Lời Chúa Năm A Các bài suy niệm Chúa Nhật 12 Thường niên _A

Các bài suy niệm Chúa Nhật 12 Thường niên _A

CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN, NĂM A

 Lời Chúa: Gr 20, 10-13;  Rm 5, 12- 15;  Mt 10,26-33

——— 

 

Mục lục

 

  1. Hãy Vững Tin (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Đừng sợ!  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  3. Biết sợ  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
  4.  Muôn ngàn nỗi sợ hãi  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
  5.  “Đừng sợ”  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  6. Suy niệm Chúa Nhật 12 thường niên. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)
  7. Hãy tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
  8. Can đảm, trung thành  (Tu sĩ Jox. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
  9.  Nỗi lòng  (Trầm Thiên Thu)
  10. Cứ nói đi, đừng sợ!  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  11. Không còn sợ hãi vì có Chúa chở che  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
  12. Sợ Đấng có thể … tiêu diệt (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
  13. Đừng sợ-   (Lm. Trần Việt Hùng)
  14. Trách nhiệm  (Lm. Vũ Đình Tường)
  15. Hãy nói giữa ban ngày (JM. Lam Thy, ĐVD)
  16. Anh em đừng sợ  (Fx. Đỗ Công Minh)
  17. Sống niềm tin (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  18. Đừng sợ!  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  19. Tuyên xưng Chúa Giêsu  (P.Trần Đình Phan Tiến)
  20. Can đảm làm chứng cho Chúa  (Lm. Đan Vinh)
  21. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 12 TN_A  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

HÃY VỮNG TIN

Tuần 12 TN-A: Mt 10, 26-33

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Theo quy luật tự nhiên, tất cả những ai biết nói là nhờ biết nghe, những ai sống đúng sống đẹp, là nhờ được chăm sóc, đầu tư, là nhờ hiểu được giá trị thật của tình yêu. Khi có thực, có lực, có tâm có đức, không ai có thể cản trở bạn tiến tới đích thành công, không thế lực nào khiến bạn phải chùn bước tiến, dù từng phút từng giây bạn đang phải chiến đấu. Câu nói vu vơ: làm sao tôi biết bạn ngứa chỗ nào mà gãi ? Nghe có vẻ hợp lý, thực ra: tình yêu thương, nghĩa cử bác ái, phải xuất phát từ trái tim nhạy cảm trước sự tự do, hoàn toàn không phải là thụ động, không phải là con khóc mới “cho bú”, ai cầu cứu van xin, mới bố thí ! Đồng ý rằng: kẻ có tiền, cũng có quyền, trai tài giỏi, có quyền sánh duyên cùng phụ nữ xinh đẹp, nồi nào úp vung nấy; nhưng trên hết, mọi người đều bình đẳng trước phẩm giá cao quý của mình.

Tại hành trình trần thế, muôn vàn thách đố, Đức Giêsu gián tiếp nói: hãy làm gì để có sự tự tin, làm gì để quên “cái sợ”, các môn đệ và chúng ta hẳn đã nghe, đã được đánh động, mỗi người sẽ sống niềm tín thác đó thế nào ? Đức Giêsu cũng cho thấy sứ vụ người môn đệ, trọng trách người kitô hữu: “nghe nơi bóng tối, phải nói ra ánh sáng, nghe rỉ tai phải nói công khai cho mọi người”. Sống có trách nhiệm, sống có tình có lý, sống để không thẹn với trời đất: tốt danh hơn lành áo, con người tự nhiên phải nghiêm túc với bản thân, sống chuẩn mực để không mất danh thơm tiếng tốt. Lời Chúa, ơn Chúa, tình yêu của Chúa, bao giờ cũng đẹp, do đó kẻ nhận lãnh, phải chia sẻ, phải sống niềm tin. “Các con đừng sợ”, vẫn mãi là lời trấn an cần thiết trong đời sống người theo Chúa, dù là tội nhân, dù là đang lầm đường sai lối.

Hãy vững tin, “các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Khi lưu ý đừng sợ những thế lực trần gian, Đức Giêsu còn khích lệ hãy vững tin vào tình yêu và quyền năng của Đấng thấu biết vạn vật: chim trời, hoa huệ ngoài đồng, sợi tóc trên đầu. Thiên Chúa biết sự giới hạn, biết cả những nhu cầu của từng người: dù niềm tin của ta còn yếu kém, tình yêu của ta còn nhỏ hẹp, ích kỷ, tâm hồn của ta chưa đủ quảng đại, Đức Giêsu vẫn hiện diện đồng hành giúp ta. Xã hội cho rằng: thứ đắt giá hơn vàng hay kim cương chính là niềm tin, vì những thứ khác, tiền có thể mua được, còn niềm tin thì không ! Hãy vững tin: giầu nghèo, ốm đau khoẻ mạnh, khôn hay khờ, đều có cơ hội để minh chứng niềm tin vào Đấng ta tin thờ, con người được nên công chính là vì tin, chứ không phải vì làm những điều luật dạy (Rm 3, 28).

Hãy vững tin, đời người được đo bằng tư tưởng và hành động chứ không phải bằng thời gian, vì thế: một người có niềm tin, bằng 99 người không có hứng thú với hoàn cảnh sống của mình. Hãy vững tin, “tóc trên đầu các con cũng được đếm cả rồi, các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”. Có ơn ban của Chúa, có tình yêu và sức mạnh của Chúa, ta sẽ thấy sự biến đổi kỳ diệu, hầu biết mở miệng tuyên xưng niềm tin vào Chúa cách trọn vẹn hơn. Dấu chứng tình yêu của người môn đệ, của người kitô hữu không phải chỉ là nghe, mà còn là hiểu, là sống giáo huấn của Đấng là Thầy là Chúa bằng hành động cụ thể nhất. Tình yêu khởi đầu bằng niềm tin, trưởng thành và vững chắc hơn cũng từ niềm tin, cho dẫu tự do hành động mỗi người mỗi khác.

Người ta có kể hai chú mèo được chủ thương, lúc nào cũng quấn quýt, meo meo, bên chủ, ấy vậy chúng vẫn cảm thấy còn thiếu thiếu cái gì đó ! Dù nhàn rỗi, và được chủ thương, hai chú mèo cũng chưa thấy hạnh phúc ! Rồi một hôm, hai chú mèo tâm sự và có ý tìm cách cải thiện nhằm giúp cuộc sống có ý nghĩa hơn. Rồi chúng đã biết nói chuyện và đùa giỡn với mấy bạn chó. Hai chú mèo đã nghiệm ra tất cả đều đáng thương, dù là chó, là mèo, chúng đều có sứ mạng riêng với chủ. Chó trông coi nhà, mèo thì xua đuổi đám chuột. Cuộc đời thật đáng yêu, đừng để chuỗi ngày buồn tẻ, khiến bạn cảm thấy bi quan về một cuộc sống tồi tệ. Điều quan trọng là hướng ta đi tới đích thành công, chứ không phải vị trí ta đang đứng.

Biết người biết ta muôn đời không khổ, biết mỗi chúng ta đều đáng thương hơn đáng trách, bổn phận mỗi người là giúp nhau sống tốt sứ vụ của mình hơn là ngồi đó ganh tỵ. Hãy vững tin, Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng xót thương, khi cuộc đời ta là tháng tháng ngày ngày có sự mật thiết nên một tình yêu. Hãy vững tin, như đứa trẻ được bao bọc bởi tình yêu của cha mẹ, nhờ đó được lớn khôn, được trưởng thành, được có cơ hội phát huy tình yêu mến. Người kitô hữu được bao bọc bởi tình yêu thương của Chúa, hiệp nhất nơi giáo hội, tất cả chỉ sống động khi niềm tin được minh chứng. Hãy vững tin, mỗi ngày qua đi dù ta chưa đạt tới đỉnh cao của thành công, thì ít ra ta cũng đã gần hơn vị trí của ngày hôm trước. Xin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, tiếp tục hiện diện yêu thương, dẫn dắt con đi trong đường lối của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ĐỪNG SỢ!

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Cuộc sống xung quanh chúng ta có biết bao nỗi sợ. Từ trong nhà ra ngoài phố, chúng ta có thể gặp nguy hiểm bất kỳ lúc nào. Ngoài những nỗi lo cơm áo gạo tiền, con người còn phải lo sợ trước sự bon chen, mưu mô, thủ đoạn của người đời. Trước những lo sợ bủa vây tứ phía, người ta đối phó bằng nhiều cách khác nhau: có những người buông xuôi phó mặc cho dòng đời trôi dạt, hoặc thỏa hiệp với sự dữ, làm điều bất chính. Có những người can đảm vững tâm, vượt thắng mọi sợ hãi, thanh thoát giữa đời. Người tín hữu chúng ta được Chúa Giêsu trấn an khích lệ: “Đừng sợ!”.

Ông Bà ta thường nói: “Cây ngay không sợ chết đứng”. Điều này có nghĩa là chúng ta cứ sống theo sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát và minh oan cho chúng ta. Một cuộc sống gian dối, bao che sẽ đến lúc phơi bày ra ánh sáng. Ngôn sứ Giêrêmia là một người công chính, nhưng ông bị bách hại, đe dọa và vu khống đủ điều. Những kẻ thù ghét ông đã gọi ông là “Lão tứ phía kinh hoàng”. Tuy vậy, ông vẫn một lòng cậy trông vào Chúa. Ông tin rằng, Chúa sẽ phù trợ ông. Ngài cũng sẽ minh oan cho ông, vì ông sống ngay thẳng. Bài đọc I là lời cầu nguyện của ngôn sứ Giêrêmia trong cơn bách hại. Đó cũng là lời khuyên những ai sống công chính mà bị ghen ghét, hãy cậy trông vào Chúa và hãy sống ngay lành trong bất kỳ hoàn cảnh nào. “Đức Chúa hằng ở bên con, như một trang chiến sĩ oai hùng…”.  Thiên Chúa là Đấng phán xét công minh. Ngài thấu hiểu lòng dạ con người. Ngài thương xót và cứu vớt những ai sống ngay lành thánh thiện. Những ai cậy trông Chúa, Ngài chẳng bỏ rơi bao giờ.

Chúa Giêsu tiếp nối giáo huấn của Cựu ước. Người khuyên chúng ta đừng sợ những người chỉ giết được thân xác mà không giết được tâm hồn. Chúa nhắc chúng ta, “hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Tuy vậy, sự “sợ hãi” này không giống như sợ hãi trước sự đe dọa khủng bố hoặc bách hại. Sự sợ hãi mà chúng ta dành cho Chúa đi kèm với sự “kính mến”, nên chúng ta còn gọi đó là sự “kính sợ”. Sự kính sợ này không làm cho chúng ta xa cách Chúa, trái lại, giúp chúng ta vững chí cậy tin. Vì vậy, liền sau đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời phó thác trọn vẹn cuộc sống của chúng ta nơi Ngài, để Ngài dẫn dắt và che chở chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Hai hình ảnh được Chúa Giêsu nêu để chứng minh sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, đó là con chim sẻ và sợi tóc trên đầu. Những vật xem ra là tầm thường và vô giá trị, mà cũng được Chúa quan tâm. Con người chúng ta đáng giá bội phần, vì mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa, có ý chí, tự do và trách nhiệm về những hành vi cử chỉ của mình.

Sự kính sợ Chúa còn dẫn chúng ta đến việc mạnh dạn tuyên xưng đức tin nơi Ngài. Người tín hữu là người tuyên xưng đức tin trong mọi lãnh vực, mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Việc mạnh mẽ can đảm tuyên xưng đức tin như một điều kiện “nhân – quả” cho hạnh phúc đời sau. Bởi lẽ, nếu chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, thì chính Người sẽ “bảo lãnh” cho chúng ta trước tòa Chúa Cha. Thánh Phaolô quảng diễn điều này khi so sánh Đức Giêsu với ông Ađam. Do ông Ađam mà sự chết thống trị. Nhờ Đức Kitô mà thế gian được sống. Đức Kitô là nguồn ân sủng dồi dào của Thiên Chúa. Những ai đón nhận Người, thì được ngụp lặn trong nguồn ân sủng phong phú đó. Nhờ đó, họ không còn sợ hãi, nhưng vững lòng cậy tin (Bài đọc II).

Giữa bao nỗi sợ của cuộc sống hằng ngày, người tín hữu sẽ tìm được nơi ẩn náu nhờ sự phó thác cậy trông vào Chúa. Nhờ ơn nâng đỡ của Ngài, chúng ta không còn sợ hãi. Nhờ phúc lành của Chúa, những lo lắng ưu sầu của cuộc sống sẽ biến thành niềm vui và hy vọng. Thực tế đã chứng minh cho chúng ta, người tin tưởng vào Chúa luôn lạc quan, vì họ xác tín rằng Chúa luôn đồng hành với họ trên mọi nẻo đường. Khi khích lệ chúng ta: Đừng sợ! Chúa cũng sai chúng ta lên đường để kể lại những điều lạ lùng Chúa đã và đang làm cho mỗi chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ góp phần giảm thiểu những nỗi sợ hãi đang ám ảnh nhiều người trong cuộc đời.

Sống ngay lành và thánh thiện; vững vàng phó thác và cậy trông nơi Chúa quan phòng, đó chính là thông điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn gửi đến chúng ta.

“Quyền lực có hai dạng: một sinh ra từ nỗi sợ hãi bị trừng phạt, và một sinh ra từ những hành động yêu thương. Quyền lực dựa trên tình yêu hàng nghìn lần hiệu quả và lâu dài hơn quyền lực dựa trên sợ hãi” (Mahatma Gandhi).

Về mục lục

.

BIẾT SỢ

Tgm. Ngô Quang Kiệt

  1. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 10, 26-33
  2. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu. Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì. Coi mạng sống nhẹ như tơ. Lên xe là phóng như bay. Liều lĩnh thường thiệt mạng. Nhút nhát quá đâm hỏng việc. Một đàng bất cập, một đàng thái quá. Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ. Vấn đề là phải biết phân định. Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ. Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.

Trước hết, Người dạy ta biết phân định giá trị. Sự sống là quí giá ta phải trân trọng. Mất sự sống là mất tất cả. Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ. Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn. Có sự sống đời này nhưng không có sự sống đời sau. Sự sống đời này là chóng qua. Sự sống đời sau vĩnh cửu. Sự sống thân xác mau tàn. Sự sống linh hồn bất diệt. Ta phải yêu quí cả hai sự sống. Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí, vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.

Người cũng dạy ta phân định thời cơ. Thời cơ chỉ đến một lần. Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời. Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa. Hiện nay, Lời Chúabị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết. Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa. Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ. Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết. Bấy giờ cơ hội sẽ hết. Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa. Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa. Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.

Và sau cùng là phân định nguyên lý. Thiên Chúa là chủ mọi loài. Thiên Chúa nắm quyền sinh tử. Thiên Chúa an bài mọi sự. Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực. Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên Chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.

Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.

Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự. Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn. Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả cuộc đời sau.

Biết sợ mất linh hồn. Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng cho con người. Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên Chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Mất linh hồn là mất tất cả. Như Chúa Giêsu vẫn nhắc nhở: “Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì?”.

Biết sợ lỡ thời cơ. Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống. Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời. Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc. Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.

Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài. Ta sẽ không sợ hình khổ hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.

Nói không sợ cũng không đúng hẳn. Đau đớn khổ cực ai mà không sợ. Nhưng như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe doạ, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên Chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.

III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU

1) Bạn đã từng bị những nỗi sợ nào đè nặng. Những nỗi sợ đó có chính đáng không?

2) Sống đạo là chấp nhận thiệt thòi. Bạn có dám chấp nhận thiệt thòi vì Chúa không?

3) Muốn trung thành với Chúa, bạn làm cách nào để tránh được những nỗi sợ do người đời đem đến?

Về mục lục

.

MUÔN NGÀN NỖI SỢ HÃI

 Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Nói về sợ, chúng ta có muôn vàn nỗi sợ: sợ bệnh tật, sợ già nua, sợ chết chóc. Sợ tai họa, sợ chiến tranh, sợ nghèo đói.  Sợ bóng tối, sợ khổ đau, sợ ngu dốt v.v…  Danh sách các nỗi sợ của chúng ta còn rất dài, nhưng xem xét kỹ đa số đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, nó không có thật, nó chưa xảy ra, và rất nhiều khi chẳng bao giờ xảy ra.  Có lẽ Chúa Giêsu cũng thấy trước các nỗi sợ sẽ ám ảnh các tông đồ nên Ngài đã lập đi lập lại điệp từ “anh em đừng sợ”.

“Anh em đừng sợ” phải làm chứng cho sự thật. Sự thật cần phải được tỏ lộ. Tin mừng cần phải được công bố. Không lên tiếng cho sự thật là đồng lõa với gian dối xảo quyệt. Không làm chứng cho tin mừng là thỏa hiệp với thế gian và ma quỷ.

“Anh em đừng sợ” thế gian, vì nó chỉ giết được thân xác chứ đâu giết được linh hồn. Có chăng là anh em hãy sợ Đấng có thể hủy diệt cả hồn và xác trong hỏa ngục.

“Anh em đừng sợ” mà hãy sống lạc quan trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài sẽ gìn giữ và canh chừng chúng ta khỏi mọi sự dữ đang rình rập chung quanh cuộc đời chúng ta. Vì ngay cả đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.  Vậy anh em đừng sợ, anh em còn qúy giá hơn muôn vàn chim sẻ ngòai đồng” (Mt10,30-31)

Như vậy, nếu chúng ta vẫn còn sợ nghĩa là đức tin chúng ta còn yếu kém. Chúng ta còn sợ nghĩa là chúng ta chưa tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể làm ra mọi sự thì Ngài cũng có đủ sự khôn ngoan, sức mạnh để hướng dẫn mọi sự theo ý của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy mạnh dạn phó thác đường đời cho Chúa. Chính Người sẽ hướng dẫn và bảo vệ cuộc đời chúng ta trong tình yêu quan phòng của Ngài.

Có một anh sĩ quan trẻ. Một hôm anh đi du lịch bằng đường thủy với vợ con. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, còn anh thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ anh trách là anh không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Anh không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Anh dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu cô vợ tái mặt, nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa.

– Viên sĩ quan nói: Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em? 

– Bà vợ đáp: Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương mến em! 

– Anh chồng đáp: Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này, khi anh biết rằng nó ở trong tay của cha anh là người hằng yêu mến anh?

Cuộc đời luôn có những hiểm nguy, những khó khăn khiến chúng ta luôn lo sợ, bất an. Nhưng tin tưởng vào sự quan phòng đầy tình thương của Thiên Chúa, chúng ta hãy tin rằng ngài sẽ dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời, Ngài sẽ bồng ẵm chúng ta qua những hiểm nguy. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những việc tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Vì mạng sống chúng ta thật quý giá hơn so với vạn vật mà Ngài đã tạo dựng nên. 

Vậy, Nếu chúng ta tin rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta. Hãy gạt ra ngoài mọi nỗi sợ hãi. Hãy can đảm sống cho Chúa. Sống làm chứng cho Chúa và luôn tin tưởng phó thác cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Và cũng trong đức tin đó, chúng ta sẽ vượt thắng được mọi nghi nan, sợ hãi và để tâm hồn mình luôn bình an, hạnh phúc trước mọi gian nguy. 

Lậy Chúa, Chúa đã chăm sóc từng con chim trên trời và đếm từng sợi tóc trên đầu chúng con. Xin gìn giữ, chở che cuộc đời chúng con trong bàn tay quan phòng của Chúa luôn mãi. Amen.

Về mục lục

.

“ĐỪNG SỢ”

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trên đời này có rất nhiều cái sợ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết.Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và con người dù muốn dù không vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấy rõ điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu cho thấy con đường theo Chúa là gian khổ,là vất vả, nhưng vượt thắng khó khăn thử thách thì mới đạt được vinh quang. “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo “. Con đường theo Chúa là con đường chông gai, thử thách, khó khăn. Lướt thắng những nghịch cảnh, những khó khăn thử thách, con người mới tới được vinh quang nhờ niềm tin và hy vọng “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ( Ga 14, 18 ).

Trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ ba điểm.

– Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy.

– Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 

– Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh .hồn. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. 

Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Gioan Phaolô II không ngừng lặp lại với cả Giáo Hội và cả thế giới rằng “Đừng sợ!”.

Sống trong thời nhiễu nhương, có nhiều biến động tại Ba Lan và Đông Âu; cuộc đời nếm trải bao nhiêu thăng trầm dâu bể để có thể sống, học hành, rồi làm chủng sinh, linh mục, giám mục, hồng y và giáo hoàng; Đức Gioan Phaolô II trải nghiệm qua những thách thức của nghịch cảnh, của khổ đau. Lập lại lời Chúa Giêsu, Ngài muốn nói lên tinh thần bất khuất, hiên ngang để trung thành với giáo lý Chúa Kitô, bảo vệ kỷ cương của Giáo Hội.

Đức Bênêđictô XVI tiếp nối đường hướng Đức Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi giáo hoàng, ngài đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước”. Lý do để “tiến lên” là bởi có Chúa ở cùng. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”.

Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13-3-2013, Ngài đã là cho nhiều người phải ngạc nhiên vì những hành động và các lời phát biểu của Ngài như là vị cha chung hiền lành và khiêm nhường. Nhiều lần ngài cũng dùng kiểu nói “đừng sợ”. “Rao giảng Tin Mừng là đích thân làm chứng về tình yêu Thiên Chúa, là vượt thắng sự ích kỷ của chúng ta, là phục vụ bằng cách cúi mình xuống rửa chân cho anh em chúng ta như Chúa Giêsu đã làm…Các con hãy ra đi, không sợ hãi, để phục vụ. Khi sống theo 3 điều này, các con sẽ cảm nghiệm được rằng người rao giảng Tin Mừng thì cũng được trở nên Tin Mừng. Ai thông truyền niềm vui đức tin, thì cũng nhận được niềm vui…Mang Tin Mừng là mang sức mạnh của Thiên Chúa để nhổ bỏ và phá hủy sự ác và bạo lực; để phá tan và đạp đổ những hàng rào ích kỷ, không bao dung và oán thù. Để kiến tạo một thế giới mới, Chúa Giêsu Kitô hy vọng nơi các bạn!..Đức tin hay đức cậy hoặc đức mến dĩ nhiên phải lấy Chúa Kitô làm trung tâm. Điều này đồng nghĩa với giáo huấn “Hãy mặc lấy Đức Kitô”, đặt niềm tin nơi Người, chứ không ở nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực.”

Nội dung lời phát biểu của các nhà lãnh đạo lớn của Giáo Hội chính là lời của đức tin và là lời của hy vọng.

Tin yêu và hy vọng sẽ lướt thắng mọi sợ hãi. Chúa Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên “đừng sợ”.

  1. Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta

Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục”; “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”.

Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, luôn tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình. Người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.

Đức tin giúp con người nhận ra rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Chúa Giêsu khuyên : “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ dại ngờ nhất.

2. Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.

Con người – nhất là người Kitô hữu – là “con cái Thiên Chúa” (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên “giống như Ngài” (St 1,26), “theo hình ảnh của Ngài” (1,26.27), được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). “Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng“, thế mà “không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa“. Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, con người quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ“, đến nỗi “tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi“!

Tình yêu giải phóng con người khỏi sợ hãi. Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga 4,18). Tình yêu giúp chúng ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của chúng ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm.

Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà biết bao người dám chấp nhận tất cả cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che. Chúa Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Con người quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); và “Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi” (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.

  1. Tin yêu và hy vọng

Trước nguy hiểm và thử thách, ai mà không sợ hãi. Chỉ có tin yêu và hy vọng mới giúp chúng ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12). Gian truân vẫn có thể xảy ra nhưng niềm hy vọng sẽ giúp chúng ta trung thành với Thiên Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22); “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17); “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). (NCK).

Nhờ tin yêu và hy vọng nên không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Kitô, dù cho đó là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8, 35-39).Chính tình yêu Thiên Chúa cuốn hút con tim và làm cho người môn đệ “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ”, sống tương quan thiết thân với Người trong mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài với các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”(Lc 9,22).

Ngài cũng báo cho các môn đệ và những người đi theo Ngài biết rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23); “Trò không  hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,23-24); “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16)… Nhìn lại lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy những lời loan báo của Đức Giêsu đã hoàn toàn ứng nghiệm. Chính Đức Giêsu đã bị bắt, chịu khổ hình, chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá. Các Tông đồ cũng đồng số phận với Đức Giêsu, đã chịu chết tử vì đạo (trừ Thánh Gioan). Giáo hội sơ khai bị bách hại liên tục 300 năm. Giáo hội Việt Nam cũng vậy. Và hằng ngày đây đó trên thế giới người kitô hữu vẫn bị bách hại. Tại Ba Lan, Giáo hội vừa phong thánh cho linh mục Jerzy Popiełuszko, người bị mật vụ cộng sản giết năm 1984. Gần đây, Đức Giám Mục Jean Marie Benoît Bala, giám mục Bafia, Camerun bị sát hại một cách dã man trước khi xác Ngài bị quăng xuống sông.  Lý do các Ngài chịu đau khổ, chịu chết là vì các Ngài rao giảng chân lý, rao giảng Tin mừng.

Bài đọc I hôm nay, trích sách tiên tri Giê-rê-mi-a, cũng cho chúng ta biết: Vì rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa cho dân và vì thẳn thắng cảnh cáo dân về tội lỗi của họ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt, mà tiên tri Giê-rê-mi-a đã bị dân chúng hãm hại. Nhưng Thiên Chúa luôn ở bên cạnh ông “như người lính chiến hùng dũng” (x. Gr 20,11). Nhờ thế, ông tin tưởng cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa. Đặc biệt, ông can đảm tiếp tục sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho ông. 

Cũng thế, sỡ dĩ các Tông đồ và các thành phần trong giáo hội qua mọi thời đại vẫn can đảm chấp nhận đau khổ, tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng chính là nhờ vào sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, đi liền với những lời loan báo đau khổ, Đức Giêsu cũng thường trấn an các môn đệ bằng những lời lẽ hết sức thuyết phục như: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì:  thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Chúa Cha nói trong anh em” (Mt 10,19-20); “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12); “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10,22); “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Đặc biệt bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ “đừng sợ” những người bách hại các con.   

Tại sao Đức Giêsu bảo các môn đệ đừng sợ? 

Lý do thứ nhất Ngài bảo đừng sợ: “Vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”(Mt 10,26-27). Ý Đức Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng: dù bị bách hại, giết chết thì cuối cùng sự thật cũng sẽ thắng “sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32). Biết bao nhiêu Kitô hữu đã bị giết chết vì Chúa, vì Tin mừng, vì sự thật…nhưng cuối cùng cũng được lịch sử ghi nhận, Giáo hội suy tôn. Vì thế, chúng ta đừng sợ khi phải dấn thân rao giảng Tin mừng, đừng sợ khi phải tranh đấu, đừng sợ khi phải lên tiếng đòi công lý cho người bị áp bực, lên án sự bất công. 

Lý do thứ hai Ngài bảo đừng sợ: “Vì họ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn”(Mt 10,28). Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy, lời khẳng định này của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực. Bởi vì biết bao nhiêu thời kỳ bách hại đạo đã qua, biết bao nhiêu chế độ bách hại đạo không còn, biết bao nhiêu người giết các kitô hữu đã chết. Thế mà Giáo hội vẫn tồn tại và phát triển. Giáo phụ Tertuliên nói rằng: “Máu của các vị tử đạo là hạt giống sinh ra nhiều kitô hữu.” Và đa số những người bị giết chết trong các cuộc bách hại đó đã được Giáo hội tôn vinh. Con số các vị tử đạo trong Giáo hội, trong đó Việt Nam chúng ta có 118 vị cho chúng ta thấy điều đó. 

Lý do thứ ba Ngài bảo đừng sợ: Vì “các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”(Mt 10,31). Ý Đức Giêsu muốn các môn đệ và mỗi người chúng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đưa ra ví dụ về con chim sẻ và sợi tóc trên đầu, mặc dầu không đáng giá gì nhưng vẫn được Thiên Chúa quan phòng chăm sóc giữ gìn: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 29-31). 

Không những Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta “đừng sợ” mà chính Giáo hội cũng luôn mời gọi chúng ta “đừng sợ” trước những bách hại, bắt bớ của những người ghét đạo, trước những bất công của xã hội, trước những bạo lực của cường quyền. Giáo hội còn mời gọi chúng ta hãy can đảm đi ngược lại với các trào lưu, các tệ nạn của xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi giới trẻ rằng: “Các con đừng sợ đi ngược dòng đời, khi mà các giá trị bày ra cho chúng ta là những giá trị xấu muốn cướp đi hy vọng của chúng ta.” Đi ngược dòng đời, tức là khước từ các nhu cầu ích kỷ, gọt bỏ các thói hư tật xấu…làm được như thế cũng đồng nghĩa với sống đạo hằng ngày, mà “sống đạo cũng cam go không khác gì chết vì đạo.” 

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không sợ bất cứ ai hay bất cứ điều gì. Trong cuộc sống có những cái sợ đến từ bản tính tự nhiên như sợ đói, sợ khát, sợ bệnh tật, sợ tai nạn, sợ chết, sợ ma…Những cái sợ này có thể không bao giờ đến. Còn trong đời sống đức tin, có một điều đáng sợ nhất đó là sợ phải sa hỏa ngục. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng: “Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục”(x. Mt 10,28). Thật vậy, không sợ Chúa khi chúng ta biết tuyên xưng Ngài: “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Đó là những khi chúng ta xưng mình là kitô hữu trước mặt mọi người bằng cả lời nói và cách sống. Đó là khi chúng ta sống đúng với giáo huấn của Tin mừng. Đó là khi chúng ta thà chết chứ không phạm tội, thà chết chứ không chối Chúa, không bước qua thập giá. Đó là khi người đời nhận ra chúng ta là người của Chúa của Giáo hội. 

Còn chúng ta sợ Chúa khi cố tình từ chối Chúa trước mặt người đời: “Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33). Đó là khi chúng ta chối từ bản chất kitô hữu của mình như: không dám làm dấu thánh giá vì sợ người khác đạo, không sống đúng với giáo huấn của Tin mừng. Đó là khi chúng ta từ chối làm chứng cho Chúa cho Giáo hội… 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa để trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng con vẫn không sợ, nhưng can đảm tuyên xưng và làm chứng cho Chúa. Amen.

Về mục lục

.

HÃY TIN VÀO SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Sống trong một thế giới có nhiều thay đổi, biến động như hôm nay, nhiều người hầu như đánh mất niềm tin, không còn tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa nữa, do đó, họ cố gắng giải quyết mọi sự cố, mọi công việc theo sức riêng của mình. Tuy nhiên, con người có giới hạn, có những sự việc, có những sự cố con người không thể tự mình giải quyết được…Bởi vì, Chúa đã nói :” Không có Ta các con không thể làm gì được “. Lời Chúa trong Tin Mừng của Thánh Matthêu hôm nay không chỉ dành riêng cho mười hai tông đồ, nhưng Chúa căn dặn tất cả mọi người chúng ta phải sống tín thác, phải hoàn toàn đặt trong bàn tay quan phòng của Chúa. Có Chúa chúng ta sẽ không lo âu, hồi hộp, sợ sệt :” Người ta sẽ nộp các con trước quan tòa, nơi đó tòa án  sẽ xét xử, lúc ấy các con đừng lo, chính Thánh Thần Chúa sẽ soi dẫn các con “. Thánh Matthêu kết thúc đoạn Tin Mừng này xem ra dễ nhưng không dễ chút nào :” Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ở trên Trời.Ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời “.

Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ hãy can đảm loan truyền lời Chúa và giới thiệu Đức Kitô cho nhiều người. Vâng lệnh Chúa truyền dạy, các tông đồ đã đi khắp nơi loan báo, công bố Tin Mừng không dấu diếm bất cứ điều gì. Tất cả những gì các Ngài đã thấy, đã nghe, đã học được nơi Chúa Giêsu, các Ngài đều loan truyền cách công khai, mạnh mẽ và hết sức dạn dĩ.Các Ngài luôn tín thác, tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, đặt hoàn toàn vào sự quan phòng của Chúa. Đi đâu, và ở bất cứ nơi nào, các tông đồ cũng loan truyền lời Chúa, dạy cho người ta biết Chúa là ai, Tin Mừng là gì và Giáo lý của Chúa giúp ta những gì? Người môn đệ của Chúa phải luôn mạnh mẽ bởi vì có Chúa ơ với họ, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn và tác động, ban sức mạnh cho họ.Lời rao giảng của môn đệ  Chúa phải trung thực, phải chân chính, có thì nói có, không thì nói không. Các môn đệ phải nói về Đức Kitô Phục Sinh, làm chứng cho Ngài và chỉ cho mọi người Chúa đã chết, đã sống lại vì yêu con người, yêu nhân loại. Các môn đệ, các tông đồ của Chúa ở khắp nơi, vào mọi thời kỳ đều đã phải hy sinh nhiều. Có những nơi người ta lắng nghe lời rao giảng và tin theo, nhưng có những nơi người ta ghen ghét, hận thù và tìm cách làm hại. Gương của các thánh tử đạo ở trong Giáo Hội đã minh chứng điều đó. Ngay thời kỳ các tông đồ, hầu hết tất cả đều bị người ta ghét bỏ, hãm hại và giết chết. Tuy nhiên, máu của các tử đạo đã đổ ra để làm cho Giáo Hội vững chắc. Phêrô và các bạn của Ngài đều anh dũng, hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật, cho những điều các Ngài đã thấy, đã nghe vv…Máu của các Ngài đã đổ ra để xây dựng Giáo Hội vững mạnh. Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, máu của nhiều tín hữu tiếp tục đổ ra để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh, làm chứng cho Giáo Hội duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Mặc dầu, máu của nhiều tín hữu hay của hàng Giáo phẩm vẫn còn tiếp tục đổ ra, nhưng tất cả đều hạnh phúc, không hận trù, không trả ân báo oán, tất cả đều vui vì các Ngài đã chết vì Sự Thật, vì Tin Mừng.

Vâng, sở dĩ bài Tin Mừng hôm nay nói lên sự thật ấy, vì Tin Mừng cho hay số phận của những người theo Chúa là bị ghét bỏ. Họ bị hận thù, ghen ghét vì chính đời sống của họ, của con người họ đã được máu Chúa Giêsu nhuộm đỏ và như thế, họ khác người khác, họ đã được máu Chúa Giêsu biến đổi : cuộc sống thánh thiện, đạo đức, liêm chính, ngay thẳng, trung thực của họ  vv…đã làm cho người khác ghét bỏ, nhưng Chúa nói đừng sợ, hãy tin tưởng, phó thác, tín thác vào Chúa và sẵn sàng làm chứng cho Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được can đảm, luôn biết tín thác vào Chúa vì tin rằng mọi việc chúng con làm: lời nói, hành động, cử chỉ dù âm thầm, nhỏ bé vẫn có giá trị trước mặt Chúa. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con không bao giờ sợ hãi làm chứng cho Chúa trong cuộc sống của chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 

1.Tại sao Chúa nói đừng sợ ?

2.Các thánh tử đạo đã nói lên gì ?

3.Những công việc âm thầm của chúng ta thật lòng có giúp gì cho Giáo Hội, cho anh em chúng ta không ?

4.Tại sao sư thần Gabriel lại nói với Đức Mẹ :” Đừng sợ “ ?

5.Ông bà anh chị em phải làm gì để không sợ ?

Về mục lục

.

CAN ĐẢM, TRUNG THÀNH

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong giây phút đầu tiên đăng quang ngôi Giáo Hoàng, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại lời hiệu triệu và có âm hưởng mạnh trên toàn thế giới, ngài nói: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Kitô”. Lời mời gọi này được gợi hứng từ chính lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe: “Vậy anh em đừng sợ người ta […] Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” ( Mt 10, 26. 28 ).         

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách. Ngược lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đón nhận mọi hiểm nguy và ngay cả cái chết khi loan báo Tin Mừng Nước Chúa.

  1. Đừng sợ!

Trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy có nhắc tới 365 từ ngữ “đừng sợ”. Như vậy, hàm ý cho thấy rằng: trong một năm với 365 ngày, tương ứng với 365 từ ngữ “đừng sợ”, tức là con người ngày nào cũng phải đối diện với sự sợ hãi. Vì thế, lời trấn an “đừng sợ” của Đức Giêsu chính là lời làm cho người môn đệ được an ủi trước những sợ hãi, thử thách, đau khổ trong cuộc đời.

Trang Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu tiên báo trước cho các môn đệ về những đau khổ và hệ lụy xảy đến khi các ông loan báo Tin Mừng: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10, 28).

Đi thêm một bước nữa, như một lời đảm bảo, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ biết trước những công khó của các ông sẽ không bị rơi vào quên lãng, ngược lại sẽ được Thiên Chúa ghi dấu và thưởng công xứng đáng, Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”(Mt 10, 29).

Tuy nhiên, như một điều kiện cần và đủ, đó là: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 10, 32-33).

Khi nói như thế, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang của các Tông đồ và tất cả những ai tiếp bước trên con đường sứ vụ ấy.

  1. Đặc tính của người môn đệ

Khi tiếp nhận lệnh truyền của Đức Giêsu về sứ vụ truyền giáo, Giáo Hội đã xác định rất rõ bản chất của mình, đó là truyền giáo. Vì vậy, là Kitô hữu, chúng ta không có lý do gì để khước từ sứ mạng cao quý này.

Tuy nhiên, nếu đã cùng một sứ vụ với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng cùng chung số phận với Thầy của mình. Nếu Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang, thì người môn đệ cũng không có con đường nào khác nếu muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi hoàn cảnh.

Nếu đường của Thầy là đường của trò. Số phận của Thầy cũng là của trò. Và nếu Đức Giêsu trước kia đi đến đâu cũng có một số người ủng hộ; một số người dửng dưng; và một số người quyết giết chết Ngài cho bằng được, thì đến lượt chúng ta, con đường êm xuôi, bằng phẳng, nhưng lụa, hoa hồng chắn chắn là qua xa lạ. Ngược lại, thử thách, đau khổ, xỉ nhục, bắt bớ và giết chết lại là điều chắc chắn sẽ đến với những ai đi trên con đường ấy, bởi vì: “Trò không  hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).

Đứng trước những hệ lụy đó, để được thành công với sứ vụ, người môn đệ cần có những đặc tính sau: 

 –      Trước tiên là dấn thân:

Nếu vì sợ mà không dám dấn thân thì chưa phải là môn đệ. Đã là môn đệ thì phải dấn thân, mà dấn thân đồng nghĩa với cái chết.

Người đời thường nói: “Nếu sợ mà không dám vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con”; hay “ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”  (Nguyễn Bá Học).

Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu chính là phải vượt ra khỏi sự an toàn, bảo đảm cho bản thân, để: “Như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Nên chúng ta chấp nhận ngay cả khi bị tổn thương, bắt bớ, tù đầy và cái chết, để miễn sao Tin Mừng được loan báo.

  • Thứ đến là không sợ hãi

Chúng ta cũng đọc thấy đây đó những câu chuyện nói về sự gương kiên trì hay vượt khó của các vĩ nhân. Có những người chấp nhận ngay cả cái chết để bảo vệ quan điểm, lý tưởng và lẽ sống của mình.

Cũng vậy, người môn đệ của Thầy Giêsu khi đã chọn Ngài làm chân lý, sự thật, lẽ sống và cùng đích cho cuộc đời, thì lẽ đương nhiên, chúng ta phải đánh đổi và chấp nhận mọi sự, để bảo vệ và đạt được mục đích ấy.

Cảm nghiệm về vấn đề này, Giáo Phụ Tertullianô đã viết như sau:

“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. Câu :”Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình.  Hèn gì mà trên pháp trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.  

– Cuối cùng là biết cậy trông vào Chúa 

Thật là mầu nhiệm! Nếu bình thường, bản tính con người ai cũng rất sợ đau khổ và chết chóc, thế nhưng tại sao những môn đệ của Đức Giêsu lại vững tâm, can trường và liều mạng đến như vậy? Thưa đơn giản, đó là vì các ngài đã “Tín thác đường đời cho Chúa và tin tưởng vào Ngài” bởi vì:“Ơn ta đủ cho con” (2 Cr 12,9); và “ hằng ở với con” (Gr 1,10) “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 26,20).

Chính bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến sự an bài quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời của người môn đệ nếu biết cậy trông, phó thác nơi Chúa, Ngài nói: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30) .

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, dấn thân lên đường thi hành sứ vụ đến với muôn dân. Hãy đón nhận mọi thử thách gian khổ trong cuộc đời như một điều kiện cần để đạt được sự sống đời đời. Luôn biết phó thác và cậy trông nơi Chúa, vì chẳng lẽ chúng ta xin Chúa con cá mà Ngài lại cho con rắn, hay xin bánh lại cho đá? Không đời nào! Cũng vậy, những lúc nguy biến và khổ đau, Ngài thường vác chúng ta trên vai; hay trước những thử thách, bất trắc, thất bại trong cuộc đời, chúng ta luôn nhớ rằng: Chúa đóng của chính thì Ngài sẽ mở ra cho chúng ta cửa sổ; Chúa đóng đường chính, Ngài sẽ mở đường phụ, và biết đâu, cửa sổ hay đường phụ lại tốt đẹp hơn và an toàn hơn cho chúng ta???

Tin tưởng điều đó, chúng ta hãy can đảm làm chứng cho Chúa, nhất là trung thành với sự thật như lời Ngài đã phán: “Anh em đừng sợ người ta[…].  Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27).

Như vậy, không thể vì bất cứ mối lợi gì mà đánh đổi sự thật. Mất đi sự thật, ấy là chúng ta mất đi căn tính, bởi sự thật thuộc về Thiên Chúa, còn gian dối thuộc về ma quỷ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con trung thành với sứ vụ và đón nhận mọi thử thách đau thương trong cuộc đời. Amen.

Về mục lục

.

NỖI LÒNG

Trầm Thiên Thu

“Đừng sợ chi cả!” (St 15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21; Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 41:10; Is 41:13; Is 43:1; Is 43:13; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13;Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18). Đó là một mệnh lệnh của Thiên Chúa – đơn giản và ngắn gọn, nhưng không dễ thể hiện, đồng thời là lời Ngài động viên mỗi chúng ta. Và đó cũng là nỗi lòng không của riêng ai!

Trong ca khúc “Hát Nữa Đi Em” (Thanh Sơn – Phố Thu) có một thực tế đơn giản mà thâm thúy: “Đời ai không có những tâm sự buồn?”. Dạng câu “phủ định nghi vấn” được sử dụng để làm mạnh nghĩa cách nói xác định, nghĩa là ai cũng có những nỗi lòng thầm kín “không biết tỏ cùng ai”. Chắc chắn nhứ thế! Chỉ có Thiên Chúa biết, bởi vì Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6), và vì vậy, chúng ta đừng ngần ngại tâm sự với Ngài về khúc nhôi của riêng mình.

Trình thuật Gr 20:10-13 nói về tâm sự của ngôn sứ Giêrêmia. Ông bộc bạch: “Con nghe biết bao người vu cáo: ‘Kìa, lão Tứ-Phía-Kinh-Hoàng!, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’. Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: “Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó!”. Ông Giêrêmia bị người ta ghét và đặt cho một nickname là “Tứ Phía Kinh Hoàng”. Cái lên nghe rất “kêu”, và nó cho thấy rằng thiên hạ ghét ông đữ lắm!

Tuy vậy, ông vẫn tin tưởng: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên”. Cây ngay không sợ chết đứng. Có ít xít ra nhiều, thậm chí người ta còn đặt điều, bịa chuyện để hại người khác. Có những người không ngại miệng “dựng đứng” câu chuyện gì đó, đúng là giết người không cần dao, cái lưỡi thật đáng sợ!

Với bản tính nhân loại, thấy mình bị người ta xa lánh thì ai cũng cảm thấy buồn, nhưng phải cố gắng vượt qua tất cả để có thể vẫn mãi là chính mình, và không thù hận kẻ đã ghét bỏ mình. Ông Giêrêmia cũng có cảm giác như vậy, nhưng ông đã chiến thắng và thành tín cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”. Giữ được niềm tin khi mọi người ủng hộ mình là điều không khó, nhưng giữ được niềm tin khi người khác ghen ghét mình là điều không dễ chút nào.

Với tâm trạng đau khổ, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Âu cũng vì Ngài, mà con bị người đời thoá mạ, chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày. Anh em nhà kể con như người dưng nước lã, hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi. Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân. Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu” (Tv 69:8-10). Độc ác bị hành, hiền lành bị ghét. Chẳng làm sao vừa lòng hết mọi người. Đời là thế! Chấp nhận thực tế đó để lòng mình thanh thản.

Hãy noi gương Thánh Vịnh gia tâm sự với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ” (Tv 69:14). Đừng lo sợ chi, bởi vì tất cả không ngoài ý Chúa: “Chính Người đánh phạt rồi lại xót thương, đẩy xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm, rồi kéo ra khỏi đại họa tiêu vong, chẳng có chi thoát khỏi tay Người” (Tb 13:2).

Thánh Vịnh gia tiếp tục cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến” (Tv 69:17). Ai cũng là tội nhân nên luôn cần được tha thứ. Cứ kiên tâm cầu nguyện, Chúa vẫn lắng nghe, vẫn biết nỗi lòng của chúng ta, Ngài chưa ra tay vì “giờ Ngài chưa đến” đó thôi. Sự thật mãi mãi là sự thật, không thể khác hơn, bởi vì Thiên Chúa là chân lý, là nguồn sự thật: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm. Ca tụng Chúa đi, hỡi trời cao đất thấp, hỡi biển sâu cùng hải vật muôn vàn!” (Tv 69:33-35).

Thánh Phaolô đưa ra hai hình ảnh tương phản: Ông Ađam và Đức Kitô Giêsu – một vị gieo mầm tội, một vị diệt gốc tội. Hai hình ảnh tương phản nhưng vẫn cùng một tổng thể, như đầu mở và đầu khép của vòng tròn. Thật kỳ lạ, Tội Nguyên Tổ được Giáo Hội gọi là “Tội Hồng Phúc” (Felix Culpa – Happy Fault) khi công bố Tin Mừng Phục Sinh (Exultet).

Thánh Phaolô giải thích: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới” (Rm 5:12-14). Vì sai lầm mà sinh ra luật. Luật như dây cương cần thiết để kiềm chế con ngựa chứng. Tất cả chúng ta đều là những con ngựa bất kham đối với Thiên Chúa, cần phải được đóng hàm thiếc và cột dây cương trên đường đua về đích là Nước Trời.

Thánh Phaolô giải thích thêm: “Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5:15). Vẫn là hai hình ảnh tương phản – một bên sa ngã và phải chết, một bên giải thoát và cứu sinh.

Kiếp phàm nhân là những chuỗi giằng co giữa thiện và ác, lành và dữ, yêu và ghét, tội và phúc,… Sự giằng co đó liên tục xảy ra mọi nơi và mọi lúc, phải can đảm và mạnh mẽ mới khả dĩ vượt qua chính mình. Đó là nỗi niềm chung của chúng ta, những người mặc xác phàm trong cuộc lữ hành trần gian này. Không hề đơn giản, nghĩa là vô cùng nhiêu khê, vì thế mà chúng ta luôn phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn để chúng ta chiến thắng mọi mưu ma chước quỷ – trước tiên là phải chiến thắng chính mình, vì chính mình là nội gián nguy hiểm nhất. Đúng như tiền nhân dạy: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Mọi thứ phải bắt đầu từ chính mình.

Cả trình thuật Mt 10:26-33 (tương đương Lc 12:2-9) là lời động viên của Chúa Giêsu, Ngài khuyến khích chúng ta can đảm nói sự thật và nói công khai, nghĩa là không sợ chi cả. Trong đó, Ngài đưa ra ba cái “đừng” và muốn chúng ta phải cố gắng thực hiện.

Cái “đừng” thứ nhất: “Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.

Cây kim để trong bọc lâu ngày còn bị lòi ra kia mà. Thế thì chắc chắn chẳng có gì giấu nổi, mọi bí mật sẽ được bật mí – bằng cách này hay cách nọ. Thẳng thắn thì chẳng làm gì phải sợ ai, chỉ những ai “cong queo” thì mới lén lút vì sợ người khác biết. Không sợ người ta nên mới dám ăn to nói lớn, nói công khai, nói rõ ràng, nói huỵch toẹt. Có sao nói vậy là thượng sách, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).

Cái “đừng” thứ nhì: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.

Chúa Giêsu bảo “đừng sợ” những kẻ không đáng sợ, mà hãy sợ Đấng đáng sợ. Ngài giải thích rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, so sánh thú vị. Con chim bé nhỏ có đáng chi mà Ngài còn lo cho nó sống thoải mái thì lẽ nào Ngài lại làm ngơ chúng ta, những người được tạo dựng giống hình ảnh Ngài (x. St 1:26-27) chứ? Sợi tóc mong manh còn được Ngài đếm rạch ròi trên đầu mỗi người kia mà! Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta tin tưởng và phó thác, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quan phòng và tiền định mọi sự.

Cái “đừng” thứ ba: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.

Gọi là cái “đừng” thứ ba nhưng không thấy chữ “đừng”. Theo ý thì chúng ta thấy Chúa Giêsu bảo “đừng” chối Ngài. Ai không sợ thì mới không chối Ngài – tức là tuyên xưng Ngài, còn ai sợ thì chối ngay. Không hẳn là nói thẳng rằng “tôi không tin”, nhưng qua động thái có thể chứng tỏ sự chối bỏ Ngài.

Ai hèn nhát mà chối bỏ Thiên Chúa sẽ bị chết thêm lần thứ hai: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai” (Kh 21:8). Đó là hồ lửa được mệnh danh là “cái chết thứ hai”, nơi dành cho Tử thần và những người không có tên trong Sổ Trường Sinh (x. Kh 20:14-15).

Nỗi lòng của tín nhân luôn được Thiên Chúa lắng nghe và thấu hiểu, còn nỗi lòng của kẻ bất tín thì bị lãng quên mãi mãi!

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Ngài thấu suốt nỗi lòng của con, dẫu con ngồi hay đứng, con cười hay khóc. Xin thương cứu con thoát khỏi mọi mưu ma chước quỷ, dù đêm hay ngày. Xin hướng lòng con lên tới Ngài, mọi nơi và mọi lúc. Ngài tri thức siêu phàm, con không thể hiểu nổi, nhưng xin Ngài giúp con biết đón nhận mọi thứ theo Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CỨ NÓI ĐI, ĐỪNG SỢ!

Bông Hồng Nhỏ

– Mẹ ơi! Con không đi học đâu.

– Sao vậy con yêu? Con sợ cô giáo phạt.

Từ thuở bé, chúng ta đã có những nõi sợ. Nỗi sợ hãi khiến cho chúng ta không dám làm điều  này, điều kia. Lớn lên, chúng ta có nhiều cái để sợ hơn.

Hôm nay, Đức Giêsu  quả quyết với các môn đệ: “Anh em đừng sợ người ta”(Mt 10, 26). Theo Thầy, chắc hẳn người môn đệ không tránh khỏi sự bách hại của những kẻ chống đối Thầy. Thầy là ánh sáng thế gian nhưng thế gian lại chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Điều Thầy đã dạy cho các môn đệ phải chăng là một bí mật cần được giấu kín? Điều Thầy đã dạy, người môn đệ cần phải rao giảng cho mọi người được biết. Thầy dạy mọi điều trong cuộc sống, là yêu thương, tha thứ,… Đi trong ánh sáng, người môn đệ công khai sống và làm chứng cho Thầy: “Điều Thầy nói cho anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều an hem nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”(Mt 10, 27). Thế nhưng để sống và làm chứng cho Thầy không phải là điều dễ dàng. Tại sao vậy?

Theo Thầy là để được nên giống như Thầy, đống hình đồng dạng với Thầy. Vì, “trò không hơn Thầy” (Mt 10, 24). Thầy Giêsu hiểu rõ nỗi sợ của các môn đệ. Sợ bị bách hại, sợ bị đổ máu. Ngay lúc này, các ông theo Thầy Giêsu  đó, đầy nhiệt huyết và yêu mến thế nhưng các ông vẫn mang trong mình con người thế gian. Các ông vẫn ham danh vọng, kỳ vọng về một tương lai xán lạn, một ngày Thầy sẽ giải phóng dân tộc. Ngày ấy, các ông sẽ được vinh danh. Thầy khẳng khái tuyên bố: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được  linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hòn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10, 28).Thế gian có thể bách hại người môn đệ nhưng không thể lấy đi sự sống đời đời mà thiên Chúa hứa ban. Chỉ có một điều cần phải sợ. Hãy sợ điều này: làm cho Chúa buồn. Đối với Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những người con. Đến cả chim trời, Thiên Chúa còn yêu thương thì chúng ta là con cái trong nhà thì Thiên Chúa mãi là Cha yêu thương. Vậy nên đừng sợ gì cả. Thiên Chúa sẽ dẫn ta đi và Thánh Thần sẽ dạy ta phải nói gì, làm gì. Lời Thầy vẫn mời gọi mỗi chúng ta mỗi ngày. Để sống và rao giảng lời Chúa, chúng ta cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

Lạy Chúa! Xin cho chúng con can đảm sống lời Chúa. Chúa không thua lòng quảng đại của chúng con. Xin cho con biết quảng đại hơn với Chúa và tha nhân.

Về mục lục

.

KHÔNG CÒN SỢ HÃI VÌ CÓ CHÚA CHỞ CHE

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Có người mù nọ dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ bắc ngang con sông nhỏ. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh vớ được cây tre bắc cầu. Thế là anh nắm chặt cây tre đó bằng cả hai tay và toàn thân anh được treo lơ lửng mà không rơi xuống nước, nhờ níu vào cây tre này.. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức, vì hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân.

Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bõm xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.   

Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay trên những mỏm đá lởm chởm giữa dòng sông và phải tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá… Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.

Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: “Đừng sợ! Ta đang ở trong mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà.”

Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.

Cuối cùng, kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.

Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ dâng cao ngang đầu gối, thấp hơn cây tre bắc cầu chừng 3 mét thôi! Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng phải chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.  

Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.  

Có người đang khoẻ thì sợ những chứng bệnh nan y có thể xảy đến trong nay mai; người đang có việc làm hẳn hoi thì sợ có ngày mất việc và túng thiếu; người đang còn trẻ thì sợ khi già yếu không ai phụng dưỡng chăm sóc; người đang yên ổn sống trong tiện nghi thì sợ mai đây khi thất cơ lỡ vận, không còn được thoải mái như hiện giờ…

Thế là con người tự tạo ra vô vàn nỗi sợ rồi để cho chúng đe doạ và khủng bố đời mình. 

Chính vì nỗi sợ gây nên nhiều bất hạnh cho con người như thế, nên qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su ba lần nhắn nhủ chúng ta đừng sợ vì có Chúa chăm sóc giữ gìn; nếu chúng ta có ngã, có rơi thì cũng chỉ ngã, chỉ rơi vào trong bàn tay êm ái của Ngài.

“Anh em đừng sợ người đời…” (Mat-thêu 10, 26)

“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn (Mat-thêu 10, 28).

“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10, 29-31).

Thế nhưng, như người mù ngu xuẩn kia không tin vào những lời trấn an của những người qua lại, chúng ta cũng không hoàn toàn tin vào lời Chúa, chúng ta vẫn cứ sợ, cứ lo và cứ để cho bao nỗi sợ đe doạ, khủng bố chúng ta suốt đời.

Lạy Thiên Chúa từ nhân,

Xin cho chúng con tin rằng Chúa là Đấng quyền năng và là Cha giàu lòng thương xót, hằng che chở gìn giữ và giúp chúng con vượt qua tất cả phong ba bão táp trên đường đời.

Xin cho con vững tin rằng dù chúng con có vấp ngã và rơi xuống, thì luôn có bàn tay Chúa đỡ lấy chúng con. Và mai đây, khi phải từ giã đời nầy, chúng con sẽ không phải rơi vào cõi hư vô tăm tối nhưng là rơi vào lòng bàn tay nhân ái của Chúa mà thôi.

Về mục lục

.

SỢ ĐẤNG CÓ THỂ … TIÊU DIỆT

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty 

Chúng ta là những kẻ hay sợ sệt, mà Đức Giê-su thì biết rất rõ điều đó. Trong cuộc sống, ai trong chúng ta mà không từng trải qua những giây phút sợ hãi, còn nguyên nhân của các nỗi sợ đó thì nhiều vô kể; trong số đó, nỗi sợ ám ảnh ta nhất chính là: bị coi thường, bị đánh giá thấp, bị chê bai hoặc bị loại bỏ. Hầu như tất cả mọi hành vi, mọi sinh hoạt của ta đều bị chi phối bởi điều này: người ta sẽ đánh giá tôi thế nào đây? Trong một chừng mực nào đó nỗi sợ này là tích cực, bởi vì nó tập cho ta ý thức tự trọng; tuy nhiên rất thường khi nó lại là rào cản không cho phép ta sống tự do và thoải mái, vươn lên và rộng mở.

Để giải quyết vấn đề lớn và phổ thông này, Tin Mừng hôm nay trao vào tay chúng ta chìa khóa của lời giải đáp.

Trước hết Lời Chúa cống hiến cho ta một giải pháp hợp lý những mang tính tiêu cực. Nếu sợ hãi là điều thực sự không thể tránh, thì ta cần xác định chủ thể đe dọa mình là ai cái đã; nếu mối đe dọa tới từ người phàm thì sợ hãi đó cũng chỉ là tương đối thôi! Có một thời, nhất là trong một xã hội định canh định cư, khi mà mỗi cá nhân đều sống trong một môi trường khép kín (sau lũy tre làng), thì sự đánh giá của bà con chòm xóm là cả một mối bận tâm lớn; ‘ăn mặc như thế, nói năng như thế thì người ta sẽ đánh giá mình thế nào đây?’ Ngày nay, khi mà nhiều người sống và làm việc trong một xã hội luôn chuyển động, thì sự kiểm tỏa này hầu như bắt đầu sụp đổ; giữa những người xa lạ, họ thấy mình ít bị kiểm tỏa hơn, không mấy ai quan tâm tới cách ăn mặc, nói năng của mình…, do đó họ ít giữ gìn hơn trong lời ăn tiếng nói, sống tự do thoải mái hơn, thâm chí có khuynh hướng buông thả. Dầu thế nào đi nữa thì nỗi sợ xã hội “sợ những kẻ giết thân xác” này chắc chắn sẽ ngày càng suy yếu; và đó chính là thời điểm thuận lợi để ta xây dựng cho mình một nỗi sợ mới, căn cơ và vững chãi hơn; “anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.

Tuy nhiên đó mới là thay đổi đối tượng sợ hãi của ta, và làm cho nỗi sợ trường kỳ của chúng ta đánh trúng mục tiêu hơn mà thôi! Tin Mừng không chỉ cống hiến có thế, nó phải có khả năng phá tan mọi nỗi sợ hãi to nhỏ trong ta, vượt xa nỗi sự của dân chúng trong thời Cựu Ước. Tin Mừng cho ta nhận ra giá trị rất đặc sắc và trường tồn của mình mà không ai có thể cướp mất được, kể cả khi ta đáng bị người đời nguyền rủa và lên án. Khả năng này trước hết hệ tại ở việc hiểu biết chính xác về chính “Đấng có thể tiêu diệt” là ai, qua lăng kính của Thập Giá.

Đấng ‘có thể tiêu diệt’ đó khi đánh giá tôi thì Người sẽ đánh giá như thế nào; nếu người đời thường khi tỏ ra rất khắt khe xét nét, bắt bẻ từng li từng tí, thì Đấng đó sẽ xét tôi ra sao; đó quả là một vấn nạn nghiêm trọng! Câu trả lời Đức Giê-su dưa ra làm tất cả chúng ta té ngửa vì ngỡ ngàng: ‘Đấng đó không những không xét nét, mà còn đánh giá ta rất cao trước cả khi (đúng hơn: bất chấp) ta làm hay nói điều gì. Đức Giê-su trưng ra hai hình ảnh rất đời thường để minh họa cho xác quyết này: “hai chim sẻ chỉ bán được một hào rơi xuống đất” và “tóc trên đầu rụng” là những chuyện quá tầm phào ít ai quan tâm tới…, thế mà Cha Trên Trời quan tâm tới giá trị của chúng để rồi, “không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em… ngay cả tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi”. Cuối cùng Người đi tới kết luận đầy an ủi: “anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”. Nếu “Đấng có thể tiêu diệt” sẽ đánh giá tôi như thế, cho dầu tôi có là tật nguyền, thiểu năng, ngu dốt, bệnh hoạn hay nghèo hèn, thậm chí cả khi tôi đầy những khiếm khuyết, lầm lỡ hay tội lỗi. Đấng coi tôi là có giá trị lớn như thế lẽ nào lại đang tâm xét nét, kết án và ‘tiêu diệt’ tôi?

Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, các nỗi sợ hãi lẽ ra đã phải bị tiêu diệt từ lâu rồi – từ ngày lãnh phép Thanh Tẩy, không những vì nhận ra mình có giá trị quá cao quí như thế, mà còn vì Đức Giê-su hầu như cương quyết bảo đảm: không để một ai trong những kẻ thuộc về Người phải rơi rụng; “Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay cha tôi” (Ga 10:28-29). Và rồi Người còn cam kết với Cha: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất!” (Ga 17:12). Sau những xác quyết và cam kết vững chãi như thế, lẽ nào ta có thể tiếp tục sợ hãi được nhỉ, kể cả sợ tội, sợ có thể ‘bị tiêu diệt trong hỏa ngục đời đời’! Tôi thiết nghĩ: Ki-tô hữu chúng ta, bất luận là ai, phải là những người được “hưởng niềm vui trọn vẹn” nhất (xem Ga 17:13).

Kể từ ngày trở thành Ki-tô hữu, lẽ ra nỗi sợ hãi duy nhất chúng ta chỉ phải là: đánh mất niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Chúa Cha nhân từ, và nơi Con của Người là Đấng đã cứu độ và tha thứ bằng Thập Giá Người?

Lạy Chúa là Cha từ nhân, không hiểu sao, một khi đã tin Cha là Đấng yêu con tới độ đã cho Con mình xuống thế để chết cho con, thế mà trong con vẫn còn mãi vấn vương sợ hãi. Tất cả là vì con vẫn chưa tin vững chắc rằng: Cha thật từ ái vô biên! con vẫn còn coi Cha là… ‘Đấng có thể tiêu diệt’ con trong hỏa ngục. Xin Cha cho con nhận thức và xác tín, khi nhìn lên Thập Giá Đức Ki-tô rằng: con có một giá trị vô song trước mặt Cha, giá trị còn hơn cả máu châu báu Con Cha…, và Cha không bao giờ muốn con ‘bị tiêu diệt’.A-men 

Về mục lục

.

ĐỪNG SỢ-

Lm. Trần Việt Hùng

Các con đừng sợ người đời,

Hại thân hại xác, hại người trần gian.

Linh hồn cao trọng trên ban,

Không ai giết chết, phá tan được hồn.

Những điều kín nhiệm giả ngôn,

Bày ra ánh sáng, nên khôn giữa đời.

Rỉ tai nghe biết tạm thời,

Mái nhà rao giảng, rạng ngời công khai.

Các con hãy sợ Thiên Sai,

Ném hồn lẫn xác, khỏi ngai Vua Trời.

Con người quí trọng trong đời,

Hồn mang ảnh Chúa, cao vời biết bao.

Sánh xem chim sẻ thế nào?

Chúa thương chăm sóc, với bao ân tình.

Trên đầu số tóc đẹp xinh,

Tháng ngày Tạo Hóa, anh minh an bài.

Lo gì hãi sợ ngày mai,

Quan phòng cuộc sống, tương lai mong chờ.

Cuộc đời đáng giá vô bờ,

Quê trời hưởng phúc, phụng thờ Chúa ta.

Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác nhưng không thể giết được linh hồn.” Chúa khuyến khích những kẻ tin là đừng sợ. Chúa biết rõ các môn đệ của Chúa sẽ phải đối diện với những đối xử khắc nghiệt của thế gian. Họ sẽ phải chấp nhận thiệt thòi, mất mát, chịu nhạo báng chê cười và sau cùng sẽ bị giết vì danh Chúa. Hầu hết các tông đồ và những người kế vị các ngài trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội đã dùng mạng sống để minh chứng cho niềm tin.

Ngay từ khởi đầu, khi Giáo Hội còn non yếu, đã bị tẩy chay và bị bách hại. Tại Roma, cái nôi của Giáo Hội, gần 300 năm nhà cầm quyền cấm đạo. Biết bao cuộc ruồng bắt các tín hữu, giam cầm, đánh đập, bị thú dữ ăn thịt, bị thiêu sống, bị bỏ đói và bị đóng đinh thập giá. Không thiếu những hình phạt ghê rợn nào mà các Kitô hữu không phải chịu. Họ là các anh hùng của đức tin. Các anh hùng tử đạo đã trải qua biết bao gian khổ để lãnh triều thiên vinh quang. Họ đã can đảm đứng trước sự chết. Các Ngài sống rất kiên cường và không sợ hãi.

Trong số những vị anh hùng dám chết vì Đạo, trong đó có những vị Giáo Hoàng, Giám mục, Linh mục, thầy Sáu, giáo dân, có những thiếu nữ trẻ như thánh Cecilia, thánh Agnes…Các ngài xứng đáng lãnh triều thiên tử đạo, vì các ngài hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa Kitô sống lại. Cái chết chỉ còn là phương tiện để đưa các ngài vào hưởng hạnh phúc trường sinh.

Nhìn lại cuộc sống đạo của chúng ta, chúng ta cảm thấy hổ thẹn trước những chứng nhân anh hùng. Chúng ta còn lo lắng xôn sao qúa nhiều thứ trong đời. Chúng ta lo phụng dưỡng cho thân xác và cuộc sống hưởng thụ. Chúng ta lo sợ nhiều thứ. Sợ bị đau yếu, sợ bị đói khát, sợ bị người ta khinh bỉ, sợ người dèm pha, sợ đau khổ và sợ chết. Trong trái tim ta còn nhiều nỗi sợ, vì chúng ta bám víu vào những giá trị vật chất mau qua chóng hết.

Truyện kể về trái tim con chuột. Có một chú chuột kia rất sợ mèo. Một vị Thần tội nghiệp nó, nên biến nó thành con mèo. Thành mèo rồi, nó lại sợ con chó. Vị Thần biến nó thành con chó. Thành con chó rồi, nó lại sợ cọp. Vị Thần yêu thương cho nó biến thành con cọp. Nhưng thành cọp, nó lại sợ người thợ săn. Vị Thần đành chào thua. Thần nói rằng: Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa, thì cũng không giúp được mi hết sợ. Vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột.

Mang thân phận con người, hầu như ai cũng thường đương đầu với sự sợ hãi. Chúa dậy chúng ta đừng sợ chi cả, vì chúng ta có Cha trên trời quan phòng mọi sự. Chúng ta đáng giá hơn chim sẻ bội phần. Đừng sợ, chúng ta hãy phó thác cuộc đời trong vòng tay nhân ái của Chúa.  

Về mục lục

.

TRÁCH NHIỆM

Lm Vũđình Tường

Trách nhiệm và quyền lợi thường sát cánh bên nhau. Có đôi khi trách nhiệm đơn côi, lẻ bóng hoặc quyền lợi âm thầm đến sau. Mỗi cá nhân có trách nhiệm với luật pháp nơi họ cư trú. Họ còn trách nhiệm với giới luật yêu thương của Thiên Chúa. Dù họ tin có Thiên Chúa hay chối bỏ không tin Thiên Chúa hiện hữu họ cũng không thể chối bỏ luật yêu thương của Thiên Chúa bởi Thiên Chúa gieo cấy luật yêu thương vào trong tim con người. Luật xã hội dù do những khối óc thông minh kết hợp lại làm ra nhưng vẫn có chỗ sơ hở cho người khác lợi dụng và luật xã hội thường phức tạp, khó hiểu, có nhiều cách giải thích, nên cần có luật sư chuyên ngành giải thích. Giới luật yêu thương của Thiên Chúa không có kẽ hở và cũng không cần luật gia chuyên môn giải thích. Luật yêu thương rất đơn giản, rõ ràng, mạch lạc. Luật đó tóm gọn lại như sau: Đừng làm cho người ta những gì mình không muốn xảy ra cho mình. Đơn giản hơn nữa là: yêu người như yêu ta. Luật xã hội có cảnh sát canh chừng, bắt phạt những người phạm luật. Thiên Chúa luôn đối xử với ta như người trưởng thành và có trách nhiệm nên luật yêu thương không làm điều đó. Điều này không có nghĩa làm ngơ cho kẻ lạm dụng luật yêu thương. Thiên Chúa nhân từ ban cho họ một thời gian để họ thống hối, ăn năn. Khi thời hạn đã mãn mà không ăn năn, hối cải họ sẽ phải trả sự công bằng với Thiên Chúa. Thời gian tại thế lương tâm họ luôn nhắc nhở họ thống hối, ăn năn trở về con đuờng công chính để được thứ tha. Nếu họ cố tình dối gạt lương tâm, lớn tiếng biện minh bằng cách này, cách nọ lấn át tiếng lương tâm, họ chắc chắn sẽ không tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trong ngày sau hết. Người đời lầm tưởng họ tránh khỏi án phạt. Đúng thế họ có thể tránh khỏi án phạt xã hội nhưng không thể tránh khỏi án phạt của Thiên Chúa. Trong nước Thiên Chúa trắng đen rõ ràng, mạch lạc, không có tình trạng mập mờ. Đức Kitô đưa ra lời cảnh cáo chung như sau

Không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết Mt 10,26.

Điều này xác định tất cả đều được phơi bày ra ánh sáng công chính của Thiên Chúa. Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu đừng sợ sống và thực hành giới luật yêu thương. Không có gì để sợ bởi tình yêu mạnh hơn tất cả phán đoán, phê bình, chỉ trích của con người. Kitô hữu ngại nói với thân hữu về tình yêu Chúa. Kitô hữu chán nản khi người ta làm ngơ về tình yêu Chúa. Kitô hữu cảm thấy bất an khi thân hữu phê bình mình là đạo đức giả. Sống trong tin yêu của thời đại này duờng như là một mình, cô đơn chèo ngược nước, trái với trào lưu xã hội hiện thời. Chèo ngược nước sớm mỏi mệt, vất vả và dễ chùn tay mỏi cánh buông xuôi. Truyền thống Chúa Nhật dành riêng cho Chúa bị các sinh hoạt xã hội từ từ lấn át. Hầu như ngày nay Chúa Nhật trở thành bận rộn hơn cho nhiều gia đình vì mọi thứ đều dồn vào cuối tuần. Các ngày trong tuần có chương trình rõ ràng, mạch lạc trong khi Chúa Nhật là ngày mọi sự đều đến bất ngờ mà không nỡ chối bỏ. Bạn bè thăm viếng bất thình lình, các môn thi thể thao đều dồn vào cuối tuần, các buổi gây quĩ cho trường, gây quĩ xã hội cũng dành vào cuối tuần và ngay cả các sinh hoạt cộng đồng xã hội cũng dành vào cuối tuần nên cuối tuần trở thành đầy ắp các sinh hoạt, cái nào cũng quan trọng nên việc tham dự thánh lễ cuối tuần, nay viện lí do này không đi, mai vì bận rộn khác không thể và dần dà thói quen bỏ lễ Chúa Nhật trở thành tập quán xấu mà không cảm thấy hối hận vì bỏ lễ.

Đức Kitô khuyên chúng ta cần tìm giờ, tìm cơ hội để nói về tình yêu Chúa cho tha nhân. Cần nói cho thân hữu biết về tình yêu Chúa về sự hiến thân làm của lễ cứu độ linh hồn ta, về sự chết và Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô. Nếu chúng ta không nhận biết Đức Kitô và nói về Ngài đến khi hiện diện trước Chúa Cha, Đức Kitô cũng không có gì nhiều để giới thiệu với Chúa Cha về người đó. Vì thế nói về tình yêu Chúa cho tha nhân không phải mang lợi ích cho Đức Kitô mà là cho chính ta. Tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thiên hạ, thành quả cuối đời là được Đức Kitô nhận diện và giới thiệu cùng Chúa Cha. Nhận biết Thiên Chúa thì có ích cho chính ta và cho tha nhân.

Về mục lục

.

HÃY NÓI GIỮA BAN NGÀY

JM. Lam Thy

Trong bài giảng lễ ngày đăng quang (16/10/1978), Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói một câu bất hủ: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Ki-tô“. Lời của Thánh nhân gợi nhớ lại Lời dậy của Đức Ki-tô cách nay 21 thế kỷ: ”Vậy anh em đừng sợ người ta… Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10, 26.28). Đó là câu trong trích đoạn bài Tin Mừng hôm nay (CN XII.TN-A – Mt 10, 26-33).

Lời dậy của Đức Ki-tô về vấn đề sợ hãi đối với con người nói chung, và cách riêng đối với các môn đệ. Sợ hãi là điều làm con người nhụt chí không dám làm gì cả. Sống trên thế gian, con người gặp đủ mọi chuyện: nào thiên tai, chiến tranh, đói kém, giặc giã, khủng bố ở khắp mọi nơi. Sự hăm dọa cướp tài sản, bắt bớ làm con tin, dọa tù đầy làm biết bao người sợ hãi. Sợ hãi có thể làm tê liệt cuộc sống, hành động, suy nghĩ của con người. Tất cả những sự sợ hãi ấy đều có thể làm cho con người quên cả Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi sự, đang cầm quyền sinh tử của con người. Có lẽ cũng nghĩ đến vấn đề sợ hãi của Giáo dân trước ba thù, nên trong bài giảng lễ ngày đăng quang (16/10/1978), Thánh Gio-an Phao-lô II đã nói một câu bất hủ: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Ki-tô“.

Người tín hữu khi được làm chứng nhân cho Chúa sẽ xảy ra cảnh “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10, 21-22) và vì thế, con người sinh ra sợ hãi, không dám công khai nhận mình là môn đệ của Chúa trước cộng đoàn. Con người sống trên đời ai mà chẳng “tham sinh uý tử” (tham sống sợ chết). Biết rõ tâm trạng con người là như vậy (các môn đệ của Chúa cũng không ngoại lệ), nên Đức Ki-tô mới khuyên nhủ “đừng sợ kẻ có thể giết được thân xác chớ không thể giết được linh hồn” (Mt 10, 28).

Lời Chúa luôn vang lên giữa cộng đồng, giữa thế giới có nhiều hận thù, tranh chấp, khó khăn. Các môn đệ theo chân Chúa trong suốt hành trình truyền giáo và hành trình đức tin đã làm gương cho nhân loại về Lời Chúa. Các môn đệ, các tông đồ của Đức Giê-su khi Người còn sống vẫn mập mờ về Lời Chúa nói, họ vẫn tranh giành quyền hành, vẫn sợ kẻ thù, ngày Chúa chịu khổ hình và chết trên thập giá, họ chạy tán loạn như gà con mất mẹ, họ đóng cửa kín vì sợ người Do-thái bắt và giết họ. Nhưng khi Chúa Thánh Thần xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần đã biến đổi họ tất cả. Họ đã hiên ngang đi khắp tứ phương thiên hạ để rao giảng, làm chứng cho Chúa phục sinh. Họ đã nhớ lời Chúa dậy: ”Anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10, 28).

Các môn đệ và các tông đồ đã minh chứng cho nhân loại thấy sự can đảm, trung tín và không sợ chết của các ngài cho Lời Chúa được tồn tại. Ngay tại đất nước Việt Nam, chỉ trong thời gian khoảng 3 thế kỷ (từ thế kỷ XVI tới đầu thế kỷ XX) đã có hơn 130.000 vị anh hùng tử vì đạo. Các ngài đã kiên cường, hiến dâng mạng sống, hiến dâng cuộc đời mình để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu. Lời Chúa vẫn luôn hướng dẫn cho biết bao nhiêu người trên thế giới này can đảm, quảng đại và vững tin sống trọn con đường tình yêu của Chúa, để làm chứng cho Chúa, bởi vì ”Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống“ (Ga 14, 6).

Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay và đặc biệt bài Tin Mừng mời gọi mỗi người Ki-tô hữu nhìn vào thực tế cuộc sống. Sống ở trần gian, mỗi người chúng ta phải đương đầu với cuộc sống, vất vả lo cơm ăn, áo mặc. Chúng ta phải đương đầu với trăm ngàn nghịch cảnh, với những thử thách, với những vất vả gian lao trong đời sống giữ đạo và thực hành đạo. Chúng ta được mời gọi sống theo Lời Chúa ngõ hầu có đủ can đảm, có đủ lòng tin để vượt thắng tất cả những điều không phù hợp với giáo lý, với đức tin, với lẽ đạo. Chúng ta là những người có lòng tin phải sống thế nào để của cải vật chất không cản ngăn chúng ta tìm kiếm Nước Trời. Là môn đệ của Chúa, chúng ta luôn nhớ rằng kết hiệp với Chúa (”Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” – Gl 2, 20), chúng ta sẽ vượt thắng được mọi thử thách, khó khăn và không hề sợ hãi để mở lòng ra đón Đức Ki-tô.

Nói tóm lại, người Ki-tô hữu phải nhập tâm Lời dạy của Đức Ki-tô: Mạnh dạn, hiên ngang làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu độ, không sợ nhũng thế lực thù địch có thể hãm hại bằng mọi cách, kể cả việc cướp đi mạng sống của mình. Đồng thời lấy châm ngôn sống đúng với những gì Chúa hằng mong đợi. Cụ thể là “Trước khi NÓI VỀ CHÚA cho cộng đồng nghe, thì phải biết NÓI VỚI CHÚA”. Khi “Nói về Chúa” thì hãy nói giữa ban ngày, nói công khai, không úp mở, không e thẹn, ngập ngừng(“Hãy nói giữa ban ngày, đừng có sợ” – mm Mt 10, 27). Muốn được vậy thì hãy “Nói với Chúa” cách khiêm tốn và kín đáo (không khoe khoang, khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện). Nói rõ hơn là phải biết cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ –  xin Chúa ban Thánh Linh soi sáng và thêm sức mạnh cùng lòng dũng cảm để thi hành trọn hảo sứ mệnh loan báo Tin Mừng đã được trao phó. Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con luôn can đảm vượt thắng mọi sự mà hăng say làm chứng nhân cho Chúa . Ôi! “Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, Chúa sẽ chẳng bỏ rơi bao giờ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XII/TN).

Về mục lục

.

ANH EM ĐỪNG SỢ

Fx Đỗ Công Minh

Nỗi sợ hay Sợ hãi là một trạng thái cảm xúc tiêu cực, luôn đem lại cảm giác khó chịu – tim đập nhanh, mồ hôi vã ra không ngớt cho con người mang nó.Từ khi mới lọt lòng, con người chúng ta đã mang trong mình vô vàn những nỗi sợ hãi. Nỗi sợ thì muôn hình vạn trạng – nó có thể là sợ bóng tối, sợ không gian kín hay là một trạng thể vô hình nào đấy mang hơi hướng tâm linh(Theo leading Performance). Bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu cũng nói đến nỗi sợ của các môn đệ là những người tin theo Chúa: “Anh em đừng sợ người ta, không có gì che dấu mà không được tỏ lộ, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra lúc ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.

Đức Giêsu nói điều gì? Người nói những Lời cảnh báo, những chân lí của cuộc sống, những chỉ dẫn để con người đạt tới sự sống vĩnh cửu nước Trời. Người kêu gọi mỗi người chúng con hãy mở lòng ra đi đến với người khác, loan truyền một cách sống bác ái yêu thương. Giáo lý của Người là chống lại cái ác đem đến điều hoàn thiện. Điều răn duy nhất của Người để lại là “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương “. Những điều ấy đã được Đức Giêsu sống và rao giảng, Người truyền dạy cho các môn đệ: “Hãy đi và cứ làm như vậy”. Thế nhưng cũng đã có những người môn đệ sợ hãi khi phải loan báo về Giáo lý của Người, bởi khi phải nói với mọi người về một Tin Mừng của Thiên Chúa Cha là chống lại trật tự của một thế giới muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống trần tục  với nhiều thú vui bất xứng; tranh giành hơn thua theo kiểu “mạnh được yếu thua, mạnh ai nấy sống”, một thế giới bắt con người tôn thờ, thuần phục Mamon là tiền tài, dục vọng, danh vọng, tôn thờ ác thần, sự dữ và sự chết.

         Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ của Người cũng là với từng người chúng con hôm nay:” Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngư trên trời. . .”.

Ngày hôm nay,Chúa đã đến trần gian hơn 2000 năm, giáo lý của Người đã được các tông đồ, các môn đệ và các đấng kế vị loan truyền. Đã có cả tỷ người tin theo, Phúc âm của Người vẫn được tiếp tục rao giảng qua các vị thừa sai, qua các tín hữu sống Lời Người: “Anh em hãy đi khắp thề gian giảng dạy và làm phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần và dạy cho họ tuân giữ các điều Thầy dạy “.Thế nhưng không phải số đông trong nhân loại chúng con đã tin nhận Chúa. Ngay tại Việt Nam chúng con, số người tin vào Chúa chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, chưa đến 10% tín hữu Công Giáo, Tin Lành.

Xin cho con biết từ bỏ đi nỗi SỢ khi nói về Chúa, về Lời Người. Không chỉ biết nói về Chúa, nhưng quan trọng hơn là loan báo về Chúa bằng cách sống yêu thương, dấn thân phục vụ người khác, nhất là những người nghèo hèn, bất hạnh, bị bỏ rơi, bị loại trừ. Dám đấu tranh xây dựng một cuộc sống bác ái yêu thương để tất cả mọi người  đều là anh em con một Cha trên trời .AMEN.

Về mục lục

.

SỐNG NIỀM TIN

Lm. Jos. DĐH.

Lì và liều, là hai thành phần mà xã hội thời nào cũng kiêng nể, dè chừng đến độ phải cảnh giác như câu vè: thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ liều mình cố thây. Trong tương quan tha nhân, người ta vẫn khẳng định: khôn chết, dại chết, biết mới sống. Tính anh hùng, khả năng hiểu biết, ở hoàn cảnh nào cũng được tôn trọng ; người mẫu mực, uy tín, dễ thu phục được nhiều phần tử trong xã hội, dù đối tượng đó cấp tiến hay bảo thủ. Kinh nghiệm người xưa cũng nói rằng: ăn ngay, sống thật, mọi tật mọi lành, thực ra, từ khi có trí khôn, con người đã biết ý thức làm việc thiện xa tránh điều xấu.

Vào khoảng thập niên 60, rất nhiều người thích thú với dịch giả Nguyễn Hiến Lê về tác phẩm “Quẳng gánh lo đi và vui sống” ; song đó vẫn chỉ là giải pháp tình thế, bao lâu con người còn lầm tưởng về khả năng tự tháo gỡ, tự sức mình thắng nỗi sợ hãi đang bao trùm. Đấng bậc sinh thành, các chuyên viên tâm lý, bằng trí hiểu, bằng kinh nghiệm, họ có thể khuyên bảo con cháu: đời người như bóng câu, hơi đâu mà nghĩ tới chuyện lặt vặt. Người ta lý lẽ hay lắm: ngày hôm qua chỉ là giấc mơ, ngày mai chỉ là ảo tưởng, hôm nay mới là ngày đáng sống…. Cư xử với nhau có ân nghĩa, sống với nhau có lý có tình, có trước có sau, thực ra cũng chỉ là khởi đầu cho việc sống niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trong đời sống tự nhiên, nhiều người có tiền, có quyền, có vệ sĩ, nhưng ai dám chắc là họ không có ưu tư phiền muộn ? Trong đời sống thiêng liêng, đâu phải cứ đi lễ chùa, đọc kinh niệm phật hàng ngày, đi đủ các nơi linh thánh hành hương là tâm hồn bình an ? Đức Giêsu dư biết con người sai lạc khi cậy dựa vào thế lực vật chất, quên mất Đấng hằng yêu thương quan phòng đang nâng đỡ bổ sức, ban phát niềm vui bình an cho nhân loại. Đức Giêsu thấu biết con người giới hạn, sợ đủ mọi thứ, lo lắng ưu phiền về của ăn thức uống, sợ cô đơn, sợ bị phản bội, sợ đau khổ, sợ phải chết….! Và chắc chắn còn nhiều thứ sợ khác nữa. Phương thế để hết sợ, đó là có tình yêu Chúa, là sống thánh ý Chúa: “điều gì Thầy nói trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng, điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”.

Đức Giêsu không có ý định huấn luyện các học trò trở nên “gan lì”, hoặc biến đổi những ai theo Ngài sẽ chai cứng đến độ “điếc không sợ súng”, vì mang thân phận con người yếu đuối, tội lỗi, nhát sợ, Ngài lưu ý chúng ta biết đến sự hiện diện của tình yêu Chúa. Biết can đảm để tuyên xưng niềm tin Thiên Chúa quyền năng, sống tín thác vào tình yêu hiệp thông, cũng là ơn gọi sống niềm tin nơi Đức Kitô là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ. Khi trấn an các học trò đừng sợ những thứ vu vơ, đừng sợ thế gian, vì cùng lắm họ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giập tắt được niềm tin, không thể giết được linh hồn, hẳn Ngài có ý nhắc chúng ta hãy tin vào tình yêu thương và sức mạnh trong Chúa.

Giá trị của con người không phụ thuộc thân thế dòng tộc, nhưng tuỳ thuộc vào cách sống. Người học trò thấm nhuần đạo lý của thầy, ắt không phải do có đầu óc thông thái, mà do trò biết chăm chỉ lắng nghe, tin điều thầy truyền dạy là đúng. Người môn đệ theo Đức Kitô đủ can đảm vượt qua sợ hãi, để không mắc sai lầm, đâu phải do tài trí thông minh, nhưng là do biết cậy trông vào sức mạnh của tình yêu Chúa, biết sống niềm tin nơi Đấng đã thắng thế gian. Khi lý giải về sự quan phòng yêu thương, Đức Giêsu cho chúng ta biết “hai con chim sẻ đáng giá một đồng, vậy mà không con nào rơi xuống đất mà Chúa Cha không biết đến”. Tin và sống niềm tin Thiên Chúa là Cha luôn là dấu chỉ con người ngập tràn tình yêu mến, đang chia sẻ và sống thánh ý Chúa cách trọn vẹn.

Xã hội thời nào cũng dễ dàng tuyên dương người có công, khen thưởng những vị có thành tích, và trân trọng người có đức có tài. Đức Giêsu đã nói và vẫn đang nói: “ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, làm Đấng cứu độ, đó chỉ là bước khởi đầu theo Chúa, bước tiếp theo là mỗi người phải sống niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa bằng hành động, bằng sự tự do của mình. Sở dĩ người ta sợ ốm đau bệnh tật, sợ thất bại, sợ bị thua thiệt vì mang danh Kitô hữu, là do người ta chưa dám sống đức tin, chưa để tình yêu Chúa hiện diện nâng đỡ bổ sức cho ta mà thôi.

Người trẻ hôm nay rất tha thiết với tình yêu, họ nói: đường đời trăm lối đi, chỉ mong một lối về, vạn người thích, chỉ muốn một người thương. Tình yêu đôi lứa là vậy, tất cả hệ tại “thuỷ chung”. Tình yêu giữa con người dành cho Thiên Chúa, tuỳ thuộc mỗi người biết sống và thể hiện niềm tin của mình bằng hành động, bằng lý trí, ý chí, tự do của từng hoàn cảnh mỗi người. Con đường trở về với Thiên Chúa là Cha nhân hậu, hẳn có nhiều cơ hội, mỗi người mỗi khác, nhưng tất cả phải khởi đi từ tin yêu và thật lòng sám hối. Có nhiều phương thế để người tín hữu chống trả cám dỗ, thắng vượt sợ hãi, nhưng hữu hiệu nhất vẫn là sống niềm tin vào sự hiện diện của tình yêu Chúa. Có nhiều cách tuyên xưng niềm tin Đức Kitô là Thầy là Chúa, nhưng cách rõ ràng hơn cả vẫn tự nguyện trở nên học trò, tự nguyện trở nên chứng nhân của tình yêu Giêsu. Amen.

Về mục lục

.

-ĐỪNG SỢ!

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Trên đời con người có nhiều thứ bủa vậy, một trong những thứ đó là cái “sợ”. Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới. Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui… Nỗi sợ có vẻ gắn liền với sự mong manh của phận người. Người ta sợ nhiều thứ : sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết… Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và dù muốn dù không con người vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấu hiều điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu khuyên : “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn… Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10, 28-31). 

Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo Hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh : “Đừng sợ”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã không ngừng kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới “Đừng sợ”: 

“Anh chị em đừng sợ đón lấy Chúa Kitô và nhận lấy quyền năng của Người!”.

“Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.

“Đừng sợ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người”! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).

Thái độ “không sợ” được Thánh Giáo hoàng Đức Gioan Phaolô II nói đến vượt trên ý nghĩa thông thường là sự bất khuất, không nao núng trước bạo lực, bạo quyền. Không sợ là thái độ vượt thắng sự thủ thế, co về mình, không dám mở ra đón lấy sự cao cả, siêu việt, linh thánh của Tin Mừng Cứu độ và cũng không đủ nghị lực và sự kiên trì đưa Tin Mừng trở thành hiện thực nơi trần gian, xây dựng Nước Chúa ngay trong thực tại trần thế.

Từ “Đừng sợ” lại vang lên trong bài giảng thứ hai trên cương vị giáo hoàng, khi cử hành việc tiếp nhận ngai tòa giám mục giáo phận Rôma, ngày Chúa nhật 12-11-1978, tại nhà thờ Chánh tòa Gioan Latêranô, Đức Gioan Phaolô nói rõ thêm về lời kêu gọi “Đừng sợ”.

Đừng sợ đón lấy và thực thi lối sống Tin Mừng. Đó là sống yêu thương, không hận thù, như chính Đức Kitô yêu thương và đã tha thứ cho kẻ bách hại mình : “Tình yêu thì kiến tạo. Chỉ có tình yêu mới có thể kiến tạo được. Còn thù hận thì phá hủy. Lòng hận thù không kiến tạo được gì hết. Nó chỉ gây đổ vỡ. Nó làm tan nát đời sống xã hội. Nó chỉ có thể gây sức ép đối với những người yếu đuối và chẳng xây dựng nổi một điều gì (Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ nhận nhà thờ Chánh tòa Gioan Latêranô của Giám mục Rôma)

Đừng sợ sống yêu thương trong thế giới còn đầy tràn lòng thù hận. Đó là tín thư của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Một tín thư xụất phát từ sứ điệp Tin Mừng Cứu độ của Đức Kitô. Sứ điệp của niềm Hy vọng :“Hãy làm cho những Lời hằng sống của Đức Kitô đến được với mọi người để họ nghe được Lời của Chúa, sứ điệp của niềm Hy vọng” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).

Tiếp nối đường hướng của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi, Đức Bênêđictô XVI đã thắp lên lời hy vọng : “Hãy tiến lên phía trước, vì có Chúa ở cùng”. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”. Và trong Sứ điệp nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVII, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết : “Các bạn trẻ thân mến, đừng sợ phải liều mạng mình cho Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Đó là phương cách tìm được bình an nội tâm và hạnh phúc đích thực”.

Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13-3-2013, Ngài đã là cho nhiều lần dùng kiểu nói “đừng sợ”.

Thật vậy, sống ở đời làm sao tránh khỏi những căng thẳng, lo âu, sợ hãi khi gặp khó khăn, nguy hiểm. Chính Chúa Giêsu cũng có những lúc bàng hoàng xao xuyến. Khi bảo “anh em đừng sợ” Chúa Giêsu muốn ta đừng để cảm xúc sợ hãi làm tê liệt đời sống chúng ta. Người bảo chúng ta : “đừng sợ”. “Đừng sợ” ngay trong mọi biến động, “đừng sợ”, vì “Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ” (Gr 20,13). “Đừng sợ”, khi phải đối diện với đau khổ hay sự chết bởi vì Thiên Chúa, Đấng yêu thương quan tâm chăm sóc chúng ta, vì Ngài là Cha nhân từ, trung tín, thấu hiểu chúng ta cần gì, vì đối với Ngài, chúng ta “quý hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10,31). Ta hãy sống như con thơ phó thác cách đơn sơ trọn vẹn cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, trong mọi công việc.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thật, hành động thật và tin tưởng phó thác nơi Chúa. Đừng sợ những khó khăn thử thách trong đời sống đạo. Đón nhận con đường khổ giá như là điều kiện cần cho phần rỗi của mình. Luôn nhớ rằng khi chúng ta tin và sống đạo, hẳn chúng ta không thể thoát khỏi sự hiểu lầm, chống đối và đôi khi cả cái chết nữa. Tuy nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa của đau khổ và ngang qua đó, chúng ta sẽ thấy cùng đích của cuộc đời nằm ở nơi Thiên Chúa chứ không phải những thứ mau qua, chóng hết ở đời này.

Lạy Chúa, nỗi sợ làm cho con chùn bước, rụt rè trong đời sống đức tin của con, xin cho con thêm sức mạnh để con không còn sợ hãi Chúa ơi. Amen.

Về mục lục

.

TUYÊN XƯNG CHÚA GIÊSU

P.Trần Đình Phan Tiến

Qúy vị và các bạn thân mến, trên thế gian có những bậc thầy hết lòng vì học trò, đó là những người thầy tốt, văn hoặc võ, nghề nghiệp, khi những người thầy ấy truyền hết bí quyết cho học trò của mình. Vâng, họ yêu thương học trò của họ , vì vậy, họ không “giữ” riêng cho họ bất cứ một bí quyết nào mà không truyền hết cho học trò.

Hôm nay, Tin Mừng ( Mt 10, 26 -33) cho chúng ta biết về một “Người Thầy” đứng trên tất cả những người thầy của thế gian, Người Thầy ấy cũng bộc lộ hết những bí quyết cho môn đệ của mình. Đó là Chúa Giêsu, vâng , trang Tin Mừng hôm nay cho chúng ta ba chủ đề:

  • Thứ nhất: Đừng sợ khi phải nói về Thiên Chúa cho người ta.
  • Thứ Hai: Quyền năng của Thiên Chúa bao trùm tất cả.
  • Thứ ba: Tuyên xưng Chúa Giêsu.

Vâng, thưa quý vị, khi nói đến “đừng sợ hãi”, chúng ta luôn liên tưởng ba yếu tố nêu trên. Điều thứ nhất, chúng ta đừng sợ ai khác ngoài Thiên Chúa. Bởi vì , ngoài Thiên Chúa ra không ai có chân lý. Khi chúng ta nói về Thiên Chúa là chúng ta đứng về phía chân lý, vậy còn gì là phải sợ hãi nữa. Vì, không có sự thật nào được che giấu, Chúa Giêsu : “Điều gì các con nghe ban đêm, thì hãy nói giữa ban ngày. Điều gì các con nghe thì thầm , thì hãy nói trên mái nhà” ( c 27)

Vâng, Chúa dạy chúng ta”đừng sợ” có nghĩa là : Đừng sợ làm chứng cho sự thật, đứng về phía sự thật, bảo vệ sự thật, làm theo lẽ phải , làm theo sự khôn ngoan, thì chắc chắn không có gì phải sợ. Chỉ sợ khi làm điều xấu, điều bất công, bất chính, bất minh, điều trái luân thương đạo lý. Vì , lẽ thường người không có đức tin, họ bất chấp tất cả, họ làm càn, làm liều, làm bừa, thì mặc nhiên họ phải sợ công lý, công lý của Thiên Chúa , đó là chân lý. Vâng, chỉ có một chân lý duy nhất, không có hai chân lý. Vì, sự thật cùng đích, hay là cùng đích của sự thật chỉ có một. không bao giờ có hai sự thật. Nếu kẻ nào nói có hai sự thật, thì kẻ đó là satan.

Chúng ta nhớ có lần Chúa Giêsu đã nói : “Những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy cũng cho anh em biết …” .Điều đó cho thấy Chúa Giêsu là một Vị Thầy chân chính, hết mực yêu thương môn đệ của mình.

Vậy, hôm nay, Tin Mừng một lần nữa nhắc lại cho chúng ta về “ Tâm Tính” của Thầy Giêsu, Người Thầy đã truyền hết cho chúng ta những bí quyết “sống”. Sống với thế gian, sống với sự sống của Thiên Chúa đó là : Chân lý.

Có thể nói ngay mà không sợ sai là : Chân lý là Lời Chúa, vậy sống có Lời Chúa, chúng ta không “sợ” gì cả. Rõ ràng, nếu chúng ta sống có Lời Chúa mà còn sợ hãi, thì coi như chúng ta không sống theo Lời Chúa. Vì quyền năng của Thiên Chúa bao trùm tất cả. Thiên Chúa đứng trên tất cả, vì vậy, khi chúng ta sống theo Lời Chúa mặc nhiên, chúng ta sẽ không còn sợ hãi gì nữa. Nếu sợ hãi chúng ta sẽ thiếu can đảm, và như vậy sẽ  không có lòng trung tín.

Khởi đi từ Bài đọc I hôm nay ( Gr 20, 10 -13), chúng ta thấy tiên tri Giê-rê-mia nói tiên tri về Thiên Chúa, thì bị Pha-sua đánh và cùm chân. Nhưng, sáng hôm sau thì tháo cùm và thả người ra. Rồi sau đó, chúng ta thấy tiên tri Giê-rê-mia phải chịu khổ vì dân chúng, nhưng, cuối cùng Giê-rê-mia cũng cất lời ngợi khen Thiên Chúa: “Hãy ca tụng Chúa, hãy ngợi khen Chúa…” vì Chúa đã giải thoát ông.

Bài đọc II (Rm 5, 12 -15) thánh Phao-lô cho chúng ta biết , :”… nếu không có luật thì không bị coi là có tội…”. Nhưng, thật ra, xét cho cùng “luật “ đầu tiên, hay là khởi sự lề luật chính “Lời” của Thiên Chúa. Vì Ađam đã bất tuân Lời Chúa, nên sinh ra tội. Từ đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa chính là lề luật đầu tiên.

Trở lại ý nghĩa  thứ ba Đoạn Tin Mừng hôm nay là ý quan trọng nhất : Tuyên xưng Chúa Giêsu.

Chúa nói :” Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên nhận nó trước mặt Cha thầy, Đấng ngự trên trời.”

Vâng, cầu nầy chính là câu làm rõ nghĩa cho câu ở trên ( c 26) :” Vậy các con đừng sợ người ta…” Vì, “  Các con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn vào lửa không hề tắt…” ( c 28). Chúa Giêsu đã nói rõ điều đó, “đừng sợ”, nhưng tại sao “đừng sợ”, vì , người đời không thể nào giết hại được linh hồn. Nếu chúng ta biết tuyên xưng Chúa Giêsu mọi nơi, mọi lúc, thì không có thế lực thù địch nào làm hại ta được. Người đời , dù có làm hại ta, nhưng, chỉ làm hại được thân xác là cùng, đáng sợ nhất là kẻ làm hại linh hồn ta, đó là satan, và nếu chúng ta theo satan, thì Thiên Chúa sẽ (giết) ném cả xác và hồn vào lửa không hề tắt.

Chúng ta thấy, Lời Chúa hôm nay quả ứng dụng với tất cả những ai bước theo Chúa cách trung tín như gương các thánh Tử Đạo. Các ngài đã anh dũng hy sinh, dù đầu rơi, máu chảy, nhưng không sờn lòng, nả chí. Gương can đảm anh dũng hy sinh vì Chúa, tạo nên một đức tin kiên cường, son sắt. và những gương chống chứng nhân vô cùng anh dũng của các vị thánh chưa tuyên.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con biết can đảm đối với cuộc sống thế trần, vì chúng con có Chúa là “Gương mẫu” cho đời chúng con./. Amen.

Về mục lục

.

CAN ĐẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 10,26-33

(26) Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. (27) Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. (28) Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. (29) Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không ? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. (30) Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. (31) Vậy anh em đừng sợ. Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. (32) Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (33) Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.

2. Ý CHÍNH:

Trước khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giê-su khích lệ các Tông đồ đừng sợ hãi, nhưng hãy mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Nước Trời vì ba lý do như sau: Một là vì các ông đang nắm giữ chân lý ; Hai là vì thế gian chỉ có thể làm hại được về phần thể xác. Ba là vì các ông có Thiên Chúa luôn an bài mọi sự. Đức Giê-su cũng hứa sẽ bênh vực những ai dám can đảm tuyên xưng Danh Người trước mặt người đời.

3. CHÚ THÍCH:

– C 26-27: + Anh em đừng sợ người ta: Đừng sợ là lời động viên và trấn an các môn đệ mà Đức Giê-su đã làm nhiều lần trong thời gian giảng đạo như: Khi dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,26; Mc 4,41), khi tiên báo việc các ông sẽ bị bách hại (x. Mt 10,19-20), khi khuyên các ông vững tin vào Chúa quan phòng (x. Lc 12,22), khuyên đừng sợ trước những biến động của ngày tận thế (x. Mc 13,7), trước những thử thách về đức tin (x. Mt 10,26-33), khi đi trên mặt nước lúc đêm tối (x. Mt 14,27; Mc 6,50), khi hiện ra vào chiều ngày phục sinh (x. Ga 20,19-20). + Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ…: Chính Thiên Chúa sẽ thực hiện việc bày tỏ sự thật về Người cho loài người, mặc cho có những kẻ cố tình che giấu bưng bít. + Điều Thầy nói lúc đêm hôm…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông ở Ga-li-lê giống như nói trong đêm tối, thì các ông hãy can đảm rao giảng công khai giữa thanh thiên bạch nhật. + Hãy lên mái nhà rao giảng…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông như nói rỉ tai, thì hãy lên mái nhà tức là trên sân thượng giống như chiếc bục giảng, để nói to cho đám đông đứng dưới sân được nghe. Tương tự như trong thời đó, vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ Sáu hằng tuần, người có trách nhiệm sẽ phải lên trên sân thượng ngôi nhà cao nhất, thổi kèn để loan báo cho mọi người biết đã bắt đầu ngày Sa-bát là ngày người Do thái phải kiêng việc xác.

– C 28-31: + Anh em đừng sợ: Lời Đức Giê-su động viên các môn đệ khi sai họ đi truyền giáo. + Những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn: Sự sống của con người bao gồm cả thể xác lẫn linh hồn. Đừng sợ người đời vì cùng lắm họ cũng chỉ giết hại các ông về phần thể xác, chứ không thể giết hại được linh hồn vốn có đặc tính thiêng liêng bất tử. + Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục: Thiên Chúa là Cha nhân từ nhưng cũng là vị Thẩm Phán công minh uy quyền. Ngày tận thế, Người sẽ trừng phạt và tiêu diệt cả hồn lẫn xác những kẻ chống đối Người trong hỏa ngục muôn đời. + Hai con chim sẻ… Ngay đến tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi: Không có gì xảy ra cho các Tông đồ mà nằm ngoài thánh ý Chúa Cha. Loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu, mà Chúa Cha cũng quan tâm gìn giữ không để con nào bị chết đói. Hoặc như những sợi tóc trên đầu chẳng mấy giá trị, thế mà Thiên Chúa cũng quan tâm đếm hết. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không quan tâm giúp đỡ các Tông đồ hay sao ? + Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ: Thái độ của người thừa sai, là phải tin cậy phó thác cuộc sống trong tay Thiên Chúa, Đấng đầy khôn ngoan và hằng yêu thương săn sóc họ hơn muôn ngàn con chim sẻ.

– C 32-33: + Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên ha…: Trong ngày cánh chung (x. Mt 25,31-46), thay vì xét xử, Đức Giê-su sẽ làm trạng sư bầu chữa cho các Tông đồ trước tòa Chúa Cha. + Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ…: Người môn đệ trung thành làm chứng cho Đức Giê-su trước mặt người đời như thế nào, thì sau này Người cũng sẽ bênh đỡ họ trước tòa phán xét của Thiên Chúa thế ấy. Do đó, các thừa sai cần phải can đảm trung thành làm chứng cho Chúa, dù có thể vì đó mà bị người đời thù ghét giết hại.

4. CÂU HỎI:

1) Trong thời gian giảng đạo Đức Giê-su đã trấn an các môn đệ là “Đừng sợ” khi nào ? 2) Tại sao Đức Giê-su lại khuyên môn đệ phải leo lên mái nhà rao giảng Tin Mừng ? 3) Đức Giê-su khuyên môn đệ không nên sợ những kẻ nào nhưng cần phải sợ ai ? Tại sao ? 4) Đức Giê-su nêu ra 2 ví dụ nào cho thấy sự quan phòng của Thiên Chúa để khuyên môn đệ hãy tín thác vào quyền năng và tình thương của Người ? 5) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì cho những ai trung thành làm chứng cho Người vào ngày phán xét sau này ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục… Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,28.32).

2. CÂU CHUYỆN:

1) TRONG ĐỨC TIN KHÔNG CÓ CHỖ CHO SỰ SỢ HÃI

Một viên sĩ quan người Anh có một đức tin mạnh mẽ. Ông đang cùng vợ con đáp chuyến tàu đi sang thuộc địa Ấn Độ nhận nhiệm vụ mới. Khi tàu rời bến được hai ngày thì trời bắt đầu nổi cơn giông bão. Mọi người trên tàu đều lo sợ cuống cuồng mà vợ viên sĩ quan lại là người sợ hãi nhất. Đang khi đó, viên sĩ quan chồng bà vẫn tỏ vẻ bình thản như không có điều gì xảy ra. Thấy chồng có thái độ như thế, bà vợ khóc lóc và trách móc ông đã thờ ơ trước sự an nguy của vợ con. Bấy giờ viên sĩ quan chẳng nói chẳng rằng, đi vào phòng riêng lấy ra một thanh kiếm. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ như để đe dọa. Đầu tiên bà tái mặt đi vì sợ hãi nhưng ngay sau đó bà lại cười lên khanh khách, không tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Viên sĩ quan liền hỏi vợ: “Làm sao em lại có thể cười khi bị anh dí mũi kiếm vào ngực như thế ?” Bà vợ trả lời: “Tại sao em phải sợ khi lưỡi kiếm ấy đang ở trong tay của người chồng rất thương yêu em ?” Bấy giờ viên sĩ quan mới giải thích: “Vậy tại sao em lại muốn anh phải lo sợ khi anh xác tín rằng cơn bão này được đặt dưới quyền của Thiên Chúa, là Cha hằng thương yêu và muốn sự an lành cho con cái ? Do đó, chúng ta không cần phải sợ. Ta chỉ cần làm hết sức mình, rồi phó thác vận mệnh cuộc đời ta trong tay Chúa quan phòng là đủ. Dù ta có phải chết hay được sống thì mọi sự cũng đều có ích cho phần rỗi đời đời của ta.

Vậy, mỗi lần gặp một tai nạn, hay một con bệnh hiểm nghèo, ta hãy cầu xin Thiên Chúa, noi gương Đức Giê-su trước cuộc tử nạn đã cầu xin Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đau khổ có giá trị giúp chúng ta lập công đền tội, làm cho đức tin chúng ta thêm vững mạnh, và làm cho ta trở nên con Thiên Chúa. Chính vì ý thức được giá trị của đau khổ như thế, nên thánh nữ Béc-na-đét Sô-bi-rớt (Bernadette Soubirous) đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi chịu đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc con chịu khổ đau”.    

2) THÁI ĐỘ CAN ĐẢM HAY NHÁT SỢ PHÁT XUẤT TỪ TRÁI TIM:

Một câu chuyện ngụ ngôn được kể lại như sau: “Ngày xưa có một chú chuột nhắt rất sợ bị mèo vồ. Một vị thuật sĩ khi thấy thái độ sợ sệt của chú chuột liền thương hại và đã biến chú hóa thành một con mèo to lớn. Nhưng rồi chú mèo này khi thấy con chó sói tới gần lại leo vội lên cây vị sợ bị sói ăn thịt. Vị thuật sĩ thương hại nên lại biến chú mèo thành một con chó sói to lớn. Thế nhưng chú sói này khi thấy thợ săn đến gần lại sợ hãi và ba chân bốn cẳng chạy trốn. Bấy giờ, vị thuật sĩ đành chịu thua, và nói với chú sói rằng: “Ta không thể giúp gì được cho mi đâu, vì mi chỉ có trái tim của một con chuột nhắt mà thôi !”. Nói rồi vị thuật sĩ lại biến chú sói to kia trở lại thành một con chuột nhắt như cũ.

3. SUY NIỆM:

Tin Mừng CN hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách gặp phải. Trái lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đương đầu với mọi hiểm nguy và cả sự chết nữa trên bước đường loan báo Tin Vui Nước Trời.

1) ANH EM ĐỪNG SỢ:

– Sợ hãi là chuyện thường tình của kiếp người. Nỗi sợ hãi thường mang nhiều bộ mặt khác nhau: Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lừa gạt, sợ bị phụ bạc, sợ chia ly, sợ bị kẻ thù làm hại… Dường như nỗi sợ luôn ám ảnh mọi người. Sợ hãi sẽ làm cho người ta trở nên khép kín, không dám tiếp xúc với người khác, không dám làm điều gì khác thường và luôn cảnh giác đề phòng tha nhân. Nếu cứ để nỗi sợ hãi ám ảnh lâu dài, chúng ta sẽ có nguy cơ bị đau bao tử, tinh thần rối loạn và sẽ mau già trước tuổi.

– Về phạm vi đức tin, sự sợ hãi làm cho các tín hữu trở thành nhát đảm, không dám công khai đến nhà thờ dự lễ cầu nguyện, không dám nói về Chúa và có thể chối Chúa khi phải kê khai lý lịch, khi cần tuyên xưng đức tin, giống như ông Phê-rô xưa đã chối Thầy ba lần do sợ hãi (x. Mt 26,69-75).

– Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su ba lần nhắc nhở các môn đệ đừng sợ:

Đừng sợ người đời, nhưng hãy mạnh dạn nói lời Chúa cách công khai (26-27);

Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà thôi (28);

Đừng sợ vì ta có Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng, hằng thương yêu và quan phòng gìn giữ ta. Người luôn quan tâm đến từng con chim sẻ không mấy giá trị và nắm rõ có bao nhiêu sợi tóc trên đầu chúng ta (29-31).

2) CẦN VƯỢT QUA NỖI SỢ HÃI THƯỜNG TÌNH:

– Thực ra cảm giác sợ hãi là điều tự nhiên và không xấu. Ngay Đức Giê-su tuy khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (x. Ga 14,1), nhưng trước cuộc khổ nạn chính Người cũng có cảm giác sợ hãi (x. Ga 12,27; 13,21). Trong vườn cây Dầu, Đức Giê-su đã vô cùng xao xuyến và tâm sự với ba môn đệ thân tín như sau: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” (Mt 28,37-38). Rồi khi bị treo trên thập giá, Đức Giê-su cũng có cảm tưởng như bị Chúa Cha bỏ rơi, nên đã sợ hãi và đã kêu lớn tiếng rằng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?” (Mt 27,46).

– Tuy nhiên, Đức Giê-su đã chiến thắng nỗi sợ hãi ấy, khi Người quyết vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện” (Mt 26,42). Chính nhờ chiến thắng cảm giác sợ hãi và chấp nhận con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang”, mà nhân loại chúng ta mới nhận được hồng ân cứu độ. Hôm nay Chúa Giê-su Phục Sinh cũng động viên mỗi người chúng ta: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để anh em được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã chiến thắng thế gian” (Ga 16,33).

3) HÃY CAN ĐẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

– “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa về”. Mỗi người chúng ta khi chịu phép rửa tội là chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa. Khi đi theo làm môn đệ Chúa Giê-su, là chúng ta cũng như “Chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16), chúng ta cũng sẽ trải nghiệm các cơn thử thách, xỉ nhục, bắt bớ và giết hại giống như Thầy Giê-su, như lời Người dạy: “Trò không  hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).

– Khi chịu phép Thêm Sức là chúng ta được tăng thêm sức mạnh của Thánh Thần để nên tông đồ đem Chúa đến với mọi người chung quanh. Cần cầu xin ơn Thánh Thần để đón nhận được bảy ơn Thánh Thần, như Hội Thánh cầu xin trong khi ban phép Thêm sức: “Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức – xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa”. Hãy nghe lời Chúa dạy: “Anh em đừng sợ” giống như Hội Thánh sơ khai đã không khiếp nhược nhưng hăng say đi rao giảng Tin Mừng.

– Cần tín thác cậy trông tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Bình thường, ai cũng sợ bị bắt bớ đánh đòn và sợ bị giết chết. Nhưng chúng ta cần tín thác vào Chúa như lời Chúa Giê-su hôm nay: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30). Dù chúng ta đang gặp nhiều gian nguy đau khổ, nhưng chúng ta tin vững vào quyền năng và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.

4. THẢO LUẬN:

1) Ngày nay chúng ta thường lo sợ về những điều gì ? Để thắng được nỗi sợ hãi, chúng ta phải làm gì ? 2) Chấp nhận theo Chúa đòi phải bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Vậy trong cuộc sống hôm nay, chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp với đức tin và sứ mệnh làm chứng cho Chúa ?

5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA CHA TỪ BI NHÂN ÁI. Xin lắng nghe lời con cầu nguyện: Xin hãy ban cho con sức mạnh của ơn thánh, để con loại khỏi lòng trí những đam mê xấu xa tội lỗi. Xin hãy ban cho con sức mạnh của lòng can đảm, để con sẵn sàng chấp nhận mọi nỗi buồn vui xảy tới trong đời con. Xin hãy ban cho con sức mạnh hy sinh, để con quên mình dấn thân gánh vác thập giá đời con và những đau khổ của anh em gây ra cho con. Xin ban cho con một sức mạnh kiên cường, để con không chịu khuất phục trước cường quyền bạo lực và không làm ngơ trước gương xấu tội ác, nhưng sẵn sàng bênh vực công lý và hòa bình. Xin ban cho con một sức mạnh dẻo dai để con biết nâng cao tâm hồn khỏi những lo lắng cơm áo gạo tiền thường ngày. Và cuối cùng xin ban cho con một sức mạnh trổi vượt, để con luôn khiêm nhường, tin cậy chạy đến nép mình trong bàn tay âu yếm của Chúa, và dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa và tha nhân theo thánh ý Chúa.

– LẠY CHÚA. Nhiều lần chúng con đã tỏ ra khiếp nhược sợ hãi khi giao tiếp với người khác, hoặc khi gặp phải những gian nan thử thách liên tiếp xảy đến. Trong những giờ phút đen tối đó, nhiều lần chúng con đã không dám biểu lộ đức tin, đã gián tiếp chối Chúa khi không dám khai tôn giáo của mình trong bản lý lịch; Nhiều khi chúng con không dám làm dấu thánh giá ở chỗ đông người, không dám đeo dây chuyền có hình Thánh giá Chúa, không dám trưng bày bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất trong nhà, không dám mở miệng bênh vực Chúa và Hội Thánh khi nghe những kẻ vô tín phỉ báng bất công. Xin giúp con chăm chỉ học hỏi Lời Chúa để ngày một hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Xin cho con thêm can đảm để dám bênh vực công lý và làm chứng cho Chúa. Xin ban thêm đức tin cho con để nhìn thấy Chúa đang ở trong con, để cậy trông phó thác đời con cho Chúa. Xin cho con sự khôn ngoan, biết khi nào nên nói và nói về Chúa cách nào cho hiệu quả. Nhờ đó, con sẽ chu toàn được sứ mệnh làm tông đồ mở mang Nước Chúa, loan báo Tin Mừng giữa lòng xã hội hôm nay.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 12 TN_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm những bổn phận mà các sứ giả Thiên Chúa phải chu toàn, dù họ là những ngôn sứ, tông đồ, nhà truyền giáo hay đơn giản là những môn đệ. Không được im lặng, hãy làm chứng và đừng bao giờ sợ hãi. Thiên Chúa ở cùng họ.

Gr 20: 10-13

Bài Đọc I trích dẫn “Lời Trần Tình” cuối cùng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Trong hoàn cảnh bị bách hại, ngôn sứ Giê-rê-mi-a kêu cầu cùng Thiên Chúa, phó thác cho Ngài sứ mạng của mình và hát lên niềm vui của mình.

Rm 5: 12-15

Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Phần trích dẫn hôm nay gợi lên phản đề của triều đại ân sủng được Đức Giê-su thiết lập, phá hủy sự thống trị của cái chết và tội lỗi kể từ nguyên tổ A-đam.

Mt 10: 26-33

Tin Mừng trích dẫn “diễn từ về sứ vụ” của Đức Giê-su trong đó thánh Mát-thêu tập hợp những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài nhắm đến sứ mạng tương lai của họ: nói công khai và không sợ hãi, luôn luôn tuyên xưng Ngài là Chúa bất chấp những bách hại.

BÀI ĐỌC I (Gr 20: 10-13)

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một ngôn sứ hấp dẫn nhất trong truyền thống ngôn sứ. Ông thi hành sứ mạng của mình ở Giê-ru-sa-lem vào cuối thế kỷ VII và đầu thế kỷ VI tCn, nghĩa là vào thời kỳ bi thảm đặc biệt đối với quê hương ông: thời kỳ vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong, kinh thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thánh bị quân Ba-by-lon tàn phá (598-587 tCn).

Vốn bản tính hiền hòa không muốn làm mất lòng ai, một tâm hồn rất đa cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận sứ mạng loan báo những tai họa, công bố những sứ điệp ngược lại với những viễn kiến của mọi người. Ông có sức mạnh rao giảng ăn năn sám hối cho các vị lãnh đạo và dân chúng, những người này cứng lòng tin không chịu nghe ông.

Trong tác phẩm của mình, thỉnh thoảng ông bày tỏ những phàn nàn, những xao xuyến, thậm chí những nghi ngờ nữa. Những lời trần tình tản mạn được các nhà biên soạn tập hợp lại dưới nhan đề : “Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” (11: 18-23; 12: 1-6; 15: 10 và 20; 17: 14-18; 18: 18-23; 20: 7-18). Vào Chúa Nhật này, chúng ta đọc Lời Trần Tình sau cùng.

1. Đơn độc một mình

Vào thời kỳ thế lực Át-sua hoàn toàn suy yếu, ấy vậy Giê-rê-mi-a lại loan báo những cuộc tấn công gây tang tóc từ phía một kẻ thù lân bang. Tuy nhiên, những lời loan báo của ông chẳng được ai quan tâm.

Khi Giê-ru-sa-lem bị vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so xâm chiếm vào 598 tCn, và một phần dân cư bị dẫn đi lưu đày, vị ngôn sứ báo trước cuộc lưu đày sẽ dài lâu, nhưng đó sẽ là cuộc thử thách có lợi, phong phú về phương diện tinh thần. Người ta gán cho ông có tinh thần chủ bại.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn báo trước những tàn phá mới càng trầm trọng hơn. Khi người ta đọc cho vua Giê-hô-gia-kim nghe những sấm ngôn của vị ngôn sứ, đọc đến đâu vua xé và ném vào lò lửa. Bằng hành động biểu tượng, ngôn sứ Giê-rê-mi đập vỡ chiếc bình gốm để cảnh tỉnh đồng bào ông đó sẽ là số phận của Giê-ru-sa-lem. Ông trở nên trò cười cho mọi người. Một ngày kia, trong Đền Thờ, ông công bố rằng những tàn phá sẽ sớm xảy đến. Người ta bắt ông, đánh đòn ông, xích ông lại. Một lần khác, người ta ném ông vào một cái giếng cạn đầy bùn.

Dân chúng chán ngấy vị ngôn sứ loan báo tai họa này. Thân nhân của ông, bạn bè của ông, những người đồng hương của ông đều âm mưu hãm hại ông:

“Con nghe biết bao người vu cáo:

‘Kìa lão “Tứ phía kinh hoàng!, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’

Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã.

Họ nói: ‘Biết đâu nó chẳng mắc lừa,

rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó’” (Gr 20: 10).

Ở Giê-ru-sa-lem, có những ngôn sứ khác đồng thời với ông tuyên sấm bình an, nhưng họ không được Đức Chúa ủy quyền. Giê-rê-mi-a biết rằng những lời của ông thì chân thật vì chúng phát xuất từ Thiên Chúa. Ông sống trước những biến cố khủng khiếp mà ông tiên báo và ông cảm thấy một nỗi phiền muộn mênh mông.

2. Thiên Chúa sẽ báo oán cho những phận hèn

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a chỉ nương tựa vào một mình Đức Chúa. Vốn là một con người cầu nguyện và nội tâm, ngôn sứ không ngừng đối thoại với Thiên Chúa. Ông phó thác công việc của ông cho Ngài, vì biết rằng Đức Chúa là Đấng bênh vực những người đơn côi cô thế và phận hèn. Vị ngôn sứ mong ước được thấy đối thủ của ông phải hổ ngươi bẽ mặt:

“Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con

như một trang chiến sĩ oai hùng.

Vì thế những kẻ từng hại con

sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con.

Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề:

đó là nỗi ô nhục không thể nào quên” (Gr 20: 11)

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a diễn tả nhiều lần niềm ước mong này. Nhưng ông không bao giờ có ý định trả thù đối với bất kỳ cá nhân nào. Ông hoàn toàn phó thác vào duy chỉ một mình Thiên Chúa. Thỉnh thoảng ông thôi phàn nàn để cầu bầu cho những kẻ thù của ông.

3. Niềm hoan hỉ

Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” kết thúc với một tiếng reo vui, tràn đầy niềm tín thác, vì ông tin chắc rằng lời nguyện xin của ông sẽ được nhậm lời:

“Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo” (Gr 20: 13).

Khi thành thánh Giê-ru-sa-lem bị quân Ba-by-lon đánh chiếm trong cảnh hỗn loạn vào năm 587 tCn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a được nể trọng và không phải bị dẫn đi lưu đày. Trong cảnh tang thương lớn lao của dân tộc ông, từ vị ngôn sứ loan báo tai họa, ông trở thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng. Ông khẳng định rằng không có gì bị mất đi, Thiên Chúa sẽ thiết lập một Giao Ước mới, Giao Ước sẽ được ghi khắc không phải trên bia đá mà trong lòng dạ của con người. Ông tiên cảm một tôn giáo mang chiều kích nội tâm hơn bằng chính cuộc sống của mình.

Sau khi ông qua đời, ảnh hưởng của ông thật lớn lao. Không một tác phẩm ngôn sứ nào được những người lưu đày ở Ba-by-lon đọc đi đọc lại nhiều như tác phẩm của Giê-rê-mi-a. Việc báo ứng mà ông đã từng khẩn nguyện với Thiên Chúa thuộc trật tự tâm linh.

BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-15)

Trong chương năm thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô thiết lập tiền đề về ơn cứu độ phổ quát Đức Giê-su đem lại. Ngài là Đấng Cứu Độ của muôn người: không ai có thể được cứu mà không qua Ngài. Mọi người là những tội nhân, vì thế, tất yếu đều phải qua Ngài để được công chính hóa. Thánh nhân ca ngợi Đức Giê-su đích thật là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát. Trên cõi thế này, không ai có thể nên công chính nếu Đức Giê-su đã không hành động ở nơi người ấy.

Như trong chương trước đó, thánh Phao-lô đã ra sức thiết lập tiền đề của mình khởi đi từ truyền thống Kinh Thánh: tổ phụ Áp-ra-ham được cứu nhờ tin. Ở đây cũng vậy, thánh nhân lại viện dẫn Cựu Ước như phản đề. Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, nhờ chỉ mình Ngài mà ơn cứu độ đã xâm nhập trần gian. A-đam là tội nhân nguyên khởi, qua ông mà tội đã lan tràn đến hết mọi người. Cựu Ước và Tân Ước đối xứng với nhau thật hoàn hảo. Hình ảnh Cựu Ước loan báo được ứng nghiệm trong thế giới Ki-tô giáo. Rõ ràng toàn bộ chương trình cứu độ xuất phát từ chính Thiên Chúa. Tấm màn đen tối của Cựu Ước làm rực sáng lên Đức Ki-tô trong Tân Ước. Dự định của thánh nhân dễ dàng nhận ra: phải lớn tiếng cao rao ơn cứu độ phổ quát nơi Đức Giê-su Ki-tô.

Như vậy, chúng ta phải ghi nhận rằng thánh Phao-lô thiết lập tiền đề thần học của mình ở Rm 5: 12-21. Các câu 5: 1-11 hình thành nên một loại chuyển tiếp giữa tiền đề thần học này và tiền đề thần học trước đó: sự công chính hóa không bởi công nghiệp của Lề Luật nhưng bởi đức tin. Đó là tiền đề mà chúng ta đang tìm hiểu ở đây.

Bản văn mà Phụng Vụ đề xuất cho chúng ta chỉ là một phần của đề tài mà thánh Phao-lô trình bày. Đề tài phải được đọc trên hậu cảnh mà chúng ta vừa mới gợi lên. Sự hiểu biết của đoạn trích này tùy thuộc vào hậu cảnh này.

Câu 12 bắt đầu một sự đối chiếu vĩ đại nhằm diễn tả tiền đề của thánh Phao-lô, vì thế thống trị toàn bộ bản văn và sẽ được nối tiếp chỉ ở câu 18. Hai thành viên của sự đối chiếu được tách riêng ra bởi một loạt những khảo sát thần học, những khảo sát này gặp thấy vài khía cạnh của vấn đề. Tư tưởng của thánh Phao-lô xô đẩy lẫn nhau; cường độ của suy tư vượt lên trên trật tự hợp lý. Trong niềm hưng phấn của cuộc tranh luận, thánh nhân suy nghĩ nhanh hơn là nói.

Để làm sáng tỏ hơn, chúng ta sẽ trình bày sự đối chiếu theo sơ đồ như sau: vì một người duy nhất, tội lỗi xâm nhập thế gian, và từ đó, tội lỗi gây nên cái chết (5: 12); cũng vậy, vì một người duy nhất, sự công chính hóa đã được thực hiện, và từ đó, ơn công chính hóa này đem lại sự sống (5: 18).

Do từ sự đối chiếu này, bản văn phụng vụ chỉ giữ lại câu 12, vì thế, câu này chưa hoàn tất, thậm chí còn rườm rà phức tạp nữa. Vế thứ nhất của câu 12: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên cái chết” nối lại lập luận với điều đi trước: tóm lại, vì xuất hiện trong chức năng cứu độ viên mãn của mình, Đức Giê-su đặt mình trong tư thế đối lập với nguyên tổ A-đam. Vì bất tuân, nguyên tổ A-đam đã đem tội lỗi vào thế gian và hậu quả của nó là sự chết đã gây tác hại ngay tức khắc trên thân phận con người.

Sự chết cô động và tóm gọn tất cả sự dữ trong thế gian. Sự chết tinh thần hệ tại nơi sự đoạn tuyệt giữa con người với Thiên Chúa mà sự chết thể l‎ý xem ra là dấu chỉ rõ ràng nhất. Thánh Phao-lô lập luận trong viễn cảnh Cựu Ước, theo đó có một sự liên kết chặt chẽ giữa tội lỗi và mọi hình thức sự dữ trong thế gian. Con người phải chịu trách nhiệm đưa sự dữ vào trong công trình tạo dựng vốn tốt lành. Con người đã làm hỏng công trình của Thiên Chúa. Suy tư này dẫn chúng ta trực tiếp vào trọng tâm của giáo thuyết về tội nguyên tổ.

Vế thứ hai của câu 12 có thể được hiểu theo hai cách tùy theo cách giải thích của đại từ liên hệ Hy lạp: đại từ này có thể quy chiếu đến số nhiều: “mọi người” hay số ít: “người này” (A-đam) hoặc “sự chết” của vế đi trước đó. Theo cách hiểu thứ nhất: “Sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội”, thánh nhân nhấn mạnh rằng, do tội của chính mình, con người liên đới với tội Ađam. Theo cách hiểu thứ hai: Sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì A-đam mọi người đã phạm tội”, thánh nhân soi sáng mối liên hệ nhân quả giữa tội A-đam và tội của toàn thể nhân loại, tội của toàn thể nhân loại một cách nào đó chuẩn nhận tội nguyên tổ. Ý nghĩa của câu không thay đổi là mấy nếu đại từ liên hệ được quy chiếu không đến nguyên tổ A-đam nhưng đến sự chết: “Sự chết đã lan tràn tới mọi người vì tình trạng của sự chết (gây ra bởi tội A-đam), mọi người đã phạm tội”. Văn phạm không giúp giải quyết cuộc tranh luận giữa các nhà chú giải. Vả lại, văn phạm không nêu lên vấn đề về ‎ý nghĩa sâu xa của đoạn văn, nó đem đến những dấu nhấn khác nhau trong một sự khẳng định tự căn bản vẫn là như nhau.

Các câu 13-14 nhấn mạnh sự kiện theo đó mọi người đều là tội nhân. Người ta có thể nghĩ rằng những người trước ông Mô-sê đã không bị tội tác hại. Họ đã không biết luật, vì thế họ đã không thể vi phạm luật. Tuy nhiên, phải nhận chân rằng họ cũng chết, cũng bị thống trị và nghiền nát do hậu quả của tội. Vì thế, người ta có thể kết luận rằng chính họ cũng là những tội nhân. Ở phần cuối của câu: “A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới” thánh nhân dẫn đưa chúng ta từ hình bóng của Cựu Ước đến thực tại của nó trong Tân Ước.

Phản đề khởi sự ở câu 12 thật sự được khai triển ở câu 15. Đức Ki-tô trổi vượt vô cùng tận trên nguyên tổ A-đam. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi của con người. Nếu như tội lỗi của con người có thể hủy hoại tất cả công trình sáng tạo, thì ân sủng của Thiên Chúa đổi mới thế gian biết chừng nào! Thánh Phao-lô tiếp tục nhấn mạnh sự siêu vượt của Đức Ki-tô trong mối liên hệ với nguyên tổ A-đam ở những câu 16-17 và tiếp đó lấy lại sự đối chiếu còn bỏ lửng ở câu 12.

TIN MỪNG (Mt 10: 26-33)

Bản văn Tin Mừng Mát-thêu hôm nay được trích từ diễn từ thứ hai của Đức Giê-su được gọi “diễn từ về sứ vụ” (10: 5-42). Thánh Mát-thêu đã kết tập ở đây những lời khuyên bảo và những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài, nhắm đến sứ mạng tương lai của họ.

Đức Giê-su vừa mới phác họa bức tranh tăm tối về những khó khăn mà các Tông Đồ sẽ phải đối đầu: những thù ghét sẽ nổi lên dữ dội chống lại họ như đã chống lại Thầy họ, những lời vu khống mà người ta sẽ cáo tội họ như người ta cáo tội Thầy họ. Nhưng đừng để nỗi sợ hãi làm mình nao núng.

1. Sức mạnh của sứ điệp

Bất chấp thái độ thù địch, các môn đệ đừng sợ, hãy mạnh dạn lớn tiếng công bố giữa thanh thiên bạch nhật sứ điệp mà Ngài đã trao gửi cho họ: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (10: 26).

Đức Giê-su giáo huấn chỉ một nhóm nhỏ môn đệ trong chỗ thân tình, còn với đám đông Ngài chỉ dạy bằng dụ ngôn; tuy nhiên, khi thời gian đến “không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su sẽ đưa Mặc Khải đến hồi viên mãn. Lúc đó, các môn đệ của Ngài, các thừa tác viên của Lời Ngài, những người phục vụ Lời Ngài, sẽ phải thông truyền Lời Ngài cách công khai cho hết mọi người, công bố lớn tiếng Lời Ngài “trên mái nhà”. Mái nhà, theo kiểu xây nhà của người xứ Pa-lét-tin, là một sân thượng, ở đó vào lúc chiều hôm mát mẻ người ta trò chuyện với nhau từ sân thượng này sang sân thượng khác. Đức Giê-su đối lập Mặc Khải chưa hoàn tất với Mặc Khải nên trọn, cũng như sự nhát đảm hiện nay của nhóm Mười Hai với lời rao giảng đầy quyền năng của họ sau biến cố Ngũ Tuần.

2. Những kẻ bách hại không thể giết được linh hồn.

Các môn đệ sẽ trải qua những nhục hình, đòn vọt, tù đày…, và phần lớn trong số họ được phúc tử đạo. Tuy nhiên, những kẻ bách hại không thể làm gì được trên lương tâm của họ, đức tin của họ, chính trên pháo đài nội tâm này mà tâm hồn của mỗi người hình thành nên. Vì thế, Đức Giê-su khuyên các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Chính Thiên Chúa mà các môn đệ phải sợ vì chỉ mình Ngài mới có quyền năng ấn định số phận đời đời của con người. Như vậy, thánh Mát-thêu đối lập sợ hãi con người với sợ hãi Thiên Chúa. Theo nghĩa Kinh Thánh, “sợ hãi Thiên Chúa” dẫn đến một cuộc sống công chính, tránh xa tội lỗi. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô một cách nào đó tóm lược lời nói này: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người là Chúa ngự trị trong lòng anh em.” (1Pr 3: 14-15).

3. Tình phụ tử của Thiên Chúa.

Những lời khuyên bảo của Đức Giê-su được thánh Mát-thêu sưu tập và đặt bên cạnh nhau khiến gây nên những trái ngược. Sau Thiên Chúa là vị Thẩm Phán, lại đến Thiên Chúa là Phụ Tử, Ngài ân cần săn sóc các thụ tạo của Ngài, dù chúng chỉ là những chim sẻ không đáng giá là bao.

Kiểu nói: “Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” được mượn ở Cựu Ước: “Không một sợi tóc nào trên đầu Giô-na-than sẽ rụng xuống đất, vì hôm nay ông đã hành động cùng với Thiên Chúa” (1Sm 14: 45; x. 2Sm 14: 11; 1V 1: 52), có nghĩa ơn quan phòng của Thiên Chúa.

4. Lời chứng của Chúa Con.

Viễn cảnh của những cuộc bách hại là điểm nhấn của diễn từ về sứ vụ. Giờ đây thánh Mát-thêu gợi lên những nguy cơ chối đạo có thể bất ngờ xảy đến: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Theo lối hành văn đối xứng rất được người Do thái ưa chuộng, lời khẳng định này hàm chứa lời tuyên bố tương tự theo lối phủ định: “Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kỹ thuật hành văn này nhấn mạnh lời hứa của Đức Giê-su vào giờ xét xử thời chung cuộc.

Bản văn Tin Mừng Mát-thêu này có một hậu cảnh bi thảm. Nó loan báo một thời kỳ bách hại dữ dội trong lịch sử. Những kẻ bách hại sẽ bất ngờ xuất hiện rất sớm. Vào năm 36, thánh Tê-pha-nô sẽ mở đầu một danh sách dài của những người tử đạo, tiếp đó thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan, vào năm 42. Theo sau những bách đạo của chính quyền Do thái giáo, đến những bách đạo của chính quyền Rô-ma. Bản văn của sách Khải Huyền đã nêu rõ lời bối cảnh này: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi phải chịu: này ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi… Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống”  (Kh 2: 10).

Về mục lục

.

Exit mobile version