CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM B

460

 CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Ed 2, 2-5; 2Cr 12, 7-10; Mc 6, 1-6

 

Mục lục

1. Ơn gọi ngôn sứ (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên Gp. Hải Phòng)

2. Đừng để lỡ cơ hội (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Người Việt hay chê (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Bỏ lỡ cơ hội  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

5. Họ vấp ngã vì Người (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

6. Phong cách thản nhiên (Trầm Thiên Thu)

7. Chúa Nhật 14 Thường Niên_B (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

8. Ta có thái độ nào với Chúa Giêsu và Tin mừng của Ngài (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

9. Đức Giêsu bị đồng hương từ chối không tin (Lm. Đan Vinh)

10. Thiên Chúa luôn làm việc (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

11. Dán nhãn (Huệ Minh)

12. Bởi đâu ông ta được như thế? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

13. Không làm được phép lạ (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

 

 

ƠN GỌI NGÔN SỨ

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Kinh Thánh Cựu ước kể với chúng ta, trong lịch sử Cứu độ, đã có những vị ngôn sứ can đảm phi thường, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm. Họ truyền đạt thánh ý của Chúa cho dân Israen, và cho cả các bậc vua chúa. Lời truyền đạt của họ vừa mang nội dung khích lệ an ủi, nhưng cũng có khi là những lời lên án, trách móc, đe dọa tai ương sắp xảy đến. Bài đọc I nhắc tới Ngôn sứ Êdêkien, một trong bốn ngôn sứ lớn của Cựu ước (Edêkien, Elia, Giêrêmia và Isaia). Êdêkien thi hành sứ mạng trong một bối cảnh chính trị phức tạp của thời lưu đày. Mặc cho những chống đối đe dọa, ông vẫn luôn trung thành với Chúa. Ông không nhằm lấy lòng người đời bằng những lời ngon ngọt, nhưng truyền đạt lời của Chúa một cách can đảm phi thường.
 
Cũng như các ngôn sứ nói chung, Êdêkien đã đóng vai trò quan trọng trong việc uốn nắn sửa dạy dân Israen ở một giai đoạn lịch sử, nhờ đó, dân biết sám hối, từ bỏ đường tội lỗi và tuân giữ những thánh chỉ của Chúa.
 
Vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong lịch sử là Đức Giêsu thành Nagiarét. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai có sứ mạng cứu nhân độ thế. Lời nói và việc làm của Người đã chứng tỏ quyền năng thiên linh, đồng thời nhằm đem cho con người sự giải thoát. Khi nghe lời Chúa giảng dạy, những người nghe đã thốt lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” ( Lc 7, 16). Lời Người giảng dạy vừa có uy quyền vừa có sức thu hút lạ kỳ. Hễ người đi đến đâu, dân chúng đi theo rất đông để đón nhận Lời Hằng Sống. Trước uy quyền của Người, những kẻ thù ghét Người cũng phải chùn bước.
 
Nếu có nhiều người đón nhận giáo huấn của vị ngôn sứ thành Nagiarét, thì cũng  có những người khước từ và mưu mô chống đối. Đó là trường hợp những người đồng hương của Chúa Giêsu. Thánh Máccô trong Tin Mừng hôm nay kể lại một chuyến về thăm quê của Người. Người thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, khi vào Hội đường để đọc và chú giải Sách Thánh. Đây là một sinh hoạt hàng tuần của các cộng đoàn Do Thái. Rất nhiều người ngạc nhiên vì lời giảng dạy của Chúa sâu sắc và khôn ngoan. Tuy vậy, cũng có những người dè bỉu chế nhạo. Khi không bắt bẻ được Người trong lời giảng dạy, họ bàn tán chê bai về gia đình và thân thế của Người. Họ lôi nghề nghiệp thợ mộc của cha Người để soi mói và nhằm giảm uy thế của Người. Họ chỉ đánh giá Người theo cái nhìn ghen tỵ và thành kiến. “Ngôn sứ bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình…”, Chúa Giêsu đã nhắc lại một câu ngạn ngữ thường được sử dụng trong giới bình dân, để chỉ sự cứng lòng của họ.
 
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được trao ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Ngôn có nghĩa là lời; Sứ có nghĩa là được sai đi. Ngôn sứ tức là người được sai đi để nói Lời của Chúa. Nhiệm vụ này, không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì “Trung ngôn nghịch nhĩ – Lời nói thẳng thì khó nghe”. Để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, có những lúc người tín hữu giống như người bơi ngược dòng. Trong khi nhiều người dễ dàng chấp nhận sự dối trá, thỏa hiệp để được lợi lộc danh vọng, thì người Kitô hữu phải cân nhắc kỹ càng để không phạm Luật Chúa và không làm trái với lương tâm. Lịch sử ghi lại rất nhiều tín hữu đã chọn con đường thập giá của Chúa Giêsu để làm chứng cho sự thật. Các thánh tử đạo là những ví dụ điển hình và là gương mẫu cho chúng ta về lòng trung thành với Chúa, noi gương Chúa Giêsu.
 
Qua chức năng ngôn sứ, mỗi chúng ta đều được sai đi để giới thiệu Chúa cho mọi người. Dù ở bậc nào, ai cũng có thể thực hiện được chức năng này, miễn là có thành tâm thiện chí. Được thúc đẩy và soi sáng bởi Đức tin, người được sai đi loan báo Lời Chúa không còn lo sợ. Thánh Phaolô, vị chiến sĩ Đức tin và là Tông đồ dân ngoại, đã cảm nhận được niềm vui khi chịu thử thách trăm chiều. Ngài vui sướng khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Chính lúc ấy, Ngài lại được thêm sức mạnh thần linh Chúa ban (Bài đọc II).  
Không ai chúng ta viện cớ mình kém cỏi để từ chối nhiệm vụ ngôn sứ. Một nụ cười, một lời nói động viên, một cử chỉ thân thiện… dù rất đơn sơ, nhưng nếu được thực hiện với lòng yêu mến, chúng trở nên những món quà ý nghĩa. Món quà quan trọng và ý nghĩa nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho mọi người, đó là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và đang ở giữa chúng ta.
“Thiên Chúa sai mỗi người đến thế gian với một sứ điệp để loan báo, với một bài ca đặc biệt để hát lên, với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng  (John Powell).

Về mục lục

 

ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Kính thưa anh chị em!

Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.

Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.

Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.

Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?

3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

Về mục lục

 

 

NGƯỜI VIỆT HAY CHÊ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người Việt có thói xấu là hay chê. Đây là lối ứng xử đáng trách của người Việt. Dường như thói hay chê đã trở thành một văn hóa xấu của người Việt Nam. Văn hóa chê đã ăn sâu vào trong ý thức của người Việt. Thấy là chê. Chê cho thích. Chê cho bõ ghét. Lý do hay chê là vì không muốn ai hơn mình, nên khi thấy ai làm được gì là chê. Nhất là những người cùng cơ quan, cùng đoàn thể dù họ có thiện chí mấy cũng bị chê. Phải chăng “Bụt nhà không thiêng” hay người Việt “xấu xí”, nhiễm văn hóa chê bai, định kiến, thích “dìm hàng”?

Có một em học sinh khi nhận được giấy khen vì có thành tích học tập xuất sắc. Em vui mừng “up” lên facebook nhưng ngay sau đó, em bị một số bạn nhảy vào bình luận không tiếc lời: “vậy mà giỏi gì”, “âu cũng là do hên” …

Cô hoa hậu Kỳ Duyên do ngủ say mà có tư thế ngủ không mấy đẹp, cũng bị chê. Mặc dầu chẳng ai ngủ mà có thể khẳng định được mình luôn giữ tư thế đẹp!
Có một bạn trẻ còn tâm sự: “Mình đi thi và đạt giải nhất cuộc thi Tiếng hát học sinh – sinh viên. Khả năng ca hát của mình được hội đồng giám khảo có uy tín khẳng định.
 Tuy nhiên,  mình vừa bước từ trên sân khấu xuống đã có ý kiến bảo “hay cái quái gì mà hay. Chẳng qua đẹp trai nên lấy được cảm tình của ban giám khảo. Những lời lẽ như thế làm mình buồn lắm”.
 Lý giải về thói xấu “thích vạch lá tìm sâu” của người Việt, các chuyên gia cho rằng, đây là một hiện tượng có thật trong đời sống. Văn hóa chê là biến tướng của sự đố kỵ, ganh ghét, ích kỷ… Không hài lòng bất kỳ điều gì, không muốn thừa nhận ai, không muốn ai hơn mình, mà chỉ thích phê phán, phê không được thì tìm cách “dìm”, thể hiện “cái tôi” hẹp hòi, thiển cận.
Xem ra Chúa Giê-su cũng không qua được những thị phi của người đời. Ngài cũng bị chê, bị trách, bị dìm. . . Ngài cũng bị người đồng hương xem thường. Nhưng Chúa chẳng quan tâm. Ngài vẫn tiếp tục sống cho sứ vụ của mình. Ngài vẫn làm công việc của mình. Ngài không để cho tiếng khen lời chê làm ảnh hưởng tới công việc của mình. Ngài luôn làm việc vì Chúa Cha và vì lợi ích các linh hồn. Cho dù những tiếng thị phi người đời muốn cản trở công việc, nhưng không vì thế mà Ngài bỏ cuộc hay lẩn tránh. Ngài vẫn sống phục vụ cho dù phải trả giá bằng đớn đau cực hình do người đồng hương ganh ghét gây nên.
Xem ra Chúa Giê-su cũng là một nạn nhân của văn hóa hay chê. Vì ganh ghét, vì thiếu khiêm tốn mà người đồng hương đã loại trừ người công chính. Sự kiêu căng đã khiến họ không thể đón nhận tin mừng mà Chúa Giê-su loan báo.
Cuộc sống sẽ hay hơn nếu chúng ta khiêm tốn chấp nhận cái hơn của người khác. Cuộc đời sẽ không có những thị phi nếu chúng ta không đánh hội đồng anh em bằng sự a dua nói hành, nói xấu, bỏ vạ cáo gian nhau. Thiết nghĩ trong mỗi cá nhân chúng ta, cũng nên “uốn lưỡi” nhiều lần trước khi mở miệng chê điều gì, chê ai…?
Văn hóa chê sẽ làm cho xã hội kém phát triển vì mất tính sáng tạo, làm nhụt khí của người làm việc. Văn hóa khen mới làm cho xã hội thăng tiến, mới khích lệ nhau sáng tạo không ngừng để xây dựng xã hội ngày một giầu đẹp hơn.
Xin cho chúng ta biết học nơi Chúa luôn khiêm tốn trong cuộc sống, biết đón nhận mọi lời khen chê, không phải để tự cao hay tự ty mặc cảm mà để sống tốt hơn. Và xin cho chúng ta đừng vì cái tôi của mình mà nói xấu, bỏ vạ, cáo gian hại người, nhưng luôn nghĩ tốt và sống tốt với mọi người. Amen.

Về mục lục

 

 

BỎ LỠ CƠ HỘI

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của Nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì ?”.

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ấy bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài ? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế ? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh?”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm, Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng ngàn bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…

Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.

Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi.

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi người ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Nỗi lòng của người đi xa khi về lại quê hương, gặp lại người thân quen, bạn bè hay bà con làng xóm, ai cũng muốn mình được đón tiếp thân thiện, tay bắt mặt mừng, hỏi han thân mật. Khi trở về Nagiarét, Đức Giêsu cũng muốn vậy, nhưng Ngài đã bị từ chối. Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, phiền nhưng không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội ngàn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.

Về mục lục

 

 

HỌ VẤP NGÃ VÌ NGƯỜI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB

Thật dễ hiểu, đối với dân làng Na-da-rét vốn tò mò, vấn đề được họ quan tâm hơn hết nơi ông Giê-su mới nổi danh trở về thăm quê quán chính là xác định được quyền năng thần linh ông có được từ đâu mà đến; “Bởi đâu ông ta được như thế?”. Cụ thể, trước mặt họ là ông Giê-su trăm phần quá quen thuộc, một đồng hương từng chia sẻ với họ cuộc sống thường nhật; “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Giu-đa và Si-mon sao?” Ông Giê-su này thì họ đã quá nhẵn mặt qua những gì là tầm thường, là đời thường, là cơm áo gạo tiền. Điều mà họ không quen hoặc khó chấp nhận chính là quyền năng ‘đột xuất’ của bác thợ mộc trẻ Giê-su. Tác giả Mác-cô cho chúng ta thấy họ khó thoát ra khỏi lối suy nghĩ cố chấp này biết bao, ông này có gì mà làm nên chuyện? Đức Giê-su nhận ra ngay họ bị thái độ rẻ rúng ngăn cản để không thể chấp nhận Người, ngay cả khi Người xuất hiện trịnh trọng, đứng trước mặt họ trên bục sách trong hội đường. Tình trạng này được tác giả sách Tin Mừng gọi là bị ‘vấp ngã’, ‘họ vấp ngã vì Người’.

Đối với các tín hữu thời các tông đồ, vấn đề nặng nề nhất lại là cái chết tức tưởi và khổ nhục của thầy Giê-su trên cây thập tự; “Chúng tôi rao giảng một Đấng Ki-tô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là điên rồ” (1 Cr 1:23). Dầu có quen thuộc phần nào với cuộc sống trần gian của Ráp-bi Giê-su, các tông đồ vẫn thâm tín, qua các phép lạ Thầy thực hiện, rằng quyền năng Thiên Chúa hằng ngự nơi Thầy. Chính vì thế mà, đối với các ông, cái chết thập giá Thầy chịu là điều không thể chấp nhận được (xem Lc 24:19-24). Sau này, việc Thầy chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng Thiên Chúa đã là cả một cái phao cứu sinh giúp họ vượt qua được cái ‘vấp ngã’ ê chề của thập giá. Chính vì thế mà niềm tin phục sinh đối với cộng đoàn Ki-tô tiên khởi là vấn đề hệ trọng bậc nhất; ‘Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng’ (1 Cr 15:14).

Còn đối với chúng ta, các tín hữu của thế kỷ XX – XXI này, cái ‘vấp ngã’ trong niềm tin có thể là gì đây? Đời thường của Đức Giê-su, đối với chúng ta, không phải là nỗi ám ảnh, vì chúng ta có bao giờ được nếm cái cảm nghiệm một ông Giê-su quá gần gũi, quá cụ thể đó đâu. Cảm nhận cái chết khổ nhục của Người trên thập giá như một nỗi thất vọng ê chề, chúng ta cũng không có nốt, vì đã biết và tin rằng Người sống lại vinh hiển từ cõi chết. Ngược hẳn với các bậc tiền bối, chúng ta sẽ rất lấy làm vinh hạnh nếu được biết đôi chút về đời thường của Đức Giê-su tại Na-da-rét, và chúng ta thậm chí còn thấy hãnh diện về cuộc tử nạn của Người (phải chăng đó là lý do người ta dựng, và ùn ùn kéo nhau đi xem cuốn phim ‘The Passion of Christ’). Tuy nhiên tôi trộm nghĩ, điều mà ngày nay đã trở thành quen thuộc đối với niềm tin của chúng ta, có lẽ quá quen thuộc nữa là đàng khác, lại chính là thần tính của Đức Giê-su và quyền năng siêu phàm của Người. Mỗi khi nói về Đức Giê-su Ki-tô là tâm trí chúng ta lại hình dung ra một vị Thánh Tử, phục sinh khải hoàn vinh quang, sẽ uy nghi ngự đến để công thẳng phán xét kẻ sống và kẻ chết, và vương quốc Ngài sẽ uy hùng bất tận. Không như các đồng hương Na-da-rét, ngày nay chúng ta chắc chắn không hề rẻ rúng Ngài, rất kính sợ nữa là đàng khác. Không như các môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta không hề hoảng sợ về thập giá, ngược lại còn rất hãnh diện nữa là đàng khác. Thế thì – tôi xin phép được lặp lại vấn nạn – cái ‘vấp ngã’ trong niềm tin hôm nay thực chất có thể là điều gì? Thưa – tôi lại xin mạn phép được tự trả lời – có thể là lòng nhân từ thương xót, quá nhân từ xót thương của Người có thể làm cho chúng ta bị vấp phạm chăng?

Kể từ thời Thánh Phan-xi-cô Sa-lê (cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII) cho tới Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II (cuối thế kỷ XX tới đầu thế kỷ XXI), sự hiểu biết về Đức Giê-su Ki-tô như hiện thân và mạc khải tình yêu nhân hậu và xót thương của Thiên Chúa đã tiến triển chậm chạp đến thế nào trong Giáo Hội. Như một quan niệm, người ta đã thấy nó khó được chấp nhận như thế nào; còn việc tiếp nhận điều này như nền tảng của đức tin Công Giáo thì còn trì trệ hơn nữa nhiều, nhất là đối với số đông các chư vị trong các cấp phẩm trật. Phải chăng Đức Giê-su lại phải lên tiếng một lần nữa trong trường hợp này: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng (bị hiểu lầm) thì cũng chính… giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”? Do đó, tôi thật sự cầu mong cho Hội Thánh, được mệnh danh là một tổ chức mang mục đích rao giảng Tin Mừng tình thương, sẽ sớm là nơi mà sự nhận thức về tình yêu thương xót của Thiên Chúa hoàn toàn thống trị trong mọi lãnh vực…, và trong đó mọi cơ cấu luật lệ đều diễn đạt lòng nhân ái thần linh này mà thôi!

Riêng với chính mình, vì thuộc hàng linh mục – phẩm trật của Giáo Hội, tôi thấy mình có một phần lỗi trước tình trạng này. Tôi đã khám phá ra, và loan truyền lòng thương xót Chúa quá ít và quá trễ chăng?

Lạy Chúa Giê-su, xin trở lại viếng thăm Hội Thánh Chúa, không phải với quyền phép hay dấu lạ, nhưng với mạc khải nhân từ và xót thương vô biên. Sau nhiều thế kỷ lạ lẫm hoặc có phần sợ hãi, giờ đây xin thức tỉnh Hội Thánh Chúa, nhất là các vị trong phẩm trật, được thâm tín hơn về Tin Mừng nhân ái và yêu thương, nhờ đó Hội Thánh sẽ rao giảng cho người tội lỗi sứ điệp cao đẹp nhất mà họ hằng mong mỏi được nghe, đó là “Chúa Cha yêu mến trần gian tới nỗi…” A-men.

Về mục lục

 

 

PHONG CÁCH THẢN NHIÊN

Trầm Thiên Thu

Động thái thản nhiên là một phong cách sống độc đáo – dễ mà khó. Người thản nhiên là người bình tĩnh, điềm đạm, điềm nhiên, có thể làm chủ mọi tình huống và chính mình. Họ là người “tự động” và “chủ động”, chứ không “bị động” hoặc “thụ động”. Phong cách “cứ là chính mình” không phải ai cũng làm được – tức là không xu nịnh, không tâng bốc bất cứ ai, nhưng không đè bẹp ai. Phong cách đó được người xưa gọi là “cái dũng của thánh nhân”.

Người có phong cách thản nhiên không vui quá, cũng không buồn quá. Tuy nhiên, họ thường “bị kết án oan sai” vì người ta không đủ hiểu họ nên cho rằng họ “lạnh như tiền”, khinh người, tự kiêu,…

Cuộc sống luôn mang tính thực tế, thế nhưng lại có những dạng “thực tế buồn”. Một người bình thường, không thấy có gì nổi trội, nhất là khi người đó xuất thân từ một gia đình không uy tín, không danh giá, cha mẹ nghèo, ít học,… thế mà bỗng nhiên làm được điều “khác người”. Tuy nhiên, dù họ có làm được việc gì “hơn người” thì cũng chẳng ai tin. Xã hội là thế. Xưa nay vẫn thế. Đó là một dạng “hàm oan”, một trong các dạng thực-tế-buồn thường thấy nhất. Nhưng kinh nghiệm cho thấy một triết-lý-sống thú vị: Chỉ có người giỏi mới nhìn thấy cái giỏi của người khác, và công nhận cái giỏi của họ. Người giỏi luôn thản nhiên.

Chính Chúa Giêsu muốn làm tốt mà vẫn bị người ta ghen ghét, Ngài cũng đành “bó tay” khi về quê hương, và Ngài đã phải lắc đầu mà thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4; Mt 13:57; Lc 4:24). Con người là thế, họ muốn thách thức với ngụ ý như câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình!” (Lc 4:23). Con gà tức nhau tiếng gáy. Những người ghét mình, chẳng ai đâu xa lạ, họ chính là những người thân quen nhất. Một sự thật quá phũ phàng và đáng buồn biết bao!

Đời là thế! Chúa Giêsu còn phải “lắc đầu” thì phàm nhân chẳng còn cách nào khác. Đúng là “miệng nam-mô, bụng một bồ dao găm”, chẳng sai chút nào. Mà kể cũng lạ, không làm được thì thôi, người khác làm được thì họ lại ghét, họ kèn cựa đủ cách, gièm pha đủ điều, trù dập tới cùng. Nhóm Pha-ri-sêu, nhóm Sa-đốc, các kinh sư, các nhà thông luật, các tư tế,… là loại “siêu nhân” như vậy, và đã bị Chúa Giêsu nhiều lần thẳng thắn nguyền rủa là “đồ khốn”, vì loại người “mỏ nhọn” (nhỏ mọn) như vậy là hèn hạ!

Thấy mình bị đối xử như vậy, những người “yếu bóng vía” sẽ sợ, có thể “vào hùa” với họ để được “bình an”. Muốn duy trì phong cách thản nhiên cần có sự can đảm, vì có can đảm mới khả dĩ hành động. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en bộc bạch: “Một thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng. Người phán với tôi: Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay” (Ed 2:2-3). Đến ăn nói với dân ngang ngược như vậy, chắc chắn ngôn sứ Ê-dê-ki-en phải can đảm lắm. Lòng can đảm đó chính là ơn Chúa.

Họ là “dân anh chị”, là “đại ca” thứ thiệt chứ không phải là dân vừa: “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này’. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” (Ed 2:4-5). Thiên Chúa có phong cách độc đáo là “tùy hỷ”, nghe hay không nghe là tùy ý, không ép.

Những người sống thẳng thắn thì thường thua thiệt, bị ghen ghét. Là con người, họ cũng buồn lắm, nhưng họ không thể “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”. Và họ chỉ còn biết tâm sự nỗi lòng với Đấng mà họ luôn tôn thờ và tín thác: “Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, Đấng đang ngự trên trời. Quả thực như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt con cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa của con, tới khi Người xót thương chút phận” (Tv 123:1-2).

Cầu đêm, nguyện ngày, miệt mài kết hiệp với Thiên Chúa ở mọi nơi, mọi lúc, dù họ làm bất cứ việc gì. Nỗi buồn trĩu nặng tâm can, nhưng lời cầu xin của họ như không được đáp lại. Chắc chắn không phải Thiên Chúa lãng tai hoặc làm ngơ, mà Ngài muốn chính họ xác nhận niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Dù nhiều khi thất vọng nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn một lòng tín nguyện: “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương, bởi con bị khinh miệt ê chề; hồn thật quá ê chề vì hứng chịu lời nhạo báng của phường tự mãn, giọng khinh người của bọn kiêu căng” (Tv 123:3-4). Tất nhiên Thiên Chúa sẽ “ra tay” đúng thời, đúng lúc, không sớm mà cũng chẳng muộn. Ngài không thể lặng nhìn tôi tớ ngài sa cơ thất thế, gặp nguy hiểm, phải chịu oan uổng quá sức: “Ngài có đó khi ta tưởng cô đơn, Ngài nghe ta khi chẳng ai đáp lại, Ngài thương ta khi tất cả hững hờ” (Thánh Augustinô).

Hiểu biết nhiều giúp tăng thêm tự tin. Tự tin là đức tính cần thiết để sống thản nhiên, nhưng tự tin thái quá có thể dẫn tới kiêu ngạo. Rất lô-gích! Thánh Phaolô tâm sự: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12:7-8a). Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này” (2 Cr 12:7-8). Ai cũng sợ đau khổ, cả thể lý lẫn tinh thần. Thánh Phaolô cũng “nổi da gà” khi đối mặt với đau khổ, ông năn nỉ Chúa cứu thoát, thế nhưng Chúa vẫn tỏ ra như “vô tâm”, và rồi Ngài quả quyết: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:7-8b). Nhiệm mầu quá, lạy Chúa tôi!

Được lời như cởi tấm lòng. Thế thì chẳng còn gì phải lo nữa. Thánh Phaolô phấn khởi chia sẻ: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:9-10). Thế cờ hoàn toàn đảo ngược. Nhược điểm (điểm yếu) trở thành yếu điểm (điểm mạnh), sở đoản trở nên sở trường. Kỳ diệu vô cùng, phàm nhân không thể tưởng tượng nổi!

Thiên Chúa luôn như vậy. Ngài chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chịu nghèo khó để chúng ta được giàu có, Ngài chịu nhục nhã để chúng ta được rạng rỡ, Ngài chịu yếu đuối để chúng ta được mạnh mẽ, Ngài chịu chê bai để chúng ta được khen ngợi, Ngài chịu bị loại bỏ để chúng ta được đón nhận,… và cuối cùng, Ngài chịu chết một lần để chúng ta được sống mãi.

Cái gì đến sẽ đến. Đời là thế! Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về thăm cha mẹ và xóm làng, cũng có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ bàn tán với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6:2). Lý do rất đơn giản và hiển nhiên: Đức Giêsu làm nghề mộc, là con của bác thợ mộc Giuse, con của Cô Maria, anh em họ với Giacôbê, Giôết, Giuđa và Simôn, chị em của Ngài là bà con lối xóm với họ (Mc 6:3). Hoàn toàn bình thường, chẳng có gì nổi trội. Họ đã vấp ngã vì Ngài với lý do quá đỗi bình thường. Có lẽ người ta không đủ hiểu để phân biệt sự khác nhau giữa điều bình thường và điều tầm thường. Điều bình thường nhưng chưa chắc là điều tầm thường, thậm chí có khi lại là điều phi thường.

Đời là thế! Và Đức Giêsu đưa ra một kết luận tất yếu: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Đáng sợ thật, nhưng một khi xác nhận và biết rõ như vậy rồi thì lại không đáng sợ nữa!

Thánh sử Mác-cô cho biết rằng, hôm đó Chúa Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, mà chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ (Mc 6:5), thậm chí chính Ngài cũng lấy làm lạ vì họ không tin (Mc 6:6). Lạ thật!

Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn thản nhiên, không xốn xang, không nao núng. Khi người ta không thích mình thì “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, cứ thản nhiên và im lặng. Ai muốn nói gì thì nói, mình cứ là chính mình!

Lạy Chúa, xin trao ban cho con tặng phẩm là ơn khôn ngoan và hiểu biết, con không dám xin gì khác, nhờ đó con có thể hiểu biết thông thạo những gì cần thiết với một trái tim đầy ắp tình yêu thương và lòng thương xót như Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ con. Amen.

Về mục lục

 

 

CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Trong Kinh thánh Cựu ước, một số ngôn sứ nói tiên tri về những gì có thể xảy ra trong tương lai, nhưng hầu hết sứ vụ của họ là nói lời Chúa, kêu gọi và khuyên bảo dân chúng ăn năn thống hối, tránh xa cuộc sống tội lỗi, dạy bảo họ sống tốt lành và ngay thẳng, và nhắc nhở họ sống như Chúa dạy. Sự cố gắng thi hành sứ vụ do Chúa sai bảo của các ngôn sứ không luôn được dân chúng tôn trọng và chấp nhận. Ngôn sứ Ê-zê-ki-a, sống vào khoảng 600 năm trước Chúa Ki-tô, đã cảnh báo dân chúng về những sự điêu tàn và kinh khủng sẽ xảy đến với họ nếu họ không thay đổi cuộc sống. Chúng ta nghe trong bài đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa thận trọng nhắc nhở Ê-zê-ki-a vai trò ngôn sứ không phải dễ dàng. Và bài đọc 1 cũng chuẩn bị cho chúng ta nghe bài Tin mừng đề cập đến Chúa Giê-su, không những là một ngôn sứ cao cả nhất trong các ngôn sứ mà còn là Đấng Cứu Thế, được Thiên Chúa sai đến trần gian, đã bị dân làng, vì thành kiến, có thái độ khinh thường và tẩy chay Chúa khi Người trở về giảng dạy ở quê hương, xóm làng.

Cách đây không lâu có một nhà triệu phú tên là Bernard Madoff đã bị tống giam vào tù vì đã gian lận hàng tỉ đô la của nhiều người. Điều làm cho nhiều người ngạc nhiên là câu nói của người vợ sau khi ông này bị kết án, bà tuyên bố: “Người đàn ông phạm tội gian lận không phải là người đàn ông mà tôi đã sống chung với bao nhiêu năm qua.” Qua câu tuyên bố này, bà nhận không biết rõ người chồng đã nhiều năm chung sống với bà. Thật vậy, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta nghĩ và cho rằng chúng ta biết rõ người nào đó, nhưng thật sự ra chúng ta không biết. Có nhiều cặp vợ chồng tuy đã sống chung với nhau bao nhiêu năm và có nhiều con, nhưng cũng chưa có thể biết nhau rõ.

Trong trường hợp của Chúa Giê-su, những người trong làng xóm nghĩ rằng họ biết rõ về Người. Đối với họ, Chúa chỉ là một người sinh ra và lớn lên trong xóm làng như họ. Họ biết mẹ Người là bà Maria đơn sơ, bình dân và nghèo nàn, và ông Giuse một người thợ mộc, và như thế, Chúa không thuộc về dòng dõi thượng phẩm, linh mục, hay có sự học vấn cao siêu ở Giêrusalem như những người biệt phái hay kinh sư. Có lẽ chỉ có một số ít người cảm phục vì đã nghe đồn về những lời giảng dạy và phép lạ Người đã làm ở nơi khác, nhưng hầu hết mọi người không tin Người có cái gì đặc biệt. Cho nên họ thắc mắc: Ông là ai vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?   Từ những thắc mắc, họ có thái độ khinh thường, không tin và tẩy chay Chúa.

Thánh Mác-cô cho chúng ta biết Người không làm được gì nhiều để giúp họ, và bài Tin mừng xác định rằng: “Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân.” Đây là một câu Kinh thánh rất mạnh mẽ và quan trọng mà chúng ta chỉ tìm thấy trong Tin mừng thánh Mác-cô. Chúng ta ghi nhận sứ điệp lời Chúa ở đây thật rõ ràng: thiếu lòng tin thật sự ngăn cản Chúa giúp chúng ta như Chúa mong muốn.

Ông bà anh chị em thân mến. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta nhiều bài học quí giá thực tế cho đời sống Ki-tô hữu, nhưng tôi chỉ muốn chú ý đến 2 bài học quan trọng. Bài học thứ nhất là thành kiến.  Như chúng ta biết thành kiến là một sự in sẵn trong tâm trí một quan niệm, một lối suy nghĩ, hay một đường lối cố định. Những người có thành kiến suy đoán người hay sự kiện theo những quan niệm có sẵn, in trong đầu óc. Thành kiến đã làm cho dân làng Na-da-rét không nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, và tiếp nhận những ơn sủng của Người. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta trở thành mù quáng, không nhận định và phán đoán một cách khách quan, chính xác và đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại cởi mở với người khác, và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người khác, nhiều khi, vì thiển cận và sai lầm, chúng ta nói hành, nói xấu, vu oan, giá hoạ cho người khác, phạm tội mất đức công bằng và bác ái, và “giết người.” Chúng ta nghe Chúa Giê-su đã nhiều lần khiển trách người Pharisêu, biệt phái và kinh sư về thành kiến của họ.

Bài học thứ hai là chúng ta đừng bao giờ tự phụ là đã biết rõ Chúa. Chúng ta đi nhà thờ, đọc kinh, nghe Tin mừng, tuyên xưng đức tin, có một số vốn giáo lý từ thuở nhỏ, và tham dự tĩnh tâm, rồi chúng ta tự xưng đã biết rõ Chúa. Các thánh, nhất là các thánh có đời sống thánh thiện và mật thiết với Chúa, nhắc nhở chúng ta rằng tất cả những gì chúng ta biết Chúa chỉ là sự bắt đầu mà thôi. Vì vậy, mọi ngày và từng giây phút trong đời sống, chúng ta phải có tấm lòng khao khát muốn biết rõ hơn Chúa Giê-su là ai. Vậy chúng ta phải làm sao để xây dựng thêm trên sự hiểu biết Chúa ngày hôm của chúng ta? Thưa bằng bốn điều quan trọng và thiết yếu liên tục và hỗ trợ với nhau sau đây. Điều quan trọng thứ nhất là cầu nguyện; thứ hai là năng chịu các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể; thứ ba là khiêm nhường hy sinh phục vụ; và thứ bốn là có tấm lòng bác ái quảng đại chân thật. Chúng ta cần bốn điều trên đây liên tục hỗ trợ cho nhau. Chỉ có một điều trong bốn điều trên thì không thể làm cho chúng ta hiểu biết Chúa rõ hơn được.

Ông bà anh chị em thân mến. Tôi cũng phải thú nhận với ông bà anh chị em, tôi cũng chưa biết Chúa rõ như lòng mong ước, nhưng tôi cố gắng và cố gắng từng ngày, và tôi cũng nhận biết tất cả ông bà anh chị em cũng đang cố gắng, đó là lý do tại sao chúng ta hiện diện trong Thánh lễ hôm nay.

Vì thành kiến và lòng tự phụ mà người dân tại làng Na-za-rét đã không nhận được những ơn sủng Chúa ban. Là những Kitô hữu có đức tin vào Chúa, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta cố gắng loại bỏ tất cả những thành kiến, vì khi chúng ta dùng thành kiến để xét đoán người khác là khi chúng ta tự hạ thấp giá trị con người của mình. Với những người chung quanh, chúng ta có được một cái nhìn đúng đắn hơn, có một nhận xét chân thành, khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn. Xin Chúa khích động chúng ta có lòng khao khát muốn biết Chúa rõ hơn, để hứng nhận những ân sủng của Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc sống chúng ta.

Về mục lục

.

TA CÓ THÁI ĐỘ NÀO VỚI CHÚA GIÊSU VÀ TIN MỪNG CỦA NGÀI

 Lm. Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc

Trong đời sống cộng đoàn có những cách ứng xử nó có thể khuyến khích một con người vươn lên, và cũng có những cách cư xử là nguyên nhân chính yếu cản trở sự phát triển và cản trở sư vươn lên của con người cả trong bình diện trí tuệ lẫn thiêng liêng, và một trong những cách cư xư ấy là thói quen xét đoán, phê bình và nó trở thành nguy hiểm khi nó mang cái nhìn chủ quan và óc thành kiến, tự mãn. Khi đã mang thành kiến xấu về một người nào hoặc một sự kiện gì, người ta thường có xu hướng không muốn chấp nhận hoặc loại trừ, hoặc dẫn đến thái độ coi thường, và khi đã tự mãn với những cái mình đang có đang suy nghĩ thì người ta không thể đón nhận được điều gì khác nữa.

Dân làng Nazaret ngày xưa họ cũng mang nặng một cái nhìn thành kiến về Chúa Giêsu, vì họ chỉ nhìn Đức Giêsu với cái nhìn Ngài là con ông Giuse và bà Maria mà thôi. Nhiều người Nazareth có lẽ cũng đã nghe và đã thấy những việc lạ lùng Chúa Giêsu đã làm tại các vùng xung quanh, đáng lẽ họ phải tự hào về một người con trong làng thành đạt nay trở về, trái lại họ tỏ ra rất dửng dưng về cuộc trở về này. Tại sao thế ? Có lẽ những người Nazareth chờ đợi một cái gì đó khác hơn, họ nghĩ rằng Chúa Giêsu phải làm cho Nazaret trở thành nổi tiếng, mọi người được giàu có mà không phải vất vả làm ăn. Họ chờ đợi Chúa Giêsu mang đến cho họ tài sản vật chất và tiếng tăm trần thế hơn là mong đợi Tin Mừng Nước Thiên Chúa.

Thánh Marcô cho thấy, Chúa Giêsu đã vào Hội Đường ngày Sabath để giảng dạy và giải thích Lời Ngôn Sứ. Những người Nazareth thấy chàng thanh niên Giêsu thông thái trổi vượt, họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài. Họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? Tại sao ông ta lại được khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ như vậy ? Đáng lẽ những câu hỏi này sẽ dẫn những người Nazaret đi tìm câu trả lời về nguồn gốc và nguyên nhân của sự khôn ngoan thông thái nơi Đức Giêsu. Nhưng rất tiếc, họ đã để cho suy nghĩ và cái nhìn tự nhiên che mắt, nên chỉ nhận ra Ngài là con bác thợ mộc trong làng. Kiểu nói đó tỏ ra kinh thường nguồn gốc của Đức Giêsu. Vì họ mang nặng thành kiến, khiến họ không thể nhận ra địa vị thần linh nơi Chúa Giêsu, và quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài, dù đã được chứng kiến hoặc đã nghe về các phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở làng xung quanh. Chính vì mang cái nhìn như thế, nó trở thành rào cản khiến những người Nazaret không thể đón nhận được lời mời gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, và cũng không biết chuẩn bị và đón nhận Nước Thiên Chúa đã đến nơi chính con người của Đức Giêsu.

Đức Giêsu khi chứng kiến cách đối xử của dân làng, Ngài lấy làm tiếc cho họ, và Ngài rút ra kết luận chung cho thân phận của các ngôn sứ : Không có ngôn sứ nào được tôn trọng nơi quê hương bản quán của mình. Thánh Marcô còn nói thêm : Ngài không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ cứng lòng tin. Đây là lý do chính yếu khiến họ từ chối Đức Giêsu.

Thái độ của người Nazaret đã phản ánh sự cứng lòng của cả dân tộc Do Thái. Trong lịch sử, họ đã nhiều lần không đón nhận các Ngôn sứ của Chúa sai đến cảnh báo và kêu gọi họ sám hối. Họ chống đối lại Thiên Chúa, như lời Chúa nói qua tiên tri Êzekien : Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với một dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại ta,… chúng là những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá. Sự ngỗ nghịch và cứng lòng này phát xuất từ sự tự mãn, vì họ cho rằng họ là con cháu ông Abraham, thì đương nhiên họ được ơn cứu độ, mà không cần phải cố gắng, và vì đã được Thiên Chúa chọn làn dân riêng thì họ từ chối tất cả những người khác dù họ là ngôn sứ hay là những người nói lời nhân danh Thiên Chúa.

Thánh Phaolô, một con người đã từng kiêu căng tự mãn về lòng nhiệt thành và về sự thông thái của mình, ông đã bị Thiên Chúa quật ngã khỏi con đường kiêu căng. Ông được Thiên Chúa rèn dũa ông bằng những thử thách để giúp ông khiêm tốn, nhận ra sự bất toàn yếu kém của mình, tin tưởng vào Thiên Chúa nhiều hơn. Ân sủng của Thiên Chúa chỉ đậu lại trên những tâm hồn khiêm nhường và quyền năng của Thiên Chúa chỉ thực hiện trên những con người thực sự nhận mình yếu đuối. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ trong Bài Đọc hai : Thiên Chúa luôn giúp ông nhận ra tình trạng yếu kém của mình, bằng cách để cho ông luôn cảm thấy yếu đuối về thể xác như bị gai đâm và yếu đuối cả về phần linh hồn như bị ma quỷ quấy nhiễu. Nhiều lúc ông muốn xin Chúa giúp ông gỡ khỏi những sự yếu đuối ấy, Thiên Chúa đã không hứa sẽ loại trừ khỏi ông sự yếu đuối và sự tấn công của ma quỷ, nhưng Ngài hứa sẽ ban ơn đủ để ông chiến đấu với nhưng thử thách.

Để nhận ra Đức Giêsu và quyền năng của Ngài, cần có một tâm hồn khiêm tốn, gỡ bỏ mọi thứ thành kiến và cái nhìn kiêu căng tự mãn, vì Thiên Chúa chống lại người kiêu căng và nâng cao kẻ khiêm nhường. Khiêm tốn để nhận ra tình trạng tội lỗi và yếu đuối của mình để xin ơn nâng đỡ và tha thứ. Khiêm tốn còn để chúng ta biết tín thác vào Chúa cách mạnh mẽ hơn, vì chỉ khi có một tâm hồn khiêm tốn chúng ta mới nhận ra rằng mọi sự chúng ta có hôm nay là do Chúa ban, và không có Chúa chúng ta không thể làm được việc gì.

Một trong tình trạng của con người ngày hôm nay đó là tính tự mãn, khi con người đang làm được những việc lớn lao, làm chủ khoa học và kỹ thuật, giải quyết được nhiều vấn đề. Con người dường như rơi vào tình trạnh tự mãn với những thành công ấy và muốn tự mình giải quyết tất cả, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới, và ra khỏi tâm hồn mình. Tình trạng này thật hết sức nguy hiểm, vì nó tự biến con người và thế giới này thành một thế giới, thành những con người trống rỗng không còn chỗ cho cho Thiên Chúa và còn là kẻ chống lại Thiên Chúa nữa.

Một khi con người tự mãn với thành công của mình, họ sẽ để cho sự kiêu căng và tiền của che mờ con mắt, khiến họ không thể cúi xuống, không thể lắng nghe và không thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em xung quanh. Nói khác đi họ sẽ để mình trở thành những con người vô cảm hoặc khinh thường, loại trừ người khác ra khỏi sự quan tâm của họ, tạo nên một thứ giai cấp đẳng cấp nào đó.

Tình trạnh thành kiến tự mãn cũng đang diễn ra nới các gia đình và xóm ngõ, khi chúng ta mang thành kiến về một người hàng xóm và gán cho họ những cái nhìn theo quan điểm của mình. Mang kiếng màu gì thì nhìn thế giới ra màu đó, có thể chúng ta cũng nhìn anh em chòm xóm của chúng ta qua cặp kiếng đen của mình như thế, nên không thấy được điều hay điều tích cực nơi anh chị em. Khi đã mang thành kiến, người ta khó có thể vui khi thấy anh em mình thành công, khó có thể có thể tha thứ và khó có thể cho anh chị em mình những cơ hội sửa chữa sai lầm.

Sự tự cao tự mãn và thành kiến cũng đang thể hiện dưới nhiều hình thức khác. Sự tự mãn của tuổi trẻ ngày nay, cho rằng mình có thể làm được tất cả mọi sự mà không cần Thiên Chúa, không cần đến cha mẹ. Họ muốn tự khẳng định mình mà không cần lắng nghe lời khuyên dạy của cha mẹ và những người có trách nhiệm. Cuộc sống đua đòi đang hình thành ở giới trẻ một nếp sống chuộng hình thức, đẳng cấp, coi mình hơn người khác. Nó thể hiện qua những thói ăn chơi được giới trẻ coi như là một mốt thời thượng, và đánh giá con người và sự việc qua thang điểm vật chất mà thôi.

Xin cho chúng ta biết khiêm tốn đón nhận Đức Giêsu và tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Ngài. Xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn khiêm tốn quảng đại mở ra với Thiên Chúa và với anh em. Amen.

Về mục lục

.

 

ĐỨC GIÊSU BỊ ĐỒNG HƯƠNG TỪ CHỐI KHÔNG TIN

Lm. Đan Vinh – HHTM

I- HỌC LỜI CHÚA

1/ TIN MỪNG : Mc 6,1-6

(1) Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. (2) Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói : “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. (4) Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. (5) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ vì họ không tin.

2/ Ý CHÍNH : Sau một thời gian đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đã về thăm quê hương là làng Na-da-rét. Dân làng ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan và thán phục trước các phép lạ Người làm ở khắp nơi. Nhưng họ lại đặt nghi vấn về thân thế dòng dõi của Người và không tin Người có thể là Đấng Thiên Sai. vì họ cứng lòng tin nên Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại đó.

3/ CHÚ THÍCH :

– C 1-2 : + Đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo: Đức Giê-su trở về quê hương Na-da-rét của Người (x. Mt 2,23). Làng này không mấy nổi danh như ông Na-tha-na-en đã nhận xét : “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ?” (x. Ga 1,46). Đức Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng để thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời ở đó nữa. + Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường : Tại các hội đường Do Thái, dân làng có thói quen tập trung vào ngày Sa-bát để nghe các kinh sư đọc và giải thích Kinh Thánh. Trong các buổi cầu nguyện này, người ta cũng thường hay mời các kinh sư hay các bậc vị vọng đến giảng dạy. Đức Giê-su đã nổi tiếng khắp nơi nên cũng được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc nhiên về giáo lý của Người, nhất là khi nghe biết các phép lạ Người đã từng làm tại thành Ca-phác-na-um.

– C 3 : + Là bác thợ : Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà Đức Giê-su đã học cha nuôi là Giô-xép. + Con bà Ma-ri-a : Họ không nhắc đến Giô-xép (hay Giu-se), có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu, mà chỉ nhắc đến bà Ma-ri-a là một phụ nữ bình thường. + Anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ? : Anh chị em được nêu tên ở đây chứng minh gia thế Đức Giê-su không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, có người lại dựa vào câu này để phủ nhận đức đồng trinh trọn đời của Đức Ma-ri-a, vì theo họ: ngoài Đức Giê-su ra, bà còn sinh thêm nhiều con trai con gái khác. Thực ra, anh chị em nói đây chỉ là anh chị em bà con mà thôi (x. St 13,8; 14,16). Chẳng hạn: Gia-cô-bê và Giô-xép là con của bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giu-đa là con của ông Gia-cô-bê (x. Lc 6,16). Ngay từ ban đầu, Giáo Hội Công giáo luôn khẳng định: Đức Giê-su là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7) và “Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a. Cũng vì thế mà khi sắp tắt thở trên thập giá Đức Giê-su đã trối Mẹ Người cho môn đệ Gio-an, và từ giờ đó Gio-an đã đón bà về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19,27). Cuối cùng, nếu những người này thực là con của Đức Ma-ri-a, thì dân làng đã phải nói là “các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì nói từ chung chung “anh em ông” và “chị em ông”. + Và họ vấp ngã vì Người : Theo Thánh Phao-lô và thánh Phê-rô thì: Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng tin, thì Đức Giê-su đã trở nên viên đá chướng ngại (x Rm 9,33; 1 Pr 2,7-8). Tin Mừng Lu-ca cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức Giê-su, đã trở nên “viên đá góc”. Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Lc 20,18).

– C 4-6 : + “Ngôn sứ có bị rẻ rúng…” : Câu này tương tự như câu : “Bụt nhà không thiêng !”. Dân làng Na-da-rét đã vấp ngã trước những yếu tố nhân loại của Đức Giê-su như : Làm nghề thợ mộc là nghề tay chân hèn kém, có những thân nhân bình thường… Đó là những chướng ngại khiến họ không tin Người thực sự là Đấng Thiên Sai. + Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó : Trước khi làm phép lạ cứu nhân độ thế, Đức Giê-su luôn đòi người ta phải có đức tin. Chẳng hạn: Người bảo bệnh nhân: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34); Người nói với ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), hay nói với người mù ở Giê-ri-cô: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” (Mc 10,52). Tại làng Na-da-rét, vì không tin, nên dân làng đã không xứng đáng được Đức Giê-su ban ơn là tại đây Người đã không làm nhiều phép lạ như ở những nơi khác.

4/ CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su về thăm quê hương Na-da-rét nhằm mục đích gì ? 2) Dân làng tập trung tại hội đường vào các ngày Sa-bát để làm gì ? 3) Dân làng Na-da-rét đánh giá thế nào về Đức Giê-su sau khi nghe Người giảng dạy ? 4) Dân làng có thành kiến thế nào về nghề thợ mộc và về thân nhân tầm thường của Đức Giê-su ? 5) Phải chăng Đức Ma-ri-a đã không trọn đời đồng trinh, vì ngòai Đức Giê-su, Tin Mừng hôm nay còn kể ra tên nhiều anh em và chị em khác của Người ? 6) Dân làng Na-da-rét đã dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ? 7) Tại sao Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại quê hương Người ?

II- SỐNG LỜI CHÚA

1/ LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao ?” (Mc 6,3).

2/ CÂU CHUYỆN

1- BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG

Trong truyện cổ Trung hoa có câu chuyện như sau: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng vẫn chăm chỉ làm lụng để kiếm tiền về phụng dưỡng tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Một hôm nghe bên đất Thục có một vị đại sư tên là Võ Tề rất nổi tiếng, Dương Phủ liền xin phép cha mẹ để đi tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, Dương Phủ gặp một lão ông quen biết. Hai người hàn huyên nói chuyện và sau khi biết Dương Phủ muốn bỏ nhà đi tu học với vị đại sư Võ Tề, lão ông liền khuyên anh như sau: “Gặp đại sư Võ Tề, chẳng bằng gặp Đức Phật”.

Dương phủ lại hỏi: “Gặp Đức Phật ở đâu?”

Lão ông bảo: Anh hãy quay về nhà. Khi thấy người nào quấn vải trên người và đi dép ngược thì đó chính là Đức Phật.

Dương phủ vâng nghe lời lão ông quay về nhà. Trên đường trở về, anh để ý tìm nhưng không gặp một ai có đặc điểm như lão ông đã chỉ. Khi về tới nhà lúc ban đêm, anh gọi cửa. Mẹ anh nghe tiếng con trai rất vui, vội quấn chiếc mền đang đắp lên người để tránh bị lạnh, xỏ chân vào đôi dép nhưng đi ngược mà bà cũng không quan tâm, rồi vội vàng chạy ra mở cửa đón con vào nhà. Bấy giờ anh nhìn kỹ, thấy mẹ anh giống như đặc điểm đức Phật mà lão ông đã nói trước là quấn khăn vải trên người và chân đi dép ngược.

Anh đã ngộ ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ và người thân ở trong cùng nhà với mình. Và anh đã yêu thương phục vụ Đức Phật là chính cha mẹ của anh như câu người xưa dạy: “Tu đâu cho bằng tu nhà; Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.

2- CHINH PHỤC LÒNG NGƯỜI BẰNG LÒNG BÁC ÁI  

Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Ta-ban đã bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong linh mục. Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ vụ linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như cha đã thuật lại: “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.

Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các linh mục thừa sai người da trắng đến chăm sóc và đã chia sẻ cho họ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên ngài chẳng có gì để phân phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ thánh lễ theo đường hướng công đồng Va-ti-can II. Giáo dân đã xầm xì với nhau: “Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng la tinh. Chắc ông ta không rành tiếng la tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là linh mục thật hay giả?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.

3/ THẢO LUẬN : Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta cần ứng xử thế nào trước thái độ nghi ngờ, khinh thường hay những lời khiếm nhã khích bác của những kẻ thù ghét chống lại Chúa Giêsu và Hội thánh?

4/ SUY NIỆM :

1- “Ông ta không phải là bác thợ sao?”

Câu chuyện về Linh mục Ta-ban giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Đức Giê-su bị dân làng cùng quê Na-da-rét không tin là Đấng Thiên Sai, dù họ có thán phục về tài giảng dạy và quyền năng chữa bệnh của Người. Sở dĩ họ không tin vì họ có thành kiến khi bị vấp phạm về gia thế hèn kém của Người: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? (x Mc 6,2-3). Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) thù ghét đạo đã có lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giê-su Đấng sáng lập đạo của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bé, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế !”

Còn chúng ta hôm nay chắc cũng không hơn gì đức tin của dân làng Na-da-rét khi xưa: Chúng ta thường nghĩ rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nhưng Tin Mừng hôm nay lại cho thấy một Đức Giê-su Con Thiên Chúa chịu bó tay trước sự cứng lòng của con người, như Tin Mừng đã ghi nhận: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ (Mc 6,5).

Từ đó cho thấy con người có thể dùng sự tự do Chúa ban để từ chối ơn cứu độ như dân làng Na-da-rét do thành kiến đã không tin và từ chối ơn cứu độ do Đức Giê-su mang lại.

2- Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó

Phép lạ là món quà đặc biệt Chúa ban cho con người, nhưng người ta chỉ có thể đón nhận được phép lạ với lòng tin. Biết bao điều lạ lùng Thiên Chúa muốn thực hiện cho loài người nhưng người đời đã từ chối, giống như các chủ quán ở Be-lem năm xưa đã xua đuổi Chúa Cứu Thế giáng sinh ra khỏi nhà trọ, như Tin Mừng Gio-an viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).

Thực vậy: Đức Giê-su đến mặc khải Thiên Chúa là Cha yêu thương và Người là Con Thiên Chúa thì họ đã kết án Người là kẻ phạm thượng, là kẻ bị quỷ ám và điên khùng. Người đến đem bình an, chân lý và thiết lập nước Trời thì bị mang tiếng là xách động quần chúng và là kẻ cầm đầu phản loạn. Cuối cùng, các đầu mục dân Do thái đã ra tay bắt bớ và kết án tử hình cho Đức Giê-su rồi còn làm áp lực đòi Tổng Trấn Phi-la-tô kết án tử hình thập giá cho Người.

Ngoài thành kiến thì sự cứng lòng là nguyên nhân khiến người ta cố chấp không muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn tin… như Tin Mừng ghi nhận: “Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành (Mt 13,13-15).

3- Và họ vấp ngã vì Người

Vì các người đồng hương quá biết rõ về dòng dõi, gia cảnh của Đức Giê-su: Người chỉ là con bác thợ mộc Giu-se và bà Maria là những người đang chung sống giữa họ. Do đầu óc thủ cựu đầy thành kiến nên họ đã không nhận ra Thiên tính nơi con người của Đức Giê-su, dù họ có thán phục về tài ăn nói lưu loát và về sự hiểu biết Kinh Thánh của Người. Một số người trong bọn họ cũng đã được chứng kiến nhiều phép lạ Đức Giê-su đã làm ở Ca-phác-na-um và các nơi khác để cứu chữa các bệnh nhân, những người bị quỷ ám, phục sinh kẻ chết… Nhưng do kiêu ngạo, cố chấp, dân làng Na-da-rét đã không tin một Đấng Cứu Thế lại có lối sống quá giản dị, xuất thân từ cha mẹ nghèo hèn như Đức Giê-su, nên họ đã có những lời nói, cử chỉ bất kính thể hiện sự không tin Người.

4- “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”

Tiên tri hay ngôn sứ là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài cho họ. Kết quả của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2:5). Thậm chí, lắm khi đe doạ họ còn đe dọa mạng sống của các ngôn sứ, nhất là khi các ông phải tuyên sấm lời Chúa cáo trách tội lỗi của các vua quan. Thánh Kinh đã ghi lại ngôn sứ Nathan dám tố cáo tội ngoại tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay tiên tri Elia, dám nói thẳng với vua Akhab việc ông vua này đã giết Nabot và chiếm đoạt tài sản của cách bất công… Kết quả là các ngôn sứ đã bị hận thù giết hại. Chính Đức Giê-su cũng đã bị các người đồng hương Na-da-rét coi thường nên Người đã phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dù bị khinh thường, nhưng Đức Giê-su vẫn thi hành sứ vụ: “Người đã đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Rồi Người đi sang các làng khác mà rao giảng Tin Mừng.

Mỗi tín hữu chúng ta khi chịu phép rửa tội cũng được tham phần vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Giê-su, nên cũng có bổn phận phải loan báo Tin Mừng, bảo vệ sự sống, bênh vực công lý nhân danh Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi người đời có sẵn sàng nghe lời chúng ta rao giảng không khi chúng ta lại có lối sống phản chứng: ăn nói gian ngoa, lọc lừa, tham lam, nghiện ngập, sống thiếu tình người… Cần phải cấp thời tu sửa đời sống trở nên tốt lành noi gương Đức Giê-su, để công việc rao giảng Tin Mừng của chúng ta mới có điều kiện đạt được kết quả tốt đẹp.

5/ LỜI CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chịu thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương và bà con họ hàng. Nhiều lần chúng con cũng đành phải chịu thất bại khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ còn thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công được người khác lắng nghe cũng như lúc bị từ chối xua đuổi. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn vì biết rằng: Thất bại là mẹ thành công. Chính Chúa xưa cũng đã từng chịu thất bại trước sự cứng tin của những đồng hương Na-da-rét. Nhưng Người không nản lòng thối lui, mà luôn trung thành đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang” của Chúa Cha, qua sự chết để sống lại hầu ban ơn cứu độ cho loài người.

X- HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ- XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

 

THIÊN CHÚA LUÔN LÀM VIỆC

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

“Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga.5, 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến cố này biến cố kia, hoặc người này người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của mỗi người để giúp con người đến gần Thiên Chúa.

  1. Vẫn có một tiên tri ở giữa họ

Tiên tri thường được nhiều người hiểu như người biết trước biến cố sẽ xảy ra. Một người như vậy, cho thấy người đó có quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa nói với dân chúng, người nói với dân chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri, là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và quan tâm đến dân Ngài.

Trong lịch sử Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc dân. Người Do Thái đã nhận ra các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên Chúa xức dầu, là những người thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là người được Thiên Chúa chọn để dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3, 9-10), Samson là thẩm phán được Thiên Chúa dùng để giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm phán được sai tới để chăn dắt dân.

Tiên tri là người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống mà nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri không muốn thi hành chức năng “nói nhân danh Thiên Chúa cho dân” vì vị tiên tri biết rằng, mình có loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng chẳng nghe; như vậy, rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét và tai họa. Về điều này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của Thiên Chúa qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn sứ của mình, cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang hiện diện giữa họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho dù họ có vâng nghe Thiên Chúa hay không.

2. Dầu vậy Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân

Đức Giêsu được dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri lớn (Mt.16, 14). Với người Do Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu qua Môsê, thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày xưa Ngài đã làm.

Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã phục sinh người chết, đã cho kể điếc được nghe người câm nói được kể què được đi. Ngài là một tiên tri, và là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiên tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong ước. Có thể đó là lý do tại sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không?” Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân khỏi ách thống trị của người Roma (Ga. 6, 15).

Không có tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta quá thành kiến về quá khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên không nhận ra sứ điệp hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu trở về làng Nadarét, dân chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù làng Nadarét là một làng nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn những người ở thành thị khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức Giêsu không thể làm những dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, “Ngài cũng đã làm một vài dấu lạ bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh tật”. Thiên Chúa vẫn luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với con người, cho dù con người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa cho con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét, nhưng còn cả đối với tất cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người của mọi thời đại sau nữa. Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở với con người.

3. Ơn Ta đủ cho con

Trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh hoàng đối với Kitô hữu. Tuy nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu chỉ của Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với Ngài. Cả cuộc đời còn lại, Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên Chúa đã làm những điều cả thể cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi”. Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn hoạt động nơi con người.

Với cá nhân Phaolô, “cái dằm” đâm vào xác thịt của Phaolô lại là điều Thiên Chúa dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm Phaolô gần gũi với Thiên Chúa. “Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con”. Thiên Chúa không cất “cái dằm” khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: “Ơn Ta đủ cho con”.

Nhiều người cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người này cũng có kinh nghiệm xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người trong họ có kinh nghiệm “cái dằm” đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu xin Chúa nhiều lần. Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng: câu Thiên Chúa nói với Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người không? “Ơn Ta đủ cho con”. Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã khởi đầu những điều kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn đang hoạt động nơi mỗi người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin tưởng và đặt tất cả hy vọng nơi Ngài mà thôi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Xin bạn kể một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động trên bạn, nếu được.
  2. Với kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa là ai?

Về mục lục

.

DÁN NHÃN

Huệ Minh

Ta bắt gặp thời niên thiếu của chủ hãng Microsoft. Bill Gates chẳng biết học hành sao đó nhưng bị rớt vài môn còn các bạn thì đậu hết. Hẳn nhiên, các bạn của Bill rất coi thường vì học lực của Bill kém đến như thế.

Chắc có lẽ những người bạn học cùng thời với Bill vui vẻ dèm pha và chỉ trích cũng như trêu chọc với cái thành tích đó. Bill Gates bộc bạch : “Tôi rớt một vài môn cuối kì còn bạn tôi đậu hết. Hiện tại anh ấy là một kĩ sư của Microsoft còn tôi là chủ của Microsoft.”

Còn với cựu tổng thống Mỹ George W.Bush chưa bao giờ được đánh giá cao ở khả năng diễn đạt trước đám đông, nhưng ông cũng kịp thời ghi dấu ấn cho bản thân khi có một bài phát biểu khá sâu sắc và ý nghĩa lúc có mặt trong ngày lễ tốt nghiệp của các sinh viên trường đại học Southern Methodist.

Ông nói: “Đối với các bạn trẻ đã tốt nghiệp trong buổi lễ chiều nay với điểm số cao cùng học lực khá giỏi, tôi có lời khen, ‘Làm tốt lắm.’

Và tôi cũng dành lời khen này cho các bạn học sinh trung bình: Các bạn nữa, cũng đều có thể trở thành tổng thống.”

Với câu nói trên, cựu tổng thống Bush đang tự châm biếm bản thân khi chính ông cũng đã từng đạt được các điểm số rất lẹt đẹt khi còn học cao đẳng. Tuy vậy, cho đến ngày hôm nay – cựu tổng thống Hoa Kỳ lại là một trong những ví dụ kinh điển nhất về việc điểm số thời đi học sẽ không quyết định tương lai sau này của bạn, cũng như là minh chứng cho một cuộc sống luôn đầy ắp những khả năng vô hạn.

Và dù có thích Bush hay không, thì bạn vẫn không thể chối cãi rằng, những gì ông nói trong bài phát biểu trên đây là hoàn toàn chính xác. Trên thực tế, còn nhiều cái tên khác trong lịch sử các tổng thống Mỹ cũng đã từng học rất tệ như John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson và cha của Bush – cựu tổng thống George H.W Bush. Bên cạnh danh sách các nhà lãnh đạo “học dở” của cường quốc số một thế giới này, chúng ta còn có thể kể đến những doanh nhân thành công; những con người đã không để dư âm trường học ngăn cản công cuộc chinh phục đỉnh cao vinh quang của mình.

Những cái tên nổi bật nhất đầu tiên có thể kể đến là Steve Jobs khi ông chưa bao giờ học xong đại học – cũng giống như Bill Gates và Mark Zuckerberg. Các trường hợp tương tự như nữ tỉ phú trẻ tuổi nhất thế giới, Elizabeth Holmes, người vẫn đang là niềm cảm hứng cho cuộc cách mạng y học, cũng bỏ ngang đại học Stanford để theo đuổi ước mơ của mình. Theo sau có thể kể đến tỉ phú Richard Branson – người bị chứng khó đọc và đã bỏ học từ năm 15.

Ở đời, người ta vẫn thường hay dán nhãn cho nhau, nhìn nhau bằng ánh mắt khinh khi khi người khác thua kém mình, người khác không bằng mình.

Nãy giờ ta nghĩ chuyện ngoài đời, ta nói chuyện ngoài đời.

Ngay trong Giáo Hội cũng thế ! Ngay thời Chúa Giêsu, người ta vẫn thường có thói quen dán nhãn cho một người nào đó mà như Chúa Giêsu lại chính là nạn nhân.

Hôm nay, trong trang Tin Mừng rất ngắn của Thánh Maccô ta bắt gặp : : “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 2-4)

Nhận định của dân hoàn toàn đúng chứ không sai ! Thế nhưng, Thiên Chúa thường vẫn làm những chuyện mà con người xem ra là bất thường. Người ta đã dán cho Chúa Giêsu một cái nhãn bình thường và họ nhìn Ngài trong cái nhãn giới tầm thường của họ.

Những kiểu dán nhãn của họ có tính cách cố định. Dán nhãn đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Chúa Giêsu và người đồng hương. Chính những dán nhãn đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Ðấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Chúa Giêsu không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Ðấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Chúa Giêsu không thể là Ðấng cứu thế. Với sự dán nhãn, họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Chúa Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6, 4).

Trang Tin Mừng hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6, 5). Sở dĩ Chúa Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6, 6).

Ta có thể thầm trách đám đông trong Tin Mừng hôm nay vì họ đã khước từ Chúa, họ đã tẩy chay Chúa.

Tuy nhiên, trong cõi lặng của cuộc đời, ta có thể nhìn ra ta cũng giống như những người trong Tin Mừng hôm nay.

Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi nguy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.

Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Ðó là điều Chúa nói trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu :  Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25, 35).

Ðể có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo làm mù quáng, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.

Nếu ta để cho việc dán nhãn và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu ta phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho việc dán nhãn len lỏi vào óc phán đoán của ta.

Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta bớt đi chuyện dán nhãn cho người khác nhưng hãy nhìn họ như họ là sự hiện diện của Chúa trong đời ta thật. Có như thế, ta mới vững vàng bước đi trong niềm tin là Chúa luôn luôn ở với ta trong mọi nẻo đường đời.

Về mục lục

.

 

BỞI ĐÂU ÔNG TA ĐƯỢC NHƯ THẾ?

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

1. Ngạc nhiên

Tại quê nhà, khi nghe Đức Giê-su giảng dạy, nhiều người rất đỗi ngạc nhiên ; ngặc nhiên đến độ họ nêu ra một loạt năm câu hỏi :

Bởi đâu ông ta được như thế?
Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?
Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?

Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao?
Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? 
(c. 2-3)

Sự ngạc nhiên của họ đến từ sự tương phản : một đàng là sự khôn ngoan và hành động thần linh của Đức Giê-su, một đàng là « cái biết chắc chắn » của họ về Người. Và sự tương phản này làm cho họ vấp ngã, thay vì dẫn họ đến lòng tin. Đối với Đức Giê-su, đó là điều thường xẩy ra với một ngôn sứ :

Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi(c. 4)

Qua câu nói trên, Đức Giê-su đồng hóa mình với một ngôn sứ và đón nhận thân phận của một ngôn sứ ; và trong mặc khải Cựu Ước, hình ảnh tiêu biểu và cũng là điểm tới của mọi ngôn sứ là thân phận của Người Tôi Tớ Đau Khổ (x. Is 52-53). Nhưng điều này cũng làm cho Người ngạc nhiên :

Người lấy làm lạ, vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy. (c. 6)

Như thế, bản văn Tin Mừng của chúng ta mở đầu bằng sự kiện người ta « ngạc nhiên » về Đức Giê-su (c. 2) và kết thúc với sự kiện Đức Giê-su « ngạc nhiên » về lựa chọn không tin của họ (c. 6). Họ không tin, nên Người không làm được gì cho họ ; bởi vì, Người cần lòng tin của từng người để có thể nói : « lòng tin của con đã cứu con », và Người bỏ mặc họ để đi đến các làng chung quanh. Nhưng thực ra, họ đã « bỏ mặc » Đức Giê-su trước, khi lựa chọn không tin.

 2. Lựa chọn không tin

Vấn đề của người Do thái xưa dường như cũng là vấn đề của con người hôm nay, và có thể của chính chúng ta nữa, khi đối diện với ngôi vị của Đức Giê-su. Thật vậy, ngày nay, qua các phương pháp nghiên cứu sử học, đúng nghĩa hay giả mạo, người ta tự cho mình biết nhiều hơn và khách quan hơn về con người Đức Giêsu Nazareth, về tôn giáo của dân tộc Ngài, về bối cảnh văn hóa, xã hội và chính trị thời đại của Ngài. Người ta thán phục về nhân cách độc nhất vô nhị của Ngài. Có người cho Ngài là một nhà cải cách về tôn giáo, người khác về luân lý, người khác về xã hội, người khác cho Ngài là người duy lý, duy nhân bản,… Tuy nhiên, người ta không thể chấp nhận niềm tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, là “Bánh từ trời xuống”. Khó khăn trong việc tin Đức Giê-su Nazareth, con của ông Giuse và bà Maria, là Con Thiên Chúa, là “Bánh từ trời xuống”, cũng chính là khó khăn khi chúng ta tin nơi Thiên Chúa, khởi từ thiên nhiên, lịch sử và những biến cố mà chúng ta đã trải qua.

Trong Tin Mừng theo thánh Gio-an, Đức Giê-su nói: “Không ai có thể đến với tôi, nếu Chúa Cha đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6, 43-46). Như thế, người ta không thể tin vào Đức Giê-su nếu không tin vào Thiên Chúa; và Đức Giê-su còn nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 16, 6). Bởi vì, Chúa Cha và Chúa con là một: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18). Như thế, người ta phải tin Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa dẫn đưa, mới để có thể đến với Đức Giê-su. Điều tiên quyết, để tin Đức Giê-su, là chúng ta phải có lòng ước ao Thiên Chúa và quảng đại sống theo lòng ước ao này, bởi vì lòng ước ao này sẽ tìm được và chỉ tìm được lời đáp nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa mà thôi. Nhưng làm thế nào lại không thể không ước ao Thiên Chúa được, vì con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con người ước ao Thiên Chúa, dù ý thức hay không ý thức. Đây chính là lí do tận cùng của sự kiện Đức Giê-su lấy làm lạ vì người Do thái không tin, vì loài người không tin, vì chúng ta không tin.

Vì thế, Đức Giê-su cũng sẽ ngạc nhiên về lựa chọn không tin của con người hôm nay, và có khi của chính chúng ta nữa. Khi đó, Ngài không thể làm gì lạ lùng cho chúng ta được ; hay đúng hơn Ngài đã làm tất cả, làm cho đến tận cùng nơi bí tích Thánh Thể và mầu nhiệm Vượt Qua, nhưng con người không đón nhận, con người « bỏ mặc ». Và vì không có lòng tin, chúng ta sẽ bị bỏ mặc : bỏ mặc cho sự nghi ngờ chết chóc, cho vô nghĩa, cho hỗn mang, cho thú tính, cho lòng ghen tị, cho lòng ham muốn, cho bạo lực, cho sự dữ, cho bóng tối và cho sự chết.

 3. Ơn huệ đức tin

Chúng ta phải nhìn nhận rằng, những người cùng thời với Đức Giê-su, và nhất là những người cùng quê quán với Ngài có thật nhiều ơn phúc, mà chúng ta không có : ơn phúc được thấy Đức Giê-su tận mắt ; ơn phúc được nghe Ngài giảng với sự khôn ngoan và chứng kiến hoặc nghe người ta kể lại những điều lạ lùng Ngài làm ; như bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta : « Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? » Và những người cùng quê quán với Đức Giê-su, còn được ơn phúc biết thật rõ về Đức Giê-su, như bài Tin Mừng kể lại : « Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? »

Chắc chắc có những lúc chúng ta ước ao có được những ơn phúc như thế : thấy tận mắt, nghe trực tiếp và biết thật rõ về Đức Giê-su, vì chúng ta thường nghĩ rằng, với những ơn phúc như thế sẽ dễ dàng tin Ngài là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể. Nhưng Lời Chúa trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, kể lại điều hoàn toàn ngược lại : những người thấy tận mắt, nghe trực tiếp và biết thật rõ về Đức Giê-su, lại vấp ngã không tin, đến độ Đức Giê-su lấy làm lạ ; và vì không tin, nên Ngài không thể làm những điều lạ lùng cho họ.

Tại sao lại như vậy ? Điều người ta phải tin, tin Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, thì vượt xa tất những gì người ta thấy, nghe và biết : chúng ta chỉ có thể trao ban lòng tin và được mời gọi đích thân cảm nếm mà thôi. Tin Đức Giê-su Ki-tô là ơn phúc lớn nhất Chúa ban cho các môn đệ, cho Giáo Hội và ngang qua Giáo Hội, cho từng người chúng ta hôm nay, dù chúng ta không có những ơn phúc của những người đồng hương với Đức Giê-su.

 *  *  *

Và chúng ta được mời gọi mở lòng mình ra, mở cuộc đời của chúng ta ra, mở từng ngày sống của chúng ta ra, để đón nhận Đức Giê-su là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chính khi đó, chúng ta sẽ cảm nếm được ngôi vị thần linh của Chúa, và Người sẽ làm cho mỗi người chúng ta, cho Gia Đình chúng ta và cho Cộng Đoàn chúng ta những điều lạ lùng.

Xin cho chúng ta mỗi ngày biết nhận ra ơn phúc đức tin Chúa ban và quảng đại đón nhận và sống đức tin, để Chúa làm cho chúng ta những điều lạ lùng mỗi ngày : đó là mầu nhiệm Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa mà chúng ta cử hành mỗi ngày trong Thánh Lễ, có sức mạnh giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của ma quỉ, và những điều xấu xa thuộc về ma quỉ, để làm cho chúng ta hiệp nhất trong tình thương với Chúa và với nhau, với những người còn sống cũng như với những người đã qua đời hôm nay và mãi mãi.

Về mục lục

.

 

KHÔNG LÀM ĐƯỢC PHÉP LẠ

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Suy niệm:

Ðức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà.

Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên

trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.

Nếu họ chân thành tìm kiếm

họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen.

Tiếc thay người làng Nazareth đã không đủ vô tư.

Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài,

và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.

“Ông ta không phải là bác thợ sao?”

Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người.

Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn,

sống bao năm ở đây không một chút hào quang.

Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt:

Bà Maria và các anh em, chị em của ông,

tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường,

như những người láng giềng gần gũi.

Một quá khứ và hiện tại như thế

đã khiến họ vấp phạm.

Họ không tin Ngài là một ngôn sứ,

lại càng không thể tin Ngài là Mêsia,

và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng

mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Không chắc chúng ta đã khá hơn người làng Nazareth.

Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung

trong một cái nhìn nào đó về Ðức Kitô,

khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.

Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta,

nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ.

Những gì tôi biết về họ là đúng,

nhưng không đủ.

Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.

Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng

để gặp được mầu nhiệm tha nhân,

để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.

Chúng ta thường nói đến một Thiên Chúa toàn năng,

nghĩa là Ðấng làm được mọi sự.

Nhưng Ðức Giêsu tại Nazareth lại cho ta thấy

hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.

Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người.

Ðức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.

Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa,

có thể dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.

Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.

Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.

Có bao điều lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta,

mà Ngài không làm được, vì không được làm.

Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta,

để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta.

Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa,

và nhờ Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.

.

Cầu nguyện:


Lạy Chúa Giêsu,

dân làng Nazareth đã không tin Chúa

vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.

Các môn đệ đã không tin Chúa

khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.

Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa

chỉ vì Chúa sống như một con người,


Cũng có lúc chúng con không tin Chúa

hiện diện dưới hình bánh mong manh,

nơi một linh mục yếu đuối,

trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.


Dường như Chúa thích ẩn mình

nơi những gì thế gian chê bỏ,

để chúng con tập nhận ra Ngài

bằng con mắt đức tin.


Xin thêm đức tin cho chúng con

để khiêm tốn thấy Ngài

tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Về mục lục

.