CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN, C
Lời Chúa: 2 Sm 12,7.10-13; Gl 2,16.19-21; Lc 7,36-8,3
——-
1. Yêu mến nhiều, được tha nhiều (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Tình yêu cứu độ (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Hãy cảm thông với nhau (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Xét mình trước khi xét đoán người khác (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Chân lý và lòng xót thương phải luôn tồn tại (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
6. Sứ điệp về Lòng Thương Xót(Lm. Văn Hào, SDB)
7. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Tội, tình, thương, tha (Trầm Thiên Thu)
9. Chủ Nợ chí ái (AM. Trần Bình An)
10. Lòng tin yêu xóa sạch tội lỗi (JM. Lam Thy, ĐVD)
11. Tội lỗi – Sự tha thứ (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
12. Hãy sửa sai (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
13. Tình yêu phủ lấp muôn tội lỗi (Dã Quỳ)
14. Thiên Chúa giàu Lòng xót thương(Lm. Giuse Nguyễn)
15. Thực hành lòng thương xót (Lm. Đan Vinh)
16. Yêu mến nhiều (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
17. Đức Giê-su muốn được gần gũi kẻ tội lỗi (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
18. Tội nhiều, được tha nhiều, nên yêu mến nhiều (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
19. Chị hãy đi bình an (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
20. Chúa Nhật 11 Thường niên_C (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Năm Thánh Lòng Thương Xót là dịp để chúng ta đón nhận ơn tha thứ của Chúa. Những bài đọc Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay đều diễn tả lòng bao dung của Chúa đối với các tội nhân. Tự bản chất, con người dễ dàng sa ngã phạm tội. Lịch sử cứu độ cũng là lịch sử ghi lại lòng thương xót của Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ nếu con người thành tâm sám hối trở về.
Đavít là vua Do Thái. Tuy vậy, ông không ăn ở xứng đáng với bậc “phụ mẫu chi dân”. Ông đã cướp vợ của ông Uria, là một viên tướng trung thành tận tụy. Tàn nhẫn hơn, Đavít đã lập mưu giết ông Uria bằng cách đưa ông vào nơi mặt trận xung yếu. Ngôn sứ Nathan đã được Chúa sai đến quở trách Đavít.
Qua câu chuyện vua Đavít, Lời Chúa muốn khẳng định với chúng ta: tội lỗi không chỉ là xúc phạm đến cá nhân một con người, nhưng là xúc phạm đến Chúa, là “khinh thường Chúa và làm những điều gian ác trước mặt Ngài” (Bài đọc I). Chúa trừng phạt Đavít, vì ông xúc phạm đến người nghèo và đã có những hành động bất công. Dù là bậc vua chúa, Đavít không được cậy quyền mà xúc phạm người yếu thế. Chúa là Đấng công minh, Ngài bênh vực những kẻ nghèo hèn và trừng phạt những ai ức hiếp họ.
Qua lời ngôn sứ Nathan, vua Đavít đã nhận ra tội lỗi của mình và thành tâm sám hối, nên được Chúa thứ tha. Tâm tình sám hối của Đavít sau này được diễn tả qua các Thánh vịnh, nhất là qua đời sống đạo đức. Đến cuối đời, ông vẫn một niềm kính sợ Chúa. Đavít đã phạm tội và đã ăn năn sám hối, nên xứng đáng đón nhận tình thương của Chúa. Đối với những tội nhân được ơn hối cải, Chúa chóng “quên” quá khứ của họ. Người không chỉ tha thứ tội lỗi của quá khứ, mà còn ban cho họ được phục hồi và hội nhập cuộc sống bình thường.
Nếu Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, bao dung tha thứ, thì con người lại quá ích kỷ. Ông Simon, người đã mời Chúa Giêsu đến nhà dùng tiệc, là đại diện cho lối suy nghĩ nhỏ nhen này. Khi thấy người phụ nữ tội lỗi đến và xức dầu thơm chân Chúa, ông đã tỏ ra khó chịu và thắc mắc trong lòng. Ông bực mình người phụ nữ tội lỗi xuất hiện tại nhà ông. Ông cũng không vui vì thấy Chúa Giêsu làm thinh cho chị xức dầu. Dường như ông muốn mọi việc phải được phân biệt tốt xấu rõ ràng. Ông không thấy được rằng, đối với người phụ nữ, việc gặp Chúa Giêsu sẽ giúp chị sang trang mới của cuộc đời, được ơn tha thứ và làm lại từ đầu. Dưới ánh mắt của ông Simon là một người biệt phái, chị chỉ là đồ rác rưởi phải xa lánh như một thây ma hay một đồ vật gây ô uế.
Thái độ kỳ thị của ông Simon cũng là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Có người đã một lần lầm lỗi, nay muốn hoàn lương trở về cuộc sống bình thường, nhưng dư luận xung quanh không cho họ cơ hội để tái hòa nhập cuộc sống. Những dị nghị, dèm pha; những ánh mắt nghi ngờ chế giễu, làm họ tổn thương và bi quan chán nản. Một tác giả đã viết: “Các thánh đều có một quá khứ, và tội nhân đều có một tương lai”. Điều đó có nghĩa chúng ta đều là những con người còn nhiều yếu đuối và khuyết điểm, nếu biết từ bỏ quá khứ tội lỗi thì có thể trở thành thánh nhân. Cũng vậy, một người dù tội lỗi, nhưng cánh cửa tương lai vẫn không khép lại trước mặt họ, nếu họ biết can đảm chỗi dậy và làm lại từ đầu, họ sẽ có cơ hội thành công.
“Ai yêu mến nhiều thì được tha nhiều”. “Yêu mến” mà Chúa Giêsu nhắc tới ở đây, chính là Đức tin và tâm tình sám hối. Người phụ nữ đã nhận ra tội lỗi của mình. Chị đã ăn năn và được Chúa tha thứ khi Người tuyên bố: “Tội con đã được tha rồi!”. Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu đã giúp chị tìm lại tâm hồn thanh thản và bình an.
Tin vào Chúa sẽ giúp chúng ta đón nhận lòng thương xót của Ngài. Nhờ tin mà con người được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã quả quyết “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Bài đọc II). Đây cũng là lý tưởng của người tín hữu. Mỗi ngày sống trên đời là một bước đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, đến mức chúng ta nên một với Ngài.
Đón nhận lòng thương xót của Chúa, mỗi chúng ta hãy trở nên những chứng nhân rao truyền lòng nhân hậu của Ngài. Đó chính là lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Năm Thánh này.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bữa tiệc hôm nay diễn ra trong một khung cảnh đầy mâu thuẫn. Một bên là căn nhà sang trọng của thủ lĩnh biệt phái, một bên là Chúa Giêsu ăn mặc đơn sơ trong bộ quần áo của dân nghèo. Một bên là ông Simon người được coi là đạo cao đức trọng, một bên là người phụ nữ bị coi là đại tội nhân. Một bên là mâm cao cỗ đầy, mọi người vui tươi ăn uống, một bên là người phụ nữ quì mọp sát đất, không dám ngẩng mặt lên, gục đầu khóc lóc. Chính trong khung cảnh đầy mâu thuẫn, trái ngược ấy, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu thương bao la của Người.
Đó là tình yêu bao dung chấp nhận mọi người. Chúa chấp nhận ông Simon dù Chúa không ưa lối sống của ông và của những người biệt phái, vì họ tự tôn cho rằng mình đạo đức mà khinh miệt những người khác. Hơn nữa, lối sống đạo của họ chỉ là hình thức giả dối bề ngoài. Thế nhưng Chúa vẫn chấp nhận ông, chấp nhận lời mời của ông, đến dự tiệc với ông, ngồi đồng bàn với ông, chia sẻ món ăn và câu chuyện với ông. Không chỉ chấp nhận ông Simon, Chúa còn chấp nhận người phụ nữ bị coi là tội lỗi công khai. Chị vào nhà trong ánh mắt khinh thị của mọi người. Nhưng Chúa vẫn điềm nhiên để chị khóc ướt chân mình. Chúa đã để chị hôn chân mình. Chúa đã để chị lấy tóc lau chân mình. Chúa đã để chị xức dầu tràn đầy trên chân mình. Còn hơn thế nữa, Chúa lên tiếng công khai bênh vực chị. Nếu Chúa công khai bày tỏ thịnh tình với ông Simon khi đến nhà ông dự tiệc thì Chúa cũng công khai bày tỏ thịnh tình với người phụ nữ khi lên tiếng bênh vực chị. Chúa chấp nhận tất cả mọi người.
Đó là tình yêu bao dung tha thứ mọi tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ tội lỗi là thái độ bao dung tha thứ. Chúa để cho chị vào nhà. Hơn thế nữa, Chúa để cho chị gục đầu vào chân Chúa, khóc ướt chân Chúa, lấy tóc lau chân Chúa và xức dầu thơm lên chân Chúa. Chị làm điều ấy ở nơi kín đáo còn đỡ gây chống đối, đằng này chị làm điều ấy công khai trước mắt mọi người, mà lại là những người ghen ghét, chống đối và kết án chị. Ánh mắt và thái độ của những người chung quanh, đặc biệt là của ông Simon không lọt ngoài tầm mắt Chúa. Nhưng Chúa vẫn để chị làm những gì biểu lộ lòng thống hối, lòng yêu mến của Chị. Sau đó Chúa còn công khai lên tiếng ca ngợi tình yêu và niềm tin của Chị và công khai tha thứ cho chị.
Đó là tình yêu bao dung hoán cải. Chúa không ưa thói hợm hĩnh, giả hình của người biệt phái. Nhưng Chúa vẫn tìm cách hoán cải họ. Vì thế hôm nay Chúa nhận lời đến nhà ông Simon dự tiệc. Thấy thái độ của ông đối với người phụ nữ và những ý nghĩ thầm kín của ông phê phán Chúa, Chúa không để ông trong lầm lạc, nhưng đã lên tiếng giải thích cho ông hiểu những điều then chốt trong đời sống đạo và những gì có giá trị thực sự trước mặt Chúa. Chúa phải tốn công giải thích cặn kẽ vì Chúa yêu thương ông, muốn ông hiểu và hoán cải tâm hồn.
Đó là tình yêu ban ơn cứu độ. Tất cả những gì Chúa làm là mong đem ơn cứu độ cho loài người, cho tất cả mọi người không loại trừ một ai. Chúa muốn cứu độ cả ông Simon là người tưởng lầm mình đạo đức nhưng chỉ là đạo đức bên ngoài. Chúa muốn cứu độ cả người phụ nữ bị mang tiếng tội lỗi, bị mọi người khinh miệt, loại trừ. Tình yêu của Chúa không phải là thứ cảm tính nhất thời, đem đến an ủi nhất thời. Đó là tình yêu đem đến ơn cứu độ, đem đến hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu cho con người.
Lạy Chúa, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Lạy Chúa, xin cứu độ con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thường xét đoán và khinh miệt, loại trừ người khác như ông Simon biệt phái không?
2- Bạn có thái độ khiêm nhường thống hối, tha thiết yêu mến như người phụ nữ tội lỗi không?
3- Chúa Giêsu nêu gương gì cho bạn trong cách đối xử với mọi người, người tội lỗi cũng như người tự xưng mình công chính?
4- Khi yêu thương người khác, bạn có dẫn người khác đến ơn cứu độ không?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống hôn nhân có vui có buồn. Vui thì chẳng mấy người nói ra nhưng buồn thì luôn được tô phồng qua những câu chuyện “tám” hằng ngày với nhau, có khi qua cả báo chí, mạng truyền thông. Điều quan yếu để có hạnh phúc gia đình là phải cảm thông và tha thứ cho nhau, nhưng đáng tiếc nhiều đôi vợ chồng đã không kềm hãm tính nóng giận của mình trước sai lỗi của nhau.
Có hai chàng say rượu nói chuyện với nhau:
“Mày sẽ nói gì khi về nhà trễ?”
“Ngắn thôi: anh đã về.”
“Chỉ thế thôi à?”
“Chỉ thế thôi, còn lại thì vợ tao sẽ nói…”
Những chuyện cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt ấy cũng là nguyên nhân cho những đổ vỡ thiếu chung thủy của người bạn đời khi không tìm được sự cảm thông nơi người bạn trăm năm của mình.
Đặc biệt trong xã hội văn mình hôm nay còn có một nguyên nhân dẫn đến sự phản bội nhau chính là mạng truyền thông ngày một tiến bộ hơn. Người ta dễ ngoại tình ảo qua Internet hay điện thoại thông minh. Làm sao có thể biết chồng hay vợ đang xem gì, đọc gì trên internet, và email ở phòng bên ? Bên cạnh đó, sự lạm dụng Internet cũng đem đến đổ vỡ tình cảm, tình yêu của nhiều vợ chồng.
Chúng ta vẫn thường nghe những câu nói đại loại như:
+ “Ông lo ôm nó mà không ôm tôi, tôi sẽ đi ôm người khác!”
Hoặc:
+ “Bà cứ ôm cứng nó mà không ôm tôi, tôi sẽ phá nát cái gia đình này cho mà biết!”
Những câu nói thường xuyên mà nhiều người vẫn thường nói hoặc nghe nói về những lạm dụng computer, email, internet này đã trở thành sự thật chua chát đối với nhiều gia đình khi mà người chồng hoặc người vợ đã không ý thức hoặc kìm hãm được đam mê của mình trong việc sử dụng những tiến bộ của khoa học.
Nếu biết rằng cuộc sống hôm nay nhiều cám dỗ thì con người hôm nay cần cảm thông tha thứ cho nhau. Tha thứ không phải là đồng lõa cái sai mà tha thứ để giúp nhau làm lại cuộc đời. Tha thứ không phải là im lặng mà là giúp nhau sửa đổi cái sai để đi đến hoàn thiện.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy cách ứng xử của Chúa Giê-su và người biệt Phái thật khác nhau. Chúa Giê-su cảm thông. Người biệt phái thì khắc khe muốn loại trừ. Chúa Giê-su nhân từ. Người biệt phái thì bất khoan dung. Chúa Giê-su tha thứ. Người biệt phái vẫn để định kiến che lấp lòng bác ái bao dung.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu ai cũng sống cảm thông tha thứ cho nhau. Ai cũng cần người khác tin tưởng thì mình cũng hãy tin tưởng anh em. Ai cũng cần người khác cảm thông thì mình cũng hãy cảm thông với tha nhân. Nhất là trong đời sống vợ chồng xin đừng khắc khe với nhau. Hãy sống chan hòa yêu thương. Hãy tạo cho gia đình mình một không khí bình yên hạnh phúc. Đừng đố kỵ, ghen tương gây nên những đổ vỡ gia đình. Hãy sống bao dung để gìn giữ gia đình được mãi hạnh phúc trăm năm.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức mình là tội nhân, thế mà Chúa vẫn yêu thương để rồi cũng biết sống tha thứ cho nhau. Xin cho chúng ta biết học nơi Chúa luôn sống bao dung nhân ái hầu giúp nhau thăng tiến thay vì kết án loại trừ nhau. Nhất là trong năm Lòng Thương Xót, xin cho mỗi người biết xót thương nhau như Chúa đã xót thương chúng ta. Amen.
.
XÉT MÌNH TRƯỚC KHI XÉT ĐOÁN NGƯỜI KHÁC
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trung tâm của đoạn Tin Mừng hôm nay là người đàn bà tội lỗi, trước mặt người đời, bà không được như họ, vì bà đã mất hết danh dự, nhưng bà đã nhận ra rằng bà vẫn còn có cái để cho Chúa Giêsu. Với giọt nước mắt, mớ tóc, dầu thơm, nhất là bằng ngôn ngữ của thân xác, bà đã chiếm trọn trái tim Chúa Giêsu, và bày tỏ tình yêu cùng lòng kính trọng của mình đối với Người.
Chúa Giêsu và người Biệt phái
Thánh Luca kể về một người Biệt Phái có tên là Simon mời Chúa Giêsu đến dùng bữa tối tại nhà ông. “Biệt Phái” có nghĩa là “tách khỏi“, người này được tách ra khỏi người kia ! Thời Chúa Giêsu, tại Palestin đã có khoảng 6.000 người. Họ giảng dạy trong các hội đường, tự coi mình là mô phạm về tôn giáo cũng như việc tuân giữ Luật và các tập tục của tiền nhân. Họ cho rằng các tập tục truyền thống cũng có giá trị như Kinh Thánh (x.Mc 7, 8-13).
Khi nhận lời mời, Chúa Giêsu vẫn giữ được tự do của Chúa. Người Biệt Phái là chủ nhà. Chung quanh ông còn có bạn bè, đồng nghiệp về tôn giáo. Trong số khách mời đặc biệt, Chúa Giêsu không được chủ nhà tiếp đãi cách trọng nhất, ông bận tâm để ý đến bạn bè của ông hơn là những nhà giảng thuyết lưu động. Ông rửa chân cho các khách mời của mình, đón tiếp họ, trao hôn bình an và đổ dầu thơm lên đầu theo tục lệ. Chúa Giêsu thì không có ba điều trên (x. Lc 7,44-46).
Chúa Giêsu và người đàn bà
Chúng ta biết rằng người đàn bà đã bước vào phòng ăn, trong thực tế bà không được mời. Bà mang đến cho Chúa Giêsu ba thứ mà Simon đã bỏ qua để bầy tỏ lòng mến khách. Bà không bận tâm đến chủ nhà. Chủ của bà chính là Chúa Giêsu. Bà lấy nước mắt mà rửa chân Chúa, lấy tóc mình mà lau và lấy dầu thơm hảo hạng mà đổ lên đầu Chúa (x. Lc 7,37-38). Ông Simon vấp phạm, vì thấy Chúa Giêsu để cho người đàn bà tội lỗi tỏ bày sự kính trọng như thể yêu thương ở nơi công cộng.
Rõ ràng người biệt phái khinh thường phụ nữ. Đối với Chúa Giêsu, Simon cho rằng Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, cứ tưởng tượng mà xem một tiên tri sao lại để cho người đàn bà, mà bà này là người tội lỗi, lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mình mà lau nữa, lại còn làm công khai trước mặt mọi người (x. Lc 7, 39). Simon nhìn hành động của người đàn bà với “tư tưởng xấu”. Có ai đó đã nói, “hãy nói cho tôi biết điều bạn đang nghĩ tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai!“. Và Dostoevskij viết “nếu những suy nghĩ của chúng ta đã có mùi, nó sẽ làm băng hoại thế giới“.
Người biệt phái để Chúa Giêsu giải thích : “Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông …” (Lc 7, 40). Và Chúa đã cho ông một bài học xứng đáng về “cách đối nhân xử thế : “Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi… Ông đã không hôn chào Tôi… Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã làm tất cả… ” (Lc 7, 44-47).
Người Biệt phái và người đàn bà tội lỗi
Simon xem sự so sánh mình với tội lỗi, có thể là một cô gái điếm, và thấy rằng dưới cái nhình của Chúa Giêsu, bà có một chỗ đứng tuyệt vời trong nhà ông, người biệt phái. Người đàn bà là người trung tâm của câu chuyện Phúc Âm hôm nay không nói một lời. Nhưng Chúa Kitô bảo vệ bà và nói với bà : “Hỡi bà, đức tin con đã cứu con. Tội ngươi đã được tha.” (Lc 7, 48-49)
Simon thấy bà chỉ là “gái mại dâm“, Chúa Giêsu thấy nơi người đàn bà nghèo này có bao điều tốt đẹp. Vì thế Chúa bảo Simon: “Ông thấy người đàn bà này chứ?” (Lc 7, 40). Nhìn bà ấy với thiện cảm, người ta sẽ khám phá ra lịch sử của cá nhân bà cũng như phẩm chất con người và nhân phẩm tuyệt vời của bà.
Simon người Pharisêu đã quên mất rằng ông cũng là một tội nhân, có lẽ ít tội lỗi hơn so với người đàn bà sấp mình dưới chân Chúa Giêsu, nhưng ông vẫn là tội nhân. Gặp bà ông không có mấy thiện cảm. Ông là mẫu người dễ dàng nhìn thấy cái rác trong mắt của người khác, nhưng bỏ qua cái đà trong mắt mình.
Chúng ta phải đọc lại Tin Mừng khác để xem cách thức Chúa Giêsu đối xử với Maria Magdalêna (x. Lc 8, 2), người Samaritanô (x. Lc 10, 29-37), bà góa phụ nghèo bỏ hai đồng xu vào thùng tiền Đền thờ (x. Lc 21, 1-4), người phụ nữ ngoại tình (Ga 8, 1-11), người phụ nữ bị bệnh xuất huyết (x. Lc 8, 43-48) v.v. Hơn nữa, đoạn Tin Mừng hôm nay kết thúc khi nói rằng Chúa Giêsu đi từ làng nay qua làng nọ, theo Chúa không chỉ có nhóm Mười Hai mà còn có nhiều phụ nữ Chúa đã cho khỏi cũng đi theo Người. Thánh Luca nhắc tên của ba người đàn bà ấy. Đó là điều không tưởng vào thời của Chúa Giêsu. Người ta cấm các phụ nữ không được tham dự lớp học của các giáo sĩ Do Thái! (x. Lc 8, 1-3)
Hôm nay, qua ông Simon người Pharisiêu, Chúa Kitô đòi hỏi chúng ta nhìn lại chính mình trước khi xét đoán người khác, tránh mắc phải những nghĩ lễ bề ngoài mà nghĩ rằng chúng ta tốt hơn những người không thuộc về “tầng lớp xã hội chúng ta”.
Theo cái nhìn của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là “quan án“, nhưng “là người tha nợ“, tha thứ tội nhân. Và Chúa đòi hỏi chúng ta phải có thái độ tương tự đối với người khác: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Amen.
.
CHÂN LÝ VÀ LÒNG XÓT THƯƠNG PHẢI LUÔN TỒN TẠI
Jos. Vinc. Ngọc Biển
“Công bố Lời Thiên Chúa, không bao giờ được tách rời khỏi sự cảm thông về yếu đuối của con người”, vì: “Đức Giêsu luôn giàu lòng thương xót. Ngài thật cao cả và vĩ đại, chẳng bao giờ khép cửa lại với tội nhân”, “nên dù con người có tội lỗi, cứng lòng thế nào, thì sự tha thứ, thấu hiểu, cảm thông và đồng hành vẫn tồn tại cách song song”. Đây chính là thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Sáu, ngày 20-05-2016, tại nguyện đường thánh Marta.
Các bài Kinh Thánh trong thánh lễ hôm nay, một mặt làm sáng tỏ quan điểm cự tuyệt với tội lỗi, tức là trung thành với chân lý, nhưng đồng thời, cũng làm toát lên rõ nét tình thương, sự cảm thông của Thiên Chúa đối với người tội lỗi khi họ có lòng thống hối ăn năn.
- Ý nghĩa Lời Chúa
Sách Samuel trong bài đọc I đã kể lại câu chuyện tội lỗi tầy trời của vua Đavít. Ông đã phạm tội rất nặng. Nặng cả về kế hoạch lẫn nội dung. Kế hoạch thì bỉ ổi. Nội dung thì thâm độc.
Chuyện kể rằng: sau khi lòng dục nổi lên, ông đã phạm tội ngoại tình với bà Betsabê, vợ của tướng Uria là người trung thành tuyệt đối với nhà vua. Tội của nhà vua trở nên trầm trọng khi ông lên kế hoạch giết Uria để bịt đầu mối. Cuối cùng ông đã thành công khi dùng tay quân giặc giết tướng Uria tại đầu chiến tuyến ác liệt.
Tuy nhiên, sự việc đã không đi vào quên lãng, mà nó được đưa ra ánh sáng khi Chúa gửi tiên tri Nathan đến để nhắc cho vua thấy tội lỗi của mình. Đồng thời cho thấy những hệ quả nghiêm trọng do ông gây nên. Thấy được sự bất nhân, ác tâm, thất đức của mình, vua Đavít đã ăn năn sám hối và thành khẩn xin ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên ông đã thưa với Đấng đầy lòng thương xót: “ Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51, 3-4). Vì thế: “Thiên Chúa đã bỏ qua tội của ngài, ngài sẽ không phải chết” (Sm 12,13).
Sang bài đọc II, thánh Phaolô nhấn mạnh đến ơn công chính hóa. Ngài nói rất rõ: “Con người được nên công chính hóa nhờ đức tin” (Rm 3,27-28). Tức là: tin vào lòng thương xót của Đức Giêsu, nhất là tin vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Ngài mang lại thì sẽ được cứu chuộc.
Lòng thương xót của Thiên Chúa phải là một ơn ban vượt lên trên không gian và thời gian cho những ai tin. Nó cũng không bị giới hạn, bó buộc trong một thứ luật lệ nào. Ngược lại, nó sẽ làm cho luật bị tê liệt khi luật đó không chứa đựng tình thương. Vì thế: “Con người được nên chông chính (được cứu độ) nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ Lề luật” (Rm 3,27-28).
Từ bài đọc I, sang bài đọc II, hướng chúng ta về Đức Giêsu như là hiện thân của lòng thương xót đến từ Thiên Chúa.
Tình thương ấy được thể hiện rõ nét qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay:
Khi Đức Giêsu và các môn đệ đang dùng bữa tại nhà ông Simon. Bỗng có một phụ nữ nổi tiếng tội lỗi trong thành đến để tỏ lòng sám hối ăn năn. Hành vi khóc lóc, đập bể bình dầu thơm đắt tiền, xức lên chân Đức Giêsu và lấy tóc của nàng để lau nói lên sự sám hối chân thành.
Dung mạo lòng thương xót của Thiên Chúa một lần nữa lộ hiện qua hành vi và lời nói của Đức Giêsu: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” ( Lc 7, 47).
Như vậy, qua cách hành xử của Đức Giêsu, chúng ta thấy Ngài luôn nhìn con người dưới ánh mắt từ tâm. Cái vỏ bọc bên ngoài không ngăn cản được lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã giải thoát con người cách toàn diện, để họ được tha thứ và có cơ hội đụng chạm với cả tâm hồn đến lòng xót thương của Ngài.
- Cái nhìn thương xót của Đức Giêsu
Nếu con người nhìn và đánh giá lòng đạo đức của nhau dựa trên những chuyện bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn và thấu hiểu từ tâm can. Tức là nhìn dưới góc độ công chính nhờ niềm tin.
Nếu con người nhìn những người tội lỗi là một thứ đồ bỏ, nhơ uế, xấu xa, thì Thiên Chúa nhìn họ với một cái nhìn: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”.
Nếu con người luôn “bới lông tìm vết” để trù dập nhau, thì lòng thương xót của Thiên Chúa luôn tìm cách nâng người tội lỗi đứng dạy để cho họ có cơ hội làm lại cuộc đời.
Vì thế, thay vì xua đuổi, Đức Giêsu đã đón nhận sự chân thành và lòng mến của người phụ nữ tội lỗi đến với Ngài. Vì thế, tận sâu thẳm tâm hồn, chị đã đón nhận được lòng trắc ẩn của Đức Giêsu. Nên cuộc đời của chị từ đây sang trang. Chị đã thay thái độ để đổi cuộc đời và bắt đầu một cuộc sống mới trong ân sủng và lòng xót thương.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rất rõ quan điểm của Đức Giêsu, đó là: “Ghét tội, nhưng không ghét kẻ có tội”. Ngài luôn đi bước trước để tha thứ, kiếm tìm kẻ có tội nhằm tha thứ và yêu thương.
Những dụ ngôn nổi tiếng về lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa được Kinh Thánh kể lại như một sự chứng minh về tình thương của Ngài đối với người tội lỗi như:
Dụ ngôn người chăn chiên bỏ 99 con ở lại để đi tìm con chiên lạc. Dụ ngôn người đàn bà mất một đồng bạc đã đốt đèn tìm kiếm khắp nhà. Dụ ngôn đứa con hoang đàng được người cha đón trở về trong sự tha thứ… Và, hôm nay, hành vi ấy lại một lần nữa được thể hiện qua việc Đức Giêsu đón nhận sự sám hối chân thành của người phụ nữ tội lỗi.
- Người Kitô hữu không được xa lạ với lối hành xử của Đức Giêsu!
Người ta thường truyền tai nhau câu nói: “Nói người hãy nghĩ đến ta, nếu suy cho kỹ lại ra chính mình”.
Thật vậy, con người vốn mang trong mình tham, sân, si, nên nhiều khi họ nhìn anh chị em dưới “cặp kính râm”. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi nhiều người chỉ nhìn thấy cái phúc mà không thấy cái tội của mình. Ngược lại, họ luôn thấy cái tội mà không nhìn thấy cái phúc của anh chị em. Lời của Đức Giêsu nói: “Tại sao con thấy cọng rác trong mắt anh chị em, còn cái xà trong mắt con thì lại không thấy?” (x. Mt 7,3) Quả thật đúng với thực trạng của chúng ta.
Có lẽ, cần phải có một Nathan vạch trần tội ác của chúng ta như đã từng lật tẩy tội lỗi của vua Đavít khi xưa thì chúng ta mới tỉnh ngộ và nhận ra tội lỗi của chính mình!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn phát xuất từ cái tâm trong sáng và nhân hậu. Đừng vội xét đoán cách thiển cận khi chỉ dựa vào luật lệ hay truyền thống bên ngoài, mà hãy để cho luật Lương Tâm lên tiếng, vì biết đâu: “Xanh vỏ” nhưng “đỏ lòng”. Cần ý thức rằng: “Lầm lỗi là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope).
Noi gương Đức Giêsu, Ngài luôn công bố chân lý và sống những gì Ngài đã nói, nhưng Ngài cũng luôn cảm thông, liên đới với những yếu đuối và tha thứ cho những lầm lỗi của con người.
Mặt khác, chúng ta cũng đừng lợi dụng lòng thương xót của Thiên Chúa mà giảm khinh những hệ quả của tội và an tâm “ngủ mê trên chiến thắng”; hay: “nằm lì dưới vũng bùn êm ái” để rồi vênh vang và tự nhủ: “Ta là người công chính hơn ai hết!”. Hãy cẩn trọng, vì: “Nếu ta nói: Ta không có tội, thì ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta” (1 Ga 1, 8 ); hay: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Xin giúp chúng con có được một thái độ trung thành với chân lý, nhưng cũng có một trái tim biết cảm thông, thấu hiểu và thương xót như Chúa. Amen.
.
Lm Văn Hào
Mang thân phận con người, chúng ta ai nấy đều đầy ắp tội lỗi. Đối diện trước Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những con nợ do tội chúng ta đã phạm. Nhưng sức mạnh nơi tình yêu Thiên Chúa dư đủ để lấp che những hố sâu tội lỗi nơi mỗi người, chỉ với một điều kiện duy nhất, chúng ta phải mở rộng cõi lòng để đón nhận ơn thứ tha. Sự tha thứ nơi Thiên Chúa là cách diễn bày lòng thương xót của Ngài một cách nhưng không, chỉ cần chúng ta để cho tình yêu của Ngài chiếm ngự. Đây là nội dung sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay gợi mở, giúp chúng ta suy gẫm, đặc biệt trong năm thánh Lòng Thương Xót. “Ai yêu mến nhiều sẽ được tha thứ nhiều”. Điều kiện giản đơn để được tha thứ chính là tình yêu.
- Bài học của Thánh Vương Đavít
Bài đọc thứ nhất trong phụng vụ hôm nay thuật lại câu truyện về vua Đavít. Ông được Chúa chúc lành, được giải thoát khỏi sự săn đuổi của Saolê và được đặt lên làm vua Israel. Nhưng Đavít đã phạm tội, đã giết chết Uria và cướp vợ của vị tướng quân tài giỏi này. Tội của Đavit không phải chỉ là ham mê sắc dục, nhưng còn nặng nề hơn, đó chính là sự tham lam chiếm hữu một cách bất công những gì thuộc về người khác. Vì tham lam, ông còn phạm thêm tội giết người. Một ông vua có nhiều thê thiếp là chuyện rất bình thường trong xã hội Do thái ngày xưa, thậm chí não trạng thời bấy giờ còn xem đó là một sự chúc lành của Thiên Chúa. Nhưng nơi Đavít, lòng tham đã nổi dậy. Ông còn rắp tâm đoạt chiếm cô vợ của Uria, một thứ ‘tài sản’ không phải là của riêng ông. Ngôn sứ Nathan đến cảnh báo Đavít, và ông đã hồi tỉnh, đã nhận ra tội lỗi nơi mình. Trong kinh thần vụ ban sáng các ngày thứ Sáu hằng tuần, Giáo hội dạy chúng ta đọc lên thánh vịnh 50, lập lại tâm tình thống hối giống như Đavit ngày xưa. Đây là thánh vịnh mà thánh vương dâng lên Chúa sau khi ý thức về tội phạm tầy đình ông đã gây ra.
Câu truyện trên vẫn luôn là một bài học mang tính thời sự cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay. Triết gia Nietzche, một con người vô thần không còn tin vào Thiên Chúa nữa, đã hùng hổ nói với các thanh niên :“Các bạn hãy tống khứ ý niệm tội lỗi ra khỏi đầu óc các bạn”. Tư tưởng này hôm nay đang lây lan cách khủng khiếp trong xã hội duy vật, khi con người thích sống hưởng thụ và chẳng còn ý thức gì về tội lỗi. Sống trong một xã hội như thế, lương tâm nhân loại ngày càng trở nên xơ cứng. Con người hôm nay đang dần dần đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ.
Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội dạy chúng ta luôn bắt đầu với hành động và tâm thức sám hối. Nhưng có lẽ lời kinh chúng ta đọc đã trở nên quá quen thuộc và nhàm chán đến độ chúng ta giơ tay đấm ngực thình thịch giống như một cỗ máy vô hồn. Thậm chí vừa đấm ngực mình xong, chúng ta lại vội đấm lộn sang ngực của người khác, bằng cách kết án hết người này đến người nọ, còn bản thân chúng ta thì không. Bài học sám hối của vua Đavit mà hôm nay Giáo hội gợi nhắc nhằm đánh thức lương tâm mỗi người, hầu chúng ta biết đi sâu vào hành trình sám hối một cách thực sự.
- Bài học của người phụ nữ tội lỗi
Thánh Luca không cho chúng ta biết tên tuổi và nguồn gốc của người phụ nữ mà Tin mừng hôm nay nói tới. Thánh ký chỉ viết rằng cô ta thuộc hạng đàn bà tội lỗi (câu 37). Tội của chị ta như thế nào, chị có đi làm điếm hay không, hay chỉ là một gái giang hồ, hoặc cô đã bỏ chồng để sống với một tình nhân khác.v.v., chúng ta không cần biết, cũng chẳng nên điều tra lý lịch làm gì. Chúa Giêsu không quan tâm chút nào đến quá khứ đặc kín tội lỗi nơi chị ta. Ngược lại, Chúa còn khen ngợi hành động quảng đại, biểu thị lòng yêu mến mà chị đã thể hiện, khi chị gục khóc bên chân Chúa trong nước mắt đầm đìa. Rồi chị còn lấy tóc để lau và xức dầu thơm nồng nàn lên đôi chân của Chúa nữa. Chúa Giêsu kể dụ ngôn về 2 con nợ để nhắc nhở cho những người biệt phái thời xưa, cũng như để lay động lương tâm mỗi người chúng ta hôm nay, là đừng tỏ ra ghen tương, tỵ nạnh hay vội vã kết án người khác. Điều Chúa đòi hỏi duy nhất, chính là lòng yêu mến. ‘Ai yêu mến nhiều sẽ được tha thứ nhiều’. Tình yêu là chìa khóa giúp chúng ta mở toang cánh cửa của lòng thương xót. Tình yêu cũng chính là tên gọi của Thiên Chúa mà thánh Gioan đã khẳng định trong thư thứ nhất của Ngài. Tội nhiều hay ít, tội nặng hay nhẹ, đều không thành vấn đề trước sức mạnh của tình yêu và ân sủng. Tình yêu Thiên Chúa vượt xa, rất xa giới hạn của sự suy tính nơi con người chúng ta. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay của cha nó ôm đón khi trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể thanh thản và bình lặng gục khóc bên chân Chúa. Thậm chí, một tên cướp khét tiếng với cả quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đưa đón vào. Đó là nghịch lý của Lòng Thương xót mà chúng ta cần phải đào sâu trong suy nghiệm cũng như trong thực hành. Người phụ nữ tội lỗi đã nếm trải sâu xa lòng Thương xót Chúa và đó cũng là bài học quý giá cho chúng ta hôm nay.
- Bài học để ứng dụng
Đi vào hành trình đức tin, chúng ta cần phải đem ra thực hành cách cụ thể trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã nhắc nhở điều đó trong bài đọc thứ 2 của phụng vụ hôm nay. Ngài viết: “ Nhờ tin vào Đức Giêsu, chúng ta được nên công chính. Chúng ta được trở nên công chính không phải vì đã làm những gì luật dạy nhưng hoàn toàn do bởi lòng tin”. Thánh Tông đồ cắt nghĩa tiếp: “Tôi đã chết đối với lề luật để sống cho Thiên Chúa”, và đây chính là hướng đích mà chúng ta cần phải vươn tới trong cảm thức đức tin.
Mỗi ngày, khi đặt mình trước mặt Thiên Chúa để lục soát lương tâm, chúng ta sẽ khám phá ra biết bao bẩn thỉu ẩn sâu nơi tâm hồn mỗi người. Chúng ta cần được thanh tẩy, cần được công chính hóa, tức là cần lãnh nhận sự tha thứ và Lòng Thương xót của Chúa. Lòng thương xót đó được thể hiện rất rõ nơi Bí tích Hòa giải. Đây là phiên tòa của đức tin. Trong phiên tòa này, Thiên Chúa là vị thẩm phán và phán quyết cuối cùng luôn là sự tha bổng. Người phụ nữ tội lỗi hôm nay đã sờ chạm đến Chúa, khiến những người Pharisiêu cau có khó chịu, nhưng Đức Giêsu thì không. Ngài không kết án cũng không khinh ghét chị ta. Trái lại, Chúa rất trân quý thái độ tình yêu mà chị đã tỏ bày. Cũng vậy, ngày xưa Đavit phạm tội tầy đình, nhưng Đức Chúa Giavê đã bỏ qua tất cả (2 Sam 7, 13). Tương tự như thế, nếu chúng ta biết mở toang cõi lòng trong đức tin để tình yêu Thiên Chúa chiếm ngự, chúng ta sẽ lãnh nhận được lòng thương xót và được trở nên công chính.
Kết luận
Trong năm thánh Lòng Thương xót Chúa, sứ điệp Lời Chúa hôm nay rất sống động và cụ thể, mời gọi chúng ta suy gẫm và đem ra thực hành.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mùa hè, mẹ gửi Andrew về quê chơi với bà ngoại. Được cậu Billy cho một cái giàn thun, Andrew khoái lắm. Nhưng nhớ lời cậu dặn, nó chỉ dám tập bắn ở trong rừng cây phía sau nhà. Andrew lang thang suốt buổi sáng ở trong rừng, nhưng nó chẳng bắn được chút gì cả. Buồn rầu, Andrew thất thểu về nhà ăn trưa. Vào tới sân, thấy bầy vịt của bà ngoại đang rượt nhau kêu quàn quạc trong sân. Andrew cúi xuống nhặt một hòn sỏi và bắn đại một phát. Chẳng may, viên sỏi trúng ngay giữa đầu một con vịt, nó lăn đùng ra giữa sân, giãy đành đạch mấy cái rồi nằm ngay đơ. Andrew hoảng hốt nhìn quanh, không có ai cả. Nó vội nhặt con vịt và nhét vào trong đống củi. Yên trí với bí mật của mình, Andrew ngồi vào bàn ăn trưa, mà không biết rằng đã có ít nhất một cặp mắt nhìn thấy chuyện xảy ra với con vịt.
Sau bữa ăn trưa, bà ngoại vừa cất đồ ăn dư vào chạn vừa dặn Sally, chị họ của Andrew, con gái chú Billy: Bữa nay tới lượt con rửa chén đó.
– Nhưng Andrew nó hứa làm thay con rồi.
Sally vội đáp và nhìn Andrew bằng ánh mắt khiến nó đang đỏ mặt toan cự cãi bỗng đâm ra chột dạ.
Thật không Andrew? – Bà ngoại hỏi, không quay đầu lại.
– Con à?
Andrew vừa mở mồm thì Sally hích một cái đau điếng vào sườn nó và khẽ thì thầm qua kẽ răng:
– Con vịt. Nhớ không?
– Con nhận lời chị ấy rồi, Andrew đáp bằng giọng hậm hực.
Ngủ trưa dậy, ông ngoại rủ Andrew và Sally đi câu, nhưng bà ngoại bảo:
– Sally, cháu ở nhà giúp bà nấu nồi xúp cho bữa tối.
– Nhưng Andrew thích ở nhà nấu xúp hơn là đi câu đấy chứ! Bà hỏi nó xem có đúng như vậy không?
Sally trả lời bằng giọng mát mẻ. Andrew toan cãi thì Sally tằng hắng mấy tiếng. Nó đành nghẹn ngào trả lời:
– Cháu sẽ ở nhà giúp bà.
Cứ thế, suốt ngày hôm đó, Andrew luôn bị Sally dằn vặt bởi chuyện con vịt. Tối đến, mệt mỏi, Andrew nằm lăn trên chiếc đi-văng trong phòng khách và ngủ thiếp đi.
Lúc nó thức dậy, ai đó đã tắt đèn và phủ trên người nó một tấm chăn. Andrew nằm im, đầu nó nhớ lại chuyện trong ngày. Nhiều lúc nó muốn nói thật với bà ngoại về chuyện con vịt, nhưng nó lại sợ bà ngoại sẽ mách mẹ nó, rồi thì sang năm mẹ nó sẽ không cho nó về chơi với ông bà nữa thì sao? Còn Sally thì quá quắt quá, không biết bao giờ nó mới thoát khỏi bàn tay quái ác của Sally? Biết làm sao đây? Nó chỉ muốn chết quách cho rồi. Andrew thổn thức.
Chợt một bàn tay to mềm của bà ngoại đặt lên vai nó, giọng êm ái của bà ngoại thì thầm:
– Nói đi con. Có điều gì con cứ nói ra cho nhẹ nhõm trong lòng.
– Con vịt… Cháu… Con vịt…
Andrew lắp bắp. Bà ngoại im lặng. Hít một hơi dài, Andrew nói một mạch:
– Cháu lỡ tay bắn chết một con vịt rồi bà ạ!
– À, ra chuyện con vịt. Lúc đầu thấy thái độ của cháu với Sally bà hơi ngạc nhiên, nhưng bà đã hiểu cả khi lùa bầy vịt vào chuồng và thấy thiếu một con. Nhưng bà muốn chờ cháu tự nói ra. Câu chuyện ngày hôm nay là một bài học cho cháu đó: Che giấu tội lỗi của mình, cháu sẽ không bao giờ có được sự thanh thản và cháu sẽ trở thành nô lệ cho cái xấu. (x. Canhdongtruyengiao. net).
Không ai làm một điều xấu mà có được sự thanh thản tâm hồn, trừ khi đó là hạng người vô lương tâm. Có những người sau khi đã làm những điều sai phạm, không biết sửa sai, cố chấp, né tránh sự thật, tìm đủ lý do để tự biện hộ cho mình, kéo bè kết cánh để làm chuyển hướng dư luận. Bảo vệ lỗi lầm này bằng một lỗi lầm khác, tìm cách xóa bỏ tội ác này bằng một tội ác khác, dần dần buông xuôi đời mình vào vòng tăm tối không còn lối thoát, trở nên nô lệ sự xấu, nô lệ tội lỗi.
Bài đọc 1 kể chuyện vua Đavít phạm tội cướp vợ rồi giết chồng và che dấu tội lỗi của mình.
Sau khi ngoại tình với Batseva, vua Đavít muốn dấu kín tội lỗi nên lại phạm thêm một tội khác, đó là giết chết tướng Uria chồng của Batseva. Phạm tội mà không nhận tội, lại còn muốn che giấu nó, Đavit lún sâu hơn, phạm thêm những tội khác nữa. “Nhưng hành động của vua Đavít không đẹp lòng Thiên Chúa”. Thế nên, ngôn sứ Nathan can gián vua về điều ô nhục vua đã làm, điều ô nhục càng lớn hơn nữa vì Thiên Chúa đã ban cho vua biết bao ân huệ của Ngài. Trước hết, ngôn sứ Nathan đã kể cho vua dụ ngôn về một người giàu với đàn gia súc đông đúc, nhưng lại bắt một con chiên duy nhất của một người nghèo mà làm tiệc đãi khách. Đavít bừng bừng nỗi giận vì cách hành xử của người giàu này và đưa ra phán quyết “Nó đáng chết”. Thấy tội người khác dễ hơn thấy tội của mình. Lúc đó, Nathan đã đáp lại: “Kẻ đó chính là bệ hạ” và kể ra biết bao ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho vua: “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua cai trị Israel, Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saun. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã ban cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao lại khinh dể lời Đức Chúa mà điều dữ trái mắt Người?”. Ngôn sứ Nathan nhắc cho vua Đavít hai tội của vua: tội ngoại tình và tội sát nhân, và tiên báo cho vua một loạt hình phạt: “Gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi”. Vua Đavít khiêm tốn nhận ra tội của mình: “Tôi đã đắc tội với Chúa”. Chân thành sám hối và sửa lỗi đã làm cho vua Đavít từ một người tội lỗi trở nên một vị thánh. Từ đó về sau, nhà vua luôn ý thức về ơn sám hối và luôn đáp trả lòng thương xót của Thiên Chúa. Vua Đavit được xem là tác giả Thánh vịnh. Vua Đavit được Chúa thứ tha nên tình yêu của ông thể hiện bàng bạc trong các Thánh Vịnh, đặc biệt là Thánh Vịnh 50.
“Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
Vâng con biết tội mình đã phạm,
lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài…”.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều”.
Cả 4 Phúc Âm đều kể chuyện về một người phụ nữ đem dầu thơm xức chân Chúa Giêsu. Phúc Âm Matthêu và Maccô không nêu tên, Phúc Âm Gioan kể là Maria em Matta, còn Phúc âm Luca kể là một người tội lỗi.
Chúa Giêsu được mời ăn tiệc nhà Simon biệt phái. Ăn tiệc lớn ở xứ Palestina thời đó người ta nằm trên những chiếc ghế dài, có gối, tay trái dùng để tựa còn tay phải thò ra ngoài. Khi nhà có đại tiệc, người ngoài tự do ra vào. Bất ngờ có một phụ nữ tội lỗi mạnh dạn bước vào phòng tiệc. Chị đem theo bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Rồi chị khóc và cởi khăn choàng đầu để xoã tóc, “lấy tóc lau chân Chúa rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên”.
Đến với Chúa Giêsu, người phụ nữ mang theo ba tặng vật: niềm tin, mái tóc và bình dầu quý. Người phụ nữ “vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisiêu”. Chị biết vì đã nghe danh tiếng Chúa Giêsu nên chị đã đặt trọn niềm tin nên đến xin ơn tha thứ để hoán cải. Chị mua bình bạch ngọc và dầu thơm quý. Chắc hẳn tiền mua bình bạch ngọc đến từ những đêm nhục nhằn câm nín, từ nước mắt dàn dụa trên những đồng bạc bất hạnh nằm rơi vải trên giường. Chị gom số tiền đã chắt chiu từ những tháng ngày cùng cực, xuống phố, mua một bình ngọc quý và dầu thơm hảo hạng. Rồi từ từ, đổ hết để quyết tâm giã từ quá khứ lầm lỗi và mong muốn làm lại cuộc đời. Người con gái có mái tóc dài quý giá, một thửa mây bay quyến rũ, bây giờ xõa xuống lau chân, ngoan ngoãn theo lời xin sám hối.
Chúa Giêsu hoàn toàn bình tĩnh, không hề lúng túng. Người chấp nhận những đụng chạm có nguy cơ gây ô uế cho mình. Người phụ nữ đứng đó mà khóc. Nước mắt của chị chắc hẳn là những dòng nước mắt ăn năn, nước mắt dâng trào niềm cậy trông. Chúa Giêsu cũng chẳng quan tâm gì đến phản ứng của những người chung quanh. Trước mặt Người, chị là một hối nhân đến xin ơn tha thứ và xin chữa lành. Người đến thế gian để thực thi sứ vụ cứu chữa: “Ta không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 32). Đối với Chúa Giêsu: “Một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là chín mươi chín người công chính không cần ăn năn sám hối” (Lc 15,7).
Chủ nhà thầm nghi ngờ thanh danh của Chúa Giêsu. Đọc được tư tưởng thầm kín của ông nên Người kể cho ông dụ ngôn về hai con nợ, một người nợ năm trăm quan tiền và một người nợ năm chục; nhưng cả hai đều không có tiền trả, vì thế, chủ nợ thương tình tha cho cả hai. Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng cách hỏi ông Pharisiêu: “Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”. Ông mau mắn trả lời: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn”. Chúa Giêsu nói với ông: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”. Rồi Người nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi…Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an”. Rõ ràng, lòng tin đem lại ơn tha thứ. Ơn tha thứ làm đổi mới tội nhân, nhờ đó họ bước đi trong bình an.
Tình yêu và lòng tin cần phải được biểu lộ cách cụ thể qua hành vi sám hối. Nhận mình lầm lỗi để được thanh tẩy thứ tha. Chỉ có những ai nhận mình lầm lỗi mới được Thiên Chúa thứ tha. Thomas Carlyle nói một câu bất hủ: “Không nhận ra lầm lỗi là lỗi lớn nhất trong mọi lỗi lầm”. Nếu ai cho mình không có tội thì đâu cần Thiên Chúa thứ tha. Thánh Gioan cũng viết rằng: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8)
Mọi sự dối trá đều nhằm che đậy lầm lỗi. Không ai có thể bình an khi mang trong lòng tội lỗi. Hành động che dấu tội lỗi có thể lừa gạt người đời, nhưng không thể lừa gạt lương tâm mình, càng không thể lừa gạt Thiên Chúa được. Tình trạng xã hội Việt Nam hiện nay, ai cũng thấy đầy rẫy gian trá, lừa đảo, độc ác, vô nhân. Những việc làm mờ ám trong bóng tối, như gian tham, lừa dối, tội ác… luôn cắn rứt lương tâm con người. Làm sao người ta có thể thanh thản tâm hồn khi đắm chìm trong lỗi lầm được?
Người Kitô hữu đến với bí tích Hòa Giải để tự mình nói ra mọi tội lỗi với Thiên Chúa tình yêu. Xưng tội là tỏ lòng ăn năn sám hối, quyết tâm sửa đổi và canh tân đời sống. Người ta bảo trên đời có ba bóng dáng hạnh phúc tinh ròng. Đó là mẹ đem con đi rửa tội về, người lành tạ thế và hối nhân từ tòa giải tội bước ra.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn nhận ra những lỗi lầm thiếu sót, chân thành sám hối, mau mắn đến với bí tích Hòa Giải để được Chúa tha thứ và ban bình an. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Trước mặt Thiên Chúa chí thánh, chẳng có ai nhân lành, “chỉ một mình Thiên Chúa nhân lành” (Mc 10:18). Thật vậy, bất cứ ai cũng miệt mài dò dẫm tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha: Tội – Tình – Thương – Tha (4 chữ T). Tất cả là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đúng vậy, tác giả Thánh Vịnh đã đặt vấn đề: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3).
Chúng ta biết rằng các thánh là những “anh hùng đức tin”, nhưng nhiều người trong số đó cũng đã từng lao đao suốt chặng đường lữ hành trần gian – chiến đấu không ngừng với ba thù. Vị thánh nào cũng phải chiến đấu không ngừng, nhất là cố gắng từ bỏ chính mình, và thậm chí có những lúc họ còn phải độc hành trong “bóng tối nghi ngờ và thất vọng”.
Cố gắng “hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48) là điều không hề dễ chút nào. Có thể vượt qua “ngưỡng” này thì mới khả dĩ nên thánh. Thiên Chúa đã gọi chúng ta là “những bậc thần thánh” (x. Ga 10:34), như một cách “triệt buộc”. Vì có TỘI nên cần TÌNH, thèm THƯƠNG và mong THA. Do đó, ai cũng phải nỗ lực nên thánh: chiến thắng TỘI để có TÌNH, được THƯƠNG và được THA. Ai biết cố gắng vượt qua chính mình thì Thiên Chúa sẽ bảo vệ: “Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần” (2 Tx 3:3).
Ai cũng biết rằng vua Đa-vít là một “tay chẳng vừa”, cung phi mỹ nữ đầy mà vẫn… “tham của người”. Ông là một trong những tội nhân “có tiếng” chứ chẳng xoàng gì. Ông Na-than “nói bóng gió” về tội lỗi của ông Đa-vít, nhưng ông Đa-vít đã tức giận. Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là ngài!”.
Ông Na-than nhắc lại cho ông Đa-vít biết lời Thiên Chúa đã tuyên phán: “Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Đức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người?” (2 Sm 12:7-8).
Điều dữ đó là gì? Ông Na-than nói tiếp: “Ngươi đã dùng gươm đâm U-ri-gia, người Khết; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ ngươi” (2 Sm 12:9-10).
Thật may phúc là vua Đa-vít đã “sáng mắt” mà hối hận, và nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Đức Chúa” (2 Sm 12:13a). Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết” (2 Sm 12:13b). Đúng là “phúc lớn bằng cái đình” – nói theo cách ví von của người Bắc.
Được tha tội là có phúc, tội càng to mà được tha thì phúc càng lớn. Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người mà Chúa không hạch tội và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2).
Chẳng ai dám nhận mình ít tội hơn người khác, hoặc tội nhẹ hơn người khác. Nhưng dù tội nhiều hay ít cũng cần phải tựa nương vào Chúa, phải trú ẩn nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, và phải tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài. Tuyệt đối phải nhận biết mình là tội nhân: Tôi Thật Tồi Tệ (4 chữ T), chắc chắn Thiên Chúa sẽ không chê bỏ và sẽ cứu khỏi lối mê đường lầm. Chắc chắn không có nơi nào an toàn bằng Thiên Chúa, hãy chân thành tín thác và thân thưa với Ngài: “Chính Chúa là nơi con ẩn náu, giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo. Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên những khúc ca mừng con được giải thoát” (Tv 32:7).
Không phạm tội vì không có dịp thì chỉ là “chuyện nhỏ”, chưa hay lắm, có dịp mà không phạm tội mới là người công chính. Nếu vậy thì hãy vui mừng tạ ơn Chúa, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 32:11). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn niềm vui sướng được, thế nên có khi người ta phải bật cười hoặc bật khóc.
Có tội là bất chính, sạch tội là công chính. Hãy nghe Thánh Phaolô giải thích: “Con người được nên công chính KHÔNG phải nhờ LÀM những gì Luật dạy, nhưng NHỜ TIN vào Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Kitô Giêsu, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Kitô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy” (Gl 2:16). Làm công to, việc lớn cỡ nào cũng chẳng là gì nếu THIẾU ĐỨC TIN, nhưng CÓ ĐỨC TIN thì việc nhỏ cũng trở nên có giá trị. Đức Maria diễm phúc vì đã tuyệt đối tin vào Thiên Chúa (Lc 1:45).
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể bằng kinh nghiệm sống đức tin của ông: “Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích” (Gl 2:19-21).
Quả thật, đức tin rất quan trọng trong kiếp sống phàm nhân. Không thấy mà tin mới đáng công, thấy mà tin thì không còn là đức tin nữa. Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Và Kinh Thánh cũng đã xác nhận: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân” (Gr 17:7). Trong chu kỳ 4T (Tội – Tình – Thương – Tha) rất cần có “chất keo” ĐỨC TIN để nối kết chặt chẽ các “mắt xích”.
Trình thuật Lc 7:36-50 nói về một câu chuyện “quen thuộc”. Đó là chuyện người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và chị đã yêu mến nhiều. Chúng ta thường nghĩ phụ nữ này là Thánh Maria Mađalêna, nhưng không phải vậy, đừng nghĩ oan cho bà. (*)
Một hôm, có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa. Ngài đến nhà ông Si-môn theo lời mời của ông này – biệt danh là “Si-môn Cùi”. Khi mọi người đang ăn, có một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết Chúa Giêsu đang dùng bữa tại đó, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Ngài mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Ngài, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Ngài và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Có lẽ thấy chướng mắt, ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là một người tội lỗi!”. Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: “Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông!”. Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói”. Có lẽ ông này cảm thấy “chột dạ” lắm, vì ông mới chỉ nghĩ trong đầu mà Chúa Giêsu cũng biết. Lạ thật đấy!
Ngài điềm nhiên nói: “Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”. Ông Si-môn đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn”. Đức Giêsu bảo: “Ông xét đúng lắm”. Cách nói của Chúa Giêsu rất nhẹ nhưng chắc hẳn ông Si-môn “nhức đầu” lắm. Và chúng ta cũng vậy thôi, vì chúng ta đâu hơn gì ông Si-môn: lườm nguýt, liếc xéo, nói hành, khinh người, phe cánh, ảo tưởng, tự mãn, mạo nhận,… Đủ kiểu và đủ mánh khóe tinh vi!
Rồi Ngài quay lại phía người phụ nữ và nói “một lèo” với ông Si-môn: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng KHÔNG đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã CHẲNG hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng KHÔNG đổ lên đầu tôi, còn chị ấy lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”. Những chữ “không” thật là nhức nhối lắm!
Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi”. Ôi, hạnh phúc biết bao! Chị chưa xin mà được Chúa Giêsu tha rồi. Hoàn toàn được trắng án. Tuy nhiên, hành động và nước mắt của chị còn hơn là những lời van xin tha thứ. Thiên Chúa biết hết, biết nước mắt nào là nước mắt sám hối thật hay giả, đông thái nào phát xuất từ tình yêu hay chỉ là “vải thưa che mắt thánh”.
Nghe Chúa Giêsu nói vậy, những người đồng bàn liền nghĩ bụng: “Ông này là ai mà lại tha được tội?”. Đúng là những kẻ giả hình, lúc nào cũng chỉ đề cao mình và nghi ngờ người khác. Nhưng Chúa Giêsu không thèm nói với họ, và Ngài nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”.
Thiên Chúa có quyền tha tội, nhưng có được Ngài tha hay không còn tùy vào niềm tin của chúng ta. Có tin thì mới thật lòng ăn năn, có chân thành sám hối thì mới được tha thứ, được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận diện chính con để biết con là một tội nhân xấu xa nhất, nhờ đó mà con biết khiêm nhường và thay đổi cách sống đúng với Tôn Ý Ngài. Xin cho con biết Chúa và biết con để con yêu mến Ngài hết sức lực và hết trí khôn, thể hiện lòng mến đó qua các động thái yêu người hằng ngày. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(*) Xin xem Mt 26:6-13, Mc 14:3-9, Ga 12:1-8 để xác định rằng phụ nữ tội lỗi này là ai. Cả ba Thánh sử Mátthêu, Máccô và Gioan đều nói đó là cô Maria ở Bêtania, chỉ có Thánh Luca không nói rõ địa danh.
.
AM. Trần Bình An
Trong điện văn gởi về quê hương từ Vatican, Đức Hồng Y Jorge Urosa Savino, Tổng Giám Mục thủ đô Caracas, Venezuela, đã khích lệ các linh mục, tu sĩ và anh chị em giáo dân của tổng giáo phận Caracas, hãy cầu nguyện cho linh hồn của cố tổng thống Hugo Chavéz.
Ngay sau khi biết tin Hugo Chavéz qua đời hôm thứ Ba 5 tháng Ba, năm 2013, Đức Hồng Y Jorge Urosa Savino, 70 tuổi, đang tham dự các cuộc khoáng đại của các vị Hồng Y để bầu Giáo Hoàng tại Vatican, cho biết ngài sẽ dâng Thánh Lễ cầu cho sự an nghỉ của linh hồn Hugo Chavéz.
Chavez thường xuyên đụng độ với Đức Hồng Y và thường lên truyền hình để mắng nhiếc ngài. Hồi năm 2008, ông ta nói: “Nếu Chúa Kitô hiện ra ở đây bằng xương bằng thịt, Ngài sẽ nện cho Urosa mấy roi nên thân, rồi ném ông ta ra khỏi Giáo Hội, bởi vì ông ta là người vô đạo đức và chẳng quan tâm gì về đạo đức hay chức tư tế của mình.”
Trong khi đó, Đức Tổng Giám mục Kuriakose Bharanikulangara của tổng giáo phận Faridabad, Ấn Độ vừa lên tiếng tiết lộ là vào năm 2002 chính ngài đã cứu mạng Hugo Chávez trong cuộc đảo chính vào năm ấy. Vào thời điểm này, ngài là phụ tá sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela.
Ngài nói: “Chávez đã nài nỉ tôi để cứu anh ta. Anh ta nói: Cuộc sống của tôi đang gặp nguy hiểm. Tôi và gia đình đang bị giữ làm con tin bị chĩa súng vào đầu. Hãy đến cứu tôi, và các con tôi.”
“Tôi nói với Chávez bằng tiếng Tây Ban Nha rằng Giáo Hội Công Giáo không bao giờ ủng hộ bạo lực. Chúng tôi tôn trọng cuộc sống. Ông Tổng thống, tôi sẽ làm mọi thứ để cứu mạng sống của ông. Và tôi đã quyết định để giúp anh ta bất cứ giá nào.”
Đức Tổng Giám mục Bharanikulangara, đã đi kèm với một Hồng Y và một linh mục để thương lượng với quân đảo chính cho ông rời khỏi đất nước. Chávez đã đồng ý làm như vậy, nhưng trong vòng vài ngày sau đó ông lật lại được thế cờ.
Từ đó về sau Chávez lại đem lòng oán giận các Giám Mục nước này nghi ngờ các ngài cấu kết với các tướng lãnh nhằm lật đổ ông ta. Chính vì thế, trong một thập niên qua, Chávez thường xuyên đụng độ với giáo quyền Công Giáo tại Venezuela. (Đặng Tự Do, Gương tha thứ của một vị Hồng Y Venezuela, Vietcatholic)
Đức Hồng Y Jorge Urosa Savino đã noi gương Thầy Giêsu tha thứ, quên đi hết những xúc phạm của Tổng thống Hugo Chávez, để chân thành kêu gọi mọi người cầu nguyện cho người quá cố.
Trong Tin Mừng Chúa nhật XI hôm nay, Đức Giêsu bộc lộ công khai là Chủ Nợ chí công, chí ái và rất bao dung với hai con nợ: ông Biệt phái Simon và người thiếu phụ tội lỗi, qua ứng xử và hành động nhân từ.
Chí công
Ông Biệt phái Simon tưởng mình công bằng với đời, phân biệt đúng đắn tốt xấu, cư xử đúng mực với kẻ lành, người dữ, nên khá bất bình, thầm nghĩ rằng: “Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi.” Ông không chấp nhận người ngoan đạo có thể tiếp xúc gần gũi với kẻ vô đạo. Ông cũng không chấp nhận cho người ô uế được chạm vào đấng tiên tri, ngôn sứ của Thiên Chúa. Quan niệm đó chẳng quá đáng, cũng chẳng trái nghịch với nếp sống đạo xưa lẫn nay. Vì nam nữ thọ thọ bất thân, lại càng nên tránh xa kẻ tai tiếng, khỏi bị người đời thị phi, đàm tiếu đồng loã.
Đức Giêsu trái lại, không hề chấp nhất, khinh khi, hoặc tránh né kẻ giả hình hay tội lỗi, mà vui vẻ nhận lời mời, đến dùng bữa nhà ông Biệt phái Simon, cũng như vui lòng để người thiếu phụ đến phủ phục dưới chân, khóc lóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Người chẳng phân biệt, chẳng kỳ thị, cũng chẳng từ chối bất cứ ai thành tâm đến với Người. Như thế, Người mới đích thực chí công, hoàn toàn đối xử công bình, tử tế mọi người. Vì ”Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 32) và “Con người đến để tìm cứu những gì hư mất” (Lc 19,10).
Tuy nhiên, nay con cái Chúa vẫn còn quen tập tục đối xử phân biệt với những người phạm tội trống, như cờ bạc, dâm ô, nghiện ngập, trộm cắp,… Vẫn còn thường áp dụng hình phạt dứt phép thông công, thay vì khoan dung kêu gọi, tìm cứu như Đức Giêsu.
Chí ái
Trong Kinh Magnificat, Mẹ Maria đã cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, đã hân hoan, cảm tạ, ngợi ca, chúc tụng Thiên Chúa chí ái, luôn mãi tràn trề tình yêu: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1, 50)
Yêu thương, muốn thức tỉnh ông Biệt phái Simon, Đức Giêsu hỏi:“Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?” Với nhận thức uyên bác, ông Simon dễ dàng trả lời ngay: “Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn.” Người bảo ông: “Ông đã xét đoán đúng.”
Lúc đó, Người mới so sánh hai thái độ đón tiếp của ông và phụ nữ kia, một bên khá lạnh nhạt, hững hờ, một bên quá nồng nàn mến thương, quý trọng: “Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi.” Hai ứng xử hoàn toàn trái ngược với nhau, biểu lộ rõ tâm tình chân thành dành riêng cho Đức Giêsu. “Lề Luật đã xen vào, để cho sự sa ngã lan tràn; nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5, 20)
Thiên Chúa chí ái, hằng thương xót những ai chân tình hồi tâm, ăn năn, sám hối, trở về. “Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít.” Đức Giêsu công khai đáp lời ai yêu mến, chạy đến Người. “Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma quỷ.” (l Ga 3, 8)
Bao dung
Người đã hành xử như Chủ Nợ bao dung với các con nợ, căn cứ tiêu chuẩn, mức độ yêu đương để tha thứ, để xoá nợ, tuy con nợ chẳng công trạng gì, cũng chẳng biết lấy gì đền đáp, ngoài lòng mến thiết tha, lòng trông cậy và lòng tin.“Tội con đã được tha rồi.”
Đức Giêsu không muốn những người khác vấp phạm vì lòng thương xót của Người, nên đã diễn tả bằng cách khác: “Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an.” Vua Đavít đã hết lòng ca ngợi lòng khoan dung vô cùng, vô tận của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội.” (Tv 32, 1-2)
“Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng; Chúa không phải là Đấng bắt con phải kính mến, nói đúng hơn, Chúa là Đấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô hạn.” (Đường Hy Vọng, số 288)
Lạy Chúa Giêsu chí công, chí ái đầy lòng khoan dung, xin luôn thức tỉnh chúng con, nhận ra thân phận yếu đuối, phàm hèn, tội lỗi, để sốt sắng tìm về, trở lại, ăn năn, sám hối, như người phụ nữ kia khiêm hạ, nhận ra mình xấu xa, hết sức trông cậy vào Lòng Thương Xót của Chúa thứ tha, cảm hoá, đổi mới và tái sinh.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thương yêu cầu bầu cho chúng con được thêm niềm tin, lòng cậy, lửa mến, để không thất vọng khi lỡ xa Chúa, khi làm mất lòng Chúa, khi xúc phạm đến Chúa, mà luôn sốt sắng quay trở về, cậy nhờ vào lòng khoan dung của Chúa. Amen.
.
JM. Lam Thy
Cứ theo thường tình thế sự, được cho nhiều thì yêu nhiều, được cho ít thì yêu ít. Thật vậy, khi lâm cảnh con nợ về vật chất, ai cũng cầu mong được chủ nợ tha bổng món nợ mà mình không có khả năng chi trả. Món nợ được tha càng lớn thì con nợ càng cảm động và yêu mến chủ nợ nhiều hơn. Bài Tin Mừng hôm nay (CN XI/TN-C – Lc 7, 36-50) trình thuật câu chuyện một người Pha-ri-sêu tên là Si-mon mời Đức Giê-su Ki-tô dùng bữa với mình. Biết được tin này, một người phụ nữ tội lỗi cũng đến để được gặp Đức Ki-tô. “Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!”
Si-mon là người Pha-ri-sêu, mà những người Pha-ri-sêu thường hay có lòng ghen tức, chỉ muốn đưa mình lên cao, hạ bệ người khác, thậm chí đến cả Đức Giê-su, họ cũng không tha. Vẫn còn đó câu chuyện đám kinh sư Pha-ri-sêu lấy “Người đàn bà ngoại tình” làm cái bẫy để tìm cách gài độ Đức Giê-su “nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người” (Ga 8, 6); thậm chí đám người này còn cố “tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” (Mt 26, 59) nữa. Biết rõ được cái tâm trạng của Si-mon, Đức Giê-su đã kể câu chuyện hai người mắc nợ làm ví dụ (Lc 7, 41-43), cốt ý khiến cho ông ta tự bộc bạch quan điểm của mình trước lập luận “được tha nhiều thì yêu nhiều, được tha ít thì yêu ít”. Sau đó, Đức Giê-su phân tích rạch ròi 2 thái độ đến với Người (một của ông Pha-ri-sêu, một của người phụ nữ). Cuối cùng, Người kết luận: “Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”
Có một mâu thuẫn nảy sinh trong câu chuỵên này. Về ví dụ “hai người mắc nợ” minh hoạ cho lập luận “được tha nhiều thì yêu nhiều, được tha ít thì yêu ít”, rất đúng với tâm lý chung của con người với đặc tính “tham sân si” cố hữu. Tuy nhiên, khi vận dụng vào câu chuyện của người phụ nữ tội lỗi sẽ thấy không ăn khớp. Tại sao vậy? So sánh với ông Si-mon, người phụ nữ đã đến với Đức Giê-su bằng tất cả lòng yêu mến chân thực của mình, chứng tỏ nàng đã “yêu mến nhiều” trước khi được tha nhiều. Và câu kết luận của Đức Giê-su “yêu nhiều đuợc tha nhiều, yêu ít được tha ít” tuy phù hợp với trường hợp người phụ nữ, nhưng lại trái ngược với ví dụ Người đưa ra (câu chuỵên hai người mắc nợ “được tha nhiều thì yêu nhiều, được tha ít thì yêu ít”).
Ró ràng “được tha nhiều thì yêu nhiều, được tha ít thì yêu ít” là nhắm đến tâm lý chung của những con nợ, nhưng “yêu nhiều đuợc tha nhiều, yêu ít được tha ít” lại nhắm đến tâm lý người chủ nợ. Như vậy thì chẳng hoá ra Đức Giê-su vì được người thiếu phụ yêu mến nhiều hơn ông Si-mon, nên Người tha tội cho chị ta nhiều hơn ư? Và với cái đà suy luận này vấn đề sẽ rối tung lên, khó tìm được lối ra. Vì thế, đã có những bài suy niệm lâm cảnh lúng túng, khi thì cho câu chuyện hai người mắc nợ là thừa, không cần thiết, khi thì lại nói “nếu cắt bỏ đi thì thật là tiếc”! Đó chỉ là những ý kiến khen chê Thánh sử Lu-ca trong trình thuật “Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến Chúa nhiều”. Tuy nhiên, ở đây phải hiểu là Thánh Lu-ca chỉ là người tường thuật, ngài chỉ viết lại những điều mắt thấy tai nghe, nên không có vấn đề thêm hay bớt, thừa hay thiếu được.
Vậy tác nhân chính yếu chỉ có thể là Đức Giê-su Ki-tô. Quy về Đức Ki-tô thì vấn đề sẽ sáng tỏ ngay. Người thường hay dùng cách dẫn chứng hoặc lập luận tương phản để nêu bật ý chính (“Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng.” – Mt 10, 35; “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” – Lc 9, 24; “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” – Lc 9, 60 v.v…). Thật vậy, suy nghĩ cho kỹ câu chuỵên được trình thuật trong bài Tin Mừng hôm nay, sẽ thấy mọi chi tiết không thừa không thiếu, mà thật vừa đủ để suy niệm thấu đáo vấn đề:
Trước hết, phải hiểu đây lại một lần nữa Đức Giê-su muốn nói đến Tình Yêu, mà nói đến Tình Yêu là nói đến “cho” và “nhận”. Tâm lý chung của con người thường hay so đo tính toán, chỉ thích “nhận” nhiều hơn “cho”, và vì thế nên khi được cho nhiều thì yêu mến nhiều, còn cho ít tất nhiên sẽ yêu mến ít. Đối với Thiên Chúa thì ngược lại, Người luôn “cho” mà không hề “nhận” lại. Tuy nhiên để “nhận” được Tình Yêu “cho không” ấy, thì lại hoàn toàn do con người định đoạt số phận của mình, đó là mình có muốn “nhận về” hay không và “nhận như thế nào” mà thôi. Một cách cụ thể là Thiên Chúa luôn muốn đến với con người, nhất là với những con người tội lỗi, để trao ban ân sủng. Vâng, “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Ân sủng chứa chan mà con người lòng chai dạ đá thì cũng kể như không. Vì thế nên cần phải có một lòng tin yêu chân thực, một lòng sốt mến nhiệt thành, để dón nhận nguồn ân sủng chan chứa đó.
Người phụ nữ tội lỗi đã đến với Đức Giê-su như vậy đó. Lòng sốt mến nhiệt thành của chị đã thúc đẩy chị đến với Đức Ki-tô. Khi được gặp Người, thì cũng vì lòng tin yêu Chúa, chị đã bộc bạch hết nỗi lòng thầm kín của chị (nhận thấy mình quá nhhiều tội lỗi và thực lòng ăn năn hối cải) qua những dòng nước mắt tuôn chảy ướt chân Chúa, qua việc lấy tóc mình mà lau chân cho Người rồi xức dầu thơm lên đó. Như thế thì chẳng phải chị đã tin và hành động nhờ thực lòng yêu mến Chúa nhiều đó sao? Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát đã có nhận định thật chí lý: “Quả thật, trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái.” (Gl 5, 6). Kết quả tất yếu là “Yêu mến nhiều thì được tha nhiều” vậy.
Tông chiếu Misericordiae Vultus (số 16) viết: “Trong Tin Mừng Thánh Luca, chúng ta tìm thấy một yếu tố quan trọng khác giúp chúng ta sống Năm Thánh với đức tin.” Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Lu-ca đã trình thuật một câu chuyện điển hình về Đức Tin của người phụ nữ tội lỗi. Phải hết lòng tin tưởng mới có những hành động biểu lộ tình yêu đến độ Đức Giê-su Ki-tô phải thốt lên: “tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.” Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng “Evangelii Gaudium” (số 179) cũng khẳng định: “Ngay cả việc phục vụ của đức ái cũng là một chiều kích cấu thành của việc truyền giáo của Hội Thánh và là một cách diễn tả không thể thiếu được về bản chất Hội Thánh”. Như thế, Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo, vì vậy chắc chắn bản chất này phải phát sinh ra hiệu quả đức ái đối với những người lân cận, là lòng trắc ẩn, cảm thông, giúp đỡ và khuyến khích họ.”
Tóm lại, người Ki-tô hữu hãy học theo gương người phụ nữ tội lỗi mà chạy đến với Chúa bằng tất cả lòng Tin Yêu chân thành nhất, đồng thời biểu lộ ra bằng hành động, bằng cả cuộc sống làm chứng tá cho điều răn quan trọng nhất ”Mến Chúa, yêu người”. Năm Thánh Lòng Thương Xót chỉ là một chặng đường ngắn nhưng vô cùng cần thiết trong hành trình sống đức tin của người Ki-tô hữu. Đây chính là dịp thuận tiện nhất để người tín hữu nhìn lại bản thân xem mình đã sống đức tin cách chân thực chưa. Sống đức tin mà thiếu đức mến thì cũng kể như không. Vâng, “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1Cr 13,3).
Chính vì thế, xin hãy “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi” đầy tham sân si, mà đến với tất cả anh em xa gần – như đến với chính Đức Giê-su Ki-tô – bằng những “chứng tá bác ái” cụ thể nhất, chân thành nhất. Ấy cũng bởi vì “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8). Ước được như vậy. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Đức, một binh lính người Đức trên đường hành quân đã gặp một binh lính người Pháp đang ấn nấp ở một hố cá nhân, anh lính người Đức đã đưa súng lên nhắm bắn, và khi đến gần, người linh Pháp kia trước khi chết đã rút trong túi ra một cái bóp và đưa cho người lính Đức. Trước hành đông này, khiến cho người lính Đức vô cùng áy náy, sau đó người lính Đức đã mở bóp ra và thấy một tấm hình và địa chỉ của người mẹ và gia đình. Sau cuộc chiến, sự ám ảnh về cái chết của người lính Pháp cứ đeo bám anh, và anh đã quyết định viết một lá thư cho người mẹ của anh lính Pháp kia, trong thư anh viết: Thưa bà, tôi hết sức đau lòng về cái chết của con bà, xin thành thật chia buồn với bà và gia đình, đồng thời tôi thành thật xin lỗi bà và gia đình, mong bà tha thứ cho tôi, vì tôi chính là người đã cầm súng bắn vào con bà, tôi rất ân hận và áy này về việc làm này, mong bà tha thứ cho tôi. Một tuần sau người linh Đức này đã nhận được lá thư trả lời từ người mẹ người Pháp, bà viết: Cảm ơn cậu về lá thư, và những tâm tinh của cậu, trước lời đề nghị của cậu, gia đình chúng tôi muốn cho cậu biết rằng: vì Chúa và từ đáy lòng, chúng tôi đã tha thứ cho cậu dù cậu đã bắn giết con tôi, và chúng tôi cũng có một đề nghị với cậu, nếu được, chúng tôi muốn nhận cậu làm con của gia đình chúng tôi thay cho con tôi, và nếu có dịp qua Pháp, mời cậu về ở với gia đình chúng tôi.
Thưa quý OBACE, khi bi xúc phạm hay bị tổn thương, để nói lời tha thứ đã là khó, càng khó hơn nữa khi thật lòng tha thứ và hành động chứng tỏ sư tha thứ của mình. Con người thường hay nuôi thù và tìm cơ hội để báo oán, có những mối thù truyền kiếp từ đời này qua đời khác, có những người chấp nhận đem nỗi oán hận xuống mồ chứ không chịu tha thứ, hoặc là nếu phải tha thứ thì người ta cũng đặt ra rất nhiều điều kiện. Thiên Chúa đã hành xử hoàn toàn khác với con người, Lời Chúa của Chúa Nhật XI hôm nay giới thiệu cho chúng ta rằng, Thiên Chúa chúng ta là một người cha quảng đại và sẵn sàng tha thứ cho những lỗi lầm của con người. Nhiều người vẫn cứ nhìn Thiên Chúa như một vị quan tòa, chỉ rình chờ con người sai phạm để kết an hay trừng phạt, thế nhưng Thiên chúa lại không như thế, mà Ngài thực sư là một người Cha quảng đại khoan dung, mỗi khi con người phạm tội, Thiên Chúa cảnh cáo, và khi con người hồi hận thì Thiên Chúa lại sẵn sàng thứ tha.
Câu chuyện trong bài đọc một là một minh chứng cho thấy lòng nhân hậu và sư tha thứ của Thiên Chúa trước tội lỗi của vua Đavit. Lời lẽ của Thiên Chúa qua môi miệng của tiên tri Nathan đã cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa đối với Đavit, Thiên Chúa không chấp nhận tình trạng tội lỗi, Ngài không thể sống chung với tội, nhưng lại hết sức thông cảm cho tội nhân: Ta đã gọi người từ khi người còn là một dứa chăn cừu, đã xức dầu cho người, đã đặt ngươi lên ngai báu, và đặt quân thù dưới chân người, và cho người được vinh quang, nếu người thấy chưa đủ, thì ta sẽ cho thêm, tại sao ngươi lại làm điều dữ trái mắt ta, đã cướp vợ lài còn giết người. Lời trách cứ của Thiên Chúa đã thấm vào tâm hồn Đavít, và ông đã nhận ra sư sai lỗi của mình và đã khiêm tốn sấp mình trước sư phán xét của Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn thấy sư sám hối chân thành của Đavít, Ngài đã bỏ qua tội lỗi cho ông và ông không phải chết.
Thiên Chúa sẵn sang tha thứ khi con cười hối hận và Ngài dễ dang tha thứ và bỏ qua tất cả quá khứ của con người, và còn mở ra cho những kẻ tội lỗi có cơ hội để sửa sai. Tuy nhiên con người lại không muốn một Thiên Chúa như thế, họ cứ muốn một Thiên Chúa khép kín, một Thiên Chúa phải ra tay trừng phạt kẻ có tội. Vì mang suy nghĩ như vậy, nên nhưng người biệt phái đã không muốn và còn tỏ ra khó chịu khi thấy Chúa Giêsu giao du tiếp xức với những người thu thế và những người bị coi là tội lỗi. Họ khó chịu khi thấy một phụ nữ tội lỗi đến gục khóc dưới chân Chúa, nước mắt ướt đẫm chân Chúa, chi lấy tóc mà lau, rồi con đập vỡ một bình dầu quý giá để xức lên chân Chúa. Những người chứng kiến thì coi hành động của người phụ nữ kia là vô lý, và họ còn coi thái độ của Chúa Giêsu như là một sự đồng lõa, nhưng Chúa Giêsu Ngài nhìn thấu tâm hồn của chị, Ngài nhìn thấy sư hối hận trong những giọt nước mắt của chị và còn nhìn thấy lòng tin của chị vào sư tha thứ, khi chị đã lấy tóc mà lau chân và lấy dầu mà xức chân Chúa.
Chúa Giêsu đã kề cho mọi người nghe dụ ngôn về hai con nợ: một người nợ chủ một trăm quan tiền, người kia nợ năm mươi, cả hai đều được chủ nợ tha bổng, và Chúa Giêsu đã đặt ra cho ông Simon một câu hỏi: ai trong hai người được tha nợ sẽ yêu mến chủ nhiều hơn? Dĩ nhiên người mang ơn chủ là người được tha nhiều, ông Simon đã trả lời đúng, Chúa cho ông thấy rằng những người thu thuế và tội lỗi chính là những người đã cảm nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa vì họ đã yêu mên và tin tưởng ở lòng nhân từ của Chúa, và họ là những người đã được tha thứ nhiều.
Thưa quý OBACE, Tin tưởng vào sư tha thứ và đón nhận ơn tha thứ và con phải thực hành sư tha thứ đối với anh chị em đó là điều Lời Chúa mời gọi chúng ta hôm nay. Giống như thái độ của người biệt phái, nhiều người cho mình là người tốt để rồi tự cho mình quyền lên án và kết tội anh em. Vì cho mình là người tốt, nên nhiều người đã không nhận ra tình trạng tội lỗi của mình với Thiên Chúa, và cũng không nhận ra những tổn thương mà mình đã gây ra cho anh chị em, vì thế họ không hoán cải; và có nhiều người khác đã cố gắng kết tội anh em là để che đậy sự xấu xa của mình. Để có thể đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, đòi ở nơi chúng ta một điều kiện duy nhất đó là tin tưởng vào tinh yêu tha thứ và yêu Chúa thật nhiều, vì tình yêu phủ lấp muôn vàn tội lỗi.
Lời Chúa hôm nay đang mời gọi mọi người đừng ngai ngần, đừng mặc cảm về quá khứ của mình, hãy tin tưởng đến với sự tha thứ của Chúa, hãy quỳ gối trước lòng thương xót của Chúa là Cha nơi Bí tích Giải tội, chúng ta sẽ đón nhận được sư thứ tha và sẽ cảm nghiệm được niềm vui và bình an của sư tha thứ. Hãy gục đầu và khóc thật nhiều dưới chân Chúa, khóc vì tình trạng tội lỗi của mình và hãy khóc vì biết rằng mình được yêu thương và tha thứ, hãy khóc vì tình Ngài yêu thương, khóc vì tình Ngài tuyệt với. Kế đến hãy nhìn và đón nhận anh em bằng cái nhìn cảm thông và tha thứ khi họ xúc phạm đến mình, hãy can đảm gỡ bỏ nhữ mối thù, những sư giận dỗi lâu ngày lâu tháng, nhiều người, nhiều gia đình cha mẹ và con cái không nhìn nhận nhau hoặc nhìn nhau một cách miễn cưỡng ngại ngùng, nhiều cha mẹ chồng và con dâu con rể đang sống trong căng thẳng, nhiều anh chị em đang giận dỗi nhau từ năm này qua năm khác …, vì Chúa, hãy gỡ bỏ và hảy can đảm tha thứ cho nhau để nối lại tình thân.
Xã hội chúng ta đã có quá nhiều bạo lực, máu chảy vì các hình thức trả thù, băng nhóm, nó xảy ra nơi các em học sinh ngay từ trong nhà trường, đến các bạn trẻ thanh niên nam nữ, và cả nơi người lớn, lý do là vì đã qua mấy chục năm, người ta không dạy con cái chúng ta về lòng nhân ái bao dung, trái lại người ta giáo dục và nhồi nhét vào trong chúng ta sư căm thù và trả thù, bạo lực và khát máu…. Là những tín hữu, môn đệ của Chúa Kitô chúng ta phải xây dựng một môi trường xã hội tốt đẹp hơn, giàu lòng nhân ái khoan dung hơn, chúng ta sẽ phải là những người biết tha thứ và có một tấm lòng khoan dung của Chúa, để cải hóa và biến đổi những người chung quanh và biến đổi cả môi trường xã hội này.
Một khi đã thành tâm sám hối đến với Bí tích Hòa giải là ta đã được Thiên Chúa thứ tha, và không bao giờ Ngài nhớ đến những tội lỗi đó nữa, vì thế đừng bao giờ nghĩ rằng Thiên Chúa không thể tha thứ cho tôi, cũng đừng bao giờ thất vọng về tình trạng yếu đuối của mình, vì Chúa biết rất rõ con người của chúng ta yếu đuối dễ sa ngã lỗi lầm, mỗi lần yếu đuối, đến với Chúa, lại là mỗi lần chúng ta cảm nhận được tình yêu thương tha thứ và sự chữa lành, cùng sự đỡ nâng của Ngài qua Bí Tích Thánh Thể.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta cũng có một tâm hồn quang đại tha thứ, và đồng thời cũng biết khiếm tốn nhìn nhận con người yêu đuối giới hạn của mình để chúng ta biết bám vào chúa một cách bền chặt hơn. Amen
.
Lm. DĐH
Con người có thể sai lầm trong lời nói, việc làm, hoặc trong tư tưởng. Khi đã sai, đã lạc, người ta thường vẫn để lại những vết xấu nhiều hay ít gì đó. Bạn bè cùng hội cùng thuyền, người ta dễ đón nhận nhau, cảm thông, chia sẻ, gắn bó với nhau thoải mái hơn. Bạn và tôi có thể mưu ích cho bản thân, đem hết khả năng để phục vụ, nhưng sẽ không thể đem lại bình an tâm hồn cho người thân yêu của mình được. Kinh nghiệm như thế, giống như bạn cho anh chị em mình ăn, cho tiền, nhưng không được cản trở, dập tắt cơ hội trở để họ nên mực thước, hoàn hảo.
Tính bất ngờ có thể làm cho cuộc sống nên phong phú, còn sự hợp lý luôn có tính thuyết phục người nghe, dù ở đời vẫn quan niệm : cuộc sống có vay có trả, làm tốt thì thưởng, làm sai thì phạt. Nơi bàn tiệc hôm xưa, Chúa Giêsu không cần để tâm đến những dị nghị của chủ nhà, của một số khách đồng bàn. Ngài chỉ thao thức bằng mọi cách giúp người phụ nữ tội lỗi sám hối, trở về với Thiên Chúa. Đúng như câu thành ngữ : khi làm việc thiện ích, bạn đâu nhất thiết phải quay đầu lại xem kẻ đang chế nhạo, nguyền rủa, mắng chửi bạn là ai !
Nhân bữa ăn tại nhà người Simon biệt phái, Đức Giêsu đã chia sẻ một tin vui : “Thiên Chúa giầu lòng xót thương”, Đấng đã đến trần gian, đặc biệt Ngài xót thương cả tội nhân. Đức Giêsu không chủ trương bao che kẻ tội lỗi, không dung túng sự xấu, không cổ võ tính ích kỷ hẹp hòi, và đặc Ngài kịch liệt phản đối những ai sống giả nhân giả nghĩa. Một sự thông thoáng, thu hút sự chú ý của nhiều khách mời hôm đó, Ông Giêsu này là ai ? Ông “bất chấp dư luận”, công khai ăn uống với người thu thuế, không từ chối người phụ nữ đang lấy nước mắt, lấy tóc lau chân Ông ?
Để lý giải cho sự ngờ vực về “lòng bao dung của Thiên Chúa”, Đức Giêsu đưa ra câu chuyện về “hai con nợ”, một người nợ nhiều, một người nợ ít, do không thể trả được, nên chủ tha hết cả hai. Trước sự công thẳng và nghiêm minh của tình thương, Đức Giêsu không lúng túng hay mất tự nhiên về hành động sám hối của người phụ nữ, hoặc ra hiệu chị kia hãy dừng lại…. Chính trong bối cảnh đầy mâu thuẫn, trái ngược, Chúa Giêsu đã thể hiện được tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mọi tâm hồn có lòng sám hối ăn năn.
Chẳng ai ưa kẻ vừa xấu người vừa xấu nết, cũng không thể mộ mến kẻ chuyên dò xét bình luận tiêu cực về anh chị em mình; với Chúa Giêsu thì khác, Ngài nhằm cứu giúp cả những người đồng bàn hôm đó. Đức Giêsu mở rộng tầm nhìn cho ông Simon khỏi nghĩ ông là người đạo đức. Ngài chia sẻ, giúp những người đồng bàn hiều về lập trường của Thiên Chúa : Đấng giầu lòng thương xót, tha thứ cho tất cả những ai biết ăn năn hối cải. Ngài giải thoát người phụ nữ vì biết hành động trở về với Thiên Chúa : “đức tin của con đã cứu con, hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Nghịch lý cuộc đời là chúng ta rất tinh, rất thính, về lỗi lầm của anh chị em mình, chúng ta có thể nhớ rất kỹ về việc làm phúc đức của mình, nhưng lại dễ ảo tưởng mình là người tốt. Chúa Giêsu không ngần ngại cho đi tình yêu thương, Ngài tha thiết muốn con người hiểu rằng Thiên Chúa bao dung, lúc nào cũng tạo điều kiện để con người biết sửa sai, biết thống hối ăn năn. Không ai trên đời này đáng bị chúc dữ, cũng chẳng ai nằm ngoài kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những người tội lỗi công khai hay thầm kín, Chúa đều thấy, dù con người thật tình sửa chữa lỗi lầm của mình hay chỉ lơ mơ giả dối Chúa đều thấu biết.
Có những quy luật tự nhiên của tạo hóa mà ta không thể không thừa nhận : đâu phải hễ thứ gì sáng đều là vàng, cũng không phải cứ trái mầu đỏ đều là chín ! Có những tâm hồn đơn sơ thành thật, dù chỉ vụng về bày tỏ lòng thống hối, có những đầu óc lưu loát hay lý sự, Chúa đều cảm thông, và bằng mọi phương thế Chúa vẫn đang cứu giúp để họ cùng ý thức sửa sai. Chúa cứu người phụ nữ tội lỗi, Chúa cũng tha thiết với những kẻ đồng bàn đầy tự mãn hôm nay. Chúa hết lòng mong chúng ta hãy tập mỉm cười, dù nước mắt ta đã từng rơi rớt, hãy sống thực lòng, dù chúng ta đã từng bị lừa dối, phản bội.
Hãy tha thứ cho người anh chị em mình, dù họ chưa nói lời xin lỗi đi nữa. Vì nếu cứ ôm trong lòng sự tức giận, thì chính bạn đau khổ, chứ không phải người anh chị em mình đau khổ. Đừng bao giờ trách anh chị em mình sao mãi lầm lỗi, nhưng hãy suy nghĩ, tại sao mình không đủ quảng đại thứ tha ? Cuộc đời chỉ đẹp và ý nghĩa, khi ta có tấm lòng cởi mở, biết sống khoan dung, khắc phục tâm trí của mình, cùng nhau sửa sai, để xứng đáng lãnh nhận dồi dào phúc lành của Thiên Chúa. Amen.
.
Dã Quỳ
Trong văn hóa người Do Thái, ăn uống cùng là một hình thức diễn tả việc trở nên bạn bè, trở nên nghĩa thiết với nhau. Từ bữa ăn đó, họ có thể trở thành bằng hữu của nhau. Ăn uống với nhau là đón nhận nhau, gắn bó với nhau, có phúc cùng hưởng có họa cùng chiụ. Tin Mừng hôm nay thuật lại một người Pharisiêu mời Chúa Giêsu dùng bữa với ông. Dẫu rằng địa vị của ông và đường lối ông theo rất khác với Chúa. Nhưng Chúa đã nhận lời mời, đã đến và vào bàn ăn.
Phòng tiệc hôm ấy lẽ ra cũng bình thường và đơn giản, bởi vì ông Pharisiêu không dành cho Chúa Giêsu nghi thức đón tiếp trang trọng. Thế nhưng, phòng tiệc nhà ông Pharisiêu đã chỉ thực sự thơm ngát khi một người phụ nữ can đảm bước vào, mở bình bạch ngọc đựng dầu thơm và dốc cạn để xức chân Chúa.
Chúng ta nhìn hai khuôn mặt đối lập nhau trong căn phòng này: Ông Pharisiêu vốn được xem là “trong sạch”, nhiệt thành tuân giữ lề luật, và khuôn mặt người phụ nữ là một người tội lỗi thực sự mà cả thành biết. Thế nên, ông Pharisiêu đã rất khó chịu trong lòng “Nếu ông này thật là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!”(Lc 7, 39) Vâng, những tội lỗi của chị chắc phải chất đống, kinh tởm…và chính chị cũng ghê sợ huống chi người khác. Trong khi ông Pharisiêu đang xét chị, đang soi mói, thì…Chị mặc cho những ánh mắt khinh bỉ đang nhắm vào chị. Chị không kiêu hãnh nhưng thực lòng khiêm nhường giữa một đám đông, giữa những người biết rõ về chị. Chắc chắn chị đã tin rằng: Người, chỉ một mình Người có thể cứu chị.
Tín thác hoàn toàn vào Chúa với trọn tình yêu và lòng tôn kính, chị đã bày tỏ con tim của mình với lòng sám hối chân thành qua những cử chỉ. Chị gục sát chân Chúa Giêsu. Chị khóc nức nở, nước mắt thấm ướt đẫm chân Chúa. Chị lấy tóc mình lau chân Chúa, rồi lấy dầu thơm xức chân Người. (x. Lc 7, 38) Những gì chị làm, dưới mắt người Pharisiêu, ông nghĩ Chúa sẽ bị ô uế qua hành động của người tội lỗi này. Ông nhìn chị như một người phong hủi, xấu xa! Nhưng với Chúa Giêsu, Chúa đứng về phía người phụ nữ. Chúa phân biệt tội và người có tội. Vì tất cả tội nhân đều cần được chăm sóc và yêu thương. Như những bệnh nhân nhìn nhận mình có bệnh, cần được bác sĩ đến gần, đụng chạm, chẩn bệnh và chữa lành. Và Chúa Giêsu, Thầy thuốc chan chứa quyền năng của lòng xót thương đã chữa cho chị “Tội của chị đã được tha rồi.”(Lc 7, 48)
Chúng ta xác tín rằng Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và sẽ thứ tha cho ta muôn vàn tội lỗi. Bởi vì Ngài vẫn một lòng xót thương: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương.”(Gr 31,3) Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, Ngài không bỏ rơi chúng ta trong cảnh khốn cùng phiền muộn. Chúa yêu chúng ta bằng một tình yêu vô tận nên dù tội lỗi ta ngập tràn cũng không ngăn trái tim Người yêu ta và sẵn sàng tha thứ khi ta biết nhìn nhận tội của mình và ăn năn sám hối.
Chúa đã nhìn người phụ nữ và những gì chị làm với một giá trị. Chúa khen ngợi chị và nói về chị với sự tôn trọng. Chúa ghi nhận tất cả những cử chỉ chị làm thật tốt (x. Lc 7, 44-46). Trái lại, với chúng ta, dù tội lỗi nhưng biết bao lần chúng ta rơi vào cám dỗ tự cho mình tốt lành hơn người khác. Ta không có cái nhìn nhân hậu và xót thương của Chúa đối với người có tội. Ta chưa có những lời nói và sự trân trọng đối với người anh em mắc sai phạm.
Chúa không nhìn chúng ta ở bề ngoài nhưng Người nhìn ta từ trong tâm hồn chân thành. Giá trị là ở lòng hối cải của ta. Chúng ta đừng sợ Người biết lỗi của ta và đừng sợ xưng thú với Người. Vì Chúa yêu ta nên Người chỉ ước muốn tha thứ và giải thoát ta, nâng chúng ta lên địa vị làm con của Người. Những tội lỗi của ta đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân, Chúa biết rõ vì là món nợ ta đã mắc với chính Chúa. Chắc chắn ta không thể trả nên hãy cầu xin với lòng tin, Chúa sẽ tha cho ta “Vì họ không có gì để trả nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai.“(Lc 7, 42)
Như người phụ nữ đã được Chúa tha thứ. Hôm nay, chúng ta cũng hãy trở về bên Chúa trong Bí tích Hòa giải với lòng tin tưởng và chân thành sám hối, để được Chúa tha thứ cho ta mọi tội lỗi, để cảm nhận tình yêu vô bờ của Chúa dành cho ta và cũng để ta yêu Chúa nhiều hơn. Vì chỉ tình yêu mới có thể đền đáp tình yêu và vì ta được tha nhiều, rất nhiều tội khiên nên ta cầu xin Chúa cho ta biết yêu Chúa nhiều hơn “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều, còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”(Lc 7, 47)
Tình yêu và lòng xót thương tha thứ của Chúa có sức biến đổi con tim chúng ta và phủ lấp muôn vàn tội lỗi của ta. Chúng ta được Chúa thứ tha nhiều, được yêu thương nhiều, chắc chắn lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa cũng phải vô cùng. Cảm tạ tình yêu lớn lao Chúa dành cho ta dù ta chẳng đáng. Xin cho mỗi tội lỗi mà ta được tha thứ là dịp ta yêu Chúa nhiều hơn. Mỗi khi ta đón nhận ơn tha thứ là mỗi lúc tình yêu của ta lớn mạnh hơn. Và xin cho chúng ta cảm nhận sâu xa Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, để rồi chính chúng ta cũng biết thể hiện lòng xót thương với những người thân trong gia đình ta, với anh chị em và mọi người ta gặp gỡ. Và khi ấy ta cũng mới đón nhận được trọn vẹn lời chúc của Chúa “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.“(Lc 7, 50)
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã yêu chúng con và hiến mạng vì chúng con. Xin ban cho chúng con luôn biết thành tâm sám hối lỗi lầm, biết tin tưởng vào Chúa để được Chúa thứ tha và cứu độ. Amen.
.
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG
Lm. Giuse Nguyễn
Trong một buổi đọc kinh truyền tin, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh sự thật về Thiên Chúa: “Chúa luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, Người chờ đợi chúng ta với lòng thương xót. Chúng ta đừng ngại đến với Người. Người có một trái tim nhân hậu. Nếu chúng ta bày tỏ với Người những vết thương trong lòng mình, tội lỗi của mình, Người luôn tha thứ cho chúng ta”. Tha thứ là bản chất của Thiên Chúa.
Thật tuyệt vời, tháng Sáu trong năm thánh Lòng Thương Xót, chúng ta khám phá ra tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Mới tuần rồi đây, tình yêu và lòng thương xót đó được thể hiện qua việc Ngài phục sinh cho con trai bà góa thành Naim. Còn hôm nay, tình yêu và lòng thương xót đó được thể hiện qua việc Ngài tha thứ cho người phụ nữ tội lỗi.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA.
- Bài Đọc I: 2Sm 12, 7.10-13
Vua Đavit là người được Chúa yêu thương, chọn gọi một cách đặc biệt. Vượt qua biết bao gian khổ, cuối cùng nhà vua cũng được an nhàn thư thái. Chính trong lúc tưởng là thư thái để hưởng tuổi già, thì nhà vua lại phạm phải hai tội rất, rất nặng. Ông đã say mê và ngoại tình với nàng Betsabê. Cô này là vợ của một vị tướng giỏi của ông. Sau khi hay tin cô mang thai, ông tìm mọi cách che giấu nên lại phạm thêm một tội trọng khác nặng nề hơn, đó là bày mưu để giết chết Uria, chồng nàng, vị tướng của mình. Qua đó cho chúng ta thấy, nếu phạm tội mà cứ che giấu thì sẽ là nguy cơ đưa đến phạm thêm những tội khác tày trời hơn.
Sau đó Thiên Chúa sai tiên tri Nathan đến, kể cho nhà vua nghe một câu chuyện ông nhà giàu có nhiều chiên, cừu, nhưng lại đang tâm giết một người nhà nghèo để chiếm đoạt con chiên độc nhất của anh ta. Nghe đến đó, nhà vua đã nổi giận và kết luận: “Nó đáng chết”… Thấy tội người khác dễ hơn thấy tội của mình.
Diễn biến tiếp theo là câu chuyện trong bài đọc I hôm nay. Tiên tri Nathan nói thẳng với vua Đavit: ông nhà giàu độc ác đó chính là ngài. Sau khi biết tội của mình, nhà vua đã khiêm tốn nhìn nhận: “Tôi đã đắc tội với Chúa”. Đơn giản vậy thôi, nhưng đó chính là điều làm cho Đavit từ một con người tội lỗi trở nên một vị thánh. Có mấy người mau mắn nhìn nhận tội lỗi của mình khi được người khác chỉ cho thấy? Nhiều khi còn ác cảm với người vạch ra cái xấu cho mình và muốn họ đi cho khuất mắt. Thậm chí còn tìm cách khác, luồng lách để tiếp tục con đường xấu xa tội lỗi.
Đavit được gọi là thánh vương còn nhờ một yếu tố khác. Khi được Thiên Chúa tha thứ, từ đó trở về sau, ông ý thức để đáp trả lại tình yêu thương của Thiên Chúa, ông không dám làm điều sai lỗi nữa. Sự đáp trả đó chính là “tình yêu đáp đền tình yêu”. Hay nói như lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều”.
- Tin Mừng: Lc 7, 36 – 8, 3
Tin Mừng của Luca được gọi là “Tin mừng của phụ nữ”, vì ông thường xuyên nhắc đến người phụ nữ. Có những phụ nữ chỉ xuất hiện trong Tin Mừng Luca mà thôi. Tin Mừng Luca bắt đầu với câu chuyện bà Êlisabet. Chỉ Luca mới nhắc đến việc thiên thần truyền tin cho Đức Maria, và chỉ Luca mới nhắc đến nữ tiên tri Anna. Trong Luca chúng ta còn bắt gặp hai chị em Matta, Maria; người phụ nữ bị còng lưng, bà góa dâng tiền cho đền thờ… Hơn thế nữa người phụ nữ trong Tin Mừng Luca là người phụ nữ được giải phóng, được cứu độ. Cụ thể là câu chuyện người phụ nữ tội lỗi sám hối trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Nàng “vốn là người tội lỗi trong thành”. Mọi người đều biết thế và xa tránh nàng vì sợ ô uế. Không biết cô gái này có phải là Madalena, cô gái điếm được Chúa trừ bảy quỷ hay không vì Luca không ghi rõ? Theo tôi nghĩ thì không phải, vì thời đó (và cả thời nay nữa) có nhiều người giống Mađalêna lắm. Nhưng nếu là một cô gái khác, thì Chúa Giêsu bị người ta lên án cũng không oan ức. vì Ngài cứ làm bạn, hoặc quá dễ dãi với những người bị người khác “dị ứng”.
Mặc dù nàng nổi tiếng là tội lỗi, nhưng nàng đã không ngần ngại xuất hiện trước đám đông một cách công khai. Phong tục dùng bữa của người Do Thái là nằm chống một tay lên hàm, còn tay kia để lấy thức ăn. Khi nào mỏi tay thì đổi bên. Vì vậy, ai là người quan trọng nhất sẽ nằm chính giữa, quay chân ra cửa. Vị trí đó thuộc về Chúa Giêsu.
Người phụ nữ biết Chúa có mặt trong bữa tiệc đó nên nàng đến, quỳ gối, “sát chân Người mà khóc”. Chắc chắn đây là những giọt nước mắt ăn năn vì quá khứ không mấy tốt đẹp của mình. Những giọt nước mắt vì sự cười chê, khinh miệt, cô lập của người đời; nhiều khi trong số cười chê, khinh miệt đó có cả những người là khách hàng quen thuộc với cô. Vậy mà họ cũng bày đặt thể hiện mình là người tốt lành để kết án cô. Những giọt nước mắt tìm được sự an ủi dù chỉ là nơi bàn chân của Thầy… Chúng ta đã lần nào rơi lệ vì tội lỗi của mình đã phạm chưa? Đã lần nào hạnh phúc đến trào nước mắt vì được tha thứ chưa?… Lòng sám hối ăn năn của cô không chỉ dừng lại ở đó, mà còn thể hiện qua việc cô sẵn sàng xõa tóc ra để lau chân của Thầy đang ướt đẫm nước mắt của mình. Một người phụ nữ Do Thái bị xõa tóc ra là điều nhục nhã cũng không kém gì người phụ nữ Việt Nam bị người ta lột đồ giữa đường. Ấy vậy mà chị vẫn làm, vì chị ta yêu.
Lau chân cho Thầy xong, chị còn lấy bình dầu thơm quý giá mà đổ lên chân Người. Bình dầu thơm vào khoảng 300 đồng, tương đương 10 tháng lương thời đó. Chị không tiếc, vì niềm vui được tha thứ quá lớn lao, những chuyện khác đối với chị là chuyện nhỏ.
Hành động của chị làm cho nhiều người khó chịu. Còn Chúa Giêsu thì lại nói: “Tội nàng nhiều nhưng được tha hết, vì nàng yêu mến nhiều”.
Câu nói này làm cho tôi và mỗi người chúng ta đây có được niềm vui sâu thẳm, vì nhiều khi trong cuộc đời chúng ta lầm lỗi không thua kém gì cô gái này. Những tội lỗi của chúng ta không đến nỗi công khai như cô, khiến chúng ta bình an một cách giả tạo, thậm chí còn sẵn sàng ném đá những người phạm tội công khai khác. Nhưng hãy nghe lời Chúa để một lần thực sự rơi lệ vì những yếu đuối, lầm lỗi của mình: “Tội con nhiều nhưng được tha hết, vì con yêu mến nhiều”. Một nhà tu đức đã nói: “Lỗi lầm là bản chất của con người, và tha thứ là bản chất của Thiên Chúa.”
II. THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT
Qua hai câu chuyện của vua Đavit và cô gái phạm tội công khai, chúng ta thấy lời thánh vịnh quả thật đúng: “Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, những tội đời được Chúa rộng dung”. Từ đó chúng ta càng xác tín hơn: “Chúa là sự sống thần linh. Chúa là chỗ con nương mình, giữ gìn che chở đời con. Trong Người con còn sợ chi”. Đó là sự thật về Thiên Chúa. Ngài là Đấng đi tìm con chiên lạc. Ngài là Đấng chữa lành những đau khổ cho con người. Ngài là Đấng Phục Sinh kẻ chết. Ngài luôn luôn yêu thương con người, đặc biệt là người tội lỗi.
Thiên Chúa luôn luôn yêu thương, tha thứ cho chúng ta như vậy, nên chúng ta cần phải nhìn lại hai mối tương quan căn bản trong đời sống đức tin của chúng ta. Mối tương quan với Thiên Chúa và mối tương quan với người khác.
- Được tha thứ
Với Thiên Chúa, Ngài sẵn sàng đến nhà người biệt phái dùng bữa, dù thế nào Ngài cũng bị người ta soi mói, chỉ trích; Ngài sẵn sàng để cho cô gái tội lỗi đụng chạm đến mình, dù thế nào Ngài cũng bị người ta nghi ngờ về sứ mạng ngôn sứ của Ngài, là bởi vì Ngài muốn cho họ thấy bên trên cuộc đời của họ còn có tình yêu thương. Ngài muốn nâng họ lên ngang tầm quan hệ thần thánh giữa Thiên Chúa và con người. Để từ đó chúng ta sống mối tương quan thân tình với Thiên Chúa. Không trốn tránh, sợ sệt, cũng không ỷ lại vào sự tha thứ mà người ta cho là quá dễ dãi của Ngài.
Thưc sự ra không phải Thiên Chúa tha thứ vô điều kiện, Ngài nói rõ ràng: “Tội chị tuy nhiều, nhưng đã được tha vì chị yêu mến nhiều”. Rõ ràng không phải việc sám hối chỉ dừng lại ở việc mình đến tòa giải tội, kể một lô tội ra, thế là xong. Mà việc sám hối hệ tại ở việc tình yêu thúc đẩy chúng ta nhìn thấy mình vẫn còn những điều bất xứng với Chúa nên muốn đến để giao hòa với Ngài. Cũng chính tình yêu thúc đẩy chúng ta sửa đổi bản thân. Vì vậy không lạ gì chúng ta xưng tội hoài mà bỏ không được, là bởi vì chúng ta chưa có tình yêu thương đủ đối với Chúa, nên vẫn còn những thứ khác hấp dẫn họ chúng ta.
- Hãy tha thứ
Với người khác, vì chúng ta là những tội nhân được Thiên Chúa tha thứ và nâng lên làm con của Ngài, nên chúng ta cũng phải hành xử giống như Thiên Chúa, là tha thứ cho anh chị em của mình.
Trong bài giảng tĩnh tâm cho các Linh mục nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc đến hình ảnh của vị tôi tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, dù bị cầm nhưng Ngài vẫn yêu thương, tha thứ cho những kẻ làm hại ngài, vì Ngài biết bắt chước trái tim của Chúa Giêsu.
Mỗi khi có chuyện gì khó chịu, tôi nhớ đến những câu thơ thiền “Một cũng chấp, hai cũng chấp, chất chứa trong lòng chi cho mệt. Trăm điều bỏ, ngàn điều bỏ, thong dong tất dạ, ấy mà vui”, để giúp tôi dễ dàng tha thứ; và nhất là vì tôi ý thức rằng điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là phải biết tha thứ. Điều đó được Chúa dạy cụ thể trong kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, chúng ta tha thiết nài xin Chúa qua lời bầu cử của Đức Mẹ, cho chúng ta nhận ra tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa luôn bao trùm cuộc đời chúng ta, để chúng ta sống với Chúa bằng một tình yêu chân thành, không sợ sệt. Đồng thời cũng phải biết quảng đại để tha thứ cho anh chị em xung quanh mỗi khi họ xúc phạm, thậm chí là hãm hại chúng ta. Khi chúng ta sống sự tha thứ trong mối tương quan với Thiên Chúa, với người khác, là chúng ta đang sống tình yêu Lòng Thương Xót Chúa.
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 7,36-8,3
(36) Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn. (37) Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. (38) Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên. (39) Thấy vậy. Ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi! (40) Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: “Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông!” Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói”. (41) Đức Giêsu nói: “Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. (42) Vì họ không có gì để trả, nên chủ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn? (43) Ông Simon đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.: Đức Giêsu bảo: “Ông xét đúng lắm”. (44) Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. (45) Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. (46) Dầu Ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy đã lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. (47) Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít. (48) Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi”. (49) Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: “Ông này là ai mà lại tha được tội?” (50) Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”.
(1) Sau đó, Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai (2) và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, (3) bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ.
- Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu tỏ lòng nhân từ đối với một kẻ có tội biết chạy đến xin Người tha thứ. Đức Giêsu đã công khai bênh vực hành động bày tỏ lòng sám hối của người phụ nữ tội lỗi và còn khẳng định: Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.
- CHÚ THÍCH:
– C 36: + Có người thuộc nhóm Pharisêu: Chỉ Tin Mừng Luca mới ghi lại việc Đức Giêsu 3 lần được người Pharisêu (Biệt Phái) mời đến nhà dùng bữa (x Lc 7,36; 11,37; 14,1). Ta không nên lẫn lộn câu chuyện Luca kể ở đây với câu chuyện xảy ra tại nhà ông Simon tật phong (x Mt 26,6-13). + Đức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn: Việc Chúa Giêsu đến dùng bữa ở đây cho thấy Người không phân biệt đối xử khi sẵn sàng đến nhà mọi người: Người đến với những người Biệt Phái vốn chống đối Người (x Lc 7,36); Đến với người tội lỗi bị xã hội khi rẻ (x Lc 19,5-6); Đến với gia đình Ladarô ở Bêtania là bạn thân quen (x Lc 10,38). Đức Giêsu đến nhà người ta dùng bữa là để biểu lộ sự thân tình của Người, miễn là họ tỏ thiện chí mời Người đến và sẵn sàng đón tiếp Người.
– C 37-39: + Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành…: Người phụ nữ này có thể vào nhà vì theo phong tục Do thái, nhà nào có đãi tiệc thì người ngoài đều có thể tự do ra vào. + đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm: Bên Cận Đông, do khí hậu nóng nực, nên người ta thích dùng dầu thơm khi nhà có đông người. + Chị đứng đằng sau, sát chân Người: Đức Giêsu nằm trên giường đối mặt với bàn tiệc. Còn người phụ nữ thì đứng phía ngoài. + Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên: Điều ông chủ nhà Pharisêu quan tâm ở đây chính là thân phận tội lỗi của người phụ nữ, chứ không phải những cử chỉ chị làm để biểu lộ lòng quý mến Đức Giêsu. Ta không nên đồng hóa người phụ nữ này với cô Maria em cô Mác-ta (x 10,39), hay với Maria Mác-đa-la (x 8,2). Cũng không nên lẫn lộn việc xức dầu ở đây với việc xức dầu ở Bêtania (x Mt 26,7-13). Vì việc xức dầu ở đây làm nổi bật sự thống hối của tội nhân. Còn việc xức dầu ở Bêtania do cô Maria làm, là để tiên báo cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu. + Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai: một người tội lỗi!: Đối với người Pharisêu, người phụ nữ này là một người bị ô uế chiếu theo Luật Môsê, và một ngôn sứ chân chính lẽ ra không được để cho một người như thế chạm đến mình để tránh khỏi bị ô uế theo.
– C 40-43: + Một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục: Quan tiền là công nhật của một nông dân (x Mt 20,2).
– C 44-46: + Nước lã…, cái hôn…: Đây là phong tục tỏ lòng hiếu khách của người Đông phương (x St 18,4). Nơi khác, Luca cũng nhấn mạnh đến tính hiếu khách của Mácta, Maria (x 10,38-42) và của ông Dakêu (x 19,1-10) đối với Đức Giêsu.
– C 47-50: + Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều: Lòng yêu mến là thành quả và dấu chỉ của ơn tha thứ (x 19,8-9). + “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”: Khi đến với Đức Giêsu, người phụ nữ đã công khai bày tỏ lòng tin, và chính lòng tin này đã làm cho chị từ bỏ con đường tội lỗi. Thay vì làm cho Đức Giêsu bị ô uế theo Luật, chị lại được Người thanh tẩy và ban ơn bình an, nghĩa là được tràn đầy sự sống và được cứu độ (x 1,79). Trong Kinh Thánh, bình an là mức sung mãn của sự sống, là món quà cao quý nhất mà Đấng Mêsia ban tặng (x Is 9,5-6).
– C 1-3: + Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh: Đức Giêsu hoàn thành sứ mệnh có nhóm môn đệ cùng đi theo. Về sau, các nhà truyền giáo cũng noi gương Người làm như vậy (x Cv 8,14). Đức Giêsu cũng chính thức trao trách nhiệm truyền giáo cho Nhóm Mười Hai (x Lc 9,1-2). + và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh: Tin mừng Mt 27,55 và Mc 15,41 cũng nói đến nhóm phụ nữ này. Đây là một sự kiện khác thường ở Paléttin. + Đó là bà Maria gọi là Maria Mácđala: Bà này sẽ đứng dưới chân thập giá (x Mt 27,56), hiện diện trong cuộc mai táng Đức Giêsu (x Mt 27,61), chứng kiến ngôi mộ trống (x Lc 24,10) và là người đầu tiên gặp gỡ Đấng Phục Sinh (x Ga 20,11-18). + Người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ: Một người có thể bị nhiều quỷ ám cùng một lúc (x Lc 8,27.30; 11,26). Trong Kinh Thánh, số 7 là số chỉ sự viên mãn. Có lẽ đây là cách người Do thái hình dung về sức ám hại ghê gớm của Xatan trên nạn nhân. Đối với bà Maria Mácđala, Luca không nói rõ bà có bị quỷ ám thực sự hay không, hoặc bà có phải là người đàn bà tội lỗi được nói tới trong Lc 7,36-50 hay không. + Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ: Đây là một trong những việc làm cụ thể mà các bà đã thực hiện để cộng tác vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu.
- CÂU HỎI:
1) Việc Đức Giêsu đến nhà một người Pharisêu trong Tin Mừng Luca ở đây có đồng hóa với việc Người đến dùng bữa tại nhà Simon tật phong trong Tin Mừng Mátthêu không ? Việc Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một người Pharisêu nói lên điều gì ? 2) Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay có phải là cô Maria Bêtania hay bà Maria Mácđala hay không ? 3) Phân biệt ý nghĩa của hai việc xức dầu: một do người phụ nữ tội lỗi làm ở đây và hai do cô Maria làm ở Bêtania trước khi Đức Giêsu chịu khổ nạn. 4) Trước hành động biểu lộ lòng quý mến của người phụ nữ tội lỗi đối với Đức Giêsu, ông Pharisêu chủ nhà tỏ vẻ khó chịu vì lý do gì ? 5) Khi so sánh hành động của ông chủ nhà và người phụ nữ, Đức Giêsu chứng minh ông có phải là người chủ nhà hiếu khách không ? 6) Đức Giêsu cho biết kết quả của lòng mến tin của người phụ nữ là gì ? 7) Trong Tin Mừng, bà Maria Mácđala đã biểu lộ đức tin và lòng mến đối với Đức Giêsu như thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Vì thế, tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47).
- CÂU CHUYỆN:
Trong cuốn “Mặt trận phía đông hoàn toàn yên tĩnh” có thuật lại câu chuyện xảy ra trong cuộc thế chiến giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Câu chuyện ấy như sau: Một người lính Đức trẻ kia đang năm trong hố tránh đạn pháo. Đột nhiên anh ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố đó để tránh đạn. Anh lính Đức liền dùng lưỡi lê đâm chết kẻ thù. Đây là lần đầu tiên anh ta giết người và cảm thấy lương tâm rất áy náy. Anh muốn biết rõ hơn về người lính Pháp vừa bị giết kia là ai, liền lục tứi áo và lấy ra một chiếc bóp. Trong đó có hình một phụ nữ trẻ đang ôm đứa con thơ bụ bẫm là vợ con của anh ta. Người lính Đức cảm thấy một sự xúc động tự nhiên dâng cao trong lòng khiến anh càng thêm hối hận! thì ra người bị anh giết kia thực sự không phải là kẻ thù của anh, nhưng là một người cha, một người chông giống như anh: một con người đang yêu và được yêu! Chính nhờ có cái nhìn mới mẻ về kẻ từng là “kẻ thù” đã biến đổi người linh Đức trở nên một người mới biết cảm thông và đầy tình người.
- THẢO LUẬN:
1) Người ta thường hay xét đoán dựa theo tình cảm: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Để tránh xét đoán bất công và để noi gương Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần xử sự thế nào khi nghe một người nói xấu về một kẻ vắng mặt ? 2) Dâng một lời cầu nguyện cho một người mình đang ác cảm, để xin Chúa giúp ta sống Lời Chúa dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”(Mt 5,44).
- SUY NIỆM:
1.Tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ qua thái độ bao dung tha thứ tội lỗi hối nhân:
1) Thánh Gioan khẳng định: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4,8.16): Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người được biểu lộ trong lịch sử cứu độ: Khi tạo dựng vũ trụ vạn vật và loài người và quan phòng để chúng tồn tại và ngày một thăng tiến; Khi Đấng Cứu Thế đến nhập thể cứu chuộc và tiếp tục thánh hóa loài người nhờ các bí tích do Hội Thánh cử hành.
2) Thiên Chúa luôn đi bước trước đến với tội nhân để kêu gọi họ sám hối hòa giải: Người đã sai ngôn sứ Nathan đến khuyến cáo vua Đavít sau khi ông này phạm tội, và đã tha thứ khi ông khiêm tốn nhìn nhận tội mình và quyết tâm thống hối và đền tội (x. 2 Sm 12,7-10.13).
3) Đức Giêsu thể hiện lòng thương xót đối với tội nhân: Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đã trình bày Đức Giêsu là hiện thân tình thương tha thứ của Thiên Chúa, qua câu chuyện xảy ra khi Người đến dùng bữa tại nhà một người Biệt phái là ông Simon. Trong bữa ăn, một phụ nữ bị tiếng tội lỗi đã đến bày tỏ lòng sám hối. Tin Mừng trình thuật như sau: “Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên” (7,38). Đối diện với những ánh mắt thiếu thiện cảm và đầy thành kiến của chủ nhà và các khách dự tiệc, Đức Giêsu đã dùng một dụ ngôn để so sánh sự thiếu nhiệt tình của chủ nhà khi tiếp đãi Người với thái độ khiêm tốn thành khẩn và cậy trông tín thác của hối nhân dành cho Người. Rồi Người nói với ông Simon: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu Ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy đã lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi “ (7,44-46). Rồi Người tuyên bố tha tội cho chị ta như sau: “Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít. Và Người nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi” (Lc 7,47-48).
- Phải yêu thương các tội nhân thế nào? : Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta bài học về tình thương phải có đối với các tội nhân như sau
1) Phải luôn dấn thân đi tìm các con chiên lạc: Câu chuyện Đức Giêsu đến nhà một người Biệt Phái dùng bữa, cho chúng ta bài học về “dung mạo lòng bao dung thương xót của Thiên Chúa”, mời gọi chúng ta cũng phải sẵn sàng mở rộng vòng tay thân ái, cư xử thân thiện với mọi người, nhất là năng đi thăm viếng các tội nhân… để đưa họ về đoàn chiên Hội Thánh.
2) Không xét đoán ý trái, không kết án tội nhân: Tin Mừng Luca tường thuật về thái độ của người phụ nữ tội lỗi đã biểu lộ lòng sám hối như sau: “Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên” (Lc 7,38). Sở dĩ Đức Giêsu để cho người phụ nữ bày tỏ lòng sám hối là vì Người đã không có thành kiến xấu đối với chị, như ông Simon và các người Pharisêu đã làm. Noi gương Đức Giêsu, hôm nay chúng ta cũng phải tránh xét đoán ý trái cho tha nhân nếu chỉ dựa trên dáng vẻ bên ngoài. Tránh vào hùa với đám đông kết án những người đang bị dư luận hè nhau chỉ trích … Vì thực tế cho thấy: Nhiều trường hợp một tội nhân tuy đã bị tòa án kết tội giết người phải ở tù chung thân và đã bị tù oan trong nhiều năm. Mãi đến khi hung thủ thực sự bị bắt và thú nhận tội hắn đã giết chết nạn nhân thì người kia mới được tha.
3) Sống cụ thể Năm Thánh lòng Chúa thương xót: Chúng ta đang trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót, nên cần lắng nghe và thực hành lời Đức Giêsu: “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót” (Lc 6,36). Tông sắc “Dung Mạo lòng thương xót của Thiên Chúa” cũng dạy chúng ta phải sống cụ thể lòng Chúa thương xót như sau:
“Tất cả mọi chúng ta là những khách lữ hành đang trên đường hành hương trở về với Chúa và được kêu gọi sống lòng thương xót:
– Trước hết, đừng phán xét cũng đừng lên án, bởi vì con người có cái nhìn thiên lệch và bên ngoài, nên có thể sai lầm. Việc phán xét và lên án là dành cho TC, nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa không làm như thế.
– Kế đến là phải biết tha thứ và sẵn sàng cho đi. Cho nên cần một tâm hồn quảng đại.
– Phải quan tâm đến anh chị em đã bị xã hội tước đoạt phẩm giá;
– Cần đánh thức lương tâm cá nhân thường hay say ngủ trước bi kịch của nghèo đói, khổ đau trong thế giới ngày nay;
– Quyết tâm thực hiện lòng Chúa thương xót cả về thể xác cũng như tinh thần theo kinh “thương xác bảy mối và thương linh hồn bảy mối”.
– Một câu nói rất tình người trong tông sắc không thể không nhắc đến là: “Trong Năm Thánh này, Giáo hội được mời gọi nhiều hơn để chữa trị và xoa dịu các thương tích bằng dầu an ủi, dùng lòng thương xót để băng bó, dùng tình liên đới và thái độ ân cần quan tâm để chữa lành những vết thương ấy” (số 15).
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊSU. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng con thường hay xét đoán người khác cách bất công, do ảnh hưởng của định kiến xã hội hay do mối ác cảm tự nhiên với họ. Nhiều lần chúng con đã có cách cư xử hẹp hòi, đầy thành kiến đối với một số người có quá khứ không mấy tốt đẹp. Chúng con đã không đủ dũng cảm để lội ngược dòng, để chọn cách ứng xử nhân ái công minh noi gương Chúa.
– LẠY CHÚA. Hôm nay xin cho chúng con học tập theo Chúa, để dám đứng về phía những người bị xã hội khinh dể, can đảm bênh vực những kẻ cô thế cô thân và đối xử nhân hậu với những tội nhân thực lòng sám hối… Nhờ đó, chúng con xứng đáng mang danh là Kitô hữu và trở nên môn đệ đích thực của Chúa trước mặt người đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Một hành vi đơn giản: để chỉ vào người khác, ta thường sử dụng ngón tay trỏ. Dẫu đơn giản, nhưng đã không ít lần hành vi ấy làm tôi giật mình, vì nhận ra, khi chỉ người khác bằng một ngón tay, thì vô tình có đến ba ngón tay (ngón giữa, ngón áp út và ngón út) khép lại, lập tức quay ngược lại chỉ thẳng vào tôi.
Dẫu chỉ là cái giật mình trước một cử chỉ tầm thường, nhưng ai trong chúng ta cũng cần lắm những cái bất chợt giật mình như thế, để nhận ra chính mình, khám phá mình, kiểm điểm mình, tra xét mình…
Trước khi xét đoán ai, hãy xét đoán mình; trước khi kết án ai, hãy kết án chính mình không phải một mà là gấp ba lần. Bài học “Hãy xé lòng, đừng xé áo. Hãy xét mình đừng nhìn anh em” là bài học phải nhớ đời mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.
Trong Tin Mừng, thánh Luca kể rằng, một người trong nhóm Pharisêu mời Chúa Giêsu dự tiệc. Pharisêu gồm những luật sĩ và một ít tư tế hợp lại. Họ tuân giữ lề luật cách nghiêm nhặt và trung thành với tất cả những gì thuộc truyền thống đức tin và tôn giáo. Họ giữ kỹ lưỡng việc phụng tự và không muốn đứng trong hàng ngũ chính trị.
Từ chỗ nắm giữ luật lệ và đức tin, người Pharisêu sinh ra một lối suy nghĩ tệ hại: Chỉ có họ đẹp lòng Chúa. Chỉ có họ mới thực sự yêu mến Chúa, mới thanh sạch, mới đúng là những người nắm giữ kỷ cương của đời sống, của niềm tin tôn giáo. Chỉ có họ là người công chính… Với lối suy nghĩ hẹp hòi ấy, người Pharisêu tỏ ra khinh bỉ, xa lánh, thậm chí loại trừ những ai mà họ cho là tội lỗi, nhơ nhớp, là nguyên nhân gây nên sự ô uế.
Trong bữa tiệc mà người Pharisêu mời Chúa dự, lại xuất hiện một người đàn bà bị coi là tội lỗi. (Nói theo lối nghĩ của người Pharisêu) đã không biết thân, bà lại còn làm những hành động hết sức “quái gỡ”, nếu không muốn nói là làm lây nhiễm sự ô uế: Bà hết ngồi phía sau sát chân Chúa, hết khóc trên chính đôi chân ấy, hết lấy tóc lau chân, rồi lại còn hôn và xức dầu thơm lên chân Chúa… Thật không thể chịu nổi!
Vốn đã khinh bỉ hạn phụ nữ dơ bẩn, bây giờ lại thấy Chúa kết thân với bà, làm sao người Pharisêu không lấy làm bực tức. Ông càu nhàu: “Nếu ông này là tiên tri, thì phải biết người phụ nữ đang đụng vào mình là hạn người nào chứ: đó là hạn tội lỗi”.
Nhưng người Pharisêu lầm. Họ chỉ biết đưa ngón tay để chỉ người khác, mà không nhìn đến ba ngón tay đang chỉ chính mình.
Họ giỏi lên án người, xoi mói, tẩy trừ người nhưng không khám phá mình, không tự xét mình.
Vì thế, hậu quả tức khắc xảy ra là: Dù cũng như chị phụ nữ, đã là người, người Pharisêu cũng đầy yếu đuối, dễ sa ngã, dễ phạm tội, nhưng người Pharisêu lại bị Chúa quở trách, bị so sánh với người phụ nữ mà ông coi là tội lỗi:
“Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi” (Lc 7, 44-46).
Và Chúa tuyên bố: “Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7, 47).
Chưa dừng ở đó, Chúa còn trực tiếp ngỏ với chị bằng những lời đầy yêu thương, cảm động, dù tội của chị có nhiều đến đâu: “Tội của chị đã được tha rồi” (Lc 7, 48).
“Yêu nhiều” là lý do để được tha tội. Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Chỉ sợ rằng, chúng ta vừa là tội nhân, nhưng lại vừa là người không để tình yêu ngự trị, vì thế, không biết yêu, dù là yêu mến Thiên Chúa hay yêu thương con người.
Không có tình yêu, chúng ta không bao giờ lãnh nhận được bất cứ ân huệ nào của Chúa. Không phải vì Chúa không ban ơn của Người cho ta, nhưng vì ta không đủ điều kiện để nhận lãnh.
Tình yêu là điều kiện cần thiết để Chúa ban ơn. Như ánh nắng luôn chiếu rọi mọi nơi, nhưng nếu ta đóng cửa nhà, ánh nắng sẽ không bao giờ có thể vào nhà. Tình yêu chính là cánh cửa mở, để ơn Chúa có thể rót vào hồn ta. Ơn tha thứ của Chúa sẽ đến và xóa sạch tội ta, khi ta biết mở ngỏ lòng mình bằng chính tình yêu của ta: Yêu Chúa và yêu người.
Lạy Chúa, xin cho con biết oán trách mình, hơn oán trách anh em. Xin cho con, mỗi khi muốn nói xấu hay xét đoán anh em, thì biết nhìn lại mình, biết xét mình gấp nhiều lần hơn nữa. Lạy Chúa xin tha thức cho con, tha những lỗi lầm con xúc phạm đến Chúa và anh chị em. Amen.
.
ĐỨC GIÊ-SU MUỐN ĐƯỢC GẦN GŨI KẺ TỘI LỖI
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Câu chuyện về người phụ nữ tội lỗi được tha thứ, những đã yêu nhiều hơn gợi cho tôi nhớ lại dụ ngôn mục tử ‘đi tìm chiên lạc’, và tôi muốn tiếp tục triền suy tư đã làm trong dịp lễ Thánh Tâm. Chúa và Hội Thánh cần tới người tội lỗi ăn năn, vì chính họ mới đích thực là vinh quang của một Thiên Chúa đầy lòng thương xót, trong một cộng đồng tình yêu là Hội Thánh Đức Ki-tô Giê-su. Vì, nếu đã từng có thứ tình yêu của lòng đạo đức thánh thiện rất đáng khen ngợi và nể phục, thì – tôi thiết tưởng: cũng có thứ tình yêu tới từ tội lỗi được tha thứ xót thương. Thế nhưng điều Đức Giê-su khảng định ở đây lại có vẻ nghịch lý: tình yêu thứ hai còn cao và đáng quí hơn cả tình yêu thứ nhất, vì “ai được tha ít thì yêu mến ít”.
Câu chuyện dụ ngôn về hai con nợ là một minh chứng về tính hợp lý hiển nhiên của khảng định nghịch lý này. Hơn nữa, qua các diễn biến xảy ra trong bài Tin Mừng, tôi còn nghiệm ra một điều khác nữa: hối nhân là hạng người sẽ được gần gũi và thân mật với Chúa hơn cả người công chính; chính Đức Giê-su là người đã hé lộ cho thấy điều đó.
Ông Si-mon – người biệt phái là điển hình của những kẻ đạo đức theo truyền thống Do Thái. Tuy nhiên chính Đức Giê-su chỉ cho ông thấy: dầu có mời tới nhà dùng bữa cơm thân mật, ông luôn giữ một thái độ ‘kính nhi viễn chi’, ông không đổ nước rửa chân, không hôn mặt, không đổ dầu lên đầu Người như thói quen vẫn làm. Còn người phụ nữ tội lỗi sám hối kia, dầu chỉ là một người ngoài cuộc đối với bàn tiệc dọn lên, “chị đứng đàng sau”, nhưng lại rất gần gũi Thầy Giê-su: chị ôm chân Người, lấy nước mắt mà rửa, lấy tóc mình mà lau, và không ngớt hôn và xức dầu thơm chân Người; và Đức Giê-su đề cao thái độ của người phụ nữ sám hối. Tiếp ngay sau giai thoại này, ở đầu chương 8, thánh sử Lu-ca còn ghi nhận thêm một chi tiết: đồng hành với Đức Giê-su trên đường rao giảng là nhóm 12, khi Người “rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 8:1-2); và cùng với họ là “mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỉ và chữa bệnh”. Do đó tôi tự hỏi: ai sẽ là người xứng hợp nhất để rao giảng Tin Mừng: người tốt lành thánh thiện hay là những tội nhân sám hối? Nếu Tin Mừng là một học thuyết luân lý hoàn hảo, thì chỉ những ai đạo hạnh nhất mới được phép đứng ra loan truyền dạy dỗ, nếu không, sẽ bị cho là bất xứng, là phản chứng, là gây gương mù gương xấu. Thế nhưng hình như Đức Giê-su chỉ cho thấy là, không phải vậy; vì Tin Mừng Nước Trời trên hết là một tình yêu tha thứ và cứu độ của lòng thương xót, nên những người rao giảng thích hợp hơn cả lại phải chính là các tội nhân sám hối. Thủ lãnh của đoàn ngũ rao giảng này chẳng ai khác ngoài Phê-rô, tội nhân chối thầy mình tới ba lần nhưng đã biết sám hối. Ki-tô hữu chúng ta cũng đã chẳng khởi đầu ơn gọi, địa vị và sứ mạng rao giảng của mình bằng một Phép Rửa sám hối là gì; và chúng ta được mời gọi tiếp tục sống Bí Tích Thánh Tẩy suốt đời, qua xưng thú các lỗi tội mình phạm và sám hối ăn năn nơi tòa Hòa Giải. Phải chăng trước hết Ki-tô hữu được định nghĩa là: người thống hối liên tục, trước cả khi họ được coi là những người tốt lành thánh thiện?
Tôi thiết nghĩ: điểm đặc sắc nhất của Tin Mừng chính là không hãi sợ mạc cảm tội lỗi, nhưng biến cải chính tội lỗi đó thành biểu lộ tình yêu. Hội Thánh không hề sợ những tín hữu phạm tội, kể cả những tội tày trời, vì Hội Thánh, trong sức mạnh của Tin Mừng Đức Ki-tô luôn có khả năng biến đổi họ thành những chứng nhân đầy thuyết phục của lòng thương xót Chúa. Loại trừ kẻ có tội ra khỏi Hội Thánh dưới chiêu bài để tránh gương mù gương xấu là một khuynh hướng luôn tồn tại trong lịch sử (nhóm Thanh Giáo – Puritan là một điển hình), ‘lạc thuyết’ này sai lầm nghiêm trọng, vì gây hiểu lầm về bản chất đích thực của Tin Mừng. Sức mạnh đích thực và vô dịch của Tin Mừng và của Hội Thánh, không mấy hệ tại ở sự hoàn hảo nơi các con cái mình, nhưng là ở có thể hiện được lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa hay không. Chính yếu tố sau này mới có khả năng làm trổ sinh hoa tình yêu nơi các hối nhân, và đem lại niềm hy vọng cho các tâm hồn tội lỗi, và bình an đích thực cho nhân loại tội lỗi!
Và chúng ta, các linh mục của Tin Mừng Đức Ki-tô và của Hội Thánh, tìm thấy nơi suy tư này – nếu là chính xác – kết luận vô cùng to lớn đối với việc mục vụ của chúng ta: thấu hiểu tầm quan trọng của việc trung thành ban phát ơn tha tội cho các hối nhân như Thánh Gio-an M. Vianey – cha sở họ Ars – mẫu gương của các linh mục, đã từng làm. Ngài là người đã từng phát biểu: “linh mục chính là tình yêu của Trái Tim Đức Giê-su”, và “sứ mạng của linh mục là để ban phát cho mọi người lòng thương xót của Chúa”.
Lạy Chúa Giê-su, nếu Chúa đã không ngại gần gũi những người tội lỗi muốn hối cải, thì tại sao con – một linh mục của Chúa – lại dám xua đuổi họ, thậm chí kết án họ? Xin dạy con biết: mỗi khi nhân danh Chúa đón nhận một kẻ có tội để dẫn họ tới nguồn thương xót, là con làm vinh danh Chúa hơn bất cứ công việc nào khác khác. Xin sớm biến đổi Hội Thánh Chúa trên trần gian thành ngôi nhà Cha rộng mở vô điều kiện và luôn vui mừng đón nhận các con cái lầm lạc trở về, để tình yêu tha thứ của Chúa được chan hòa muôn nơi. A-men.
.
TỘI NHIỀU, ĐƯỢC THA NHIỀU, NÊN YÊU MẾN NHIỀU
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Dựa vào bản văn Tin Mừng, chúng ta nên dành nhiều thì giờ để hình dung ra diễn biến của câu chuyện:
– Bước thứ nhất : cử chỉ của người phụ nữ dành cho Đức Giê-su. Trong khi mọi người, trong đó có Đức Giê-su và người Pha-ri-sêu tên là Simon, đang dùng bữa, người phụ nữ đột ngột xuất hiện sát bên chân Đức Giê-su; mọi người, trong đó có Đức Giê-su hướng về người phụ nữ này, nhưng không có cùng một cái nhìn.
– Bước thứ hai : cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và ông Simon về người phụ nữ.
– Bước thứ ba: lời nói của Đức Giê-su dành cho người phụ nữ.
- Người phụ nữ và Đức Giê-su (c. 36-38)
a). Người phụ nữ
Chúng ta hãy nhìn ngắm người phụ nữ, lắng nghe tiếng khóc (và tiếng lòng nữa) của chị, và quan sát chị thật chăm chú, vì ngôn ngữ của chị là cử chỉ. Ngoài tiếng khóc, chỉ có cử chỉ mà thôi. Chúng ta nghe lời tác giả Tin Mừng nói về chị nữa : « chị vốn là người tội lỗi trong thành », nghĩa là cuộc đời của chị, tương quan của chị với mọi người, tất cả đều đổ bể ; nhưng chị lại quan tâm đến Đức Giê-su và biết được Ngài đang hiện diện ở đây. Ngoài ra, chúng ta phải ngửi nữa (phương pháp áp dụng ngũ quan vào trong cầu nguyện) : mùi thơm của dầu, mùi thơm của tình yêu, của ơn tha thứ, của sự sống mới.
Khi quan sát, chúng ta đừng bỏ qua một chi tiết nào, vì Tin Mừng mô tả rất kỹ và mỗi chi tiết đều mang nặng ý nghĩa và nặng tình nghĩa nữa : chị đi vào nhà mạnh dạn có lẽ chỉ toàn đàn ông, không mặc cảm sợ hãi (điều gì làm chị mạnh dạn, can đảm như thế ?), tay cầm bình bạch ngọc đựng dầu thơm (là điều rất giá trị ; nhưng hãy vượt qua giá trị vật chất để tự hỏi : bình bạch ngọc có nghĩa gì ? dầu thơm có nghĩa gì ? Những điều này tượng trưng cho điều gì ?), chị đứng đàng sau, sát bên chân Đức Giê-su mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người (hẳn là khóc dữ lắm, thì mới đủ « nước » tưới), chị lấy tóc mình mà lau (không thể tưởng tượng được!), rồi hôn chân người (quá sức tưởng tượng!), sau cùng, mới lấy dầu thơm và đổ lên.
Hãy khám phá ra ý nghĩa của những cử chỉ lạ lùng này, và nhất là khám phá ra tâm tình của đôi tay, của ánh mắt, của con tim, và của chính ngôi vị. Tất cả những gì chị có (bình bạch ngọc), và những gì chị là (hiện diện, nước mắt, mái tóc, những nụ hôn, danh dự, ngôi vị), chị đổ hết vào chân Chúa. Những cử chỉ này như muốn diễn tả tận cùng, diễn tả bao nhiêu có thể lòng mến của chị: « bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều » (c. 47). Hơn thế nữa, những cử chỉ của chị như muốn thâu tóm cả một cuộc đời mới mà chị hy vọng Đức Giê-su sẽ mở ra cho chị. Ngoài ra, cử chỉ này còn tôn vinh sự sống mới nơi Đức Giê-su (như cô Maria trong Ga 12, 1-8 và người phụ nữ trong Mc 14, 3-9).
Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để nhìn ngắm, cảm nhận và thưởng nếm sự dịu dàng của tất cả những gì mà người phụ nữ đã làm cho Đức Giê-su. Và khi nhìn ngắm chị, chúng ta hãy xin Chúa đánh thức lòng ước ao yêu mến Chúa cũng mãnh liệt như thế theo cách thức riêng của mỗi người chúng ta và theo ơn gọi riêng của chúng ta.
b) Đức Giê-su
Hãy nhìn ngắm Đức Giê-su, tại sao Ngài để cho làm kì như vậy, trước mặt mọi người. Ánh mắt, thái độ và nhất là tâm cảm của Ngài. Sao Chúa không đẩy ra hay « đạp » cho một cái ? Đức Giê-su như đồng hóa mình với tội ; và điều này làm cho ông Simon nêu nghi vấn về căn tính của Người : « Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi ». Như thế, cách Đức Giê-su đón nhận người phụ nữ và phản ứng của những người chứng kiến đã loan báo mầu nhiệm Thập Giá rồi (tương tự như khi Chúa tha tội cho người bại liệt trong Mc 2, 1-12)
Ngoài ra, chúng ta cũng đừng quên nhìn, nghe các nhân vật (dù bản văn chưa tường thuật lời nói của các nhân vật, nhưng chắc chắn đã có những trao đổi xì xào), và quan sát thái độ của họ khi chứng kiến những gì mà chị làm cho Đức Giê-su. Nhưng thật ra những gì diễn ra trong lòng họ mới là vấn đề. Điển hình là ông Simon.
- Đức Giê-su và ông Simon (c. 39-47)
Nếu ở đoạn trên, cái nhìn của chúng ta hướng về người phụ nữ, thì ở đây, cái nhìn của chúng ta được mời gọi hướng về ông Simon và hướng về Đức Giê-su. Và đây mới là trung tâm của trình thuật Tin Mừng. Chúng ta là tội nhân, hiển nhiên rồi, nhưng vẫn còn một vấn đề lớn khác : cái nhìn của chúng ta về những tội nhân khác. Trong phần này, chúng ta cần lắng nghe, lắng nghe tiếng lòng và lắng nghe tiếng nói.
Tiếng lòng (nghĩ trong bụng) của ông simon : ông giản lược ngôi vị vào những hành vi tội lỗi ở quá khứ, vì thế ông mù lòa đối với những hành vi đang diễn ra trước mắt ông, chúng hoàn toàn vô nghĩa. Đức Giê-su sẽ giúp ông mở mắt ra để biết nhìn. Ông Simon cũng đại diện cho tiếng nói bí ẩn dìm chúng ta vào mặc cảm tội lỗi.
Biết những suy nghĩ trong lòng ông, Ngài không giận dữ áp đặt cái nhìn của mình, Ngài kiên nhẫn dẫn ông ra ngoài (người cha ra ngoài gặp người con lớn, trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu) bằng cách kể cho ông nghe một câu chuyện, đặt câu hỏi để tự ông phán đoán. Chúng ta hãy dừng lại đây để thán phục và cảm nếm sự kiên nhẫn và cách thức dẫn dắt tài tình của Chúa. Ngài là Ngôi Lời (Lời, trong tiếng Hi-lạp là Logos, còn có nghĩa là lý lẽ của mọi sự, lý do tồn tại của mọi sự, qui luật liên kết mọi sự), nên mời gọi chúng ta dùng cả trí khôn, lý trí, óc phán đoán để hiểu và đón nhận Ngài và cung cách ứng xử của Ngài với người khác.
Sau khi ông phán đoán đúng về câu chuyện trong dụ ngôn (là dụ ngôn, nhưng lại diễn tả rất đúng lòng thương xót vô hạn và nhưng không của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi), Đức Giê-su đưa ông về với thực tại, là người phụ nữ đang hiện diện trước mắt ông và mắt Chúa. Và trong những lời này, Chúa như vô tình để lộ căn tính của mình : Ngài nói như thể Ngài là một ngôi vị mà người ta phải có lập trường, phải quyết định : tin hay không tin, đón nhận hay không đón nhận ; và nhất là Ngài công bố ơn tha tội, điều mà chỉ có Thiên Chúa mới làm được mà thôi. Và người ta đã không bỏ qua điều phi thường này : « Ông này là ai mà có quyền tha tội? ».
Ngài ghi nhận từng chi tiết cử chỉ của người phụ nữ dành cho Ngài (nước mắt tưới chân, mái tóc lau khô, hôn chân liên tục, lấy dầu thơm đổ lên) rồi đem so sánh với thái độ tiếp rước của ông Pha-ri-sêu. Chúa như muốn áp dụng người nợ 500 quan tiền cho người phụ nữ và 50 quan cho ông Pha-ri-sêu, vì ông tự cho mình là người công chính). Nếu kết luận của dụ ngôn là hợp lí không chút bất ngờ, kết luận Chúa rút ra từ những gì đang xẩy ra chắc chắn đã làm mọi người chưng hửng (chị, ông, mọi người có mặt, và cả chúng ta nữa đang chiêm ngắm câu chuyện, nghĩa là cũng hiện diện) :
« Vì thế, tôi nói cho ông hay tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít » (c. 47)
Câu kết luận diễn tả những diễn biến nội tâm không nhìn thấy được, và nhất là cái nhìn của Thiên Chúa về những diễn biến trong lòng con người: những cử chỉ của người phụ nữ diễn tả lòng mến lớn ; và lòng mến lớn là dấu chỉ của ơn tha thứ còn lớn hơn đối với “rất nhiều tội”! Còn ai được tha ít (vì tự cho mình là ít tội, là công chính, thì sẽ yêu mến ít! Chúng ta có thể dừng lại để gẫm suy lời này của Đức Giê-su. Ông Simon, thinh lặng; và Chúa đã phải chờ câu trả lời của ông. Nhưng có lẽ Chúa phải chờ thật lâu, vì câu trả mà Chúa mong muốn, đòi một biến đổi nội tâm, biến đối quan điểm, cái nhìn, con tim. Và điều này cần rất nhiều thời gian. Vấn đề của ông cũng là vấn đề của chúng ta.
- Đức Giê-su và người phụ nữ (c. 48-50)
“Tội của chị đã được tha rồi”; “lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”. Hai câu của Đức Giê-su dành cho người phụ nữ thật ngắn gọn, nhưng đi đôi với ánh mắt dịu dàng và diễn tả sự đón nhận cách trân trọng tất cả những gì chị vừa làm, cũng như tất cả những chuẩn bị đã dẫn chị đến đây ; hai câu nói chữa lành những vết thương lòng của chị, phục hồi ngôi vị của chị, tái tạo cuộc đời chị.
Như thế, lòng tin có khả năng cứu vớt. Thật vậy, lòng tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi ngôi vị và Thập Giá của Đức Giê-su, giải thoát chúng ta khỏi mặc cảm tội lỗi, khỏi sự nghi ngờ chết chóc đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa, cho dù cuộc đời của chúng ta có như thế nào. Điều này hoàn toàn hợp với suy tư của thánh Phaolô trong thư Galát và Roma : “Người ta nên công chính nhờ lòng tin, chứ không phải nhờ làm điều luật dạy” (Gal 3, 16). Ông Pha-ri-sêu là người giữ luật hơn ai hết ! Nhưng, những vấn đề nội tâm của ông dường như vẫn còn nguyên trong tương quan với tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
* * *
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, dù chúng ta là ai, đang ở tình trạng nào, để nhận ra và tín thác nơi tình yêu tình yêu đến cùng của Chúa. Xin cho tình yêu đến cùng của Chúa khơi dậy nơi con tim của chúng ta lòng khao khát cũng yêu Chúa đến cùng, như người phụ nữ tội lỗi.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!
Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.
Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,
Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện :
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
R. Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Những bài Kinh thánh hôm nay rất phong phú, chứa đựng nhiều bài học quan trọng cho đức tin và đời sống Ki-tô hữu chúng ta. Nhưng tôi chỉ muốn chia sẻ 2 điểm mà thôi. Điểm thứ nhất là đừng xét đoán ai. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết một người Pha-ri-sêu có tên là Simon mời Chúa đến nhà dự buổi tiệc, nhưng không cho chúng ta biết rõ trong dịp gì. Đang trong bữa tiệc, một người đàn bà đến khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Chúa Giê-su, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái xét đoán và kết án bà là người tội lỗi, và tỏ ra một thái độ khinh bỉ đối với bà. Tệ hơn nữa, ông cũng đã xét đoán, nghi ngờ và kết án Chúa Giê-su là người gian dối khi ông châm biếm phê bình: “Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi.” Vì mang thành kiến xét đoán nên ông không tôn kính và nhận ra Chúa Giê-su Người ông mời dự tiệc tại nhà là ai. Nhiều người chúng ta cũng có thái độ vội vã xét đoán và kết án người khác dựa vào hình dáng bề ngoài, rồi đưa đến những thái độ nghi ngờ, kỳ thị, chê bai và khinh thường. Chúa Giê-su trong bài giảng trên núi dạy chúng ta: “Các con đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Các con xét đoán thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy.” (Mt. 7, 1-2)
Điểm thứ hai mà tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em là sự tha thứ. Chúng ta biết có nhiều loại tha thứ: sự tha thứ giữa người vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau trong gia đình, sự tha thứ trong tình bạn bè, giữa những người thân thuộc, hay sự cần thiết của sự tha thứ khi chúng ta đối xử với nhau, hay sự tha thứ cho chính bản thân của chúng ta. Tôi biết có những người vợ, người chồng không thể tha thứ cho nhau, có những anh chị em không thể tha thứ cho nhau, có những người thân thuộc không thể tha thứ cho nhau, bạn bè không thể tha thứ cho nhau, có những người không thể tha thứ cho chính Thiên Chúa, vì đã không ban ơn hay không nghe lời họ cầu xin. Thế nhưng, hôm nay, chúng ta chú ý đến sự tha thứ của Chúa cho chúng ta.
Trở lại bài Tin mừng, chúng ta thấy người đàn bà mang tiếng tội lỗi đã phá bỏ mọi thể thức, nghi lễ thông thường của một buổi tiệc, từ sự biểu lộ tấm lòng ngưỡng mộ, biết ơn chân thành đến sự tôn kính và yêu mến Chúa Giê-su. Chúng ta thấy ông Pha-ri-sêu chủ nhà, người mời Chúa Giê-su, cùng với khách đã sửng sốt và khó chịu trước hành động của bà. Vì thế Chúa Giê-su đã kể cho họ dụ ngôn người chủ nợ và con nợ. Dụ ngôn này cho chúng ta thấy ba điểm quan trọng. Thứ nhất là sự can đảm, tấm lòng khao khát và chân thành đến với Chúa của bà. Điểm quan trọng thứ hai, dụ ngôn cho chúng ta biết lý do tại sao người đàn bà nhiều tội lỗi được tha thứ. Và điểm thứ ba là lý do tại sao bà “phung phí” sự cảm tạ, tri ân và ngưỡng mộ Chúa, vì bà đã nhận được ơn tha thứ đầy tràn.
Chúng ta tự hỏi “Lý do gì và động lực nào làm cho bà có lòng khao khát và thúc đẩy bà tìm và đến với Chúa?” Tin mừng không cho chúng ta biết rõ lý do và động lực nào, nhưng có lẽ bà đã nghe Chúa Giê-su dạy dỗ về lòng thương xót của Thiên Chúa qua những dụ ngôn Con Chiên Lạc, hay Đồng Xu Đánh Mất, hay Người Con Hoang Đàng. Nghe được những lời giảng dạy của Chúa Giê-su về lòng thương xót của Thiên Chúa đã đánh động vào tâm hồn của bà, nảy sinh ra sự thay đổi, hoán cải chân thật, và hoàn toàn trao tấtâm hồn của bà cho Chúa.
Tới đây, tôi muốn ông bà anh chị em chú ý đến một điểm thật quan trọng đã xảy ra, đó là vì lý do này hay khác, không biết làm sao bà tin chắc chắn rằng chính Chúa Giê-su, chính Chúa Giê-su là sứ giả lòng thương xót của Chúa Cha, cho nên bà đã can đảm và mạnh dạn vượt qua những chướng ngại vật bên trong con người mình là tội lỗi, và bên ngoài là sự khinh khi của chủ nhà và những người khách trong bàn tiệc, để tìm đến gặp và quì xuống trước mặt Chúa Giê-su tỏ tấm lòng chân thành biết ơn tràn đầy, và đã nhận được ơn tha thứ của Chúa. Khi Chúa Giê-su nói với bà: “Tội con đã được tha rồi”, Người ban cho bà một sự bảo đảm chắc chắn bà được hoàn toàn tha thứ.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy trong Tin mừng, Chúa Giê-su lập đi lập lại nhiều lần và tuyên bố với dân chúng “Tội con đã được tha.” Ngày nay, Chúa vẫn nói với chúng ta câu này trong Bí tích Hòa giải, Bí tích Xưng tội. Khi chúng ta có lòng khao khát và thành tâm đến với Chúa trong Bí tích Hòa giải, và với tấm lòng ăn năn thống hối, chúng ta sẽ lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Bí tích Hòa giải giúp đời sống tinh thần của chúng ta trưởng thành và lớn mạnh hơn, cũng như có tình liên hệ mật thiết với Chúa.
Tóm lại, lời Chúa hôm nay dạy chúng ta 2 điểm quan trọng. Thứ nhất, là những Ki-tô hữu chúng ta phải tránh xa sự xét đoán và có lòng chân thành, thành thật với Chúa như vua Đa vít trong bài đọc 1. Vua Đa vít đã chân thành thú nhận: “Trẫm đã phạm tội cùng Chúa.” Vua Đa Vít đã không đổ tội cho ai hay vì ai mà ông phạm tội. Vua tự nhận trách nhiệm và tội lỗi của mình. Chúng ta biết bước đầu trong sự thống hối ăn năn là sự chân thành với Chúa và với chính mình. Thánh vịnh tiếp theo bài đọc 1 là những lời tự thú chân thật của vua Đa Vít với Chúa “Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi.” Đây là một lời biểu lộ, một lời diễn đạt chân tình của sự thống hối ăn năn. Bài học thứ hai là chúng ta phải có cuộc sống biết ơn về lòng thương xót và tha thứ của Chúa như người đàn bà trong Tin mừng. Dù tội của chúng ta có nặng và nhiều đến đâu, Chúa vẫn làm cho trắng tinh như tuyết, để chúng ta không bao giờ phải lo sợ và thất vọng.
Xin Chúa luôn giúp chúng ta có một niềm tin mạnh mẽ và một tình yêu mến Chúa chân thành, đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa là Ðấng nhân từ và luôn yêu thương, để trở thành sứ giả lòng thương xót và tha thứ của Chúa.
.