Các bài suy niệm Chúa Nhật 13 Thường niên _ A

1589

CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: 2V. 4, 8-11.14-16a;  Rm. 6, 3-4.8-11;  Mt. 10, 37-42

——-

 

Mục lục

  1. Tình yêu dành cho Thiên Chúa(Thiên San,  MTG.Thủ Đức)
  2. Hãy Vững Tin(Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  3. Theo Chúa Giêsu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  4. Người môn đệ Đức Kitô (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
  5. Sống xứng với Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  6. Suy niệm Chúa Nhật XIII Thường niên. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành )
  7. Lớn lên trong Tình yêu (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  8. Cùng vác thập giá với Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
  9. Nghịch lý của Thập giá (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
  10. Hiếu khách  (Lm. Trần Việt Hùng) 
  11. Tiện nghi vật chất (Lm. Vũ Đình Tường)
  12. Được và mất  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  13. Yêu sách của Tình yêu  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
  14. Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của con người (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
  15. Khát khao  (Trầm Thiên Thu)
  16. Hy sinh – Từ bỏ để theo và nên giống Đức Giêsu Kitô (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
  17. Chấp nhận vác Thập giá theo Chúa để sống vui  (Lm. Đan Vinh)
  18. Địa chỉ tối ưu  (Lm. Giuse Nguyễn văn Nghĩa)
  19. Chúa Nhật XIII Thường niên_A  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
  20. Thiên Chúa luôn bênh vực người công chính (P. Trần Đình Phan Tiến)
  21. Đâu là lẽ sống  (JM. Lam Thy, ĐVD) 
  22. Để xứng đáng với Thầy (Fx. Đỗ Công Minh)
  23. Chúa Nhật 13 Thường niên. Năm A  (Lm. Antôn)

TÌNH YÊU DÀNH CHO THIÊN CHÚA

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Nhắc đến tình yêu, ai trong chúng ta cũng có điều gì đó để nói về nó. Tình yêu là thứ làm cho cuộc sống này thêm thi vị, tươi mát. Như vườn cây vừa được tưới mát, chắc hẳn những ai đang yêu cũng sẽ có cảm nhận được sự mát dịu của tình yêu. Không chỉ là sự mát dịu, tình yêu mang lại cho ta muôn vàn cung bậc cảm xúc khác nhau. Ta chỉ muốn ở mãi trong tình trạng đó. Tất cả những điều nói trên đây phải chăng chỉ mới dừng lại trong những trải nghiệm yêu thương của của con người? Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hướng cái nhìn và sự quan tâm của mình đến tình yêu đối với Thiên Chúa.

“Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10, 37). Thoạt nghe qua, không ít người trong chúng ta sẽ cảm thấy khó hiểu. Đọc thật kỹ những đòi hỏi của Đức Giêsu, chúng ta sẽ thấy, Người không hề ngăn cản, cấm đoán chúng ta yêu thương cha mẹ hay con cái. Đúng hơn, Người mời gọi chúng ta lưu tâm hơn đến tình yêu dành cho Ngài. Tình yêu dành cho Thiên Chúa phải vượt lên trên tất cả, nghĩa là đặt Người lên trên hết và trước hết. Tình yêu ấy chẳng phải là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” (Lc 10, 27).

“Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10, 38-39). Đó là điều kiện thứ hai Chúa mời gọi chúng ta khi theo Chúa và đó cũng là cách thức Thiên Chúa mong muốn chúng ta yêu mến Ngài. Thiên Chúa, qua Đức Giêsu bày tỏ mong ước của Ngài đối với mỗi người chúng ta. Thập giá là những gì gây khó khăn, cản trở chúng ta trên đường về quê trời. Đó có thể là những trở ngại từ bên ngoài, những ham muốn chạy theo tiền tài danh vọng. Có khi thập giá đến từ chính cái tôi của chúng ta. Cái tôi chính là đất ở của tội. Muốn bớt tội thì phải dệt trừ đất ở của nó. Nhưng thật ra, không phải muốn diệt là có thể diệt được. Trên đoạn đường đi, có những thập giá chúng ta có thể loại bỏ nó ngay được, nhưng cũng có những cái chúng ta phải chấp nhận mang lấy nó, vác lên vai mà đi. Đức Giêsu mời gọi chúng ta vác thập giá mình mà theo Ngài là thế. Thậm chí, có khi vì Chúa, chúng ta phải chấp nhận liều mất mạng sống mình.

Thực ra, Đức Giêsu không chỉ mời gọi chúng ta vác thập giá mình nhưng chính Ngài đã làm gương cho ta trước nhưng tâm tình của Ngài khác xa với tâm tình của chúng ta. Đức Giêsu đã dùng nó như phương thế để bày tỏ tình yêu cứu độ của Ngài dành cho nhân loại, và sự vâng phục tuyệt đối dành cho Chúa Cha trong tình yêu của người con thảo. Đức Giêsu đã biến thập giá gỗ nặng vai trở nên nguồn ơn cứu độ cho chúng ta. Bởi không phải ai khác bị treo trên thánh giá mà chính là Con Một Thiên Chúa đã hiến mình vì ta, chấp nhận vác lấy thập giá, chịu chết trên thánh giá để cứu độ nhân loại. Chiêm ngắm Đức Giêsu trên thánh giá, Đấng đã kêu gọi chúng ta vác lấy thập giá mình mà theo Ngài, chúng ta được mời gọi mang lấy tâm tình của Ngài. Để khi biết vui lòng đón nhận, vác lấy thập giá đời mình mà theo Chúa, chúng ta cũng biết biến những gì là nặng nề, khó chịu của thập giá trở nên phương thế bày tỏ tình yêu dành cho Thiên Chúa và chuyển cầu cho tha nhân.

Tình yêu dành cho Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở đó nhưng tiếp tục mở ra cho chúng ta những lời mời gọi.Theo Chúa, chúng ta không chỉ được mời gọi vác lấy thập giá của mình, nghĩa là không chỉ dừng lại ở việc loay hoay với cái tôi “cồng kềnh”  của bản thân nhưng ta còn được mời gọi mở rộng tầm nhìn, hướng sự quan tâm đến tha nhân. Đức Giêsu đã bày tỏ tình yêu của Ngài cho chúng ta qua cái chết trên thập giá. Người không chỉ chết cho ta mà còn muốn nên một với chúng ta. Khi chúng ta làm một nghĩa cử tốt đẹp cho người khác là ta đang làm cho chính Ngài. “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10, 40). Điều này mời gọi chúng ta phải có khả năng nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nơi tha nhân. Bởi đó, khi làm bất cứ điều gì cho tha nhân, chúng ta hãy nhớ rằng, có Chúa đang hiện diện nơi mỗi người. Ý thức được điều đó, chúng ta sẽ biết trao yêu thương hơn là oán thù, biết hy sinh mà không tính toán.

Lạy Chúa! Xin dạy chúng con biết yêu mến Chúa. Chúng con biết rằng, ngoài Chúa ra chẳng còn ai có thể dạy chúng con yêu mến như Chúa mời gọi. Xin Chúa giúp chúng con biết dành cho Chúa chỗ nhất trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa ở cùng chúng con. Amen

Về mục lục

.

HÃY VỮNG TIN

Tuần 13 TN-A Mt 10, 37-46

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Yêu cha yêu mẹ, thương con thương cháu, là nghĩa vụ, là bổn phận, ai cũng muốn chu toàn. Đói ăn vụng, túng làm liều, bần cùng sinh đạo tặc, vẫn được hiểu là quá nghèo, là khổ đau cùng cực rất cần một lối thoát. Phấn đấu, nỗ lực, sáng suốt, sử dụng tự do để phân biệt sai quấy ở đời này là rất tốt, cho dù phải đối diện với nhiều thứ phức tạp, người ta vẫn phải giữ vững lập trường của mình. Tương quan gia đình, xã hội, mến bạn yêu thầy, biết mang kiến thức ra thực hành nơi cuộc sống, luôn được gọi là khôn ngoan số một. Biết bao người đang hạnh phúc vì lắm tiền nhiều của, không ít người tâm đắc vì có trong tay nhiều bằng cấp, dẫu biết rằng sức khoẻ, vật chất, chức quyền, chỉ là cái phao đỡ nâng phút chốc vượt biển trần. Quan nhất thời, dân vạn đại, sức mạnh vĩ đại và bền vững đâu phải quyền cao chức trọng, mà là tình yêu và bình an.

Đức Giêsu nói đến một sự thật, một đòi hỏi hết sức quyết liệt: “kẻ nào yêu cha mẹ hơn Thầy thì chẳng xứng đáng với Thầy”. “Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, chẳng đáng làm môn đệ của Thầy”. Buông bỏ vật chất của cải để mong có sự thanh thoát, tưởng là khó khăn lắm, mấy ai làm được ! Để theo Thầy, làm môn đệ Đức Giêsu, phải giới hạn tình yêu thương với cha mẹ, người thân, đúng là một chọn lựa đáng sợ ! Chưa hết, mạng sống con người là cao quý, thủ thân thủ thế, phòng vệ, để mong được tồn tại tưởng là hợp lý, ấy vậy mà Đức Giêsu lại quả quyết: “kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất”. Đúng là nghịch lý ở đời không khỏi làm người ta phải nghi ngờ: thời đại gì mà bạn bè té ngã thì người ta cười, còn điện thoại rơi, mất, thì lại buồn, lại khóc !

Theo Thầy đến cùng tận, người học trò sẽ đi con đường chật hẹp, phải vác thập giá không trì hoãn, nghĩa là cần có niềm tin tuyệt đối: “kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó”. Đâu phải tự nhiên mà người xưa biết dạy con cháu: đường dài mới biết ngựa hay, sống lâu mới biết người ngay kẻ tà. Đâu phải cứ nhiều tiền lắm của là có sức khoẻ tốt, cũng chẳng phải thông minh, khôn khéo, ắt sẽ có thành công. Thực ra, có đủ tình yêu thương, người ta mới làm chủ được mình, mới biết chọn lựa đúng, và quyết tâm hướng đến niềm vui hạnh phúc ở phía trước. Hãy vững niềm tin: chỉ những ai trải qua đau khổ tột cùng, họ mới cảm nhận thế nào là hạnh phúc tột cùng. Hãy vững tin, chỉ những ai đi con đường thập giá, chỉ những ai dám đối diện với đau khổ, người ấy mới hiểu có sức mạnh đỡ nâng, ở đâu có khổ đau, ở đó có tình yêu Đức Kitô.

Hãy vững tin, một khi là người khôn ngoan, bạn sẽ học được sự thật này: rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm. Là học trò Đức Giêsu, dù chưa hiểu, chưa thông, về đau khổ thập giá đang tiềm ẩn nơi cuộc sống, mỗi người vẫn được tự do minh chứng, để rõ hơn thế nào là tin, là yêu. Dù khái niệm phần thưởng ở hiện tại và tương lai chỉ lơ mơ, Đức Giêsu vẫn đang khích lệ: “kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Cha Thầy”. Dù cái biết của ta còn nhỏ bé, ta vẫn có thể mường tượng được: thứ được bán với giá rẻ nhất bây giờ là lời hứa, thứ đắt nhất bây giờ là niềm tin. Yêu người yêu thương mình để được yêu lại, gọi là đánh đổi: hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Hãy vững tin, dù Đức Giêsu vẫn không ngừng giang tay trên thập giá, thì tình yêu và sức mạnh của Ngài vẫn đủ để giúp ta cảm nhận được sự kỳ diệu của khổ đau.

Hãy vững tin, vì một gánh sách vở không bằng một thầy giỏi, cả trăm người giầu có, không thể so sánh với cô giáo hiền. Công bằng xã hội là có qua có lại mới toại lòng nhau. Bình đẳng, sòng phẳng, trước đối tác làm ăn là đôi bên phải cùng có lợi, trẫm chết bệ hạ cũng phải băng hà. Đức Giêsu không chủ trương phải trở nên khờ dại, chịu thua thiệt, mà tất cả những ai là môn đệ, là học trò của Ngài đều phải có niềm tín thác vào tình yêu, hầu dám sống từ bỏ, dám thể hiện đức ái kitô. Hãy vững tin, Đức Giêsu đã nếm trải sức nặng của khổ đau thập giá, đã nới rộng đức yêu thương cho mọi người mọi thời, dù khối óc và trái tim của ta giới hạn. Hãy vững tin, hãy đặt tình yêu vào hành động, đừng bao giờ trao trọn niềm tin vào lời nói. Hãy vững tin, vì Chúa không bao giờ quên ta, cho dù là một chén nước vẫn được phần thưởng xứng đáng.

Hành trình đời người, có khổ đau, thất bại, đừng nản chí, hãy bình tĩnh cám ơn đời, cám ơn trời, vì đó là dấu hiệu chắc bạn đang sống và sẽ nhận lãnh phần thưởng cân xứng với những khó khăn đã vượt qua. Hãy vững tin, nếu được thọ giáo với thầy giỏi, được làm môn đệ người đức độ, được cộng tác làm việc với người nổi tiếng, đó là vinh dự. Hãy vững tin, hãy bày tỏ tự do của mình để Chúa làm chủ, để được gọt giũa, được làm môn đệ, được thấy giá trị thật của tình yêu đang biến đổi ta. Hãy vững tin, ai cũng có cơ hội trở thành môn đệ Đức Giêsu, ai cũng có đủ thời gian thể hiện đức ái với anh chị em mình, dù sức mạnh và tình yêu trong ta còn quá nhỏ bé, hạn hẹp. Xin tình yêu Chúa tiếp tục gìn giữ, đỡ nâng, giúp mỗi người chúng ta có đủ khao khát chu toàn nén bạc Chúa trao phó. Amen.

Về mục lục

.

THEO CHÚA GIÊ-SU

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Có những câu thành ngữ khiến nhiều người không khỏi “hoang mang”: sống để bụng, chết mang chôn ; đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Có nhiều việc làm không mang lại kết quả như ý, để rồi sau đó ta buồn phiền than thở “không ai học được chữ ngờ”: bắn súng không nên phải đền đạn, cái miệng hại cái thân, làm phúc phải tội… Đúng, sai, thật, giả, tốt, xấu, đó là những từ đối nghịch nhau, vậy mà đâu phải ai cũng phân biệt được, để rồi hối tiếc, ăn vạ, đổ thừa cho phận số hẩm hiu. Làm sao ta đủ khôn để phân định thật giả ? Làm sao mắt ta đủ sáng để thấy cuộc đời này đâu là trắng, đâu là đen ? Và làm sao để ta đủ tỉnh táo mà nhận biết đâu là người tốt, đâu là Thầy đức độ mà bước theo xin thọ giáo ?

Theo người có đầu óc kinh doanh để học buôn bán, theo thầy thuốc để học chữa bệnh, theo thầy cô giáo để học chữ, học làm người tốt, còn theo Thầy Giêsu để học sống đức ái, học làm người phục vụ Tin mừng, thật không hề đơn giản tí nào. Theo Thầy Giêsu bằng cả con tim khối óc, theo một cách triệt để như Ngài nói: “kẻ nào yêu cha mẹ hơn Thầy thì chẳng xứng với Thầy”. Theo Thầy Giêsu trọn vẹn không những là phải biết từ bỏ con người cũ của mình, mà còn phải biết sống tín thác, biết để tình yêu Chúa làm chủ cuộc đời mình. “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được”.

Thầy Giêsu đi con đường chật hẹp, tất cả những ai tự nguyện làm môn đệ Ngài, đều được mời gọi đi con đường Thầy đã đi rất phong phú, hầu trở nên môn đệ Đức Kitô, xứng đáng làm con cái Cha trên trời. Mang thân phận con người, Đức Giêsu cũng cần học biết vâng phục thánh ý Chúa Cha, và rất cần đến sức mạnh, tình hiệp thông để chu toàn sứ mạng cứu độ. Theo Đức Giêsu, các môn đệ đã từng bước, từng bước, được mở trí mở lòng, các ông hiểu theo Thầy Giêsu không phải chỉ là đúng, sai, thật, giả, không phải là tận hưởng danh lợi thú ở đời này, mà chính là tin yêu phục vụ. Quy luật gieo gì gặt nấy, ở hiền gặp lành, đó là ơn gọi trở nên người tốt, luôn sống như môn đệ Đức Kitô, đáng lãnh nhận phần thưởng của người công chính.

Ơn gọi bước theo Chúa Giêsu của Thánh Phanxicô Assisi, có phải là phản ánh kỳ lạ cho hậu thế không ? Một thanh niên tài giỏi, con nhà quyền quý cao sang, Phanxicô đã dám bán đi hết phần tài sản của mình chia cho người nghèo, ngay cả tấm áo còn lại trên người, ngài cũng trả lại cho thân phụ. Nhận định của một số người khắt khe cho rằng Phanxicô quả là bất hiếu với cha mẹ. Số khác tích cực hơn cho rằng, Phanxicô đã theo Chúa Giêsu một cách trọn vẹn theo tinh thần của Tin mừng: “ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy”. Theo Chúa Giêsu đơn gian là đi đằng sau Chúa, để Chúa huấn luyện, chỉ dẫn cách sống ơn gọi yêu thương phục vụ mà thánh ý Chúa Cha mời gọi.

Ngày hôm nay, theo Chúa Giêsu sống ơn gọi gia đình, hoặc theo Chúa Giêsu vào chủng viện, dòng tu, trở nên linh mục, tu sĩ, theo Chúa Giêsu sống độc thân giữa trường đời, tất cả đều có chung một tâm tình yêu mến phục vụ. Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh, người thuộc về Đức Kitô, dù ở bậc sống nào cũng được mời gọi chia sẻ, dấn thân hoạt động với danh nghĩa là tiên tri, là người công chính. Ngày hôm nay, số anh chị em đói nghèo cơm bánh ít hơn so với số đói tình người, nghèo tình Chúa, nhưng việc làm nhỏ bé như chia sẻ bát “nước lã”, vẫn là việc cần thiết cho ơn gọi theo Chúa Giêsu.

Người trẻ hôm nay vẫn tâm đắc với câu danh ngôn: đừng vì quá cô đơn mà nắm nhầm một bàn tay, cũng đừng vì quá lạnh mà ôm vội một bờ vai. Hẳn kinh nghiệm đó, ai cũng có thể đọc được là hãy cẩn thận và sáng suốt để phân biệt thật giả, tốt xấu. Đừng lầm tưởng nhất thiết phải có được bằng cấp địa vị trong xã hội, đừng vì lợi lộc vật chất mà bán rẻ lương tâm, đừng vì cơ cực mà gục ngã như câu thành ngữ: đói ăn vụng, túng làm liều. Ơn gọi theo Chúa Giêsu là ơn gọi sống yêu thương, ơn gọi trở nên người công chính, ơn gọi để lãnh nhận phần thưởng cao quý, sau khi hoàn tất công việc được trao phó ở trần thế này.

Người xưa có câu: nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn. Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai muốn trở nên môn đệ của Ngài đều phải ý thức sống từ bỏ, để theo Ngài một cách trọn vẹn, tín thác. Nếu Ngài không sử dụng ta trong sứ mạng truyền giáo ở xa xôi, nghĩa là Ngài muốn ta loan báo tình yêu thương của Ngài ngay tại gia đình mình. Theo Chúa Giêsu mà tài năng, vật chất, sức khoẻ, đều giới hạn, có thể khiến chúng ta sợ hãi, chùn bước, thực ra thì Chúa dư biết khả năng mang vác thập giá của từng người, Ngài chỉ cần tấm lòng của chúng ta đối với Chúa và tha nhân. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

  1. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 10, 37-42
  2. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Chuẩn bị nhân sự tiếp nối công việc truyền giáo ở trần gian, Chúa Giêsu đã tuyển chọn các môn đệ. Tuyển chọn rồi Chúa còn đào tạo để các ngài nên những chứng nhân trung thành của Chúa. Hôm nay, Chúa nêu lên những đức tính cần thiết của người môn đệ.

Người môn đệ của Chúa phải có tâm hồn quảng đại.

Tiên tri Elisêô đã hào phóng đối với gia đình tiếp đón Ngài. Tiên tri là hình ảnh đẹp về các môn đệ của Chúa. Người môn đệ là đại diện cho Đấng sai mình. Người đại diện tốt phải là người trình bày được dung mạo của Đấng sai mình. Chúa Giêsu, Đấng sai ta là người vô cùng rộng lượng. Người đến trần gian không phải để thu tích mà để ban phát. Trọn cuộc đời, Người ban phát không biết mệt mỏi. Người đến không phải để xét xử, luận phạt, nhưng để tha thứ. Người tha thứ một cách dễ dàng cho tất cả những tội nhân đến với Người. Người đến không phải để giết chết, nhưng là để cứu chữa. Người đến cho ta được sống và sống dồi dào. Người môn đệ của Chúa cũng phải có tâm hồn quảng đại, rộng lượng, bao dung như Chúa.

Người môn đệ của Chúa phải sống khiêm nhường.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là những người bé mọn. Chống lại những thói kiêu căng, phô trương, Chúa Giêsu luôn thao thức sao cho các môn đệ của Người trở nên bé nhỏ, khiêm nhường. Bé nhỏ trong tâm tình đạo đức để phó thác mọi sự trong tay Cha. Bé nhỏ về của cải, đừng mang “hai áo, mang theo túi tiền”. Bé nhỏ trong cách cư xử với nhau, đừng tranh giành chỗ nhất, nhưng hãy chọn chỗ chót. Bé nhỏ để quỳ xuống phục vụ: “như Thầy đã rửa chân cho các con, các con hãy rữa chân cho nhau”. Bé nhỏ để sau khi làm mọi việc rồi, hãy nhận mình là “tôi tớ vô duyên bất tài”.

Người môn đệ của Chúa phải biết tập trung vào Chúa Kitô.

Người môn đệ là người chọn Chúa Kitô làm lý tưởng. Người môn đệ cũng là người đi làm chứng về Chúa Kitô. Vì thế mọi lời ăn tiếng nói, cả đến tâm tư tình cảm phải qui hướng về Chúa Kitô. Chúa Kitô phải chiếm vị trí ưu việt trong tâm hồn người môn đệ. Nói thế không có nghĩa là người môn đệ chối bỏ mọi tình cảm chính đáng, dứt lìa những mối liên hệ gia đình. Nhưng có nghĩa là từ nay người môn đệ có yêu thương ai thì cũng là yêu thương trong tình yêu của Chúa Kitô và bằng tình yêu của Chúa Kitô.

Người môn đệ của Chúa sống cho Chúa và chết cho Chúa.

Chúa Giêsu không sống vì mình và cho mình. Người luôn sống vì và cho người khác. Người sống vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Nên mọi việc Người làm đều vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Người là tình yêu hoàn hảo dâng tặng Chúa Cha. Nên Người đã “vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá”. Người sống vì con người và cho con người. Nên người đã ban tặng chính sự sống của Người cho nhân loại, đã hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại.

Nên thánh Phalô khuyên người môn đệ của Chúa hãy bắt chước Chúa mà chịu phép rửa trong sự chết của Chúa Kitô. Hãy yêu mến, sống cho Chúa và chết cho Chúa. Chắc chắn ta không chết một lần, nhưng sẽ chết dần mòn. Chết cho tội lỗi để không bao giờ phạm tội nữa. Chết trong quên mình âm thầm. Chết trong những hy sinh nhỏ bé. Chết trong nhiệt thành phục vụ nước Chúa. Chính khi chết đi như vậy, ta lại được một sự sống mới tràn ngập tâm hồn, sự sống sung mãn, phong phú của Thiên Chúa. Chỉ có những ai đã trải qua cái chết, mới cảm nghiệm được sự sống ấy, Thánh Phanxicô chắc chắn đã trải qua cuộc lột xác ấy nên mới thốt ra được những lời bất hủ: “Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”. Vì thế thánh nhân đã trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô.

Lạy Chúa, xin thanh luyện tâm hồn con, để con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.

III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU

1- Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Chúa có những phẩm chất nào?

2- Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ, Người có thực hành không?

3- Đào tạo nhân sự cho Hội Thánh. Bạn nghĩ đến việc này thế nào? Quan tâm? Giúp đỡ? Đóng góp?.

Về mục lục

.

SỐNG XỨNG VỚI CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Giêsu hôm nay cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh và từ bỏ nữa. “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).

Nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Chúa Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải yêu Chúa hơn cha mẹ, con cái.. Có người đặt câu hỏi: Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Chúa Giêsu, người ta phải dành hết tình yêu đối với Chúa, người theo phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Chúa Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.

Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Chúa Giêsu, nên Ngài thêm: “Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó” (Mt 10, 38-39).

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”t (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Người ta hỏi : Chúa Giêsu có thích khổ đau và thập giá không? Không, Chúa Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là hy sinh và từ bỏ để sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.

Không phải ngẫu nhiên Chúa Giêsu nói đến “Thập Giá”. Vác thập giá bước theo Chúa Giêsu không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.

Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma : “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).

Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.  

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Vào một đêm mưa bão cách đây đã nhiều năm, có một cặp vợ chồng già bước vào gian tiền sảnh của một khách sạn nhỏ ở thành phố Philadelphia của Mỹ và hỏi thuê phòng. Họ ghé vào tránh bão và hy vọng có thể mướn được căn phòng trọ qua đêm.

Tiếp đón họ là một chàng trai có nụ cười rất dễ mến. Chàng trai giải thích rằng trong thành phố của họ đang có ba hội nghị lớn nên tất cả các phòng đều đã có người thuê. Chàng trai ngập ngừng một lát rồi nói tiếp:“Nếu thời tiết tốt, tôi sẽ gửi hai vị đến một khách sạn khác, nhưng làm sao tôi có thể để một đôi vợ chồng đáng mến như hai vị ra ngoài trong trời mưa gió như thế này vào lúc một giờ khuya được? Hai vị có thể ở tạm trong phòng của tôi được không? Nó không phải là phòng sang trọng gì cho lắm, nhưng nó cũng gọn gàng và sạch sẽ. Vì tôi phải trực vào khoảng thời gian này nên tôi có thể nghỉ ngơi ở đây cũng được. Xin ông bà đừng ngại.”

Cặp vợ chồng rất biết ơn và nhận lời trọ lại trong căn phòng đó của anh. Chàng nhân viên nhìn cặp vợ chồng già và mỉm cười với họ, và họ cũng mỉm cười lại với anh.

Nhiều năm sau đó, khi chàng trai trẻ dường như đã quên câu chuyện này, thì bất ngờ, anh nhận được một lá thư kèm cặp vé máy bay. Lá thư là từ cặp vợ chồng già. Họ nhắc lại đêm mưa bão hôm đó với lòng biết ơn sâu sắc cùng lời mời cậu đến thăm New York.

Chàng trai trẻ có đôi chút ngạc nhiên. Cả đêm đó, cậu không ngủ được và nằm suy nghĩ ngẩn ngơ: có lẽ ngày mai họ sẽ dẫn mình đi thăm thành phố một vòng và dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng nào đó chăng? Nhưng nghĩ lại, cậu thấy mọi thứ có vẻ hơi quá, vì chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ thôi, liệu có cần phải tới mức như vậy không?

Sáng hôm sau, cậu đáp máy bay xuống New York. Cặp vợ chồng già có vẻ như đã đứng đợi cậu ở đó từ lâu. Họ mỉm cười, vẫy tay chào từ xa và đón cậu lên một chiếc xe sang trọng. Sau khi đi qua vài con phố, cặp vợ chồng già đưa cậu tới góc ngã tư đại lộ Fifth Avenue, người chồng đưa tay chỉ tòa nhà tráng lệ mới xây ở đó – một cung điện toàn bằng đá đỏ với những ngọn tháp cao vươn thẳng trên nền trời xanh, rồi nói với chàng trai: “Đây là tòa khách sạn mà tôi xây cho cậu, và tôi hy vọng cậu có thể quản lý nó”.

“Ông không đùa đấy chứ?” – Cậu ngỡ ngàng.

“Không. Đây là một đề nghị hoàn toàn nghiêm túc”, người chồng già trả lời bằng một giọng chắc nịch với nụ cười thấp thoáng trên môi.

Công trình tráng lệ kia chính là khách sạn nổi tiếng Waldorf Astoria – nơi tụ họp của tầng lớp quý tộc lớn của New York vào thời điểm đó. Đây cũng là nơi mà các nhân vật cao cấp trên toàn thế giới thường xuyên lui tới để nghỉ ngơi, đặc biệt là các Tổng thống Mỹ khi họ đang còn tại chức.

Người đàn ông già trong câu chuyện này chính là William Waldorf Astor của dòng họ Astor, một trong những gia đình giàu có nhất ở New York vào thế kỉ đó. Còn chàng trai tốt bụng kia chính là George Charles Boldt – vị giám đốc đầu tiên của khách sạn này! (Nguồn: daikynguyenvn.com). 

Thái độ đầy ắp tình người của chàng trai tốt bụng trong câu chuyện trên đây, phần nào giúp chúng ta hiểu sứ điệp của Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay. Ở bài đọc I, trích sách các vua quyển thứ hai kể lại rằng, trên con đường đi thi hành sứ mạng, tiên tri Êlisa đi ngang qua Su-nêm và được một phụ nữ sang trọng mời ở lại dùng bữa tại nhà bà. Mỗi lần lưu lại đây, tiên tri Êlisa được bà đón tiếp một cách chu đáo. Không những thế, bà còn coi vị Tiên tri như một Đấng Thánh đến từ Thiên Chúa và muốn dọn cho vị Tiên tri một nơi ở xứng đáng trong nhà của mình. Bà nói với chồng rằng: “Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó” (2V 4,9-10). Sự hiếu khách của bà đã làm cho tiên tri Êlisa hết sức cảm kích. Vì thế, khi biết vợ chồng bà đã già mà chưa có con, Êlisa đã khẩn cầu cùng Chúa, và lời khẩn cầu của Ngài đã được Thiên Chúa chấp nhận. Tiên tri Êlisa nói với bà rằng: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai” (2V 4,16). 

Cùng một sứ điệp ấy, sau khi đòi buộc các môn đệ và những ai muốn theo Ngài phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên cả cha mẹ và mạng sống của mình, bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập tới việc Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta thể hiện lòng hiếu khách bằng sự đón tiếp và giúp đỡ. Chắc chắn, Ngài mong muốn chúng ta đón tiếp và giúp đỡ hết mọi thành phần trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, khỏe mạnh hay ốm đau, bạn hay thù, chủng tộc hay màu da. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ mời gọi chúng ta đón tiếp ba thành phần sau:

Thứ nhất, đón tiếp các môn đệ: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy.” (Mt 10,40). Chính Đức Giêsu đã đồng hóa mình với các môn đệ, cũng như Ngài tự đồng hóa mình với Chúa Cha. Có lẽ cũng vì sự đồng hóa đó mà trong thực tế chúng ta thấy, từ thời Đức Giêsu cho đến hôm nay, các môn đệ và các đấng kế vị Ngài đi đâu cũng được đón tiếp một cách trân quý. Đặc biệt, ở Việt Nam chúng ta, các Giám mục, linh mục, tu sĩ, những người làm việc nhà Chúa đi bất cứ nơi đâu cũng được người giáo dân yêu mến, và đón tiếp một cách trang trọng như là đón tiếp chính Chúa vậy. Ở cuối đoạn Tin mừng, Đức Giêsu còn cho biết: “Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”(Mt 10,42). Những kẻ bé mọn ở đây không chỉ hiểu là các môn đệ của Chúa, mà còn là những nạn nhân của cường quyền, bạo lực, những người đang phải chịu cảnh đói khát, trần truồng, bệnh tật, hay tù đày(x. Mt 25,35-36). Như vậy, giúp đỡ kẻ bé mọn chính là giúp đỡ các môn đệ, giúp đỡ kẻ bé mọn tức là giúp đỡ chính Đức Giêsu. 

Thứ hai, đón tiếp các tiên tri: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri.”(Mt 10,42). Các “tiên tri” ở đây được hiểu là các kitô hữu. Đặc biệt là các kitô hữu được giao nhiệm vụ thi hành một tác vụ nào đó trong Giáo Hội: nhiệm vụ dạy giáo lý; nhiệm vụ làm việc bác ái; nhiệm vụ loan báo Tin mừng cho dân ngoại…Họ có thể gặp khó khăn hay bị bách hại trong khi thi hành nhiệm vụ. Họ có thể phải chạy trốn “từ thành này qua thành khác”. Những lúc như thế, họ cần đến sự đón tiếp và chở che của mọi người. Vì vậy, nếu ai đón tiếp họ, nhất là trong những lức nguy hiểm như thế thì chắc chắn sẽ được Chúa ghi công, được Chúa trao “phần thưởng của tiên tri.” 

Thứ ba, đón tiếp những người công chính: Đây là thành phần được tôn trọng trong cộng đoàn Giáo Hội. Họ là những tấm gương phản chiếu lối sống mẫu mực: mẫu mực trong đời sống gia đình; mẫu mực trong đời sống cộng đoàn; mẫu mực trong đời sống bác ái yêu thương; mẫu mực trong đời sống đức tin… Vì vậy, họ xứng đáng để được mọi người đón tiếp và tôn trọng. Cho nên, Đức Giêsu mới nói: ai đón tiếp họ thì sẽ được đón nhận phần thưởng của người công chính (x. Mt 10, 41).

Như vậy, lòng hiếu khách không chỉ là một đức tính thiết yếu, một việc bổn phận “cho khách độ nhà” mà còn mang lại cho chúng ta những phần thưởng cao quý. Từ mẫu gương hiếu khách của chàng trai tốt bụng trong câu chuyện trên đây đến mẫu gương hiếu khách của người phụ nữ giàu sang tại Su-nêm và những giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính mình để xét xem: Tôi có lòng hiếu khách không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ những kẻ bé mọn là hiện thân của Chúa không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ những sứ giả của Chúa không?

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chu toàn bổn phận “cho khách độ nhà”, biết sống quảng đại, sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ các sứ giả của Chúa, nhất là những kẻ bé mọn. Nhưng trước hết, xin cho chúng con có lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Amen.

Về mục lục

.

LỚN LÊN TRONG TÌNH YÊU

Bông Hồng Nhỏ

Tình yêu làm cho cuộc sống của chúng ta tươi đẹp hơn. Tình yêu đi từ con tim đến con tim, từ trải nghiệm đến cảm nếm. Khi yêu, con tim ta dành trọn cho người mình yêu. Ta yêu ai thì luôn nhớ về người ấy, nói về người ấy, luôn dễ dàng mở lòng với người ấy, đến độ ta sống cũng là sống vì người ấy. Dường như, người ta yêu luôn chiếm trọn con tim và cuộc sống của ta, chi phối mọi việc ta làm.

Tình yêu có muôn màu và nhiều hương vị, cũng như mang lại cho ta nhiều cung bậc cảm xúc. Tình yêu cha mẹ dành cho con cái là một tình yêu tự nhiên, không cần đền đáp, luôn mong cho con cái được trưởng thành. Dù phải hy sinh, lao nhọc suốt một đời nhưng cha mẹ chẳng than phiền bởi niềm hạnh phúc khi thấy con lớn khôn đã làm tan biến đi tất cả. Con cái đáp lại tình yêu của cha mẹ bằng lòng hiếu thảo cũng là lẽ phải đạo. Thế nhưng, cả hai tình yêu trên đều không được lớn hơn tình yêu Chúa Kitô. Bởi, “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10, 37). Không những thế, Ngài còn đòi hỏi người môn đệ: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10, 38). Theo Chúa là chọn con đường thập giá nhưng nếu không vác thập gái mình mà theo Thầy thì cũng không xứng với Thầy. Chúa Giêsu đòi hỏi cách quyết liệt và tuyệt đối người môn đệ khi theo Chúa phải đặt tình yêu Chúa Kitô lên trên mọi mối tương quan gia đình, trên chính mạng sống của mình nữa. Khi tự hỏi, tôi có yêu cha mẹ hơn Thầy Giêsu không thì thật khó có câu trả lời chính xác. Nếu ta yêu cha mẹ hơn nghĩa là ta không xứng với Thầy. Thầy đã yêu ta và dành cho ta mọi sự. “Con có phải là đứa con TA yêu dấu, một đứa con TA rất mực mến yêu? Vì mỗi lần nhắc tới con, TA lại thấy nhớ thương, nên lòng TA bồi hồi thổn thức, TA thương con, thương con thật nhiều.” (Gr 31, 20). “Vì con, nước mắt TA chan hòa.” (Is16, 9). Trong những trường hợp đòi hỏi phải chọn lựa, ta luôn nhớ rằng phải đặt Thiên Chúa lên hàng đầu. Khi đã yêu Thầy, ta sẽ sẵn sàng vác thập giá mình mà theo Thầy bởi khi ấy, con tim và cuộc sống của ta đã hướng trọn về Thầy rồi. Chính lúc ấy, “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi.”( 2 Cr 5, 14).  Ta sẽ tìm kiếm sự sống đời đời hơn là cố giữ lấy mạng sống mình, dám lao mình về phía trước và sống cho giá trị Tin Mừng.

Mỗi ngày, ta vẫn thường đón tiếp người này người nọ trong mỗi lần gặp gỡ. Thế nhưng, ta có thật sự để cho Lời Thầy đánh động và chi phối mọi lời nói, hành động và cung cách hành xử của ta? Ta có sẵn sàng đón tiếp tất cả những anh chị em mà Chúa gửi đến không? Có khi ta đón tiếp đó nhưng liệu ta có mang đến cho người anh chị em niềm vui vì được gặp gỡ Chúa ngang qua chính ta không? “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10, 40). Đón tiếp ai nghĩa là đón nhận những gì họ mang đến, ngay cả tình trạng hiện tại của họ, ta cũng đón nhận với tấm lòng bác ái. Dù họ chỉ là một người hành khất rách rưới hay một người bạn thân thiết của ta, dù họ là một người có địa vị cao trọng hay chỉ là một người ít học quê mùa, ta có sẵn sàng đón nhận họ với cả tấm lòng? Để đón tiếp tất cả những người ta gặp gỡ cách chân thành, ta cần có cung cách hành xử của Giêsu, nói cách khác là ta phải có văn hóa Giêsu trong mình. Cho ai cái gì không quan trọng cho bằng cách cho. Chúa Giêsu đã dạy: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10, 42). Nếu ta cho với lòng quảng đại và chân thành thì dù chỉ cho một chén nước lã thôi nhưng nhìn nhận họ là anh chị em của ta trong Chúa Kitô, xem họ là môn đệ của Chúa thì ta sẽ đón nhận họ như đón nhận chính Chúa Kitô vậy. Đón tiếp một ngôn sứ là ta đón nhận những gì họ rao giảng bằng lời nói và cả đời sống. Ta đón nhận Tin Mừng của Chúa ngang qua những người ta gặp gỡ. Điều đó đòi hỏi ta phải có ánh mắt của Giêsu. Đón nhận một người công chính là đón nhận những sự thật họ mang đến, cả những sự thật về chính ta, ta có vui lòng đón nhận không? Quả thật, để sống được Lời Chúa dạy, ta phải có một sức mạnh nội tâm thúc đẩy. Trái tim ta hướng về Giêsu thì chính Giêsu sẽ hành động trong con người ta vậy.

Lạy Chúa Giêsu! Lời Chúa vẫn thôi thúc trái tim con mỗi ngày. Xin cho con luôn biết lớn lên trong Tình Yêu để cuộc sống của con trở thành chứng tá của lòng thương xót Chúa. Chúa biết sự yếu hèn và bất toàn của con. Xin Chúa thôi thúc trái tim con, ngự trị trong tâm hồn con từng phút giây để con được Chúa chi phối và điều khiển con người con, kéo con bước vào chính lộ của Ngài; để con bước theo Chúa, chọn Chúa là cơ nghiệp đời đời. Amen.

Về mục lục

.

CÙNG VÁC THẬP GIÁ VỚI CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Vào năm 1976, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, nhiều gia đình sống rất chật vật. Hồi ấy có một ông lão nghèo cùng với đứa con gái lớn ở Sài Gòn ra thăm người em đang sống ở Ninh Thuận để kiếm chút gì đắp đổi qua ngày.

Thương ông anh từ Sài Gòn lặn lội ra thăm mình, người em tặng anh những sản phẩm cây nhà lá vườn, gồm một bị khoai, một bị xoài và dăm nải chuối để mang về Sài Gòn làm quà cho vợ con.

Về lại Sài Gòn, hai cha con xuống xe cuốc bộ về nhà. Người cha tuổi đã già, gầy gò ốm yếu, chịu khó mang bị xoài bên vai phải, khoác bị khoai bên vai trái, còn đôi tay gầy guộc thì xách mấy nải chuối bằng tay này và giỏ áo quần bằng tay kia. Trong khi đứa con gái cưng song hành bên cạnh thì chỉ đeo chiếc bóp đầm xinh xắn trên vai, đi tênh tênh bên bố mà chẳng để ý đến lưng bố đang còng xuống vì sức nặng của hành lý, chẳng thấy mồ hôi bố lấm tấm trên khuôn mặt nhăn nheo, y như cô chủ giàu sang đi bên cạnh tên nô lệ khốn cùng.

Người cha già chịu còng lưng mang nặng những món quà đó về nhà cho ai hưởng? Cho người mẹ, cho đứa em út của cô gái này và cho chính cô. Chính cô cũng được hưởng phần trong đó!

Thế mà cô cứ để mặc cha già của mình còng lưng mang nặng mà chẳng động lòng thương xót, chẳng đụng vào một ngón tay.

Đây đúng là đứa con bất hiếu và hoàn toàn bất xứng, khi thấy cha vác nặng mà con thì chẳng mó tay vào.

Thế nhưng, lắm lúc chúng ta cũng xử sự như cô gái kiêu sa, vô cảm này.

Dẫu biết rằng hôm nay Đức Giê-su, Chúa chúng ta đang tiếp tục chịu khổ nạn (GLHTCG số 1323. TĐCV 22, 6-8) để cứu độ chính ta và anh chị em chúng ta, nhưng ta cứ làm ngơ như không nhìn thấy; ta cứ đi tênh tênh trên con đường lạc thú của mình mà chẳng động lòng trắc ẩn đối với Chúa là Đấng đang tiếp tục chịu khổ nạn để đền tội cho chúng ta.

Thật là người môn đệ bất xứng khi Chúa chúng ta vác thập tự giá đền tội cho ta, còn chúng ta thì cố tìm kiếm lạc thú trần gian mà chẳng kê vai vác cùng với Chúa.

Chính vì thế, Chúa mới cảnh báo rằng: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38).

Nhưng vác thập tự giá với Chúa thế nào đây?

Chúa Giê-su dạy chúng ta vác thập giá với Ngài qua 2 câu nói tiếp theo:

Câu thứ nhất: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất” (Mt10.39) có nghĩa là kẻ nào chỉ biết chăm lo cho bản thân mình mà thôi, chẳng thiết gì đến Chúa và anh chị em chung quanh, thì sẽ không được hưởng sự sống đời sau;

Và câu thứ hai: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt10.39) có nghĩa là ai từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống vị tha, quên mình đi để hy sinh phục vụ Chúa và tha nhân thì sẽ được sống đời đời.

Lạy Chúa Giê-su,

Người con để mặc người cha gánh nặng một mình mà không kê vai gánh giúp là con bất hiếu; người môn đệ của Chúa để mặc Thầy chịu khổ nạn, chịu vác thánh giá mà không vác cùng thì không xứng đáng là môn đệ trung thành.

Hôm nay Chúa vẫn còn tiếp tục chịu khổ nạn, chịu vác thập giá cách nhiệm mầu (GLHTCG số 1323. TĐCV 22, 6-8) để cứu độ chúng con, lẽ nào chúng con để mặc Chúa gánh vác một mình mà không chia sẻ gánh nặng của Chúa.

Xin cho chúng con  sẵn sàng cống hiến thời giờ, công sức… của mình để chăm sóc, phục vụ người khác. Làm như thế là cùng vác thập giá với Chúa; làm như thế thì mới xứng đáng là môn đệ của Chúa và mới được hưởng phúc thiên đàng.

Về mục lục

.

NGHỊCH LÝ CỦA THẬP GIÁ

Lm. GB. Trần Văn Hào

‘Thập giá Đức Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta’. Đây là câu châm ngôn mà Đức Cha Lambert de la Motte đã chọn cho mình cũng như cho các nữ tu Hội dòng Mến Thánh gía, con cái của Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói với các môn sinh : “Ai không vác Thập gía mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng làm môn đệ Thầy (Mt 10,38).” Con đường Thập gía là con đường duy nhất mà Chúa đã đi qua, đã vạch dẫn và mời gọi chúng ta tiếp bước theo dấu chân của Ngài .

Thập giá – Hình phạt khủng khiếp nhất.

Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô đã viết : “Trong khi người Do Thái đòi tìm dấu lạ, người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh vào Thập gía, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là sự điên rồ”(1 Cor 1, 22). Thời đế quốc Rôma, Thập gía là khung hình phạt dã man và ghê sợ nhất, chỉ dành cho những phạm nhân bị kết án tử hình. Tên tử tội bị đóng chặt vào hai thanh gỗ và được treo lên cao, nằm phơi thây giữa trời, ngực dãn ra rất khó thở, vừa đói khát, vừa bị lột trần truồng để cho thiên hạ nguyền rủa. Người khỏe nhất cũng chỉ cầm cự tối đa được một đến hai ngày rồi chết. Sau khi chết, xác của họ sẽ bị chim trời đến rúc rỉa và không được đem đi chôn để lòng đất khỏi bị hoen ố do tội lỗi bẩn thỉu họ gây ra. Đế quốc Rôma chỉ sử dụng hình phạt này cho ngoại bang, còn công dân Rôma được miễn. Trong bối cảnh xã hội như thế, người Do Thái xem án phạt này là một sự sỉ nhục, bởi vì họ vẫn coi mình là một dân tộc ưu tú được Chúa tuyển chọn. Còn người Hy Lạp thì nhìn những phạm nhân bị treo lên cây gỗ như là những con người điên điên khùng khùng, không sống theo lý tưởng khôn ngoan của nền triết học mà họ vẫn theo đuổi.

Nhưng, chính Đức Giêsu đã tự nguyện chọn cái chết ô nhục này. Ngài chấp nhận bị dìm xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người, sống tận căn mầu nhiệm tự hủy để trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta. Chính vì thế, khi Đức Giêsu phác vẽ viễn ảnh Thập gía mà Ngài sẽ trải qua, các tông đồ không thể chấp nhận, đặc biệt, Phêrô đã kịch liệt cản ngăn. Tuy nhiên, chính nghịch lý của Thập gía đã khai mở cho nhân loại một chân trời mới : Qua Thập gía sẽ đến vinh quang, qua cái chết nhuốc khổ, chúng ta sẽ được sống lại trong khải hoàn.

Đây chính là chân lý mà thánh Phaolô đã nhắc lại trong bài đọc thứ nhất của Phụng vụ hôm nay. Ngài viết : “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được cùng sống với người” (Rm 6,8).

Thập Gía – Sự chọn lựa duy nhất của các môn đệ.

Các môn đệ đã bỏ mọi sự để theo Chúa. Tuy nhiên, cho dầu đã được huấn luyện khá kỹ, các Ngài vẫn không thể hình dung ra con đường Thập gía mà Đức Giêsu hằng luôn mời gọi. Sau khi các học trò bộc bạch : “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự để theo Thầy”, Chúa mới từ từ cắt nghĩa để họ dần dần cảm thấu được phương thức trở nên môn đệ cách đích thực. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại việc từ bỏ cách tuyệt đối, và đây là đòi hỏi gay gắt nhất, sâu xa nhất. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai không vác Thập gía mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu phải là tình yêu toàn hảo, không suy tính, không đắn đo hơn thiệt. Cũng vậy, một lần khác Chúa còn mạnh mẽ khuyến cáo : “Ai tra tay cầm cầy mà con ngoái lại phía sau, thì không thích hợp với nước Thiên Chúa” (Lc 9,62). Con đường theo Chúa không thể là con đường nửa vời, theo kiểu bắt cá hai tay. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan đã ghi lại mặc khải Chúa ngỏ cho Hội thánh ở Laodakia : “Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Vì ngươi hâm hẩm không nóng cũng không lạnh, nên ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,16).

Muốn trở nên môn đệ Chúa, các học trò phải đặt Ngài vào chỗ tối thượng cách tuyệt đối. Họ phải chấp nhận những nghịch lý, nhất là nghịch lý của Thập gía. Đây là điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay.

Cùng chết với Đức Kitô.

Theo Chúa là chấp nhận đi vào lộ trình Thập gía. Mầu nhiệm Thập gía luôn hàm ngậm sự tự hủy, và cái chết trên Thập gía là cao điểm của hành trình tự hủy này. Việc từ bỏ cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, v…v…chỉ là bước khởi đầu, và sự từ bỏ ấy phải đi đến tận căn, tức là từ bỏ ngay cả mạng sống. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói với các học trò ngày hôm nay : “Ai tìm giữ mạng sống mình thì sẽ mất, và ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được”.

Trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh, chết không phải là dấu chấm hết, kết thúc cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Cũng như Đức Kitô đã can đảm tiến nhận cái chết nhục nhã để khai mở cho chúng ta một chân trời mới, thì cái chết của những ai tin vào Đức Kitô không phải là một cuộc ra đi nhưng là sự trở về, không phải là sự thất bại chua cay, nhưng là một dấu chỉ vinh thắng. Điều này Thánh Phaolô đã nhắc lại trong thư gửi giáo đoàn Rôma mà Giáo hội đọc lên cho chúng ta trong bài đọc 2 hôm nay : “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được cùng sống với Người. Thật vậy chúng ta biết rằng, một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người”.

Kết luận

Trên giường hấp hối, chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn : “Em đang chết, nhưng không phải em chết, mà em đang tiến về cõi sống”. Có lẽ nhiều người vẫn còn nhớ khuôn mặt duyên dáng của nữ tu Cécilia Maria dòng Carmêlô trên giường hấp hối (hình bên dưới). Ngày 22 tháng 6 năm ngoái, Chị đã chết an bình, đôi môi vẫn còn giữ một nụ cười thật duyên dáng cho dầu chị đang chịu đựng những đau đớn vì căn bệnh ung thư phổi. Sự tươi tắn của chị là dấu chỉ của niềm vui và tình yêu dành trọn cho Chúa Giêsu, như lời thánh nữ Têrêsa đã viết trong cuốn ‘Nhật ký một tâm hồn’: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Ơn gọi của tôi không là gì khác, ngoài tình yêu”.

Về mục lục

.

HIẾU KHÁCH

Lm. Trần Việt Hùng

Thương người mến Chúa là sao?

Yêu Thầy trên hết, biết bao phúc lành.

Dù là con cái chính danh,

Yêu thương con cháu, vì danh Chúa Trời.

Thánh Danh cao trọng tuyệt vời,

Phượng thờ kính mến, muôn lời ngợi khen.

Con người thụ tạo mọn hèn,

Hy sinh mạng sống, muối men cho đời.

Kẻ nào đón tiếp Ngôi Lời,

Họ đang tiếp đón, Chúa Trời trên cao.

Tiên tri sứ giả mời vào,

Tiếp người công chính, Cha trao ơn lành.

Công lao phần thưởng đã dành,

Đẹp lòng tốt tánh, để danh muôn đời.

Những ai tiếp nhận con người,

Khó nghèo bé mọn, sống đời lầm than.

Dù là bát nước sẻ san,

Vì Thầy, danh nghĩa, tỏa lan sáng ngời.

Chính Thầy hạ giới vào đời,

Sống chung chia sẻ, gọi mời yêu thương.

Chúa phán: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy”. Thật là vinh dự cho chúng ta, được Chúa cho ưu quyền đại diện Chúa. Chúa đã đồng hóa chính Ngài với những người nghèo đói, khổ sở và thấp hèn nhất. Vì thế ai đón tiếp họ, cũng là đón tiếp Chúa.

Truyện kể: Có một lần, một bà cụ được Chúa hẹn đến thăm nhà. Bà chuẩn bị mọi thứ để đón tiếp Chúa. Sáng sớm có một người đến xin ăn, bà không tiếp. Trưa đến lại có một người bệnh lê gót tới nhà, bà từ chối giúp đỡ. Chiều tối, lại một người nghèo đến xin ở trọ qua đêm, bà đóng cửa không cho. Bà chờ cho tới đêm, cũng không thấy Chúa đến. Bà đành đóng cửa đi ngủ, trong giấc mơ, Chúa nói với bà rằng: Cha đến thăm con ba lần, mà con không tiếp.

Đón tiếp Chúa là như thế đó. Làm sao chúng ta nhận diện ra Chúa giữa muôn người? Đâu là khuôn mặt thật của Chúa? Chúa luôn ẩn dấu nơi những người bị khinh miệt và bỏ rơi. Có lẽ chúng ta đã từ chối đón tiếp Chúa vào nhà và vào tâm hồn ta nhiều lần. Tôi còn nhớ khi còn nhỏ, sống tại nhà quê, mỗi lần có người ăn xin mù lòa hay bất toại đi qua nhà. Tôi ngồi trong nhà ngó qua cửa sổ và tôi thấy từng nhà vội khép chặt cửa và kéo màn che xuống. Người ăn xin kiên nhẫn đợi chờ, đi gõ cửa từng nhà, nhưng chẳng mấy ai thèm cho. Không thấy ai mời họ vào nhà uống ly nước hay ly trà nóng. Không ai muốn trao đổi truyện trò với họ. Rồi ông/bà xấu số ấy cứ tiếp tục đi khu này sang khu khác tìm kiếm lòng quảng đại.

Chúng ta thử nghĩ, nhà chúng ta luôn rộng cửa để đón nhận ánh nắng mặt trời và không khí trong lành, nhưng chúng ta đâu muốn mở cửa đón nhận người lạ mặt, nhất là những người ăn mặc dơ dáy bẩn thỉu và nghèo đói. Sống trong  một xã hội đầy nghi ngờ và luôn phải đề phòng những bất trắc xảy ra, chúng ta đã đánh mất đi sự nhạy cảm của lòng người. Ngày nay, trong các ngôi nhà, các cửa đều có khóa, có lỗ nhỏ để nhìn, có hệ thống báo động, có chó giữ nhà.. càng làm chúng ta xa cách nhau.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đón tiếp và giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Tiếp họ một chén cơm, một ly nước, một lời chào hỏi, chúng ta sẽ được phần thưởng. Sự đón tiếp không chỉ là mở cửa ngôi nhà, nhưng quan trọng là mở cửa tâm hồn.  Hãy mở rộng cửa đón Chúa, có Chúa, chúng ta sẽ có niềm vui và hạnh phúc thật

Về mục lục

.

TIỆN NGHI VẬT CHẤT

Lm Vũđình Tường

Vật chất trần gian mang lại nhiều tiện nghi nhưng nó cũng đòi hỏi phải bảo vệ nó. Vật chất tự nó không thể bảo vệ nó nhưng cần bàn tay, khối óc con người cất giữ, nếu không khéo cất, giấu, kẻ khác rình mò được sẽ tìm cách lấy mất. Hơn nữa vật chất thì giới hạn; lòng tham con người vô hạn và đa số ham vật chất nên có của là một gánh nặng, lệ thuộc vào của đã đành mà còn phải ngày đêm lo bảo vệ chúng. Vật chất không bảo vệ được chúng nên chúng không thể bảo đảm cuộc sống lâu dài cho chủ nó. Tìm kiếm vật chất đã khó mà cầm giữ chúng còn vất vả hơn vì thế chủ đáng hưởng hoa quả do lao công khó nhọc làm ra. Những ai tin vật chất có khả năng mang lại sự sống lâu dài, đặc biệt là sự sống trường sinh cần phải suy nghĩ lại. Lí do là vật chất nay còn mai mất. Như thế còn vật chất còn bảo đảm, mất vật chất mất bảo đảm. Như thế bảo đảm vật chất hứa hẹn rất bấp bênh. Hơn nữa vật chất không tồn tại mãi và giá trị của chúng thay đổi liên tục. Thực tế cho thấy những gì thuộc về trần thế chỉ bảo đảm được những gì thuộc về trần thế. Con người không phải chỉ có vật chất mà còn có tinh thần, có tình yêu và lòng mến. Vật chất không bảo đảm được tinh thần, tình yêu và lòng mến vì những nhân đức này vượt lên trên vật chất. Chỉ những gì vượt lên trên vật chất, cao hơn vật chất mới có khả năng bảo đảm được những gì không thuộc về vật chất. Đây chính là điều Đức Kitô mời gọi Kitô hữu tin tưởng vào giáo huấn của Ngài. Tin tưởng vào Đức Kitô là lắng nghe Lời Ngài, yêu mến và trở thành môn đệ Đức Kitô. Niềm tin Kitô giải thoát con người khỏi nô lệ vật chất, tâm hồn thư thái, an bình và sống trong hy vọng Đức Kitô hứa ban.

Sự sống trường sinh chỉ có thể tìm thấy nơi Đức Kitô, tình yêu Chúa. Đức Kitô là Đấng duy nhất bảo đảm cho sự sống trường sinh bởi chính Ngài phá tan xiềng xích sự chết. Chính Ngài sống lại từ cõi chết, tiêu diệt thần chết, sống lại vinh quang vì thế lời Ngài hứa đặt căn bản trên sự sống lại của chính Ngài. Lời Ngài hứa có nguồn gốc từ sự Phục Sinh vinh hiển vì thế lời hứa đó không thể sai.

Sống đời sống ngay lành, không làm hại ai, không gian tham của người là mẫu người xã hội tốt nhưng không phải là Kitô hữu tốt. Kitô hữu tốt là người biết sống cho mình và sống cho tha nhân, giúp đỡ tha nhân, mang niềm tin vào hành động bác ái, yêu thương và tha thứ. Kitô hữu tốt là người làm cho niềm tin của mình sinh hoa, kết trái bằng các việc từ thiện, làm phúc, bố thí cho người đói ăn, khát uống, có lòng nhân từ, bác ái, vị tha. Kitô hữu tốt là người nhận biết tất cả những gì chúng ta có đều do Chúa ban, kể cả sự sống của ta vì thế luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Kitô hữu nhận biết mọi sự ta có đều thuộc về Chúa nên yêu cầu yêu Chúa hơn chính cha mẹ là điều hợp lí và đúng đắn. Nhiều người vì yêu hy sinh cả sở thích, vợ cHồng Yêu nhau hơn cha mẹ và họ yêu con cái hơn chính bản thân họ. 

Học từ Đức Kitô, yêu Chúa, yêu tha nhân và sống bác ái. Đức Kitô cho biết mọi hành động bác ái, yêu thương dù nhỏ mấy, đơn giản mấy cũng được ghi nhận và thưởng công. Một li nước lạnh cho đi vì Đức Kitô li nước đó cũng được đón nhận qua hành động bác ái.

Về mục lục

.

ĐƯỢC VÀ MẤT

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.
Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.

Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. 

Chúa Giêsu còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự nếu họ mất vì Thầy Giêsu thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.

Chúa Giêsu cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”. Theo Thầy là đi vào con đường từ bỏ. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết treo trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả. (Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt).

Từ bỏ là một quy luật.

– Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.
– Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ… có thế mới phát triển dần thành người lớn.
– Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.
– Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.

Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia… mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác.

Làm môn đệ Chúa Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải “từ bỏ mình”. Cái phần “mình” được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần “Chúa” được gia tăng bấy nhiêu. “Từ bỏ mình” hoàn toàn thì sẽ trở thành “Kitô khác” hoàn toàn.Như thế tuy bỏ nhưng không mất, mà lại được, không thiệt thòi mà lại có lợi hơn. 

Theo Thầy là đi vào con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn. 

Lời Chúa hôm nay gởi đến sứ điệp: từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu. Trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.

Qua cuộc tử nạn và cái chết, Chúa Giêsu cũng khẳng định chân lý: “Ai tìm mạng sống mình, sẽ mất. Ai đành mất mạng sống mình, sẽ gặp lại”. Đó là nghịch lý của Kitô giáo. Và đó cũng là chân lý của cuộc đời. Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. 

Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa. 

“Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đẵ chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn. 
Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ. 
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh. 
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.” (Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta).

Về mục lục

.

YÊU SÁCH CỦA TÌNH YÊU

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Tình yêu là cái gì thật kỳ diệu, khó nói. Sống trên đời ai cũng muốn được yêu và muốn yêu. Đó là định luật bất biến của cuộc đời. Đôi bạn trẻ đã quyết định yêu nhau dù có khó khăn gì mấy, trước sau gì họ cũng đến với nhau.Hôm nay, Chúa Giêsu ra điều kiện cho những ai muốn theo Người :” Phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, ngay cả những tình cảm gắn bó nhất, thân thiết nhất như tình phụ tử, mẫu tử , những tình cảm ruột thịt của mối giây anh em, chị em vv…đồng thời “ phải vác thập giá “ mà theo Người; rồi Chúa lại nói tiếp :” Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình …thì sẽ tìm thấy được “.

Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hay :” Đi theo Chúa không có nghĩa Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ hết mọi sự, nhưng Người muốn mọi người khi đã quyết tâm theo Người phải đặt tình yêu Thiên Chúa và việc phục vụ, thực thi sứ mạng của mình trên mọi mối quan hệ, trên những tình cảm thân thiết của cha mẹ, anh chị em và nếu cần phải hy sinh cả mạng sống của mình vì Người “. Quả thực đây là đời hỏi rất quyết liệt và cực kỳ khó khăn.

Ngoải ra, Chúa Giêsu còn cho biết người môn đệ hay chúng ta quyết tâm đi theo Người thì họ phải bước trên con đường Giêsu, con đường khổ giá, con đường hẹp, đường hy sinh, từ bỏ, quảng đại và xả kỷ để làm vinh danh Chúa và phục vụ hết mình vì đồng loại, vì tha nhân.

Theo Chúa Giêsu, người môn đệ của Chúa, hay người Kitô hữu đều được Chúa kêu mời đón nhận, hy sinh, quên mình để sống yêu thương, hòa hợp, chia sẻ, phục vụ tha nhân, phục vụ người khác bằng tình yêu cao vời, tuyệt mỹ không phân biệt, không vị kỷ. Tình yêu tự hiến mà Đức Kitô đã sống, đã sẻ chia và đã phục vụ vô vị lợi :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). 

Người môn đệ của Chúa hay chúng ta được mời gọi góp phần nhỏ bé của mỗi người bằng những công việc nhỏ bé, âm thầm nhưng có giá trị tỏa sáng là làm vinh danh Thiên Chúa. Người môn đệ không cần phải làm những công việc lớn lao, đi đây đi đó, đứng lên rao giảng công khai, to tiếng mới là loan báo Tin Mừng bởi chính Chúa đã tự đồng hóa mình với những con người nhỏ bé, khó nghèo, những con người thấp cổ bé họng. Chúa nói : ” Mỗi lần các con cho một kẻ đói ăn là các con cho Ta ăn…cho kẻ khát uống, rách rưới ăn mặc, kẻ tù được thăm viếng vv…là các con làm cho chính Ta “. Chúa đòi hỏi người môn đệ và tất cả chúng ta khi phục vụ thì phải phục vụ quên mình, hy sinh quên mình đến nỗi biến mình ra không, nhưng việc phục vụ ấy lại có giá trị cao cả trước mặt Thiên Chúa như Người đã khẳng định :” Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy “.

Chúa ban thưởng người môn đệ của Người và ban thưởng cho chúng ta nếu chúng ta đã biết thực hiện điều Chúa đòi hỏi. Theo Chúa là phải sống như Chúa, yêu như Chúa và phục vụ như Chúa phục vụ. 

Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống nơi gian trần có nhiều cạm bẫy, có nhiều thử thách khiến chúng con dễ quên đi bổn phận của chính mình, xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con can đảm, hiên ngang, biết từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà theo chân Chúa và biết phục vụ anh em theo đòi hỏi của Chúa yêu thương như Chúa yêu. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Chúa đòi hỏi người môn đệ những điều gì ?
2. Yêu như Chúa nghĩa là làm sao ?
3. Vác thập giá nghĩa là gì ?
4. Con đường Giêsu là con đường nào ?
5. Ông bà anh chị em hiểu thế nào về những người nhỏ bé ?

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA KHÔNG THUA LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CON NGƯỜI

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Tại một Tòa Giám Mục miền bắc Việt Nam, trong khuôn viên Tòa Giám mục, có một khẩu hiệu rất đặc biệt, đó là: “Mỗi vị khách là một Đức Giêsu”.  Ấn tượng hơn nữa là cung cách của vị Giám Mục và nhiều nhân viên trong đó đã để lại cho người đến thăm nhiều cảm xúc qua cách đón tiếp mang đậm chất Kitô.

Khi ra về, nhiều người đã không ngớt lời khen ngợi tấm lòng hiếu khách, chân tình và đơn sơ của Đức Giám Mục và những người ở nơi đây.

Tại sao nơi đó lại có cung cách đối đãi tốt như vậy? Thưa, bởi vì nơi đó đã thấm đượm bài học của chính Đức Giêsu dạy: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40).

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay sẽ lần lượt làm sáng tỏ nhằm giúp chúng ta hiểu tâm tình trên.

  1. Lời Chúa       

Khởi đi từ bài đọc 1, tác giả sách các Vua kể về sự kiện tiên tri Êlisê được một phụ nữ người Sunam đón tiếp rất thịnh tình khi ông và tiểu đồng đi ngang qua đây.

Người phụ nữ này là người thuộc giới thượng lưu trong thành. Gia đình giàu có. Đời sống vợ chồng rất ấm êm. Tuy nhiên, có một nỗi khổ tâm quá lớn đối với vợ chồng bà, đó là ông bà đã lớn tuổi mà không có con.

Nguyện vọng của ông bà là mong sao được Chúa thương nhận lời cho mình mụn con để nối dòng.   

Được tiếp đãi tử tế và rất thân tình, tiên tri Êlisê nghĩ đến ân nghĩa, nên trước khi rời khỏi nơi ấy, ông đã ngỏ ý muốn trả ơn vì những điều mà gia đình đã làm cho ông cũng như tiểu đồng.

Tuy nhiên, bà chủ đã hoàn toàn khước từ, bởi bà luôn nghĩ rằng: “Người đến trọ nhà mình là một vị thánh”. Vì thế, khi đón tiếp Ngài là đón tiếp người của Thiên Chúa. Vì thế, không lẽ lại sòng phẳng như “hòn đất ném đi, hòn trì ném lại???” Vì thế, dù nói thế nào, bà đều từ chối không hề nhận bất cứ thứ gì mà vị tiên tri đáp lễ.

Thấy được tấm lòng chân thành ấy, Êlisê cũng áy náy! Tuy nhiên, khi được tiểu đồng mách cho biết nguyện vọng của ông bà là muốn có một người con để nối dõi tông đường cũng như tránh đi sự tủi nhục.

Thấy được sự khao khát chính đáng, Êlisê đã cầu nguyện và chúc phúc cho hai ông bà và nói tiên tri: “Vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”. Sau đó tiên tri Êlisê lên đường. Đúng như điều đã nói, bằng rầy sang năm, ông bà đã có một người con trai.

Tuy nhiên, niềm vui chỉ được ít lâu, vì chỉ vài năm sau, thằng bé bị bệnh và qua đời.

Khi nghe tin ấy, tiên tri Êlisê đã không ngớt cầu xin Chúa cho con bà được sống lại, và Chúa đã nhận lời. Đứa trẻ đã sống lại để sống một cuộc sống mới trong ân sủng và tình thương của Thiên Chúa.

Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy: Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của con người. Nếu chúng ta rộng tay làm phúc cho Chúa hay những người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta với lòng mến, thì chắc chắn Chúa sẽ trả ơn gấp bội.

Sang bài đọc 2, thánh Phaolô đi xa hơn để cho thấy nền tảng và nguồn gốc của sự sống mới chính là Đức Giêsu, Đấng đã sống cuộc sống như ta, đã chết và đã sống lại vì nhân loại. Ngài nói: “Nếu ta cùng chết, cùng được mai táng với Ngài, thì ta cũng có được một đời sống mới như Ngài”.  

Nếu trước kia, tâm hồn chúng ta đầy rãy những tội lỗi, bon chen, ích kỷ, hận thù, kiêu ngạo và thiếu tinh thần bác ái, thì khi ta được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, nghĩa là ta được dìm mình vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của Đức Giêsu Kitô. Từ đó, con người của ta được biến đổi và được mặc lấy sự sống mới trong Ngài.

Thật vậy, nếu chết đi cho tội là loại bỏ những ích kỷ, tham vọng, nhục dục, thù hận, ghét ghen, vô cảm, vô tâm, dửng dưng, thì sống một đời sống mới trong Đức Giêsu Kitô là biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; biết yêu thương, tha thứ, nhân từ, cảm thông, liên đới, quảng đại, dấn thân vì người nghèo…, bởi vì những thứ đó thuộc về phẩm chất của Thiên Chúa và chúng ta được mời gọi loan truyền tình thương của Ngài qua những hành vi đó.

Đỉnh cao của phụng vụ Lời Chúa hôm nay là bài Tin Mừng. 

Như một lời hiệu triệu, Đức Giêsu đã nói về sự liên đới giữa Ngài với ta, giữa ta với Ngài và Thiên Chúa Cha trong một đường dây bác ái. Ngài nói:“Ai đón tiếp một trẻ nhỏ…là đón tiếp Thầy…ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy…”. Mối liên hệ này cho thấy sự khăng khít và giao hảo giữa ba thành phần: Thiên Chúa – Đức Kitô và nhân loại.  Nói khác đi, ta được Thiên Chúa cứu độ nhờ Đức Kitô và cùng với anh chị em.

Chính vì thế mà Đức Giêsu đã đặt trọng tâm của sự liên kết này qua người nghèo và mời gọi người môn đệ hãy làm cho mối liên hệ này được trở nên sống động hơn.

Như vậy, qua 3 bài đọc, chúng ta thấy có một chủ đề xuyên suốt, đó là: nếu ta rộng lòng quảng đại giúp đỡ những người khó khăn, bần cùng trong tâm tình mến yêu Chúa và anh chị em, ta sẽ được Thiên Chúa trọng thưởng ở ngay đời này và cả đời sau. Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của chúng ta. Ngược lại, Người sẽ trả công hậu hĩnh đến không ngờ.

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan với Thiên Chúa cách sống động.

Hành trình này có thể được ví như một hành trình đức tin. Đức tin ấy được chứng minh bằng những việc thực thi đức ái, từ bỏ tội lỗi để sống cho Thiên Chúa.

Chúng ta không thể nói rằng: đức tin của tôi chỉ cần được ghi trong sổ Rửa Tội; đức tin của tôi cũng chỉ cần ở trong nhà thờ; hay đức tin của tôi chẳng cần phải tỏ lộ ra bên ngoài.

Không! Nói như thế là tự mâu thuẫn, không nền tảng và vu vơ, chẳng khác gì người xây nhà mình trên nền cát, bởi vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26. ); hay như thánh Gioan nói: “Người anh em chúng ta nhìn thấy mà không yêu mến, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Đấng ta không thấy?” (x. 1 Ga 4, 20)

Đức tin mà chúng ta được đón nhận phải đưa chúng ta vào trong sự sống mới của Đức Kitô, mà sự sống mới của Đức Kitô chính là vâng lời Chúa Cha tuyệt đối và yêu con người đến cùng.

Như vậy, nếu ta nói mình là môn đệ, là người thuộc về Đức Kitô mà ta không lắng nghe Lời Chúa, hay lắng nghe xong rồi bỏ, hoặc nghe một đàng làm một nẻo… thì chúng ta không khác gì hạt giống gieo bên vệ đường, bụi gai, sỏi đá.

Hay nếu nói là người đi theo Chúa, mà ta không mang trong mình tâm tư của Chúa, đó là từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, liên đới, nhất là thi hành bác ái dối với người nghèo, bảo vệ người cô thế cô thân, bênh vực cho công bằng, sống sự thật…thì chúng ta có khác gì những Pharisêu giả hình thời xưa đâu?

Mong sao, Lời Đức Giêsu dạy khi xưa : “Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40), sẽ được chúng ta ý thức và mau mắn thi hành trong lòng mến, để sau này, chúng ta được Thiên Chúa trọng thưởng trên Thiên Đàng.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương anh chị em chúng con bằng tình yêu chân thành và đầy lòng mến. Xin cũng ban cho chúng con biết sống xứng đáng là con cái Chúa khi chúng con biết đi theo đường lối của Thiên Chúa trong ánh sáng và chân lý. Amen.

Về mục lục

.

KHÁT KHAO

Trầm Thiên Thu

Khát là tình trạng “thiếu”, đặc biệt là thiếu nước, mà nước là loại ẩm thực cấp bách hơn thực phẩm. Người ta có thể nhịn đói lâu, nhưng không thể nhịn khát lâu. Thể lý đã vậy, tâm linh còn cấp bách hơn. Biết khát khao là một trong tám mối phúc: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5:6). Theo kinh nguyện, chúng ta đọc: “Thứ bốn – Ai khao khát nhân đức trọn lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no đủ vậy”. Dạng khát nào cũng cần được “giải khát”, càng sớm càng tốt!

Mọi người đều biết rằng nước lã là loại nước tự nhiên, rất bình thường, nhạt nhẽo, vô vị, không màu sắc, được kết hợp bởi Hydrô và Ôxy (H2O), thế nhưng nước lã lại có giá trị cao và rất cần thiết trong sinh hoạt thường nhật. Thứ bình thường mà lại khác thường. Thiếu nước thì người ta sẽ chết chắc! Nơi nào có nước (và không khí) là có sự sống. Các hành tinh khác không có sự sống vì không có nước (và không khí).

Bởi vì coi nước lã là loại bình thường, người ta thường dùng cách nói “người dưng nước lã” để nói về hai người không có mối quan hệ gì với nhau. Nước lã xem chừng chẳng có giá trị gì và không khác gì là chất liệu vô ích quá! Tuy nhiên, “của cho” không bằng “cách cho”. Chén nước lã chẳng là gì cả, nhưng vẫn có thể là Chén Tình Nghĩa. Nước cũng là chất liệu đặc biệt vì được dùng trong Bí tích Thánh tẩy.

Ngày nay, khi đi trên đường phố, chúng ta có thể thấy một nơi có thùng “nước đá miễn phí” cho khách vãng lai có thể sử dụng khi khát. Dĩ nhiên chỉ có những người nghèo sử dụng, những người “sang” và “giàu” thì chẳng ai thèm quan tâm. Thùng nước miễn phí chỉ là một hành động nhỏ nhoi nhưng lại mang tính nhân bản cao. Cần lắm một tấm lòng, dù có thể sẽ bị “gió cuốn đi” theo cách nói của cố NS Trịnh Công Sơn: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng để làm gì anh (em) biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…!” (Để Gió Cuốn Đi). Sự thật phũ phàng quá!

Trên thế giới, hàng ngày vẫn có nhiều người không đủ nước sạch để sinh hoạt, có thể họ ở ngay trong các thành phố. Khổ lắm! Và đó là tiếng vọng của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá trên Đồi Can-vê ngày xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Khi uống một ly nước (nước sạch, nước ngọt, nước sinh tố, nước sữa,…), chúng ta hãy tạ ơn Chúa, và đừng quên cầu nguyện cho những người nghèo khổ, họ thèm muốn lắm mà không có. Dạng khát nào cũng dữ dội: Khát nước, khát vọng, khát tình,… Đói ăn còn có thể chịu đựng lâu, khát uống không thể chịu đựng lâu, cơn khát dữ dội lắm!

Trên đường tâm linh, chúng ta cũng thường gặp những người khát khao tình yêu thương, dạng này còn cấp bách hơn mọi cơn khát nước bình thường. Chính chúng ta cũng vẫn đang khát loại Nước Trường Sinh mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ thành Samari năm xưa (x. Ga 4:7-30).

Trình thuật 2 V 4:8-11, 14-16 cho biết: Một hôm, ông Ê-li-sa đi qua Su-nêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó”. Phụ nữ này có con mắt “tinh đời” lắm, đặc biệt là phụ nữ này có trái tim đập những nhịp đập thương xót. Bà giàu sang nhưng tốt bụng, rộng lòng giúp đỡ người khác.

Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông Ê-li-sa biết ơn bà nên nói với tiểu đồng: “Nên làm gì cho bà ấy?”. Giê-kha-di đáp: “Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già”. Có qua, có lại là sự thường ở đời. Thấy phụ nữ này tốt bụng nên ông Ê-li-sa muốn đền ơn đáp nghĩa. Ông bảo tiểu đồng đi gọi bà ấy tới. Bà tới đứng ngoài cửa, ông Ê-li-sa nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai”. Bà nói: “Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!”. Khát khao được làm mẹ là khát khao chính đáng và mãnh liệt của phụ nữ. Nghe nói vậy, bà thấy vui cái bụng lắm nhưng vẫn bán tín bán nghi. Tuy nhiên, mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa. Và quả thật, bà ấy đã có thai. Tới năm sau, cũng vào độ mà ông Ê-li-sa nói, bà hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. Nỗi khát khao của bà đã được Thiên Chúa “giải khát”.

“Thiên Chúa là tình yêu – Θεόςείναιαγάπη – God is love – Dieu est l’amour” (Ga 4:8 và 16). Vì thế, tình thương của Ngài luôn tràn đầy mặt đất (Tv 33:5; Tv 119:64). Ngài biết rõ từng người cần gì nên Ngài ban cho ngày mặc dù chúng ta chưa lên tiếng cầu xin, ngay cả người vô thần cũng vẫn được Ngài chở che, nếu không thì họ làm sao sống nổi? Vì thế, chúng ta phải không ngừng tạ ơn Ngài: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 89:2). Lời ca tụng Chúa phải được lặp đi lặp lại: “Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 89:3). Lời chúc tụng đó có vẻ đơn giản nhưng lại vô cùng thâm thúy và cần thiết. Tại sao vậy? Bởi vì việc chúng ta ca tụng Chúa cũng chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại sinh ơn ích cho phần rỗi của chính chúng ta. Ôi, kỳ diệu quá!

Thánh Vịnh gia đã xác định: “Hạnh phúc thay dân nào biết ca ngợi tung hô; nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên, lạy Chúa. Nhờ được nghe danh Ngài, họ suốt ngày hớn hở; bởi vì Ngài công chính, nên họ được hiên ngang. Sức hùng cường hiển hách của dân chính là Ngài, hồng ân Ngài làm nổi bật uy thế chúng con. Đấng bảo vệ chúng con là người của Đức Chúa, vua chúng con thuộc quyền Đức Thánh của Ít-ra-en” (Tv 89:16-19). Có Chúa trong lòng thì an tâm, chẳng lo sợ gì, và hơn thế nữa, chúng ta còn có thể làm được những điều phi thường, bởi vì chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:12).

Mặc dù mang thân phận cát bụi và vướng “nghiệp chướng” tội lỗi, nhưng chúng ta đã được tái sinh trong Nước và Thánh Thần. Chúng ta thực sự là con cái của Thiên Chúa. Và rồi chúng ta còn được tẩy rửa trong Máu và Nước chảy ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhờ đó chúng ta lại được cải tử hoàn sinh. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4). Thật vậy, chúng ta không chỉ được sống mà còn được sống dồi dào trong Đức Kitô (Ga 10:10). Trên cả tuyệt vời rồi đấy!

Cuộc sống luôn có những cái “nếu”. Có cái nếu không nên đặt ra, nhưng cũng có những cái nếu nên đặt vấn đề. Thánh Phaolô đặt ra cái nếu cần thiết và phân tích: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:8-11). Đó là đại phúc cho chúng ta. Và chắc chắn chúng ta không thể nhờ vào ai ngoài Đức Giêsu Kitô, vì Ngài đã xác định: “Thầy là con đường, là sự thật, và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:5).

Hôm nay – và năm A này, trình thuật Tin Mừng theo Thánh sử Matthêu là giáo huấn ngắn gọn của Chúa Giêsu, nhưng lại có sức chuyển tải triết-lý-sống sâu sắc. Có thể tạm chia lời dạy này làm hai phần.

  1. SỰ TỪ BỎ MÌNH. Đây là một việc làm không dễ chút nào, thế nhưng chúng ta phải làm, nghĩa là chúng ta phải “chết dần”, cứ “chết” từng ngày: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10:37-39).
  2. LÒNG YÊU THƯƠNG. Chúa Giêsu nói: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:40-42).

Chén nước lã chỉ là thứ tầm thường nhưng lại có thể trở thành khác thường, được Chúa Giêsu “chấm công” nếu chén nước lã đó chứa “chất yêu thương”, được chúng ta trao cho người khác vì lòng thương xót, nếu không thì cũng chỉ luốn công vô ích. Hãy cùng nhau tâm niệm: Làm những việc bình thường một cách phi thường!

Dạng khát nào cũng mãnh liệt, nhưng mãnh liệt và cấp bách nhất phải là KHÁT CHÚA. Nhưng không ai có thể “giải khát” chúng ta ngoài Đức Kitô – Đấng là nguồn nước trường sinh. Ước gì mỗi chúng ta đều thực sự biết KHÁT CHÚA trong suốt cuộc đời, như Thánh Vịnh gia đã bày tỏ niềm khát khao đó: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (Tv 63:2). Mỗi sáng thức dậy, việc “dâng ngày” là điều rất cần thiết, và phó thác mọi việc “từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa”. Đó là lương thực bổ dưỡng cần được “điểm tâm” để đủ sức sống thêm một ngày mới.

Thánh Georgius nhận định: “Đức ái không ghen ghét, bởi vì nó không những không khát vọng mà lại còn xem nhẹ tất cả, kể cả địa vị cao quý của người thế tục”. Chỉ có “nước yêu thương” mới thực sự luôn cần thiết và có thể giải khát mọi người.

Lạy Thiên Chúa hằng sinh, Nguồn Mạch Trường Sinh, xin giúp con không ngừng khát khao Ngài, luôn tín thác vào Ngài và quyết tâm thực hành yêu thương như Ngài mong muốn. Xin cho con được no thỏa ân tình Ngài, xin giải khát con mọi nơi và mọi lúc, và xin giúp con cũng biết “giải khát” tha nhân bằng tình yêu của Ngài. Con tha thiết cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

HY SINH – TỪ BỎ ĐỂ THEO VÀ NÊN GIỐNG ĐỨC GIÊSU KITÔ

Hiêrônimô Nguyễn Văn Nội

I.  LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 10,37-42)

37 “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. 38 Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. 39 Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.

40 “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.

41 “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.

42 “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA

2.1 Nội dung bài Phúc Âm trên có hai phần:

Một là “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10,37-40).

Hai là “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10,41-42).

2.2 Phần thứ nhất quan trọng hơn phần thứ hai, nên chúng ta tập trung vào phần này. Không có tôn giáo nào lại không coi trọng việc hy sinh từ bỏ trong đời sống tâm linh. Hy sinh từ bỏ không chỉ là những cái xấu (tội lỗi, ích kỷ, hận thù) mà cả những cái tốt (người thân, của cải, ý kiến cá nhân, kế họach riêng).

Càng hy sinh từ bỏ nhiều, người tín đồ càng trở nên thánh thiện. Càng hy sinh từ bỏ nhiều, người tu hành càng trở thành nhà chân tu.

Riêng với người Công giáo thì việc hy sinh từ bỏ còn có thêm nhiều ý nghĩa khác nữa: hy sinh từ bỏ để theo Chúa Giê-su Ki-tô; hy sinh từ bỏ để nên giống Chúa Ki-tô, Đấng đã từ bỏ cả ngai tòa thiên quốc để xuống thế làm người và đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cho nhân loại được sống. Có thể nói: một khi đã trở thành Ki-tô hữu thì đời sống của người tín hữu đã được quy chiếu tất cả vào Chúa Giê-su Ki-tô.

2.3 Trong thực tế hy sinh từ bỏ cũng có nghĩa là đặt ưu tiên cái này trên cái kia, người này trên người nọ: Yêu Chúa nhiều hơn yêu cha mẹ sinh ra mình, yêu Chúa nhiều hơn yêu anh chị em ruột thịt của mình là từ bỏ. Yêu Chúa và thập giá của Chúa hơn yêu ý riêng và mạng sống mình là từ bỏ lớn hơn.

III.  THỰC THI LỜI CHÚA

3.1 Từ nhỏ, tôi đã được học hành và đào luyện trong Tiểu Chủng Viện. Khi bước vào tuổi trưởng thành tôi tiếp tục được đào luyện trong Đại Chủng Viện và sau đó trong Dòng Tu. Tôi hiểu và quý trọng sự hy sinh từ bỏ trên con đường theo Chúa. Khi trở về thế gian làm giáo dân và lập gia đình, tôi còn có nhiều cơ hội hơn để hy sinh từ bỏ.

3.2 Hy sinh từ bỏ trong đời sống giáo dân và gia đình thì có muôn hình vạn trạng và xẩy ra hằng ngày. Một việc làm nho nhỏ, một lời nói dịu dàng, một quan tâm, một chút nhịn đều là hy sinh từ bỏ, chứ không cần phải là những điều lớn lao. Hơn nữa hy sinh từ bỏ có thể là tự nguyện, mà cũng có thể là bị động, miễn sao bản thân tôi nhỏ bé đi một chút và những người xung quanh lớn lên thêm một chút. Điều quan trọng nhất là động lực của hy sinh từ bỏ phải là vì và cho Chúa Ki-tô, vì và cho hạnh phúc của người khác.

IV.  CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã hy sinh từ bỏ ngai tòa Thiên Quốc và cả bản thân Chúa để cứu chuộc loài người và cá nhân con.

Con hết sức ngưỡng mộ sự hy sinh, từ bỏ, sự tự hạ, tự hủy của Chúa. Con như bị cuốn hút, bị chinh phục…. bởi gương lành của Chúa!

Xin Chúa ban cho con sức mạnh để con dũng cảm chết đi cho những gì cản trở con nên giống Chúa. Xin Chúa ban cho con sức mạnh để con dũng cảm thục hiện những hy sinh từ bỏ làm cho con nên giống Chúa.

Con cầu xin Chúa là Thiên Chúa, Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Amen.

Về mục lục

.

CHẤP NHẬN VÁC THẬP GIÁ THEO CHÚA ĐỂ SỐNG VUI

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 10,37-42

(37) “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (38) Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. (39) Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. (40) Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. (41) Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ : Ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. (42) Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em : Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

  1. Ý CHÍNH: Người môn đệ phải đặt tình yêu Chúa Giê-su lên trên mọi tương quan tình cảm gia đình ruột thịt. Những ai sẵn sàng đón nhận gian khổ thập giá để đi theo và cùng chết với Đức Giê-su thì sẽ tìm lại được sự sống đời đời cho mình sau này. Đức Giê-su tự đồng hóa với các thừa sai và hứa sau này những người sẵn sàng đón tiếp họ, sẽ được Thiên Chúa ban thưởng bội hậu trên trời.

          3.CHÚ THÍCH:

          – C 37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy… : Ở đây Đức Giê-su tỏ ý “ghen tương” giống như sự ghen yêu của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en trong thời Cựu Ước (x. Đnl 29,17-19 ; 32,16-21). Đức Giê-su không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh tranh với tình yêu phải được dành riêng cho Người. Kẻ nào muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su mà còn quá quyến luyến với gia đình, thì chẳng xứng đáng với tình yêu của Người. Kẻ nào không nhìn nhận sự tối thượng của Người cũng không thể làm môn đệ của Người được. Sở dĩ Người đòi hỏi trung thành tuyệt đối như vậy, vì Người chính là Thiên Chúa làm người, đến để chịu chết đền tội thay cho loài người.

          HỎI : Với đòi hỏi như thế, phải chăng đi theo Chúa là phải hoàn toàn từ bỏ mọi liên hệ gia đình ruột thịt, có thể bị người đời kết tội là bất hiếu ?

          ĐÁP : Thực ra không phải như vậy. Vì chính Đức Giê-su là một người con hiếu thảo : Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian ẩn dật tại Na-da-rét (x. Lc 2,51). Dù “giờ” chưa tới, nhưng Người sẵn sàng nghe lời cầu bầu của Đức Mẹ, để làm phép lạ đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,4.5-8). Trước khi tắt thở trên cây thập giá, Người trối Đức Mẹ làm Mẹ của môn đệ Gio-an, để ông đem ngài về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Người (x. Ga 19,25-27). Người dạy người ta về sự thực hành cách cụ thể giới răn “Phải thảo kính cha mẹ”, trái với lời dạy lỗi bổn phận hiếu thảo của các luật sĩ (x. Mc 7,10-13). Nhưng đối với Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải được đặt sau Thánh Ý Chúa Cha (x. Lc 2,49). Mẹ và anh em của Người chính là những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa (x. Mc 3,33-35). Trong câu này, Đức Giê-su chỉ muốn nói rằng : khi cần phải chọn một trong hai tình yêu dành cho cha mẹ và dành cho Đức Giê-su, thì môn đệ phải biết đặt tình yêu trung thành với Người trên tình yêu dành cho cha mẹ.

          – C 38: + Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy : Lúc đầu có lẽ các môn đệ đi theo Đức Giê-su do muốn được lợi lộc vật chất (x. Mt 19,27-30), được địa vị cao khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng Người lại không chiều theo ý họ, mà đòi họ phải đi con đường hẹp, leo dốc và đầy gai chông, ít người chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là đường “từ bỏ mình, vác thập gia mình hàng ngày mà theo chân Người” (x. Mt 16,24).

          – C 39: + Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất… : Giữa hai sự sống tự nhiên và siêu nhiên, thì môn đồ phải biết chọn sự sống siêu nhiên. Nếu họ chỉ lo tìm sự sống thân xác, đến nỗi từ chối Chúa để khỏi bị giết chết, thì họ sẽ bị mất sự sống siêu nhiên ở đời sau. Ngược lại, nếu họ bằng lòng chịu chết vì đức tin, thì sẽ được Chúa ban lại sự sống siêu nhiên sau này.

          – C 40: + Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy…: Ở đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông thường về ngoại giao là : “Kẻ được sai đi đồng hóa với người đã sai mình”. Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức Giê-su, cũng là đón tiếp chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Người. Sự đón tiếp ở đây là phải sẵn sàng đón nhận Tin Mừng do các tông đồ thừa sai rao giảng.

          – C 41: + Ai đón tiếp một ngôn sứ… một người công chính : Có người nghĩ rằng : Ngôn sứ và công chính đồng nghĩa với tông đồ, nên ai tiếp đón các tông đồ với danh nghĩa là ngôn sứ và người công chính, thì sẽ được phần thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú giải hiện nay lại cho rằng : Thời Giáo hội sơ khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức vụ tông đồ, còn người công chính thì không phải chức vụ, nhưng là người có lối sống công bình và ngay chính, được cộng đoàn kính trọng, như ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a người công chính (x. Mt 1,19), ông Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ… cho bậc công chính : Đức Giêsu áp dụng nguyên tắc : “Người được sai đi đồng hóa với Đấng sai mình”, để nói rằng : kẻ đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng sẽ được phần thưởng giống như phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người công chính sẽ được, là sự sống và được sự sống đời đời.

          – C 42: + Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này… : Kẻ bé nhỏ đây ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là tông đồ thừa sai. + Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu : Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước Trời cho những ai thành tâm cộng tác vào sứ mệnh truyền giáo của các môn đệ, thì cũng sẽ được thưởng giống như các ngài sẽ được ở đời sau.

II.  SỐNG LỜI CHÚA :

  1. LỜI CHÚA: Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy (Mt 10,38).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHẤP NHẬN THẬP GIÁ ĐỂ SỐNG VUI.

Có một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con một gia đình quý tộc ở Ái Nhĩ Lan. Tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cô lại muốn sống đời thánh hiến cho Chúa. Khi tới tuổi trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai quý tộc đến dạm hỏi, và được cha mẹ cho phép, cô tìm đến một đan viện có lối sống nhiệm nhặt khắc khổ để xin được dâng mình cho Chúa. Mẹ bề trên thấy cô vừa trẻ đẹp, lại vừa là con nhà quyền quý giàu có, nên chưa dám nhận ngay. Bà muốn thử thách ơn gọi của cô nên đã cố ý trình bày những luật lệ khắt khe của đan viện về nhiệm vụ cầu nguyện và lao động nhiều giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái giữ im lặng như suy nghĩ. Một lát sau, bà bề trên hỏi tiếp : “Bây giờ con còn muốn dâng mình cho Chúa nữa thôi ?”. Cô đáp : “Thưa mẹ, con chỉ còn một thắc mắc này là : Không biết trong tu viện có nhiều cây thánh giá không ?”. Mẹ bề trên trả lời : “Con đừng lo. Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có thánh giá cả”. Bấy giờ cô gái tươi nét mặt và nói : “Thế thì thưa mẹ, con sẵn sàng xin vào tu viện, vì con chắc sẽ không gặp gì khó khăn cả. Bởi vì theo con nghĩ : Nếu mọi nơi mọi lúc con đều nhìn thấy thánh giá Chúa, đều thấy Người đang cùng chịu đau khổ với con, thì con hy vọng có thể chịu đựng được mọi đau khổ”.

2) CHU TOÀN BỔN PHẬN ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH TRƯỚC KHI ĐI THEO CHÚA:

Vào năm 1994 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi đau khổ: Chỉ trong một tháng, người cha và chị cả trụ cột nuôi gia đình lần lượt bị chết, khiến cho bà mẹ và bốn đứa con thơ dại hết sức lo lắng cho tương lai gia đình.

Lúc đó em Mác-đa-la mới được 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn. Thấy mẹ lo buồn, em thường an ủi mẹ: “Mẹ đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải đợi tới lúc khôn lớn mà ngay từ lúc đó, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã bỏ học để ngồi vào guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã làm để kiếm tiền hằng ngày nuôi gia đình.

Một hôm, tình cờ người bác họ là cha Bandenla đến chơi và khi biết hoàn cảnh của Mác-đa-la, cha đã hứa phụ giúp nhu cầu vật chất của gia đình và giúp học phí sách vở cho Mác-đa-la đến trường học. Sau hơn mười năm chăm chỉ đèn sách, chị đã tốt nghiệp và trở thành một giáo viên giỏi dạy ở trường làng để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm. Đến ngày sinh nhật thứ 30, Mác-đa-la đã dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn mà mẹ hằng mong ước. Chị âu yếm thưa với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con tặng mẹ, con chỉ xin mẹ cho phép con được tận hiến cuộc đời còn lại để theo ơn Chúa kêu gọi phụng sự Người”.

Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời Chúa phán: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến mà trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ và bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Cuối cùng chị đã được Hội Thánh tôn phong lên bậc chân phước để mọi người tôn kính và học tập noi gương.

3) AI KHÔNG ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÃ TỪ CHỐI ĐÓN CHÍNH CHÚA GIÊ-SU:

Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị đã đến gõ cửa lần lượt hơn một chục căn nhà, nhưng chẳng có ai chịu ra mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục bên vệ đường bèn xuống xe đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị đã được cứu sống, nhưng tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân đã bị hoại tử vì chịu giá lạnh trong một thời gian quá lâu.

Có điều đáng nói là các căn nhà chị đến gõ cửa đêm hôm ấy, mọi người đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng gõ cửa. Mọi người đều là các tín hữu sống tại vùng quê hiền hòa, nhưng không một ai chịu ra mở cửa, vì sợ có thể sẽ bị kẻ cướp vào nhà trấn lột !

4) AI LIỀU MẤT MẠNG SỐNG MÌNH VÌ THẦY THÌ SẼ TÌM THẤY ĐƯỢC:

Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, SADHU và một người bạn cùng nhau đi du lịch qua một miền núi phía Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến họ phải rất vất vả để chống trả với cơn bão tuyết.

Bấy giờ họ thấy một người đàn ông bị lạnh cóng đang nằm thoi thóp bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại cứu giúp người gặp nạn, nhưng anh bạn kia lại không đồng ý vì cho rằng  nguyên việc làm sao để cứu mạng mình lúc này cũng đã khó khăn vất vả lắm rồi, và anh ta cương quyết bỏ đi. Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân cho người sống dở chết dở ấy. Sau đó với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và tiếp tục đi qua vùng bị bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia dần hồi sinh và cả hai dìu nhau đi tiếp. Đi khoảng mươi dặm, cả hai kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết vì bị lạnh cóng đang nằm bên vệ đường. Họ càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra đó không ai khác hơn là anh bạn đã cùng đi với Sadhu trước đó.

Hành động yêu thương xả thân cứu người của Sadhu đã minh chứng cho lời Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: ”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Anh bạn của Sadhu do đã cố giữ mạng sống của mình nên cuối cùng đã bị mất mạng, còn Sadhu do liều mất mạng vì tha nhân nên đã được cứu. Đó là điều nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua và dạy các tín hữu noi theo. Người đã sẵn lòng chịu chết thập giá rồi sống lại vinh quang, để dạy chúng ta hãy đi con đường yêu thương: hy sinh mạng sống mình vì lòng mến Chúa yêu người, và chắc ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.

5) CHIA SẺ GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO LÀ LÀM CHO CHÍNH CHÚA:

MÁC-TANH THÀNH TUA (Martin de Tour) là một mẫu gương về đức bác ái cụ thể. Bấy giờ Mác-tanh  là người đầu tiên được Hội Thánh tôn kính như một vị thánh mà không do chịu tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc cuộc bách hại đạo sắp chấm dứt. Trước đó chưa có người nào được các tín hữu tôn kính như một vị thánh giống như ngài.

Mác-tanh đã nêu cao chân lý : yêu thương tha nhân là yêu chính Chúa Giê-su. Trong lúc Mác-tanh đang học giáo lý dự tòng thì ngài đã ở trong quân đội. Vào một đêm đông giá rét, khi Mác-tanh đang ngồi trên lưng ngựa đi tuần tra thì gặp một người ăn xin nghèo khổ đang đi trên đường. Ông ta bị rét run vì quần áo ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách. Mác-tanh liền thương cảm cởi chiếc áo choàng bằng dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ kia. Sau đó, trong giấc ngủ, Mác-tanh đã nằm mơ thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác mảnh áo mà ông mới cắt cho người ăn xin.  Mác-tanh nghe Người phán: “Hỡi Mác-tanh, tuy đang học giáo lý, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.

  1. SUY NIỆM:

1) ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÓN TIẾP CHÍNH ĐỨC GIÊSU.

          “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”

          – NGƯỜI KHÁC LÀ AI ? : GIĂNG PÔN SÁT (Jean Paul Sartres) một triết gia hiện sinh vô thần đã nói : “Hỏa ngục chính là người khác !”. Đây là một câu nói hận đời, trái ngược với tinh thần yêu thương của Đức Giê-su. Vì đối với các tín hữu chúng ta thì người khác chính là hiện thân của Đức Giê-su như Người đã nói : “Ta bảo thật các ngươi : Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhưng người khác là ai ? Họ không phải là một người trừu tượng, nhưng là những người sống bên chúng ta. Họ là La-da-rô nghèo đói đang ở cửa nhà chúng ta. Họ là những người yếu đuối, già cả neo đơn, là những người vô gia cư, vô nghề nghiệp. Có thể họ cũng là một người trong gia đình ta, một người hàng xóm hay ở cùng một đường phố với chúng ta. Họ có thể là hỏa ngục hay là thiên đàng của ta tùy theo cái nhìn của ta đối với họ.

          – LÒNG HIẾU KHÁCH : Trong một xóm đạo nọ, vào buổi sáng khi ánh mặt trời vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều được mở ra đón ánh nắng ban mai. Rồi từ đầu xóm, một gã hành khất đeo bị và tay chống gậy xuất hiện. Qua các cánh cửa, người ta phát hiện ra gã. Thế là từng nhà dọc theo xóm, vội vã đóng và chốt cửa lại, kéo rèm che cửa sổ. Bấy giờ gã hành khất đến từng nhà gõ cửa, nhưng không ai ra mở cửa. Cảm thấy nhục nhã buồn tủi, gã lặng lẽ đi ra khỏi xóm. Khi gã vừa khuất dạng, các rèm cửa lại được kéo lên, mọi cửa nhà lại được mở toang đón nhận nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm đều vui vẻ ra mặt vì như vừa thoát khỏi sự quấy rầy của một kẻ không mời mà đến.

          Hoạt cảnh trên đây vẫn thuờng xảy ra đó đây là do lòng ích kỷ của con người. Người ta thường chỉ mở cửa nhà và cửa lòng để đón mời một số người nào đó trong gia đình ruột thịt, các người bạn thân quen, đồng nghiệp, hay những kẻ mà họ hy vọng sẽ đem lại cho mình lợi lộc… và họ sẵn sàng khép cửa lại khi gặp một người lạ, nhất là những kẻ dáng vẻ nghèo nàn.

          – CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐỐI VỚI HỌ ? : Đức Giê-su dạy chúng ta hãy ân cần tiếp đón tha nhân. Tùy theo thái độ của chúng ta mà họ sẽ thành niềm vui mang lại hạnh phúc hay trở nên nỗi bất hạnh của chúng ta : các chủ quán ở Bê-lem xưa đã từ chối đôi vợ chồng nhà quê nghèo khó là Giu-se và Ma-ri-a, nhưng họ lại không ngờ mình đã từ chối đón nhận Đấng Cứu Thế trong đêm Người giáng sinh (x. Lc 2,7); Hai người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu đã mở rộng cửa nhà đón tiếp Đức Giê-su và đã được ơn cứu độ (x. Mt 9,10 ; Lc 19,5-10); Gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su và đã được Người dạy cho biết điều cần thiết nhất (x. Lc 10,39-42). Hai môn đệ làng Em-mau nhờ mời vị khách bộ hành vào tạm trú trong nhà, mà các ông đã nhận ra Đức Giê-su phục sinh (x. Lc 24,29-31). Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang hiện thân trong những người đau khổ nghèo đói, những kẻ đứng ngoài cửa nhà chúng ta và gõ. Ai mở cửa đón rước Người, thì Người sẽ vào trong nhà linh hồn của họ và ngồi vào bàn dùng bữa tối thân tình với họ.

          XÉT MÌNH : Tôi thường có thái độ thế nào đối với những kẻ mình không ưa hay những khách lạ không mời mà đến ? Tại sao người ta đóng cửa nhà hay cửa lòng với những người nghèo đói ăn xin ? Khi các người làm tông đồ đến nhà, tôi có niềm nở đón tiếp và cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng của họ hay không ?

          2) TÌNH YÊU ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊSU.

          – GƯƠNG VÁC THÁNH GIÁ :

          Từ lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ BƠ-LÉT-SÍT (Arthur Blessit) đã khởi đầu một cuộc hành trình đi bộ vòng quanh thế giới. Trên vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô. Sau 26 năm vất vả, ông đã lập được một kỷ lục thế giới về đi bộ, khi vượt qua một quãng đường dài tới hơn 50 ngàn cây số, ngang qua nhiều quốc gia. Sau này ông đã thuật lại chuyến đi ấy như sau : “Tôi đã đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đã từng bị dã thú như voi, rắn, cá sấu tấn công. Tôi bị bắt giam 21 lần vì bị nghi là làm gián điệp và có lần suýt bị dân da đỏ hành hình…” Động lực thúc đẩy ông làm được việc phi thường ấy là tình yêu mến Chúa Giê-su. Ông muốn mang thánh giá đến mọi nơi trên thế giới, như lệnh Người truyền : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).

          – PHẢI VÁC THẬP GIÁ NÀO ?

          Đức Giê-su mời mọi người hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người (x. Mt 16,24). Đường thập giá là con đường chính Đức Giê-su đã đi chịu chết. Đây là con đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao động vất vả ở Na-da-rét, là đường rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân độ thế từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, là đường lo buồn trong vườn Cây Dầu, bị xét xử bất công, chịu đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá lên đồi Can-vê; là đường chịu đóng đinh và chết nhục nhã như một tên đại gian ác. Nhưng con đường đó lại là điều kiện để vào vinh quang phục sinh, như ba lần Người đã báo trước (x. Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19).

          Các tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su mời gọi đi con đường thập giá của Người. Thập giá mà chúng ta vác không phải là cây gỗ thập giá của Đức Giê-su, nhưng là những gánh nặng việc bổn phận đối với gia đình xã hội và Giáo hội, là đòi hỏi phải từ bỏ của cải vật chất, quyền hành, là những người mà chúng ta tuy không ưa, nhưng vẫn phải sống chung một nhà. Đức Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi với tính tự nhiên, Người bị lo buồn sợ hãi trước Giờ Tử Nạn, nhưng Người đã can đảm chấp nhận vâng theo ý Chúa Cha (Mt 26,39). Chỉ vì yêu mến Cha mà Người sẵn sàng từ bỏ ý riêng để chấp nhận khổ hình thập giá. Cũng vậy, chỉ khi nào ta thực sự yêu mến Chúa Giê-su thì ta mới dám hy sinh quên mình, dấn thân theo Chúa trên con đường thánh giá, và mới dám hiến mạng sống mình vì mến Chúa và yêu tha nhân.

          – PHẢI YÊU CHÚA THẾ NÀO ?

          Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ Người phải dành trọn tình yêu cho Người : “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Nếu Đức Giê-su không phải là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và nếu Người đã không chịu chết vì yêu loài người trước, thì chắc Người không dám đòi môn đệ phải hy sinh như vậy. Từ ngày Đức Giê-su về trời đến nay, có biết bao vị thừa sai tông đồ đã dám sống đến cùng tình yêu mà Đức Giê-su đòi hỏi ấy. Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng Lời Chúa, nhưng còn là thông truyền đức tin và tình yêu Chúa cho người khác ; Là giới thiệu Đức Giê-su cho tha nhân nhận biết, tôn thờ, yêu mến cậy trông vào Người. Muốn làm được điều này thì chính chúng ta phải cảm nghiệm được tình yêu của Chúa nơi bản thân và sẵn sàng dâng cả cuộc đời để đáp lại tình yêu ấy. Ước gì chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết mọi người, mọi vật, chấp nhận bỏ đi cái tôi ích kỷ hẹp hòi, để tình yêu Chúa ngày một lớn lên khi ta biết khiêm tốn phục vụ tha nhân.

  1. THẢO LUẬN: 1) Ta cần từ bỏ những gì và phải vác thập giá nào để nên môn đệ của Chúa ? 2) Theo kinh Cải Tội Bảy Mối, muốn bỏ một tật xấu như tự kiêu, bủn xỉn, mê đắm xác thịt, hay giận hờn, say xỉn, ghen ghét, lười biếng… Ta phải tập những nhân đức đối nghịch nào ?

5. LỜI CẦU

      – LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng đáng : biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết xả thân mà không cần một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).

     – LẠY CHÚA. Xin nhận lấy tất cả tâm tư tình cảm và ước muốn của con, tất cả những gì con có và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy đều do Chúa đã ban cho con, thì hôm nay con lại xin dâng chúng cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin hãy sử dụng theo ý Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa ban cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn và sau này được Chúa ban ơn cứu độ. Được như vậy là con đã thỏa mãn lắm rồi.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

.

ĐỊA CHỈ TỐI ƯU

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Các bạn trẻ ngày nay rất thích nghe diễn giảng về chủ đề thành công trong cuộc sống. Có một vài điểm chung trong các bài diễn thuyết của nhiều danh nhân, doanh nhân thành đạt mà có thể kể ra hai điểm chung thường thấy trình bày đó là để đạt thành công trong cuộc sống thì cần phải có “hoài bão” (ambition) và biết cách “đầu tư” (investing). Sống mà không có hoài bão tức là không có mục đích, lý tưởng cụ thể thì hầu chắc không thể thành công. Người có hoài bão mà không biết đầu tư công sức, thời giờ và cả vật chất cho mục tiêu lý tưởng muốn đạt thì cũng chỉ là người mộng mơ viễn vông.

Phụng vụ Lời Chúa Giáo hội dọn cho đoàn tín hữu trong Chúa Nhật XIII TN A có thể nói tập trung vào chủ đề “đầu tư đúng địa chỉ tối ưu” để được hạnh phúc viên mãn, để được sống đời đời. Đầu tư là hành vi bỏ ra, tiêu phí một khoản nào đó và rồi sau đó mong sẽ thu lại một khoản nhiều hơn phần đã bỏ ra. Dĩ nhiên đã và đang có đó nhiều người đầu tư cách thiếu khôn ngoan, lầm lạc và hậu quả là phần thu lại ít hơn phần đã bỏ ra và có khi là chẳng thu lại được gì, kiểu “dã tràng xe cát”. Một trong những lý do gây ra các hậu quả trên đó là vì họ đã đầu tư không đúng địa chỉ.

Bài đọc thứ nhất trích Sách các vua quyển thứ hai tường thuật câu chuyện một cặp vợ chồng cao niên ở miền Sunam đã biết khôn ngoan đầu tư đúng địa chỉ. Hai vợ chồng đã đón tiếp ngôn sứ Êlisêu và dâng cho Ngài căn phòng khá đủ tiện nghi trên lầu. Hiệu quả của sự đầu tư của hai vợ chồng như nhãn tiền với lời khẳng định của vị ngôn sứ: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng một bé trai” (2V 4,16a). Trong cảnh già nua mà vẫn son sẻ thì quả là một điều bất hạnh và là một nỗi nhục trước mặt người đời. Dâng trao cho vị ngôn sứ chỉ một căn phòng vật chất và rồi lại được một người con nối dõi tông đường thì quả là thu một món lời khôn kể xiết. Ngoài ra căn phòng ấy cũng không mất đâu cả vì hầu chắc vị ngôn sứ sẽ không ở lại đó mãi mãi. Đầu tư đúng địa chỉ quả là một hành vi khôn ngoan.

Bài Tin mừng tường thuật những lời của Chúa Giêsu thoặt xem ra có vẻ nghịch thường. Một vị tôn sư lại thẳng thừng kêu gọi người ta phải yêu mến mình hơn cả mẹ cha. Người lại còn mạnh mẻ khẳng định rằng kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Người, thì sẽ tìm lại được mạng sống (x.Mt 10,37-39).

Một lý chứng duy nhất biện minh cho người có những lời lẽ xem ra nghịch thường và cả sống sượng ở trên đó là vì người ấy chính là Thiên Chúa, là Đấng dựng nên các bậc sinh thành của chúng ta, là Đấng cho chúng ta từ hư vô làm người trên cõi dương trần này. Những ai tin nhận Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật thì mới có thể đón nhận và sống theo những lời ấy.

Đã tin Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng mà nhờ Người mọi vật mọi loài được dựng nên (x.Col 1,15-20), thì việc chọn yêu mên Người hơn cả mẹ cha, việc sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì Người chính là việc đầu tư khôn ngoan nhất vì đã đầu tư đúng địa chỉ tối ưu nhất. Chắc chắn một khi đã đầu tư đúng địa chỉ tối ưu thì phần sẽ thu lại là gấp trăm gấp ngàn lần phần đã bỏ ra. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng minh định rõ sự thật này với các môn đệ. Khi Phêrô lên tiếng thưa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy” thì Chúa Giêsu đã nói: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, ruộng đất gấp trăm lần, cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cữu ở đời sau” (Mc 10,28-30).

Cần lưu ý là trong lời khẳng định của Chúa Giêsu có đó sự ngược đãi. Đây là một hiện thực và cũng là một chướng ngại phải vượt qua. Bất cứ sự đầu tư nào cũng có đó phần khó khăn vì kết quả luôn ở thì tương lai. Để mong thành công trong những thiện hảo đời này thì người đầu tư dĩ nhiên cần một chút liều lĩnh nào đó, nói đúng hơn là sự can đảm và kiên trì vượt khó. Để được thành nhân và nhất là được hạnh phúc vĩnh cửu thì khi khôn ngoan đầu tư mọi sự vào Đấng Cứu Độ thì vẫn có đó chướng ngại phải can đảm vượt qua. Đó là mầu nhiệm thập giá mà Chúa Kitô đã nói rõ ràng: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Bài Tin Mừng hôm nay có thể chia này thành 2 phần tương đối rõ rệt:

* Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ.

* Phần sau (các câu 40- 42) dạy về sự tiếp đón.

  1. Về sự từ bỏ
  2. Có nhiều loại từ bỏ

– Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.

– Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.

–  Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.

Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào?

–  Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.

–  Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.

–  Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.

  1. Xét như thế thì Chúa muốn chúng ta từ bỏ để được nên tốt hơn.

Người ta kể lại rằng: khi nhà danh họa Léonard de Vinci đem bức tranh nổi tiếng của mình là bức tranh vẽ Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly ra trưng bày cho mọi người thưởng lãm. Đây là một bức tranh rất đẹp. Chúa Giêsu ở giữa và chung quanh là các môn đệ của Người.  Lúc triển lãm bức tranh, tác giả cố ý núp ở một chỗ trong một phòng kín có ý để quan sát. Ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy điểm thu hút sự chú ý của mọi người không phải là khuôn mặt của chúa Giêsu mà là cánh hoa ông vẽ bên góc bức họa. Ngay lập tức ông đã nhận ra sự sai lầm của mình đó là đã thêm một cánh hoa vào bức tranh làm cho người xem bị phân tâm không còn chú ý tới trọng tâm của bức tranh là Chúa Giêsu nữa. Ông liền lấy cọ bôi bỏ cánh hoa đó. Và sau đó thì mọi người xem đều dán chặt mắt vào khuôn mặt Chúa Giêsu.

Việc bỏ cánh hoa là việc rất nên. Chính vì thế mà Léonard de Vinci đã đạt được uớc nguyện của mình.

Đàng khác vấn đề mất và được ở trên thế gian này có gì là tuyệt đối đâu.

Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm chia buòn vì sự rủi ro đó. Ông đáp:

– Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may.

Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ thêm được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn nên đến chúc mừng. Ông nói:

– Chưa hẳn được ngựa là may đâu.

Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cỡi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được.

Sống theo chúa Giêsu là đặt Ngài làm trọng tâm của cuộc sống, nhìn thấy Ngài trong mọi sự. Đó là bí quyết của các thánh. Chúa Giêsu không chỉ là bậc Thầy, vạch ra một con đường cho người khác đi theo. Ngài còn tự xưng mình là con đường duy nhất, Ngài đòi hỏi con người phải đi theo Ngài một cách tuyệt đối, nghĩa là vì Ngài sẵn sàng từ bỏ tất cả và từ bỏ tức khắc: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy… không xứng với Thầy… Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất… (x. Mt 10,37.39). Đi theo chúa, bỏ tất cả, hiến mạng sống làm gia nghiệp đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đã kể ra trong Tin mừng hôm nay cho chúng ta.

Đi theo chúa Giêsu cũng có nghĩa là sống thế nào để mọi người nhìn vào đều thấy được gương mặt của Ngài. Một cuộc sống như thế đòi nhiều hy sinh từ bỏ, cũng như nhà họa sĩ sẵn sàng bôi bỏ một cánh hoa để thu hút sự chú ý của khán giả vào gương mặt của Chúa Giêsu. Cũng thế, người môn đệ của Chúa luôn sẵn sàng tháo gỡ và dứt bỏ mọi thứ vướng bận để chỉ sống cho Chúa và làm cho mọi người nhận ra gương mặt của Chúa qua cuộc sống của chính mình” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày” – tập II).

  1. Vần Đề Thứ hai về sự tiếp đón
  2. Thánh Kinh đã ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương. 
  3. Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18);
  4. Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I);
  5. Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
  6. Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì?

Là sự sống: Một đứa con cho cặp vợ chồng già, hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.

Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:

– Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khách và đáp ứng theo khả năng của mình.

– Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.

Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bài rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.

Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.

Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.

Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.

Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.

Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Rồi bà ngủ lúc nào không biết. Trong giấc mơ bà thấy Chúa đến với Ngài nói: “Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta”.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA LUÔN BÊNH VỰC NGƯỜI CÔNG CHÍNH

P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, mấy ngày vừa qua dường như những ai có “trái tim Công giáo” đều phải xốn xang, hoặc ít nhất cũng phải tan nát, bởi ngay chính tại quê hương Việt Nam, nơi mà được cho là tự do Tôn giáo, lại bị dấy lên một cuộc xung đột ngay tại cơ sở của Đan Viện Thiên An, Huế. Một nơi tu hành, yên ắng , tưởng chừng là nơi bình an, nhưng vẫn gặp xung đột. Một nhóm người ngang nhiên xông vào khuôn viên tu viện đập phá Thánh Gía có tượng Chịu Nạn, đập phá, nhổ đi. Cùng lúc các thầy hữu trách của đan viện phải ra sức bảo vệ, nhưng, lực bất tòng tâm, một số thầy bị đánh có thương tích.

Theo đó, hành động được xảy ra như trên các trang mạng truyền thông đã đăng tải vụ việc. Thiết nghĩ, nếu trộm cướp, thì Thánh giá có tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không phải là “tài sản” để chúng hành động như vậy giữa ban ngày.

Còn thế “đối nghịch” với Đạo Công Gíao mà ngang nhiên hành động như vậy giữa ban ngày là phạm pháp. Vậy, những người ấy là ai ?! Nếu giang hồ, côn đồ, thì họ làm vậy vì mục đích gì ?! Chắc chắn là do “thuê mướn”. Như vậy, chính quyền và luật pháp ở đâu?! Các đan sĩ Thiên An là những người tu hành hợp pháp. Tu Viện có giấy tờ gần trăm năm, nghĩa là có quyền sở hữu tồn tại hợp pháp. Nếu không, thì không thể tồn tại với thời gian được.

Rõ ràng, nếu đã hợp pháp, thì các tu sĩ mặc nhiên có quyền và trách nhiệm bảo vệ tất cả tài sản thuộc đan viện, dù là một “cọng cỏ”. Theo đó, tất cả những ai đặt chân vào khuôn viên của Đan Viện một cách bất hợp pháp, đều là ”phi pháp”. Vì, Đất Nước có chủ quyền, lãnh thổ có Quốc Gia, nếu không ngoại bang xâm lấn lấy gì mà đánh đuổi, tục ngữ Việt Nam có câu :”Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Nay, sự việc ẩu đả, xâm phạm gia cư bất hợp pháp của một nhóm người xảy ra trong khuôn viên của một dòng tu, giữa ban ngày, trong một Đất Nước có chủ quyền “như” Việt Nam, pháp luật và nhà cầm quyền thản nhiên hay sao ?!

Dù thế lực nào, trừ phi “gian tặc”, thì không thể ngang nhiên xông vào nơi tu hành hợp pháp “tấn công” tu sĩ như vậy!

Nếu tranh chấp đất đai, cũng phải chờ bản án của Tòa Án, còn nếu cưỡng chế cũng phải có “án lệnh” mới thi hành. Điều nầy loại trừ, bởi vì đất đai của tu viện có từ lâu đời và có bằng khoán từ thể chế cầm quyền trước đây công nhận là đất mua chứ không phải đất tự khai phá.

Như vậy, “lực lượng” xông vào đập phá THÁNH GIÁ là biểu tượng thờ phượng của hơn 1 tỷ 2 người Công giáo, chưa kể Chính thống và Tin Lành, là một sự xúc phạm “khó dung”. Kính mong các cấp Giáo Quyền đề nghị nhà Cầm quyền truy xét, xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành và Luật Tôn giáo của Quốc Tế và của Việt Nam, vì Việt Nam đã ký kết Công Ứơc Quốc Tế về tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền, vì vậy, Việt Nam phải thực thi hầu bảo vệ công dân của mình cách chính đáng, đ1o là trách nhiệm và danh dự của một Quốc Gia.

Trở lại Trang Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy,  có hai phần:

  • Thứ nhất : Điều kiện nhất đẳng để làm môn đệ Chúa Giêsu.
  • Thứ hai : Phần thưởng dành cho người công chính.

Theo đó, mỗi trang Lời Chúa là một “cẩm nang sống” cho người môn đệ. Chúng ta thấy khởi đi  từ bài đọc I hôm nay, (2 V 4, 8-11. 14 -16a) cho thấy , Thiên Chúa luôn bênh vực người công chính, các tiên tri của Người. Rồi nữa, ai gíúp đỡ cho họ, thì cũng được Thiên Chúa thưởng công.

Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy phần thứ nhất từ câu 37 đến câu 39, dường như Chúa Giêsu đòi hỏi khắt khe, “ích kỷ”, nhưng, thật ra không phải vậy, đó là một sự đòi hỏi” tuyệt đối” công bằng. Một sự đòi buộc hợp lý dẫn đến một quy chế “hoàn hảo”, mà suốt hơn hai ngàn năm qua tồn tại phát triển theo chiều hướng đó, điều nầy nói lên sự thật. Vì, Chúa không “cưỡng ép” ai phải theo Người, nhưng mời gọi vì tình thương, mặc nhiên, tình thương thì phải đáp trả tình thương, phải có một sự tuyệt đối nhất định, không “ bắt cá hai tay”. Sự đòi buộc để làm môn đệ Chúa Giêsu cho thấy sự đòi hỏi của Thiên Chúa là Đấng toàn năng, chứ không phải quy chế của một phàm nhân nào khác đặt ra, vì : “Ai yêu cha mến mẹ hơn Thầy, thì không đáng thuộc về Thầy…” ( c 37 a)

Như vậy, tình gia đình phải đặt dưới tinh Chúa, tình tự nhiên phải đặt dưới tình siêu nhiên, tình khả năng, phải đặt dưới tình toàn năng, tình đồng loại, phải đặt dưới tình Đấng Tạo Thành. Vì , tất cả mọi thứ tình dưới Thiên Chúa là tình đồng loại, chỉ duy nhất một “ chữ tình” đó là Tình Thiên Chúa, thì phải đặt lên trên.

Như vậy, không phải Chúa chỉ đòi hỏi đặt tình Chúa lên trên tình gia đình mà thôi. Mà là, Chúa đòi hỏi phải đồng cam, cộng khổ với Người nữa, nghĩa là: phải vác Thập giá của mình mỗi ngày, và phải hy sinh mạng sống mình nữa. Như vậy, muốn theo Chúa Giêsu, điều kiện đòi hỏi thật khắt khe, chứ không đơn giản. Có nghĩa là phải hy sinh tình gia đình, hy sinh bản thân, và cuối cùng là hy sinh mạng sống. Vâng, một sự đòi hỏi khắt khe, nhưng, hoàn toàn hợp lý, bởi vì, thế gian không phải là thiên đàng. Trần thế chưa phải là Nước Trời, mà là hành trình tiến về quê Trời.

Phần thứ hai : Từ đó suy ra, sự đòi hỏi của Chúa Giêsu cho chúng thấy sự công bằng bởi sự đòi hỏi ấy là sự bênh vực tuyệt đối bởi Thiên Chúa. Vì , quy chế, thì phải có phần thưởng, từ quy chế siêu nhiên, mặc nhiên , phần thưởng cũng siêu nhiên. Thực tế trong cuộc sống Thiên Chúa vẫn ban cho chúng ta những ơn siêu nhiên qua những nhu cầu tự nhiên, như chúng ta gặp được những may mắn trong đời sống vật chất, trong đó hầu để đáp ứng nhu cầu thân xác và thiêng liêng nữa. Vì chính Chúa muốn đồng hóa với những người công chính, ngôn sứ và trẻ em.

Vì phần thưởng cho ngôn sứ được dành cho những ai đón tiếp ngôn sứ.

Phần thưởng cho người công chính được dành cho những ai đón tiếp người công chính.

Phần thưởng cho trẻ em dành cho những ai yêu thương trẻ em.

Như vậy, theo đó chỉ có hai hạng người được chính Chúa Giêsu đồng hóa mình là : Người công chính và trẻ em.

Như vậy, ai là người công chính thì hãy an tâm, vững chí và vui mừng trong hy vọng vì phần thưởng sẽ dành cho sự công chính của họ. Còn ai chưa công chính, thì nhờ Lời Chúa hôm nay cố gắng trở nên công chính, Còn những ai có tâm hồn “ người lớn” thì hãy trở nên tâm hồn “ trẻ thơ”, để được phần thưởng của trẻ nhỏ.

Và , những ai bị bách hại vì lẽ công chính, mặc nhiên, họ là những người công chính, vì vậy phần thưởng của họ là phần thưởng dành cho người công chính.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã giáo huấn cho những ai muốn bước theo Người một chân lý sáng tỏ, là Thiên Chúa luôn bênh vực người công chính. Xin cho những ai được sáng soi biết nhận lấy ánh sáng chân lý của Chúa mà an tâm, vững chí thi hành, hầu mang lại cho họ phúc trường sinh ./. Amen

Về mục lục

.

ĐÂU LÀ LẼ SỐNG

 JM. Lam Thy.

Con người sống trên đời ai mà chẳng “tham sinh uý tử” (tham sống sợ chết). Và khi có ai đó (là người đáng tin cậy) mách bảo lẽ sống còn (con đường hạnh phúc, thuốc trường sinh, sống vui, sống khoẻ…) thì ham thích lắm, nghe theo liền, dù chưa biết cái lẽ sống ấy sẽ đi về đâu. Khi các môn đệ đi theo Đức Ki-tô thì cũng vậy, ai cũng muốn mình sẽ được thế này thế nọ (Vd: Hai người con ông Dê-bê-đê xin được ngồi bên tả bên hữu Chúa Giê-su [tức là Tả Hữu Thừa Tướng của Vua Giê-su] – Mc 10, 35-45; hoặc ít ra thì cũng được làm dân chài đi ”lưới người” thay vì “lưới cá” – Mc 1, 17).

Tuy vậy, nghe lời mời gọi của Đức Ki-tô thì lại thấy không hấp dẫn một chút nào. Bài Tin Mừng hôm nay (CN XIII TN/A – Mt 10, 37-42) là một ví dụ. Xin cùng nghe thử: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10, 37-39); “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24)…Tất cả đều chứng mình muốn theo Chúa không phải chuyện dễ dàng. Duy chỉ có một lần Người nói khác hẳn: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30). Ách của Người êm ái và gánh của Người nhẹ nhàng ư? Nếu thế thì ai chẳng muốn theo, nhưng tại sao lại “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”? Vác thập giá mà coi là êm ái, nhẹ nhàng sao? Có gì mâu thuẫn chăng? Như vậy thì phải hiểu Lời dạy của Thầy Chí Thánh như thế nào? 

Trước hết, Lời dạy “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” phải được hiểu theo nghĩa ẩn dụ và cái thập giá ấy chính là những tội lỗi trì trệ của tính xác thịt bản thân. Đó chính là cây thập giá của mình, là cái gánh nặng nề, cùng với cái ách chẳng êm ái một chút nào. Sẽ có một vấn nạn: Chúa dạy “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”; nhưng tại sao Chúa vác thập giá của Chúa (cái ách, cái gánh của bản thân), sao lại nặng nề quá như vậy, nặng đến độ ngã xuống đất 3 lần, phải nhờ Si-mon vác đỡ? Vấn đề chính ở điểm này: Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, chẳng chút bợn nhơ, nhưng vì vâng lệnh Chúa Cha, Người xuống trần mặc lấy thân xác yếu hèn của phàm nhân, gánh lấy tội lỗi loài người để cứu độ nhân loại; Người đã vác cây thập-giá-tội-lỗi-loài-người quá sức nặng nề bằng thân xác phàm nhân, nên mới quỵ ngã ba lần. Thập giá ấy không phải của Chúa, mà là của loài người đã chất lên vai Chúa. Vì thế nên khi Người nói “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” là Người muốn dạy người tín hữu hãy tự gánh lấy tội lỗi của bản thân, đi theo con đường thập-tự-Giê-su thì sẽ được cứu rỗi (“nghỉ ngơi bồi dưỡng”). Lời mời gọi chân tình đó chính là “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” vậy. 

Sở dĩ Chúa dạy như vậy vì Nguời biết rõ tính xác thịt của con người rất là nặng nề; nặng nề nhưng lại quyến rũ hơn cả tinh thần hướng thượng. Con người không những đã chiều theo tính xác thịt, mà còn viện dẫn trăm ngàn lý do để bào chữa. Thánh Phao-lô đã cảnh báo: “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an.” (Rm 8, 5-6). Quả thực, theo Thầy thì rất muốn theo Thầy, nhưng bảo phải vác thập giá mình mà theo thì lại… buồn rầu bỏ đi một nước (giống hệt anh chàng thanh niên giàu có muốn theo Thầy – Mt 19, 16-22). “Thật vậy, hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không thể phục tùng được.” (Rm 8, 7). Hoá cho nên anh cần phải biết phân biệt rạch ròi ánh sáng và bóng tối. Đừng ngụp lặn trong bóng tối mà vẫn cứ ru mình trong ảo vọng đã tìm được hướng đi đích thực. Vâng, “ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3, 19). Ấy cũng bởi vì “ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.” (Ga 3, 20).  

Để phân biệt được ánh sáng và bóng tối, không phải là chuyện dễ dàng, nhất là ở cái thế kỷ XXI vàng thau lẫn lộn này. Chính những nơi mình cứ tưởng là chan hoà ánh sáng, lại là bóng tối, tội lỗi ngập đầu. Bởi ngay như Đức Giê-su Ki-tô là “ánh sáng cho trần gian…, là ánh sáng thế gian” (Ga 8, 11-12), mà cũng còn có Giê-su giả nữa kia (“Thật vậy, sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể.” – Mt 24, 24). Thiết nghĩ, chỉ còn một phương cách duy nhất, hữu hiệu nhất, đắc dụng nhất, đó là cầu nguyện, cầu nguyện liên lỉ để xin ơn soi sáng, xin ơn trợ giúp từ chính Đấng Bảo Trơ là Thánh Thần, là Thần Chân Lý. Vâng, một cách cụ thể, chỉ có  một con đường “độc đạo” cho chúng ta: Đó là, hãy sống theo Sự Thật do Đức Thánh Linh mạc khải và hướng dẫn. 

Tóm lại, “vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi. Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta.  Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.” (xc. Bài đọc 2: Rm 6, 5-11). Hãy vững tin và dâng lời khẩn nguyện:

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử để chúng con trở thành con cái ánh sáng; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc, nhưng gìn giữ chúng con luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.” (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 13 mùa Thường niên).

Về mục lục

.

ĐỂ XỨNG ĐÁNG VỚI THẦY

 Fx. Đỗ Công Minh.

Bài Tin Mừng hôm nay mới đọc lên hẳn sẽ khiến nhiều người cảm thấy “Dội “. Thật vậy, Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”, những lời này xem ra dị ứng với luân lý đời thường. Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ, cha mẹ phải yêu thương con cái. Đó là điều phải lẽ và chính đáng, sao Đức Giêsu lại nói những điều này? Vấn đề ở đây là chỉ ở từ  “HƠN” . Đức Giêsu không có ý nói đến sự so sánh, nhưng điều chính yếu, đó là Người muốn chúng con phải biết đặt Chúa là đối tượng lớn nhất và duy nhất để lắng nghe, tôn thờ. Bởi Chúa là đấng trọn lành, Người khẳng định “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với cha mà không qua Thầy”. Cha mẹ, anh chị em, rộng ra là những người thân, mỗi người phải có bổn phận yêu mến, lắng nghe nhau, giúp đỡ nhau trong cuộc sống trần gian, nhưng mục đích cuối cùng của cuộc đời chính là đạt đến sự toàn thiện như Cha, Đấng ngự trên trời. Chính vì vậy, theo Chúa là một cuộc đấu tranh để đạt tới hạnh phúc  viên mãn,vĩnh cửu, bất diệt. Ngay sau những lời nhắc nhở chúng con về việc tôn nhận Chúa là Đấng tuyệt đối, Người cũng cho thấy cái giá phải trả khi theo Chúa:”Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” . Thập giá ở đây chính là chiến thắng sự giằng co giữa thế trần và Nước Trời, phải biết gạt bỏ tình cảm , ý riêng của mình, từ bỏ những tình cảm gia đình, những sở thích, nhu cầu của bản thân, hội nhóm  để đi theo con đường Chúa đi, Lời Chúa dạy qua Tin Mừng.

Đức Kitô cũng đã trải qua đau thương, Người đã chiến đấu và chiến thắng trước những cám dỗ của ma quỉ. Chính Chúa đã vác Thập giá tiến đến đồi Sọ và sẵn sàng đổ máu mình ra làm chứng cho sự thật, tình yêu.  Cuối cùng Người đã chiến thắng sự chết, Người đã Phục sinh vinh hiển và lên trời.

Ngày hôm nay, con đang sống trong một xã hội tục hóa, biết bao cám dỗ bủa vây khiến con người dễ sa ngã. Nhiều bậc cha mẹ, phụ huynh cũng vì không dám vác Thập giá mình theo Chúa, đã làm ngơ trước những điều xấu của con cái, anh chị em mình. Thậm chí có những hành động và lời lẽ tán đồng, chiều theo cái xấu khiến cái xấu lan tràn, tội ác, sự hiềm thù, gian dối, lừa đảo phát triển ngày càng nhiều dẫn đến xã hội ngày càng bất an.

Xin cho con luôn biết mỗi ngày mỗi cố gắng hơn, tu thân sửa mình, chọn Chúa thay vì chọn thế gian. Biết tin nhận Chúa là Đấng toàn năng trên hết mọi sự, biết vác thập giá mỗi ngày theo Chúa. Biết sống chân thành, bác ái, yêu thương đến những người đang sống bên chúng con, nhất là những người bất hạnh, bị bỏ rơi, hèn kém trong xã hội. Có như thế con mới xứng đáng là môn đệ của Chúa vậy. AMEN.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Antôn 

Sống trong quốc gia Hoa kỳ này, mỗi lần lái xe đi đâu xa chúng ta có thể ghé vào những tiệm ăn bên đường như Mc Donald hay những nhà hàng Việt Nam để mua thức ăn.  Nếu cần ngủ qua đêm, chúng ta cũng có thể dừng chân tại những khách sạn hay quán trọ dọc đường. Nhưng trong thời tiên tri Ê-li-sê và ngay cả ở Việt Nam chúng ta vào những thập niên 60 hay 70 cũng không có những tiện nghi này. Thế nên nếu vì hoàn cảnh phải đi xa và trải qua những con đường dài thì nhiều khi phải lệ thuộc vào lòng hiếu khách của những người xa lạ.  Chúng ta có thể hình dung và chắc chắn rằng trong cuộc hành trình dài, khó khăn và nguy hiểm của Đức Maria đi thăm bà Ê-li-za-bét, hay cuộc hành trình trốn vua Hê-rô-đê sang Ai-cập, của Thánh gia, Đức Maria, Chúa Giê-su Hài đồng lúc đó mới sanh, và thánh cả Giuse đã phải cậy nhờ đến lòng hiếu khách và sự giúp đỡ của những người xa lạ sống dọc đường.  Và có thể sinh mạng của Thánh gia tùy thuộc vào sự giúp đỡ của họ.
 
Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngôn sứ Ê-li-sê vô cùng may mắn được người phụ nữ ngoại bang ở thành Sunam đón tiếp một cách ân cần.  Người phụ nữ này thấy Ê-li-sê thường qua lại thành Sunam để làm công việc của Chúa nên mới bàn với chồng làm một căn phòng trên gác để ngôn sứ trọ qua đêm.  Trước lòng hiếu khách cao quí đó, ngôn sứ Ê-li-sê muốn thưởng công cho hai vợ chồng.  Khi biết vợ chồng đã già mà chưa con, Ê-li-sê liền hứa sẽ cầu nguyện cho bà được một người con trai vào năm tới.
 
Đây quả là phần thưởng vượt quá ước mơ của hai vợ chồng, nhưng đó cũng mới chỉ là phần thưởng dành cho những người đón tiếp ngôn sứ. Còn phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những người quảng đại, đối xử tốt đẹp với chính môn đệ Người, những người thi hành sứ mạng của Người trao phó, còn trọng đại và cao quí hơn nhiều.

Trong Tin mừng, chúng ta được biết trong sứ mạng rao giảng Tin mừng tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã phải nhờ đến những sự giúp đỡ của người bên đường như bà Mát-ta và Maria, và có lẽ nhiều người khác nữa.  Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa Giêsu, Đức Maria và các môn đệ được mời đi dự đám cưới ở thành Cana.  Chúa Giê-su, qua lời giới thiệu của Đức Maria, Mẹ Người, đã giúp cho đôi tân hôn qua khỏi sự khó khăn là hết rượu giữa bữa tiệc.  Chúng ta còn được biết khi dân chúng của một làng hay thành nào đón tiếp Chúa Giêsu thì nơi đó nhận được phần thưởng của Thiên Chúa: bệnh nhân được chữa lành; tội nhận được tha thứ; người nghèo khổ được loan báo Tin Mừng. Còn những nơi nào từ chối đón tiếp Chúa hay các môn đệ thì chúng ta nghe Chúa nói phần dành cho họ chỉ là chút bụi bàn chân thôi.
 
Người Do thái cảm nhận rằng khi thành tâm đón tiếp vị đại diện của ai là đón nhận chính người đó. Thành ra khi đón nhận các môn đệ của Chúa Giêsu thì không khác gì đón nhận chính Người, mà đón nhận chính Người cũng có nghĩa là đón nhận chính Thiên Chúa Cha.
Chúng ta thấy trong xã hội này, khi mà cửa nhà ai cũng đóng kín và còn được cài gắn hệ thống báo động, cho nên chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, khép kín lòng người, đang từ từ ăn sâu vào tâm trí và ảnh hưởng nặng đến cuộc sống của mọi người kể cả Ki-tô hữu.  Tiền tài, vật chất và các thú vui đang từ từ chiếm hữu đời sống của Ki-tô hữu. Đức tin và chính Chúa cũng từ từ bị loại ra khỏi đời sống của nhiều Ki-tô hữu ngày nay, để họ có cuộc sống tự do và thoải mái hơn, không bị cản trở.  Và hậu quả thì sao?  Có lẽ tất cả chúng ta có câu trả lời.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế này có nhiều thập giá, đau khổ, khó khăn, thử thách và cám dỗ, và Chúa thiết tha kêu gọi chúng ta hãy có lòng quảng đại và hãy “mở lòng hiếu khách” đón nhận Người và lời của Người vào trong tâm hồn của chúng ta, vào trong gia đình của chúng ta. Chúng ta sẽ nhận được những phần thưởng quí giá là sự bình an thật của Chúa; chúng ta sẽ nhận được sức mạnh và ân sủng của Chúa; chúng ta sẽ được lời Chúa hướng dẫn và đi trong niềm vui mừng, hy vọng và vững tâm.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúa kêu gọi chúng ta hãy can đảm phá cánh cửa ích kỷ, lười biếng và cái tôi đang đóng kín tâm hồn mà thoát ra ngoài đến với Chúa và đến tha nhân.  Khi can đảm mở rộng cánh cửa tâm hồn để tiếp nhận Chúa và Lời Người là sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, đau khổ, khó khăn và thiệt thòi, để sống với và trong Chúa, để sống vì và như Chúa, để tin theo và yêu mến Chúa.  Mở tâm hồn ra để đến với tha nhân bằng hành động bác ái, yêu thương, quảng đại, giúp đỡ và phục vụ, và chúng ta sẽ gặp được ơn phúc và sự sống như lời Chúa nói: “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.”  

Nhìn vào xã hội ngày nay, chúng ta thấy có những người can đảm vác  những khó khăn và đau khổ vì Chúa và vì Tin mừng để theo Chúa, và có những người từ chối. Có những người vui mừng nhận chịu những sự thiệt thòi, hy sinh phục vụ, sống bác ái, yêu thương và quảng đại, và có những người sống ích kỷ, khép kín và sống riêng cho mình.  Sự khác biệt là đức tin.  Đối với những Ki-tô hữu chúng ta, đó là đức tin vào Chúa Giê-su, Người đã đem ân sủng và sự sống đến cho nhân loại, khi Người hy sinh chịu những đau khổ và vác thập giá, để chúng ta cũng mang ân sủng và sự sống của Chúa đến với tha nhân khi chúng ta hy sinh, khi chúng ta chịu thiệt thòi, chịu đau khổ và vác thập giá.  Đối với những Ki-tô hữu chúng ta, đó là đức tin vào lời của Chúa-Giê-su-Chịu-Đóng-Đinh trong bài đọc 2 hôm nay cho chúng ta biết: là nếu chúng ta đã chịu phép rửa trong sự chết của Người, thì chúng ta cũng sẽ có đời sống mới như Người.

Đây là tin mừng mà Chúa Giê-su mang đến cho chúng ta.  Xin Chúa giúp chúng ta can đảm mở cửa tâm hồn đón nhận tin vui mừng của Chúa, và sức mạnh để trung thành và vui mừng vác thập giá  theo Chúa.     

Về mục lục

.