CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B

198

 CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Kn 1,13-15;2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43

.

Mục lục

1. Hiệu quả của lòng tin (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Cảm nghiệm về Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Có bệnh vái tứ phương (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Ai chạm đến Ta?  (Lm. Quốc Toản, CMC)

5. Chỉ cần tin thôi  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

6. Chữa lành  (Trầm Thiên Thu)

7. Làm phiền Thầy chi nữa! (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

8. Chúa Nhật 13 Thường Niên_B (Lm. Antôn)

9. Giải thoát khổ đau  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

10. Quyền năng trên sự chết (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

11. Tín thác vào Chúa luôn yêu thương và cứu độ ta  (Lm. Đan Vinh)

12. Ta-li-tha kum (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

13. Đụng đến áo (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

 

 

 

HIỆU QUẢ CỦA LÒNG TIN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Tác giả Mác-cô đã lồng ghép hai sự kiện vào với nhau. Cả hai đều nhằm kể về những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Một phép lạ để chữa người đàn bà bệnh tật lâu năm và phép lạ kia làm cho em bé đã chết được sống lại.

Hai người được lãnh nhận ơn ban qua phép lạ có hai thể loại đức tin khác nhau. Người phụ nữ có đức tin âm thầm; viên cai quản Hội đường lại có đức tin được công khai tuyên xưng mạnh mẽ. Người phụ nữ chỉ mong sao chạm được vào áo Chúa; viên cai quản Hội đường lại sấp mình nài nỉ van xin.
 
Cả hai hình thức đức tin đều xuất phát từ lòng xác tín và cậy trông. Hai người đều tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể làm được điều họ đang kêu xin. Tuy vậy, xem ra sự xác tín của người phụ nữ có vẻ mạnh mẽ hơn. Bà không dám được Chúa biết đến hay can thiệp. Bà chỉ cần chạm vào áo Người. Trong khi đó, viên cai quản Hội đường, khi thấy con mình đã chết, đã bị dao động băn khoăn. Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều nhắc đến “đức tin”. Nếu Người ngỏ lời với người phụ nữ để khen đức tin của bà, thì với viên cai quản Hội đường, Người lại mời gọi ông hãy vững tin. Người hiểu tâm trạng của ông khi nghe tin con mình đã chết.
 
Dù với hình thức nào chăng nữa, đức tin luôn luôn là điều kiện để được lĩnh nhận ơn Chúa. Nếu có đức tin, thì ngay cả sự chết cũng không còn là một điều đáng sợ. Ý tưởng “sự chết – sự sống” được nhấn mạnh trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Thiên Chúa làm chủ sự sống. Ngài là Đấng tạo dựng sự sống. Sự sống đến từ Thiên Chúa. Sự chết do ma quỷ đem lại. Như thế, đức tin đem lại sự sống và khước từ niềm tin là nguyên nhân sự chết. Khi mời gọi các tín hữu hãy củng cố đức tin vào quyền năng Thiên Chúa, Phụng vụ hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta về tình thương bao la của Ngài. Quả thật, “Thiên Chúa không làm ra cái chết, Ngài chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Bài đọc I). Ngài không bao giờ là tác giả của điều ác, vì bản chất của Ngài là tốt lành và thánh thiện.
 
Vì con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa” (x. St 1,27), mỗi tín hữu có sứ mạng làm cho sự tốt lành của Chúa lan tỏa nơi lòng cuộc đời. Nếu hôm nay, Đức Giêsu không hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt để chữa lành những bệnh nhân, thì Người lại đang mượn cánh tay và tấm lòng của chúng ta để đem tình thương đến cho người bất hạnh, đem niềm vui cho người sầu khổ và đem tự do cho người bị giam cầm. Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu thành Côrinhtô hãy quảng đại trong cuộc lạc quyên giúp người nghèo. Theo vị Tông đồ dân ngoại, Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta về lòng quảng đại, vì Người là Đấng “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được giàu có” (Bài đọc II). Mọi sự chúng ta có đều do Chúa ban. Hơn nữa, chúng ta giàu có là do Chúa đã trở nên nghèo vì chúng ta. Chính vì thế, san sẻ cho tha nhân là chúng ta làm cho hình ảnh Chúa trở nên rạng ngời nơi cuộc đời này. Sự sẻ chia không làm cho chúng ta nghèo đi, nhưng trái lại, giúp cho chúng ta trở nên phú quý hơn trong cuộc sống.

Người đàn bà bị bệnh đã mười hai năm được Chúa chữa lành. Bé gái con ông trưởng hội đường đã chết được Chúa cho sống lại…. Biết bao điều kỳ diệu hôm nay Chúa vẫn đang thực hiện nơi lòng cuộc đời, nếu chúng ta có đức tin vững vàng và lòng cậy trông sâu xa.

Giữa những thử thách phong ba của cuộc đời, nhiều khi đức tin của chúng ta bị chao đảo, như chiếc thuyền tròng trành giữa đại dương. Xung quanh chúng ta, mỗi ngày có biết bao điều xảy đến, như sự chết, tai nạn, bệnh tật. Trước những “vấn nạn” này về cuộc sống, nhiều người đã bị dao động đức tin vào một Thiên Chúa tốt lành và yêu thương. Lời Chúa giúp chúng ta xác tín: Ngài không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ. Giữa thử thách đau thương, Thiên Chúa luôn nâng đỡ và thêm sức cho chúng ta. Nếu biết cậy dựa vào Ngài, chúng ta sẽ có đủ nghị lực vươn lên và tìm được niềm vui giữa những khó khăn trắc trở trên đường đời. Chesterton, văn sĩ, thần học gia và triết gia người Anh (1874-1936) đã viết: “Hãy cầu nguyện như thể mọi sự đều tùy thuộc vào Thiên Chúa. Hãy hành động như thể mọi sự đều tùy thuộc vào chúng ta”.  Quả vậy, khi quyền năng của Thiên Chúa và nghị lực của con người gặp gỡ nhau, thì những điều kỳ diệu sẽ xảy đến trong cuộc đời.

Về mục lục

 

.

CẢM NGHIỆM VỀ CHÚA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.

Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.

Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.

Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín. Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.

Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.

Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.

Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.

Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi. Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?

2) Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?

3) Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?

Về mục lục

 

 

CÓ BỆNH VÁI TỨ PHƯƠNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Nghe tin làng nọ có nghề chữa bệnh vô sinh gia truyền, có một bà mẹ  tức tốc chạy thẳng đến nhà con gái. Chưa vào đến ngõ đã kêu ầm lên: Mau lên con ơi! Mau lên!

-Cô gái đáp: Gì thế mẹ?

-Mày còn đứng đó mà hỏi. Mau chuẩn bị vào Hà Nam. Người ta chữa bệnh vô sinh tài lắm. Chỉ cần uống thuốc mươi hôm là nghén liền.
Vợ chồng mau mắn đi, vừa đến đầu làng đã thấy các  “cò” chờ sẵn, miệng nói tay kéo: chị cứ phải nghe em, ở đây có lắm hàng gia truyền dỏm, chớ có tin mà tiền mất tật mang. Nhà em giới thiệu là gia truyền thật, chữa một phát là có con ngay.

Chưa kịp suy nghĩ thì một bà hàng nước chạy ra đon đả, cũng miệng nói tay kéo chú đừng có nghe mấy thằng cò. Tôi ở làng này tôi biết nhà nào là gia truyền thứ thiệt, nhà nào là gia truyền ăn theo, gia truyền bố láo . . .
Sau hồi giằng co cũng vào được một nhà, vừa bốc thuốc xong ra ngoài ngồi nghỉ thì một bà tầm tuổi trung niên bỗng ló đầu vào – Tôi là hàng xóm nhà này. Biết anh chị bị lừa, không đành lòng nên bạo dạn đường đột đến đây… Nhà này chuyên buôn thuốc tăng trọng cho lợn. Chị muốn tăng trọng thì cứ ở đó!

Quả thực ngày hôm nay, chữa bệnh bằng phương thuốc gia truyền đang mọc ra như nấm. Có khi còn nhiều hơn là “phở gia truyền Hà nội”! Có lẽ do nhu cầu chữa bệnh nan y ngày càng nhiều. Tây y dường như đang bất lực với rất nhiều bệnh tật khiến lòng dân hoang mang nên chạy “vái tứ phương” chỉ để cầu mong gặp thầy gặp thuốc hay “phước chủ may thầy” . . .

Sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình. Con người dường như bất lực với lẽ thường tình ấy. Dù Tần Thủy Hoàng có thuốc linh đan trường sinh rồi cũng chết. Dù văn minh khoa học tiến bộ rồi cũng bất lực trước những bệnh tật khổ đau của con người.

Xem ra con người không thể dựa vào trí tuệ của mình để cứu chữa đồng loại. Con người đành ngậm ngùi tiếc thương cho nhau khi gặp hoạn nạn gian nan. Chúng ta vẫn thường nghe bác sĩ nói nhỏ với bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân: “tôi rất tiếc vì không làm gì hơn được nữa!”

Xem ra chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên mọi bệnh tật. Chỉ có Thiên Chúa mới chính là cứu cánh cuộc đời chúng ta. Chỉ có Ngài mới cầm quyền sinh tử của chúng ta. Chính Ngài đã cho con tạo xoay vần theo dòng thời gian, thì cũng chính Ngài mới điều khiển được những quy luật của thời gian. Ngài tạo dựng con người, thế nên, Ngài cũng biết cách gìn giữ bảo vệ con người trong sự quan phòng của Ngài. Thế nên, Thiên Chúa mới là chỗ dựa vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta.

Tin mừng tường thuật rất nhiều những lần Chúa Giê-su chữa lành bệnh tật. Dường như mọi bệnh tật Ngài đều xua tan chỉ bằng một lời, một ý nghĩ, một lần chạm vào thân thể người bệnh. Quyền năng Chúa dường như thắng mọi sự dữ, kể cả sự chết. Chính Ngài đã gọi kẻ chết trỗi dậy như Lagiaro, hay cậu thanh niên thành Nain. . . Chính Ngài cũng trỗi dậy sau ba ngày chết chôn trong mồ.

Ước gì chúng ta có đủ đức tin để chạy đến kêu cầu Chúa chữa lành khi gặp những tai ương hoạn nạn. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời vẫn còn đó những phong ba gió bụi cuộc đời. Amen.

Về mục lục

 

 

AI CHẠM ĐẾN TA?

Lm. Quốc Toản, CMC

“Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó.” (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory)
Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động.
Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm.
Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống.
Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường?
Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?
Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”

Về mục lục

 

 

CHỈ CẦN TIN THÔI

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.

  1. Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.

Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Ðó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Ðức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.“. Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ“. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông “Đừng sợ, cứ tin“. Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi !” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.

Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con“. Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.

– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.

– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.

Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.

 

  1. Cộng tác với ơn Chúa

Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.

Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:

–         Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?

Vị linh mục nói:

–         Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.

Bà già la lên:

–         Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.

Thánh Antôn tự nhủ:

–         Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!

Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.

Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.

Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.

Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.

Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7)

Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).

Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).

Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.

 

  1. Niềm tin thắp sáng hy vọng

Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.

Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.

Mẹ Têrêxa nói với ông : Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.

Người phóng viên hỏi : Tôi phải làm gì để có đức tin?.

Mẹ Têrêxa đáp : Ông hãy cầu nguyện.

Ông chống chế : Tôi không biết và không thể cầu nguyện.

Mẹ Têrêxa dịu dàng nói : Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.

Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.

Về mục lục

 

 

CHỮA LÀNH

Trầm Thiên Thu

Kiếp phàm nhân có rất nhiều nỗi khổ, đủ kiểu và đủ mức độ, tóm tắt trong bốn lĩnh vực chính: Sinh, Bệnh, Lão, Tử. Trong tứ khổ đó, cái “đệ nhị khổ” là thứ khổ dai dẳng nhất: Bệnh tật. Bệnh thể lý là cái khổ rõ ràng rồi, nhưng còn cái khổ còn “dữ dội” hơn, đó là “tâm bệnh” và “bệnh tâm linh”.

Vì mắc bệnh tật nên mới cần được chữa trị, còn có “lành” hay không lại là chuyện khác. Về thể bệnh, chúng ta cần sự hỗ trợ của các y bác sĩ và dược sĩ; về tâm bệnh, chúng ta cần Đại Lương Y Giêsu. Các lương y phải như từ mẫu để chứng tỏ Ý Chúa thể hiện qua họ, chứ chính họ không thể chữa lành, vì Kinh Thánh xác định: “Không phi lá cây, chng phi thuc đp đã cha h lành, nhưng chính Li Ngài cha lành tt c” (Kn 16:12).

Quả thật, chỉ trong ba năm Ngài thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã chữa lành rất nhiều người – cả thể bệnh và tâm bệnh: Chữa nhạc mẫu của Simôn Phêrô (Mt 8:14-15; Mc 1:29-31; Lc 4:38-39), chữa hai người bị quỷ ám, lũ quỷ xin được nhập vào bầy heo, rồi cả bầy heo lao xuống biển chết đuối hết (Mt 8:29-34; Mc 5:1-20; Lc 8:26-39), chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ (Mt 8:16-17; Mc 1:32-34; Lc 4:40-41), chữa lành người bại liệt (Mt 9:1-8; Mc 2:1-12; Lc 5:17-26), chữa người đàn bà bị băng huyết và phục sinh con gái của một vị thủ lãnh (Mt 9:18-26; Mc 5:21-43; Lc 8:40-56), chữa hai người mù (Mt 9:27-31), chữa người câm bị quỷ ám (Mt 9:32-34), chữa con gái bị quỷ ám của người đàn bà Canaan (Mt 15:21-28; Mc 7:24-30), chữa nhiều bệnh nhân tại ven Biển Hồ Galilê (Mt 15:29-31),… và rồi ngay trước lúc bị bắt, Ngài còn chữa lành tai cho tên đầy tớ của thầy thượng tế (Mt 26: 47-55; Mc 14:43-49; Lc 22:47-51; Ga 18:3-11), cuối cùng là làm sáng mắt cho Long-gi-nô (Longinus, kẻ đã cầm lưỡi giáo đâm thâu trái tim Chúa Giêsu khi Ngài đã chết trên Thập Giá, x. Ga 19:34).

Và ngày nay, cho tới tận thế, đang có và sẽ có biết bao trường hợp được Thiên Chúa chữa lành… Cụ thể là hàng triệu trường hợp thể bệnh được ghi nhận do phép lạ chữa lành ở Lộ Đức.

Thời Cựu Ước, dân Ít-ra-en bị rắn độc hoành hành, Thiên Chúa bảo ông Mô-sê làm một con rắn đồng để “hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống” (Ds 21:9). Thời Tân Ước, Chúa Giêsu đi tới đâu cũng được người ta tìm đến, họ “tìm cách sờ vào Ngài, vì từ nơi Ngài phát ra một năng lực chữa lành hết mọi người” (Lc 6:19). Và Ngài xác định: “Phn tôi, mt khi được giương cao lên khi mt đt, tôi s kéo mi người lên vi tôi” (Ga 12:32). Ai tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân gian thì sẽ được “chữa lành”.

Người ta thường nói: “Ch s tri hi, ch không s người ta hi”. Thật vậy, Thiên Chúa đã xác nhận: “Ta cm quyn sinh t, Ta đánh pht, ri Ta li cha lành, không ai cu khi tay Ta được” (Đnl 32:39). Trốn trời không khỏi nắng. Phàm nhân chỉ là thụ tạo, không thể “qua mặt” Thiên Chúa. Ngoan thì được thương, ương thì bị phạt!

Ngày nay, ung thư xuất hiện nhiều, đủ loại, bất cứ độ tuổi nào cũng có thể phải đối mặt với “cái chết được báo trước” này. Không phải ngày nay mới có bệnh ung thư, mà thời Cựu Ước cũng đã có đủ chứng bệnh rồi: “Đc Chúa s làm cho anh em b ung nht Ai-cp, b u bướu, gh l, nga ngáy, mà không th cha khi. Đc Chúa s làm cho anh em b điên khùng, mù loà, lon trí. Anh em s mò mm gia trưa, như người mù mò mm trong bóng ti, và s không thy đường mà đi. Đc Chúa s làm cho anh em b ung đc không th cha lành đu gi và đùi, t bàn chân cho ti đnh đu” (Đnl 28:27-29 và 35).

Vì Ông Bà Nguyên Tổ bất tuân lệnh Chúa nên con cháu bị “di truyền”, chứng “ung thư” này “di căn” tới tận thế. Ôi, khốn khổ thay! Và cũng đáng sợ thay, vì loài người có “máu” nổi loạn, lúc nào cũng chỉ rình cơ hội để bạo động, phản trắc, bất tuân. Thế nhưng Thiên Chúa vẫn giàu lòng thương xót, Ngài “tội nghiệp” chúng ta lắm, Ngài “đánh” vì yêu thương chứ không vì ghét bỏ. Chúng ta đau một thì Ngài thương mười: “Người gây thương tích, cũng chính Người băng bó, đánh bm dp xong, li ra tay cha lành” (G 5:18). Trong “tứ khổ” của phàm nhân, cái “đệ tứ khổ” (sự chết – tử) là cái khổ lớn nhất và đáng sợ nhất.

Chúng ta khổ vì “di truyền” chứng ung-thư-tội-lỗi. Kinh Thánh cho biết rõ ràng: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chng vui gì khi sinh mng tiêu vong” (Kn 1:13). Lý do đơn giản và minh nhiên: “Vì Người đã sáng to muôn loài cho chúng hin hu, mi loài th to trên thế gii đu hu ích cho sinh linh, chng loài nào mang đc cht hu hoi. Âm ph không thng tr đa cu. Qu vy, đc công chính thì trường sinh bt t” (Kn 1:14-15). Cha mẹ trần gian chỉ là tội nhân, là “người xấu” (Lc 11:13), mà còn biết yêu thương và muốn điều tốt cho con cái, huống chi Thiên Chúa là Đấng cực tốt cực lành?

Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu muôn thuở (Gr 31:3) và yêu thương chúng ta thật nhiều (Gr 31:20). Kinh Thánh cho biết thêm: “Qu thế, Thiên Chúa đã sáng to con người cho h được trường tn bt dit. H được Người dng nên làm hình nh ca bn tính Người. Nhưng chính vì qu d ganh t mà cái chết đã xâm nhp thế gian. Nhng ai v phe nó đu phi nếm mùi cái chết” (Kn 2:23-25). Rất rõ ràng, Satan ghen tỵ với chúng ta nên chúng mới “gài bẫy” chúng ta, chúng muốn kéo chúng ta về phía chúng, chịu cái-chết-đời-đời với chúng nơi vương quốc hỏa ngục của chúng.

Chuyện kể rằng ma quỷ cám dỗ một anh chàng nọ theo phe nó, nhưng anh ta không chịu. Ma quỷ ra ba điều kiện: Một là giết mẹ, hai là giết vợ, ba là uống rượu. Anh ta suy nghĩ: Mẹ là người sinh ra mình, dù chưa đáp đền chữ hiếu thì cũng không thể là nghịch tử mà đành lòng giết mẹ; vợ là người đồng hành với mình, nên một xương một thịt, đầu ắp tay gối, chưa thể yêu thương đủ thì cũng không thể là kẻ sát phu mà giết vợ; cuộc đời có nhiều lúc buồn, người ta bảo “nhất túy giải vạn sầu” (rượu có thể giải nhiều nỗi sầu), vả lại uống rược chẳng hại ai, có chăng chỉ khổ mình, thôi thì mình chọn cách này.

Sua những lần làm đệ tử Lưu Linh, riết đâm nghiện. Một lần nọ, anh ta uống rượu say và cố gắng về nhà, anh ta kiếm chuyện rồi đập phá lung tung, mẹ và vợ can ngăn không được, anh ta lấy dao chém chết cả mẹ va vợ. Mưu mô ma quỷ thâm độc vô cùng!

Trước mắt Thiên Chúa, chúng ta thật quý giá, luôn được Ngài trân trọng và mến thương (Is 43:4). Có bệnh thì vái tứ phương, còn nước còn tát. Thể bệnh còn vậy, huống chi tâm bệnh. Thiên Chúa sẽ chữa lành chúng ta ngay nếu chúng ta sám hối. Vua Đa-vít phạm “lưỡng tội” (gián tiếp giết Urigia và cướp vợ của Urigia), nhưng ông đã sám hối nên được Thiên Chúa “chữa lành” – tha thứ và không kết án tử (2 Sm 12:13); tướng cướp Dismas (cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu) chỉ xin lỗi một lời liền được Chúa Giêsu “chữa lành” tâm bệnh và cho theo vô Thiên Đàng ngay đêm hôm đó (Lc 23:42-43). Và còn rất nhiều trường hợp như vậy mà chúng ta không biết!

Chúng ta cũng đã bao lần được Thiên Chúa “chữa lành” qua Bí Tích Thương Xót – Bí Tích Hòa Giải. Càng sống lâu càng được chữa lành nhiều. Vì thế, chúng ta phải biết chúc tụng và tạ ơn: “Ly Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cu vt, không đ quân thù đc chí nho cười con” (Tv 30:2). Với trí óc phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu nổi việc Chúa thực hiện vì yêu thương chúng ta: “Ly Chúa, t âm ph Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xung m mà Ngài thương cu sng” (Tv 30:4).

Chắc chắn tác giả Thánh Vịnh cũng đã được chữa lành nhiều, vì thế mà không thể im lặng: “Hi nhng k tín trung, hãy đàn ca mng Chúa, cm t Thánh Danh Người. Người ni gin, gin trong giây lát, nhưng yêu thương, thương sut c đi. L có rơi khi màn đêm buông xung, hng đông v đã vng tiếng hò reo” (Tv 30:5-6).

Hiệp thông với tâm tình của tác giả Thánh Vịnh, chúng ta cùng dâng lời nguyện tạ ơn và thề hứa: “Ly Chúa, xin lng nghe và xót thương con, ly Chúa, xin phù trì nâng đ. Khúc ai ca, Chúa đi thành vũ điu, ci áo sô, mc cho con l phc huy hoàng. Vì thế, tâm hn con ca ngi Chúa, và không h nín lng. Ly Chúa là Thiên Chúa con th, xin t ơn Ngài mãi mãi ngàn thu (Tv 30:11-13).

Thiên Chúa chan chứa lòng thương xót, Ngài yêu thương chúng ta trước (1 Ga 4:19), dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Thánh Phaolô nói: “Anh em biết Đc Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng qung đi như thế nào: Người vn giàu sang phú quý, nhưng đã t ý tr nên nghèo khó vì anh em, đ ly cái nghèo ca mình mà làm cho anh em tr nên giàu có” (2 Cr 8:9).

Thánh Phaolô giải thích: “Vn đ không phi là bt anh em sng eo hp đ cho người khác bt nghèo kh. Điu cn thiết là phi có s đng đu. Trong hoàn cnh hin ti, anh em có được dư gi, là đ giúp đ nhng người đang lâm cnh túng thiếu, đ ri khi được dư gi, h cũng s giúp đ anh em, lúc anh em lâm cnh túng thiếu. Như thế, s có s đng đu, hp vi li đã chép: K được nhiu thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (2 Cr 8:13-15). Cách chia sẻ đó là sống yêu thương, thể hiện lòng thương xót, thực hành đức ái, và cũng là “chữa lành” lẫn nhau.

Trình thuật Mc 5:21-43 cho chúng ta biết Chúa Giêsu chữa lành hai con người, một lớn và một nhỏ.

Hôm đó, Đức Giêsu vừa từ thuyền lên bờ Biển Hồ, một đám người rất đông liền tụ lại quanh Ngài. Lúc đó, có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia tới sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khoản nài xin Ngài đến đặt tay cứu sống con gái nhỏ của ông, vì nó gần chết. Khi Ngài theo ông về nhà ông, một đám rất đông kéo theo và chen lấn Ngài.

Trong đám đông đó có một bà bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Bà nghe đồn về Đức Giêsu nên cố lách qua đám đông để đến phía sau và sờ vào áo Ngài. Bà chỉ mong sờ được vào áo Ngài thôi thì sẽ được chữa lành ngay. Quả thật, vừa chạm vào áo Ngài thì máu trong bà liền cầm lại, bà cảm thấy trong mình được khỏi bệnh.

Lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi xem ai đã sờ vào áo Ngài. Các môn đệ vừa ngạc nhiên vừa mắc cười, đám đông chen lấn như thế, ai đã sờ vào Ngài thì có trời mới biết. Đúng, phàm nhân không thể biết, và chỉ có trời biết. Trời là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa chính là Thầy Giêsu đấy thôi. Vâng, Ngài biết rõ nên Ngài ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. Có tật giật mình. Bà này sợ phát run lên vì bà biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Ngài, và thú thật ngọn nguồn. Ngài cười và nhẹ nhàng nói: “Này bà Hai, chính LÒNG TIN ca bà đã cu cha bà đy. Bà hãy v bình an và khi hn bnh. An tâm nhé, bà Hai!”.

Ngay khi Đức Giêsu còn đang nói với bà Hai như vậy, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo rằng con gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa. Đức Giêsu nghe được nói vậy liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đng s, ch cn TIN thôi!”. Rồi Ngài không cho ai đi theo mình, trừ ba đệ tử ruột (Phêrô, Giacôbê và Gioan). Đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc thảm thiết, Ngài bảo họ: “Sao li náo đng và khóc lóc như vy? Đa bé có chết đâu, nó ng đy!”. Họ chế nhạo Ngài. Đúng là người trần, mắt thịt. Chả biết quái gì còn chảnh!

Chuyện nhỏ! Chúa Giêsu bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi vào nơi con bé đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha Kum” (Ταλιθά κούμ[ι]) – nghĩa là “Bé ơi, bé trỗi dậy đi!” (ta-li-tha là “con bé” hoặc “bé gái”). Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Ai nấy kinh ngạc sững sờ, mắt chữ O, miệng chữ A, há hốc nhìn nhau, như kiểu ngày nay người ta thường nói: “Bó tay!”. Chứ còn gì nữa! Tuy nhiên, Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn. Tiếng khóc trở thành tiếng cười, hạnh phúc ngập tràn…

Chúa Giêsu chữa lành thể bệnh, nhưng Ngài muốn chúng ta quan tâm tâm bệnh. Được yêu thương thì phải biết yêu thương, được chữa lành thì cũng phải biết chữa lành: “Hãy b qua điu sai trái cho k khác thì khi bn cu khn, ti li bn s được tha. Người vi người c nuôi lòng hn gin, thế mà li xin Đc Chúa cha lành! Nó chng biết thương người đng loi, mà li dám xin tha ti cho mình! Nó ch là người phàm mà đ tâm thù hn thì ai s xin tha ti cho nó? Hãy nh đến ngày tn s mà chm dt hn thù, nh mình s phi hao mònphi chếttrung thành gi các điu răn” (Hc 28:2-6). Đọc mấy câu này mà thấy “nhột gáy” hết sức. Vì thế, rất có thể người ta “ngại” nhắc tới đoạn Kinh Thánh này!

Để được chữa lành, chúng ta cùng chữa lành lẫn nhau bằng cách noi gương tác giả Thiên Chúa cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức, chữa lành cho, vì gân cốt rã rời (Tv 6:3); xin thương xót và chữa lành con, quả thật con đắc tội với Ngài” (Tv 41:5). Và hãy ghi nhớ câu này: “Lành d, sng chết, giàu nghèo, tt c đu do Đc Chúa” (Hc 11:14).

Ai cũng bị bệnh, cả thể bệnh và tâm bệnh, nên luôn cần được chữa lành. Muốn được chữa lành thì phải thành tâm cầu xin ơn chữa lành (*).

Ly Thiên Chúa, xin thêm đc tin cho chúng con và giúp chúng con biết mau mn đến vi Ngài đ được cha lành c hn và xác, đng thi cũng thúc gic chúng con luôn mau mn cha lành cho nhau. Chúng con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ chúng con. Amen.

(*) Kinh Xin Ơn Chữa Lành:

Ly Chúa Giêsu, con ra trước nhan Chúa vi thân phn khn hèn ca con. Con đau bun vì li mình, con hi tiếc đã phm ti, xin Chúa d lòng tha th cho con. Nhân danh Đc Giêsu, con sn sàng tha th cho k xúc phm đến con. Con xin t b Satan, t b ma qu và các hành vi ca nó. Con xin trao hiến mình cho Chúa. Ôi Chúa Giêsu, con mi Chúa hãy bước vào cuc sng con.

Ly Chúa Giêsu, con xin tiếp nhn Ngài làm Đc Chúa ca con, Thiên Chúa ca con và Đng Cu Đ ca con. Xin Ngài cha lành con, biến đi con, ban sc mnh cho con c hn, xác và tinh thn.

Ly Chúa Giêsu, xin Ngài hãy đến, xin ly Máu Thánh Ngài tm gi con, xin đ tràn Thánh Thn Chúa trên con. Ôi Chúa Giêsu, con yêu mến Ngài, con chúc tng Ngài, con t ơn Ngài. Ôi Chúa Giêsu, con xin theo Ngài hết mi ngày trót c đi con. Ly M Maria là N Vương bình an, ly toàn th các Thánh trên tri, xin h giúp con. Amen.

Về mục lục

 

 

LÀM PHIỀN THẦY CHI NỮA!

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

Hai phép lạ lồng vào nhau được Tin Mừng Mác-cô tường thuật nêu lên một vấn nạn mà tôi, từ lâu nay, vẫn có trong đầu: tôi có thật sự tin vào Chúa, và thế nào là tin vào Chúa?
Hai phép lạ đức Giê-su thực hiện rõ ràng là do lòng tin của các nhân vật trong cuộc: Ông trưởng hội đường Gia-ia và người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm chắc chắn đã tin vào sức mạnh của Thầy Giê-su, khi kêu nại tới quyền năng của Người theo các cách thức rất khác nhau – một người ‘sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin’, trong khi người kia rón rén ‘đến phía sau Người để sờ vào áo của Người’. Trong cả hai trường hợp, đức Giê-su đều xác định: Lòng tin của con đã cứu chữa con… Chỉ cần ông tin thôi”. Thế nhưng toàn bộ câu chuyện hình như lại cho thấy một điều gì khác và sâu sắc hơn; đức Giê-su đòi hỏi niềm tin đặt nơi Người, cho dầu tự nó đã là rất vững chãi đi nữa, vẫn còn phải được kèm theo một yếu tố khác nữa, đó là phó thác cậy trông. Người đàn bà có tin nhưng còn không dám, còn rụt rè và run sợ… gia đình ông trưởng hội đường tin đấy, nhưng còn ngại ngùng ‘làm phiền Thầy chi nữa!’ Tín thác cậy trông còn thiếu trong cả hai trường hợp này.
Đối với đức Giê-su, tin vào quyền năng Thiên Chúa mà thôi là chưa đủ, nói cách khác, Người chờ đợi nơi Ki-tô hữu của Tân Ước một thái độ tin tưởng phó thác hoàn toàn độc đáo. Mọi người đều biết, mục đích đức Giê-su đến trần gian không nhằm biểu lộ quyền năng hùng mạnh của Thiên Chúa. Để làm điều này, Cựu Ước đã quá đủ, ‘Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh’ (Lc 1,51) qua không biết bao nhiêu là biến cố oai hùng, nhất là trong việc giải thoát dân riêng với biến cố Xuất Hành. Ngay cả qua các phép lạ đức Giê-su thực hiện, sức mạnh quyền năng Thiên Chúa dầu có được biểu lộ đi nữa thì cũng chỉ là thứ yếu. Mục tiêu chính vẫn là, như Người luôn xác định: ‘Thiên Chúa yêu thương trần gian’. Vì thế đối với người đàn bà rón rén ‘lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người’, cho dầu lòng tin của bà có mạnh mẽ thật, ‘Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu’, đức Giê-su vẫn muốn bà nhận ra: có một ‘năng lực tự nơi mình phát ra’ mà chưa từng có ai nhận biết, đó là tình yêu xót thương của Thiên Chúa, một tình yêu phải mang đến cho bà tin tưởng và bình an, chứ không phải sợ hãi. “Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. Cũng vậy trường hợp ông trưởng hội đường (tương tự như cô Mát-ta trong chương 11 Phúc Âm Gio-an) chắc chắn đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, nhưng có phần ngại ngùng rằng yêu cầu của mình đi quá xa, “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền thầy chi nữa!” Ngại ngùng đó chứng tỏ ông không hiểu gì về lòng nhân lành thương xót của Đấng mà đức Giê-su công bố là ‘Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho anh em sao?’ Người phải chấn an ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”, nhưng đó là niềm tin đựa trên phó thác cậy trông sâu xa.
Tin không chút sợ hãi không phải là một niềm tin bình thường. Đó phải là niềm tin, không những dựa vào quyền năng Thiên Chúa, mà quan trọng hơn, phó thác tin tưởng vào lòng lành yêu thương. Sự tin tưởng của người lính đặt trên tài bày binh bố trận của vị tướng cầm quân tài giỏi có thể là rất vững chắc, nhưng không thể nào sánh được với sự phó thác của đứa bé trong vòng tay âu yếm của mẹ nó. Tin tưởng đặt nền móng trên nắm bắt được sức mạnh của quyền lực, còn phó thác thì dựa vào việc cảm nghiệm yêu thương. Niềm tin Ki-tô hữu, kể từ thời các Tông Đồ, không đặt nền tảng trên biến cố oai hùng Xuất Hành qua Biển Đỏ, nhưng trên cử hành Hiến Tế thập giá. Vì thế niềm tin này để trưởng thành sẽ không cần cầu xin một dấu lạ (Mt 12,38), nhưng cần cảm nghiệm được tình yếu của Đấng đã chết cho người mình yêu’. Nói cách khác, ánh sáng đức tin Ki-tô hữu không giãi sáng từ trí óc nhưng từ con tim (hãy ngắm nhìn bức ảnh ‘Lòng Thương Xót Chúa’). Và do đó câu tuyên xưng đức tin đúng đắn nhất không còn là con tin vào Chúa!’ (I believe in God), nhưng phải là Con tín thác nơi Chúa (Jesus, I trust in you).
Lạy Chúa Từ Nhân, xin cho con được luôn nếm cảm sự an bình thư thái ‘như bé thơ trong vòng tay mẹ hiền’. Xin cho con một đức tin không vướng chút âu lo sợ hãi, bất chấp những yếu hèn vô tận của con người mỏng dòn. Xin cho con luôn biết chiêm ngắm Thập Giá như nguồn cậy trông phó thác duy nhât của đời con. Amen

Về mục lục

 

 

CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN-B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Là những Ki-tô hữu chúng ta tin Thiên Chúa nhân từ và yêu thương chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự đều tốt lành và luôn quan phòng cho mọi loài tồn tại, nhưng như chúng ta thấy, con người luôn phải đương đầu với đủ loại đau khổ và cái chết. Ngày nay với những phát minh tân kì về khoa học, y khoa và kĩ thuật, loài người chứng kiến những việc chữa trị bệnh tật với những cuộc giải phẫu thành công ngoài sức tưởng tượng. Mặc dầu thế, có những bệnh tật mà y học tân tiến cũng đành bó tay. Nhưng có những trường hợp mà người ta được khỏi bệnh và y học cũng không cắt nghĩa được tại sao, mà chỉ thấy rằng người ta được khỏi bệnh mà không phải do cách chữa trị của bác sĩ, cũng không phải do thuốc chữa.    

Các bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta biết ý hướng và quyền năng của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và quan phòng của Người. Trong bài đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết cho chúng ta biết Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và tiền định cho muôn loài được trường tồn, nhưng quỉ dữ cám dỗ con người và là nguyên nhân của mọi sự đau khổ và sự chết. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu có lòng bác ái và quảng đại giúp đỡ Giáo Hội và những người nghèo khổ đang chịu cảnh khó khăn, và những người đang chịu thiên tai, để duy trì sự sống của họ. Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có toàn quyền trên đau khổ, là nguồn sức mạnh, bình an và hy vọng cho những người sống trong lo âu, sợ hãi, và nhất là Ngài có quyền năng trên sự chết qua việc cho con gái ông Giai-rô sống lại. 

Có một câu chuyện về nữ minh tinh màn bạc Hollywood nổi tiếng Hoa kỳ có tên là Ann Jillian. Một hôm trong lúc đang tập thể dục, cô chợt phát hiện một cục thịt nhô lên trong thân thể làm cho cô giật mình kinh hoàng và hoảng sợ, nghi ngờ là bướu ung thư. Ngày hôm sau, trước khi đi khám bác sĩ, cô ghé qua nhà thờ giáo xứ của cô. Trên cánh cửa chính có một hàng chữ mà cô thường thấy nhưng không bao giờ để ý. Hôm nay, cô chú ý đọc hàng chữ: “Thiên Chúa là người Cha hằng sống sẽ lo cho chúng ta hôm nay, sẽ lo cho chúng ta ngày mai và mọi ngày. Người sẽ che chở chúng ta khỏi mọi sự đau khổ, hoặc ban cho chúng ta nguồn sức mạnh không bao giờ cạn để chúng ta chịu đựng. Hãy bình an và bỏ đi tất cả sự lo lắng và tưởng tượng.” Hàng chữ này hình như nói thẳng với cô. Cô vào nhà thờ, đến quì trước Thánh Thể, và cầu nguyện cho ơn sủng biết nhận những dòng chữ cô vừa đọc vào trong tâm hồn. Trong lúc đang cầu nguyện, cô cảm thấy một sự bình an phủ đầy và làm cho tâm hồn lắng đọng lại.

Hai tuần lễ sau đó, cô Ann đã trải qua một cuộc giải phẫu thành công. Niềm tin vào Chúa và sự bình an trong tâm hồn chiếu tỏa ra trong con người cô trước và sau cuộc giải phẫu được các phóng viên và nhà báo ghi nhận và loan đi rộng rãi. Ngay tức khắc, cô trở thành nguồn linh cảm cho hàng ngàn bệnh nhân ung thư trên toàn thế giới.

Ông bà anh chị em thân mến. Câu truyện cô Ann, nữ minh tinh màn bạc Hoa kỳ trên đây, giúp những ai biết lắng nghe, tiếp nhận lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay, và đưa vào trong tâm hồn. Chúng ta tìm được lời Chúa phán này, khi Chúa Giê-su đến nhà ông Giai-rô để chữa cho con gái ông. Một số người chạy đến báo tin cho ông biết con gái ông đã chết, không cần làm phiền đến Chúa nữa. Chúng ta hình dung ngay lúc đó có thể ông Giai-rô đã khóc, như trước khi ông mở lời nói, thì Chúa phán: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin.”

Đây cũng là sứ điệp đức tin và lòng cậy trông mà Chúa nói với bà Ann qua dòng chữ viết trên cánh cửa nhà thờ, và cũng là sứ điệp của đức tin và lòng cậy trông mà Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay trong bài Tin mừng. Mỗi người chúng ta đây đều có những sự kiện hay hoàn cảnh làm cho chúng ta khủng hoảng và lo sợ, hay có những thập giá phải vác trong đời sống. Hoặc như ông Giai-rô trong bài Tin mừng, có những người thân đang đau bệnh trầm trọng, hay là một người già lão hay là thanh thiếu niên đang sống trong hoàn cảnh khó khăn, hoặc đang lo sợ cho tương lai. Mỗi hoàn cảnh đều có thể lấy đi sự bình an trong tâm hồn, hay làm cho chúng ta bất an, lo sợ. Và như nói với ông Giai-rô, Chúa cũng nói với mỗi người chúng ta “Con đừng sợ, hãy cứ tin.” Hay như Chúa nói với cô Ann qua dòng chữ viết trên cánh cửa nhà thờ “Thiên Chúa là người Cha hằng sống sẽ lo cho chúng ta hôm nay, sẽ lo cho chúng ta ngày mai và mọi ngày. Người sẽ che chở chúng ta khỏi mọi sự đau khổ hoặc ban cho chúng ta nguồn sức mạnh không bao giờ cạn để chúng ta chịu đựng. Hãy bình an và bỏ đi tất cả sự lo lắng và tưởng tượng.”

Nhưng nếu nhìn vào hoàn cảnh cuộc sống, chúng ta vẫn có những băn khoăn, lo lắng, và không biết phải làm gì nếu chúng ta cảm thấy khó đặt niềm tin vào Thiên Chúa? Chúng ta không biết phải làm gì để có sự an bình trong tâm hồn như cô Ann? Hay phải làm gì để có một niềm tin như ông Giai-rô? Xin thưa câu trả lời của những băn khoăn trên nằm trong câu truyện của cô Ann và chúng ta cũng phải làm như cô đã làm. Chúng ta phải quì trước Thánh Thể và kêu cầu Chúa ban cho chúng ta ơn sủng để chúng ta tin Thiên Chúa yêu thương chúng ta hơn chính chúng ta yêu thương chúng ta. Chúng ta phải quì gối xuống trước Thánh Thể cầu xin ơn sủng biết tin vào Thiên Chúa là một người Cha nhân từ luôn ở bên cạnh và đồng hành với chúng ta. Tôi tin rằng nếu chúng ta can đảm thực hiện việc này trong tâm tình phó thác, như ông Giai-rô và cô Ann đã làm, chắc chắn chúng ta cũng sẽ cảm nhận được sự bình an trong tâm hồn giống như của họ. Chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm được sự lắng đọng trong tâm hồn, nhận được một niềm tin như của họ, nhận biết Thiên Chúa luôn luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, và sẵn sàng làm bất cứ điều gì tốt đẹp nhất cho chúng ta.

Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thành tâm và chăm chú lắng nghe Lời Chúa để củng cố niềm tin của chúng ta. Và xin Chúa luôn hiện diện, đồng hành, và ban cho chúng ta sức mạnh để đối diện với mọi hoàn cảnh cuộc sống trong ơn sủng bình an và hy vọng của Chúa.

Về mục lục

 

 

GIẢI THOÁT KHỔ ĐAU

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Người xưa có câu : “nhất lý nhì lỳ”; sợ kẻ “lý sự” vì ở trong mọi tình huống họ vẫn đưa ra được những lý lẽ thuyết phục, khiếp “người lỳ”, vì họ có thể liều mạng trong bất cứ tình cảnh nào. Xã hội luôn ghi nhận tầm cỡ của người học sâu hiểu rộng; hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi, chúng ta thường được nhắc nhở phải dè chừng những kẻ dám tuyên bố cùi không sợ lở.

Đau khổ có thể đến từ bản thân ốm yếu bệnh tật, vì muốn được khỏi, người trưởng hội đường xưa kia đã lý sự về quyền năng đặt tay chữa bệnh của Chúa Giêsu. Sự tin tưởng vào Thầy Giêsu có khả năng chữa “bá bệnh”, cũng đã biểu lộ qua sự liều lĩnh của người phụ nữ bị mắc bệnh “loạn huyết” suốt 12 năm.

Nhìn lại thực tế cuộc sống hôm nay, có thể rất nhiều người thất bại chỉ vì họ lý sự, có người lì, liều, phải chết giống như họ là những con “thiêu thân” cứ thấy ánh sáng là lao vào. Đồng ý rằng xã hội luôn có người tài đức xung quanh chúng ta, nhưng làm gì để người khổ đau được trợ giúp và người đức độ tài năng sẽ sử dụng được hết công suất ? Người tài có đất “dụng võ”, kẻ đau bệnh gặp đúng thầy đúng thuốc, mới là hả hê trong hạnh phúc mà cộng đồng nhân loại vẫn muốn xảy ra trong cuộc đời này.

Ông trưởng hội đường đã ý thức về căn bệnh của con mình nguy hiểm đến phải chết; người phụ nữ hiểu rằng bệnh tình của bà từng chữa chạy hết nơi này đến nơi khác nhưng chỉ tiền mất tật mang…. Người thầy Giêsu và bệnh nhân trong Tin-mừng hôm nay cho ta cảm giác như là cuộc gặp tình cờ, người bệnh được cứu chữa, người thầy Giêsu có dịp được chia sẻ sứ mạng yêu thương. Đấng có thể giải thoát đau thương chết chóc thành vui say hạnh phúc, miễn sao niềm tin của họ được minh chứng.

Bằng cách nào ta ý thức cuộc sống này đầy khổ đau để rồi ta khao khát tìm kiếm hạnh phúc thật; một khi nhận ra sự mong manh của phận người, ta sẽ ngồi yên hay sẽ phấn đấu ? Ông trưởng hội đường nếu không đủ tin tưởng còn nước còn tát, chắc ông chẳng tìm gặp Đức Giêsu; bệnh tình của người đàn bà nếu có thể chữa trị dễ dàng, hẳn bà ta đã không phải liều mình chạm đến gấu áo Đức Giêsu để làm gì.

Tại cuộc sống trần thế, của cải vật chất, địa vị danh vọng, lúc nào cũng hấp dẫn, nếu sứ mạng cứu độ là chữa bệnh thể xác, hẳn Đức Giêsu năm xưa đã cùng với các học trò mở phòng mạch khám chữa trị, và các tông đồ cũng giầu to rồi. Người trưởng hội đường và người phụ nữ hôm đó tìm gặp Đức Giêsu trước hết là minh chứng niềm tin của mình, ước mong được giải thoát khỏi khổ đau, họ đã được chữa lành, đứa bé được sống lại. Đám đông dân chúng lúc ấy thì cảm nhận được năng lực phi thường của Đấng có thể làm cho kẻ chết sống lại, thật là hạnh phúc.

Sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu không chỉ đơn thuần là làm phép lạ chữa bệnh, hay thu hút đám đông, nhưng ở khắp mọi nơi, Ngài luôn cần con người ý thức, muốn thoát khỏi khổ đau, mỗi người hãy thể hiện niềm tin, và hãy hành động từ niềm tin của mình. Đức Giêsu dù không đủ thời gian để chữa hết mọi người đau yếu ở It-ra-en, nhưng qua các thời đại, Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh. Đức Giêsu hôm nay vẫn đang sẵn lòng với những ai xét thấy mình có bệnh, có tội, biết tìm gặp Ngài để được tháo gỡ những đau bệnh thể xác, tâm hồn, đó cũng là việc cần thiết mà chúng ta nên giúp nhau đón nhận tình yêu thương của Chúa.

Bất lực lớn nhất của ông trưởng hội đường là ông có tiền có của, có quyền lực trong tay, nhưng ông không thể tự cứu con của mình. Bất lực không thể diễn tả nổi, khi người phụ nữ đã tìm thầy chạy thuốc suốt 12 năm, tốn biết bao tiền, mất biết bao công sức… Niềm vui của Đức Giêsu không phải là thu hút một số đối tượng nhìn tới phép lạ, nhưng là do ông trưởng hội đường, và người phụ nữ đã biết thể hiện niềm tin vào sự hiện diện của Đấng có thể cứu chữa cả xác hồn.

Đồng ý rằng không phải ai chạm đến Chúa cũng được lành sạch hay khỏi bệnh, vì đám đông dân chúng năm xưa nhiều người mắc bệnh, nhưng đâu phải họ đều được hết bệnh. Cũng không phải hết tất cả những ai nghe danh Đức Giêsu, gặp Đức Giêsu đều sụp lạy, hay xin được giải cứu, vì thời nào mà chẳng có người gặp Đức Giêsu chỉ vì hiếu kỳ. Điều đặc biệt giữa thái độ tìm gặp Đức Giêsu, đó là có người thấy được phép lạ vì mức độ TIN của họ, có người sẽ nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian vì họ đã sống TIN YÊU.

Khi xưa ông trưởng hội đường vì biết lý sự, cất nhắc, mà ông không ngại tìm gặp Đức Giêsu, phủ phục van xin Đức Giêsu đến đặt tay trên đứa bé để nó được sống. Người phụ nữ xưa kia thì thật gan lì bạo dạn, dám cố tình đụng chạm vào một nam nhi giữa nơi đông người, chỉ vì nghĩ là làm như vậy bà sẽ được khỏi bệnh.

Mỗi chúng ta hôm nay vẫn đang có tự do suy nghĩ về cuộc đời của mình, để cân nhắc sẽ tìm gặp ai, và phải thực sự mạnh dạn như thế nào khi gặp gỡ Đấng chúng ta tin thờ, yêu mến. Nếu biết mình có bệnh là cần thiết, thì cũng cần xác tín ai là thầy thuốc có thể chữa trị cả xác lẫn hồn, rồi tìm gặp, sống niềm tin hầu được lành sạch. Chúa Giêsu không phải chỉ là Chúa tài đức của xã hội Do-thái xưa kia, Chúa Giêsu vẫn là Chúa của tình yêu thương đối với mọi tầng lớp nhân loại. Chúa giải cứu được các thứ bệnh thông thường hay nan y, các thứ tội lỗi, kiêu căng tự mãn, miễn sao chúng ta thể hiện được NIỀM TIN, nghĩa là cộng tác với ơn ban. Amen.

Về mục lục

 

 

QUYỀN NĂNG TRÊN SỰ CHẾT

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Theo thống kê gần đây cho thấy, tỷ lệ người chết vì ung thư tại Việt Nam tăng cao báo động khoảng 57%. Mỗi ngày có khoảng 250 người chết vì ung thư. Nhiều nguyên nhân đưa đến ung thư, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là các hóa chất độc hại mà con người tiếp xúc mỗi ngày, đặc biệt là trong ăn uống. Các thực phẩm, trái cây đã bị những người vô lương tâm tẩm ướp hóa chất, cùng với thói quen ăn uống quá dễ dãi của người Việt, khiến cho tình trạng ung thư gia tăng. Một người đi khám bệnh mà bác sĩ kết luận ung thư, thì đồng nghĩa là đã nhìn thấy cái chết trước mặt.

Chết là một sự thật không thể tránh né. Cho dù khoa học có tiến bộ đến mấy, thì cũng chỉ có thể kéo dài cuộc sống được một thời gian ngắn mà thôi, chứ không thể thoát được cái chết. Người giàu cũng chết, người nghèo cũng chết, không ai có thể thuê người chết thay mình được. Tuy nhiên hôm nay, Kinh Thánh cho chúng ta thấy có một Đấng đã thể hiện quyền của mình trên sự chết. Ngài làm cho thần chết phải kiếp sợ và chạy trốn. Đó là Đức Giêsu, Chúa chúng ta. Ngài chính là Đấng chúng ta tôn thờ và tin nhận là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa sáng tạo và làm chủ mọi loài trên trời dưới đất, làm chủ sự sống và sự chết.

Một câu hỏi lớn vẫn dằn vặt con người từ xưa đến nay đó là : Tại sao con người phải chết và ai làm ra cái chết ? Sách Khôn Ngoan đã trả lời : Thiên Chúa là Chúa của sự sống, Ngài làm ra sự sống chứ không tạo ra cái chết. Thiên Chúa không vui khi thấy con người phải đau khổ và phải chết, vì khi dựng nên con người, Thiên Chúa muốn cho con người được sống hạnh phúc. Thiên Chúa còn cho con người có khả năng sống trường tồn bất tử vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Tuy nhiên, kẻ gieo cái chết cho con người chính là ma quỷ. Vì ganh tị với con người, không muốn thấy con người hạnh phúc, nên nó đã tìm mọi cách để giết hại con người. Chúng ta còn nhớ câu chuyện của Adam Eva : Khi dựng nên con người, Chúa đặt vào tay con người món quà cao quý đó là sự tự do. Tuy nhiên, con người đã lạm dụng tự do của mình mà từ chối Thiên Chúa và bắt tay với ma quỷ. Từ đó, ma quỷ đã gieo đau khổ và cái chết vào thế gian này.

Không muốn nhìn thấy con người phải đau khổ và phải chết, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài là Chúa Giêsu đến để cứu chữa con người. Ngài dùng quyền năng của mình để chữa lành đau khổ và cứu sống kẻ chết. Tin Mừng hôm nay kể lại hai câu chuyện với cùng một mục đích chứng minh Đức Giêsu là Thiên Chúa có quyền trên đau khổ và sự chết. Tuy nhiên, để có thể đón nhận quyền năng của Thiên Chúa, chúng ta phải có một lòng tin vững chắc vào Chúa Giêsu.

Câu chuyện thứ nhất là việc Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ bị băng huyết mười hai năm. Đối với luật Do Thái, người phụ nữ bị bệnh này bị coi là người ô uế, bẩn thỉu, không được đến nơi công cộng để tham dự các việc tế tự, bị mọi người xa tránh. Trong tình trạng đau khổ vì đã chạy chữa nhiều nơi mà không kết quả, người phụ nữ này dường như không còn hy vọng vào các thầy thuốc nữa, nhưng bà lại tin Thầy Giêsu có một năng lực siêu nhiên có thể chữa lành cho bà. Nghĩ như thế, bà lén lút chạm đến áo Chúa Giêsu vì bà tin rằng : Tôi chỉ cần chạm đến áo của Ngài thì tôi sẽ khỏi. Bà đã chạm vào và đã được khỏi bệnh. Lòng tin của bà quả là mạnh mẽ, bà tin rằng bà có thể được khỏi bệnh, được giải thoát khỏi đau khổ thầm kín trong tâm hồn chỉ nhờ việc chạm đến áo của Chúa. Lòng tin của bà đã được Chúa Giêsu đáp lại. Ngài khen ngợi và tuyên bố : Lòng tin của con đã cứu chữa con, con hãy về bình an và khỏi bệnh.

Chúa Giêsu không chỉ thể hiện quyền năng trên đau khổ bệnh tật, nhưng Ngài còn thể hiện quyền năng trên sự chết. Câu chuyện thứ hai cho thấy, ông trưởng hội đường đã tin và chạy đến sấp mình dưới chân Chúa để xin Ngài cứu chữa con gái mình : Thưa Thầy, con tôi sắp chết, xin Thầy đến đặt tay cứu sống nó. Tuy nhiên, đức tin của ông đã gặp phải thử thách lớn lao. Nếu như người phụ nữ trong câu chuyện trên phải vượt qua trở ngại là đám đông để chạm được vào áo Chúa Giêsu, thì ông trưởng hội đường đã gặp thử thách lớn hơn trong niềm hy vọng. Khi ông đến tìm Chúa, thì con gái ông vẫn còn sống, ông còn hy vọng. Nhưng khi trên đường trở về, ông được tin là con gái ông đã chết, hy vọng dường như đã hết, người ta khuyên ông đừng làm phiền Thầy nữa.

Trước thử thách khi đối diện với cái chết của người thân, của con gái mình, ông trưởng hội đường dường như muốn buông xuôi, nhưng Chúa Giêsu đã động viên ông : Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi. Những người xung quanh dường như chỉ làm cho bầu khí chết chóc thêm u ám bởi sự khóc lóc ầm ĩ. Chúa Giêsu lại một lần nữa trấn an ông : Em bé không chết đâu, nó ngủ đó thôi. Những người hiện diện đã không tin Chúa Giêsu, họ chế nhạo Người. Chúa Giêsu đã không quan tâm đến những lời chế nhạo ấy, Ngài quan tâm đến đức tin của bố mẹ em bé. Ngài không muốn đau khổ và cái chết làm cho cha mẹ em bé nản lòng, tuyệt vọng, Ngài đã cho cha mẹ em được chứng kiến phép lạ Ngài sẽ làm. Chúa Giêsu đã cùng với cha mẹ em bước đến gần em bé, Ngài cầm tay em và ra lệnh : Này em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy. Em bé liền đứng dậy và đi lại được.

Chi tiết này Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng có quyền năng trên sự sống và sự chết, Ngài chỉ cần ra lệnh, thì thần chết phải rút lui để trả lại sự sống cho em bé và trả lại niềm vui cho cha mẹ của em. Việc Chúa cho em bé con ông trưởng hội đường sống lại, còn là phần thưởng Chúa Giêsu ban tặng cho lòng tin của cha mẹ em. Đau khổ và sự chết có những lúc như đè bẹp con người, dập tắt mọi hy vọng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa để thống trị chúng. Việc Chúa cho em bé chỗi dậy cho thấy em được phục hồi thực sự. Để minh chứng cho mọi người thấy, Chúa đã bảo cha mẹ em cho em ăn trước mặt mọi người, để mọi người thấy rằng em đã được chữa khỏi bệnh tật và cái chết.

Thánh Phaolô trong thư Côrintô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng quyền năng. Ngài là Thiên Chúa tình yêu, là vị Thiên Chúa đã đến để chia sẻ thân phận đau khổ của con người, chịu sự giới hạn trong thân xác của một con người để cảm thông và cứu vớt con người. Sau cùng, Ngài đã dùng cái chết của Ngài để tiêu diệt thần chết, đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, để tất cả những ai tin vào Ngài, thực hành lời Ngài dạy, thì cũng sẽ được thoát khỏi tay thần chết và được hưởng sự sống đời đời.

Ngày nay, cái chết vẫn còn là nỗi ám ảnh, sợ hãi cho nhiều người không có niềm tin, khi phải đối diện với nó hoặc khi chứng kiến cái chết của người thân. Lời Chúa hôm nay là một sự khích lệ, an ủi cho chúng ta. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, Ngài đã chết thay cho chúng ta. Vì thế, cái chết của chúng ta không còn là sự sợ hãi, tuyệt vọng nữa, mà là ngưỡng cửa bước vào cõi sống, là niềm hy vọng cho mỗi chúng ta. Những ai tin Chúa Giêsu, tuân giữ lời Người, đón rước Chúa vào tâm hồn, thì sẽ không phải chết, nhưng được sống.

Thực tế, nhiều người vẫn cố tình không tin Chúa Giêsu, hoặc là có tin, nhưng chỉ tin một cách hời hợt, không xác tín mạnh mẽ. Vì thế, họ đã để tâm hồn và gia đình mình thành môi trường thuận tiện cho hoạt động của tội lỗi và ma quỷ. Ma quỷ không thể đem đến sự sống, tội lỗi không thể đem đến niềm vui. Vì thế, để có sự sống và niềm vui trong tâm hồn, chúng ta phải tẩy trừ khỏi mình tình trạng tội lỗi và mời Chúa vào tâm hồn, vào nhà mình qua việc rước lễ và các giờ kinh sớm tối. Chúa sẽ xua trừ ma quỷ là kẻ gây ra đau khổ và sự chết trong tâm hồn và gia đình chúng ta.

Chúa Giêsu cũng đang cầm tay mỗi chúng ta, đặc biệt là các bạn trẻ, để mời chúng ta : Này con, hãy chỗi dậy đi. Xin cho chúng ta can đảm chỗi dậy khỏi tình trạng lười biếng, chết chóc, dửng dưng của mình, bám vào tay Chúa để làm lại một cuộc sống mới, một con người mới, con người đã được Chúa dùng cái chết của Ngài để cứu chuộc. Amen.

Về mục lục

 

 

TÍN THÁC VÀO CHÚA LUÔN YÊU THƯƠNG

VÀ CỨU ĐỘ TA

Lm. Đan Vinh – HHTM

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG : Mc 5,21-43

(21) Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. (22) Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, (23) và khẩn khoản nài xin : “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. (24) Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. (25) Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (27) Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, (28) vì bà tự nhủ : “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.(29) Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó, Đức Giêsu cảm thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi : “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. (31) Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. (32) Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. (33) Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. (34) Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (35) Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (36) Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. (37) Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông là ông Gio-an. (38) Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. (40) Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm lấy tay nó và nói : “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !”. (42) Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức người ta kinh ngạc sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.

2.Ý CHÍNH : Ông trưởng hội đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu nên đã được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ nữ bị bệnh băng huyết cũng nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu nên cũng được lành bệnh. Điều này cho thấy: Đức Giêsu đến để giải thoát loài người khỏi hậu quả của tội lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng ơn cứu độ ấy, người ta phải đặt trọn niềm tin vào Người.

3.CHÚ THÍCH :

-C 21-24 : + Bờ Biển Hồ : Biển Hồ nói đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1) hay Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1). Đây là Biển Hồ có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12 km. Tại Biển Hồ này Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ như: dẹp yên sóng gió (x. Mc 4,35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-7), đi trên mặt biển (x. Ga 6,16-21). Cũng tại vùng Biển Hồ này, Đức Giêsu đã chữa lành các bệnh nhân (x. Mt 14,14.35-36). Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-21; 15,32-39).+ Viên trưởng hội đường: Là người phụ trách việc phụng tự trong hội đường Do Thái. Khi đi giảng đạo, Đức Giêsu thường đến các hội đường Do Thái vào ngày Sa-bát để rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh (x. Mt 4,23; Lc 4,31-37.44). + Ông ta sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin: Thái độ sụp xuống dưới chân Đức Giêsu và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ của ông. + “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” : Đặt tay là khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa người đặt tay và vật hay người được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân ám chỉ các phép bí tích do Đức Giêsu lập ra sau này để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.

-C 25-28: + Bà kia bị băng huyết đã mười hai năm: Bệnh băng huyết là một loại bệnh phụ khoa, làm cho người phụ nữ bị ra ô uế theo Luật. Bệnh nhân bị bệnh này không được đụng chạm tới ai để tránh cho họ khỏi trở nên ô uế (x. Lv 15,25-27). + Bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”: Chính nhờ tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giêsu, mà bà này đã vượt qua đám đông để tới gần Đức Giêsu và bà còn dám vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm vào áo của Người.

-C 29-31: + Bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh: Chạm đến áo Đức Giêsu cho thấy cử chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm phát sinh đức tin trong tâm hồn. Nhờ đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh. + “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”: Đức Giêsu muốn cho người phụ nữ ý thức rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền năng phát xuất từ Người và do ý định của Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của Chúa còn có mục đích cho các môn đệ và đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ đó, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai.

-C 32-34 : + Bà này sợ đến phát run, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình : Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê tưởng là chỉ mình bà biết, nhưng đã bị Đức Giêsu phát hiện. + Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người : Đức tin của người đàn bà này lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây được Đức Giêsu quan tâm sửa dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc bách bà thêm can đảm đến phủ phục và thú nhận sự thật với Người. + “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” : Đức Giêsu cho thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng cậy trông vào Người, chứ không phải cái áo Người đang mặc chữa lành bệnh cho bà.

-C 35-37 : + “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa ? : Qua câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức Giêsu có thể phục sinh kẻ chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông Gia-ia. + “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”: Sự im lặng của Gia-ia khi nghe báo tin con gái ông đã chết, cho thấy ông vẫn kiên trì với đức tin. Vì thế, Đức Giêsu đã khích lệ ông : “Chỉ cần tin thôi” hay “Cứ vững tin là được”. Qua câu này, Đức Giêsu muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị chao đảo, như có lần Người đã nói : “Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9,23). + Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an : Ba ông này luôn theo sát Đức Giêsu trong các biến cố quan trọng (x. Mc 5,37; 9,2; 14,33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông, nhưng Đức Giêsu cũng cho ba môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho hậu thế biết (x. Ga 19,35). Sở dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng của ba người mới có giá trị (x. Đnl 19,15; Mt 18,16).

-C 38-40 : + “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ?” : Những người khóc lóc kêu la nói đây là những người khóc mướn. Họ được tang gia nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi khi có khách đến viếng người chết. + Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy ! : Trong Thánh Kinh, sự chết được diễn tả bằng nhiều kiểu nói : “Một số đã an nghỉ” (x. 1 Cr 15,6); “Về những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4,13); “an giấc trong Đức Giêsu” (x. 1 Tx 4,14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giêsu cũng nói : “La-da-rô bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11,11). Ở đây, khi khẳng định cô bé chưa chết, mà chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giêsu báo trước việc Người sắp cho em sống lại, được thức dậy sau một giấc ngủ. + Họ chế nhạo Người, nhưng Người bắt họ ra ngoài : Sự kiện này cho thấy : Những người không tin và chế nhạo thì không đáng được chứng kiến phép lạ như có lần Người đã nói : “Không nên lấy của thánh mà ném cho chó. Cũng không nên vất ngọc trai trước mặt con heo !”.+ Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm : Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé, và ba môn đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những kẻ có thiện chí và đức tin nên được Người cho chứng kiến phép lạ để gia tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được cho thêm để nên dư dật !”.

-C 41-43 : + “Này bé, Thầy truyền cho con : Chỗi dậy đi !”: Cũng như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời là mọi sự xuất hiện (x. St 1,3.6.9.11.14), ở đây Đức Giêsu cũng chỉ ra lệnh là em bé kia lập tức sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ trên cả người sống lẫn kẻ chết (x. Mt 28,18). + Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy : Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép lạ này là để tránh sự bồng bột quá khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan niệm ái quốc cực đoan về Đấng Thiên Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, ba môn đệ này mới thuật lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.

4.CÂU HỎI :

1) Biển Hồ nói đây là biển gì ? Đức Giêsu đã làm các phép lạ nào trên Biển Hồ và trong khu vực này ? 2) Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu thường làm gì tại các hội đường Do thái ? 3) Lòng tin của ông trưởng hội đường vào Đức Giêsu biểu lộ qua thái độ nào ? 4) Cử chỉ đặt tay của Đức Giêsu nói lên điều gì ? 5) Vì sao người đàn bà này lại bị Luật Mô-sê cấm đụng chạm tới người khác ? 6) Lý do nào khiến bà ta dám vượt qua điều Luật cấm để đến gần chạm vào áo Đức Giêsu ? 7) Tại sao Đức Giêsu lại hỏi đám đông : ”Ai đã sờ vào áo Tôi ?” 8) Tại sao người đàn bà bị bệnh lại sợ khi nghe Đức Giêsu hỏi đám đông ? 9)Tại sao Đức Giêsu lại đòi người đàn bà phải công khai thú nhận mình đã được khỏi bệnh ? 10) Đức Giêsu nói câu nào để xác định chính Người chứ không phải áo Người đang mặc đã chữa bệnh cho người đàn bà ? 11) Đức Giêsu đã nói gì với ông Gia-ia để khích lệ ông vững tin ? 12) Ba môn đệ nào được chứng kiến phép lạ Đức Giêsu phuc sinh cô bé ? Ba ông này còn được đi theo Chúa trong những trường hợp nào khác nữa ? 13) Trong Thánh Kinh có những câu nào diễn tả sự chết như một giấc ngủ ? 14) Tại nhà Gia-ia, tại sao Đức Giêsu không cho những kẻ cười nhạo Người ở lại ? Những ai đã được chứng kiến phép lạ Người làm ? 15) Đức Giêsu đã làm gì để phục sinh cô bé ? 16) Tại sao Đức Giêsu cấm Môn đệ nói ra phép lạ này ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Người nói với bà ta : “Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) Đức Tin vâng phục của tổ phụ Áp-ra-ham:

Ông Áp-ram khi đã già yếu đã gặp được Đức Chúa và được Ngài chọn làm tổ phụ của một dòng giống tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển. Ngài cũng đổi tên ông từ Áp-ram trở thành Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của những kẻ có lòng tin”. Tổ phụ Áp-ra-ham đã nêu gương tin cậy vâng phục Đức Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi Áp-ra-ham mới được Chúa ban cho một đứa con trai đặt tên là I-sa-ác. Nhưng năm I-sa-ác được 12 tuổi, Đức Chúa một lần nữa đã thử thách đức tin của ông bằng việc ra lệnh cho ông đem đứa con trai duy nhất đi sát tế dâng cho Đức Chúa trên núi. Dù khó chấp nhận điều này, nhưng Áp-ra-ham vẫn tín thác cậy trông và tuyệt đối vâng lời Đức Chúa. Ông đã cùng con trai đi leo lên núi cao và lập một bàn thờ để giết con làm lễ vật tiến dâng cho Đức Chúa, theo như phong tục của chư dân thời bấy giờ. Thấy rõ đức tin tuyệt đối của Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một thiên thần đến ngăn tay ông lại và thay vì dâng con trai, ông được Chúa cho thế bằng một con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Rồi sau đó Đức Chúa đã tái xác nhận những điều Ngài hứa với ông trước đó. Cuối cùng Áp-ra-ham đã thực sự trở thành tổ phụ của một dân tộc tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển như hiện nay (St 22,1-18).

  1. HÃY TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHÚA.

Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên đang đi bách bộ với Chúa Giêsu, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên mặt cát ướt đều in lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại, chàng thanh niên rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của hai thầy trò, nhưng có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là hai dấu chân của mình nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải đi một mình như thế ?” Chúa Giêsu liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu chân đó là của ai ?” Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của Chúa. Nhưng chàng lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc Chúa đi một mình như thế?”. Đức Giêsu liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con, trong những lúc con bị lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là lúc Thầy phải bồng ẵm con trên đôi tay của Thầy đó !”.

3.THẢO LUẬN : Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ biết xin khấn, mà không cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức tin mạnh không ? Đó có phải là thái độ tin thác vào lòng Chúa thương xót của Chúa không ? Tại sao ?

  1. SUY NIỆM :

1) Tầm quan trọng của Đức Tin để được ơn Chúa chữa lành:

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại hai phép lạ nói lên tầm quan trọng của Đức tin nếu chúng ta muốn được ơn Chúa cứu độ:

– Phép lạ thứ nhất là người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Nhờ có đức tin mạnh vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su, nên cuối cùng bà đã được Người chữa cho lành bệnh loạn huyết.

– Phép lạ thứ hai là một bé gái mới chết đang nằm trên giường. Đức Giêsu đã được cha đứa bé là ông trưởng hội đường Gia-ia mời đến nhà để cứu chữa cho đứa con gái của ông sắp bị chết. Dù đứa bé đã chết, nhưng nhờ vững tin vào lời Đức Giê-su: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Ông trưởng hội đường đã không nản lòng bỏ cuộc và tiếp tục đưa Người đến nhà. Cuối cùng nhờ vững tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su mà đứa bé gái con ông đã được Người truyền cho sống lại: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc 5,41).

Trong cả hai phép lạ này, đức tin của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và đức tin của viên trưởng hội đường Gia-ia là điều tối cần để nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.

2) Đức tin của người phụ nữ bị loạn huyết: Loạn huyết là một chứng bệnh nhơ uế. Người Do thái không những coi đó là bệnh nhơ uế về mặt thể lý mà còn coi bệnh này là một thứ gây ô uế về phạm vi luân lý nữa. Cho nên Luật Mô-sê cấm những kẻ mắc bệnh này đụng chạm tới người khác. Vì  bệnh nhân mắc bệnh này chạm tới ai thì người ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết trong Tin Mừng hôm nay không dám kêu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho mình, vì bà sợ nếu để người khác biết bà mắc chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ lập tức bị xua đuổi khỏi đám đông. Bà định tâm sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên Chúa để chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là bà sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được Chúa chữa cho khỏi bệnh. Nhưng Người muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức tin để làm chứng cho Người. Bấy giờ Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người liền nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,30-34).

3) Đức tin của ông Gia-ia: Ông là trưởng của một hội đường Do thái. Ông tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su nên khi có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết, ông đã đến kêu xin Đức Giê-su mau đến nhà chữa bệnh cho con ông. Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su về nhà, thì ông Gia-ia đã nghe tin con gái ông đã chết! Nhưng Gia-ia đã không nản lòng bỏ cuộc. Ông đã được nghe lời Đức Giêsu động viên: “Đừng sợ, cứ tin”. Ông đã tin vào lời Chúa, và cuối cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng đã được trỗi dậy sau lời truyền phán của Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc 5,41). Chính nhờ ông Gia-ia biết vững tin vào vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su, mà đứa con gái của ông đã nhận được ơn Chúa cứu độ.

4) Sống đức tin trong cuộc sống hôm nay:  

 – “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8,25):

Đức tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng ta đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô biên của Chúa Giê-su. Mỗi khi gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện với những vấn đề  vượt quá sức tự nhiên của mình. Như các môn đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa đang ngủ yên trong tâm hồn chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8,25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách đức tin yếu kém của chúng ta: “Sao nhát thế ? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin ?” (Mc 4,40). Nhưng đồng thời Người sẽ cũng sẽ thương ra tay thực hiện những điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta. “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

– “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36):   

Có nhiều người khi gặp phải những tình huống khó khăn mà cầu xin Chúa không được như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn cầu xin gì nữa. Khi gặp phải tình huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su trấn an ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực sự hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo ý chúng ta xin, như lời Chúa Giê-su đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11).

– “Đừng theo ý con một xin vâng ý Cha”  (Mt 26,39):

Khi tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương Người để bỏ cái tôi ích kỷ tự mãn của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác tập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu theo ý riêng mình, nhưng hãy cầu xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su: “Đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện theo kinh Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta nên khí cụ bình an của Chúa như lời Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…”.

– Phải sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa:

Trong các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có sự cộng tác của con người. Chẳng hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7); Trong phép lạ về nhân bánh ra nhiều, Chúa chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43); Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn chính anh mù phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40); Trong cuộc sống đời thường, Chúa luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết các khả năng của chúng ta, và Chúa chỉ can thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn ngữ: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, con hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.

– Tất cả đều là hồng ân: Sau khi kết thúc công việc, chúng ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu chẳng may bị thất bại, chúng ta cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin thì : “Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả những gì xảy đến cho ta đều là hồng ân của Chúa ban và đều sinh ích cho phần rỗi đời đời của ta.

5.LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Tai con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi miệng con đã nhiều lần được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa được khỏi các đam mê tội lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm xa lánh dịp tội cho con, nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

 

 

TA-LI-THA KUM

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

1. Thân phận con người

Đức Giê-su thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ làm cho sống lại. Hai phép lạ này liên quan đến hai nghịch cảnh của đời sống con người, trong đó có những người thân yêu của chúng ta và có khi, có cả chúng ta nữa.

– Người cha có đứa con gái mới 12 tuổi đã chết. Sự bất hạnh của em bé, nhưng cũng là nỗi đau của bố, của mẹ, của cả nhà. Theo thánh sử Mát-thêu, em bé đã chết rồi (x. Mt 9, 18), còn theo thánh sử Mác-cô và thánh sử Luca, lúc người bố đến kêu xin Đức Giêsu, thì em bé chưa chết, nhưng lúc Ngài đang trên đường tới nhà, cháu bé mới chết (Mc 5, 35; Lc 8, 49). Chi tiết này làm bật lên nỗi đau của người bố và của cả gia đình là một nỗi đau kéo dài.

– Người phụ nữ, có lẽ đã lớn tuổi, mang một thứ bệnh kín đáo trong người đã 12 năm. Có những thứ bệnh ai cũng biết, nhưng cũng có những thứ bệnh chỉ có một mình biết, kéo dài, nỗi đau triền miên.

Hai nghịch cảnh của hai lứa tuổi nói cho chúng ta thật nhiều về thân phận và những vấn đề muôn thủa của con người: bệnh tật và cuối cùng là cái chết, có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào; bệnh tật và sự chết làm bật lên sự liên đới của nhiều người; bệnh tật và sự chết tất yếu đặt ra cho con người vấn đề Thiên Chúa, hay rộng hơn những vấn đề liên quan đến Thiên Chúa: nguồn gốc, cùng đích, ý nghĩa đời người, Tuyệt Đối… và buộc phải lựa chọn tin hay không tin.

Và Lời Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu-Ki-tô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận con người như thế nào.

2. Lòng tin

a. Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ:

Tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi,
là sẽ được cứu.
(c. 28)

Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng thánh hay thánh tích, để được chữa lành hay ơn lành. Nhưng để được chữa lành thực sự, nghĩa là không chỉ ở bình diện thể lý vốn mau qua, nhưng con người trọn vẹn, chúng ta được mời gọi đi vào tương quan mãi mãi với một ngôi vị, Đức Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa.

Và đó chính là điều mà người phụ nữ được ban tặng, vượt xa nhu cầu chữa bệnh của bà. Được khỏe là một nhu cầu quan trọng, nhưng điều này vẫn chưa giải quyết được hết những vấn đề liên quan đến “sự sống” của một con người. Đời sống con người cần sức khỏe, nhưng khỏe thôi vẫn chưa đủ. Hơn nữa, xét cho cùng, người ta đâu có khỏe được mãi, và có rất nhiều phận người, sinh ra đã tật nguyền. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nói: “lòng tin của con đã cứu con”. “Cứu” ở đây vượt xa vô hạn phép lạ hết bệnh.

b. Cái chết của đứa con, nhưng lòng tin lại là lòng tin của người cha:

Con gái tôi mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên cháu, là nó sẽ sống.

Lòng tin của bố cứu được con mình. Điều kì diệu này được ghi lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người sống và kẻ chết. Vì Chúa cũng yêu thương những người chúng ta thương yêu trong Chúa, nghĩa cách nhưng không, vì “Thiên Chúa Là Nhưng Không”.

Đức Giê-su không quan tâm đến tiếng tăm của mình, nhưng quan tâm đến sức khỏe và sự sống của em bé:

Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. (c. 40)

Sau này trong cuộc Thương Khó, Ngài sẵn sàng mang vào mình cái chết đau đớn và sỉ nhục tận cùng, để hiện diện, cảm thông với mọi đau khổ và mọi cách chết của con người, để bày tỏ lòng thương xót và dẫn chúng ta vào niềm Hi Vọng.

Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. (c. 41-42)

Phép lạ cứu sống em bé thật cá biệt, nhưng đem lại cho nhân loại chúng ta niềm hi vọng thật lớn: tất cả người chết sẽ sống lại, nếu được Đấng Phục Sinh “cầm lấy tay” và nói lời phục sinh: “Trỗi dậy đi!”.

3. Niềm hi vọng

Cách Đức Giêsu đến với mỗi người mỗi khác. Với người phụ nữ, bà cố để đụng được vào gấu áo của Đức Giêsu; nhưng với em bé, Ngài đến tận nơi: “Người đi vào, cầm lấy tay em bé, nó liền trỗi dậy”. Đó chính cũng là cách Chúa ban ơn cứu độ cho từng người, luôn luôn đích thân và duy nhất. Bởi lẽ người ta không thể công thức hóa ơn cứu độ, lề luật hóa lòng tốt của Thiên Chúa được.

Đức Giê-su quan tâm đến sự sống của mỗi người, của cả loài người. Những gì Ngài làm, thật lạ lùng, nhưng cũng thật giới hạn. Vì người phụ nữ cũng sẽ bệnh lại và chết; em bé lớn lên và cũng qua đi. Nhưng đó là những dấu chỉ làm cho chúng ta hướng tới và đặt hi vọng nơi ơn huệ còn lạ lùng hơn: đó ơn huệ sự sống vô hạn trong Chúa và cùng nhau, mà Đức Giê-su Ki-tô chết và phục sinh hứa ban cho chúng ta.

Chính niềm hi vọng đặt nơi ngôi vị của Đức Kitô phục sinh, làm cho chúng ta bình an và can đảm đảm nhận hôm nay phận người của mình và thân phận của cả những người khác nữa, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong gia đình và trong ơn gọi dâng hiến.

Về mục lục

 

 

ĐỤNG ĐẾN ÁO

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu,
có những người đụng vào áo Ngài.
Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý,
đụng lén như sợ bị bắt quả tang.
Ðó là cái đụng của một người phụ nữ,
mười hai năm mắc bệnh băng huyết,
mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi,
mười hai năm bị coi là ô nhơ:
không được đụng đến người khác,
không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ.

Người phụ nữ đụng vào áo Ðức Giêsu
bằng tay và bằng lòng tin,
một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.
“Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”
Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Trong đời sống Kitô hữu,
chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.
Ðụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.
Ðụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen,
không để lại một âm vang nào,
không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.
Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ,
ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.
Hay nói đúng hơn,
vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài.
Ðụng vào Ðấng Thánh để được nên trong sạch.

Chúng ta cần đụng đến Ðức Giêsu mỗi ngày
và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.
Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường,
chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: “Hãy chỗi dậy.”
Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.
Chỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.
Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ:
“Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia:
“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.
Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể,
ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em,
là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng,
ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi,
đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối
trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Về mục lục