CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: 1V 17, 17-24; Gl 1, 11-19; Lc 7, 11-17
——-
1. Đau khổ qua đi (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
2. Yêu không tính toán (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
3. Đừng có vô cảm (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
4. Thiên Chúa chạnh lòng thương (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
5. Thiên Chúa chạnh thương nỗi thống khổ của con người (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
6. Lòng Thương Xót cứu độ (AM. Trần Bình An)
7. Đừng khóc nữa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Sự sống (Trầm Thiên Thu)
9. Cảm thông để xót thương (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
10. Đấng chiến thắng sự chết(Lm. Inhaxio Trần Ngà)
11. Hãy chỗi dậy! (P. Trần Đình Phan Tiến)
12. Chạnh lòng thương (Dã Quỳ)
13. Con trai bà góa sống lại (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
14. “Này người thanh niên, Ta bảo anh:Hãy chỗi dậy” (Lm. Đan Vinh)
Lm. Jos. DĐH
Có 2 điều mà người ta thường e dè khi nhắc đến, đó là thất bại và tật xấu của bản thân. Có 2 thao thức mà các bậc cha mẹ thường mơ ước, đó là con mình sẽ vừa tài vừa đức. Thực tế hơn, không phải là sợ hay mơ, mà chính mỗi người đang được cải thiện để tiến dần tới hạnh phúc. Cuộc đời có đau khổ có niềm vui, nhưng không hẳn là do yếu tố may mắn, không phải vì tài cao sức rộng của con người làm nên sự tốt đẹp hoàn hảo. Hiện tại và tương lai, hoảng sợ lo lắng, bình an niềm vui, sẽ là lời giải đáp cho tất cả thao thức của chúng ta.
Suy xét tự nhiên, nhiều người vẫn tạm hiểu, nước mắt, khổ đau, không phải là hình phạt; niềm vui, thành đạt, cũng chẳng phải là phần thưởng ở đời này. Đúng hơn, những diễn tiến vui buồn, thành bại, luôn là cơ hội, là quy luật, đưa chúng ta đến hạnh phúc thật ở phía trước. Bạn đạp trúng cái gai, phản ứng tự nhiên sẽ kêu lên “á”, bạn thua lỗ trong kinh doanh, tâm trạng sẽ buồn chán, bạn bị người yêu từ chối, sao thoát khỏi nghi ngờ ! Nỗi tuyệt vọng lớn nhất, chính là mất đi người thân yêu, dù biết sống chết là quy luật.
Sự cảm thông trước nỗi đau khổ mất mát người thân, đám đông hôm nay, cũng là tâm trạng bế tắc, miễn cưỡng, lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống, trời ơi hỡi trời ! Người đầu bạc, chôn kẻ đầu đầu xanh, cảnh ly biệt đáng buồn, nước mắt khổ đau ấy, ai có lý giải hoặc cảm thông với bà góa thành Naim ? Nếu coi chết là xui, là hình phạt, hoặc xem người thanh niên chết đó là quy luật, đều không ổn tí nào ! Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài không có ý ngăn chặn những khổ đau, nhằm giúp con người có mãi niềm vui ở đời này. Đúng hơn, Chúa đến để mời gọi mọi người hãy tin theo Ngài, Ngài chính là câu trả lời đâu là niềm vui hạnh phúc thật.
Kinh nghiệm vẫn cho rằng : biết nhiều khổ nhiều, hoặc yêu ít khổ ít, khờ khờ, dốt dốt, không vướng vào tình yêu, chỉ lỗ một chút chứ không khổ đau. Sứ điệp của Chúa Giêsu hôm nay, đó là mỗi người hãy sử dụng hết lợi khí của mình, không nên oán trách than van vì “cái được”, “cái mất” ở hiện tại; Thiên Chúa thấu biết đâu là điều tốt nhất cho chúng ta. Nhiều người trong It-ra-el thời Chúa Giêsu phải đau khổ, cơ cực, ly biệt, thảm thương không khác gì tình cảnh bà góa thành Naim; nhưng hẳn không phải gặp được phép lạ, cho người chết sống lại mới là Thiên Chúa yêu thương.
Trước nỗi thống khổ, mất mát, thiệt thòi, thua lỗ…, của con người hôm nay, Chúa Giêsu Ngài vẫn thấy và biết tất cả, đó là niềm tin, là sự thật, mãi mãi Ngài chính là câu trả lời cho từng hoàn cảnh, hãy đến gặp gỡ Ngài. Nếu Chúa Giêsu có xuất hiện hữu hình ở đây, Ngài cũng sẽ nói, mỗi bạn hãy cầu nguyện, làm hết khả năng và ơn ban, còn lại bao nhiêu để lại cho tình yêu Chúa. Né tránh đau khổ, sự chết, không phải là “cao kiến”, im lặng “chịu vậy” không thể là giải pháp ổn thỏa. Cầu nguyện, tín thác vào Chúa Giêsu, đó mới là kẻ khôn ngoan thức thời, biết đặt để tình yêu Chúa vào cuộc đời của mình.
Người đời thường quan niệm : được giầu có địa vị, là vinh dự cho bản thân, gia đình, biết sử dụng tài sản, đem khả năng hiểu biết của mình phát triển xã hội, đó mới đáng gọi là người hiền tài. Chúa Giêsu không đến trần gian cổ vũ mọi người phải phấn đấu, để ai ai cũng thông thái, tài giỏi. Sứ mạng của Chúa xưa nay, đều không phải đến cứu con người khỏi chết phần xác, nhưng mỗi người hãy cậy trông Ngài để được sống đời đời. Trước tình cảnh bi thương hôm nay, Chúa Giêsu không nói với các học trò, hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, nhưng Ngài nói to để bà mẹ, và đám đông cùng nghe : “đừng khóc nữa”.
Đức Giêsu chính là câu trả lời cho bà góa thành Naim, cho đám đông, cho chúng ta : đau khổ có qua đi, niềm vui mới trở lại, đó là sự thật. Cha mẹ có minh chứng được tình yêu đối với con cháu mình, Thiên Chúa sẽ ra tay đáp ứng mơ ước đó. Nước mắt tràn trề yêu thương của bà góa, không những lay động cả đám đông nghẹn ngào. Chứng kiến tình cảnh đau thương của bà góa thành Naim, chính Chúa Giêsu không thể im lặng, Ngài đã sử dụng tình yêu của Thiên Chúa đối với nỗi thống khổ của bà, của nhân loại chúng ta.
Chỉ nơi Chúa Giêsu Ngài mới có thể nói : “hỡi thanh niên Ta truyền cho ngươi chỗi dậy”. Chỉ đám đông năm xưa, họ mới hiểu họ phải làm gì, và tất cả những ai hôm nay tin vào Đức Giêsu, đều có nghĩa vụ sống cảm tạ tri ân : “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài”. Đức Giêsu đã bày tỏ một chân lý xác thực : đau khổ và vinh quang, nước mắt và niềm vui, luôn tồn tại như một quy luật, hãy tìm đến với Ngài để được cảm thông, sẻ chia.
Thuốc đắng giã tật, phương thế hữu hiệu để chữa trị khổ đau mất mát, chỉ có nơi Đức Giêsu. Thuốc duy nhất để chữa được bệnh tình, vẫn là tình yêu. Chúa dùng tình yêu để chữa lành vết đau thể xác, chỉ là giai đoạn đầu cho từng người tín hữu chúng ta nhận ra tội lỗi thiếu xót của mình, hầu biết sám hối để được ơn Chúa cứu độ. Đau khổ, mất mát, tội lỗi, có qua đi, có được tha thứ, người theo Chúa mới hoàn toàn nhận được niềm vui thật trong Đấng giầu lòng xót thương. Amen.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Trong cuộc sống chúng ta nghe rất nhiều những bài ca dao dạy về tình liên đới, sự cảm thông nâng đỡ nhau như:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn “
Tình thương giữa con người với nhau luôn thúc đẩy chúng ta yêu thương đùm bọc để “chia ngọt sẻ bùi” với nhau vì:
“Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần ”
Vượt ra khỏi tình anh em máu mủ là tình quê hương, tình đồng loại cũng phải yêu thương nhau như câu ca dao đã nói:
“Nhiễu điểu phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Lời dạy của tiền nhân là vậy. Thế nhưng có mấy ai thực thi. Xem ra con người từ cổ chí kim vẫn chỉ lo cho mình, đôi khi còn dửng dưng với nỗi bất hạnh của đồng loại và cả người thân. Thế nên cha ông ta cũng đau xót nói rằng:
“Con cò chết rũ trên cây
Cò con mở lịch định ngày làm ma
Cà cuống uống rượu la đà
Chim ri riu rít bò ru lấy phần ”
Câu ca dao này khiến chúng ta nhớ tới tích chuyện cổ xưa kể rằng: Vua Thạch Sùng có một cuộc sống rất bệnh hoạn, mỗi lần cùng khách dự tiệc thì nhất định phải để cho người đẹp chuốc rượu, nếu người đẹp không thể làm cho khách uống được thì người đẹp bị tội chết.
Một hôm, Thạch Sùng làm tiệc mời thừa tướng Vương Đạo và một vị đại tướng quân.
Thường ngày Vương thừa tướng rất ít uống rượu, nhưng ông ta biết Thạch Sùng có thói quen ác độc ấy, bèn miễn cưỡng đến và ăn uống đến say mèm, mà vị đại tướng quân kia lại cố ý không uống, kết quả là Thạch Sùng giết hết ba người đẹp.
Vương thừa tướng khuyên vị đại tướng quân uống, đại tướng quân nói:
– “Hắn ta giết người của gia đình hắn, mắc mớ gì đén tôi chứ ?”
Đôi khi chúng ta cũng cảm thấy mình đâu có trách nhiệm với sự sống tha nhân. Chúng ta theo chủ thuyết “makeno” để sống chết mặc bay. Người ta giết nhau chứ có giết mình đâu mà can thiệp. Đây là lối sống ích kỷ thiếu tình yêu lòng cảm thông với tha nhân.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Tình yêu của Ngài luôn chạnh lòng thương xót mọi phận người khổ đau. Ngài xót xa khi nhìn thấy đoàn người đói khát mệt mỏi sau một ngày theo Chúa trên đồng hoang mông quạnh. Ngài xót xa khi nhìn thấy nỗi đau thể xác nơi các bệnh nhân. Ngài còn quả quyết Ngài đến để lòng thương xót vô bờ bến dành cho các tội nhân.
Tình thương lòng cảm thông ấy hôm nay Ngài dành cho người mẹ thành Nain đang tiễn đưa con mình. Ngài chạnh lòng thương và gọi cậu dậy để trả lại sự sống cho cậu. Dẫu biết rằng con người rồi cũng chết, nhưng Ngài xót xa cảnh ly biệt của mái đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh. Ngài đã tỏ bày lòng thương xót của một vì Thiên Chúa luôn sẵn lòng thi ân cho con người.
Đức Thánh Cha Phanxico cũng từng nói: Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn hoạt động động để cứu giúp. Thiên Chúa của lòng thương xót đáp lời và quan tâm đến người nghèo, quan tâm đến những ai kêu gào trong tuyệt vọng. Thiên Chúa lắng nghe và can thiệp để cứu giúp, bằng cách tạo nên những con người đủ khả năng để lắng nghe tiếng rên rỉ của đau khổ và hỗ trợ những ai bị áp bức”.
Ước gì chúng ta luôn có cái nhìn đầy cảm xúc của Chúa để mở rộng lòng trước những bất hạnh của tha nhân. Xin cho chúng ta luôn biết mở toang tấm lòng của mình để gió cuốn ta đi đến với mọi hoàn cảnh khổ đau, với những mảnh đời bất hạnh hầu xoa dịu những thương đau cho anh em như Chúa đã sống vì yêu thương nhân loại chúng ta. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Năm Thánh Lòng Thương Xót, Năm mà Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta “xóa bỏ sự thờ ơ, vô cảm, đánh mất cảm xúc …” (x.Misericordiae Vultus số 15).
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót“. Ngài cũng bày tỏ: “Tôi mong muốn biết bao rằng nơi nào Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và các cộng đoàn của chúng ta, nơi ấy sẽ trở thành những hải đảo thương xót giữa lòng đại dương vô cảm!“
Nhân loại đang sống trong một thế giới với các phương tiện hiện đại tân kỳ. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, người ta đang cố gắng tạo ra rô-bốt thật giống người hơn để giúp con người trong các việc nặng nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều, trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chíp “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.
Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình. Thấy Chân, Thiện, Mỹ mà không ngưỡng mộ. Gặp cảnh bi thương lại thờ ơ, không động lòng thương xót, không rung động tâm can. Giá trị đạo đức bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật và cá nhân chủ nghĩa, dẫn đến “bệnh vô cảm“. Bệnh này thể hiện ở chỗ, không động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác, cũng như không hề phẫn nộ trước những tệ nạn xã hội đang xảy ra. Con người hầu như trở nên vô tình trước cuộc sống của người khác. Vậy đó còn là con người không, hay chỉ là xác khô của một cỗ máy?
Lời Chúa hôm nay vang lên như tiếng chuông báo động về lòng thương xót : “Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương xót: bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Một Thiên Chúa động lòng thương xót khi thấy đám đông đi theo mình và đã làm phép lạ để nuôi sống nhiều ngàn người ăn. Chúa chạnh lòng thương chữa lành những người mang bệnh hoạn tật nguyền. Chúa động lòng thương khi thấy đứa con trai hoang đàng của mình trở về. Và trong đoạn Tin Mừng hôm, Chúa Giêsu đã cảm động khi thấy bà góa bên cạnh quan tài của con một đã chết. Cảm thông với nỗi đau khổ của người đàn bà góa, Chúa bảo bà: “Bà đừng khóc nữa“(Lc 7,13), làm cho bà đầy hy vọng.
Lòng thương xót vô điều kiện, bằng chứng là không ai xin Chúa và Chúa cũng không đòi hỏi lòng tin nơi người được chữa lành, hay nơi những người liên quan. Chỉ đơn thuần trên đường đi, Chúa Giêsu bà đang đi chôn cậu con trai yêu quí Chúa đã ra tay phục sinh cho con của bà.
Chúa thấy hoàn cảnh của bà thật đáng thương. Đáng thương vì chồng bà mất sớm, khiến bà trở nên mẹ góa con côi. Đáng thương hơn nữa, vì giờ đây đứa con trai duy nhất của bà cũng bỏ bà ra đi vĩnh viễn. Bà lâm vào cảnh “Tre già phải khóc măng non”, và thành người bơ vơ không nơi nương tựa. Tất cả dường như sụp đổ, cuộc sống bà xem ra không còn hy vọng gì cả, bà chỉ có một niềm an ủi, một động lực để sống là đứa con thì nay niềm hy vọng cuối cùng đó cũng không còn nữa.
Sống ở trên đời, nhiều người trong chúng ta cũng muốn lau những giọt nước mắt của tha nhân và nói với họ rằng: “Đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay, các phương tiện truyền thông cho chúng ta thấy rõ những khổ đau của nhân loại, nhiều vô kể! Nếu có thể được, chúng ta sẽ nói với những người ấy rằng : “Hãy đứng dậy” (Lc 7,14). Nhưng rất tiếc chúng ta không phải là Thiên Chúa nên không thể! Tận đáy lòng, chúng muốn nói với họ: trong lúc bị đau khổ bủa vây, hãy nhìn lên Chúa Giêsu và xin Chúa giúp!
“Động lòng thương” với những người sầu khổ, là thái độ của những người nhận ra hình ảnh của mình nơi người khác thật [mong manh]. Chăm sóc vết thương của tha nhân là điều trị vết thương của chính mình. Lòng trắc ẩn trở thành một sự hiệp thông, cầu nối, thêu dệt tình bằng hữu.
Hãy “tiêu diệt” căn bệnh vô cảm một cách triệt để, hãy trao yêu thương và nhận thật nhiều yêu thương. Một xã hội vô cảm là một xã hội chết! Một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt của một cỗ máy vô tri, hẳn không ai muốn. Một nhà văn Nga đã từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương“. Con người sống mà không có tình thương thì chẳng khác chi con vật, giống cái xác không hồn, tồn tại giữa dòng đời một cách vô nghĩa, và sẽ chết dần mòn trong cô đơn, lạnh lẽo. Thế nên, chúng ta hãy tích cực chống lại “bệnh vô cảm”, phải sống có tình thương, có trách nhiệm với cộng đồng và đặc biệt là phải mở lòng mình ra với cuộc sống.
Xin Chúa cất khỏi chúng ta trái tim chai cứng và ban tặng cho chúng ta trái tim mềm mại của Chúa, trái tim biết yêu thương, để chúng ta luôn biết thổn thức, biết chạnh lòng trước những hoàn cảnh, trước những mảnh đời đau khổ và bất hạnh để ra tay trợ giúp họ. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong một vụ tai nạn, người phụ nữ ôm đứa con nhỏ trên tay kêu gào đến khản cổ : Ai cứu con tôi với ! Thế nhưng, xem lại camera an ninh ở chung quanh, người ta thấy có tới ba hay bốn chiếc xe đi ngang qua đó, thấy nạn nhân ôm đứa con đẫm máu, họ đã lẳng lặng bỏ đi. Sau hàng giờ chờ đợi xe cấp cứu, đứa bé được đưa tới bệnh viện, nhưng đã quá muộn. Người ta đặt vấn đề : Phải chăng ngày nay, con người ngày càng trở nên vô cảm với nhau, họ nhắm mắt làm ngơ khi thấy anh em mình bị nạn ? Nhiều người có thể hiếu kỳ đứng xem một tai nạn xảy ra, nhưng không mấy người dám ra tay cứu giúp người bị nạn.
Tin Mừng hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu hoàn toàn khác. Ngài không vô cảm, không dửng dưng với nỗi đau của con người, nhưng đồng cảm, thấu cảm. Người đưa tay chạm đến con người và tìm cách giải gỡ con người khỏi đau khổ. Câu chuyện Chúa Giêsu cho con trai bà góa thành Naim được sống lại đã cho thấy tâm hồn chạnh thương của Chúa Giêsu.
Thánh Luca kể rằng : Chúa Giêsu đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà góa. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói : Đừng khóc nữa. Khác với lần Chúa làm phép lạ cho Lazarô sống lại. Lần đó, Chúa chạnh thương vì thấy cảnh những người chị đau khổ khóc thương em, nhưng Ngài vẫn đòi cô Matta phải có một lòng tin và phải tuyên xưng đức tin : Con tin Thầy là Đấng Kitô. Trong phép lạ cho con trai bà góa thành Naim sống lại, Chúa không đợi chờ một lời kêu xin, Ngài cũng không đòi một điều kiện nào. Chúa thực hiện phép lạ hoàn toàn do sự thúc đẩy của tình thương, của trái tim mách bảo.
Chúa cảm thông trước hết với cảnh mẹ góa con côi. Người mẹ này đã phải đau khổ vì mất người chồng là chỗ dựa, là điểm tựa cho bà. Bà chỉ còn cậy nhờ vào người con trai duy nhất. Người con trai này là tương lai, là hy vọng, là chỗ dựa cho bà lúc tuổi già, vậy mà đứa con này lại chết. Người đàn bà này đau khổ đến tận cùng, bà như hoàn toàn mất hết hy vọng vào cuộc sống, cuộc sống của bà sẽ không còn ý nghĩa khi đứa con trai không còn. Cảm thông cho hoàn cảnh lá vàng đưa tiễn lá xanh, Chúa Giêsu đã bước đến nói với bà : Đừng khóc nữa ! Ngài tiến lại gần, chạm đến quan tài, các người khiêng dừng lại. Với hành động này, Chúa Giêsu đã đưa tay ra để ngăn cản tiến trình của sự chết, của sự chôn vùi và phân hủy. Bằng một mệnh lệnh : Hỡi thanh niên, tôi truyền cho anh : hãy chỗi dậy ! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Điều đó chứng tỏ quyền năng nơi lời của Chúa Giêsu. Nếu như ngày xưa trong công cuộc tạo dựng, Thiên Chúa phán : Hãy có, thì mọi vật liền có. Hôm nay, cũng bằng một mệnh lệnh : Hãy trỗi dậy, người thanh niên thực sự được phục hồi sự sống.
Đức Giêsu trao anh ta lại cho bà mẹ. Điều này cho thấy, sự sống mà người thanh niên này đón nhận lại hoàn toàn là quà tặng bởi lòng thương xót của Thiên Chúa. Kế đó, Đức Giêsu tặng người thanh niên này lại cho bà mẹ. Chắc chắn không có niềm vui nào có thể diễn tả được niềm vui của người mẹ khi nhận lại người con của mình. Kinh Thánh không diễn tả cảm xúc và sự vui mừng của bà mẹ, nhưng đã ghi lại cảm xúc và phản ứng của đám đông đang chứng kiến phép lạ : Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng : Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Khi nói đến giờ Thiên Chúa viếng thăm, người Do Thái hiểu đó là giờ, là thời của Đấng Cứu thế đã đến. Đó là thời mà các tổ phụ, các tiên tri đã loan báo, thời Thiên Chúa hứa sẽ giải thoát dân Người, thời của niềm vui và ơn cứu độ.
Khi nhìn nhận Đức Giêsu như là một vị tiên tri cao cả đã xuất hiện, người Do Thái nhớ ngay đến tiên tri Elia. Ông là một vị đại tiên tri và còn là thủ lãnh của Isarel. Elia đã từng chạnh lòng thương khi thấy đứa con của bà góa thành Sarepta tắt thở. Bà mẹ đau khổ, dằn vặt không chỉ vì đứa con phải chết, nhưng bà còn dằn vặt vì cho rằng chính do quá khứ tội lỗi của bà mà khiến con bà phải chết. Elia không thể cầm lòng trước cảnh đau thương này, ông cầu xin cùng Thiên Chúa và Chúa đã cho em bé được sống. Qua việc này, bà góa Sarepta đã tin Elia là người của Thiên Chúa. Truyền thống Israel cho rằng, ông Elia là người của Thiên Chúa nên không chết. Ông được Thiên Chúa đến đón về trời bằng xe ngựa bốc cháy. Dựa vào đó, dân Do Thái hy vọng ông sẽ trở lại vào ngày Chúa viếng thăm dân Người. Khi thấy phép lạ Chúa Giêsu cho con trai bà góa thành Naim sống lại, dân chúng đã nhớ ngay đến Elia và nhớ đến giờ Chúa trở lại viếng thăm như Chúa đã hứa.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng đến viếng thăm dân Ngài. Ngài không chỉ viếng thăm như một vị khách, nhưng đã chia sẻ đến cùng thân phận con người, cùng đau nỗi đau với con người. Ngài cảm thông với đau khổ của con người, xoa dịu và chữa lành những vết thương trong tâm hồn, đem đến cho con người Tin Mừng giải thoát.
Tin Mừng của Chúa Giêsu có sức mạnh giải thoát và biến đổi hoàn toàn cuộc đời con người. Thánh Phaolô là một trong những người đã được biến đổi, được lôi kéo bởi Đức Giêsu và Tin Mừng của Người. Phaolô đã để lại đàng sau quá khứ, con người cũ, để trở thành con người say mê Tin Mừng và miệt mài nói về lòng thương xót của Chúa đã dành cho ông. Phaolô đã nhận ra tất cả cuộc đời của ông là một chuỗi những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm, chỉ vì Ngài chạnh lòng xót thương ông.
Chúng ta tin rằng : Con người có thể vô cảm dửng dưng với nhau, nhưng Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng với đau khổ của con người. Vì, Thiên Chúa của chúng ta là một vị Thiên Chúa chạnh thương. Tin như thế, để không bao giờ ta thất vọng khi gặp đau khổ, thử thách. Tin, để thấy Chúa luôn ở bên chúng ta, Chúa đang đồng cảm với đau khổ của chúng ta ; Ngài đang bước cạnh chúng ta khi chúng ta gặp thử thách tăm tối nhất. Chúa cũng đang nói với kẻ đau khổ : Đừng khóc nữa ! Đừng buồn, đừng thất vọng nữa! Có Ta đang chia sẻ với con !
Thiên Chúa cũng đang an ủi, nâng đỡ cuộc sống chúng ta qua bao người chung quanh. Thiên Chúa đang dùng họ để đồng hành, chia sẻ với cuộc sống của ta, chỉ có điều chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa hay không mà thôi. Đồng thời, Thiên Chúa cũng muốn qua chúng ta để Ngài đồng hành và an ủi các anh chị em đau khổ khác nữa. Ngài muốn mượn trái tim của ta để chạnh thương những anh chị em bất hạnh. Ngài muốn dùng đôi tay của chúng ta để chạm đến anh chị em, dùng môi miệng ta để nói lời an ủi yêu thương, dùng ánh mắt của ta để khích lệ anh chị em chỗi dậy những khi bị suy xụp.
Có người cho rằng : Chỉ có loài vật mới có thể đứng trước nỗi đau của đồng loại mà chăm sóc cho bộ lông bộ da của mình. Điều đó dường như ngày càng đúng trong xã hội hôm nay. Xã hội này đang biến con người thành những con vật vô cảm như thế. Nó biến con người chỉ còn biết lo cho bản thân mà không nghĩ đến anh em, tìm cái danh, cái lợi cho mình, cho gia đình bằng mọi giá, kể cả việc chà đạp lên phẩm giá và quyền lợi của người khác. Có thể nhiều người Kitô hữu cũng đang có lối sống vô cảm như thế.
Có những cha mẹ già đang bị bỏ rơi, hắt hủi như kẻ ở nhờ trong gia đình, hãy quan tâm đến cha mẹ nhiều hơn để cho tuổi già của các ngài khỏi tủi nhục vì con cái. Có những người chồng, người vợ và cả những đứa con bị coi như đồ thừa trong gia đình, không được ai hỏi đến, họ đang cần một nụ cười, cần một hành động chạnh thương, một cái nhìn thông cảm của người thân.
Chung quanh ta có những bạn trẻ tự ti mặc cảm vì khiếm khuyết, bệnh tật hoặc công việc, đang sống khép mình trong dằn vặt. Những người này đang cần đến sự chạnh thương, sự động viên và những cử chỉ cảm thông để giúp họ vượt qua mặc cảm. Là con của Chúa, xin cho chúng ta có được trái tim chạnh thương của Ngài, để chúng ta có thể trở thành những người Chúa dùng, đem tình yêu, lòng xót thương của Chúa đến cho mọi người. Amen.
.
NỖI THỐNG KHỔ CỦA CON NGƯỜI
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đoạn Tin Mừng ‘Đức Giê-su cho con trai một bà góa thành Na-in sống lại’ được xếp vào một trong số ít các phép lạ Người chủ động thực hiện, không qua lời khẩn cầu đôi khi phải rất khẩn khoản đầy tin tưởng của chính các nạn nhân, hoặc thân nhân của họ. Trong trường hợp cụ thể này, đơn giản là vì như được Lu-ca ghi nhận: ‘Người chạnh lòng thương’ trước tình cảnh éo le của một bà mẹ góa bụa vừa mất đi người con trai duy nhất. Chỉ có thế mà Người đã ra tay can thiệp với một phép lạ cả thể. Về phía dân chúng, đứng trước phép lạ cả thể, là một người đã chết đang trên đường đi chôn cất… bật ‘ngồi lên và bắt đầu nói’, họ không khỏi kinh ngạc tới độ cất cao tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Chúa đã viếng thăm dân Người”. Còn riêng với tôi, phép lạ này càng gây kinh ngạc khi tôi nhận ra mối quan tâm sâu sắc mà Thiên Chúa quyền uy cao cả dành cho số phận bọt bèo của một phàm nhân tầm thường: Người chạnh lòng thương! Đối với tôi phép lạ này phản ảnh một trong các nội dung quan trọng nhất của mầu nhiệm Nhập Thể: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…” (Ga 3:16) và, qua Đức Giê-su, Người quả thực rất quan tâm gần gũi với mọi tầng lớp con người.
Thật ra nội dung ‘chạnh lòng thương’ này không mấy xa lạ với Kinh Thánh nói chung. Trước cảnh nô lệ mà dân Do Thái phải chịu bên Ai-cập, Đức Chúa đã phán bảo Mô-sê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng…” (Xh 3:7) Từ đó xuất hiện trong Ít-ra-en một thái độ tin tưởng rất ấn tượng đối với Đức Chúa: “Con lâm cảnh ngặt nghẻo, Ngài lo lắng chăm nom, chẳng trao nộp thân này vào tay thù địch, nhưng cho con rộng bước thênh thang (Tv 30:9) Thế nhưng, hình như cũng đã rất sớm xuất hiện một khuynh hướng trái nghịch muốn đẩy Thiên Chúa ra xa, tới một nơi tôn nghiêm cực thánh, để rồi Người bị coi như một kẻ xa lạ, đầy thịnh nộ và quyền uy, phải được làm nguôi ngoai bằng các nghi thức lễ tế rườm rà. Từ đó lời cầu khẩn cũng không còn là hoàn toàn tin tưởng phó thác nữa, một chất chứa bồn chồn lo lắng: “Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và hồn con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 12:3); thậm chí còn tỏ ra nghi ngờ Đức Chúa xót thương, “Xin Chúa đừng chê bỏ chúng con, đừng rẻ rúng tòa vinh hiểu của Ngài. Dám xin Ngài nhớ lại đừng hủy bỏ giao ước giữa Ngài với chúng con” (Gr 14:21).
‘Thiên Chúa luôn đi bước trước…, vì lòng nhân ái vô biên của Người’ là nét nổi bật nhất trong toàn bộ mạc khải của Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (xem Ga 3:16). Khảng định của niềm tin Ki-tô hữu chúng ta không chỉ là: tôi tin vào một ‘Thiên Chúa yêu thương’ nhưng còn hơn thế nữa, tôi tin vào một “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước…” Và Thánh Gio-an còn thêm: chính vì vậy mà “Tinh yêu không biết đến sợ hãi, trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1 Ga 4:18-19). Đặc điểm lớn nhất của mạc khải Giê-su chính là Thiên Chúa chủ động trong tình yêu của Người đối với con người đến nỗi, sau này Người đòi nó phải trở thành mẫu mực cho mọi tương quan tình yêu giữa người với người: “Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương chúng con” (Ga 13:34-35).
Thế nhưng cũng như thời Cựu Ước, thời gian dần trôi làm phát triển ngay giữa các Ki-tô hữu một khuynh hướng, đặc biệt trong lãnh vực phụng tự, đề cao sự vinh quang thánh thiện tột đỉnh của Thiên Chúa, nhấn mạnh sự cách biệt giữa Thiên Chúa và con người như trời với đất… Rất nhiều Ki-tô hữu rơi vào suy tưởng đầy ngộ nhận là: Thiên Chúa rất ít, hoặc hiếm khi, quan tâm tới số phận của tôi. Do ảnh hưởng của các tôn giáo vây quanh mà học thuyết phổ biến của họ là: các thần linh đòi phải được khẩn cầu và cung phụng, nhiều Ki-tô hữu không xác tín nổi rằng: có một Thiên Chúa từ nhân thực sự quan tâm tới con người yếu hèn, tới hoàn cảnh sống, nhất là tới những trạng huống đau thương của cuộc đời mình. Họ hoàn toàn đánh mất thái độ ‘như trẻ thơ nép mình bên lòng mẹ’, thái độ của con đường thơ ấu đầy tin thác của Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su tới độ, phải tới đầu thế kỷ XX Hội Thánh mới được nghe biết và coi như một khám phá độc đáo của thời đại. Dầu vậy cho tới ngày nay (sau Tê-rê-xa gần cả trăm năm) thực tế đã có bao nhiêu Ki-tô hữu thực sự xác tín rằng: niềm tin của mình là Tin Mừng…, vì biết rằng Thiên Chúa đã yêu thương mình cách vô điều kiện, bất chấp những lỗi lầm mình phạm?
Và còn hơn thế nữa, trong việc làm ăn sinh sống hàng ngày, niềm tin Ki-tô chúng ta có gì khác hơn so với sự cầu khẩn van xin của tín đồ các tôn giáo khác? Nếu cũng chỉ là khấn vái lạy lục để nhận được ân này huệ nọ, thì Lời Chúa hôm nay hẳn sẽ không có một giá trị nào hết. Lúc đó cùng lắm chúng ta sẽ coi việc Đức Giê-su làm phép lạ cho con trai bà góa thành Na-in sống lại cũng chỉ là một trong nhiều dịp, để Người biểu dương quyền năng tối thượng của mình mà thôi.
Vậy thì phép lạ mà Tin Mừng Chúa đề cập tới hôm nay chắc hẳn phải có giá trị củng cố niềm cậy trông còn rất yếu kém của chúng ta nhiều lắm đấy!
Lạy Chúa, xin củng cố đức tin của con, đặc biệt trong năm đức tin này. Xin cho con không chỉ tin rằng: Chúa hiện hữu, mà còn là hiện hữu chỉ vì yêu con; tin rằng Chúa yêu con không phải vì con xứng đáng mà chính vì con yếu đuối bất toàn; tin rằng Chúa hằng quan tâm chăm sóc con không phải vì con trung thành phụng sự, nhưng là vì tự bản chất, Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót. Xin cho niềm tin này có sức đổi mới cuộc đời, cất khỏi con mọi nỗi lo âu buồn nản, nâng đỡ con lúc gặp thử thách gian nan…, để con có khả năng đem niềm vui của Chúa đến cho mọi người, đặc biệt các bạn trẻ sầu khổ thất vọng. A-men.
.
Trần Bình An
Cha biết rằng, sau khi con bị bắt vì can đủ mọi thứ tội, người ta đưa con vào nhà thương tâm thần, trước khi xét đủ bằng cớ để tống con vào ngục. Trong phòng bệnh con ở, có đủ hạng người, phần đông lớn tuổi, trừ một bạn trẻ cỡ tuổi con. Không hiểu sao chúng con hợp ý nhau ngay từ phút đầu.
Theo lời các người trong phòng thì anh bạn này không thể đi đứng được, cũng không thể tự làm gì được. Thêm vào đó anh thật chướng kỳ, nếu không muốn nói là mất dạy. Anh đạp đuổi và khạc nhổ vào tất cả ai đến gần. Anh nói với con: “Ở đây toàn là bọn vũ phu!”
Vì thế, chỉ mình con có thể giúp anh trong mọi việc. Anh không phải tín hữu Công Giáo. Phần con, con thuộc Kinh Lạy Cha và con thường lẩm nhẩm đọc Kinh Lạy Cha nhiều lần trong ngày. Ngoài ra con có ảnh Thánh Giá và con đeo Thánh Giá ở cổ.
Anh bạn con, ngoài tính chướng kỳ, còn thêm tật khác là thỉnh thoảng lên cơn. Anh vùng vẫy, la hét, mặt mày đỏ gay và mồ hôi toát ra đầm đìa. Người bệnh trong phòng vì quá quen với cảnh này, nên họ bỏ mặc anh, hoặc cười nhạo anh. Nhưng con, con không thể chấp nhận sự việc người ta cười cợt, trước nỗi khổ đau của người khác. Tuy nhiên, con không giúp gì được trong lúc anh lên cơn như thế.
Một ngày, con bỗng nảy ra ý kiến. Đang lúc anh lên cơn la hét ầm ỷ, con đến gần và đặt vào tay anh, ảnh Thánh Giá của con. Mặc cho anh tiếp tục la hét vùng vẫy, con vẫn giữ chặt ảnh Thánh Giá trong tay anh. Và rồi anh ngừng hẳn, cơn điên hạ xuống.
Từ đó mỗi lần anh lên cơn, con liền đặt ảnh Thánh Giá vào tay anh, và cơn điên hạ xuống. Con nói với anh: “Tôi sẽ dạy anh một Kinh tôi vẫn thường đọc.” Anh trả lời: “Được, tôi sẵn sàng, nếu là Kinh anh vẫn đọc!” Con dạy anh đọc Kinh Lạy Cha.
Nơi bệnh viện tâm thần cũng có vị Linh Mục Tuyên Úy Công Giáo. Nhưng không hiểu sao bạn con không bao giờ muốn trông thấy mặt Cha Tuyên Úy. Chỉ cần Cha Tuyên Úy mở cửa bước vào phòng là anh nổi cơn điên! Vì thế Cha Tuyên Úy chỉ đến phòng khi nào anh ngủ.
Khi mẹ con đến thăm, con năn nỉ xin mẹ mua cho bạn con một ảnh Thánh Giá. Mẹ con nhận lời mua và mang đến. Bạn con nắm chặt ảnh Thánh Giá trong tay suốt ngày. Và cũng từ đó anh không còn lên cơn điên nữa. (Sr. JB. Minh Nguyệt, “Les histoires vraies du Frère Lucien”, Éditions S.O.S, Paris 1982, trang 47-52)
Trong câu chuyện trên, người bạn hay lên cơn điên chẳng phải Kitô hữu, nhưng vẫn được Chúa xót thương, cứu thoát khỏi bạo bệnh. Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, thánh sử Luca thuật lại phép lạ cả thể, khiến dân chúng sửng sốt và sợ hãi. Đức Giêsu giàu lòng thương xót, đã cho sống lại chàng thanh niên, con một bà goá trong thành. Người luôn hiện diện trong lúc vui lẫn lúc buồn trong cuộc đời từng người, để kịp thời yêu thương giải cứu.
Lòng Thương Xót
Người mẹ goá theo sau quan tài đứa con trai, cúi đầu khóc lóc thảm thiết, chẳng hề ngước lên nhìn ai. Tâm hồn bà tan nát, vì chỗ dựa cuối cùng đã mất. “Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa.” Đức Giêsu nhìn thấy thảm cảnh cũng chẳng thể nào cầm nổi nước mắt. Người cũng đã đau khổ tuôn lệ, trước mộ phần người bạn Lazarô.
Trước những cảnh ngộ bi thương, Đức Giêsu vốn tràn đầy yêu thương, chí nhân, chí ái, thông cảm nỗi trầm luân con người. Không cần đến lời cầu xin, van nài, Người đã chạnh lòng trắc ẩn. “Chúa, Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tình yêu và thành tín” (Xh 34, 6)
Trong nhiều phép lạ, Người cũng chạnh lòng thương, giải cứu những kẻ đang chìm đắm trong tuyệt vọng, như trừ quỷ ngay tại hội đường Capharnaum, trong ngày sabat. (Lc 4, 33-37) “Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.”(Lc 19, 10)
Giải cứu
Lòng Thương Xót trở thành hiện thực, không dừng lại mức đồng cảm, thương tâm, xót xa. “Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy!” Tức khắc lệnh truyền linh nghiệm. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó. Chỉ duy nhất Thiên Chúa mới có quyền hành trên sự sống và sự chết.
Con người sống lầm than trong tội lỗi là đã chết đi phần linh hồn, rất cần đến Lòng Thương Xót cứu thoát khỏi quỷ dữ. Bởi vì, chẳng ai có thể tự giải thoát khỏi cái chết phần hồn, nếu không cậy nhờ đến hồng phúc cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, nhờ lời nguyện cầu của người thân, của những tâm hồn đạo hạnh, thánh thiện, có thể cứu vãn những kẻ đang sống trong bùn nhơ trở về với Lòng Thương Xót vô biên. Đức Giêsu cũng tái xác nhận nhiệm vụ cao cả của Người đến thế gian: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 32) Người hăng hái tìm về những con chiên lạc bầy. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19, 10)
Giải thoát con người thoát khỏi kiếp nô lệ tội lỗi, Đức Giêsu muốn con người được tự do trong ân sủng, đừng trở lại kiếp đoạ đầy. “Chính để chúng ta được tự do, mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.” (Gl 5, 1)
Hiện diện
Mặc dầu Đức Giêsu đã chịu chết và phục sinh về Trời, nhưng Người vẫn hiện diện giữa nhân loại qua Kinh Thánh và Thánh Thể. Người còn ban Đức Chúa Thánh Thần xuống khai tâm, soi sáng, hướng dẫn và trợ lực tín hữu trên đường hy vọng.“Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người.”
Hơn nữa, Người đặc biệt hiện diện nơi những anh chị em đau khổ, bệnh hoạn, khó nghèo, cô nhi quả phụ, đói khát, rách rưới, tù đầy, bị đối xử phân biệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội. “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25, 40)
“Biết trần gian là nơi tạm trú, sao con còn bo bo dành cho được sở này, chức kia, tiếc nuối chiếc bàn, chiếc ghế…? Con sẽ mang nó theo vào Thiên Đàng “hưởng phúc đời đời” sao? Phi lý và điên khùng!” (Đường Hy Vọng, số 672)
Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh và cứu thoát chúng con khỏi đêm tối tội lỗi, xin giải thoát chúng con khỏi những cám dỗ, cạm bẫy, xin an ủi, che chở và nâng đỡ chúng con qua sự hiện diện của Người trong từng giây phút cuộc đời chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng chịu đựng trải qua biết bao thách đố cuộc đời từ khi thưa hai tiếng “Xin Vâng.” Xin Mẹ cầu bầu cùng Con Mẹ cho chúng con thoát ách tử thần, thoát khỏi sức mạnh ma quỷ, xác thịt và thế gian, hầu chúng con xứng đáng được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa đoái thương cứu rỗi. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm vui, một sự sống mới đi vào trần thế. Nhưng khi con người giã từ cuộc đời thì không tự mình khóc được, bao nhiêu người khác sẽ khóc thay trong đau buồn thương tiếc. Một người ra đi sẽ không còn hiện hữu trên trần gian này nữa. Vì thế, đây là tiếng khóc da diết, thảm buồn nhất. Sự chết quy tụ người ta lại trong tiếng khóc. Và chính tiếng khóc này là nơi gặp gỡ của tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu đem niềm vui đến, tiếng khóc không còn, chỉ còn nụ cười hân hoan và lời ca ngợi khen.
Thánh Luca là một y sĩ cho nên bài tường thuật về phép lạ con trai bà góa sống lại thắm đượm tình người. “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Naim, nay là một làng nhỏ ở phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin.Naim cũng gần Sunem là nơi tiên tri Êlisê đã làm cho con bà chủ nhà trọ được sống lại.
Thường thường việc chôn cất người chết vào lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong làng thì gặp đám tang đang đi ra.
Một người thanh niên chết và anh là con trai duy nhất của một bà góa.Bà mẹ rất đau khổ vì chồng đã chết nay con trai duy nhất cũng ra đi.
Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, và rất đông dân làng đã đi tiễn biệt con trai vắn số của bà. Thông thường lúc chết, người ta được mọi người quan tâm và yêu thương hơn lúc nào hết.
Có một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Đó là Đức Giêsu. Với lòng thương xót những người cùng khốn, với con tim nhạy bén trước nổi đau của con người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi Ngài sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”. Câu chuyện đã được loan truyền khắp vùng.
Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xảy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Từ thời Vua Achab (874-853 A.C) có xảy ra hai lần người chết sống lại. Ngôn sứ Êlia cho con của bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó.Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại” (1V 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Sunem và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại…Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35).
Thời các tông đồ, Sách Công vụ kể, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv 20, 7-12).
So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36, do tiên tri Êlia và tiên tri Êlisê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlisê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Chúa Giêsu chỉ phán một lời, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên liền sống lại. Trong Phúc m kể lại câu chuyện Chúa cho con gái ông Giairô đã chết được sống lại (Mc 5, 22-42); Chúa cho Ladarô đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11, 43-44)…
Tuy nhiên, những người đã chết được Chúa cho sống lại rồi họ cũng chết lần nữa và thân xác về bụi đất. Sứ điệp chính của Tin mừng là sự sống viên mãn, sự sống dồi dào đằng sau cái chết.
Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo sự phục sinh của Ngài. Đây chính là niềm tin, là niềm hy của Kitô hữu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).
Chúa Giêsu đến thế gian để cứu độ con người. Sự hiện diện này đem lại niềm an ủi, khích lệ và còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, mỗi người chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại đón các con…”. Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời: “Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).Những người có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.
Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ niềm hy vọng cho con người.
Trên phần mộ cũng thường có tấm bia có khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia có khắc 3 chữ : R. I. P. Ðây là 3 chữ tắt của câu bằng Latinh : requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu ! Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha đời tôi. Và tôi biết Ngài hằng yêu mến tôi.
Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương tiếc nhớ làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui năm xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người đang sống: tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu. Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống. Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa. Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.
Mọi người, một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa nhân lành là Chúa của sự sống viên mãn.
.
Trầm Thiên Thu
Thiên Chúa là Đấng hằng sống – hằng sinh, trường sinh hoặc vĩnh sinh (Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 & 45; 1 Sm 17:26 & 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 & 21; 1 Sm 25:26 & 34; 1 Sm 26:10 & 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25), vì chính Ngài là Sự Sống (Ga 14:6).
Cuộc sống tưởng dài mà ngắn ngủi. Cuộc sống bình thường mà kỳ lạ. Cuộc sống luôn đầy bí ẩn. Katrina Mayer nói: “Cuộc sống không phải lúc nào cũng như bạn muốn, nhưng nó luôn diễn ra theo cách của nó”. Với các Kitô hữu, đó là Thánh Ý của Thiên Chúa.
Sự sống rất quý giá. Người ta có thể làm giả mọi thứ, nhưng không thể làm ra sự sống. Đơn giản như cái trứng, người ta làm trứng giả y như thật, nhưng nó không thể nở ra một sinh vật. Cái cây đến lúc chết, đố ai làm nó sống lại được. Con người cũng tương tự. Người ta tìm mọi cách để kéo dài tuổi thọ, nhưng cũng chỉ được một khoảng thời gian nào đó mà thôi, rồi cũng phải chết theo quy luật của Thiên Chúa: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27).
Chắc chắn phải có một Đấng có quyền trên sự sống, và chỉ có Đấng đó mới làm cho sống và làm cho chết, đó chính là Thiên Chúa: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên” (Tv 104:29-30). Là phàm nhân, không ai có quyền trên sinh mạng của người khác. Bất cứ ai ngăn cản sự sống đều là kẻ đối nghịch với Thiên Chúa, là phạm trọng tội, dù đó là một thai nhi chưa chào đời.
Bị cảm cúm nhẹ mà còn chưa xử lý được thì tại sao lại dám làm hại sự sống của người khác – như áp dụng an tử hoặc phá thai? Đụng chạm đến sự sống là đụng chạm đến chính Thiên Chúa – vì Ngài là Sự Sống, là Nguồn Sống, là Đấng có quyền trên sự sống của muôn loài, muôn vật.
Trình thuật 1 V 17:17-24 cho biết việc ông Êlia cứu chữa một đứa con của một bà góa ở Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn. Chữa bệnh là một dạng bảo vệ sự sống, là cứu sống người khác.
Đứa con trai của bà góa bị bệnh nặng đến nỗi nó tắt thở. Với bản tính con người, bà trách ông Êlia: “Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải chết?”. Ông Êlia bảo bà đưa đứa con cho ông. Ông bồng đứa trẻ và đem lên phòng, chỗ ông ở, và đặt nó nằm lên giường. Rồi ông cầu xin: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?”. Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Chúa cho hồn vía đứa trẻ lại trở về với nó. Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, và nó sống lại. Ông Êlia bồng đứa trẻ trao cho mẹ nó. Bà nói với ông Êlia: “Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng”.
Tin chứ đừng tưởng. Ai tin thì sẽ được. Nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ bằng việc cầu nguyện không ngừng: “Hai tay cầu Chúa giơ lên, hồn con khát Chúa như miền đất khô. Ngay từ buổi sớm mai, xin cho con nghiệm thấy tình thương của Chúa, vì con vẫn tin cậy nơi Ngài” (Tv 143:6 & 8). Chắc chắn Ngài không nỡ bỏ mặc những ai thành tín. Tuy nhiên, khi được cứu thoát rồi, đừng quên dâng lời cảm tạ: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2).
Tác giả Thánh Vịnh đã có kinh nghiệm “sinh – tử” và muốn chia sẻ với chúng ta qua lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:4-6).
Cầu xin, cầu xin nữa, cầu xin mãi. Nhất định không bán đồ nhi phế, quyết tâm không nản chí sờn lòng. Đó phải là “khẩu lệnh” của mỗi chúng ta. Không phải trong một thời gian theo phong trào, theo chiến dịch, mà phải là mọi ngày trong suốt cuộc đời. Hãy noi gương tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30:11-13).
Trình thuật Gl 1:11-19 nói về ơn gọi của Thánh Phaolô. Ông bộc bạch và can đảm thú nhận sai trái của mình: “Thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải là do loài người. Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mặc khải. Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông”. Nhiệt tình cộng với phá hoại thì thật là nguy hiểm!
Thiên Chúa không thể làm ngơ trước tình cảnh đau khổ của những người tin Ngài, và Ngài đã ra tay. Phaolô đành thúc thủ sau cú ngã ngựa chí tử. Ông không thể cưỡng lại Thiên Chúa, và ông đã thấm nhuần đức tin sâu xa.
Ông cho biết chi tiết: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giêrusalem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. Ba năm sau tôi mới lên Giêrusalem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. Tôi đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Giacôbê, người anh em của Chúa”. Những lời trần tình của Thánh Phaolô không dài, nhưng vẫn đầy đủ chi tiết cần thiết. Lời ngắn, tình dài là thế!
Tin Mừng hôm nay là trình thuật của Thánh Luca (Lc 7:11-17), tiếp tục nói về việc cứu nhân độ thế của Chúa Đức Giêsu: Làm cho con trai bà goá thành Nain sống lại.
Hôm đó, Chúa Giêsu đi đến thành Nain, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi theo. Khi Ngài đến gần cửa thành, đang lúc người ta đưa đám tang người con trai duy nhất của một bà goá. Trông thấy bà khóc lóc thảm não, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”. Rồi Ngài đến sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại.
Chúa Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Ngài trao anh ta cho người mẹ. Đúng là chuyện lạ chưa hề thấy bao giờ!
Do đó, mọi người đều kinh sợ. Nhưng họ lại tôn vinh Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Thế là chuyện này được loan truyền khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận. Hữu xạ tự nhiên hương. Vả lại, dù chuyện tốt hay xấu, chẳng ai có thể bịt miệng dân chúng được!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết bảo vệ sự sống. Xin giúp con can đảm bảo vệ môi trường, vì bảo vệ môi trường cũng là bảo vệ sự sống, bảo vệ đại công trình của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Ai sinh ra trên đời này cũng đều trải qua 4 cửa ải là: “Sinh, lão, bệnh, tử”. Nói cách khác: chết là một trong 4 khâu của định luật: “Thành, trụ, hoại, diệt”. Hay nói theo tam đoạn luận trong triết học thì: đã sinh ra trong thân phận con người, ai cũng phải chết. Vì thế, tôi là con người, nên tôi cũng phải chết.
Như vậy, không ai tránh khỏi cái chết. Mọi người đều phải kết thúc cuộc hành trình trên trần gian này bằng cái chết. Đã có sinh thì ắt phải có tử.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu cùng với các môn đệ đi vào thành Caphácnaum và gặp thấy đám tang con trai bà góa thành Naim đang được đem đi chôn. Hình ảnh đám tang của con trai bà góa cho chúng ta thấy: người thanh niên này đã trải qua cuộc sống dương thế. Anh ta đã kết thúc tại cửa ải thứ 4 là “tử”; khâu cuối cùng là “diệt”. Như vậy, tử thần đã chiến thắng. Cái chết đã thống trị.
Thế nhưng, khi gặp được Đức Giêsu, cái chết có phải là đã kết thúc mọi chuyện và là mồ chôn vĩnh viễn thân phận cát bụi của người thanh niên kia không?
- Điểm giao của lòng thương xót
Không! Đức tin cho chúng ta thấy cái chết không phải là ngõ cụt, nhưng nó là một giai đoạn cần phải trải qua để đi vào sự sống vĩnh hằng. Cái chết như là một cửa khẩu, để qua đó, ta sang được bến bờ bình an và hạnh phúc viên mãn. Niềm tin ấy đã được Đức Giêsu hé mở và củng cố qua cái chết của con trai bà góa thành Naim hôm nay.
Hình ảnh đám tang ở trong thành đi ra, còn Đức Giêsu và các môn đệ thì đi vào. Hai hình ảnh không thuận chiều nhau mà là trái chiều. Nhưng hai nhóm người đó đã gặp nhau tại một điểm giao. Điểm giao đó là “tình yêu”, “lòng thương xót” của Đức Giêsu.
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót, mà Đức Giêsu là hiện thân của lòng thương xót đó, nên Ngài luôn yêu thương và thông cảm cho nỗi khốn cùng của con người. Vì thế, khi thấy đám tang con của một bà hóa, Ngài đã “chạnh lòng thương”(esplanchnisthè), mà theo tiếng Hy Lạp, có nghĩa chính xác là “xúc động đến ruột gan”.
Vì thế, Ngài đã có lòng thương cảm sâu đậm cho hoàn cảnh éo le của gia tang.
Éo le là bởi vì mẹ của người chết lại là một bà góa. Mọi hy vọng đều đổ dồn vào người con trai duy nhất, nay con bà chết, bà biết trông vào ai? Nỗi cô đơn trở nên tột cùng khi những kỳ thị của dân tộc sẽ đến với bà. Sự bất hạnh lại càng lên đến đỉnh cao khi những truyền thống trong xã hội Dothái thời bấy giờ coi thành phần các bà góa là những người không có tiếng nói, là hạng người thấp cổ bé họng.
Đứng trước tình cảnh như thế, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã động lòng trắc ẩn. Ngài đã đứng lại an ủi bà và truyền cho những người khiêng cáng dừng lại, sau đó Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, ta bảo anh: Hãy trỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.
- Đức Giêsu mặc khải sự sống vĩnh hằng
Hành vi Đức Giêsu bảo những người khiêng cáng dừng lại và Ngài truyền lệnh cho người chết chỗi dậy thể hiện quyền năng của một vị Thiên Chúa uy quyền và làm chủ sự sống lẫn sự chết; đồng thời cũng cho chúng ta thấy bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1 Ga 4,16). Một Thiên Chúa luôn yêu thương, chữa lành; một Thiên Chúa đem lại cho con người niềm an ủi và hạnh phúc sau những đắng cay tủi nhục; một Thiên Chúa gieo vào trong tâm hồn con người niềm hy vọng khi mọi chuyện tưởng chừng như đã chấm dứt bằng cái chết.
Tuy nhiên, đấy mới chỉ là những cách giải thoát mang tính hiện sinh mà thôi, bởi lẽ người thanh niên hôm nay được Đức Giêsu cho sống lại, nhưng rồi một ngày nào đó anh ta cũng sẽ phải chết. Nhưng điều mà Đức Giêsu muốn đi xa hơn qua việc cho người thanh niên này sống lại, đó chính là đem lại cho con người sự sống viêm mãn, một sự sống dồi dào đằng sau cái chết. Vì thế, Ngài đã muốn giải thoát con người khỏi cái chết đời đời, để thay vào đó là sự sống trường tồn mai hậu. Đây là trọng tâm của sứ điệp mà hôm nay Đức Giêsu muốn nhắn gửi nơi mỗi người chúng ta.
Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Đức Giêsu không chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Thiên Chúa dành cho những người bé mọn, cũng không chỉ dừng lại ở việc Ngài cảm thông với nỗi cô đơn, mất mát to lớn của bà goá nọ. Nhưng điều quan trọng hơn, đó chính là dấu chỉ tiên báo trước việc Ngài sẽ sống lại và những ai tin vào Ngài thì cũng sẽ được sống lại, được đưa vào nơi tràn đầy hạnh phúc và bình an.
- Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Trước tiên, cần phải có sự thương cảm với những người kém may mắn. Không ai sống trên đời này như một hòn đảo. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Việt Nam ta cũng có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Vì thế, không thể dửng dưng nhìn xem nỗi bất hạnh của người khác rồi hả hê cười đùa vui vẻ; cũng không phải huênh hoang tự kiêu khi thành công để rồi khinh bỉ người cùng khốn.
Thứ đến, sống theo tinh thần của Đức Giêsu, là: hãy biết ra khỏi chính mình để đi đến với những ai cần tới bàn tay, khối óc, con tim của chúng ta. Cần ra khỏi ốc đảo của tự kiêu, để như Đức Giêsu, đi đến đâu thì thi ân giáng phúc tới đó (x. Cv 10,38).
Cuối cùng, hãy đặt mình vào hoàn cảnh của những người bất hạnh, để thấy được sự cô đơn, đau khổ, mất mát của họ. Từ đó, biết cảm thông, liên đới và ra tay giúp đỡ anh chị em chúng ta cách thiết thực và chân thành.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết rung động trước những nỗi đau của con người, biết nhạy bén trước những nhu cầu của anh chị em đồng loại, để đem lại cho họ niềm vui, bình an và hạnh phúc. Xin cho chúng con biết ra khỏi chính mình, để không bị rơi vào tình trạng co cụm lại nơi bản thân. Bởi vì nếu co cụm lại với chính mình mà thôi, thì đấy là lúc chúng con đang đánh mất chính mình. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Con người không thể chiến thắng sự chết
Dù con người hiện nay có nhiều phát minh và sáng chế thật tuyệt vời, đạt được nhiều thành tựu lớn lao về khoa học và kỹ thuật, thế nhưng, đứng trước sự chết, con người phải đầu hàng thua cuộc.
Với nhiều tiến bộ vượt bậc về y khoa, con người có thể đẩy lùi và tiêu diệt một số bệnh nan y như dịch tả, dịch hạch, phong cùi, ung thư…
Với nền khoa học tiên tiến, người ta có thể làm cho đời sống con người dễ chịu hơn: tạo ra phương tiện giao thông tiện nghi, giúp người ta đi lại nhanh hơn; tạo ra công nghệ thông tin tiên tiến để liên lạc với nhau dễ dàng nhanh chóng hơn.
Nói chung, nhờ khoa học kỹ thuật, con người có thể lập nên nhiều chiến công, thắng được nhiều nghịch cảnh, vượt qua nhiều thách thức, nhưng sẽ không bao giờ thắng được “Thần Chết.”
Chỉ có Chúa Giê-su mới chiến thắng sự chết
Hôm ấy, khi Chúa Giê-su và các môn đệ đến thành Na-in thì gặp người ta đi đưa đám người con trai duy nhất của một bà mẹ góa. Trông thấy người mẹ gào khóc thảm thiết, “Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa! “Rồi Ngài lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Chúa Giê-su truyền cho người chết: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” (Luca 7,11-14)
Lời Chúa Giê-su phán ra làm cho kẻ chết hồi sinh: “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.” (Luca 7,15)
Thế là đối đầu với Chúa Giê-su, thần chết phải chào thua!
Ngoài ra, Chúa Giê-su chứng tỏ Ngài chiến thắng sự chết khi làm cho con gái ông Giai-rô sống lại. Dù cháu bé này đã chết rồi, vậy mà Chúa Giê-su nắm lấy bàn tay cháu và nói : “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được…” Mọi người chứng kiến đều kinh ngạc sững sờ. (Mc 5, 22-42)
Chúa Giê-su chứng tỏ Ngài chiến thắng Thần Chết khi La-da-rô đã nằm trong họng thần chết bốn ngày rồi, thế mà Chúa Giê-su vẫn đến bên mồ La-da-rô và kêu lớn : “La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! Tức thì La-da-rô liền đi ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn!” (Ga 11, 43-44)
Và đặc biệt là trong cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, tử thần tưởng đã tiêu diệt Chúa Giê-su, hạ đo ván Chúa Giê-su, khiến Ngài phải tắt thở trên thập giá, rồi Ngài phải bị mai táng trong mồ. Các môn đệ của Ngài tỏ ra tuyệt vọng vì chủ tướng của mình đã bị thảm bại trước thần chết. Thần chết tưởng như đã chiến thắng Chúa Giê-su.Thế nhưng nó đã lầm. Chúa Giê-su đã sống lại và mở đường vào cuộc sống mới.
Thế là từ đó, một trang sử mới bắt đầu, một kỷ nguyên mới được khai sinh; đây là kỷ nguyên của Chúa Giê-su đánh bại thần chết và giải thoát muôn người khỏi tai ách của nó; Ngài không những giải thoát mà còn đưa họ vào cõi sống đời đời vinh quang bất diệt.
Cuộc chiến thắng oanh liệt của Chúa Giê-su trước thần chết đem lại cho chúng ta một hy vọng lớn lao, một niềm vui chan hoà, vì nhờ sự chiến thắng này, “Thân xác phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (I Cr 15,53).
Và thế là “sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi… Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?… Tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (I Cr 15,54-57).
Lạy Chúa Giê-su,
Khát vọng mãnh liệt nhất của con người là được sống lâu dài hạnh phúc. Xin soi sáng cho chúng con hiểu rằng chỉ có Chúa mới có thể đáp ứng được khát vọng vô biên này, để chúng con luôn tìm đến với Chúa và sống gắn bó với Chúa là cội nguồn sự sống và là Đấng thông ban sự sống đời đời cho chúng con.
.
Trần Đình Phan Tiến
Người đời dù có lòng trắc ẩn đến đâu cũng đành bất lực trước cái chết của người khác. Viếng đám tang, chia sẻ nỗi buồn của người đồng loại, cầu nguyện, phúng điếu, đưa tang là những việc nói lên nghĩa cử chia sẽ với người khác nỗi đau khi mất mát người thân. Vâng! Kính thưa quý vị, không ai trong chúng ta chưa một lần chứng kiến đám tang, của thân nhân, hay của bạn bè. Đứng trước đám tang không ai khỏi chạnh lòng, nỗi đau mất mát người thân là một nỗi đau không gì có thể bù đắp được. Mất của còn có thể làm lại được, nhưng mất người thân, thì không thể tìm lại được. Vì vậy nỗi đau càng lớn hơn.
Cái chết là nỗi bất hạnh nhất của con người, vì sự sống không còn nơi thân xác nữa, không có gì quý hơn sự sống.
Đoạn Tin Mừng (Lc 7,11-17) hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có tâm trạng đau xót trước cảnh tang tóc, Người tình cờ trông thấy một đám tang tại thành Na-in, mà là một đám tang đặc biệt, đặc biệt vì đơn độc lại càng đơn độc “đám tang con trai bà góa”, góa bụa là nỗi đau, nay mất con lại càng đau hơn. Như vậy, nỗi đau nầy là nỗi đau gấp bội, vâng! Chính Chúa Giêsu cũng cảm thấy đau như nỗi đau của Người.
Trước thái độ là người, như khách bộ hành, Chúa Giêsu cũng có thể làm ngơ, hay chắp miệng chua xót, rồi tiếp bước bỏ đi, vì sự bất lực của nhân sinh. Nhưng với quyền uy của Thiên Chúa, Người đã dừng lại khiến cho người chết chỗi dậy. Tuy chưa đến “thời giờ mà Người tỏ vinh quang”, nhưng đứng trước sự đau khổ của người khác, sự bất hạnh của nhân loại, Chúa Giêsu đã không thể làm ngơ. Chúng ta thấy, uy quyền của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu mới có thể hành động như vậy được. Người đời cho dù có lòng trắc ẩn đến đâu cũng đành bất lực trước thần chết. Nhưng Chúa Giêsu thì không, Thiên tính của Người tiêu diệt tử thần . Phép lạ nầy không phải để “lấy le”, ra oai với mọi người, mà là tiên báo, Người sẽ làm chủ thần chết, vượt qua tử thần, và chính Người sẽ làm như vậy. Điều nầy còn nói lên ý nghĩa, dù là Con Thiên Chúa, Nhưng Chúa cũng phải bước qua tử nạn rồi mới đến phục sinh. Như vậy, đức tin cho thấy rằng dù tin vào Đức Kitô, nhưng con người cũng phải chịu đau khổ và chết chóc theo quy luật tự nhiên. Vì muốn sống lại tất nhiên phải bước qua sự chết. Nếu người con trai bà góa thành Na-in không chết, thì anh ta đâu có được sống lại. Vì vậy, chúng ta thấy cuộc tử nạn của Chúa GIÊSU là hữu lý, dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã mặc lấy nhân tính, thì Người cũng phải bước qua cái chết. Vậy chết không còn là sự sợ hãi, nỗi bất hạnh cho con người có niềm tin vào Đức Kitô. Vì chính Chúa là sự sống và là sự sống lại cho con người.
Điều thứ hai: cho thấy sự sống ở đời nầy là sự sống tạm, vì sự sống trần gian rồi sẽ mất đi, rồi sự sống vĩnh cửu sẽ đến. Hình ảnh Chúa Giêsu cho con trai bà góa thành Na-in sống lại là một niềm hy vọng cho tất cả những ai tin vào Đức Kitô. Hình ảnh sống lại theo nghĩa đen của con trai bà góa thành Na-in là một ý nghĩa tiên trưng cho sự sống lại của nhân thế, nếu tin vào ơn cứu độ.
Đừng trước cái chết của người có niềm tin, chúng ta chỉ có bổn phận cầu nguyện và đặt trọn lòng tin vào Thiên Chúa, vì không ai là không thể chết, vì chết là một nỗi bất hạnh, nhưng chết trong Đức Kitô thì không bao giờ là nỗi thất vọng, bởi vì chính Chúa đã chết cho chúng ta.
Về thời gian thì chúng ta có phúc hơn con trai bà góa thành Na-in, bời vì anh ta chỉ hưởng ơn phục sinh nhãn tiền rồi sau đó về già anh ta cũng phải chết, rồi cũng phải chờ đến ngày Chúa Giêsu quang lâm thì anh ta mới được phục sinh thật sự. Còn chúng ta được hưởng ơn cứu độ qua cuộc tử nạn của Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ được phục sinh khi chúng ta đặt trọn niềm tin vào Người.
Vậy chết không còn là nỗi sợ hãi khi chúng ta tin vào Thiên Chúa, nhưng sự chết vẫn xảy ra, vì đó là quy luật tự nhiên, và hơn thế nữa sự sống siêu nhiên mới là sự sống đích thực, và Chúa Giêsu không hứa ban bạc vàng cho những ai bước theo Người, nhưng Người hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu, Người là sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, vì vậy nơi Người không có sự chết, nhưng Người phải bước qua cuộc tử nạn để đến phục sinh. Xin thương ban cho chúng con biết cậy trông vào Chúa để có sự sống viên mãn. Amen.
.
Dã Quỳ
Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình yêu, Người đến để an ủi và lau khô giọt lệ của những ai đang khóc. Người đã xao xuyến khi nhìn thấy cảnh một bà góa đưa đứa con duy nhất của mình đến nghĩa trang. Lòng trắc ẩn của Chúa đã thúc đẩy Người làm một việc mà chỉ duy Người mới có thể thực hiện là trao lại cho bà góa ấy đứa con đang sống.
Thật là đẹp khi chúng ta chiêm ngắm cách Thiên Chúa bày tỏ lòng thương xót của Ngài qua Chúa Giêsu Kitô – Dung nhan lòng thương xót của Chúa Cha. Mặc dù người mẹ góa không nài xin Chúa và cũng không ai dám mơ ước điều kỳ diệu này: người thanh niên có thể được cứu sống lại. Thế nhưng, lòng thương xót của Chúa đã chạm đến bà và con bà: “Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương.”(Lc 7,13) Chúa Giêsu đã diễn tả con tim của Người qua lời nói an ủi “Bà đừng khóc nữa!” và những cử chỉ “lại gần, sờ vào quan tài, truyền cho người thanh niên chỗi dậy, trao anh ta cho bà mẹ.”(x. Lc 7, 13-15)
Một cách nào đó, tất cả mỗi chúng ta cũng là những kẻ cần và rất cần lòng thương xót của Chúa chạm đến trên bệnh tật, tội lỗi, cái chết về tâm hồn…của chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy nài xin Chúa chạnh lòng thương cứu chữa và cứu sống chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng biết khiêm tốn ‘dừng lại, để Chúa đến gần và chạm vào ta’. Vì nếu ta nhận biết mình đau yếu, cần được chăm sóc và chữa lành thì Chúa mới có thể đến gần ta và đụng chạm vào ta được. Vậy hãy cầu xin Chúa ban cho ta ân sủng biết mở lòng ra, hoàn toàn tín thác vào quyền năng và tình xót thương của Chúa.
Chúa Giêsu yêu thương chúng ta và Người chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi nỗi đau thương. Vì thế, khi đến trần gian, Người đi khắp nơi rao giảng, chữa lành bệnh tật thể xác và băng bó, an ủi những thương tích tâm hồn. Đứng trước những đau khổ của chúng ta, Chúa cảm động và mãi chạnh lòng thương. Khi ở bên mộ của anh Lazarô: Chúa đã khóc và thổn thức trong lòng. (x. Ga 11, 35.38) Người muốn cứu sống tất cả, muốn lau khô nước mắt và xóa tan đi những sầu não của chúng ta. Chính vì vậy, lòng thương yêu của Chúa không dừng lại ở đó mà Người muốn đi xa hơn đó là cứu chúng ta khỏi chết đời đời nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa, chúng ta sẽ được sống muôn đời cùng Chúa trong Nước Trời. Sẽ không còn sự chết, chẳng còn tang tóc, nước mắt hay sầu khổ nữa.(x. Kh 21,4)
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được nghe những lời mà Chúa đã nói với bà góa “Đừng khóc nữa!” Nhưng thực tế cuộc sống của chúng ta đầy dẫy những khổ đau, tang tóc…! Chúng ta nghe nhiều những lời than phiền: Nếu có Thiên Chúa…Nếu Thiên Chúa tốt lành thì… sẽ không có tất cả những khốn khổ này, hay thì Người sẽ cứu tôi khỏi những đau đớn kia! Chúng ta tin và chắc chắn một điều: Thiên Chúa tốt lành và Người dựng nên vũ trụ này thật tốt đẹp. Người yêu thương nhân loại và dựng nên con người chỉ vì yêu thương nên Người mong con người được hạnh phúc, an vui. Thế nhưng suốt dọc dài lịch sử nhân loại, ta đã nghe và nhìn thấy chính con người tự gây nên những bất hạnh, đau khổ cho nhau và cho chính mình. Khổ đau ấy là hậu quả của chính ta hay của những người đi trước chúng ta tạo nên. Vì vậy ta không thể tố cáo Thiên Chúa và đổ lỗi cho Người những gì chính ta làm.
Kế hoạch của Thiên Chúa là muốn cứu chúng ta và ban cho ta sự sống vĩnh cửu. Trần gian này chỉ là cõi tạm. Cuộc sống của chúng ta ở trần gian có hạn và mọi sự sẽ qua đi, những khổ đau cũng không tồn tại. Vậy chúng ta tin cái chết chỉ là cửa ngõ để bắt đầu bước vào cuộc sống đời sau “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin vào sự sống đời sau.” Với mỗi người Kitô hữu, chúng ta tận dụng những đau khổ đời này để rèn luyện đức tin và lòng mến của ta vào Chúa. Những gian truân khổ đau của ta ở đời này sẽ trở thành niềm vui và phần thưởng mai sau nếu ta biết cầu xin ân sủng Chúa thánh hóa và trợ giúp ta đón nhận. Chúng ta hạnh phúc vì có Chúa luôn ở bên ban ơn trợ giúp ta như lời Thánh Phaolô khẳng định:“Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.” (2Cr 1,4)
Thiên Chúa gom tất cả chúng ta vào trong Lòng Thương Xót của Ngài, để rồi từ tình yêu vô biên luôn đi trước của Ngài (x.1Ga 4,10), chúng ta thấm nhuần tình yêu, lòng trắc ẩn của Chúa và học biết yêu thương, nâng đỡ như Ngài. Như những người chứng kiến việc Chúa làm cho con bà góa đã kinh sợ, tôn vinh ngợi khen Chúa; chúng ta cũng nhận ra biết bao ân sủng mà Chúa đã ban cho chúng ta quá sự chờ mong. Chúa dành riêng chương trình cứu độ cho từng người chúng ta, cứu chúng ta khỏi chết muôn đời mà chúng ta chẳng đáng lãnh nhận. Chúng ta hãy biết cảm tạ Chúa và cảm nhận sâu xa tình yêu lớn lao Chúa dành cho ta. Hãy ở lại trong tình yêu của Chúa và để tình yêu Chúa nuôi dưỡng, chữa lành, bổ sức cho ta trên hành trình dương thế. Như vậy, đến lượt mình, với lòng biết ơn Chúa, chúng ta cũng biết trao tặng lòng xót thương của Chúa cho tất cả những người thân trong gia đình ta, cho những bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp nơi công sở…mà ta hiện diện. Có như thế, tình yêu của Chúa càng lớn lên trong ta và ta mới thực sự là những môn đệ của Chúa Giêsu, là người của Thiên Chúa Tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin chạnh lòng thương xót chúng con và xin biến đổi chúng con mỗi ngày nên giống Chúa hơn. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trải qua lịch sử ơn cứu độ, toàn bộ Kinh Thánh đã trình thuật rất nhiều phép lạ. Thiên Chúa trực tiếp hoặc qua các sứ giả đã thực hiện nhiều phép lạ vĩ đại để can thiệp làm thay đổi tiến trình của luật tự nhiên. Nhưng phép lạ làm cho kẻ chết sống lại thì rất họa hiếm: Thời Cựu ước, Tiên tri Êlia đã cầu xin Thiên Chúa ban lại sự sống cho một bé gái. Trong sách Các Vua đã tường thuật sự kiện cứu em bé của Êlia: Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ và kêu cầu Thiên Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, con xin cho hồn vía đửa trẻ này lại trở về với nó!: (1Vua 17, 21). Tiên tri đã cầu khẩn cùng Thiên Chúa ban đặc ân cho bà góa và con trai yêu quí của bà. Lời cầu đã được Thiên Chúa nhậm lời:Thiên Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó và nó sống (1Vua 17, 22).
Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Chúa đã hoàn sinh cậu con trai của bà góa. Anh ta chết nằm trong quan tài đang trên đường đưa đi chôn:Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiên dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy (Lc 7, 14). Và Phúc âm còn kể sự kiện Chúa Giêsu cho ông Lazarô chết và đã chôn trong mồ đã bốn ngày, được sống lại. Đây là Tin Mừng. Tin Mừng tuyệt vời nhất là chính Chúa Giêsu đã chịu chết, chôn trong mồ và đã tự mình sống lại. Chúng ta tin rằng con người gồm có hồn và xác. Thân xác bao gồm các thành phần của vật chất nên chịu ảnh hưởng của luật đào thải tự nhiên. Giống như sự kết cấu của muôn loài: Xác thân vật chất được sinh ra, phát triển, già nua và chết. Sự sống của con người bị giới hạn trong thân xác. Khi thân xác không còn đủ điều kiện sống, xác hồn lìa nhau. Thân xác sẽ mục nát hư thối và tiêu tan theo ngày tháng. Hồn được về qui ẩn nơi hằng sống.
Theo luật thời gian đào thải, mọi loài và mọi vật có lúc sinh và lúc tử. Đời này nối tiếp qua đời kia, chúng ta không biết đã có bao nhiêu đời đi trước. Thế giới vẫn tiếp tục xoay vần và sự sống được tiếp tục truyền sinh. Giống nào theo giống đó, loài nào theo loài ấy. Đời sống con người lâu nhất cũng chỉ vỏn vẹn trên dưới một trăm năm. So sánh cuộc đời một người với đời đời cũng chỉ là một dấu chấm rất nhỏ trong không gian và thời gian. Mỗi con người được sinh ra mang một số phận. Kẻ trước người sau theo nhau đi về nguồn cội. Quan sát cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng các loài thụ tạo đều có một khởi điểm và chung kết rất khác biệt. Số phận mỗi người kết thúc một cách.
Suy tư về sự sống và sự chết, con vẫn nhớ hình ảnh của chú em đã qua đời cách đây gần một năm. Chỉ trong vòng một tháng, cuộc đời đã biến đổi. Trước đó sức khỏe tương đối, tuy nhiên có vài triệu chứng sụt cân và mệt mỏi. Khi đi khám bệnh, các bác sĩ chẩn đoán có dấu hiệu ung thư hạch. Thế là tinh thần xuống dốc như xe không thắng. Chỉ sau hai tuần, thân xác trở nên tiều tụy, gầy còm và bệnh hoạn. Thân xác thì yêu đuối và tinh thần thì lo lắng nhưng vẫn giữ lòng trông cậy và hy vọng. Thế rồi, điều gì phải tới đã tới. Ung thư lan nhanh khắp thân thể. Kéo theo những triệu chứng của lục phủ ngũ tạng suy xụp. Bác sĩ đành bó tay. Trở về gia đình được khoảng 10 ngày. Chú nằm thoi thóp, đau đớn và chuẩn bị tinh thần bước sang thế giới bên kia. Thần chết đang rình chực.
Người thân trong gia đình trong tư thế sẵn sàng chờ đợi một cuộc ly biệt ngàn thu. Tâm tư vừa hồi hộp, vừa lo lắng bồn chồn và buồn đau. Chỉ biết cầu xin cho người thân được ơn chết lành. Trước giờ chết, chú đã vẫy tay chào mọi người và xin tiếp tục cầu nguyện. Con chứng kiến cái sống và cái chết kề cận. Chú đã sống cho tới chết. Có nghĩa là một thân xác cường tráng khỏe mạnh đã bị yếu liệt từ từ cho tới hơi thở cuối cùng. Sau cùng, hơi thở nhẹ dần và ngưng thở. Hồn lìa xác. Chết! Chú đã qua đời. Chú đã qui tiên tổ. Thật đau lòng. Mất mát quá lớn. Khoảng cách lại qúa xa. Từ thế giới kẻ sống đi vào thế giới bên kia. Bước hững vào lẽ vô thường. Thế là kết thúc một cuộc đời dương thế.
Niềm tin càng xác tín. Mọi người chỉ biết bám víu vào Chúa Kitô. Vợ con và bà con thân tộc qúa thương tiếc. Không ai dám xin Chúa ban cho sống lại nhưng chỉ xin cứu lấy linh hồn người thân. Đối diện trước cái chết, niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh là tuyệt đối. Niềm hy vọng hưởng phúc bên Chúa là một an ủi lớn lao nhất. Niềm tin vào Chúa là sức mạnh tuyệt vời giúp chúng ta đối diện với cái chết. Giờ đây chết không phải là hết mà là hiện diện với chúng ta một cách khác. Đã có rất nhiều Hội đoàn, gia đình và anh chị em, bạn bè đến chia buồn, cầu kinh và tham dự lễ an táng. Những lời kinh hòa nhập với những giọt nước mắt đau thương mất mát đã làm vơi đi những sầu đau. Chúng ta phó thác và tin tưởng hoàn toàn vào lòng từ nhân của Thiên Chúa.
Trong hai bài đọc lễ Chúa Nhật 10 quanh năm, chúng ta nghe hai câu truyện về hai cái chết và được ban lại sự sống. Hai người bị mắc bệnh nguy kịch và đã chết. Bà mẹ buồn đau than trách tiên tri Êlia, Êlia đã cầu xin Chúa. Vì lời than khóc của bà góa, Chúa đã thương ban lại sự sống cho anh thanh niên:Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ (Lc 7, 15). Hai người được sống thêm một thời gian trên cõi đời rồi cũng sẽ phải chết. Sự can thiệp quyền năng của Thiên Chúa là một niềm hy vọng và Tin vui mừng cho cả nhân loại. Chúa có uy quyền ban sự sống, cất sự sống, trao lại sự sống và ban cho sự sống đời đời.
Thánh Phaolô đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng. Ngài xác tín Tin mừng do chính Chúa mạc khải:Thật vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin mừng tôi loan báo không phải là do loài người (Gal 1, 11). Đây là một đặc sủng riêng biệt, chính Thiên Chúa đã chọn và sai Ngài đi rao giảng tin vui cho mọi người: Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người (Gal 1, 15). Tin mừng cứu độ là hồng ân Chúa ban cho nhân loại qua chính Con của Ngài. Tin mừng mang lại niềm hy vọng của sự sống và sự sống lại. Chúa của sự sống đã can thiệp vào cuộc sống tự nhiên của con người. Đón nhận tin mừng là đón nhận sự đổi đời, hối cải và bước vào con đường sự sống.
Chúa ban sự sống cho hết mọi loài nhưng sự sống lại là để hưởng vinh phúc đời đời cần có sự cộng tác của con người. Chúng ta phải ước muốn, yêu thích, nuôi dưỡng, tận tâm tìm kiếm và thực hành sống niềm tin. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng sự sống lại và sự sống đời sau. Chúng ta cần có điểm khởi hành và hướng về cùng đích. Tất cả mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống đạo đều góp phần vào mục tiêu sau cùng. Chúng ta không thể sống đạo một cách nửa vời, giai đoạn hay khoảng thời gian. Kitô hữu là Kitô hữu suốt đời. Sống đạo can đảm trong mọi trạng huống của cuộc đời. Chúng ta cần tránh những thái độ tương đối hoặc âm ấm. Sự thật không nằm ở sự đồng ý của nhiều người và cũng không theo ý muốn của con người. Sự thật của Tin Mừng cứu độ được ban cho chúng ta qua chính Đức Kitô Phục Sinh.
Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết tôn trọng sự sống ngay từ lúc khởi đầu cho đến khi lìa đời cách tự nhiên. Thiên Chúa ban sự sống đời này và Chúa hứa ban cho chúng con sự sống đời sau. Một hồng ân vô cùng cao quý. Chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa đã cho chúng con được sinh ra làm con người, làm con Chúa và được hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.
.
“NÀY NGƯỜI THANH NIÊN, TA BẢO ANH: HÃY CHỖI DẬY”
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 7,11-17.
(11) Sau đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người.(12) Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.(13) Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa! “(14) Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! “(15) Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.(16) Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”.(17) Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.
- Ý CHÍNH:
Tin mừng Luca hôm nay cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến và Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái đang mong chờ, mà phép lạ Người đã tỏ lòng thương xót một bà góa đang khóc đi chôn đứa con trai duy nhất đã chết tại cửa thành Nain là một bằng chứng. Đức Giêsu đã truyền cho đứa con mới chết được sống lại và trao nó lại cho bà mẹ. Qua phép lạ này, Người tiên báo công việc Người sẽ làm là ban cho những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại một cuộc sống vĩnh hằng sau này.
- CHÚ THÍCH:
-C 11-12: +Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain: Ngôi làng này hiện nay vẫn còn, dưới chân núi Tabo, cách Nadarét mười kilômét. Làng này chỉ có một cửa để đi về phía cánh đồng dẫn đến nghĩa trang dùng để chôn cất người chết. Thường thường việc chôn cất được làm vào buổi chiều lúc cuối ngày. Theo thói tục Đông phương, người chết được quấn khăn liệm kỹ lưỡng và được đặt nằm trong cỗ quan tài không đậy nắp. + khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất và mẹ anh ta lại là một bà góa: Chỉ có Luca, thánh sử của lòng Chúa thương xót mới thuật lại phép lạ này với những chi tiết thật cảm động. Bà góa là biểu tượng của người nghèo được Thiên Chúa đặc biệt quan tâm bảo vệ. Người đàn bà nói đây đã từng mất chồng và nay còn bị mất thêm đứa con trai là chỗ dựa duy nhất cho bà. +Có một đám đông trong thành cùng đi với bà: Có hai “đám đông” sắp gặp nhau tại cổng thành Nain. Một đám ma từ trong thành đi ra và một đám đông thứ hai đang từ ngoài tiến vào thành, gồm có các môn đệ và nhiều người khác. Họ vừa đi vừa nghe Đức Giêsu giảng Tin Mừng.
-C 13-14: +Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương: Ở đây Luca cố ý sử dụng từ “Chúa” (“Kurios”) để ám chỉ Đức Giêsu. Đây là danh hiệu của Đức Chúa, ám chỉ Chúa Thượng dân Ítraen (Yahvê) mà Giáo Hội sơ khai sau này sẽ dùng để chỉ Chúa Phục sinh. Tin Mừng Luca đã dùng mười chín lần danh hiệu này, trong khi mỗi Tin Mừng Mátthêu và Máccô chỉ dùng một lần. +“Chạnh lòng thương” : là một từ Hy Lạp có nghĩa là “xúc động đến ruột gan”. Từ này luôn được áp dụng cho tình yêu của Thiên Chúa. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa xuất hiện gần gũi với con cái loài người. Người đã tỏ ra cảm thông và xúc động trước cảnh tang thương của một người đàn bà đau khổ. +Người nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần sờ vào quan tài: Bằng lời nói và cử chỉ này, Đức Giêsu đã thể hiện thái độ an ủi bà mẹ đang khóc thương đứa con trai duy nhất, nay không còn nữa. +Các người khiêng dừng lại, Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”: Từ “hãy trỗi dậy!” được dùng để chỉ sự sống lại của Đức Giêsu (x.Lc 9,22; 24,6-34), và cũng ám chỉ sự sống lại của những người sẽ được chọn vào ngày tận thế (x.Lc 20,37). So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4,18-36 do hai ngôn sứ Êlia và Êlisê thực hiện, ta thấy có một sự khác biệt căn bản: Hai vị này đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử chỉ biểu tượng. Còn Đức Giêsu chỉ phán có một lời, không cầu, không xin, rồi chỉ ra một lệnh, tức khắc chàng thanh niên sống lại. Sau này thánh Phaolô cũng dùng từ này để diễn tả về mầu nhiệm sống lại trong phép rửa tội của các tín hữu như sau: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người” (Cl 2;12). Phép rửa tội là sự tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu ở đời sau: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới như thế” (Rm 6,4).
-C 15-17: +Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kính sợ và tôn vinh Thiên Chúa: Thái độ của dân chúng chứng kiến đã dần dần thay đổi: Từ kính sợ đến chỗ ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa và họ tin Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ vĩ đại của Thiên Chúa, đã làm cho kẻ chết được trỗi dậy như thế. +”Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”: Cuộc “viếng thăm” của Thiên Chúa đã được thực hiện qua Đức Giêsu và là “dấu chỉ của thời kỳ thế mạt”. Một ngày kia, Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong tất cả”.- “Bấy giờ sẽ không còn nước mắt, không còn sự chết, tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,4). +Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lên cận: Sự sống lại của anh thanh niên ở cổng thành Nain đã được những người chứng kiến vui mừng loan báo đi khắp vùng Giuđê như một tin mừng cho thấy Đức Giêsu chính là vị Đại Ngôn Sứ, là Đấng Mêsia do Thiên Chúa sai đến để thăm viếng dân Người.
- CÂU HỎI: 1) Nain là thành nào? 2)Số phận các bà góa trong dân Ítraen đáng thương như thế nào? 3)Từ “Chúa” trong Tin Mừng Luca ở đây mang ý nghĩa ra sao? Ý nghĩa của từ “Chạnh lòng thương” thế nào? 4) Đức Giêsu đã bày tỏ sự cảm thông và an ủi người mẹ đau khổ bằng cử chỉ và lời nói nào? 5) Từ “trỗi dậy” được dùng để diễn tả điều gì? Thánh Phaolô cũng dùng từ “trỗi dậy” để diễn tả điều gì? 6) Câu “Một Ngôn Sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta” ở đây ám chỉ ai và là dấu chỉ của thời kỳ nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” (14) Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! “(15) Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.
- CÂU CHUYỆN:
1) NGÔN SỨ ÊLIA PHỤC SINH ĐỨA CON TRAI BÀ GÓA Ở SARÉPTA (1 V 17,17-24):
Khi ngôn sứ Êlia đang ở trong nhà bà quả phụ thì cậu con trai của bà ngã bệnh, và bệnh tình trầm trọng đến nỗi cậu đã ngã ra chết. Bà quả phụ đau buồn thưa với Êlia rằng: “Hỡi người của Chúa, ngài với tôi có liên quan gì chăng? Ngài đến nhà tôi để nhắc lại những lỗi lầm thầm kín của tôi khiến cho Chúa giết chết con tôi”. Vị ngôn sứ nói với bà rằng: “Đem nó lại đây”. Rồi ông bế lấy đứa nhỏ khỏi tay mẹ nó, đem lên phòng cao nơi ông ở và đặt nó trên giường. Ông kêu cầu với Đức Chúa rằng: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết hay sao?” Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Đức Chúa rằng: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!” Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống lại. Ông Êlia liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: “Bà xem, con bà đang sống đây!” Bà nói với ông Êlia: “Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng.”
2) THÁI ĐỘ CỦA VUA ĐAVÍT TRƯỚC VÀ SAU CÁI CHẾT CỦA CON TRAI (2 Sm 12,16-25):
Thánh Kinh đã kể một câu chuyện cảm động về nỗi đau của Đavít khi đứa con nhỏ của ông bệnh nặng: Đavít rất buồn rầu và thiết tha cầu xin Chúa cho đứa nhỏ ấy khỏi bệnh. Ông còn ăn chay và đêm thì nằm ngủ dưới sàn nhà, mặc áo nhậm. Các cận thần nài nỉ ông lên giường nhưng ông không chịu. Đến ngày thứ bảy thì đứa bé chết. Các cận thần rất lo lắng, nói với nhau “Lúc đứa bé còn sống, ngài còn không nghe chúng ta. Huống chi bây giờ nó đã chết rồi”. Đavít nghe người ta xì xầm thì đoán được sự việc. Ông hỏi “Có phải con ta đã chết rồi chăng ?”. Họ đáp “Thưa vâng”. Đavít liền chổi dậy, tắm rửa, mặc quần áo bình thường, vào đền thờ phủ phục trước nhan Chúa, rồi trở ra ăn uống như thường. Mọi người ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi đứa nhỏ chưa chết thì Ngài khóc than và nằm dưới sàn, còn khi nó chết rồi thì Ngài chổi dậy và ăn uống ?” Đavít trả lời: “Khi đứa bé còn sống, ta làm tất cả để cứu mạng sống nó. Nay nó chết rồi, nó không thể trở về với Ta nữa. Nhưng Ta có thể đến với nó”.
Đavít đã nêu gương biết chấp nhận một tình huống không thể nào thay đổi được. Tuy chúng ta không thể nào quên người đã chết, nhưng cuộc sống là quý giá nên chúng ta phải tiếp tục sống. Chúng ta khóc vì một sự sống đã mất đi, nhưng nếu chúng ta cứ than khóc mãi thì sẽ có đến hai sự sống phải mất đi.
3) VÀNG BẠC LÀ NGUYÊN NHÂN THÙ GHÉT GIẾT HẠI LẪN NHAU:
Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh: “Tôi đã thấy thần chết”. Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện. Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.
Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang đi tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu. Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng: “Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và tạ sẽ chiếm trọn kho tàng”. Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau: “Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn”. Khi kẻ mang lương thực về đến hang động: họ liền giết hắn và ăn hết số thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã rủ nhau đi gặp thần chết, như vị ẩn sĩ đã tiên báo.
- THẢO LUẬN: 1) Tình thương của Đức Giêsu thể hiện qua phép lạ phục sinh đứa con trai bà góa tại cổng thành Nain qua những cử chỉ và lời nói nào? 2) Mỗi tín hữu chúng ta cần thể hiện tình thương của Chúa Giêsu ra sao đối với những người đau khổ bệnh tật chúng ta gặp phải trong cuộc sống? 3) Chúng ta cần làm gì để noi gương thái độ “chạnh lòng thương xót” của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay?
- SUY NIỆM:
1) Về cái chết của cả nhân loại:
Bình thường mỗi người chúng ta ai cũng phải qua bốn cửa ải là: sinh, lão, bệnh, tử. Đã có sinh ắt phải có tử. Cuối cùng, mọi người sinh ra trên trần gian đều phải kết thúc cuộc hành trình bằng cái chết. Từ thời Cựu ước, dân Ítraen đã coi chết là một điều khó hiểu: Tại sao Thiên Chúa nhân từ đã dựng nên vũ trụ vạn vật mà lại để cho sự chết lọt vào trần gian như vậy. Nhưng rồi Lời Chúa trong Thánh Kinh đã dần dần cho thấy: Chết chính là hậu quả của tội lỗi của loài người, bắt đầu từ tội tổ tông như lời tuyên phán của Thiên Chúa: “Ngày nào ngươi ăn quả cây ấy thì ngày ấy ngươi sẽ phải chết”. Nguyên tổ Ađam Evà đã phạm tội nghe ma quỷ cám dỗ ăn quả cây trái cấm ấy nên đã phải chịu phạt là phải chết: Chết về thể xác cũng như linh hồn. Nhưng Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế đến chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh quang.
2) Đức Giêsu là Chúa tể của sự sống và sự chết:
Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế quyền năng. Thánh Luca trong Tin Mừng hôm nay đã dùng từ “Chúa” cho Đức Giêsu. Chúa theo tiếng Hy lạp có nghĩa là “Ông Chủ”. Nhận Đức Giêsu là Chúa là nhận Người chính là ông chủ của sự sống và có quyền trên sự chết.
Trong câu chuyện phục sinh con trai bà góa hôm nay, tuy không có người nào đã xin Đức Giêsu phục sinh kẻ chết, nhưng với tư cách là “Chúa”, là “Chủ của sự sống”, Người đã cảm thông và động lòng thương bà góa có con mới chết bằng việc khuyên bà đừng khóc rồi truyền cho đứa con của bà được trỗi dậy và trao nó lại cho bà, làm cho bà không còn buồn sầu than khóc nữa.
3) Đức Giêsu sẽ ban lại sự sống đời đời cho chúng ta:
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16), nên Ngài muốn giải thoát con người khỏi sự chết. Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại đó. Ngài còn muốn giải thoát con người khỏi phải chết đời đời. Con trai bà góa Nain sau khi sống lại một thời gian rồi sẽ lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát sẽ được sống lại trong cuộc sống mới vĩnh hằng. Biến cố Đức Giêsu làm cho con trai bà góa thành Nain sống lại là dấu hiệu cho thấy Người sẽ cứu chúng ta khỏi chết và ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Thánh Luca đã dùng từ “chạnh lòng thương” nghĩa là “xúc động đến tận ruột gan” để diễn tả lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu.
4) Chúng ta phải làm gì để noi gương Đức Giêsu Đấng giàu lòng thương xót? :
Đức Giêsu muốn chúng ta thấy phép lạ thành Nain không những là dấu chỉ của lòng thương xót người đàn bà góa, cũng không chỉ là dấu hiệu minh chứng Người là Đấng Thiên Sai, mà đây còn là dấu chỉ báo trước điều Người sẽ thực hiện cho mỗi người chúng ta nếu chúng ta biết đặt trọn niềm tin vào Người, là cho chúng ta được sống lại một cuộc sống mới vĩnh hằng.
Đức Giêsu đã nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Các tín hữu chúng ta sẽ nhìn cuộc đời như là một cuộc hành trình về quê trời, và mỗi người đều là khách lữ hành đang đi trong trần thế. Trong cuộc hành trình này, chúng ta phải nỗ lực để vừa chịu đựng gian khổ, lại vừa phải cố gắng vượt qua trở lực để về tới cùng đích. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã viết: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Đồng thời, trong thư Côrintô, ngài cho biết thêm về thế giới mai hậu như sau: “Chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).
Đơi với mỗi người tín hữu hôm nay, cần thực thi bác ái như lời dạy của thánh Têrêsa Avila như sau: “Đức Kitô giờ đây không có thân xác, nhưng Người vẫn có thân xác của chúng ta; Dù không có đôi tay nhưng Người vẫn có đôi tay của chúng ta; Dù không có đôi chân nhưng Người vẫn có đôi chân của chúng ta. Đôi mắt của chúng ta cũng chính là đôi mắt mà qua đó lòng thương cảm của Đức Kitô có thể nhìn ra thế giới. Đôi chân của chúng ta chính là đôi chân mà nhờ đó Người có thể bước đi để thi hành các công việc tốt lành. Đôi tay của chúng ta cũng chính là đôi tay mà qua đó Người có thể tiếp tục thi hành các phép lạ trong thế giới hôm nay.”
- LỜI NGUYỆN:
LẠY CHÚA GIÊSU. Đôi tay của Chúa xưa đã từng chạm vào mắt những kẻ mù lòa, để làm cho họ được xem thấy. Xin Chúa hãy chạm vào đôi mắt của chúng con, để chúng con có thể nhìn thấy Chúa trong nhà thờ và trong các anh chị em nghèo hèn chung quanh chúng con.
Đôi tay của Chúa xưa đã từng chạm vào lỗ tai của kẻ điếc để phục hồi thính giác cho họ. Xin Chúa cũng hãy chạm vào tai của chúng con để giúp chúng con nghe thấy tiếng Chúa trong Thánh Kinh, qua các vị chủ chăn và qua những anh chị em nghèo khổ đang cầu xin sự trợ giúp.
Đôi tay của Chúa xưa đã từng chạm vào người chàng thanh niên tại cửa thành Nain, và truyền cho anh ta trỗi dậy. Xin Chúa hãy chạm vào người chúng con để làm cho chúng con được trỗi dậy trong ơn nghĩa Chúa, và hăng say loan báo Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.