạnh nguồn gốc thần linh của Ngài, như khi Ngài công bố trước phiên tòa của Thượng Hội Đồng Do thái: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62).

  1. Một dân phản loạn

Lời của Đức Chúa thật là cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Đây sẽ là ngôn từ của Ê-dê-ki-en, một trong những ngôn từ nghiêm khắc nhất chưa bao giờ được viết ra để kết án tội lỗi của dân Ít-ra-en. Vị ngôn sứ không khoan nhượng một chút nào. Theo ông, dân Chúa chọn đã chẳng bao giờ thật sự trung thành với Thiên Chúa của mình. Vị ngôn sứ lên án tội lỗi của vua chúa, quần thần, tư tế và toàn dân. Ông loan báo cơn giận khủng khiếp của Thiên Chúa bằng những từ ngữ rắn rỏi. Từ cảnh lưu đày của mình, ông thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem hoang tàn đổ nát: “Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình” (33: 2). “Kẻ canh gác” là một trong những hình dung từ để chỉ ngôn sứ.

Những biến cố của 587 trước Công Nguyên sẽ sớm chứng tỏ cho dân phản loạn này rằng “có một ngôn sứ ở giữa họ”. Tinh thần của Ê-dê-ki-en ảnh hưởng rất sâu xa sau cái chết bất ngờ của ông ở giữa cảnh lưu đày vào năm 571 trước Công Nguyên.

BÀI ĐỌC II (2Cr 12: 7-10)

Trong vô vàn những khó khăn nảy sinh giữa vị tông đồ và các tín hữu Cô-rin-tô, đáng kể là những lời chỉ trích phê bình về sứ vụ tông đồ của thánh nhân đến từ “các Tông Đồ siêu đẳng” (11: 5), “những kẻ đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô” (11: 13), những kẻ sửa sai giáo huấn của thánh nhân và vu khống hoạt động của thánh nhân là “sống theo tính xác thịt” (10: 2).

Để lấy lại niềm tin tưởng của các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô buộc phải tự biện hộ cho chính mình. Thánh nhân trình bày những đau khổ mà mình phải chịu và những đặc sủng mà mình đã đón nhận (thị kiến, xuất thần, “được nghe những lời khôn tả mà không được phép nói lại”: 12: 4).

  1. “Cái dằm đâm vào thân xác”

Thánh nhân không muốn để cho mình bị mắc vào thói tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được này, vì thế, “thân xác tôi như đã bị một cái dầm đâm vào”.

Các nhà chú giải luôn luôn tự hỏi qua lời này thánh nhân muốn nói điều gì. Họ đã so sánh bản văn này với một đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát: “Anh em biết: nhân khi thân xác tôi đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. Mặc dầu thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 4: 13-14) khi nghĩ đến một khuyết tật bẩm sinh nào đó. Khoa ảnh tượng xưa trình bày thánh nhân lúc thì với đôi mắt lồi, lúc thì với đôi mắt lé. Người ta cũng đã gợi lên những xao xuyến tâm lý, như nỗi buồn phiền của thánh nhân vì đã không hoán cải được những người Do thái, đồng bào của thánh nhân, “anh em trong xác thịt của ngài”.

  1. “Đã ba lần, tôi xin Chúa…”

Con số “ba” xem ra chỉ cường độ lời cầu nguyện của thánh nhân; cũng như Đức Giê-su ở trong vườn Ô-liu đã cầu nguyện ba lần. Thánh nhân đã luôn luôn cầu nguyện với Thiên Chúa. Thánh nhân không cầu nguyện với Đức Ki-tô, nhưng luôn luôn cầu nguyện với Chúa Cha mà ngài gọi ở đây là Chúa, tước hiệu mà thánh nhân thích gán cho “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” hơn.

  1. “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”

Chúng ta nhận ra rất rõ văn phong của thánh Phao-lô ở nơi biện chứng mạnh mẽ-yếu đuối này. Càng xóa nhòa công sức của kẻ làm việc cho Thiên Chúa bao nhiêu, thì càng bày tỏ quyền năng Thần Khí ở nơi mình bấy nhiêu. Hễ có dịp là thánh Phao-lô lập lại tư tưởng này.

Lời kết của thánh nhân vừa khái quát vừa ám chỉ đến những xúc phạm và những xao xuyến mà các tín hữu Cô-rin-tô đã bắt ngài phải chịu: “Vì vậy, tôi cảm thấy sung sướng, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. Thánh Phao-lô cho họ hiểu rằng cách hành xử của họ sẽ không làm thay đổi thái độ của ngài là luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa.

Chương 12 này, mà chúng ta chỉ đọc một đoạn trích, là một chứng liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu biết thánh Phao-lô. Không có những lời thú nhận nồng nàn này, chúng ta chỉ có một cái nhìn đại thể phiếm diện về những thử thách mà thánh nhân đã kinh qua và những kinh nghiệm thần bí mà thánh nhân đã trải nghiệm. Tâm tính bốc lửa của thánh nhân được bày tỏ ở đây rõ hơn nơi nào khác – một sự hòa hợp đáng ngạc nhiên ở nơi con người của thánh nhân giữa tính tự phụ, đức khiêm hạ và niềm tin kiên vững vào Đức Ki tô.

TIN MỪNG (Mc 6: 1-6)

Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su có dịp trở lại nơi sinh trưởng của Ngài kể từ khi Ngài thi hành sứ mạng công khai của mình. Làm thế nào Ngài có thể bỏ quên những người mà Ngài đã chia sẻ cuộc sống trong nhiều năm mà không mang Tin Mừng đến cho họ được chứ?

Chắc chắn Ngài không mong chờ họ sẽ hồ hỡi đón tiếp Ngài. Mới đây thân nhân của Ngài từ làng Na-da-rét đến thành Ca-phác-na-um toan tính bắt Ngài về, vì cho rằng Ngài mất trí. Đức Giê-su đã không bận lòng đến cách hành xử của họ; Ngài cũng đã ám chỉ một sự đoạn tuyệt: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3: 35).

Quả thật, chuyến viếng thăm Na-da-rét của Ngài kết cục là một sự thất bại. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật biến cố này, bài tường thuật của Lu-ca cung cấp nhiều tình tiết nhất (Lc 4: 16-30).

  1. Thân thế và nghề nghiệp

Đến ngày sa-bát, Đức Giê-su vào giảng dạy trong hội đường”. Đây là phương thức rao giảng của Ngài. Ngài đã làm như vậy ngay từ đầu sứ vụ công khai của Ngài trong hội đường Ca-phác-na-um (Mc 1: 21). Đây cũng là phương thức mà thánh Phao-lô sẽ chọn trong các cuộc hành trình truyền giáo của thánh nhân. Phương thức này thành công đến mức các văn sĩ Do thái ghi nhận rằng không có các hội đường, Ki-tô giáo sẽ không tràn lan…

Chúng ta biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ quy tụ ở đây để cầu nguyện, công bố và giải thích Kinh Thánh, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát.

Trong hội đường, vào ngày sa-bát người ta sẽ mời một người trong số những người tham dự công bố và giải thích Lời Chúa. Vào ngày sa-bát này, trong hội đường Na-da-rét nơi mà Đức Giê-su đã thường năng lui tới trước đây khi sống ở giữa họ, Ngài là người được chọn để công bố và giải thích Kinh Thánh. Thánh Lu-ca xác định bản văn mà Ngài công bố và giải thích là bản văn I-sai-a (Lc 4: 17-19).

Giáo huấn của Ngài làm mọi người kinh ngạc: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Người ta khâm phục tư tưởng của Ngài và ngưỡng mộ những phép lạ mà Ngài đã thực hiện ở những nơi khác. Nhưng rồi người ta xúc phạm Ngài khi nghĩ đến thân thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng này ai mà không biết gia thế của Ngài: bạn bè, họ hàng, bà con thân thích của Ngài hiện đang sinh sống ở giữa họ. Đức Giê-su đã là một con trẻ sinh ra và lớn lên trong làng này, mẹ Ngài là bà Ma-ri-a đang sống giữa họ. Còn về nghề nghiệp, Ngài đã là một anh thợ mộc trong làng. Làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẽo vân vân, lại có thể thực hiện những phép lạ được? Vì thế, từ ngạc nhiên đến thán phục, họ bổng trở nên bày tỏ thù địch công khai với Ngài.

  1. Con bà Ma-ri-a

Thánh Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, ông Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng ông Giu-se đã qua đời? Lý do này chưa đủ, vì để xác minh căn tính của một người, biểu thức quen thuộc là phải trích dẫn tên cả cha lẫn mẹ, cho dù nếu một trong hai người, hay thậm chí cả hai đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô soạn cuốn Tin Mừng này, Giáo Hội tiên khởi đã tin rằng Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35). Vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, ông Giu-se, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.

  1. Anh em của Ngài

Những “anh em” này là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (tiếng Hy bá không có từ ngữ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” được dùng để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa bác hay chú và cháu (St 13: 8), hoặc anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (Lv 10: 4; 1Sb 23: 21).

Chúng ta biết hai trong số “anh em” này của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau này lãnh tụ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem và ông Giô-xê mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 25).

  1. Giá trị lịch sử của câu chuyện

Gia thế và nghề nghiệp của Ngài đã là “chướng ngại làm cho họ không tin vào Ngài”. Phản ứng của những người đồng hương, về phương diện nhân loại chúng ta có thể hiểu được, dâng hiến cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Ngoại trừ giai thoại về việc Đức Giê-su lúc lên mười hai tuổi ở giữa các tiến sĩ Luật trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, phản ứng của dân làng Na-da-rét này là sự kiện duy nhất soi sáng cho chúng ta cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như cuộc đời của bao nhiêu người đồng hương Na-da-rét khác. Không ai có thể nghi ngờ căn tính đích thật của Ngài khi đang sống ở giữa họ: với đôi tay thợ mộc và sức lao động của mình, Ngài đã nuôi sống bản thân và gia đình của mình; không có bất kỳ một hành động phi thường nào. Phản ứng của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.

  1. Câu trả lời của Chúa Giê-su

Trước thái độ từ chối của họ, Đức Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”. Câu thành ngữ này đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài Đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng còn biết bao nhiêu ngôn sứ khác có thể được nhắc đến. Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven bắt bớ phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, vì thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành sứ điệp chỉ trong vòng các môn đệ thân tính của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị nhục mạ, bị bách hại, vân vân.

Dân Na-da-rét từ chối những dấu chỉ của Nước Trời. Đức Giê-su không thể làm bất kỳ phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không nơi nào nêu rõ mối liên hệ hỗ tương giữa đức tin và phép lạ cho bằng bài trình thuật này.

Với bài trình thuật này, thánh Mác-cô hoàn tất giai đoạn thứ hai sách Tin Mừng của mình (3: 7-6: 6). Giai đoạn này đã nêu bật nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay bà con họ hàng của Ngài, đều tự đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”.

Về mục lục

.

BIẾT VÀ KHÔNG

Lm. Jos. DĐH.

Xem mặt bắt hình dong, hoặc con lợn có béo thì lòng mới ngon, 2 câu thành ngữ rất đáng để chúng ta cẩn thận hơn về cách suy xét của mình, con người thời nào cũng giới hạn, dễ gục ngã bởi dáng vẻ bề ngoài hình thức. Bằng mắt giác quan, người ta có thể phân biệt đâu là xinh đẹp, là tài giỏi đức độ ; trải qua những kinh nghiệm thực tế “ở lâu mới biết lòng người”, nhưng “bí ẩn” đâu là người tốt, thế nào là người xấu, liệu có ai đủ thông thái mà lý giải ! Cuộc sống vô cùng phức tạp đến độ có người sánh ví: giữa cái có và cái không nơi người phụ nữ chỉ vừa lọt cho một sợi tóc ; như thể gianh giới giữa được và mất, vui và buồn, sai lạc và chính xác, bao giờ cũng mong manh, lý lẽ thuyết phục nhất vẫn là “hãy đợi đấy”.

Có thể nhiều lần chúng ta đã nghe các đấng bậc phán: không biết thì dựa cột mà nghe, nhưng vì nhiệt tâm nhiệt tình, hay do muốn thoả mãn vốn kiến thức của mình, người ta thật khó ngoan hiền, khi phải khoanh tay mà thực hiện “y lệnh”. Tại hội đường Na-gia-rét năm xưa, người ta thích thú vì tai được nghe giáo lý của Đức Giêsu, vì mắt được nhìn xem diện mạo xinh đẹp con bác thợ mộc, nhưng rồi tính kiêu căng đã cản trở việc nhận biết Một Thiên Chúa đang ở giữa họ. Tại bầu khí hiệp nhất cầu nguyện của chúng ta lúc này thì sao, tai mắt và tâm trí chúng ta có thực sự muốn nghe, muốn đón nhận giáo huấn của Đấng là Thầy là Chúa đang hiện diện không ? Tính khiêm tốn và lòng ngạo mạn đối nghịch nhau, tuy nhiên đó cũng là cơ hội, lưu ý từng người chúng ta sẽ nói biết hoặc không về Đấng đã đến, và đang đến cứu độ trần gian.

Người xưa nói: trăm nghe không bằng một thấy, câu thành ngữ lại một lần nữa nhắc nhớ đến khả năng, kỹ thuật tai mắt chúng ta đang sử dụng ra sao, vì thời gian vẫn đang tỉ lệ thuận với chọn lựa, nhằm giúp chúng ta nói biết hoặc nói không về tình yêu Đức Kitô. Người hôm xưa vừa được nghe, vừa được thấy Đức Giêsu, họ thán phục bởi lời hay ý đẹp đụng chạm đến việc “tin không” hoặc “không tin” Con bác thợ mộc có phải là Đấng họ trông chờ ? Cái biết tự nhiên phá hỏng cái biết siêu nhiên, chắc không phải do đấng bậc sinh thành không giáo dục tốt, đúng hơn là tính tự mãn che khuất người ta không thể và không biết mình được yêu thương. Người Do-thái năm xưa họ không mù không điếc, cũng chẳng câm, nhưng lời nói, việc làm đầy ganh tỵ, ích kỷ, dẫn tới sai lạc, và họ không thể ngờ, họ có vinh dự là người đồng hương với Ngôi Hai Thiên Chúa.

Người chẳng có khả năng thiên phú, người không được ở trong hoàn cảnh gia đình trên thuận dưới hoà, họ vẫn đủ nhận ra: kẻ mang kính đen, họ sẽ nhìn mọi vật mầu tối, người ốm đau, ăn cao lương mỹ vị cũng chẳng ngon, kẻ kiêu căng, họ nhìn ai cũng là kẻ tầm thường. Đức Giêsu trở về quê hương, Ngài vẫn mang đủ phẩm chất là Con Thiên Chúa hằng sống, đang chia sẻ sứ mạng yêu thương cho mọi người. Ngài nói to cho những ai tai không thính, Ngài uy nghi trước những phần tử mắt thể lý yếu kém. Nhưng biết và không biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ, hệ tại người ta có để phép lạ tình yêu thương biến đổi tâm tính tội lỗi của họ không ? Phản ứng loại trừ và chối bỏ Đức Giêsu, là từ chối bỏ một truyền thống đức tin tiền nhân để lại, cám dỗ ấy sẽ mãi mãi là cám dỗ người ta ù lỳ, ích kỷ: không nghe, không thấy, để không biết.

Người thời nay rất tự hào về khả năng thưởng thức âm nhạc, tự tin với số kiến thức dồi dào đang giúp họ mở được các loại ổ khoá hạnh phúc ở đời này, đúng, sai, biết và không, thời gian sẽ trả lời. Khinh người có tật, trọng người có tài, chúng ta dư biết đó chưa thể gọi là tài giỏi ; khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ, kiêu căng một chút cũng là thừa, biết mình biết ta mới là điều cần cho mọi tương quan. Kinh nghiệm ở đời cho thấy: xem mặt bốc thuốc, thuộc về chuyên môn của ngành đông y ; nói ít hiểu nhiều, thuộc về tính cách của đôi trai tài gái sắc đang yêu ; nhìn, nghe, thấy và hiểu, phải là những người khôn ngoan, biết sử dụng những điều kiện sẵn có của mình.

Chúa Giêsu luôn thao thức con người mọi thời, dù ở hoàn cảnh nào cũng đủ nghe, đủ thấy, và đủ hiểu phép lạ tình yêu thương đang xảy ra hàng ngày xung quanh mình. Dù con người tội lỗi, bất toàn, Chúa Giêsu vẫn coi chúng ta là người đồng hương, là người nhà của Thiên Chúa, là đối tượng được yêu thương, cứu độ. Amen.

Về mục lục

.