CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Dcr 12,10-11; Gl 3,26-29; Lc 9,18-24
——-
1. Đức tin và Thập giá (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Nhận diện Đức Kitô (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Từ bỏ luôn cao đẹp (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Tuyên xưng Đức Giê-su thế nào cho phải? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
6. Vấn nạn (Trầm Thiên Thu)
7. Thầy nào trò nấy (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
8. Đức Kitô là ai đối với tôi?(Lm. Văn Hào, SDB)
9. Bỏ mình và vác thập giá để đi theo Đức Giêsu (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
10. Thầy là ai? (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Đức Kitô (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
12. Phút dừng chân khẳng định căn tính (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
13. Chúa Nhật 12 Thường niên_C (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
14. Biết để sống đúng (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
15. Ngài là ai? (AM. Trần Bình An)
16. Từ bỏ chính mình (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
17. Bước chuẩn bị vào khúc quanh ảm đạm trong sứ vụ (Lm. Uyen Nguyễn)
18. Anh em bảo Thầy là ai?(Dã Quỳ)
19. Đức tin và lề luật (JM. Lam Thy, ĐVD)
20. Để nên môn đệ thật sự của Đức Giêsu (Lm. Đan Vinh)
Kitô giáo là một tôn giáo mạc khải. Thiên Chúa đã tự tỏ mình cho chúng ta qua Con của Ngài. Đức Giêsu đến từ cung lòng Chúa Cha để nói với chúng ta về Chúa Cha. Người cũng mời gọi chúng ta sống cho xứng với phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa. Như thế, nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta biết Chúa Cha. Cũng nhờ Người mà mỗi ngày chúng ta sống trên trần gian là một bước tiến đến lại gần Chúa Cha. Nói cách khác, mỗi ngày sống là một khám phá ra sự hiện diện và lòng nhân ái của Người. Lý tưởng của người Kitô hữu không phải là một vĩ nhân trần thế, nhưng là chính Thiên Chúa, như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Lc 5,48).
Đời sống hằng ngày của người kitô hữu là một chuỗi những cố gắng để nhận ra khuôn mặt của Chúa Cha thể hiện qua Chúa Giêsu. Giữa những ồn ào và bươn chải của cuộc sống, nhiều khi chúng ta lãng quên chân lý quan trọng này. Vì thế, câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ cũng là một gợi ý giúp chúng ta định hướng cuộc đời: “Còn anh em, anh em bảo Thày là ai?”. Xem ra các ông lúng túng trước câu hỏi của Chúa, nên mới trả lời bằng những lời đồn thổi về Người. Giả sử bây giờ Chúa hiện ra đặt với chúng ta cũng câu hỏi ấy, chắc chắn chúng ta không khỏi giật mình, vì hình ảnh và quan niệm về Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ, nơi chúng ta còn mờ nhạt mông lung. Sự mờ nhạt này là hậu quả của tình trạng thiếu kiến thức giáo lý, và vì thế, dẫn tới cách ăn nết ở không phù hợp với giáo huấn của Chúa.
“Còn anh em, anh em bảo Thày là ai?”. Trả lời được câu hỏi này, chúng ta cũng xác định được chúng ta là ai. Ngỏ lời với giáo dân Galát, Thánh Phaolô đã xác định rõ: sự hiểu biết thâm sâu về Đức Giêsu sẽ giúp cho chúng ta “mặc lấy Người”. Cách nói của Thánh Tông đồ muốn diễn tả tâm hồn của người tín hữu khi được nên một với Chúa thì được Người bao phủ như một chiếc áo choàng. Đó cũng là nghi thức mang tính tượng trưng khi cử hành bí tích Thánh Tẩy. Người vừa được rửa tội mặc một chiếc áo trắng, diễn tả tình trạng tinh tuyền sau khi được tắm trong dòng nước thiêng liêng. Họ được “mặc lấy Chúa Giêsu”, tức là từ nay họ theo sát Chúa như hình với bóng, được Người chở che và giữ gìn. Không chỉ là mặc lấy bề ngoài, nhưng người tín hữu còn nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, để rồi, như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Như thế, trong Chúa Giêsu, chúng ta không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, giàu hay nghèo, nam hay nữ, uyên bác hay bình dân. Tất cả đều mang nơi mình hình ảnh Chúa Giêsu. Hình ảnh ấy liên kết chúng ta trong tình tương thân tương ái và giúp chúng ta sống theo giáo huấn của Người.
Kèm theo câu trả lời của tông đồ Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Thánh Phêrô được trình bày như một “phát ngôn viên” của nhóm Mười Hai, đã nói lên căn tính và sứ mạng thiên sai của Thày mình. Điều tuyên xưng này đã được Chúa Giêsu xác nhận, mặc dù Người yêu cầu các ông giữ kín. Khởi đi từ việc tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đề cập đến khía cạnh khác sứ vụ của Người, đó là thập giá. Cũng như sứ mạng thiên sai gắn liền với cuộc khổ nạn, Đức tin của các Kitô hữu cũng đi liền với thập giá cuộc đời. Khá nhiều người chỉ muốn chọn lựa Đức Giêsu mà khước từ thập giá. Nhưng, Chúa Giêsu vác thập giá và chịu đóng đinh mới là Đức Giêsu Cứu thế, mới là Đấng Cứu độ trần gian. Đức Giêsu chịu khổ nạn thập giá mới là Đức Giêsu của lịch sử và của đức tin. Một Đức Giêsu không thập giá chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng con người; một thập giá không Đức Kitô chỉ là sự điên rồ vô nghĩa.
“Còn anh em, anh em bảo Thày là ai?”, người tín hữu có bổn phận trả lời câu hỏi này mỗi ngày. Câu trả lời không chỉ được thực hiện bằng môi miệng, nhưng bằng đời sống cụ thể. Người tín hữu chân chính sẽ nhận Chúa Giêsu là khuôn mẫu cho mọi hành động cũng như ngôn từ của mình. Mỗi chúng ta hãy tìm trả lời câu hỏi của Chúa một cách nghiêm túc và cụ thể. Chúng ta cũng cần sàng lọc những hình ảnh sai lạc về Chúa, về Giáo Hội, về các bí tích, để trình bày một đức tin tinh tuyền như Chúa muốn và như Giáo Hội truyền đạt từ 20 thế kỷ. Chính đức tin ấy đã làm nên vẻ đẹp diệu kỳ của Giáo Hội và đem lại cho các tín hữu niềm vui khi dấn thân phụng sự Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.
“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.
Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.
Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.
Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.
Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.
Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô?
2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào?
3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào?
4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ?
5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người đi theo Chúa thời nào cũng rất đông. Số đông ở đây không chỉ là những bậc tu hành mà cả những tín hữu vẫn được gọi là môn đệ Chúa. Số đông đi theo Chúa nhưng đáng tiếc họ vẫn mang cồng kềnh những tham sân si đi theo. Họ mang gánh nặng nề không chỉ của cải mà cả đam mê tật xấu. Họ đi theo Chúa nhưng vẫn ngổn ngang những lọc lừa dối gian để tìm kiếm danh vọng trần gian.
Đây cũng là lý do nhiều người nói rằng “tin đạo chứ không tin người có đạo”. Vì sự thực, vẫn còn đó người có đạo mà vẫn hãm hại lẫn nhau, vẫn cờ bạc rượu chè, vẫn “trốn Chúa lộn chồng”. Vẫn còn đó những vết nhơ bởi những tranh giành quyền lực, địa vị xảy ra trong Giáo hội và ngay cả các xứ đạo. . .
Xem ra đi theo Chúa mà thiếu từ bỏ sẽ làm mất đi vẻ đẹp của Tin mừng. Tâm hồn khó thanh thản để được bình an khi trong lòng vẫn còn khư khư giữ lấy danh lợi thú trần gian. Đôi khi vì không muốn từ bỏ sẽ làm cho con người mất niềm vui của bình an tâm hồn và biến mình trở nên ích kỷ tầm thường.
Có một nhà hiền triết đã dạy các đệ tử mình như sau:
– Này các con, nếu trong túi của các con có ba con rắn độc chui vào, lúc đó các con ngủ có ngon không?
– Thưa thầy, chúng con ngủ không ngon.
Thầy hỏi:
– Làm sao các con ngủ mới ngon?
Các đệ tử thưa:
– Chừng nào chúng con đuổi được ba con rắn độc ra khỏi nhà, chừng đó chúng con ngủ mới ngon.
Thầy nói:
– Đúng vậy, ba con rắn độc ở trong nhà nên các con ngủ không ngon. Nhưng ba con rắn độc đó chưa độc bằng ba thứ độc tham, sân, si. Vì tham, sân, si sẽ giết chết tình người nơi các con và các con sẽ chẳng bao giờ có bình an khi nó đang ở trong các con.
Con rắn độc trong con người chúng ta chính là những tham sân si. Tức là lòng tham, sự nóng giận, tính mệ muội. Nếu chúng ta không chế ngự 3 con rắn độc này nó sẽ cắn lương tâm chúng ta và làm hại những người xung quanh.
Hôm nay Chúa mời gọi những ai là môn đệ của Chúa cần phải biết sống buông bỏ những tham sân si ấy. Đừng mang nó trong mình kẻo nó làm cản trở đôi chân truyền giáo của chúng ta. Hãy để Chúa làm chủ tâm hồn mình chứ đừng để những danh lợi thú làm mờ lương tri. Hãy từ bỏ để tâm hồn được thanh thoát. Từ bỏ những tham lam vô độ. Từ bỏ những đam mê bất chính. Nhờ từ bỏ mà ta nên chứng nhân của Tin mừng. Một chứng tá không chỉ bằng lời mà bằng chính đời sống thanh thoát khỏi những bon chen vật chất, những đam mê tội lỗi. Một chứng tá hùng hồn khi biết hy sinh vác thập giá của bổn phận hằng ngày một cách trung tín theo Chúa.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn can đảm bước theo Chúa cho dẫu có thiệt thòi đời này nhưng sẽ được trọng thưởng triều thiên vinh quang mai sau trên quê trời. Amen.
.
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Thầy là ai ? ” là câu hỏi do Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ về nguồn gốc của chính mình. Trong số người đương thời, có người cho là Giêsu thành Nagiaret sinh tại Bêlem, con bà Maria. Nhưng trong câu hỏi của Chúa Giêsu, hàm chứa lý lịch về mình thể hiện qua lời nói, dấu chỉ Người thực hiện. Qua đời sống công khải và sứ mạng của Chúa Giêsu, câu hỏi được đặt ra xoay quanh vấn đề Đức Kitô với vụ án: “Ông có phải là Đấng Kitô không ?“
Câu chuyện trong bữa tiệc tại nhà ông Simon người Biệt phái, chúng ta nghe tuần trước. Simon cho rằng : “Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai… là một người tội lỗi” (Lc 7, 39). Nhận định của Simon cho thấy Chúa Giêsu có vấn đề tình cảm.
Còn hội thoại hôm nay, quen gọi là tuyên xưng đức tin miền Xêsarê, Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho các môn đệ về chính mình : “Những đám đông dân chúng bảo Thầy là ai ? Các ông thưa rằng : Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại” (Lc 9, 18-19). Giờ đây, chúng ta có thể đặt một câu hỏi tương tự và làm cuộc điều tra về Chúa Giêsu với mọi người. Mỗi người một ý kiến: kẻ này cho rằng Chúa Giêsu là một nhà khôn ngoan, người khác cho là một nhân vật hư cấu, v.v.
Chúa Giêsu không ngại khi hỏi các môn đệ về chính bản thân mình : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? ” (Lc 9, 20). Chúa yêu cầu họ tự xem, Người có vị trí nào trong đời sống của họ. Nhân danh cả nhóm, Phêrô trả lời : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”
Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là Đấng được xức dầu làm ngôn sứ và vương đế để trở thành mục tử chăn dắt Israel. Trên miệng của Phêrô, tước hiệu Đấng Kitô chứa đựng ý tưởng toàn năng. Các môn đệ nghĩ rằng Chúa Giêsu đến để tái lập Vương Quốc Israel, Người sẽ dùng quyền năng đánh đuổi quân Rôma, đưa Do thái lên thống trị. Vì thế, khi Phêrô thưa : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20), là ông nghĩ tới một vị Kitô vinh quang, thống trị toàn năng, chiến thắng mọi kẻ thù. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại bảo họ im lặng.
Những trang tiếp theo của Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu ba lần loan báo cuộc thương khó rằng Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết. Nhưng các môn đệ không hiểu, không tin vào những gì sắp xảy đến. Đối với họ, Đấng Kitô chịu khổ nạn là không thể, hình ảnh Đấng Kitô vinh quang khác với hành động của Người. Họ không thể đón nhận Đấng Kitô đau khổ thay vì vinh quang.
Tại sao vậy ? Vì sau phép lạ hóa bánh ra nhiều theo Tin Mừng Gioan, đám đông chạy theo Chúa Giêsu để tôn Người lên làm vua. Chúa Giêsu thử lòng họ, giải thích cho họ ý nghĩa về sứ mạng của mình : “Các ngươi muốn Ta làm vua, vì Ta đã cho các ngươi ăn bánh no nê…” (Ga, 6, 26). Nhưng họ không hiểu lời Người nói, không phải vì trí hiểu kém, nhưng vì ý tưởng về Đấng Kitô chịu đau khổ đối với họ là hoàn toàn xa lạ.
Tuy nhiên, hình ảnh này đã được các tiên tri loan báo, cụ thể như tiên tri Dacaria mà chúng ta đã nghe “Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu qua ” (Dcr 12, 11), hoặc bài ca về người tôi tớ đau khổ trong sách tiên tri Isaia. Các môn đệ có thể biết rằng con đường của Đấng Kitô không đơn giản là đường vinh quang. Nhưng nếu họ biết, họ không thể chấp nhận! Hãy sống nhờ Người và kết hợp với Người để Người biến đổi chúng ta. Vì thế, trong khi dùng bữa tại nhà ông Simon, người đàn bà tội lỗi, với thái độ khiêm nhường và yêu thương, đã chỉ ra rằng Chúa Giêsu là Đấng giầu lòng thương xót. Còn Simon, ông không thể nhận biết Đấng đến nhà mình, vì sự cứng lòng của ông.
Chúa Giêsu nói : “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23). Để khám phá ra căn tính của Chúa Giêsu để bước theo, cùng với Phêrô chúng ta nói : “Thấy là Đấng Kitô của Thiên Chúa“, và sẵn sàng nói : tôi chấp nhận bước theo trên con đường của Chúa, và vác thập giá tôi hằng ngày. Nếu không, chúng ta khó lòng có thể biết Người cách đích thực.
Câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu không đơn giản là câu hỏi điều tra, tín điều hay là chú giải Kinh Thánh, cũng không phải là câu trả lời cho những người đến hỏi Chúa Giêsu hoặc tìm xem Kinh Thánh nói gì về Chúa. Đây là một câu hỏi về đời sống ! Toàn bộ lịch sử, Kinh Thánh hoặc tín điều chúng ta nói về con người Chúa Giêsu, chúng ta chỉ là mình khi biết chấp nhận đi trên đường Chúa đã chỉ cho.
Vậy là, từ tuần này qua tuần khác, Tin Mừng mạc khải dần dần cho chúng ta về căn tính đích thực của Đấng Kitô để dẫn chúng ta tiến về Giêrusalem cách khải hoàn, cùng lúc soi sáng tâm hồn chúng ta và dạy cho chúng ta biết rằng, ta chỉ có thể nhận biết Chúa Giêsu nếu chúng ta để Chúa biến đổi đời ta.
Chúng ta thường đặt ra những khó khăn về sứ vụ loan báo Tin Mừng. Điều kiện tiên quyết của sứ vụ là Tin Mừng biến đổi lòng chúng ta. Trở ngại của Tin Mừng trước hết không phải là người mà chúng ta loan báo. Tin Mừng đến từ chúng ta. Vấn đề Tân Phúc Âm hóa không phải là khả năng chiến thắng trên những người tin hay không tin Chúa Giêsu. Hãy để cho Tin Mừng biến chúng ta thành những vị thánh, để những ai thực sự không biết đến Đấng Kitô có thể hỏi chúng ta như tên lính đứng dưới chân thập giá : “Người này có phải là con Thiên Chúa hay không ? “
Chúng ta đón nhận lời mời gọi hoán cải và hồng ân sự sống với niềm tin : ” Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai liều mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ giữ được mạng sống mình” (Lc 9, 24). Vậy hãy mở lòng mình ra đón lấy Đức Kitô để lời Người đổi mới cách sống của chúng ta, và sự hiện hữu của chúng ta trở nên lời đáp trả cho những người chung quanh. Amen.
.
TUYÊN XƯNG ĐỨC GIÊ-SU THẾ NÀO CHO PHẢI?
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tôi gợi nhớ trong cuộc trao đổi kinh nghiệm mục vụ giữa các linh mục thuộc năm giáo phận miền tây trong cuộc hội ngộ tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Tp. HCM mấy năm trước, một linh mục lớn tuổi đã chia sẻ: trong giờ giáo lý khi ngài ra câu hỏi: ‘có mấy mầu nhiệm chính trong đạo, ba hay là hai?’ Một giáo dân đã trả lời: ‘Hai cũng được mà ba cũng thế thôi!’ Nghe Phê-rô tuyên xưng: “Thầy là đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (về nội dung rất khác với câu trong Mt 16:16 “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”), tôi cũng thấy có điều gì bàng bạc như thế; Phê-rô thực tế đã thốt lên một công thức thật trịnh trọng, một tuyên xưng rất phổ biến trong suy nghĩ của nhiều người Do Thái thời bấy giờ. Thời đó hầu như mọi người Do Thái đều quan niệm rằng: đấng Ki-tô là vị thiên sai được phái tới để giải phóng dân, Ngài đầy vinh quang và uy quyền. Toàn thể các môn đệ, trong đó có cả Phê-rô, đều có cùng một quan niệm đó! Do đó câu tuyên xưng này, đối với Đức Giê-su, chẳng có ý nghĩa gì lớn cho lắm…, hơn nữa nó còn có thể dẫn tới một sai lầm trầm trọng. Đó là lý do tại sao Người ‘nghiêm giọng truyền cho các ông không được nói với ai điều ấy’. Trước khi cuộc tử nạn xảy ra, đấng Ki-tô mà Đức Giê-su muốn phác họa lên những nét lớn để các môn đệ hình dung và nắm bắt, lại là: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết”. Theo ghi nhận của các thánh sử, thì không dưới ba lần Người đã đề cập tới đề tài này, thế nhưng xem ra bài học vẫn hoàn toàn khó hiểu, vẫn chưa thể lọt vào tai vào đầu các môn đệ.
Chấp nhận một đấng Thiên Sai bị tiêu diệt là cả một nghịch lý đối với bất kỳ người Do Thái nào! Theo họ, đấng Ki-tô dứt khoát phải toàn thắng vì Ngài phải là vua thống trị vinh quang. Theo họ: giải phóng Ngài mang tới phải là tiêu diệt mọi địch thù, vương quốc của Ngài phải rộng mở tới tận cùng trái đất, và quyền uy của Ngài tồn tại đến muôn đời. Tất cả các môn đệ của Đức Giê-su đều là những người Do Thái nên họ không thể nghĩ khác! Các ông đã rắp tâm theo Ngài là để thống trị chứ đâu phải để bị tiêu diệt, được quyền cao chức trọng chứ đâu phải để phải ngồi vào chỗ rốt hết! Ấy vậy mà Người lại lên tiếng tuyên bố ngược hẳn: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình… phải liều mất mạng sống mình…”
Quả thật tin rằng: có một Thiên Chúa tự hủy dám chết cho tôi là chẳng dễ chút nào. Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa quyền phép, một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt hơn, vì điều đó hoàn toàn hợp với suy luận loài người. Tôi rất mong muốn được cùng Ngài thống trị, vì thế cho nên tôi đòi Ngài phải oai phong hiển hách! Để đạt được mục tiêu này tôi sẵn sàng chấp nhận trả giá, dầu có phải nỗ lực bao nhiêu, phải kiên trì tu thân tích đức, phải hy sinh từ bỏ tới mấy… Tóm lại, tôi vẫn thấy điều này dễ chấp nhận hơn vì tính hợp lý thường tình của nó!
Chấp nhận tin vào một Đức Ki-tô bị loại bỏ, bị giết chết (vì lòng nhân ái và xót thương) cũng đồng nghĩa với việc, tôi phải đi vào sự hiến dâng mạng sống như Người; đây quả là một thách thức quá lớn! Tông đồ Phao-lô đã quả quyết: ai muốn đón nhận và sống lòng từ bi nhân ái như Đức Ki-tô, thì cũng phải đóng đinh mình vào thập giá với Người. Chỉ có sự tự hiến của Đức Ki-tô mới có quyền đòi tôi phải từ bỏ và phải tự hủy diệt như thế; chỉ có niềm tin đặt nơi một Thiên Chúa nhân ái và hay thương xót tới mức độ phó nộp chính Con Một của Người mới có thể đòi tôi phải trọn vẹn hiến mình cho tha nhân. Nếu chỉ tin vào một Thiên Chúa quyền phép và công thẳng, thì tôi sẽ chẳng bao giờ có đủ sức đi cho tới cùng con đường tự hiến và hy sinh đâu!
Như thế tôi mới nhận ra: sức mạnh vô địch của Thiên Chúa hệ tại nơi lòng từ bi nhân hậu vô biên của Người. Các Thánh (Don Bosco hay Mẹ Tê-rê-xa chẳng hạn), vì đã được tham gia một phần nhỏ vào sức mạnh nhân ái đó, nên các ngài mới có khả năng toàn tâm toàn lực hiến mình phục vụ tha nhân, đặc biệt những ai nghèo khổ bất hạnh nhất (đối với Don Bosco: hiến mình cho thanh thiếu niên, đặc biệt các em nghèo khổ nhất, đối với Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta: cho những người nghèo nhất trong số các người nghèo khổ).
Ôi, sức mạnh của tình yêu nhân ái quả là vô địch, không gì cưỡng lại nổi!
Lạy Thiên Chúa nhân ái và giầu lòng xót thương, xin cho con hiểu rõ sức mạnh vô địch của Thập Giá; sức mạnh sẽ giải phóng con khỏi một thứ thánh thiện khép kín, ích kỷ và tự tôn; Thập Giá sẽ thông truyền cho con khả năng tự hiến và trao ban. Cho tới nay, dầu đã qua nhiều năm sống đời tu sĩ thánh hiến, sự tự hiến của con vẫn rất nông cạn và nghèo nàn lắm. Xin cho con đi sâu vào lòng lân tuất Chúa, để càng tiến sâu vào, con càng có sức mạnh trao ban và tự hiến cho tha nhân hơn. A-men.
.
Trầm Thiên Thu
Vấn nạn là vấn đề khó hoặc nan giải. Cuộc đời là một chuỗi các vấn đề, hầu như là vô tận. Vấn đề là những điều cần được xem xét, nghiên cứu, tìm hiểu và giải quyết. Cách đặt vấn đề của một con người có thể cho chúng ta thấy người đó thông minh hay không.
Cùng một vấn đề, người này có thể giải quyết được, nhưng người khác có thể lại không giải quyết được. Mỗi người có một trình độ khác nhau, có cách nhìn nhận và cách xử lý khác nhau, thậm chí mức độ (nhanh hay chậm) cũng khác nhau.
Cuộc sống thường nhật có vô số vấn đề cần giải quyết: an toàn thực phẩm, môi trường, nhân quyền, kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, hôn nhân, gia đình,… Có những vấn đề chung hay riêng, cụ thể hay trừu tượng, to hay nhỏ, quan trọng hay bình thường, cần xử lý gấp rút hay có thể từ từ.
Và hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt ra một vấn nạn đối với những ai muốn thật lòng đi đúng đường lối của Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải TỪ BỎ CHÍNH MÌNH, VÁC THẬP GIÁ mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23 – tương đương Mt 16:24; Mc 8:34). Một vế là “bỏ”, một vế là “vác”. Hai vế đối nghịch. Bỏ cái này để có thể vác cái khác, bỏ cái dở để vác cái tốt. Cái dở PHẢI BỎ thì lại là cái chúng ta THÍCH (cái tôi, ý riêng, tự ái, kiêu ngạo, vị kỷ, tham-sân-si,…), còn cái PHẢI VÁC thì chúng ta lại KHÔNG THÍCH (hy sinh, nhịn nhục, chịu đựng, đau khổ,…). Quả là “căng” thật. Đúng là một vấn đề lớn, thực sự là một vấn nạn đối với phàm nhân chúng ta!
Chúa Giêsu đã cho biết thông tin cần thiết để chúng ta có thể dứt khoát và hành động. Chợt nhớ bác học Albert Einstein (1879-1955) có nhận định thế này: “Thông tin không phải là kiến thức, và trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức”. Cũng có phần nào khả dĩ áp dụng vào vấn đề tâm linh của chúng ta.
Vấn đề xem chừng đơn giản mà nhiêu khê, vì ngay cả Tông đồ Barnabas cũng có lúc “bị lôi cuốn vì sự giả hình của dân ngoại” (x. Gl 2:1-13). Thật là không thừa khi tiền nhân nhắc nhở: “Cẩn tắc vô ưu”.
Ngày xưa, Thiên Chúa đặt vấn đề qua một lời hứa: “Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đa-vít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng. Ngày ấy, tiếng khóc than sẽ vang dội khắp Giêrusalem như người ta than khóc thần Ha-đát Rim-môn ở cánh đồng Mơ-ghít-đô” (Dcr 12:10-11).
Hai câu ngắn gọn mà chuyển tải được nhiều vấn đề. Sau khi hả hê vì giết được Chúa Giêsu, viên đại đội trưởng đã phải thốt lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39). Người Việt chúng ta cũng thường nói: “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”. Tâm phẫn xí, tắc bất đắc kỳ chính. Thật là ngu xuẩn khi hành động trong cơn giận, ví như giương buồn ra khơi khi trời giông bão, biển sóng cuồn cuộn. Nguy hiểm khôn lường!
Ngày nào cũng có vấn đề cần giải quyết, cả đời thường và tâm linh. Có lẽ vấn đề tâm linh vẫn là vấn đề nan giải nhất, vì người ta lo tìm lợi lộc trần gian, lo kế sinh nhai cho sự sống thể lý mà lơ là sự sống tâm linh. Rồi một lúc nào đó, con người chợt bị hụt hẫng và thấy cõi lòng trống vắng vì thiếu Thiên Chúa, như tác giả Thánh Vịnh đã thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3).
Tại sao vậy? Lý do tất nhiên thôi: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca” (Tv 63:4-6). Không thể khác hơn, vì chính Chúa Giêsu cũng đã minh nhiên cảnh báo rằng nếu không có Ngài thì chắc chắn chúng ta “chẳng làm gì được” (Ga 15:5), nhưng nếu có Ngài thì chúng ta sẽ “được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).
Biết rồi thì mới tin, tin rồi thì sẽ yêu. Ước gì mỗi chúng ta, giống như tác giả Thánh Vịnh, cũng có thể hãnh diện mà xác định rạch ròi điều này: “Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui. Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” (Tv 63:8-9).
Thánh Phaolô phân tích và minh định: “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3:26-27). Một sự thật kỳ diệu, không có đức tin thì không thể hiểu nổi và không dám tin đó là sự thật. Chúng ta đang tin như vậy, thế thì thật diễm phúc, đúng như Chúa Giêsu đã xác định với Tông đồ Tôma về một mối phúc liên quan đức tin (x. Ga 20:29).
Chúng ta tin nhận Đức Kitô Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ, nghĩa là tất cả chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa, đồng thời cũng là huynh đệ với nhau, bình đẳng, không ai hơn ai: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Mà nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gl 3:26-29).
Như đã nói, có tin mới yêu, và yêu rồi thì đi theo người yêu. Tin cũng khó mà yêu cũng không dễ, đi theo càng khó hơn. Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Lc 9:18-24) có hai vấn đề: [1] Ông Phêrô tuyên xưng đức tin, [2] Điều kiện theo Đức Giêsu.
Hôm ấy, sau khi cầu nguyện, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ về việc người ta nói về Ngài. Các môn đệ thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Rồi Ngài hỏi chính các đệ tử: “Anh em bảo Thầy là ai?”. Vốn dĩ bộc trực, thẳng thắn, ông Phêrô xác tín: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Có lẽ Chúa Giêsu đã mỉm cười vì hài lòng, thế nhưng Ngài nghiêm giọng truyền cho họ không được nói điều ấy với ai.
Sau đó, Ngài tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất, và nói với các môn đệ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Cái khổ xuất hiện, không lúc nào thiếu: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).
Rồi Đức Giêsu xác định: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:23-24). Đó cũng là điều Chúa Giêsu nhắn nhủ với mỗi chúng ta hôm nay: GIỮ thì MẤT, BỎ thì CÒN. Với loài người, đó là điều phi lý; nhưng với Thiên Chúa, đó là điều hoàn toàn CÓ THẬT.
Có câu chuyện kể về “Hành Trang Cuộc Đời” như thế này…
Một người hấp hối thấy Chúa vừa ưu ái trao cho chiếc va-li vừa nói: “Đến giờ con ra đi rồi”. Người này ngạc nhiên: “Bây giờ sao Chúa? Sớm quá, con còn nhiều việc chưa làm”. Chúa ôn tồn: “Rất tiếc vì tới giờ con phải ra đi thôi”.
Cuộc đối thoại vẫn tiếp tục:
– Có gì trong va-li vậy, thưa Chúa?
– Hành trang của con.
– Sở hữu của con là y phục và tiền bạc?
– Các vật đó không phải của con, chúng thuôc về trái đất.
– Vậy có phải ký ức của con?
– Không phải của con, của thời gian.
– Phải chăng tài năng của con?
– Không phải của con, của hoàn cảnh.
– Có phải bạn bè hay gia đình con?
– Rất tiếc cũng không phải của con, chỉ là tiến trình cuộc đời.
– Phải chăng vợ và con của con?
– Không phải của con, mà là tâm tư của con.
– Có phải là thân xác của con?
– Cũng không phải của con, nó là cát bụi.
– Phải chăng tâm linh con?
– Không, đó là của Ta.
Người chết hồi hộp nhận chiếc va-li Chúa trao và liền mở ra xem. Bên trong KHÔNG CÓ GÌ CẢ. Hoàn toàn TRỐNG RỖNG. Người này bàng hoàng nói: “Không có gì là của con cả!”. Chúa nói: “Đúng thế, tất cả THỜI GIAN CON SỐNG mới chính là của riêng con”.
Đường Thập Giá là đường đau khổ, đầy chông gai, thế mà ĐGM Pièrre Lambert de la Motte (1624-1679, người Pháp), vị sáng lập Dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam, đã tâm niệm: “Đức Giêsu Kitô chịu-đóng-đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí con”. Thật đáng khâm phục và đáng để chúng ta noi gương!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết khước từ những gì thuộc về thế gian để con có thể ôm chặt Thập Giá và thanh thản bay lên cao về hướng Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Tục ngữ Việt Nam có câu: “ Thầy nào trò nấy.” Ý muốn nói đến sự kế thừa giữa quan hệ nhân quả của giáo dục, giữa kẻ trên và người dưới. Vì thế, trước khi theo và làm môn đệ của ai, chúng ta cần phải biết người ấy là ai, biết đường lối, lý tưởng cuộc sống của người ấy là gì.
Có một chàng thanh niên muốn tầm sư học đạo, đến gặp một sư phụ có tiếng đồn là rất thánh thiện, nhưng cũng là một tay ma mãnh. Dĩ nhiên chàng thanh niên không biết điều này. Sư phụ nói với anh: “ Trước khi tôi nhận anh làm môn đệ; tôi muốn kiểm tra khả năng vâng lời của anh. Con sông chảy qua gần đây có rất nhiều cá sấu; tôi muốn anh lội qua con sống ấy.” Chàng thanh niên tin tưởng sư phụ. Anh thực hiện ngay yêu cầu ấy không chút ngần ngừ. Ra đến giữa dòng sông, anh hét vang: “ Sức mạnh của sư phụ thật cao cả.” Tới bờ bên kia, anh lại lội trở về bờ bên này cách an toàn. Vị sư phụ không thể giấu vẻ sửng sốt.
Sự việc đó làm cho ông nghĩ rằng chắc hẳn mình thánh thiện hơn mình vốn tưởng nhiều. Vì thế, ông quyết định phô trương và củng cố thêm danh tiếng thánh thiện của mình với các môn đệ khác. Ông bắt đầu bước xuống sông và hô to: “ Sức mạnh của ta thật cao cả! Sức mạnh của ta thật cao cả!” Ngay lập tức, lũ cá sấu nổi lên vồ lấy ông và xé xác ông ra tơi tả.
Một sư phụ ma mảnh, gian dối, khoe khoang, tự đắc như thế có đáng cho chàng thanh niên làm đệ tử không?
Sau khi chọn mười hai môn đệ, Chúa Giêsu đã đưa họ đi theo Ngài, cùng ăn uống với họ, giảng dạy họ và đã nêu gương cho họ sống “ hiền lành và khiêm nhường”, đã từng tiết lộ Ngài là “ đường, là sự thật và là sự sống”, là “ ánh sáng thế gian”, nhưng chắc gì các ông đã biết chính xác Đấng các ông theo là ai. Thế rồi một hôm, sau khi cầu nguyện xong, Chúa Giêsu hỏi các ông: “ Đám đông nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “ Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.” Đó là dư luận của quần chúng. Khi thấy Chúa làm nhiều phép lạ: chữa lành những người tật bệnh, cho kẻ chết sống lại, hóa bánh ra nhiều…Chúa đi đâu, đám dông theo đó, dù Ngài có âm thầm lẩn tránh họ thì họ vẫn tìm cách tìm cho ra để phong vương cho Ngài; vì theo họ, có thể Ngài là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, Đấng dân Do thái mong đợi, Đấng sẽ đến giải thoát họ để đưa vào một thời kỳ bá chủ thế giới.
Không bằng lòng với dư luận của quần chúng, Chúa Giêsu lại hỏi các ông: “ Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Không biết trong số các môn đệ, có ai cùng nhận định như đám đông không! Ông Phêrô đã thay mặt trả lời: “ Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Chính xác Thầy là như thế, nhưng Ngài lại ngăn cấm các ông không được nói điều ấy với ai, vì chương trình của Thiên Chúa không phải theo ý muốn của con người. Đấng Kitô của Thiên Chúa là “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba chỗi dậy.” Đấng Kitô của Thiên Chúa sẽ là vua chiến thắng tử thần, chinh phục mọi tâm hồn, khôi phục quyền làm con Chúa, và giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và ma quỷ.
Con đường Thầy đi là như thế đó. Trò không hơn thầy. Vậy “ ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” Điều kiện để đi theo Thầy là tin những lời Thầy dạy, học theo cách sống của Thầy, thực hành những điều Thầy dạy, học gương sống khó nghèo, hành động vì bác ái yêu thương và phục vụ. Để trở thành “thầy nào trò nấy” thì môn đệ cũng phải đi theo con đường Thầy đã đi.
Và hôm nay, Chúa vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta:“ Còn con, con bảo Thầy là ai?” Chúng ta trả lời với Chúa thế nào với tư cách là học trò của Đức Kitô?
.
Lm. Văn Hào
Có một họa sĩ khá nổi tiếng muốn họa lại chân dung của Chúa Giêsu, đấng mà ông ngưỡng mộ. Tuy nhiên, ông không biết phải làm cách nào để hiển thị những nét đẹp mà ông đã trải nghiệm. Ông lang thang khắp đó đây để tìm kiếm những hình mẫu. Thoạt đầu, ông gặp một đứa bé đang tươi cười với dáng vẻ trong sáng ngây thơ. Ông đưa nét đơn sơ ấy vào bức tranh. Gặp một vị ẩn sĩ đang đăm chiêu cầu nguyện, ông cũng đưa nét thanh thoát vào trong gương mặt của Chúa. Thoáng thấy một bà mẹ trẻ đang âu yếm đứa con, ông cũng họa lại nét dịu dàng nơi bức vẽ. Nói chung, bất cứ vẻ đẹp nào trong cuộc sống mà ông nhìn thấy, ông đều cố gắng lột tả nơi bức tranh, để phác lại chân dung thánh thiện tuyệt hảo của Đức Giêsu. Hoàn thành xong tác phẩm, ông vẫn cảm thấy như còn thiếu một điều gì. Cuối cùng, khi đi lang thang ngoài bìa rừng, ông gặp một bóng ma trông rất khiếp sợ. Đúng hơn, đây không phải là bóng ma, nhưng là một con người bằng xương bằng thịt, một con người cùng khổ đang bị xã hội ruồng bỏ. Người đàn ông này bị cùi. Ông ta phải lấy khăn che mặt và lầm lũi lê bước giống hệt một bóng ma. Chàng họa sĩ chợt nghĩ, đây chính là nét độc đáo nơi con người của Đức Giêsu, bởi vì Ngài vẫn luôn mãi là một mầu nhiệm ẩn dấu mà con người không thể hiểu thấu cách tường tận. Chàng nghệ sĩ trở về nhà và vẽ phủ lên khuôn mặt Đức Giêsu một tấm khăn mỏng, giống tấm khăn che mặt của người cùi mà ông đã gặp. Gương mặt của Chúa Giêsu trông mờ mờ, lúc ẩn lúc hiện, để nói cho chúng ta biết rằng, Ngài vẫn luôn là một mầu nhiệm bí ẩn đối với đầu óc suy lý của con người chúng ta.
Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?
Ngày xưa Chúa đã hỏi các tông đồ như thế. Câu hỏi này cũng được lặp lại cho chúng ta ngày hôm nay. Sau một thời gian chúng ta đi theo Chúa, Đức Giêsu cũng muốn hỏi lại một lần nữa để mời gọi chúng ta thẩm định lại cảm thức đức tin nơi mỗi người. Nếu chỉ đứng trên góc độ thuần lý theo sự suy tính nhân loại, có lẽ chúng ta là những con người xuẩn ngốc và khờ dại nhất. Chúng ta tin vào một con người cũng rất bình thường, một con người chưa từng bước chân vào giảng đường đại học, chẳng có một mảnh bằng để vắt vai, và cũng là một con người mà chúng ta chưa từng bao giờ gặp gỡ. Tệ hại hơn, con người chúng ta tin lại khác xa chúng ta về mầu da, về ngôn ngữ, về văn hóa, và chẳng có gì đặc sắc để chúng ta xem như thần tượng. Đã có một thời, một số cán bộ mỉa mai và nói với những người Công giáo rằng, đạo Công giáo của các anh chỉ là một thứ đạo lai căng, do thực dân hay đế quốc du nhập vào, không có ăn nhập gì với văn hóa Việt Nam cả. Ngày nay, nếu có ai lý luận như thế chúng ta sẽ phản kháng ngay tức khắc. Nhưng điều quan trọng hơn cả, là chúng ta phải tự hỏi mình xem, tôi đã lãnh nhận đức tin và đâu là động cơ để tôi đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Đồng thời, chúng ta cũng phải lục soát lương tâm để xem mình đã diễn bày niềm tin ấy cụ thể như thế nào. Câu hỏi của Chúa đối với các học trò năm xưa cũng được lập lại cho chúng ta ngày hôm nay: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”
Chúng ta vẫn xác quyết rằng Đức Giêsu, đối tượng đức tin của chúng ta không phải chỉ là một nhân vật lịch sử, hay là một siêu nhân nào đó có những đặc nét khiến chúng ta nể phục. Không phải thế. Đấng chúng ta tin là một Thiên Chúa đã đi sâu vào phận người, chung chia kiếp sống khổ đau với chúng ta, đã chấp nhận cái chết kinh hoàng trên Thập giá để khai mở cho chúng ta chân trời cứu độ. Chỉ đi sâu vào niềm tin này, chúng ta mới có thể nói được như thánh Phaolô : “Tôi coi tất cả mọi sự là thua thiệt so với mối lợi là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Vì người, tôi đành mất hết, tôi coi tất cả như rơm rác để chiếm được Đức Kitô và được kết hợp với Người (Phil 3,8-9).
Thể hiện đức tin cách cụ thể
Vào năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thực hiện chuyến công du tại nước Pháp, một đất nước vẫn được mệnh danh là trưởng nữ của Giáo hội, và cũng là nơi mà đạo Công giáo có một lịch sử phát triển rất hùng mạnh. Điều lạ lùng, là trong lần thăm viếng đó, rất nhiều cuộc biểu tình đã xảy ra để chống lại Giáo hội, chống lại Đức Thánh Cha. Các nhóm xuống đường với nhiều khuynh hướng khác nhau. Có nhóm thì cấp tiến, có nhóm bảo thủ. Có nhóm chủ trương đòi Giáo hội phải cho phép ngừa thai, thậm chí cho phá thai. Có nhóm đòi quyền kết hôn đồng tính hay chủ trương sống phóng khoáng trong đời sống tình dục, không theo bất kỳ một luật lệ hay quy chuẩn luân lý nào. Đau lòng hơn cả là có khá nhiều bạn trẻ Công giáo đã đồng loạt ký tên vào một bản tuyên bố, công khai rút tên khỏi Giáo hội. Khi đến thăm Việt Nam vào năm 1989, Đức Hồng y Etchegarey cũng nói rằng, Giáo hội Việt Nam hiện nay giống Giáo hội Pháp 30 năm về trước, tức là giáo dân hiện vẫn còn sốt sắng giữ đạo và thực hành đức tin, nhưng sẽ đến lúc Giáo hội Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng giống Giáo hội Pháp bây giờ. Điều đó đang và sẽ còn tiếp tục xảy ra. Nhiều bạn trẻ đang lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ, làm mọi cách kiếm thật nhiều tiền, ăn chơi sa đọa và dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Người tín hữu Việt Nam hiện nay cho dù vẫn đến nhà thờ khá đông vào các ngày Chúa nhật, nhưng nền tảng đức tin vẫn chưa thực sự sâu xa như Đức Hồng y Etchegarey đã từng nhận xét : “Đa phần tín hữu Việt Nam vẫn chưa biết cầu nguyện”.
Kết luận
Trong bộ sách ‘Tự thuật’ (Confessio), Thánh Augustinô có viết một giai thoại với hai nhân vật : Ngài và người trộm lành. Ngài hỏi vị thánh ăn trộm : “Này anh bạn, anh chưa được rửa tội, chưa từng học giáo lý, chưa biết tí gì về Đức Giêsu, chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ, thế thì tại sao anh lại nhận ra ông Giêsu, người cũng bị xử tử trên Thập giá giống như anh, là Đấng Cứu thế và tin vào Ngài ?” Người trộm lành trả lời: “Ông nói đúng. Tôi chưa hề biết Đức Giêsu là ai. Tôi cũng chưa phải là người Công giáo và chưa được rửa tội. Nhưng trong những giờ phút bi thương cuối cùng trước khi chết, tôi đã nhìn vào đôi mắt của Ngài. Từ ánh mắt hiền dịu ấy, tôi khám phá ra cả một bầu trời mênh mông của tình yêu vô tận. Cặp mắt Đức Giêsu đã chọc thủng bức màn tăm tối nơi tâm hồn tôi và tôi đã tin vào Ngài. Cuộc hành trình đức tin của tôi được khởi đầu bằng chính ánh mắt yêu thương của Chúa Giêsu”. Đây quả là một tên trộm kiệt xuất, bởi vì trước khi chết anh ta còn ăn trộm được cả nước Thiên đàng nữa.
‘Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?’. Chúng ta hãy học hỏi động thái đức tin của ông Thánh ăn trộm trên đây. Chúng ta cũng có thể bắt chước ông Dunan, người sáng lập hội Hồng Thập tự quốc tế, đã cho khắc trên ngôi mộ của mình hàng chữ: “Hoặc tôi là môn đệ của Chúa Giêsu, hoặc tôi không là gì cả”.
.
BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong đời sống thường ngày, có nhiều tiếng gọi. Có những tiếng gọi xuất phát từ người khác, cũng có những tiếng gọi khởi đi từ chính ta. Khi nghe và gọi người khác như thế, hẳn giữa người lên tiếng và người lắng nghe đều muốn đi vào sự hiện hữu của nhau qua tiếng gọi và lời đáp trả.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng cất tiếng gọi các môn đệ. Ngài gọi các ông không phải để nhờ các ông làm một việc gì đó cho mình, cũng không phải để thông tri với các ông một sự kiện, biến cố nào đó. Nhưng Ngài gọi các ông đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đang đi; đồng thời trao phó cho các ông sứ vụ đến với muôn dân để đem ơn cứu độ tới tận cùng trái đất. Con đường đó là: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.
- Đức Giêsu gọi các môn đệ để làm gì và đi đâu?
Khi gọi các môn đệ đi theo mình, Đức Giêsu đã huấn luyện họ thành những người thừa kế và trao cho họ sứ vụ là quy tụ muôn dân trở thành môn đệ. Nhưng có lẽ, trước mắt và trong tâm tưởng, các ông vẫn nghĩ Đức Giêsu sẽ là vua, một vị vua đánh đông dẹp bắc, một vị vua đem lại hoà bình cho dân tộc bằng cách đánh đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Khi đã thành công, các ông hy vọng sẽ nắm được những vị thế cao trọng trong triều đình. Nhưng chớ trêu thay, Đức Giêsu lại là một vị vua quá đỗi lạ lùng!
Quả thật, hôm nay, Ngài làm cho các ông ngỡ ngàng khi loan báo về một cuộc thương khó mà chính Ngài sẽ trải qua: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”. Khi mạc khải cho các ông như thế, Đức Giêsu âm thầm nhắc cho các môn đệ của mình biết được rằng: con đường giải thoát của Ngài là con đường tình yêu, tha thứ, từ bỏ, bất bạo động. Đỉnh cao của con đường ấy chính là cuộc thương khó, tử nạn và phục sinh. Ngài không sử dụng con đường của hận thù, quyền lực và bạo tàn. Tắt một lời, con đường đó chính là con đường của mầu nhiệm tự huỷ, chết cho người khác được sống và sống dồi dào.
Khi Đức Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ biết con đường mà Ngài sẽ đi như thế, Ngài cũng mời gọi họ bước theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã, đang và sẽ đi. Tuy nhiên, muốn bước đi theo Đức Giêsu trên hành trình đó, đòi hỏi người môn đệ phải có những điều kiện căn bản phù hợp với đặc tính của lời mời gọi này.
- Điều kiện cần để đi theo Đức Giêsu
Khi mặt giáp mặt, lòng hiểu lòng, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình” (Lc 16,24). Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng, chứ không phải vì nặng nề; tự do chứ không phải ép buộc. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống theo tinh thần Tin Mừng. Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ ghề và chông gai. Con đường đó là con đường của từ bỏ.
Từ bỏ chính mình là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Nếu theo Đức Giêsu, từ bỏ nhiều thứ mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả. Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.
Tuy nhiên, chỉ có từ bỏ mình thôi cũng chưa đủ! Bởi vì, nếu một người chỉ lo việc Chúa mà không lo chu toàn bổn phận hằng ngày của mình thì theo Chúa cách chưa trọn vẹn. Theo Chúa cách trung thành và trọn vẹn là phải bỏ ý riêng, phải chu toàn bổn phận, phải vác thập giá của mình hằng ngày mà theo (x. Lc 9,22-23).
- Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi. Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí những thứ cồng kềnh, diêm dúa. Những thứ đó là: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.
Vì thế, khi mặc lấy Đức Giêsu, tức là ta trở nên giống Ngài, thì đây cũng là lời mời gọi ra khỏi những định kiến riêng tư, để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.
Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý.
Trong thực tế, có rất nhiều người làm nhiều việc công ích cho xã hội và Giáo Hội. Ở đâu cần là họ sẵn sàng xả thân giúp đỡ, bất luận trời nắng hay mưa. Thế nhưng, trớ trêu thay, cũng chính những người đó, khi lo cho mọi người thì rất tốt và chu đáo, nhưng việc gia đình, bổn phận của mình thì lại là một người cẩu thả, bê bối. Lại có những người chỉ thích vác thánh giá cho cả làng, còn thánh giá của mình thì đặt lên vai, lên cổ người khác và bắt họ vác thay. Thiết nghĩ, những người như thế, Chúa sẽ không vui, và những ai phải ở với những người đó thì thật là một khổ hình!
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài. Con đường của Đức Giêsu đã đi là con đường hẹp; con đường của hy sinh; con đường của khổ giá. Nhưng con đường đó đã đem lại cho Ngài một vinh dự lớn lao, để “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giêsu Kitô là Chúa’” (Pl 2,5-11).
Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn bổn phận cách trung thành, để chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa. Như thế, chúng ta chính là quà tặng dâng cho Thiên Chúa và trao cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa, và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Biết đi theo Chúa trên con đường mà chính Chúa đã đi, biết chu toàn bổn phận theo đấng bậc và vai trò của mình. Biết làm mọi việc tầm thường cách phi thường bằng con đường “tình yêu” như Chúa. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua miền đất dân ngoại, đến địa hạt thành Cêsarê Philiphê, một thành phố được quận vương Philiphê chỉnh trang để tôn vinh Hoàng đế Cêsarê. Trên chóp đỉnh của một khối đá đứng sừng sững, một ngôi đền nguy nga bằng cẩm thạch trắng thờ Hoàng Đế La Mã được coi là một kỳ công trong vùng.Một số nhà chú giải cho rằng, cảnh tượng vĩ đại đó đã gợi ý khi Chúa tuyên bố Giáo hội của Ngài sẽ được xây trên nền tảng Phêrô vững chắc như một bàn thạch. Tuy nhiên, ý tưởng ấy đã có từ khi Chúa quyết định đổi tên Simon thành Kêpha hay Phêrô, nghĩa là Đá trong cuộc gặp gỡ đầu tiên (Ga 1,42).
Theo thói quen trước khi quyết định những điều quan trọng, Chúa Giêsu vừa đến nơi liền đi vào một chỗ thanh vắng, một mình cầu nguyện với Chúa Cha. Các Tông đồ chờ Thầy ở ngoại ô thị trấn. Họ nghiệm rằng, mỗi khi Thầy xa họ và trở về là có diễn tiến mới.Thầy trò lại đi về phía những làng nhỏ. Dọc đường Ngài hỏi các ông : Người ta nói Thầy là ai ? Các ông đáp lại : có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả. Một số nói là Êlia, một số khác cho là một trong các tiên tri thời xưa như Giêrêmia. Nhưng Chúa nhấn mạnh : Còn các con, các con nói Thầy là ai ? Phêrô lên tiếng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
- Ba mức độ nhận biết
Bài Tin Mừng cho thấy, có ba mức độ nhận biết về Chúa Giêsu.
– Dân chúng nhận thấy Chúa Giêsu là một tiên tri như Gioan Tẩy Giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri là sứ giả của Thiên Chúa nên thường có quyền làm được vài phép lạ như chữa bệnh, cứu đói… Dân chúng đến với tiên tri chủ yếu để xin ơn này ơn khác. Họ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Ngài để xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại. Họ đến với Chúa Giêsu vì lợi ích, để cầu lợi cầu phúc. Cho nên họ không thể nhận ra Ngài là Đấng Kitô.
– Các môn đệ nhận biết về Chúa Giêsu. Khi Chúa hỏi: “Các con bảo Thầy là ai ? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18 ; Is 11. 61,1-2 ; 1V 19,16). Chúa Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.
Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Ngài siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất, Ngài là Đấng Thánh của Israel và nước Ngài tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 ; 12).
Theo truyền thống tiền nhân, các môn đệ cũng quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế. Vì vậy, khi thấy Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin cho hai con trai: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Ngài ra và can ngăn Ngài đừng dại dột thế. Chúa Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 22-23).
– Mức độ thứ ba chính là cao điểm của toàn thể Kinh Thánh và mầu nhiệm cứu độ nơi Thập Giá và Phục Sinh. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Đó là sứ mệnh chính yếu của Đức Kitô: tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-18 ; 15, 13).Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.
- Xác định đường đi
Suy niệm trang Tin Mừng này, Thánh Gioan Kim Khẩu viết : khi Chúa hỏi về dư luận quần chúng, mọi Tông đồ đều trả lời. Khi Chúa hỏi cảm nghĩ của các ông, Phêrô một mình lên tiếng trước các bạn. Không phải do xác thịt nhưng nhờ Chúa Cha mạc khải nên Phêrô nhận biết Thầy Giêsu là Đức Kitô ở tầm mức cao nhất. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người” có một Giêsu “Thiên Chúa ”. Phêrô nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của Chúa Giêsu có một thần tính cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Vì thế, Phêrô được Chúa khen tặng và tín nhiệm trao quyền tối thượng : “Phêrô, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Ba hình ảnh cụ thể mô tả quyền tối thượng của Phêrô trong Giáo Hội. Đó là, Phêrô được trao chìa khóa Nước Trời, Phêrô được quyền tháo gỡ, cầm buộc và cửa địa ngục sẽ không thắng được.
Tuyên tín Chúa Giêsu là ai tức là xác định đường mình đi. Phêrô đã tuyên tín trên đường hành trình với Chúa. “Các con nói Thầy là ai ? ”, Chúa không hỏi các môn đệ câu ấy trong lúc nghĩ ngơi mà lúc đi đường. Những ngày ở Giêrusalem, ở Galilê, ở Nazareth, người ta nói về Đức Giêsu, người ta xem Ngài làm phép lạ, họ gọi Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, là một tiên tri nào đó. Không ai biết Ngài là Đức Kitô. Để biết Ngài, phải sống và hành trình với Ngài và cùng đi với Ngài trên mọi nẻo lối trần thế.
- Câu hỏi dẫn tới đời sống đức tin
“Thầy là ai?”, Chúa Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo theo một nếp sống khác nhau.
Chúa Giêsu là ai ? Câu hỏi là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Phêrô đã khám phá ra thần tính trong nhân tính của Chúa Giêsu. Phaolô trên đường Đamat, bị té ngựa do ánh sáng từ trời, đã hốt hoảng kêu lên : “Ngài là ai ? ” và có lời đáp bất ngờ : “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5), Phaolô khám phá ra nhân tính trong thần tính của Đấng đã gọi ngài.
Chúa Giêsu là tâm điểm đức tin của chúng ta, bởi lẽ “dưới bầu trời này, không có Danh nào khác”, ngoài Danh Giêsu “được ban cho loài người để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12). Nếu ai đó hỏi rằng điều gì làm nên một Kitô hữu, thì câu trả lời là: đó là người tin rằng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Niềm tin đó là đá nền, trên đó Hội Thánh được xây dựng (GLCG số 424). Tin vào Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Yêu mến Ngài như chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa (Đnl 6,4-5). Điều độc đáo và đặc biệt của niềm tin Kitô giáo là tin rằng Đức Giêsu, một con người được sinh ra dưới thời hoàng đế Cêsarê Augustô và chết trên thập giá dưới thời hoàng đế Tibêriô, người ấy chính là Thiên Chúa, là Con Hằng Hữu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đó là mầu nhiệm khôn dò của đức tin Kitô giáo “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,11).
Chỉ trong ánh sáng này chúng ta mới hiểu được tại sao tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là bước theo Ngài, và bước theo Chúa là đòi hỏi quan trọng hơn mọi cam kết khác trong đời. Làm sao một con người thuần túy mà có thể nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37)? Đòi hỏi ấy chỉ có thể đến từ Đấng là chính Thiên Chúa. Làm sao một con người mà có thể nói: “Tất cả những ai nhìn nhận Thầy trước mặt người đời thì Con Người cũng sẽ nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)? Điều đó lại chẳng có nghĩa rằng ơn cứu độ vĩnh cửu tùy thuộc vào thái độ của người ta đối với Chúa Giêsu sao?
Nếu chỉ nơi Chúa Giêsu mới có ơn cứu độ, nếu chỉ có Ngài mới là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” thì liệu có ai có thể được cứu độ mà không cần đến Chúa Giêsu? Nếu như thế, biết bao người chưa hề nghe đến Danh Chúa Giêsu, không có cơ hội để nhận biết và yêu mến Ngài thì sao (GLCG số 846-847)?. Chính Chúa Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này: đến giờ phán xét, Con Người sẽ tỏ cho thấy tất cả những hành động yêu thương chân chính dành cho tha nhân “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm…”, tất cả những hành động yêu thương ấy đều là cho chính Chúa: “Điều gì các ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, là làm cho chính Ta” (Mt 25; GLCG số 1038).
Sau lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã được biến đổi và trở nên khác với Simon ngày trước. Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Cả hai ngài đã trở nên cột trụ xây dựng Hội Thánh và cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi, đó là đức tin của Hội Thánh và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
“Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), bất cứ ai được tình yêu này chiếm hữu, bất cứ ai kinh nghiệm về sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và quyền năng phục sinh của Ngài, thì người ấy sẽ cảm thấy nỗi ước mong loan báo về Ngài, rao giảng Tin Mừng của Ngài, và dẫn mọi người đến niềm tin vào Chúa Giêsu (GLCG số 429).
Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi ấy, Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng, bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng.
Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi đã hơn hai ngàn năm cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay. Trả lời là sống niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô. Ngài là Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính yêu thao thức tìm kiếm gặp gỡ gắn bó. Ngài ở trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, Thánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Ngài hiện diện nơi anh chị chung quanh để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên đới trách nhiệm. Ngài hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.
Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô, yêu mến Ngài, bước theo Ngài. Và hơn nữa, “Anh em không còn là nô lệ nhưng là con” (Gal 4,7). Nhờ Chúa Giêsu, với Ngài và trong Ngài, chúng ta trở nên những “con cái của Thiên Chúa” (1Cor 6,18).
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện cũ: Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không kham chịu, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó, muốn chọn cây nào tùy thích. Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: Có cây thì qúa dài, cây thì qúa ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù xì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng qúa… Và rồi đêm nào cũng thế, cho đến một lần kia, anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái, anh vác thập giá đó về nhà. Nhưng hỡi ôi, khi nhìn kỹ lại, thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào!
Tiên tri Zacharia thi hành sứ vụ tại Giêrsalem vào khoảng năm 520-518 trước Công Nguyên. Sau cuộc lưu đầy ở Babylon, tiên tri đã trở về Giêrusalem cùng thời với Zerubbabel. Quan niệm thần học của Zacharia chú ý đến chức vụ tư tế và xây dựng lại đền thờ. Khai mạc một thời kỳ mới trong sự thịnh vương và vinh quang cho Giêrusalem. Tiên tri đã tiên báo về thánh thánh và về Đấng sẽ cứu chuộc Dân Người: Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng (Zach 12, 10). Zachariah đã hình dung thấy sự đau khổ và sự chết của Đấng Cứu Thế.
Chúa Kitô xuất hiện trong lịch sử nhân loại một cách rất âm thầm. Ngài nhập thể và nhập thế để trở nên giống như mọi người. Chúa ra rao giảng và kết thân với những người đơn sơ thanh bần. Một cách khiêm hạ hòa trộn chung sống với những người chài lưới, thất học. Tuy nhiên qua cung cách giảng dạy đầy uy quyền của Chúa, nhiều người đã tin theo. Họ đi theo Chúa. Họ tin vào Chúa nhưng chưa nhận biết rõ Chúa là Đấng nào. Hình dáng bề ngoài giống như một tiên tri, một thầy dạy và một sứ giả tin mừng. Chúa đã dạm hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”(Lc 9, 20). Đấng Kitô bao hàm một ý nghĩa sâu thẳm. Chính Phêrô cũng không hiểu rõ. Đấng Kitô là Đấng được Xức Dầu loan báo Năm Hồng Ân. Ngài là Con Thiên Chúa giáng trần. Ngài là Đấng trung gian giữa trời và đất. Ngài là Đấng cứu độ trần gian.
Đấng Kitô hiện hữu từ đời đời. Đã hạ thân làm người trong thời gian và không gian. Ngài đã đồng hành với con người thời đại một cách rất kiên nhẫn. Đấng Kitô là Ngôi Lời và là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan thông suốt đã đối diện với sự nông cạn, hẹp hòi và ích kỷ của con người. Ngôn ngữ loài người rất giới hạn để Ngài mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Chúa đã thực hiện những phép lạ để nói lên quyền năng vô hạn của Ngài. Uy quyền đó có thể thay đổi mọi sự theo ý muốn của Ngài. Trong khi trí khôn hiểu biết của con người phàm trần còn u mê và giới hạn. Một biển cả mênh mông làm sao có thể chứa trong một lỗ còng cỏn con. Mầu nhiệm Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài vượt trên tất cả sự suy tưởng của con người, làm sao hiểu thấu. Kiêu căng không chấp nhận sự cao siêu, nên nhiều người tìm cách chối từ. Có nhiều người đã từ chối chính Đấng đã dựng nên mình.
Chỉ cần một phép lạ thay đổi bản thể sự vật đáng làm cho chúng ta suy nghĩ và chìm đắm trong ân sủng của Thiên Chúa. Có nhiều người tìm cách chế diễu và nhạo cười những người tin vào quyền năng Thiên Chúa. Truyện kể: Trong một cuộc họp, một giáo sư vô thần chứng minh Chúa Kitô chỉ là một anh phù thủy. Khi đó, ông có một ly nước trước mặt. Ông bỏ vào một thứ bột và nước liền hóa ra mầu đỏ. Ông nói: Đó là một phép lạ. Đức Kitô đã giấu trong tay áo một thứ bột giống như bột này. Ông nói tiếp: Ngài đã làm phép lạ khi biến nước thành rượu theo cách này. Hãy xem đây, tôi còn làm những chuyện lạ hơn Đức Kitô nữa: Tôi biến rượu thành nước lã. Rồi ông đổ một thứ bột khác vào nước, nước đổi ra mầu trắng, rồi lại đỏ như trước với thứ bột khác. Một Kitô hữu đứng dậy nói: Thưa ông, ông thật giỏi. Nhưng tôi xin ông hãy uống thứ rượu đó, thứ rượu ông vừa làm phép lạ xem sao? Ông ta không dám uống vì đó là chất hóa học độc hại. Người Kitô hữu nói tiếp: Thưa quí vị, đó là sự khác biệt giữa Chúa Kitô và ông giáo sư này. Với rượu nho của Ngài. Ngài đã rót cho chúng ta 2000 năm hoan lạc rồi.
Qua nhiều thời đại, con người vẫn luôn tìm cách loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Họ muốn hoàn toàn làm chủ đời mình nhưng họ đã hoàn toàn bất lực và bó tay với sức tàn của hơi thở sự sống. Chúa cất hơi thở là họ sẽ trở về hư không. Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu từ đời này sang đời khác. Vũ trụ và muôn loài cũng hiện hữu trong sự xoay vần và thay đổi luôn. Sự có mặt của mỗi người ở trần gian chỉ trong khoảnh khắc của thời gian và không gian. Sự hiện hữu của con người ví như một hạt bụi hay một giọt nước trong đại dương nay còn mai biến mất. Sự có mặt của con người cũng chẳng làm thay đổi được sự hiện hữu của vũ trụ vạn vật. Đời sống con người như hoa sớm nở tối tàn thôi. Từ hư không, Thiên Chúa ban cho sự sống hiện hữu làm con người và tới một ngày, thân xác lại trở về hư không.
Đấng Kitô đã đến để mang Tin Mừng cứu độ và mạc khải cho con người về lối bước của Chúa. Ngài chỉ dậy cho chúng ta con đường lên thiên đàng. Chính Ngài đã mở lối theo con đường hẹp: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cung kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”(Lc 9, 22). Đấng Kitô đã hạ thấp xuống cùng tận để nâng chúng ta lên làm con Chúa và cho chung hưởng hạnh phúc đời đời. Giống như chiếc máy bay phải hạ cánh đáp xuống đất để đón khách và từ đó mới bay lên không trung. Chúa Kitô chịu xả thân nhục nhã, chịu chết và sống lại để mang ơn cứu độ cho chúng ta.
Thánh Phaolô đã dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Kitô. Chúng ta được lãnh nhận Bí Tích thánh tẩy. Chúng ta thuộc về Chúa và mang danh Chúa Kitô: Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô (Gal 3,28). Tất cả những người tin Chúa đều được chia sẻ sự sống ân sủng do giá máu của Ngài. Trong Chúa Kitô: Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy Lạp, nô lện hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô (Gal 3, 28). Thật nhiệm mầu và cao quí thay! Càng suy gẫm, chúng ta càng cảm thấy tình yêu thương của Thiên Chúa bao la tuyệt vời. Không còn tình yêu nào cao quí hơn nữa. Chúa Kitô đã dùng mọi cách để mời gọi, hướng dẫn và trao ban ân sủng để giúp chúng ta đạt đến sự sống đời đời.
Phần chúng ta: Chúa Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9, 23). Muốn dõi theo đường đi lối bước của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài Thập Giá Đức Kitô. Chúng ta không vác thánh giá cuộc đời trong đơn côi nhưng cùng vác với Chúa. Chúa Giêsu khuyến khích: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Ta êm ái và gánh Ta nhẹ nhàng (Mt 11, 28-30).
.
PHÚT DỪNG CHÂN KHẲNG ĐỊNH CĂN TÍNH
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tôi là ai? Một câu hỏi mà các triết gia xưa nay không ngừng tự vấn bản thân mình. Nhiều triết gia cổ đại như Socrates đã khẳng định rằng biết mình chính là một trong những cái biết làm nền tảng của mọi sự hiểu biết và của sự thành công và cả sự thành nhân. Lão Tử nói: “Biết người là khôn. Biết mình là sáng”. Khôn thì có thể dụng người, có thể lừa người, có thể thành đạt ở đời này trong lãnh vực kinh doanh, chính trị… Nhưng sáng thì có được nhận thức đúng đắn hơn về con người, về cuộc đời, về thế giới… Sáng thì giúp ta sống đúng phận người trong cõi nhân sinh, nói theo các hiền nhân thì cái sáng giúp ta sống đắc đạo dù nhiều khi có thể gặp vất vả hay lận đận trong cuộc đời này.
Nội dung bài Tin Mừng thánh Luca mà Giáo Hội cho trích đọc trong Chúa Nhật XII TN C cũng được Tin Mừng thánh Matthêu và Tin Mừng thánh Maccô tường thuật. Đây không chỉ là bằng cớ minh chứng tính lịch sử của sự kiện Chúa Giêsu tâm sự với các môn sinh mà còn có thể xem là một kỷ niệm khó quên đối với các ngài. Theo các chuyên gia nghiên cứu Tin Mừng, cách riêng các Tin Mừng Nhất Lãm thì cuộc đời hoạt động của Chúa Kitô có thể được phân thành ba giai đoạn chính như sau:
– Giai đoạn thứ nhất: Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, thi thố quyền năng và thu nạp môn đệ.
– Giai đoạn thứ hai: Chúa Giêsu huấn luyện các môn sinh.
– Giai đoạn thứ ba: Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn và phục sinh.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn bản lề, mang tính quyết định cho công cuộc cứu thế của Chúa Kitô. Thời gian Chúa Kitô dẫn môn sinh lánh xa quần chúng, tạm ngưng các hoạt động rao giảng, chữa lành bệnh tật… để hàn huyên tâm sự không chỉ là thời gian Người dành riêng để huấn luyện các tông đồ mà còn là thời gian đặc biệt để chính Người “biết mình” hơn. Khi đã nhận rõ và xác tín về căn tính của mình thì người ta sẽ thấy đúng con đường mình sẽ đi cũng như nhiệm vụ mình sẽ hoàn thành. Quả thật, nhiều khi chúng ta có thể bị những hoạt động tốt đẹp bên ngoài lôi cuốn đi lệch mục tiêu sứ mệnh của mình. Ngoài những giây phút hồi tâm từng ngày vốn là cần thiết để kiểm định việc đã làm và hoạch định việc sẽ làm, cũng rất cần những khoảng thời gian dừng chân nào đó tương đối dài giúp nhận thức đúng và xác định căn tính của mình để lại tiếp tục dấn thân thực thi sứ mệnh. Qua câu chuyện giữa Chúa Giêsu và các môn đệ cũng như qua các bài đọc của Chúa Nhật XII TN C, chúng ta có thể nhận ra một vài phương thế để “biết mình” như sau:
– “Dân chúng nói Thầy là ai?” (Lc 9,18). Để biết mình thì việc lắng nghe, tiếp thu nhận định của tha nhân là điều như không thể thiếu. Phận người chúng ta khó tránh khỏi sự chủ quan khi xét, nghĩ về mình. Cha ông chúng ta đã từng cảm nghiệm: “việc người thì sáng, việc mình thì quáng”.
– “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Lc 9,20). Trong các ý kiến, các nhận định của tha nhân, thì các nhận định, các ý kiến của người thân quen xem ra khá gần với sự thật hơn cả. Khi hướng dẫn các em thiếu niên, thanh niên tìm hiểu các mặt mạnh-yếu của chúng, tôi thường nhắc nhớ các em ưu tiên lưu ý đến những nhận xét của cha mẹ, của anh chị em ruột thịt, của các bạn bè thân thuộc. Có thể nói rằng các nhận xét của những người này rất đáng lưu tâm vì chính họ là những người gần gũi chúng ta hơn nên biết nhiều về chúng ta, và nhất là, vì là những người có lòng với chúng ta, nên lời của họ trung thực hơn.
Các ý kiến, những nhận định của tha nhân dù gần hay xa, dù thân hay sơ tuy cần thiết và có giá trị nào đó, nhưng chúng không thể thay thể nhận định của bản thân mình. Trong niềm tin Kitô giáo thì sự tự nhận định của chúng ta không dừng lại ở việc tự kiểm thảo, tự suy tư, phân giải về mình mà theo ngôn ngũ triết học là phản tỉnh, mà còn phải nhận biết mình theo cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi tâm can bí ẩn lòng người, Đấng cho chúng ta từ hư vô được hiện hữu trong dòng đòi này. Nói như thánh Âugustinô thì chính Thiên Chúa mới cho chúng ta biết cách chính xác mình là ai và qua đó biết sứ mạng của mình là gì. Một lời cầu nguyện của thánh giáo phụ xem ra khá phổ biến, đó là: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết con”.
Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế như qua kỳ công của Người là vũ trụ thiên nhiên, qua các biến cố lịch sử, qua tiếng lương tâm… nhưng trong các cách thế ấy thì có thể nói Thánh Kinh là cách thế Thiên Chúa tỏ bày chương trình và ý định của Người cách rõ nét hơn cả. Chúa Kitô khi vào đời trong thân phận phàm nhân, đã dùng phương thế này để nhận biết căn tính cũng như sứ mạng của Người.
“Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu… Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế” (Dcr 12,11;13,1). Khi khẳng khái tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, chắc chắn Phêrô chưa hiểu đủ và hiểu đúng nội hàm về Đấng Kitô. Trong nhiều đoạn Thánh Kinh thì những lời của ngôn sứ Giacaria trên đây đã góp phần giúp Chúa Giêsu nhận rõ căn tính và sứ mạng Kitô của mình. Biết mình đến thế gian không phải để được người ta hầu hạ nhưng để hầu thiên hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người, vì thế “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” (Lc 9,22). Sau khi nhận rõ căn tính và sứ mạng của mình, thì Chúa Giêsu đã cương quyết lên Giêrusalem, nghĩa là Người biết Người sẽ làm những gì (x. Mt 20,17-19; Mc 10,32-34, Lc 18,31-34).
Tôi là ai? Bởi đâu tôi được sinh ra làm người và sống ở đời này để làm gì? Những câu hỏi trên đã làm nhiều học giả, nhiều nhà hiền triết thao thức và dường như không thể có câu trả lời thỏa đáng. Một sản phẩm không thể nào tự minh định đầy đủ về mình về lý do cũng như ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Không một ai ngoài chính người làm ra sản phẩm ấy mới biết đích xác những điều ấy, nghĩa là sản phẩm ấy là gì, được làm ra như thế nào và để làm gì. Khi đã tin rằng chính Thiên Chúa dựng nên mọi sự và dựng nên chúng ta, thì chỉ có Người mới cho chúng ta biết cách chính xác chúng ta là ai, có mặt ở đời này để làm gì. Vì thế, những khoảnh khắc, những giai đoạn dừng chân để nhận thức căn tính cũng như sứ mạng của mình quả là điều không thể thiếu. Dừng chân để nghe tiếng Chúa qua nhận định của tha nhân, của người thân cận, qua dòng chảy của lịch sử tự nhiên và xã hội, qua lời Thánh Kinh mà đặc biệt là qua cuộc đời, việc làm, lời giảng dạy của Đấng chính là Ngôi Lời nhập thể. Biết mình là cái biết nền tảng để thành nhân và thành người con cái Chúa.
.
Lm. Antôn
Trong tuần lễ Ngày Của Cha, trước hết tôi xin gởi lời chúc mừng đến tất cả người cha và nhất là quí vị trong nhóm gia trưởng trong giáo xứ một ngày thật vui mừng và nhiều ơn lành của Chúa. Tôi xin kể một câu truyện vui như sau. Một linh mục gặp bà mẹ mà linh mục đã làm đám cưới năm xưa và hỏi: “Chồng của chị có sống đúng với lời đã hứa với chị trước khi kết hôn không?” “Thưa cha chắc chắn rồi.” Bà mẹ trả lời, và nói tiếp rằng: “Trong thời gian chúng con hẹn hò gặp gỡ để tìm hiểu, anh thường tâm sự với con ‘Thú thực, anh không đủ sức làm cho em thỏa mãn và sung sướng’ và thực vậy, anh đã chứng minh và sống đúng như thế cho đến ngày nay!!!” Tôi nghĩ rằng điều đó không áp dụng cho những người chồng hiện diện nơi đây. Tôi biết tất cả quí ông là những người thật phi thường!
Theo quan niệm của người Hoa kỳ, một người cha tốt luôn luôn tận tình và tận hiến cho con cái. Một người cha có tấm lòng tận hiến cho con cái thường cầu nguyện và hát cho chúng nghe trước khi chúng ngủ. Nhưng đã không hát nữa vì một đêm ông nghe đứa con trai 7 tuổi nói với em trai 4 tuổi “Nếu mày giả bộ ngủ thì cha sẽ không hát nữa.” Tận hiến không còn được tôn trọng nhiều ngày nay. Nhưng xin chân thành cám ơn và khuyến khích tấm lòng tận tâm và tận hiến của những người cha cho con cái. Và xin thú thật, tôi cũng muốn tất cả mọi người cùng hát trong Thánh lễ.
Đi vào Lời Chúa hôm nay. Bài Tin mừng hôm nay làm cho tôi nhớ lại câu chuyện được Đức thánh cha Phan-xi-cô kể lại trong một Thánh lễ. Một hôm ngài đi thăm không chính thức một bệnh viện địa phương và được dẫn đến khu vực của người tâm thần. Ngài vào phòng của một người đàn ông, bắt tay và ân cần hỏi thăm, nhưng ông ngơ ngác lờ đi. Đức thánh cha và những người tùy tùng cố gắng làm ông chú ý nhưng ông vẫn phớt lờ đi. Cuối cùng Đức thánh cha hỏi ông “Ông có biết tôi là ai không?” Người đàn ông trả lời “Không. Nhưng nếu ông hỏi người y tá thì cô sẽ cho ông biết ông là ai!”
Chúng ta phải để ý trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giê-su hỏi các môn đệ Người là ai, không phải là Người không biết Người là ai. Chắc chắn Chúa biết Người là ai. Những lời giảng dạy có uy quyền cũng như những phép lạ Người làm vượt qua sức mạnh của loài người và của thiên nhiên minh chứng Người là ai. Chúa chỉ muốn biết các môn đệ của mình đã bắt đầu nhận ra Người là ai, và bắt đầu hiểu những lời Người thường giảng dạy cho họ chưa. Qua câu trả lời của Phê-rô, chúng ta biết Phê-rô đang từ từ nhận ra Chúa là ai, nhưng sự hiểu biết này chỉ là bước đầu. Các môn đệ còn phải học hỏi nhiều, trước khi họ có thể làm chứng cho Chúa và dạy cho người khác được. Thật vậy, lúc đó các môn đệ chưa hiểu tại sao Đấng Được Sức Dầu, Đấng Ki-tô mà phải chịu khổ hình và chết trên thập giá, cho đến sau khi Chúa chịu những điều đó và đã sống lại như lời Người đã nói, các ông mới thật sự hiểu được Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Đấng Thiên Sai. Do đó, chúng ta nghe Chúa Giê-su ngăn cấm các môn đệ không được nói những điều đó với người khác. Sau đó, Chúa tuyên bố với mọi người: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình.”
Lịch sử nước Việt Nam chúng ta có ghi chép một sự kiện xảy ra vào năm 1284, khi đội quân hùng mạnh của đế quốc Mông cổ tràn xuống xâm lăng, từ 2 phía Nam và Bắc với một lực lượng quân đội hùng mạnh. Quân Mông cổ đánh chiếm nhiều tỉnh và sau đó đã chiếm được thành Thăng Long là thủ đô nước Việt, bây giờ là Hà Nội. Trước khí thế hùng mạnh của quân xâm lăng, vua Trần Thánh Tông lúc đó phải lui quân về phía Nam, và sau đó ra lệnh triệu tập Hội Nghị Diên Hồng gồm các vị trưởng lão và những người có thế lực trong dân. Khác với các hội nghị trước, Hội nghị Diên Hồng lần này không bàn về chiến lược bảo vệ hay chống trả lại quân xâm lăng, mà chỉ bàn về lời kêu gọi khẩn thiết của vua là có nên hòa, có nghĩa là đầu hàng, hay nên đánh bảo vệ quên hương đất nước. Toàn thể mọi người tham dự hội nghị đều đồng thanh nhất trí hô to: “Nên đánh.” Lịch sử đã ghi lại cho chúng ta biết rằng sau đó, mọi người đã chịu đói khổ, gian truân và nguy hiểm, ngày đêm hăng say tập luyện. Qua sự quyết chí và can đảm của mọi tầng lớp dân chúng, dưới sự điều động và chỉ huy của một vị tướng tài ba là Trần Hưng Đạo, quân dân Việt đã từ từ phản công và đánh đuổi quân xâm lăng Mông cổ ra khỏi đất nước.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa Giêsu Ki-tô cũng đưa ra một lời kêu gọi tương tự với chúng ta hôm nay. Thế nhưng lời kêu gọi của Chúa không phải là cầm súng gươm đánh giặc xâm lăng, mà là một lời kêu gọi mọi người chúng ta chân thành lắng nghe và sống lời Chúa dạy, trở thành những chứng nhân cho Chúa, hy sinh cùng chung sức xây dựng Nước Chúa, và can đảm bảo vệ những giá trị hôn nhân gia đình đang bị kẻ thù là ma quỉ tìm cách phá hoại, tìm cách tiêu diệt. Sứ mệnh Chúa kêu gọi không dễ dàng, do đó Chúa nhắc nhở: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Ta.”
Qua dòng lịch sử của Giáo hội, từ ngày Chúa tuyên bố lời kêu gọi này đến nay, đã có biết bao nhiêu người có lòng tin vững chắc vào Người, chân thành chấp nhận lời kêu gọi và hợp tác với Chúa, chấp nhận những khó khăn, hy sinh làm chứng cho Chúa và loan truyền ơn cứu độ. Chúng ta thấy nhiều người có lòng bác ái và quảng đại hiến thân xây dựng Nước Chúa, và giúp biến đổi xã hội và cộng đoàn trở nên nơi như lòng Chúa mong ước.
Xin Chúa ban ơn, thêm sức cho chúng ta hôm nay để chúng ta chân thành lắng nghe lời Chúa, can đảm vác thập giá, trở thành chứng nhân cho Chúa bằng đời sống tốt lành, ngay thẳng, và luôn trung thành với giới răn của Chúa và giáo huấn của giáo hội, cho dù phải thiệt thòi, bị chỉ trích và nhạo báng. Đồng thời biết hy sinh hiệp nhất và có tấm lòng quảng đại cùng nhau để xây dựng giáo xứ, xây dựng Nước Chúa nơi trần gian.
.
Lm. Jos. DĐH
Tục ngữ có câu : trâu đi tìm cọc, gợi nhớ đến truyền thống, người con trai đi tìm kiếm bạn gái, người học trò “tầm sư học đạo”, đó là tiến trình hợp với đạo nghĩa ở đời. Cha ông chúng ta không thể chấp nhận một nghịch lý “cọc đi tìm trâu”, người nữ không thể chủ động tỏ tình; học trò không thể nói ai là thầy giỏi, tôi sẽ nhận làm sư phụ. Trong binh pháp của Tôn Tử luôn đề cao tri-hành: biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Thực tế cũng cho chúng ta một kinh nghiệm : không phải nhiều bằng cấp là tài giỏi hơn người, không phải cứ túng nghèo, thiếu thành công, gọi là kẻ tiểu nhân.
Biết thế nào là đúng, là chính xác về một người thầy tài giỏi đã khó rồi, có cơ hội thọ giáo, hoặc được gọi là đệ tử đáng tin cậy, hẳn không còn gì hạnh phúc hơn. Dư luận của đám đông, Đức Giêsu là Gioan Tẩy giả, là Êlia, là một Ngôn sứ đã sống lại, tưởng vậy là khá rồi. Trong tình thầy trò, Đức Giêsu muốn các học trò phải thể hiện rõ lập trường của mình, không được nói là “có thể” hay “hình như”. Người đời hiểu rằng, thầy tài giỏi không phải là thầy chỉ nghe những lời tán dương của học trò, người thầy còn có trách nhiệm hướng dẫn, giúp các trò biết đúng, hiểu đúng vấn đề.
Hiểu đúng, biết đúng về Đức Kitô không thể dừng lại trên môi miệng, theo Đức Kitô không phải là theo để hưởng ưu đãi bổng lộc, vì vậy, theo Thầy Giêsu phải được Ngài giúp hiểu đúng, sống vững lập trường. Nếu biết Đức Giêsu cách đại khái là Vị thầy nổi tiếng tài giỏi, nếu theo Đức Giêsu với hy vọng Thầy làm vua tôi sẽ làm quan, nước lên bèo lên, hẳn chỉ là hạnh phúc mơ hồ, không có thật. Đấng Kitô của Thiên Chúa, hiểu đúng, biết đúng, phải là Vua tình yêu, Đấng chiến thắng tử thần, chinh phục được các tâm hồn trở lại ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Nói theo tư tưởng của nhà bác học A.Edison: điều chúng ta biết chỉ là giọt nước, điều chúng ta không biết là cả đại dương. Nếu từng người trong chúng ta có tuyên xưng giống như Phêrô, có lập lại lời Thầy là Đấng Kitô bằng cung giọng trang trọng nhất, việc hiểu biết của chúng ta cũng chỉ là lý thuyết môi miệng. Hiểu đúng, biết đúng về Thầy Giêsu là đi theo sau Thầy, để cùng Thầy chiến thắng đau khổ thập giá đời mình. “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”. Thành công ở đời là điều đáng mơ ước, khi người môn đệ hiểu đúng, biết đúng, và trả lời Đức Giêsu chúng ta đang đi con được nào, con đường có Chúa cùng đi.
Không dừng lại ở mạc khải Thầy là Đấng mà anh em vừa tuyên xưng, Đức Giêsu còn hướng các học trò và cả chúng ta là hãy hiểu biết, hãy yêu mến, để rồi biết sống đúng tinh thần từ bỏ mà theo Chúa. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Ta”. Cũng như các môn đệ, người tín hữu chúng ta phải để cuộc sống hiện tại chất vấn niềm tin, trắc nghiệm về lòng yêu mến, dù tinh thần ý chí mạnh mẽ, xác thân yếu đuối giới hạn. Đấng Kitô chỉ nhận ra các học trò của Ngài, khi chúng ta đang đi con đường chật hẹp, con đường Chúa đã đi trước, và chúng ta đang tin tưởng mạnh dạn bước theo Ngài.
Để lời nói đi đôi với việc làm, biết đúng về Đức Kitô, hiểu và sống giá trị tình yêu thương của người tin theo Đức Kitô, đó là chúng ta đừng hà tiện khả năng, hồng ân ta đang có, đừng hoang phí thời giờ để chỉ trích, lên án anh chị em mình. Biết để sống đúng là đừng để những ý nghĩ nông cạn trong quá khứ làm ta đau khổ, đừng cả nghĩ về tương lai, điều đó sẽ làm ta hoảng sợ, nhưng hãy tin Đức Kitô và sống hiện tại những ơn ban của Ngài. Câu trả lời Đức Giêsu là ai đã khó rồi, nhưng sống niềm tin còn vất vả hơn nhiều. Vì thế, chỉ người biết tin tưởng, cậy trông, mạnh dạn bước theo dấu chân của Ngài mới đạt tới hạnh phúc thật.
Hiểu đúng, biết đúng Đức Kitô để mỗi ngày mỗi giây phút trong đời chúng ta được là học trò của Ngài, đó còn là lý tưởng sống mến yêu mà Đức Kitô ban tặng. Người ta biết đặt ra câu hỏi : tại sao tôi nhắm mắt khi ngủ, tôi nhắm mắt khi suy tư, tôi nhắm mắt khi cầu nguyện, cả khi mơ tưởng hạnh phúc tôi cũng nhắm mắt ? Xin thưa, vì quy luật tự nhiên, những gì tốt đẹp nhất trên thế gian, người ta không thể nhìn bằng mắt thường, mà cần phải cảm nhận bằng lý trí, con tim. Đức Giêsu không những chỉ trắc nghiệm bạn hiểu Đấng Kitô là ai, nhưng Ngài còn muốn chúng ta trả lời “có hay không” hằng ngày bạn đang yêu mến Thầy thế nào ? Bạn theo Thầy Giêsu và có sống giáo huấn của Ngài không ? Amen.
.
AM. Trần Bình An
Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.
Một ngày chủ nhật nọ, tất cả các vị mục sư tại các nhà thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.
Vào giữa trưa một ngày thứ Bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa.
Thánh Augustinô đã nói: “Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin.”
Trong câu chuyện trên đây, mọi người tham gia buổi cầu nguyện xin trời đổ mưa đều là những người có lòng tin nhưng người duy nhất nhận được phần thưởng của lòng tin là em bé trai cầm theo chiếc dù để trú mưa. Lắm khi trong cuộc sống đức tin, chúng ta tưởng mình tin, nhưng kỳ thực chúng ta chưa dám thể hiện những cử chỉ đích thực của lòng tin. Ðúng hơn, niềm tin của chúng ta chưa đủ mạnh được thể hiện bằng những hành động cụ thể đòi hỏi nhiều hy sinh và từ bỏ. Một em bé cầm dù giữa đám đông, đó là hình ảnh của những đòi hỏi của đức tin… (Radio Veritas Asia, Sức Mạnh Của Ðức Tin, Chiếc Áo Từ Nhân)
Đức tin cần thể hiện bằng hành động cụ thể, bằng chứng từ thuyết phục, không thể lửng lơ, mơ hồ hay bất định. Bởi vì Chúa sẽ từ chối, tẩy chay kẻ bắt cá hai tay, dấm dớ, tham lam: “Ta biết các việc làm của ngươi: ngươi không lạnh mà cũng không nóng; phải chi ngươi lạnh hẳn hoặc nóng hẳn đi! Bởi vì ngươi hâm hẩm, không lạnh không nóng, nên Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta (Kh 3, 15-16)
Trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu trắc nghiệm các môn đệ, thử xem các ông có biết Người là ai không. Có tin Người là Đấng Thiên Sai chăng. Người vẫn biết các ông còn hồ đồ, còn tăm tối, chưa nhận biết chính xác Người là Con Thiên Chúa. Các ông vẫn còn đang hết sức kỳ vọng rằng, Người sẽ lên ngôi vua, giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ La Mã, rồi sẽ bá chủ toàn cầu. Thế nên Đức Giêsu không muốn các ông vỡ mộng khanh tướng, cũng chẳng muốn các ông hiểu lệch lạc sứ vụ của Người, mới ân cần mặc khải cho các ông hiểu sứ vụ cao cả của Người.
Nhận diện
Người lại hỏi các ông rằng: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, ông Phêrô thay mặt quý anh em đồng môn, tuyên xưng rất chính xác, làm Đức Giêsu hiểu ngay nhờ đâu ông được mặc khải.
“Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17)
Trong xã hội Do Thái bấy giờ, từ các Kinh sư, Luật sĩ, Biệt phái đến dân chúng hầu như đều không tin Đức Giêsu là Đấng Messiah, hay Đấng Kitô theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là Đấng Được Xức Dầu, Đấng được Thiên Chúa sai đến. Theo quan niệm của họ, Đấng Messiah phải đến oai hùng, tiền hô hậu ủng, chứ chẳng thể lặng lẽ sinh hạ khiêm tốn nơi hang lừa bò, chẳng thể nào là con ông thợ Giuse và bà Maria nghèo nàn, chất phác, quê mùa.
Nay Đức Giêsu đi rao giảng đầy vẻ phong trần, chẳng cần cơ sở nguy nga, đồ sộ, tiện nghi, chẳng cần cơ cấu tổ chức quy mô, chặt chẽ, đầy đủ ban bệ, cũng chẳng hậu cần tiếp tế quy củ, bền vững, hiệu quả, chỉ như người khách lữ hành, không bị ràng buộc, chôn chân vào đâu. Người còn vui vẻ, hóm hỉnh tự trào: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu.”(Mt 8, 20)
Người lãnh đạo cũng chẳng giống ai, vì đã trở nên tôi tớ hầu hạ, phục vụ môn đệ, đến hiến thân cứu độ muôn người. “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 26-28).
Linh đạo
Con đường sứ vụ rao giảng của Người chẳng hoa thơm, cỏ lạ, chẳng quyền cao chức trọng, chẳng xuôi dòng mát mái, mà tràn trề, đầy rẫy chông gai, thách đố, cạm bẫy, nguy hiểm, thậm chí bị khổ nạn, chịu chết nhục nhã, thê thảm trên thập giá. Có thể nói đó chính là linh đạo Thập giá.“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.” Đức Giêsu không hề muốn giấu diếm các môn đệ tương lai sắp đến hết sức gian truân bĩ cực, mới hồi thái lai.
Cảnh cáo các môn đệ thức tỉnh khỏi giấc mơ quyền lực, “ngồi bên tả, bên hữu Thầy,” thoát khỏi cám dỗ danh lợi, Đức Giêsu đã tiên báo cuộc khổ nạn của Người, cũng như số phận những ai đi theo Người sẽ không thể khá hơn.“Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10, 17-18)
Đường hy vọng
Với các môn đệ, cùng tất cả những ai muốn theo Người, mong được hưởng hồng ân cứu độ, Đức Giêsu thẳng thắn kêu gọi:“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình.”
Bước đi theo Chúa tiên quyết bỏ mình, bỏ ý riêng, bỏ cả thân xác, của cải, tiền bạc, nhà cửa, tiện nghi, bỏ cả những tình cảm dây dưa, riêng tư, bỏ tất tần tật những gì níu kéo, ràng buộc cản trở. Đây là thách đố quan trọng và khó khăn cho tất cả những ai theo Chúa.“Của Cesar hãy trả về Cesar, Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.”(Mt 22, 21) Hãy buông xả tất cả những gì thuộc về thế gian, để chúng không thể ngăn trở, không thành chướng ngại vật, khi đến với Chúa.
Bỏ mình, cũng bỏ lại sau lung nhưng vương vấn gia đình, những tình cảm huyết tộc, linh tộc, uỷ mị, sướt mướt, yếu đuối, bỏ đi tất cả những gì vướng víu lên đường theo Chúa. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 60)
Theo Chúa toàn tâm toàn ý, chẳng hề tiếc nuối, chẳng quyến luyến, tính toán hơn thiệt, chẳng bối rối, so đo. “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9, 62)
Hằng ngày vui lòng vác thập giá bổn phận và trách nhiệm, chẳng chối bỏ hay tránh né, cũng chẳng than phiền hay bất bình, bất mãn nặng nhọc, khó khăn dai dẳng. Luôn ý thức rằng vác thập giá theo chân Chúa lên Núi Sọ, chịu đóng đinh và chịu chết với Người. Bởi chưng tìm sự sống thế gian thì rồi sẽ tàn héo, sẽ mòn mỏi chết theo năm tháng, còn theo Chúa dấn thân chịu thua thiệt, chịu chết đi, sẽ được sống vinh quang với Người.
“Trên thánh giá, Chúa nghèo lắm! Con chỉ xin Chúa Giêsu chịu đóng đinh một điều: yêu thương, đau khổ và luôn luôn hy vọng.” (Đường Hy Vọng, số 956)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận diện ra Chúa trong mọi người, nhất là trong những anh chị em cơ nhỡ, đau khổ, nghèo đói, bị bỏ rơi, bệnh hoạn, tù đầy, để chúng con thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ, trong niềm hy vọng hạnh ngộ cùng Chúa mai sau.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ an ủi, cầu bầu, giúp đỡ, khích lệ chúng con biết trung thành theo Chúa đến cùng, như xưa Mẹ theo Chúa đến tận chân thập giá trên đồi Calvaire. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên kim cương lấp lánh như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên kim cương long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống tận đáy cố tìm cho bằng được viên kim cương quý giá. Thế nhưng, dù chàng phải hì hụp suốt ngày ngoi lên lặn xuống để tìm kiếm, viên kim cương vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác chỗ kim cương rơi xuống nước để tìm cho nhanh.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên kim cương thứ hai, ném nó xuống sông và nói: “Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm.”
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học vỡ lòng mà vị linh sư dạy là nếu anh muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự của mình. (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)
Qua trích đoạn Tin Mừng thánh Lu-ca được đọc hôm nay, Chúa Giê-su cũng đưa ra một lời khuyên tương tự. Ngài nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình.” (Luca 9, 23)
Chúa Giê-su không chỉ kêu mời ta từ bỏ những gì mình có, nhưng là từ bỏ chính bản thân ta, vì nếu chỉ từ bỏ mọi thứ ta có mà không từ bỏ “cái-tôi” tham lam của mình, thì chính “cái-tôi” nầy sẽ lấy lại tất cả những gì nó đã vứt bỏ đi.
Tại sao cần phải từ bỏ chính mình?
“Cái-tôi” kiêu hãnh và nhiều tham vọng nơi mỗi người là nguồn gốc gây ra đủ mọi thứ tội. “Bảy mối tội đầu” luôn hiện diện trong bản thân chúng ta và xô đẩy chúng ta xuống vũng lầy tội lỗi. Kiểm điểm lại, chúng ta thấy trong bản thân mình thường có những “cái-tôi” nổi cộm sau đây:
- “Tôi-kiêu-ngạo”
Tên nầy đứng đầu trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy vênh vang tự đắc, tự cho mình cao cả hơn người khác và không muốn người khác hơn mình nên đâm ra ghen tị, oán ghét những ai nổi trội hơn.
- “Tôi-tham-lam-ích-kỷ”
Tên nầy chỉ biết nghĩ đến mình và tỏ ra vô cảm, thờ ơ trước những nỗi đau thương khốn khổ của người khác. Tên nầy chỉ biết thu vén lợi lộc cho mình mà không màng gì đến quyền lợi của tha nhân nên đã gây ra vô vàn đau thương cho nhân loại.
- “Tôi-tà-dâm”. Tên nầy là nguyên nhân của biết bao vụ ngoại tình, loạn luân, phá thai, mua bán dâm và rất nhiều tệ nạn khác.
- “Tôi-hưởng-lạc”. Tên nầy xui khiến người ta mê đắm ma túy, rượu bia, mê say bài bạc… làm suy đồi phẩm chất, làm tan cửa nát nhà, phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm hỏng cuộc đời của mình và của những người liên hệ.
Những “cái tôi” hư hèn đó đang ngự trị trong lòng ta, đang chỉ huy, lèo lái bản thân ta – như người ta điều khiển con rối – và xô đẩy bao người vào thảm họa.
Làm sao thoát khỏi sự chế ngự, xô đẩy, lôi kéo của chúng?
Chúa Giê-su đưa ra một giải pháp, gói gọn trong lời mời gọi: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ chính mình” (Luca 9,23)
Khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giê-su muốn chúng ta kiên quyết triệt hạ những “cái-tôi” mắc dịch nầy, không để chúng điều khiển, lèo lái, chỉ huy cuộc đời ta nữa.
Chúa Giê-su từ bỏ chính mình
Trước khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giê-su đã từ bỏ mình trước.
Ngài là Thiên Chúa cao sang quyền phép, nhưng đã huỷ mình đi để trở thành một trẻ sơ sinh yếu đuối nằm trong chuồng bò.
Ngài là Chúa tể trời đất, nhưng đã tự hủy và trở nên nghèo thiếu không ai bằng. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 19,58)
Ngài là Thiên Chúa hùng mạnh nhưng đã hạ mình, trở thành tên tội nhân để cho người ta đánh đập, xỉ nhục và đóng đinh vào thập giá.
Ngài là Thiên Chúa quyền năng đồng hàng với Chúa Cha, nhưng đã xoá mình đi để trở thành tôi tớ vâng phục Chúa Cha.
Thánh Phao-lô tóm tắt đời Ngài như sau:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phi-líp 2, 6-8).
Lạy Chúa Giê-su,
Nhờ tự hủy mình ra không, nên Chúa đã chiến thắng thế gian và cứu rỗi được muôn người; Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, kiên quyết từ bỏ chính mình để thực sự làm chủ bản thân và xứng đáng là người môn đệ chính danh của Chúa.
.
BƯỚC CHUẨN BỊ VÀO KHÚC QUANH ẢM ĐẠM TRONG SỨ VỤ
Lm. Uyen Nguyen
Chúa nhựt hôm nay, Luca tường thuật ĐGS sắp bước đến thời điểm mà cuộc hành trình rao giảng của Người sắp lâm vào khúc ngoặt mới, đi lên Giêrusalem. Trước đây, Người thường đi lại quanh vùng Galilê. Giêrusalem là điểm đến của sứ vụ, chỉ ở đó ĐGS mới thực hiện thỏa đáng những gì mà các Ngôn sứ Cựu Ước tiên báo về Người. Lên Giêrusalem là cuộc hành trình hệ trọng. Do đó Người cần có chuẩn bị, chuẩn bị phần mình, chuẩn bị tinh thần các tông đồ. Việc chuẩn bị sao cho mọi sự an toàn, ích lợi cần thiết. Nguyên tắc ‘phòng khi’ là nguyên tắc thường được áp dụng ở mọi lãnh vực, dễ thấy trong cuộc sống thường nhựt.
Chiêm ngắm ĐGS khi này, Luca cảm nghiệm: Người cầu nguyện một mình. Cầu nguyện không chỉ là nhịp sống lành đạo đức của ĐGS, mà cầu nguyện và cầu nguyện hơn nữa những khi tình huống sắp bước vào đầy áp lực hay những việc hệ trọng sắp thực hiện vì sứ vụ. Lần này Người cầu nguyện trong tình huống như vậy. Người cầu nguyện, tất cả đều để cho thấy Người sống trong liên kết căn tính giữa Người với Chúa Cha, Con với Cha, mật thiết, cỡi mở và tràn trề tâm tình tín thác. Cầu nguyện cho cả những người thuộc về Người, diễn tả tâm tình gắn kết tràn trề yêu thương. Họ cũng cần được cầu nguyện cho để được bảo vệ, gìn giữ trong niềm xác tín vững chắc cao độ trước những tình huống uẫn khúc, đặc biệt ở giai đoạn này.
Trong khi ĐGS cầu nguyện, các tông đồ ở kề bên. Như muốn biết điều gì đó đang hình thành nơi não trạng đám đông dân chúng, Người lên tiếng hỏi các ông: ‘Đám đông nói Thầy là ai’? Câu trả lời từ các tông đồ phản ảnh khối não trạng bình dân, đám đông có nhận thức đơn sơ, mọc mạc và giãn dị: ‘Một tiên tri’. Người tiếp tục hỏi các ông: ‘Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai’? (Cc,18-20). Câu trả lời cho Người có chiều sâu bao quát, qua người đại diện, khác hơn so với đông dân chúng, Phêrô thưa: ‘Thầy là Đấng Kitô của TC’! Lời tuyên tín của Phêrô chính xác không gì tốt hơn, nên đã bị cấm, vì chưa thuận tiện, không được thông truyền rọng rãi ra ngoài và không được nói cho bất cứ đâu, kể cả cho bất cứ ai vào lúc này.
Rồi trong cuộc đàm đạo riêng tư ấm nồng giữa Thầy trò ấy, ĐGS thản nhiên, tự tin, báo trước cho các ông về tương lai của Người ở Giêrusalem. Theo đó chẳng có gì là lành cả. Chẳng có gì đem lại hi vọng tươi sáng hay vinh quang nào cả, mà toàn những việc như đã sẵn trùm lên bầu khí dày đặc ảm đạm nằm im ỉm sẵn chờ: bắt bớ, trao nộp, thương tích và bị giết. ‘Con Người phải chịu đau khổ nhiều’.
Đến đây Người không nói gì thêm với các tông đồ mà hướng ra ngoài đám đông dân chúng. Người ban ra nguyên tắc sống ‘để trở thành môn đệ, để đạt đến phúc thật’ dành cho những ai đích thật ao ước hay muốn có được: ‘Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vácthập giá mình hằng ngày mà theo tôi’. Vác thập giá là phương cách chắc chắn đi đến cái chết. Không vác thập giá là sống, né tránh sự chết, bảo vệ mạng sống. Nhưng với Người, né tránh và tự bảo vệ mạng sống mình, không chắc là cách hay đích thực dẫn đến bào lưu mạng sống mà vẫn là phương cách xấu dẫn đến cái chết thảm hại. ĐGS đưa ra một nghịch lý để tùy từng cá nhân chọn lựa giữa chết và sống. Thường muốn sống thì cần thiết biết tự bảo vệ. Ở đây ĐGS nhìn ra hậu quả của hành vi tự bảo vệ chính là mối nguy hiểm mang đến cái chết. Tư kỷ, ích kỷ, thụ hưởng…là nét tâm lý muốn sống cho riêng mình của bao người, lại không được cổ vũ ngợi khen, và chung cục cũng chuốc lấy cái không tồn tại. Lắm khi trớ trêu là chốn nguy hiểm nhất lại là nơi an toàn nhất. Hoặc giả có được sống mà mọi hào quang bao trùm bản thân đã bị tiêu tán, thì sống cũng có là chi khi thực thể sống ấy thiếu ánh sáng danh dự lấp lánh hào quang? Khi đưa ra nguyên tắc liều chết để được sống, ĐGS đã báo trước về sự chọn lựa của Người: chọn chết ở Giêrusalem để muôn đời được ân thưởng sống rạng rỡ vinh quang. Lời báo trước thân phận dày đặc ảm đạm như thế là thông điệp, tín hiệu cho một mô phạm điển hình ĐKT mời gọi sống vinh quang xuyên qua việc chạm trán đối đầu mọi an lành giả tạo, từ bỏ yên thân, khinh che mọi ảo ảnh khác dù có hấp dẫn nhưng vẫn chỉ là chung khối thực tại mõng dòn, đặc sản riêng cõi phong trần chóng qua.
Đến dây, câu hỏi được đặt lên: đâu là chủ đích của CN 12 TN C này? Trong cái nhìn tổng hợp, khi kết hợp lại từ hai CN 10, 11 và 12 hôm nay, ca ba nằm trong một chuỗi liên kết mật thiết nhau để có thể hiểu được điều khẳng định với chủ tâm giáo huấn giáo đoàn theo tinh thần Luca: ĐGS là một vị Thiên Sai qua những tác động bộc lộ quyền năng TC tối thượng của Người vào các hành vi cứu sống kẻ chết, quyền tha tội cho kẻ dày tiếng tội lỗi trước đây, và hôm nay, dựa vào lời tuyên tín của tông đồ Phêrô: ‘Người là Đấng Kitô của TC’ lại bị cấm đoán thông truyền rộng rải phòng nguy đến sớm khi giờ chưa đến, thì ĐGS quả đích thật Người là TC được sai đến, Đấng Kitô cứu độ. Đây là niềm tin vào chân lý cốt lõi, bất biến mà ai là người gắn bó trong yêu mến với ĐGS phải xác tin bất di bất dịch, gắn bó bền vững chất keo sơn.
Với phần theo đuổi đường sống đạo đức thiêng liêng của ĐGS, từ bỏ và vác thập giá, thì không gì thích hợp hơn thực hành lời động viên, giáo huấn của thánh Phaolô để yên chí sống nên thần tượng là: ‘Anh em sẽ đồng lao cộng khổ, ắt sẽ được chung phần ủi an’ (2 Cor,1,7).
Lạy Thánh Phaolô, con xin tiếp nối chân dung ngài để trở thành môn đệ của ĐKT vì lòng thương yêu TC và hạnh phúc cho mọi người. Xin giúp con sống cuộc sống đẹp theo lời ngài nói nên kim chỉ nam mọi người, linh đạo đồng hình đồng dạng với ĐKT: ‘Tôi sống không phải là tôi mà là ĐKT sống trong tôi’.
.
Dã Quỳ
Sau những tháng ngày theo Chúa và sống với Người, hôm nay Chúa Giêsu muốn thẩm vấn các môn đệ của Người xem các ông đã hiểu biết về Thầy mình như thế nào. Đây là lúc các môn đệ cần nghiêm túc nhìn lại hành trình của mình qua thời gian dài theo Chúa, kiểm điểm và nhìn lại chọn lựa cũng như xác tín của các ông vào Chúa. Câu Chúa hỏi và điều Chúa muốn nơi các môn sinh năm xưa: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”(Lc 9, 20) Người cũng muốn hỏi chúng ta, những Kitô hữu hôm nay.
Trước tiên, Chúa dò hỏi môn đệ quan niệm của đám đông về Chúa. Người ta thường nhìn người khác theo hình dáng bên ngoài. Những gì thể hiện trong lời nói, cử chỉ…sẽ là kết quả mà người ta kết luận người đó là ai, giống ai. Vì thế, khi dân chúng nghe Chúa giảng, nhìn Chúa chữa lành và thấy cách Chúa sống, họ mơ hồ hình dung Chúa chỉ là “ông Gioan Tẩy Giả, là ông Êlia hay là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.”( x. Lc 9,19) A dua, chung chung và hời hợt… Đó là tình trạng của đám đông!
Thế nhưng với môn đệ, Chúa muốn các ông một câu trả lời cá nhân chứ không theo dư luận. Những ngày đầu được Chúa tuyển chọn theo Chúa, người môn đệ có đinh hướng rõ rệt cho cuộc đời mình chưa? Dọc dài hành trình của Chúa, môn đệ được đi cùng, sống cùng và sát cánh với Chúa nhưng đã thực sự theo Chúa và tận tâm với sứ mệnh của Người chăng hay còn ngập ngừng, thờ ơ…? Nghe biết bao lời Chúa giảng, được giải thích cặn kẽ khi chỉ có Thầy và trò; chứng kiến những dấu lạ, sự chữa lành…; nhiều lần được chia sẻ, tâm sự và thổ lộ về Thiên tính của Người; nhất là nhìn thấy tình yêu và sự hiến thân của Chúa cho con người, môn đệ có cảm nhận xác thực được Thầy là ai và xác tín cách mạnh mẽ không?
“Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.“(Lc 9, 20b) Câu đáp của Phêrô là một lời tuyên tín mà chắc chắn không chỉ do hiểu biết của ông nhưng còn do Thánh Thần soi sáng, vì “Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giêsu là Chúa’ nếu người ấy không ở trong Thần Khí.”(1Cr 12, 3b) Danh xưng “Đấng Kitô – Đấng Thiên Chúa đã Xức Dầu”, được tóm gọn trong sứ vụ của Chúa Giêsu mà chính Người đã khẳng định “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn...”( Lc 4, 18- 19) Nhân danh nhóm Mười Hai, Phêrô đã xác tín vào Chúa là Đấng Kitô, nhưng ông vẫn chưa có thể nhận biết đủ về Chúa và sứ mệnh của Chúa. Thế nên, mãi cho đến sau Phục Sinh, Chúa còn phải mở trí cho các ông hiểu “Đấng Kitô phải chịu khổ hình...”(Lc 24, 46 ).
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, …bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.“(Lc 9, 22) Đây là ý nghĩa xác thực về “Đấng Kitô” và sứ mệnh của Người mà Chúa muốn tỏ cho môn đệ. Dân chúng hiểu danh xưng Kitô là một chức vụ quyền lực và vinh quang nơi trần thế! Những người Do thái chờ mong Đấng Kitô đến để giải thoát họ khỏi ách đô hộ và cầu mong Người thành lập vương quốc mới, trị vì họ như vị Vua. Vì vậy, Chúa ngăn cấm môn đệ loan truyền danh của Người bây giờ, trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh.
Chúa muốn cho môn đệ hiểu biết về Người, ý thức về sứ mệnh Cứu Độ nhân loại của Người. Chính qua cuộc Tử nạn và Phục sinh mà Chúa Giêsu đã thực sự được nhận biết và tôn vinh là “Đấng Kitô của Thiên Chúa“( x. Pl 2, 6-11), vì Người đã thực thi trọn vẹn lời hứa cứu độ nhân loại của Chúa Cha. Nhờ hiểu biết và xác tín vào Người, vào sứ mệnh của Người, các môn đệ sẵn sàng theo Chúa cách vô vị lợi. Chúa cầu nguyện, chắc hẳn Người cầu cho môn sinh cảm nhận sâu xa về Người, để rồi cho dù có chứng kiến cái chết thê thảm của Chúa nhưng vững tin vì Chúa sẽ Phục sinh vinh hiển. Chúa mong các môn đệ không ảo giác khi theo Chúa sẽ được đổi đời, có quyền cao chức trọng, nhưng theo Chúa là để thay đổi đời sống, trở nên con Thiên Chúa và là chứng nhân của Chúa. Thế nên, muốn theo Chúa thì phải can đảm: “Từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.”(Lc 9, 23)
Khi đã xác tín vào Chúa và xác định mục đích đời mình, người môn đệ đặt cả định mệnh đời mình trong bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa. Bước đi trên con đường cứu độ của Đấng Kitô, đi vào trong cuộc sống, trong kinh nghiệm của Người để Biết người là ai cách cá nhân và sâu xa. Chia sẻ những thao thức của Người về nhân loại và dấn thân cho sứ mệnh như Người. Sẵn sàng vác thập giá với Người và liều mất mạng sống vì Người.
Hôm nay, ơn gọi và sứ mệnh của chúng ta vẫn được tiếp tục. Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta đã được mặc lấy Chúa Kitô, được mang danh Kitô hữu – là người theo Chúa, có Chúa và thuộc về Chúa Kitô. Căn tính Kitô hữu của chúng ta phải được khởi đi từ chính căn tính của Chúa Kitô và được tham dự sâu xa vào cuộc sống của Chúa. Sứ mệnh của Chúa cũng là sứ mệnh của ta. Con đường Chúa đã đi cũng là con đường ta bước theo.
Vậy để có thể trả lời cách cá nhân và xác tín câu Chúa hỏi “Anh em bảo Thầy là ai?”, ta cần tìm học về Chúa qua Kinh Thánh, siêng năng tham dự Thánh lễ, đón nhận các Bí tích và cầu nguyện, để tương quan của ta với Chúa thân tình và sâu xa hơn. Vì không thể hiểu biết Chúa nếu ta không gặp gỡ Người và học hỏi. Không thể yêu mến Chúa nếu ta không biết Người. Và để danh Chúa được tỏa sáng, chúng ta cần phải không ngừng dấn thân phục vụ, sống yêu thương vô vị lợi, kiến tạo một nền văn minh tình thương, một thế giới đậm tình huynh đệ. Chính qua cuộc sống của ta mà những người láng giềng sẽ nhận biết chúng ta là Kitô hữu, là con cái của Chúa Kitô và tôn vinh Chúa như lời Thánh Phêrô nhắn nhủ “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu khống, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa…”(1Pr 2,12)
Lạy Chúa Kitô – Đấng Cứu Độ trần gian, xin cho chúng con Biết Chúa và giúp chúng con sống chứng nhân, phản chiếu dung mạo và cuộc sống của chính Chúa cho con người và thế giới hôm nay. Amen.
.
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XII/TN-C – Lc 9, 18-24) trình thuật câu chuyện “Ông Phê-rô tuyên xưng đức tin”. Nói đến vấn đề tuyên xưng đức tin thì không thể quên những lời thư của Thánh Phao-lô gửi các giáo đoàn, bởi chính ngài đã được thử thách triệt để qua biến cố Đa-mat, từ một kẻ mắc bệnh “mù nội tâm” (mù quáng tin tưởng vào giáo huấn của các bậc thầy về Lề luật Do-thái, chuyên đi lùng giết các người theo Ki-tô) đã trở nên một tông đồ dân ngoại kiệt xuất rao giảng về Đấng Cứu Đô Giê-su Ki-tô. Thánh nhân đã để lại một gia tài to lớn là các thư gửi các giáo đoàn mà trong đó luôn nhấn mạnh đến vấn đề thiết thân của ngài cũng như của các tín hữu: Đó là vấn đề “Đức Tin”. Bài đọc 2 hôm nay (Gl 3, 26-29) là một minh họa:
Nếu chỉ đọc đoạn trích (Gl 3, 26-29) với câu mở đầu: “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô.” (Gl 3, 26), thì không thấy có vấn đề gì, nhưng nếu đọc đoạn văn ở trước đoạn trích (“Trước khi đức tin đến, chúng ta bị Lề Luật giam giữ, cho tới khi đức tin được mạc khải. Như thế Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin. Nhưng khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa.” – Gl 3, 23-25) sẽ nảy sinh vấn nạn: Chỉ có nhà tù mới có quản giáo (những người được giao nhiệm vụ giam giữ không để các phạm nhân trốn trại, đồng thời quản lý giáo dục tù nhân). Lề luật là quản giáo thì người tin (tín hữu) là tù nhân. Tù nhân bị quản giáo giam giữ thì còn đâu tự do để sống và thực hành đức tin. Có lẽ cũng vì thế nên Thánh Phao-lô còn nhấn mạnh: “Con người được nên công chính nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy.” (Gl 2, 16; Rm 3, 21-22). Như vậy thì chằng hóa ra Lề luật trói buộc đức tin sao?
Lề luật là những luật lệ thời Cựu Ước hướng dẫn dạy dỗ con người tin vào Đức Chúa, Không kể đến tất cả các Thánh thư, Thánh vịnh đều đề cập đến đức tin, chỉ cần lướt qua cuốn sách Luật điển hình (Đệ Nhị Luật) cũng đủ thấy biết bao điều Luật dạy phải thực hành (làm, hành động) thể hiện đức tin: “Đây là mệnh lệnh, là những thánh chỉ và quyết định mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã truyền phải dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành trong đất anh em sắp sang chiếm hữu. Như vậy anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ được sống lâu.” (Đnl 6, 1-2); “hỡi Ít-ra-en, phải kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, để anh (em) được hạnh phúc?” (Đnl 10, 12-13) “Hãy giữ tất cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. Ngày anh (em) sang qua sông Gio-đan vào đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), anh (em) sẽ dựng những tảng đá lớn, anh (em) sẽ viết trên tảng đá ấy mọi lời của Luật này; như vậy anh (em) sẽ được vào đất mà ĐỨC CHÚA đã hứa ban.” (Đnl 27, 1-3).
Luật lệ là như vậy, và vì thế những câu quả quyết mạnh mẽ của thánh Phao-lô về giá trị của đức tin đến nỗi loại trừ việc giữ Luật, đã gây ra sự băn khoăn cho độc giả. Tuy nhiên, đức tin mà thánh Phao-lô đề cập không chỉ giới hạn vào việc chấp nhận một chân lý trừu tượng, nhưng là một đức tin sống động, cố gắng càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô. Đức tin đòi hỏi những hành động diệt trừ tội lỗi và con người cũ, đồng thời để cho Thánh Linh hướng dẫn ngõ hầu phát sinh những hoa quả của đức ái (“Đức tin hành động nhờ đức ái” – Gl 5, 6). Vì thế nên sau khi nói “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy”, Thánh Phao-lô cũng khẳng định lập trường của mình: “Vậy có phải là chúng ta dựa vào đức tin mà huỷ bỏ Lề Luật chăng? Không phải thế! Trái lại, chúng ta củng cố Lề Luật.” (Rm 3, 27-31). Như vậy, ngài quả thật đã thấm nhiễm tận căn cơ mạc khải của Đấng đã chữa lành bệnh mù nội tâm cho mình. Vâng, chính Đức Giê-su đã dạy: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5, 17-19).
Hơn thế nữa, Thánh Phao-lô còn xác quyết: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ… Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” (Rm 10, 9-10); “Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ.” (1Tx 5, 8). “Tin thật trong lòng, xưng ra ngoài miệng, sống tiết độ, mặc áo giáp, đội mũ chiến”, đó phải chăng là những hành động thể hiện đức tin? Điều đó cho thấy lời khẳng định của thánh Phao-lô “con người được cứu độ nhờ đức tin, chớ không phải nhờ làm những gì Luật dạy” không có gì là mâu thuẫn, khó hiểu cả.
Trở lại với bài Tin Mừng trình thuật việc “Ông Phê-rô tuyên xưng đức tin” (Lc 9, 18-21). Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ 2 câu: “Dân chúng nói Thầy là ai?” và “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Nếu chỉ đọc sơ qua, sẽ nghĩ rằng đây chỉ là dịp Đức Giê-su muốn kiểm chứng lòng tin của các môn đệ; nhưng nếu suy nghĩ kỹ sẽ thấy là Người còn muốn đi sâu hơn, để coi lòng tin của các môn đệ là hoàn toàn do tự bản thân hay có bị tác động bởi dư luận không? Như vậy là hai câu hỏi của Đức Giê-su đã nhắm vào cả 2 mặt khách quan và chủ quan của các môn đệ. Về mặt khách quan, Người muốn biết các môn đệ đã nghe dân chúng (là những khách thể) nhận định về Người như thế nào và có ảnh hưởng gì tới các môn đệ hay không. Còn về mặt chủ quan, Người muốn biết chính các môn đệ (chủ thể) đã hiểu về Người như thế nào.
Tại sao lại phải cần như thế? Ấy cũng bởi vì Đức Giê-su Thiên Chúa dư biết lòng dạ con người rất dễ bị dao động bởi những ảnh hưởng ngoại tại. Đó là những dư luận mà tác nhân là những người cùng sống trong một cộng đồng xã hội. Dư luận là ý kiến nhận xét, khen chê của số đông đối với một nhân vật hay một sự việc nào đó. Nhìn chung, tác động của dư lụân rất mạnh, nhất là ở 2 luồng dư luận: khen và chê. Với bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su chẳng cần hỏi, Người cũng quá rõ các môn đệ với thân phận mỏng giòn yếu đuối của con người, chắc chắn không nhiều thì ít cũng bị ảnh hưởng từ bên ngoài, ấy là chưa kể bên trong còn chưa vững chắc. Ở đây, Người muốn các môn đệ khi nghe Thầy hỏi sẽ giật mình nhìn lại bản thân và có như thế mới hiểu rõ con người thật của mình, để từ đó có hướng khắc phục những yếu đuối và củng cố đức tin cho vững vàng.
Còn một điểm đáng lưu ý nữa là sau khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ và nhận được câu trả lời, thì ngay lập tức “Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai” (Lc 9, 21). Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này: Quả thật, muốn nói về Đức Ki-tô cho người khác, các môn đệ không những cần phải biết rõ Đấng mình muốn nói đến đích thực là ai, mà còn phải chia sẻ cả những cảm nghiệm đức tin của bản thân về Đấng ấy. Do đó, lời nghiêm cấm của Đức Giê-su cho thấy là hiện thời Phê-rô và các bạn Tông đồ chưa thực sự hiểu về Người, thì chưa thể rao giảng công trình cứu độ của Người. Lời tuyên xưng của Phê-rô tuy rất chính xác, nhưng đó mới chỉ là tuyên xưng ngoài miệng, còn trong lòng ngài vẫn chưa hết bán tín bán nghi. Một cách cụ thể thì lời tuyên xưng của Phê-rô mới chỉ là bằng con tim chớ chưa thật sự thông qua lý trí xác định niềm tin của mình. Và đó là lý do Đức Giê-su nghiêm cấm các Tông đồ không được nói với ai về vịêc này.
Cứ thử nghĩ kỹ mà xem, khi phải nói với ai điều mà trong lòng mình còn hồ nghi, thì liệu tác dụng có đem lại hiệu quả không? Lời dạy của Đức Giê-su: “Lòng có đầy miệng mới nói ra” (Lc 6, 43) cho thấy chỉ khi nào kho kiến thức của bản thân đầy đủ và chắc chắn thì lời nói ra mới có sức thuyết phục. Khi mà các môn đệ tuy có lòng yêu mến Thầy thực sự, nhưng vẫn chưa hiểu thấu đáo về Thầy một cách chính xác, thì nhiều khi lời nói của các ngài lại có tác dụng ngược (thay vì làm cho người ta yêu mến và chạy đến với Thầy, thì lại lảng xa, thậm chí chống đối lại). Thực tế đã chứng minh, chỉ đến ngày Lễ Ngũ Tuần, kiến thức, kinh nghiệm đã được trang bị đầy đủ, đồng thời còn được Thánh Thần gia tăng sức mạnh của đức tin và lòng can đảm, thì các Tông đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng và đem lại thành quả rực rỡ.
Sau khi đã giải thích Đấng Ki-tô là ai trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, Đức Giê-su đã thẳng thắn mời gọi: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23). Một lời mời gọi lạ lùng chưa từng thấy. Mời gọi người khác theo mình, thường thì phải cho họ thấy thoải mái, sung sướng và bản thân họ được hưởng những điều lợi, chớ ai lại đòi họ phải chấp nhận “từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Quả thật Lời dạy của Đức Ki-tô luôn hàm chứa những nghịch lý lạ lùng và khó hiểu, thật khó mà chấp nhận. Và cũng vì thế nên đám đông – kể ngay cả những thân nhân của Người – đều cho là “Người mất trí”; còn đám kinh sư Pha-ri-sêu thì lại nói rằng “Người bị quỷ ám” (Mc 3, 21-22). Ấy là chưa kể đến các môn đệ cũng đã có lần thốt lên “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (Ga 6, 60).
Nếu chưa thật sự thấu hiểu vấn đề tận căn, mà cứ liều mình đi loan báo những điều mà mình vẫn còn bán tín bán nghi như thế, thì hậu quả sẽ ra sao? Đức Ki-tô nghiêm cấm các môn đệ không được nói với ai cũng là vì thế. Tuy nhiên, cái gọi là nghịch lý chỉ xuất phát từ lý trí con người với sự bất toàn cố hữu, còn với Thiên Chúa thì “những điều không thể sẽ trở thành có thể” (Mt 19, 26). Quả thực không có cây thập giá, người ta sẽ không thể hiểu nổi Đức Giê-su là ai và theo Người có ý nghĩa gì. Trong một thế giới chứa đầy sự hận thù ghen ghét, luôn cổ xuý cho chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ, thì tình yêu và phục vụ là thập giá cho những ai sống vị tha. Đức Vua Tình Yêu Giê-su đến thế gian “không phải để được phục vụ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Vậy những kẻ muốn theo Người “phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23) là điều tất yếu vậy.
Lạy Chúa! Mang danh là Ki-tô hữu, là môn đệ và là bạn của Đức Giê-su, nhưng nhiều khi con chưa cảm nghiệm được Người là ai. Con chỉ được học, được nghe Giáo hội dạy: “Người là Đấng Cứu Độ trần gian”, và không ít lần con tuyên xưng mạnh mẽ rằng con tin điều đó. Tuy nhiên, con mới chỉ tin điều ấy như một kiến thức sách vở không ăn nhập gì đến đời sống thực tế của con. Cũng bởi vì bản thân con chưa một lần sống bằng, sống bởi, sống với Thập Giá Chúa Ki-tô. Cúi xin Chúa ban ơn và thêm sức cho con có được cảm nghiệm thực sự về sự hiện diện sống động của Đức Giê-su trong tâm hồn con, và thật lòng xác tín rằng Người chính là lẽ sống của con, ngõ hầu con có thể dấn thân cộng tác với Người trong công trình đem Chúa đến cho mọi người; để nhờ đó, con tìm được sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu.
Ôi! “Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, Chúa sẽ chẳng bỏ rơi bao giờ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật XI/TN-C).
.
ĐỂ NÊN MÔN ĐỆ THẬT SỰ CỦA ĐỨC GIÊSU
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG : Lc 9,18-24
(18) Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng : “Đám đông nói Thầy là ai ? (19) Các ông thưa : “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả. Nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, Kẻ khác lại cho là một trong các Ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. (20) Người lại hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô thưa : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. (21) Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. (22) Người bảo rằng : “Con Người phải chịu đau khổ nhiều. Bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ. Bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (23) Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. (24) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
- Ý CHÍNH :
Trong khi dân chúng tiếp tục quan niệm sai lầm về sứ mạng Cứu Thế và nhiều ngừơi đã bỏ Đức Giêsu, thì các môn đệ mà Phêrô là đại diện, lần đầu tiên đã công khai nhận Người là Đấng Kitô. Từ đây, Người sẽ thanh luyện lòng tin của Nhóm Mười Hai này. Sau đó, Đức Giêsu liền tiên báo về cuộc thương khó mà Người sắp phải trải qua. Người đòi những ai muốn đi theo Người phải chấp nhận đi con đường thập giá chật hẹp và leo dốc mà Người sắp phải trải qua.
- CHÚ THÍCH :
-C 18-20 : +Đức Giêsu cầu nguyện: Tin mừng Luca đã ghi nhận nhiều lần Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Chẳng hạn: Sau khi chịu phép rửa (3,21); sau khi đám đông lũ lượt tuôn đến nghe giảng và xin chữa bệnh (5,16); trước khi chọn mười hai Tông đồ (6,12); trước khi yêu cầu họ tuyên xưng đức tin (9,18); trước lúc biến hình (9,28); trước khi dạy kinh Lạy Cha (11,1), Đức Giêsu còn dạy cách thức cầu nguyện (18,1; 11,2.9); Người cầu cho Phêrô (22,32); Người cầu nguyện tại núi Ôliu (22,41-46) và trên thập giá (23,34-46). +Đám đông nói Thầy là ai? : Đức Giêsu thăm dò dư luận quần chúng về Người. Các ông lần lượt thuật lại những điều dân chúng phát biểu: Là Gioan tẩy giả tái sinh, là Êlia, là một Tiên tri thời xưa sống lại (x.Lc 4,18; 7,16; 24,19). +“Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”: Ba tác giả Tin mừng thuật lại lời tuyên xưng của Tông đồ Phêrô khác nhau. chẳng hạn: “Thầy là Đấng Kitô con Thiên Chúa hằng sống” (Mátthêu 16,16); “Thầy là Đấng Kitô” (Máccô 8,29); “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Luca 8,20). Riêng Luca vì viết Tin mừng cho tín hữu gốc Hy lạp, nên thấy cần phải xác định rõ từ ngữ Do thái Mêsia bằng từ Hy ngữ là Kitô (Christos), nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”.
-C 21-22 : +Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai : Môn đệ không được nói Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (Mêsia), vì sợ dân chúng hiểu sai vai trò của Người theo nghĩa là một Vua trần thế có sứ vụ chính trị là đánh đuổi đế quốc Rôma để giành độc lập cho đất nước. Phải đợi tới khi Đức Giêsu từ trong cõi chết sống lại, các môn đệ mới được công bố Người chính là Đấng Kitô (x Cv 2,36).+“Con Người phải chịu đau khổ nhiều…” : Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Người. Người sẽ bị kỳ mục, thượng tế và kinh sư là ba thành phần của Thượng Hội Đồng Do thái tại Giêrusalem xét xử (x Lc 22,66-71), rồi giải Người sang tòa Tổng trấn Philatô để yêu cầu ông này kết án tử hình thập giá cho Người (x. Lc 23,1-513-24).
-C 23-24 : +“Ai muốn theo tôi” : Theo sau Đức Giêsu nghĩa là trở thành môn đệ của Người. +“phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” : Cuộc đời của người môn đệ chân chính là phải noi gương Đức Giêsu để từ bỏ mình nghĩa là biết hy sinh quên mình. Rồi vác thập giá mình hằng ngày là đón nhận những đau khổ vất vả do cuộc sống đem lại, sẵn sàng vác thập giá là liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin mừng. +Muốn cứu mạng sống thì sẽ mất. còn liều mất mạng sống thì sẽ cứu được mạng sống mình : Đây là một điều nghịch lý! Những ai sống theo đam mê của xác thịt thì sẽ mất sự sống đời sau. Còn những ai muốn theo Chúa đến cùng, sẵn sàng chịu mọi thử thách, sẵn sàng chịu thiệt thòi mất mát, kể cả mất mạng sống mình ở đời này, thì sẽ được Chúa ban sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
- CÂU HỎI : 1) Tin mừng ghi nhận Đức Giêsu đã cầu nguyện khi nào ? 2) Các Tông đồ cho biết dư luận dân chúng nghĩ gì về Đức Giêsu ? 3) Tin mừng ghi lại lời tuyên xưng đức tin của Tông đồ Phêrô như thế nào ? 4) Tại sao Đức Giêsu cấm môn đệ nói cho dân chúng biết Người chính là Đức Kitô ? 5) Bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày để theo Đức Giêsu cụ thể là gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
- LỜI CHÚA : Người lại hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phêrô thưa: Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (lc 9,20).
- CÂU CHUYỆN :
1) VỀ KHUÔN MẶT BÍ ẨN CỦA ĐỨC GIÊSU :
Một họa sĩ nổi tiếng ngày nọ muốn vẽ chân dung của Đức Giêsu mà ông rất ngưỡng mộ. Tuy nhiên, ông không biết làm cách nào để diễn tả những nét đẹp của Người mà ông rất thích. Ông liền đi lang thang đó đây để tìm hình mẫu. Thoạt đầu, ông gặp một đứa bé đang tươi cười với dáng vẻ trong sạch ngây thơ. Ông đưa nét trong sạch ấy vào gương mặt của Chúa. Gặp một vị ẩn sĩ đang đăm chiêu cầu nguyện, ông cũng đưa nét thanh thoát vào trong gương mặt của Chúa. Thoáng thấy một bà mẹ trẻ đang âu yếm đứa con, ông cũng họa lại nét dịu dàng vào bức tranh… Nói chung, bất cứ vẻ đẹp nào trong cuộc sống mà ông nhìn thấy, ông đều cố gắng diễn đạt vào bức tranh, để phác lại chân dung thánh thiện tuyệt hảo của Đức Giêsu. Hoàn thành xong tác phẩm, ông vẫn cảm thấy như còn thiếu một điều gì đó. Cuối cùng, khi đang lang thang ngoài bìa rừng, ông gặp một con người bệnh cùi bị xã hội bỏ rơi. Ông này phải lấy khăn che mặt và lầm lũi lê bước giống như một bóng ma. Chàng họa sĩ chợt nghĩ, đây chính là nét độc đáo nơi khuôn mặt của Đức Giêsu, bởi vì Người luôn là một mầu nhiệm được ẩn dấu mà con người không thể hiểu thấu được. Chàng họa sĩ trở về nhà và vẽ phủ lên khuôn mặt Đức Giêsu một tấm khăn mỏng, giống như tấm khăn che mặt của người cùi mà ông đã gặp ven rừng. Gương mặt của Chúa Giêsu trông mờ mờ, lúc ẩn lúc hiện, để nói cho chúng ta biết rằng, Người vẫn luôn là một mầu nhiệm bí ẩn đối với con người trong thế giới hôm nay.
2) THẾ NÀO LÀ TỪ BỎ ? :
Một vị linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống tận đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Thế nhưng, dù chàng phải hì hụp suốt ngày ngoi lên lặn xuống để tìm kiếm, viên ngọc vẫn biệt tăm. Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác chỗ ngọc rơi xuống nước để tìm cho nhanh. Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai, ném nó xuống sông và nói : “Ta đã ném nó vào chỗ nầy đây. Anh hãy lặn xuống mà tìm.”
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học vỡ lòng mà vị linh sư muốn dạy là nếu anh muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết phải có là anh hãy sẵn sàng từ bỏ mọi của cải vật chất của mình. (Phỏng theo Cha Anthony de Mello).
3) THẬP GIÁ PHẢI VÁC HẰNG NGÀY CÓ THỂ CHÍNH LÀ NGƯỜI THÂN :
Vào chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh, theo thông lệ của giáo xứ, cha sở kêu gọi giáo dân: khi quí vị đến nhà thờ đi chặng đường thánh giá tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, mỗi người nên làm một cây thập giá bằng bất cứ vật liệu nào tượng trưng cho sự đau khổ trong cuộc đời mình đang phải chịu. Sau chặng đàng Thánh giá yêu cầu quí vị mang lên bàn thờ để tôi làm phép các cây thập giá đó. Bấy giờ mọi người dự lễ đều mang lên đủ loại thập giá to bé, dài ngắn làm bằng các vật liệu khác nhau. Một cụ ông cõng bà vợ bị liệt bước lên gần bàn thờ. Nghe cha sở hỏi: Thập giá của ông đâu? Ông liền chỉ ngay vào bà vợ bị liệt và nói : ”Thưa cha, đây chính là thập giá của con”. Cha sở cũng làm phép cho bà, rồi bảo ông : ”Bây giờ ông hãy ôm lấy cây thập giá này và hôn lên cây thập giá của ông đi”…
4) VỀ LÒNG YÊU MẾN CHÚA GIÊSU CỦA MỘT PHI HÀNH GIA NGƯỜI MỸ :
Vào ngày 20 tháng 07 năm 1969, NÊU AMTRONG (Neil Armstrong) trở thành phi hành gia người Mỹ đầu tiên đổ bộ lên mặt trăng. Tuy nhiên, lý do quan trọng giúp cho Amtrong thành công trong việc là người đầu tiên đổ bộ lên mặt trăng lại chính là Chúa Giêsu, Đấng đã ban sức mạnh và hướng dẫn Amtrong có quyết định sáng suốt ngay khi còn trong lứa tuổi thiếu niên.
Vào năm 15 tuổi, một hôm Amtrong cùng cha đi xe hơi ngang qua một phi trường nhỏ thuộc vùng Ôhaiô (ohio), thì đột nhiên cậu trông thấy một chiếc phi cơ trên cao đang chúi mũi lao xuống mặt đất. Cậu vội hét lên cho cha dừng xe lại và hai cha con lập tức chạy đến lôi chàng phi công trẻ ra khỏi máy bay có nguy cơ sắp nổ tung. Viên phi công là một sinh viên mới 20 tuổi đang trong thời kỳ tập lái máy bay. Trện đường đến bệnh viện, viên phi công đã chết trên tay của Amtrong. Đêm hôm ấy Amtrong không sao chợp mắt được. Đầu óc cậu vẫn còn bị khủng hoảng do cái chết đau thương của viên phi công. Chính Amtrong cũng đang đăng ký theo học lớp tập lái máy bay, nên không biết bây giờ cậu có còn đủ tinh thần để tiếp tục theo học nữa không. Hôm sau, mẹ của Amtrong vào phòng thăm tình hình của con trai. Thấy sổ nhật ký của cậu đang mở sẵn để trên bàn viết. Bà mẹ tò mò đọc và thấy trên trang đầu có mấy dòng chữ hoa: “Những đức tính của Chúa Giêsu”. Ở phía bên dưới, Amtrong đã liệt kê ra một số những đức tính của Chúa mà cậu cần phải học tập như sau : “Giêsu không phạm tội. Luôn sống khiêm nhường và có lòng thương xót những kẻ nghèo hèn. Người không ích kỷ và luôn kết hiệp với Chúa Cha”.
Thấy Amtrong có lòng đạo như vậy, hôm sau bà mẹ hỏi Amtrong : “Vậy con quyết định có học lái máy bay nữa thôi ? Cậu ta nhìn vào mắt mẹ và trả lời : “Thưa mẹ, con hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ tiếp tục học bay”.
- THẢO LUẬN : 1) Nếu Đức Giêsu thực là Đấng Cứu Thế quyền năng, thì tại sao hiện nay trên thế giới vẫn còn nhiều người đang chịu đau khổ, bệnh tật và bất công ? 2) Mỗi người chúng ta phải làm gì để góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, nơi không còn đau khổ bệnh tật chết chóc, ngay từ hôm nay ?
- SUY NIỆM :
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu sau một thời gian giảng đạo, đã muốn biết dư luận quần chúng về vai trò và sứ vụ của Người, khi hỏi các môn đệ : “Người ta bảo Con Người là ai ?” Các ông đã lần lượt kể ra các điều dân chúng nghĩ về Người như: Êlia, Giêrêmia… hay là một ngôn sứ nào đó. Sau đó Đức Giêsu muốn biết các môn đệ nghĩ gì về vai trò và sứ vụ của Người ? Ông Phêrô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Đức Giêsu đã khen đức tin của ông, nhưng ngay sau đó Người đã sửa lại quan niệm sai lạc của các môn đệ về một Đấng Thiên Sai trần tục bằng quan niệm về một Đấng Kitô cứu thế về tinh thần là “Qua đau khổ thập giá để vào vinh quang phục sinh” theo thánh ý Thiên Chúa. Người cũng yêu cầu những ai muốn làm môn đệ của Người phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Người” (x. Lc 9,18-24).
1) Người Do thái luôn mong đợi một Đấng “Mêsia” hay “Thiên Sai” trần thế :
Thời Đức Giêsu người Do Thái đang mong đợi một Đấng Thiên Sai (Mêsia) oai hùng đến để “chấn hưng mọi sự” (Dn 9,25-26), thiết lập một nước Do Thái cường thịnh, “thoát mọi áp bức của kẻ thù”. Do đó, dù đã nghe Gioan Tẩy Giả khẳng định Đức Giêsu Nadarét chính là Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,29-34), đã nghe Đức Giêsu sau khi đọc lời sấm ngôn Isaia về sứ vụ của Đấng Thiên Sai tại hội đường Nadarét và khẳng định : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21)… Nhưng do thành kiến về gia thế tầm thường của Đức Giêsu và đang ước mong một Đấng Thiên Sai trần tục… nên người Do thái đã không tin Người thực là Đấng “Thiên Sai”. Họ chỉ coi Ngài “là Gioan Tẩy Giả, hoặc Êlia, hay cùng lắm là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại!” như Tin Mừng hôm nay đã thuật lại dư luận dân chúng về Người (x. Lc 9,18-19). Về sau các đầu mục dân Do thái cho rằng Đức Giêsu chỉ là một kẻ lộng ngôn phạm thượng, phá bỏ Luật Môsê, đe sẽ phá hủy Đền Thờ Giêrusalem… Tóm lại chỉ là một Đấng Thiên Sai giả có nguy cơ dấy loạn, làm cớ cho quân Rôma kéo đến tiêu diệt… nên họ kết án Người phải chết tại tòa án tôn giáo của thượng tế Caipha: “Thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,50b). Rồi để thi hành án tử hình này, họ đã điệu Người sang tòa án của tổng trấn Philatô và xách động dân chúng làm áp lực đòi ông này phải kết án tử hình thập giá cho Người (x. Ga 19,6-7). Riêng các môn đệ của Đức Giêsu: Dù tin “Thầy là Đấng Kitô”, và ước mong Thầy sẽ thiết lập một “Vương Quốc Ítraen”, nên các ông đã không thể chấp nhận lời tiên báo Người sẽ đi lên Giêrusalem trải qua cuộc khổ nạn, chịu chết rồi mới sống lại trong vinh quang (x. Mt 20,18-19); Ông Phêrô đã “kéo Ngài riêng ra và ngăn cản…” (Mt 16,22). Rồi hai anh em Giacôbê và Gioan cũng xin Thầy cho “một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả trong Nước Người sắp lập (Mc 10,35-37). Thậm chí đến khi Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại, mà có ông còn hỏi “Có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương Quốc Ítrael chăng?” (Cv 1,6).
2) Đức Giêsu thực là Đấng Kitô như ý Thiên Chúa muốn :
Đức Kitô mà Thiên Chúa sai đến không phải là một vị vua cầm quân đánh đuổi quân Rôma, làm một cuộc cách mạng giải phóng Dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế Quốc, rồi ngồi trên ngựa chiến khải hoàn vào thành Giêrusalem, nhưng Người ngồi trên một con lừa hiền hòa, sẵn sàng “chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế và các kinh sư chối bỏ và giết chết; nhưng đến ngày thứ ba thì sẽ sống lại” (Mt 17,22-23). Người sẵn sàng đi con đường hẹp yêu thương phục vụ và hiến thân chịu chết, rồi phục sinh và lên trời mở đường lên trời cho nhân loại chúng ta. Như vậy, khi đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng không thể tìm kiếm vinh quang, sự giàu sang, sung sướng thuộc về đời tạm này, nhưng chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ chính mình, vác thập giá là các sự đau khổ trái ý gặp phải, sẵn sàng sống vị tha, khiêm nhường phục vụ… chấp nhận cùng chết với Chúa Giêsu để cùng được sống lại với Người.
3) Ngày nay đối với bạn: Đức Giêsu là ai ? :
Mỗi người chúng ta hãy nhìn vào lòng mình để nói lên cảm nghiệm của mình về Đức Giêsu. Có lẽ đối với đa số người giữ đạo truyền thống thì Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế quyền năng, biết rõ nhu cầu của chúng ta và sẵn sàng trợ giúp khi chúng ta kêu cầu. Đối với nhiều người khác: Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta lên trời. Người cũng là Thầy dạy sự thật về Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính tin. Người còn là sự sống lại và là sự sống, để ai tin vào Người và năng kết hiệp với Người qua việc rước lễ sẽ được tham phần vào sự sống đời đời với Người.
4) Con đường chúng ta đi theo Chúa hôm nay là gì ? :
Chúa phán dạy : “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”:
a- Ai muốn theo tôi : Đức Giêsu đưa ra lời mời gọi tất cả mọi người. Người muốn mời gọi mọi người theo làm môn đệ của Người và tôn trọng sự tự do theo hay không theo của họ.
b- Phải từ bỏ mình : Những ai chọn theo làm môn đệ Đức Giêsu thì điều kiện thứ nhất là phải từ bỏ mình, nghĩa là không nghĩ đến mình, không nhằm tìm lợi ích cho riêng mình, mà chỉ nghĩ đến Đấng mình chọn theo, để nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu và hy sinh tự do để theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu trong Tin Mừng.
c- Vác thập giá mình mà theo : Đau khổ thập giá lúc đầu chính là hình phạt do tội (x. St 3,16-19), nhưng nay nhờ Đức Giêsu đã chịu khổ nạn vác cây thập giá để đền tội loài người chúng ta, nên thập giá đã trở nên thánh giá mang lại ơn cứu độ cho chúng ta.
5) Cụ thể mỗi người chúng ta phải làm gì để nên môn đệ đích thực của Chúa ? :
Dấu hiệu môn đệ thực sự của Đức Giêsu là sống yêu thương nhau, cụ thể là yêu thương những người bên cạnh mình như lời Chúa dạy : “Ở điểm này , mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Mỗi ngày chúng ta cần xét mình trước khi đi nghỉ đêm : “Hôm nay tôi đã chứng tỏ mình là môn đệ thực sự của Chúa Giêsu như thế nào ? Tôi có sẵn sàng vác thập giá là chu tòan việc bổn phận hằng ngày để đi theo Người hay không ? Tôi có quyết tâm từ bỏ “cái tôi ích kỷ” để tập lối “sống vị tha bác ái” theo lời Chúa dạy không ? Tôi có nhìn thấy Chúa đang hiện thân nơi những người bệnh tật đau khổ để quảng đại chia sẻ cơm áo và khiêm tốn phục vụ họ như phục vụ chính Chúa hay không ? Tôi có sẵn sàng hy sinh thời giờ tiền bạc để chu toàn sứ vụ loan báo Tin mừng Nước Trời, và sống bác ái yêu thương để làm chứng cho tình yêu vô biên của Chúa Giêsu trước mặt người đời hay không ?
- LỜI NGUYỆN:
– LẠY CHÚA GIÊSU. Hôm nay, Chúa cũng hỏi chúng con về lòng tin đối với Chúa và về tình liên đới đối với tha nhân. Chúa đòi chúng con phải xác tín đức tin của mình. Chúa mời chúng con phải đi con đường hẹp, leo dốc, là luôn quên mình, chấp nhận vượt qua mọi đau khổ và thua thiệt gặp phải trong cuộc sống để bước đi theo Chúa như ông Simon Kyrênê trên đường thánh giá khi xưa.
– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết tin yêu phó thác cậy trông vào tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết từ bỏ ý riêng để tìm kiếm thánh ý Chúa trong Thánh Kinh, qua các bậc bề trên trong đạo ngòai đời, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của chúng con… Xin giúp chúng con vui lòng đón nhận tất cả, vì biết rằng đó chính là thánh ý Chúa muốn chúng con trải qua để nên giống Chúa và được hưởng hạnh phúc đời sau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.